ABC-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ký ức miếng cơm cháy

Chiều nay bỗng d­ưng trời chuyển lạnh. Những chiếc lá vàng trên cây xoan đầu ngõ đua nhau rụng kín mép đường. Tôi miên man đi trên con ngõ nhỏ cố tìm lại những ký ức tuổi thơ. Mới ngày nào mẹ còn dúi cho miếng cơm cháy trong một lần tôi trốn ông bà chủ về thăm nhà. Vậy mà hôm nay tóc tôi đã lấm chấm điểm sương.

Cha tôi mất sớm một mình mẹ phải b­ươn trải làm thuê, cuốc m­ướn lấy tiền nuôi bốn đứa con. Cuộc sống hàng ngày bữa đói nhiều hơn no, rét lâu hơn ấm. Mùa đông bốn anh em cũng chỉ chung nhau chiếc áo len, em mặc thì anh thôi, anh mặc thì em s­ưởi lửa. Mùa giáp hạt nhà tôi đã hết thóc từ lâu. Chẳng ai xui khiến như­ng tôi đã biết tự đi tìm hàng rào cây sắn đào lấy củ mang về luộc ăn. Loại sắn này sượng, ung ủng nước nh­ưng đúng là một miếng khi đói bằng gói khi no. Những năm đó mất mùa triền miên. Tôi nhớ ng­ười miền Trung còn đ­ược địa phương cấp giấy chứng nhận cho đi ăn xin. Có cụ già leo heo, chân tay run lẩy bẩy hay cháu bé mặt mày nhem nhuốc, tóc tai bơ phờ vì đói  vẫn cố lê từng b­ước. Tôi không đến mức như thế nh­ưng cũng phải đi ở cho một ông chủ nhà giàu để chăn trâu mong kiếm miếng cơm, manh áo. Ngày dắt con đến giao cho người ta tôi biết lòng mẹ đang quặn lại nh­ư đứt từng khúc ruột. Nhìn con nhà ông chủ ăn cơm trắng thỏa thuê, chúng vừa ăn vừa đùa nghịch, cơm vãi khắp nền nhà mà mẹ đành quay mặt đi chỗ khác tủi thân vì thấy con mình khổ quá. Mẹ th­ương tôi, mắt ngấn ngấn lệ. Mắt tôi cũng cay xè như­ng cố gượng lại để mong sao muối đừng xát thêm vào lòng mẹ. Nếu mẹ không cho tôi đi ở thì những đứa em sẽ bị đói. Đêm đầu tiên xa mẹ lòng tôi trống vắng đến lạ kỳ.

Đói như­ng được ở bên mẹ thì dù có chết cũng vui. Nh­ưng tôi không thể làm thế, tôi phải đi để dư­ một suất cơm nhường lại cho các em, cho mẹ. Nhớ lúc tr­ưa mới đến, ông bà chủ dọn cơm ra tôi cũng được ngồi ăn cùng. Ng­ười ta mời mẹ nhưng mẹ cứ chối đây đẩy: “Không mà, em ăn cơm ở nhà no rồi mà. Em no lắm không ăn đư­ợc nữa đâu”. Bỗng dư­ng cổ tôi nghẹn lại không nuốt nổi miếng cơm vừa cho vào miệng. Tôi bật khóc. Bật khóc như­ một đứa trẻ. Mọi ng­uời trong nhà ông bà chủ ai cũng ngỡ ngàng nhưng không ai biết vì sao tôi khóc. Mẹ tôi cố cao giọng dọa nạt:  “Có thế mà cũng khóc, ở đây s­ướng gấp vạn nhà mình. Mà thi thoảng mẹ lại đến thăm cơ mà”. Mẹ quay ra nói chữa ngượng với ông bà chủ:  “Cháu nó lần đầu đi xa nên nhớ nhà đấy anh chị ạ”. Tôi là con nên hiểu lòng mẹ. Tôi khóc không phải vì nhớ nhà mà cũng không phải do buồn mà khóc vì chính lời từ chối ăn cơm của mẹ. Cả đời mẹ đến lúc ấy ch­ưa đ­ược ăn bát cơm không độn sắn, khoai. Vậy mà mẹ lại bảo no. Còn nhớ, buổi sáng nay mẹ chia tay tôi bằng một nồi sắn cọc rào đắng ngắt. Mẹ không ăn mà như­ờng lại cho tôi. Mẹ bảo: “Con ăn đi, mai mẹ đào khóm khác. Đến đó nhớ chịu khó làm đừng để ng­ười ta đuổi về không có cái gì ăn đâu con ạ”. Tôi cứ cố quên điều đó để mong mình thiếp đi trên chiếc chõng tre giành cho những kẻ đầy tớ và ng­ười làm thuê như­ng càng ngủ thì lại thấy đêm dài lê thê, mãi mà chư­a có một tiếng gà gáy đổi canh. Tôi mơ màng, hình ảnh mẹ lúc chiều như­ hiện ra trước mắt. Đó là khi ông bà chủ và mọi ngư­ời đã đi nghỉ trưa, mẹ gọi tôi ra khóc khuất để dặn dò những điều cần thiết khi đi làm con ở. Lúc qua mé sân gần bếp, mẹ thấy cái nồi cơm buổi tr­ưa vẫn còn những vầng cháy vàng ruộm. Mắt mẹ sáng lên và nhìn vào đó không chớp. Có lẽ khao khát lớn nhất của mẹ khi ấy là được cầm nó cho vào mồm nhai ngấu nghiến để thoả cơn đói. Nếu vào xin ông bà chủ thì không đành. Tôi thấy mẹ đứng lặng hồi lâu. Trong tôi bỗng trào dâng cảm giác nao lòng. Một miếng cơm cháy nào đáng gì đâu, thậm chí ngư­ời ta còn bỏ đi vậy mà đối với mẹ tôi là vàng, là ngọc. Thế đấy, có người cả đời chỉ ao ­ước một điều hết sức bình dị. Tôi lặng đi bởi thương mẹ. Vì phải nuôi đàn con nên đời mẹ mới thế. Bất chợt mẹ nhìn tr­ước ngó sau rồi đến bên nồi véo một cục cháy to hơn nắm tay vội vàng giấu vào sau áo và thản nhiên đi ra…

Tôi còn quá nhỏ lại ngoan ngoãn nên ông bà chủ không bắt làm việc nặng mà chỉ đi chăn trâu, cắt cỏ. Do công việc nhiều nên gần hết ba tháng nghỉ hè mà họ vẫn chư­a cho về thăm nhà. Bạn bè học cùng lớp với tôi giờ này chắc chúng nó đang nô nức đi mua sắm quần áo, sách vở. Tuổi thơ ai mà chẳng ư­ớc mơ, khát khao như­ng tôi biết phận mình. Đến một hôm tôi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ các em quá, chờ ông bà chủ ngủ trưa tôi quyết định trốn về thăm nhà. Quãng đ­ường chỉ muời lăm cây số, tôi vừa đi vừa chạy. Băng qua suối, lách qua vườn mía, nương sắn, chạy cả lên đồi để tìm con đường ngắn nhất. Lúc bắt đầu đặt chân đến sân mẹ tôi ngỡ ngàng lao ra ôm con vào lòng. Hình như­ mẹ đang khóc nhưng cố cho nư­ớc mắt chảy vào trong. Tôi nhận ra điều đó vì thấy bờ vai mẹ rung lên từng hồi rất khẽ. Mẹ hỏi: “Ông bà chủ cho về à?”. Tôi thẽ thọt: “Không. Con trốn”. Mẹ bảo: “Ấy chết! Đừng làm thế, sắp đến thời gian con đi học rồi, người ta biết không trả tiền công thì khổ”. Tôi chư­a kịp nói thêm câu nào thì mẹ đã hỏi: “Con ở đấy được ăn no không?”. Tôi gật đầu. Thời gian mẹ con gặp nhau vẻn vẹn năm phút. Bịn rịn, nhớ th­ương cũng phải như­ờng chỗ cho sự chia tay. Lúc tôi chạy đi mẹ gọi giật lại: “Quay lại đây mẹ cho cái này”. Tôi chìa bàn tay bé xíu đón lấy một miếng cháy cơm mẹ đã phơi khô: “Cái này ngon lắm đấy khi nào đói thì nhấm nháp con ạ”. Tôi cố ghìm những giọt nước đang chực ậc ra d­ưới hàng mi cong. Không biết đó có phải là miếng cháy cơm mà mẹ đã lấy từ nhà ông chủ hôm đ­ưa tôi đến đó không? Hay đây là miếng cháy còn sót lại sau khi phần cơm mẹ đã như­ờng lại cho các em tôi ở nhà?

Đời một con ng­ười có những điều bình dị mà trở nên vĩ đại.

Vấn đề của bao tử là một đề tài lớn. Nó chi phối, có thể nói, gần như toàn bộ hệ thống sinh hoạt ở đông phương. Nếu không, thì làm sao dân Việt lại xếp chúng vào hàng đầu của tứ khoái: Ăn, ngủ, làm tình, bài tiết?

Ngẫm nghĩ, thấy ra người Việt, và có lẽ hầu hết các dân tộc Á châu khác, vô cùng thực tế. “Ăn để sống”, hoặc ngược lại, tuỳ. Vậy thì, đứng đầu tứ trụ khoái lạc là đúng rồi. Ăn mệt… ngủ, dễ hiểu quá. Ngủ, đồng thời làm chuyện yêu đương, có gì lạ đâu? Để sau đó, người Nam kỳ nói “mắc”, dân Bắc kỳ lại cho là “buồn”, hưởng lạc thú “thải ra ngoài” trong một nơi kín đáo; hoặc cũng có thể ngoài đồng không mông quạnh, gió hiu hiu thổi lòn hang dế, hay ngoài cầu ao cá tra trên rặn dưới đớp cực kỳ ăn khớp. Thật là hoà điệu tuyệt vời với “minh triết” nhị nguyên của đông phương:

“Có vào ắt phải có ra.

            Vào trên ra dưới thuận hoà âm dương.”

Trong bài viết này, tôi xin đề cập tới đệ nhất khoái, tiện thể phát biểu thêm vài ý kiến… linh tinh. Và chỉ với một vài món dân dã giới hạn trong phạm vi gia đình, ở đây là một gia đình gốc miền Nam, hợp với khẩu vị tôi thời thơ ấu.

Cố nhạc sĩ Hoàng Trọng, trong ca khúc “Bên bờ đại dương”, mở đầu như sau: “Đất nước tôi màu thắm bên bờ đại dương. Bắc với Nam, tình nối qua lòng miền Trung. Đất nước tôi từ mái tranh nghèo Bắc giang, vượt núi rừng già Trường sơn, vào tới ruộng ngọt phương Nam…” Vì sông biển chằng chịt bao la, nên Việt nam là một quốc gia có nền văn hoá cá mắm, có thể nói siêu đẳng bậc nhất thế giới. Người Nhật, dân Cao-ly cũng rất mực ưa chuộng hải sản, nhưng so ra, hơi… kém văn hoá, vì họ không biết mắm cá, mắm tôm gì ráo (?). Văn minh cá tôm của họ từ sống sít phát triển qua tới trình độ “phơi phóng” làm khô, là… đứt phim! Trong khi đó, ở xứ ta, “phơi phóng” ư? Tại một xứ nhiệt đới, dễ quá. Ngâm tẩm mắm muối làm sao cho khỏi hư thối, ăn xong, không phải bụm bịu chạy ra cầu ao ngồi te rẹt với họ hàng cá tra, mới khó. Trải qua không biết bao ngàn năm thử nghiệm, thử thách và… thổ tả, nền “văn minh mắm cá, mắm tôm” tại xứ ta bắt đầu phồn thịnh.

Điển hình là “nước mắm”. Vậy mà, buồn thay, thứ gia vị tiêu biểu ấy chỉ được phổ biến vỏn vẹn trong vài quốc gia Đông nam á. Mon men Tây du, hương vị nước mắm ngậm ngùi dừng lại ở đất Thái. Len lỏi sang châu thổ Nam Trung hoa, mắm miếc Ðại cồ Việt gặp ngay đám thổ phỉ Tàu-vị-yểu hùng hổ chặn đường Bắc tiến. Ðoàn quân mắm meo mất vía, dừng lại, “co cụm” luẩn quẩn trong vài tỉnh giáp ranh Việt-Hoa.

Hình như có điểm khang khác trong cách sử dụng nước mắm giữa người Xiêm-la và dân An-nam ta. Trong khi “rợ Xiêm” chỉ dùng nước mắm để nêm nếm, thì “người mình” còn biết pha chế chung với nhiều thứ gia vị khác như chanh, giấm, đường, tỏi, ớt thành thứ nước chan, nước chấm tiêu biểu cho nền “văn hoá ẩm thực” chứa chan hương vị Việt tính.

Tôi nhớ, để nêm nếm khi nấu ăn, dì tôi là người làm bếp chỉ dùng loại nước mắm tĩn rẻ tiền mua ở tiệm chạp phô đầu đường. Khi cần chế biến dùng chan, chấm cho các món “cao lương mỹ vị” như bánh xèo, chả giò, bún bò xào, cơm tấm bì, … dì dùng nước mắm ngon đựng trong chai (tương đương với hạng AA hiện đại). Còn loại nước mắm nhĩ (hạng AAA) được người khác biếu xén, thường cất xó trong gác-măng-giê, để dành. Đó là thứ nước màu hổ phách đặc quánh đóng cặn vàng lờ dưới đáy chai, mà lâu lâu tôi lại xin phép má, lấy ra dặm thêm chỉ với chút tỏi ớt bằm, chan cơm với mỡ hành thành món ngon đạm bạc, độc đáo. Nếu là cơm cháy thay cho cơm nóng hay cơm nguội, ta sẽ có “cơm cháy mỡ hành”, là món “bình dân đặc sản” không thấy ghi trong thực đơn của bất kỳ quán cơm nào trong, ngoài Việt nam. Tiếc thay, theo đà phát triển từ thời văn minh “nồi đất lửa than”, qua tới “nồi nhôm bếp dầu lửa”, rồi “bếp lửa hơi”, và cực kỳ hiện đại là “nồi điện bảo đảm nấu cơm không cháy”, dần dà chỉ còn là dăm ba mảnh hoài niệm váng vất mỡ màng trong ký ức… ăn uống của thế hệ “răng giả đầu nhuộm”, trải qua nhiều dâu bể tang thương của quê hương. Phút mặc niệm bắt đầu!

“Nước mắm mỡ hành” cũng còn được dầm với “cà dái dê”, giới khoa bảng gọi là “cà tím”, nướng lửa than, bóc vỏ, tước sợi… Ngon ác! Viết tới đây, tự dưng tôi bâng khuâng nghĩ tới… tiểu thuyết “Đoạn tuyệt” của nhà văn Nhất Linh. Tôi tin rằng, giá như cô Loan biết cách pha nước mắm đúng tiêu chuẩn, làm món này món nọ chiêu đãi gia đình chồng thường xuyên, thay vì… phơi thây nằm đọc tiểu thuyết hay gò gẫm viết thư cho chàng Dũng, biết đâu sự tình đã không đến nỗi ngặt nghèo như vậy. Mà, bà Phán và cô Bích sẽ… thân thương, tử tế với cô hơn. Chính bản thân cô, nhờ tẩm bổ bằng “cà dái dê”, sẽ bầu bì liên miên, tặng cho gia đình chồng con đùm cháu đống. Chàng Thân, vì vậy, không cần vợ hai vợ ba gì sất. Như thế, thảm kịch sẽ không xảy ra. Và cả làng nước đều thuận hoà, vui vẻ!!!

Trở lại chuyện mắm muối: nước mắm pha ngon theo kiểu dì tôi gồm có giấm, chanh, đường, nước lã và ớt, tỏi giã nhuyễn. Cho món “cá trê vàng nướng lửa than” có thêm gừng xắt sợi dặm vào, ta có “nước mắm gừng”. Ngon hệt ca dao truyền tụng:

“Mắm gừng chấm với cá trê.

            Chồng ăn một miếng, chồng mê suốt đời.”

Mà, phải là cá trê vàng mới béo, cá trê trắng thịt bở rệu, lạt nhách, vô duyên gì đâu, má tôi nói vậy. “Nước mắm gừng” còn là loại nước chấm, “chơi” với cháo vịt bùi bẫm nấu rặt kiểu Nam kỳ, vì, ngoài gừng ra, còn có đậu xanh để vỏ. Và cũng được dùng “chơi” luôn món “ốc bươu luộc”. Đừng quên đập sả bỏ vô luộc chung cho báng mùi tanh của ốc, là món quây quần vui vầy của cả nhà dưới tàn mận rậm mát sau giấc ngủ trưa những ngày hè nắng cháy. Mà, nước mắm gừng chỉ hợp với cháo vịt thôi (có lẽ ông bà ta nghĩ ra cách cho gừng vào để phòng ngừa trường hợp những ai dị ứng với thịt vịt, ăn vào khỏi nổi phong ngứa chăng?) Còn món “cháo gà xé phay” thì dùng nước mắm pha bình thường. Thịt gà nấu cháo xong, được xé ra trộn gỏi, đúng điệu Nam kỳ phải là bắp chuối, còn không dùng bắp cải, cũng được. Nhưng, nhất định phải có rau răm mới dậy hương vị cháo gà xé phay, nghe!

Nước mắm pha cũng là thứ nước chan cho món bún bò xào là món điểm tâm của gia đình tôi nhiều sáng chủ nhật. Trên bộ ván nhà bếp, tô mẹ tô cha tô anh tô chị tô em bày biện la liệt. Thịt bò ngon thái mỏng xào với tỏi, sả bằm cho vô tô bún độn sẵn rau thơm xắt nhuyễn, trộn giá sống. Ngộ quá, món này còn có mít non luộc thái sợi và huyết heo cắt thỏi cho vô nữa kia! Nhớ rắc thêm đậu phộng giã lên trên cho điệu nghệ! Món này ngon nhờ nước mắm. Người nào vụng về, pha chế không mát tay, không hợp món, chỉ làm buồn lòng khẩu vị mà thôi. Dẫu gì đi nữa, đám lóc nhóc anh chị em chúng tôi, lúc ăn, chỉ biết khen và quá lắm là rụt rè lên tiếng “phê bình xây dựng” tài nấu nướng của dì tôi. Chỉ có má mới là người hội đủ thẩm quyền chê mặn, chê lạt, rầy rà, quở mắng.

Cá lóc, tiếng miền Bắc gọi là cá quả, là một trong vài loại cá sang cả miệt đồng bằng Cửu long giang. Cá lóc chiên giòn dầm mắm nêm là một món đặc sản, rất ngon miệng nhưng tương đối bình dân, so với món “đầu cá hấp cuốn bánh tráng chấm mắm nêm”, mà thỉnh thoảng ba má lại dẫn anh chị em chúng tôi tới một quán nhậu nhà sàn nằm cạnh sông Đồng nai ở Biên hoà, ăn… lót lòng sáng chủ nhật. Gọi là “đầu”, nhưng lại là cá lóc nguyên con, bụng nhồi thịt băm trộn bún tàu, nấm mèo, rắc đậu phộng giã nhuyễn, hành phi thơm phưng phức. Một dĩa rau sống với dưa leo, khế chua, chuối chát. Một tô mắm nêm làm bằng cá cơm, được pha chế tương tự nước mắm trong, nhưng đặc biệt có thêm thơm xắt mỏng.

Đầu cá lóc có hai gò má được bạn hàng lóc ra, ướp sẵn bán riêng từng giỏ con ngoài chợ. Dì tôi mua về, đem rang tương tự như rang tép. Giản dị mà ngon rụng rời, các bạn ạ!

Cá lóc còn được dùng làm mắm. Cho món “mắm chưng”, dì tôi mua khoảng vài trăm gờ-ram mắm cá lóc, đem về róc xương, bằm nhuyễn chung với thịt ba rọi, gia vị tiêu, đường, tỏi, hành lá. Vài lòng đỏ trứng vịt được tách ra để riêng. Lòng trắng đánh chung với thịt, mắm. Trút hết vô tô sành. Lòng đỏ trứng quậy đều, tráng lớp lên trên. Xong, đem hấp cách thuỷ. Món này gắp ghém với rau sống, dưa leo, chuốt chát, khế chua, ăn với cơm nóng, no nứt bầu diều khi nào không biết.

Cũng ngon choáng váng là món “mắm ruốc xào sả ớt”. Sang thì bỏ thêm thịt băm, hèn thì cứ vậy mà ăn kèm rau dưa chuối khế. Nếu không quên, mua thêm đậu rồng về ăn chung. Và, nếu nhằm lúc đầu tháng dư dả lương lậu, mua thịt ba rọi về luộc. Nước luộc dùng nấu canh bầu, canh bí. Còn thịt thái lát ăn kẹp với mắm. Ðã đời. Ăn cái đã! Còn mấy chuyện huyết áp cao, tai biến mạch máu não, đứng tim, đột quị quái quỉ gì gì đó… Chuyện nhỏ, tính sau!

Còn món “mắm thái” miệt Châu đốc? Thuở nhỏ, tôi cứ tưởng loại mắm này được chế biến từ thịt, vì sợi mắm đỏ au trông như thịt. Về sau mới biết mắm thái được làm bằng cá lóc hay cá bông. Sợi mắm có được màu đỏ như thịt cá hồi, vì được “chao” với thính, đường thốt nốt. Và trộn chung với đu đủ xanh thái sợi. Cũng như các loại mắm khác, mắm thái được ăn chung với thịt ba rọi luộc, kèm đủ loại rau sống như đã nhắc ở trên. Có điều, khi ăn mắm thái, không cần nêm nếm thêm, để vậy mà dọn lên mâm. Ai thích, lúc ăn, cắn rỉ rả thêm ớt hiểm. Chỉ riêng cái tên mắm bắt tôi tư lự hoài. Không biết họ hàng, thân thuộc ra sao với xứ Xiêm-la, mà mang cái tên lộ liễu ấy? Hay có ý nghĩa gì khác?

Khẩu vị thời niên thiếu của tôi cũng hạp với món “dưa mắm” là thứ mắm làm bằng dưa leo hay dưa gang non. Dưa mắm mua từ chợ đem về xắt mỏng, gia vị với giấm, đường, tỏi ớt cho bớt mặn và thêm phần đậm đà. Lúc mua, quí bà nội trợ giỏi chỉ liếc mắt ngó qua, không cần thử, đã có thể xác định phẩm chất của dưa mắm. Loại ngon, thịt dưa anh ánh vàng lục, vỏ dưa không teo tóp mà mũm mĩm căng mọng. Cam đoan, gắp một lát dưa, đưa vô miệng, lùa thêm miếng cơm trắng, thực khách sẽ hiểu ra, thế nào là ý nghĩa đích thực của cực khoái.

Nhưng, khi ăn các món mắm, phải biết quên. Đừng nghĩ gì tới các giai thoại truyền kỳ về kỹ thuật làm mắm. Rằng, khi làm nước mắm hoặc mắm cá mắm tôm, phải chấp nhận chuyện ruồi lằng, giòi bọ sinh sôi lúc nhúc lu hũ, mới đúng kiểu. Rằng, các vựa mắm ruốc, thuở chưa trang bị máy móc hiện đại, chuyên mướn đàn ông trai trẻ tới đạp ruốc. Hai chân họ đeo mo cau, người xỏ trần xì cái quần xà lỏn xắn tới háng. Chân đạp, miệng phì phèo điếu thuốc lá, mồ hôi mồ kê cứ vậy nhểu nhão, làm tăng hương vị đặc thù của mắm ruốc. Mà không phải chỉ riêng đàn ông, cả đàn bà cũng đi làm mắm, đạp mắm, vừa để làm kế sinh nhai vừa… vui vẻ đệ tam khoái:

“Con ơi ở lại với bà.

            Má đi làm mắm tháng ba mới về.

            Má về có mắm con ăn,

            có khô con nướng, có em con bồng.”

Ba tôi là người thích và sành ăn uống. Có thể nói, ông thuộc tuýp người “ăn hết trọi trơn những gì biết nhúc nhích, cục cựa, có hai hoặc bốn chân, ngoại trừ bàn ghế tủ giường”. Món sang, món hèn của ba miền, món Tây món Tàu ông biết gần hết, nhất là những món của người Tàu. Tôi vẫn còn lưu luyến trong khẩu cái hương vị tuyệt vời của món cháo cá nổi danh một thời trong một quán ăn Trung hoa ở đường Tôn Thất Ðạm (nếu tôi nhớ không lầm), khu Chợ Cũ thuở trước. Bước vào quán, thực khách đã thấy từng thớt cá treo sẵn (không biết là cá gì) tại quầy và lô lốc chén nhỏ lưng lửng cải trắng và gừng xắt sợi dầm trong một thứ nước gia vị màu trà loãng, đoán chừng có khá nhiều bột ngọt. Khách toạ vị xong, đầu bếp huơ tay nhậm lẹ thái cá từng lát mỏng tanh, soi đọc được báo, sắp vô dĩa con. Phổ ky bưng ra, mỗi người một tô cháo trắng ninh nhuyễn nhừ, nóng lột lưỡi, kèm theo một dĩa cá và một chén cải. Trút trọn cá, cải, gừng ngâm vào tô, khoắn vài lượt. Lát cá xoắn lại, vêu lên từng ngấn đục ngầu. Ai thích, có thể rưới thêm vài giọt dầu mè. Vị cá ngọt lịm. Sợi cải giòn sựt. Hương gừng thơm nồng. Mắm muối vừa miệng, không thừa không thiếu. Nóng chảy mồ hôi. Đã đời. Ngon không biết tả sao cho đúng.

Người Việt miền Nam cũng có món cháo cá lóc. Dì tôi mua cá về xắt khúc, luộc chín rồi vớt ra để nguội, rồi rỉa miếng lơn lớn. Nước luộc cá dùng nấu cháo. Muốn cháo ngon ngọt hơn, có thể bỏ giò heo vô nấu chung. Tôi nhớ, món cháo này hơi lạ mắt lạ vị, vì khi múc cháo ra tô, bày cá lên mặt, rắc hành ngò xong xuôi, dì tôi còn gắp một nhúm bún, một dúm giá sống, gia vị một ít tương đen, và cho thêm đậu phộng giã nhuyễn vô nữa.

Tôi cũng thích món cháo trắng nấu nhừ ăn kèm với dưa mắm, thịt hay cá kho quẹt rắc tiêu cay xè, tép rang hay hột vịt muối. Và, rất đặc biệt, má tôi thỉnh thoảng lại kêu dì nấu cháo trắng ăn chung với tôm khô củ kiệu xắt sợi ngâm nước mắm pha làm món điểm tâm sáng chủ nhật. Nếu nhằm mùa mưa, tiết trời man mát, vừa thổi vừa ăn, lắng tai nghe âm mưa vỗ về tí tách sân gạch. Thính giác và vị giác hoà lẫn vào nhau thành một giai điệu không bao giờ phai trong tâm khảm.

Cũng cần kể thêm vài món chè bánh tráng miệng còn đậm đà trong dư vị. Má tôi hạp khẩu những món ngọt có chuối xứ và nước cốt dừa. Chẳng hạn món chuối chưng bột báng nước dừa rắc đậu phộng giã nhuyễn. Cũng có thể là chuối xứ cắt lát xào nước cốt dừa, bột báng, rắc mè rang. Hay là bánh chuối bột hấp lót lá chuối. Hấp xong để nguội. Khi ăn xắt thỏi hình thoi cho vào chén, chan nước cốt dừa, mè rang. Vị ngọt mềm mại của chuối, vị béo ngậy ngật của nước cốt dừa gia chút muối, hoà với vị bùi thanh tao của mè rang quyện nhau thành khẩu khúc quê nhà ngất ngây khung trời thơ ấu.

Lâu lâu, chính tay má trổ tài nướng “bánh bông lan nhưn chuối”, là món cả nhà đều ưng ý. Má lột vỏ chuối xứ, ngâm một lát trong nước muối, xả bớt vị chát. Rồi má cắt tư theo chiều dọc, đem xào với đường cháy cho tới khi chuối quánh màu đỏ chạch. Xong, để nguội, đem sắp vào nồi gang tráng sẵn bơ mặn Bretel. Bột mì, trứng, đường, sữa đặc có đường đánh chung, đổ vào xâm xấp, bắc lên bếp lửa than. Má còn gắp than để lên nắp nồi, cho bánh vàng đều. Hôm nào má nướng bánh, căn bếp nhà sau thơm lừng hương bơ sữa, đường cháy. Ngũ quan nhạy bén trẻ thơ đón lấy, không lựa chọn. Với dăm ba miếng ngon thời niên thiếu. Với chút hương thơm quyện trong gian bếp hai mùa mưa nắng quê nhà. Để rồi nâng niu cất giữ trong vô vàn ngăn kéo ký ức: Ngăn mặn mòi cá mắm, ngăn đậm đà cháo bún, ngăn chè bánh ngọt bùi, ngăn ngậm nhớ ngậm thương những người thân yêu đã xa khuất, …

Phần trên có nhắc tới “rợ Xiêm”, cũng biết ăn nước mắm như người An-nam, vậy mà trải qua hằng bao thế kỷ, dân tộc Xiêm-la chưa hề bị đế quốc nào đô hộ. Họ còn… lén ăn thêm thứ gì khác có thần dược “ngăn ngừa đế quốc” mà dân ta không biết chăng? Để đến nỗi…

Mới đây, đọc được một bài góp ý của nhà văn Lê Thị Thấm Vân trong một trang báo bạn trên tin mạng:

“Hè 1995 tôi về Việt Nam lần đầu. Trong buổi ăn chiều ở nhà hàng Tif(?) do Trịnh Công Sơn mời. Có khoảng trên mười người. Một nửa là người sống trong nước và một nửa là người sống ở nước ngoài. Đêm đó có Nguyễn Hữu Liêm, Hoàng Phủ Ngọc Tường… Đang giữa bữa ăn, giữa những người cõng trên lưng lịch sử khác biệt, giữa những chai rượu ngoại đắt tiền, thức ăn ê hề, bàn bọc khăn trắng, hoa tươi, nến cháy… tôi tò mò mở tấm liếp nhìn ra bên ngoài, sát cạnh là mảnh đất trống, một đám ăn xin, chùi giày, bán vé số… nam nữ lão ấu tụ tập nằm ngồi la liệt. Bất chợt câu hát “người nằm đó như loài thú khi mùa đông về… không kêu than khóc… trên phận mình…” của Trịnh Công Sơn thời chiến chạy ngang trong đầu. Tôi kéo tấm liếp xuống, bỗng nhìn thấy tôi, tên Việt kiều, hiện đang ngồi đây, chẳng khác tên thực dân ngày trước.” (*)

Miếng ngon trong ký ức tôi chợt trở nên nhạt nhẽo, vô vị. Tôi thấy ra, ăn không phải là “đệ nhất khoái” như người Việt mình rình rang xếp hạng. Không phải. Hoàn toàn không phải. Mà miếng ăn vẫn còn là một nan đề to tát tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt nam. Sao vậy? Chiến tranh đã kết thúc hơn ba mươi năm rồi!!!

Để rồi, hơn bao giờ hết, tôi nhận ra mình là một kẻ may mắn, tột cùng may mắn. Một niềm may mắn đắng ngắt dư vị.

Miếng cơm cháy

Lê Đăng Ngôn 70

Vào tuổi ăn, tuổi chơi chúng tôi đã vào Tiểu chủng viện. Ở lứa tuổi mà bây giờ người ta hay gọi là “đang lớn”, chúng tôi đã phải vào khuôn phép sinh hoạt lễ lạy, kinh nguyện và học hành dày đặc, từ sáng đến tối. Vì vậy, nhu cầu chơi giỡn, ăn uống trở thành một cám dỗ mà ít ai trong đám chủng sinh chúng tôi không cảm thấy “dễ sa ngã”. Và những “lần sa ngã” đó đã khiến nhiều anh em chúng tôi phải khăn gói giã từ trường lớp, bạn bè một cách oan uổng. Một trong những chước cám dỗ mà chúng tôi thường mắc phải đó là “ăn cơm cháy”. Dĩ nhiên, chúng tôi được các dì tiếp tay trong những lần “vận chuyển” loại “thực phẩm quốc cấm” này.

Cơm được nấu bằng cái chảo to có đường kính cả mét. Công tác giở cơm - xới và cho vào từng nồi nhỏ - là công tác mà anh em chúng tôi ai cũng thích được đảm trách. Vì bao giờ dưới đáy chảo cũng là một váng cơm cháy vàng rụm hấp dẫn. Nhân lúc cạo chảo, chúng tôi luôn tranh thủ nhanh tay làm một rẻo cỡ bàn tay và cho vào túi quần ngay. Thông thường muốn được ăn cơm cháy, chúng tôi phải được các dì thương một cách đặc biệt. Sẽ bàn đến thế nào là “cái thương đặc biệt” của các dì dành cho các chú sau.

Đã có lệnh (?) ‘ăn cơm cháy làm các chú đau bao tử’ - vả lại cũng đâu bổ béo gì cho cam! Nhiều bữa chúng tôi nhìn mà tiếc đứt ruột khi thấy chảo cơm “những cháy là cháy” bị “trầm mình” trong bể nước. Nhưng đời tu là thế - tự dặn lòng hy sinh, hãm mình - kể cả làm ngơ trước những miếng cơm cháy giòn giòn. Vả lại, nhà trường phải nuôi thêm heo cá, gà ngỗng; mà cơm cháy lại là nguồn thực phẩm giúp vỗ béo đàn gia súc cho chúng chóng lớn và ngon thịt vào mấy dịp lễ đãi đằng, tẩm bổ cho các chú. Ấy thế mà có chú nào lại chẳng “qua cầu cơm cháy” một lần trong quãng đời tu của mình chứ!? (trừ những chú mơ làm “thánh sống” hay quá “sợ bị về” mới từ chối hát bài ca “nỗi khát khao cơm cháy” của đời Sao Biển.

Dì Trinh, dì Khiết, dì Mười, rồi sau này có dì Nhàn – là những dì mà chúng tôi có thể “vòi vĩnh” để có nguồn cung ứng cơm cháy một cách an toàn bí mật và lâu dài. Những vụ “chuyển giao lương thực” này mà đổ bể thì các dì không tránh khỏi sự nhắc nhở của Cha Quản lý. Nhưng chúng tôi đời nào hé răng khai ra cho dù có phải xách vali ngậm ngùi bước ra cổng với miếng cơm cháy còn trong vali chưa kịp chia cho đám bạn cùng nhai.

‘Cách, cách, cách’ - tiếng gõ nhè nhẹ lên ô cửa kính nhà ăn. Khuôn mặt dì Khiết hiện lên sau tấm kính đục mờ. Chúng tôi, “nhóm kế hoạch cơm cháy” luôn chọn dãy bàn ăn gần khu vực nhà bếp để tiện bề liên lạc với các dì. Khi nghe “mật hiệu” chúng tôi hiểu ngay sau đó phải làm gì. Dì biến mất. Hiểu ý, ngay sau giờ cơm trưa, hoặc tối, chúng tôi đem chiếc thau có áo quần để sẵn vào vị trí như đã quy định với các dì. Rồi như thường lệ, chúng tôi vẫn tiếp tục đi kinh, đi nguyện như không có gì xảy ra. Nói vậy thôi, chứ những lần “tác chiến cơm cháy” thường làm chúng tôi rất hồi hộp - kinh với chả kệ - chỉ lo mỗi chuyện ‘chú Cún, chú Ki’ của Cha Quản lý phát hiện thì nguy. Khi đó thì cả chì lẫn chài đều mất sạch, lại không khéo thì cả đời tu coi như “mãi mãi không còn được Chúa chọn”.

Trước giờ đi ngủ, dù trưa hay tối, chúng tôi đều phải sắp hàng và trật tự im lặng di chuyển lên nhà ngủ, sau vài phút đứng im ‘giả nai’ trước ánh mắt ‘ trinh sát’ của cha Bề trên hay giám luật. Đây là lúc chúng tôi được phép mang thau đồ đã giặt lên nhà ngủ với “lượng hàng quốc cấm” được ngụy trang bên dưới đống áo quần. Thị trường chính tiêu thụ cơm cháy của chúng tôi là nhà ngủ. Bởi thế, cơm cháy phải được ăn khi đèn đã tắt, mùng đã buông, cho dù ‘hàng’có được mang lên từ lúc trưa thì cũng phải để dành đến tối mới đánh tỏa ra các ‘đại lý’.

Có thể vừa nằm vừa ăn bánh, ngậm kẹo chứ cơm cháy thì phải ăn ngồi, còn muốn nằm ăn thì phải nằm sấp, chứ không thì vụn cơm cháy đủ làm chúng tôi ho hóc, khi đó thì ‘lạy ông con ở bụi này’. Cực thế đấy, nhưng làm chú SB mà không không mê cơm cháy thì cũng khiến đời tu chúng tôi như chưa ‘rèn’ thêm một ‘nhân đức’ khác thường vậy! Cơm cháy thì giòn, trát lên một chút muối tiêu trở nên ‘món ăn nghịch ngợm’ khiến tình bạn thêm đoàn kết, gắn bó. Nói về muối tiêu: muối tiêu cũng là hàng kín, được ‘nhập khẩu’ từ người nhà, rồi được ém sẵn trong vali từ ngày đầu nhập học hoặc qua các lần thăm gặp. Công phu chuẩn bị là thế nên ‘mặt trận cơm cháy’ luôn hấp dẫn khiến chúng tôi phải cẩn thận lên kế hoạch, nắm bắt thông tin liên lạc, nhanh - gọn - chính xác còn hơn cả mạng thư đàn của csbgroups của chúng ta hôm nay nữa. Thật là một sinh hoạt ‘ăn uống có tính đặc thù SB’ không thể thiếu trong đời tu của chúng tôi ngày ấy.

Một hôm, được Dì Khiết tiếp tế cho một nguồn cơm cháy khá lớn và ngon, chúng tôi lại vận chuyển an toàn trót lọt, nên tối đó nhiều anh em chúng tôi cùng tham gia tiêu thụ. Giường mùng đã yên ắng, nhưng âm thanh ‘rạo rạo’ vang lên giữa cái im lặng của đêm nghe như tiếng bước chân đi trên cát. Tiếng ngáy đều đều của đám bạn 'sợ về' nghe như tiếng nước đang sôi ục ục không át nổi tiếng nhai cơm cháy đang hồi 'xung trận'. Bỗng! Vút…ú.. ú…t! Vút… ú…ú…t! Roi mây của Cha Giám luật quất bay vèo vèo vào các vách mùng nghe như có đĩa bay của người ngoài hành tinh xâm nhập. Báo động! Ô–tô–ma–tích im re. Không nhúc nhích, không nhai, không nhóp nhép. Tất cả rơi vào im lặng. Cái miệng tôi lúc đó, mà chắc mấy đứa bạn cũng thế, đang từ từ khép lại một cách khó nhọc, mà phải khẽ khàng. Một miệng cơm cháy đang ngồm ngoàm, hong xóc thế kia mà phải ngậm tăm thì tang thương là ngần nào. Thế mà, răm rắp im, răm rắp nín. Cuộc truy quét của Cha Giám luật chỉ mang tính cách 'thăm nom', nhưng cũng mất gần mười lăm phút nín thở với một mồm tộng căng đầy những cơm cháy. Tối hôm đó, không ai trong chúng tôi bị phạt, nhưng sáng ra có đứa thức dậy với một miệng đầy tàn tích đêm qua do sợ quá mà ngủ quên luôn.

Ăn cơm cháy. Một thành tích phá phách đầy chất thơ có vị mặn của muối, vị cay của tiêu và đắng của cơm cháy đã làm cho cuộc đời Sao Biển của chúng tôi thêm ý vị. Ngạc nhiên ư? Không, với dân Sao Biển - cho nhau miếng cơm cháy muối tiêu, ăn vụng về giữa đêm giữa hôm với tâm trạng hồi hộp, lo âu… - cảm nhận cái đắng, cái cay, mặn chát của tình bạn – là cách ngày xưa chúng tôi quý mến nhau.

Ba mươi năm, bốn mươi năm rồi …! Nhưng vị mặn, đắng, cay đó còn theo mỗi chúng tôi đến từng hóc hẻm, từng nơi xa mù tắp, thấm lên trang email, chảy vào thư đàn… để, hễ có dịp là chúng tôi sẵn sàng hào phóng 'một miếng cơm cháy muối tiêu' cho thằng bạn, hay cho đàn anh, đàn em để bày tỏ, gởi gắm cái tình quý mến không tài nào diễn tả. Tiếc rằng, ở tuổi gần đất xa trời, răng cỏ chẳng còn mấy cái, liệu người còn 'nhai được cơm cháy' trong chúng tôi còn đặng mấy ai? Nhưng các dì ơi, nghĩ tới cơm cháy là chúng con thương nhớ các dì lắm, các dì nơi 'xa vắng' có biết không!?

Miếng cháy

SGTT.VN - Nhân lúc không ai để ý, tôi lao xẻng vào thành chảo, xúc ra một tảng cháy, hất xuống cái mũ cối để ngửa sẵn, ung dung đội lên đầu đi ra sau bếp. Chậm vài giây cậu phụ bếp đổ nước vào để ngâm chảo thì hỏng bét cả. Anh bạn tôi đã đợi sẵn ở đó, theo lệ. Anh thoáng thất vọng khi thấy tôi tay không. Bước đến trước mặt anh, tôi làm động tác chào, gập người, cái mũ rơi xuống, tôi đỡ bằng mu bàn chân rồi hất lên, anh ôm gọn cái mũ cháy, cười tươi, bẻ ngay một miếng nhai ngon lành. Tôi đang vội chạy về bếp để bê cơm lên nhà ăn cho kịp giờ đánh kẻng mà anh còn cố níu lại đùa một câu: “Kẻ địch tớ cũng chả sợ, chỉ sợ mỗi đói thôi”.

Những kỷ niệm lúc đói khổ thì sao lại nhớ dai và dễ làm người ta gắn bó đến thế?

Tôi ra quân trước anh, về đến nhà được phường gọi lên, ưu tiên cho đi xuất khẩu lao động ở Bulgari. Ba năm đánh vèo cái đã hết mà chả học được nghề gì cụ thể. Đủ sống và đủ tiền khi về mua ít bánh kẹo làm quà cho gia đình.

Thế là lại nhẩn nha kiếm cơm, kiếm cháo qua ngày. Phụ giúp mẹ làm nhang và in tiền âm phủ, phụ em làm kẹo lạc, bánh đậu xanh đi giao ở mấy quán trà xu vỉa hè.

Hôm đó là rằm tháng bảy, tôi khoác một bị tiền vàng, hương nhang, oản đi bán rong loanh quanh chùa Quán Sứ. Chừng hơn mười giờ đêm, khi đã vơi non nửa bị thì tôi vớ được một khách hàng đặc biệt, anh bạn cũ hồi bộ đội.

Mừng mừng tủi tủi, người bán không thiết bán mà người mua cũng chả buồn mua nữa. Anh lôi tôi vào một cái quán ở gần đó. Tha hương ngộ cố tri. Chúng tôi cạn chén mừng ngày gặp lại.

Sau khi tôi ra quân, anh chuyển đến một đơn vị khác trên Nghĩa Lộ. Vừa mau mồm, vừa láu lỉnh, anh là người quan hệ rộng. Anh kể: “Trước khi xuất ngũ, mình có chơi với một đám lục lâm thảo khấu ở vùng đó. Lũ này kiêm thêm chạy đá đỏ. Biết tin mình sắp hết hạn nghĩa vụ quân sự, tụi nó nhờ làm chân đại diện tại Hà Nội. Lúc đầu mình cũng chỉ định kiếm chút để đủ cơm ăn, học tiếp đại học thế mà không ngờ tiền vào lúc nào mà nhanh thế. Thực ra thì vốn liếng của mình chỉ là ở ba tấc lưỡi thôi. Chẳng có gì đắt, cũng chẳng có gì rẻ, dụng khẩu làm sao để khách thấy hợp lý là thắng”. Tôi đã hơi ngà ngà nhưng vẫn cố gắng nhập tâm câu này để ứng dụng vào việc bán hàng giúp mẹ. “Nói để cậu mừng, bây giờ mình đang làm chủ một cơ sở buôn bán, chế tác đá quý. Chẳng nhỏ mà cũng chẳng to. Việc lễ bái cầu xin là trách nhiệm của tay phó nhưng hôm nay cậu ta về quê đưa đám ông chú, mình đi thay hoá ra may mắn được gặp lại cậu”. Anh vừa bốc đồ nhắm, vừa nhắc lại chuyện miếng cháy rồi cười ngặt nghẽo, “bọn mình thật có lỗi với tổ chăn nuôi của trung đoàn”. Khi chia tay anh bảo: “Ngày mai cậu rẽ qua chỗ mình, nếu ưng thì ở lại làm”.

Thế là làm, công việc cũng chẳng có gì nặng nhọc, chỉ giao hàng rồi nhận tiền chứ chuyện chuyên môn thì quả là rối rắm. Tôi không thể phân biệt được đá nào màu máu bồ câu, thế nào là màu hoa mười giờ. Chưa kể một vài thao tác chuyên ngành khác.

Hôm nọ chúng tôi đi công vụ đặc biệt, khi anh nháy mắt ra hiệu cho khách xem hàng thì tôi mới giật mình. Đáng lẽ khi lấy hàng từ két, tôi phải nhét ngay mấy viên xanh xanh đỏ đỏ của nợ đó vào mồm, giấu dưới lưỡi chứ không phải để trong túi áo ngực, và khi được lệnh thì nhè ra. Đơn giản đến vậy mà tôi không thuộc. Loanh quanh vẫn chuyện miệng lưỡi. Tôi bắt đầu chán nghề đá quý. Thuyết phục mất tuần lễ anh mới để tôi nghỉ.

Cuối năm, bánh kẹo bán chạy, lúc nào chân cũng vắt lên cổ. Bẵng đi ba tháng không gặp nhau. Một hôm, tự nhiên thấy sốt ruột, tôi chạy lại thăm, hoá ra anh bị ốm. Anh thò đầu ra khỏi chăn thều thào: “Không hiểu mình bị bệnh gì. Mấy tay bác sĩ quen, khám xong lắc đầu quầy quậy, kê một đơn toàn thuốc bổ bảng A. Mình lên phố Lãn Ông bắt mạch, cụ lang Tuất phán: trong người có quá nhiều chất độc, thận hư, tâm hoả suy. Cụ ép mỗi ngày mình phải uống ba lít nước râu ngô luộc”. Tôi ngồi tào lao, động viên anh quá trưa mới về. Đi đến đầu phố, nghĩ thế nào, tôi quay ngoắt lại, nháy nháy mắt rồi nói: “Còn một loại thuốc nữa chưa dùng”.

Anh bạn tôi vốn là người vô thần nhưng nước cùng cũng đành tặc lưỡi theo tôi đi xem bói. Vị thầy bói này khá nổi tiếng cả trong giới bác học lẫn bình dân. Cánh bình dân thích vì thù lao tuỳ tâm, cánh bác học thích vì được kéo về đời sống. Chúng tôi đến nơi phải xếp hàng một lúc lâu mới tới lượt. Mỗi lượt là ba người vào, tuần tự, ai đến trước xem trước, không chen lấn xô đẩy. Lượt của bạn tôi gồm hai người nữa, một cô gái trẻ và một ông trung niên đội mũ bêrê màu tím than. Tôi ngồi chầu rìa nghe câu được câu chăng, cô gái hỏi dài dòng về chuyện tình duyên, ông trung niên sốt ruột chuyện tài lộc.

Đến lượt bệnh nhân của tôi, anh được chỉ dẫn nắm chặt ba đồng tiền Khải Định trong tay một lát rồi gieo sáu lần được quẻ Sơn lôi di, động hào sơ biến thành quẻ Sơn địa bác. Thầy trầm ngâm giây lát rồi phán: “Ngũ âm át nhất dương, khốn nhưng không tận. Ông đang kinh doanh tinh hoa của đất giời. Trời làm cho ốm nhẹ để cảnh báo. Nên chuyển sang gom đá trên mạn ngược về bán cho bọn nung vôi hoặc một nghề gì tương tự, bệnh sẽ tự rút”.

Bạn tôi rút một phong bì dày cộp trong túi áo vét ra đặt lên đĩa, cảm ơn thầy bói rối rít. Ông ta lẩm bẩm: Ơn huệ gì, phúc chủ lộc thầy thôi.

Lời phán của ông thầy bói đúng vào lúc thị trường đá quý xuống dốc. Những viên đẹp đã hết, còn lại toàn những viên xấu, vụn, nứt hoặc là hàng chế bằng đá rải đường nhuộm phẩm hồng, bán cho các cơ sở làm tranh đá quý. Loại tranh này chả biết xấu đẹp thế nào nhưng thấy mấy tay sành chơi ở trên phố rỉ tai nhau: “Quá cả giới hạn của chủ nghĩa suy đồi các ngài ạ”.

Hơn tháng sau, anh chạy đến khoe với tôi đã bán tống, bán tháo được toàn bộ cơ sở đá quý. Anh bảo: “Mua vải bán áo, cũng lỗ kha khá nhưng thôi của đi thay người”. Anh rủ tôi bát ngát vào Nam một chuyến, vừa nghỉ ngơi vừa học tập cách làm ăn của các doanh nhân trong đó. Tôi cáo bận vì còn phải lo hàng cho vụ đông xuân.

Thế là lại bẵng đi nửa năm không gặp. Một buổi chiều anh hớt hải chạy đến phân trần: “Công việc ngập đầu thở cả bằng tai, đã chọn ngày rồi, mai cậu qua khai trương quán của mình nhé”.

Anh kể: “Các khái niệm thị trường, cạnh tranh, độc quyền, gây dựng thương hiệu trước đây mình rất mù mờ nhưng sau khi đi Sài Gòn một chuyến thì nắm được ngay và quyết định mở cái quán này. Sáng ra chợ mua ít cá, ít tôm về luộc lên bán cho khách nhậu, kiếm tí lãi còm. Thực ra là lấy công làm lãi. Vơ bèo gạt tép, tích tiểu thành đại. Lớn bùi bé mềm. Mèo nhỏ bắt chuột nhỏ. Cò con nhưng an toàn. Vả lại nghỉ ngơi, chơi bời mãi cũng chán, chưa kể… miệng ăn núi lở”. Tôi nâng vại bia trào bọt lên chúc mừng anh. Ăn uống xong đứng dậy mà thức ăn vẫn còn già nửa. Tôi thấy mắt anh nhìn xa xăm. Bỗng anh quay lại toét miệng cười: “Mình nhớ miếng cháy”.

Một lần nữa anh rủ tôi ở lại làm cùng. Nhưng công việc của tôi cũng đã đều đặn hơn trước. Ngoài bánh đậu xanh, kẹo lạc, kẹo vừng, tôi làm thêm cả bánh quế, bánh chả. Đã thế tiền âm phủ in không kịp bán, tôi phải “cày” cả đêm lẫn ngày.

Thỉnh thoảng tranh thủ lúc đi giao hàng, tôi ghé vào thăm bạn. Mới có mấy tháng mà thấy thay đổi nhiều quá. Anh thuê thêm nhà bên cạnh, cơi nới quán gấp đôi, khách khứa chen chúc. Anh vừa chỉ huy quân cán vừa nói chuyện với tôi: “Kinh nghiệm hai năm làm tiểu đội trưởng hồi bộ đội và kinh nghiệm làm ăn học được ở chuyến đi thực tế Sài Gòn vừa rồi mình mang ra áp dụng triệt để. Tháng đầu mỗi ngày tiêu thụ hết một yến tôm, hai yến cá thế mà bây giờ tất cả đều phải tăng gấp mười mới đủ phục vụ bà con. Tôm hay cá đều phải tươi roi rói, nấu nướng gia giảm vừa miệng thực khách, lãi ít, số lượng lớn. Bí quyết chỉ có thế. Mình mới mở rộng thêm món ốc luộc với thuốc bắc cũng rất được các bà các cô đi theo chồng hưởng ứng”.

Quãng độ sáu tháng sau tính từ bữa đó, một hôm cậu quản lý của anh đến đưa tôi lá thư, vẻn vẹn có mấy chữ: “Mình ốm…”

Bệnh của anh lần này có phần khó hiểu hơn lần trước. Không nhức đầu, sổ mũi, chóng mặt, mắt vẫn sáng, răng vẫn chắc, đầu óc vẫn minh mẫn thậm chí không cả đau bụng đi ngoài. Chỉ có buồn nôn thôi, ngủ thì mơ thấy mình đang nôn, thức thì lúc nào cũng buồn nôn, phải nhổ nước bọt mới đỡ. Thế là anh nhổ nước bọt suốt ngày, phì phì như máy bơm. Lúc tôi mở cửa bước vào, anh đang ngồi xổm trên một cái ghế đẩu sơn đỏ, toàn bộ nền nhà nhầy nhụa, ngập ngụa, nhơ nhớp, lênh láng, nhoe nhoét nước bọt anh nhổ ra trong suốt tuần lễ vừa qua. Thương bạn nhưng lực bất tòng tâm. Bỗng dưng trong óc tôi loé lên hình ảnh mấy đồng tiền xấp ngửa. Tôi chạy ngược ra cửa, anh nói với theo: “Đừng mời bác sĩ nữa, chữa được bệnh chứ làm sao chữa được mệnh”.

Tôi đến nhà ông thầy bói dạo nọ, vẫn kẻ vào người ra như trẩy hội. Một tiếng sau mới tới lượt. Nhóm của tôi gồm ba người: một cậu thanh niên, tôi và một bà ngoài bốn chục. Bà ta thắc mắc gì đó về hạnh phúc gia đình, còn anh chàng trẻ tuổi hỏi về chuyện tiền bạc. Đến lượt tôi, ông cụ hỏi luôn, bạn cậu sao rồi. Tôi kể sơ qua bệnh tình, mới được vài câu, ông ta ngắt lời, xua tay Thôi thôi, bảo đi buôn đá bán cho bọn nung vôi không đi lại mở quán. Thế là quẻ bĩ chứ cần gì phải gieo nữa. Mỗi tháng tiêu thụ hết mấy chục yến cả tôm, cá, ốc, một năm là mấy tấn sinh linh bị chết oan, sát sinh nhiều thì ốm nặng, sát sinh ít thì chết. Theo kinh nghiệm của tôi thì những trường hợp như bạn anh sẽ gặp thuỷ hạn. Tôi rùng mình, nghĩ đến cảnh anh bạn thân bị chìm trong cái buồng đầy nước bọt của anh ấy.

Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không lý giải nổi tại sao bạn tôi lại khỏi bệnh. Sau khi nghe tôi thuật lại câu chuyện xem bói. Anh thốt lên: Xong rồi. Biết cũng chết, không biết cũng chết. Mình vừa biết vừa không thì sẽ sống. Anh tức tốc gọi người quản lý đến, đề nghị thay biển hiệu của quán: “Quán Ăn” thành “Quán Uống”. Chỉ uống suông thôi, các loại rượu gạo nguyên chất, không đồ nhắm. Phải nói bạn tôi may đủ đường. Khỏi bệnh là một. Hai là quán uống không những không vãn khách mà lại có phần nhộn nhịp hơn. Cả Hà Nội có mỗi mình quán của anh chỉ bán đồ uống, tuyệt nhiên không có một chút gì để đưa cay cả, khỏi cạnh tranh, khỏi quảng cáo lôi thôi.

Chỉ có một điều phiền hà nho nhỏ là không thấy các cặp vợ chồng nắm tay nhau hoặc các đại gia đình rồng rắn kéo đến như thời trước, mà toàn khách đàn ông đã đứng tuổi và người già. Họ lại đi lẻ nên bàn ghế phải gọi thợ mộc tới cưa cắt cho nhỏ đi, chữa các ghế băng thành ghế đơn thấp, có tay vịn, mặt và lưng ghế có nệm, một bàn đi với một ghế và khoảng cách giữa các bàn khá xa nhau. Sẵn thợ, anh làm thêm cho tôi một cái giá góc nhiều ngăn để kết hợp bày bán vàng mã, hương nhang của tôi (anh muốn bắt chước mô hình nhượng quyền?) Anh thủ thỉ bảo: “Tuy không thanh khiết bằng nghề của cậu nhưng hình như có mỗi bọn mình là đang được làm cái nghề vừa kinh doanh, vừa đạo đức lại đủ sống”. Tôi ngần ngừ giây lát rồi mới nói: “Cũng chưa biết thế nào. Hôm qua khi mình đến lễ tạ ông thầy bói tốt bụng năm mươi thẻ hương trầm loại đặc biệt, ông ấy dặn: Đúng sai khó lắm. Mà này, hay là bọn mình đi thửa một cái chảo quân dụng để chuyên thổi cơm cháy bán thêm cho tửu khách được không nhỉ?”

Ôi cái ngày bé dại, vừa ê a đọc chữ vừa cắt cỏ chăn trâu, rồi bọn trẻ con hay tụ tập với nhau chơi trò hàng xén, y như người lớn, lấy lá ổi làm tiền, lá sen làm nón í ới gọi nhau đi chợ... Chơi cả buổi xong lại cãi nhau chí chóe, giận giận hờn hờn đứng dậy bỏ đi… Tôi còn nhớ rất nhiều, kỉ niệm vui có, kỉ niệm buồn cũng có… Nhưng có lẽ cả đời tôi sẽ không quên được: ngày xưa… cơm cháy!

Trong kí ức tôi, ngày ấy nghèo lắm! Một bà một cháu sống tựa vào nhau. Ngôi nhà bà cháu tôi ở được dựng tạm bợ gần cánh đồng mái tranh vách lá. Mỗi lần nấu cơm phải đun bằng củi. Tôi ngồi thổi lửa, mắt cay xè. Tôi nhớ rõ rằng ngày ấy tôi rất mê cơm cháy. Món cơm cháy vàng giòn, để hơi âm ấm, cắn vào giòn rụm, lúc đầu ăn hơi nhạt nhưng càng nhai càng thấm cái vị ngòn ngọt nhẹ nhàng dìu dịu của cơm. Hôm nào không có cơm cháy hoặc cơm dưới đáy nồi chỉ hơi sem sém cháy là mặt tôi buồn hiu, hờn lẩy chẳng thèm ăn .

Có hôm bà tôi bực quá bảo: “ngày mai mày đốt nồi đi để mà có cháy!”. Sáu tuổi, tôi đã biết gì, nghe bà nói thế tôi làm thật! Đến lúc nấu cơm, tôi đốt thật nhiều củi, lửa ngọn bốc thật cao, cái nồi cơm đen sì sì ngập trong lửa đỏ, tôi ngồi hí hửng vừa quẹt nước mắt vừa quạt (vì khói nhiều cay mắt quá!) vừa mơ màng đến những miếng cơm cháy vàng ươm. Nào ngờ lửa bốc cao, thiêu rụi mái nhà lá nghèo của hai bà cháu. Bà đã khóc thật nhiều, tôi được một phen kinh hồn bạt vía...

Giờ đây, tôi đã ăn nhiều loại cơm cháy, tự nấu có mà cơm cháy bán sẵn cũng có. Có những cách chế biến cơm cháy và ăn cơm cháy khác nhau. Nào là cơm cháy chiên giòn, cơm cháy chà bông, mỡ hành, tôm thịt băm… được nấu trong các nhà hàng hoặc đóng gói bán sẵn ở các siêu thị, hàng quán… Càng chế biến con người lại càng sáng tạo và món cơm cháy càng ngày càng đa dạng màu sắc, mùi vị. Nhưng tôi thèm nhất vẫn là cơm cháy… ngày xưa.

Cơm cháy đóng gói làm sao có cái mùi thơm nhẹ nhàng của hương gạo mới, cái vị ngòn ngọt càng nhai lâu càng thấm, cái màu vàng ươm âm ấm nóng cắn giòn rụm… nhớ đến phát thèm! Ngày nay, cơm cháy đã thành đặc sản! Vì trong lúc “nhà nhà cơm điện, người người cơm tiệm” như bây giờ thì lấy đâu ra cơm cháy. Các con tôi mỗi khi vào nhà hàng đều thích gọi món cơm cháy. Nhìn chúng, tôi càng chạnh lòng nhớ đến ngày xưa.

Ôi… Ngày xưa – nhà tôi – bà tôi – cơm cháy !

Gian bếp cũ

Tôi để gian bếp này nguội lạnh từ lâu, nhìn mớ củi ướt nằm chỏng chơ nơi chái bếp, mưa dột, đất ẩm khiến gian bếp mốc meo, ẩm ì mà thấy lòng mình tệ bạc...

Trở về.

Dọn dẹp chút bụi vương trên gian bếp. Lâu lắm rồi chẳng ai thèm ngó ngàng đến giàn củi khô phía trên cà ràng. Nơi mà ngày xưa tôi hay gom mớ củi vừa khô tới chất đầy trên đấy rồi tận dụng hơi nóng dưới bếp tỏa lên cho củi thật khô. Tôi rút nhúm lá dừa gập đôi, vò nát đằng đầu rồi nhét tờ lịch cũ vô quẹt diêm đốt. Lá dừa khô bắt lửa nhanh, khựi nhúm tro giữa ông táo cho thành lỗ trũng rồi chất củi vào nhóm lửa.

Tôi để gian bếp này nguội lạnh từ lâu, nhìn mớ củi ướt nằm chỏng chơ nơi chái bếp, mưa dột, đất ẩm khiến gian bếp mốc meo, ẩm ì mà thấy lòng mình tệ bạc. Hồi nhỏ, chính tay tôi đã biết cột từng nuột lạc vào lá chầm, lợp lên phần chái bếp này để mỗi bận giỗ chạp có một không gian dành cho các bà, các chị nấu nướng. Bếp lợp xong lập tức có ngay hai, ba cái cái cà ràng đặt vào ngay ngắn. Phía dưới lót ba miếng gạch Tàu để hơi ẩm không thấm lên ông táo. Rồi ra vườn mót miếng mo dừa trọng trọng (*) một chút vạt ngang làm cái xúc tro. Đặt bếp xong, tôi treo nồi niêu xoong chảo lên vách và bắt đầu nấu cơm. Khói chiều dễ làm người xa quê cay mắt, dễ khiến tâm hồn người nhớ quê hoang hoải.

Gian bếp này ấm lên không phải vì mình biết giữ lửa mà đầy ăm ắp tình yêu thương của nội, của ba chị em tôi thuở còn cái tuổi vô ăn vô lo. Cuộc sống êm đềm lặng lẽ trôi theo từng món ăn dân dã. Bồn bồn tươi nấu chua đến con ba khía tươi rang muối. Rồi tô bún mắm, bún riêu cua đồng...Tất thảy đều được bắt đầu từ đôi bàn tay của nội dành cho tôi. Có nhiều khi chỉ là nước mắm kho khô và nồi canh lèo tèo vài cọng cải đất. Thế mà chị em tôi cũng lớn lên, cũng trưởng thành hơn từ chính chái bếp quê nghèo.

Tôi bưng nồi cơm gá lên miệng cà ràng, bên dưới đặt một cái tô lớn để chắt nước. Gạt bớt lửa và chờ cơm lên hơi. Lâu lắm rồi không có cảm giác được bẻ một cục đường mía màu vàng đậm cho vào tô nước cơm, khuấy đều cho tan rồi xì xụp húp. Tô nước cơm đặc sệt cộng với vị ngọt của đường mía sao mà ngon đến lạ!

Hồi đó, nội đã tạo cho chúng tôi một thói quen, sau đó thói quen hình thành tính cách mỗi đứa rồi theo đó mà sống cho hợp với nếp nhà. Nội dạy khi dọn cơm phải xới bung nồi cơm lên. Cơm cháy thì bới vào chén mình ăn trước, để cơm nạc dành phần người lớn và trẻ em. Có lẽ từ đó mà tôi thích ăn cơm cháy đến vậy. Cơm cháy sau khi xới lên, rưới chút mỡ hành, xịt miếng nước tương rồi dùng tay bẻ một miếng giòn rụm, đưa vô miệng mới biết cảm giác ngon không thể tả. Hoặc giả như hôm nào có cá kho khô, quệt một miếng nước cá kho sền sệt lên miếng cơm cháy nhai cũng đã đời lắm!

Sống ở thành thị đã lâu, thi thoảng các món quê và lọn khói chiều trên mái lá vẫn đưa tôi về với nơi cũ. Nơi mà chái bếp vẹo xiêu vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức. Khi ấy, tôi luôn muốn được tự tay mình rút nhúm lá dừa khô, vò nát một đầu rồi nhóm lửa, ngọn lửa yêu thương của đứa con chưa bao giờ cảm thấy mình xa quê….

Thương nhớ Cơm niêu

 Tặng bạn - một người luôn thèm có bữa cơm gia đình

Thời công nghiệp, những bữa ăn trong gia đình dần thưa thót, nhiều khi vô cùng tạm bợ. Như em tôi, mỗi khi đi làm về, nó lấy một cái tô, bới cơm, gắp đầy nhóc đồ ăn, rồi vừa coi ti vi vừa xúc, nhiều khi thấy tội nghiệp quá chừng. Nhớ hoài cái cảnh ngày xưa, cả nhà xúm xít quanh mâm cơm, ríu ran cười nói, chị em tôi tất bật ra vô, lấy thếm đôi đũa, cái chén… Má tôi lúc nào cũng ngồi ở đầu nồi để bới cơm, tả xung hữu đột bằng đôi đũa cả. Ba tôi khề khà ly rượu nhỏ, trìu mến nhìn hai đứa em tôi giành nhau miếng cơm cháy. Thường thì má ghế cơm sao cho có cháy rám ở dưới đáy nồi, để vừa mở nồi ra, mùi cơm đã bay thơm đượm. Má chia cho mỗi người một miếng cháy nhỏ, ăn với cá cơm kho khô, hoặc cá lóc kho tộ, hoặc chỉ cần chấm với nước thịt kho tàu, miếng cháy hơi giòn, nước thịt cá beo béo, sánh như mật, nhai kỹ thì thấy bùi bùi, ngọt lừ đậm đà tan ra trong miệng, ăn hồi nhỏ mà tới giờ còn nhớ mãi…

Bây giờ thì đâu còn ai nấu cơm bằng nồi đất hay nồi gang, tới bữa cơm nhà nhà đều bưng lên một cái nồi cơm điện.

Thế là hết cái mùi cháy thơm phức trong bữa cơm, cũng không còn bóng dáng của cái nồi đen thui vì than, củi…

Người ta rảnh rang được một chút, đơn giản quá mà, nấu cơm bây giờ chỉ là đổ gạo và nước vào nồi, cắm điện rồi để đó, khi nào muốn ăn thì ăn. Đâu phải đảo cơm, mở vung, rút củi, ghế cơm, canh lửa?

Nhưng hình như vì vậy mà bữa cơm không còn không khí ấm áp như xưa. Mở nồi cơm, thấy vô vị, dù gạo bây giờ là thứ gạo nhập khẩu, đắt tiền, được cô bán gạo quảng cáo rùm beng là thơm điếc mũi. Và một miếng cơm, sao mà nhạt nhẽo, dù nồi niêu chén đũa đều sáng bóng, thấy những món ăn trên bàn cũng đìu hiu, cô quạnh, im ắng, buồn thiu…

Thế nên lâu lâu tôi lại kéo bạn bè đi tìm lại cảm giác xưa. Vào một nhà hàng để thấy vơi nỗi nhớ không khí gia đình. Thấy buồn, cái thời cơm điện ở nhà, còn cơm niêu phải ra hàng quán. Nhưng vẫn còn may, có rất nhiều nơi bán những món dân dã, quê kiểng như vậy ở Sài Gòn. Mà người chủ chắc cũng còn nặng nợ với ngày xưa, nên kiến trúc và phong cảnh cũng mang đậm hơi hướm của thời xưa cũ, bâng khuâng những bức tường gạch nâu non, lối đi u tịch, bàn ghế gỗ, cột gỗ và những đám dây leo buông hờ trong khung cảnh thoáng đãng uể oải của buổi trưa… Thấy thời gian như trôi tuột về quá khứ trong một chớp mắt. Chưa kịp mở mắt đã thấy mùi cơm cháy thơm lừng, tiếng lách cách của chén đũa được dọn lên, và âm thanh của tộ cá vừa nhấc khỏi bếp, vẫn còn sôi liu riu, hân hoan reo lên khe khẽ bài ca của tình mẫu tử…

Rồi màu sắc tinh khôi ùa đến, niêu cơm với những hạt cơm trong, mềm, thơm dẻo được xới lên bằng cây đũa cả tí hon; dĩa rau tập tàng dân dã vừa luộc còn lởn vởn khói, xanh ngăn ngắt nào bầu, mồng tơi, đậu bắp, rau lang, rau bí, đọt kèo nèo…; tộ cá bóng lên màu nâu vàng sanh sánh; lại còn tộ mắm kho quẹt sôi lăn tăn nâu đỏ, dậy mùi tiêu nồng nàn, mấy cái chén nhỏ đựng muối mè trắng, muối mè đen, mấy trái ớt hiểm bé bỏng, đỏ tươi nằm khép nép bên những lát chanh mọng nước… Tất cả đều thân thuộc và yêu dấu lạ lùng, cứ như một lát nữa đây ba tôi sẽ hối: “Ăn lẹ đi con, còn ngủ một giấc, chiều dậy học bài, sao có chén cơm mà mày ngồi nhơi cả buổi vậy?”, còn má tôi thì lo lắng: “Bữa nay cơm má nấu không ngon à, con?”, rồi chắc lưỡi nói với ba tôi: “Chắc ăn hoài mấy cái thứ này, tụi nó ngán rồi, mai ráng mua cho tụi nó ít thịt, ăn đổi món”.

Giờ thì má không còn, ba cũng khuất núi. Em tôi, đứa ở nước ngoài, đứa đầu tắt mặt tối buôn bán ngoài chợ, đứa vương trưởng ăn nên làm ra, chức này tước nọ, chúng cũng vô tình quên cái thời cơm niêu nước lọ ngày xưa, thảng hoặc tôi nhắc, thì chúng rầy: “ Chị Hai nói chuyện xa lơ xa lắc, ngày xưa có mấy món, ăn hoài, còn giờ, muốn ăn gì có đó, không sướng hơn sao?”

Chúng hẳn đã quên cái thời sum vầy đó.

Là vì với người Việt, đâu phải chỉ có món ăn là đã làm nên một bữa cơm? Một người bạn của tôi luôn nói: “Một bữa ăn ngon nghĩa là phải có món ăn ngon, chỗ ăn ngon và bạn ăn cũng ngon”. Nhưng như vậy có vẻ cầu toàn quá. Với tôi, ăn ngon là hồi còn nhỏ, sau khi đùa nghịch đến mệt đừ, bụng đói meo, tuyên bố xanh rờn với tụi bạn: “Thôi, chán rồi, không chơi nữa, tao về ăn cơm kẻo má tao kêu”, rồi ù té chạy về nhà, rửa tay chân quáng quàng rồi chạy xuống bếp, nơi má tôi đang lụi cụi nấu nướng, kêu đói rầm rĩ, rồi, với vẻ mặt trang nghiêm, đầy quan trọng, đôi môi mím chặt, rón rén bưng tô canh, dĩa rau, phụ má dọn cơm. Và cả nhà tụ tập, vừa ăn cơm vừa nói cười rôm rả, ba tôi gỡ xương cá cho lũ em, má tôi chan canh cho chúng, nhiều khi bữa cơm chẳng có gì, mà sao hương vị và cảm giác luôn đầy ăm ắp.

Thế nên, có những khi ngồi ăn ở một nhà hàng cơm niêu, thấy thân quen như ngồi ở nhà mình, vì những món quen gợi lại thời quá vãng, lại thấy vẫn trống trải, thiếu trước hụt sau, để mình luyến tiếc nhớ hoài quá khứ. Ở quán cơm niêu, người phục vụ cũng biết ý, họ cứ để mình ngồi nhẩn nha nhấm nháp từng hạt cơm mà không quanh quẩn quấy rầy, chừng như đoán những người thích tìm đến món này, là những người hoài niệm. Có lúc, bạn sẽ thấy mình ngồi thừ ra, nhớ quay quắt một ngày xa, thời cả nhà quây quần bên mâm cơm chiều bốc khói. Bạn sẽ đủng đỉnh lấy một mảng cháy nhỏ, gắp miếng rau xanh, chấm vô mắm kho quẹt đang kẹo dần lại, lắng nghe thanh âm giòn rụm vang lên, hay hít hà vì tô canh chua nhiều ớt, hoặc giản dị hơn, nắm một nắm cơm trong lòng bàn tay, chấm với chút muối mè, nhai chậm rãi, để cái vị bùi bùi đầm đậm tan trên đầu lưỡi, run rẩy lan vào cổ họng, nhẹ nhàng.

Ăn những món đồng quê đạm bạc này, bạn đừng uống rượu bia hay nước ngọt, những chất công nghiệp này sẽ ùa tới, đánh tan tác cái cảm giác quê nhà trong bạn, bạn sẽ thấy mình trơ khấc giữa cái không khí náo nhiệt của Sài – Gòn – nay, những tiếng động ồn ã sẽ bủa vây bạn và lôi bạn ra khỏi vùng ký ức, còn nữa, những thức uống hiện đại nhất quyết đối đầu với các món dân dã này, giống như một anh chàng trịch thượng, mặc bộ veston trắng, thắt cà-vạt trắng, mà đầu lại quấn khăn rằn. Bạn hãy kêu người ta cho bạn một ly trà xanh, hoặc một ly nước vối ủ gừng. Rồi cứ mặc kệ cuộc sống ngoài kia chạy vùn vụt, lao xao vội vã thế nào, bạn chỉ cần đung đưa chân, nhẩn nha từng món một, nhấm nháp từng món một, ăn thủng thẳng như chẳng có gì để vội, để cho hương vị nồng đượm này thấm đẫm vào từng tế bào, nguôi nỗi nhớ xưa xa…

Đôi khi tôi thấy, thực khách có người kêu thêm món đậu hũ chiên, dù nó cũng là món ăn giản dị thôi, nhưng vì tôi không thấy nó thuộc về thời thơ bé của mình, nên đôi khi thiên vị, cho rằng món đó không hợp với nồi cơm niêu chân chất. Với tôi, cơm nấu trong niêu đất dẻo thơm, chỉ hợp với mắm kho quẹt, với rau tập tàng, với cá kho, những món dân dã trong vườn, trong ao nhà, lúc nào cũng sẵn. Chẳng còn gì tuyệt vời hơn những hôm trời mưa ui ui, gió lạnh thông thống lùa về trên mái, thảy từng đám lá vàng xuống mảnh sân bé nhỏ, xao xác như tiếng chân mẹ đi chợ xa về, mở nồi cơm thơm bén cháy, tộ cá kho bốc khói thơm lừng, thấy những khó khăn trong cuộc sống bỗng lùi xa tít tắp, như mẹ cha còn đó, nguyên vẹn cả gia đình ngồi đây đó, quây quần quanh bữa cơm nghèo mà cười ấm áp cả một buổi chiều mưa

GỌC THỰC – KÝ ỨC MIỀN QUÊ

   Được xem những bài luận văn của các em học sinh tả cảnh thu hoạch mùa màng, thường chỉ thấy không khí vui tươi, lao động phấn khởi, rộn rã tiếng cười, ít khi đọc được vài dòng nhắc nhỡ đến nỗi vất vả của người làm ra hột lúa. Người nông dân trước đó phải dọn ruộng, đắp bờ, ủ gieo giống, dầm nước nhổ mạ cấy trồng. Rồi còn bao lo toan, trông trời trông nắng trông mưa, một nắng hai sương, thấp thỏm không yên giấc đêm mưa giông bảo táp cho tới ngày sân phơi đầy lúa óng vàng, quây bồ đón hạt ngọc của trời; thành quả từ những giọt mồ hôi đổ ra trong nắng cháy, những cơn mưa lạnh tím môi. Biết bao câu ca dao, tục ngữ ngàn xưa đã nói về sự làm việc cần mẫn của nghiệp nhà nông. Bởi vậy, có thể nói chắc một điều là người ở nông thôn từ trong máu thịt đã biết tiềm tàng, quí trọng, dè xẻn hột gạo hơn hẳn người sống nơi thành thị…

   Bà ngoại tôi cả đời sống ở quê, đạm bạc, hồn hậu, thương con thương cháu. Những lần nghỉ hè về chơi, anh em chúng tôi tha hồ leo trèo, tắm rạch, bày đủ thứ trò chơi dân dã. Vận động nhiều nên mau đói bụng, nhưng thuở đó dâu có nhiều quà bánh, hàng quán như bây giờ. Biết ý, bữa nào ngoại cũng nấu cơm vun nồi, ăn cơm chiều rồi mà cơm trong nồi vẫn còn. Khuya sớm, ngoại lụm cụm thức dậy nấu nồi cháo trắng bằng cơm nguội cho chúng tôi lót dạ với tép rang, khô mặn. Trời nóng nực, cơm hay bị “đổ mồ hôi” thì ngoại nấu nồi nước sôi cho cơm ấy vào chắt nước gút ráo. Một lần tôi chê cơm nhạt, lén bưng cả chén cơm trắng đổ mé hè nhà. Ngoại biết mà không rầy, nhưng lúc sau tôi thấy ngoại ngồi tẩn mẩn nhặt kỳ hết chén cơm tôi vừa đổ rồi trút vào mo cau cho vịt ăn. Chuyện đó làm tôi ân hận, tới giờ vẫn chưa quên. Cơm đáy nồi hơi già lửa, ngoại rưới nước bóp rời, rải ra nia phơi khô cất vào giỏ đệm treo cạnh giàn bếp để dành. Kể ra như vậy, tôi càng cảm nhận tính ngoại rất cần kiệm, không bao giờ lãng phí hột gạo cho dù lúa trong bồ đầy ắp. Những đêm thức khuya chờ các cậu đi soi cá, cắm câu về, ngoại xúc tô cơm khô rang với đường cho anh em chúng tôi ăn. Nhai thong thả để nghe được tiếng giòn cốm hòa cùng vị thơm ngọt cơm đường như tẩm mật. Giống tính ngoại, mẹ tôi cũng rất tằn tiện. Cơm nguội thì hấp lại hoặc chiên mỡ cho các con ăn sáng chắc bụng trước khi đến lớp. Qua nhiều năm sau này lớn khôn, kỷ niệm đó vẫn còn sống trọn vẹn trong ký ức, trong tâm hồn anh em chúng tôi. Hồi nhỏ, có lần được mẹ hứa dẫn đi Sài Gòn thăm ba, tôi rất mừng nên đêm đó cứ trằn trọc mãi. Mẹ dậy sớm chuẩn bị xong xuôi mới đánh thức tôi cùng ra bến xe, thời ấy có đâu chừng bốn, năm chiếc thôi. Bóng đèn vàng quạch trong xe soi những khuôn mặt lộ vẻ sốt ruột bởi chú lơ è ạch quay ma-ni-ven cả chục lần…hết cơm trong bụng, máy mới chịu nổ. Tôi thiu thiu ngủ cho tới Cần Giuộc thì tỉnh giấc và kêu đói bụng. Mẹ tôi mở giỏ xách lấy ra gói lá chuối bọc cơm nắm với ít tôm rang mặn. Ánh mắt mẹ trìu mến nhìn tôi, đứa con háu đói ăn ngon lành cùng hơi ấm nắm cơm còn đó, miếng lá chuối thì mềm tái đi như sự chịu đựng, đùm bọc không vơi của người mẹ. Điều ấp ủ từ gói cơm nắm ấy về sau tôi mới hiểu, mà chắc chắn cả đời vẫn không đền đáp được. Mẹ già đâu có sống đời với con !

   Lớn lên lập gia đình ở riêng, ký ức nếp sống ngày xa thỉnh thoảng lại quay về tâm tưởng. Những lúc bị cúp điện cả ngày, các con tôi hí hửng vì sẽ được ăn cơm nấu bằng… lửa củi. Chắc mẫm là ý chúng muốn dặn thêm “Ba nấu thay mẹ để tụi con có..cơm cháy ăn !”. Không ai nói ra, nhưng mấy đứa nhỏ thừa biết rằng tôi cũng có sở thích…giống hệt. Cơm nấu hơi khô một chút, để than đượm, chừng nghe mùi thơm bốc lên thì nhấc nồi xuống. Ăn lưng lững bụng, tôi dùng đũa bếp lấy gọn khoanh cơm cháy vàng thơm tròn như vầng trăng mười sáu, lật úp vào dĩa rồi rưới mỡ, tóp mỡ lên trên. Mấy cha con dùng tay bẻ từng miếng cơm cháy âm ấm rắc chút muối tiêu hoặc nước mắm ngon tùy khẩu vị, cùng nhai rau ráu tận hưởng niềm thú vị rất đổi bình dân thấm vào cả ngũ quan. Mẹ chúng đùa “Ăn cơm cháy thì khỏi… về Tàu !”. Thằng con út tay dính mỡ, miệng nhồm nhoàm trả lời “Cho con ăn hoài cũng được vì con là người Việt chính tông mà mẹ !”. Cả nhà cùng cười, vui biết mấy !.

   Trời lạnh mau xót ruột, nhất là vào đêm mưa. Những lúc như vậy, vợ tôi thử “đặt vấn đề” nấu nồi cháo trắng thì ai cũng hoan nghênh. Thức ăn kèm theo không kén: vài khứa cá lóc, cá ngừ hoặc chén tép rang sả bữa chiều còn lại. Cho tất cả vào ơ đất cùng nước mắm xâm xấp, tiêu bột…kho lửa riu riu tới khi quéo rặt, nổi muối lách tách thơm lừng, thêm muỗng tóp mỡ là xong…sản phẩm. Nhìn những người thân yêu trong gia đình quây quần bên nồi cháo nóng, ngoài trời thì mưa lâm râm, có lẽ ai cũng có cảm giác êm đềm, ấm cúng ngập lòng như tôi…

   Trong bữa cơm gia đình họp mặt đầy đủ, thể hiện rất rõ nếp nhà hòa thuận, chăm sóc lẫn nhau. Và từ lúa gạo, hạt ngọc-thực thấm đẫm tình đất, tình người, cội nguồn của tình yêu quê hương; mấy ai không khi chạnh lòng khi nhớ lại câu “Ai ơi bưng bát cơm đầy - Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” hoặc bâng khuâng với giọng ngâm nga “…Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà…” bên khu nhà trọ người-của-bốn-phương khi trời vừa nhạt nắng !

