38. ĐẠI THỪA GIÁO

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

38. ĐẠI THỪA GIÁO

Gốc gác lịch sử của giáo lý khất sĩ là từ Upali:

MUỐN biết Đại-thừa, ta phải xem xét lại tiểu thừa ! Khi Phật sanh tiền, Ưu-Ba-Li là người thợ cạo ; kém học, xuất gia tu theo Phật. Bởi kém học, nên ông chuyển về giới-luật hơn hết; giới-luật đối với ông, sẽ là nền tảng của đạo Phật, nương theo nó người ta trở nên bậc thánh hiền; bảo thủ giới-luật, tức là bảo thủ Phật một cách chắc chắn, của hạng kém trí, mặc dầu chưa thành Phật, chớ người ta cũng giải thoát trong sạch được. Sau khi Phật nhập diệt, Ưu-Ba-Li truyền bá giới-luật Y-bát Khất-sĩ xuống miền nam Ấn Độ, và lần hồi lâu sau, giáo lý ấy tràn sang xuống đảo Tích Lan, Xiêm La, Cao Miên, Lèo, Miến Điện như ngày hôm nay.

Tông chỉ của giáo lý khất sĩ là chuyên học về tạng luật:

Giáo lý y bát Khất sĩ giới-luật, ngày nay sở dĩ người ta kêu là tiểu thừa, là bởi các sư, chuyên học về tạng vật, sở chấp rất hẹp, mà chín chắn; các sư không thân cận với kẻ thế, các sư lo tu độ mình cho đắc quả A-La-Hán, có đủ lục thông, cho xong trước đã, rồi sau đó mới đến độ chúng-sanh đặng; cũng như khi ta đã ngồi trên tàu ghe, thì mới sẽ cứu vớt được người, chớ lặn hụp như họ thì kéo họ sao được.

Gốc gác lịch sử của Đại thừa là do đại đức Ca-diếp:

Bởi thế ấy mà khác hẳn với Đại-thừa.

Giới-luật Đại-thừa tuy là ở tại xứ Tàu, nhưng trước hết có cần thiết, là do Đại đức Ca-Diếp, đệ tử lớn của Phật, được Phật trao truyền y-bát, thay Phật làm Tổ, nắm giữ chánh quyền. Đại đức Ca Diếp trước kia là người cầm đầu của một phái giáo cư gia. Ngài là bậc đại trí huệ và từ bi đức hạnh. Ngài giỏi về môn luận, sáng suốt cao siêu, thượng trí; cho nên trong hàng đệ tử đức Phật, Ngài giỏi nhứt về bên học, chuyên tu về định huệ, thuyết pháp hoằng dương chánh giáo nhiều hơn là sự câu chấp giới-luật, vì đối với bậc đã đắc tứ quả, là qua khỏi giới-luật rồi vậy.

Giới-luật của Ngài, đi về miền Bắc Ấn Độ, về sau truyền sang qua Tây Tạng và xứ Tàu.

Ý nghĩa biểu trưng của 9 năm diện bích:

Đạo Phật xứ Tàu được khởi đầu khai hóa, là do Đức Bồ Đề Đạt Mãi mãi, Tổ sư thứ 28 nơi Ấn Độ, sau LÃO TỬ và KHỔNG TỬ. Thuở ấy bên tàu người ta rất tin theo đạo của Đức LÃO TỬ, tiên gia, và Nho giáo thì nắm quyền chánh trị, cho nên nhà quan vua rất gắt gao, đối với đạo giáo xứ ngoài. Cũng vì bảo tồn danh lợi riêng, mà nhà cầm quyền NHO GIÁO cấm ngăn ĐẠO PHẬT, sợ dân chúng tu theo ĐẠO PHẬT, mà bỏ ĐẠO NHO, nên mượn cớ sợ e Ấn Độ cướp giựt xứ Tàu, mà ngăn cản Tăng sư Ấn Độ, và cũng cho ai theo Đạo Phật ! Khiến nên đức Bồ Đề Đạt Mãi mãi, khi qua xứ Tàu, phải chịu 9 năm dòm vách, tức là bị thế quyền nho giáo làm vách cản ngăn, không cho mở thông khai đạo.

Lục tổ được hiểu cách điệu là 6 cảnh ngộ của Đạo Phật:

Nhưng làm sao mà được can ngăn chánh pháp, kẻ trí thức của Thần giáo, chẳng bao lâu, giác-ngộ, quy theo, dứt bỏ hành vi mê muội; khá học được trí huệ, biết chánh tín đạo lý, lần hồi sáng tạo Tăng già, chánh giáo ẩn nhẫn hoằng khai. Nhờ vậy mà ai nấy sau này, được năng sanh trí huệ. Đó là những thời kỳ : Bồ Đề Đạt Ma, là phpá chánh-giác, mới truyền sang Tàu, kế đến THẦN QUANG, HUỆ KHẢ, TĂNG XĂNG, ĐẠO TÍN, HÒĂNG NHẪN và HUỆ NĂNG, là sáu cảnh ngộ trải qua của đạo Phật ở nơi xứ Tàu, từ sơ khai đến khi thanh đạo, trải qua không biết bao nhiêu gay cấn, đạo mới hoàn thành, mà sự hoàn thành dưới quyền Nho giáo chánh trị, chỉ được pháp học về trí huệ, hiểu thấy cao siêu, chớ giới-luật y bát khất sĩ, thì vẫn còn đang bị cấm ngăn, các vua quan chưa cho Tăng sư trì giới, khất thực du hành, tư do tụ tập.

Một phần nho gia quy y, phần còn lại ố báng:

Ấy cũng bởi giáo lý của Phật rất đúng chơn-lý, quý báu cao siêu, nên Nho Giáo không thể cấm cản lòng dân, và kẻ trí thức lần hồi ai ai cũng tìm thêm học Phật, và nhập pháp Phật, là cao trên Nho giáo, cũng như bài vở của lớp nhứt và lớp ba là khác xa nhau vậy. Vì đó mà Nho giáo chia ra hai phái : phái đạo nho thì quy y pháp Phật, còn phái đẳng nho, thì mượn danh nho mà lo danh lợi, lạm dụng quyền thế, áp chế dân tình, họ chẳng bao giờ chịu hiểu, nghe xem pháp Phật, họ đã không ngăn cấm được sự học Phật của dân chúng, thì họ ngăn cấm giới-luật tu hành. họ đành chịu thua, nhượng cho pháp luật là hơn họ, vì số đông quần chúng trước mặt; chớ sau lưng họ cũng vẫn phỉ báng chê bai, khinh mạn luôn luôn.

Nho gia cản trở việc thực hành y bát khất sĩ:

Họ sợ nhứt là giới-luật y bát khất sĩ của nhà Phật, vì giới-luật ấy rất trọn lành, trong sạch, tốt đẹp lắm, còn hành vi của họ, thì danh lợi, dơ bẩn ác quấy lắm; họ sợ người Tàu hay người Ấn Độ, mà thật hành giới-luật, làxấu hổ cho họ, họ sẽ bị người ta chê bai chỉ trích chỗ lắm lem, và không còn ai tín nhiệm, mê nghe theo họ nữa.

Vì thế mà các nhà sư ở xứ Tàu, từ xưa cho đến nay, không thể ban hành giới-luật, y bát khất sĩ giải thoát, như đạo của đức Phật Thích Ca xưa. Nhưng ai học hiểu đạo lý khá, thì vào rừng than thiền nhập định, nên gọi là giáo phái thiền lâm, thiền lam là các sư tham thiền ở trong rừng vắng.