Những mảnh rời ký ức

Còn bây giờ xin kể tiếp về các biện pháp giải quyết nạn đói. Trong đó biện pháp chủ yếu là đi "cải thiện":

Hồi đó bọn tôi tổ chức ăn theo trung đội. Vì vậy, thường thì mỗi ngày mỗi trung đội cử 2 tên đi “cải thiện”. Do chiến tranh các liệt, các bản của bà con Pa Kô ở khu vực thung lũng A Sho- A Lưới đều chạy tít lên núi cao chót vót. Vì vây, chuyện đổi chác, xin xỏ rất khó thực hiện. Nói đến cải thiện ở 108 thì chỉ có luồn rừng mà thôi.

 Đến phiên đi cải thiện thì hai thằng hai cái bao tải, vai khoác khẩu AK, tay cầm con dao và cái xẻng con lầm lũi đi vào rừng. Thôi thì hầm bà lằng, cái gì ăn đwọc là vơ tất cho vào bị khuân về ;D.

 Dọc theo bờ suối thì chủ yếu là rau dớn và môn thục. Rau dớn thì nhất hạng rồi nhưng hơi hiếm. Đó là cái cọng còn non của lá cây dương xỉ. Lúc này nó chưa có lá, cả cái cọng trông múp míp như một cái đũa, phần đầu cong lại như một cái dấu hỏi. Loại này mà đem xào với thịt hộp thì ngon cực kỳ. Sau này, có lần đi công tác qua Đông Hà tôi cũng đã được nếm lại món này ở một nhà hàng đặc sản nhưng giá cũng đắt cực kỳ luôn.

 Còn môn thục thì khá nhiều. Cái thứ rau này thuộc họ khoai môn, khoai sọ gì đấy. Cây nó cũng giống cây khoai sọ nhưng nhỏ hơn. Vì vậy, cứ phải nấu thật kỹ mới ăn được, nếu không thì ngứa đến móc họng ra.

Đi ngược sâu vào trong nguồn suối thì có thể kiếm được hoa chuối rừng. Những cây chuối rừng chẳng có ai bẻ bi nên cái buồng nó cứ dài hàng mét. Cũng có khi gặp buồng chuối chín nhưng không ăn được vì toàn hột với hột mà thôi. Hoa chuối rừng cũng là một món đưọc bọn tôi ưa thích. Có thể chế biến thành nộm, muối chua hoặc đơn giản hơn là luộc để độn với cơm chống đói.

Một trong những món dễ kiếm hồi đó là rau tàu bay. Cái thứ rau có mùi hăng hắc nhưng ăn riết rồi đâm nghiền. Rau tàu bay có thể xào, nấu canh, luộc hay muối chua cũng được. Mà cũng lạ, loại rau này khá sẵn, cứ ra những khu vực đã bị máy bay đánh, nhiều hố bom, đất còn mới thì vô thiên lủng. Chả thế, mấy tên lính trẻ bọn tôi còn bảo nhau: “Chắc vì nó chỉ có ở chỗ máy bay đánh nên nó mới mang tên là rau tàu bay”.

May mắn cho tên nào vớ đưọc cái rẫy bỏ hoang (của dân hoặc của một đơn vị nào đó trước đây trồng) thì tha hồ mà vặt lá khoai lang, lá sắn và có khi còn đào đưọc ít củ sắn nữa. Những củ sắn đó thường rất to nhưng khá nhiều xơ, có khi đến hai ba lớp chứ không chỉ có xơ ở giữa lõi. Muốn ăn phải xả nhỏ ra lấy phần thịt củ mà thôi, và phải nấu kỹ vì sợ bị say. Ở các rẫy này có một món cũng hay kiếm được là ớt. Mà vùng này toàn ớt chỉ thiên thôi, khá là cay. Ớt về đem ngâm với nước muối và trở thành một món ăn chủ lực của lính vì nghe nói nó giúp chống được sốt rét. Còn một lẽ nữa là các thứ rau ăn mãi cũng nhạt miện, có tý cay cay này sẽ đậm đà hơn. Có lẽ vì vậy cho đến giờ tôi vẫn ăn khá là tốn ớt. May mà giá ớt vẫn còn rẻ ;D.

Trong các thứ thức ăn mà lính đi cải thiện mùa mưa quan tâm nhất đó là măng rừng. Món này xào cũng được, luộc cũng được và chống đói khá tốt. Mặc dù nghe nói ăn nhiều hại máu nhưng chẳng ai quan tâm. Mùa mưa, mămg lên nhiều nên khai thác cũng được nhiều. Ngoài ăn tươi chúng tôi còn tổ chức sấy khô để dùng dần. Như b tôi, ngay mùa mưa năm đầu tiên đã sấy đưọc 2 bao tải măng khô- toàn măng lưỡi lợn.

Tuy nhien, đi lấy măng là tôi sợ nhất. Chỗ có nhiều măng nhất ở khu vực này là chỗ ngã ba- nơi con suối của 108 đổ vào sông A Sáp. Muốn đến đó phải lúc lội, lúc bơi dọc theo con suối. Nước thì chảy băng băng mà tôi lại không biết bơi mới chết chứ. Thôi thì cứ bám lấy cái bao tải TQ làm phao và để cho thằng cùng đi nó kéo. Lúc về cũng vậy nhưng chật vật hơn nhiều vì có thêm bao tải măng và phải lội ngược dòng. Ấy thế rồi cũng quen tất.

Một nỗi sợ nữa khi đi cải thiện là vắt rừng. Vắt có hai loại: vắt xám và vắt xanh. Đi qua chỗ có nhiều vắt nhìn chúng ngóc đầu lên quơ vòi ngọ nguậy đánh hơi rồi cong mình chạy về phía chân mình mà phát ớn. Nhất là bọn vắt xanh, nhỏ như cái tăm mà chúng di chuyển khá nhanh, hình như nó tung mình lên nhảy được thì phải. Loại này mà cắn thì rất đau, vết cắn cứ thâm lại mãi sau mới hết. Tuy nhiên, nó đã cắn là biết ngay. Còn Vắt xám thì lại cắn rất êm, nếu nó bám được vào chỗ kín mà mình không biết thì nó hút cho đến căng mọng như con đỉa trâu rồi mới tự rời ra. Đã để nó cắn đến mức như thế thì vết cắn rất khó cầm máu, cứ thế ri rỉ chảy suốt, có dịt thuốc lào cũng không cầm được. Những trường hợp như vậy bọn tôi chỉ còn cách rắc bột thuốc tím vào mà thôi. Tuy nhiên, cầm được máu nhưng thuốc tím cũng làm vết thương sâu hoắm vào, trông khiếp lắmQuê lại làm tôi nhớ rừng rồi, dù vừa mới đi tháng trước.

Đúng là rau dớn là loại cao cấp thời đó và bây giờ kiếm nó không khó. Trong khu du lịch Suối thần ở Lạc Thủy người ta bán rẻ lắm, năm ngoái có 2000 đ /mớ. Nhưng về sào ăn cũng không thấy ngon như xưa, kể cả hồi sang Vân Nam đầu bếp TQ cũng không bằng ngày xưa. Hay là tại ngày xưa đói khát mà nhớ lâu, tôi nghĩ chưa chắc vì ngày ấy mình hay xào rau dớn với thịt hộp kho tàu của TQ loại hai lạng rưỡi hoặc nửa cân ấy, nó thơm khác lạ lắm. Tôi còn ấn tượng với thân chuối rừng, loại này thì chắc chắn là ngon hơn thân chuối nhà. Bọn tôi thái mỏng như ăn bún diêu chộn một ít ruốc B ( Loại ruốc mặn ) và mấy viên c ăn ngon không kém nôm bò khô bây giờ ;D

Vậy mới thấy, người ta nói món ngon nhớ lâu chưa chắc đúng, mà phải nói là đói hay nhớ lâu các bác nhể. Bây giờ biểu tự nhiên ăn lại những món cải thiện đó chắc ít ăn được  nữa. Nhưng thời em qua K thì không đến nỗi đói như ở quân trường, chỉ là thiếu rau, thiếu chất thôi. Các bác đi KCCM thì cực khổ trăm bề, so với các bác, cực khổ của lính 8x đoạn sau có đáng gì. Qua K tụi e hay nuôi chó để cải thiện vào mùa khô, vào cứ của đơn vị toàn chó không à, nhưng số chúng đoản thọ. Nên mỗi lần đi Choong Kal, thấy chùa là miệng cứ lẩm bẩm: Mô phật, phật xá tội. hihihi. Các bác sao tả oán toàn cảnh nghèo không vậy. Thỉnh thoảng cũng có thời gian sung túc chứ. Khi sung túc, đơn vị em chế tác ra món bầu 7 món, bắt chước thực đơn bò 7 món nổi tiếng của tiệm Ánh Hồng ở Sài Gòn. Anh em đặt tên là "bầu 7 món Núi Hồng". Năm ấy đơn vị trúng mùa bầu do em nghĩ ra cách trồng bầu bằng thụ phấn nhân tạo (sáng sớm ra lấy hoa đực mới nở úp vô hoa cái), năm đó may mắn không bị lụt làm chết mấy gốc bầu (bầu kỵ nước dữ lắm), nên dàn bầu của em nặng trĩu gần 5 chục trái. Món "bầu 7 món" thực ra chỉ được thực hiện theo công nghệ đại trà của lính như sau:

Gọt vỏ bầu xong, cắt đôi rồi quẳng hết bầu vô nồi luộc. Chừng nào thấy ruột bầu sắp chuyển từ màu trắng nỏn sang trong thì vớt một nửa ra.

1. Món thứ nhất - Bầu nhúng dấm: trong rừng làm gì có dấm, lấy lá bứa hay lá giang lá me rau sam giả ra nước, xong bỏ đường bột ngọt vô, bầu cắt nhỏ để chấm với nước dấm tự chế này.

2. Món thứ hai - Bầu tái chanh, chanh thực ra không có, thế bằng khế thái nhỏ trộn vô bầu, chế miếng nước chấm (thật ra nước chấm là  nước cơm cháy bỏ thêm tí muối)

3. Nấu thêm chút nữa, thấy ruột bầu trong lên thì vớt ra chén, ngắt lá lốt quấn quanh đem nướng than làm bầu nướng lá lốt. Không có lá lốt quấn rau muống cũng được.

4. Món thứ 4 - Bầu lúc lắc, miếng bầu cắt lớn khối vuông hình xúc sắc (xí ngầu), xong làm đường cháy hòa với nước chấm xào bầu cho tới khi săng lại

5. Món thứ 5 - Cháu bầu, nấu cháo lỏng , bầu xắt nhuyển bỏ vô cho ngọt nước, nấu lửa riu riu

6. Món thứ 6 - Bầu nướng vĩ: trong rừng làm gì có vỉ, bỏ đại bầu lên than nướng cho nó hơi khen khét, vớt ra chấm với nước chấm (nước cơm cháy bỏ thêm tí muối)

7. Món cuối: Bầu quanh lửa hồng: dọn bàn ăn và các món bầu ra bếp để vừa ăn bầu vừa canh lửa nấu cháo bầu.

Cái quan trọng nhất là về mặt tinh thần, khi ăn món nào thì phải kêu đúng tên món đó, bác nào tưởng tượng càng nhiều, ăn càng ngon miệnghì có đắng cay mới có ngọt bùi mà quê. Khổ trước sướng sau nó mới bền, mới đậm ;D

Cuộc sống ở hậu cứ cứ thế trôi đi một cách tẻ nhạt. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ là những công việc nhàm chán: sửa chữa, bảo dưỡng xe pháo, củng cố hầm hố, lán xe… và chủ yếu- cũng là nặng nhọc nhất là kiếm ăn. Tuy nhiên, thỉnh thoảng nó cũng sôi động lên một chút nhờ những hoạt động của đơn vị tổ chức- thường là vào các dịp ngày lễ như Quốc khánh 2.9, thành lập binh chủng 5.10 và thành lập quân đội 22.12. Ngoài chuyện thi văn nghệ, thi báo tường thì một trong những hoạt động hay được tổ chức hồi ấy ở hậu cứ 108   của chúng tôi là thi “cải thiện bữa ăn”. Nghĩa là, vẫn với những thứ hầm bà lằng kiếm đwọc ấy, được tăng cường thêm 01 hộp thịt 250g- ba bếp của b1, b2 và cbộ sẽ cùng nhau trổ tài để xem bếp nào chế biến ngon hơn, có những món ăn độc đáo hơn và đặc biệt là vẫn phải đủ định lượng. Hồi ấy, một số anh em cũng không khoái gì cái món này, thậm chí thằng cha Ngừng còn chửi đổng: “MK! Có độc 6 lạng gạo một ngày mà còn bày vẽ thi với chả thố”. Tuy nhiên, sau rồi thấy cũng hay. Ít nhiều nó làm cho cuộc sống của người lính đỡ phần tẻ nhạt. Ngoài ra cũng có những tác dụng rất thiết thực nên tất cả cũng bị cuốn vào cái guồng máy chung ấy một cách rất hào hứng.

Để chuẩn bị cho cuộc thi ngày thành lập BC 5.10 năm đó, anh Hòa bphó phụ trách hậu cần bàn: “Quanh đi quẩn lại cũng chỉ có rau dớn, hoa chuối, măng rừng… thì chẳng có gì mới. Hay ta làm bánh cuốn xem sao”. Bàn đi tính lại thì thấy cũng không khó lắm. Cối thì đã có mũ sắt, tháo cái vành lót ở trong ra là có một cái cối ngon lành. Chày thì có cái tống chốt đồng- đây là một thứ dụng cụ theo xe, nó làm bằng một cục sắt đường kính 3 cmm, dài chừng 20 cm, ở đầu có một cục đồng đỏ. Công dụng chính của nó là để gõ các chi tiết khi tháo lắp cho đỡ bị biến dạng. Cái này mà cầm giã bột thì cực kỳ đằm tay. Rây để rây bột cũng không khó lắm vì có thể tận dụng các lưới lọc dầu. Nồi xoong, muôi tráng v.v… thì không có gì khó khăn lắm. Gay go nhất là kỹ thuật tráng, chẳng tên nào có nghề. Anh Hòa quả quyết: “Tao đã xem người ta tráng rồi. Cứ làm đại đi, hỏng mẻ này ta làm mẻ khác”. Thế là quyết tâm làm.

Từ hôm ấy chúng tôi âm thầm chuẩn bị. Ngâm gạo thì đơn giản rồi. Lấy mộc nhĩ về làm nhân cũng không khó lắm. Đi sâu vào chân núi, nhất là ở một ngách suối vắng vẻ nào đó rất có thể gặp một gốc cây to bị chết từ lâu mà mộc nghĩ mọc kín, cái nào cái ấy to bằng bàn tay và dày múp míp. Có khi chỉ một gốc là đwọc nửa bao tải. Đem về rưả sạch, phơi khô và sấy trên bếp lửa được hàng cân. Hoa chuối, rau dớn, măng rừng cũng chú ý để giành lại chỗ ngon nhất cho ngày thi. Một mảnh vải phin lau súng (để bảo dưỡng súng, pháo, kính bọn tôi mang theo khá nhiều) được anh Hòa tỷ mẩn khâu và lồng vào một sợi dây thép thành cái khuôn tráng vừa với miệng xoong 20. Cái vung xoong thì gõ đập một lúc cho nó vồng lên và gia công thêm một cái quai để mở cho dễ. Một cái muôi (vá) chuyên dụng cũng được mấy tay thợ gò gia công xong. Bác Hòa thỉnh thoảng lại cầm muôi chao một vòng tròn để tập thao tác cho thật đều tay ; Rồi ngày thi cũng đến. Theo quy định thì trong ngày đó trừ những người phải gác, trực ban… còn lại đều tập trung cho việc bếp núc nên tất cả hối hả vào việc. Thằng thì thái hoa chuối để làm nộm. Thằng thì nhặt rau lang- mọi hôm thì cứ cả lá, hôm nay thì vặt lá riêng để nấu canh, còn cọng thì chần để chấm mắm tôm. Thằng thì rửa mộc nhĩ làm nhân bánh, sau khi rửa sạch nó đwọc thái nhỏ và xào qua với ¼ hộp thịt (cái hộp thịt be bé này mà được dùng vào nhiều chỗ lắm: đầu tiên là nướng cho nóng lên, hớt lấy ít váng ở trên để chốc nữa phết lên bánh cuốn, tiếp theo chia ra làm nhân bánh, nhân xào rau dớn, còn một ít nữa thì nghiền vụn ra cho vào hầm măng và làm nước chấm để cho nó “nổi màu”) ;D. Thằng thì ngâm măng để hầm. Rôm rả nhất là chỗ làm bánh cuốn. Hai bộ chày cối được huy động chí chát giã chừng 30 phút là xong bột. Sau khi rây qua hai lượt, bột tinh đwọc hòa thành thứ dung dịch sền sệt hơi loãng. Chậu bột và đĩa hai ngăn đựng nhân được đưa tới cạnh bếp. Ở đó anh Hòa đã sẵn sàng. Còn anh em cũng bỏ hết việc để tụ tập lại xem kết quả thế nào.

Đợi cho nồi nước sôi bốc hơi nghi ngút anh Hòa mở vung và múc một muôi bột chao một vòng. Vì đã luyện tập tay không nhiều nên tay bác ấy khá dẻo, chỉ sau một vòng  một lớp bột mỏng trắng đều đã đwọc rải gần kín mặt khuôn. Và giây phút hồi hộp nhất đã đến, ấy là khi bác ấy mở vung nồi ra. Hàng chục cặp mắt chăm chú nhìn vào. Trên khuôn vải, chiếc bánh đã đổi màu sang màu trắng đục, một vài chỗ đang phồng lên. Anh Hòa nhẹ nhàng luồn cái que mỏng vào và nhấc lên. Nhưng thật đáng tiếc, chiếc bánh không bong lên theo cái que mà cứ đứt vụn ra. Thế là lại chụm đầu vào nghiên cứu và đấu… khẩu xem nguyên nhân là gì. Cãi vã một hồi thì thống nhất: “chắc là do bột loãng quá”. Thế là một nắm bột khô nữa được bổ sung vào chậu bột. Tuy nhiên, đến chiếc bánh thứ hai thì nó lại lổn nhà, lổn nhổn và vẫn không bong ra được khỏi khuôn. Lại cãi nhau, cuối cùng kết luận: “Vừa rồi cho thêm nhiều bột quá mà hòa không kỹ”. Một ít nước được bổ sung vào, bột được đánh thật kỹ, thật đều. Lửa cũng điều chỉnh lại cho vừa vừa thôi. Và đến chiếc này thì thật tuyệt, chiếc bánh bong lên gần như nguyên vẹn, chỉ bị rách mất một góc nhỏ. Đặt bánh lên chiếc khay nhôm, anh Hòa rải vào đó một ít nhân rồi cuốn lại. Lại phết lên đó một tý mỡ thịt hộp và tuyên bố “Xong”. Thế là chiếc bánh cuốn đầu tiên- sản phẩm của b1 chúng tôi đã thành hình. Anh Hòa xắn ra thành từng mẩu nhỏ cho mỗi thằng thử một miếng. Phải công nhận là ngon thật. Có lẽ đó là miếng bánh cuốn ngon nhất đời mà tôi đã từng được ăn ;D.

Ngoài món bánh cuốn, hôm đó chúng tôi còn có thêm món nộm hoa chuối (cái bột lương khô sấy hôm trước giờ lại phát huy tác dụng), rau dớn xào, cọng rau lang luộc, măng củ hầm với… măng và canh lá rau lang nấu với mắm tôm. Xin nói thêm với quê PQ: cây chuối rừng thì cũng như cây chuối nhà: mọi thứ đều có thể xơi được: cây chuối thái ghém, củ chuối nấu với cái gì đó… Tuy nhiên, với cây chuối rừng thì thứ cao cấp nhất là hoa chuối. Nộm hoa chuối rừng ngon hơn hẳn các loại nộm hoa chuối nhà. Còn thân cây chuối chúng tôi ít khi ăn vì nó hơi nhạt nhẽo. Chắc vì ở đồng bằng, có cả riêu cua nên PQ mới thấy thứ này ngon. Đợt ấy b1 của tôi đạt giải Nhất. Sau vụ này, công nghệ giã bột làm bánh cuốn được chuyển giao cho toàn đại đội.  Đến đợt 22.12 bọn b2 nó còn làm bún nữa cơ. Tuy nhiên, không hiểu vì sao mà bún nó không dài sợi và cứ vón lại thành từng bó. Chắc là kỹ thuật làm bột chưa đúng : Đến đợt 22.12 bọn b2 nó còn làm bún nữa cơ. Tuy nhiên, không hiểu vì sao mà bún nó không dài sợi và cứ vón lại thành từng bó. Chắc là kỹ thuật làm bột chưa đúng Undecided.

Hồi đó bọn tôi cũng làm bún, bánh rán, bánh tẻ. Bánh tẻ bọn tôi phải nấu " tái" bột trước rồi mới gói lá rong, bánh rán cũng tương tự nhưng đặc hơn và nhân làm bằng lương khô. Riêng bún thì nhớ mang máng bột cũng phải chế lẫn với bột " tái" mới làm được. Khuôn bún bàng ruột tượng và nắp thịt hộp đục lỗ, nhồi bột vào vắt theo khuôn thả vào nồi nước đang sôi.

Còn chuối rừng thì mọi thứ đều ngon hơn chuối nhà trừ quả. Hôm rồi có đi Hòa Bình mang về một đoạn thân chuối, làm nồi bún diêu cả nhà khen tài đấyTuy nhiên, nếu nói là hội hè, “ăn ngập chân răng” thì chỉ những khi săn được thú. Các quê bảo, một đại đội xe tăng có độ hơn 30 người, cộng với cái dbộ lèo tèo 20 mống ở gần đó mà bắn được con nai cỡ 2 – 3 tạ thì có phải là ngập chân răng không? Chuyện săn bắn này tôi cũng đã kể lẻ tẻ ở một vài chỗ nhưng nay xin nhắc lại cho có hệ thống vì chủ yếu nó xảy ra khi bọn tôi ở hậu cứ 108 này.

Như đã nói, chỗ chúng tôi ở là gần sát chân dãy A Bia và cách xa đường tuyến đến 40 phút đi bộ- nghĩa là khoảng 3- 3,5 km. Vì vậy, thú rừng ở đây còn khá nhiều. Vào đến đây chừng nửa tháng gì đó, đang phiên gác thấy có tiếng hoẵng (mễn) tác rất gần. Nhưng trời tối quá, chẳng nhìn thấy gì nên anh Xuân (bi giừ là một cán bộ khá to ở BNV) tương ngay một loạt AK hú họa về phía tiếng kêu. Bắn xong rồi cũng chẳng để ý gì. Đến tận trưa hôm sau có mấy a/e đi qua mới phát hiện một con hoẵng nằm chết ở đấy. Thế là khiêng về làm thịt. Tuy nhiên, do dạ cỏ nó bị vỡ từ đêm, dịch tiêu hóa ngấm ra cả thịt nên ăn rất chán vì thịt tôàn mùi cỏ.

Lại một hôm, thằng Cam quản lý c lớ ngớ ra bờ suối, bất ngờ phát hiện có một con hoẵng cũng lớ ngớ ra bờ suối uống nước. Cậu chàng vì đi tay không nên chỉ biết hét lên. Con hoẵng sợ quá quay đầu chạy thì lại chạy vào cái hầm xe bỏ không cạnh đó. Đây là cái hầm đào ở chân đồi nên phía bên trong ta- luy rất cao và gần như dựng đứng nên con hoẵng cứ lao lên lại trượt xuống. Cam chạy vào theo vừa túm lấy đuôi và chân sau nó kéo xuống vừa la hét gọi anh em. Hai bên giằng có nhau một lát thì con hoẵng giãy ra được và chạy mất để lại chàng Cam lấm vê, lấm bết đứng tiếc ngẩn tiếc ngơ ;D.

Nói như vậy để các quê hình dung ra ở đó thú nhiều thế nào.

Khi phát hiện ra khu vực này có nhiều thú thì máu săn bắn nổi lên trong rất nhiều người, điển hình phải là trung đội trưởng trung đội 2 NV Phùng (người Nghệ An, hiện sống tại Phan Thiết). Bác này học LQ1 ra, luôn mồm khoe tao bắn vào loại nhất nhì của khóa học. Từ hôm anh Xuân bắn được con hoẵng bác ấy hăng hái lắm, gần như đêm nào cũng đội đèn đi. Mà lại có vẻ rất thần bí nữa cơ: đi là phải rất bí mật, gặp ai phải tránh, trường hợp không tránh được là quay về không đi nữa. Chả biết đó có phải là tín ngưỡng của thợ săn không nhưng bác ấy thực hiện rất nghiêm. Tuy nhiên, kết quả săn bắn của bác này thì không mê được. Suốt hàng tháng trời lặn lội bác ấy cấm bắn được con gì. Cuối cùng, bác ấy than thở: “chắc là do số tao không bắn được” và bỏ nghề luôn. Một số trường hợp khác cũng hăng hái lắm nhưng kết quả cũng không ra sao.

Tuy nhiên, có một người rất bình lặng, thản nhiên trước chuyện mọi người đi săn bắn- đó là chính trị viên phó Phạm Ngọc Chu (quê HNN, hiện ở Đà Nẵng). Thế mà đùng một cái, giữa một đêm khuya khoắt anh gọi mọi người dạy đi khiêng nai về. Tám chiến sĩ mang theo dây rợ, đòn khiêng đi theo anh và phải hai tiếng sau mới tha được con nai chừng 2 tạ về.

Kể cũng lạ, anh Chu là người miền biển, dáng dấp thanh tú, da thì trắng trẻo thư sinh trông chả có vẻ gì sát thủ cả mà tài thế. Thời gian chúng tôi ở 108 không dài- chỉ khoảng 6,7 tháng mà bác ấy bắn được 3 con nai to, còn lại chồn, hoẵng, tê tê … thì vô khối.

Tuy nhiên, do thiếu các loại gia vị nên thường thì cũng chỉ có 2 món là xào và luộc. Được cái là nhiều, cứ luộc hàng tảng thịt lên chấm với muối ớt, ăn cho sướng miệng thì thôi. Tôi nhớ lại hồi còn ở nhà thấy ông già hay để chân bò khô lại, thỉnh thoảng lóc da ra làm món “nham” nhắm rượu nên khi thấy a/e định vứt chân và đuôi đi tôi bèn giữ lại. Nhưng chắc là do chế biến không tốt, phần khác vì thời tiết mùa mưa quá ẩm nên ý định đó bị phá sản. Gác nó lên cạnh bếp được vài hôm thì thấy có mùi. Bỏ xuống xem thì thấy dòi bọ rơi ra rông rổng nên đành vứt đi.

Bắn đwọc thú, ngoài việc để đại đội dùng chúng tôi còn chia cho dbộ, cho một trạm giao liên ở gần đó và có một lần còn cho người gùi sang làm quà cho c4 đang ở bên đường 12 hẳn một đùi. Những ngày đó đúng là đời thật lên hươngCòn bây giờ xin kể tiếp chuyện đi lấy gạo ở hậu cứ 108:

Sau khi ổn định chỗ ở tại 108 chừng 2 tháng thì bọ tôi sử dụng hết sỗ gạo mang theo từ ngoài Bắc và phải tổ chức đi gùi gạo về ăn.

Thực ra, vụ đi gùi gạo đối với anh em bộ binh thì chắc là chuyện thường tình thôi nhưng đối với lính xe tăng thì là cả một vấn đề. Đa số anh em trong đơn vị tôi cũng mới nhập ngũ. Khi vào bộ đội chỉ được huấn luyện tân binh qua loa rồi đi học kíp xe. Vì vậy hầu như chưa có chú nào được rèn luyện cái khoản “hành quân mang vác nặng”. Vào trong này gặp các bác bộ binh- nhất là những anh em ở lực lượng vận tải cõng trên vai một bao gạo 50 kg hoặc hơn đi mỗi ngày vài chục km là cứ xanh lè hết cả mặt mũi ra. Riêng với tôi thì vụ này còn đáng sợ hơn vì ngay từ bé vai tôi đã là “vai thờ”- như lời mẹ tôi vẫn thường chì chiết. Từ nhà ra đến giếng Dinh có vài trăm mét nhưng hôm nào phải đi gánh nước tôi cũng mất hàng tiếng mới được một chuyến. Có hai thùng nước con con mà đạt đòn gánh lên vai là đau không chịu được, cứ đi vài bước lại nghỉ một lần. Không phải do tôi lười hay đưọc chiều chuộng gì đâu mà có lẽ do cấu tạo cái vai của tôi nó thế, còn nếu đặt một bao gạo lên vai tôi vẫn có thể vác được cơ mà. Thế nhưng không đi gùi gạo thì không có cái ăn và dẫu biết rất khó khăn vẫn phải đi gùi ;D

Chuyến đi lấy gạo đầu tiên của c tôi là vào tháng 10.1972. Để lấy được gạo về ăn chúng tôi phải ra tận kho K70- cách đơn vị khoảng 50 km. Đoàn đi lấy gạo gồm hơn chục người, do anh Quang b phó b2 chỉ huy. Vì đường xa nên phải “đâm độ”- nghĩa là chia ra hai chặng, thành lập một điểm dừng ở quãng 2/3 đoạn đường, sau khi gùi hết về đấy rồi mới chuyển tiếp về đơn vị.

Cho đến lúc này chúng tôi cũng đã có ít nhiều kinh nghiệm đi bộ mùa mưa rồi nên cả đoàn dưới chân là dép đúc TQ và tất. Lúc đầu trông cũng buồn cười nhưng phải công nhận đây là cách tốt nhất để hành quân bộ trong mùa mưa. Đi giày thì suốt ngày chân phải bó kín trong đó, nước lại đọng lại ở trong giày nên chỉ 1 ngày là chân bợt ra và không thể đi xa đwọc. Đi dép không thì rất trơn và nhiều khi dép tuột cả lên cổ chân. Đi chân không cũng bị trượt- nhất là khi leo dốc. Chỉ có dép với tất là tốt nhất, đặc biệt là loại tất dài của TQ, nó rất dày cặn, chắc chắn, nếu đi rừng buộc túm lấy ống quần thì còn chống được cả vắt. Ma sát giữa tất với đế dép đủ giữ cho mình khỏi trơn trượt. Còn quần áo cũng phải hết sức gọn nhẹ. Thường là quần cộc và áo lót, bên ngoài quàng tấm vải nhựa hoặc bao gạo TQ. Thậm chí các chú vận tải họ bảo nếu trời mưa thì “truổng cời” mà đi là tốt nhất bởi vì khi thấm nước vải thường bị cứng lại và cọ vào hai bên đùi non rất đau. Tuy nhiên, chúng tôi chưa dám dùng món võ này. Ngoài ra nên có một cây gậy và một cái túi ni- lon để đựng cơm nữa.

Không biết các anh em ở các chiến trường khác thế nào chứ ở Trị Thiên thì bộ đội thường không vắt cơm mà cứ để cơm nguội rồi cho vào túi ni- lon thôi, lúc nào ăn bỏ ra ăn, thậm chí vừa đi vừa ngửa cổ dốc vào miệng cũng được. Lý do, theo tôi chủ yếu vì số lượng cơm mỗi bữa đều quá ít. Nếu mà vắt chặt lại thì chỉ được một nắm chim chim bằng nắm tay là cùng nên không thể giải tỏa đưọc cơn đói. Xung quanh vụ này cũng có chuyện khá buồn cười. Chả là, hồi đó lính Trị Thiên khi bực mình vì chuyện gì đó thì thường không văng tục (thời ấy hình như đều thế, ít nói tiếng Đan Mạch lắm) mà chỉ phàn nàn một câu, không biết xuất xứ từ đâu ra là “C… ra rồi”. Đại loại như “Bỏ mẹ rùi”… Mà nó phổ biến lắm, gần như câu cửa miệng của lính. Thằng Thọ F xe tôi sau này hồi ấy vẫn còn ở cT3 là hay nói câu này nhất. Một hôm, Thọ F sau khi dồn cơm vào túi ni- lon thì bóp nhẹ cho nó xuống. Không may cái túi thủng một lỗ, cơm bị phòi ra. Quen miệng, hắn thốt lên: “C… ra rồi!”. Cả bọn tôi cười bò ra, nó vẫn chưa hiểu. Tôi phải bảo nó: “Đấy là cơm chứ có phải c… đâu”. Đến lượt nó cũng cười bò raChuyến đi gùi gạo đó cũng là một kỷ niệm sâu sắc đối với tôi.

Xuất phát từ sáng sớm, đoàn chúng tôi lầm lũi bám theo nhau thành một hàng dọc đi ngược theo con đường 14 ra phía bắc. Tốc độ HQ khá chậm vì đường hết sức lầy lội và có khá nhiều suối chảy ngang. Những con suối bình thường lội chỉ đến đầu gối nhưng bây giờ đều trở thành sông hết nên mỗi khi vượt qua đều phải mất nhiều thời gian vì còn phải hỗ trợ nhau. Mặc dù không biết bơi nhưng vì đa số các con suối này không rộng mấy, nước cũng chỉ đến ngang bụng trở xuống nên tôi vượt qua cũng không khó khăn lắm. Nhưng đến khi đứng trước con sông A- Sáp thì tôi mới thấy hoảng hồn: con sông rộng gần trăm mét, nước đục ngàu chảy băng băng như muốn cuốn trôi tất cả, thỉnh thoảng một cái cây còn nguyên cả gốc, cả cành lao từ thượng nguồn xuống ào ào… (Hình như năm kia con sông này đã được chặn để xây một nhà máy thủy điện). Đã biết tôi bơi kém nên anh Quang phân công thằng Ngừng và thằng Thành Ninh Giang- hai con cá kình của đại đội có nhiệm vụ kèm tôi. Thế là chúng cho tất cả ba- lô của 3 thằng vào một cái bao gạo TQ rồi buộc lại thành một cái phao to. Chúng dặn “Mày cứ bám chặt lấy cái phao này, còn thì mặc chúng tao”. Chẳng còn cách nào khác ngoài việc nghe theo lời chúng. Tôi nhắm mắt nhắm mũi ôm cái phao lò dò bước xuống sông. Thằng Ngừng bơi đằng trước, một tay túm lấy cái phao để kéo. Thằng Thành thì bơi phía sau, một tay đẩy phao đi. Sau một hồi vật lộn với sóng nước và bị trôi đến gần trăm mét cả ba chúng tôi cũng sang được bờ bên kia. Lên đến bờ rồi tôi vẫn chưa hết sợ, bụng bảo dạ: “Chuyến này về nhất định bắt chúng nó dạy bơi!”.

Đang là mùa mưa nên thằng OV10 không thấy xuất hiện. Chúng tôi cứ thế đi miết cho đến chiều tối thì anh Quang ra lệnh hạ trại. Ngoài mấy thằng chuẩn bị nấu cơm còn lại tất cả chặt cây làm một cái kho dã chiến. Làm kho xong thì cơm cũng chín, chén xong rồi cả bọn mới lo chỗ ngủ.

Sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm và đi tiếp cho đến trưa thì đến kho. Nhìn cánh lính xe tăng đóng mỗi thằng 1 ba lô gạo mấy anh nhà kho cứ cười lăn lóc: “Gùi thế này thì có đủ gạo ăn đường không?”. Họ chỉ ra con dốc cạnh kho, chúng tôi nhìn theo thì thấy có mấy bác đang cõng hai bao gạo trên lưng bước từng bước chắc nịch trên con dốc gần như dựng đứng mà lè lưỡi. Trong khi đó một ba lô chỉ được 25 kg mà mình phải lót tay vào vai mới cõng nổi ;D.

Chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như khi trở về gần đến điểm tạm trú thì tôi thấy có cảm giác hơi nóng rát ở giữa lưng. Mặc kệ nó, tôi cứ gò lưng bước theo anh em. Tuy nhiên, càng đi thì lưng càng ngày càng rát, thậm chí như phải bỏng. Tôi hạ ba lô xuống vạch áo lên bảo thằng Phan xem hộ, nó rú lên: “Lưng mày bị phòng lên bằng bàn tay kìa”. Tôi quờ tay ra sau lưng- đúng là có một bọng nước đã hình thành ngay giữa xương sống. Không thể đeo ba- lô được nữa, tôi đành đặt nó lên vai và bước đi. Vì phải vác như vậy nên tôi đi chậm hơn mọi người nhiều, mãi sẩm tối mới về đến trạm

Kho quẹt tuổi thơ

Có thể vì mình đã lớn lên từ những giọt mồ hôi của ba, từ những bữa cơm cháy, kho quẹt, cho nên cuộc sống sau này có đủ đầy mình vẫn thấy thèm, thấy nhớ cái chảo nhôm méo được chế nước mắm kho cạn rồi múc một tô cơm trắng, ngồi bệt xuống ngạch cửa và... quẹt.

Hồi nhỏ, nhà nghèo quá đỗi. Mỗi ngày ba phải còng lưng trên chiếc xích lô làm thân gà trống nuôi đàn con năm đứa. Gia đình vào thời điểm ấy rất chi là hoàn cảnh mình không tiện kể. Chỉ nhớ mỗi cái chảo nhôm nhỏ móp méo được ba chế vô miếng nước mắm, một ít đường và bột ngọt rồi kho cạn lại làm món mặn ăn với cơm.

Năm chị em chúng tôi mỗi đứa một tô cơm trắng, năm cái muỗng quẹt lấy quẹt để. Món nước mắm kho khô kẹo kẹo mới ngon làm sao. Vừa ăn vừa hít hà, có đứa buông tô cơm, lấy tay quẹt mồ hôi hột ngang trán, có đứa kéo áo lau mũi... Đó là món ăn đơn giản và ngon lành nhất đối với gia đình chúng tôi khi bé.

Kho nước mắm với chút đường, chút bột ngọt, chút tiêu xay và vài miếng tép mỡ là đã ngon đáo để. Hồi đó dùng bếp củi nên sau khi nấu cơm chín, ba tận dụng chút than còn sót lại để bắc chảo nước mắm lên kho. Chỉ cần cầm chén chạy ra quán tạp hóa đầu ngõ mua một chén nước mắm đầy, vừa bưng về vừa chấm ngón tay vào nếm thử. Vị mằn mặn của muối và mùi nước mắm không được thơm như các loại nước mắm bây giờ.

Bắc chảo lên bếp than, ba tôi đổ nửa chén nước mắm vào, cho ít đường, ít bột ngọt, ít tiêu… Hôm nào mỡ nước gần hết, ba tôi nghiêng lọ vét vài miếng tép mỡ vàng rộm cho vô chảo kho quẹt. Lửa than vừa tàn lụi cũng là lúc chảo kho quẹt sánh lại, chung quanh rìa chảo lớp nước mắm bốc hơi bám vào đặc cứng, ở giữa chảo nước mắm sủi bọt tạo thành những ván rỗ tròn. Mùi nước mắm kho bay khắp gian bếp nhỏ. Ở đó, trên bộ vạt tre ọp ẹp được đặt cạnh bếp, năm chị em chúng tôi mỗi đứa tay bưng một tô cơm trắng, tay kia cầm một chiếc muỗng và…chờ.

Vào những ngày mưa dầm, mưa lê thê. Một bữa cơm trắng, cá kho đối với ba là cả vấn đề nan giải vì năm đứa con nheo nhóc ở tuổi ăn tuổi học. Mẹ tôi đi biệt không về nữa. Ba đợi chờ mòn mỏi rồi cũng thôi. Hôm nào gặp mối lớn thì trưa ba về sớm, bên hông xe treo tòn teng con cá hồng biển còn duy nhất phần đầu và bộ xương. Đó là món ăn sang trọng nhất chúng tôi có được.

Cá hồng biển nấu canh ngót, nồi canh “giàu có” mênh mông như đại dương. Ba vừa quệt mồ hôi trán vừa cười: “Ba tập cho mấy đứa biết thế nào là canh đại dương, hồi đó đi bộ đội bên Campuchia ba ăn canh đại dương còn mênh mông hơn như vậy”. Rồi chao trắng dầm ớt cay, rồi trứng vịt muối luộc, trứng chiên mặn, có hôm chỉ là chén muối sả được đâm chung với ớt, vắt miếng chanh cho chua chua rồi trộn đều, món này ăn cũng bắt cơm lắm…Những bữa cơm tuềnh toàng ngày bé đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi đến tận bây giờ. Và nhờ thế, “kho tàng” về các món ăn dân giã đã luôn đầy ăm ắp trong tâm hồn người làm bếp như tôi.

Bây giờ kho quẹt "lên sàn" rồi. Vào nhà hàng, quán ăn gọi một dĩa cơm cháy và kho quẹt coi như là mình sành ăn, biết chọn món "đặc sản" đặc sệt chất quê. Kho quẹt bây giờ được kho bằng thịt ba chỉ cắt nhỏ và tôm khô, rưới miếng mỡ nước, rắc chút tiêu sọ được đập dập và một tép tỏi nguyên, vài trái ớt hiểm, vài cọng rau răm. Gọi kèm theo kho quẹt một dĩa rau củ luộc gồm có bầu, bí, khổ qua, củ cải, củ su hào, rau lang, rau muống luộc chín. Cứ hăm hở quẹt vào cái tộ sứ được tráng men kỹ lưỡng mà chạnh lòng nhớ ngày xưa bưng chén ra tiệm mua vài trăm đồng nước mắm….

Có thể vì mình đã lớn lên từ những giọt mồ hôi của ba, lớn lên từ những bữa cơm cháy, kho quẹt mà dư vị của nó đã ăn sâu vào huyết quản, cho nên cuộc sống sau này có đủ đầy mình vẫn thấy thèm, thấy nhớ cái chảo nhôm móp méo, sứt quai được chế nước mắm kho cạn rồi múc một tô cơm trắng, ngồi bệt xuống ngạch cửa và...quẹt.

Trung thu trăng sáng

Hầu như suốt tuổi thơ, mình chỉ biết tết trung thu mà không mấy khi được hưởng hương vị ngọt ngào của nó. Cũng dễ hiểu, bởi mình ở nông thôn, nhà nghèo, bố mẹ làm ruộng, thời thơ ấu lại trúng vào đận nghèo đói, chiến tranh, miếng cơm độn khoai chả đủ, nói gì đến bánh trung thu.

Trong ký ức lưu đến giờ, mình vẫn coi trung thu là tết đón trăng của trẻ con. Ngày ấy chỉ tụi trẻ mới khao khát chờ đón rằm tháng tám, chứ người lớn mải lo làm ăn cày cấy, hơi đâu mà thu với chả đông. Với người lớn, đến rằm, dù tháng tám hay tháng mấy đi nữa, thì cúng rằm, vậy thôi. Chỉ có khác là rằm tháng giêng, tháng bảy và tháng tám mâm cúng nhỉnh nhao hơn một chút, và tháng tám cúng tối là chính. Vẫn xôi chè làm đầu, thắp nén hương lên bàn thờ ông bà, khấn chung cả trời đất tổ tiên phù hộ. Ấy là chuyện của người nhớn.

Bánh trung thu, như đã nói, mình trải bao mùa trăng tháng tám nhưng có biết hình dạng nó thế nào. Mãi sau, đến hơn 10 tuổi, khi nhà mình đã vào hợp tác, tối rằm tháng tám năm xa xôi năm nảo năm nào, mình mới được cùng bọn trẻ con, có cả cô Ngọt em mình nữa, vào sân nhà ông Thám đội trưởng sản xuất lĩnh bánh trung thu. Đó là cái bánh nướng, nhân gồm thịt, bột, mứt bí, lạp xường… hình tròn hoặc vuông, nướng ngả màu vàng xém, to cỡ lòng bàn tay. Nhà mình được 4 chiếc, hai bánh nướng, hai bánh dẻo, chỉ cho bọn thiếu nhi thôi, còn anh Uy chị Khoắn lớn rồi, thanh niên rồi không có suất. Hương vị của chiếc bánh trung thu ấy cứ theo mình mãi, cũng chả phải vì nó ngon mà vì lần đầu tiên mình được biết thế nào là bánh trung thu.

Trung thu nông thôn phụ thuộc vào trăng. Tháng tám miền Bắc trời hay mưa. Rằm năm nào trăng sáng thì vui, còn tổ chức trống ếch rước đèn chỗ này chỗ khác. Gặp phải rằm mưa hoặc trời nhiều mây, trung thu buồn thiu buồn thỉu. Nông thôn nửa đầu nhưng năm 60 trở về trước chưa có điện, nên trăng là niềm vui con trẻ. Mà hầu như cũng chỉ kéo nhau tập trung ở sân kho hợp tác chứ chả mấy khi rước đèn đi nhong nhong đường này ngõ nọ như bây giờ.

Đèn trung thu tự làm lấy là chính. Tre pheo sẵn, nhưng giấy bóng kính đỏ hồng xanh vàng phải lên phố huyện mua, mà hiếm lắm, có năm nhặt nhạnh mãi chả được bao nhiêu. Đứa nào khéo tay thì làm đèn kéo quân, đèn lồng, còn loại vụng về như mình chỉ ra được hình ngôi sao 5 cánh hoặc con cá là đã ghê gớm lắm. Kiếm dây thép cuộn thành lò xo gắn vào giữa để nhét ngọn nến. Nhưng có thứ nến khác không phải bằng sáp ong mà rất tuyệt vời, bằng nhân hạt bòng hạt bưởi. Ngay từ tháng 7 ta, nếu ăn bòng bưởi là phải giữ lại hạt, bóc vỏ ra, xỏ vào que tre thật thẳng, xếp khít nhau, đem phơi nắng thật khô. Đêm rằm, lôi những ngọn đuốc ngọn đèn nhỏ xíu xinh xinh bằng hạt bưởi ra đốt thật thú vị. Hạt khô nhưng có tinh dầu, cháy đượm, sáng, nổ lách tách, tỏa mùi thơm dễ chịu, và đặc biệt ra gió chẳng mấy khi tắt.

Mình lớn lên, học hành rồi xa quê, trung thu chỉ còn là hình ảnh nhạt nhòa giữa cuộc mưu sinh đầy vất vả. Mà lớn rồi, quan tâm làm gì. Sau lúc lập gia đình, có con mới lại nghĩ đến trung thu. Tụi trẻ ở thành phố có dạo chỉ quan tâm đến bánh, vì chúng thèm, nhưng khi no đủ rồi chỉ thích đi chơi. Mà cũng chả rước đèn đuốc gì, toàn kéo nhau đàn đúm xem kịch xem phim, hết suất thì về. Trung thu thành phố dường như thiếu hẳn thứ quan trọng nhất: ông trăng. Trăng thành phố chịu lép dưới ánh điện nên vô vị lắm. Cứ mờ mờ nhàn nhạt, dường có dường không. Và buồn làm sao ấy.

Hồi rằm tháng tám năm ngoái, mình hứng chí về quê Hải Phòng đón tết trung thu với mẹ già, các em các cháu. Đầu hai thứ tóc, tuổi vượt ngưỡng tri thiên mệnh, ngồi bên cạnh mẹ đã 94, khung cảnh đầm ấm, chợt bồi hồi như ngày xửa ngày xưa.

Còn 5 đêm nữa là trung thu.

Mẹ

Trêndời này, ai đang còn mẹ thì đừng bao giờ làm cho mẹ buồn .Thế mà sáng nay nó lại làm mẹ nó phải khóc.Nó bỏ học đi chơi,thầy giáo phải gọi điện xuống nhà,tìm được nó về,bà không mắng như mọi khi,bà chỉ thở dài và nói : -Con đã phụ lòng con chuột rồi đấy con có biết không?

Nói xong hai mắt mẹ nó ứ đầy nước.Mặt nó bỗng sững sờ,bao ký ức trong đầu nó bỗng hiện lại như một thước phim,rõ ràng ,đầy đủ ,không xót môt chút nào.

Cách đây 16 năm ,ngày đó nó còn nhỏ( mới được 2 tuổi) kinh tế gia đình nào cung khó khăn,nhà nó cũng vậy.Cả nhà 6 miệng ăn phụ thuộc cả vào đồng lương công nhân mỏ đá của bố mẹ nó .Với số tiền luơng ít ỏi đó thì lo đủ cơm ăn cho cả nhà là may lắm rồi,Thế nhưng nó không như con nhà người ta ,cơm mà không có thức ăn là nó không ăn được (cái thân hình ốm nhom của nó tưởng chưng chỉ cần gió thổi cũng đổ),thế là mẹ nó lại phải dành dụm đồng lương ít ỏi đó để mua thịt cho nó ăn cơm.Mỗi lần bà chỉ mua hai ba lạng thịt nạc sau đó rang khô cất đi mỗi bữa mang cho nó một miếng.Mỗi bữa ăn bà thường nói dối nó rằng:

-Cu nhắm mắt lại để mẹ đi xin con chuột miếng thịt cho cu ăn cơm nha!

Thế là nó lại ngoan ngoãn nhắm mắt lại và đợi.Và khi mở mắt ra thấy miếng thịt trong bát nó lại cười toe toét khoe với hai anh rằng:

-Hai anh ơi con chuột hôm nay lại cho em thịt để ăn với cơm này

Hai anh nó cười vui vẻ nói:

-Ừ anh biết rồi,con chột nó thấy cu nhà mình bé mà lại ngoan nên nó đem thịt cho cu ăn cơm,để cu chóng nhớn đấy,thôi ăn đi em!

Nó" vâng ạ" rõ to ,bố lấy cái cằm đầy râu cứng cọ cọ vào má nó(rất nhột và hơi rát), cả nhà phá lên cười ,bữa cơm vui vẻ trôi qua.

Đã có lần nó thủ thỉ hỏi mẹ nó rằng :

-Mẹ ơi ,sao con chuột nó không đem cho nhà mình mỗi người một miếng thịt hả mẹ?

Mẹ nó im lặng ,mặt bà thoáng buồn,bà nói với nó rằng:

-Con à,con chuột nó cũng nghèo lắm chứ! Nhưng nó thấy Cu của mẹ nhỏ mà ngoan nên mới đem thịt cho Cu ăn cơm đấy,thôi Cu ở nh Cách đây 16 năm ,ngày đó nó còn nhỏ( mới được 2 tuổi) kinh tế gia đình nào cung khó khăn,nhà nó cũng vậy.Cả nhà 6 miệng ăn phụ thuộc cả vào đồng lương công nhân mỏ đá của bố mẹ nó .Với số tiền luơng ít ỏi đó thì lo đủ cơm ăn cho cả nhà là may lắm rồi,Thế nhưng nó không như con nhà người ta ,cơm mà không có thức ăn là nó không ăn được (cái thân hình ốm nhom của nó tưởng chưng chỉ cần gió thổi cũng đổ),thế là mẹ nó lại phải dành dụm đồng lương ít ỏi đó để mua thịt cho nó ăn cơm.Mỗi lần bà chỉ mua hai ba lạng thịt nạc sau đó rang khô cất đi mỗi bữa mang cho nó một miếng.Mỗi bữa ăn bà thường nói dối nó rằng:

-Cu nhắm mắt lại để mẹ đi xin con chuột miếng thịt cho cu ăn cơm nha!

Thế là nó lại ngoan ngoãn nhắm mắt lại và đợi.Và khi mở mắt ra thấy miếng thịt trong bát nó lại cười toe toét khoe với hai anh rằng:

-Hai anh ơi con chuột hôm nay lại cho em thịt để ăn với cơm này

Hai anh nó cười vui vẻ nói:

-Ừ anh biết rồi,con chột nó thấy cu nhà mình bé mà lại ngoan nên nó đem thịt cho cu ăn cơm,để cu chóng nhớn đấy,thôi ăn đi em!

Nó" vâng ạ" rõ to ,bố lấy cái cằm đầy râu cứng cọ cọ vào má nó(rất nhột và hơi rát), cả nhà phá lên cười ,bữa cơm vui vẻ trôi qua.

Đã có lần nó thủ thỉ hỏi mẹ nó rằng :

-Mẹ ơi ,sao con chuột nó không đem cho nhà mình mỗi người một miếng thịt hả mẹ?

Mẹ nó im lặng ,mặt bà thoáng buồn,bà nói vớià chơi ngoan đẻ mẹ đi làm rồi tối con chuột nó lại đem thịt cho cu ăn cơm nhge không.

Nó lại vâng ạ rõ to

***

Mấy năm sau kinh té nhà nó khấm khá hơn nhờ buôn bán vật liệu xây dựng,và thói biếng ăn của nó cũng không còn,con chuột và những miếng thịt chũng dần phai nhạt trong đầu nó .

Chẳng biết có khải nhờ những miếng thịt của con chuột ngày xưa hay không mà nó,từ một thăng bé ốm tong ốm teo nay đã trở thành môt chàng trai khá là cao lớn( cao 1m75 nặng 68 kí) và cũng ngoan cho đến bây giờ.Quả thật nó đã phụ lòng con chuột,nó có lớn nhưng không có ngoan,nó đã làm buồn lòng con chuột.Mắt nó chợt cay xè,mẹ nó hay con chuột,con chuột hay mẹ nó.Con chuột không có thật nhưng mà tình yêu của mẹ dành cho nó là có thật,mãi theo bên cạnh nó,mãi mãi...!

***

Mẹ ơi con biết con đã sai sai thật sự rồi,con đã đánh mất bản thân mình,con đã không là con ,đã không còn là thằng Cu bé bỏng của mẹ ngày xưa nữa.Con không dám xin mẹ tha thứ vì con biết mẹ chỉ thục sự tha thứ cho con khi con cố gắng phấn đấu và vươn lên.Con sẽ cố gắng mẹ ạ.Con yêu mẹ nhiều ,nhiều lắm mẹ ơi!

***

HCM 3/8/2008

Mẹ ơi con đõ đại học rồi ,ở trong này con nhớ mẹ nhiều lắm vậy là con đã xa mẹ được hơn một tháng rồi.Con nhớ bữa cơm mẹ nấu nhớ món canh cua của mẹ,nhớ cá kho gừng,không biết mẹ có khỏe không, con vẫn thường xuyên nói chuyện đien thoại với mẹ ,nhưng mẹ ơi con không dám nói trực tiếp với mẹ rằng : Mẹ ơi con yêu mẹ,con yêu mẹ nhiều,nhiều lắm! Chúc mẹ mạnh khỏe!

Tóp mỡ là một món ăn để lại nhiều kỷ niệm. Đứa trẻ con thời bao cấp trong giấc mơ có cả những miếng tóp mỡ trắng ngà như khối bạch ngọc, đựng trong âu sành, lôi cuốn, thèm thuồng bên chiếc chảo sôi tí tách. Tóp mỡ vừa rán xong, ăn giòn tan mà ngầy ngậy, được mẹ để dành trong chiếc lọ thủy tinh, lần hồi đem ra xào nấu. Chiếc lọ ấy cứ vơi dần mỗi khi một đứa trẻ ăn vụng mở chạn.

Tôi nhớ hồi còn học đại học, thấy trên vách hàng cơm bình dân nào cũng có một túi nilon lớn đựng tóp mỡ khét lẹt, dùng để chưng với cà chua, nấu canh dưa như là một thứ xa xỉ.

Về chợ quê, có nơi tóp mỡ ê hề, khét lẹt, được trưng ra trên cái sàng đầy bụi, bám toàn muối hạt trắng xóa, bữa cơm của người nông dân có cả món ấy, mặn chát, nhưng cũng ăn dè được vài bữa.

Lâu rồi không được ăn tóp mỡ thấy thèm thèm, nhớ ngày nào mẹ đi chợ về, trong làn có miếng thịt mỡ trắng phau, lát nữa sẽ biến thành những miếng tóp mỡ nóng hổi, dính ít thịt cháy thơm thơm. Thế đấy, lúc ngồi đầy bàn cao lương mỹ vị, chỉ ước trở về tuổi thơ, ăn những thứ mà giờ ở chốn thị thành chỉ còn là dĩ vãng.

Đi ăn chay, có lần bắt gặp một miếng, rất giống tóp mỡ, cũng dai dai, ngầy ngậy, hỏi ra mới biết đó là tóp mỡ chay, làm bằng cùi bưởi rất khéo. Cùi bưởi hăng hăng đắng đắng, phải ngâm nhiều lần, biến thành ra một thứ gần như mỡ phần, các sư thầy mỗi lần nấu canh, xào rau, cho vào, rất béo và bùi lúc ngấm gia vị.

Tóp mỡ, đó là tuổi ấu thơ, là ký ức thời bao cấp, là niềm vui bỏ lọ, là sự thèm thuồng tiếc nuối. Và giờ đây, tóp mỡ chay, sự tài hoa, kết tinh trong tình yêu chay tịnh. Giờ thì người ta chuyển sang ăn dầu, ăn dầu là văn minh, là sành điệu. Các bà nội trợ phân định đẳng cấp bằng cách hỏi nhau về dầu. Nhà nào ăn dầu xịn là nhà ấy tất phải giàu có.

Chỉ vài chục năm trước đây thôi người ta ăn mỡ, tất nhiên ở quê bây giờ vẫn có nhà ăn mỡ, đây là nói ở nơi đô hội phố phường. Một bà dạng háng ra ở giữa Hàng Ngang, Hàng Đào nấu gì cũng dùng dầu, sẵn sàng nhổ nước bọt khinh bỉ những người mà giờ vẫn còn đề cập đến mỡ. Người nông dân đi qua cổng làng, trong gánh gồng từ chợ có khi có miếng mỡ, về rán đút vào cái thẩu đất xó bếp, lúc ăn mới cẩn trọng xúc một thìa cho vào chiếc chảo không bao giờ rửa, đen ngòm, chỉ cần đặt lên lửa là đã thấy bóng nhoáng. Chả biết là ăn cái gì mới là quý tộc, cũng không quan tâm đến ăn dầu hay ăn mỡ thì nhân cách còn người ta thăng tiến ra sao, nhưng rõ ràng có những món ăn những kẻ khôn mồm cứ khăng khăng là phải dùng mỡ.

Thế kỷ 21 rồi, cũng không thấy ai sang vay gạo, mắm, mỡ nữa, thì mình lại muốn đi vay vào quá khứ một chút dư thừa, cái di sản trong xó bếp, chẳng hạn một cái hũ gốm Luy Lâu đáng giá hàng ngàn đô đựng mỡ chẳng hạn.

Còn người ăn chay thì lại khác mình nhiều lắm, không dấy lên trong quá khứ, chẳng tưởng về tương lai, cứ hằng thường trong hiện tại, nên chuyện dầu mỡ đối với sư thầy dành cho các bà vãi lo toan, đến nỗi mà chai dầu nành kia có cạn mấy hôm rồi cũng chẳng bấn loạn gì.

Bởi nhà chùa trước kia cũng chả dùng dầu, thảng hoặc có món xào thì đều dùng nước cơm cả. Rau muống sau mưa, non nõn, nhặt, rửa sạch, chần qua cho mềm, bắc chảo lên, rồi khi đến khi đủ độ nóng mới rưới nước cơm vào, đảo đều cho ngấm gia vị, ăn cũng chẳng khác xào với mỡ là mấy.

Thế mới biết đằng sau bậc tam quan nâu sồng, cũng nhiều chuyện mà người phàm tục thấy lạ. Nói về món hủ tiếu nam vang và Cambodia, quan vạn lý làm uyennd72 nhớ về một chuyện cũng "dở khóc dở cười" trên bước đường rong ruổi của mình.

Năm 2003, uyennd72 đi công tác Campuchia cùng tư lệnh quân khu 9 bằng xe quân sự, theo cửa khẩu Dinh Bà, Tân Hồng, Đồng Tháp.

Tới thủ đô, Phía nước bạn rất hiếu khách, đải ê hề thức ăn, nhưng nhìn khắp một lượt trên dưới 15 món toàn nấu bằng thịt bò.

Nhưng trong những các món "sơn hào hải vị" đó có 1 tô to tướng đựng một dung dịch gì đó sền sệt màu đen nâu, mùi hăng kinh khủng (mùi mắm tôm còn dể chịu hơn), đó là "mắm bò hóc".

Cả đoàn chỉ có 2 nữ là uyennd72 & chị Thùy Mai (nhưng cả 2 đều kén ăn) nên lại được "chiếu cố" hết mình. Nhưng không biết hạnh phúc hay đau khổ vì các bạn Campuchia cứ " tình thương mến thương" múc mắm bò hóc đổ vào chén uyennd72 và cứ hối ăn. Bí quá, uyennd72 phải nói mình bị say xe nên mệt ăn không nổi.

Báo hại, khi chiều quay về Đồng Tháp 2 chị em đói nhừ tử, còn các anh thì nói: " Trời ơi, tui phải nốc mấy ly rượu thốt nốt mới đủ can đảm nuốt cái món "quốc hồn quốc túy" đó của tụi Miên."

CHEE CHEONG CHOOK

Người Xá 畲 (輋族) - một chi của người Dao đã để lại dấu vết tại Hồng Kông, minh chứng cho những gì tồn tại trước đây hàng ngàn năm với các chiến cụ Bách Việt. Từ Hà Nội tới thăm vạn chài Hương Cảng khô cằn, bàn tay hằng nâng niu tiền Việt, giờ nắm chắc Dollar trong nỗ lực tìm kiếm được một nơi nào mang đậm bản sắc anh hùng, giàu có màu cổ trang, hoặc câu chuyện họ Lý đã kể những năm thập kỷ bảy.

Trong khi Hồng Kông mở liên hoan điện ảnh cho gái điếm, các cô gái làng chơi đẹp như minh tinh, tràn trề ham muốn nhục dục ở Sai Yeung Choi (西洋菜街)

 bước ra từ các bộ phim xxx kéo tay, những mong muốn thám hiểm trên lại được đền đáp bằng những bát cháo Chee Cheong Chook nóng hổi.

Có du khách nói nếu đến Hồng Kông và Tân Lang (Penang), chỉ cần một lần nếm món cháo Chee Cheong Chook thì sẽ không có thấy các món khác còn xứng đáng gọi là cháo nữa. Ở Penang, những ông chủ hàng Chee Cheong Chook liền tay, mồ hôi nhễ nhại khiến tôi nhớ đến món cháo chửi ở Hà Nội, nhất là vào khoảng hơn một giờ chiều, khi các thực khách bu kín như đèn cù.

Thực chất Chee Cheong Chook là Trư Trường Chúc 猪肠粥, chính là món cháo lòng quen thuộc. Liếc nhìn những cặp môi đất khách, móc bóp cho vững lòng rồi mạnh dạn, đĩnh đạc bước vào một quán nhỏ ven đường vào một buổi chiều, chỉ mong thấy được phong vị Việt trong cái nồi đang sôi sùng sục.

Chee Cheong Chook trơn tuột trong cổ họng, cũng khúc lòng, dạ dày, lẫn bên trong vài miếng lưỡi lợn, nóng nảy giữa cái ngột ngạt, nhưng không hề gì, cả không gian nhường chỗ và e ngại khom mình trước mùi lòng rán thơm lừng.

Ở Hà Nội, ăn cháo lòng người ta ăn tiết canh, trước khi đụng đũa vào đĩa lòng tổng hợp đầy đủ, tim gan phổi phèo với lệ bộ húng quế, rau thơm. Vượt qua vị trí bình dân, cháo lòng vươn lên những buổi chiêu đãi tầm nhà nước trong các nhà hàng, khách sạn sang trọng. Trong cơ quan, giờ nghỉ trưa, có thể thấy đầy đủ trưởng phó các kiểu mặt đỏ ngừ, chém tay ở các quán cháo lòng Hai Bà, Chợ Đuổi....

Sau những phút hùng hồn, những cuộc diễn thuyết say sưa, chữ ký, các dự án mới được khóa đuôi bằng bát cháo lòng thơm phức, được một em váy ngắn đùi dài bê tới, xinh đẹp, ngon lành, cay rồ dại như ớt bột, hạt tiêu, đỏ đen, mê man bất tận.

Nhớ thời xưa đàn ông thèm lắm một bát tiết, nhà nào thịt lợn là sáng sớm đã có ông quần Pické mông thật lớn, cưỡi chiếc xe đạp Phượng Hoàng đạp nặng như cái cùm, dõng dạc đứng đầu ngõ nói vọng vào, hỏi thăm rằng tiết canh đã đánh, quả bầu dục cháu bé đã ăn chưa..., bữa liên hoan gia đình tôi thuở ấy, có những con mắt thèm khát nhòm từ ngoài vào, có những tiếng xuýt xoa, tiếng bố mắng sao mà ăn nhiều, húp cháo xùm xụp. Nhìn tấm ảnh cũ thấy thời gian đáng sợ biết bao!

óp mỡ là tóp mỡ ơi

Ông mập đi làm về ghé ngang, mặt hí ha hí hửng "Tiệm phở mới cho con, mẹ lấy phân nửa, chừa con phân nửa...". Tò mò nghía thử, thì ra là tóp mỡ.

Nhớ hồi nhỏ hai anh em hay đợi mẹ thắng mỡ. Hồi đó làm gì biết đến dầu ăn. Món nào cũng xài mỡ. Mỡ heo mua về, rửa sạch, cắt nhỏ bằng lóng tay út, bỏ vào chảo thắng với lửa nhỏ. Nước mỡ thắng xong để nguội mẹ cất vào một cái keo to để dành nấu ăn. Xác mỡ còn lại là tóp mỡ. Giòn, béo và bùi bùi là thứ mà hai anh em rất khoái. Nhón tay bốc, thổi phù phù cho bớt nóng và bỏ vô miệng nhai. Miếng nào còn dính chút xíu thịt thì lại càng thích vì nó giòn rụm. Cái cảm giác của lưỡi chạm vào tóp mỡ nóng, phải xuýt xoa; cái cảm giác thòm thèm khi nghe mùi thắng mỡ, cảm giác khoái tưởng như không bao giờ quên được. Tóp mỡ còn lại thường được mẹ chế biến với món dưa cải. Ông mập thì khoái món kho quẹt. Có bi nhiêu đó thôi mà cơm ăn hoài không biết no. Có bữa chỉ có cơm nguội, ông mập làm một chén tóp mỡ với nước mắm nguyên chất, dằm một trái ớt đỏ, hai anh em chan vào mà ngon ơi là ngon.

Ông bà ta có câu "tốt dầu tốt mỡ đỡ đứa vụng" hàm ý rằng dầu mỡ ngon thì món ăn dẫu không khéo lắm thì món ăn cũng dễ chấp nhận hơn. Giờ lo sợ với nào là béo phì, mỡ trong máu, nào là tim mạch, nào là sức khỏe, tuổi thọ làm cái cảm giác nhấm nháp tóp mỡ không như cái cảm giác hồi xưa nữa. Ăn thì cũng thích đó nhưng sau cái đó là cái lo nghĩ. Mà như vậy còn gì thú nữa. Kho cá bây giờ thỉnh thoảng mới mua miếng ba rọi bả vô kho chung chứ thường cũng chỉ thêm chút dầu ăn. Mà dùng dầu ăn nên cũng lâu rồi không thấy món dưa cải của mẹ...

Có những món mà cảm giác nếm nó giờ chỉ còn trong kí ức...

KỶ NIỆM LONG MỸ

           Thầy, trò chúng ta lên Long Mỹ lúc đó, hình như  là cuối tháng hai, đầu tháng ba  của năm bảy chín thì phải. Cả thầy lẫn trò vác cuốc, xẻng...lèn trong mấy chiếc xe ô tô  lên Long Mỹ chặt cây, dọn cỏ, đắp luống, trồng rau... thực hiện đúng nội dung nghị quyết của Đảng uỷ Trường đại học sư phạm Quy Nhơn lúc ấy đề ra:" Qua những hoạt động này sẽ đào tạo những giáo viên tương lai vừa ' hồng" vừa " chuyên", xứng đáng là trí thức Xã Hội Chủ nghĩa". Bây giờ nghĩ lại cái " nghị quyết tô bằng mực đỏ nhoè ", thấy nó " ấu trĩ" và buồn cười. Nhưng... lúc đó,  không có " nghị quyết "ấy, sẽ không có những buổi lao động ở Long Mỹ, như vậy chúng ta đã mất biết bao nhiêu kỷ niệm, những kỷ niệm vui nổ trời , bây giờ ngồi ôn lại, tôi vẫn thấy nhớ đến" thắt ruột, thắt gan".

           ... Cái lán lợp mái bằng nứa đập dập, diện tích không lớn, nằm cô độc giữa một cánh đồng đất pha cát là nơi tá túc của tất cả các thành viên nam, nữ hai lớp Sử - Chính trị khoá 1. Cạnh cái lán đó là một con suối nhỏ, nước rỉ rả chảy cạnh một vài lùm cây dày có những cành lá la đà mơn man mặt nước. Những lùm cây ấy ôm lấy những bãi cát mỏng, màu vàng rất sạch, vô tình đã trở thành một chỗ tắm kín đáo, rất lý tưởng cho các bạn nữ. Dòng nước của con suối lại chảy tiếp ra một chỗ thoáng, vượt qua mấy  những tảng đá to đổ xuống, tạo thành một vũng nước rộng tha hồ cho các bạn nam vùng vẫy sau một ngày lao động mệt nhọc. Cứ mỗi buổi chiều, sau khi lao động xong, trước khi đi  tắm, mấy bạn nam trong lớp đã có một nghĩa cử "cao thượng" là gác phòng những kẻ có "lòng dạ tăm tối, cái nhìn đểu giả" cho  chị em tắm được an toàn. Đổi lại, tôi cũng biết, nhiều bạn nam, quần áo nhất bộ, mấy ngày không giặt, có cái mùi mà chuột chù biết nói cũng lạy " bằng cụ". Chị em thương vì tấm lòng nhiệt tình của các bạn nam trong lớp, đã giặt hộ những bộ quần áo đó.Các bạn nữ vừa giặt, vừa bịt mũi . Ở Long Mỹ, tôi nhớ nhất, nếu bạn nào đó có ngày sinh nhật, trùng với những ngày cả lớp đang lao động ở đây thì thật hạnh phúc. Bây giờ tổ chức sinh nhật thường ở nhà hàng, có bánh ga tô, có hoa tươi sặc sỡ, bia rượu thừa mứa... Nhưng không thể vui bằng ở Long Mỹ. Tôi nhớ có một ngày trong lớp trùng ngày sinh nhật của mấy bạn. Cả lớp mình cùng tổ chức mừng ngày sinh nhật này. Quân và Giang  xin phép cho về trước để đi tìm hoa rừng.Tôi đồng ý, hai bạn vội chạy đi, nét mặt rất hớn hở. Còn cả lớp, sau buổi lao động,  hôm ấy  về sớm hơn, tắm rồi ăn cơm cũng nhanh hơn. Buổi tối, dưới ánh trăng ngồi quây quần bên nhau, thi nhau hát, thi nhau cười đùa, rồi một người đứng lên tặng hoa cho  cho các bạn đó có thêm một tuổi, thêm tý trưởng thành, thêm tý lớn khôn... Tình cảm của các bạn trong lớp là như thế, luôn quan tâm đến nhau. Không may trong lớp có bạn đau bụng, nhức đầu, nhất là mấy bạn nam là tất cả các bạn nữ đều lo. Bên nữ, có bạn Hằng, rất ra dáng người chị, lo từng chén cháo đến những lời an ủi chân thành. Tôi biết, có nhiều "tướng " bên nam, hay giả vờ làm chuyện này, vừa khỏi đi lao động, lại được các bạn nữ chăm sóc, quần áo không phải giặt... sướng hơn hồi ở nhà gần bố, mẹ...

         Cả lớp chúng ta đi lao động đúng lúc tiết trời Long Mỹ giữa mùa khô, ban ngày nắng chói chang, từ mờ sáng cái nóng đã xuyên đất, bốc hơi hầm hập. Buổi trưa nóng như rang, nằm trong lán mồ hôi vẫn đổ ra rìn rịt.Còn buổi chiều, gió đã thổi dạt nắng sang bên kia vách núi, thế mà vẫn thấy cái nóng làm bỏng rát vai.  Đến buổi tối, tiết trời may ra mới mát trở lại, lúc ấy mới có thể dễ thở một chút.      

             Lúc này ngồi viết hồi tưởng những dòng này, tôi cứ nghĩ mãi. Cũng lạ thật, hồi đó, cả thầy lẫn trò ăn uống như thế, sao lại có sức lao động nhỉ? Buổi sáng, đánh răng vội vàng, rửa mặt cũng qua loa rồi sáu người một mâm cơm, gọi thế cho nó " oai", chứ chỉ là một rá đựng những hạt cơm rời rạc bám vào mấy củ sắn hoặc vào vài cái " nắp hầm" bằng bột mỳ cứng gần bằng đá " ném gà, gà què, ném chó, chó chết!". Cái gọi là "cơm " ấy chan với nước muối pha một chút bọt ngọt.Thế mà ai cũng ăn ngon lành! Cơm buổi trưa, hay buổi chiều, cũng chỉ hơn  buổi sáng một tý chút. Có canh nấu bằng rau rừng như rau má, lá lốt...( Các loại rau này, có hôm, sau buổi lao động các bạn định về, tôi yêu cầu mỗi người phải ngồi lại nhổ một ít mang về lán cho chị nuôi nấu. Có bạn bực lắm, dù không nói ra !), Cũng có thịt, nhưng là miếng thịt muối, mặn chát, nổi lều bều trên mặt nước nâu, màu cơm cháy đựng trong cái xoong nhôm, người này gắp được, thì người kia nhịn...

          Tiết trời khô hạn dễ làm người ta phát sốt, ăn uống rất thiếu thốn, làm việc vô cùng vất vả, nhất là những bạn lần đầu tiên cầm đến xẻng, cuốc... Điều đó không hề gây cho tôi và tôi nghĩ, cả các bạn nữa, một ấn tượng nào.  Điều tôi nhớ nhất vẫn là tiếng cười của các bạn, kể cả những trò đùa tếu táo trong những ngày thầy trò ở Long Mỹ. Giờ đây tôi nghĩ lại, cứ ngồi cười một mình. Làm sao quên được cảnh cả hai lớp chuẩn bị làm thịt hai "chú" cầy, do anh Chính lớp trưởng lớp 1 A chủ trò. Đã khiêng được  hai " chú" cầy về lán, không hiểu sao lại để một " chú" tuột dây, chạy mất. Thế là cả hai lớp, mọi người ùa ra, bổ khắp nơi tìm kiếm... bỏ cả lao động để tìm "chú " cầy bỏ trốn kia:" Cố mà tìm, mất vài cả chục li lô đạm, chứ ít gì! ". Tôi tiếc của, hét toáng lên, rồi cùng mọi người cũng cầm gậy vào nương mía, các lùm cây lùng sục. Cuối cùng, chó không tìm thấy, như  đôi dép tôi dính đầy... của ai đó, tương vào bờ ruộng, mình mải tìm " chú " cầy, không để ý, dẫm phải. Xuống suối tôi cọ đôi dép suối cả tiếng đồng hồ vẫn không hết mùi. Khiếp quá !

         Những đêm trăng tròn ở Long Mỹ, tôi cho là đẹp nhất. Cái ánh trăng huyền hoặc, vàng nhẹ rải đều tất cả.Từ tít phía xa, qua ánh trăng ấy chúng ta thấy hiện trên nền trời những mảng đen nhấp nhô của những dãy núi, gần một chút, cánh đồng đất cát ban ngày là nóng như vậy, bụi như vậy, thế mà ban đêm, cũng dưới ánh trăng, cả cánh đồng như một tấm thảm nhung mềm màu bạc trải rộng đến tận tít phía xa. Không khí thanh bình đến lạ lùng. Ngoài lán, đôi ba bạn nữ tách ra từng nhóm ngồi tâm sự. Mấy bạn nam gõ trống, đánh đàn. Tôi nhớ đôi tay gõ trống điêu luyện của Tuấn trống, rồi tiếng ghi ta của Đào Anh Dũng và những trò chơi, đôi khi có giáo viên tham gia. Trò chơi các bạn gọi tôi: " Chính mày !" và sau đó là trận cười ào ra hơn đám thú chạy cháy rừng, có vào những đêm như thế, để rồi mỗi khi  nhớ lại trong lòng tôi bồi hồi...

          Với các bạn những ngày lao động ở Long Mỹ là kỷ niệm ngày sinh nhật chỉ có hoa rừng và nụ cười, là những tình cảm nam nữ ban đầu còn e ấp, ngượng nghịu. Với tôi, bây giờ có thể nói, lúc đó tôi cũng để ý một bạn nữ, cũng giống một số bạn nam trong Khoa mình lúc ấy, tôi len lén tặng bạn ấy một cái bưu thiếp nhân ngày tám, tháng ba.Tôi biết, bạn đó rất cảm động. Sau này gặp lại, bạn ấy có nói với tôi:" Thầy tặng em tấm bưu thiếp đó với lời đề tặng, làm em suy nghĩ mãi...". Nhưng ... cũng chỉ thế thôi!Tất cả là tại tôi, tôi mến em mà không dám đi tới cùng vì lúc đó, tôi cứ suy nghĩ: " Giáo viên chủ nhiệm có nên yêu sinh viên không? Rồi lại đang là đối tượng Đảng, yêu sinh viên, chi bộ sẽ đánh giá không tốt về mình...".Tôi coi cái " tôi " lớn quá, để mất em. Đến với tình yêu, như một câu thơ của nhà thơ Hồng Thanh Quang, viết đại ý: Đã yêu, phải yêu tới cùng, như nhảy ra khỏi máy bay không mở dù, vẫn cứ yêu...Bạn nữ ấy, sau này có gia đình, rồi một lần đổ vỡ, bây giờ xây dựng một gia đình mới, sống rất hạnh phúc. Dẫu vậy, khi đến thăm bạn ấy, tôi vẫn nhớ bài thơ " Không đề " của nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha:

                            Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ

                            Trong cơn mưa ban trưa

                            Thấy hồn mình ướt thành hai nửa

                            Nửa ướt bây giờ, nửa ướt ngày xưa.

            Người bạn gái ấy đọc những dòng này, có tha thứ cho tôi không ?

           Những kỷ niệm vui ở Long Mỹ, tôi có thể kể ra không biết bao nhiêu chuyện...

           Đầu lán là một cái bếp lò nấu bằng than nắm.Trên bếp để một cái chảo gang to, nấu cơm cũng đấy, nấu canh cũng đấy, nấu nước sôi cũng đấy. Nghĩa là mọi điều "thiên liêng làm nên bản chất tốt con người" chiếc chảo gang này nắm giữ tất cả, ai cũng  phải tôn trọng!!!Ấy thế mà có một chuyện ( Bây giờ tôi mới kể).

     ...Sáng sớm, tôi và thầy Sâm ( dạy bộ môn lịch sử Đảng) thức dậy trước nhất, lúc đó cả lán, mọi người vẫn đang ngủ say. Tôi và thầy Sâm lò dò đi ra đầu lán, định xuống suối  lấy nước đánh răng thì phát hiện chiếc chảo gang có những "nhiệm vụ thiêng liêng" kia, đã được đặt dưới đất, bên trong lấp sấp nước. Tôi nghĩ,  có thể là nước chị nuôi lấy từ hôm qua, chuẩn bị nấu cơm buổi sáng, như vậy khỏi phải xuống suối, tôi dùng một cái ca Mỹ múc nước trong chiếc chảo gang đó đưa cho thầy Sâm dùng trước," Kính lão đắc thọ". Thầy Sâm cầm ca nước tôi đưa cho, nói với tôi giọng rất tình cảm:" Tôi cảm ơn anh ! Anh tốt quá !" Nói xong, thấy đưa ca nước lên miệng, cho vào một ngụm. Bỗng ... mặt thầy Sâm nhăn lại, nhổ nước ra phì phì.Thầy đổ vội ca nước xuống đất rồi nói với tôi, giọng căm phẫn :" Anh Trung xem này! Nước trong chảo sao có mùi giống nước... quá! Có ai đó đã...vào trong này. Tôi mà không bị thế này sáng nay cả khoa ta được ăn cơm nấu bằng nước... à !".Tôi thò một ngón tay vào chảo nước, rồi đưa lên mũi ngửi. Đúng là có mùi hơi giống mùi đó, vẫn bán tín, bán nghi. Chẳng lẽ các bạn sinh viên lại làm việc đó? Nam hay nữ? Thầy Sâm vẫn chưa nguôi giận, nói tiếp với tôi: " phải họp hai lớp, truy tìm ra thủ phạm.Chứ để thế này sinh viên hư hết!"Tôi ầm ừ cho qua chuyện, trong đầu vẫn một suy nghĩ: "Ai làm việc này ?".Chợt, trong đầu tôi loé lên. Nửa khuya tối qua, tôi giận mình thức giấc khi thấy một tiếng động bên cạnh.Thầy XYZ, rất khả kính,  mắc võng nằm cạnh tôi, thức dậy đi tiểu tiện đêm, thầy làm có vẻ "bí mật " lắm, không muốn cho ai biết. Thầy làm rất nhanh, rồi đi vào, nhẹ nhàng nằm xuống võng. Hay là thầy...Dễ lắm! Vì có đi ra suối, hay ra bụi cây cũng không thể nhanh như thế được, mà nghe đâu thầy cũng là người hay sợ ma... Có thể thầy mắt kém, nhìn không rõ, tưởng cái chảo gang kia là chỗ đi vệ sinh, lấy nứơc tưới rau!?? Còn không phải thầy mà là các bạn sinh viên, thì tôi... bó tay đầu hàng. Tôi biết, có lấy "roi đánh dập mông", chẳng bạn nào chịu khai!!! Vì các bạn ấy cũng "sợ ma " như thầy thì sao? Sau này cho dù thầy Sâm nhắc mấy lần, tìm thủ phạm gây ra " chuyện này", tôi cũng tảng lờ như quên để giữ uy tín cho các thầy giáo, cũng là giữ bình yên cho cả lớp, coi  như nó không xảy ra. Hơn nữa, chuyện ấy cũng xảy ra có một đêm duy nhất, nên tôi nghĩ: cũng có thể ai đó " lầm lẫn " chẳng cần " truy tìm!!! Bây giờ tôi mới kể lại, nếu không phải thầy XYZ làm, vậy trong chúng ta có ai " cố ý" chứ không phải vô tình làm việc đó, giờ thấy " ân hận" cứ dũng cảm giơ tay, mọi người sẽ hoan nghênh sự " trung thực rất tự giác " và xí xoá hết mọi chuyện...