Chùa ở Tàu không còn phong vị của chùa ở Ấn:

Còn những sư già yếu tật bịnh, trẻ nhỏ, không vào rừng đặng, thì nương chùa làng xóm thành thị. Chùa thuở xưaở bên Tàu, là Hồng lô tự, của quan vua mộ đạo lập ra, và kêu gọi là nơi chỗ in kinh dịch sách, nhà thờ, chớ không phải như Giáo hội Tăng già, đạo trành tịnh xá, như khi xưa của Phật tăng bên xứ Ấn Độ, cất lợp bằng tranh lá ở vườn rừng.

Vì thể chế tôn giáo ở Tàu nên các sư không trông mong gì Định Huệ và vì vậy mà trở nên những cư sĩ không có tóc:

Các sư ở chùa được là do bá tánh cung cấp dưỡng nuôi, nên mọi việc cũng phải lo cho bá tánh! Các sư như người thủ tự, phải bận việc tông giáo, thờ phượng cúng kiến vái nguyện cho cư sĩ luôn, cư sĩ có việc chi cũng kêu réo, hỏi đòi các sư, thế là các sư không còn trông gì định huệ nữa được. Và lâu ngày các sư đã thành ra nghề nghiệp, sống sanh nhai thù tạc với cư gia, bằng danh từ kinh sách, tượng cốt của Phật. Mắc hưởng cái gia tài của Phật cho ấy, mà khó trông tu học. cũng vì sự ở chùa, nên hòan cảnh bắt buộc, các sư phải thâu nhận tín đồ bổn đạo, thân cận với cư gia, danh lợi quyền thế, dạy dỗ các quan vua, nho giáo bày ra chức vụ danh từ. Bây giờ các sư đã trở nên cư sĩ xuất gia, không còn biết đến lý nghĩa của Tăng đồ Khất sĩ nữa.

Sự thoái hoá và xuống cấp của Đạo Phật:

Vậy nên các sư học thì Phật học, mà tu hành thì theo Nho ! Sự ăn mặc ở bịnh, hành vi thảy theo Nho giáo.

Cũng như học trò lớp nhứt, mà làm việc lớp ba, tức là đã thành ra lớp nhìn chính giữa. Vậy nên Đại-thừa giáo hôm nay, đã là đạo Trời, nên lớp người, chớ không còn đạo Phật; nếu các sư không được chấn chỉnh lại.

Ý tưởng thích luân hồi để độ tận chúng sinh phổ biến:

Về Đại-thừa giáo, các sư lại quý thích về sự luân hồi trở lại, mà không cần giữ lục căn thanh tịnh, để chứng quả Niết-bàn. Các sư thề độ tận chúng-sanh mới thành Phật, phát nguyện theo như Bồ tát cư sĩ tại gia, lo làm việc thế; vì lòng thương kẻ chúng-sanh thấp đại, mà các sư lại nguyện đời đời kiếp kiếp ở dưới địa ngục, để độ chúng-sanh lên hết thiên đường, chớ chưa đến Niết-bàn được, vì không có ai dắt đầu cho họ. Các sư quên rằng : là chúng-sanh tấn hóa mãi, sanh thêm hoài, nên các sư cố chấp bổn nguyện mình lắm, các sư vui lòng làm ông thầy giáo lớp chót, để dạy số học trò đông nhiều; mà chen lộn choán phần phụ tiếp xới xã-hội, dạy lớp nhơn thiên, bặt lối Niết-bàn giải thoát của chư Phật. Vì thế, mà không có ai đắc đạo quả lục thông cả.

Việc ưa thích bổn đạo nhiều, quy y số đông cũng phổ biến:

Các sự gọi mình là Đại-thừa giáo, là bởi lẽ các sư cần học, mà không cần hạnh, các sư học vắn tắt về pháp trí huê của bậc thầy, Bồ Tát, thượng trí, và các sư không muốn giáo hóa bậc xuất gia Khất sĩ Tỳ Kheo lớp trên, các sư có học hiểu chút đỉnh, là vội đi làm thầy giáo, dạy lớp dưới của hạng bậc cư sĩ số đông nhiều. Các sư chỉ hiểu rằng : có bổn đạo tín đồ quy y theo đông, là đắc đạo quả, đắc thế quyền danh lợi, giống như Nho giáo, xã-hội gia-đình mà các sư quên rằng : Phật Tăng khi xưa là không có tín đồ bổn đạo bà con quyến thuộc, nhờ vậy mới trong sạch giải thoát chứng Niết-bàn.

Sư phải đáp ứng những yêu cầu và đòi hỏi của tư gia:

Vì thế mà Đại-thừa giáo tức là Nho giáo, nhân đạo, trói buộc, sanh tử, kêu gọi là đời, đã nhập theo đời, vật chất trào lưu, không còn dấu vết Phật Tăng nữa. Các sư lại chìu theo ý của cư gia bổn đạo, mà bày ra đủ thứ trống chuông, điệp phái, sớ tấu, lầu kho, bạc ngựa, tế lễ như Nho đạo quan vua để cho vừa lòng bổn đạo. Các sư cộng sự với cư gia, làm các việc phước thiện về phước báo nhơn thiên hữu lậu, không còn một phút định tâm rảnh trí, dạy đạo chư Tăng chi cả, các sư cũng sắm lập của riêng như kẻ thế; các sư cũng như những bậc vua quan, các sư làm vua quan bằng đạo Phật, cũng có chỗ khá hơn bên ngoài xã-hội, vì các sư cũng còn giữ gốc chưn phước thiện. Vì thế mà các sư được đắc nhân tâm, hơn xã-hội, và các tông giáo khác. Các sư tranh cạnh tín đồ tôn giáo một cách ráo riết, để cho đạo đông chùa lớn, đặng cho bớt những sự ly loạn chém giết lẫn nhau. nhứt là những lúc chiến tranh tai nạn, thì người ta theo các sư đông lắm, nhờ vậy mà chóng hết giặc, nên người đời cảm mến mang ơn quí trọng.

Vì thời duyên cảnh ngộ nên còn hìng bóng danh xưng mà không còn thực chất:

Đại-thừa giáo, tức là đạo Phật cải cách theo đời chúng sanh, là giáo lý nhơn thiên, trong thời mạt pháp của đạo Niết-bàn. Không phải Đại-thừa giáo làm cho mạt pháp Niết-bàn, mà là đến lúc đạo Niết-bàn mạt pháp, căn cứ chúng-sanh siền bạc, nên nhơn duyên bắt buộc, pháp giáo phải cách mạng đạo Phật, mà thành ra đạo Trời, người để tế độ chúng-sanh thấp kém, ấy vì hoàn cảnh, mà giáo pháp phải hạ thấp xuống, mới có được học trò kia vậy.

Nhưng dầu sao, các sư cũng không quên đạo lý luật pháp của Phật. Các sư cũng còn gọi nhau là Hòa thượng, Yết mãi mãi, Giáo thọ, Tăng chúng, Tỳ kheo, Sa di, Cư sĩ v.v... mà trái lại sự thật hành thì chưa đúng được chánh nghĩa của từ xưa Phật dạy.

Khất sĩ xưa là bình đẳng, không có chức phận:

Thuở xưa chư Tỳ kheo không có cấp bằng chức phận chi cả; Tỳ kheo là Khất sĩ, xin học y theo chơn-lý, tất cả như nhau bình đẳng, chớ không giai cấp. Có điều là thế gian cư sĩ chưa thật hành đúng chơn-lý được, nên phải khổ sở luân hồi, cư sĩ sẽ là Khất sĩ, chớ không có cái tên cư sĩ tạm. Vậy nên cư sĩ bước chân vào đạo, theo tập sự với một Khất sĩ Tỳ kheo, kêu gọi là Sa di ; Sa di là lớp tập tạm, để bước lên Khất sĩ bình đẳng. Đức Phật dạy : Đối với Sa di tập sự mới vào đạo, phải theo với một Khất sĩ Tỳ kheo thiệt thọ, hãy xem coi vị Khất sĩ Tỳ kheo ấy như Phật, vị ấy phải thay thế Phật, mà dạy đạo luật cho Sa di tập sự, nên Sa di tập sự kêu gọi vị Tỳ kheo Khất sĩ ấy là bậc bề trên, như bậc bề trên Hòa thượng. Hòa thượng là tiếng của Sa di tập sự xưng tặng ông thầy tạm của mình, chớ không phải Hòa thượng của tất cả, hay cấp bằng chức phận.