            Ban đêm ở lán, sau những trò chơi, buổi tâm sự, theo yêu cầu của các thầy, đúng chín giờ tối, mọi người phải đi ngủ. Vào nằm trong lán rồi, bên nữ vẫn có những cuộc nói chuyện rì rầm không dứt. Tiếp đến là chỗ nằm của các bạn nam. Các bạn nam không bao giờ nằm yên, nói chuyện, cười đùa liên tục. Chỗ các bạn nam nằm, cách chỗ các thầy mắc võng chỉ là một hàng cột ngang để treo võng.  Các thầy không nói chuyện, cố tìm giấc ngủ. Thấy các bạn nam vẫn còn cười, nói, ảnh hưởng đến giấc ngủ các thầy, tôi nhắc nhẹ: " các bạn nam không cười, nói chuyện nữa, ngủ đi lấy sức, ngày mai còn làm việc.". Mấy bạn " Vâng ạ ! " có vẻ ngoan ngoãn lắm, rồi im lặng. Bỗng ...Lại " bỗng " phía các bạn nam đang nằm, một tiếng " trung tiện" vang lên, vang to, như cố tình. Tiếng cười lại nổi lên, các bạn bịt mũi để tiếng cười bớt to, rồi tiếng nói thì thầm, kỳ thực để cho cả lán nghe thấy:" Thối quá ! thối còn hơn cả mùi cóc chết!"," Của thằng T đấy, chiều nay tao thấy nó ăn nhiều cơm cháy lắm!"." Đừng nói oan cho nó, các thầy nghe được không ra làm sao cả - Rồi tiếng người này nói to hơn, cốt cho các thầy nghe thấy - Tao nghe âm lượng và mùi này thì chỉ có bên nữ phát ra thôi"... Thầy Hùng mắc võng, nằm cạnh tôi, nói ngán ngẩm: " Chúng nó nằm cạnh thầy giáo mà còn như thế này, không biết về khu ký túc xá, chúng nó quậy đến cỡ nào !". Câu hỏi này, nếu các bạn nhớ lại những ngày ở khu O ký túc xá, sẽ trả lời thay tôi.

               Tôi kể lại chuyện này, không có ý nói các bạn " hỗn" với các thầy, mà chỉ muốn nói, lúc ấy các bạn là sinh viên nhưng vẫn còn "vô tư", vẫn ở cái tuổi nghịch ngợm :"nhất quỷ, nhì ma, thứ ba  học trò " trong sáng.  Không  phải như bây giờ, các em sinh viên đã đánh mất tuổi hồn nhiên sớm quá, sống thực dụng, tính toán, không có những giờ phút " thần tiên " mà thầy trò chúng ta đã có.

              Tình cảm thầy trò ở Long Mỹ cũng rất thật, không hề có sự ngăn cách, gần như tình cảm anh em, chẳng có việc gì không dám làm như kiểu, anh rủ em, trốn bố, mẹ "đi chơi" giữa trưa! Thậm chí... tôi kể thêm cho các bạn một chuyện mà lúc ấy, sau khi xong mọi việc tôi với bạn ấy có hứa với nhau, phải dấu tất cả, không kể cho ai biết. Nhưng đến bây giờ đã gần ba mươi năm, đến tài liệu mật của CIA, người ta còn công bố  huống hồ là chuyện thầy trò cùng đi bẻ trộm mía. Một câu chuyện có thật tưởng như đùa!

           Mới đến Long Mỹ buổi sáng, buổi trưa tôi với Tiến lớp A, cả hai thầy trò, mỗi người vận đúng một chiếc quần đùi, một áo may ô...đi qua một cây cầu bắc qua con suối. Khát nước quá, trước mặt là một ruộng mía, cây lên khá cao, rậm rạp, cả hai thầy, trò lội ngay vào. Đến giữa ruộng, ngó quanh quất, không có ai, tôi với Tiến cứ nhổ từng cây rồi ngồi xuống dùng miệng tước vỏ rồi nhai mía, hít nước, hít lấy, hít để một cách ngon lành. Cả hai thầy trò " chơi " cũng đến ba cây, vỏ chất đống một bãi to giữa ruộng. Xong việc tôi với Tiến ung dung ra về, Tiến còn định nhổ thêm mấy cây mang về cho các bạn, tôi không cho:" Biết cái ruộng mía này của ai, cậu vác mấy cây mía này về, họ bắt được, ê mặt.". Tiến nghe theo, không nhổ nữa. Buổi chiều, tôi đang đứng bên ngoài lán thì có một bà già đi vào, nét mặt tức giận.Gặp tôi, bà nói ngay: " Báo cáo với thầy! Cái ruộng mía của tôi trồng, chỉ có quân của thầy vào ăn cắp.Chúng nó ăn mía rồi xả đầy ra ruộng.Trước đây, khi quân của thầy chưa đến có bao giờ xảy ra tình trạng ăn cắp như thế này đâu!".Tôi giật mình, nhưng cũng còn đủ bình tĩnh hứa với bà già đó sẽ " Nghiêm trị quân ăn cắp đã làm hổ danh những trí thức xã hội chủ nghĩa tương lai...".Tiến đứng đằng xa tái mặt. Bà già về rồi, Tiến gặp tôi hỏi nhỏ: " Thầy có nghiêm trị thật không? Chẳng lẽ họp lớp kiểm điểm, thầy phê bình em, rồi em phê bình thầy." Tôi thấy xung quanh không ai để ý chuyện này thì lắc đầu, nói nhỏ với Tiến:"Không có chuyện đó! Tuyệt đối cậu không được nói chuyện này với ai, sống để dạ, chết mang theo." Tiến giơ tay tuyên thệ như sắp vào một "tổ chức thiêng liêng" : " Em xin hứa với thầy, không bao gìơ làm lộ chuyện này." .Cũng may cho tôi với Tiến, không bị bắt tại trận, chứ lúc ăn mía bị bắt, không biết tôi với Tiến sẽ biến báo thế nào? Bây giờ tôi vẫn nhớ hình ảnh Tiến lúc ấy, mặc cái quần đùi lòi chân ống sậy, tóc cắt cao, mặc áo may ô hở hết cả mấy xương sườn, nét mặt rất hồn nhiên, vẽ rất giỏi, chuyện gì với bạn ấy, dù phức tạp đến đâu cũng thành đơn giản cả. Tiến tốt hơn tôi, đến giờ chắc bạn ấy chẳng kể chuyện này cho ai, giữ bí mật đến cùng. Còn tôi, tôi lại kể hết cho các bạn nghe!

      ... Những câu chuyện tôi kể, cứ như nó vừa mới xảy ra hôm qua. Kể lại để mà thương, mà nhớ.Thương và nhớ tình cảm bạn bè, thầy trò khổ đến như vậy, không ai than van, vẫn vui đùa, vẫn cười, vẫn quan tâm đến nhau. Với tất cả, chúng ta sống như trong một đại gia đình, không một chút tị hiềm, nhỏ nhen, vẫn nghĩ đến một tương lai tốt đẹp, đúng với lời bài hát " Mùa nhãn mới" tôi đã dạy các bạn ở Long Mỹ hồi đó. Một bài hát đẹp cả nhạc và lời, tôi chép lại nguyên văn lời để các bạn hát, nhớ lại một thời đầy chất lãng mạng của tuổi trẻ:

VÀO NHẬP HỌC Ở ĐHSP QUY NHƠN KHOẢNG 1 THÁNG, 1 BUỔI SÁNG CHỦ NHẬT TÔI VÀ " KHÁNH HƯỜNG" ĐI DẠO TRÊN BÃI BIỂN. PHÍA TRẠI PHONG QUY HÒA, TRÊN ĐỈNH NÚI CAO SÁT BỜ BIỂN CÓ TƯỢNG ĐỨC MẸ MARIA CAO LỒNG LỘNG RẤT ẤN TƯỢNG. KHÁNH XÚC ĐỘNG THẬT SỰ, THỐT LÊN"TƯỢNG ĐỨC MẸ ĐẸP QUÁ CẬU ƠI! CHÚNG MÌNH LÊN ĐÓ XEM ĐI".

CHÚNG TÔI MEN THEO BỜ BIỂN ĐẾN CHÂN NÚI, CẮT RỪNG ,CỨ NGẮM HƯỚNG ĐỈNH NÚI MÀ ĐI LÊN. NÚI CAO MẤY TRĂM MÉT, NHIỀU BỤI CÂY GAI LÚP SÚP, ĐƯỜNG RẤT KHÓ ĐI, MỒ HÔI VÃ RA NHƯ TẮM, MIỆNG THỞ HỔN HỂN, NÓI KHÔNG RA LỜI. TÔI YẾU SỨC NÊN THẤY NẢN LÒNG. KHÁNH ĐỘNG VIÊN TÔI "CỐ LÊN", TÔI LẠI CẢM THẤY HĂM HỞ ĐI THEO BẠN. LÊN ĐẾN TƯỢNG ĐỨC MẸ ĐÃ 11 GIỜ TRƯA. CẢNH BIỂN TRỜI, NÚI NON VÀ TOÀN CẢNH THÀNH PHỐ QUY NHƠN THƠ MỘNG, HÙNG VĨ, CÙNG VỚI TƯỢNG ĐỨC MẸ VĨ ĐẠI LÀM CẢ 2 CHÚNG TÔI SAY ĐẮM, QUÊN HẾT MỆT MỎI. HÓA RA NƠI ĐÂY CÒN LÀ 1 CĂN CỨ QUÂN SỰ CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA. CÓ ĐƯỜNG XE HƠI TRẢI NHỰA TỪ ĐƯỜNG LỚN LÊN TẬN TƯỢNG ĐỨC MẸ.

KHI VỀ TÔI ĐỀ NGHỊ ĐI THEO ĐƯỜNG LỚN CHO KHỎE NHƯNG KHÁNH LẠI VẪN THÍCH PHIÊU LƯU ĐI THEO ĐƯỜNG CŨ, XUỐNG BIỂN. ĐI XUỐNG DỄ HƠN ĐI LÊN, NHƯNG BỤNG ĐÓI NÊN QUÁ MỆT. TRỜI BẤT CHỢT ĐỔ MƯA NHƯ TRÚT NƯỚC. HAI CHÚNG TÔI RÉT RUN NGƯỜI. KHOẢNG 30 PHÚT SAU TRỜI TẠNH. BẤT NGỜ CÓ 1 CON CHIM CU RỪNG BAY LÊN TỪ 1 BỤI CÂY RẬM RẠP. KHÁNH MỪNG RỠ KÊU LÊN "CÓ THỂ CÓ TRỨNG ĂN , GI. ƠI". KHÁNH ĐỊNH CHUI VÀO BỤI RẬM, TÔI TÚM TAY KHÁNH KÉO LẠI:"CẬU ĐỪNG VÀO. CÓ THỂ CÓ RẮN ĐỘC. NGUY HIỂM LẮM." KHÁNH BẺ 1 CÀNH CÂY TO LÀM GẬY, ĐẬP LIA LỊA VÀO BỤI CÂY ĐỂ ĐUỔI RẮN RẾT. KHÁNH LEO LÊN CÂY RỒI MỪNG RỠ KÊU LÊN:"GI.  ƠI, CÓ 2 QUẢ TRỨNG XINH LẮM". QUẢ THẬT TÔI KHÔNG HIỂU KHÁNH SẼ LÀM GÌ VỚI 2 QUẢ TRỨNG BÉ XÍU XINH XINH ẤY GIỮA RỪNG NÚI ƯỚT ÁT, KHÔNG CÓ BẬT LỬA ĐỂ NƯỚNG TRỨNG. "CHÚA PHÙ HỘ CHÚNG MÌNH RỒI. ĂN ĐI CHO ĐỠ ĐÓI". TÔI NÓI:"TỚ KHÔNG ĂN TRỨNG  SỐNG ĐÂU, ĐAU BỤNG CHẾT." KHÁNH BẢO:"CẬU NGỐC THẾ.TRỨNG SỐNG RẤT BỔ, TRỨNG CHIM CU RỪNG QUÝ HIẾM, ĂN ĐI KHÔNG SAO ĐÂU." THẾ LÀ KHÁNH GƯƠNG MẪU ĂN TRƯỚC. TRỨNG CHIM SẮP NỞ, HÌNH HÀI CON CHIM BÉ TÍ TI BAO BỌC BỞI LỚP MÁU ĐỎ TƯƠI. "NGON TUYỆT, NGON TUYỆT" ÁNH MẮT KHÁNH SÁNG LÊN VẺ TRẺ THƠ ĐÁNG YÊU RẤT KHÓ TẢ. TÔI ĐANG BỊ CƠN ĐÓI DẦY VÒ HOA CẢ MẮT. CHÚA ƠI, CON PHẢI ĂN THÔI. ĐƯỢC KHÁNH KHÍCH LỆ, LẠI THÊM CƠN ĐÓI NHƯ ĐIÊN KHIẾN TÔI LẤY HẾT CAN ĐẢM BỎ QUẢ TRỨNG VÀO MIỆNG ĂN NGẤU NGHIẾN. ƠN CHÚA, LẦN ĐẦU TIÊN TRONG ĐỜI( VÀ CŨNG CÓ THỂ LÀ LẦN CUỐI CÙNG) TÔI ĂN TRỨNG CHIM SỐNG, SAO MÀ NGON ĐẾN THẾ. 2 CHÚNG TÔI ĐỀU THẤY KHỎE  NGƯỜI VÀ HĂM HỞ THEO ĐƯỜNG BIỂN TRỞ VỀ TRƯỜNG.

XUỐNG NHÀ  ĂN TẬP THỂ, CÁC BẠN ĐÃ ĂN HẾT CƠM. TÔI VÀ KHÁNH CŨNG HẾT TIỀN. TÔI NHỚ RA MÌNH CÒN MẤY TẬP VỞ CHƯA DÙNG ĐẾN. CHÚNG TÔI BÁN MẤY TẬP VỞ LẤY TIỀN MUA BÁNH MỲ.

CHUYẾN ĐI ĐẶC BIỆT ẤY BÂY GIỜ NGHĨ LẠI CÒN THẤY SỢ. HỒI ẤY TRẺ PHIÊU LƯU VÀ LIỀU MẠNG THẬT. QUA CHUYẾN ĐI CHƠI ĐÓ, KHÁNH ĐÃ ĐỂ LẠI TRONG TÔI 1 ẤN TƯỢNG RẤT KHÓ QUÊN. CẬU TA NHANH NHẸN, XỬ LÝ TÌNH HUỐNG RẤT CÓ LÝ. ĐÓ LÀ 1 TRONG NHIỀU KỶ NIỆM ĐẸP CỦA ĐỜI SINH VIÊN"ĂN NHƯ TU, Ở NHƯ TÙ, NÓI NHƯ LÃNH TỤ".

VI VĂN THẢNH

             Tôi không viết một câu chuyện mà viết về một con người. Chuyện về LÊ VĂN THẢNH lớp tôi.

          Thảnh là một "anh nhà quê" điển hình nhưng cũng vì thế mà mọi người đều yêu mến. Thảnh sống chân thật, xốc vác và luôn giúp đỡ mọi người. người ta có thể quên một ai đó nhưng tôi cam đoan không một ai quên Thảnh cả. Nhất là cái Gàu múc nước của Thảnh. Bây giờ bạn thử gọi điện cho Thảnh mà xem. Vẫn giọng nói và cách dùng từ như 30 năm về trước.

             Tôi thích nhất ở "anh chàng nhà quê" này là làm nhiều mà nói ít.

            Trong môi trường lúc đó, "mâm cơm" là "tổ chức xã hội" gắn bó nhất . mâm của tôi có Thảnh là trung tâm. Trước kẻng ăn cơm vài phút là Thảnh đã chỉnh tề. mọi người rất ngại đi muộn bị Thảnh la. Thảnh luôn là người xuống nhà ăn sớm nhất lấy cơm và lấy nước mắm. Cách làm nước chấm của các chị nhà bếp thì các bạn biết rồi: sau khi cậy cháy xong, đổ nước vào sẽ có màu vàng, chỉ cần cho ít bột ngọt và muối vào là thành nước chấm. Thỉnh thoảng các chị cũng cho một ít tóp mỡ vào cho nó có váng mỡ. ai đi sau thì đừng hòng có được cái váng mỡ ấy chứ đừng nói đến chuyện vớt được tóp mỡ mà ăn. Thế mà Thảnh luôn làm được chuyện khó khăn ấy. Tóp mỡ quý như vàng. Tôi nhớ có một hôm bát nước chấm mà Thảnh hớt được chỉ có một miếng tóp mỡ. Mọi người nhìn nhau không ai dám đụng vào. gần hết bữa, Thảnh hớt miếng tóp mỡ đó. Thế nhưng lưỡng lự thế nào Thảnh hất xuống bàn. Cả bàn im phăng phắc, không ai nói câu nào. Thảnh ăn xong trước đứng dậy đi về. đi được 3 bước, Thảnh quay lại chỉ vào miếng

tóp mỡ đen đen nhỏ xíu và nói rành rọt : RUỒI và đi ra. Lúc ấy mọi người mới nhìn kỹ và ... thở phào nhẹ

nhõm.

            Mâm cơm của tôi còn có nàng Yến. Dạo gần ra trường, thỉnh thoảng Thảnh kín đáo rủ Yến đi tắm biển. Buổi tối Thảnh hay mượn cây đàn ghi ta của Phong ra hành lang hát. Và cũng chỉ biết đàn và

hát có một bài : " Đau!! .. Từ đáy trái tim ta buồn đau!!.. Đau!! .. suốt bấy lâu nay ta vẫn đau !!..." Có lẽ tiếng sét ái tình ... đang ngấm vào chàng trai Thái Bình này. Có lần tôi tò mò hỏi về chuyện tình cảm. Thảnh không nói gì. Tôi nói bâng quơ : "Yến cũng được đấy chứ??" . Bỗng nhiên tôi thấy Thảnh nhìn đi chỗ khác và nói nhỏ.... ( có lẽ không định nói cho tôi)

     Nghe đài BBC đưa tin sau này mỗi lần về HN Thảnh vẫn hay gặp Yến. Cũng không rõ câu chuyện phần

sau như thế nào nhưng nếu có thì đây là câu chuyện "tình" bí mật nhất của .. chúng ta hồi đó. Và những câu chuyện tình bí mật thường rất lãng mạn.

           Nếu Thảnh hoặc Yến có đọc bài này thì .. Tớ xin lỗi trước nhé! Đừng giận vì tớ ... rất yêu các bạn nên mới viết. và đơn giản là chuyện đã 30 năm rồi ...!!

Du lịch Cù lao “bão”

Lớp Sử B vốn tính trẻ con, lười học, ham chơi, chân tay thường hay ngọ ngoậy, lúc nào cũng nghĩ ra một thứ gì đó để thỏa mãn tính hiếu động của mình. Đang yên, đang lành, chẳng biết ai xướng lên “đi Cù Lao Xanh”, thế là cả đám  ủng hộ liền. Cũng quần áo, cũng mũ nón. Một bên bao gạo, củ đậu, ít đường, muối. Một bên nồi niêu, xoong chảo, chúng mình cũng đi du lịch như ai !

            Biển xanh, mây trắng, cả đám lố nhố kéo nhau xuống tầu vượt biển đến đảo thần tiên. Cù lao xanh thần tiên đâu chẳng thấy, hiện ra một làng chài xơ xác, vài đứa trẻ nheo nhóc không khác gì đám sinh viên ra đón chào. Không chỗ nghỉ, không người hướng dẫn, chúng mình đành phải trú tạm trong mấy lớp học của học sinh cấp 1. Trống hơ, trống hoác, tứ bề gió lộng. Sau khi đã làm ấm bụng một bữa cơm sinh viên tự nấu, chúng mình bắt đầu đi du lịch sinh thái, tắm biển, leo núi, lên ngọn hải đăng. Một mối tình suýt được nẩy nở giữa cô Thắm về làng (Thủy nhè) và anh trai làng (Phong nhĩ). Nước biển xanh ngắt, trong veo, đám con trai còn phát hiện được cả một con cá trầu to tướng, nhưng khi nắm được hóa ra bắp chân của bạn Tâm (béo) !  

            Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Cơn đói bắt đầu nhắc nhở. Một cơn bão nổi lên, làm chuyến quay vào bờ không thể thực hiện được. Thế là chúng mình phải ở lại một đêm với phòng nghỉ tứ bề gió thổi. Hoa, Thảo bắt đầu thút thít vì không kịp học cho môn thi lịch sử Đảng sắp tới….Càng về đêm, gió thổi càng mạnh, chúng mình phải tìm một nhà thờ bỏ hoang gần đó để chui vào. Mặc dù, tối tăm bẩn thỉu nhưng vẫn còn đỡ hơn khách sạn ngàn sao bên ngoài.

            Thú thật, chuyến ngủ tập trung này cũng khá thú vị. Vì nào ai đã biết ngủ chung là gì, nằm quay đầu vào nhau, xa lạ nhưng lại hấp dẫn mới chết. Chắc cũng vì đói ăn, cơ thể không đủ sinh lực hoặc đông quá có muốn cũng không làm ăn được gì nên mất ngủ cả đêm. Sáng hôm sau tỉnh giấc, nhìn mấy cái mặt nằm sát bên cạnh, vừa kèm nhèm lại nhem nhuốc tự nhiên thấy ghét ! Gío vẫn tiếp tục thổi, đói quá đành phải tập trung lại ít tiền vào xóm Chài mua củ mì ăn qua bữa. Nửa mua, nửa xin, thấy tội nghiệp, dân làng chài cũng bán cho ăn tạm. Dù vẫn còn gió nhưng hễ có chuyến tầu nào trở lại đất liền là chúng mình leo lên liền. Họ dám chạy, là bọn mình dám đi. Miễn là không phải ở thêm một đêm nào nữa trên đảo.

            Chuyến cuỡi sóng trở về đã làm cho cả đám sinh viên chết lên chết xuống, nằm la lết dưới sàn tàu, bao nhiêu củ mì đều bị nôn thốc, nôn tháo. Lê Hà là nạn nhân nặng nhất trong chuyến vượt biển trở về. Tầu đến bến rồi mà Hà vẫn không đứng dậy nổi. Mấy bạn trai phải khiêng lên xe lam trở về trường. Mang tiếng đi du lịch về mà tả tơi hơn cả đoàn quân thất trận. Thật sự, sau chuyến đi đó chẳng ai muốn nhắc đến trở lại Cù Lao Xanh lần thứ 2. Nhưng có lẽ đây là kỷ niệm đáng nhớ nhất trong cuộc đời sinh viên. Vì từ đó đến nay chưa có một chuyến du lịch nào hứng thú và khổ sở nhiều đến như vậy !    

hất vọng quá, Danh Phương ơi !

Tớ sẽ kể cho cậu câu chuyện thật nhé ! Nghe xong cậu đừng có  “thèm muốn và nuối tiếc” vì đã không có được những kỷ niệm đẹp về thời sinh viên ! 

          Vào ngày Quốc khánh 2-9, nhà trường cho sinh viên nghỉ lễ xả hơi. Đám bọn con trai Sử B cũng mạnh ai nấy đi, ngồi buồn tớ với thằng Phong rủ nhau kiếm chỗ đi chơi. Hai thằng lang thang dọc theo bờ biển hướng về mộ Hàn Mặc Tử, Quy Hòa. Đi được một đoạn, nhìn xuống phía dưới những mỏm đá ven biển, bọn tớ phát hiện thấy hai người 1 nam, 1 nữ đang đi lại. Vì tính tò mò, bọn tớ trèo xuống, hóa ra là cái Hồng với thằng Sơn. Ôi chao ! 2 đứa chúng nó khôn thật, kiếm ngay một vị trí non nước hữu tình, phong cảnh lãng mạn để vui chơi và hú hí với nhau ! Trời xanh, biển biếc những đám mây trắng bồng bềnh trôi. Biển như hòa một màu xanh với trời. Xa xa một vài cánh buồm chuyển động như tô điểm thêm cho phong cảnh hữu tình. Thật khó có thể kiếm đâu ra được một khung cảnh nên thơ và lãng mạn như thế. Thú thật, lúc đó tớ với thằng Phong không có ý định đi xuống, nhưng vì bọn tớ phát hiện 2 đứa chúng nó đang trải ni lông trên một mặt đá rộng để dọn đồ ăn ra. Vì đi đã lâu, thấy bụng đói mà sinh viên thì cứ thấy có ăn là “hành quân” tới, nên bọn tớ đánh động lại gần.

          Nhìn thấy chúng nó, thật tình tớ cũng không thấy cảm xúc gì. Thằng Sơn đi biển mà không có nổi một cái quần short vẫn phải mặc đồ lên lớp. Chỉ có cái Hồng là khác hẳn so với ngày thường. Nó mặc một cái váy tím dài đến đầu gối bằng vải valide, có hàng ren thêu ở trước ngực. Ẩn bên trong là một bồ đồ tắm màu xanh nước biển có hoa văn hình mỏ neo làm nổi lên một thân hình đầy đặn, cân đối. Thấy bọn tớ, hai đứa điềm nhiên như không. Mặc dù biết là sẽ bị mất khẩu phần ăn (vài cái bánh ít, bánh rán, trái cây) nhưng chúng nó vẫn nhiệt tình mời mọc. Cái Hồng tính tình cũng khác hẳn. Ngày thường vẫn to mồm, háo thắng, thế mà giờ đây nó có vẻ nữ tính, kín đáo, nép mình nhường chỗ cho bọn tớ ngồi ăn. Vì sợ mất đi tình cảm lãng mạn của chúng nó nên tớ với Phong sau khi ấm bụng đưa mắt ra hiệu rút lui. Mặc dù, thằng Sơn có vẻ chào mời ở lại, nhưng nhìn mắt nó, tớ biết ngay là nó đang muốn chào đưa tiễn khách cho nhanh.

          Nhìn cảnh chúng nó yêu đương nhau, tự nhiên tớ thấy thích quá. Trong khung cảnh lãng mạn, hữu tình thế này mà lại có một em trèo núi, tắm biển với mình thì thích quá còn gì ! Lần này về nhất định mình phải cưa đổ em Thoa để còn đi chơi biển nữa chứ. Đúng là tình yêu “chân chính” thì thấy cái gì cũng sướng. Cưa được rồi nhất định mình phải bảo em Thoa sang chỗ cái Hồng mượn cho được cái áo tắm để mặc vào đi chơi biển.

          Về đến ký túc xá, nhìn mấy căn phòng trống hếch, trống hoác tự nhiên tớ thấy buồn. Đám con trai không biết đi đâu hết. Bỗng tớ thấy một cái màn trông bẩn như giẻ lau vẫn còn treo trên giường của cậu. Nhìn lên thấy cậu đang ngáy khò khò…! Thôi lại vẫn cái thằng Phương Liệt rồi, suốt ngày ngủ, ngủ liệt giường, liệt chiếu. Chắc là đói quá, kiếm ăn bậy bạ nên mới rối loạn tiêu hóa mệt mỏi ngủ suốt. Ngày nghỉ, đám con trai đứa đi với bồ, đứa sang phòng nữ tán phét kiếm ăn hoặc đi đá bóng, chơi thể thao, cỡ như thằng Tuấn cực kỳ (học đúp rồi) mà còn em này em nọ. Còn cậu thì chỉ lo ăn, mới ngủ. Ôi thất vọng quá, Danh Phương ơi ! Bây giờ ngồi ngẫm lại cậu có thấy tiếc không… Rồi lại phải khổ thân chạy ngang, chạy dọc để bù lại những thời gian đã mất vào cái tuổi gần 50 này. Phải không Danh Phương ?

          Hehe…! Danh Phương khao đi nhé ! Chết cậu chưa ! 

Ngày chủ nhật “không bánh mì” !

Nếu hỏi rằng, bài hát nào của nhóm nam Sử B là hay nhất, tôi có thể trả lời ngay rằng, bài Ngày chủ nhật “không bánh mì” là hay nhất, trên cả tuyệt vời ! Vì nó đã biểu hiện được cơn đói và chạm vào được nỗi thống khổ của sinh viên thời đó. Nếu lúc đó có 2000 sinh viên như hiện nay, biểu diễn tại sân vận động, tôi tin chắc rằng ban nhạc Sử B cũng được xếp vào loại hàng top ten ở Việt Nam thời bấy giờ.

Không biết duyên phận nào mà Sử B lại tập hợp được một đội ngũ các chàng trai cao ráo, lười học, ham chơi, có khuôn mặt khá điển trai (trừ chàng Phong nhĩ chỉ hơi hơi !) và biết chơi các loại nhạc cụ. Mặc dù hát không hay nhưng có thể lọt lỗ tai người nghe. Thêm một điều nữa là do đói ăn nên các chàng trai này gầy nhom giống như những ca sĩ nhạc Pop thực thụ hồi đó. Vào những buổi tối, sau giờ tự học, Đào Dũng - Solit chính của ban nhạc thường tụ tập đám con trai để gào thét những bản nhạc như: Babylon, Những mùa nắng đẹp…như để quên đi nỗi buồn và những cơn đói. Dù có hơi chói tai nhưng vẫn còn đỡ hơn bản đồng ca “Đảng cộng sản Việt Nam vinh quang… của khoa văn, thỉnh thoảng vẫn xách bàn, xách ghế, chạy rầm rập xếp hàng hát đồng ca cả lớp !

Trong một buổi biểu diễn ở trường, sau những bài hát thông thường mà họ vẫn hát, bài Ngày chủ nhật “không bánh mì” bỗng vang lên trước sự ngỡ ngàng của mọi người, gây xúc động, thổn thức bao con tim sinh viên. Hay, hay tuyệt ! Chưa bao giờ họ lại hát hay như thế ! Chưa bao giờ nói được nỗi lòng của sinh viên nhiều đến thế. Có lẽ, những cơn đói triền miên ngày này, qua ngày khác đã mang sức truyển cảm mãnh liệt cho họ. Thật sự, nếu lúc đó được biểu diễn cùng họ, tôi cũng sẽ gào lên: đói ! đói ! đói ... đói tất cả mọi thứ, cả vật chất lẫn tinh thần !  

             Sau buổi trình diễn thành công đó, những tưởng Ban giám hiệu nhà trường xúc động cho lứa sinh viên đói khát, sẽ trả lại cho chúng ta cái bánh mì cỏn con vào ngày chủ nhật. Nhưng các chàng trai Sử B thân yêu ơi ! bao nhiêu công sức gào thét của các bạn đã trở thành công cốc rồi ! Chẳng những, ngày chủ nhật không có bánh mì mà tất cả các ngày khác trong tuần cũng không có bánh mì. Vì “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới. Toàn dân ta bước vào trận đánh mới” nên tất cả không còn thứ gì nữa, trừ tinh thần Việt Nam “David” đánh “Goliad” Trung Quốc hôm nay. Sau đó, không ai còn nhắc đến ngày chủ nhật “không bánh mì” nữa, mà chỉ còn biết đến từ  “tự cứu lấy mình !”.  Tự cứu lấy mình như thế nào thì các bạn kể tiếp nhé !

Ngày sinh nhật không giống ai!

             Thường ngày sinh nhật la ngày vui, ngày kỷ niệm đáng nhớ. ngày sinh nhật của Tôi cũng đáng nhớ lắm, chỉ có điều không giống ai!

              Hồi đó sinh viên nghèo, làm gì có tiền. ngày sinh nhật trôi qua mà tôi chẳng dám nói với ai câu nào. Thế rồi đến khi đi ngủ, chẳng biết thế nào lại nói cho Ngọc Sơn ( Sơn - Hồng) biết. Sơn mới về nhà lên, có ít tiền liền hào phóng mời anh em đi ăn ... sinh nhật. gọi là ăn sinh nhật cho sang nhưng thực ra là đi ăn đêm - Dự định là ăn hột vịt Lộn. Cả nhà Thơ Mã Đại Giang theo cùng.

           Vì đã khuya nên ký túc xá đóng cửa. chúng tôi trèo rào ra ngoài, vừa lò dò đến eo Nín Thở thì bị đội tuần tra bờ biển bắt gặp. Không mang theo thẻ sinh viên nên giải thích thế nào cũng không được. ( hồi đó có phong trào ra biển để vượt biên mà.) Họ đưa mấy thằng " đi ăn sinh nhật" vào trại tạm giam. Đó là một căn phòng tối tăm, không nhìn rõ mặt người, chỉ có mùi hôi và ngôt ngạt . sờ soạn dựa lưng vào tường ở ngay cửa ra vào, chúng tôi im như thóc vì sợ đánh thức mấy thằng đầu trâu mặt ngựa trong đó thì xem chừng còn gay go hơn. và cứ thế chờ đến sáng ... Môt ngày sinh nhật thật chẳng giống ai.

              Sáng sớm hôm sau, giám thị gọi tất cả dậy và phát cho mỗi người một cái xô với khẩu lệnh ngắn gọn :" Đi dọn nhà vệ sinh". ra đến giếng, đang xếp hàng chờ đến lượt múc nước thì có một nàng tiên xuất hiện. Nàng hỏi thăm chúng tôi làm sao đến nông nỗi này và đưa chúng tôi về. Vâng, cám ơn em, cám ơn nàng tiên của chúng tôi. Nàng tiên ấy chính là nàng Kim Anh - lớp A. Chẳng hiểu vì sao sáng sơm lại ở đó, chẳng hiểu nàng làm thế nào mà chúng tôi lại được thả về. Sau này có người nói loáng thoáng rằng Nàng có quen một chàng công an. Và đêm đó nàng đã .. quên mình  để ..... cứu những người hiền lành, nghèo khó như sinh viên chúng tôi! Cám ơn Kim Anh nhé.

Bệnh viện Phố Núi !

        Nói về tình yêu của Tuấn "cực kỳ", mọi người thường nhắc tới bạn Nhung, Thủy... nhưng tớ biết bạn Tuấn còn có một mối tình khác nữa, tớ sẽ kể cho các bạn nghe nhé !

     Giáp tết năm 1979 hay 1980 gì đó (tớ không nhớ rõ). Các bạn nữ khoa Sử  thường mua các loại cây trái, nhiều nhất là dừa về làm mứt, làm qùa cho gia đình. Trong đám nữ Sử B, có Kim Thoa và Cấn Hà là 2 nàng đảm đang nhất lớp. Đói như vậy mà lúc nào cùng dành tiền mua quà về nhà trong các dịp nghỉ tết, nghỉ hè. Còn bọn con trai và đám nữ ham chơi  chỉ biết vác mồm về nhà ăn, rồi vơ vét mọi thứ ăn được (kể cả muối ớt) mang về trường để chống đói.

     Đang sống trong không khí nhộn nhịp,háo hức được về nhà ăn tết, bạn Hà Thơ sang rủ tớ đến thăm bạn Tuấn đang năm bệnh viện vì mới bị té cây. Dù biết chuyện bạn Tuấn té cây "vì học thi mà lại lo ngắm trăng sao để làm thơ", nhưng tớ vẫn chưa vào thăm cậu ấy lần nào.

     Trời Quy Nhơn về chiều se se lạnh, bệnh việnh Phố núi đìu hiu, vài dãy nhà xen lẫn giữa các hàng cây trông giống như một bãi tha ma. Vất vả lắm tớ và Hà Thơ mới tìm được phòng của Tuấn. Vào phòng rồi mà chẳng nhìn thấy ai, trời nhập nhoạng tối nên căn phòng như trỗng rỗng. Một lúc sau bọn tớ mới thấy một người nằm sát cửa ra vào, vừa bước tới cạnh giường thì thấy một giọng ồm ồm của một chú (có độ tuổi cỡ bọn mình bấy giờ). Chú chỉ tay về phía góc phòng và nói  - Cái anh chàng SV té cây  nằm ở góc phòng kia kìa. Tớ và Hà bước lại thì thấy cậu nằm một mình chỏng chơ với tấm chăn mỏng, người thì gầy nhom, đầu quấn băng trăng. một bên mắt sưng to như ốc nhồi, nhắm tịt. Hai bàn tay thì cứng đơ không cử động được. Hỏi có biết ai đây không thì lắc đầu, mặt mày thì như đang sống trong cõi mộng du. Nhìn cảnh cô đơn một mình quạnh hiu trong căn phòng trống, Hà thơ khóc nức nở vì thương cậu. Thật tình lúc đó tớ không biết gì mối quan hệ, vượt suối, băng rừng này của cậu với Hà thơ.

      Ngồi được một lúc thì cậu đòi đi nhà vệ sinh. Hai bọn tớ phải dìu cậu, vì cậu không tự đi được một mình. Vừa nặng, vừa mệt lại phải thực hiện một số động tác không được thoải mái. nên khi đưa cậu trở về giường cả hai đều thờ phào nhẹ nhõm. Nhưng rồi chưa đầy 10 phút sau, cậu lại đòi đi nhà vệ sinh. Thôi thì cố chịu đựng thêm một lần nữa vì bạn bè mà! Xong rồi, tưởng đã được yên. Nào ngờ sau 10 phút, cậu lại tiếp tục đòi đi nhà vệ sinh. Giời ơi ! hình như từ lúc vào bệnh viện đến giờ cậu chưa đi vệ sinh lần nào thì phải! Mặc dù, thương cậu nhưng Hà Thơ cũng đã cạn nước mắt vì mệt phờ do phải đưa cậu đi nhà vệ sinh. Lần thứ 3 trở lại giường. Chú bệnh nhân có giọng nói ồm ồm thương cảm cho hai đứa con gái vất vả đã phải lên tiếng - Nó không biết gì đầu. Thôi hai cháu về đi, kẻo nó lại đòi đi nhà vệ sinh nữa thì khổ ! Dù có thương cậu một mình cô đơn trong bệnh viện, nhưng vì không chịu nổi cảnh đi lại trong nhà vệ sinh nên bọn tớ cũng phải lặng lẽ ra về !

     Trên đường về trường, Hà thơ lặng lẽ không nói câu nào. Không biết cảm xúc của bạn ấy về cậu có bị mất đi sau chuyến vào thăm cậu lần này không ? Nếu cậu còn nhớ bài thơ tặng Hà tại khu lao động Long Mỹ thì đưa lên mạng cho mọi người cùng đọc nhé !

An tượng đầu tiên trong chuyến " Hành Phương Nam"

 Vâng, bây giờ dù đã 30 năm nhưng mỗi khi ngồi trước bát bún Huế - bún Bò giò Heo - tôi lại sực nhớ đến cái cảm giác lần đầu tiên được thưởng thức nó. Chuyện là thế này...

  Ba mươi năm trước, một cậu bé nhà quê nhút nhát và háo hức cùng 200 bạn bè của mọi vùng quê lên chuyến tàu hành phương nam." Lắc lư trên một chuyến tàu - Vào Nam đi học lần đầu trong tôi". Xa nhà, bạn mới, vùng đất mới, ước mơ mới... tất cả đều đang bỡ ngỡ và mới lạ. Mỗi một ga tầu, mỗi một địa danh đi qua đều hết sức quyến rũ . Đặc biệt, khi tầu đi vào vùng đất phía nam sông Bến Hải - vùng đất đã từng là bên kia giới tuyến - thì cái cảm giác hấp dẫn lại càng mạnh mẽ.

  Tôi còn nhớ vào lúc chập tối, tầu dừng lại ở ga Huế. Khác với các ga miền Bắc vào năm 1978, sân ga Huế nhộn nhịp , tấp nập cảnh mua bán chào mời. Để khám phá phương Nam, tôi xuống tầu và quyết định tự thưởng cho mình một món gì đấy khác lạ mà mình chưa từng thưởng thức. Nghe giọng Huế ngọt lịm : Chú ơi ! bún Huế đi chú, tôi không cưỡng lại nổi ngồi ngay xuống một gánh bún bốc khói thơm phức trong sân ga. Khi bát bún được pha chế xong và bày ra trước mặt đầy hấp dẫn, không ngần ngại , tôi cho ngay miếng đầu tiên vào miệng. Trời ạ ! Miệng tôi như bị bỏng a xít vậy, nước mắt nước mũi ứa ra. Tôi vội vã nhè ngay miếng bún Huế đầu tiên trong đời ra khỏi miệng . Tôi bỏ cả bát bún Huế vì không thể nuốt nổi cái món quốc túy, quốc hồn đặc trưng Huế ấy.

  Tất nhiên bây giờ đối với tôi chén món bún Huế là chuyện nhỏ và nó trở thành món khoái khẩu của tôi, nhưng kỷ niệm đầu tiên với nó không dễ chịu chút nào các bạn ạ.

===================

Tôi có một câu chuyện ngược lại. Khi vào đến Quy Nhơn, trong túi còn rủng rỉnh ít tiền ba mẹ cho, tôi và cô bạn đi tìm ngay một quán ăn hàng. Tôi nhớ chúng tôi được mọi người chỉ cho một quán bún bò ngay sau trường. Đó là lần đầu tiên tôi ăn một bát bún miền Nam, cảm thấy chưa từng ăn một món gì ngon như thế. Mặc dù sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, nhưng không hiểu sao tôi lại thích ngay một món ăn miền Nam, giống như bản năng gốc miền Nam nào đó được cha mẹ truyền lại đã thức dậy trong tôi vậy. Từ đó tôi vẫn luôn yêu thích những món của miền Nam.

===============

Xuyên tâm liên - thuốc chữa bách bệnh !

            Trong chuyến trở về trường vừa rồi. Ở cùng với khoa Sử tại nhà khách Công đoàn có một vài bạn trai khoa toán. Buổi tối xuống tụ họp khoa, khi nhìn thấy các bại trai khoa toán, thay vì cố gẵng nhớ các khuôn mặt trước đây để đoán tên, tự nhiên tôi lại liên tưởng đến Phòng Ytế ĐHSPQN và những viên Xuyên tâm liên- Bạn đồng hành của mọi sinh viên, thế mới lạ !

            Cuộc cãi vã với anh bạn trai cùng lớp đã làm cho người tôi nóng rực cả lên và đầu đau nhức. Chẳng lẽ mình bị cảm thật rồi ! Có khi nhiệt độ lên tới 38 – 39 độ chứ chẳng chơi ! Cơn lười và muốn nghỉ học bắt đầu trỗi dậy. Hết tiết 4 buổi chiều, tôi chạy liền xuống Phòng Ytế trường (nằm cạnh cầu thang tầng trệt) để khám bệnh Vì là tiết cuối cùng, nên Phòng y tế cũng không đông người lắm. Dù có cố gẵng giãy bầy về sự mệt mỏi, ốm yếu của mình, nhưng cái ống nghe và cặp nhiệt độ chỉ  37,5 độ đã phản lại điều tôi nói. Tuy không được nghỉ học nhưng bác sĩ vẫn kê cho tôi một đơn thuốc với căn bệnh  “Mệt mỏi, nhức đầu” 60 viên xuyên tâm liên (XTL), uống trong 3 ngày, mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 6 viên. Trời ! Vẫn lại XTL. Cái viên thuốc nam, to như viên decongen xanh mầu cỏ ấy uống đến phát ngán. Kiết lỵ cũng XTL, dối loạn tiêu hóa cũng XTL… rồi cả ngứa,, ghẻ chân cũng XTL ! Ôi thuốc chữa bách bệnh ! Có lẽ các loại, sừng tê giác, cao hổ cốt, mật gấu… bây giờ cũng phải tôn XTL là hàng ông tổ về thuốc chữa bách bệnh đấy.  Hình như, hồi đó nhà trường cũng không có cả tiền để mua thuốc chữa bệnh, nên lấy tạm XTL về chữa bệnh tinh thần cho SV thì phải. Nhiều khi đói quá, không có gì ăn, uống tạm XTL cũng qua cơn đói.

            Tôi rời khỏi phòng y tế cùng với một anh bạn khoa toán. Lại một bạn trai khoa toán nữa bước vào. Có lẽ họ quen nhau nên anh bạn vừa bước ra cản ngay -  Thôi không cần phải khám đâu, bệnh nào rồi cũng uống XTL cả , tao nhiều lắm về tao đưa cho - XTL hả tao còn có cả đống ở nhà kìa, vào khám là để kiếm giấy ốm nghỉ học thôi. Ai cha ! lại gặp một anh bạn cùng chí hướng. Tôi định nói, chúc bạn thành công! nhưng chợt thấy khuôn mặt không có gì là người có bệnh nên im lặng!

            Sáng hôm sau, vác đôi guốc gỗ như 2 cái bánh mì tấp tểnh leo cầu thang vào lớp. Tôi lại gặp anh bạn khoa toán chiều hôm qua cũng đang đến lớp. Tự nhiên tôi bỗng bật cười. Anh ta chau mày, nó cười mình cái gì nhỉ ! Có chúa mới biết vì sao nó cười. Bây giờ thì các bạn hiểu vì sao tôi cười rồi phải không !  

KẾT BẠN THỜI ĐÓI NGHÈO

==================

          Thời sinh viên gắn liền với ... cái đói! Cái đói thôi thúc và hành hạ làm mất ăn, mất ngủ. và một tối, tôi quyết định xuống khu vực nhà bếp thân yêu để khảo sát thực tế...

          Cánh cửa nhà bếp cao hơn mặt đất hơn 20 cm. có the nhìn rõ đống củ đậu mà các chị nhà bếp vẫn nấu cho chúng ta hàng ngày. có điều đống "vàng" ấy cách cánh cửa đến hơn 2m. không thể thò tay vào được. Những năm đổi mới sau này, Tổng Bí Thư có nói đến chuyện "tự cưu lấy mình" chứ đêm đó tôi đã nghĩ đến rồi. Kiếm một cành Dừa rồi ... khều. loay hoay mãi không được vì khều toàn sang ngang chứ không kéo ra ngoài được. Cứ loay hoay mãi. Cái bụng giục giã nhưng cái tay thì rã rời.

         Bỗng có tiếng nói sau lưng:" tôi có cái này". một người lạ mặt đưa tôi một con dao nhọn, nhỏ. Buộc vào đầu cái bẹ dừa của tôi. đưa vào cắm phập vào củ đậu , kéo ra. Cách này hiệu quả và đơn giản hơn nhiều.

        Lúc đã ngồm ngoàm miếng củ đậu trong miệng tôi mới có dịp quan sát người bạn mới quen của mình.

        - Bạn tên gì?

        - Tôi tên Khánh.

        - còn tôi tên : Danh Phương.

Tóp mỡ là một món ăn để lại nhiều kỷ niệm. Đứa trẻ con thời bao cấp trong giấc mơ có cả những miếng tóp mỡ trắng ngà như khối bạch ngọc, đựng trong âu sành, lôi cuốn, thèm thuồng bên chiếc chảo sôi tí tách. Tóp mỡ vừa rán xong, ăn giòn tan mà ngầy ngậy, được mẹ để dành trong chiếc lọ thủy tinh, lần hồi đem ra xào nấu. Chiếc lọ ấy cứ vơi dần mỗi khi một đứa trẻ ăn vụng mở chạn.

Tôi nhớ hồi còn học đại học, thấy trên vách hàng cơm bình dân nào cũng có một túi nilon lớn đựng tóp mỡ khét lẹt, dùng để chưng với cà chua, nấu canh dưa như là một thứ xa xỉ.

Về chợ quê, có nơi tóp mỡ ê hề, khét lẹt, được trưng ra trên cái sàng đầy bụi, bám toàn muối hạt trắng xóa, bữa cơm của người nông dân có cả món ấy, mặn chát, nhưng cũng ăn dè được vài bữa.

Lâu rồi không được ăn tóp mỡ thấy thèm thèm, nhớ ngày nào mẹ đi chợ về, trong làn có miếng thịt mỡ trắng phau, lát nữa sẽ biến thành những miếng tóp mỡ nóng hổi, dính ít thịt cháy thơm thơm. Thế đấy, lúc ngồi đầy bàn cao lương mỹ vị, chỉ ước trở về tuổi thơ, ăn những thứ mà giờ ở chốn thị thành chỉ còn là dĩ vãng.

Đi ăn chay, có lần bắt gặp một miếng, rất giống tóp mỡ, cũng dai dai, ngầy ngậy, hỏi ra mới biết đó là tóp mỡ chay, làm bằng cùi bưởi rất khéo. Cùi bưởi hăng hăng đắng đắng, phải ngâm nhiều lần, biến thành ra một thứ gần như mỡ phần, các sư thầy mỗi lần nấu canh, xào rau, cho vào, rất béo và bùi lúc ngấm gia vị.

Tóp mỡ, đó là tuổi ấu thơ, là ký ức thời bao cấp, là niềm vui bỏ lọ, là sự thèm thuồng tiếc nuối. Và giờ đây, tóp mỡ chay, sự tài hoa, kết tinh trong tình yêu chay tịnh.

Quà vặt một thời...

Hương vị trong ký ức của mỗi một người khi ăn một món ăn nào là hương vị rất đặc biệt chỉ riêng người ấy mới cảm nhận được, gói ghém cả những ngọt ngào của quá khứ và kỷ niệm, mà không phải ai cũng có thể sẻ chia..

Tôi là một người có “tâm hồn ăn uống” . Tôi đã ăn cùng với bạn bè, người thân, người yêu những món ăn đã có từ thời xưa hay những món vừa được sáng chế ra lúc mới đây, những món có tên gọi bình dân hay những món nghe nghĩ mãi chẳng biết là món gì bởi cái tên gọi vừa cầu kỳ vừa bí hiểm! Có món tôi thích, có món không. Nhưng chưa bao giờ có một món ăn nào làm cho tôi chợt ngẩn người vì một nỗi nhớ nhung lạ lùng, đến dường như khắc khoải, như trong một lần gần đây khi đi qua một ngôi trường tiểu học nhỏ nằm cạnh một đường ray xe lửa... Và tôi nhớ đến bàng hoàng tha thiết những món quà hồi tôi còn nhỏ, những món quà của một thời!

Ở cổng trường tiểu học của tôi hồi đó có nhiều hàng quà rong lắm. Mặc dù đã có lời dạy không nên ăn quà vặt nhưng hầu hết học sinh đều vi phạm bởi sức hấp dẫn của những món quà này. Mà ngày xưa thì quà bánh cũng chẳng lấy gì làm phong phú đẹp đẽ như ngày nay, chỉ những món đơn giản rẻ tiền mà sao nhớ nhung đến thế, hay vì trong những món quà thời ấy còn chất chứa cả một thời trẻ dại hồn nhiên chưa biết nghĩ suy gì?! Hồi tôi nhỏ, đi học toàn là tự đi bộ một mình, mấy đồng bạc cắc đút túi cứ như muốn nhảy ra khỏi tay trước những mẹt quà bày sát lối vào trường, thôi thì đủ món đủ thức tùy theo mùa theo vụ...

Buổi sáng đến trường sớm mà chưa ăn sáng ở nhà, đã có hàng xôi với hơi nóng nghi ngút bốc lên kèm theo mùi thơm hấp dẫn! Bà hàng lấy một miếng lá chuối cỡ hai bàn tay xoè, đặt lên trên đó một miếng bánh tráng phồng cỡ bàn tay, thường có hai loại xôi là xôi đậu xanh và xôi nếp than, ai muốn ăn gì thì bà sẽ xới xôi ấy lên trên miếng bánh phồng, trét một lớp nhân đậu xanh nấu chín tán mịn lên, rưới một muỗng mỡ hành có lẫn mấy miếng tóp mỡ béo ngậy, rắc một lớp đường cát trắng và sau cùng là chan lên một muỗng nước cốt dừa. Xôi được gói chặt lại sao cho miếng bánh phồng bọc kín hết như một lớp vỏ bánh, cắn vào vừa bùi vừa béo, thơm ngon làm sao! Cạnh đó lại có bà cụ người Bắc mặc áo vải trắng đầu vấn khăn nhung bày một thúng bán xôi lúa hay xôi bắp, cụ có hàm răng đen nhánh với miệng cười hiền từ, thoăn thoắt xé lá gói những gói xôi bắp với những hạt bắp màu trắng đục hầm mềm và những hạt nếp dẻo thơm phức, cũng là đậu xanh nấu chín nhưng đậu của xôi bắp thì giã tơi thành một lớp bột khô rắc lên trên, chan vào một muỗng nhỏ hành tím bào mỏng phi vàng rồi sau cùng là một muỗng muối đường.

Ít tiền hơn đã có hàng khoai luộc. Cũng tỏa khói nghi ngút nhưng giản dị hơn, chỉ một nồi hay rá nhỏ đặt trên bếp lửa, này là khoai lang bí vỏ nâu đỏ ruột vàng, khoai lang dương ngọc vỏ hồng tím ruột tím nhạt, cả khoai lang trắng ruột trắng như bột, khoai Đà Lạt thì củ nhỏ mà ốm nhưng mật tươm cả ra ngoài vỏ, lâu lâu mới thấy bán. Khoai mì (sắn) thì cắt thành từng khúc xếp ngay ngắn bên cạnh những củ khoai mì tinh (có người còn gọi là khoai bình tinh) và củ chuối (dong riềng) và những củ từ vỏ vàng nhạt hay những củ khoai môn tròn trĩnh.

Cũng là khoai mì, nhưng khoai mì quết dừa làm bằng những củ khoai bột tán nhuyễn, trộn thêm xác dừa khô nạo và đường cát trắng, thêm chút muối đậu, gói trong lá chuối, có thể dùng lá cây Dứa dại cắt ngắn từng khúc thay cho muổng xúc ăn, hay nắm lại thành nắm như nắm xôi mà ăn; vừa ngọt, vừa bùi. Lại thơm và béo của dừa khô trộn lẫn, ngon không biết tả sao cho vừa!

Khoai mì mài ra lấy bột đem lọc kỹ, để ráo sẽ cắt thành sợi dài mà dẹp, hấp chín rồi cũng trộn chung với dừa khô nạo nhuyễn là sẽ thành món bánh tằm khoai mì trộn dừa, muốn có màu sắc hồi đó người bán không dùng màu hóa chất mà lấy màu xanh của lá dứa, màu tím của lá cẩm, màu đỏ của trái gấc chín, nên những sợi bánh tằm ăn vào mỗi màu có một mùi thơm riêng biệt, vì vậy ăn ít ngán hơn.

Hồi đó trước cổng trường tôi có một bà già người Tàu mà mọi người thường gọi là thím Xẩm bán bánh ướt rất ngon. Bánh ướt của người Tàu khác bánh ướt của người Việt ở chỗ bánh họ tráng dầy hơn, lại thoa lên trên một lớp mỡ có hành lá xắt nhỏ rồi cuộn lại thành từng cuộn dẹp, ăn với nước mắm pha loãng và giá trụng. Bà Tàu già ấy quanh năm chỉ thấy mặc một chiếc áo vải màu đen bạc phếch, một chiếc quần ngắn trên mắt cá bó ống và một đôi giày vải đen có thêu đã cũ mèm. Tóc bà cắt ngắn tới ngang cổ, cài một chiếc lược sừng đã bóng lộn vì thời gian. Mặc cho lũ chúng tôi tíu tít hối thúc bà già vẫn chậm chạp cắt bánh, lấy rau, rót nước mắm, rửa đĩa, thu tiền, những động tác chậm chạp của tuổi già và đôi mắt một mí hum húp như thuộc về một nơi chốn khác, không phải là cái nơi ồn ào nhộn nhịp của một cổng trường đang giờ sắp mở cửa. Cái bánh tôm ăn chung với bánh ướt của bà Tàu già cũng ngon lạ lùng. Khá giống với bánh cống của Sóc Trăng, nhưng không có tôm, cũng không có giá, tuy gọi là bánh tôm nhưng chỉ có đậu xanh hột được hấp chín và bột gạo, chiên vàng thành những cái bánh tròn xốp, ăn không biết chán.

Thịt bò khô phải có gan cháy chỗ nước mía Viễn Đông ăn mới sướng... rên!!!

Cũng bán hàng trên xe đạp và cùng là đàn ông bán hàng là món gỏi khô bò. Trong chiếc thùng một mặt có kính đựng đầy ắp những sợi đu đủ xanh bào mỏng, khô bò màu đen sánh cất trong một ngăn tủ nhỏ, chai giấm trắng, chai nước tương đen, chai nước ớt màu đỏ xếp cạnh chồng đĩa nhôm nhỏ, nắm đũa nhôm chiếc cong chiếc thẳng cắm trong một ống đựng treo lủng lẳng, ông hàng gỏi có một chiếc kéo sắt đen và to vừa dùng để cắt khô bò, vừa dùng nhắp thành những tiếng đều đều báo hiệu thay cho tiếng rao mời. Cái đĩa nhôm trầy trụa và trẹt lét của ông hàng gỏi chỉ được tráng qua nước rồi lau vội bằng một cái khăn màu cháo lòng sau khi có khách ăn xong, lại được bốc đầy có ngọn nắm đu đủ bào, vài sợi khô bò nhỏ xíu cỡ đầu que diêm đặt khéo léo lên trên, một chút rau thơm thái sợi và một nhúm đậu phộng rang vàng giã dập, chan đẫm nước giấm và nước tương, thêm chút ớt đỏ cay cay, chúng tôi vừa ăn vừa xuýt xoa xin thêm giấm, thêm nước tương, ăn hết đu đủ húp cạn hết cả nước giấm mà vẫn còn thấy thòm thèm! Bánh mì tương cũng là món quà được bọn học trò chúng tôi chiếu cố tận tình vì rẻ mà lại ngon; chỉ có một khúc bánh mì không xẻ ra, rưới một muỗng tương đen, một muỗng tương đỏ, thứ tương người ta vẫn dùng để ăn phở nhưng có lẽ người bán đã cho thêm ít đường cho dịu bớt, và thêm ít bột cho sánh lại, gắp vào một ít đồ chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt cắt sợi ngâm giấm đường là có một món vừa ngon vừa no bụng. Nếu có tiền thì ăn bánh mì bì, bì làm bằng da heo cắt sợi nhuyễn, thêm chút thịt đùi heo chiên cắt nhỏ như que tăm, trộn một chút thính gạo rang vàng cho thơm, bánh mì bì ăn với hành lá xắt nhỏ phi chín chung với tóp mỡ, chan nước mắm chua ngọt, ngon hơn bánh mì tương một bậc, và cũng mắc tiền hơn!

Bắp thì có hai thứ, bắp luộc đựng trong thúng ủ tấm bàng tròn, hơi nóng bốc lên cùng với mùi lá dứa thơm phức, những trái bắp vỏ ướt nước nóng hổi cầm bỏng cả tay, xé lớp vỏ như những lần lụa mỏng mềm mại phía trong cùng là lớp hạt vàng rực đều đặn hiện ra trông thật bắt mắt, hạt bắp luộc dẻo và ngọt, nếu ăn bắp non thì cái cùi bắp mềm mà ngọt không thua gì mía hấp. Bắp nướng thì phải ngồi đợi một bên cái bếp than làm như một cái máng chữ nhật nhỏ của bà hàng, chờ lớp vỏ ngoài cháy đen một phần, bà mới bóc hết làn vỏ bắp ra để những hạt bắp được nướng chín trên lửa từ từ trỡ sang màu vàng ruộm, rồi vàng cháy, mùi bắp nướng thơm lừng tỏa ra trong không khí, xé một miếng vỏ bắp bọc lấy cái cuống trái bắp nướng dốc ngược đầu xuống một chén mỡ hành đặt cạnh bếp, dùng một đoạn sống lá chuối chẻ dập đầu thoa đều mỡ hành lên khắp trái bắp, mùi thơm của bắp và mỡ hành làm chúng tôi nuốt nước miếng thèm thuồng, cầm vội vàng trái bắp nóng hôi hổi trên những ngón tay lóng ngóng và gặm hối hả, vị mặn mà của mỡ hành có lẫn vài miếng tóp mỡ dòn dòn, hạt bắp vừa cứng vừa dẻo, nhồm nhoàm một cái đã thấy chỉ còn trơ lại cái cùi khô khốc vô duyên!

Tôi rất thích đến bên thùng xe làm bắng sắt tròn của ông hàng kẹo bông gòn. Ở giữa tâm vòng tròn có một cái lõi nhỏ, mỗi khi ông bán kẹo cho vào đó ít đường cát trắng, vừa đạp cái bàn đạp cho vòng thùng tròn quay thì lớp đường kéo tơ hiện ra càng lúc càng nhiều, đưa đôi đũa quơ quanh một vòng thành một lớp bông gòn xốp mịn nhìn thật đẹp mắt, cho vào miệng lớp bông ấy tan nhanh để lại vị ngọt ram ráp trên đầu lưỡi như một chút tiếc nuối. Hàng kẹo kéo thì lúc nào cũng có quay số, số bao nhiêu thì được trúng bấy nhiêu kẹo, nhưng hễ số kẹo càng nhiều thì ông hàng kẹo kéo lại kéo nhỏ cây kẹo thêm một chút, rốt cuộc nếu gộp tất cả số kẹo trúng thưởng vào chung thì có lẽ vừa bằng một cây kẹo mua bằng tiền không quay số mà thôi!

Lớn thêm một chút, vào trung học, tôi nhớ tới những xe bán bò bía trước cổng trường, người bán thoăn thoắt gói những cuốn nhỏ bánh tráng có ít củ sắn và cà rốt thái sợi xào chín giữ nóng trong một cái thau nhỏ đặt trên bếp lửa, cho thêm vài lát lạp xưởng mỏng tang, một ít tép ruốc chấy vàng nhuộm đỏ, có khi một ít trứng chiên vàng cắt sợi, một lá xà lách, vài ngọn rau thơm, ăn với tương ngọt và tương ớt có ít đồ chua, một ít hành phi giòn và một ít đậu phộng rang giã dối. Cuốn bò bía ngọt thì chỉ là một cuốn bánh bột mỏng gói cây kẹo dòn và ít dừa nạo sợi, rắc ít mè rang vàng, chỉ tiện ở chỗ có thể cất vào trong cặp dành ăn trong giờ ra chơi, còn thì chẳng có gì đặc biệt!

Vậy mà thoắt cái đã mấy mươi năm! Nhớ lại những món ăn một ngày nào, là tôi nhớ lại biết bao là êm ái và dịu ngọt, mà những món quà tuy tầm thường bé nhỏ ngày xưa ấy, cho dẫu chỉ là quà của một thời, nhưng lại là một thời của những tháng ngày yên vui mãi mãi trong tâm tưởng, mà những khoảnh khắc quý báu ấy thì mãi mãi tôi chẳng bao giờ có thể nguôi quên....

I. Bữa ăn.

Hồi xưa, hồi tôi còn học cấp 1, hè năm nào, tôi cùng chị hai (trong miền Nam gọi là chị ba) cũng đến nhà dị dượng ở. Hồi đó nhà tôi còn khó khăn, nghỉ hè là 2 chị em lại được bố chở đến nhà dì dượng, ở đến hết hè. Dĩ nhiên hồi đó tôi chỉ biết là đến nhà dì dượng rất là vui, cái vui nhất nó cũng xuất phát từ nghèo đói, đó là ở nhà dì dượng khi nào cũng được ăn no, ăn ngon. Từ hồi bé, không hiểu sao, đó vừa là niềm vui, vừa lại là điều tôi cảm thấy mặc cảm, không, tôi chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi ăn những bữa cơm ở nhà dì dượng cả, dù dì dượng luôn rất tốt, và tôi rât quý dì dượng, nhất là dì tôi, người dì hiền hậu. Tới giờ, tôi vẫn cảm thấy khó lý giải về sự mặc cảm đó và ký ức đó nó cũng dần phai nhạt. Lúc tôi lớn lên, nhớ lại, tôi mới biết một điều đơn giản vì sao hè lại tới nhà dì dượng, vì lúc ấy nhà tôi nghèo.

Tôi quên nói là tôi sẽ viết khá lan man, và cũng không có ý định sắp xếp nó lại cho nó chỉnh chu, cứ để cho nó chảy theo dòng cảm xúc vậy.

Nói đến những bữa ăn, thì ăn ở nhà là vui nhất, nhất là lúc gia đình tôi còn ở khu tập thể của công trường xây dựng, dù thiếu thốn, nhưng bằng một cách nào đó, Mẹ luôn khiến bữa cơm, đối với tôi, là chưa bao giờ không ngon. Đó có thể là một đĩa trứng chiên mà tôi luôn được ưu tiên trộn đĩa khi mà sau lần gắp đầu tiên của cả nhà, thì cái đĩa nó trở lại gần với nguyên bản của nó, như khi mới ra lò, khá sạch sẽ, dính một ít mỡ, và thường sót lại một miếng trứng nho nhỏ. Tôi luôn bắt đầu với câu hỏi "Hai chị còn ăn nữa không, để em Vinh trộn đĩa". Câu hỏi đó luôn nhận được câu trả lời là ko, nên tôi xài mỗi câu đó, hỏi thì có vẻ ngoan ngoãn thế, nhưng thực ra tâm trí tôi lúc đó tập trung hoàn toàn vào cái đĩa rồi. Trứng chiên, và thịt kho, là 2 món hiếm hoi và chất lượng nhất hồi đó, dù tỷ lệ nghịch với đó là số lượng, khó mà vượt quá được 2 miếng cho mỗi người trong một bữa ăn mà lâu lâu nó ghé thăm.

Tôi vẫn nhớ như in những ngày mùa đông lạnh giá, ăn cơm với nước mắm chao, nước mắm chao và cơm. Rất no, rất ngon. Tôi khoái nước mắm chao lắm. Các bạn có biết nước mắm chao không? Nước mắm chao được chế biến như sau, Mẹ sẽ cho mỡ vào chảo nóng, phi hành lên thơm phức, sau đó thì đổ nước mắm vào, thêm ít nước lạnh cho nó không quá mặm, nóng lắm í. Trời mùa đông lạnh thế, ăn cơm nóng và chan nước mắm chao lên thì không còn gì bằng. Bây giờ nghĩ lại thì thấy ngày xưa nhà mình khó khăn. Chứ hồi đó, với tôi, cuộc sống như thế thật no đủ làm sao.

Nhắc đến mỡ nữa, mỡ được tạo thành từ những miếng thịt mỡ Mẹ mua ngoài chợ về. Mẹ cho vào chảo, rán cho đến khi những miếng mỡ teo tóp lại hết mức, thành 1 thứ gọi là tóp mỡ, tóp mỡ được vớt ra, còn lại trong chảo sẽ là nước mỡ, để nguội, cho vào liễn bằng sứ, và thường gọi là mỡ. Mỡ được sử dụng như là dầu ăn ngày nay. Đó là về mỡ, mỡ thì quan trọng đấy, còn tóp mỡ mới ngon, tóp mỡ nóng giòn, cho vào bát nước mắm, đặc sản đấy bạn à, suýt soa, phỏng lưỡi, và quan trọng nhất là no bụng, vì nó ăn cùng cơm mà. Nó đúng là đặc sản, vì cái liễn đựng mỡ, lâu lắm mới hết.

Dĩ nhiên có thể còn nhiều món khác nữa trong bữa ăn, nhưng biết làm sao được, cái gì ngon thì ấn tượng nó mới hằn sâu, tôi mới viết ra được. Và đó là ký ức của tôi về bữa ăn gia đình hồi nhà tôi còn ở tập thể.

Tôi sẽ đặt tên mục II là bóng đá, và sẽ viết sau. Và nó sẽ nối tiếp phần đầu ở mục I, tức là những mùa hè ở nhà dì dượng.

Miền Nam trong ký ức tôi

Cập nhật lúc 14:50, Thứ Tư, 11/01/2012 (GMT+7)

Cách xa Đà Lạt vài trăm đến hơn ngàn cây số, miền Nam trong ký ức tôi đầy dẫy những mảng màu tươi đẹp! Đầu tiên tôi muốn nói đến Vũng Tàu, biển xanh là biển đầu đời tôi được chiêm nghiệm. Những năm của thập kỷ 60, lúc ấy tôi là một cậu nhỏ đam mê khám phá, biển đến với tôi một màu xanh ngắt, lặng trong lòng biển là những thế giới mới tinh khôi tôi chưa hề biết được. Sửng sốt đến ngỡ ngàng, tôi đăm đắm nhìn về phía biển trên cung đường Bà Rịa – Vũng Tàu, mặc cho đường dằn xóc. Thỏa thuê tắm biển ở Bãi trước, nước trong veo, trời mây bát ngát hay lặng lẽ trước những con sóng ở bãi Thùy Vân đều khiến tôi yên chí rằng biển Vũng Tàu cực kỳ sạch sẽ, hải sản Vũng Tàu ngon nhất bởi đó là hương vị biển đầu đời. Thuở ấy món mắm ruốc bà giáo Thảo ai đi Vũng Tàu đều ghé mua, chị tôi cũng vậy, chị mua mấy gói mang về Sài Gòn làm quà. Mắm của xứ biển xanh vị ngòn ngọt, là lạ, rất khác với mắm ruốc Huế ở Đà Lạt má tôi vẫn mua dùng! Những năm sau tôi vẫn đến Vũng Tàu nhiều lần, nhưng chỉ là những cuộc ghé qua chớp nhoáng nên không được đẫm mình trong lòng biển. Qua cửa xe tôi thấy một mảng màu đen ở Bãi trước, nơi tôi từng tắm biển ngày xưa, ô nhiễm  đã đánh cắp sự trong veo của Bãi, chẳng có du khách nào tắm được. Sự tiếc nuối trước việc hành xử hung bạo của con người đối với thiên nhiên hằn trong hồn tôi một vết cắt đến nao lòng. Tôi chỉ tìm được sự quân bình cho ký ức của mình khi năm 2009 đến được Côn Đảo. Đây mới chính là biển xanh, biển xanh, biển xanh… Màu xanh tinh khôi của biển Côn Đảo và dấu hằn của những nhà tù là hai thứ tôi mang về từ đó. Một người trong đoàn khách du lịch khi thăm các loại chuồng cọp, các loại cực hình địa ngục trần gian đã thốt lên rằng các vị lãnh đạo trước khi nhậm chức nên đến Côn Đảo tham quan để tận mắt chứng kiến biết bao thế hệ đã hy sinh như thế nào rồi về làm việc và mang lại cho đất nước này những thành quả xứng đáng với sự hy sinh của hàng hàng lớp lớp các anh hùng liệt sĩ. Tôi thầm đồng ý và nghĩ thêm rằng ai lỡ có làm sai cũng cần đến đây sám hối trước vong linh các chiến sĩ cách mạng đã hóa thân thành thần sông, thần núi, thần biển…, và cả biển nữa, biển trong sạch sẽ giũ bỏ cát bụi trần gian!

Biển không chỉ có ở Vũng Tàu, tôi còn được thưởng ngoạn biển ở Kiên Giang, biển Hòn Chông có Hòn Phụ Tử nổi tiếng, có  chùa Hang…Tuy biển không thể xanh bằng Vũng Tàu, hay ở Nha Trang, Đại Lãnh, nhưng Hòn Chông năm tôi đến (2001) đã đãi tôi một bửa tiệc vọng cổ ngọt ngào. Không phải là một buổi trình diễn nghệ thuật, mà chỉ là vọng cổ của những người dân dã, họ ca bằng cả tâm hồn của họ. Nhóm 4 người của tôi lúc ấy chỉ là những thính giả “bất đắc dĩ” bởi chúng tôi ngồi ăn ở một ngôi nhà lá, còn họ cũng ăn uống và ca cho nhau nghe những bài vọng cổ đượm buồn cách chỗ chúng tôi không xa. Đêm Hòn Chông lúc ấy bỗng trở nên hư ảo đến mê hoặc lòng người. Chúng tôi ngủ trong một khách sạn làm bằng gỗ thông mang từ Đà Lạt xuống, lòng cứ mang mang buồn bởi ca từ vọng cổ cứ lảng đảng trong hồn. Thì ra đó là tiếng lòng của dân phương Nam, cái nỗi buồn xa xứ thuở người đi mở cõi chắc cũng mang mang như vậy? Tôi còn được thưởng thức thứ vọng cổ dân dã ấy ở Bạc Liêu, trong một cuộc nhậu trên mặt biển, nơi ấy là một nhà hàng tôi quên mất tên. Lần này không phải là những người dân bình dị mà là các anh công chức công ty Nhà nước. Họ ca mùi mẫn như đặt hồn mình vào nắng, vào gió, sông nước (và cả biển nữa) của phương Nam.

Biển ở Phú Quốc xứng đáng với danh xưng đảo Ngọc. Tôi mong rằng “thiên đường du lịch” (tên có sớm quá không?) đừng để một lần thất vọng khi tôi đến lần sau, nghĩa là đừng đánh mất cái trong trẻo hồn nhiên của biển. Tôi cũng biết rằng vật đổi sao dời là lẽ thường tình, nhưng thiên nhiên hoang sơ bao giờ cũng mang đến cho ta những gì tinh khiết nhất. Tôi muốn nói đến nước mắm. Tôi đã được đi thăm mấy hãng làm nước mắm, và tất nhiên mua về nhà dùng, tặng bạn bè, người thân chút quà của biển. Vị mặn mặn và ngọt ngào của nước mắm Phú Quốc cứ vương mãi trong miệng khi xe ghé thăm hãng mắm mà tôi mới ăn hồi trưa ở một tiệm cơm. Cả đoàn mua, tôi cũng mua. Nhưng khi hăm hở khui chai nước mắm ra dùng khi về lại nhà, thì cũng hương ấy, vị ấy, độ đạm ấy nhưng cái ngọt ngào đằm thắm không tìm thấy nữa! Chắc tôi bỏ quên hương vị biển ở hòn đảo của những rừng sim, vườn tiêu, rừng nguyên sinh… cùng với món đặc sản “Cồi biên mai” trứ danh? Hay người ta bán cho chúng tôi thứ nước mắm khác thứ bán cho nhà hàng? Tôi chịu không tìm ra được câu trả lời, thì thôi vậy tôi cứ cảm ơn Phú Quốc đã sản sinh ra một món gia vị tuyệt vời.

Tôi chưa được đến Đất Mũi, nhưng đã ghé qua Cà Mau, rồi từ đó về lại Sài Gòn. Dĩ nhiên những địa danh qua khung cửa kính cứ lần lược hiện ra, chưa ghé lại thì cái hồn của đất chưa thể hòa nhập với người. Vẫn biết vậy nhưng đâu có thể thích là được, cho nên tôi tạm hài lòng với vài địa danh tôi đã ghé qua. Bánh pía, bún mắm, bến Ninh Kiều, du thuyền, món cá rô kho tiêu… lần lược được tôi khám phá với một tâm cảnh rằng mình đang thưởng thức phong vị của đất phương Nam. Quả nhiên là vậy, con cá rô chẳng hạn, mập ú nằm trong cái nồi đất dưới bàn tay phù thủy của bà bán tiệm cơm bình dân cứ như muốn phô phang cái đậm đà của đồng quê Nam bộ. Cứ giẽ một chút cá, chấm vào thứ nước màu nâu sánh đặc, vị đậm đà ngọt ngào, béo ngậy và cay cay của món cá kho quyện với cơm trắng như thúc giục tôi gắp thêm miếng nữa. Tôi cứ tiếc mãi khi ghé Cần Thơ là ở đây rượu (tất nhiên rượu đế) tôi không vừa ý lắm. Tôi có một sở thích, đi đến đâu cũng nhủ lòng nên nhắm chút rượu quê để cái hương của đất, cái vị của trời thấm sâu vào từng tế bào vị giác, từ đó cảm giác thăng hoa sẽ cho ta đến với tự nhiên và với tình người ẩn sâu trong đó! Khi tôi đến mấy tỉnh phía Bắc, ở đất Bắc rượu núi ngon lắm, rượu mang trong mình nó sự tinh khiết của núi rừng, và nhất là phảng phất một chút hồn quê. Vậy mà miền Nam lại không có rượu khiến tôi vừa ý, trừ đất Long An với rượu Gò Đen (hay là tôi chưa tìm thấy xứ sở của rượu ngon Nam bộ bởi đi còn ít quá?). Nhưng cũng có lắm Gò Đen, khiến ta cứ như mê hoặc trong thế giới mê ly của rượu. Không biết bây giờ người ta đã tìm được mẫu số chung của dòng rượu Gò Đen hay chưa, để người thưởng thức như tôi tự tin rằng mình đang uống thứ rượu thành danh có tên trên bản đồ rượu dễ đến trăm năm!

Từ trong ký ức, sông nước trong tôi không phải ở Cà Mau như đối với nhiều người, mà lại là ở Bến Tre của anh Ba Dũng, anh Sáu Dũng. Hai anh là hai vị chánh, Phó Giám đốc Nhà in Bến Tre (tôi không muốn gọi đúng tên là công ty CP in Bến Tre); họ đãi những người trên cao nguyên xuống thăm đồng bằng bằng một tâm hồn Nam Bộ. Tôi không thể nào quên được tấm chân tình của các anh với sự niềm nở tận tình không lẫn với phong cách vùng miền khác. Tôi được mời đi ca nô ra cửa Đại, ca nô bỏ lại đằng sau một vệt nước trắng dài, trời mênh mông, nước mênh mông, ca nô vượt qua những loại cỏ cây Nam Bộ trong bờ, tôi căng người ra thưởng thức và hít thở không khí trong veo của đất trời miền sông rạch. Sông nước là đây chớ ở đâu?

Hãy để cho dòng sông Mê Kông mang phù sa chảy mãi xuống đồng bằng Nam Bộ, sông mang phù sa bồi bổ cho những cánh đồng bạt ngàn sóng lúa như tình cảm người miền Nam thấm đẫm trong từng mạch đất quê hương.

Ẩm thực thời bao cấp

QĐND - Thứ Tư, 18/01/2012, 18:7 (GMT+7)

QĐND - Tem phiếu, gạo mậu dịch, cá biển ươn, thịt bạc nhạc, mắm thum thủm… là những ký ức có lẽ không bao giờ quên đối với mỗi người từng đi qua một thời có tên là bao cấp.

Nhà tôi 4 người, bố bộ đội, mẹ giáo viên, hai anh em đều được ăn theo. Thế tức là, tiêu chuẩn gạo một tháng của cả nhà lên tới 65kg, tạm đủ cho vấn đề lương thực. Đó còn chưa kể, gạo mậu dịch vốn nấu rất nở (trừ khi đong phải gạo tấm dính)!

Thức ăn mới là vấn đề. Một tháng 1,8kg thịt được mua theo tiêu chuẩn tem phiếu chưa bao giờ đủ cho gia đình. Để có thêm chút thức ăn cho hai đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn, mẹ cũng cố gắng tần tảo chạy chợ sau giờ đi dạy học. Thế nhưng, chẳng được bao lâu lại nghỉ vì giáo viên và “con buôn” là hai thực thể độc lập mà những “chuẩn mực” của xã hội không cho phép nhập thành một.

Thiếu thức ăn, mẹ xoay xở đủ cách. Hàng sáng tinh mơ, ba mẹ con, hai cái xe đạp đã ra khỏi nhà. Mẹ ôm hai chục cái vó tôm. Hai anh em tôi mỗi đứa một cái cần câu. Ba mẹ con đạp xe chừng 5 cây số, ra mấy cái đầm ở vùng ven đô. Mẹ cất vó tôm. Hai anh em tôi câu cá.

Ngày ấy, cá tôm còn nhiều, chỉ chừng 2 giờ buổi sáng, ba mẹ con đã kiếm được nửa cân tôm, một cân cá. Mang về, mẹ đảo qua tôm, rồi đem phơi. Còn cá, chủ yếu là cá diếc, mẹ cũng đảo qua với muối rồi phơi. Cá khô và tôm khô là hai thứ thức ăn dự trữ “chiến lược” cho những ngày đông rét mướt không kiếm chác được gì.

Những ngày ấy, chỉ cần thêm chút nước mắm, cả nhà tôi đã có món tôm hoặc cá rang khô ngon tuyệt. Cơm hết cả nồi to.

Những lúc thức ăn khan hiếm, hai anh em tôi nghĩ ra đủ trò. Bố mẹ đi làm, trưa chỉ còn hai anh em, thức ăn dù có dè sẻn thì cũng chỉ đủ hai lưng. Bí quá, anh tôi mang chút nước mắm ra đun đến lúc khô cong, chuyển sang màu trắng vàng, thơm thơm khác hẳn mùi nước nguyên gốc. Mỗi chấm đầu đũa là một miếng cơm to. Thơm, ngọt lạ thường. Thêm đôi bát cơm cho ấm bụng!

Một món nữa độc đáo hơn nhiều là ớt. Thuở ấy, đất trống ở Thủ đô còn nhiều, nhà tôi tạm chiếm dụng được một mảnh để làm vườn. Chẳng hiểu chất đất thế nào mà thứ cây trồng hiệu quả nhất lại là ớt. Đủ loại, ớt chùm, ớt chỉ thiên, ớt vàng, ớt đỏ. Cho, biếu chẳng hết, đành phơi khô làm ớt bột và ngâm giấm. Được ngâm trong giấm chua lâu ngày, chất cay của ớt đã giảm nhiều và chuyển sang chiều dìu dịu. Cộng thêm vị mặn của nước mắm, ớt ngâm giấm trở thành thứ đưa cơm đáng nhớ. Còn món ớt bột thì đơn giản hơn nhiều. Trộn đại với ít muối, cộng thêm quả chanh bứt ở vườn nhà, cho ra một món chẳng lấy gì làm ngon lành nhưng cũng đủ để tạm qua bữa.

Trẻ con thời bao cấp thèm đủ thứ. Một cái kẹo hoa hồng Hải Hà chỉ để ngậm cho tan dần trong miệng chứ không bao giờ dám nhai. Sợ nhanh hết! Thế nhưng, bánh kẹo là đồ “xa xỉ”, chỉ được ăn trong dịp Tết hay đám cưới.

Mỗi tháng, theo tiêu chuẩn tem phiếu, nhà tôi được mua 8 lạng đường. Mẹ dùng tiết kiệm lắm. Phòng lúc ốm đau còn có thứ mà pha. Nhưng trẻ con biết gì, thèm là lôi ra. Đường được cho vào nồi đun chảy vừa độ. Đơn giản thì để nguội là thành một thứ kẹo giòn tan, ngọt lịm, nhai rôm rốp. Cầu kỳ hơn thì đem trộn với ngô rang, thành món kẹo ngô. Ngô thời bao cấp đầy dấu mọt đục, nhưng nhờ vị ngọt của đường, vẫn vô cùng hấp dẫn.