Quy chế một thầy một trò; hoà thượng, yết-ma, giáo thọ là những trách nhiệm tạm thời:

Trong đạo Phật thì mỗi Khất sĩ chỉ được phép dạy một tập sự thôi. Hoặc từ hai năm, hay sắp lên. khi nào người tập sự đủ đức hạnh trí huê, và đã được một Giáo hội 20 vị sự xem xét, thì mới cho vào lớp Tỳ kheo Khất sĩ bình đẳng. Bình đẳng của trí huệ đức hạnh cũng như nhau, khi ấy Khất sĩ mới không còn gọi thầy mình trước kia, là thầy Hòa thượng nữa, mà là tất cả như nhau bình đẳng của chơn-lý, là phải do sự chứng nhận của thầy Hòa thượng tạm của mình, phải có thêm một vị sư giới thiệu với Giáo hội , kêu là Yết ma thầy dạy lễ, và một vị sư truyền giới cho, kêu là Giáo thọ, trong khi ấy phải có đủ một Giáo hội, lớp học, 20 vị ưng chịu cho nhập chúng nữa mới được. Như vật thì tên gọi Yết ma, hay Giáo thọ của Sa di tập sự, là chỉ dùng trong khi lên lớp, thọ giới giây lát, chớ không phải danh từ chức vụ vĩnh viễn của tất cả, hay là cấp bằng thi đậu.

Nghĩa là tất cả chỉ có một tiếng Khất sĩ, chớ không có tiếng Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ tạm, cho mỗi người kêu gọi.

Quy chế một thầy một trò và vấn đề thay thầy mới:

Trong đạo Phật, thì một Khất sĩ, mỗi lúc chỉ dạy cho một tập sự thôi, khi một tập sự này, đã được đưa hàng Khất sĩ rồi, thì mới được thâu dạy một kẻ khác nữa, tiếp tục mãi như vậy. Vì là trách nhiệm của ông thầy rất khó, con không biết dạy lỗi tại cha, dạy không nghiêm lỗi tại thầy, ông thầy bao gồm tất cả việc phải quấy, tội phước, nên hư của học trò. Cơm ăn, chỗ ở, áo mặc, thuốc men của tập sự, là do người ta cúng dường cho Khất sĩ, Khất sĩ mới lại tập sự ; chớ không có ai cúng dường cho tập sự cả, bởi lẽ tập sự còn kém sự học hành. thế cho nên học trò tập sự, là mang chịu ơn thấy rất nặng; ơn dạy dỗ và ơn đùm bọc. Vì vậy mà tập sự, giao hết tánh mạng mình, cho Khất sĩ uốn nắn sửa trau, do lẽ thầy độ, mà ông thầy ấy, là tập sự đã ưng lòng lựa chọn trước. Bởi thế cho nên tập sự Sa di không được tự ý, khi nào thầy Tỳ kheo Khất sĩ dạy hết sức mình rồi, mới gởi Sa di tập sự lên lớp trên bình đẳng, hoặc đưa qua cho vị Khất sĩ khác giỏi hơn, dạy thêm tự ý nơi thầy Tỳ kheo, chớ Sa di không muốn được, nhược bằng Sa di tập sự đang theo học nửa chừng với ông thầy vị sư, chưa hết bài vở, chưa được gởi gắm, mà tự ý bỏ trốn thầy, đi tìm học với ông thầy khác, tức là không ai thâu nhận hết, và Sa di đó cũng khó trở lại với thầy mình được, vì lẽ Sa đi ấy đã là tâm bất chánh rồi. Không ông thầy nào dám nhận học trò đó, là bởi biết nó đã vong ơn bội nghĩa, ghet 1giận ố nghịch thầy của nó, rồi đây nó sẽ nói quấy cho thầy nó với vị sư nầy, và rổi nó sẽ cũng bỏ vị sư nầy, mà đi qua vị sư khác, nói sái cho vị sư này nữa. Như thế là tâm nó đã hư rồi, đâu còn vào lớp bình đẳng Khất sĩ thanh tịnh được, mà thâu dạy làm chi ! Thế là Sa di tập sự đó bị sa thải vậy. Bởi lẽ đạo Phật cao siêu tốt đẹp lắm, không dung chứa những bậc hạ căn chen lộn được. Đành rằng : Sự học phải trăm thầy, trăm lớp, triệu bài, nhưng mỗi một lúc bài nào phải cho rồi bài nấy, thấy lớp nào phải cho xong lớp nấy, phải do ông thầy mình đang học chứng nhận đưa lên từng bực, chó không phải như học trò lớp chót, nghe nói lớp nhứt thầy hay, mà bỏ trốn, chạy vượt lên, để phá rối người ta.

Trừ ra một đôi khi, đang theo tu học nửa chừng, mà ông thầy lại chết, sa ngã, điên loạn, không dạy chi đuợc nữa, mới phải đi học qua một vị khác được.

Quy chế một thầy một trò và cái tệ của Đại Thừa Trung Quốc:

Đời cũng vậy mà đạo cũng vậy. Ngoài thế gian thầy giáo ăn tiền, dạy cho lấy có, cả số trăm người, nên hư mặc kệ, nó về nhà nó; chớ đạo đức thì khác xa lắm, tội của trò là lỗi tại thầy, thầy phải chăm nom từ chút, phải một thầy một trò, học trò mỗi mỗi phải nối dấu chơn y theo thầy, thầy trò phải ở khít nhau luôn, chớ không phải như cư gia ở nhà lêu lỏng, mà cũng gọi là đệ tử các sư và các sư Đại-thừa thì quá từ-bi quảng đại, mà cũng kêu là bổn đạo chung lộn. Thế mới biết rằng : đạo Phật xưa là kỹ càng lắm, rất ít ỏi, độ được một người là nên một người, tuy hẹp hòi mà chánh pháp lưu trụ, chớ không phải như ngoài xã-hội, dùng sức lực, mà cần phải đông đảo, để cho hư đạo. Vì vậy mà lòng từ-bi của Đại-thừa giáo càng rộng; là đạo Phật Thích Ca sẽ không còn hình bóng. Càng tranh cạnh tín đồ bổn đạo, tông giáo càng đông là đạo Phật không còn cái tiếng "đạo". Và lần lần xã-hội, gia-đình, tông giáo, đẳng phái khác vì quyền lợi mà hằn học phản đối, chán ghét ố nghịch, hiểu lầm tiếng đạo Phật. Cũng bởi thế mà ở tại xứ Tàu, thiền lâm và Đại-thừa giáo, là hai chớ không phải một : thiền lâm là kẻ tu thiền định trong rừng, bậc chỉ sống bằng định huệ y theo chơn-lý, qua khỏi giới-luật, tánh căn thuần thục cao viễn lắm ! Còn phái Đại-thừa giáo, là có học không tu, tưởng lầm mình đắc, xưng tổ khoe thầy, tưởng mình là Phật; khác hẵn với đức Ca diếp, Đạt ma, mà chẳng hay, lại lầm mình là hơn Phật Thích Ca xưa nữa.