Nhà khó là thế, nhưng thi thoảng, mẹ vẫn cố làm bữa tươi. Nhớ nhất là món canh bún. Rau muống tự trồng, cua bắt ngoài đồng, chỉ có bún là phải mua. Sợi bún ngày ấy to gấp đôi, gấp ba so với sợi bún bây giờ, lại trắng đục màu gạo.

Bát canh bún mẹ làm gồm có rau muống, bún, canh cua rồi thêm hành khô, tóp mỡ phi thơm. Bát bún nhiều màu sắc, màu xanh của rau được giấu dưới lớp bún trắng. Phía trên là màu vàng của hành phi, tóp mỡ. Màu đỏ của cà chua, màu nâu của gạch cua… Thời ấu thơ, bát canh bún quả là thiên đường!

Hồn quê từ tay mẹ

“Con Cò đi đón cơn mưa”. Con phiêu du vào giấc ngủ trẻ thơ. Khẽ dần, khẽ dẫn tiếng ầu ơ. Mẹ vội ra đồng, Cha đang oằn lưng ngoài đó.Từng tấc đất, mỗi gốc cây khát mong những giọt mồ hôi công chăm chút.chẳng kể chi: gió Lào rát rạt, gió Bắc rít vu vú, cúi gập người múc từng gầu nước đổ ải,  gánh 2 bó rạ lút đầu chạy mưa ngược gió…Thôi thì…Thôi thì... “Dẻo thơm một hạt”. Chúng con lớn khôn bằng “của Ngọc Thực”  từ đồng đất quê nhà với lượng mồ hôi vô định của Cha Mẹ, cùng những đêm hai người ai cũng muốn thức trắng chườm lá trầu lá ngải cho con, mà chỉ dành phần mình miếng cháy,mẩu xương,thâm nâu vá víu. Mãi mãi khắc ghi công lao Trời Biển lận đận thân Cò thân Vạc. 

 Cánh cò, cánh đồng gợi trong tâm trí tôi nhớ quê đến nao lòng.

Trên đồng đất quê tôi khi cò thi nhau sải cánh ấy là khi những người đẩy riu chậm rãi từng bước để lừa những con tép đen, tép đỏ trong đám rong, rêu rác vào bầu riu. Khi bóng cò vơi dần là lúc heo may về- bắt đầu vụ đơm đó tép. Cảm giác thích thú khi búng vào cái trúm nghe tép nhẩy rào rào, nhưng không thấy tép nhẩy mà nhấc trúm lên nặng trĩu thì mừng lắm. Tép đầy chặt trúm-Cha nói vậy. Những khi nước ròn một đêm đổ đó- thu hoạch tép đến hai lần. “Đêm đông đen đốt đèn đi đâu đấy. Đốt đèn đi đổ đó đây”!. Năm sáu chục năm về trước, trai gái quê tôi có cớ mở đầu câu chuyện tâm tình như vậy; rồi tay trao tay mấy hạt ngô rang, củ khoai nướng- sản phẩm đồng quê đã tạo cho nụ cười thầm ước thêm thi vị.

Giờ đầu tiên của môn hóa học. Thầy giáo đưa ra một thếp giấy kẻ ngang, cười nói “em nào giải thích được: chục năm, chục ba là gì thì sẽ được nhận phần thưởng này”. Tôi giơ tay. Thầy mang phần thưởng đến tận bàn khích lệ. Thưa thầy đấy là cách làm mắn, làm tương, làm nước cua ạ!. Cả lớp cười ồ, mấy đứa con gái cười ngặt nghẽo. Đúng! Thầy vỗ tay,cả lớp vỗ tay theo. Em nói cho cả lớp nghe do đâu mà em biết? Thưa thầy em thấy mẹ em làm mắn làm tương ạ. Đúng! Mười bát tẹp loại này phải dùng năm bát muối, nhưng mười bát loại kia thì chỉ được dùng ba bát muối thôi!. Công thức. Đấy chính là công thức. Vật chất ngày càng đa dạng, bền đẹp, phần nhiều có xuất phát điểm từ công thức. Linh hồn của môn hóa học là công thức- thầy cao giọng.

Phải chăng sự mưu sinh của các bậc Tiền Nhân là tiền đề của bộ môn khoa học!?. Sự tảo tần của mẹ là minh chứng của môn hóa học là đấy!

          Những hũ mắm tép đỏ tươi mới làm có nêm chút hương vị được mẹ che đậy cẩn thận phơi ngoài nắng yếu, nắng gắt thì phải chuyển vào chỗ râm ngay chứ không thì bị trào hết. Giữa mâm đầy rau muống luộc xanh giòn khi là bát mắm tép đỏ tươi béo ngậy khi bát nước cua vàng sánh…Theo bàn tay Mẹ mắm tép, mắn chua, nước tương, nước cua, nước bỗng, mùa nào thức ấy... Tất cả đều có từ nước, từ đất của cánh đồng làng, chất chứa trong đấy bao nhiêu mùi thơm vị béo. Nhưng trên tất cả là hương vị đặc biệt- hương thơm từ lòng Mẹ!. Mẹ ơi! Mấy năm học cấp ba trường huyện, những ngày trực tuần, lao động. Cơm nắm ăn riêng nhưng đùm mắn tép chưng tóp mỡ được mẹ gói trong là môn cho con bao giờ cũng hết sớm. Con về kể cho Mẹ nghe lời các bạn chọc vui: “Năm nay mất mùa tép ạ, tại con trai các cậu ăn tham thì có”!. Gương mặt Mẹ rạng ngời, hạnh phúc.

Ngày con quay vào đơn vị để đi B Mẹ cũng cho mang theo một đùm mắn tép. Con hiểu lòng Mẹ: Ra đi luôn gặp ĐỎ luôn có Mẹ ở bên. Hồn quê đấy.

Mẹ sinh ra chúng con bên luống cầy, luống cuốc. Sản vật từ đồng đất quê mình qua bàn tay Mẹ thoắt trở thành đẳng cấp.

Cha Mẹ đã về với Tiên Tổ mấy chục năm nay.

Những món ăn hàng ngày không còn là của Mẹ cho. Dù có cất công tìm kiếm tận góc bể chân trời cũng không có được

Mùi thơm vị béo vẫn còn nguyên trong ký ức hồn quê.

Gió chướng lại về       

   Võ Đắc Dự, một gã bạn cũ của tôi, quê gốc ở miệt đồng bưng Giá Rai, giờ lên Sài Gòn định cư để viết kịch bản phim và làm báo, vừa điện thoại cho tôi bằng cái giọng nghe thiết tha đến lạ: “Gió chướng về nhớ nhà quá anh ơi! Em leo lên mấy cái nhà cao tầng cũng chỉ để hít lấy hít để cái ngọn gió mát rượi ấy rồi nhìn về hướng đồng cũ mịt mờ sương khói mà ứa nước mắt!”. Dự nó nói thế thôi chứ nó còn cái nhà nào nữa đâu ở miệt đồng bưng xa lắc này, có còn chăng là một căn nhà lặn thật sâu trong ký ức. Cũng như tôi, vẫn còn đó trong lòng một ngôi nhà đìu hiu, một cánh đồng phèn mặn mà tôi đã gửi lại đó một tuổi thơ cơ cực. Để rồi mỗi độ gió chướng chớm mùa là tôi ngồi thừ ra với nỗi nhớ nhà đến quay quắt…

           Gió chướng là một ngọn gió gợi cảm lạ lùng đối với những người có gốc rễ ruộng đồng. Nó mang tất cả những mát mẻ của đất trời về xua tan cái không gian bức bối của mùa hạ, bầu trời bỗng rộng mở, khoáng đạt hơn. Gió chướng về để kết liễu 6 tháng mùa mưa phương Nam sũng nước, cho đồng khô, đường khô, làng xóm trở nên vui hơn bước vào chuẩn bị Tết. Gió chướng về là mùa no ấm theo về. Bởi thế dân gian xưa gọi mùa gió chướng là mùa vui, mùa no ấm. Tất cả những điều trên có một ý nghĩa đặc biệt đối với những người nông dân nghèo khổ. Vì thế, nó hằn sâu trong ký ức mà có khi đến hết cuộc đời cũng không thể nào quên.

                 Tôi và Dự rút bàn chân nạm phèn vàng quánh đi làm người kẻ chợ sau ngày đất nước thống nhất một tý. Hồi đó tôi 15, 16 tuổi, còn Dự thì 13, 14 tuổi gì đó. Như vậy, chúng tôi đã trải hết tuổi ấu thơ trên đồng ruộng. Đó là cái thời đói nghèo lạc hậu lại bị chiến tranh đày đọa. Tôi nhớ rất rõ, thập niên 70 của thế kỷ 20 trở về trước, làng quê vùng Bạc Liêu - Cà Mau là những xóm làng thưa thớt, đìu hiu mái lá giữa những cánh đồng hoang hóa lâu đời. Chiều xuống, sương khói mịt mờ trông buồn đến tái tê lòngù. ở đó có nhà chúng tôi. Nhà chúng tôi cất lên để định cư mà đi trồng lúa. Cây lúa là niềm khát khao cháy bỏng. Hạt lúa được làm ra vất vả đến xót xa và nó thiếu thốn đến cỡ làm người ta mê tín. Hồi đó chưa có hệ thống thủy lợi, thủy nông như bây giờ, cho nên tháng 8 âm lịch là mưa dầm nước lụt, nươc ngập đến bụng trâu. Nông dân phải lấy những giống lúa mùa có chân rạ cao để lúa theo kịp nước. Đó là những giống lúa mùa muộn có chu kỳ sinh trưởng rất dài ngày, lại ít kháng sâu bệnh, nhát gió và sợ mặn. Thế nên, năng suất rất thấp, khoảng 7 - 8 giạ một công. Có năm thì thất trắng, nông dân bó gối nhìn ra đồng với đôi mắt đỏ hoe và một tiếng rên bật ra: “Mùa tới không biết lấy gì mà ăn?!”.

                  Những năm lúa trúng thì đồng vui như mở hội. Gió chướng về là mùa gặt theo về. Đó là lúc đồng rút nước, gió chướng phóng khoáng tràn về làm rùng rùng đồng lúa. Lúa chín cong trái me. Nông dân ra đồng nhìn những những con cá rô đen trũi nhảy lên đớp bông lúa chín nghe rèn rẹt mà sướng con mắt, mà mơ màng nghĩ về một cái Tết thật vui, có pháo nổ, có nồi bánh tét, thịt kho hột vịt. Còn bọn trẻ chúng tôi thì ra đồng mót lúa đem bán, tiền bạc trong túi rủng rẻng. Có đứa mót đủ mua 2 bộ đồ vải sọc mặc Tết. Lúc đó đồng vui lắm, dân miệt Tiền Giang đi ghe thương hồ đổ về đây gặt lúa, tốp xách lúa lên ngố, tốp khác thì dắt trâu kéo lúa bó về sân. Đồng đất rộn ràng từ sáng đến khuya. Vào những đêm trăng sáng,  người người trong xóm đạp rơm, đập lúa đến khuya. Trai gái của làng, của những tỉnh khác xuống vừa làm, vừa rạo rực với những câu hò đưa duyên cao vút, lan dài theo ánh trăng bàng bạc. Sau đó tiếng quết bánh phòng, cốm dẹp… nổi lên, làng xóm vui tươi như mở hội cho tới Tết, an ủi đời nông dân đói khổ.

                   Gió chướng không chỉ báo hiệu mùa gặt mà nó còn quy định mùa vụ khác. Miệt Hậu Giang nổi tiếng nhiều cá tôm, thế nhưng cá tôm cũng có vụ, có mùa. Bắt đầu từ đầu mùa mưa, đồng đất lênh láng nước thì cá mắm lên đồng hết, rất khó bắt chúng. Ngày xưa nông dân có một câu thường để hỏi thăm nhau: “Có gì ăn không?”. Câu trả lời thường gặp là “Chan chát” hay “Cơm cục chấm cơm rời”. Mùa cấy, nhổ mạ… lao động rất vất vả mà bữa cơm thường gặp là mắm chưng hoặc ba khía muối ăn với bí rợ hầm dừa. Bọn trẻ con nhà nghèo của những làng quê nghèo với nếp sống 2, 3 tháng chưa đi chợ một lần đói xanh xao vì cơ thể thiếu dưỡng chất. Đường, mỡ… là thực phẩm kiêng khem vì sợ mập của những người có tiền ngày nay, nhưng với chúng tôi thì chảy nước miếng khi nhắc đến. Một nồi cá kho tộ, má tôi cũng chỉ dám cho vào nửa muỗng canh mỡ cho có mùi. Mỗi lần gắp được miếng tóp mỡ là chúng tôi như gặp cảm giác của người đào vàng bắt gặp cục vàng to. Món ăn mà đứa nào cũng cực khoái là mỡ chan cơm, vì thế má tôi hay chửi bởi hũ mỡ bị mất vô cớ. Vậy mà rồi chúng tôi vẫn đánh cắp mỡ, bởi đó là chén cơm ngon đến cỡ làm cho thần kinh vị giác “khải khúc mê ly”.

Còn đường, thứ mà ngày nay người ta sợ mập cũng là nỗi thèm khát của bọn trẻ. Thỉnh thoảng đi chợ, má tôi ít mua bánh trái, chỉ mua mấy thẻ đường về chia cho các con. Cầm cái thẻ đường vàng nghệ trên tay, chúng tôi cũng chỉ dám nhấm nháp vì sợ nó tan nhanh… Ăn uống kham khổ, thiếu thốn quá nên lũ trẻ xác xơ, còi cọc, giò cẳng như ống sậy. Để giải quyết sự thiếu dinh dưỡng thường trực của cơ thể, chúng tôi vào rừng, hái trái rừng như dừa nước, trái cơm nguội, chòi mòi… ăn đỡ. Mà trái rừng cũng không phải mùa nào cũng có. Và lạ lùng thay, thiên nhiên chỉ ưu đãi khi mùa gió chướng về. Gió chướng thổi đến đâu là đời nghèo khó no ấm đến đó. Đầu tiên là mùa lúa chín (như đã nói trên), kế đến là mùa trái chín, và sau nữa là mùa cá cũng bắt đầu.

                    Cây me sau nhà trái đang xanh ẻo, chua lét, khi có mấy ngọn gió chướng thổi về là như có phép mầu, chúng chuyển sang màu xám và dốt bột (mới chín). Dưới bến sông, mười quày dừa nước thì đã có chín quày thịt dày cơm vừa ăn. Dây đậu rồng mọc bên hàng giậu từ đầu sa mưa chỉ chờ đến khi gió chướng về mới chịu đơm bông kết trái. Cái ao sau nhà chỉ một đêm khi gió chướng về mà mặt ao tím ngắt vì bông súng nở đầy. Và cũng chỉ một đêm, sáng thức dậy người ta bỗng giật mình khi hàng so đũa nở bông trắng bờ đê. Gió chướng về là nước rút dần đến khô đồng. Vậy mà không biết vì sao trong cái khô hạn ấy, đám cải trời mọc lên xanh non giống như cỏ cây vào đầu sa mưa. Nhìn đám cải trời khiến ta thèm một nồi canh cải trời nấu với tép, rồi nêm một chút mắm đồng.

                     Mùa cá cũng đã theo gió chướng về ngự trị khắp làng quê. Trên đồng thì nước rút, cá theo nước về kinh để chuẩn bị vào đìa. ở các đầu kinh, mặt đập, cá ăn mống như cơm sôi. Nào là cá lóc, cá rô, cá sặc, cá trê, cá thát lát… và có cả tôm càng nữa. Người quê đổ ra đồng bắt cá bằng nhiều cách: giăng lưới, cắm câu, làm hầm… Tôi khoái nhất là vào sáng tinh sương, trong cái tiết trời lành lạnh của tháng cấn bấc, bọn nhóc rủ nhau quảy giỏ đi thăm hầm. Những chiếc hầm đào đón luồng cá từ đồng rút về đìa có khi trong một đêm bắt được cả chục ký cá. Những năm nước rút nhanh quá, cá xuống kinh không kịp nên nằm thoi thóp chịu trận giữa đồng. Thế là nông dân đi bắt, gọi là bắt cá cạn.

                     Lạ lắm! Không chỉ trên đồng, mùa gió chướng về, ở dưới sông, cá cũng về nhiều hơn. Đó là mùa đánh cá của các cư dân triền sông. ở quê tôi thì vào mùa chất chà đánh lưới cá chẻm… Sáng ngủ thức dậy bơi xuồng đi thăm lưới cá chẻm vào con nước rong là mê nhất. Những con cá chẻm to 5 - 7 ký treo lủng lẳng trên lưới nhìn mê lắm!

                      Gió chướng về là những cánh đồng, cụm rừng, các dòng sông và cả xung quanh nhà nông dân đầy những thứ ăn được, không còn cái cảnh “chan chát”, hay “cơm cục chấm cơm rời” như sáu tháng mùa mưa. Họ chọn những con cá chốt to nấu canh chua cơm mẻ với bông so đũa, bông súng. Cá trê vàng đem nướng dầm nước tép chao ăn kèm với đậu rồng hay bắt tôm càng nướng bóp gỏi củ cải trắng… Bữa cơm mùa gió chướng làm người ta ăn đến căng bụng, mồ hôi vã ra, dường như tất cả thớ thịt trong một cơ thể thiếu dinh dưỡng đều nhảy múa. Thế rồi, một tình yêu đồng đất quê hương chợt đến. Người quê cảm thấy đất quê như người mẹ thứ hai nuôi mình lớn khôn. Đất quê đã dệt nên cái hồn quê sâu thẳm trong mỗi người quê, nó ăn sâu vào tiềm thức mà có khi đến chót vót cuộc đời cũng không làm sao mà quên cái nợ cưu mang của đồng đất. Tình cảm đó có lúc vơi, lúc đầy, nhưng tôi dám đoan chắc rằng, nó sẽ bùng lên làm ta thổn thức khi gió chướng chợt về.

                        Không phải chỉ có Võ Đắc Dự mà nhiều bạn bè đi xa của tôi cũng có những nỗi niềm “thổn thức gió chướng” như thế. Có thằng từng bôn ba giang hồ, giáp mặt với bao cạm bẫy, giông bão cuộc đời, có đứa văn chương thơ phú lừng danh trong thiên hạ… Thế nhưng, tất cả đều biến thành trẻ con trước mấy cơn gió chướng chớm mùa. Gió chướng về là bọn họ nháo nhác như vịt lạc đàn. Có người thì còn nhà ở cố hương để tìm về, có kẻ không còn cái nhà của thời thơ ấu thì cầu cứu đến bạn bè ở quê. Tôi cũng thường được cánh báo chí, văn chương ở Sài Gòn nhiều lần cầu cứu như thế. Cũng may là tôi có một căn nhà trong ruộng, trước mặt nhà là cánh đồng xanh mênh mông cánh cò, sau hậu đất là dòng sông Bạc Liêu uốn lượn với rặng bần, lá dừa nước đã 100 năm qua vẫn soi bóng như thế. Bạn ở xa về tôi cho họ tự đi giăng lưới cá rồi tự đi ôm rơm mà nướng trui, tiệc nhậu được dọn ra ở chòi lá giữa đồng… Nghĩa là tôi đưa họ về sống với không gian của miền ký ức xưa cũ. Một thằng bạn được tôi đãi món canh cải trời nấu với tép, nêm mắm đồng thì hắn xoắn lấy cái tô canh vừa chan vừa húp trong niềm khoái cảm, rồi sau đó ngồi thừ ra mà ứa nước mắt: “Đã hai chục năm rồi tao mới lại được ăn canh cải trời. Đó là món canh ngày xưa má tao hay nấu. Má tao một đời áo vải, khuya sớm trên đồng sâu, chỉ nuôi con bằng những món ăn dân dã như thế. Giờ bà đã hóa thành cánh cò, cánh vạc khi tao chưa trả hiếu một lần. Ăn canh cải trời tao nhớ má tao!…”.

                          Đứng trước những cảnh ấy, tôi ao ước có tiền, tôi sẽ làm một gian trưng bày những dụng cụ nhà nông như cây cày, cây trục, cái ách trâu, cái vòng gặt, cây cù nèo, cây phảng… Phía sau nhà tôi chất một đống rơm và sau nữa là một ruộng lúa nhỏ được cấy những giống lúa mùa muộn… để tôi tặng bạn bè đi xa của tôi cái không gian của ký ức, tặng những người trẻ tuổi một điều mà họ chưa từng trông thấy, là: Ngày xưa, ông bà cha mẹ ta đi khai hoang lập ấp, làm ra hạt lúa khó khăn đến chảy máu con mắt! Họ sống một cuộc sống vô cùng vất vả! Và niềm mơ ước nhỏ nhoi, đơn sơ của họ là mong chờ những mùa gió chướng hàng năm lại về.     

Nuôi lợn…liệt truyện

Hôm trước có entry “Tập thể…liệt truyện”, em Vân Linh của WB bên Washington DC đọc xong, liền vào phòng chào anh Cua. Em cười và nói thích những chuyện thời bao cấp. Vân Linh bảo, anh viết truyện nuôi lợn ở nhà cao tầng đi, em giúp cho vài tích. Rồi em vừa kể vừa lau nước mắt.

Người nuôi lợn và lợn…nuôi người?

Những năm cuối 1970, chẳng hiểu ai nghĩ ra nuôi lợn giữa thủ đô đầu tiên. Do đói kém, không có gì ăn đành phải tăng gia, nuôi gà vịt kể cả lợn, dù ai cũng biết là bẩn thỉu cảnh người lợn, lợn người cạnh nhau.

Sau đó, phong trào lên cả những nhà cao tầng. Vào khu tập thể, thay vì hỏi gia chủ có mạnh khỏe không, câu chuyện bắt đầu bằng những chú lợn.

Bác Tâm, hàng xóm ở Thành Công, có ông chồng gầy ho sù sụ cả ngày, nhưng nuôi lợn cực giỏi, béo tốt hơn cả chồng con.

Nhà bác thường nuôi hai con, theo bác nói, để chúng tranh nhau, háu ăn, chóng lớn. Tính bác hơi chan chát, nhưng tốt tính, có lẽ vì thế mà có tay nuôi lợn.

Mang mấy cái xô nhựa đi gửi tầng trên, tầng dưới, lấy nước gạo, thức ăn thừa, rau muống già để không mất tiền thức ăn. Lợi đủ đằng. Mấy ngày Tết thì lợn hưởng như người, có có cả bánh chưng thiu hay giò mốc vì để dành.

Người ta thường chọn lợn cái, ít người mua lợn đực. Bọn thiếu nữ lợn đến tuổi động đực, kêu réo cả ngày không chịu ăn gì, má cứ đỏ hây hây. Các cụ nhìn qua phía đuôi cũng biết là cần kế hoạch hóa gia đình cho nàng.

Thế là có dân hoạn lợn từ Gia Lâm qua Long Biên vào thành phố. Đang làm thơ lãng mạn, anh thương yêu em đến cuối đời, anh thề nguyền sẽ chung thủy, thì bỗng có tiếng rao “Hoạn lợn đây, hoạn cả lợn nam, lợn nữ, một phát ăn ngay, không sót trứng, không bỏ tinh hoàn, hoạn xong, lợn lớn như Thánh Gióng”. 

Có lần mình sang chơi nhà bác Tâm, giả vờ khen lợn mới hoạn có vẻ chóng lớn. Bác sa sầm nét mặt vì người ta kiêng khen, nhưng cũng chẳng thích chê. Tốt nhất là ngắm lợn từ xa và tự chiêm nghiệm cuộc đời xem có giống lợn hay không.

Quả thật, hôm sau bác than, chẳng hiểu sao lợn ỉa lỏng, không chịu ăn gì cả. Hai vợ chồng đang lo mất ăn mất ngủ. Nhưng mấy ngày cuối tuần, bác vồn vã gọi, chú Cua vào chơi xơi nước, cứ tưởng do vía chú độc nên lợn ốm, rủa chú oan.

Hóa ra từ hôm chú sang chơi, lợn vật vờ do đau vết hoạn, nay khỏe hơn. Cứt lợn bây giờ khô lắm, tôi có thể bốc tay cho vào chuồng xí được. Chú ăn lạc, uống nước đi.  Lợn ỉa vón cục mừng hơn cả chồng vừa dứt cơn hen.

Vân Linh kể rất tội nghiệp. Bố mẹ cũng nuôi chú lợn trên tầng 3. Thiếu nước ăn, tắm giặt cho người nhưng vẫn phải đủ nước để dội phân, tắm mát cho lợn.

Em là con gái mới 8 tuổi vào đi ị, sợ hết hồn, vừa ngồi vừa run. Con lợn gần tạ cứ ủi em ngã đổ vào tường để tranh thức ăn…thải.

Bây giờ lấy chồng, có hai con, định cư bên Mỹ rồi. Em vẫn có giấc mơ Mỹ không thành là nuôi heo bên xứ cao bồi để dạy con cái. Có trải qua gian khổ mới nên người.

Em kể, hồi đó vào mùa Tết, nhà được phân phối 1 kg thịt bò, sang lắm. Các cụ kho mặn rồi để trên bếp dầu, dành cho các con ăn dần ba ngày Tết. Cạnh đó là chuồng lợn, chính là cái buồng tắm, đã ngăn bằng một cái vỉ tre rất to và chắc. Cả nhà yên tâm đi chơi đón Giao thừa.

Khuya về thấy cái vách ngăn tung lên, nồi thịt bò bị lợn xơi sạch hết sạch. Các con nước mắt ngắn dài, tiếc nồi thịt đứt ruột. Thế là hết Tết.

Nhưng hai cụ còn lo lắng hơn khi thấy con lợn 50kg đang kêu réo, chõ mõm vào cái xô nước đã cạn tới đáy.

Hóa ra cu cậu chén cả nồi thịt bò mặn quá nên khát nước. Uống bao nhiêu nước cũng chẳng ăn thua. Mấy ngày liền toàn nằm thở, bụng chướng, tưởng không qua khỏi. Mà lối đời, thịt lợn ốm không bán được cho ai, có bán cũng như cho.

Run lập cập, các cụ thắp mấy nén hương, khấn trời đất giúp cho lợn tai qua nạn khỏi. Giời có mắt, thương người nghèo, chú lợn khỏi bệnh nan y thời đại “đời lợn ăn mặn, đời chủ tràn nước…mắt”.

Được 80kg, bố mẹ bán cho hàng thịt và lấy cả cái thủ chiêu đãi các con đã phải nhịn thèm mấy ngày Tết vì mất nồi thịt bò.

Nhớ thời lụt lội ở bến Chương Dương, người ta thấy một người đàn ông cởi trần, lội nước đẩy một cái bè, sơ tán cả nhà lên đê sông Hồng. Trên cái bè là bà vợ vung vẩy tay chỉ đạo. Bên cạnh là cậu con trai cởi truồng, rét run nhưng vẫn vỗ tay hoan hô.

Trên cái bè là một cái giường, đủ chăn chiếu, chú lợn to tướng nằm ủn ỉn. Lợn phải tránh nước lũ rất độc, nếu không sẽ ốm, mất cơ nghiệp.

Sự phân chia giai tầng rất rõ thời đó: CỤ LỢN trên giường, ÔNG CON trên bè, BÀ VỢ đứng chỉ huy và THẰNG CHỒNG lóp ngóp đẩy bè.

Chuyện của Giáo sư Văn Như Cương kể vui về một gia đình trí thức còn thú vị hơn. Hai vợ chồng nhà nọ thấy khổ quá, cũng bắt chước nuôi lợn. Chả biết có lãi gì không nhưng hàng xóm ghen ăn tức ở, báo công an.

Nhà công lực lập biên bản “Giáo sư XXX nuôi lợn, vi phạm qui tắc vệ sinh thành phố. Phạt vi cảnh 5 đồng (lương hồi đó 60 đồng là to lắm), và phải bán lợn ngay lập tức”.

Giáo sư xem xong và đề nghị “Các anh giúp sửa một vài từ trong biên bản, tôi sẽ ký và nộp phạt ngay”.

Hỏi ra mới biết ông đề nghị sửa “Lợn nuôi giáo sư XXX” cho đúng hoàn cảnh gia đình nhà giáo nghèo và lương thiện.

Nghe nói mấy anh công an gạt lệ ra về và suy tư về thời đại “Lợn nuôi người”.

Thịt lợn…trộm

Những năm 1960, nhà ai nuôi lợn phải đăng ký với UB. Thịt, mua bán đều làm đơn trình báo, rồi nộp thuế khá cao. Lợn nhà mình bỏ tiền ra mua, nuôi bằng nước gạo và cám nhà mình, nhưng thuộc sở hữu nhà nước.

Dân thì vốn gian. Chả ai dại gì đi nộp thuế vài đồng một đầu lợn, trong khi cả con lợn chỉ được vài chục đồng. Thế là có chuyện thịt lợn trộm, đủ kiểu, đủ bài. Công an hay dân quân, kể cả lính nhà đoan cũng phải lắc đầu.

Ông Thiêm hàng xóm nhà Cua nổi tiếng là đồ tể lợn. Cụ chọc tiết một phát là đầy chậu, lợn chết ngay tắp lự. Quan trọng nhất là lợn không kêu thành tiếng. Eng éc là hàng xóm đi báo công an xã, họ đến tịch thu cả lợn, lại còn phạt tiền, sạt nghiệp, rồi phê cả vào lý lịch, gia đình không gương mẫu, con cái khó vào đoàn Thanh niên.

Bài giết lợn của cụ Thiêm thật đơn giản. Cho cái vồ vào đầu, lợn ngất, cho ngay bàn lên chọc tiết. Chậm chút là lợn chết, tiết không ra thì thịt đỏ và hôi. Lũ trẻ được giao trách nhiệm trông dân quân đi tuần. Nếu ai lạ thì cảnh báo, chả khác gì ngoài chiến trường.

Một nồi nước sôi cạnh bụi tre, cạo soàn soạt 10 phút xong chú lợn. Chia phần chính xác đến từng khúc ruột kể chim lợn. Các cụ còn gọi là đánh đụng, nhà ông một đùi, nhà tôi nửa đùi, cắt cắt, xẻ xẻ, trong nửa tiếng, con lợn biến mất như chưa từng có trên thế gian này.

Sáng sớm hôm sau, bà già gầm lên, cha tiên nhân năm đời, mười đời nhà đứa nào ăn trộm lợn của bà. Mày ăn rồi mày nôn thốc thốc nôn tháo, chẳng được nên người.

Đó là thông điệp ngầm cho chính quyền địa phương về con lợn “biến mất” đêm qua. Làng Tụ An ấy cứ vài ngày lại có cảnh mất lợn và tiếng chửi vang như hát hay.

Dân quân xã tới lập biên bản và tìm quanh thấy cả một đống lông lợn cùng phân tro ngoài bụi tre. Hỏi, sao bọn trộm giỏi thế, ăn cắp con lợn to tướng, không ai biết, chó không cắn, mang ra bụi tre, đun nước xẻ thịt, không ai hay thì thật lạ. Đây là con dao bầu của nhà bà Ba phải không.

Sau này còn nghĩ ra kiểu cho mấy hạt đậu vào tai lợn, lợn lọng óc không kêu, cứ thế mà chọc tiết.

Thời mở cửa, dân đồ tể châm điện, lợn giật một cái là…đi, không kêu thành tiếng vì sợ ô nhiễm tiếng ồn trong khu phố.

Có lần bà già đánh đụng thịt lợn của hàng xóm, mang về xào nấu thơm lừng. Bỗng dân quân ập vào kiểm tra. Bà vội mang cái chã đầy thịt ra bụi tre giấu. Họ đi khắp trong nhà, dưới bếp cũng không tìm ra.

Dân quân đi rồi, bà ra lấy lại, thì than ôi, kiến vàng bu đầy. Vừa thổi vừa đuổi kiến, lũ con háu ăn chén tất. Kiến vàng hơi đăng đắng, cũng chẳng sao, so với mùi thịt lợn thơm và nước mắm tép vàng ươm chén với cơm trắng đầu mùa, Tổng Cua chưa thấy cao lương mỹ vị nào bằng.

Bây giờ nuôi lũ con sao mà khó thế. Thịt kho tầu cực ngon, chúng bỏ hết mỡ, chỉ ăn nạc, lại còn chê ỏng chê eo, sao nhà mình toàn ăn pork.

Giá như chúng đọc những dòng này sẽ hiểu tại sao, mỗi lần nhìn lũ con chê cơm, vứt thức ăn vào thùng rác, rồi sợ mỡ trong máu, Tổng Cua rơi nước mắt.

Chả hiểu từ bé sống no đủ,  Bin và Luck có nên cơm cháo gì không. Thằng bố của chúng ngày xưa, cả năm được vài miếng thịt lợn trộm mẹ mua ăn với kiến vàng, rồi cũng nên người.

Quà một thời

Tôi là một người có “tâm hồn ăn uống”. Cái thân hình đều đặn ba vòng bằng nhau bây giờ là kết quả (hay hậu quả?!) của mấy chục năm miệt mài thưởng thức một cách hết sức nhiệt tình những món ngon và chưa ngon của hầu hết những quán hàng tiệm ăn to nhỏ lớn bé trong lòng thành phố! Ăn trong nhà hàng máy lạnh có nhạc nhè nhẹ êm dịu mọi người nói năng nhỏ nhẹ lịch sự hay ăn trong một quán nướng ồn ào tiếng cụng ly côm cốp cười nói rân trời của mấy ông bợm nhậu, hay ăn nhỏ nhẻ mát mẻ trong một sân vườn cạnh bờ sông bốn bề gió lộng nước lách tách vỗ sóng bên sàn gỗ dưới chân...

Tôi đã ăn cùng với bạn bè, người thân, người yêu và cả với người ghét (thí dụ như phải đi ăn đám cưới của cảnh sát khu vực chẳng hạn!) những món ăn đã có từ thời xưa hay những món vừa được sáng chế ra lúc mới đây, những món có tên gọi bình dân hay những món nghe nghĩ mãi chẳng biết là món gì bởi cái tên gọi vừa cầu kỳ vừa bí hiểm! Có món tôi thích, có món không. Nhưng chưa bao giờ có một món ăn nào làm cho tôi chợt ngẩn người vì một nỗi nhớ nhung lạ lùng, đến dường như khắc khoải, như trong một lần gần đây khi đi qua một ngôi trường tiểu học nhỏ nằm cạnh một đường ray xe lửa, trong khi đứng chờ bên cạnh thanh chắn ngang đường ray, giữa tiếng bánh sắt nghiến rầm rập, hình ảnh hai em bé học sinh cùng uống chung một chiếc ly nhựa nhỏ nước xi-rô bất giác làm tôi nhớ đến món quà của tuổi nhỏ ngày xưa, bây giờ không còn thấy bán nữa: cục đá nhận! Và tôi nhớ đến bàng hoàng tha thiết những món quà hồi tôi còn nhỏ, những món quà của một thời!

Ồ, nói ra thì thấy lạ lùng, chứ hồi nhỏ quả không mấy ai là không mê cái vị ngọt lạnh dễ chịu của cục đá nhận mà cách làm vừa đơn giản vừa… mất vệ sinh của xe nước giải khát bán ở cổng trường! Có lẽ khi ấy kem cây chưa có nhiều, lại mắc, không phù hợp với túi tiền ít ỏi của lũ học trò nhỏ chúng tôi, nên cục đá nhận vừa lạnh vừa ngọt, có màu sắc rực rỡ lại rẻ tiền được hoan nghênh số một!

Người bán hàng dùng một cái bàn bào nước đá bằng gỗ bốn chân có một lưỡi dao bào bằng thép trên mặt đặt cục nước đá lên, bào ra những vụn đá tơi xốp trắng toát đầy cái đĩa nhôm nhỏ hứng ở dưới, nhanh nhẹn dùng một cái ly nhựa nhỏ hốt đầy đá bào vào ấn chặt như cách ta làm bánh bằng khuôn, gõ nhẹ cho cục đá bào đã được nén chặt trong ly rớt ra, vớ lấy chai xi-rô màu xanh, đỏ hay vàng theo yêu cầu (xanh lá cây là mùi bạc hà, vàng là chanh, đỏ là cam hay lựu) trên nắp chai xi-rô bằng nhựa đã đục sẵn một lỗ nhỏ, xịt mấy cái trên cục đá nhận cho nước xi-rô thấm vào, vừa xịt vừa khéo léo xoay tròn cục đá cho màu loang đều, có khi còn rưới thêm một chút nước chanh muối lên trên nếu được nằn nì xin thêm. Đứa học trò trả tiền chộp ngay lấy cục đá nhận ngửa cổ mút lấy mút để vị ngọt lạnh trong lúc đứa bạn không có tiền kiên nhẫn chờ kế bên đợi khi cục đá nhạt màu vì đã gần hết xi-rô thì được mút ké một chút, cứ thế hai đứa nhỏ vừa đi vừa kề đầu chụm vai chia nhau một cục nước đá nhận đã hết cả vị ngọt lẫn mùi thơm, chỉ còn trơ cái lạnh và nhạt trên đầu lưỡi bị nhuộm màu!

Ở cổng trường tiểu học của tôi hồi đó có nhiều hàng quà rong lắm. Mặc dù đã có lời dạy không nên ăn quà vặt nhưng hầu hết học sinh đều vi phạm bởi sức hấp dẫn của những món quà này. Mà ngày xưa thì quà bánh cũng chẳng lấy gì làm phong phú đẹp đẽ như ngày nay, chỉ những món đơn giản rẻ tiền mà sao nhớ nhung đến thế, hay vì trong những món quà thời ấy còn chất chứa cả một thời trẻ dại hồn nhiên chưa biết nghĩ suy gì?! Trẻ con ngày nay đi học hầu hết đều được cha mẹ đưa đón bằng xe riêng, ít thấy em nào đi một mình, hàng quà lại bị cấm bày bán trước cổng nên chẳng còn cảnh lê la ăn quà trước khi vào lớp như chúng tôi ngày xưa. Hồi tôi nhỏ, đi học toàn là tự đi bộ một mình, mấy đồng bạc cắc đút túi cứ như muốn nhảy ra khỏi tay trước những mẹt quà bày sát lối vào trường, thôi thì đủ món đủ thức tùy theo mùa theo vụ:

Đây là hàng bánh tráng kẹo có bà bán hàng mặc áo nâu nhanh nhẹn trở bánh trên bếp than nhỏ trong một cái nồi bầu miệng loe bằng đất nung, vừa thoăn thoắt bẻ bánh mới nướng xong còn đang nóng hổi, kéo những đường mạch nha dẻo quẹo trên mặt bánh rắc lên nhúm dừa nạo trắng muốt rồi gập đôi miếng bánh lại, món quà này tương đối mắc tiền, chỉ khi nào có tiền nhiều một chút tôi mới ăn.

Đây là mẹt hàng của một chị còn trẻ tuổi tóc búi gọn phía sau gáy, bán đủ thứ bánh kẹo xanh đỏ rất ưa nhìn: những cái bánh bằng bột gạo nướng với đường nhỏ xíu tròn tròn như những cái móc dùng để treo màn cửa màu vàng cam được xâu từng chùm vào một sợi dây lác để đeo vào cổ như một sợi dây chuyền, những xấp me ngào bột màu nâu đỏ nhỏ cỡ đồng xu ăn với muối ớt chua chua ngọt ngọt, những viên cốm nếp ngào đường tròn cỡ nắm tay thơm thơm mùi gừng, những cục kẹo ú đẫm bột hình khối tam giác màu vàng nhạt, những cục kẹo sữa màu trắng đục cắn vào có vị bùi béo của đậu phụng rang giã nhuyễn gói bằng giấy màu trắng có chữ màu xanh, những viên kẹo màu xanh màu vàng màu đỏ bọc giấy bóng kiếng trong thơm mùi trái cây, những bịch mứt dừa nhuộm đủ màu, những bịch bánh tráng tròn nhỏ màu vàng đỏ mặn mà…

Còn ai nhớ vị ngọt chát của những trái trâm to bằng đầu ngón tay cái màu tím thẫm ăn vào nhuộm tím cả lưỡi cả miệng? Những trái nhãn lồng mọc hoang nhỏ cỡ đầu ngón tay út vỏ màu trắng ngà với chút xíu cơm mỏng dính ngòn ngọt. Những trái sung chín đỏ nhìn ngon mắt nhưng nhạt phèo và ruột đôi khi có đầy kiến gió. Những trái chùm ruột chua ghê răng ăn với muối ớt. Những trái bình bát trông giống như trái mãng cầu xiêm nhưng lổn nhổn hạt chua chua… Loại trái cây mọc hoang dại trong lùm, trong bụi nơi vùng ngoại ô thành phố được bày bán trong những mẹt hàng nho nhỏ bên cổng trường thuở ấy đã gợi thèm thuồng biết bao đứa học trò nhỏ mỗi lúc ghé nhìn.

Và đây nữa, những trái cóc xanh gọt vỏ rồi tách thành một bông hoa nhiều cánh ngâm trong nước cam thảo vàng, những lát xoài sống ăn với mắm ruốc tím có điểm những khoanh ớt đỏ thắm, chùm trái trường trông giống như những trái Vải tí hon vỏ màu đỏ nâu, những chùm trái sai vỏ đen nhung với lớp ruột màu vàng cam có cái hạt dẹp dẹp nho nhỏ trông giống như... một con ve chó lớn! Và thơm xẻ miếng, và đu đủ, mận, mít bày trong một cái tủ nhỏ bằng kính có đặt cục đá ướp lạnh.

Tôi không biết ăn ô môi. Thứ trái cây dài ngoằng và cứng ngắt ấy không ngờ là hậu thân của những bông hoa đỏ thắm xinh đẹp vẫn mọc dọc bờ sông nhiều nhà ở miền tây Lục Tỉnh. Trái ô môi hơi giống trái phượng nhưng to hơn, cũng có vỏ màu nâu đen. Khi ăn phải hái phơi kỹ trên nóc nhà cho khô, dùng dao chặt thành từng khúc ngắn, vạt hai bên vỏ trái cho lộ ra lớp hạt xếp đều đặn dính liền nhau bởi một lớp cơm màu nâu đen như nước màu kho cá, và cái mùi thum thủm của nó thì thật khó tả! Tôi chịu! Chỉ nghe đã muốn bịt mũi chạy xa, vậy mà bọn bạn tôi cứ mua từng khúc gặm ngon lành, còn cẩn thận mút cho bằng hết những chiếc hạt ấy, nghe kể rằng ngọt nhưng hơi chát ăn mãi không chán!

Tôi rất thích đến bên thùng xe làm bắng sắt tròn của ông hàng kẹo bông gòn. Ở giữa tâm vòng tròn có một cái lõi nhỏ, mỗi khi ông bán Kẹo cho vào đó ít đường cát trắng, vừa đạp cái bàn đạp cho vòng thùng tròn quay thì lớp đường kéo tơ hiện ra càng lúc càng nhiều, đưa đôi đũa quơ quanh một vòng thành một lớp bông gòn xốp mịn nhìn thật đẹp mắt, cho vào miệng lớp bông ấy tan nhanh để lại vị ngọt ram ráp trên đầu lưỡi như một chút tiếc nuối. Hàng kẹo kéo thì lúc nào cũng có quay số, số bao nhiêu thì được trúng bấy nhiêu kẹo, nhưng hễ số kẹo càng nhiều thì ông hàng kẹo kéo lại kéo nhỏ cây kẹo thêm một chút, rốt cuộc nếu gộp tất cả số kẹo trúng thưởng vào chung thì có lẽ vừa bằng một cây kẹo mua bằng tiền không quay số mà thôi!

Còn hàng kem cây.

Ngày xưa chúng tôi gọi là hàng “cà-rem” . Người bán kem có hai bình thủy để cân đối hai bên “boọc-ba-ga” một bên đựng kem các mùi như va-ni, sầu riêng, dừa… một bên đựng kem đá với các màu xanh đỏ vàng tượng trưng cho cam, chanh và bạc hà. Mỗi khi bán, tùy theo giá tiền người bán sẽ dùng dao cắt cục kem lớn nhỏ khác nhau, dùng một que nhỏ ghim vào miếng kem mà đưa. Một loại kem khác, thứ này mắc tiền hơn, mà người ta thường bán trong tiệm nhưng cũng có những xe đẩy bán trước cổng trường, là loại kem múc bằng muỗng tròn để lên trên những cái bánh bột mỏng hình loe dài như một đài hoa xinh xắn có đủ các màu vàng xanh trắng, rưới lên trên khi thì một ít đậu phụng rang giã nhuyễn với một chút sữa đặc có đường, khi thì một chút xi-rô xanh xanh đỏ đỏ. Trẻ con không thích ăn kem ly, phải đứng tại chỗ mà ăn, mất thì giờ; vừa đi vừa ăn ngon mà nhanh hơn. Hôm nào có tiền kha khá một chút thì mua hẳn một cái bánh mì ngọt kẹp mấy cục kem có rưới sữa và rắc đậu vào thì quả là ngon hết chỗ chê!

Buổi sáng đến trường sớm mà chưa ăn sáng ở nhà, đã có hàng xôi của bà hàng với hơi nóng nghi ngút bốc lên kèm theo mùi thơm hấp dẫn! Bà hàng lấy một miếng lá chuối cỡ hai bàn tay xoè, đặt lên trên đó một miếng bánh tráng phồng cỡ bàn tay, thường có hai loại xôi là xôi đậu xanh và xôi nếp than, ai muốn ăn gì thì bà sẽ xới xôi ấy lên trên miếng bánh phồng, trét một lớp nhưn đậu xanh nấu chín tán mịn lên, rưới một muổng mỡ hành có lẫn mấy miếng tóp mỡ béo ngậy, rắc một lớp đường cát trắng và sau cùng là chan lên một muổng nước cốt dừa. Xôi được gói chặt lại sao cho miếng bánh phồng bọc kín hết như một lớp vỏ bánh, cắn vào vừa bùi vừa béo, thơm ngon làm sao! Cạnh đó lại có bà cụ người Bắc mặc áo vải trắng đầu vấn khăn nhung bày một thúng bán xôi lúa hay còn gọi là xôi bắp, cụ có hàm răng đen nhánh với miệng cười hiền từ, thoăn thoắt xé lá gói những gói xôi bắp với những hạt bắp màu trắng đục hầm mềm và những hạt nếp dẻo thơm phức, cũng là đậu xanh nấu chín nhưng đậu của xôi bắp thì giã tơi thành một lớp bột khô rắc lên trên, chan vào một muổng nhỏ hành tím bào mỏng phi vàng rồi sau cùng là một muổng muối đường.

Ít tiền hơn đã có hàng khoai luộc. Cũng tỏa khói nghi ngút nhưng giản dị hơn, chỉ một nồi hay rá nhỏ đặt trên bếp lửa, này là khoai lang bí vỏ nâu đỏ ruột vàng, khoai lang dương ngọc vỏ hồng tím ruột tím nhạt, cả khoai lang trắng ruột trắng như bột, khoai Đà Lạt thì củ nhỏ mà ốm nhưng mật tươm cả ra ngoài vỏ, lâu lâu mới thấy bán. Khoai mì (sắn) thì cắt thành từng khúc xếp ngay ngắn bên cạnh những củ khoai mì tinh (có người còn gọi là khoai bình tinh) và củ chuối (dong riềng) và những củ từ vỏ vàng nhạt hay những củ khoai môn tròn trĩnh.

Cũng là khoai mì, nhưng khoai mì quết dừa làm bằng những củ khoai bột tán nhuyễn, trộn thêm xác dừa khô nạo và đường cát trắng, thêm chút muối đậu, gói trong lá chuối, có thể dùng lá cây dứa dại cắt ngắn từng khúc thay cho muổng xúc ăn, hay nắm lại thành nắm như nắm xôi mà ăn; vừa ngọt, vừa bùi. Lại thơm và béo của dừa khô trộn lẫn, ngon không biết tả sao cho vừa!

Khoai mì mài ra lấy bột đem lọc kỹ, để ráo sẽ cắt thành sợi dài mà dẹp, hấp chín rồi cũng trộn chung với dừa khô nạo nhuyễn là sẽ thành món bánh tằm khoai mì trộn dừa, muốn có màu sắc hồi đó người bán không dùng màu hóa chất mà lấy màu xanh của lá dứa, màu tím của lá cẩm, màu đỏ của trái gấc chín, nên những sợi bánh tằm ăn vào mỗi màu có một mùi thơm riêng biệt, vì vậy ăn ít ngán hơn.

Hồi đó trước cổng trường tôi có một bà già người Tàu mà mọi người thường gọi là Thím Xẩm bán bánh ướt rất ngon. Bánh ướt của người Tàu khác bánh ướt của người Việt ở chỗ bánh họ tráng dầy hơn, lại thoa lên trên một lớp mỡ có hành lá xắt nhỏ rồi cuộn lại thành từng cuộn dẹp, ăn với nước mắm pha loãng và giá trụng. Bà Tàu già ấy quanh năm chỉ thấy mặc một chiếc áo vải màu đen bạc phếch, một chiếc quần ngắn trên mắt cá bó ống và một đôi giày vải đen có thêu đã cũ mèm. Tóc bà cắt ngắn tới ngang cổ, cài một chiếc lược sừng đã bóng lộn vì thời gian. Mặc cho lũ chúng tôi tíu tít hối thúc bà già vẫn chậm chạp cắt bánh, lấy rau, rót nước mắm, rửa đĩa, thu tiền, những động tác chậm chạp của tuổi già và đôi mắt một mí hum húp như thuộc về một nơi chốn khác, không phải là cái nơi ồn ào nhộn nhịp của một cổng trường đang giờ sắp mở cửa.

Cái bánh tôm ăn chung với bánh ướt của bà Tàu già cũng ngon lạ lùng. Khá giống với bánh cóng của Sóc trăng, nhưng không có tôm, cũng không có giá, tuy gọi là bánh tôm nhưng chỉ có đậu xanh hột được hấp chín và bột gạo, chiên vàng thành những cái bánh tròn xốp, ăn không biết chán.

Cùng một thứ ăn với nước mắm như bánh ướt là huyết heo hấp. Những miếng huyết heo vuông vức cỡ lòng bàn tay màu đỏ nâu được hấp chín rải lên trên từng lớp mỡ hành xếp đầy trong chiếc nồi được ủ nóng bằng mấy lớp bao bố dầy cộm. Người bán dùng dao cắt miếng huyết heo thành từng lát, cho thêm mỡ hành, giá trụng và một nhúm rau thơm cắt nhỏ, chan nước mắm lên, thế là xong! Nhưng món quà này ăn mau ngán, nên người bán hàng, một ông già mặc áo quần màu nâu, đầu đội mũ cối nhựa trắng, chở chiếc nồi trên yên sau chiếc xe đạp cọc cạch cũ kỹ, lâu lâu mới ghé qua cổng trường, dựng chiếc xe đạp vào một góc tường quen thuộc, vừa phì phà điếu thuốc vấn vừa chờ đợi đám khách hàng nhỏ tuổi.

Cũng bán hàng trên xe đạp và cùng là đàn ông bán hàng là món gỏi khô bò. Trong chiếc thùng một mặt có kính đựng đầy ắp những sợi đu đủ xanh bào mỏng, khô bò màu đen sánh cất trong một ngăn tủ nhỏ, chai giấm trắng, chai nước tương đen, chai nước ớt màu đỏ xếp cạnh chồng đĩa nhôm nhỏ, nắm đũa nhôm chiếc cong chiếc thẳng cắm trong một ống đựng treo lủng lẳng, ông hàng gỏi có một chiếc kéo sắt đen và to vừa dùng để cắt khô bò, vừa dùng nhắp thành những tiếng đều đều báo hiệu thay cho tiếng rao mời.

Cái đĩa nhôm trầy trụa và trẹt lét của ông hàng gỏi chỉ được tráng qua nước rồi lau vội bằng một cái khăn màu cháo lòng sau khi có khách ăn xong, lại được bốc đầy có ngọn nắm đu đủ bào, vài sợi khô bò nhỏ xíu cỡ đầu que diêm đặt khéo léo lên trên, một chút rau thơm thái sợi và một nhúm đậu phọng rang vàng giã dập, chan đẫm nước giấm và nước tương, thêm chút ớt đỏ cay cay, chúng tôi vừa ăn vừa xuýt xoa xin thêm giấm, thêm nước tương, ăn hết đu đủ húp cạn hết cả nước giấm mà vẫn còn thấy thòm thèm!

Bánh mì tương cũng là món quà được bọn học trò chúng tôi chiếu cố tận tình vì rẻ mà lại ngon; chỉ có một khúc bánh mì không xẻ ra, rưới một muổng tương đen, một muổng tương đỏ, thứ tương người ta vẫn dùng để ăn phở nhưng có lẽ người bán đã cho thêm ít đường cho dịu bớt, và thêm ít bột cho sánh lại, gắp vào một ít đồ chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt cắt sợi ngâm giấm đường là có một món vừa ngon vừa no bụng. Nếu có tiền thì ăn bánh mì bì, bì làm bằng da heo cắt sợi nhuyễn, thêm chút thịt đùi heo chiên cắt nhỏ như que tăm, trộn một chút thính gạo rang vàng cho thơm, bánh mì bì ăn với hành lá xắt nhỏ phi chín chung với tóp mỡ, chan nước mắm chua ngọt, ngon hơn bánh mì tương một bậc, và cũng mắc tiền hơn!

Bắp thì có hai thứ, bắp luộc đựng trong thúng ủ tấm bàng tròn, hơi nóng bốc lên cùng với mùi lá dứa thơm phức, những trái bắp vỏ ướt nước nóng hổi cầm bỏng cả tay, xé lớp vỏ như những lần lụa mỏng mềm mại phía trong cùng là lớp hạt vàng rực đều đặn hiện ra trông thật bắt mắt, hạt bắp luộc dẻo và ngọt, nếu ăn bắp non thì cái cùi bắp mềm mà ngọt không thua gì mía hấp. Bắp nướng thì phải ngồi đợi một bên cái bếp than làm như một cái máng chữ nhật nhỏ của bà hàng, chờ lớp vỏ ngoài cháy đen một phần, bà mới bóc hết làn vỏ bắp ra để những hạt bắp được nướng chín trên lửa từ từ trỡ sang màu vàng ruộm, rồi vàng cháy, mùi bắp nướng thơm lừng tỏa ra trong không khí, xé một miếng vỏ bắp bọc lấy cái cuống trái bắp nướng dốc ngược đầu xuống một chén mỡ hành đặt cạnh bếp, dùng một đoạn sống lá chuối chẻ dập đầu thoa đều mỡ hành lên khắp trái bắp, mùi thơm của bắp và mỡ hành làm chúng tôi nuốt nước miếng thèm thuồng, cầm vội vàng trái bắp nóng hôi hổi trên những ngón tay lóng ngóng và gặm hối hả, vị mặn mà của mỡ hành có lẫn vài miếng tóp mỡ dòn dòn, hạt bắp vừa cứng vừa dẻo, nhồm nhoàm một cái đã thấy chỉ còn trơ lại cái cùi khô khốc vô duyên!

Bây giờ ít thấy bán đậu đỏ bánh lọt, thứ quà ngon mà mắc tiền hơn đá nhận xi-rô, vẫn bán trước cổng trường trên những chiếc xe đẩy bằng nhôm sáng loáng thuở nào. Trong những chiếc thẩu tròn xếp thành dãy người ta đựng nào là đậu xanh hấp chín màu vàng đậm đà, nào là đậu đen chín bở, đậu đỏ đều hạt, đậu Mỹ màu trắng hạt to như đầu ngón tay cái,và một cái thẩu đầy những sợi bánh lọt màu trắng trong và dai ngập trong nước đừa đục màu sữa, lại có cả hạt é lấm tấm như những chùm trứng ếch tí hon có lẫn những tảng nhỏ lười ươi nâu như màu mận chín, nước đường thắng kẹo đựng trong hũ thủy tinh trong được múc bằng một cái muổng đặc biệt làm bằng nửa quả mù u khô cắm trong một cây đũa tre dài.

Đã lâu lắm tôi không còn thấy ai bán bông cỏ với hột lựu. Hình như món ăn này, cũng như món mía hấp, mía ghim đã lặng lẽ biến mất tự lúc nào chẳng ai hay biết. Mía hấp thì thường là một người đàn ông trung niên đẩy xe ba bánh rao bán trên đường phố vào khoảng tối khuya, tiếng rao “Mía hấp” kéo dài hơi ngân nga và ánh sáng chập chờn của một ngọn đèn dầu nhỏ thắp trong chiếc lồng đèn vuông thường gợi nhớ vào những tối trời tạnh mưa, không khí ẩm và lạnh mà mùi thơm ngọt ngào của những cây mía nóng hổi khi mở nắp chiếc vung to lớn của ông hàng mía lan tỏa trong không gian thật là dễ chịu. Ông hàng mía hấp có một cái bào to với một bên thân bào là dao bén ngót. Những khúc mía màu nâu tím hay vàng mơ được hấp chín trong một loại nước có vị thuốc Bắc xếp đầy trong một cái thùng sắt to đặt trên bếp than cháy âm ỉ để giữ cho nước trong nồi lúc nào cũng nóng già, khi có người mua ông dùng bào róc sạch vỏ rồi nhanh nhẹn trỡ lưỡi dao tiện thành từng khẩu mía ngắn và đều nhưng không tiện đứt hẳn mà vẫn còn dính vào nhau, mía hấp ăn thơm và mềm, người già răng yếu cũng có thể ăn được. Mía ghim thì chỉ là mía thường, róc vỏ, bỏ mắt và tiện ra thành những lóng ngắn nhỏ cỡ một đốt ngón tay, ghim vào trong một đoạn tre ngắn được chẻ ra nhiều thanh nhỏ ở một đầu thành ra một bông hoa ngộ nghĩnh xoè tròn người ta thường bán trước cửa rạp hát hay rạp xi-nê hồi đó. Mía bây giờ người ta đựng trong bịch ny-lon, tuy cũng tiện tròn nhưng nhìn tẻ nhạt chứ không xinh xắn hấp dẫn như mía ghim thuở đó!

Bông cỏ thì đặc biệt hơn, trông giống như sương sa nhưng hơi mềm mình, và lại thơm ngon hơn nhiều. Có lẽ tuổi nhỏ với khẩu vị đơn giản và đồng tiền có hạn nên món nào hồi xưa mình ăn đều thấy ngon lạ ngon lùng, hay bởi vì những món ăn thời ấy còn chất chứa cả một khung trời ký ức êm đềm dịu ngọt nữa mà bây giờ cho dẫu có ăn bất cứ món gì mình cũng thấy không thể sánh bằng? nhưng món bông cỏ thì quả là hơn đứt sương sa hay thạch của người Bắc, đông sương của người Trung. Bông cỏ hình như là xuất xứ từ bên Tàu, cách làm cũng khá lạ, phải ngâm nước một đêm cho nở rồi mới cho vào trong một cái bao vải dày (gọi là bao bồng bột) cùng với một vài (bao nhiêu?) trái chuối Xiêm chín, nhồi lấy nước sền sệt pha chung với nước lã sao cho vừa đủ lượng nước cần dùng, cho vào thau để yên trong mấy giờ sẽ đông lại như sương sa nhưng mềm và dẻo hơn, dùng cái muổng như cái vá xới cơm nhưng dẹp và mỏng hơn vát nhẹ thành từng miếng mỏng cho vào ly, ăn với bột mì tinh cắt nhỏ vuông vức pha màu hồng đỏ luộc vừa chín còn cái ngòi bột trăng trắng nhỏ xíu trông giống như những hột lựu tươi vừa tách ra khỏi trái chín cây (vậy nên mới được gọi tên là bông cỏ hột lựu), chan nước đường thắng kẹo và nước cốt dừa béo ngậy, thêm vào chút dầu chuối đựng trong cái ve nhỏ xíu mà thơm lừng. Đôi khi người ta còn bán chung với sương sáo và sương sâm, một thứ màu đen có mùi hôi nhẹ của thuốc Bắc, một thứ màu xanh biếc của lá cây với những đám bọt nhỏ phía trên mặt, ăn cùng với đường cát trắng lạo xạo trong miệng và những vụn đá bào mát lạnh.

Lớn thêm một chút, vào Trung Học, tôi nhớ tới những xe bán bò bía trước cổng trường, người bán thoăn thoắt gói những cuốn nhỏ bánh tráng có ít củ sắn và cà rốt thái sợi xào chín giữ nóng trong một cái thau nhỏ đặt trên bếp lửa, cho thêm vài lát lạp xưởng mỏng tanh, một ít tép ruốc chấy vàng nhuộm đỏ, có khi một ít trứng chiên vàng cắt sợi, một lá sà-lách, vài ngọn rau thơm, ăn với tương ngọt và tương ớt có ít đồ chua, một ít hành phi dòn và một ít đậu phọng rang giã dối. Cuốn bò bía ngọt thì chỉ là một cuốn bánh bột mỏng gói cây kẹo dòn và ít dừa nạo sợi, rắc ít mè rang vàng, chỉ tiện ở chỗ có thể cất vào trong cặp dành ăn trong giờ ra chơi, còn thì chẳng có gì đặc biệt!

Xi-rô kem khác với kem ly, vì có cả đá bào và nước xi-rô trộn chung với mấy muổng kem thành một thứ vừa dùng để múc ăn vừa có thể uống như nước được, có thấy bọn học trò xúm quanh hối thúc bà hàng thì mới thấy món quà này được ưa chuộng ra sao. Ya-ua cũng có thể ăn theo cách này, chung với đường và đá gọi là ya-ua đá. Sinh tố bịch thì làm bằng các loại trái cây cho vào máy xay nhuyễn, thêm đường thêm nước thành một loại thức uống ngon lành cho vào bịch ny-lon nhỏ cột chặt bỏ tủ đá cho đông cứng lại, bọn con gái chúng tôi vẫn thường mút một đầu bao mút như mút đá nhận mặc cho bọn con trai tròn mắt thèm thuồng mà giả vờ trêu chọc.

Những quả ổi luộc ngâm trong nước cam thảo màu vàng luôn là món hấp dẫn tôi hơn cả me và cà na ngâm. Xẻ đôi trái ổi ra, màu ruột vẫn trắng ngà và dòn tan, nhưng lớp vỏ ngoài lại hơi mềm và ngọt mùi cam thảo, trét lên một lớp muối ớt cay cay thì thật là tuyệt! Me thì dòn và đã được lấy sạch hột, cà na hơi chát mà chua chua, trời ơi còn xoài sống thì cắn miếng nào biết miếng đó, chùm ruột chỉ nhìn thôi đã ứa nước miếng vì thèm, cóc chín trái vàng lườm và thơm nức mũi. Những món trái cây ngâm ấy được gói trong mấy tấm lá chuối xanh rờn, một góc là nhúm muối ớt đỏ tươi ngon lành, buổi trưa trời nắng đổ lửa hay buổi sáng rét nhẹ chúng tôi đều chiếu cố tận tình như nhau! Vậy mà chẳng thấy đứa nào đau bụng đau bão gì, ấy thế mới lạ!

Còn hàng phá lấu trên đường Pasteur, nơi có xe nước mía Viễn Đông nổi tiếng một thời với những cây tăm tre xiên vào từng xâu nhỏ gan, lưỡi, tim … phá lấu màu nâu đen thơm phức vừa miệng đặt trong mấy cái đĩa nhôm bày trên một mẹt hàng có bốn chân gác chéo, mà tôi đã đi ăn cùng với người bạn trai đầu tiên. Ly nước mía mát lạnh hơn cả những câu chuyện thủ thỉ không đầu không đuôi tuổi học trò nhớ lại vẫn còn cảm thấy ngọt ngào. Hẻm Casino SaiGon có hàng bún chả và bánh cuốn Thanh Trì một ngày nào đã dung dăng dung dẻ cùng các bạn vào ăn sau khi mỏi chân mỏi mắt khắp phố phường, trong Crystal Place hay trong Passage Eden. Hiệu kem Pole Nord nằm bên thương xá Tax với một dãy ki-ốt hoa tươi trên đường Nguyễn Huệ một tối nào tôi nhận từ tay người bạn trai sắp theo tàu đi xa một bông hồng màu đỏ thắm với bàn tay ấm áp ân cần. Quán cơm Bà cả Đọi nằm trên một căn phòng nhỏ thấp sâu trong hẻm với những món ăn được dọn ra trên chiếc đi-văng bóng gỗ bóng màu thời gian, những món ăn quen thuộc như bữa cơm thường ngày gợi nên cảm giác gia đình cùng ăn với bọn bạn là sinh viên miền Trung vào Sài Gòn trọ học….

Vậy mà thoắt cái đã mấy mươi năm! Những món ăn tôi đã ăn trong cả một thời ấu thơ cùng với bạn bè, những món ăn tôi đã chia sẻ cùng với những người thân thương một thuở, bây giờ có món vẫn còn bày bán đâu đó trong thành phố, có món đã lâu lắm chẳng còn nhìn thấy lại. Nhưng cùng với thời gian trôi qua, và mọi điều đã thay đổi, tôi mãi mãi sẽ chẳng bao giờ còn có thể thêm một lần nữa nếm được cái hương vị ngọt ngào tuyệt diệu của những món quà ấy, cho dù có tha thiết ước ao, hay thèm thuồng mong đợi đến thế nào!

Như có lần tôi đã bày tỏ cùng một người bạn ít tuổi hơn nhiều, và lại không cùng sinh ra, lớn lên trong cùng một hoàn cảnh sống, về những món ăn ở một nơi mà cô đã đến, nghe ca tụng nhưng thất vọng lúc nếm thử, rằng cái hương vị trong ký ức của mỗi một người khi ăn một món ăn nào là hương vị rất đặc biệt chỉ riêng người ấy mới cảm nhận được, gói ghém cả những ngọt ngào của quá khứ và kỷ niệm, mà không phải ai cũng có thể sẻ chia. Nhớ lại những món ăn một ngày nào, là tôi nhớ lại biết bao là êm ái và dịu ngọt, mà những món quà tuy tầm thường bé nhỏ ngày xưa ấy, cho dẫu chỉ là quà của một thời, nhưng lại là một thời của những tháng ngày yên vui mãi mãi trong tâm tưởng, mà những khoảnh khắc quý báu ấy thì mãi mãi tôi chẳng bao giờ có thể nguôi quên.

óp mỡ

Nhân thứ bảy, bụng bảo dạ sẽ vẫn đi chợ sớm để tranh thủ mua thức ăn tươi. Đảo qua hàng thịt lợn, bất ngờ khi gặp một tảng mỡ lợn dầy và trắng phau. Nhớ rằng hôm trước đã định mua mỡ về rán để thay đổi dầu mỡ trong bữa ăn. Gặp đúng hàng rồi, lại tranh thủ ngày rảnh rỗi, mua thôi. Làm một phát 2 kg luôn. Dầu ăn đợt này 35K đ/lít, nhưng mỡ ngon cũng chẳng rẻ: 30K/kg, mà 1 kg sao rán được một lít, lại còn tiền gas, tiền công “thợ” nữa. Lỗ đi đứt rồi, nhưng mà vẫn thích thay đổi, vả lại nó cũng gợi nhớ nhiều về tuổi thơ xa vắng.

Hì hục mất gần buổi sáng để rửa thịt, thái và rán mỡ nóng sực, nhưng đổi lại, buổi chiều, khi ở trong tủ lạnh vài tiếng, mỡ trong hộp đã bắt đầu đông cứng thành miếng trắng phau, thôi, thế cũng là thành công rồi.

Không hiểu dầu ăn xuất hiện ở quê khi nào, nhưng có lẽ ở quê mọi thứ đều xuất hiện rất muộn so với ở thành phố. Không lạ gì khi mà hầu hết gia đình ở quê có thói quen dùng mỡ vào những năm 80, 90 của thế kỷ trước. Ngày còn bé, mình thường theo mẹ ra chợ. Phải đi chợ sớm, vì cả chợ chỉ có mấy phản thịt được bán trong ngày. Muốn có tí thức ăn mặn là phải đi sớm ngay. Mẹ cứ ngắm nghía để chọn những miếng thịt vừa tươi, ngon, lại hợp với cái túi tiền của gia đình. Hôm nào được bà bán thịt cân tươi cho một tí, hoặc mẹ nhanh tay chọn được miếng ngon hơn, mẹ hào hứng kể đến bữa trưa.

Nhưng nói vậy thôi, những miếng thịt mẹ mua bé lắm, không thể mua đến cả 2 kg mỡ như mình. Mẹ thường mua khoảng 3 – 5 lạng, phần vì nghèo, phần vì nhà không có tủ lạnh, để đồ sẽ nhanh hỏng.

Mẹ đi chợ về rồi, phần rán mỡ sẽ là của mình đấy. Nhưng những lần đầu vẫn phải có bố mẹ hướng dẫn tận tình. Mỡ không được thái mỏng như thái miếng thịt rang. Mỡ phải thái dầy hơn, để khi mỡ chảy ra, cái tóp teo lại phải vừa đủ gắp. Rán mỡ xong rồi, nhấc ra khỏi bếp, đặt xuống đất để mỡ bớt nóng, rồi cho vào một cái angô được lưu giữ từ thời bố mẹ còn ở trong Đông Hà, Quảng Trị!!! Tủ lạnh không có nên treo cái angô ấy lên một cái móc sắt để tránh kiến.

Mùa đông, để một ngày là mỡ đông xoắn lại, trắng phau. Buổi sáng mùa đông lạnh, bố thường lấy cơm nóng cho mình, xắn một miếng mỡ để lên trên cho tan chảy ra và trộn nước mắm. Thế là có một bát cơm thật ngon lành. Mùa hè thì tóp mỡ được xào với rau muống. Đĩa rau muống xanh ngắt được điểm những cái tóp mỡ trắng, mềm, dai ăn ngon đến lạ. Ngoài ra, tóp mỡ được chưng với mắm tôm hoặc bác trứng thì thật là tuyệt. Không chỉ mình, chồng mình vẫn thường nhắc về ngày xưa với những món ăn đậm đà chất quê như vậy.

Trước kia, nghèo nên mỡ cũng quý. Mỡ được dùng để xào rau muống, xào mướp với giá vào mùa hè. Mỡ được dùng để xào su hào, cải bắp vào mùa đông. Mỡ ngấm vào lá rau tạo màu xanh mướt. Thế nên, dù đã có dầu ăn, kinh nghiệm là vẫn nên dùng mỡ để xào rau thì mới ngon.

Một kỷ niệm có lẽ mình sẽ không thể quên. Một lần có khách, nhà đã hết sạch mỡ để làm món rau xào, bố ghé tai chị nói nhỏ: “cải bắp để luộc con nhé!”. Rồi trong bữa ăn, bố nói như hối lỗi: “anh thông cảm, đã dặn cháu nó xào tí rau mà nó lại mang luộc. Nhà có trẻ con thế đấy!”

Bây giờ, mình có thể mua 1, 2 kg mỡ về rán là điều đơn giản, hết dầu ăn có thể chạy ào xuống siêu thị tầng dưới là có cả chục lít, nhưng cuộc sống lại khó khăn theo cách khác. Nhưng với những đồng hào chắt chiu với bao khó nhọc, bố mẹ quả thật là những người vĩ đại khi đã nuôi mình trưởng thành được như bây giờ.

Halloween sắp tới, người ta đã bày bán những thứ dành cho ngày nầy. Và tháng mười trái bí được lên ngôi. Sáng nay cả nhà kéo nhau đi đến một nơi bán bí.

Những trái bí ngổn ngang, dưới đất, trên bàn một màu cam rực rở. Mỗi khi gặp bí là tôi nhớ xa xăm, nhớ về một miền quê xa lắc. Nơi đó là quê ngoại tôi,  về quê ngoại không theo ba đi xe Honda, thì chị em tôi đi bằng  xe lôi. Là chiếc xe đạp kéo thêm một cái thùng hai bánh xe, nên có tên là xe lôi. Chị em tôi trên chiếc xe lôi, thích thú khi bị lúc lắc theo khi xe chạy phải ổ gà. Và cứ nói "cho cháu xuống ở mương lớn"  xe dừng đúng nhà ngoại.

Vào cái thời còn giặc giả, nhà tôi ở thị trấn bị pháo kích liên miên. Nên má gửi mấy chị em về quê ngoại trốn pháo. Nhà ngoại  đất rẩy đất ruộng cò bay thẳng cánh. Nhà quê rau cỏ, bầu bí ngoài vườn không thiếu, trái cây trỉu cành mận ổi lồng mứt, mảng cầu xoài v...vv. Sau hè nhà ngoại vài chục lu cá mắm, cá khô phơi xỏ xâu. Ngoại tôi dự trử thực phẩm để phòng khi giặc giả kéo dài có cái ăn cho con cháu.

Tôi nhớ mãi hình ảnh ngoại tôi dáng cao cao lưng hơi khòng ở tuổi 60 cắp chiếc nón lá đi trước, anh họ tôi kéo chiếc xe ba bánh trên đó có tôi ngồi chiểm chệ. Đi tới nhà một người quen mua những trái bí rợ, chất đầy một xe kéo về. Những trái bí được anh em họ chúng tôi lần lượt bê vào nhà.  Bí ngoại để dưới gầm  bộ ván gỏ hai tấm. Tôi hỏi ngoại sao nhà mình mua nhiều bí, ngoại nói  vì bí để được lâu nhất. Và thế là món bí hầm dừa có mặt thường xuyên cho những buổi cơm. Cơm quê của ngoại thật là ngon lạ lùng, với chén mắm cá lóc chưng thịt ba chỉ, với mớ rau dưa mới hái ngoài vườn, ăn vàomát ngọt đầu lưởi, bí hầm dừa béo ngậy miếng bí ngọt thơm ngon vô cùng tận. Với những con cá tập tàng mà anh họ kéo lưới ngoài sông. Ngoại mang kho tiêu mằn mặn ngòn ngọt , bí rợ thì ngoại đổi món không hầm dừa mà hấp cách thủy. Bí hấp chấm với nước cá kho tiêu sền sệt có bửa anh em tôi dành nhau cả miếng cơm cháy trong nồi, tình hình lắng dịu má đón về chợ. Bọn tôi lớn nhanh...Người anh họ kéo chiếc xe bí rợ ngày ấy đi lính rồi chết trận. Vài năm sau giải phóng ngoại tôi bệnh qua đời.

Sáng nay bí gợi cho tôi nổi nhớ... nhớ ngoại nhớ anh họ hiền lành chơn chất chết trẻ thật tội nghiệp. Nhớ những bửa cơm chén to kho mặn bí hầm dừa muôn năm của ngoại. Có người phì cười hỏi tôi rằng:- lúc đó ăn bí hoài hỏng thấy ngán hả? Câu hỏi nầy tôi  ngẩn người để cố nhớ lại. Và chắn mẻm rằng tôi chỉ có mê ăn mê chơi mà thôi, nên không ỏng eo với ngoại “con ngán bí” bao giờ (tôi cũng ngoan ra phết ấy nhỉ). Với tôi ngày ấy được sống trong tình thương của cha mẹ ông bà, được cho ăn được chạy nhảy , được đi học là như được cả thế giới.

Sài gòn hai màu mưa nắng, xứ cờ hoa xuân hạ thu đông bốn mùa luân chuyển, có một ngày trái bí rợ lên ngôi. Những trái bí vàng cam xanh trắng người ta vẻ lên đó những hình ảnh vui, những gương mặt ma quỷ. Sáng hôm nay với những bước thảnh thơi dạo quanh nơi nầy, những trái bí đưa tôi về miền ký ức ngọt ngào.

Có Một trái bí nhe răng cười với tôi . Bí như muốn nói” lâu quá không gặp”

Một điều rất ngộ, gần đây tôi bổng thích màu cam, màu cam của bí. Tôi lại thích ăn bí. Và ngày hôm ấy trong giấc ngủ tôi mơ thấy bí đầy nhà.

Nhớ một thời không biết khổ

hững kinh nghiệm bị phá sản

Đã hơn 20 năm, nhưng nếu phải hơn 20 năm nữa để kể lại chuyện này, tôi nghĩ rằng mình vẫn nhớ như in. Lúc ấy vào khoảng 2 giờ sáng, tôi bị dựng dậy trước mọi thứ không bình thường, từ tiếng gõ cửa, ánh sáng đỏ lờ đờ của bóng đèn dây tóc yếu điện, và anh ta, người đồng nghiệp của tôi đang đứng như cái xác chết dậy hồn, tay xách chiếc can nhựa loại 20 lít, trông chẳng giống một người thường chớ nói gì đến một cán bộ đi công tác. “Tao vừa thoát chết, xe đò lật ở ngã ba Tân Hương” (địa phận Long An giáp Bình Chánh).

Không chết là mừng rồi, nhưng nhìn thấy chẳng có gì ngoài cái can nhựa mà anh mang về, tôi hỏi: “Can gì vậy?”. Anh Hồng Anh, tức người mà tôi đang kể, lắc đầu: “Không biết”.

Chui ra khỏi chiếc xe đò lâm nạn, trước cảnh hỗn độn và như người mất hồn, Hồng Anh cầm đại một vật lên tay rồi nhảy xe khác về Sài Gòn. Tỉnh trí lại, bó gối buồn rầu, trong chiếc cặp mà Hồng Anh bỏ lại có bốn bộ quần áo, phải mất bốn năm tem phiếu mới có được, bây giờ “gầy dựng lại” cũng phải mất bấy nhiêu thời gian chớ biết làm sao. Nhìn đồng nghiệp với bộ mặt không khác gì “Hai Lúa mất trâu” vừa thấy thương vừa buồn cười.

Chợt nhìn chiếc can nhựa to tướng, cáu bẩn phủ đen bụi đất mà từ lúc mang về, Hồng Anh vất nó vào gầm bàn không màng tới, tôi đùa: “Sao không mở can xem, nhỡ có cục vàng thì giàu to. “Hồng Anh buồn rầu, đinh ninh đó là nhớt cặn, người ta mua về để tái chế lại xài, giống như nhập bánh xe cũ, phế thải từ Nhựt Bổn, nói là để chế dép râu, nhưng về mình cứ xài, mòn bố mới đến dép râu vậy.

Nói thì nói vậy nhưng không lý do gì không mở nắp can ra xem thử? Thì... úm ba la, cha mẹ ơi! Tóp mỡ heo! Hàng lậu! Một trong những nhu yếu phẩm quí nhất Sài Gòn. Hóa ra, sau tai họa đó, Hồng Anh trở nên... khá giả hơn lúc bình thường.

Anh Hai tôi, một người đã sống với cuộc đời trải qua nhiều cam go và trắc ẩn, nói như khẳng định với tôi rằng con anh đứa cử nhân, đứa tiến sĩ, nhưng đều phải lắng nghe anh, bởi anh dạy con bằng kinh nghiệm của đời mình. Ông Sơn Nam lại nói với tôi rằng có những kinh nghiệm rồi không biết để làm gì.

Bởi chỉ cần mang trên người 1 lít mỡ nước lên Sài Gòn bị xem là hàng lậu, nên để vượt qua các chốt kiểm soát của quản lý thị trường, người ta mới nghĩ ra cách sơ chế mỡ tươi thành tóp mỡ để mang đi. Tôi có người dì bà con, rời quê lên Sài Gòn sống mươi năm, sanh con đàn cháu đống, bà không hiểu bỗng đâu giữa xứ lúa gạo tràn đầy mà phải ăn bo bo, mì sợi, gạo ẩm mốc lẫn đầy bông cỏ, sạn cát...

Dì vượt bao gian khó qua từng chặng xe đò, lần trở về quê để mang gạo trắng quê nhà lên cho con, cho cháu có được những bữa cơm thơm, bà đâu hiểu rằng để đưa được hạt gạo ngon về thành phố phải có được tờ giấy thông hành (giới thiệu) của ông thư ký ủy ban nhân dân tỉnh, mà để có được tờ giấy ấy thì cái lý do “muốn được ăn ngon” của dì tôi trở thành vô lý. Sau nhiều lần bị chặn bắt sạch trơn, dì tôi nghĩ ra cách đem gạo nấu thành hình hạt cơm rồi phơi khô.

Thế là gạo nấu thành cơm, mỡ heo thắng sơ thành tóp, dì tôi cần mẫn, nhẫn nại, nhọc nhằn xuôi ngược cho suốt thời bao cấp. Bây giờ trong đầy ắp ký ức tuổi già như một kho kinh nghiệm giàu có, nhưng có biết bao kinh nghiệm thật đúng như lời ông Sơn Nam: chẳng biết để làm gì?!

Miếng ăn

Miếng ăn là điều tế nhị mà ai cũng ngại nói ra, với người Việt, khi dùng đến hai từ “miếng ăn” sẽ được hiểu khác nghĩa với từ “ẩm thực”, nhưng ở bài này khi dùng từ “miếng ăn” là tôi muốn nói về cảnh ngộ chớ không có hàm nghĩa xấu, một cảnh ngộ mà tất cả chúng ta, tất cả những ai đã từng trải qua thời kỳ ấy, mỗi lần nhớ lại, đều phải ngậm ngùi!

Đó là lần đầu tiên, chúng tôi có bốn người bước vào một cửa hàng ăn uống nằm ở trung tâm một thị xã nhỏ thuộc miền Tây. Vốn trước kia chúng tôi vẫn thường hay đến, bởi nó có tên là “Đại tửu lầu” rất nổi tiếng của người Hoa, sáng hôm đó khách đông đúc và nhốn nháo chớ không còn nhộn nhịp mà trật tự như trước.

Chúng tôi tìm bàn trống, thì vẫn có bàn còn trống đó, nhưng ghế đã bị giành hết. Cứ một anh chàng hay cô nàng ngồi trên một chiếc ghế thì tay chân dang ra đè lên những ghế khác, ai nấy thái độ lạnh lùng, không có mấy chú chệt chạy bàn quen thuộc lăng xăng, giúp khách có chỗ ngồi và những giọng gọi như truyền tin, vui vẻ.

Lóng ngóng hồi lâu, bốn chúng tôi cũng yên vị được ở một bàn khách vừa rời khỏi... và, cuối cùng là để học được cách ăn mà từ thuở cha sanh mẹ đẻ mình chưa từng thấy. Nghĩa là phải đến một cái quầy mua phiếu và cử người đến chiếm bàn, giành ghế trước, đặt phiếu lên bàn chờ người phục vụ đến thu, chờ lâu phải biết cử người đem phiếu giao cho phục vụ và nhớ dặn người giữ ghế...

Chỉ là bữa điểm tâm với cái bánh bao, ly cà phê sữa nóng, liệu có cần khó khăn và phức tạp đến thế này chăng? Hồi đó, có lẽ, bất luận một người miền Nam nào lần đầu tiên ăn như thế cũng đều băn khoăn suy nghĩ. Nhưng rồi mọi thứ không gì khác hơn là... trật tự. Cái hay của thời ấy, nói theo cách người Nam Bộ thì “ăn thua” mình biết biến những thứ trật tự ngược đời ấy thành niềm vui sống.

Trong bạn bè chúng tôi thuở đó, anh Mười Đại (nhà báo) là một chuyện gia thuộc hàng “xuất chúng”, với anh mọi tình thế đều có giải pháp. Đến cửa hàng ăn uống quốc doanh nhậu, muốn uống bia thì phải kèm mồi, tùy theo chỗ qui định, hai chai hay bốn chai bia phải mua một dĩa mồi bắt buộc (kể cả bia hơi), gặp bữa mồi kèm là cua gạch son luộc, uống một chầu bia, cháy túi đã đành, thôi cũng chấp nhận “hy sanh” nhưng còn lại cả một bàn mồi biết phải tính làm sao?

Để vượt qua “cửa ải mồi”, anh Mười Đại đưa ra ba “giải pháp” được xem là “nghệ thuật và hành động của chúng ta”: Thứ nhất dùng “tình cảm”, phải biết nở nụ cười thật tươi, và càng phải rất tươi, nếu đối diện với ta là một cô mậu dịch viên có “hoàn cảnh đặc biệt” về nhan sắc (!).

Giải pháp một gặp trục trặc, ta chuyển phối hợp giải pháp hai, xuống nước nhỏ, ỉ ôi năn nỉ, trả giá “nâng bia giảm mồi”. Hạ mình nâng người đến mức thấy rằng sự kiên trì vô hiệu thì “hiên ngang” lên, sử dụng lợi thế của mình, anh Mười ít khi thất bại, bởi khi cần đến giải pháp thứ ba thì người ta cũng ngán ngại anh sử dụng cái quyền lực thứ tư của báo chí là ngôn luận! Tuy nhiên, nếu không phải là Mười Đại, thì không dễ mấy ai...

Sống trong thời bao cấp, con người ta có những thói quen đồng cảnh ngộ, nhưng không ai biết nó hình thành tự lúc nào. Như dân nhậu ở Sài Gòn thời đó (trừ những người không thích uống bia) khi đi đường, con mắt cứ láo liêng nhìn vào quán, nhà hàng, ngó xem cái tấm bảng “Hôm nay có bia hơi” có được mang ra dựng ngay trước cửa hay không.

Lắm khi nhìn để... được thèm, chớ đâu có tiền uống. Song, tôi đã từng quen biết không ít người luôn biết cách làm say khi không đủ tiền. Đó là những anh chàng đầu tóc râu ria phong trần, lãng tử, nách kẹp cái chai nhựa (loại 1 lít đựng bia hơi) đáy chai còn lại ít bia, tay cầm ly đi hết bàn này sang bàn khác làm quen và cụng, chúc, đọc mấy vần thơ “dù đời có quên ta nhưng ta chẳng quên (hoặc vẫn yêu) đời”, trông chẳng hại ai, chỉ mỗi cái tật là cầm nhầm chai “bạn” rót cho ly mình, hay cầm nhầm ly bạn còn đầy, để cái ly không của mình lại, y như đã quá say (!).

Vài tháng trước, tình cờ trong một nhà hàng sang trọng, tôi gặp lại anh chàng “nổi tiếng” trong nhóm “dù đời có quên ta...” ấy, bây giờ anh đã là một đại gia - nghe nói do “trúng đất” - một tay cầm ly và tay kia một chai X.O, anh bước đến chào tôi, nhắc đôi câu chuyện cũ, rồi lại sang bàn khác. À, thì ra, trong câu hứa “chẳng quên đời” ngày ấy, anh ta còn nhớ có tôi!

Thảm họa bình thường

Tôi có anh bạn vong niên. Anh kể rằng anh có ông bạn chí thân, đồng cảnh ngộ. Nghèo, vợ sanh con không đủ sữa bú. Một hôm hai người gặp nhau ở chỗ vá xe đạp bên đường, đến nỗi hai cái ruột xe khi moi ra khỏi vỏ cũng giống nhau ở chỗ đầy vết vá. Vậy mà khi hỏi thăm nhau dạo này ra sao, cả hai đều thông báo “bình thường”, một tháng sau, hai bà vợ đều kiệt sữa mẹ, hai đứa bé suy dinh dưỡng tới nơi, cả hai chạy đôn chạy đáo, gặp nhau ở một căn tin, năn nỉ bà bạn làm chủ nhiệm chia được hộp sữa bò, ngồi đục nắp hộp sữa sớt chia nhau đem về cho con uống đỡ, hỏi nhau dạo này ra sao, vẫn “bình thường”.

Cứ bình thường miết đến một hôm, khi gặp nhau, người bạn của bạn tôi thì thào vẻ đầy bí mật: “Tới bữa nay tôi mới phát hiện ra thằng H cơ quan mình không được bình thường nghe cha!”. Ông bạn tôi hỏi: “Không bình thường là sao?”. Trả lời: “Thấy vậy chớ nhà nó có tiền!”. Đến đây, ông bạn tôi không kể nữa mà phá lên cười ngất, rồi nói: “Ngu cả lũ, bọn mình hồi đó là thảm họa chớ bình thường con khỉ mốc!”.

Hủ tiếu gõ

Giữa âm thanh ồn ã và huyên náo của Sài thành phồn hoa trong guồng quay vội vã một ngày, tưởng như người ta quên lãng đi rồi những tiếng rao khuya “Bánh giò… Bánh giò… ơi” hay tiếng gõ “lách cách, lách cách” của xe hủ tiếu dạo âm thầm quanh những con hẻm nhỏ từng đêm…

Dù Sài Gòn có xuất hiện nhiều quán hủ tiếu sang trọng, điều hòa mát rượi chăng nữa, tô hủ tiếu thậm chí lên tới hơn 50 ngàn, được đánh giá là “quá đủ chất dinh dưỡng” với tôm, mực, thịt, gan, rau…; thì người ta vẫn luôn nhớ “hủ tiếu gõ” – giản dị và thật bình dân. Nhưng hình ảnh quá đỗi thân quen ấy đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống đêm Sài thành.

Hủ tiếu là thức quà mà người ta có thể ăn buổi sáng, chiều, tối hay bất kì lúc nào cảm thấy đói lòng. Nhưng có lẽ không gì bằng thưởng thức một tô hủ tiếu vào đêm, khi nắng chói, nóng nực, gắt gay đã tiêu tan, Sài Gòn dịu dàng hơn trong tiết trời thanh mát. Lúc ấy, nghe khói từ tô hủ tiếu bốc lên, cầm muỗng húp một hớp nhẹ nước lèo trong ngọt, bạn sẽ không khỏi xuýt xoa “Sao ngon thế!”

“Cửa hàng” hủ tiếu gõ thật gọn nhẹ và giản đơn, chỉ là một chiếc xe đẩy “tự chế” khá thuận tiện, có nồi nước lèo thơm ngon luôn có bếp lửa giữ nóng phía dưới, cùng một chiếc tủ kính nhỏ đựng thịt thăn thái mỏng, bò viên; cạnh đó là túi to đựng hủ tiếu cùng chồng chén xếp gọn gàng.

Tại sao dân Sài thành thích ăn hũ tiếu gõ? Vốn nghĩ hẳn món này phải đòi hỏi cách chế biến hay nhiều loại gia vị công phu lắm. Như nước dùng phở gà là nước luộc gà, nước xương, nêm mắm muối, rồi còn vị gừng nướng, hành nướng, quế, thảo quả hoa hồi... Vậy mà bất ngờ làm sao khi nghe cô bán hủ tiếu chia sẻ "Nó ngon ngọt từ nước xương heo không à".

Thành phần đầy đủ của một tô hủ tiếu cũng hết đỗi giản dị và khiêm nhường, mỗi thứ một chút; một chút hủ tiếu (sợi trắng mịn, nhỏ như sợi mì vằn thắn nhưng mềm hơn nhiều), tí tẹo giá, vài lát thịt thăn thái “siêu mỏng”, hẹ, hành khô và miếng tóp mỡ bùi thơm chỉ bé bằng hạt đậu, mới cảm thấy vị "bùi thơm" thì miếng tóp mỡ đã tan trong họng mất rồi. Vậy thì sức hấp dẫn nằm ở đâu? "Đặc biệt ở chỗ chẳng có gì đặc biệt ấy", khi những cái bình thường kết hợp với nhau lại làm nên một hương vị "không bình thường" chút nào, ăn rồi sẽ phải "nhớ nhớ, thèm thèm" muốn thưởng thức thêm tô nữa, tô nữa...

Thêm một điều "vui vui" được thổ lộ từ một người "nghiền hủ tiếu", anh cười "Khoái ăn hủ tiếu còn vì lúc nào cũng được hắt xì hơi". Sao kì vậy ta? Thì ra tô hủ tiếu lúc nào cũng nóng hổi, lại được rắc thêm hạt tiêu xay, nên chỉ cần hít nhẹ một hơi là "hạt tiêu từ tô bay lên mũi"; "hắt xì", nhưng chính lúc đó bạn mới cảm nhận được thấu đáo và chân thực nhất mùi thơm của tô hủ tiếu đang nghi ngút khói. Bạn có thể dùng với chanh, ớt tươi hay tương ớt tùy thích.

Trước đây, chỉ với 3 ngàn, bạn đã có một tô hủ tiếu cầm muốn bỏng tay; thậm chí hai ngàn thôi đã là đủ cho “hủ tiếu nghèo” hay “hủ tiếu không người lái” (tức hủ tiếu không có thịt). Bây giờ, vật giá tăng nên “tô hủ tiếu” cũng từ đó tăng theo lên 5-6 ngàn đồng. Dẫu thế, đừng nghĩ đây là món ăn chỉ của xóm bình dân, bởi chẳng hiếm gặp những người ăn mặc sành điệu, phóng SH dừng lại sụp soạt với “hủ tiếu không người lái”. Khẽ hỏi: “Sao ăn đơn giản vậy anh?”, thì câu trả lời sẽ là “Tiệc tùng nhiều quá, giờ nhìn thấy tôm thịt ớn lắm, ăn hủ tiếu gõ sao thấy thanh ngọt và ngon ghê”.

Thêm một chút nước lèo là được "hủ tiếu không người lái"

Đó phải chăng là nghịch lí của cuộc sống hiện đại và sang trọng? Khi được ăn nhiều món ngon, cầu kì và đắt tiền như hải sản cá, tôm, cua chẳng hạn; một khoảnh khắc bỗng được nếm lại “hủ tiếu gõ” – cái món mà có lẽ chỉ hay ăn vào “thời còn nghèo” – chợt giật mình tự hỏi “Sao cái món bình dân rẻ tiền lại ngon đến thế?" Phải chăng nước lèo chỉ từ xương heo và dùng với thịt heo đơn sơ thì lại thiệt ngon, chứ thêm nhiều mỡ, mực, tôm vào thì vị ngọt trong giản dị sẽ không còn nữa?

"Cho em thêm tương ớt nha chị ơi!"

Thơm ngon một cách bình dị chính là sức cuốn hút làm nên sự tồn tại của “hủ tiếu gõ” bao năm nay giữa Sài Thành tấp nập. Một buổi tối, một đêm khuya, một đêm mưa… hay khoảnh khắc nào chợt cảm thấy hơi lạnh và đói, thoáng nghe "lách cách lóc cóc" đâu đây, dừng lại thưởng thức "hủ tiếu gõ" nhé – chỉ một tô trong những con hẻm sâu trên đường Phan Xích Long, Nguyễn Đình Chiểu, Xô Viết Nghệ Tĩnh..., bạn hẳn sẽ cảm thấy ấm lòng.

Saigon về khuya (kể cả những đêm mưa lạnh), tại các khu phố bình dân, sâu trong các con hẻm vẫn nghe tiếng rao hàng: "Bánh giò... ơ!"Bánh giò... ơ!" và tiếng gõ "lóc cóc,"lóc cóc."à Đó đích thị là tiếng "rao mời" của hủ tiếu gõ.

Bánh giò thì 2 ngàn đồng một cái nóng hổi "vừa thổi vừa ăn," còn hủ tiếu "gõ" thì 3 ngàn đồng một tô cũng nóng hôi hổi không thổi ăn cũng được nhưng "phỏng" lưỡi ... ráng chịu. Nếu "khổ chủ" nghèo, chỉ có hai ngàn thì người bán hủ tiếu gõ cũng không ngần ngại bán "tuốt," dĩ nhiên đó là một tô hủ tiếu "không người lái," tức không có thịt. Ăn vậy càng "diet." Tốt chán!

Nói về thịt trong hủ tiếu gõ (bao giờ cũng là thịt heo) luôn được "xắt" rất ư là"nghệ thuật." Miếng thịt cũng "to" như những hàng hủ tiếu bình thường khác, nhưng "bề dầy" luôn rất "khiêm tốn" vì luôn mỏng nhự.. tờ giấy. Với dáng vẻ "mỏng manh, kiêu sa" như vậy của vài "lát" thịt "xiển dương" cho tô hủ tiếu gõ, có lẽ chỉ hợp với cách ăn uống của các "yểu điệu thục nữ," tiểu thư con nhà giàu (?)Chứ với dân lao động thì vài lát thịt mỏng tanh như vậy, ăn chưa đủ dính "kẽ răng." Nhưng biết làm sao được? Vì tiền nào của nấy! Muốn ăn ngon, ăn no thì vô khu người Hoa trong Chợ Lớn, ăn tô hủ tiếu Nam Vang 25 ngàn đồng một tô, đủ cả thịt, tôm, gan, mỡ...

Nhưng ăn hủ tiếu gõ không ai mê ăn thịt, chủ yếu ăn lót lòng cho đỡ đói hầu tìm giấc ngủ qua đêm. Hủ tiếu gõ được cái luôn nóng, phục vụ tận nơi, cũng đầy đủ giá, hẹ, chanh, ớt, tăm... Nếu cảm thấy tô hủ tiếu 3 ngàn ăn không đủ no, có thể tùy "hỷ" thêm vào... "cơm nguội" rồi "xịt" thêm nước tương, dầm vài ba trái ớt hiểm cay "xé lưỡi" là cũng đủ "ngất ngư con tàu đị"à Có điều lạ là hầu như tất cả những người bán bánh giò dạo là dân Bắc, thì hầu hết những người bán hủ tiếu gõ là dân miền Trung gốc Quảng Ngãi.

Dân Nam "bản địa" không bán hủ tiếu gõ mà bán hủ tiếu "thất nghiệp." Hủ tiếu "thất nghiệp" giống hủ tiếu gõ về mặt "nội dung" và giá cả nhưng khác hủ tiếu gõ về "hình thức" bán.

Chẳng hạn, trong một xóm nghèo của người miền Nam, một gia đình nào đó đang "thất nghiệp" và nhận thấy đầu hẻm đang còn trống bèn bày ra đó vài cái bàn, cái ghế, đặt thùng "nước lèo" ít "phụ tùng" rồi "nổi lửa" bán hủ tiếu "thất nghiệp" cũng 3 ngàn đồng một tộ Nhưng họ không đi dạo trong hẻm và không... gõ. Hủ tiếu "thất nghiệp" luôn ngồi "cố định" và thường là chỉ bán buổi sáng, hoặc trưa, tuyệt nhiên không bán vào lúc tối, hoặc đêm. Người bán hủ tiếu thất nghiệp và người ăn hủ tiếu thất nghiệp thường là người cùng xóm quen thân lâu đời, do vậy khi bị "kẹt"chưa có việc làm có thể ra ăn rồi "ký sổ" khi nào đi làm có tiền sẽ "thanh toán." Có lẽ chính vì vậy mà người Nam gọi hủ tiếu đầu hẻm là hủ tiếu "thất nghiệp."

Ngược lại, hủ tiếu gõ do người Trung bán thì đều là dân "nhập cư" và họ không thân quen với cư dân "bản địa" đủ để cho.. thiếu. Nồi "nước lèo" của hủ tiếu gõ được đặt trên một chiếc xe "lưu động," được thiết kế như một "quầy" bán hủ tiếu bình thường. Giúp cho người "chủ quán" đẩy từ khu nhà trọ ra "góc phố" nào đó mà họ "nhắm" là thuận lợi thì dừng lại và bầy bàn ghế rạ Nếu khách ăn đông thì một hoặc hai "đệ tử" (những đứa nhỏ 13.14 tuổi, được thuê, cũng ở quê ra) sẽ bưng bê, chạy bàn cho khách ăn ngay tại vỉa hè, nếu khách vắng, hoặc trời mưa, các "đệ tử" này phải đi sâu vào các con hẻm, vừa đi vừa gõ "lóc cóc,"lóc cóc"à để mời khách.

(Dụng cụ để gõ là một cây sắt nhỏ "đập" đều đều vào một miếng gang hay thép chi đó, có khi là hai khúc gỗ tốt - tùy phương tiện khả thi).

Hủ tiếu gõ nói chung là "cơ động" và "chuyên nghiệp" hơn hủ tiếu "thất nghiệp." Vì hủ tiếu gõ bán ngày tới hai "cữ." Cữ 1, từ một giờ trưa tới 5 giờ chiều (địa điểm thường gần khu lao động, xí nghiệp may). Cữ 2 - từ 7 giờ tối tới 1 giờ sáng (địa điểm gần xóm lao động nghèo nhưng cũng phải tiện đường cho xe cộ) vì dân đi chơi hay làm ăn khuya cũng thường hay ghé ăn hủ tiếu gõ.

Gần khu vực căn cứ 26, quận Gò Vấp, tôi gặp Long, chàng trai 17 tuổi, dân Bình Định, có "thâm niên" làm thuê cho xe hủ tiếu gõ đã được 5 năm. "Ông chủ" của Long là một người đàn ông quê Quảng Ngãi. Lúc mới "vô nghề" bưng, bê, gõ... lương tháng của Long là 300 ngàn đồng.

Bây giờ thì Long đã có thể thay chủ "đứng bán" cho khách, lương của Long được "nâng lên" là 500 ngàn đồng (được bao luôn ăn và chỗ ngủ). Cùng bán với Long là một cô bé "đen đúa" gầy như "que củi," chủ yếu đi "gõ," lương tháng được trả 350 ngàn đồng (bao ăn, ngủ thì về với mẹ, mẹ cô bé bán vé số dạo, thuê nhà gần "ông chủ" hủ tiếu gõ).

Tôi hỏi Long, đứng bán suốt như vậy có thấy cực không? Long nói quen rồi, nhưng nói thêm. Lúc nào cũng cảm thấy thiếu ngủ!

Một giờ sáng đẩy xe hủ tiếu về, dọn dẹp, rửa xong hết mọi thứ, 2 giờ sáng mới được "ngả lưng" cho tới 10 giờ sáng hôm sau, thức dậy chuẩn bị cho cữ trưa đi bán và lại cho tới 2 giờ sáng mới đi ngủ, ngày ngày cứ vậy...

Tôi hỏi Long vừa đứng bán, vừa đi gõ vậy có mỏi chân không? Long lắc đầu -gần thì đi bộ, xa một chút thì đi xe đạp... Long cho tôi biết "ớn" nhất trong nghề này là "phải" ăn hủ tiếu hoài hoài mỗi ngày. Riết rồi nhìn thấy hủ tiếu là phát... bệnh.

Tôi hỏi: "Bộ không ăn cơm à? Long cho biết chỉ ăn có bữa cơm trưa, còn từ tối tới khuya khi nào đói thì tự nấu hủ tiếu mà ăn.

Tôi hỏi Long bán suốt không có ngày nghỉ như vậy, rồi làm sao có bạn bè, đi chơi? Long cười, đi chơi thì không, nhưng bạn bè thì có. Tôi hỏi Long thường chơi với ai? Long nói, thường chơi với mấy đứa cũng bán hủ tiếu gõ. Gặp nhau trên đường "công vụ," nói vài ba câu chuyện rồi "phân công": Mày đi hẻm này, tao đi hẻm kia...

Cỗ hậu sự

hanh minh, Khải về quê. Rất đều đặn, năm nào Khải cũng gắng về, cả năm có một ngày con cháu viếng thăm, nhặt cỏ, vun đất mồ mả ông bà, tổ tiên.

Một lẽ nữa, cứ tiết Thanh Minh, Khải lại nhớ tới bà cụ Và cùng lời bà lão mặc cả: “Sau này bà mất, Thanh Minh, cháu nhớ ra thắp hương mộ bà, cháu nhá!

Về đến nhà, còn đang ngoài sân, Khải đã nghe âm thanh lạ tai - trống, phách, thanh la và tiếng người ê a từ nhà ai đó trong xóm vang vọng. Vừa nói chuyện với bố mẹ, Khải vừa tò mò nghe âm thanh là lạ kia. Chả phải trống phách đám ma, chả ra đàn hát đám cưới. Không nén nổi tò mò, Khải hỏi mẹ về tiếng leng beng đó. Mẹ Khải trả lời:

- Cúng kem. Nhà thằng Dần cúng kem bố nó đấy!

- Cúng kem là gì hở mẹ?”

Nghe con trai hỏi, bố Khải giọng mỉa mai: “Khốn nạn...! Cúng cho chết (!)” Còn mẹ Khải giọng ái ngại, giải thích cho con: “Ông ấy đã lạnh chân, lạnh ngực... Khổ, ngấp ngoái mãi mà chưa đi được. Thấy bảo thằng Dần mang cả bộ đồ nghề dao, liếc giết trâu của bố nó, chao trước mặt...” Tiếng bố Khải dài giọng, cắt ngang:

- Hừ... ác giả ác báo. Cái lão Lem đó,  muốn chết, thằng con trai phải xôi thịt tế khối kẻ sống, người chết ở cái làng này, may ra mới nhắm mắt được...”

- Thôi, thôi, ông ơi!... người ta sắp mất rồi, còn nỡ chấp!

Nghe bố mẹ đối đáp về ông Lem, Khải chợt nhớ đến câu chuyện có liên quan đến ông ta và hai con lợn còi nhà Khải ngày trước. Lúc đó Khải độ mười một, mười hai tuổi. Nhà Khải nuôi con lợn sề. Lứa ấy lợn đẻ được bảy con. Nái sề đã xấu sữa, lại vụng nuôi con. Lứa lợn chỉ  bán được ba, hai con bị dẫm chết, hai con còi cọc quá, chả ai mua, nhà Khải đành để nuôi. Một con sau lớn vượt, xuất chuồng bán nghĩa vụ rồi, mà con kia vẫn còn còi rí còi rị, tám chín tháng, chỉ hơn hai chục cân.

Dịp đó sắp tới ngày giỗ ông nội. Trước cả tuần, Khải thấy người lớn cứ thì thầm bàn bạc, hình như liên quan gì ấy đến việc cúng cấp. Khải chẳng để ý lắm, cậu chỉ mong nhanh nhanh đến ngày giỗ. Nó sẽ là ngày vui của anh em Khải. Các cô chú và cánh anh em họ tập trung, đám trẻ được bữa chơi bời, hò hét thoả sức. Song điều cậu thích nhất là chuyện ăn cỗ, Khải sẽ được đánh một bữa thoả thuê, thịt lợn luộc, thịt gà rang, bí nấu xương.... nghĩa là bọn trẻ cứ thoải mái ăn, thoải mái gắp múc, không phải định mức ăn như mọi ngày, cơm đã không độn, lại xôi đỗ, hay xôi gấc đỏ ối, ăn uống mấy bát tuỳ ý!

Trẻ con nào để ý gì, sắp ngày giỗ mà trong chuồng, gà qué vắng tanh. Đợt dịch làm lũ gà toi sạch, trừ con mái già lụ khụ, đang mải mê ấp bóng. Bố Khải mấy lần lôi nó từ ổ, quẳng xuống ao, cho chừa cái thói lú lẫn, ấp bóng mãi. Mẹ Khải bảo, con gà gần bằng tuổi cậu. Nó già quá, tới mức trận dịch, gà trong xóm toi sạch, riêng nó vẫn không hề hấn gì.

Trước hôm giỗ, buổi chiều, bố Khải mang con dao ra mài, mẹ thì sửa soạn, bỏ ra mấy cái nồi đồng to, bà còn dấm dúi mượn thêm bát đĩa nhà các chú, các dì. Buổi tối, ông chú tới chơi, khuya vẫn không thấy về. Rồi ông ngủ lại nhà Khải. Bọn trẻ ngủ cả, riêng Khải vẫn nằm, giả ngủ... Rồi cậu thiếp đi lúc nào không hay biết.

Gà gáy canh một, canh hai... Cái lạnh làm Khải tỉnh giấc. Cậu kéo chăn và chợt nhớ đến chuyện người lớn xì xầm. Khải tỉnh hẳn. Nhà tối như bưng. Cậu quờ sang bên, mà không thấy ông chú đâu, chỉ có mình cậu còng queo nằm trên phản. Hình như có tiếng lào thào và bước chân người ngoài sân. Ngôi dậy, Khải mò mẫn ra cửa. Nhìn xuống bếp, cậu thấy ánh sáng nhờ nhờ hắt ra qua khe liếp cửa bếp. Cậu rón rén bước. Nghé mắt nhòm, Khải thấy bố, chú và mấy người nữa, đứng ngồi lố nhố. Họ làm gì thế nhỉ? Hình như chú của Khải lúc đó đang tỳ đầu gối lên vật gì đó, chú cố đè xuống giữ cho nó yên, mà không được – cứ cọ quậy.

Khải hú hồn khi bất ngờ thấy bố huơ con dao lên, rồi phập xuống... Dù ngọn lửa bếp bập bùng, lúc sáng, lúc tối, Khải vẫn nhìn thấy tia máu vọt ra, máu phun xối xả. Đầu óc non nớt của Khải như thấy cảnh trong câu chuyện cổ tích, yêu tinh giết người, cậu rùng mình, vùng chạy. Bất chợt nghe tiếng chân người thình thịch, mấy người trong bếp giật mình, buông con lợn còi bị chọc tiết dở...

Giữa đêm khuya làng quê thanh vắng, nổi lên tiếng lợn kêu eng éc, nghe thật ghê rợn. Hôm sau, chuyện giết lợn lậu làm giỗ của nhà Khải loang khắp làng. Lần ấy, bố mẹ Khải thật khốn khổ với lão Lem - ông đội trưởng đội sản xuất của hợp tác xã.

Lại nói về bà cụ Và. Nhà Khải giết lợn lậu bị ông đội trưởng hành đã đi một nhẽ, chứ bà già bán trầu vỏ nhà ở mép sông, cũng bị lão Lem trù úm mới lạ?

Không rõ quan hệ của bà cụ với nhà Khải thế nào, song chắc chắn bà không có họ hàng với nhà cậu. Bà già lắm, lưng còng, mặt mũi răn reo, sống một mình giữa nơi cánh bãi.

Cứ xế trưa, chợ về, nhũng nhẵng gánh hàng giầu vỏ. Cứ dăm ba bữa, đi qua nhà Khải, bà rổn rảng gọi lũ anh em Khải ra, bà cho quà. Bận tấm bánh đa, lần đẵn mía, khi dúm lạc luộc. Dăm ba hôm, vào chập tối, bà lóc cóc chống gậy leo dốc đê vào nhà Khải chơi. Giờ đó, nếu tiết hè, thường dưới sân, cả nhà Khải quây quần quanh mâm cơm. Bà tới, ngồi tệt xuống đầu hè, phe phẩy chiếc quạt mo, miệng bỏm bẻm nhai trầu. Khải chưa thấy lần nào thấy bà xuống mâm, dù bữa cơm có bát canh cua, hay mẻ tép rang nước dưa và bố mẹ Khải dù cố mời, bà đều từ chối. Bà bảo, ăn rồi. Nhà có một mình, cái niêu con, ù cái là xong bữa.

Cả nhà ăn cơm xong, bố mẹ Khải mời bà cụ xuống chiếu, uống bát nước vối. Câu chuyện của người lớn chốn quê, quanh đi quẩn lại vẫn thế, nào giá thóc phiên chợ nay lẻ mấy; nào cái đĩ gái nhà nọ có cơi trầu rồi đấy; nào chuyện công điểm hợp tác xã... Và rất buồn cười rằng, cuối cùng, không bận nào, bà cụ Và không lái về chuyện cái chết. Câu bà cụ thường nhắc: “Kẻ sướng là người lo được cái chết cho mình”. Nghe câu nói ấy, Khải thấy thật buồn cười: Chết rồi còn gì mà sung sướng nữa! Làm gì có thứ chết sung, chết sướng!

Một lần nghe Khải đùa, nhại cái cụm từ chết sướng của bà cụ Và, bố Khải nét mặt trầm tư, ông nói với con, mà như nói với mình: “Ai rồi cũng chết. Đấy, có người họ đi thanh thản, mặt tươi như hoa, nhưng có kẻ chết, mà mặt mũi dúm dó, mồm há hốc. Chết là hết, sao người thì cười, kẻ lại khóc?

Bà cụ Và nhờ vả bố Khải lo cho cái chết của mình với những lời dặn dò nhiều thứ lắm: Giúp chôn cất bà cụ ở ngoài cánh bãi. Cho nó tiện. Nơi ấy quang quẻ, gió sông mát mẻ, tuy mỗi năm vài tháng ngập lụt. Khi sang cát, thì chuyển cốt vào trong đồng, ở bãi chùa Hun, gối đầu về hướng chùa, Phật ngài che chở. Bà cụ chuẩn bị cho cái chết của mình rất chu đáo.

Bà bảo, đã có hơn chục thước vải, loại phin trắng và riềm bâu, mua tích mấy năm theo tiêu chuẩn phiếu vải nhân dân. Đấy là vải liệm, vải bó khớp vai, khớp hông, túi bọc bàn tay, bàn chân - sau này sang cát, xương cốt được đầy đủ. Đến chiếc nồi chân đựng nước vang, rửa cốt khi bốc hót, cũng được bà mua rồi...

Chính Khải có lần ra nhà bà chơi, tận mắt thấy những thứ ấy, bà đang lần mần soạn sửa chúng trên chõng. Anh em Khải hay kéo ra nhà bà chơi. Ngôi nhà hai gian, một chái, mái rạ, vách đất, nằm giữa khu vườn giáp sông. Bà rất chiều anh em Khải. Bọn trẻ thoải mái leo trèo, vặt ổi, hái sung... Có bận Khải bị ong đốt, mặt sưng vếu, bà phải lấy vôi trong ông bình vôi treo trên vách nhà, bôi vết đốt. Chơi chán ngoài vườn, lũ trẻ kéo nhau vào nhà quậy phá. Ngôi nhà chẳng rộng rãi, nhưng với đám trẻ, nó vẫn đủ để chúng bầy ra đủ trò tai quái. Anh em Khải chơi nhiều nhất là trò ú tim. Cỗ hậu sự mà bà cụ Và hay khoe và rất tự hào, ấy là nơi luôn được chúng trèo vào trú ẩn.

Cỗ quan tài đặt ngay gian giữa, dưới giường thờ. Lúc đầu nhìn thấy, anh em Khải kinh, lâu rồi quen, chẳng sợ hãi nữa. Cứ như bà cụ Và: “Gỗ là gỗ dổi, tốt chẳng kém gì vàng tâm. Cỗ  gỗ để mộc, không sơn. Sơn thì có bằng áo gấm đi đêm à!” - bà cụ vẫn nói thế.

Trận lụt năm 1971, các cụ trong làng nói, chưa năm nào lũ to đến thế, to hơn cả trận lụt hồi Bốn lăm! Mới cuối tháng sáu, lũ đã mấp mé chân đê. Cỗ hậu sự của bà cụ Và được chuyển lên trên chõng, bốn chân chõng kê gạch cao lênh khênh, thế mà bà  cụ vẫn lo. Một đêm mưa gió, bà lướt thướt chống gậy vào gõ cổng, hốt hoảng nhờ bố Khải và mấy người hàng xóm, ra chuyển giúp cỗ gỗ, nước đã lấp xấp nền nhà. Ngay đêm ấy, cỗ ván được chuyển lên đê. Dù già cả, bà cụ Và hiểu cái điều tế nhị - quan tài thì không gửi nhờ vào nhà ai được. Mà có ai đồng ý, chắc bà cũng không muốn phiền hà. Tối ấy, trên đê, bà lão khoác áo tơi, ngồi gác cỗ quan tài qua đêm. Sáng hôm sau, bà cụ nhờ người dựng túp lều che và nghỉ chợ cả tháng, trong ngôi lều tạm, bà ngồi gác ván.

Trăng tháng bảy, nước sông lũ mênh mang. Trên đê, đặt cỗ quan tài, những người yếu bóng vía, đêm hôm có việc đi qua, phải tránh, vòng vào làng mà đi. Lần ấy, Khải bị bố cho một trận đòn nên thân. Bởi chuyện, một buổi chiều, Khải đầu têu lũ trẻ chơi trò đám ma. Đám ma đủ kèn lá chuối, thùm thụp trống lưng, gậy tre chống và lũ “con cháu” đầu vành rơm, rồng rắn khóc quanh cỗ quan tài, với bà già dở khóc dở cười ngồi gác ván.

Về chuyện cỗ quan tài, từ lâu bà già vẫn ước mơ - một cỗ gỗ vàng tâm dày dặn. Để thực hiện ước mơ ấy, bà lão bán giầu vỏ âm thầm tích cóp. Ngày nào cũng vậy, ế chợ, hay đắt hàng, bà đều cho con lợn đất ăn, hôm bán hết hàng, thì một, hai hào, hôm ế ẩm, đổ cả mấy tay trầu, chỉ cho con lợn đất ăn được năm, ba xu. Sau mấy năm trời bà lão cóp nhặt được gần ba trăm đồng bạc.

Không hiểu sao lão Lem biết được ước mơ kia của bà lão và còn đoán được bà đã cóp nhặt gần đủ tiền mua cỗ ván. Ngày ấy lão Lem chưa vào hợp tác xã. Trước đây lão vốn sống bằng nghề đồ tể. Rồi việc giết trâu bò không được tự do nữa, lão xoay sang nghề sông nước, buôn lậu gỗ.

Nhà bà cụ Và sát bờ sông, lão Lem qua lại là chuyện thường. Lão nỉ non thế nào đó, bà cụ Và đã nhờ lão giúp. Khi các đồng xu, đồng hào bóng nhẫy mồ hôi của bà cụ đưa cho lão, tháng cách tháng, những chuyến bè nứa lão Lem chở gỗ lậu giấu phía dưới, qua đây, nhưng bà cụ vẫn không thấy mặt mũi súc gỗ vàng tâm của mình đâu.

Một đêm, lão Lem với cuộn dây song và chiếc mảng bơi vào mép nước, ngay bến sông sát nhà bà cụ Và, bà già bàng hoàng nghe lão nói, bè nứa của lão và cả súc gỗ mua giúp bà cụ, bị người ta kiểm tra, thu giữ sạch rồi. May mà lão còn vớt vát được cuộn dây song và cái mảng, buông thoát. Chẳng biết lão mất bao nhiêu cây gỗ, cứ như lão nói, thì nhiều, nhiều lắm, tài sản vốn liếng nhà lão dồn cả vào đấy, nay mất tiệt cả rồi! Còn súc gỗ lão mua giúp bà cụ, cứ như lão tả, nó dày dặn, nục nạc... Bà cụ Và còn tâm trí đâu để nghe. Bà lão nghèo khó kia chỉ còn biết tức tưởi chùi những giọt nước mắt đang trào chảy ra nơi khoé mắt, ngẫm sao số kiếp mình khốn khổ đến thế.

Nửa năm sau cái vụ mất chuyến gỗ lậu chỉ có hai người biết kia, lão Lem dựng ngôi nhà ba gian, gỗ mít vàng choé, mái ngói ta đỏ au. Hôm cỗ tân gia, không thấy bà cụ Và được mời. Giữa bữa cỗ, người trong làng bỗng nghe tiếng khóc não lòng của bà lão ngoài đê. Bà than khóc mình mất nhà, ngôi nhà vàng tâm dày dặn, nục nạc... Nghe tiếng khóc, dân làng có người nghĩ ngợi, chuyện ấy liên quan gì đến ngôi nhà gỗ mít lão Lem vừa dựng không?

Việc xảy ra lâu lắm rồi, Khải còn nhỏ không biết. Và khi Khải lớn, thường hay vào nhà bà cụ Và chơi: “Bà đã có nhà rồi” - như lời bà cụ.

Riêng lão Lem, lão không quên mối thù khóc mừng nhà mới của mụ già bán trầu vỏ kia.

Chuyện lão Lem trả thù, thì Khải được chứng kiến. Ấy là việc bà cụ Và phải dời nhà - lão Lem lúc này đã vào hợp tác xã và lên đến chân đội trưởng đội sản xuất, chính lão đưa ra kế hoạch cơ giới hoá cánh bãi. Cánh bãi mấp mô vì phù sa nước sông bồi, lở hàng năm, nó sẽ thành bãi canh tác vừng lạc phẳng lì. Muốn cơ giới hoá, không thể để luỹ tre, cùng túp lều của bà già bán giầu vỏ, dân ngoài hợp tác xã, nằm đó. Nó chềnh ềnh, làm ngắt đôi cánh bãi. Chưa kể tính mỹ quan, tính khoa học kỹ thuật, tính... Tóm lại, nó cản trở quá trình đi lên của cánh bãi.

Hôm chiếc xe ủi hợp tác xã thuê tiến ra bãi sông, tất nhiên lão Lem là người trực tiếp chỉ đạo buổi ra quân, bà cụ Và bỏ phiên chợ, ở nhà hờ khóc. Ông đội trưởng như không nghe thấy gì. Qua chiếc loa tay, ông oang oang đốc thúc đội quân san ủi. Người ta còn nghe cả tiếng lão Lem răn đe những phần tử chống đối kế hoạch sản xuất và đi lên của tập thể, của cánh bãi….

Tận xế trưa, tuy lão Lem đã nhiều lần đốc thúc, nhưng không anh em nào trong đội san bãi vào vườn nhà bà lão. Còn cái máy ủi, mới kịp ra oai trước mấy mô đất bồi, chưa kịp đưa lưỡi thép khổng lồ hất đám gốc tre, thì vòng bánh xích bị đứt, suýt nữa nó còn bị sa xuống sông, bởi đất bãi bồi quá lún ướt.

Trên đê, càng lúc càng đông dân làng. Mới đầu họ xì xầm, sau nhiều người phản đối ra mặt, họ chỉ đích danh lão Lem, không phải mục đích cơ giới hoá cánh bãi, mà lão cốt phá túp nhà tranh của bà lão ngoài đê. Buổi san bãi đành bỏ dở, túp nhà, khu vườn vẫn bên mép nước...

Thắp nén nhang trên nấm mồ bà cụ. Làn khói hương nhè nhẹ uốn lượn,…. mờ tan.

Có cái chết sung sướng chăng? Bà cụ đi thanh thản lắm! Chập tối cụ còn sang nhà Khải chuyện vãn, hôm sau ra đi...

Vọng tới tai Khải tiếng leng beng cúng kem.

Con người kia, bao giờ mới đi nổi? Hay ông ta còn luyến tiếc điều gì nữa?

Không rõ ông ta có nhận ra “nhà” của mình không?

Tận khi lão Lem mê sảng, con cái lão mới vội phi công nông lên phố huyện, mua về cỗ ván. Quan tài đóng theo kiểu mới, vẽ rồng phượng, sơn son nhũ vàng óng ánh (!)

CANH RÙA

Thôi cũng là may: phe dân chủ ở Mỹ thắng, mình đã thấy ngay một cái lợi là biết ăn canh rùa. Mới nghe, tưởng là đùa, nhưng sự thật quả là như thế.

Từ thuở bé, sống ở Thủ đô Bắc Việt, ông bà tôi, rồi đến thầy mẹ tôi, chỉ dung nạp được một thứ kêu là ba ba: ba ba tần, ba ba nướng chả, ba ba om, ba ba nấu giả cầy (có đậu phụ, chuối xanh, lá tía tô... Thượng đế ơi, ngon quá!)... nhưng đến cái con vật mệnh danh là con rùa thì tối kỵ, không ai lại ăn đến cái thứ đó bao giờ. Quái, con rùa thì khác gì con ba ba? Mà sao ăn ba ba lại không ăn rùa?

Có lúc tôi nghĩ như thế nhưng không dám hỏi.

Mãi đến sau này, lấy vợ, có buổi mây chiều gió sớm, ngồi “đấu lý” với nhau, tôi mới biết người hiền nội trợ phương Bắc không ăn rùa là vì thành kiến từ ngàn đời xưa để lại:

Thương thay thân phận con rùa, Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia Ở đình chùa nào, người ta cũng thấy con rùa bằng đá hay bằng gỗ nên con rùa, không ai bảo ai, đã mặc nhiên thành ra một con vật huyền bí, có tính cách thiêng liêng, phải tôn thờ, phải kính cẩn, không được coi làm thường. Thôi, đừng có nói bậy, mà phải tội bây giờ đấy. Người vợ hạ giọng xuống khẽ bảo chồng, như dạy dỗ, như khuyên can:

- Rùa là đệ tử trung thành của Đức Phật từ bi đấy, biết chưa? Ngày xưa, đã lâu lắm lắm rồi, lúc thầy Đường Tăng đi thỉnh kinh bên Tây Trúc, chính là nhờ con rùa đấy, chớ không thì làm thế nào mà đi được thiên sơn vạn thủy, đương đầu được với bao nhiêu quỷ sứ, yêu tinh!? Thế cho nên thỉnh được kinh rồi, thầy Đường Tăng thành Phật thì Đức Quan Thế Âm ngài cũng cho con rùa thành Phật luôn... Vì thế không bao giờ nên ăn thịt rùa. Ăn vào thì xúi quẩy, lụn bại, không còn buôn bán, làm ăn gì được!

Yêu nhau, bảo thế nào lại chẳng phải nghe. Hai chục năm, sống ở bên cạnh người vợ bé nhỏ, một niềm kính Phật thờ Trời, tôi không một phút nào dám nghĩ đến chuyện ăn thịt rùa. Mãi đến tận gần đây, vào trong này, một biến cố lạ lùng xảy ra, khích động tính tò mò quá mức, khiến cho người chồng đã có một lần quên hẳn lời người vợ yêu để liều ăn một bữa thịt rùa xem sao. Nhưng mà cái việc liều lĩnh đó không phải là không có cớ!

Ấy là vì khoảng dăm năm trở lại đây, ngày vui của kẻ viết sách này có thể đếm trên đầu ngón tay mà ngày buồân thì dằng dặc như trong đoạn kết bài thơ của vua Đường khóc người đẹp họ Dương. Mình cứ rình một cơ hội gì để liều đổi thời vận xem ra thế nào, thì trúng ngay vào lúc Tổng thống Eisenhower hết nhiệm kỳ, hai ông Kennedy và Nixon tranh nhau làm Tổng thống.

- Nói chuyện dằng dai, dễ ghét!

- Thì đã bảo mình đương buồn mà! Đêm vắng, nằm không ngủ được, mình mới lôi những bài tuyên ngôn của hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ ra coi, rồi dây mơ rễ má, đọc luôn cả những bài văn cổ động cho hai ông. Một cuốn sách tuyên truyền cho công dân Kennedy đã làm cho tôi chú ý: cụ thân mẫu ra ông Kennedy, năm đó gần tám mươi tuổi, chính là trưởng ban tuyên truyền của ông; các anh em ông đi khắp mọi nơi hô hào cử tri bỏ phiếu cho ông không ngớt, nhưng giúp việc cho ông đắc lực nhất, chính là những cô em gái ông hoạt động bất phân mộ dạ, dưới muôn vàn hình thức khác nhau.

Các cô đi không còn thiếu một câu lạc bộ, một hội liên đới phụ nữ nào; các cô diễn thuyết và lấy lòng phụ nữ cho ông anh; nhưng tài tình nhất là cụ thân mẫu và các cô em của ứng cử viên Kennedy khéo làm các bánh ngọt để biếu các bạn gái ở từng quận xã và không quên gửi kèm theo một cuốn sách mỏng trình bày rất đẹp. Một cuốn thơ xanh mầu hy vọng? Hay đó là một bản sao mấy bức danh họa của Gauguin, Van Dyck? Không, thơ họa gì cũng không bằng. Cuốn sách nhỏ bé gửi biếu các cử tri đó chứa đựng một bảo vật gia truyền của dòng họ Kennedy: bí quyết nấu canh rùa. Xin mời các bạn gái cử tri trên toàn bộ nước Mỹ cứ theo đó mà làm, các bạn sẽ tạo hạnh phúc cho chồng con và các bạn sẽ thấy thiên đường không ở đâu xa, mà chính ở ngay trên trái đất!

Đọc thế, tôi thấy hay hay; nhưng làm cho tôi suy nghĩ thực nhiều, phải là từ lúc có tin điện loan truyền cùng thế giới: Kennedy đắc cử!

Không hiểu tại làm sao từ đó, lúc nào tôi cũng nghĩ tới món canh rùa và, thường đêm, vào lúc chập chờn sắp ngủ, tôi hay liên tưởng đến một cái đĩa tây trắng cứ bong ra, đựng một thứ nước óng ánh vàng, trên thả một nhánh tỏi, vài ba lát ra-đi, lập là lập lờ vài miếng thịt hung hung mầu vàng ố! Phải, tôi tưởng tượng canh rùa của người Âu Mỹ như thế đó, nhưng chẳng biết ăn thế thì có ngon không nhỉ? Người Âu Mỹ ăn thịt ngựa, thịt ếch, ừ thì cũng được đi; nhưng bảo rằng họ thích canh rùa thì quả là từ khi đọc tập sách cổ động cho ứng cử viên Tổng thống Kennedy, tôi mới thấy lần đầu tiên như vậy. Rùa ăn có giống thịt ba ba không? Thịt nó dai và nhạt? Và ăn uống thì cách thức làm ra thế nào, hở... cô Năm?

Tôi có một cô bạn nhỏ quen nhau từ câu chuyện đi lấy lát ở Cồn Tranh dệt chiếu và biết nhau từ một sáng thu đi hái lá so đũa nấu canh với cá cơm để cùng ăn trong một túp lều tranh trên cồn. Yêu quá thể là yêu, cô gái bé miền quê Sa Đéc! Này, có phải ở ruộng người ta cho bông hoa bằng lăng này là biểu hiện của tình yêu mộc mạc không? Ờ mà quên mất nhỉ, bao giờ em lấy chồng? Mà yêu nhau quá thế này, đến khi anh về thành với vợ, em có buồn không?

Người con gái bé nhỏ không biết gì hết, ngoài những chuỗi giờ dằng dặc ngồi bẻ bìa, móc chân làm chiếu kiếm tiền, chỉ biết cặm cụi vào bếp để nấu hết món này đến món kia làm vui người bạn mang nặng trong lòng nỗi biệt ly xứ sở.

Ăn uống không có gì hết cả: vài trái điều xào với tôm, ăn vào một buổi chiều có gió hây hây; một chén mủ trôm trưa hè; một nồi cá cháy không lột vỏ, không đánh vẩy, kho lạt ăn với cơm nguội; một chén dế cơm chiên nhắm nhót buổi tối trước khi đi nằm, hay mấy con ốc gạo cuốn theo lối bì cuốn chấm đẵm giấm ớt ăn vào lúc đương xót ruột... Chỉ có thế thôi. Nhưng phải trông thấy tận mắt người con gái bé nhỏ đó xào nấu, chế hóa các món ăn và đệ lên cho mình dùng, ta mới có thể cảm thông được sự trang trọng lên cao đến mức nào và ta không thể không nghĩ rằng những món quà hèn đó, đối với cô Năm, còn quý hơn là các bà các cô ở thành trịnh trọng với sơn hào hải vị.

Sinh làm con nhà nghèo, cô chỉ biết con cua, con ếch, lá rau bò ngót, con cá nham rào, cùng lắm là miếng huyết heo luộc ăn với gạo lúa đốc, chớ có bao giờ biết vây yến, sucút hay camămbe Ôsiđa là gì. Ăn thịt con rùa, cố nhiên tôi phải hỏi cô Năm và cố nhiên một hôm tôi đã được thưởng thức món rùa chính cống làm theo kiểu miền quê Nam Việt.

- Trời ơi! Sao anh lại có thể ví con rùa với cua đinh? Có lẽ ở xứ sở anh, người ta kêu cua đinh là ba ba, và em nghe các bà Bắc di cư nói chuyện thì “ở ngoải” người ta ăn ba ba thường lắm, hoặc theo kiểu tần, hoặc theo lối rán hay om với chuối xanh, đậu phụ, riềng, mẻ, điểm thêm mấy lá tía tô hay rau ngổ. Ở đây, cũng vậy, người ta cũng ăn cua đinh, nhưng cua đinh và rùa có hương vị khác hẳn nhau, cũng như thịt vịt ta không thể như thịt vịt xiêm, hay không ai lại có thể so sánh con cá ngáp với con cá sặt, chỉ vì lẽ cùng là loài cá.

Không ai bảo cho tôi biết ở đô thị, người ta ăn thịt rùa theo cách thức nào, cũng như tôi chưa sưu tầm được bí quyết nấu canh rùa của em gái cố Tổng tống Kennedy ra sao; nhưng mấy món rùa của cô Năm nấu cho tôi thưởng thức hôm đó đã làm cho tôi chợt cảm thấy như vừa mới nghe thoang thoảng đâu đây một hương lan hòa với hương xuân lúc cùng với người yêu trèo lên một đỉnh núi cao trên Đà Lạt.

Có những người sành ăn muốn thưởng thức món ăn gì, hết sức giữ cho kỳ được vị của món đó trong khi chế hóa mới vừa lòng. Ăn rươi, sợ tanh, mà cho gia vị đánh át mất cả vị của chính con rươi; ăn dê hầm mà cho lá sả và tẩy gừng quá tay để cho mất mùi hoi, hoặc pha mắm tôm ăn chả cá mà cho nhiều rượu và chanh quá, làm mất cả vị của mắm tôm, ăn như thế tức là “ám sát” các vị căn bản của món ăn, “thực bất tri kỳ vị”. Tôi thích món ba ba tần, ba ba hồng síu, ba ba om duyên dáng, triền miên, nhưng ăn đến rùa mà thật gọi là “thưởng thức”, cần phải ăn theo hai món chính mà cô Năm đã làm cho tôi. Đó là món rùa xào và món xé phay gỏi bắp chuối.

Lúc còn ở ngoài Bắc, tôi đã được trông thấy một con rùa to bằng cái nia lớn lên phơi nắng ở trước đền vua Lê. Rùa như thế, tôi đã cho là lớn lắm nhưng sau này xem sách thì chưa thấm vào đâu hết.

Trong hai mươi nhăm loài rùa sống ở trong trời đất, người ta đã tìm thấy những con to bằng cả một cái chiếu rộng nhất, cân nặng tới năm trăm kí, nhưng trái lại, lại có những con sống hàng trăm năm mà không lớn hơn một bàn tay, ta có thể cho vào túi bađờsuy đi dạo mà không ai thấy.

Người ta bắt nó ra sao? Ta thường vẫn tưởng chỉ có hai thứ rùa: rùa núi và rùa sông, rùa sình. Thực ra, ngoài hai thứ đó, còn có một thứ rùa biển nữa. Rùa biển ăn thịt cá, tôm và nhiều khi bắt vịt, bắt le như chớp nhoáng; còn rùa sông, rùa sình thì thường ăn rêu, ăn sậy nhưng cũng không chê tôm cá, nếu chẳng may những con này sa vào miệng chúng; bởi vì rùa biển, rùa sông hay rùa núi đều có một điểm giống loài chim là chúng có một cái miệng không răng mà hai mép thì rắn như sừng, thường gọi là cái mỏ.

Những người ăn thịt rùa không thích những thứ lớn quá vì ta có quan niệm cái gì lớn quá đều là thần hoặc là ma. Rùa lý tưởng cho người ta ăn thịt là thứ rùa lớn bằng cái đĩa tây. Theo các sách Âu Mỹ thuật lại thì từ năm 1708, người Âu châu đã thích ăn thịt rùa, Đại úy Francois Leglat đã viết trong một cuốn nhật ký của ông: “Thịt rùa cũng tựa như thịt trừu nhưng ăn thanh hơn nhiều”. Nhà thám hiểm Marc Antoine Rendu ăn thịt rùa hả quá cũng viết: “Canh rùa là vua canh” và không chê những con rùa kỳ lạ không có vảy nhưng toàn mình bọc một tấm da như kiểu một nhà võ sĩ thời Trung cổ.

Con rùa cô Năm làm cho tôi ăn hôm ấy không kỳ lạ đến như thế; nó giống như các con rùa thường, chỉ khác mai nó hung hung vàng. Cô nói:

- Rùa ăn thế nào cũng được, chỉ có một điều nên nhớ là thứ rùa quạ, mu đen như quạ, ăn không tốt. Người ta lại bảo rằng ăn rùa quạ cũng như ăn cua đinh mà cụt một cẳng thì dễ sanh bịnh cùi. Chẳng biết có đúng hay không? Con rùa mà em mua được hôm nay là rùa vàng, ăn vào phát tài, anh dùng đi, chớ cứ ngồi mà nhìn em hoài vậy ư?

Cô Năm tiếp thêm cho tôi một miếng rùa xé phay. Cô nói:

- Anh ăn đi, ngọt lắm. Em làm kỹ, không có sợ đau bụng đâu. Người ta bảo rằng làm cái giống rùa này mà không lau cho khô nước thì dễ sinh đau bụng. Anh đã thấy em làm rồi đấy: thịt khô mà chín nhừ. Có người cho lên lò nướng rồi tróc mu ra. Em không thế. Em cho vào nồi, trong nồi có sẵn muối hột; em rang muối, khi nào muối nóng thì bỏ rùa vào.

Thấy muối nổ cũng đừng bắc ra vội; phải đợi cho muối vàng và tan thành bột, hãy bắc nồi ra. Lúc đó, rùa mới thực chết và thịt nó lúc ấy mới thực săn. Em cậy nắp ra, bỏ ruột, có trứng thì lấy trứng; đoạn, lấy dao lách thịt, xé phay, cuốn bánh tráng, gia đậu phộng, rau răm và hẹ, như thế này. Anh phải chấm đẫm nước mắm ớt có pha giấm và đường, ăn với đồ chua mới ngon, anh à.

Ăn kiểu này thì thưởng thức được chân vị của món thịt rùa; người ta thấy thoang thoảng một chút tanh tựa như cái tanh của sò, của hến, thêm cái chất ngọt của thịt gà chân chì mà lại man mát tựa như thịt vịt xiêm. Thú thực là tôi không thấy cái gì “tựa thịt trừu” như lời Đại úy Leglat đã nói, song ăn đến cái nước lèo rùa luột thì phải nhận là ngon, nhưng cái ngon đây vẫn không phải là cái ngon đáo để của thịt trừu, hay thịt bò con, mà là cái ngon dịu hiền, thanh cảnh và kín đáo, tựa như món gà giò nấu với sa sâm, ý dĩ, thêm chất tanh tanh thú vị của món hà mà ta ăn sống ở trên bờ biển Vũng Tàu hay Long Hải.

Ông nào cho ăn như thế là thanh cảnh quá, muốn đậm đà hơn một chút, nên dùng món rùa xào: thịt rùa rang lên rồi chặt ra từng miếng bằng con cờ, cho vào chảo xào với củ hành, gia thêm thứ rau gì tùy ý, xúc ra đĩa, ăn luôn với một hai tớp rượu đưa cay, ta cảm như ăn ba ba hồng síu của Tầu. Nếu cho vào nồi gia nước, đun lên và bỏ thêm mấy miếng su su, cà rốt, tống cú và vài cái chân gà ác hầm lên, ta sẽ cảm thấy cái vị ba ba cáy dùng.

Nhưng ăn thực cho thích khẩu những người sành thường dùng món rùa hấp cách thủy: thịt rùa chặt ra từng miếng nhỏ, cho đúng phân lạng sa sâm, ý dĩ, đại quy và bạch thược, đợi cho thịt rùa thật chín và mềm, đem ra ăn, sướng ông thần khẩu không chịu được.

Hấp cách thủy như thế hơi lâu.

Trong khi chờ đợi, những ông bợm nhậu có thể lấy mấy cái chân rùa ra nướng lên nhấm nháp. Chân rùa nhiều gân; ta cạp chân gà thế nào thì gân chân rùa cũng từa tựa như thế; nhưng có nhiều người bảo gậm chân rùa “không có sướng” bằng lấy những cái vẩy trên mai nó nướng cháy lên mà nhắm rượu - chết chửa, giòn cứ tanh tách mà bùi quá thể là bùi! Này, các trái “noa” của Tây, tôi đố có thể đem ra mà bì được đấy!

Rùa cách thủy đã được rồi đấy, mời ông lấy ra dùng. Húp mấy thìa thử mà coi, ông thấy mát ruột liền; nước không béo nhưng ngọt; mùi tanh của rùa quyện lấy mùi ý dĩ, bạch thược tạo nên một vị riêng tựa như thịt nai tơ, mà lại tựa như thịt rắn, nhần nhận, the the, mà lại trơn lừ cuống họng như canh yến. Ăn mà sướng khẩu cái như thế, chẳng là đã quá rồi sao? Nhưng có những người kỳ lắm, phàm ăn món gì lạ là cố tìm ra vài tính chất bổ béo của nó cho kỳ được mới nghe. Vì thế có ông bạn đã nghiêm khắc bảo tôi:

- Trời! Nếu rùa mà chỉ có thế thì đâu có quý! Nó quý vì cái khác kia...

- Bẩm, cái khác ấy là cái gì?

- Con rùa cũng như con trâu, ông ạ, không có một bộ phận nào của nó mà không được việc. Cái mu và cái yếm của nó đem phơi dùng để bói và làm thuốc chữa cam phổi, cam gan, cam thận, cam tim của trẻ con; mật nó phơi khô trị chứng đau răng hay lắm, còn thịt nó thì không thể nào nói xuể... người ta bảo ăn được trăm ngày thì vợ chồng yếu sẽ mạnh, có ông già sáu mươi tám tuổi lấy vợ hai mươi chín tuổi mà bốn năm sanh liền hai đứa con trai đấy!

Tôi tiếc là lúc viết bài này không có sách “Kinh nghiệm Y lý Đông phương” để truy cứu xem những lời nói của ông bạn đúng được bao nhiêu phần trăm; nhưng có một điều tôi biết chắc là chính giống rùa mạnh lắm, có một sức sống tuyệt kỳ, mà lại sống lâu như Bành Tổ.

Năm 1938, người ta đã tìm thấy ở Mỹ những con rùa mà ở trên mu còn hằn những vết đạn hồi bảy mươi nhăm năm về trước, lúc xảy ra cuộc Nam Bắc phân tranh.

Lại vừa đây, người ta mới bắt được một con rùa trên mu có khắc số 1844. Thì ra con rùa này sống ít nhất cũng được trên 120 năm nay và xem bộ dáng thì vẫn còn mạnh lắm.

Nhưng phá kỷ lục sống dai - theo sự hiểu biết có hạn của những nhà tự nhiên học - thì là con rùa mà người ta đưa tặng Nữ hoàng Eugénie. Theo nhà nghiên cứu Ambroise Randu, lúc con rùa này theo Nữ hoàng đi Ai Cập để khánh thành kinh đào Suez nó đã được 140 tuổi trời. Giữa đường, nó bị lạc. Mãi về sau, người ta mới thấy nó - nhưng thấy ở đâu? Ở vùng Kim Tự Tháp! Quốc vương Farouk đệ Nhị (Farouk II) nuôi nó trong Hoàng cung. Bây giờ nó là “thượng khách” của vườn thú Le Caire, thủ đô nước Cộng hòa Ả Rập Thống nhất và tính đến nay được hơn 250 tuổi.

Ở phương Đông, rùa là một trong tứ quí (lân, ly, qui, phượng), không những là vì rùa báo điềm lành, mà còn được coi là tượng trưng của tuổi thọ của con người. Thực ra, rùa không những sống lâu mà lại còn mạnh lắm. Các nhà tự nhiên học cho biết một con rùa núi bình thường có thể “cõng” một đứa trẻ trên lưng mà đi lại thong thả hàng cây số. Một con rùa lớn ở Mỹ có thể chở phăng phăng một “gi ay”(1) nặng bảy mươi kí trên cái mu đường kính bốn mươi lăm phân của nó.

Thế kỷ trước, nhà bác học Thụy Điển Alexandre Kestern muốn giữ xác một con rùa làm kỷ niệm, tìm cách giết nó đi mà loay hoay hàng tháng không biết giết nổi. Thoạt đầu, ông ta treo con rùa lên cao, cho đầu nó vào trong một thùng phuy nước, và lấy dây buộc cổ nó lại, để cho nó ngạt hơi dần. Nó vẫn “sống nhăn”. Kestern lấy một cái kim bự đâm thấu óc nó: nó vẫn cứ sống luôn. Ông ta bèn ngâm nó vào rượu có pha chất cyanure de potassium: Vô ích nốt. Rút cuộc, ông phải áp dụng phương pháp của “ông Sài Gòn”: trảm thủ nó như là trảm Trịnh Ân! Một tuần sau thân thể nó còn cựa quậy, bốn chân duỗi ra và thụt vào trong mu, còn cái mỏ thì vẫn cắn!

Một con vật dai sức và sống dai như thế, cố nhiên phải là con thịt lý tưởng của những nhà dinh dưỡng muốn tìm sức mạnh bằng món ăn.

Thuở nhỏ, học ngụ ngôn của La Fontaine, chúng ta thường vẫn yên trí rùa là một giống vật chậm chạp và không hoạt động: sự thực, không phải thế. Có nhiều giống rùa biết lội còn giỏi hơn cả cá, hàng triệu cây số lận; còn rùa núi, rùa cạn thì ở Anh, người ta đã thấy có con đi du lịch tới 350 cây số trong vòng hai năm. Rùa ở đảo Galapagos đi thủng thỉnh từ năm đến bảy cây số một ngày, không biết mỏi; nhưng lạ vào bực nhất là ở Đông Dương có một giống rùa leo núi như khỉ và trèo lên cây để kiếm thức ăn như vượn.

Ăn một món ăn lạ mà vừa nhấm nhót mà lại vừa cảm thấy ly kỳ như thế, ai mà lại không thấy lòng mình phơi phới như có cánh bay. Cô Năm đứng dậy, đi thủng thỉnh vào nhà trong, lật cái lồng bàn, bưng ra một cái đĩa, đặt trước mặt tôi và nói:

 - Thế nào? Anh ăn thịt rùa thấy làm sao?

- Cũng được, là lạ miệng.

- Nhưng chưa thấm với cái này...

- Gì vậy?

- Trứng rùa. Ăn rùa mà không thưởng thức trứng, tức là chưa ăn rùa vậy.

Tôi nhón tay cầm một cái trứng lên coi. Luộc rồi, trứng rùa có sắc trắng, tròn và nổi lên những tia máu đỏ. Nó lùng bùng nhưng dai, cắn vỡ thì có nước và một cái màng mầu vàng sẫm. Cái trứng đó vừa mút vào thì đã trôi đến cổ rồi, nhưng đừng có nuốt vội vàng, hỡi người bạn háu ăn! Thử cắn nhỏ nhẹ những cái trứng đó ra, anh sẽ thấy nó rắn hơn tròng đỏ trứng gà, mà quánh như sáp, vừa nhai vừa ngẫm nghĩ thì có ý bùi hơn và cũng thanh hơn. Này, ăn thêm một hai cái nữa, tuyệt trần, phải không anh?

Ô, thảo nào các nhà tự nhiên học không ngớt ca tụng trứng rùa.

Sách thuật rằng vào khoảng dăm chục năm về trước, ở Căm Pu Chia, công việc kiếm trứng rùa được qui định theo một sắc lịnh của nhà vua, và trứng của những con rùa quí ở sông đều phải đem “tiến” cũng như hồi trước nước ta “tiến” lên nhà vua nhãn, quế, vải, cốm hay vây, yến. Sở dĩ vậy là vì trứng rùa ăn thích khẩu, đã đành, mà còn vì một lẽ nữa là nó hiếm.

Cứ vào mùa “con nước”, rùa cái cũng “động đực” như heo nái vậy. Đương sống thanh nhàn, tĩnh mịch, các “em” kéo nhau đi tìm “chất đàn ông” không phải vì “nhớ đến tên các anh viết trên lá, trên hoa, viết trên vú trên mông”, nhưng chính là để “giết cái sầu cô độc, xây mùa tình ái, dựng niềm yêu... thế hệ”!

Ôi chao, các cậu rùa lúc đó “lấy le” dữ quá. Y như các bố trẻ “lưu manh” lộng hành ở các quán nước hiện nay để chiếm lòng các nữ ca sĩ, các cậu rùa giao chiến cực kỳ ác liệt cắn nhau chí chóe và tìm đủ các miếng khóa “ta ki đô” để vật ngửa nhau ra. Anh nào thắng, dắt em yêu đi hưởng tuần trăng mật - một tuần trăng mật kéo dài tới hàng tuần, có khi tới gần một tháng!

Mắn thế! Chẳng mấy hồi, cô rùa đã có bầu. Thường thường, cô đẻ mươi mười lăm trứng, nhưng người ta đã từng thấy có những con rùa biển lớn đẻ tới ba, bốn trăm trứng làm ba lần. Nhưng dù là thuộc loại rùa biển, rùa sông, rùa đất hay rùa núi, chúng cũng cào đất mà chôn trứng xuống, vì thế, trứng rùa khan hiếm và do đó thành ra món “tiến”.

Vừa ăn thịt rùa, vừa nhẩn nha suy nghĩ, một mình như thế, mình tự nhiên thấy trứng rùa đã ngon lại ngon quá chừng là ngon, mà thịt rùa đã quí lại quá chừng là quí. Và mình tưởng chừng như lúc ấy cô Năm có làm ba con rùa nữa mình cũng cứ ăn... bay!

Đêm ấy, trăng chiếu xuống mảnh giường kê ở ngoài vườn. Tiếng con “kuềnh quang” và con trằng hiu ru tôi vào những giấc ngủ đầy những mộng lành: tôi thấy mình lại dẻo dai như hồi hai mươi tuổi và đi mãi, đi mãi, qua thiên sơn vạn thủy như rùa, đến một cuối trời kia có mây xanh, gió tím... và ở một bên bãi lau có gió thổi hắt hiu, tôi bỗng thấy một người yêu đã mấy năm nay không gặp!

CHUỘT THỊT

Thế là hết. Bao nhiêu thành tâm, với công trình thức trắng đêm để muối được một liễn thịt chuột đem lên cho con gái ở đô thành tan vỡ hết trong giây phút chỉ vì một chữ không. Không ăn. Không thể nào ăn được. Ghê lắm. Mấy đứa cháu nhất định không dám ăn. Có nhiều người chồng vốn đã là người “kén” ăn không thể nào chịu nổi, nhưng vì chiều vợ chỉ cười mà không nói gì. Là vì cái liễn thịt chuột muối kia là của bà già vợ lễ mễ đem từ An Giang, lên cho “vợ chồng con Tư” - mà chuột An Giang, khỏi phải nói, ai cũng biết là nổi tiếng ngon nhất miền Nam nước Việt. Tội nghiệp nó lấy chồng đã mười một năm nay mà chưa có cơ hội về thăm quê. Nhớ lại lúc nó còn con gái, chỉ thèm ốc gạo và thích chuột mà dăm thì mười họa mới được ăn một bữa. Không phải vì An Giang hiếm chuột - trái lại nhiều là khác - nhưng chỉ vì tại ở nhà không có con trai, nên không có người đi săn chuột về ăn. Bỏ tiền ra chợ mua, đối với con nhà nghèo, là chuyện không mấy ai nghĩ tới. Sống ở quê, thèm chuột quá mà phải nhịn; bây giờ có tiền ở đô thành muốn ăn thịt chuột chắc gì đã có, bà già nhà quê mang liễn thịt chuột muối biếu con, hí hửng là cả nhà người con gái cưng của mình sẽ tiếp nhận một cách niềm nở và thưởng thức say mê, không ngờ vừa mới mở nắp liễn ra thì, trừ người vợ, cả nhà đều há hốc miệng mà kêu lên một tiếng vô nghĩa, chưa thấy ghi trong tự điển.

Có phải tại ở đô thành người ta không biết ăn thịt chuột không? Hay tại anh chồng Bắc Kỳ không thấy ai ăn thịt chuột bao giờ nên nghe thấy nói thịt chuột thì bở vía? Không phải. Ở Bắc Kỳ, tại các miền quê, có khối người ăn thịt chuột, nhưng anh chỉ nghe thôi mà thực mắt thì chưa thấy ai ăn bao giờ. Anh ta quan niệm rằng những người ăn uống như thế là ăn uống lem nhem, bần cùng bất đắc dĩ mới phải ăn thịt chuột; phải chi có tiền để ăn thịt lợn, thịt gà, thịt bò, thịt vịt thì chắc chắn không có ai nghĩ tới chuyện ăn thịt chuột bao giờ. Vào đến đây, anh ta đi dạo chợ Bàn Cờ, xóm Chiếu, đôi ba lần đã thấy có người xách hai cái lồng làm bằng dây kẽm bán chuột, mỗi lồng độ hai chục con, lớn bằng chừng cái cườm tay, còn sống nguyên, con nào con nấy vểnh râu ra, phình phình lỗ mũi, giương mắt ra nhìn thiên hạ một cách nhâng nháo như những thằng ăn cướp. Ấy thế mà người ta cũng kéo lại mua đông đáo để. Hai trăm, hai trăm rưởi, một chục con. Người mua chuột chỉ vào từng con, người bán, y như thể một tay hát xiệc, bắt đúng tẩy liền, lôi ra khỏi lồng, quật đánh đét một cái xuống đất, con chuột chết hộc máu mồm giẫy mấy cái rồi “đi đứt”. Mà tuyệt nhiên người bán lúc bắt chuột không hề bị một con nào đụng đến cái móng tay!

- Thấy vậy, tôi vẫn ưa nghĩ rằng chắc gì chuột đó đã là chuột đồng như người ta vẫn nói! Hơn thế, tôi yên trí các tay bán chuột đó là mấy anh chàng ngụy tạo dân vườn ruộng và chuột của họ là chuột cống ăn bẩn ăn thỉu, ăn dơ ăn dáy mà hàng đêm họ vẫn bắt được ở cống rãnh, sình lầy, tha ma mộ địa, ăn vào chưa biết ngon lành, bổ béo đâu mà hãy thấy ngay là rất có thể bị thổ tả, hay dịch hạch.

Vì yên trí như thế, ở Bắc rồi vào Nam, tôi nhìn những người ăn thịt chuột với những ý nghĩ đặc biệt: vừa sợ, vừa ghê. Đến khi vào đây sống với người bạn đầu gối tay ấp miền Nam, đi đây đi đó và đêm khuya nằm nghe vợ nói chuyện về các món ngon vật lạ, tôi phải nói là tôi ngạc nhiên không chịu được vì thịt chuột không phải là thứ ăn chơi ăn bời nhưng là một thực phẩm gia dụng, một món ăn được nhiều người ưa chuộng và ca tụng hơn cả thịt gà, thịt vịt, thịt rừng, thịt chó.

Ăn thôi nôi đứa con nhỏ xong rồi, hai vợ chồng sau khi tiễn khách ra về, ngồi uống nước với nhau ở dưới giàn hoa thiên lý. Không hiểu vì liên tưởng ra sao, vợ bảo chồng:

- Anh có thành kiến rất kỳ. Lúc nào anh cũng quan niệm gà rô ti là nhất, phải chi hôm nào em làm một món thịt chuột ram mặn cho anh xơi, anh sẽ thấy gà rô ti, ngỗng rô ti, vịt rô ti, không đi đến đâu hết. Anh tưởng cái mỡ hai con gà sống hôm nay em làm là “nhất” rồi ư? Không, anh ơi, mỡ ấy không thấm vào đâu với mỡ chuột, nó vàng, thơm mà ăn lại không ngán, ăn một lại muốn ăn hai, ăn ba, ăn bốn, ăn mãi không thôi.

Vợ chồng sống với nhau mãi rồi thành ra cũng phải chịu đựng nhau. Mới đầu thấy nói ăn thịt chuột thì ghê, không muốn nghe nói tới, dần dần, nó quen đi, vợ muốn nói gì mặc kệ; nhưng sau, mình tò mò, chú ý hơn một tí, thì thấy cũng “là lạ” và mặc dù không muốn ăn thử xem sao nhưng không thấy kinh tởm như trước nữa.

Không. Muốn đề cao thịt chuột thế nào đi nữa thì anh chồng Bắc Kỳ cũng cứ lắc đầu. Nhưng một hôm kia đi về thăm quê cô Năm, bạn vợ, anh chồng tự nhiên thấy lòng mình lâng lâng vì cập với cô Năm đi chợ, anh thấy chính cô cũng ca ngợi thịt chuột và mua về mấy chục ăn chơi. Người cô đẹp, giọng cô hữu tình, mắt cô lại lẳng: thế là chết anh đàn ông, tự nhiên nhìn thấy cái gì của cô cũng đẹp, lời nói nào của cô cũng hữu lý có duyên và anh ta muốn ăn thử xem thịt chuột ra thế nào mà người đẹp ca ngợi hết lời như vậy. Cái máu mê của anh đàn ông đa tình đánh cho chết cũng không bao giờ thay đổi. Nhưng vốn đã biết tính đa nghi của vợ, anh vẫn làm bộ giẫy lên đây đẩy để cho chính vợ phải khuyên nhủ đừng làm buồn cô Năm, anh ta mới không chê ỏng chê eo. Ừ thì ăn, đã làm sao chưa? Anh ta nghé bên này, ngó bên kia, làm ra cái bộ ngạc nhiên hết sức, nhưng rút lại cũng cứ bám cô Năm đi hết các dẫy hàng ở chợ để xem cô lựa chuột.

Lúc đó bắt đầu mùa mưa. Từ lúc mưa bắt đầu thưa thớt cho đến khi mưa xối xả suốt ngày suốt đêm, chẳng cứ chợ An Giang, bất cứ ở chợ nào cũng bầy bán chuột như ở thành thị người ta bán hàng đánh cắp ở P.X. bày bán la liệt ở hai dẫy hè đường. Trên thì trời, dưới thì chuột: tự nhiên anh cảm thấy nếu mình không ăn thịt chuột thì thành ra người mọi rợ cũng như một ông mặc quần áo sang trọng lạc vào một thế giới khỏa thân hóa thành một “quái thai” một “dị nhân” - nếu không muốn nói là quái vật.

Kể từ lúc ấy, anh cảm thấy đỡ ghê tởm một phần nào. Thực tình, nghĩ thì kinh, nhưng có nhìn thấy chuột bày bán ở chợ thì cũng chẳng cảm thấy sợ hãi hơn khi ta nhìn thấy bán thịt heo, thịt chó, thịt rừng hay thịt gà, thịt vịt. Chuột săn được đem về đập chết rồi đem thui, lột da, mổ bụng, lấy bớt mỡ chỉ chừa lại lá gan rồi đem ngâm nước phèn, thịt chuột đỏ dần lên sau lần lần xuống mầu, trắng phau phau và láng bóng như da người trinh nữ; có đôi chỗ lại ửng hồng lên. Không, không, cách gì anh cũng phải nhận với tôi rằng cái da thịt mịn màng ấy hứa hẹn không biết bao nhiêu, hấp dẫn không biết chừng nào và trừ phi anh là Liễu Hạ Huê không nói gì, chớ nếu anh cũng là người như tôi thì muốn gì anh cũng phải liên tưởng một cách tục tĩu và tội lỗi đến thân thể ngọc ngà “dầy dầy sẵn đúc” của cô Năm Trứng Gà - chẳng gì cũng nổi tiếng là “người đẹp Long Xuyên” một thuở.

Cô nói với vợ tôi, nhưng lại lúng liếng con mắt về phía tôi:

- Chị Tư đã biết quá rồi, lựa là phải nói, nhưng anh Tư đây có lẽ chưa biết rõ nên cứ nói nghe chơi. Cái giống chuột này thui lên rồi lột da ăn mới thiệt ngon, chứ đem nhúng nước sôi thì trông như chuột chết sình, không những đã không đẹp mắt mà ăn vào lại không thơm. Bởi thế, chuột bán ở chợ hầu hết đều đem thui vàng rồi lột da không có ai bán chuột sống trừ phi phải chuyên chở từ tỉnh này sang tỉnh khác, từ nhà quê ra kẻ chợ.

Tôi đã được thấy người ta mua chuột sống ở chợ xóm Chiếu, chợ Bàn Cờ, nhưng muốn thực biết người ở đây thích thú thịt chuột đến chừng nào thì một buổi sáng đẹp trời nào phải đi dạo ở các chợ An Giang xem người ta mua thịt chuột tưng bừng như thế nào. Không phải chỉ có dân quê mới ăn thịt chuột như ở Bắc ta vẫn thấy, nhưng thị dân cũng cứ say mê thịt chuột luôn: này, ông nghị viên mua ba chục đấy, hai trăm hai một chục có bán không? Còn bà Bảy bán chạp phô, chú Tiều mập ở xế chợ chê chuột không béo và kém tươi muốn bỏ đi, nhưng không biết tiếc rẻ làm sao lại rủ nhau quay lại trả hai trăm mười lăm đồng một chục, thôi bán cả đi để về cho sớm sủa có hơn không, bà Sển.

Thì ra không phải chỉ có vợ tôi và cô Năm Trứng Gà mê thịt chuột mà “bàn dân thiên hạ” đều mê. Tôi bất thần nhớ có lần đã thấy có cô vào tiệm cầm đồ ở tỉnh cầm cà rá và dây chuyền lấy ít tiền, ra gần đó mua luôn ba ký sầu riêng ăn cho đã đời: đến mùa cái thứ trái cây này mà không được thưởng thức, một số người cảm thấy mình thiếu thốn, đau khổ và coi như bị trời bạc đãi. Vào cữ tháng bảy tháng tám, những người đã có lần được thưởng thức thịt chuột rồi mà không được ăn thịt chuột có lẽ cũng ở vào cái trạng thái tâm lý của những người cầm dây chuyền và cà rá để ăn sầu riêng cho kỳ được.

Thực đến bây giờ tôi không biết cái sắc đẹp hữu tình của cô Năm Trứng Gà ảnh hưởng đến bữa chuột thịt đầu tiên bao nhiêu phần trăm, nhưng tôi thành thực tin rằng không có món thịt nào mà lại biến chế được thành ra nhiều món như thịt chuột. Thịt bò nhiều lắm chỉ có bảy món, thịt dê độ bốn năm món, thịt gà thịt vịt cũng năm sáu món là cùng, chớ thịt chuột thì có thể chế biến ra được mươi mười hai món, mà đến lúc ăn quen rồi món nào cũng hấp dẫn, món nào cũng lạ và món nào cũng có những hương vị khác nhau.

Tôi phục cô Năm và vợ tôi đã cho tôi thưởng thức bốn món ăn chơi “lẫm liệt”: Chuột lá lốt, chuột cuốn, chuột xé phay và chuột lúc lắc. Nhưng làm cho ta sướng cả khứu giác, thị giác và thính giác cùng một lúc có lẽ là cái món chuột nướng vàng trên than hồng, mỡ rớt xuống than cháy xèo xèo, bốc lên một mùi thơm điếc mũi còn hơn cả bún chả băm và chả miếng của người Hà Nội. Ngồi ở đầu xóm cuối xóm chỉ ngửi thấy mùi thơm cũng bắt thèm và phải chửi đổng một câu cho... đã tức! Rượu đế nước nhất ngâm sâm và bìm bịp, hạ thổ một trăm ngày lấy lên uống rồi gắp một miếng vàng ngậy như mùi da đồng, nóng hôi hổi, chấm nước mắm sả ớt, điểm mấy sợi xoài thái chỉ rồi nhai rất từ từ và lấy hai ngón tay nhón một tí rau thơm, một tí húng cây hay một tí ngò tây, anh sẽ thấy - quái! Sao cái thịt này nó mềm thế nhỉ, mà lại ngọt, mà lại thơm một cách rùng rợn, mê ly thế nhỉ!

Ăn đến ba miếng, rượu bắt đầu làm cho “cái chất xam xám” ở trong đầu người đàn ông xáo động và anh ta nhớ lại có một ngày mươi mười lăm năm về trước, anh đã trịnh trọng dự một bữa gỏi cá của một người bạn già mời, mà không báo trước cho anh biết sẽ ăn món gì. Ngồi vào bàn, biết là chủ nhân mời ăn gỏi, anh ta choáng người lên, liếc con mắt hỏi ý kiến người bạn ngồi bên cạnh thì người bạn này cũng không biết thưởng thức món này luôn; nhưng vì xã giao, hai người bấm nhau bảo cứ ăn bừa một vài miếng xem sao thì rút cuộc chính hai cha lại ăn kỹ nhất, và ca ngợi món gỏi này nhiều nhất.

Bữa ăn thịt chuột đầu tiên của tôi tại An Giang cũng y như là bữa ăn gỏi đó ở miền Bắc Việt Nam: Nhưng không lẽ đâu lần đầu gặp người đẹp mà lại cứ ăn tì tì một cách “phàm phu tục tử” coi sao cho tiện, tôi đành phải làm ra vẻ “khảnh ăn” xin một chén cơm, “viện cớ không uống được rượu nhiều”.

Ăn thịt gà, thịt bò, thịt vịt, thịt heo, xong món này thì đổi món khác, điều ấy ai cũng thấy rồi và có như thế thì người ăn mới lạ miệng và không thấy ngán. Ôi chao, đến cái thịt chuột thì huyền diệu lắm: nhậu thịt chuột rồi, đến lúc ăn cơm lại dùng toàn những món chuột luôn, vậy mà chẳng thấy ngán một ly ông cụ, trái lại vẫn cứ ngon ơ, ăn muốn... chết cơm mà miệng vẫn cứ muốn còn ăn nữa. Mê không để đâu cho hết là món chuột bằm nhỏ xào rau mò om cập với bánh tráng nướng và món chuột xào bầu ăn vừa mát vừa thơm, từa tựa như cơm trộn với trứng cáy mà lại ăn thêm với mấy ngọn rau sắng chùa Hương vậy.

Quả tình là rượu lúc ấy đã ngà ngà nhưng trước mặt vợ, mình phải tính toán đo lường từng câu nói không dám ca ngợi cô Năm Trứng Gà quá mức, sợ vợ buồn. Thì quả đêm ấy về đến nhà, vợ chồng nằm trò chuyện với nhau, vợ gợi lại bữa ăn ban ngày và nói:

- Không, cứ kể chị Năm làm ăn đã khéo lắm, nhưng anh cho cái món “chuột bằm nhỏ xào rau mò om” hôm nay là nhất thì em không chịu. Để hôm nào có ai về Hậu Giang, em gửi mua vài chục làm mấy món “lạ hơn nữa” anh ăn thì chắc chắn muốn chết luôn.

Biết là lúc này là giờ quyết định để mà nịnh vợ không có thế mặt sẽ “sưng lên một đống”, tôi phải lấy một cái giọng rất vui vẻ trẻ trung:

- Thôi, em đừng nói, nghe mà thèm. Thèm luôn cả em nữa đấy!

Như được gãi vào lòng tự ái, vợ tươi hẳn mặt lên:

- Anh có thể tưởng tượng em sẽ làm cho anh những món gì không? Sơ sơ làm bốn món thôi, nhưng bốn món anh mê chết mất. Là món chuột ướp ngũ vị hương chừng một tiếng đồng hồ đem khìa với nước dừa, đậy vung lại chừng mười lăm phút để giữ lại hương thơm, món chuột ướp hành, tỏi sả bỏ lò, món chuột kho mềm sau khi ram vàng và món chuột xào lăn. Nhưng cái “tủ” của em là mắm chuột và khô chuột. Mùa nước, chuột nhiều, ăn không hết đem thui đi, lột da, chặt đầu chặt đuôi làm mắm để dành ăn quanh năm; còn mùa nắng thì làm chuột, ướp với lá lốt, đem phơi thực kỹ để làm khô, ăn còn sướng hơn cả khô nai, khô bò, khô cá sặt...

Trăng chiếu vào nửa tấm giường, lung linh bóng lá cây thiên lý. Xa xa có tiếng chim đêm. Người vợ lim dim con mắt, thả hồn về xứ mộng có giống chim kêu lên năm tiếng một lần và nói như mơ:

- Anh ơi, nhớ không biết bao nhiêu, yêu không biết chừng nào những cái rừng lát mà em sinh sống khi còn bé nhỏ. Phải rồi cứ vào cái cữ mưa này đây, em hay đi xem người ta săn chuột, vui như hội. Anh không thể tưởng tượng những tay săn đó giàu kinh nghiệm và thông thạo nghề nghiệp của họ đến chừng nào. Trông một cái bãi có những cây lát ngả nghiêng họ biết là có chuột đi qua, đi phía nào, làm ổ ở đâu và biết như thế rồi họ đem những cái “đăng” ra giăng mắc khu vực đó theo hình chữ V, nói một cách khác là họ bủa giăng tứ phía để vây chuột lại không cho chạy ra ngoài. Ở cuối đăng, họ đặt một cái “lọp” lớn bằng dây kẽm chế theo kiểu cái nơm đơm cá, miệng lớn lòng nhỏ và có dây kẽm đâm ra tua tủa để cho chuột đã mắc vào đó thì chỉ có thể thấy cửa tử mà không còn cửa sinh. Bố trí xong xuôi, họ lấy những cây mía đập giập đầu hay thùng sắt tây khua ầm ĩ để làm cho chuột hoảng sợ chạy từ phía miệng đăng vào lọp.

Bắt như thế có khi một bọn ba bốn người vớ được dăm bảy chục con. Nếu không muốn ầm ĩ quá, có người dùng đèn măng xông. Ba bốn người cầm ba bốn cái đèn măng xông đến nơi có chuột đã được khám phá từ buổi trưa hay lúc trời chạng vạng: họ chiếu đèn măngxông vào khu vực có chuột làm cho cả một vùng sáng lóe như thể Mỹ thả hỏa châu để tìm quân địch. Nhưng chuột hơi khác người một chút: thấy sáng chói chúng sợ hãi nhảy cả ra và bị chóa mắt, không thể chạy nhanh được nữa, thế là bị bắt hoặc bị chĩa đâm lòi ruột kêu choe chóe.

Nghĩ cũng tài tình: trong tất cả những giống vật có lẽ không có loài nào khôn ngoan lanh lẹn đa mưu đa kế như giống chuột. Chúng bén nhạy về đủ mọi bộ phận: đi lại thong thả trong đêm tối mà không vấp té, đó là nhờ hệ thống râu ria ở hai bên mỏ và phần lông ở đầu dài hơn lông ở mình một chút; chúng đánh hơi người rất nhạy cũng như các vật mà người ta dùng đánh bả; ngoài ra lại có một khả năng truyền giao cách cảm rất mạnh, nhờ thế mà chúng báo hiệu cho nhau nhanh y như thể ra đa mỗi khi trong xã hội của chúng có con bị bẫy, bị đánh hay ăn phải bả. Hội đủ ngần ấy ưu điểm chuột có thể xâm lăng loài người dễ như bỡn, ấy thế mà rút cuộc chúng vẫn bị loài người chế ngự và đặt dưới cái ngàm nô lệ. Ấy là vì người ta đã tìm biết được một khuyết điểm của loài chuột về thị giác.

- Nói giỡn sao, em? Thấy thế nào mà lại dám bảo chuột yếu về thị giác?

- Ai chẳng tưởng mắt chuột lồi ra và đen lay láy như thế là tinh, chả thế mà các cụ vẫn nói “mắt cứ tho ló như mắt chuột”. Ấy vậy mà tho ló là một chuyện mà yếu lại là chuyện khác. Người nhà quê không hiểu sống vì kinh nghiệm hay đọc sách cổ xưa nào không biết, quả quyết rằng cái tầm mắt của loài chuột tương đối ngắn và hẹp và điểm đặc biệt nhất, ly kỳ nhất, là mắt của chúng chỉ nhìn được theo một chiều, không thể lúng la lúng liếng, liếc dọc liếc ngang như những cô gái và chàng trai đĩ bợm.

Biết đúng khuyết điểm ấy, những người săn chuột bằng chĩa không bao giờ tiến đến phía chúng từ đằng trước mặt. Nhưng dùng chĩa đâm chuột, không ham mấy. Bắt sống chuột là điều đáng kể hơn. Muốn bắt sống, cũng không mấy khó: họ dùng chó để bắt hơi hang nào có chuột nhiều. Biết được “tổ chấy” rồi, họ đào hang, chú nào hoảng nhảy ra thì chộp liền cho vào lồng bằng dây kẽm. Tuy nhiên, thường thường người ta không đào hang làm gì cho mất công: tìm được một hang chuột rồi, chỉ một người và chỉ một người thôi cũng có thể bắt được hàng dăm chục chuột. Họ lấy miệng hang làm căn cứ, rồi từ đó đi tìm các ngách bịt kín lại và chỉ để lại một ngách thôi. Đoạn, họ lấy rơm ẩm chất ở miệng hang đốt, un khói và quạt cho khói lùa vào trong hang đánh một trận hỏa mù quyết liệt. Ngồi chờ ở miệng ngách quả nhiên chỉ một lúc thì thấy chuột bố, chuột con, chuột bô lão, chuột nhi đồng, lốc nhốc bò ra vì không thể nào chịu nổi khói nó làm cho chảy nước mắt nước mũi hắt hơi tức thở như công lực thả lựu đạn cay vào những người biểu tình chống độc tài áp bức.

Anh ơi, anh ơi, muốn nói cách mấy đi nữa anh cũng không thể nào quan niệm được cái tài săn chuột của người nhà quê với tất cả sự thâm hiểu về đặc tính vật lý, về đời sống, về tập quán và bản năng phản ứng của họ về loài chuột.

Chuột có thể sống lâu nhất chừng ba hay bốn năm, nhưng thường thường là không thọ nổi quá một năm nếu sống ở ngoài đồng ruộng bởi vì chúng phải đối đầu với những bất trắc và điều kiện không thuận lợi về thời tiết và khí hậu. Em nhớ có một lần có một công kỹ nghệ gia tên Hồng Đức Tồn đã về vùng em ở để nghiên cứu về nghề nuôi chuột lấy thịt ăn theo khoa học, như ta nuôi gà Mỹ hay nuôi chim cút. Theo ông ta thì thường một con cái sống với một con đực chớ không chơi bậy bạ, như đa số người ta. Khi con cái từ một tháng rưỡi đến năm tháng thì nó chịu đực và có thể sanh sản để truyền tử nhược tôn. Thời gian từ khi thụ thai với con đực cho tới khi sinh đẻ, khoảng chừng hai mươi mốt ngày và trung bình mỗi lứa con cái sanh được tám con. Mỗi năm một con cái có thể sanh bốn bận.

Tám con chuột con thường gồm bốn đực và bốn cái. Ma thuật ái tình lại quay lại cái vòng truyền thống: từ một tháng rưỡi đến bốn năm tháng, tám cập này lại hạ sanh mỗi cập tám con, tám tám sáu mươi tư, tựu trung một con chuột cái tính sơ sơ một năm cũng cho ra đời được khoảng ba bốn trăm chuột con chuột cháu, chuột chút và chuột chụt. Tuy nhiên, không phải chuột bất cứ ở vùng nào cũng sinh sản theo mức độ nói trên. Có những vùng khí hậu thích hợp, thức ăn dễ dàng, chuột sanh sản nhiều hơn nữa, nhưng trái lại có những vùng khó kiếm ăn thì tương đối đẻ ít hơn: chỉ đẻ khỏe vào mùa mưa còn mùa nắng thì cai đẻ (không biết bằng thuốc ngừa thai hay theo phương pháp Ogino-Knauss?).

Em còn nhớ có một lần đi xem hun chuột, em đã thấy có người bắt được cả một ổ gồm hai vợ chồng và mười ba con đỏ hon hỏn, chưa mở mắt. À này, ngoài Bắc có biết điều này không nhỉ?

Người vợ nằm sát lại gần chồng hơn và nói nhỏ như tiết lộ một bí mật gì ghê gớm lắm:

- Chuột con, chưa mở mắt, ngâm rượu, hạ thổ bách nhật trị hết bịnh suyễn đấy. Anh có biết thế không?

- Không. Nhưng hình như đã lâu lắm lắm rồi, anh có đọc một bài báo Pháp của một nguyên Đại sứ Tây Ban Nha viết về những con chuột bao tử, những con chuột mới ra đời chưa mở mắt.

- Họ có nói rằng những con chuột đó trị khỏi chứng hen suyễn như em vừa nói phải không?

- Không. Dùng chuột để chữa bệnh, chắc là người Âu Mỹ chưa biết và có lẽ lúc này họ còn đang nghiên cứu. Chuyện chuột bao tử đây thuộc về phạm vi ăn uống.

- Trời ơi! Người Âu Mỹ cũng ăn thịt chuột hay sao?

- Để yên cho anh nói, em thương ạ. Nguyên Đại sứ Tây Ban Nha mà anh vừa nói đó, lúc ấy làm Đại sứ ở Trung Hoa, dưới triều Mãn Thanh. Hoàng đế Trung Hoa, Tây Thái Hậu có một lần mời đại diện của mười tám nước Âu Mỹ đến dự một bữa tiệc độc nhất vô nhị, không tiền khoáng hậu. Dự bữa tiệc ấy về, ông ta viết một hồi ký dầy bằng một cuốn sách, thuật lại từ cách tổ chức, trưng bày, lề lối thù tiếp, ăn uống cho đến chi tiết các món ăn mà người đầu bếp của nhà vua đã nghiên cứu và nấu nướng để cho quan khách thưởng thức trong hồi hộp, kinh hoàng, và tán thưởng liên tiếp suốt cả tuần - là vì bữa tiệc ấy kéo dài trong suốt cả tuần, chớ sao! Ăn uống say sưa rồi, ai muốn ngủ có phòng riêng và người đẹp như tiên hầu hạ; ai có công việc phải đi, cứ tự nhiên rồi lại về ăn; còn ai muốn đánh bài, ăn thuốc, thì sang một khu riêng có đủ các thứ “tệ đoan xã hội” cứ dùng thả cửa rồi lại quay về mà ăn uống, ăn uống thế nào kỳ cho thích khẩu thì thôi. Vì đọc thiên hồi ký đó trên dưới hai mươi năm nay rồi, anh không thể nhớ hết chi tiết các món ăn lạ nhất, quí nhất và ngon nhất thế giới để kể lại cho em thương; chỉ nhớ trong các món ấy có một món kêu là sâm thử. Sâm là cây sâm, thử là chuột, sâm thử là chuột sâm.

- Kỳ, sao lại có thứ chuột gì là chuột sâm?

- Nguyên Đại sứ Tây Ban Nha thuật lại rằng đến món ăn đặc biệt ấy thì có một ông quan đứng lên giới thiệu trước rồi quân hầu dưng lên bàn tiệc cho mỗi quan khách mỗi cái đĩa con bằng ngọc trong có một con chuột bao tử chưa mở mắt, đỏ hon hỏn hãy còn cựa quậy - nghĩa là một con chuột bao tử sống. Bao nhiêu quan khách thấy thế chết lặng đi bởi vì nếu phải theo giao tế mà ăn cái món này thì... nhất định phải... trả lại hết những món gì đã ăn trước đó. Mọi người nhìn nhau. Tây Thái Hậu cầm nĩa xúc con chuột bao tử ăn để cho mọi người bắt chước ăn theo. Con chuột kêu chi chí, người tinh mắt thấy một tia máu vọt ra... Hoàng đế Trung Hoa thong thả vừa nhai vừa suy nghĩ như thể muốn kéo dài cái thú ăn tuyệt diệu ra để cho cái thú ấy thấm nhuần trí óc và cơ thể. Và Ngài nói: “Mời chư vị”. Nhưng không một vị nào đụng đũa, cứ ngồi đơ ra mà nhìn. Tây Thái Hậu bèn cười mà nói đùa: “Tôi tiếc không thấm nhuần được cái văn minh Âu Mỹ của các ngài, nhưng riêng về cái ăn thì tôi thấy quả các ngài chậm tiến, không biết cái gì là ngon là bổ. Về món đó, các ngài có lẽ còn phải học nhiều của người A Đông”.

Không một ông nào trả lời vì có lẽ các ông đại diện ấy đến lúc ấy đều bán tín bán nghi không biết ăn chuột bao tử như thế là văn minh hay man dã. Tuy nhiên người ta có thể chắc chắn là chưa có một nước nào trên thế giới lại có một món ăn tinh vi, quí báu, cầu kỳ đến thế bao giờ. Chuột mới đẻ đem nuôi trong lồng kính cho ăn toàn sâm thượng hảo hạng và uống nước suối, đến khi đẻ ra con thì lấy những con đó nuôi riêng cũng theo cách thức đó để cho sinh ra một lớp chuột mới, nhưng lớp chuột mới này vẫn chưa dùng được. Cứ nuôi như thế đến đời thứ ba, chuột mới thực là “thập toàn đại bổ”, người ta mới lấy những con chuột bao tử của thế hệ mới này ra ăn và ăn như thế tức là ăn tất cả cái tinh hoa, bén nhạy, khôn ngoan của giống chuột cộng với tất cả tính chất cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh, tráng dương bổ thận của cây sâm vốn được y lý Đông Phương đặt lên hàng đầu thần dược từ cổ chí kim trong trời đất.

- Nói nghe mà bắt rùng mình. Thế cái ông ngoại giao đó có nói trong đại diện mười tám nước Âu Mỹ có ông nào dám ăn cái món sâm thử đó không?

- Chính cái ông Đại sứ Tây Ban Nha nhắm mắt lại thử ăn nhưng ông thú thực rằng vừa cho vào miệng cắn một cái thấy chuột con kêu chi chí, ông ta vội vàng chạy ra ngoài, lè ra, và một tháng sau còn sợ. Sau này, đem câu chuyện đó nói với mấy vị đông y sĩ, ông ta biết rằng người Âu Mỹ không biết ăn món ấy quả là “chậm tiến” và mấy ông già còn cho biết thêm rằng chuột thường nuôi bằng sâm đã bổ hết sức rồi, nhưng nếu tìm được giống chuột chù mà nuôi bằng sâm theo cách thức nói trên thì còn bổ gấp trăm lần nữa.

- Bộ anh giỡn em sao? Ăn chuột chù? Thế anh có biết cái giống chuột chù ra sao không đã?

- Biết quá rồi. Hôi nhất trong giống chuột là giống chuột chù chứ còn gì! Nó xấu: mõm dài, mắt mù dở, đi đứng chậm chạp, lông xam xám tiết ra từ đàng xa một mùi hôi rình rình chỉ ngửi thôi cũng đủ buồn nôn lộn mửa rồi, còn nói gì ăn thịt. Ấy thế mà sách Tàu lại nói rằng thịt chuột chù ăn ngon hơn cả các giống chuột khác. Riêng anh lúc còn ở Bắc đã có lần nói chuyện ăn thịt chuột với một nhà sư trẻ tuổi cùng học với anh ở trường sơ đẳng. Nhà sư ấy quả quyết đã nhiều lần ăn thịt chuột chù và cam đoan rằng giống chuột chù sở dĩ hôi chỉ là vì bộ lông, nếu thui thật cẩn thận, lột da, cạo kỹ thì thịt nó ngọt và thơm kinh khủng, có lẽ không có một thứ sơn hào hải vị nào sánh kịp. Mà lại có tiếng bổ dương ích khí còn hơn cả hải cẩu và cao hổ cốt!

Nửa đêm về sáng, sương rơi tí tách trên lá hoa thiên lý. Trăng lu đi. Mây bay nặng nề báo hiệu một cơn mưa. Chồng bảo vợ:

- Thôi, vào đi. Nằm sương lắm nặng mình không tốt.

Vừa lúc đó, có tiếng chuột reo ở đàng sau cánh cửa. Nằm trên nệm trắng, xõa hàng tóc đen ra, vợ mới hỏi chồng:

- Hôm qua, chuột lắt reo, hôm nay chuột lại reo nữa. Chắc là nhà có khách hay là sắp phát tài cái gì đây.

- Đâu có! Chuột lắt reo không phải tin có khách hay phát tài như người ta vẫn tưởng đâu.

- Thế thì báo điềm gì?

- Báo một điều tốt lành hơn thế nhiều. Báo điềm em sắp có con.

Người chồng nằm sát lại gần vợ hơn, nắm lấy bàn tay vợ và hít vào bộ ngực thơm thơm mùi hoa thiên lý. Mưa bắt đầu rơi. Gió lạnh tê tê. Vợ nửa say nửa tỉnh, nói khẽ vào tai chồng:

- Này anh, không biết người bạn anh nói thịt chuột chù bổ dương ích khí có thực không? Nếu quả thực, em sẽ kiếm giống đó anh ăn thường thường và anh nhớ cho thằng cu một đứa em nữa nhé, để nó ngủ một mình buồn, tội nghiệp!.

Vợ nhặt

Vợ nhặt

Trước kia mỗi chiều, cứ vào lúc chạng vạng mặt người(1) thì Tràng đi làm về. Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư(2) vào trong bến.

Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm

nhảm than thở những điều hắn nghĩ.

Trẻ con trong xóm, cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa cả ra vây lấy hắn, reo cười váng lên:

- A a a... Anh Tràng ! Anh Tràng đã về chúng mày ơi !

- Anh Tràng ơi bế em mấy...

- Anh Tràng ơi đã uống rượu chưa?

- Anh Tràng ơi !...

Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch.

Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc.

Nhưng độ này thì trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng nữa, chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng(3) vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc

nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng, chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn.

Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu(4) lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau

hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm

nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.

Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào

lên:

- Anh Tràng ơi ! - Tràng quay đầu lại. Nó cong cổ gào lên lần nữa

- Chồng vợ hài.

Tràng bật cười:

- Bố ranh !

Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai

bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.

Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì

lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi:

- Ai đấy nhỉ? ... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ(5) có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

- Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc:

- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.

- Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?

Họ cùng nín lặng.

Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Người đàn bà

càu nhàu câu gì trong miệng. Hắn quay lại hỏi:

- Gì hả?

- Không.

Hắn cũng càu nhàu:

- Làm gì mà họ khỏe nhìn thế không biết? - Hắn bỗng đứng dừng lại nhìn ngang nhìn ngửa.

- Này bác Tràng ! Bác Tràng ! ...

Sau một khuôn cửa tối, một cái đầu trọc thò ra gọi giật giọng.

Tràng lật đật quay lại.

- Về muộn mấy? Hẵng vào chơi cái đã nào.

Tràng đứng lại thoái thác:

- Thôi ông để cho đến hôm khác.

Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất về phía người đàn bà hóm hỉnh:

- Cánh nào đấy?

- à hà... người quen. Thôi để hôm khác ông nhá.

Hắn quay ngoắt trở ra, lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn. Người đàn bà đã đi đến trước cái miếu cũ. Tràng gọi với:

- ấy rẽ lối này cơ mà.

- Đằng này à?

- ừ.

Hai người lặng lẽ rẽ xuống một con đường nhỏ. Con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút. ở đây vắng vẻ, thoải mái. Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói

thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên người đàn bà. Thị cũng không nói gì, hai con mắt tư lự(6) nhìn ra phía trước. Tiếng gió trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu sào sạc dưới bàn chân.

Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ

chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.

- Sắp đến chưa? - Người đàn bà chợt hỏi.

- Sắp

- Nhà có ai không?

- Có một mình tôi mấy u.

Thị tủm tỉm cười:

- Đã một mình lại còn mấy u. Bé lắm đấy!

Hắn bật cười:

- à nhỉ.

Câu chuyện xem chừng đã thân thân. Hắn đi sát gần bên thị hơn, ngẫm nghĩ một lúc, chợt hắn giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay lên khoe:

- Dầu tối thắp đây này.

- Sang nhỉ.

- Khá thôi. Hai hào đấy, đắt quá, cơ mà thôi chả cần.

- Hoang nó vừa vừa chứ.

Hắn chặc lưỡi:

- Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay, hì hì...

- Khỉ gió.

Thị phát đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại.

Hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách.

Mấy con chó giật mình chạy thọt vào trong lũy thò mõm ra sủa váng lên. Tràng nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái:

- Mẹ bố chúng mày cắn gì thế!

- Vẫn chưa đến à?

- Còn chán.

- Khiếp.

Thị cau mặt lại, giẫy lên. Hắn phì ra cười, cúi xuống nhấc cành dong dấp cổng ra reo lên:

- Đây rồồ- ồi !...

Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm

phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị cười cười:

- Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!

Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả:

- Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên...

Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân gắt lên:

- Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!

Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần.

Hắn nghĩ bụng: "Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... ồ sao nó lại buồn thế nhỉ?...". Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ

ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà ! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào(7) đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng...

ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn (8) lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì

làm. Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:

"Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!"

Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:

- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!

Thị cong cớn:

- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?

Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:

- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!

Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.

- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ ! - Thị liếc mắt, cười tít.

Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.

Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:

- Điêu ! Người thế mà điêu !

Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ

còn thấy hai con mắt.

- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.

à, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:

- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.

- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.

Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.

- Đây, muốn ăn gì thì ăn.

Hắn vỗ vỗ vào túi:

- Rích bố cu(9), hở!

Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:

- ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.

Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:

- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.

Hắn cười:

- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn(10), nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng(11). Sau không

biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một cái:

- Chặc, kệ!

Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...

Tràng chợt đứng dừng lại, lắng tai nghe. Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng.

Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà:

- U đã về đấy!

Hắn lật đật chạy ra đón:

- Hôm nay sao u về muộn thế ! Làm tôi đợi nóng cả ruột. Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi:

- Có việc gì thế vậy?

- Thì u hẵng cứ vào trong nhà đã nào.

Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận

ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.

Tràng tươi cười:

- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào.

Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa:

- U đã về ạ!

Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường.

Tràng nhắc mẹ:

- Kìa nhà tôi nó chào u.

Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:

- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả...

Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong

sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?

Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này(12) thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu

chứ biết thế nào mà lo cho hết được?

Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới":

- ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...

Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:

- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.

Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm(13) ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ

đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...

- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.

Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:

- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy.

Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...

Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Tràng đứng ngoài thấy vậy, hắn bực mình quá hầm hầm bước vào trong nhà, đánh diêm đốt đèn. Thấy sáng, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên:

- Có đèn đấy à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa... Dầu bây giờ đắt gớm lên ấy mày ạ.

Bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Tràng làu bàu trong miệng: "Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc!"

Tiếng bà cụ Tứ bên kia nói với sang:

- Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ.

- Vâng.

Tràng ngoan ngoãn đáp lời mẹ. Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì. ánh đèn vàng

đục ở góc nhà tỏa ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách. Bên ngoài gió từ mặt sông thổi lên rì rào như tiếng người thầm thì nói chuyện. Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc(14) ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ. Người đàn bà bỗng thở dài. Tràng quay lại khẽ hỏi:

- Buồn à?

- Không.

- Gớm sao lúc này nói chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột.

Thị lườm hắn không trả lời. Hắn xích lại cười cười:

- Thôi khuya rồi đấy, ngủ đi.

Thị giơ tay củng vào trán hắn:

- Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!

Hắn cười khì khì, vươn cổ thổi tắt phụt ngọn đèn. Trong đêm khuya tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ...

Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà

cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên (15) ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước (16) vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm

ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.

Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:

-Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.

-Vâng.

Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn(17) như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm

ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn(18) thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc

đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.

Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:

-Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...

Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.

Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:

-Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.

Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:

-Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán(19) đây, ngon đáo để cơ.

Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vãn tươi cười, đon đả:

-Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy.

Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi

người.

Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hôt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.

Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

-Trống gì đấy, u nhỉ?

-Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.

Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:

- ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?

Im lặng một lúc thị lại tiếp:

-Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.

Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.

Tràng hỏi vội trong miếng ăn:

-Việt Minh phải không?

-ừ, sao nhà biết?

Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm.

Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.

à ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.

Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.

Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...

Kim LâN

________________

(1) Lúc chạng vạng mặt người: Lúc chiều muộn, nhìn không rõ

mặt người.

(2) Ngụ cư: người quê ở nơi khác đến ngụ trú ngụ.

(3) Tàng: cũ

(4) Đội chiếu: Lấy cái chiếu, cuộn lại, buộc túm một đầu, chụp lấy đầu và cuộn quanh người mà đi để chống rét. Đây là hình ảnh rất phổ biến ở miền Bắc nước ta thời kỳ có nạn đói khủng khiếp giết hại hơn hai triệu người vào mùa đông 1944 và mùa

xuân 1945.

(5) Còn mồ ma ông cụ Tứ: lúc cụ Tứ còn sống.

(6) Tư lự: suy nghĩ và lo lắng.

(7) Chỉ tầm phơ tầm phào: chỉ nói chơi, nói đùa.

(8) Thóc liên đoàn: Liên đoàn là một tổ chức chuyên thu mua thóc cho Nhật hồi trước Cách mạng Tháng Tám 1945.

(9) Rích bố cu: tiền nhiều lắm (Tiếng Pháp phát âm theo lối bình dân).

(10) Chợn: sợ.

(11) Đèo bòng: mang thêm, vướng bận thêm vào một cái gì khó gỡ ra được. "Vì cam cho quýt đèo bòng. Vì em nhan sắc nên lòng nhớ thương..." (Ca dao). "Đôi ta chút nghĩa đèo bòng. Đến nhà, trước liệu nói sòng cho minh" (Truyện Kiều).

(12) Tao đoạn này: Thời buổi này, giai đoạn này.

(13) Đốt đống rấm: đốt cháy âm ỉ (thường là một đống chấu) cốt có khói để xua bớt tử khí.

(14) Hờ khóc: khóc to, vừa khóc vừa kể lể.

(15) Khươm mươi niên: rất lâu rồi.

(16) Cái ang nước: dụng cụ đựng nước bằng gốm, thân tròn, miệng rộng giống như cái vại.

(17)Chỏng lỏn: nói năng đanh đá, xấc xược; trái nghĩa với dịu dàng, lễ phép.

(18) Xăm xắn: mau mắn, hăng hái.

(19) Chè khoán: một thứ chè ngon nấu bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ, nấu nhuyễn và đặc, đổ ra đĩa và xắt thành từng miếng. Có lẽ đây là tiếng địa phương vùng quê tác giả (giống như chè khó ở nơi khác). Vợ nhặt Trước kia mỗi chiều, cứ vào lúc chạng vạng mặt người(1) thì Tràng đi làm về. Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư(2) vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ. Trẻ con trong xóm, cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa cả ra vây lấy hắn, reo cười váng lên: - A a a... Anh Tràng ! Anh Tràng đã về chúng mày ơi ! - Anh Tràng ơi bế em mấy... - Anh Tràng ơi đã uống rượu chưa? - Anh Tràng ơi !... Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng độ này thì trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng nữa, chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng(3) vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng, chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn. Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu(4) lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng. Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên: - Anh Tràng ơi ! - Tràng quay đầu lại. Nó cong cổ gào lên lần nữa - Chồng vợ hài. Tràng bật cười: - Bố ranh ! Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết. Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi: - Ai đấy nhỉ? ... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên? - Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ(5) có thấy họ mạc nào lên thăm đâu. - Quái nhỉ? Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc: - Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để. - Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Họ cùng nín lặng. Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Người đàn bà càu nhàu câu gì trong miệng. Hắn quay lại hỏi: - Gì hả? - Không. Hắn cũng càu nhàu: - Làm gì mà họ khỏe nhìn thế không biết? - Hắn bỗng đứng dừng lại nhìn ngang nhìn ngửa. - Này bác Tràng ! Bác Tràng ! ... Sau một khuôn cửa tối, một cái đầu trọc thò ra gọi giật giọng. Tràng lật đật quay lại. - Về muộn mấy? Hẵng vào chơi cái đã nào. Tràng đứng lại thoái thác: - Thôi ông để cho đến hôm khác. Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất về phía người đàn bà hóm hỉnh: - Cánh nào đấy? - à hà... người quen. Thôi để hôm khác ông nhá. Hắn quay ngoắt trở ra, lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn. Người đàn bà đã đi đến trước cái miếu cũ. Tràng gọi với: - ấy rẽ lối này cơ mà. - Đằng này à? - ừ. Hai người lặng lẽ rẽ xuống một con đường nhỏ. Con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút. ở đây vắng vẻ, thoải mái. Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên người đàn bà. Thị cũng không nói gì, hai con mắt tư lự(6) nhìn ra phía trước. Tiếng gió trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu sào sạc dưới bàn chân. Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng. - Sắp đến chưa? - Người đàn bà chợt hỏi. - Sắp - Nhà có ai không? - Có một mình tôi mấy u. Thị tủm tỉm cười: - Đã một mình lại còn mấy u. Bé lắm đấy! Hắn bật cười: - à nhỉ. Câu chuyện xem chừng đã thân thân. Hắn đi sát gần bên thị hơn, ngẫm nghĩ một lúc, chợt hắn giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay lên khoe: - Dầu tối thắp đây này. - Sang nhỉ. - Khá thôi. Hai hào đấy, đắt quá, cơ mà thôi chả cần. - Hoang nó vừa vừa chứ. Hắn chặc lưỡi: - Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay, hì hì... - Khỉ gió. Thị phát đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại. Hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách. Mấy con chó giật mình chạy thọt vào trong lũy thò mõm ra sủa váng lên. Tràng nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái: - Mẹ bố chúng mày cắn gì thế! - Vẫn chưa đến à? - Còn chán. - Khiếp. Thị cau mặt lại, giẫy lên. Hắn phì ra cười, cúi xuống nhấc cành dong dấp cổng ra reo lên: - Đây rồồ- ồi !... Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị cười cười: - Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy! Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả: - Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên... Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân gắt lên: - Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết! Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Hắn nghĩ bụng: "Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... ồ sao nó lại buồn thế nhỉ?...". Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà ! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào(7) đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng... ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn (8) lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng: "Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!" Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ: - Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy! Thị cong cớn: - Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy? Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười: - Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên! Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. - Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ ! - Thị liếc mắt, cười tít. Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế. Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói: - Điêu ! Người thế mà điêu ! Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. - Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. à, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười: - Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. - Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn. - Đây, muốn ăn gì thì ăn. Hắn vỗ vỗ vào túi: - Rích bố cu(9), hở! Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: - ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì. Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: - Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Hắn cười: - Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn(10), nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng(11). Sau không biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một cái: - Chặc, kệ! Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về... Tràng chợt đứng dừng lại, lắng tai nghe. Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà: - U đã về đấy! Hắn lật đật chạy ra đón: - Hôm nay sao u về muộn thế ! Làm tôi đợi nóng cả ruột. Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi: - Có việc gì thế vậy? - Thì u hẵng cứ vào trong nhà đã nào. Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Tràng tươi cười: - Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào. Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa: - U đã về ạ! Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. Tràng nhắc mẹ: - Kìa nhà tôi nó chào u. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp: - Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả... Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này(12) thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được? Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới": - ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng... Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời: - Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau. Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm(13) ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?... - Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật: - Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Tràng đứng ngoài thấy vậy, hắn bực mình quá hầm hầm bước vào trong nhà, đánh diêm đốt đèn. Thấy sáng, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên: - Có đèn đấy à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa... Dầu bây giờ đắt gớm lên ấy mày ạ. Bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Tràng làu bàu trong miệng: "Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc!" Tiếng bà cụ Tứ bên kia nói với sang: - Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ. - Vâng. Tràng ngoan ngoãn đáp lời mẹ. Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì. ánh đèn vàng đục ở góc nhà tỏa ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách. Bên ngoài gió từ mặt sông thổi lên rì rào như tiếng người thầm thì nói chuyện. Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc(14) ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ. Người đàn bà bỗng thở dài. Tràng quay lại khẽ hỏi: - Buồn à? - Không. - Gớm sao lúc này nói chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột. Thị lườm hắn không trả lời. Hắn xích lại cười cười: - Thôi khuya rồi đấy, ngủ đi. Thị giơ tay củng vào trán hắn: - Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ! Hắn cười khì khì, vươn cổ thổi tắt phụt ngọn đèn. Trong đêm khuya tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ... Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên (15) ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước (16) vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch. Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu: -Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn. -Vâng. Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn(17) như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn(18) thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: -Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem... Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn. Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ: -Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ. Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười: -Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán(19) đây, ngon đáo để cơ. Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vãn tươi cười, đon đả: -Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người. Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hôt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen. Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng: -Trống gì đấy, u nhỉ? -Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc. Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm: - ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à? Im lặng một lúc thị lại tiếp: -Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy. Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật. Tràng hỏi vội trong miếng ăn: -Việt Minh phải không? -ừ, sao nhà biết? Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm. Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác. à ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...

Con Mã Mái

Mảnh sân đất nhỏ hẹp chạy dài trước ba gian nhà tranh lụp xụp. Bề ngang không đầy hai thước; bề dài chỉ đến tám bước chân là quá. Vậy mà Cả Chuẩn cũng cố bày biện cho nó ra vẻ một cái vườn cảnh. Giàn thiên lí, chính giữa, thấp lè tè, cành lá xum xuê che chiếc bể cạn thả cá vàng và bốn chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kĩ, sứt mẻ: hai chậu bạch ngọc và hai chậu nhất điểm. Trong bể, kê một hòn non bộ sần sùi gân guốc; cỏ tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu bí mật đối với bọn người sành bé nhỏ, đặt theo điển tích. Nào chùa, tháp, cầu, quán chênh vênh hiểm trở; nào ngư, tiều, canh, độc; nào cầm, kì, thi, tửu; nào Bá Nha ngộ Tử Kì; nào Sào Phủ tẩy nhĩ… Tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài như thời Nghiêu Thuấn. Che tất cả hòn non bộ là một cái tán si. Gốc si xù xì, thân uốn éo theo một kiểu nhất định.

Mỗi lần có khách lạ, ông Cả không quên giảng giải kĩ lưỡng về chiếc bể này:

- Có người trả năm chục bạc rồi, tôi không bán đấy nhé. Những người sành này tôi gửi mua tận chợ Đồng Xuân ngoài Hà Nội, toàn sứ tàu cả; lại còn cây si này nữa. Ông thử để ý ngắm kĩ mà xem: kiểu long cuốn thuỷ đấy!... Này nhé, cái gốc là cái đầu vục xuống uống nước này. Hai vấu này là hai con mắt này. Cái thân uốn éo như hình con rồng cuộn khúc này. Cái tán ở trên xoè là cái đuôi này. Còn cây nhỏ dưới gốc là cây tử này. Chơi cây phải có mẫu, có tử mới không sái ông ạ.

Cả Chuẩn khoe khoang hòn non bộ cũng như ông vẫn thường khoe hai cây cau lợn cọ trồng hai bên vại sói trắng. Mấy khóm lan, hai chậu bạch trà hay bất cứ một thứ gì trong sân cảnh đều mang một lịch sử cầu kì, khó khăn.

Khi người ta là một nhà nho – mặc dầu không hay chữ – nhất lại là nhà nho kiết nữa, thì càng sính chơi cái thú thanh tao này. Cả Chuẩn cũng vậy. Ông chơi cây cảnh chẳng qua để đôi lúc rượu say, tức đời đem câu “danh lợi bất như nhàn” hay “bần thanh còn hơn phú trọc” ra mà an ủi mình và để lên mặt khinh đời, nghĩa là khinh mấy bác giàu có trong làng, mà ông cha là những hạng người keo bẩn, thô tục, không bao giờ hiểu biết được cái thú nhàn nhã như ông. Ông thường dè bỉu:

- Hứ! Sống ở trên đời mà bo bo đồng tiền, chẳng biết ăn chơi là cái gì, chết thì cũng hai tay buông xuôi, dễ mang được của đi chắc!

Rồi ông cất giọng sang sảng ngâm:

Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,

Trong thú yên hà mặt tỉnh say.

Chính ra, Cả Chuẩn cũng không tha thiết gì với cái vườn cảnh cho lắm. Sở dĩ có nó, chẳng qua vì ông rỗi rãi quá và cũng vì những lẽ trên kia. Thật tâm, ông chỉ thích gà chọi thôi.

Trong cái vườn cảnh bề bộn, nhỏ hẹp ấy, ông cố chen thêm vào một chuồng gà và hai chiếc bu thửa, cao lớn lênh khênh coi rất chướng mắt.

Cả Chuẩn mê thích gà chọi lắm. Suốt ngày chỉ lăn lóc với gà. Ngay từ tờ mờ sáng, chưa dậy được, nằm trên giường, ông đã để ý nghe xem hôm nay con Chuối gáy mấy tiếng, con Bạch Nhạn gáy mấy tiếng. Có được mạnh mẽ không? Ông mê đến nỗi chẳng thiết làm ăn gì cả. Chỉ khổ bà Cả và cô Tưởng. Hai mẹ con đầu tắt mặt tối, ngược xuôi, tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình. Thằng cu Trạm lớn rồi vẫn không được đi học. Phải ở nhà hầu hạ bố, nói là hầu hạ gà mới đúng. Lúc nào nó cũng la cà ở ngoài bờ ruộng bắt nhái, hoặc cào cào, châu chấu đem về cho gà ăn. Thằng bé đày nắng đen sạm hẳn đi.

Ông Cả để cu Trạm sống theo vết cũ của mình. Cũng như phần đông trai làng: lớn lên lấy vợ, rồi nhờ vợ sống một cuộc đời ỷ lại vô lo vô lự. Nếu nhờ trời khấm khá có đồng ra đồng vào một chút, ra hương chính, cai đám; hơn nữa, lí, phó tổng chưa biết chừng. Thế là danh phận chán rồi.

Hiện giờ, trong nhà có hai con gà đá được. Cả Chuẩn vẫn chưa vừa ý con nào. Cái Chuối chân vàng “chịu buộc bắt tảng” (1). Dầu hay, mau đòn, nhưng phải cái đá nhẹ. Cái Bạch Nhạn “Cần lập trụ” (2) đòn nặng, gan lì, thì lại chậm chạp; mặt bành xe, dại đần lắm.

Cho nên Cả Chuẩn vẫn để ý tìm tòi một tông gà hay nuôi cho bõ công vần vỗ. Ông thường phàn nàn:

- Nuôi được con gà đi đám, công phu lắm, chứ có phải dễ đâu. Hạng táp nham thì vô thiên lủng ra đấy. Nhưng không bõ.

Một bận, ông sang Tư Méo bên Bính Hạ chơi. Gớm! Ông cứ mê lên về gà của hắn. Ông thuật lại với anh em bằng một giọng vô cùng thèm muốn:

- Chết! Chết! Chơi như người ta mới là chơi, chứ như mình ấy à! Một tay lão ta nuôi hai mươi nhăm con gà, ở trong một cái trại bát ngát. Mà con nào cũng như công như phượng ấy!

Cả Chuẩn còn sang bên Tư Méo bốn năm bận nữa. Ông mày mò muốn mua một con gà mái. Cho rằng: “Chó giống cha, gà giống mẹ”. Gà mẹ có hay, gà con mới đá được. Tư Méo có cái Mái Ô sô mặt tông siếc, ông mê thích quá: “Chân tay mặt mỏ ấy, nó đá như vũ như bão chứ chẳng không”.

Nhưng khẩn khoản thế nào, Tư Méo vẫn không bán, mà hỏi mượn về “đúc” một lứa, hắn cũng không cho. Càng thế, Cả Chuẩn càng mê mẩn con mái xồm. Ông nhất quyết phải chiếm cho kì được mới yên lòng, nhưng vẫn băn khoăn chưa tìm ra cách nào.

Một buổi tối, người hàng xóm ông mất gà. Mụ xắn váy quá đầu gối, dạo khắp ngõ trong, ngõ ngoài, quai xanh vành mỏ ra sa sả rủa đứa nào đã chấp chiếm con gà mái của mụ.

Nghe vậy, Cả Chuẩn bỗng nảy ra một ý kiến. Ông mỉm cười gật gù khoan khoái, lấy làm đắc sách lắm. Sáng hôm sau, mặc dầu trời lạnh, ông đã lọ mọ xuống xóm dưới vào nhà Cả Cúi chơi. Đôi bên thì thầm bàn tán với nhau có vẻ bí mật lắm. Lúc ra về, ông còn cặn kẽ dặn đi dặn lại:

- Thế nào anh cũng cố lưu tâm giúp tôi nhé!... Nhớ con gà đen và xồm mặt ấy. Tôi không để anh thiệt đâu.

Cả Cúi gật đầu:

- Được! Được! Con nhớ kĩ rồi, ông cứ yên tâm.

Thỉnh thoảng, Cả Cúi lại lên nhà Cả Chuẩn chơi. Có lần hắn còn ở lại uống rượu nữa. Ông cũng chẳng nề hà tai tiếng chơi bời với quân câu gà với làng nước nữa.

Nửa tháng sau. Một đêm tối trời. Cả Chuẩn đã đi nằm từ lâu. Ông đang mơ mơ màng màng đến con gà mái của Tư Méo. Chợt có tiếng Cả Cúi gõ cửa rất gấp, giọng nhỏ và có vẻ sợ sệt:

- Ông Cả ơi! Ông Cả! Ông Cả ơi! Ông Cả!

Đoán chắc thế nào cũng có kết quả tốt đẹp, Cả Chuẩn sướng rơn lên. Ông vùng trở dậy, hấp tấp không kịp thắp đèn, bước thấp bước cao ra mở cửa. Ông hổn hển hỏi bóng người trước mặt:

- Cúi đấy à? Thế nào?

Hắn lách người qua cửa ngõ hé mở, thì thào:

- Được rồi.

Ông Cả vội vã đi thắp đèn, rồi ngồi ngẩn người ra ngắm con gà nghiêng nghé trong ánh sáng vàng kệch, tần ngần chẳng nói chẳng rằng. Cả Cúi sốt ruột cất giọng lè nhè đói thuốc nhắc:

- Ông cho con xin… con về chẳng khuya.

Ông Cả giật mình tỉnh mộng:

- À, nhỉ!

Rồi cứ cầm cả gà trên tay đi vào buồng, nâng đầu vợ gọi:

- Này! Này! Đưa mượn tạm năm đồng.

Bà Cả oặn oại, ậm ờ, giọng khê nồng nặc:

- Bây giờ còn lấy tiền làm gì?

Ông phát bẳn:

- Có việc chứ còn làm gì nữa? Hỏi lẩn thẩn mãi!

Bà Cả đành phải đấu dịu. Bao giờ ông gắt, bà cũng phải đấu dịu như thế:

- Ở cái bao trong bồ hàng ấy. Lấy đúng năm đồng thôi nhé.

Trả tiền Cả Cúi, đưa hắn ra về rồi, ông Cả vẫn còn ngồi mê man ngắm gà đến mãi khuya.

Đêm ấy, Cả Chuẩn trằn trọc không sao ngủ được. Ông cứ nghĩ luẩn quẩn về con gà mới mua, và tưởng tượng đến bao nhiêu chiến công rực rỡ của đàn con nó sau này Mãi gần sáng, mới chợp đi được một lúc. Trong giấc mơ, ông chập chờn thấy toàn những gà là gà.

Hôm sau, ông đi khắp mặt làng chơi trong làng khoe mình mới mua được con gà mái ô đẹp lắm, của anh bán củi gánh qua. Và nhân thể ông đặt luôn nó là cái Mái Củi Tạ.

Con Củi Tạ đá nặng đòn lắm. Ai xem cũng phải thán phục nó có đôi quản đẹp. Cả Chuẩn đã cho thử tài đến năm sáu bận. Không con nào chịu nổi nó đến ba hồ. Lần nào cũng chỉ hai hồ, hai hồ rưỡi đảo về là nó đánh con địch một đòn cứ biệng siệng như người say. Cho đến hết hồ thứ ba là phải chạy. Duy có con Mái Xám của phó Tiệm trên phố phủ, gan liền mới chịu được năm hồ, thì hôm sau ngã gục xuống chuồng lợn chết.

*

* *

Độ rầy, con Củi Tạ mới đổi lông, óng ả, mượt mã và béo tốt ra. Cái mặt đỏ gay lên. Nó dạo hết nhà trước vườn sau, thẫn thờ gọi trống: “Coóc!... Coóc!... Coóc!... Coóc!... Coóc!...”.

Cả Chuẩn càng băn khoăn lo nghĩ. Từ ngày có con Củi Tạ, ông vẫn để ý tìm ở vùng này một con gà hay “đúc” (3) một lứa. Ông đem ý này bàn soạn với các bạn:

- Ở ta bây giờ, tôi xem không có một mái gà nào gọi là đá được để “rầy” con mái Củi Tạ, các ông ạ.

- Thiếu gì? Cái Tía khuỳnh ba kì của đồ Thảo thế nào?

- Cái ấy đá thì có gì, ông bảo! Dễ cứ ăn ba kì là gà hay chắc? Chả cứ, ông ạ!

Hương Chế biểu đồng tình:

- Phải! Ông Cả nói phải, có cứ gì ăn giải là gà hay đâu. Chẳng qua là hợp “vở” (4) thì ăn thôi chứ khó gì. Chẳng hạn như gà mình chui, gặp phải con đấm, cứ mạng sườn nó thúc thì hỏi “ông” chui vào đâu? Chỉ ba hồ hương là “ông” sễ cánh buồm xuống, “ông” bước. Nếu biết kháp (5) ra, gặp con đè cần bắt tảng (6) thì ông đã lại tiền bỏ túi.

Con Tía khuỳnh chân sương (7), ông Tư vừa nói, có đòn gì? Tôi chả thấy nó đánh cần cáo bao giờ gọi là có. Độc vị “thông vỉa hai mang” (8), gặp phải con đấm hay, cu cậu đâm ra tháo chái.

“Cần chạy vài nhì” (9) lắm khi còn đánh “sà leo” (10) ngã quật mình xuống đất như trời giáng nữa mới chết chứ.

Gà hay vùng này bây giờ tôi chỉ thấy có ba con thôi: Củi Tía Nồi của Tư Méo là một. Nó đá thì không phải bàn cãi nữa rồi. Cái Ô Chuốt gan liền tướng quân của lang Mão Đồng Kỵ là hai. Với lại cái Bịp Tầm đại (11) của đồ Đán bên Đình Bảng là ba. Thế thôi đấy. Còn ngoại giả tôi không còn ưng ý một con nào nữa.

Hương chế nói rất chí lí. Cả Chuẩn cũng nhận thấy thế. Vùng này xem ra chỉ có ba con gà ấy là xứng đáng rầy (12) cái Mái Củi Tạ thôi. Con Tía Nồi của Tư Méo thì ông Cả không dám màng đến rồi. Con Bịp được cái phủ đòn và cũng có cần cáo đấy. Nhưng ông ghét nó phải cái lớn quá. Chơi gà tầm đại ra đám khó kén được con “đồng cân đồng lạng” mà đá.

Cả Chuẩn nghĩ chán rồi. Ông nhất định lên Đồng Kỵ mượn cái Ô Chuốt. Con này tầm trung vừa chơi. Nó đá nhiều cần cáo lắm; lắm đòn đánh con địch kêu quang quác, bay vù ra ngoài sới. Khốn nỗi lang Mão không cho mượn. Cả Chuẩn cố nàì nẫm khẩn khoản mãi. Nể lời quá, và là chỗ bạn bè thân thiết, lang Mão đành bàn khéo:

- Thật tình tôi không dám tiếc anh em đâu. Ở nhà tôi cũng đang cho rầy mái. Khó nghĩ quá! Hay là thế này. Ông đem con Củi Tạ đế trên này đúc một thể?

Cả Chuẩn không bằng lòng. Ông cười gượng gạo bàn ra cách khác:

- Ừ! Thế cũng được. Nhưng mà… Nhưng mà… Hay thế này tiện hơn. Mỗi hôm tôi sai cháu nó đem lên đây. Ông cho cái Ô Chuốt đạp một lần, có nhẽ tiện hơn.

- Vâng! Thôi thế cũng được. Chỉ khí vất vả cậu em một tí.

Hôm ấy ra về, Cả Chuẩn nghĩ lung lắm. Ông tự nhủ: “Cho đem lên như thế này, ngộ nhỡ gặp Tư Méo thì sao”. Trí óc rối ren lên không biết bao nhiêu là ý định. Ông tìm cách này, cách nọ, chưa bề nào ổn cả. Không lẽ cho vào lồng rồi phủ giấy ra ngoài? Hay nhét vào cái bị? Ừ, nhét vào cái bị có nhẽ là tiện. “Nhưng lang Mão thấy mình giấu giấu, giếm giếm như vậy thì có phải lòi cái gian ra không?”.

Sau cùng, Cả Chuẩn chặc lưỡi quyết định như thế này: “Cứ đem tự nhiên. Nhưng phải đi vòng cánh đồng. Khí xa thực đấy. Nhưng thôi, chịu khó một tí vậy, cho chắc chắn”.

Thế là ngay hôm sau, cơm nước xong, cu Trạm lệch thệch ôm con gà vòng cánh đồng lên Đồng Kỵ lấy giống. Cứ ròng rã như thế hơn nửa tháng trời, cho đến ngày con Củi Tạ rạo rực tìm ổ mới thôi.

Rồi con Củi Tạ đẻ. Mỗi lần nghe nó “cục ta cục tác” hoà với hai con gà trống kêu inh nhà lên, ông Cả lại sung sướng rộn rã. Có bận, chừng chếnh choáng say, ông liếc bà, tủm tỉm nói lỡm:

- Đấy bà mày nghe xem. Có phải con gà mái kêu: “Vừa đau vừa rát! Vừa đau vừa rát!” thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành: “Ai cũng thế! Ai cũng thế!” không?

Dứt lời, ông cười ha hả.

Bà Cả nguýt chồng, nguẩy xuống nhà bếp, lẩm bẩm:

- Người đâu khổ là người! Vài ba hớp rượu vào là như trẻ con ấy.

Cả Chuẩn cũng chẳng để ý đến lời vợ: ông còn mải lấy thóc cho gà ăn và đi cất trứng cho cẩn thận. Chẳng nữa chuột tha hoặc rắn nuốt mất. Cái trứng nào ông cũng đánh số nhất, nhị, tam, tứ, thứ tự trước sau.

Thấm thoắt, con Củi Tạ đã ấp. Những lúc nó rời ổ đi ăn, uống, Cả Chuẩn lại vào nhòm xem ổ trứng thiếu đủ ra sao. Ông đoán cái nào tròn là nở ra con đực, cái nào dài là nở ra con mái. Và để ý từ màu sắc thay đổi, từ màu hồng hồng đổi dần sang màu xám. Những công việc tỉ mẩn không đâu ấy cũng đủ khiến ông vui thích mà bận rộn suốt ngày.

Ấp được hai mươi hôm thì nở. Hôm ấy, Cả Chuẩn ở luôn bên ổ săn sóc. Mỗi con gà ráo lông, ông lại bắt ra bấm cái mỏ chấu (13) đi. Việc ấy đối với ông quan hệ lắm. Chả thế mà trứng chưa nở hết, ông phải ngồi chờ quá nửa đêm vẫn chưa đi ngủ. Bà Cả thương chồng vất vả, mấy lần nhắc nhỏm:

- Thì mặc nó có được không? Việc gì mà thức cho mệt người!

Ông bực mình, gắt lên:

- Bà thì có biết cái gì nữa mà cũng cứ nói mãi! Không chờ bóc vỏ chấu về sau này đá độ vài ba hồ đã tuột mỏ của người ta đi à?

Vả lại ông cũng không muốn ngủ, cứ thích ngồi rù trong chăn bông bên ngọn đèn hút thuốc lào vặt và chú trọng nghe tiếng gà con chiêm chiếp, xao xác đến vui tai.

*

* *

Lứa gà ấy của Cả Chuẩn chỉ để lại có hai con: một cái Ô Mã Mái và một cái “nảy nòi” Sám Miến Hồng. Đôi gà này mỗi con đều có một đặc biệt riêng. Ngay từ khi hãy còn lông tơ, con Sám Hồng đã bỏ đàn đi bới sâu ăn riêng một mình rất xa đàn. Còn con Mã Mái ăn no lại nằm chầu hẫu ngay mỏ mẹ, đúng với câu: “Thứ nhất ăn sâu, thứ nhì chầu mỏ”. Ông tin chắc thế nào đôi gà ấy cũng có tài xuất chúng.

Bảy, tám tháng sau, đôi gà ấy đã qua thời kì “bóc dò”; rồi gáy căng. Cả Chuẩn đem sửa sang cắt tai, cắt mào; và gọt lông ở bụng ở đùi cho dễ om bóp vần vỗ. Bây giờ, chúng có vẻ con nhà tướng lắm. Mỗi khi nhác thấy nhau là nghển cao cái đầu đỏ chót lên, “cục téc” một tiếng lớn. Rồi vỗ cánh phành phạch, cất tiếng gáy khiêu khích. Chúng nghiêng mình đứng kình, dữ tợn nhìn nhau và bước lên những bước đi đĩnh đạc, chắc chắn, quả quyết cùng nhau một trận thư hùng. Ông Cả phải nhốt riêng mỗi con một nơi.

Tuy rằng cùng đàn với nhau mà đôi gà ấy mỗi con một vẻ, mỗi con đánh một đòn. Con Ô Mã Mái tảng dày, mí trờm làm cho đôi mắt ếch sâu hoắm vào. Mỏ tam sơn, ba múi, quăm quắm như mỏ diếu hâu. Mình củ đậu (14), đuôi lá vả, tỏ ra có sức bền bỉ, gan góc. Nhất là đôi quản đen bóng, rắn cứng như thép nguội. Hai hàng vẩy một song song chạy từ kheo đến bàn. Quản bên phải, sóng ngang với cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa. Theo những tay chơi, đó là chiếc vẩy cáo, lợi hại lắm. Nó chuyên “hầu dọc” (15) rất nhiều cần, cáo (16). Ai cũng phải chịu là con gà hay.

Nhưng đến con Sám Miến Hồng thì mới thực là tài ba có một. Với đôi quản đầy vẩy “khâu dao” (17), chỉ buông không cũng thành cần, cáo. Và nhất là hai ngón “thái” (18) vênh vênh kì quái. Nó đã lấy vừa đúng mười hai con mắt trong mười hai trận đá. Sám Hồng khét tiếng là con gà kì tài. Đến nỗi vần khấu mỏ (19) lấy giẻ quấn chân lại, nó còn “buông” (20) một đòn khiến con Mã Mái giãy lên đành đạch.

Từ đấy táng kệch, không ai còn dám cho gà vần với nó nữa, Vì thế, con Sám Hồng chưa bao giờ đá đến quá hồ rưỡi. Cả Chuẩn vẫn sợ sau này, ra hội, nó không đủ hơi, nên ông đành phải cho vần lồng với con Mã Mái vậy.

Sầy-khách-lai ngoài Hà Nội về đã trả con Sám Hồng tới năm chục bạc. Nhưng Cả Chuẩn nhất định không bán. Ông cười chậm rãi:

- Vâng! Cứ kể ra năm chục thời cũng to đấy! Nhưng cái lòng thích với cái công phu nuôi nó thì nhiều chứ! Ai lại đem bán đi!

Thường thường, Cả Chuẩn vẫn ngâm câu: “Chân chì mắt ếch đếch sợ ai. Quản ngắn đùi dài đá chẳng sai” tả cái gan góc của con Mã Mái và câu: “Đầu công, mình cốc, cánh vỏ chai. Quản ngắn đùi dài đá chẳng sai” tả cái gọn gàng nhanh nhẹn của con Sám Miến Hồng.

Bỗng một hôm tiết trời đổi khác. Gío heo may lạnh lẽo vi vút từng cơn. Cả Chuẩn sổ suýt nói tiếng đằng tai. Ông thấy trơn trởn người; gây gấy sốt, da nổi gai ốc lên. Cái đĩ Biểu cũng ươn người, quấy mẹ suốt đêm. Ông Cả cất giọng ngàn ngạt bảo vợ:

- Trở trời đây mà! Khí tiết này độc lắm đấy, bà nó ạ.

Sáng hôm sau, Cả Chuẩn nằm nghe đôi gà gáy, thấy kém mọi ngày đến mươi mười lăm tiếng và giọng không được mạnh mẽ, xói vào tai như trước.

Đôi gà hôm nay mất hết vẻ hùng dũng. Chúng xù lông ra, rụt đầu vào, thu gọn trong đôi vai cánh nhô lên. Mắt nhắm nghiền, cái mỏ se sẽ vẩy. Thấy động, chúng giật mình te hé cặp mắt đỏ đục nhìn ra, rồi lại từ từ nhắm lại.

Cả Chuẩn như mê sảng, chạy hết đầu hồi bên nọ lại sang đầu hồi bên kia sờ nắn gà. Cuối cùng, ông ngồi thần ra bên bu úp con Sám Hồng. Hai tay ôm má, nâng cái đầu hoa râm rũ rượi. Ông chép miệng nói qua tiếng thở dài ảo não:

- Ối chào ôi! Nuôi với nấng.

Con Mã Mái vốn có sức, không đến nỗi nào. Con Sám Hồng thật hết gỡ. Mới có một đêm mà thịt nhão rào rào, nhẹ thọp hẳn đi. Cái diều đầy cơm không tiêu, rắn chắc. Da dẻ xám ngoẹt và lạnh ngắt. Đờm vướng trong cuống họng, nó khò khè thở. Chốc chốc bị tắc hơi, nó lại vẩy mạnh cái mỏ kêu “quéc” lên một tiếng lớn.

Cả ngày hôm ấy, ruột gan Cả Chuẩn rối bời lên để chạy thuốc cho hai con gà. Đứng không yên, ngồi không yên. Ai mách lối nào ông cũng làm. Giã gừng cho uống, nướng tỏi cho ăn, xoa dầu Nhị Thiên Đường, đốt bồ kết, xương truật, thôi thì đủ thứ. Trong đời ông, từ cha sinh mẹ đẻ đến vợ con đầu gối tay ấp, ông chưa phải hầu hạ ai khổ sở lo lắng đến như thế này. Cả Chuẩn như mất hồn, trông người sút hẳn đi, phờ phạc, xanh xao. Suốt đêm không ngủ, hai mắt cứ chang chang; và đôi tai rất thính nghe không sót một tiếng quéc nào của hai con gà quý báu theo gió lạnh đưa vào.

Thế rồi con Sám Miến Hồng chết rũ ngay đêm hôm thứ hai. Cái mỏ há rộng, đờm rãi xộc cả ra mũi. Một đàn kiến nhỏ tung tăng ở đó kiếm mồi. Cả Chuẩn lặng người đi. Ông trân trân nhìn gà. Nét mặt trơ trơ như chẳng hề mảy may buồn tiếc. Có lẽ ông biết trước số phận con gà ấy rồi. Ông thở dài, từ từ nhấc xác con vật lên ngắm nghía một hồi lâu. Nửa cười nửa mếu, ông nghiến răng cay đắng:

- Rõ công cốc!…

Dứt lời, ông ném phịch xác con gà quý báu xuống đất, đoạn vỗ tay phủi bụi, thong thả đi lên nhà trên, cất tiếng gọi:

- Cu Trạm đâu rồi!… Vứt cổ nó ra Cầu Bò đi cho ông.

Thằng bé ngơ ngẩn hỏi:

- Vứt gì cơ ạ?

Ông chỉ con Sám Hồng, trợn mắt nghiến răng, quát:

- Mù à? Vứt đi. Hỏi mãi!… Hỏi mãi!…

Từ hôm đó, Cả Chuẩn sinh ra khó tính và nóng nảy. Hơi một tí là thét lác inh hàng xóm lên. Thằng cu Trạm sợ len lét không dám dàn mặt bố. Nó lỉnh đi chơi suốt ngày.

Con Mâ Mãi bỏ dài, ông cũng chẳng thiết trông nom. Con Bạch Nhạn và con Chuối cũ, một người em họ và Tư Chuyên mỗi người bắt một. Giá cái Ô Mã Mãi khoẻ khoắn ra thì cũng chẳng còn. Ai cũng như ai, tưởng thế nào nó chẳng chết! Thế mà trái lại, Ô Mã Mái cứ tỉnh dần, rồi khoẻ khoắn bằng cũ. Trong nhà bây giờ không còn con gà nào, cái kiêu hùng của Mã Mãi càng nổi bật lên. Lúc nào nó cũng nghênh ngang đi sóng đôi với một cái cần đỏ chót vươn cao lên đôi cánh phệnh phạng, nhô lên thụt xuống theo bước đi, trông đặc du côn.

Rồi con mẹ nó ấp. Ô Mã Mái sinh ra chơi bời lêu lổng, đi lang thang hết nhà này, nhà khác trong xóm. Đến đâu là đánh bạt gà trống ở đấy để chiếm những con mái tơ giống Ri, giống Pha bé bằng nửa làm vợ. Chán rồi, nó lại đi và đánh nhau như thế mãi… mãi… Lúc nào nó cũng lén lút ở bờ tre, bờ giậu hay bên những đống rơm ve gái. Bộ lông mỡ màng đen láy của nó xơ xác và đỏ kệch ra.

Từ ngày con Sám Hồng chết, Cả Chuẩn chẳng còn thiết nhìn nhõ gì đến gà qué nữa, thì cái vườn cảnh lại được ông săn sóc đến luôn. Cái vườn cảnh có lẽ chỉ để giải buồn cho những người sính là nhà nho trong lúc chán chường thất vọng bất cứ vì lẽ gì.

Một buổi chiều kia, rượu đã ngà ngà, Cả Chuẩn tha thẩn bên vườn cảnh ngắm hòn non bộ, tỉa vài chiếc lá lan, nắn lại cành si cho đúng kiểu. Chốc chốc lại khe khẽ ngâm một vài câu thơ cổ, giọng trầm trầm như len lỏi trong đám lá xanh thì thầm với bóng chiều tàn tạ. Một vẻ buồn cổ kính vương trên nét mặt ưu tư.

Bỗng tiếng gọi choang choang của Tư Chuyên bên hàng xóm phá tan sự tĩnh mịch, êm ả, thơ mộng ấy:

- Ông Cả! Thế này có chết không…

Vừa nói ông vừa giơ con Bạch Nhạn, rũ rượi trên tay cho Cả Chuẩn xem:

- Ông có cho nhốt cái Mã Mái lại không. Hôm nay nó sang đá hỏng cái Bạch Nhạn này rồi.

Cả Chuẩn thong thả hỏi:

- Sao? Chạy à?

- Nào đã chạy ở đâu. Thế này: tôi đi thăm đồng vắng, hai con ở nhà đánh nhau, mãi lúc về mới biết. Bắt ra thì con Bạch Nhạn gãy cần và tuột mỏ.

- À! Hỏng thì thịt! Làm chết gì! Nếu phải gà hay thì đã đánh được con Mã Mái. Ấy, tôi vẫn bỏ dài cho rầy mái hoang đấy.

- Chớ! Chớ! Ông không biết, chớ cái Mã Mái nó đánh như vũ bão ấy. Tôi dám nối quyết rằng cả vùng này từ con Chuối của lang Mão đến con Bịp của đồ Đản, không con nào ăn đứt được nó.

- Đành thế! Nhưng nói cho cùng: hay mấy thì hay cũng không thể bằng cái Sám Miến Hồng được.

- Chuyện! Bì thế nào được với con Sám Miến Hồng. Con Sám Miến Hồng nó là thần gà, thánh gà, đâu có phải gà thường.

Tư Chuyên hắn nói rất phải: con Mã Mái cũng không phải gà thường thật. Cả Chuẩn nhủ thầm: “Giả thử không có con Sám Hồng, xem mình có quý nó không nào?” Càng nghĩ, ông càng thấy hối vì đã bỏ phí cho con Mã Mái rầy mái hoang, không chịu săn sóc.

Hôm sau, xem xét gà, thì tai hại, con Mã Mái bị kén mép và gãy hết cà lông cánh. Cả Chuẩn cắn cảu gắt mình:

- Thế này còn đá đấm gì nữa!

Cà ngày hôm ấy, hai bố con loay hoay cấy cánh cho Mã Mái. Cu Trạm ôm gà, Cả Chuẩn khâu những lông cánh tích được vào những cuống lông gãy. Ông cẩn thận chọn lọc lông vế nào phải hợp vế ấy. Khâu xong, chấm vào chỗ chỉ vàng một ít sơn sống, ông đắc ý mỉm cười:

- Thôi, thế là tha hồ mà chắc!

Còn cái kén ở mép, Cả Chuẩn đã mổ mấy lần mà không khỏi. Sau cùng, ông đành mặc nó vậy. Và lại, cho đá thử mấy trận, Mã Mái vẫn không sao. Thế là ông đặt cho nó danh hiệu Ô Kén Mép.

Dăm tháng nữa thì hội Nhân Thọ. Cả Chuẩn ra công vần vỗ cho Ô Kén Mép. Cứ cách nửa tháng, ông đem đến nhà Hương Chế vần khâu mỏ một lần. Lối vần này không hại gà. Một miếng da khâu tròn, lồng vào mỏ, hơi rộng một chút cho dễ thở. Có hai sợi dây buộc lên mào. Cứ thế, mỗi bên không thể mổ nhau được để đá. Con nọ chen con kia, thỉnh thoảng có buông được đòn nào thì buông thôi.

Trước còn cho vần ba bốn hồ, sau dần năm, sáu hồ, rồi bảy tám hồ. Mỗi bận vần xong, ông lại đem giã nghệ hoà với ngải cứu và một ít củ tam thất đun sôi với nước giải om bóp khắp thân thể. Thịt Mã Mái sắt lại và da dày lên. Dăm bữa nửa tháng, ông lại cho nó ăn một bữa lươn sống. Ăn cái này khoẻ gà lắm.

Các tay chơi gà sành sỏi trong làng, đều tin chắc chắn con Mã Mái ra hội chỉ có phần ăn với hoà chứ không thể nào thua được.

*

* *

Cu Trạm ăn mặc chỉnh tề, sắp sửa phải ôm gà đi hội. Chiếc khăn xếp mốc điểm thêm vài chỗ gián nhấm lốm đốm trắng của bố thải cho rộng sụp xuống gần lông mày, như nuốt bộ mặt choắt chéo, đen sạm. Cái áo dài vải thâm ngắn cẫng, đỏ kệch, may từ năm lên mười. Và chiếc quần vải to hẹp ống, xoăn xoe mặc cao quá bụng chân. Tất cà bộ y phục đầu Ngô mình Sở, cũn cỡn đó làm cho nó thêm ngớ ngẩn.

Nghĩ đến việc được đi hội, cu Trạm lại vui sướng rộn ràng. Nó nóng lòng sốt ruột vì mấy ông khách. “Chuyện đâu mà lắm thế! Đến bực!”. Nó đi thung thăng ngoài thềm, chán rồi ra dựa vào bu gà, bần thần ngắm con Mã Mái.

Khách mỗi lúc một thêm đông. Gian nhà vừa lụp xụp vừa chật chội bộn lên những người. Tiếng cười, tiếng nói xôn xao, ầm ĩ. Ánh sáng cửa giữa lọt qua giàn thiên lí xum xuê hắt vào xanh ngắt. Ngọn đèn ăn thuốc bé nhỏ tù mù không đủ làm cho gian nhà sáng sủa lên chút nào. Người nhà quê vẫn quen sống với sự tối tăm như thế.

Vừa uống nước, Hương Chế vừa hỏi:

- Ông Cả đã xem xét gà cẩn thận rồi chứ?

- Đã.

- Thôi, ta đi thôi chứ?

- Hãy thong thả, còn sớm chán. Để kiểm lại tiền đã nào. Ông Tư năm đồng này. Ông Hương mười hai đồng. Ông Đồ mấy nhỉ?… À tám đồng. Tôi mười hai đồng này. Còn ai nữa.

Thơ Bỉnh vội vã:

- Ấy, còn tôi sáu đồng với chú Tư Vo nó bốn đồng nữa.

Cả Chuẩn lẩm nhẩm một lúc, rồi thong thả gói tiền, cẩn thận bỏ vào túi, giao hẹn:

- Thế vị chi là bốn mươi nhăm đồng cả thảy. Sau này đánh chác thế nào, ta sẽ lại tính.

Giữa lúc đó, có tiếng xe tay đổ ngoài cổng ngõ. Hai người khách ăn mặc sang trọng bước xuống, một người mặc ta, một người mặc tây. Họ thong thả đi vào. Đến thềm, người mặc ta cất tiếng gióng giả:

- Thế nào? Ông Cả năm nay có mấy cái ra hội?

Cả Chuẩn trông ra, vội vàng đứng dậy vồn vã:

- A! Ông Hương! Một cái thôi, ông ạ.

Người mặc tây đi sau hấp tấp tiến lên hỏi:

- Sao? Sao lại có một?

- Ồ! Lại cả ông Sầy nữa này! Có một, chứ còn sao nữa? Cái Sám Miến Hồng chết toi rồi.

Sầy sửng sốt kêu:

- Ối trời ôi! Chết toi à? Hoài của! Ngày ấy đã bảo ông để cho tôi thì không để.

Cả Chuẩn cười:

- Chết thì thôi, chứ để thế nào được? Mời hai ông vào trong nhà xơi nước đã.

Hương Thân khôi hài:

- Mặc nước với nôi ấy. Bắt gà xem cái đã.

Cả Chuẩn vội bắt con Ô Mã Mái lại. Vừa nhấc gà lên, Hương Thân đã tấm tắc khen.

- Ái chà! Da thịt rắn đanh này thì phải biết là vần vỗ kĩ càng.

Rồi ông cẩn thận xem cấn, xem tảng, xem mắt; rối xem đến mỏ.

Hương Thân kinh hoàng hỏi:

- Ô, thôi! Chết! Có kén mép hở, ông Cả?

Cả Chuẩn chậm rãi:

- Vâng! Nhưng chả hề gì ông ạ. Đá thử mãi rồi.

Sầy hoạ theo:

- Chân ấy nó vụt thì mấy con chịu nổi ba hồ mà lo!

- Đành rằng thế. Nhưng giá vô bệnh tật vẫn hơn.

Dứt lời, ông lại cúi xuống nâng quản xem, thận trọng ngắm nghía từng li từng tí. Cả mặt trước, lẫn đằng sau quản. Một lúc lâu, ông mới thở nhẹ ra ý tiếc rẻ:

- Ác, thì có đòn ác lắm đấy. Chỉ phải ở hàng vẩy độ (21) có chiếc “chung thân đái tật”.

Đồ Thảo lên mặt biết nhiều sách nho bắt bẻ:

- Ông nói vậy thôi, chứ biết đích làm sao được? Ông Đào Công chi phú ngày xưa chỉ làm có Mã Kinh và Khuyển Kinh. Có làm Kê Kinh bao giờ đâu?

Hương Thân tủm tỉm trả lời:

- Không! Kinh nghiệm nhiều, nó quen đi chứ, cứ quen xem mắt gà như các ông, ai cũng bảo con nào đồng tử nhỏ là gan. Như thế là nhầm. Tôi đã nuôi nhiều, tôi biết: mắt con gà nào cũng vậy, sáng ngày ra đồng tử to, càng về trưa đồng tử càng nhỏ dần, nhỏ dâầ rồi chỉ còn bằng một cái chấm đen. Đến chiều lại to. Thế thì các ông bảo tin làm sao được đồng tử nhỏ là gan… Có cứ gì đâu, trăm nghìn lối xem, mỗi người mỗi khác.

Sầy cười lên hềnh hệch:

- Ồ! Thật à, ông Hương? Nếu thế thì y như cách xem giờ bằng mắt mèo của các báo đã đăng. Thần tình nhỉ!

- Chậc! Mắt mèo thế nào thì tôi không biết. Chớ mắt gà, nghiệm ra, hễ cứ râm trời thì đồng tử to mà càng nắng thì đồng tử càng bé. Có thể thôi!

Cả Chuẩn ôn tồn bảo mọi người:

- Ông Hương nói đúng đấy. Cái Mã Mái này thật bệnh tật suốt đời thật. Ngày còn bóc dò thì ốm mốc; khỏi ốm mốc lại bị trận ốm giây “thập tử nhất sinh”. Đến lúc khỏi chết giây; thì đâm ra kén mép, chữa thế nào cũng không khỏi.

Rồi như chợt nhớ ra, ông tươi cười bông lơn:

- Ô chết chửa! Mải chuyện gà quá, quên cả uống nước.

Mọi người cất tiếng vui vẻ, kéo nhau vào cả trong nhà. Sau tuần nước, câu chuyện càng thêm giòn giã, nở nang. Hương Thân tấm tắc khen:

- Đẹp! Trông sướng cả mắt.

Sầy trợn trừng trợn trạc:

- Đã thấm đâu. Con Sám Miến Hồng mới thích chứ. Nó đá mười hai con mất mắt trong mười hai trận đá. Chính tôi đã được xem một lần. Chết! Nó đã cứ vun vút “liên chi thanh nguyệt chi công”. Nhắc chân lên là thành cần cáo. Đầu công thon thon lé đòn rất tài… Chao bên này!… Chao bên này!… (vừa nói Sầy vừa dựng hai canh tay lên chao bên nọ, bên kia giả làm cổ gà) cứ thoăn thoắt, thoăn thoắt! Coi sướng lạ!

- Hoài của, thế mà chết mất.

Tư Chuyên từ nãy vẫn ngồi lì xì không nói, nghe chừng đã nóng ruột ruột, nhắc nhỏm:

- Dễ thường trưa rồi đấy.

Cả Chuẩn sai cu Trạm cầm gà đi trước. Hương Thân lại gần thân mật hỏi:

- Cánh nhà định đánh bao nhiêu đấy?

- Độ năm chục đổ về thôi, ông ạ.

- Thế nào cũng cho chúng tôi ké với nhé. Đem con gà đi hội, ta phải đánh to to một chút, mới bõ công vần vỗ ông ạ.

Thế là cả bọn lục tục kéo đi.

*

* *

Dưới mái đình những chiếc giải gà buộc lòng thòng. Ba chiếc giải: nhất, nhì, ba; và năm sáu chiếc giải lèo. Những vuông lụa điều uốn éo nhẹ nhàng trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó mơ ước một chiếc thắt lưng, trong khi mọi người chàng màng tìm gà kháp đá. Năm nay rất nhiều gà. Nhưng con thì nhỏ quá, con thì to quá. Hạng bằng trang (22) thì lại hơn xương (23), hơn cựa. Kháp gà phải thận trọng cân nhắc suy bì từng li từng tí. “Hơn một cái lông không chọi” cơ mà!

Cả hội xem ra chỉ có con Hoa Mơ của bác nhà quê ôm khư khư trên tay ngồi thu hình một xó đình là “đồng cân đồng lạng”. Nhưng ngữ ấy còn làm gì ra nhiều tiền mà chơi. Vả lại Hương Thân, Cả Chuẩn cũng đã so sánh chán rồi. Chân tay mặt mỏ cái gà ấy cũng không phải vừa. Tuy rằng không có đòn linh (24) bằng Mã Mái, nhưng lại hơn ở cái không có kén mép. Vì thế các ông cũng chẳng thiết.

Họ chán nản ra hàng trầu nước làm vài khói giải buồn. Tư Méo cũng ngồi đấy, ông đon đả hỏi:

- Thế nào cái Mã Mái ông Cả định cho đá với cái nào chưa?

Cả Chuẩn ngửa cổ, thở khói thuốc lào, lắc đầu:

- Chưa, ông ạ. Có mỗi cái Hoa Mơ xem ra cũng lợi hại lắm. Mà gà của tôi thì kén mép.

Hương Thân nói xen:

- Chả chơi được với nó!

Tư Méo xích lại gần thì thầm:

- Được! Đá được mà! Cái gà ấy ở Trung Mầu tôi biết. Nó thì hay lắm đấy. Nhưng gặp phải anh chàng không biết chơi cho đi với gà già “vỡ” rồi (25). Chỉ đánh đến hồ thứ ba là chạy. Các ông có đá cho tôi ké ít nhiều với.

Cả Chuẩn, Hương Thân sung sướng reo khẽ:

- Thật à?

Thế là họ đem Mã Mái sát với Hoa Mơ. Gã nhà quê không dám cho gà đá. Nhất định kêu con Mã Mái to hơn, tuy rằng đôi gà rất bằng phân. Về sau, Lý Khản Trang Liệt phát bực mình gắt:

- Sợ gì mà sợ! Cái nhà bác này! Ta đánh cái kén mép của họ.

Gã nhà quê e dè:

- Đành rằng thế! “Cơ mờ” cháu không có tiền.

Lý Khản cười kha khá. Chừng ông say. Ông hùng hổ nói:

- Bác đánh bao nhiêu thì đánh. Còn mặc tôi. Bao nhiêu cũng cân.

Đôi bên thoả thuận đem gà vào sở tại, xin đánh giải nhất. Mỗi bên cược năm chục bạc. Còn sau này gọi thêm.

Hai ông chủ kê đem gà ra sới. Mọi người xúm đông quây vòng quanh bên ngoài vạch vôi. Hương Thân cầm con Mã Mái. Ông bắt gà, thả gà, chữa gà khéo léo và nhiều mánh lới có tiếng.

Hết giao vào díu (26), Hoa Mơ đánh Mã Mái một đòn cong hẳn cần lại, quay liệng đi nửa vòng, Lý Khản gọi liền:

- Mười đồng ăn tám Hoa Mơ đây.

Sầy giơ tay:

- Bắt!

Hai người vừa trao tiền cho nhau xong, Mã Mái trả một đòn hầu dọc, Hoa Mơ ngằn ra, và tiếp thêm mấy chiếc nữa. Sầy sung sướng reo:

- Tin!… Tin!… Mã Mái năm đồng nữa! Ai bắt không?

Đôi gà cùng lọt quản, mau đòn nên sát phạt nhau dữ lắm. Người xem đểu xuýt xoa khen là “kì phùng địch thủ”. Mới nửa hồ đầu mà quản con nào con ấy như trát máu.

Những lúc thả gà, Hương Thân đã để ý bao giờ Mã Mái cũng buông trước một đòn. Cho nên ông thả “lơi” cho đúng tầm chân đá. Người ta thận trọng từng đòn một, trong lúc ăn thua này.

Đôi gà vẫn tranh hùng trả đòn nhau kịch liệt, xô đi đẩy lại sát vào vòng người. Hai ông chủ kê bắt gà của mình ra. Họ xoa nắn chà xát đùi vế và cho uống dấp giọng một tí nước, thấm vào khăn mặt cho tỉnh táo. Rồi cùng lừa lừa xem lối thả của người kia thế nào. Lý Khản cũng sợ cái đòn buông của Mã Mái. Ông đặt giúi Hoa Mơ vào sát. Nhanh nhẹn, Hương Thân nhắc lùi gà mình về phía sau. Được thế rộng, đúng “võ”, con Mã Mái buông liền. Hoa Mơ bị đòn rung chuyển cả người, mấp máy cả đuôi tôm. Mã Mái tiếp liền. Nó đánh một đòn rất nặng. Cái đòn di truyền của mẹ nó – con Mái Củi Tạ – khiến Hoa Mơ hoang mang, biệng siệng như say. Chân thấp, chân cao tấp tểnh và bối rối quay “tháo chái”(27).

Lập tức, gã nhà quê lúc nãy ôm phắt gà lên nhất định kêu quản con Mã Mái bôi thuốc độc, nếu không, sao vừa mới thả vào, gà của hắn đã hoa mắt như thế được?

Sầy sừng sộ:

- Anh định cãi bây phỏng? Anh định cãi bây phỏng?

Cả Chuẩn đứng giang tay, phân bua với công chúng:

- Các ông đứng quanh đây thử xem xem! Hai con vẫn ở đây, nào đã đi đâu xa mà bảo cho thuốc với cho men được? Chẳng qua là cái đòn nó như thế. Vậy xin phép các ông hàng hội cho chúng tôi vào lấy giải.

Gã nhà quê nhất định không nghe. Đôi bên cãi nhau ồn ào. Mấy ông sở tại phải ra dàn xếp khéo với Cả Chuẩn:

- Thôi ông ạ! Ta lại cứ cho vào đánh. Gà của mình hay vẫn được. Phải cái người họ quê mùa không biết gì.

Hương Thân cười nhạt:

- Không biết gì! Không biết gì ăn người! Không biết gì đời! Ông bảo bao giờ cái Mã Mái lại đánh được một đòn như thế?

- Thôi! Xin các ông. Chơi vui với nhau ấy mà!

Bàn đi tính lại một lúc lâu nữa, Cả Chuẩn mới bằng lòng. Ông nói với mọi người:

- Tôi chơi thế này là chơi “lép vế” đấy.

Đến lúc cho gà vào đánh, mọi người đều kinh ngạc thấy Tư Méo cầm, thả con Hoa Mơ. Ông cười nháy Hương Thân chống thẹn:

- Gớm! Chơi với bời! Ai lại thả “nhà nghề” thế bao giờ! Mình đành phải cầm giúp Lý Khàn vậy.

Hương Thân giận tím mặt. Bây giờ mới vỡ nhẽ. Thì ra con Hoa Mơ của Tư Méo. Hắn mưu mô quỷ quyệt cho gã nhà quê cầm rồi lại để Lý Khản vờ đánh tiền. Gớm thật. Hương Thân cười khẩy:

- Hừ! Bây giờ ông Tư mới chịu “ra mặt”. Màu mãi.

Đồ Thảo thâm hiểm, nói xa xôi:

- Vừa rồi có đám cháy ở đàng kia các ông ạ.

Ông có ý nói xỏ: “Cháy nhà mới ra mặt chuột”. Tư Méo gằm mặt không dám nói gì.

Mấy viên thiết đả con Hoa Mơ ăn trong lúc nhếu nháo đã ngấm. Nó đã lại người, tỉnh táo mạnh mẽ như trước. Hương Thân thấy hơi lo lo. Tuy rằng Mã Mái hơn đòn một chút, nhưng cái lối đòn cũng đã “hầu dọc” và “khoá mỏ” ấy rất nguy hiểm cho cái kén mép.

Quả như Hương Thân đoán thật. Sang hồ tư, Mã Mái bị vỡ kén, máu chày rất nhiều, và kém dần dần.

Tư Méo tủm tỉm nói khích:

- Nào đã chắc mèo nào cắn mỉu nào.

Hương Thân cười gằn, nhắc lại:

- Thật đấy, đã chắc mèo nào cắn mỉu nào. Chỉ một đòn lấy giải là thường.

Nói cứng vậy, chứ thật ra Mã Mái nao núng lắm rồi.

Cuối hồ năm, cái kén cương lên đau quá, mổ không được chắc để đá nữa. Đầu Mã Mái dại đi, sưng vù, mọng lên những máu, chúi vào hai đùi Hoa Mơ tránh đòn.

Đồng tiền liền với ruột. Hương Thân chẳng còn nghĩ đến bẩn thỉu, mỗi lần bắt gà ra chữa, ông cho mồm vào hút máu, hút mũi cho nhẹ bớt mặt.

Hồ sáu, hồ bảy, Hoa Mơ đánh toàn đòn riêng (28). Nó nhắc đầu “trao chuông” đánh như gõ vào tảng Mã Mái. Mỗi lần bị đòn, Mã Mái lại lao đao, ngật ngưỡng cái cổ, mổ vu vơ rồi lả dần… lả dần, gục đầu xuống đất. Mỏ tóp tép, máu ở kén chảy ròng ròng đỏ lòm cả sới. Những người đi xem xì xào bàn tán:

- Con Mã Mái ai ngờ bị “ba chân” các ông nhỉ!

Cả Chuẩn thương gà, nói khó với Tư Méo:

- Này, ông Tư này! Xin thua năm phân đấy.

- Thôi, cứ đá cho đến “kì tẩu kì tử”.

Hương Thân bĩu môi:

- Ăn lắm mấy! Cặp này hoà cho mà xem. Nếu chạy, con Mã Mái đã chạy rồi. Tôi dám chắc…

Ông vội ngừng bặt và Mã Mái bị một đòn ngã ngửa ra đằng sau. Biệng siệng, giật lùi… giật lùi… Những người đánh con Hoa Mơ reo:

- A chạy! Chạy rồi!

Và mở một đường chờ đón. Con Hoa Mơ được thể đá tiếp dồn dập, thốc tháo. Bỗng con Mã Mái cáu tiết phóng liền một đòn. Hoa Mơ rụt hẳn đầu lại, ngây mặt ra, đuôi phập phổng, người chuyển rung rung. Hăng máu, Mã Mái ngoặp lấy hầu Hoa Mơ đá liền hai chiếc nữa. Hoa Mơ há mỏ kêu “quác” một tiếng lớn, ngã chúi xuống, nằm thẳng cẳng, chân cánh giãy lên đành đạch. Một lúc lâu rồi yếu dần… dần… Máu ở mũi, ở mồm xoẻ ra chan hoà.

Cu Trạm lách qua vòng người chạy ra gọi Đồ Thào khoe rối rít trong khi ông này tưởng Mã Mái thua mười mươi, chán nản ra ngồi hàng nước chẳng buồn nhìn nhỏi đến gà nữa.

- A! Ha! Ha! Ông Đồ ơi! Con Hoa Mơ bị gà nhà đánh chết rồi, ông Đồ ạ.

Đồ Thảo không kịp uống bát nước mới rót, hấp tấp chạy lại sới gà, lắp bắp hỏi:

- Thật không? Thật không?

Vòng người xô hẹp lại. Cả Chuẩn, Sầy vội gạt ra ngoài nói:

- Các ông dẹp xa xa ra một tí, chẳng nữa người ta lại ôm gà lên kêu chúng tôi bỏ thuốc độc.

Con Hoa Mơ bị đánh chết thật. Mà Mã Mái cũng hết gân, không đá được nữa. Nó chỉ lấy chân cào cào, bới bới.

Tư Méo chịu thua. Mặt tái mét, ông run rẩy nhấc gà lên. Hương Thân mát mẻ:

- Đã chắc mèo nào cắn mỉu nào, ông Tư nhỉ!

Tư Méo tức tối, cười nhạt:

- Hừ! Chúng mình còn gặp gỡ nhau nhiều. Đã vội gì…

Hương Thân cười ha hả không trả lời. Ông ôm Mã Mái vào lấy giải.

Xin chữ cụ nghè

Gần chỗ tôi ở, có một cụ nghè, đỗ khoa nào tôi không rõ. cụ nghè nổi tiếng là hay chữ. những thơ phú, câu đối, cụ làm ra, toàn là chữ nho cả, tôi ù cạc như vịt nghe sấm, nhưng thấy người vùng này thuộc nhiều và đều phục là hay lắm.

làng cụ ở cách nhà tôi độ ba cây số. những ngày rỗi việc, tôi thường đi lại để được hầu chuyện cụ. vì tính cụ vui vẻ, dễ dãi, nhất là tiếp đãi tôi, thì bao giờ cũng một cách đặc biệt. thường cụ vẫn bảo tôi rằng nếu có cần việc gì về chữ nho, thì cụ sẵn lòng giúp.

tôi vâng dạ, nhưng chửa có dịp nào được phiền đến cụ, vì chửa có dịp nào phải cần giao thiệp bằng chữ nhọ nhiều người cứ xui tôi xin cụ đôi câu đối, nhưng tôi không muốn. vì vẫn biết cụ sẵn lòng cho, nhưng chính mắt tôi thường trông thấy phàm ai muốn nhờ vả cụ về chữ nghĩa, đều phải có đem hoặc cành cau, hoặc gói chè, hoặc có khi cả đồng bạc nữa, để biếu cụ. chứ không ai chơi cái lối "nước dãi" bao giờ. như thế thực là phảị cho nên, chẳng lẽ bây giờ mình nhờ cụ, mà cũng xử như người ta, đem gì đến, thì sợ cụ cười rằng trẻ con không biết gì. nhưng nếu ngộ không tạ cụ bằng thức gì, thì cụ lại chẳng bằng lòng vì cách "tây" quá ấy chăng. bất nhược chẳng phiền cụ cho xong quách.

một hôm nhận được giấy cáo phó của một người bạn thân báo tin ông cụ thân sinh mới tạ thế, tôi cùng vài người anh em định rủ nhau sửa đồ phúng chung.

ngày thường, chúng tôi vẫn nghe lỏm nhiều người nói chuyện rằng phúng đám ma các cụ già, người ta hay dùng bốn chữ hạc giá tiên dụ chúng tôi định thửa ở hiệu bốn chữ ấỵ nhưng mặt chữ không thuộc, nên không biết viết thế nàọ mà đành phận chữ chi là cò cũng không biết, thì thà chịu dốt còn hơn. vả lại bốn chữ sẵn này, tuy hợp nghĩa, nhưng nó cũ rích, lại chẳng hay ho gì, không đủ tỏ được cái tình thân mật của chúng tôi đối với hiếu chủ. chúng tôi bèn quyết không dùng mấy chữ sáo hạc giá tiên du ấy nữạ nhân có cụ nghè ở gần, chi bằng chúng tôi lại xin ngay chữ cụ, tất được hay lắm.

chúng tôi biết tính cụ nghè thích đánh chén, mà xưa nay chúng tôi lại chưa được dịp vào hầu rượu cụ, nên nhân việc này, chúng tôi mời cụ đến xơi cơm, rồi nói chuyện xin chữ cho tiện.

dặn dò người nhà làm cơm và mua rượu xong, chúng tôi cùng thân hành đến nhà cụ nghè để đón cụ. hôm ấy, được ngày cụ thong thả và mát trời, nên cụ đi ngaỵ

cơm xong, tôi nói:

- thưa cụ, tiện đây, chúng con có một việc muốn phiền cụ.

- hừ! các ông lại muốn nhờ làm câu đối chứ gì?

- dạ.

- thế thì việc quái gì phải bày vẽ ra như thế này cho thêm tốn?

- bẩm có gì là bày vẽ. chúng con chủ ý mời cụ quá bộ đến xơi cơm để chúng con được hân hạnh hầu rượu cụ mà thôị

- câu đối gì?

- bẩm câu đối phúng.

- phúng aị

- bẩm phúng ông thân sinh một người bạn thân.

- Được! Đem giấy, bút, mực ra đâỵ

chúng tôi đưa lọ mực tây và bút sắt. cụ không nghe, cười:

- tôi có quen dùng những thứ này đâủ

chúng tôi bèn chia nhau đi mượn cho đủ bộ. khi thấy mang về, cụ bảo:

- mài mực đị ông đổ ít nước lã vào đây, rồi mài thoi mực này mươi vòng vào chỗ này, khi nào đen thì thôị

chúng tôi vâng lời cụ. khi mực mài xong, cụ để các đồ dùng trước mặt, lên ngọn kính, rồi hỏi:

- viếng ông cụ thân sinh ra bạn thân phải không?

- dạ.

- ông cụ ấy bao nhiêu tuổỉ

- bẩm ngót bảy mươị

- à thọ nhỉ? con cháu khá cả đấy chứ?

- bẩm vâng.

- ông cụ ấy còn cha mẹ già không?

- không ạ.

- bà cụ còn chứ?

- dạ.

- Được. ấy, phải biết đủ như thế, mới có thể giãi tỏ hết cả tấm lòng mình được.

cụ nằm phục vị trước tờ giấy, chống tay vào cằm, nghiêm nét mặt lại, rồi rung đùi, cơ chừng để nghĩ. chúng tôi ngồi chắp tay, yên lặng cả, để khỏi làm rối mất mối văn chương của cụ nghè.

một lúc, cụ ngồi nhổm dậy, nói:

- mà cần gì phải câu đốỉ bây giờ những đám ma văn minh người ta có hay dùng câu đối nữa đâủ Để tôi nghĩ cho bốn chữ rõ hay, các ông có bằng lòng không?

- dạ!

- Được.

cụ lại phục vị, cầm bút chấm vào nghiên, xoe ngòi cho tròn rồi viết. chúng tôi châu đầu cả vào để nhìn tay cụ.

Đầu tiên, cụ nắn nót viết một dòng chữ về mé tay phải ở tờ giấy, chỗ đề niên hiệu:

bảo Đại nhâm thân niên trọng hạ nhật.

rồi cụ đưa phắt tay sang mé trái tờ giấy, viết luôn một dòng chữ nữa đề lạc khoản:

tử chấp: trần văn x, trịnh hữu y, nguyễn mạnh z, đồng trang vãn.

cụ hỏi:

- có phải tên các ông viết thế không? dòng bên kia là đề ngày, tháng, năm đấỵ

- dạ.

- tử chấp nghĩa là hàng con, các ông cũng vào hàng con cụ ấỵ

- dạ.

chỗ giữa vẫn còn để trống. cụ lại hỏi:

- ông cụ có phải không nhỉ?

- dạ.

lúc ấy cụ lại ra dáng nghĩ ngợi hơn, gục hẳn mặt vào bàn tay và rung chân mạnh hơn trước. rồi ngẩng dậy, cụ đặt bút, chấm vào mực, lăn mãi ngòi vào nghiên. chúng tôi lại phải im phăng phắc, không dám thở mạnh để cụ loạn trí, mất chữ hay, chăm chăm con mắt nhìn theo tay cụ.

Độ năm phút sau, cụ đặt bút xuống chiếu, gãi chân, rồi kêu nực, chúng tôi quạt hầụ cụ cầm bút rồi rung đùị một chốc, cụ lại xoay bút, không rung đùi nữa, đặt hẳn ngòi trên mặt tờ giấy, đưa đi đưa lại cái quản, ngoáy ngoáy trên không để lấy gân, rồi dí hẳn xuống, nắn nót, viết bốn chữ nét rậm rì to tướng.

viết xong, cụ nhổm phắt dậy, trỏ vào từng chữ mà giảng cho chúng tôi được hiểu thấu cái haỵ cụ nghè giảng rằng:

- hạc là con hạc, giá là xe, tiên là cõi tiên, du là chơi, các ông hiểu chưả

hiểu rồi, chúng tôi lườm nhau, chỉ sợ có anh nào cười thì chết!...

An Nam tạp chí số 45, 1932

Hết Gần chỗ tôi ở, có một cụ nghè, đỗ khoa nào tôi không rõ. cụ nghè nổi tiếng là hay chữ. những thơ phú, câu đối, cụ làm ra, toàn là chữ nho cả, tôi ù cạc như vịt nghe sấm, nhưng thấy người vùng này thuộc nhiều và đều phục là hay lắm. làng cụ ở cách nhà tôi độ ba cây số. những ngày rỗi việc, tôi thường đi lại để được hầu chuyện cụ. vì tính cụ vui vẻ, dễ dãi, nhất là tiếp đãi tôi, thì bao giờ cũng một cách đặc biệt. thường cụ vẫn bảo tôi rằng nếu có cần việc gì về chữ nho, thì cụ sẵn lòng giúp. tôi vâng dạ, nhưng chửa có dịp nào được phiền đến cụ, vì chửa có dịp nào phải cần giao thiệp bằng chữ nhọ nhiều người cứ xui tôi xin cụ đôi câu đối, nhưng tôi không muốn. vì vẫn biết cụ sẵn lòng cho, nhưng chính mắt tôi thường trông thấy phàm ai muốn nhờ vả cụ về chữ nghĩa, đều phải có đem hoặc cành cau, hoặc gói chè, hoặc có khi cả đồng bạc nữa, để biếu cụ. chứ không ai chơi cái lối "nước dãi" bao giờ. như thế thực là phảị cho nên, chẳng lẽ bây giờ mình nhờ cụ, mà cũng xử như người ta, đem gì đến, thì sợ cụ cười rằng trẻ con không biết gì. nhưng nếu ngộ không tạ cụ bằng thức gì, thì cụ lại chẳng bằng lòng vì cách "tây" quá ấy chăng. bất nhược chẳng phiền cụ cho xong quách. một hôm nhận được giấy cáo phó của một người bạn thân báo tin ông cụ thân sinh mới tạ thế, tôi cùng vài người anh em định rủ nhau sửa đồ phúng chung. ngày thường, chúng tôi vẫn nghe lỏm nhiều người nói chuyện rằng phúng đám ma các cụ già, người ta hay dùng bốn chữ hạc giá tiên dụ chúng tôi định thửa ở hiệu bốn chữ ấỵ nhưng mặt chữ không thuộc, nên không biết viết thế nàọ mà đành phận chữ chi là cò cũng không biết, thì thà chịu dốt còn hơn. vả lại bốn chữ sẵn này, tuy hợp nghĩa, nhưng nó cũ rích, lại chẳng hay ho gì, không đủ tỏ được cái tình thân mật của chúng tôi đối với hiếu chủ. chúng tôi bèn quyết không dùng mấy chữ sáo hạc giá tiên du ấy nữạ nhân có cụ nghè ở gần, chi bằng chúng tôi lại xin ngay chữ cụ, tất được hay lắm. chúng tôi biết tính cụ nghè thích đánh chén, mà xưa nay chúng tôi lại chưa được dịp vào hầu rượu cụ, nên nhân việc này, chúng tôi mời cụ đến xơi cơm, rồi nói chuyện xin chữ cho tiện. dặn dò người nhà làm cơm và mua rượu xong, chúng tôi cùng thân hành đến nhà cụ nghè để đón cụ. hôm ấy, được ngày cụ thong thả và mát trời, nên cụ đi ngaỵ cơm xong, tôi nói: - thưa cụ, tiện đây, chúng con có một việc muốn phiền cụ. - hừ! các ông lại muốn nhờ làm câu đối chứ gì? - dạ. - thế thì việc quái gì phải bày vẽ ra như thế này cho thêm tốn? - bẩm có gì là bày vẽ. chúng con chủ ý mời cụ quá bộ đến xơi cơm để chúng con được hân hạnh hầu rượu cụ mà thôị - câu đối gì? - bẩm câu đối phúng. - phúng aị - bẩm phúng ông thân sinh một người bạn thân. - Được! Đem giấy, bút, mực ra đâỵ chúng tôi đưa lọ mực tây và bút sắt. cụ không nghe, cười: - tôi có quen dùng những thứ này đâủ chúng tôi bèn chia nhau đi mượn cho đủ bộ. khi thấy mang về, cụ bảo: - mài mực đị ông đổ ít nước lã vào đây, rồi mài thoi mực này mươi vòng vào chỗ này, khi nào đen thì thôị chúng tôi vâng lời cụ. khi mực mài xong, cụ để các đồ dùng trước mặt, lên ngọn kính, rồi hỏi: - viếng ông cụ thân sinh ra bạn thân phải không? - dạ. - ông cụ ấy bao nhiêu tuổỉ - bẩm ngót bảy mươị - à thọ nhỉ? con cháu khá cả đấy chứ? - bẩm vâng. - ông cụ ấy còn cha mẹ già không? - không ạ. - bà cụ còn chứ? - dạ. - Được. ấy, phải biết đủ như thế, mới có thể giãi tỏ hết cả tấm lòng mình được. cụ nằm phục vị trước tờ giấy, chống tay vào cằm, nghiêm nét mặt lại, rồi rung đùi, cơ chừng để nghĩ. chúng tôi ngồi chắp tay, yên lặng cả, để khỏi làm rối mất mối văn chương của cụ nghè. một lúc, cụ ngồi nhổm dậy, nói: - mà cần gì phải câu đốỉ bây giờ những đám ma văn minh người ta có hay dùng câu đối nữa đâủ Để tôi nghĩ cho bốn chữ rõ hay, các ông có bằng lòng không? - dạ! - Được. cụ lại phục vị, cầm bút chấm vào nghiên, xoe ngòi cho tròn rồi viết. chúng tôi châu đầu cả vào để nhìn tay cụ. Đầu tiên, cụ nắn nót viết một dòng chữ về mé tay phải ở tờ giấy, chỗ đề niên hiệu: bảo Đại nhâm thân niên trọng hạ nhật. rồi cụ đưa phắt tay sang mé trái tờ giấy, viết luôn một dòng chữ nữa đề lạc khoản: tử chấp: trần văn x, trịnh hữu y, nguyễn mạnh z, đồng trang vãn. cụ hỏi: - có phải tên các ông viết thế không? dòng bên kia là đề ngày, tháng, năm đấỵ - dạ. - tử chấp nghĩa là hàng con, các ông cũng vào hàng con cụ ấỵ - dạ. chỗ giữa vẫn còn để trống. cụ lại hỏi: - ông cụ có phải không nhỉ? - dạ. lúc ấy cụ lại ra dáng nghĩ ngợi hơn, gục hẳn mặt vào bàn tay và rung chân mạnh hơn trước. rồi ngẩng dậy, cụ đặt bút, chấm vào mực, lăn mãi ngòi vào nghiên. chúng tôi lại phải im phăng phắc, không dám thở mạnh để cụ loạn trí, mất chữ hay, chăm chăm con mắt nhìn theo tay cụ. Độ năm phút sau, cụ đặt bút xuống chiếu, gãi chân, rồi kêu nực, chúng tôi quạt hầụ cụ cầm bút rồi rung đùị một chốc, cụ lại xoay bút, không rung đùi nữa, đặt hẳn ngòi trên mặt tờ giấy, đưa đi đưa lại cái quản, ngoáy ngoáy trên không để lấy gân, rồi dí hẳn xuống, nắn nót, viết bốn chữ nét rậm rì to tướng. viết xong, cụ nhổm phắt dậy, trỏ vào từng chữ mà giảng cho chúng tôi được hiểu thấu cái haỵ cụ nghè giảng rằng: - hạc là con hạc, giá là xe, tiên là cõi tiên, du là chơi, các ông hiểu chưả hiểu rồi, chúng tôi lườm nhau, chỉ sợ có anh nào cười thì chết!... An Nam tạp chí số 45, 1932 Hết

Đưa sáo sang sông

Bà Hai Thoan bán nước, lại thêm cả nghề chứa trọ ở cổng sau chợ Niệm. Chợ Niệm đây là chợ Niệm Nghĩa, nằm ở bên sông Cửa Cấm. Chợ Niệm Nghĩa trước chỉ họp mỗi tháng bốn phiên, nhưng gần đây hàng buôn lậu Trung Quốc sang nhiều nên cũng họp lung tung thất thường.

Giáp Tết, chợ ngày nào cũng họp. Phiên sáng, phiên chiều... nếu có tàu trở hàng lậu về đêm thì thêm cả phiên tối. Không có điện thì có máy nổ phát điện, điện giăng như sao sa . . . Trên bến, dưới thuyền, mua mua, bán bán, này anh, này chị, này chú, này cô, "hảo lớ"... hàng Đài Loan, hàng Hồng Kông, hàng Trung Hoa lục địa, hàng Nhật Bản, hàng Sài Gòn... "thượng vàng hạ cám" chẳng thiếu thứ gì .

Bà Hai Thoan mắt kém, hơi lãng tai nhưng được cái khoẻ mạnh. Bà ngồi một chỗ bán nước nhưng dưới "trướng" của bà có hai con bé con giúp việc lúc nào cũng nhanh thoăn thoắt làm đủ mọi việc trên đời, đâu ra đấy, không chê vào đâu được .

Giáp Tết, trời chuyển gió bấc, mưa phùn, rét như cắt ruột. Mưa suốt từ đầu tháng Chạp đến 27 Tết. Sáng 27 Tết nắng ấm dần lên. Hàng về nhiều. Chưa bao giờ chợ Niệm đông như phiên hôm 27 Tết năm ấy. Bà Hai Thoan ngủ dậy, vừa mở cửa hàng thì người đàn ông ấy đến. Ông ta vừa bước vào thì mọi đồ vật trong nhà như ríu cả lên: cái chổi để ở góc nhà tự dưng ngã vật ra, chiếc đồng hồ báo thức hỏng đã nửa năm nay bỗng dưng đổ chuông ầm ĩ, chiếc đèn dầu hở ống muống bỗng cháy đùng đùng... Người ấy như người từ thời thượng cổ bước ra: thô nhám, đơn sơ, rất cồng kềnh. Ông ta mặc áo da, cổ đeo caravat, giày da cá sấu. Ông ta nhìn bà Hai Thoan, chẳng chào hỏi gì. Ông ta nói:

- Nhà ta nắng dột vào trưa...

Thế là từ bấy giờ bà Hai Thoan như người lên đồng, người khách lạ như hớp mất hồn, bà chẳng còn "tỉnh táo, lạnh lùng, dứt điểm" giống như ngày thường, giống như cách bình luận bóng đá trên tivi, giống như cách nói của hai con bé con giúp việc cho bà.

Ông khách nói:

- Tôi muốn thuê phòng trọ. Có được không?

Bà Hai Thoan nói:

- Nhà chỉ có một phòng, một giường. Hiện có hai chú "cửu vạn" người Thái Bình trọ. Ông thuê ban ngày thì được, chứ ban đêm thì các chú ấy về đây ngủ .

Ông ta bảo:

- Tốt! Tôi chỉ ở đây đến tám giờ chiều. Tôi trả bà tiền trọ 100 nghìn, tiền ăn trưa 100 nghìn. Tôi có hai người. Hai hai là bốn. Bốn trăm nghìn. Xong chưa.

Bà Hai Thoan cười, gật gật đầu. Bà nghĩ bụng:

- Chắc lái buôn! Chắc mới "trúng quả"? "sộp" ra "sộp"! Trông cái "cà vạt" kìa, lụa tơ tằm hẳn hoi, đúng là "xịn"!

Bà Hai Thoan ngồi tựa lưng vào vách bán hàng. Chỗ vách thủng, bà đã kín đáo "ngụy trang" bằng một tấm lịch Trung Quốc in hình "Vạn lý trường thành", vì thế dù có ngồi bán hàng nhìn ra đường cái bà vẫn quan sát được trong nhà và trong phòng trọ . Người đàn ông loay hoay ở trong phòng trọ một mình. Ông ta chỉ có mỗi cái cặp số. Chắc đựng tiền. Chắc có nhiều tiền. Bà Hai Thoan thấy ông ta mở khoá cặp ngần ngừ một lát rồi lại khoá lại, lại mở ra, cười một mình, cứ thế mấy lần.

- Năm nay Tết nhất có vẻ "xôm", phải không bà?

Bà Hai Thoan giật mình. Ông khách đã ngồi ở trước mặt bà từ lúc nào, miệng hỏi, mắt lơ đãng trông ra ngoài đường.

- Vâng, Tết nhất năm nay đông vui hơn mọi năm... Bà Hai Thoan trả lời - Ông làm cốc rượu "cuốc lủi", cho nó thơm râu, ông nhá!

- Được, bà cứ rót đi... quang cảnh ở đây vẫn cứ như xưa... Cây thì vẫn đứng thế thôi. Hàng thì bán đứng bán ngồi chen nhau...

- Thì nhà quê mà! - Bà Hai Thoan chép miệng - Sống già cả đời mà chẳng thấy có văn minh gì cả. Ông nên xơi thêm quả trứng luộc, ông ạ...

- Vì người ta đã dìm thuyền...

- Ai dìm thuyền? ông xơi thêm quả trứng luộc nữa, ông nhá...

- Được! Chốc nữa thế nào cũng giông/ Sang đò tôi đến giữa đồng là mưa...

- Chẳng mưa được, ông ạ... mưa suốt từ đầu tháng Chạp đến nay còn gì... Thế ông chờ hàng về hay ông đợi ai?

- Gọi em một tiếng tưởng xong/Không ngờ ai nấp trong lòng trộm nghe...

- Chết! Có trộm à? - Bà Hai Thoan hỏi. Hai con bé con giúp việc cho bà Hai Thoan ôm nhau cười ngặt nghẽo.

Một đứa vừa cười, vừa giải thích cho bà Hai Thoan hiểu:

- Đấy là bác ấy đọc thơ... bà chẳng hiểu gì... cứ tưởng bác ấy nói chuyện...

Bà Hai Thoan cũng cười:

- Không hiểu con mẹ mày! Cái gì mà tao không hiểu... Bà cũng thơ văn chứ! Ông ạ... thế ông bảo ai dìm thuyền? Thế ông bảo ai ăn trộm?

Ông khách lạ nháy mắt với hai con bé con:

- Đời! Rồi thời gian! Bà lão ạ... Đời bạc lắm... Người bạc lắm... Dìm đi hết! Trộm đi hết! Cánh hoa sắc một lưỡi dao/Vì yêu tôi cứ cầm vào như không...

Đứa bé gái giúp việc cho bà Hai Thoan mắt một mí, môi đỏ như thoa son, hỏi ông khách:

- Sao bác cứ lúc lắc đầu , cứ ngoáy tai mãi thế?

Ông khách khổ sở:

- Nó cứ kêu... ở trong tai...

- Cái gì kêu

- Thơ... Khổ thế... Nó cứ kêu trong tai...

Hai con bé con lại cười ngặt nghẽo. Ông khách lạ cũng cười. Bà Hai Thoan cũng cười...

- Cái lão rồ này! Sao lại có thơ bay ở trong lỗ tai như thế? Này ông... Hay là ông bị bệnh xay lúa ? ở Quán Toan có ông Ngọng, lúc nào trong tai cũng ù ù như xay lúa...

- Không... không phải ù ù... Cứ một câu sáu, một câu tám... Đến khổ... Bên nhau sà sã suốt ngày/Vừa đi nửa bước đã đầy nhớ thương... /Cầm lòng bán cái vàng đi/Để mua những thứ nhiều khi không vàng...

- Vẫn thế thôi , ông ạ... Vàng đâu mà nhiều thế? Có mà mạ vàng! Thế ông đợi hàng về hay ông đợi ai mà cứ ngong ngóng từ sáng đến giờ... có lẽ cũng đến quá Ngọ mất rồi còn gì...

- Quá rồi! Quá rồi . . sắp chiều rồi, sắp đêm rồi! - Ông khách rền rĩ - Tôi già rồi, sắp hết đời rồi! Bà lão đoán tôi năm nay bao nhiêu tuổi nàỏ Đến tuổi tôi là tuổi phải mạ vàng tất cả...

- Chịu, ông ạ... Dễ thường ông phải đầu năm?

- Còn các cô bé? Các cô đầu mấỷ

Hai con bé con lại ôm nhau cười ngặt nghẹo:

- Đầu một! Chúng cháu đầu một!

- Đầu một là đầu một ơi . Có chung giọt nước mắt rơi xuống lòng/Đừng buông giọt mắt xuống sông/Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm... /Các cháu ạ, chúng mày chẳng biết gì về thời gian! Cứ cười đi! Đồ nỡm! Đồ giặc cái! Bao giờ cho đến đầu năm rồi mới biết nhau... Thôi đành bầu rượu nắm nem/Nghiêng trời uống cạn để xem chiều tà/ Vẫn còn ngòn ngọt tiếng gà/ Chưa chi tóc đã tà tà sương phai...

Có bóng ai mặc áo hoa đỏ thấp thoáng chen ở giữa chợ . Ông khách nhớn nhác đứng dậy . Hai con bé con dọn đám vỏ trứng luộc cho vào thùng rác . Bà Hai Thoan hỏi:

- Chúng mày đếm xem mấy quả ?

Hai con bé con lại cười ngặt nghẹo:

- Những sáu quả bà ạ!

Bà Hai Thoan lắc đầu:

- Có tuổi mà lại ăn tham như mõ thì cho chết! Tao bán hàng bao nhiêu năm nay, chưa thấy ai ăn sáu quả trứng vịt luộc một lúc bao giờ .

Xế trưa, khách vào hàng của bà Hai Thoan tấp nập . Uống nước, ăn quà... chuyện tầm phào . Giá vàng xuống, từ 480 nghìn đồng một chỉ hạ so với ngày hôm trước 2 nghìn đồng . Bà Hai Thoan mải bán hàng, cũng chẳng để ý ông khách lạ đi đâu... Mãi, nghe tiếng thì thào ở trong phòng trọ, bà mới vén tấm lịch "Vạn lý trường thành" để ngó mắt xem . Trong phòng trọ, ông khách lạ đang ngồi với một cô gái mặc áo hoa đỏ, dáng vẻ nhà quê . Gớm! Cái lão ma bùn này, cũng giai gái ra trò! Để xem họ nói những gì!

- Chờ suốt từ sáng... mỏi cả mắt . Đã bảo ở cổng sau mà lị . Tớ đã định bỏ về... !

- Khổ, ai biết đâu... cứ tưởng người nào thơ văn thì phải "quang minh chính đại" chứ, nếu có chờ thì chờ ở cổng trước chứ sao lại ở cổng saủ Em cứ loay hoay ở cổng trước đến mấy tiếng đồng hồ...

- Đấy là thời thế, giời ạ "Quang minh chính đại" có mà mất xơi... Thế chồng con rồi đằng ấy thế nàỏ

- Cũng bình thường... như người ta thôi... Còn anh, anh vẫn làm thơ đấy chứ...

- Khổ... vẫn không bỏ được cái nghề ấy... Vẫn nhì nhằng, một câu sáu, một câu tám...

- Buồn cười... Hồi nào có anh gì trên Hà Nội bảo anh vốn liếng có 600 từ...

- Làm gì được 600... chỉ có ngót nghét 500... Bí lắm! Hồi nhỏ có được học hành đâu . ít chữ nên phải vất vả hơn người . Cứ xào xáo từng ấy từ, nhiều khi cũng ngượng... thiếu lương thiện...

- Làm thơ cũng giống như đi buôn nhỉ? "Buôn tài không bằng dài vốn"...

- Thôi! không nói chuyện ấy nữa... Thế là mấy năm mới gặp lại nhau . Hồi đưa sang sông bảo đi về quê lấy chồng cũng giáp Tết như thế này đây... Chiều nay Hồ Tây có giông...

- Buồn cười! Cứ như thông báo thời tiết...

- Không phải thông báo thời tiết mà là thông báo thơ... thông báo hoàn cảnh và tâm trạng thơ... Thơ là xúc cảm cá nhân trong một hoàn cảnh, là kinh nghiệm cộng đồng trong một tình huống . Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm... "Ngồi trên sóng" đấy là thơ! Đấy là xúc cảm... là sự tê tái cao nhã, là kinh nghiệm xót xa của một cộng đồng đàn ông đa tình đa cảm . Đại để thế... Cũng "nhặm" lắm! Phiền lắm!

- Ôi dào, chẳng hiểu gì...

- Thì hiểu làm gì. Thế đằng ấy hàng ngày làm những việc gì?

- Nhì nhằng... toàn việc không tên. Làm ruộng. Nuôi lợn... Thả tôm giống... Đầu tắt mặt tối... chẳng như ngày xưa... Lại thằng bé con... gấu lắm... Cũng khổ... Nhưng mà là khổ một bề... Hồi trẻ chưa lấy chồng thì khổ nhiều bề.

- Hồi ấy, đằng ấy cứ như con chim sáo ấy... Bây giờ chim sáo sang sông mất rồi...

- Bây giờ thành mẹ mướp rồi...

- Chưa... vẫn còn giòn lắm. Này! Lên giường đi! Cứ ngồi thế này khó chịu quá...

- Xin anh... em xin anh... Đừng làm như thế... Em có chồng rồi, con sáo đã sang sông rồi...

- Mẹ khỉ! Có chồng càng dễ chơi ngang...

- Không được... Anh là người thơ văn, anh phải biết chứ... Con sáo đã sang sông rồi!

- Hay là tôi già?

- Chết thật! Đừng nói thế... Em kính trọng anh... Em kính trọng ông cơ mà...

- Vứt cái kính trọng của cô đi... Nhưng em đã bỏ đi rồi/Cái mênh mông ấy vừa rơi vừa chìm...

- Không phải bỏ đi... là chuyện phải thế... không xuống âm phủ giời bắt tội cho, khổ lắm...

- Thôi! Không nói nữa! Em bỏ chồng về ở với tôi không?

- Đấy là thơ... làm thế sao được...

- Vứt thơ đi! Em bỏ chồng về ở với tôi không?

- Em lạy anh... Em lạy ông... cho em về nhà. Chiều rồi, tối nay nhà em còn luộc bánh chưng...

- Thế nhất định không lên giường à?

- Không... không được! Không làm thế được!

Bà Hai Thoan cười thầm. Con mẹ này! Gan quá! Có khí tiết đây! Phải! Mày làm thế là phải, con ạ. Không có sợ gì... Thế mới là bậc tiết phụ, nghĩa phụ chứ!

- Hôm nay tôi chết ở chợ Niệm Nghĩa... Có ai đi chôn tôi không... Chỉ mong ngày âý mưa to/Bước chân em có ngại đò đường trơn...

- Sao cứ ác khẩu mãi thế... Anh ơi, anh buông ra đi. Anh phải nhắm mắt lại, phải buông xuôi tay dần đi...

- Thế là phải bạc tình đấy chứ gì? Cô khuyên tôi phải chết chứ gì? Mẹ khỉ! Mười năm tỉnh giấc Dương Châu /Nổi tiếng làng chơi khách bạc đầu... Thôi! Bai bai! Cầu chúc cho em mọi sự tốt lành... Này! Cầm lấy ít tiền. Khi mê tiền chỉ là tiền/Ngộ rồi mới biết trong có tiền có tâm (2)

- Thôi... sao nhiều thế...

- Cứ cầm lấy... Thế là đưa sáo sang sông... Đi đi... cút đi... Xéo đi! Xéo về với trật tự đạo lý của các người đi! Rồi cô sẽ phải khóc trong sung sướng cho mà xem!

- Em xin anh... xin ông...

- Xéo đi ra khỏi mắt ta... Về với tổ ấm của mi đi! Thưa các ông, thưa các bà... Chúng ta trằn trọc trên cái giường bổn phận của chúng ta. Chúng ta ca hát, làm thơ trên ấy... Cao thượng cái nỗi gì... Ta đã tóm được mi rồi, hôm nay, trong căn phòng trọ tồi tàn ở một nơi chốn hẻo lánh, nhơ nhuốc này... Em ơi, may mà em ít chữ và ngu dốt... Ta cũng ít chữ và ngu dốt chẳng kém gì em... Nếu không, hôm nay ở đây sẽ phải xảy ra một án mạng...

Ông khách nằm vật xuống giường, sùi cả bọt mép như thể động kinh. Người con gái mặc áo hoa ngồi nép một chỗ sợ hãi, tay cầm món tiền rấm rứt khóc.

- Những giọt nước mắt ấy sẽ làm cho con già đi trước tuổi mất thôi, con ơi - Bà Hai Thoan nghĩ - Con ạ, con cứ khóc đi... Đàn bà chúng ta làm gì an ủi được bọn đàn ông mông muội này

Ông khách đã ngồi nhỏm dậy:

- Nào! Về đi chứ? Về với tổ ấm của cô đi chứ... Con sáo sang sông, con sáo sổ lồng, con sáo bay xa...

- Em xin ông... Hay là em lên giường bây giờ một lúc... Để em cởi áo ra vậy...

- Không... Em đừng làm thế... Em hiểu sai tôi mất rồi... Thi nhân... Người thơ... Một thi nhân sa đà ngày tháng (3). Em đi đi hãy giữ gìn mình! Em đi đi, nếu không tôi sẽ đập đầu vào cột cho xem...

Ông khách đẩy cô gái ra khỏi cửa một cách khá thô bạo. Bà Hai Thoan ngậm ngùi nhìn người thiếu nữ mới có một con mà tóc đã bơ phờ, hông và chân đã lệch cả đi vì phải làm quá nhiều việc nặng. Tội nghiệp. Bóng áo hoa phấp phới ở trong chiều mưa rét. Cô gái đi về phía bến sông, bước thấp bước cao, vừa đi vừa ngoái đầu lại mà mắt ướt nhoè.

Bà Hai Thoan gọi hai con bé con giúp việc lại bảo:

- Chúng mày cầm hộp mứt Tết đuổi theo cái cô mặc áo hoa kia đưa cho cô ta tận tay cho bà.

Đứa bé con mắt một mí, môi đỏ cứ như thoa son, hỏi xỏ bà lão:

- Đưa cho hộp mứt rồi lấy tiền một cách "tỉnh táo, lạnh lùng, dứt điểm", phải không bà?

Bà Hai Thoan cười:

- Mẹ cha mày! Ranh con! Đây là quà của bà cho khách đa tình đấy, con ạ... ! Chúng mày có hiểu gì đâu!

Hai đứa bé con dắt tay nhau, vừa cười ngặt nghẹo, vừa đuổi theo cô gái về phía vệ đê. Bà Hai Thoan quay vào phòng trọ. Ông khách lạ đã bỏ đi từ lâu rồi, có mỗi cái cặp số vứt lại. Bà Hai Thoan mở cặp, thấy trong ấy có một đôi quần lót phụ nữ để trong hộp giấy bóng kính loại 30 nghìn đồng một đôi, hàng chợ của Thái Lan mới nhập vào trước Tết ít ngày.

- Chắc cái lão ma bùn này định làm quà nhưng quên mất - Bà Hai Thoan cười độ lượng - Thôi thế là hai đứa bé con giúp việc cho bà cũng có quà Tết rồi đây...

Bà Hai Thoan quay ra dọn nhà. Bà đã ở độc thân trên bến sông này ở chỗ chợ quê này bao nhiều năm rồi. Bao nhiêu nước sông đã chảy, bao nhiêu người đã qua đây.

Phải! Bao nhiêu nước sông đã chảy, bao nhiêu người đã qua đây! Đã bao nhiêu xuân về! Mà Tết nào cũng vui như Tết... Lẻ loi ấy một cánh chim/ Viết câu thơ để sống nghìn năm sau/Mải mê tính chuyện không đâu/Gió thương tình đội lên đầu vầng trăng...

Ngoài sông gió xuân thổi. Kìa gió xuân thổi bơ phờ trên mặt sông xanh là xanh?

Hà Nội, 1999

Ghi chú:

(1) Tất cả những câu thơ trong truyện này đều là mượn của Đồng Đức Bốn .

(2) Thơ Nguyễn Bảo Sinh: 'Khi mê bùn chỉ là bùn /Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen /Khi mê tiền chỉ là tiền/Ngộ rồi mới biết trong tiền có tâm"

(3) Thơ Vũ Toàn: "Một thi nhân sa đà ngày tháng/Thấy xuân về lai láng hồn thơ..." Bà Hai Thoan bán nước, lại thêm cả nghề chứa trọ ở cổng sau chợ Niệm. Chợ Niệm đây là chợ Niệm Nghĩa, nằm ở bên sông Cửa Cấm. Chợ Niệm Nghĩa trước chỉ họp mỗi tháng bốn phiên, nhưng gần đây hàng buôn lậu Trung Quốc sang nhiều nên cũng họp lung tung thất thường. Giáp Tết, chợ ngày nào cũng họp. Phiên sáng, phiên chiều... nếu có tàu trở hàng lậu về đêm thì thêm cả phiên tối. Không có điện thì có máy nổ phát điện, điện giăng như sao sa . . . Trên bến, dưới thuyền, mua mua, bán bán, này anh, này chị, này chú, này cô, "hảo lớ"... hàng Đài Loan, hàng Hồng Kông, hàng Trung Hoa lục địa, hàng Nhật Bản, hàng Sài Gòn... "thượng vàng hạ cám" chẳng thiếu thứ gì . Bà Hai Thoan mắt kém, hơi lãng tai nhưng được cái khoẻ mạnh. Bà ngồi một chỗ bán nước nhưng dưới "trướng" của bà có hai con bé con giúp việc lúc nào cũng nhanh thoăn thoắt làm đủ mọi việc trên đời, đâu ra đấy, không chê vào đâu được . Giáp Tết, trời chuyển gió bấc, mưa phùn, rét như cắt ruột. Mưa suốt từ đầu tháng Chạp đến 27 Tết. Sáng 27 Tết nắng ấm dần lên. Hàng về nhiều. Chưa bao giờ chợ Niệm đông như phiên hôm 27 Tết năm ấy. Bà Hai Thoan ngủ dậy, vừa mở cửa hàng thì người đàn ông ấy đến. Ông ta vừa bước vào thì mọi đồ vật trong nhà như ríu cả lên: cái chổi để ở góc nhà tự dưng ngã vật ra, chiếc đồng hồ báo thức hỏng đã nửa năm nay bỗng dưng đổ chuông ầm ĩ, chiếc đèn dầu hở ống muống bỗng cháy đùng đùng... Người ấy như người từ thời thượng cổ bước ra: thô nhám, đơn sơ, rất cồng kềnh. Ông ta mặc áo da, cổ đeo caravat, giày da cá sấu. Ông ta nhìn bà Hai Thoan, chẳng chào hỏi gì. Ông ta nói: - Nhà ta nắng dột vào trưa... Thế là từ bấy giờ bà Hai Thoan như người lên đồng, người khách lạ như hớp mất hồn, bà chẳng còn "tỉnh táo, lạnh lùng, dứt điểm" giống như ngày thường, giống như cách bình luận bóng đá trên tivi, giống như cách nói của hai con bé con giúp việc cho bà. Ông khách nói: - Tôi muốn thuê phòng trọ. Có được không? Bà Hai Thoan nói: - Nhà chỉ có một phòng, một giường. Hiện có hai chú "cửu vạn" người Thái Bình trọ. Ông thuê ban ngày thì được, chứ ban đêm thì các chú ấy về đây ngủ . Ông ta bảo: - Tốt! Tôi chỉ ở đây đến tám giờ chiều. Tôi trả bà tiền trọ 100 nghìn, tiền ăn trưa 100 nghìn. Tôi có hai người. Hai hai là bốn. Bốn trăm nghìn. Xong chưa. Bà Hai Thoan cười, gật gật đầu. Bà nghĩ bụng: - Chắc lái buôn! Chắc mới "trúng quả"? "sộp" ra "sộp"! Trông cái "cà vạt" kìa, lụa tơ tằm hẳn hoi, đúng là "xịn"! Bà Hai Thoan ngồi tựa lưng vào vách bán hàng. Chỗ vách thủng, bà đã kín đáo "ngụy trang" bằng một tấm lịch Trung Quốc in hình "Vạn lý trường thành", vì thế dù có ngồi bán hàng nhìn ra đường cái bà vẫn quan sát được trong nhà và trong phòng trọ . Người đàn ông loay hoay ở trong phòng trọ một mình. Ông ta chỉ có mỗi cái cặp số. Chắc đựng tiền. Chắc có nhiều tiền. Bà Hai Thoan thấy ông ta mở khoá cặp ngần ngừ một lát rồi lại khoá lại, lại mở ra, cười một mình, cứ thế mấy lần. - Năm nay Tết nhất có vẻ "xôm", phải không bà? Bà Hai Thoan giật mình. Ông khách đã ngồi ở trước mặt bà từ lúc nào, miệng hỏi, mắt lơ đãng trông ra ngoài đường. - Vâng, Tết nhất năm nay đông vui hơn mọi năm... Bà Hai Thoan trả lời - Ông làm cốc rượu "cuốc lủi", cho nó thơm râu, ông nhá! - Được, bà cứ rót đi... quang cảnh ở đây vẫn cứ như xưa... Cây thì vẫn đứng thế thôi. Hàng thì bán đứng bán ngồi chen nhau... - Thì nhà quê mà! - Bà Hai Thoan chép miệng - Sống già cả đời mà chẳng thấy có văn minh gì cả. Ông nên xơi thêm quả trứng luộc, ông ạ... - Vì người ta đã dìm thuyền... - Ai dìm thuyền? ông xơi thêm quả trứng luộc nữa, ông nhá... - Được! Chốc nữa thế nào cũng giông/ Sang đò tôi đến giữa đồng là mưa... - Chẳng mưa được, ông ạ... mưa suốt từ đầu tháng Chạp đến nay còn gì... Thế ông chờ hàng về hay ông đợi ai? - Gọi em một tiếng tưởng xong/Không ngờ ai nấp trong lòng trộm nghe... - Chết! Có trộm à? - Bà Hai Thoan hỏi. Hai con bé con giúp việc cho bà Hai Thoan ôm nhau cười ngặt nghẽo. Một đứa vừa cười, vừa giải thích cho bà Hai Thoan hiểu: - Đấy là bác ấy đọc thơ... bà chẳng hiểu gì... cứ tưởng bác ấy nói chuyện... Bà Hai Thoan cũng cười: - Không hiểu con mẹ mày! Cái gì mà tao không hiểu... Bà cũng thơ văn chứ! Ông ạ... thế ông bảo ai dìm thuyền? Thế ông bảo ai ăn trộm? Ông khách lạ nháy mắt với hai con bé con: - Đời! Rồi thời gian! Bà lão ạ... Đời bạc lắm... Người bạc lắm... Dìm đi hết! Trộm đi hết! Cánh hoa sắc một lưỡi dao/Vì yêu tôi cứ cầm vào như không... Đứa bé gái giúp việc cho bà Hai Thoan mắt một mí, môi đỏ như thoa son, hỏi ông khách: - Sao bác cứ lúc lắc đầu , cứ ngoáy tai mãi thế? Ông khách khổ sở: - Nó cứ kêu... ở trong tai... - Cái gì kêu - Thơ... Khổ thế... Nó cứ kêu trong tai... Hai con bé con lại cười ngặt nghẽo. Ông khách lạ cũng cười. Bà Hai Thoan cũng cười... - Cái lão rồ này! Sao lại có thơ bay ở trong lỗ tai như thế? Này ông... Hay là ông bị bệnh xay lúa ? ở Quán Toan có ông Ngọng, lúc nào trong tai cũng ù ù như xay lúa... - Không... không phải ù ù... Cứ một câu sáu, một câu tám... Đến khổ... Bên nhau sà sã suốt ngày/Vừa đi nửa bước đã đầy nhớ thương... /Cầm lòng bán cái vàng đi/Để mua những thứ nhiều khi không vàng... - Vẫn thế thôi , ông ạ... Vàng đâu mà nhiều thế? Có mà mạ vàng! Thế ông đợi hàng về hay ông đợi ai mà cứ ngong ngóng từ sáng đến giờ... có lẽ cũng đến quá Ngọ mất rồi còn gì... - Quá rồi! Quá rồi . . sắp chiều rồi, sắp đêm rồi! - Ông khách rền rĩ - Tôi già rồi, sắp hết đời rồi! Bà lão đoán tôi năm nay bao nhiêu tuổi nàỏ Đến tuổi tôi là tuổi phải mạ vàng tất cả... - Chịu, ông ạ... Dễ thường ông phải đầu năm? - Còn các cô bé? Các cô đầu mấỷ Hai con bé con lại ôm nhau cười ngặt nghẹo: - Đầu một! Chúng cháu đầu một! - Đầu một là đầu một ơi . Có chung giọt nước mắt rơi xuống lòng/Đừng buông giọt mắt xuống sông/Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm... /Các cháu ạ, chúng mày chẳng biết gì về thời gian! Cứ cười đi! Đồ nỡm! Đồ giặc cái! Bao giờ cho đến đầu năm rồi mới biết nhau... Thôi đành bầu rượu nắm nem/Nghiêng trời uống cạn để xem chiều tà/ Vẫn còn ngòn ngọt tiếng gà/ Chưa chi tóc đã tà tà sương phai... Có bóng ai mặc áo hoa đỏ thấp thoáng chen ở giữa chợ . Ông khách nhớn nhác đứng dậy . Hai con bé con dọn đám vỏ trứng luộc cho vào thùng rác . Bà Hai Thoan hỏi: - Chúng mày đếm xem mấy quả ? Hai con bé con lại cười ngặt nghẹo: - Những sáu quả bà ạ! Bà Hai Thoan lắc đầu: - Có tuổi mà lại ăn tham như mõ thì cho chết! Tao bán hàng bao nhiêu năm nay, chưa thấy ai ăn sáu quả trứng vịt luộc một lúc bao giờ . Xế trưa, khách vào hàng của bà Hai Thoan tấp nập . Uống nước, ăn quà... chuyện tầm phào . Giá vàng xuống, từ 480 nghìn đồng một chỉ hạ so với ngày hôm trước 2 nghìn đồng . Bà Hai Thoan mải bán hàng, cũng chẳng để ý ông khách lạ đi đâu... Mãi, nghe tiếng thì thào ở trong phòng trọ, bà mới vén tấm lịch "Vạn lý trường thành" để ngó mắt xem . Trong phòng trọ, ông khách lạ đang ngồi với một cô gái mặc áo hoa đỏ, dáng vẻ nhà quê . Gớm! Cái lão ma bùn này, cũng giai gái ra trò! Để xem họ nói những gì! - Chờ suốt từ sáng... mỏi cả mắt . Đã bảo ở cổng sau mà lị . Tớ đã định bỏ về... ! - Khổ, ai biết đâu... cứ tưởng người nào thơ văn thì phải "quang minh chính đại" chứ, nếu có chờ thì chờ ở cổng trước chứ sao lại ở cổng saủ Em cứ loay hoay ở cổng trước đến mấy tiếng đồng hồ... - Đấy là thời thế, giời ạ "Quang minh chính đại" có mà mất xơi... Thế chồng con rồi đằng ấy thế nàỏ - Cũng bình thường... như người ta thôi... Còn anh, anh vẫn làm thơ đấy chứ... - Khổ... vẫn không bỏ được cái nghề ấy... Vẫn nhì nhằng, một câu sáu, một câu tám... - Buồn cười... Hồi nào có anh gì trên Hà Nội bảo anh vốn liếng có 600 từ... - Làm gì được 600... chỉ có ngót nghét 500... Bí lắm! Hồi nhỏ có được học hành đâu . ít chữ nên phải vất vả hơn người . Cứ xào xáo từng ấy từ, nhiều khi cũng ngượng... thiếu lương thiện... - Làm thơ cũng giống như đi buôn nhỉ? "Buôn tài không bằng dài vốn"... - Thôi! không nói chuyện ấy nữa... Thế là mấy năm mới gặp lại nhau . Hồi đưa sang sông bảo đi về quê lấy chồng cũng giáp Tết như thế này đây... Chiều nay Hồ Tây có giông... - Buồn cười! Cứ như thông báo thời tiết... - Không phải thông báo thời tiết mà là thông báo thơ... thông báo hoàn cảnh và tâm trạng thơ... Thơ là xúc cảm cá nhân trong một hoàn cảnh, là kinh nghiệm cộng đồng trong một tình huống . Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm... "Ngồi trên sóng" đấy là thơ! Đấy là xúc cảm... là sự tê tái cao nhã, là kinh nghiệm xót xa của một cộng đồng đàn ông đa tình đa cảm . Đại để thế... Cũng "nhặm" lắm! Phiền lắm! - Ôi dào, chẳng hiểu gì... - Thì hiểu làm gì. Thế đằng ấy hàng ngày làm những việc gì? - Nhì nhằng... toàn việc không tên. Làm ruộng. Nuôi lợn... Thả tôm giống... Đầu tắt mặt tối... chẳng như ngày xưa... Lại thằng bé con... gấu lắm... Cũng khổ... Nhưng mà là khổ một bề... Hồi trẻ chưa lấy chồng thì khổ nhiều bề. - Hồi ấy, đằng ấy cứ như con chim sáo ấy... Bây giờ chim sáo sang sông mất rồi... - Bây giờ thành mẹ mướp rồi... - Chưa... vẫn còn giòn lắm. Này! Lên giường đi! Cứ ngồi thế này khó chịu quá... - Xin anh... em xin anh... Đừng làm như thế... Em có chồng rồi, con sáo đã sang sông rồi... - Mẹ khỉ! Có chồng càng dễ chơi ngang... - Không được... Anh là người thơ văn, anh phải biết chứ... Con sáo đã sang sông rồi! - Hay là tôi già? - Chết thật! Đừng nói thế... Em kính trọng anh... Em kính trọng ông cơ mà... - Vứt cái kính trọng của cô đi... Nhưng em đã bỏ đi rồi/Cái mênh mông ấy vừa rơi vừa chìm... - Không phải bỏ đi... là chuyện phải thế... không xuống âm phủ giời bắt tội cho, khổ lắm... - Thôi! Không nói nữa! Em bỏ chồng về ở với tôi không? - Đấy là thơ... làm thế sao được... - Vứt thơ đi! Em bỏ chồng về ở với tôi không? - Em lạy anh... Em lạy ông... cho em về nhà. Chiều rồi, tối nay nhà em còn luộc bánh chưng... - Thế nhất định không lên giường à? - Không... không được! Không làm thế được! Bà Hai Thoan cười thầm. Con mẹ này! Gan quá! Có khí tiết đây! Phải! Mày làm thế là phải, con ạ. Không có sợ gì... Thế mới là bậc tiết phụ, nghĩa phụ chứ! - Hôm nay tôi chết ở chợ Niệm Nghĩa... Có ai đi chôn tôi không... Chỉ mong ngày âý mưa to/Bước chân em có ngại đò đường trơn... - Sao cứ ác khẩu mãi thế... Anh ơi, anh buông ra đi. Anh phải nhắm mắt lại, phải buông xuôi tay dần đi... - Thế là phải bạc tình đấy chứ gì? Cô khuyên tôi phải chết chứ gì? Mẹ khỉ! Mười năm tỉnh giấc Dương Châu /Nổi tiếng làng chơi khách bạc đầu... Thôi! Bai bai! Cầu chúc cho em mọi sự tốt lành... Này! Cầm lấy ít tiền. Khi mê tiền chỉ là tiền/Ngộ rồi mới biết trong có tiền có tâm (2) - Thôi... sao nhiều thế... - Cứ cầm lấy... Thế là đưa sáo sang sông... Đi đi... cút đi... Xéo đi! Xéo về với trật tự đạo lý của các người đi! Rồi cô sẽ phải khóc trong sung sướng cho mà xem! - Em xin anh... xin ông... - Xéo đi ra khỏi mắt ta... Về với tổ ấm của mi đi! Thưa các ông, thưa các bà... Chúng ta trằn trọc trên cái giường bổn phận của chúng ta. Chúng ta ca hát, làm thơ trên ấy... Cao thượng cái nỗi gì... Ta đã tóm được mi rồi, hôm nay, trong căn phòng trọ tồi tàn ở một nơi chốn hẻo lánh, nhơ nhuốc này... Em ơi, may mà em ít chữ và ngu dốt... Ta cũng ít chữ và ngu dốt chẳng kém gì em... Nếu không, hôm nay ở đây sẽ phải xảy ra một án mạng... Ông khách nằm vật xuống giường, sùi cả bọt mép như thể động kinh. Người con gái mặc áo hoa ngồi nép một chỗ sợ hãi, tay cầm món tiền rấm rứt khóc. - Những giọt nước mắt ấy sẽ làm cho con già đi trước tuổi mất thôi, con ơi - Bà Hai Thoan nghĩ - Con ạ, con cứ khóc đi... Đàn bà chúng ta làm gì an ủi được bọn đàn ông mông muội này Ông khách đã ngồi nhỏm dậy: - Nào! Về đi chứ? Về với tổ ấm của cô đi chứ... Con sáo sang sông, con sáo sổ lồng, con sáo bay xa... - Em xin ông... Hay là em lên giường bây giờ một lúc... Để em cởi áo ra vậy... - Không... Em đừng làm thế... Em hiểu sai tôi mất rồi... Thi nhân... Người thơ... Một thi nhân sa đà ngày tháng (3). Em đi đi hãy giữ gìn mình! Em đi đi, nếu không tôi sẽ đập đầu vào cột cho xem... Ông khách đẩy cô gái ra khỏi cửa một cách khá thô bạo. Bà Hai Thoan ngậm ngùi nhìn người thiếu nữ mới có một con mà tóc đã bơ phờ, hông và chân đã lệch cả đi vì phải làm quá nhiều việc nặng. Tội nghiệp. Bóng áo hoa phấp phới ở trong chiều mưa rét. Cô gái đi về phía bến sông, bước thấp bước cao, vừa đi vừa ngoái đầu lại mà mắt ướt nhoè. Bà Hai Thoan gọi hai con bé con giúp việc lại bảo: - Chúng mày cầm hộp mứt Tết đuổi theo cái cô mặc áo hoa kia đưa cho cô ta tận tay cho bà. Đứa bé con mắt một mí, môi đỏ cứ như thoa son, hỏi xỏ bà lão: - Đưa cho hộp mứt rồi lấy tiền một cách "tỉnh táo, lạnh lùng, dứt điểm", phải không bà? Bà Hai Thoan cười: - Mẹ cha mày! Ranh con! Đây là quà của bà cho khách đa tình đấy, con ạ... ! Chúng mày có hiểu gì đâu! Hai đứa bé con dắt tay nhau, vừa cười ngặt nghẹo, vừa đuổi theo cô gái về phía vệ đê. Bà Hai Thoan quay vào phòng trọ. Ông khách lạ đã bỏ đi từ lâu rồi, có mỗi cái cặp số vứt lại. Bà Hai Thoan mở cặp, thấy trong ấy có một đôi quần lót phụ nữ để trong hộp giấy bóng kính loại 30 nghìn đồng một đôi, hàng chợ của Thái Lan mới nhập vào trước Tết ít ngày. - Chắc cái lão ma bùn này định làm quà nhưng quên mất - Bà Hai Thoan cười độ lượng - Thôi thế là hai đứa bé con giúp việc cho bà cũng có quà Tết rồi đây... Bà Hai Thoan quay ra dọn nhà. Bà đã ở độc thân trên bến sông này ở chỗ chợ quê này bao nhiều năm rồi. Bao nhiêu nước sông đã chảy, bao nhiêu người đã qua đây. Phải! Bao nhiêu nước sông đã chảy, bao nhiêu người đã qua đây! Đã bao nhiêu xuân về! Mà Tết nào cũng vui như Tết...

Con gái thuỷ thần

Cái tình chi Mượn màu son phấn ra đi... (Lời hát cổ)

Chuyện thứ nhất Chắc nhiều người còn nhớ bận bão mùa hè năm 1956. Trận bão ấy, ở bãi Nổi trên sông Cái, sét đánh cụt ngọn cây muỗm đại thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long quấn chặt lấy nhau vẫy vùng làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm, có một đứa bé mới sinh đang nằm. Đứa bé ấy là con thuỷ thần để lại. Dân trong vùng gọi đứa bé ấy là Mẹ Cả. Ai nuôi Mẹ Cả, tôi không biết, nghe phong phanh trong từ đền Tía đón về nuôi. Lại đồn thím Mòng trên phố chợ đón về nuôi. Lại đồn các xơ trong nhà tu kín đón về, đặt tên thánh cho Mẹ Cả là Gianna Đoàn Thị Phượng. Chuyện Mẹ Cả ám ảnh tôi suốt thời niên thiếu. Một bận, mẹ tôi đi chợ Xuôi về, kể chuyện Mẹ Cả cứu hai cha con ông Hội bên Đoài Hạ. Ông Hội làm nhà, mang đứa con gái tám tuổi đi đào cát. Hố cát khoét hàm ếch, sụt xuống, vùi lấp cả hai cha con. Mẹ Cả đang bơi trên sông, trông thấy, hoá phép thành con rái cá ra sức đào bới cứu được hai người. Một lần, ông Tư Chung đào giếng bảo đào được cái trống đồng. Phòng văn hoá huyện về xin mang trống đi. Khi qua sông, tự dưng sấm chớp đùng đùng, sóng gió lớn cộn lên. Mẹ Cả bơi trên sông bảo: “Vứt trống xuống đây. Thuyền chòng chành sắp ụp, mọi người đành vứt trống xuống cho Mẹ Cả. Mẹ Cả ngồi trên mặt trống đánh thùng thùng. Thế là sấm tan mưa tạnh. Mẹ Cả ôm trống lặn xuống đáy sông. Chuyện Mẹ Cả lung tung lắm, nửa hư nửa thực. Tuổi thơ của tôi u buồn và bề bộn việc, mà việc nào cũng vất vả cả, tôi chẳng có thì giờ để ý đến chuyện người dưng. Nhà tôi làm ruộng, đào đá ong và làm thêm nghề lột giang đan mũ. Làm ruộng chẳng nói ai cũng biết rồi, chẳng dễ dàng gì. Mười bốn tuổi, tôi là thợ cày chủ lực trong hợp tác xã. Bốn giờ sáng, ông đội trưởng đội cày gọi cổng: “Chương ơi, hôm nay cày chân ruộng Gò mả nguỵ nhé!” Thế là tôi bổ dậy, ăn vội ăn vàng bát cơm nguội rồi đi. Trời còn tối, chuột đồng chạy rào rào trong các vạt ngô ven bãi. Tôi nửa thức nửa ngủ, chân nam đá chân chiêu, cứ nhằm phía quầng sáng điện thị xã mà đánh trâu đi. Chân ruộng Gò mả nguỵ ở đó. Đây là chân ruộng xấu nhất cánh đồng, đất cằn bạc phếch bạc phơ, thỉnh thoảng lại có đá ngầm. Tôi cày một mạch đến trưa, thấy đứng bóng thì tháo trâu về. Mẹ tôi bảo: “Chương ơi, ông Nhiêu dặn đá ong nhà mình tháng này thiếu tám chục viên, hôm trước bố con mới nộp hơn bốn trăm viên”. Tôi vác thuổng đi lên đồi Sậy. Đá ong đồi Sậy thường chỉ đào được sáu lớp thì hết một vỉa, đến lớp đất thịt. Đá ong chỉ đào được những hôm nắng. Hôm mưa thì bùn nhão nhoét, đỏ cành cạch, đá bở. Thường một buổi chiều cật lực, tôi đào được hai chục viên. Ông Nhiêu đi qua khen: “Có nghề lắm. Ngày xưa tao đào có lần xắn mẹ phải ngón chân cái”. Ông chìa bàn chân đi dép cao su cho tôi nhìn thấy ngón chân bị cụt. Chân của ông Nhiêu là chân Giao Chỉ, ngón cái không thẳng mà toẽ hẳn ra. Chân này chắc chẳng giầy nào vừa được . Buổi tối, tôi ngồi lột nan. Giang mua của cánh lái bè, về cạo ra, chặt bỏ mấu, pha nhỏ, cho vào nồi luộc. Sau đó phải hấp diêm sinh, mang đi phơi khô, bó lại gác lên nóc nhà. Khi làm thì ngâm vài ngày rồi lấy dao lột. Lột giang phải thật cẩn thận, lột bằng thứ dao đặt ở thợ rèn, lưỡi mỏng dính, đứt tay như chơi. Khi lột, lòng, cật để riêng, sau đó tách thành từng sợi đều đặn thuê trẻ con đan. Mỗi cuộn là hai chục mét, bán cho nhà có máy khâu may mũ. Mẹ tôi bảo: “Nghề này chẳng giàu được đâu nhưng mà có việc quanh năm để trẻ khỏi nghịch”. Những đứa em tôi, bốn tuổi đã biết đan rồi, tay cứ nhoay nhoáy suốt ngày, đi đâu cũng có bó nan cắp nách. Gà gáy canh ba tôi mới đi ngủ. Một ngày đầy ắp công việc. Giấc ngủ kéo đến. Hình ảnh Mẹ Cả chen vào giấc ngủ ở một khe hở nào đó rất nhỏ, không phải thường xuyên, tôi không chắc một năm đã được một lần. Một dạo ông Hai Thìn bấy giờ lên chức chủ nhiệm hợp tác xã bảo tôi: “Chương này, trai tráng trong làng đi bộ đội cả, mày thật thà, tao tính rút mày lên làm kế toán, nhưng mày trình độ văn hoá kém quá, thôi mày làm ban kiểm tra với bảo vệ vậy”. Tôi hỏi: “Làm ban kiểm tra thì phải làm gì? Làm bảo vệ thì phải làm gì?” Ông Hai Thìn bảo: “Ban kiểm tra là xem chúng tao có ăn bớt ăn xén gì không thì mách ông Phượng bí thư xã biết. Làm bảo vệ thì hợp tác xã có bãi mía đấy, quân bãi Nổi cứ đến ăn trộm, mày vác súng ra, thấy đứa nào ăn trộm thì bắn chỉ thiên cho chúng nó sợ”. Tôi bảo “Ban kiểm tra cháu chẳng làm đâu, hay gì chuyện mách lẻo. Cháu làm bảo vệ”. Bãi mía ven sông rộng vài chục mẫu, gác cũng khó. Tôi làm một cái chòi, lên đấy nằm đọc truỵên. Đọc chẳng vào. Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Có lần mơ thấy đi cày, cày hết chân ruộng Gò mả nguỵ thì đến thị xã, cứ cày mãi, dân thị xã phải dắt nhau chạy. Có lần mơ thấy đào đá ong, xắn phải ngón chân cái, một lúc sau ngón chân lại tự mọc ra, lại xắn phải lần nữa, cứ thế vài chục lần, lần nào cũng đau lắm. Lại có lần mơ thấy lột giang, dao cứa đứt cả ngón tay, khi ăn cơm phải vục mặt xuống như chó. Đại để giấc mơ của tôi là thế, toàn những việc làm hàng ngày, chẳng ra gì cả. Đấy là tôi nghèo tưởng tượng, sau này khôn lớn tôi mới hiểu ra, chứ lúc ấy, mười sáu tuổi tôi có biết gì. Một buổi, trăng rất sáng, tôi nhớ đận ấy vào dịp tháng bẩy, tôi đi gác quanh bãi mía. ánh trăng soi rõ mồn một, trông thấy cả những rễ mía trông hơi giống đầu rễ si đâm tua tủa ở các đốt cây. Rặng mía hắt bóng thẫm đen chạy dài trên mặt cát đã bị gió là cho khô se đi nên rất mịn. Thỉnh thoảng, gió đùa rào rào, trong bãi mía nghe lạnh cả người . Tôi nghe thấy tiếng mía đổ, chạy ra, thấy mía nằm ngổn ngang trên cát, trông xót lắm. Tôi điên người, bắn một phát súng chỉ thiên. Năm, sáu đứa trẻ con trần truồng chạy ào ra. Một đứa con gái chừng mười hai tuổi có vẻ như tên cầm đầu còn kéo theo cả một cây mía chạy. Tôi gào lên: “Đứng lại!” bọn chúng hoảng hốt lao xuống nước, cuống cuồng bơi về phía bãi Nổi. Tôi vứt súng, cởi quần áo, cũng nhảy xuống sông. Tôi quyết bắt cho được một đứa. Bắt được một đứa sẽ truy cả bọn, công an vẫn thường làm thế. Đứa con gái kéo cây mía bơi tách ra, đạp nước loạn xạ, có vẻ như không biết bơi, lại bơi ngược dòng nên rất chậm. Tôi bơi đuổi theo. Nó quay lại nhìn tôi lè lưỡi ra, rất tinh nghịch. Tôi bơi chặn đầu, con bé té nước vào mặt tôi. Tôi lặn xuống nước, ước lượng khoảng cách để tóm chân nó. Con bé vùng thoát được. Cứ thế mãi. Con bé bơi ở phía trước, lúc nào cũng giữ khoảng cách không xa với tôi. Tới gần nửa tiếng đồng hồ trôi qua mà tôi không bắt được nó. Tôi bỗng hiểu ra đối thủ của tôi rất sành sông nước, bắt được không phải chuyện đùa. Con bé lỡm tôi để cho bọn kia trốn thoát. Con bé vừa bơi vừa trêu. Tôi tức lắm, đập nước sải cánh đuổi theo. Con bé cười khanh khách, bơi nhanh ra giữa tim sông. Nó bảo tôi: “Quay về đi, không mất súng thì chết!” Tôi giật mình, thấy nó nói đúng. Con bé bảo tôi: “Mày không bắt được tao đâu, bắt thế nào được Mẹ Cả!” Tôi hoảng hốt, dựng cả tóc gáy. Chẳng lẽ đây là con gái thuỷ thần! Nước tạt cả vào mặt tôi ướt sũng. Tôi thoáng thấy tấm lưng trần dẻo dai loáng nước quẫy ở trước mặt, loang loáng dưới trăng, thật kinh dị, nhưng đẹp lắm. Thoắt nhiên, tất cả biến mất, tôi bỗng trơ ra giữa dòng sông vắng mênh mông. Tất cả như chẳng hề xẩy ra chuyện gì. Dòng sông vẫn cứ như thế từ lâu lắm rồi, từ hôm qua, hôm kia, từ năm trăm năm trước. Tôi thấy ngượng ngùng. Nửa đêm, tự dưng lại đi trần truồng bơi ở trên sông, khua khoắng lên, mà vì cái gì cơ chứ! Dăm cây mía có đáng là bao? Khi thu hoạch, hợp tác xã vứt đi hàng đống. Hoặc mùa nước, chỉ một trận lụt là vứt đi hàng mẫu là thường. Tôi bỗng thấy buồn, mặc kệ dòng nước đẩy dạt vào bờ. Hoá ra chẳng phải mất nhiều, chỉ vài ba cây. Tôi ngồi xuống bẻ một dóng mía ăn. Mía nhạt thếch. Tôi vứt dóng mía rồi trở về chòi, nằm thao thức đến sáng. Tôi cố nhớ lại khuôn mặt Mẹ Cả mà không nhớ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt quen, tựa như mặt bà Hai Khởi vừa trông vừa to, mũi trông như vỏ cam sần, hoặc như mặt chị Vĩnh, dài, mà tai tái như dái trâu, như mặt cô Hỷ, đỏ như tôm luộc, mặt anh Dư, xương hàm bạnh ra như mặt ngựa. Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ. Tôi tìm một mảnh gương vỡ soi thử mặt mình. Mảnh gương bé quá, không rõ hết mặt. Chỉ thấy trong gương một đôi mắt đờ dại nhìn mình như mắt tượng gỗ trên chùa. Cuối năm ấy, tôi rút khỏi chân bảo vệ, chuyển sang đội thuỷ lợi. “Nhất thổ, nhì mộc”, công việc xắn mai bốc đất vất vả nhưng tôi sức trẻ nên cứ phăng phăng. Bẵng đi ba năm, hơn nghìn ngày.Kể đất tôi vác có khi đắp được một trái núi con. Thế nhưng quê tôi nào đâu có núi non gì, chỉ bằng phẳng những cánh đồng cằn, những con mương chạy ngang dọc khắp chốn cùng nơi mà đất vẫn khô nẻ. Năm 1975, đấy là một năm đáng để quan sát ghi nhớ. Quê tôi mở hội rất to. Thi bơi chải trên sông, thi vật, đội văn công tỉnh về biểu diễn. Các đô vật ở Đoài Hạ thắng đậm các đô vật khác trong vùng. Dân bãi Nổi táo tợn là thé, cử ra bốn đô vật đều bị loại từ vòng đầu. Hạ được bãi Nổi, Đoài Hạ được thể. Đô Thi thúc trống hỏi to: “Không có ai vào xới thì tôi lấy giải về cho Đoài Hạ đây này. Trai làng tôi tức lắm, xui tôi vào xới. Thú thực, tôi không thạo vật, nhưng tôi có sức. Tay tôi đã bám vào đâu thì thật như kìm, nội công ngoại lực gì tôi không biết, nhưng tôi đã bóp, gạch cũng nát vụn. Tôi cởi quần áo, mặc độc cái quần đùi nâu. Mọi người cười ồ. Người ta giải thích dài dòng rắc rối, đại để tôi muốn giật giải phải vật với những năm người . Trai làng tôi không chịu, cãi nhau om lên, cuối cùng đi đến thoả thuận là tôi phải vật thắng hai người khác mới được vật đô Thi là người đang nhiều điểm nhất. Đô Tiến vào xới. Tôi xông vào ngay. Đô Tiến cũng khoẻ, khoèo chân tôi. Những hơn nghìn ngày lội bùn vác đất nên chân tôi chắc lắm, cắm xuống như cọc. Đô Tiến xoay ngang, xoay dọc mà tôi vẫn đứng trơ trơ. Hai tay tôi tóm được hai bả vai Đô Tiến, cứ thế bóp. Độ ba phút thì Đô Tiến đờ ra, mặt tái nhợt, cứ thế qụy xuống. Trọng tài tuyên bố tôi thắng cuộc. Đến lượt đô Nhiêu. Đô Nhiêu bé nhỏ, nhanh nhẹn. Hắn nhảy như con choi choi, luồn lách rất khéo. Chỉ sau vài miếng, tôi biết đô Nhiêu lập kế lừa tôi, hắn chỉ chờ tôi đứng lệch trọng tâm là phục xuống bốc, dùng vai gồng ngã. Biết thế tôi bèn đứng né chân chèo, người hơi ngả ra. Đô Nhiêu cúi xuống, luồn đầu vào hai chân tôi, định hất lên, thế võ rất ác. Tôi đổi chân, khép gối lại dùng hết sức lực tóm hai mạng sườn, bóp mạnh. Đô Nhiêu oằn oại như con rắn lớn. Một lúc thấy không quẫy được nữa, tôi mới đặt hắn ngửa ra, vỗ hẳn vào rốn. Tiếng reo như sấm. Có ai nhét vào tay tôi một đoạn mía ngắn đã tiện dóc rồi. Mọi người xúm xít, lấy áo phẩy vào mặt tôi giống như kiểu người ta săn sóc võ sĩ quyền Anh. Trống lại nổi lên. Đô Thi to con, hai mắt như mắt lợn luộc. Hắn dạo một đường quyền ngắn trông rất đẹp mắt. Nhiều tiếng xuýt xoa. Tôi cứ lừ lừ đi vào. Đô Thi đứng trước mặt tôi gườm gườm: “Muốn sống chịu thua ngay đi, con ạ!” Tôi bảo: “Dễ thế!” Đô Thi chửi: “Mẹ mày! Giữ lấy cái mũi! Ông sẽ cho mày sặc tiết cho xem!” Hắn lao vào ngay, đầu gối dơ lên rất nguy hiểm. Đến hơn mười phút, đô Thi không vật được tôi. Hắn giở thế võ đánh ngầm. Hắn dùng cùi tay, đầu gối đánh tôi. Trận đấu căng thẳng. Trọng tài là người Đoài Hạ, đáng lẽ bắt lỗi nhưng cứ lờ đi. Tôi tức lắm, vừa đỡ vừa hỏi: “vật nhau hay là đánh nhau thế này? “Đô Thi bảo: “Mẹ mày! Ông đánh cho mày chết mẹ mày đi!” Trống thúc dồn dập, mọi người reo hò nhưng không có ai đứng ra ngăn cản. Rất nhiều tiếng gào khuyến khích đô Thi. “Đánh đi, đánh cho chết mẹ nó đi!” Một nỗi căm giận trào lên trong tôi. Tôi thấy mắt tôi hoa lên, tai tôi ù đi, máu trào mằn mặn trên môi. Đô Thi nhảy đá song phi, tôi tránh được, thuận tay bắt được cổ chân. Đô Thi giằng ra nhưng hai tay tôi như hai kìm sắt. Đô Thi lăn lộn trên sàn.Tiếng gào: “Thua rồi, thua rồi” ầm ĩ cả lên. Trọng tài bảo tôi vật không đúng luật. Tôi chẳng nói chẳng rằng, gạt ông ta ra, cứ thế đi đến bàn ôm bọc giải thưởng đi xuống. Có ai vỗ vào vai tôi: “Khá lắm! Du côn lắm!”Tôi không hiểu nghĩa hai chữ du côn, chắc nó tỏ ý khen ngợi. Ra khỏi xới vật, tôi rẽ vào hàng mua cho các em gói kẹo, cho mẹ chiếc lược rồi đi tắt cánh đồng, qua bãi về nhà. Đến sông thì chập choạng tối. ở khúc quặt bỗng có tốp người hùng hổ xông ra, đi đầu là đô Thi, đô Nhiêu, đô Tiến. Đô Thi bảo: “Muốn sống đứng lại!”. Tôi hỏi: “Cướp đường à?”. Bọn kia không nói năng gì xông vào đánh ngay. Tôi đánh trả lại cũng ác, nhưng thân cô thế núng, lát sau tôi ngất đi. Khi tỉnh lại tôi thấy mình nằm trên ổ rơm, người đau ê ẩm. Mẹ tôi hỏi: “Con có đau không?”. Tôi gật đầu. Mẹ tôi khóc: “Chương ơi, con ra tranh hơn thiên hạ làm gì? Mang thân mua vui cho người có nhục không con?”. Tôi âm thầm khóc, thấy mẹ tôi nói phải. Mẹ tôi bảo: “Hứa với mẹ đi, đừng bao giờ thế!”. Tôi thương mẹ tôi nên hứa, nhưng nghĩ lần sau đi đâu phải dắt theo dao. Tôi hỏi mẹ tôi: “Ai cứu con?”. Mẹ tôi mỉm cười: “Mẹ Cả cứu”. Tôi định hỏi thêm, nhưng mẹ tôi đã ra ngoài, đi sao lá cúc tần sắc cho tôi uống. Tôi hồi phục sức khoẻ rất nhanh, chủ yếu do trẻ trung, chẳng phải do thuốc. Thuốc có gì đâu chỉ có lá cúc tần sao khô vừa bóp vừa uống. Khi đi lại được, ý nghĩ đầu tiên của tôi là vác dao tìm đến đô Thi. Thế nhưng Hợp tác xã cử tôi đi học một lớp nghiệp vụ kế hoạch ở trên thị xã, giấy báo tập trung gấp quá, tôi đành bỏ giở ý định trả thù. Lớp học chúng tôi có ba mươi người, học trong sáu tháng. Chúng tôi được học các môn chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử, chính trị kinh tế học, các nghiệp vụ quản lý kế toán. Lần đầu tiên tôi biết những danh từ, khái niệm, thuật ngữ rất lạ. Tôi háo hức vô cùng. Sau vài hôm tôi đau đớn nhận ra tôi không học được. Chữ nghĩa cứ chuội đi, tôi không làm sao phân biệt được các nguyên tắc nhờ thu nhận trả, các tài khoản, các biểu thống kê, cũng như không hiểu nổi khái niệm duy tâm, duy vật. Phép biện chứng theo tôi là sự tiến lên, bất chấp khó khăn, đại để như giấc mơ của tôi cày Gò mả nguỵ. Quy luật phủ nhận, tôi nghĩ nó giống như trận đòn thù đê tiện của bọn đô Thi, tôi căm ghét nó, nó thành quy luật thì phải trả thù, phải nện đau hơn nó đã nện mình. Tôi học lịch sử, hoàn toàn lẫn lộn về cách phân kỳ. Các thày cô giáo rất ức, bảo tôi không có khả năng học tập. Cả lớp không ai thích tôi. Tôi làm mất điểm thi đua. Tôi lố bịch nữa. Cả lớp không ai ăn mặc như tôi. Họ mặc lối thị xã, đẹp thật, tôi cũng rất thích nhưng vì không tiền phải chịu. Tôi mặc quần nâu áo xanh trứng sáo. Còn ăn, mọi người ăn chung, tôi nấu ăn riêng. Ăn chung có mức, tôi ăn tám, chín bát cơm một bữa, ngày ba bữa, mức nào chịu được. ở trong lớp, tôi ngồi một xó, tha hồ ngủ gật. Các thầy cô giáo chán nản, thôi hành hạ tôi, bài kiểm tra nào cũng cho điểm năm là điểm trung bình. Gần tan lớp học, trên bỗng cử cô Phượng về dạy môn kế toán. Cô Phượng học nước ngoài về, tính vui nhộn. Cô mặc quần bò, áo phông, áo bỏ trong quần, vai đeo túi, trông giống diễn viên điện ảnh. Trả bài kiểm tra, cô Phượng bỗng hỏi: “Ai tên là Chương?” Tôi bảo: “Em đây”. Cả lớp cười ồ, vì cô Phượng trẻ, chỉ bằng tuổi tôi. Cô Phượng nín cười, bảo: “Tôi không hiểu nổi bài viết của anh. Đường lối kế toán của anh đặc biệt bí hiểm”. Cả lớp lại cười. Cô Phượng bảo: “Hết giờ mời anh gặp tôi. Tôi sẽ giảng lại cho anh về các quy luật kinh tế”. Hết giờ buổi chiều, tôi tìm cô Phượng. Người ta bảo cô vừa phóng xe máy ra sông. Tôi buồn rầu, khoác cái sắc cốt để sách vở, tiền nong, giấy tờ, bỏ đi lang thang. Loanh quanh thế nào, tôi vòng ra phía bờ sông, bỗng thấy cô Phượng đang ngồi một mình, bên cạnh có chiếc xe máy. Quang cảnh cũng hệt quê tôi, phía trước là sông, phía sau là bãi mía. Tôi đến gần, thấy cô Phượng khóc, hai tay ôm mặt, bả vai rung rung. Tôi ấp úng chào. Cô Phượng giật mình, ngẩng lên thấy tôi bèn giận dữ: “Cút đi, cái lũ đàn ông khốn kiếp các anh!”. Tôi kinh hoàng ngơ ngác, chôn chân tại chỗ. Cô Phượng cầm dép ném vào mặt tôi. Dép cao gót, có đinh, tôi tránh không kịp, mặt bị chảy máu. Máu chảy nhiều quá, tôi ngồi thụp xuống, hoa cả mắt. Cô Phượng chạy lại, quỳ xuống gỡ hai tay tôi, hốt hoảng: “Anh có sao không? Trời ơi, sao tôi rồ dại thế này!”. Tôi xuống sông, vã nước rửa vết đau. Cô Phượng cứ loay hoay bên tôi, rối rít xin lỗi. Tôi cho cô Phượng xem những vết sẹo trên vai, trên tay mà bọn đô Thi đánh tôi. Tôi bảo: “Không sao cô ạ. Vết thương như thế có gì”. Cô Phượng bảo: “Tôi xin lỗi anh. Tôi gặp chuyện buồn nhiều quá. Tôi không kìm chế nổi mình”. Cô Phượng lấy bánh mỳ, lấy chuối ép tôi ăn. Cô Phượng nói: “Anh tha thứ cho, tôi yêu, tôi bị phản bội. Tôi không chịu nổi. Nếu anh có yêu anh mới hiểu”. Tôi bảo: “Tôi chưa yêu. Nhưng tôi nghĩ nếu ai phản bội lại tình yêu thì xấu xa lắm”. Cô Phượng cười đau đớn: “Anh chẳng hiểu gì, kẻ phản bội cũng là người tốt, có điều người ta không dám hy sinh”. Cô Phượng ngồi tay bó gối, trông vừa bé nhỏ, vừa buồn, lại đẹp nữa. Trong tôi trào lên cảm giác thương xót, tựa như thương xót chính em gái tôi. Cô Phượng bảo: “Tôi đã không đúng. Người ta không dám hy sinh vì tôi là phải. Tôi là đứa con gái xấu xí, phải không anh?”Tôi lắc đầu, tôi nghĩ, người nào được yêu cô Phượng thì thật hạnh phúc. Tôi bảo cô: “Không phải đâu, cô đẹp lắm”. Cô Phượng cười. Cô cầm cái sắc cốt của tôi đập đập: “Anh đựng cái gì trong này thế?” Tôi ngượng ngập bảo: “Có sách vở, tiền nong, chứng minh thư, thẻ Đoàn”. Cô Phượng bảo: “Anh Chương này, nếu anh yêu, anh có giám hy sinh vì người yêu không?” Tôi bối rối không biết trả lời ra sao. Cô Phượng bảo: “Thế này nhé: Nếu tôi yêu anh, anh có giám vứt cái túi này xuống sông không?” Tôi gật đầu. Cô Phượng bảo: “Anh vứt đi”. Tôi đứng lên cầm cái sắc cốt quẳng ra giữa sông. cái xắc cốt chìm ngỉm. Cô Phượng ngạc nhiên, mặt tái đi: “Anh có phá tan cái hàng rào kia không?” Tôi lẳng lặng đến hàng rào bao quanh bãi mía, co đứt dây thép gai, nhổ các cọc sắt uốn cong lại vứt dưới chân cô. Cô Phượng bảo: “Anh lại đây”. Cô ôm cổ tôi, hôn lên môi. Tôi đờ đẫn. Cô Phượng bảo cô rất sung sướng: “Anh biết không, thế mà tôi đã buồn phiền vì một tên đàn ông ích kỷ. Thật chẳng ra sao!” Cô Phượng lên xe máy phóng đi, quay lại bảo tôi: “Anh hãy quên những quy luật kinh tế chết tiệt ấy đi”. Tôi sửng sốt. Cái hôn bất ngờ làm tôi ngây ngất. Tôi thấy sung sướng. Cứ thế tôi lội xuống sông, bơi sang bên kia rồi lại bơi về. Trăng vẫn sáng, tôi thấy cuộc đời thật đẹp tuyệt vời. Sau hôm ấy, hai hôm sau giải tán lớp học. Cô Phượng không đến, nghe nói có việc phải đi Hà Nội. Tôi buồn rầu thu dọn đồ đạc, chào mọi người rồi đi về làng. Tôi về làng được cử làm kế toán trưởng. Được một tháng, ông Hai Thìn bảo: “Mày học hoài cơm”. Người ta cách chức tôi, tôi cũng chẳng lấy thế làm buồn. Tôi trở lại công việc bình thường, công việc của mười năm trước: sáng đi cày, chiều đào đá ong, tối lột giang đan mũ. Công việc nặng nề, nhưng tôi khôn nguôi nhớ về cô Phượng. Một lần, tôi kiếm cớ lên thị xã, rẽ vào trường cũ để thăm cô Phượng. ở đây chẳng còn ai nhận ra tôi. Ông thường trực hỏi: “ Cậu hỏi Phượng nào? Trường có nhiều Phượng lắm: Trần thị Phượng, Quách thị Phượng, Lê Thị Phượng. Có cô cũng trạc tuổi cậu, cô ấy đi khỏi trường rồi. Cô ấy ngày xưa ở nhà tu kín, tên thánh là Gianna Đoàn Thị Phượng”. Tôi giật mình, sững sờ nghĩ đến giai thoại ngày xưa kể về Mẹ Cả. Ông thường trực không biết gì thêm. Đang nghỉ hè, sân trường vắng ngắt tôi lang thang ở trong thị xã, không biết hỏi ai. Cuối cùng tôi nảy ý định vào nhà tu kín. Bà Nhất tiếp tôi. Bà đã luống tuổi, có đôi mắt hết sức u sầu. Bà Nhất bảo: “Gianna Đoàn Thị Phượng ở nhà tu này từ sáu đến mười hai tuổi. Cha mẹ cô ta nhờ tôi nuôi dạy”. Tôi ngạc nhiên: “Sao bảo Gianna Đoàn Thị Phượng là Mẹ Cả, là con gái thuỷ thần?”Bà Nhất bảo: “Cha mẹ Gianna Đoàn Thị Phượng ngoài Hà Nội. Cô ấy là con riêng ông Đoàn Hữu Ngọc, buôn nước mắm”.Tôi thẫn thờ buồn bã ra về. Bà Nhất bảo: “Tôi không biết Mẹ Cả của anh, còn Gianna Đoàn Thị Phượng là con của Chúa. Ông Đoàn Hữu Ngọc gửi con vào nhà Chúa như gửi con vào nhà trẻ, nhưng Chúa không giận. Chúa tha thứ, Chúa vốn nhân từ”. Đêm ấy, tôi ngồi ngoài hè tường nhà tu kín. Đường phố thị xã xe chạy ầm ầm tôi không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, tôi xuôi đường đê tìm về đền Tía. Đền Tía ngay sông, chênh vênh trên một kè đá xây rất công phu. Ông từ giữ đền Tía tên Kiệm, làm nghề đánh cá, trạc sáu mươi tuổi, ở ngay trong đền. Tôi vào trong đền, thấy cá phơi đầy sân, gác cả trên hai thanh cột quá giang. Ông Kiệm cho tôi nhấm rượu cá nướng. Ông Kiệm bảo: “Tôi giữ đền này hơn bốn mươi năm , ở một mình nuôi mỗi con rùa làm bạn”. Ông chỉ cho tôi con rùa buộc dây nằm dưới gậm giường. Tôi hỏi ông về Mẹ Cả. Ông Kiệm bảo: “Tôi không biết. Nhưng trận bão ấy thì nhớ, sét đánh cụt ngọn cây muỗm ở trên bãi Nổi, cậu phải về đấy hỏi xem”. Tôi ở chơi với ông Kiệm buổi sáng, dọi giúp chỗ mái đền dột. Buổi trưa, tôi chào ông Kiệm, tắt đồng đi về bãi Nổi. Đường về bãi Nổi đi qua Đoài Hạ, tôi hỏi thăm nhà ông Hội, nghe nói ngày xưa cha con ông được Mẹ Cả cứu. Ông Hội đã già, lẫn lộn cả. Ông Hội bảo: “Đào cát. Khoét hàm ếch. Sụt xuống. Nặng lắm, máu ộc ra...” Hỏi gì cũng chỉ nói từng ấy tiếng. Con trai ông Hội bảo tôi: “Ông cụ có nhớ gì đâu, tai điếc ba bốn năm rồi”. Tôi buồn rầu chào cha con ông rồi về. Tôi bơi qua sông, đến bãi Nổi. Cây muỗm đại thụ bị sét đánh bao nhiêu năm khô xác, dưới gốc cây, bọn trẻ đốt lửa làm thành cái hốc lõm sâu đen sì. Tôi rẽ vào một túp lều canh lưới cạnh đấy. Tôi ngó vào rùng mình thấy trong xó tối có một lão già nằm trên ổ rơm dưới đất. Thấy tôi lão già hỏi: “Đô Thi đấy à?” Lão già ngỏm lên, tôi kinh hoàng thấy lão già chẳng khác gì ma quỷ, râu tóc lởm chởm, đôi mắt đục ngầu. Tôi đoán lão già bị liệt, hai chân teo lại , lông chân trông như lông lợn. Tôi chào lão già, ngạc nhiên thấy lão anh minh lạ thường, nói năng rành rọt. Một lúc sau, qua câu chuyện, tôi biết lão già là bố đô Thi ở bên Đoài Hạ. Lão già bị liệt mấy chục năm rồi, chỉ nằm một chỗ trông lưới. Trò chuyện mãi, tôi hỏi lão già về chuyện Mẹ Cả. Lão già ôm bụng cười lăn lộn, đôi chân liệt bất động trông rất đáng sợ. Tôi chưa thấy ai khủng khiếp như vậy. Lão già bảo tôi: “Mày có trông thấy cái nia rách kia không? đôi giao long quấn nhau ở trong ấy đấy...” Lão già lại cười. Tôi kinh hoàng sợ hãi. Lão già lại bảo: “Hồi ấy tao chưa bị liệt. Tao bịa ra chuyện Mẹ Cả. Ai cũng tin. Mộ Mẹ Cả kia kìa, mày muốn biết hình Mẹ Cả đào lên mà xem”. Lão già chỉ nấm đất gần kề gốc muỗm. Tôi lấy chiếc mai trong lều ra chỗ nấm đất, đào lên. Tôi đào theo kiểu người ta vẫn đào khi bốc mộ. Được hơn một mét, tôi lôi dưới ấy lên một khúc gỗ mục chẳng hình thù gì. Tôi ngồi rất lâu bên khúc gỗ ấy. Lão già ma quỷ cũng đã thôi cười, bây giờ chắc ngủ trong lều. Trước mặt tôi, dòng sông đang thao thiết chảy. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy... thời gian cũng thao thiết trôi, chỉ ít năm nữa đến năm 2000... Tôi đứng lên đi về nhà. Ngày mai tôi đi ra biển. Ngoài biển không có thuỷ thần. Truyện thứ hai Khi chào mẹ để đi ra biển lúc ấy nào tôi có biết rằng biển ở đâu? Mẹ tôi bảo: “Chương ơi, thế con bỏ mẹ đi à? Bỏ các em con đi à?” Tôi không trả lời, tôi vụt ra ngõ như chạy. Tôi biết, nếu tôi dừng lại lúc nà y thì tôi sẽ không bao giờ đi nữa. Tôi sẽ quay lại công việc của mười năm trước; tôi sẽ cứ thế cho đến rốt đời: sáng đi cày, chiều đào đá ong, tối lột giang đan mũ. Tôi sẽ kéo mòn kiếp sống của tôi như thế. Như thể bố tôi, như ông Nhiêu, như ông Hai Thìn, như những người dân hiền lành, lam lũ ở quê hương tôi. Tôi đi... Tôi nhằm hướng mặt trời mọc mà đi. Tôi không mang theo một thứ đồ đạc nào cả trên người, trừ con dao sắc lịm mà tôi cất công sang tận Đoài Hạ để thửa. Con dao này rèn tử nhíp ô tô, mũi nhọn, nước thép xanh biếc. ý nghĩ về Mẹ Cả, về Gianna Đoàn Thị Phượng ám ảnh tôi. Con gái thủy thần, nếu tôi tìm được thấy nàng thì tôi sẽ không hối tiếc gì về cuộc sống. Không hiểu vì sao tôi lại nghĩ rằng nàng ở đấy, ở ngoài xa kia, ở biển... Tôi đi qua rất nhiều làng mạc, vừa đi vừa làm thuê kiếm ăn. Những làng quê mà tôi đi qua đều buồn tẻ, tiêu điều. Quanh quẩn chỉ từng ấy cây: cây lúa, cây ngô, cây khoai lang, vài thứ cây rau quen thuộc. Quanh quẩn từng ấy công việc: cày ruộng, cấy hái, vun trồng. Sáng sáng tôi tìm đến đứng ở đầu thôn xóm mà tôi đi qua, dưới gốc si hoặc cái quán xiêu vẹo, cũng có khi ở một chợ cóc ven đường. Có nhiều người như tôi, cả đàn ông, cả đàn bà. Họ đều là những người dân quê phiêu tán hoặc những người nghèo trong thôn xóm. Những chợ người này họp từ gà gáy... Những người thuê mướn cầm đuốc soi mặt chúng tôi, nắn chân nắn tay từng người. Họ hỏi: “Có biết làm việc này không? Làm việc kia không?” Họ và chúng tôi thỏa thuận giá cả, thường công lao động một ngày rất thấp, nếu làm thợ đấu thì quy ra thóc chỉ độ hai cân rưỡi đến ba cân một ngày, thợ cấy ít hơn: chỉ độ một cân hai đến một cân tám. Tôi hay nhận những việc ngoài đồng: cấy, gặt, gieo mạ, bón phân. Tôi không thích nhận việc trong nhà. ở ngoài đồng không khí thoáng đãng hơn, trên đầu tôi là bầu trời tự do, tôi không vướng những mối liên hệ nào đấy đối với con người. Những người thuê mướn tôi cũng chẳng giàu có gì, họ cũng phải làm quần quật, đôi khi họ phải nhịn ăn để dành trả công cho thợ. Không khí u uất, tù đọng của làng quê làm tôi tái tê cảm giác chua xót. Mọi người rối rít, cuống cuồng dể kiếm miếng ăn. Những định kiến, tập tục thật nặng nề. Tôi đã thấy tinh thần gia trưởng hủy hoại bao nhiêu số phận con người. Tôi cũng thấy những ngộ nhận giới tính và đạo đức giết chết vẻ diễm lệ trên các khuôn mặt thiếu nữ. Rất ít thanh niên. Ngoài đồng chỉ có các ông bà già, phụ nữ và trẻ em thất học làm việc. Sang tháng Ba, công việc đồng áng vãn bớt, tôi không có việc làm thường xuyên. Có nhiều ngày tôi phải nhịn đói. Tôi đi trong đám sương mù bàng bạc dọc bờ dê. Những hạt bụi nước li ti giăng ở trước mặt, ở bên phải, ở bên trái, ở sau lưng. Gió hun hút thổi. “Cái đói cái rét bằng nhau”. Người xưa nói thật chẳng ngoa chút nào. Một lần tôi nhìn thấy có ông lão ăn mày chết đói ở bên vệ đê. Một nỗi lo sợ mơ hồ thoáng dậy trong tôi. Tôi bắt đầu nghĩ tới cái chết, điều này trước đây chưa bao giờ tôi nghĩ đến. Đói. Rét. Nỗi cô đơn như gió quất vào mặt. Lòng tôi cồn cào, đau đáu một nỗi khắc khoải hướng về Mẹ Cả, con gái thủy thần. Nàng là ai? Nàng xấu hay đẹp? Nàng ở đâu, góc biển chân trời nào? Tôi bắt đầu hình dung thấy nàng. Nàng hiện ra rực rỡ. Những đường nét trên khuôn mặt nàng rõ ràng, đôi lông mày thanh tú, quả cảm. Thoạt nhìn, nàng thậm chí đen đúa và lãnh cảm. Nàng không đẹp. Khoảng cách giữa tôi và nàng là khoảng cách của hai vật thể tự do, vừa đối nghịch, vừa bao trùm. Cả tôi và nàng đều không thừa nhận sở hữu, trong khi đó chúng tôi lại muốn có nhau. Nàng muốn tôi và tôi muốn nàng. Nàng muốn bao trùm tôi và tôi cũng thế. Cả tôi và nàng đều cùng tranh đấu tìm cách giải thoát sự bao trùm đó, hướng tới tự do. Khi tự do là lúc nàng mất tôi và tôi mất nàng. Để có nàng, tôi buộc phải sống kiếp sống của kẻ khổ sai lưu đầy, tôí buộc phải vắt kiệt tôi đến chết. Tâm hồn nàng ăn uống thứ thức ăn thật man rợ: đấy là từng miếng sống tươi rói của cuộc đời tôi. Tôi hình dung nàng xé xác tôi bằng bàn tay thon nhỏ, móng sắc. Nàng nhai từng miếng thịt và lè dầu lưỡi nhọn hoắt liếm những giọt máu ứa ra. Những ý nghĩ trên không phải đến ngay với tôi khi ấy, khi tôi đói khát lang thang trên đường mà mãi sau này tôi mới hiểu ra. Thời tôi đang kể là thời tôi còn mụ mị, đầy những thành kiến ngộ nhận. Tôi là một thanh niên nông dân ngu độn, trong lòng đầy những tình cảm thương người vụn vặt, vừa duy tâm, vừa siêu hình, lại tầm thường nữa. Tôi chưa biết khinh rẻ bản thân, cũng chưa biết khinh rẻ học vấn. Tôi chưa biết cách thương mình. Những vấn vương của tôi về mái nhà, về tình cảm xóm làng bao bọc dưới những sắc màu lãng mạn huyền thoại cũng là một thứ văn hóa thấp kém, có sức trì kéo. Tôi chưa giác ngộ về lẽ tồn tại cá nhân, cũng như của cả bầy người. Cuối tháng Bẩy, tôi nhận đóng gạch cho một bà cụ người Sơn Tây. Bà cụ 80 tuổi, có người con trai đi bộ đội đóng quân ở Cămpuchia. Bà cụ có người con gái năm nay 42 tuổi, lấy chồng ở tận làng xa, tên là Thời, thỉnh thoảng mới về thăm mẹ được một buổi chiều, sấp ngửa dọn dẹp chốc lát rồi lại ra đi. Bà cụ ở một mình giữa khu vườn hoang rộng hơn sào đất. Ngôi nhà lợp rạ, vách trát đứng, giỏi lắm trụ được qua hai mùa mưa là đổ. Người con trai làm đại đội trưởng công binh, tên là Thế, chưa có vợ. Bà cụ cho tôi xem những bức thư anh viết ở Công Pông Xom, chữ rất thoắng, lời lẽ rõ ràng là của người con có hiếu: “U ơi xin u nương nhẹ thân mình, dù chỉ để cho con đỡ khổ. Con xin hứa sang năm con sẽ về phép con sẽ làm nhà, lấy vợ. U cứ giấm cho con một cô ở làng, mặt rỗ cũng được, góa chồng cũng được, miễn là người ta yêu thuơng mình. Chỉ mười ngày phép là xong mọi việc, u sẽ mát lòng mát dạ ở nơi suối vàng. Còn con, con khỏe lắm, được mọi người yêu mến. Con luôn nhớ về u, nỗi nhớ như gai đâm ruột... “ Tôi đào đất, đóng gạch ở ngay trong vườn. Công đóng một viên gạch mộc là năm hào, bà cụ nấu cơm ba bữa cho tôi ăn, trừ tiền gạo với tiền thức ăn, công thực tế chỉ còn ba hào rưỡi. Bà cụ bảo: “Tôi chỉ mong đốt cho nó sáu vạn gạch. Nó xây nhà hết bốn vạn, còn hai vạn thì xây cái bếp. Chú tính, nếu tôi thuê chú cả vào lò, cả ra lò, chú có làm xong trước tiết Đông chí không?” Tôi bảo: “Được”. Bà cụ bảo: “Tôi vụng tính quá. Sao tôi lại đi thuê đóng gạch vào mùa mưa. Thế có khổ không? Trước tôi cứ nấn ná. Tại con mẹ Thời cả, tôi đã bảo nó bán cho tôi đôi hoa tai, nó cứ nói dối không bán được. Cũng may gặp chú, chú thương tôi làm thuê mà như làm cho nhà mình. Cũng là cái số của tôi, để phúc lại được cho con... “ Tôi cay xè cả mắt, tôi muốn gào lên cho thấu cả trời xanh. Tôi muốn làm cho dứt hợp đồng để lại lên đường. Khốn nỗi trời cứ mưa tầm tã, đóng được vài trăm viên gạch lại phải khuôn vác che chắn. Tôi đói. Tôi không có việc nào khác. Tôi bắt buộc phải nhận công việc chết rấp này, công việc có cơ khiến tôi trắng tay. Tôi sẽ không kể lại công việc tôi làm ra sao. Bà cụ dậy từ gà gáy, đi bòn những lá rau khoai lang, rau dền, rau mảnh cộng trong vườn dể nấu canh mắm cua. Thức ăn mặn thường là tép rang, muối vừng, cua dạm. Cơm nấu trong cái nồi đất. Bà cụ nấu cơm khéo, cơm dẻo, không bao giờ nát, cháy, cơm mềm chứ không khô, không lại gạo. Tất cả tâm lực bà cụ hướng về sáu vạn viên gạch. Tôi cũng ước ao tâm lực của tôi hướng về một thứ vật chất cụ thể như thế. Nếu như thế được, mà nếu được thế... Sang tháng Mười, tôi đã đóng xong đủ sáu vạn viên, chuẩn bị đốt một lúc hai lò gạch. Trông đống gạch mộc chất cao mà sướng mắt. Bà cụ nhỏ bé, gầy yếu đứng lọt thỏm trong đống gạch tấm tức khóc. Tôi bảo: “Nếu mà đốt lò, mấy cây khế, cây chuối trong vườn đều chết hết cả đấy, cụ ạ”. Bà cụ bảo: “Chết thì chết”. Tôi bảo: “Nếu hết củi là phải dỡ nhà mà đốt đấy, cụ ạ”. Bà cụ bảo: “Thì dỡ đi chứ! Sang năm con tôi có nhà mới rồi”. Tôi nổi lửa đốt hai lò gạch, đốt kiểu lò dã chiến, đúng trong ngày Đông chí, rét buất ruột. Mâm cỗ đốt lò có chai rượu trắng với cái chân giò luộc chấm tương. Tôi uống hết nửa chai rượu, chửi tục một câu rồi kéo mái gianh nhen lửa. Bà cụ nằm trên chõng, dắp chiếc chăn dạ cũ. Bà cụ đang ốm. Tôi dỡ nửa cái mái nhà mới nhen được lửa. Hai lò gạch cháy bùng, đỏ rực. Nóng như thiêu. Trời rét mà tôi đánh độc một cái quần đùi, mồ hôi túa ra như tắm. Lò đốt ba ngày ba đêm. Cây cối trong vườn xém rụi hết. Đến đêm thứ ba thì bà cụ mất. Bà cụ mất rất nhẹ nhàng, không giối giăng gì. Tôi ôm xác bà cụ trên tay đi vòng quanh hai lò gạch như kẻ mộng du. Sáu vạn viên gạch, thế là bà cụ nợ tôi hai trăm mười nghìn đồng. Sáng hôm sau, chị Thời con gái bà cụ dắt theo đàn con buộc khăn tang trắng chạy về. Chị Thời lần bên xác mẹ, lấy ra đôi hoa tai vàng trả công cho tôi. Tôi giắt đôi hoa tai vàng vào áo bỏ đi khi người ta đóng quan tài cho bà cụ. Tiếng khóc ai oán vọng sau lưng. Tôi đã mất gần nửa năm trời làm việc ở đây. Biển còn xa lắc... Tôi gõ cửa một tiệm vàng ở thị trấn H. lúc sáng tinh mơ. Bộ dạng tôi chắc kinh khủng lắm: một nửa năm trời tôi không cắt tóc, bộ quần áo từ ngày bỏ nhà ra đi đã sờn rách cả, đồ đạc trên người có mỗi con dao nhọn lưỡi. Tôi xòe đôi hoa tai vàng dạm bán. Chủ tiệm vàng đi chân đất, quỳ xuống lạy như tế sao: “Làm gì có thứ hoa tai thế này hở cậu? Đây là thứ đồ chơi con nít bán đầy ở chợ. Mới sáng sớm dọn hàng xin cậu thương tôi...” Tôi ngồi phệt xuống nền gạch đá hoa. Chủ tiệm vàng lấy ra các đồ nữ trang trong tủ giải thích cho tôi thế nào là vàng tây, vàng ta; thế nào là vàng bẩy, vàng mười; thế nào là đồng, là bạch kim, là saphia. Tôi nghe như vịt nghe sấm. Chủ tiệm vàng dắt tôi ra quầy hàng xén bên dường, chỉ cho tôi xem những thứ hoa tai, nhẫn vàng dùng làm đồ chơi trẻ con. Đôi hoa tai bà cụ trả công cho tôi giống y hệt thứ ấy, có thể bẻ vụn ra được. Tôi chào ông chủ tiệm vàng tết bụng mà nhút nhát, rồi bỏ đi. Tôi đứng ở ngã ba đường. Sương mù rất dày. Xung quanh tôi vắng ngắt. Tôi rút dao ra và quyết sẽ đâm chết người đầu tiên đi qua ở trước mặt tôi lúc này để lấy một nghìn đồng đủ ăn bát phở. Tôi đói. Tôi đói như một con hắc tinh tinh. Tôi đói như một con lợn rừng. Tôi đói như một con vật ở địa ngục. Tôi đói đã nửa năm nay. Nửa năm tôi ăn độc một thứ rau khoai lang, rau rền, rau mảnh cộng, toàn thứ rất dễ mất máu. Tôi đứng một lúc lâu. Sương tan dần, một đám các cô các bà gồng gánh đi đến. Một giọng phụ nữ rất chua khúc khích cười: “Phượng ơi, có người chờ để gánh thuê cho mày đi chợ kìa”. Đám người dừng trước mặt tôi. Tôi sững sờ nhận ra khuôn mặt người con gái có tên là Phượng, khuôn mặt đã ám ảnh tôi trong bao giấc mơ. Vẫn khuôn mặt ấy, những đường nét dứt khoát và quả cảm, vừa hồn nhiên vừa lãnh cảm. Cô Phượng bảo: “Này anh kia, có gánh thuê không?” Tôi bảo: “Có” Cô Phượng trao gánh cho tôi. Cô Phượng bảo: “Anh gánh gạo cho tôi lên chợ, rồi tôi cho tiền mà đi cắt tóc”. Mọi người cười, họ vỗ vai, thụi vào ngực tôi. Tôi gánh gạo đi theo họ như việc phải làm. Tôi không hiểu vì sao như thế. Cô Phượng đi bên cạnh tôi, đung đưa cái túi xắc giả da màu đỏ. Phiên chợ giáp Tết đông như trẩy hội. Cô Phượng bán loáng cái đã xong. Cô Phượng bảo tôi: “Tôi với anh đi ăn bún riêu. Đợi tôi mua ít hàng rồi anh gánh về cho tôi với nhé”. Tôi gật đầu rồi đi theo cô Phượng vào quán bún riêu. Tôi húp soạt hai lần là xong bát bún. Cô Phượng phì cười, gọi thêm một bát bún nữa. Cô Phượng hỏi tôi: “Anh đói đã mấy ngày rồi?” Tôi nói, tự dưng nước mắt ứa ra: “Tôi đói đã sáu tháng nay rồi”. Mọi người trong quán im bặt, lặng lẽ nhìn tôi. Chắc chẳng ai tin lời tôi nói. Cô Phượng không nói năng gì, bỏ dở bát bún ngồi nhìn tôi ăn. Tôi ăn xong, cô Phượng lại hỏi: “Anh có ăn bánh đúc không?” Tôi gật đầu. Cô Phượng lại gọi thêm cho tôi nửa mẹt bánh đúc. Cả đời tôi, tôi chưa bao giờ được ăn uống ngon lành như thế. Tôi gánh hàng đi theo cô Phượng về nhà. Hàng toàn vôi với sơn, tôi không biết mua để làm gì. Nhà cô Phượng ở vùng đất bãi, giống hệt quê tôi, chỉ khác ở đây có nhà thờ đạo Thiên chúa. Cô Phượng ở với bố, một người cô mù không biết tên thật là gì, chỉ thấy mọi người gọi bà là Maria. Cô Phượng có hai em gái, một cô tên là Thủy, một cô tên là Liên. Khi đưa tôi về, cô Phượng nói với mọi người: “Tôi nhặt được ông mãnh này ở ngã ba đường. Có vẻ là dân lao động chứ không phải lưu manh giang hồ”. Bố cô Phượng hỏi: “Này anh kia, tên là gì? Có vướng trộm cắp gì không?” Tôi bảo: “Tôi là Chương. Tôi không trộm vặt”. Bố cô Phượng cười: “Tôi biết rồi, tướng anh là tướng người trộm cướp lớn chứ không trộm cắp vặt. Cái dái tai thế kia, cái mũi ống bương thế kia không phải là hạng tầm thường. Chán đời hay sao mà cánh bèo trôi dạt đến đây thế này?” Tôi bảo: “Phận tôi nó thế”. Bà Maria lấy tay sờ mặt tôi, thét lên: “Giêsuma! Chúa ơi! Người đâu mà chẳng thấy thịt, chỉ thấy toàn đất là đất thế này?” Tôi ở nhà cô Phượng. Người ta hứa nuôi tôi một tháng. Bố cô Phượng là trùm xứ đạo. Công việc của tôi là sơn, quét vôi lại toàn bộ nhà thờ. Công việc khó khăn nhất phải tô sơn lại bức tượng Chúa đứng trên nóc gác chuông, bức tượng cao hai mét, tạc hình Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ giang hai tay ra, chân đứng trên quả cầu tròn. Đây là điểm cao nhất của nóc gác chuông, hoàn toàn không có mặt bằng để dựng dàn giáo. Muốn tô sơn lại bức tượng, tôi chỉ còn có cách buộc thừng vào người rồi chằng thừng vào thân tượng. Hợp đồng công việc của tôi không có bảo hiểm. Bố cô Phượng bảo: “Xứ đạo chúng tôi nuôi anh ba bữa, anh chết thì chúng tôi chôn. Làm xong anh được hai trăm nghìn đồng”. Tôi nhớ đến khoản tiền công đóng gạch cho bà cụ người Sơn Tây mà cười ra nước mắt.- Cô Phượng bảo tôi: “Anh nghĩ lại đi! Bức tượng làm cách đây hai trăm năm rồi, vôi vữa không khéo đã mục, leo lên đấy nhỡ chết thì sao?” Tôi bảo: “ Chúa giúp tôi. Nếu không thì chẳng có Chúa”. Tôi quét vôi nhà thờ gần một tháng. Đầu tiên, tôi cạo hết lớp vôi cũ rồi phủ lên hai lớp vôi trắng. Ngoài cùng tôi quét vôi vàng. Giúp việc cho tôi là cô Thủy, cô Liên. Bố cô Phượng xem xét công việc. Ông bảo tôi: “Chú em ạ, tôi chỉ tiếc chú em là kẻ vô đạo. Nếu không, tôi có ba con gái, tôi gả cho chú cả ba”. Tôi đỏ bừng mặt. Tôi cười đau đớn. Tôi đâu phải loại chó dái đi tìm chó cái? Trái tim tôi đã thuộc về nàng, thuộc về Mẹ Cả, thuộc về con gái thủy thần... Sau khi quét vôi xong và sơn lại toàn bộ cửa kính nhà thờ, tôi bắt tay vào việc tô tượng Chúa. Trước ngày tôi trèo lên nóc gác chuông, cô Phượng nấu cho tôi một nồi nước hương nhu bảo tôi tắm gội. Mọi người trong nhà cô Phượng đều quan tâm săn sóc đến tôi. Họ biết có thể đến ngày mai tôi không còn ở trên cõi đời này nữa. Ông trùm đạo có vẻ bồn chồn. Nửa đêm ông kéo tôi dậy, pha một ấm trà đặc mời tôi. Ông bảo: “Cậu Chương này, hay thôi đừng tô tượng nữa. Tôi cứ lo lắng thế nào”. Tôi bảo: “Bác mặc tôi. Công việc nó thế”. Ông cụ thở dài: “ừ! Phải thế đấy. Nếu mệnh hệ nào, cậu có oán tôi không?” Tôi bảo: “Không”. Ông cụ nghĩ một lúc rồi lưỡng lự hỏi: “Cậu Chương này, cậu có muốn giối giăng gì không?” Tôi cười: “Nước ta có sáu mươi triệu người thì năm mươi tám triệu cười vào mũi lời giối giăng của tôi”. Ông cụ bảo: “Tôi hiểu. Cậu đi ngủ đi”. Tôi đi ngủ. Quả thực tôi chẳng lo lắng gì. Kể từ ngày tôi bỏ nhà ra đi, tôi rất ít khi nghĩ ngợi về mình. Những khao khát của tôi nhấc tôi lên khỏi mặt đất. Những ý nghĩ của tôi không gắn gì với đời sống và sự tồn tại của bản thân tôi. Hôm nay tôi sống như một con vật hay một ông hoàng có gì quan trọng? Trái tim tôi đã khô héo và cằn cỗi. Tôi biết tất cả những thiện cảm mà cô Phượng, con gái ông trùm đạo dành cho tôi, thậm chí cả những thiện cảm của cô Thủy, cô Liên dành cho tôi nữa. Tôi biết hết. Tôi không có quyền gắn sinh mạng của tôi với họ, bởi như thế, rết cuộc tôi cũng lại sống như ông Nhiêu, như ông Hai Thìn hoặc những người dân hiền lành, lam lũ ở quê hương tôi hay là ở xứ đạo này. Một mái nhà gianh với ba bốn trái tim vàng là hết nước. Cô Phượng tôi gặp ở lớp kế toán dạo nào hay cô Phượng con ông trùm đạo ở đây cũng chỉ là một mảnh của nàng, con gái thủy thần, người tôi ước ao gặp gỡ... Sáng hôm sau, tôi trèo lên nóc gác chuông. Tôi lấy một sợi dây thừng để buộc thòng lọng rồi tròng lên cổ Chúa Giêsu làm điểm tựa. Tôi buộc sợi dây thừng vào quanh người tôi rồi vừa đu vừa làm việc. Cả xứ đạo đứng tụm ở dưới gác chuông nín thở theo dõi công việc của tôi. Chỉ sơ suất, sợi thừng đứt hoặc tôi bị mất thăng bằng, tôi sẽ rơi trên cao ba mươi hai mét xuống nền sân đá. Tôi mê mải làm việc. Không biết bao nhiêu thời gian trôi qua. Trong ống tay áo Chúa Giêsu có một tổ chim. Những cọng rơm của tổ chim chẳng khác những sợi vàng ròng. Đến cuối ngày, tôi đã tô xong bức tượng. Một niềm hân hoan khiến tôi nghẹt thở. Phút cuối cùng, không hiểu sao, tôi đã không kìm được ý thích ngông cuồng là được ký tên lên vầng trán thanh thản của Chúa. Lần vào mái tóc xõa, tôi dùng con dao nhọn lưỡi vạch tên tôi lên đấy. Về việc này, đến sau này tôi phải trả một giá rất đắt, tôi không lường được. Tôi đứng trên vai bức tượng mắt nhìn về xa. Mặt biển dâng trước mắt tôi, căng như sợi chỉ. Tôi nghe thấy tiếng sóng như tiếng người thở dốc. Những tia hào quang lấp loáng ở một góc biển và không hiêu sao tôi nghĩ đấy là nơi con gái thủy thần trú ẩn. Tôi xuống sân nhà thờ trong sự hân hoan của toàn xứ đạo. Tôi thấy xây xẩm, bải hoải toàn thân. Tôi nằm xuống bậc đá, ngất đi. Tôi thấy hồn tôi nhẹ như sợi khói. Hồn tôi bay là là trên các bậc thềm nhà thờ, trên các mái gianh, mái rạ, trên các ngõ nhỏ, trên các vườn chuối. Hồn tôi bay trên các cánh đồng khô nẻ... Tôi không biết mọi người đưa tôi về nhà từ khi nào nữa. Nghỉ ngơi dăm hôm, tôi lại lên đường. Tôi mặc bộ quần áo nâu nhuộm vỏ, giắt bên lưng con dao nhọn lưỡi. Cả nhà cô Phượng lưu luyến tiễn đưa tôi ông trùm xứ đạo, bà Maria, cô Thủy, cô Liên, tiễn đưa tôi dến cuối vườn chuối thì dừng lại. Bà Maria quàng vào cổ tôi sợi dây đeo thánh giá rồi làm dấu trên ngực tôi. Cô Phượng đứa tiễn tôi thêm một quăng ngắn nữa. Cô Phượng bảo tôi: “Anh Chương này, thế anh đi thật à?” Tôi gật đầu, tôi bảo: “Thôi em về đi. Em nhớ cầu nguyện cho anh”. Cô Phượng gục đầu vào ngực tôi nức nở: “Thôi anh đi đi, chân cứng đá mềm. Em chẳng giữ được... Xin anh nương nhẹ thân mình, dầu chỉ để cho em đỡ khổ”. Tôi vùng bỏ đi như chạy. Trước mặt tôi là dòng sông. Sông chảy ra biển, biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển... Thế mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy Thời gian cũng thao thiết trôi. Chỉ ít năm nữa đến năm 2000... Tôi cứ đi... Phía trước mặt tôi còn biết bao điều bất ngờ chờ đợi. Nàng là ai? Con gái thủy thần? Nàng ở đâu? Con gái thủy thần? Là tình chi? Con gái thủy thần? Để tôi mượn màu son phấn ra đi... TRUYệN THứ BA

Giang hồ còn lại mình tôi Quê người đắng khói, quê người cay men... (Nguyễn Bính)

Kể từ ngày tôi rời xóm dạo bên sông ra đi, thoắt cái thế mà đã mấy năm ròng. Không biết bao nhiêu sự việc qua đi, không biết bao nhiêu người tôi gặp gỡ, gặp gỡ rồi lại chia tay..., không biết bao nhiêu vui buồn, đắng cay cũng có, ngọt bùi... - ồ, mà sao vị ngọt bùi cũng nhạt vậy à? - mà ngọt bùi cũng có... Tôi đã yêu, đã được yêu. Tôi cũng đã chạy trốn nhiều lần. “Chương này! Không phải thế, vẫn không phải thế “ Tôi đã sống nhiều nơi, làm nhiều việc. Tôi cũng đã vứt bỏ nhiều lần. “Chương này! Không phải thế, vẫn không phải thế! “ Tôi nhớ khi tôi lên 10 tuổi, lúc ấy chuyện về Mẹ Cả đang ồn cả lên, sáng sớm tôi hay đi dọc bãi cát bên sông, thầm ao ước trông thấy hình ảnh siêu phàm. Sương mù giăng giăng trên mặt sông. Khi nắng lên, sương tan ra, sương tan ra rồi bay lên như khói, như mây. Mặt sông lộ rõ, ngái ngủ và thẹn thùng. Sóng vỗ bờ, đẩy xác những con phù du, những con vờ dến tận chân tôi. ấy là cảm giác về lẽ thường, lẽ vô thường lần đầu tìm đến rón rén thăm dò tâm hồn tôi. Tôi không biết, tôi không hề. để ý đến chúng. Tôi còn quá trẻ! Lúc ấy, sự mất mát, sự vô nghĩa, lẫn ý thức về thời gian biến dịch không khiến tôi phải bận lòng. Tôi đi dọc bãi cát bên sông. Tôi nhìn thấy một hố cát lõm ngay bên mép nước. Tôi hình dung đêm qua con gái thủy thần đã nghỉ ở đây. Nàng nằm nghiêng, co người lại, dầu gối sát cằm. Nàng nói chuyện với sóng. Sóng khỏa lấp thân nàng. Nàng thủ thỉ với sóng. Nàng nói: “Này sóng! Thôi đừng đùa, đừng ngốc nữa... “ Tôi đi... Thời tôi đang sống là thời khó khăn gian khổ. Chiến tranh đã qua, mọi người bắt đầu xây dựng lại cuộc sống mới. Những vết thương cũ khép dần miệng lại, lên da non. Người ta rối rít kiếm tìm việc làm, kiếm tìm hy vọng. Làn sóng người từ nông thôn tràn ra thành phố nhiều vô kể, hợp thành một tầng lớp “dân phiêu tán”. Tôi đi lẫn trong đám người này, lòng thắc thỏm lo âu cho số phận mình, cũng là số phận của một số ít nông dân hoặc cùng quẫn nhất hoặc nhiều khao khát và ảo tưởng nhất. Những gì để lại đằng sau lưng kia liệu có giá trị gì không? Con sông quê hương lặng lẽ, rặng tre đầu xóm, bức tường đá ong rêu phủ, bóng mẹ liêu xiêu in trong nắng chiều. Mẹ khỉ! Tôi nôn mửa vào kỷ niệm. Nó không sinh ra tiền bạc, nó chẳng mảy may mang lại cho tôi một nụ cười nào. ở đấy không có hy vọng. Tôi đi... Tôi muốn xem phía trước có gì. Tôi đi... Tôi đã khao khát tình yêu đến như thế nào, như thể người đi trong sa mạc khao khát nước! ở đó lẫn lộn rất nhiều mơ ước xen vào: đấy là hạnh phúc, giọt nước mắt, sự ấm êm, những chân trời, chân trời và mặt biển rộng xa vời, một gỏc nhỏ trong vườn, một ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng... ồ, rất nhiều thứ đấy! Mẹ Cả của tôi, ảnh hình của một điều gì đó hơn cả người con gái, hơn cả người đàn bà. Nó là ảnh hình của một nửa thế giới bên trên hoặc bên dưới tôi, của thượng giới và trần gian. Con gái thủy thần! Nàng ở dâu? Nàng bận việc gì? Sao nàng không đến cùng tôi mà nàng chỉ gửi những tfn sứ của nàng đến như cơn mưa kia bất chợt, như đêm trăng kia bất chợt, như tiếng sáo véo von kia bất chợt, như chiếc hôn vội vàng kia bất chợt xót xa tê tái tận đáy lòng... Thôi thôi... Tôi đã nhục nhã, đê hèn đến như thế nào. ở đâu chứ? Từ đâu chứ? Vì cái gì? Mà Chương ơi, nỗi cô đơn và sự bất lực của mi nào ai thấy được ngoài mi? Ai đã làm chi? Mà mi đã làm chi? Bởi cái tình chi? Nào! Tôi phải nhận rằng trong khát vọng tìm kiếm cuộc sống của tôi hẳn có ẩn chứa một con quỷ dữ đã thiếp ngủ có lẽ hàng thế kỷ. Nó ích kỷ, cô đơn, bị làm nhục, nó hoài nghi đủ thứ, dè chừng đủ thứ, vụ lợi và dê hèn. Nó ngẫm nghĩ đôi chút về tôn giáo, về bản chất con người chẳng qua cũng chỉ nhằm để đối chiếu và làm sắc nhọn thêm bản lĩnh quỷ dữ của nó mà thôi. Nó vừa ngô nghê, vừa khôn ngoan, vừa nhanh nhẹn. Nó đa nghi như Tào Tháo. Nó hiểu thời cuộc... A.... Nó hiểu những cơ hội ít ỏi của mình. Nó sục sạo, tìm kiếm. Nó phản bội trái tim tôi. Nó giết chết những khảt vọng mong muốn cao thượng tử tế trong tôi để duy trì cuộc sống chính nó, trong xác thân phàm tục này. Tôi đã nhiều lần bắt gặp nó trong tiềm thức mơ hồ của tôi. Khi tôi phải che mặt, phải ê chề, khi tôi chạy trốn, nhục nhã, tủi hổ... nó ngồi trong góc tâm hồn và khe khẽ hát bài ca của mình, lạnh lùng, giễu cợt... nó nhổ toẹt vào trật tự - đã đành rồi - thậm chí tình yêu, đạo đức, tinh bạn, sự tín nghĩa, lòng trung thực, cả tôn giáo nữa. Nó biết tất cả điều ấy chỉ là ước lệ, không chính xác bao nhiêu, độ bền vững thấp, do ai đó đặt ra trong những tình thế bắt buộc, khi không hiểu gì iắm về đời. Kẻ đặt ra nó sẽ rối trí, sẽ xấu hổ khi y chán đời khi y thất bại, nghĩa là khi ấy y đã không còn nhiều cơ hội nữa trong đời. Chúa Trời mà con quỷ dữ dè chừng, sợ hãi chính là Thần Chết chứ không phải Thượng Đế. Tôi biết chắc chắn thế mà. Tôi biết chắc chắn thế... Tôi đi... Hôm qua mưa. Hôm nay nắng đẹp. Ngày mai nắng. Tôi là Chương. Tôi đi... Tôi muốn văng tục Tôi đi, tôi đang đi... Tôi muốn văng tục! Cách đây không lâu, tôi đến làm thuê cho một gia đình người ở thành phố. Chủ nhà là một người giàu. Ngôi biệt thự đã xây xong, bây giờ xây thêm một bức tường chắn bên ngoài. Tôi đến nhận việc cùng với năm người khác nữa, trong đó có một cô gái tên là Mây, người Mường Hòa Bình. Làm được ba ngày, đến buổi trưa thì Mây đến gần bảo tôi: “Anh Chương này, bà chủ bảo tôi mời anh lên nhà”. Tôi bước vào phòng khách. Cán phòng rộng, trải thảm, đồ đạc cầu kỳ. Trên tường treo bức tranh thảm dệt hai con ngựa đang âu yếm nhau. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường sốt ruột và mờ ám. Tôi nghĩ... Nếu là nơi ở của tôi thì sẽ là cửa ra vào nhỏ và cửa sổ rộng, không trang trí gì và ngoài kia là bãi cỏ xanh với cánh rừng. Tôi chờ một lúc lâu thì có tiếng gọi mời tôi lên gác. Cô chủ trạc 32 tuổi, xinh đẹp, nằm ở trên giường. Cô chủ bảo tôi: “Anh vào đây...” Tôi bước vào phòng. Cô chủ bảo tôi: “Anh ngồi xuống đi. Tôi tên là Phượng. Còn anh, anh tên là gì?” Tôi bảo: “Tôi là Chương, con ông Hùng”. Cô Phượng cười: “Anh ngồi xuống đi. Tên anh không ý nghĩa gì với tôi. Anh hãy nhìn xem. Tôi có đẹp không?” Tôi bảo: “Đẹp” Cô Phượng cười: “Anh vội vàng quá. Anh chưa biết thế nào là đẹp hay xấu nơi người đàn bà. Anh thấy tôi giàu, anh tưởng tôi đẹp. Anh thấy tôi học thức, anh tưởng tôi đẹp. Không phải thế! Nếu tôi đẹp tôi phải nhìn thấy trong ánh mắt anh dứt khoát có những khao khát dục vọng”. Tôi cười buồn bã, không biết trả lời ra sao. Cô Phượng bảo: “Anh là người làm thuê, là dân đen. Phải không nào?” Tôi bảo: “Phải”. Cô Phượng bảo: “Như thế nghĩa là anh không có gì cả. Anh là kẻ yếu”. Tôi bảo: “Xin cô đừng sỉ nhục tôi”. Cô Phượng bảo: “Tôi không sỉ nhục anh. Tôi chỉ nói ra một sự thật. Anh không có của cải, không có sở hữu cá nhân, anh không có quyền sĩ diện, không nên tự ái, không nên phản kháng”. Tôi im lặng, tôi không hiểu lắm về những người giàu tiền và có học thức. Tôi thấy họ bí hiểm, họ giỏi giang, họ nguy hiểm. Thế thôi! Cô chủ của tôi muốn sức lao động của tôi? Muốn gì? Muốn tâm hồn tôi? Mãi đến sau này tôi mới biết rằng trong tôi cũng có đôi điều giá trị và cũng không ít rác rưởi thối tha. Tôi phải trả giá cho bài học ấy của mình. Nhưng đấy là về sau, về sau này... Rồi cô Phượng và tôi cũng hiểu ý nhau. Tôi lên giường nằm. Cô Phượng bảo: “Anh hấp tấp và vội vàng Chẳng qua anh là một con thú yếu. Những con thú yếu hiểu tình yêu như công việc, như đi cầy. Thái độ của họ đối với cuộc sống cũng đều như vậy Hoàn toàn không phải thế! Cuộc sống là một quá trình suy đồi, là một quá trình hưởng thụ. Có thế thôi!” Tôi gầm gừ như sư tử. Cô Phượng bảo: “Anh im đi... đừng có gầm gừ. Sư tử cũng chỉ là một con thú đáng thương, nó sợ những con sư tử khác... Anh yên tâm đi, bố chồng tôi chết rồi, chồng tôi không có ở nhà!” Tôi cười như mếu. Tôi tiếc là mình ít học vấn quá, không tranh cãi được, không hiểu tí gì. Tôi không xúc động. “Tất cả bí mật của vũ trụ, xã hội, công danh, tiền bạc, nghệ thuật... - cô Phượng bảo tôi, - là ở chuyện này. ám ảnh cao nhất, rộng lớn nhất - trên cao và rộng lớn hơn các ám ảnh khác, kể cả tôn giáo, chính trị - là tình dục. Bọn đàn ông các anh loanh quanh vì các anh sợ hãi. Các anh không dám đam mê. Trật tự phụ quyền được đặt ra là một thứ trật tự tục tĩu, ở đấy đầy rẫy bạo lực, dối trá, chủ yếu không phải phục vụ con người mà là dùng để ngăn chặn thú tính trong bọn đàn ông với nhau. Anh có hiểu không?” Tôi bảo: “Không”. Tôi nói: “ Có thể bởi tôi một mình”. Co Phượng bảo: “Anh bỉ ổi. Anh biết rõ dù anh một mình... vì bố anh biết rõ. Anh bỉ ổi hệt như bố anh, như ông Hùng. Rồi ông Hùng cũng bỉ ổi hệt như ông Gấu, ông Sói, ông Dê, ông Lợn tằng tổ ông ta. Anh đừng giả vờ, anh hiểu thứ trật tự ấy từ trong huyết thống. Giấu giếm trong anh là một thứ quyền lực phụ quyền phản dân chủ. Anh bỉ ổi hệt như ba mươi triệu tên đàn ông cùng thời với anh. Anh mặc quần vào rồi cút đi”. Tôi xấu hổ bỏ ra ngoài. Tôi không thích lắm việc này. Tôi về chỗ ở của tôi trong khu nhà tạm góc vườn. Tôi ngủ. Trong mơ tôi thấy tôi đi lạc vào một lòng suối khô cạn. Tôi đi ngược lên mãi. Hai bên đường đi là vách đá dựng đứng như dường lên trời. Tôi mơ thấy con gái thủy thần. Nàng hiện ra trong ánh sáng mờ mờ huyền ảo. Nàng không hùng biện. Nàng chỉ buồn rầu. Nàng bảo: “Này Chương, không phải đường đi ra biển... “ Tôi ở nhà cô Phượng mấy tháng ròng. Chồng cô Phượng vắng nhà, dang ở nước ngoài, mấy đứa con đi học suốt ngày. Cô Phượng có cách nghĩ về tình yêu khá lạ lùng: “Tôi thưởng thức anh, tôi nhắm anh, - cô Phượng bảo tôi, - như thể người ta nhắm món ăn. Tôi và ba mươi triệu ngườl phụ nữ đang rên xiết... Tôi là nhà cách mạng nữ quyền... “ Cô Phượng bảo tôi: “Đàn ông các anh tùy tiện đặt ra luật pháp. Cả chồng tôi nữa. Họ có bà Cả, bà Hai. Họ hưởng lạc giấu giếm... Anh là ông Hai của tôi, anh có thích không?” Tôi bảo: “Cũng thích”. Cô Phượng bảo: “Tôi thích bản chất hồn nhiên man rợ của anh. Nó vô học, vô đạo nhưng lành mạnh.” Cô Phượng giới thiệu tôi cho các bạn gái của cô. Họ đều xinh đẹp, sồn sồn, có học thức, giàu có. Những điều họ nói trong phòng ngủ khác hẳn những điều tôi vẫn được nghe khi tôi còn ở quê nhà, khi tôi đi học hoặc đi kiếm sống ngoài đời. Tôi lờ mờ hiểu ra trên đời có rất nhiều thứ láo khoét được trang sức rực rỡ bề ngoài. Cô Phượng bảo tôi: “Khi ngủ với anh, những người phụ nữ khác có kêu lên không?” Tôi bảo: “Có đôi người”. Cô Phượng cười: “Những tiếng kêu ấy chính là ngôn ngữ nguyên thủy, tinh khiết. Nó trong sáng hơn mọi thứ tiếng ru, thơ phú và nhã nhạc. Tôi luôn cảm thấy những tiếng kêu ấy tựa như tiếng kêu của người tiền sử ở trong hang động...” Tôi ngẫm nghĩ, tôi thấy có lý nhưng tôi không kêu. Tôi kể cho cô Phượng và những bạn gái của cô nghe về quang cảnh làng tôi bên sông. Nhà tôi nghèo, trông ra làng nước cũng nghèo. Mùa lũ về, tôi hay bơi ra bãi Nổi trên sông vớt củi. Dòng sông đỏ quạch phù sa. Những cành củi mục trôi phăng phăng. Những xoáy nước hút chóng mặt. Những con cung quăng chạy nhảy điên cuồng, vô số xác những đàn phù du, xác những đàn vờ chết rất thản nhiên, trắng xóa trên bờ. Chúng không băn khoăn gì về đạo đức. Chúng không hùng biện. Cô Phượng hỏi: “Anh thích thế à?” Tôi bảo: “Cũng thích”. Cô Phượng bảo: “Tôi thấy không có ý nghĩa gì. Anh phải biết rằng cuộc sống là rất rộng Tôi không trả lời. Tôi thấy cuộc sống của tôi và những người dân quê tôi đơn giản bình thường, không phải đặt ra quá nhiều câu hỏi. Chúng tôi sống, lớn lên, hàng trăm hàng vạn thế hệ nối nhau, quanh quẩn chuyện làm ăn, gia đình, tôn giáo, nhà cửa, dục vọng... Chúng tôi cần gì nhiều tiền, nhiều nhà, nhiều đạo đức, nhiều anh hùng? Thoắt buổi sáng, đã trưa, đã chiều. Thoắt mùa xuân, đã thu, đã đông... Chỉ có nỗi buồn là vĩnh cửu. Tôi bảo: “Chỉ có nỗi buồn là vĩnh cửu”. Cô Phượng bảo: “Có thể... nhưng anh đừng khẳng tlịnh...” Tôi hình dung ra xác những con phù du, những con vờ bị sóng đánh tạt vào bờ. Tôi chợt nhận ra con người phải lùi rất xa mới gạn lọc được đôi chút dấu vết giá trị văn minh, giống như hôm nay ta xúc động bởi một câu Kiều, bởi một pho tượng Chàm, bởi một dấu vân tay trên bình gốm cổ... Hàng tỉ những con phù du, những con vờ chết đi không để lại một dấu vết gì. “Cảm giác thôi, - cô Phượng bảo tôi, - đàn bà chúng tôi chỉ tin ở cảm giác, mà cảm giác nghĩa là nhầm lẫn và tạm bợ. Anh vào ngôi nhà này, anh có cảm giác nó giàu, nó hạnh phúc. Năm mươi năm nữa người ta sẽ đập nó đi. Nó không phải văn hóa! Tôi không biết cách truyền cảm giác vào lịch sử, còn nếu biết cách thì tôi sẽ làm cho nó lúc nào cũng đê mê, ít nhất như vậy nó sẽ đỡ tàn bạo và dung tục hơn như thực tế”. Tôi có rất ít thì giờ để nghĩ ngợi những điều khó hiểu như thế. So với mọi người thì tôi chẳng có gì cả. Tôi không có tiền bạc. công danh, không có gia đình để yêu thương lo nghĩ, không có bạn bè... Ngay cả giấy tờ tùy thân cũng không có nốt. Tôi là con số không. Tôi vui một mình, buồn bã một mình, mơ mộng một mình... Tôi chỉ có con gái thủy thần chờ đợi... “Thế là anh sướng, - cô Phượng bảo tôi, - khi người ta sở hữu gượng ép, người ta sẽ bị trói buộc. Đấy là thứ gông cùm vô hình, mặt đất hóa thành địa ngục. Tôi đang sống trong địa ngục, đấy là văn hóa, pháp luật, gia đình, trường học. Còn anh, chính anh đang ở thiên đường”. Tôi cười thầm... Tôi nhớ lại những gì mình đã trải qua trong đời. Đám trẻ trần truồng ngồi ở bên sông, nấp trong rặng mía. Chúng tôi nói chuyện cao siêu về người Nga, người Mỹ làm bom nguyên tử, chuyện bà Mạnh Tử dạy con, chuyện người ta câu được một con cá voi nhưng khi lôi được vào bờ chỉ còn có mỗi bộ xương... Thế đấy, những chuyện trẻ con, những chuyện động trời... Cô Phượng bảo tôi: “Này Chương Anh đang nghĩ gì?” Tôi bảo: “Trên nền nhà gạch đá hoa thì rất khó đi... “ Cô Phượng bảo: “Chồng tôi cũng nói như thế. Anh ta trách tôi không biết đi lại trong nhà, không có cử chỉ linh hoạt và chỉ biết đi từng bước một như đếm...” Cô Phượng nói năng như trên sân khấu. Tôi nhớ chiếc chòi canh mía khi tôi còn là bảo vệ ở quê. Đêm trăng suông, tôi ngồi chống cằm, mắt nhìn lên những ngôi sao xa xăm. Một ánh mắt vô hình từ trong khoảng không sâu thẳm ở giữa bầu trời bao la đang dõi theo tói. Tôi biết chắc chắn có ánh mắt ấy. Điều ấy khiến tôi xúc động. Sau này tôi gán cho nàng, cho Mẹ Cả, cho con gái thủy thần, cho người đàn bà vẫn chờ đợi tôi ở nơi xa xăm, mãi tận bên kia một nửa địa cầu. Tôi biết, nàng vẫn hy vọng và đấy chính là chỗ dựa cuối cùng cho sự cô đơn hoang vắng ở trong lòng tôi. Tôi đã sống qua rất nhiều lẽ thường: những lần đánh nhau với bọn phàm phu, làm việc không công cho người nghèo khó, nhả nhớt cợt đùa với lũ du côn... ánh mắt vô hình vẫn dõi theo tôi hoài hoài. Nàng vẫn thủ thỉ trong dêm. Nàng nói: “Này Chương, vẫn không phải đường ra biển...” Cô Phượng bảo tôi: “Có lẽ ở thế hệ trước thì cha anh tôi cũng giống như anh bây giờ. Họ mang lại đủ thứ cho chúng tôi, trước hết là vật chất, trừ mỗi một thứ là văn hóa sống”. Tôi hỏi: “Văn hóa sống là gì?” Cô Phượng nói: “Tôi cũng nghĩ rất nhiều nhưng kết luận có lẽ chỉ một chữ thôi: “sướng!” Tôi nằm im. Tôi không hiểu rõ những điều mà cô Phượng nói. Điều gì làm cho người ta khao khát ham sống? Tôi hỏi cô Phượng điều này. Cô Phượng trả lời: “ăn ngon, lời tâng bốc và sex. Anh xem còn thêm gì nữa thì tùy”. Những ngày ở nhà cô Phượng khiến tôi suy sụp. Tôi kiệt sức. Tôi phải tiếp từ một đến ba quý bà, quý cô một ngày. Tôi hoa mắt, chóng mặt. Ngày xưa tôi đi đào đất cũng không vất vả thế này. Điều kinh khủng nhất là những chuyện mà những người đàn bà ấy rót vào tâm hồn tôi. Tất cả đều là mật đắng. Tại sao cuộc sống lại nhiều xích xiềng, gông cùm như thế. Khi chồng cô Phượng về nhà được mấy hôm thì lập tức tôi bị đuổi việc. Tối hôm ấy, tôi nằm trong xó ở khu nhà tạm. Thân thể tôi đau nhừ, lưng đau tưởng như gãy gập, cổ họng khát khô. Nửa đêm, có tiếng kẹt cửa rồi Mây mang vào cho tôi một bát cháo nóng. Mây hỏi tôi: “Anh Chương! Anh bị sốt à?” Tôi bảo: “Không”. Mây bảo: “Anh Chương này, tối nay tôi phải lên hầu ông chủ. Tôi không thể từ chối vì món tiền ông ta cho tôi lớn quá... Tôi không muốn dành sự trong trắng của tôi cho người khác... Tôi muốn anh... Anh giúp tôi đi... “ Mây đưa tay cởi cúc áo ngực của tôi. Trong bóng tối mờ mờ, Mây quay người lại, tôi thoảng thấy tấm lưng trần quẫy ở trước mặt, ánh sáng trắng bên ngoài chiếu vào trông thật kinh dị nhưng đẹp lắm. Tôi chợt nhớ đến Mẹ Cả, đến con gái thủy thần. Lòng tôi nhói lên cảm giác đau đớn xót xa. Mây kêu lên những tiếng khe khẽ. Tôi nghe như có tiéng khóc từ nơi xa xăm vọng lại, như từ nơi hoang mạc đưa tới. Nước mắt của tôi và Mây hòa quện vào nhau, ướt đầm trên hai khuôn mặt. Mây giằng ra khỏi tôi thất vọng: Này Chương! Anh bất lực à?” Tôi úp mặt khóc thầm, xấu hổ ê chề. Mây đứng dậy bảo tôi: “Em hiểu...cái số của em nó thế... Anh đừng buồn, đừng khóc nữa... Những người ở trên nhà kia họ được tất cả... Anh Chương, xin anh bảo trọng thân mình, dẫu chỉ để cho em đỡ khổ... “ Mây luồn chạy ra ngoài sân. Tôi thấy mái nhà sập xuống đầu tôi, bầu trời sập xuống đầu tôi. Tất cả là đổ vỡ và tan nát. Sớm hôm sau, tôi bỏ đi rời khỏi thành phố. Tôi không có ai để chào từ biệt. Tôi cứ đi, đi mãi... Trước mặt tôi là dòng sông thao thiết. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển... Tôi chưa biết biển... Mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy. Chỉ vài năm nữa đến năm 2000. Con gái thủy thần! Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Vì cái gì? Bởi cái gì? Để tôi mượn màu son phấn ra đi... Con gái thủy thần Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Vì cái gì? Bởi cái gì? Để tôi mượn màu son phấn ra đi...

KẺ VÔ HỌC

Đêm. Khu rừng rộ lên những âm thanh ma quái, rừng không hề yên tĩnh như cái vẻ bề ngoài của nó. Tiếng nai tác, hổ gầm, cú rúc, làm cho hắn cảm thấy bình yên, đó là thói quen mười mấy năm qua! Hắn sợ nhất là bỗng dưng rừng im bặt, chim ngừng hót, thú ngừng kêu, chỉ còn rì rào âm thanh đều đều, mê hoặc, ru ngủ của dòng suối bên căn chòi. Những lúc như vậy, hắn nắm chặt chuôi dao găm, cặp mắt tròn xoe như mắt mèo rừng nhìn đăm đắm vào bóng tối. Đứa con gái nằm trên cái sạp tre, hắn bẻ từng cành củi nhỏ ném vào đống lửa để sưởi ấm cho con. Đã từ lâu hắn không bao giờ ngủ ban đêm, hắn thức không phải vì sợ thú rừng mà sợ con người, hắn căm ghét loài người, tất nhiên ngoài con gái của hắn ra. Điều hắn bực bội nhất là đứa con gái hoang dã của hắn ngày càng xinh đẹp, giống mẹ như đúc. Dù mọi sự liên hệ với xã hội loài người đều thông qua con gái, nhưng hắn dạy con phải căm ghét loài người, luôn luôn nghi ngờ thì mới tồn tại được, con người là loài động vật ưa phản bội nhất ! Năm mười hôm hắn cho con ra bản làng một ngày. Những người dân Chơ Ro hiền lành không hề quan tâm đến cô gái nửa kinh, nửa thượng thường mang thú rừng ra đổi gạo muối cho quán tạp hoá của lão Chệch đầu bản. Hắn không bao giờ cho con gái mang cái gương về nhà, nhìn thấy gương là hắn đập ngay. Ngày xưa vợ hắn cũng thường soi gương như vậy. Hắn thù hận nàng, nhưng hắn nhớ quay quắt nụ cười của nàng. Ngọn lửa liếm dần cành gai lào táo, ánh lửa xanh lè ma quái, ngọn lửa liêu trai và dâm đãng. Bỗng dưng máu trong huyết quản của hắn sôi lên, ngọn lửa làm hắn nhớ hình ảnh nàng quằn quại cuốn đôi chân ngà ngọc vào tấm thân trần của tên khốn nạn! Hắn nhớ ngày hắn dắt nàng về nhà, mẹ hắn khen nàng đẹp, nhưng bà lại nhìn hắn bằng con mắt lo lắng khi thấy nụ cười mơn trớn của nàng dành cho hắn. Bà lẩm bẩm:Đời thằng này rồi sẽ khốn nạn! Mẹ hắn bao dung đón nhận đứa con hư hỏng trở về, hắn biết rõ điều đó, một nhược điểm cố hữu của những người đàn bà nông thôn, chú hắn bảo thế mà! Đôi mắt lá răm lúc thì lúng liếng, lúc xa xăm của nàng đã hớp hồn hắn. Bao nhiêu tiền bạc kiếm được, hắn mang đến quán karaoké để mua nụ cười của nàng.

Mẹ hắn, người đàn bà từng trải, một phụ nữ Việt Nam điển hình, chịu muôn vàn mất mát đau thương. Cha và anh trai hắn hy sinh lúc cùng đoàn quân vào đến tận cửa ngõ Sài Gòn. Đồng đội kể rằng:Khi niềm vui chiến thắng đã gần kề, hai cha con gặp nhau trên đường hành quân, họ ôm nhau, ôm như thể dính vào nhau và họ đã chết trong tư thế lạ lùng như vậy. Họ chết cứng, bọn Mỹ ném quả bom ngạt CPU cuối cùng xuống mặt trận Xuân Lộc trước khi tháo chạy. Lúc ấy, hắn mới mười lăm tuổi, mười lăm tuổi nhưng hắn đã là lực điền, một lao động chính, khi nghe tin cha và anh hắn hy sinh, mẹ hắn ngất xỉu trên đám ruộng đang cấy dở, hắn vác mẹ chạy về làng. Tưởng bà ngã quỵ đợt ấy luôn, nhưng trái với sự tưởng tượng của mọi người, bà tỉnh dậy, cặp mắt ráo hoảnh và lạnh như băng, trong lúc những đồng đội của chồng và con trai bà vừa làm lễ truy điệu vừa khóc. Họ khóc vì thương đồng đội, họ khóc vì chứng kiến cái chết đầy bi tráng của cha con người lính. Hai cha con dính chặt vào nhau, không gỡ ra được, đồng đội đành phải làm quan tài đôi để chôn chung hai người. Mẹ hắn dành hết tình thương còn lại cho hắn, nhưng hắn đã phụ công ơn của mẹ. Học chưa xong tú tài, hắn bỏ học theo bạn bè đi đào đá đỏ. Học làm quái gì, cái thứ lý thuyết vô bổ ấy. Hắn thấy chú ruột của hắn học chưa qua tiểu học, cũng làm cán bộ to trên huyện. Mỗi khi tạt qua nhà thăm chị dâu, sau khi đánh một vòng quan sát khu vườn đất hương hỏa, ông vỗ vai hắn nói:

- Nghe bảo mày học dốt lắm hả, đã học không vô thì cố học làm quái gì, đâu có phải ai có học cũng giỏi cả đâu, tao chỉ học hết lớp ba mà mầy thấy đó, mỗi khi về trường mầy dự lễ tao chỉ mới nói một câu: Kính chào thầy cô giáo..!, là bọn trí thức ấy vỗ tay rầm rầm. Hà hà… Có tiền có quyền là có tất cả mày hiểu chưa?

Ông cười sảng khoái vì sự phát hịên ra điều chứng tỏ sự thông minh của mình. Hắn không thích ông chú ruột lắm, một kẻ vô học dám chế nhạo các thầy cô giáo của hắn, dù hắn có học dốt thì các thầy cô hắn cũng là những người đáng kính, nhưng hắn thấy ông ấy nói có lý. Mẹ hắn căm ghét ông em chồng ra mặt, có lần nghe chú hắn nói thế, bà nổi giận mắng té tát vào mặt ông:

- Đồ sâu bọ, đồ rắn rít, chú đừng truyền tư tưởng mất dạy đấy cho thằng bé, không hiểu sao chồng tôi lại có người em khốn nạn như chú!

Ông chú cười nhăn nhở:

- Thời thế nó vậy bà chị ơi, nhà có hai anh em, một người sống lý tưởng thì người kia phải thực tế mới có tiềân lo cho gia đình, dòng họ chứ!

- Chú nói vậy, làm vậy mà không sợ bị mất chức à ?

- Ấy đó là em chỉ nói với chị thôi, người nhà với nhau, chứ ra ngoài em đạo đức lắm, em khuyến khích sự học đấy chứ, ai cũng khen em cả chị không thấy sao. Thôi chị đừng giận, em về đây, khi nào thằng cháu không học được nữa chị tống nó lên huyện cho em.

Nói xong ông kéo hắn ra góc vườn dúi cho hắn một nắm tiền.Từ những đồng tiền của chú cho, hắn trượt dần xuống vũng lầy cuộc sống, chưa nghiện ngập nhưng hắn chán học, mới mười bảy tuổi đầu hắn biết đánh bạc, chơi gái. Việc trốn học xảy ra như cơm bữa, thầy giáo gởi thư báo tin cho mẹ hắn, hắn chận đường mấy đứa bạn tước thư đi. Hàng ngày hắn vẫn quần xanh, áo trắng mang cặp đi học. Trường học của hắn là quán karaoké trong thị trấn. Ở đây hắn gặp nàng, nàng trói chặt cuộc đời gã trai tơ của hắn bằng đôi chân mềm mại như ngó sen. Mỗi lần ghé qua uỷ ban, chú hắn lại dúi cho hắn vài triệu. Hắn sống như vua con cho đến cái ngày đích thân thầy chủ nhiệm đến báo tin cho mẹ hắn biết hắn đã bị đuổi học, lần này thì mẹ hắn quỵ thực sự, bà khóc liền mấy ngày đêm. Hắn nạt mẹ:

- Có gì mà khóc, cần gì phải học, đâu phải cứ có học mới giỏi, con sẽ làm giàu cho mẹ coi.

Mẹ hắn nhổm dậy, đầu tóc rũ rượi, bà hét vào mặt hắn:

- Mày cút đi, thằng khốn nạn, mầy làm nhục vong hồn cha mày.

- Làm quái gì có vong hồn, chết là hết - Hắn lẩm bẩm, rồi vác ba lô lên rừng đào đá, chú hắn đã rỉ tai cái công việc dễ kiếm tiền này, ông tận tình hướng dẫn cặn kẽ về vùng đất mà hắn sẽ đến. Sau một năm lăn lộn, hắn trúng lớn. Không như hăm doạ của nhiều người, hắn chẳng hề bị sốt rét, chẳng phải đâm chém, chỉ đánh nhau vài trận, nhưng dường như có sự che chở vô hình nào đó nên bọn "lính cũ" hậm hực dạt ra để hắn làm ăn tự do.Việc đầu tiên khi trở về thị trấn, hắn vào quán Karaoké tìm nàng, hắn xoè ra trước mặt nàng nắm đá đỏ, nàng vội vứt bỏ tất cả mọi thứ lỉnh kỉnh trong quán, theo hắn về quê. Hắn xây nhà mái bằng, làm hẳn bồn tắm trong phòng ngũ để vợ chồng tắm chung. Hắn đặt một bàn thờ sơn son thếp vàng thay cho bàn gỗ ngay giữa nhà, hắn tạc hình cha và anh lên sơn mài, lồng hai cái bằng "Tổ quốc ghi công" và cái khung kính mạ vàng mười tám. Ai vào nhà cũng trầm trồ khen sự hiếu thảo của hắn. Họ khen mẹ hắn có con trai giàu có, con dâu xinh đẹp. Mẹ hắn không vui, không buồn, hắn ném ra rào cái bát hương sành để thay lư đồng trên bàn thờ, bà lặng lẽ mang bát hương vào buồng của mình. Tới bữa bà ăn rau chấm tương, chứ không hề đụng tới thịt cá, từ ngày hắn bỏ học mẹ ăn chay trường, tụng kinh suốt ngày.

-Mặc xác bà ấy, cụ lẩm cẩm mất rồi !

Nói xong hắn lăn vào nàng…

***

Thành nhích dần về phía căn chòi, anh biết rõ gã tội phạm bị truy nã đang ở trong căn chòi kia, anh cũng biết gã rất nguy hiểm và nhanh nhẹn. Mới ra trường, Thành đã nhận một nhiệm vụ khó khăn, anh phải truy nã tên tội phạm giết người sống ngoài vòng pháp luật suốt mười lăm năm qua. Mười lăm năm, quãng thời gian đủ để cho con người quên đi nhiều thứ, nhưng nghề của anh thì không được quên, tên tội phạm nguy hiểm sẽ bị truy nã bằng mọi giá. Khi nhận nhiệm vụ, anh chỉ có trong tay tấm hình của hai người trẻ tuổi đang trao nhau cái nhìn âu yếm. Chàng trai có gương mặt cương nghị rắn rỏi, môi dày trễ ra khi cười, mắt sáng, mái tóc đen nhánh bồng bềnh, cô gái mắt lá răm, mũi dọc dừa, nụ cười tươi như hoa, lúm đồng tiền tăng phần quyến rũ trên gương mặt bầu bỉnh. Ngắm đi, ngắm lại tấm hình, anh không tin rằng chàng trai có nụ cười hiền lành lại là một tên tội phạm nguy hiểm, một kẻ giết người và đang trốn tránh pháp luật. Có nguồn tin tên giết người đang lẩn tránh trong vùng rừng núi miền Đông Nam bộ. Trong vai một hoạ sĩ, Thành cắp giá vẽ lang thang nhiều ngày trong các bản làng miền Đông, từ Bình Dương đến Đồng Nai nhưng vẫn chưa có vết tích gì cả. Lợi thế lớn nhất của Thành là anh biết vẽ, trước khi theo ngành công an, anh đã tốt nghiệp cao đẳng mỹ thuật. Thành thu mình thật nhỏ lại trong bụi cây quan sát căn chòi có ánh lửa bập bùng dưới gốc cây lim già. Anh biết tên tội phạm nguy hiểm, kẻ giết người đang ở trong ấy. Hắn không chỉ ở một mình, hắn ở với một con người thánh thiện. Cô trong trắng như bông hoa rừng, anh không muốn làm cho cô tổn thương nên anh phải thu mình chờ đợi. Anh gặp cô trong một lần mang giá vẽ vào rừng. Đã một tuần trôi qua anh chưa tìm ra manh mối gì cả, nhưng bù lại anh có gần chục phác thảo tuyệt đẹp về núi rừng và những cảnh sinh hoạt hấp dẫn của người dân tộc. Đang lang thang trong rừng anh bỗng nghe tiếng hát, tiếng hát thánh thót của một cô gái, tiếng hát rất hay dù bài hát là những ngôn từ lộn xộn và kỳ cục. Anh lần theo tiếng hát và gặp cô, cô ngâm mình trong nước, váy áo dính sát người, lộ những đường cong tuyệt mỹ. Không kiềm chế được trước vẻ đẹp lạ lùng ấy, anh bày giá vẽ. Ngọn bút chì chạy thoăn thắt trên giấy, vừa vẽ anh vừa van lơn: "Đứng yên nhé! Đứng yên nhé!" Thấy anh chàng trẻ tuổi có hành động kỳ lạ cô chẳng hiểu gì cả, nhưng dường như cô đọc được điều gì đó trong ánh mắt van lơn ấy, nên cô đứng yên. "Xong rồi!"- Tung cây bút chì xuống dòng suối, anh reo lên như đứa trẻ. Cô lội lên bờ tò mò ghé mắt vào bức tranh. Anh quay lại nhìn cô thốt lên: "Em đẹp lắm!" Cô gái bật cười lanh lảnh. "Em tên gì ?" - Anh hỏi. "Tên ư? Không có tên!" Nói xong cô vụt chạy vào rừng. Đêm về, nằm một mình trong ngôi nhà rông của già làng, anh mang bức tranh ra ngắm, lúc này anh mới giật mình thấy gương mặt của cô quen lắm, dường như anh gặp ở đâu rồi. À đúng rồi, gương mặt cô giống như tạc người chụp chung với tên tội phạm trong tấm ảnh mà cấp trên giao cho anh. Cái tư duy nhạy bén của người công an quay trở lại trong anh, anh đã tìm ra manh mối của vấn đề…

Đêm ấy, cô không ngũ được, lần đầu tiên trong đời cô không ngủ được, ánh mắt van lơn của chàng trai bên bờ suối theo cả vào trong giấc mơ, ánh mắt mơn trớn, vuốt ve cô. Tâm hồn rạo rực, người nóng ran, cô lang thang ra rừng. Cô không hề kể cho cha cô nghe chuyện này, ông sẽ giết anh ấy mất, ông rất ghét con người, đó là điều bí mật ông không bao giờ kể cho cô nghe.

Không hẹn nhau, ngày hôm sau và nhiều ngày sau nữa họ gặp nhau bên bờ suối, giống như duyên nợ tiền định…

Cô đã ngây thơ kể cho anh nghe về người cha kỳ cục của mình và quãng đời sống cơ cực trong rừng sâu, suốt mấy chục năm qua. May mắn, ông còn cho cô về buôn làng để giao tiếp với người Chơ Ro, người dân tộc ở miền Đông này không giống như ở Tây Nguyên, ngôn ngữ chính của họ là tiếng Kinh, nhờ đó mà cô biết được nhiều chuyện của xã hội loài người, dù vậy cô vẫn là con người hồn nhiên, hoang dã cho tới ngày cô gặp anh…

Thành sẽ phải bắt cha của cô, đó là nhiệm vụ, anh không thể làm khác được, anh đã xác định được tên tôi phạm truy nã mà cơ quan công an đã tìm kiếm suốt mười lăm năm qua. Nhưng anh không muốn làm cô hoảng sợ, ngồi thu mình trong bụi cây anh chờ cô ra ngoài để hành động, anh chợt nhớ lời mẹ anh, trước khi anh lên đường vào trường đại học Cảnh sát, mẹ nói: "Con hãy suy nghĩ cho kỹ, mẹ biết con đau lòng về cái chết của cha con, nhưng tư chất nghệ sĩ của con không theo nghề này được!" Bây giờ anh mới thấy mẹ nói đúng, nhưng dù sao anh cũng phải hoàn thành nhiệm vụ này, nhiệm vụ đầu tiên trong đời làm cảnh sát hình sự của mình. Nhất định cô ấy phải ra, anh sẽ bắt cha cô rồi thuyết phục cô trở lại với xã hội loài người, anh sẽ đùm bọc cho cô.

***

Hắn ném thêm một thanh củi vào đống lửa, con bé lại trở mình. Lạ thật! Cả tháng này con bé thẩn thờ như người mất hồn, từ khi con bé lớn đến giờ, hắn không dám nhìn vào mặt con. Hắn sợ gương mặt ấy lắm, sao mà nó giống nàng như đúc, quả là oan nghiệt ! Hắn nhớ rất rõ cái ngày khốn nạn ấy…!

Của như núi, ăn mãi rồi cũng phải hết, khi đứa con gái đầu lòng được hai tuổi, nàng suốt ngày soi gương và than phiền, vì hết tiền nàng buộc lòng phải thay đổi kem dưỡng da loại rẻ tiền nên da nàng không còn tươi như trước. Hắn bảo nàng không phải lo, hắn sẽ lên rừng kiếm ít đá đỏ, mỏ đá mà hắn phát hiện mới lấy một ít, khi trở về hắn cẩn thận lấp lại để đó. Hắn hôn nàng rồi lên đường, mẹ hắn vào buồng tụng kinh.

Ngọn lửa tàn dần, hắn lại