Cái món vốn của Đại-thừa giáo là ăn chay, bởi chấp ăn chay, mà gọi Tăng đồ y bát khất thực, ăn thịt uống sữa là tiểu thừa, và như Phật khi xưa giữ y bát khất thực trọn đời, cũng là tiểu thừa nữa. Vì mảng tưởng thế, mà tham sân si khó diệt trừ được, bởi lẽ không có giới-luật y bát khất thực, thì làm sao trong sạch.

Ấy cũng là do sự học nhiều khó tu, và cái học đó bị nhơn duyên cảnh ngộ đổi thay, mà xa lần chánh pháp. Điều ấy cũng là do theo trình độ của chúng sanh dân tộc, mà đạo phải biến ra tông giáo như thế . Sự cải sửa lớn lao ấy, phần chánh là bởi nhà nho xuất gia tu Phật, mà cón giữ gốc Nho. Nhà sư mà còn báo hiếu tận trung, lo cho gia đình xã hội, tư riêng, sái quấy, chưa nhận ra giáo lý bình đẳng sống chung đại đồng, của thế giới trong võ trụ: các sư ấy chỉ hiểu đạo của một gia đình xã hội, chớ chưa nhận ra là đạo cả thế giới chúng sanh chung, nên chưa cắt được phàm tâm ái dục. Các sư chẳng đứng trên võ trụ, thì làm sao giải thoát ra khỏi xã hội gia đình; do đó mà các nhà sư không bao giờ rời bỏ cái nhà chùa thờ, chỗ ở của mình được, thì làm sao cho cái đạo tràn lan khắp nơi lớn rộng; thế nên đã mấy ngàn năm, mà giáo pháp chỉ lẩn quẩn trong xứ, các nước khác chẳng ai dùng, khác xa với chư Tổ sư kia, xưa kia, và sự tu ấy cũng không giống xưa nay ai hết.

Một đóng góp chấn hưng Phật Giáo của bài nầy:

Cũng vì Đại thừa giáo là Nho giáo khác, giống như các tông giáo khác, chưa được cái vẻ của đạo Phật, nên quyển Đại thừa giáo nầy có ra, là do nơi nơi sự chấn hưng của Đại thừa giáo, Đại thừa giáo tai nạn từ xứ Tàu, sang đến xứ Việt; Đại thừa giáo đã chẳng biết bao nhiêu lâu tai nạn, không thể đến chơn lý. Cũng như chúng ta đều thấy từ những mấy chục năm, trăm năm về trước, Đại thừa giáo là đạo Phật rất tối tăm mờ ám, mà người ta cho mê muội ở nơi xứ Việt : Đại thừa giáo mới được sự học thức thông minh, trong khoảng mấy chục năm gần đây. Đại thừa giáo là một nền đạo tân tiến, khoa học, chớ không phải bảo thủ, bảo thủ cái không kinh nghiệm. Đại thừa giáo từ naysẽ tiến lên, tiến đến chơn lý, tiến đến đạo Phật; rồi sự tiến lần đến chánh pháp, như khi xưa của Phật Thích Ca, và chư Phật quá khứ, mà đạo Phật của xứ Việt đã bắt đầu cải cách từ lâu, sẽ từ có học, đến tu hành và đắc đạo, cũng như khi xưa xứ Ấn Độ.

Do đó mà quyển Đại thừa giáo nầy có ra, là để chỉ rõ một sự thay đổi của cái tiếng đạo Phật từ lâu, một tấn tớí của trình độ dân tộc, một tiến cấp của trong làng Phật tử, một vui mừng của đạo Phật vì chẳng bao lâu nữa, đạo Phật sẽ là đạo Phật, con đường của giác ngộ chúng sanh chung, hay là Đạo, chớ không còn phải Đại thừa giáo của xứ Tàu, hay là Nho của đạo Khổng- Tử, nhân đạo nhỏ hẹp.

Việc ấy là một việt tốt đẹp, ngoài ước lượng mà ít aisuy tưởng đến, và khi hiểu biết rõ ra, chắc là ai ai cũng thảy đều vui mừng tán dương ca tụng hết.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro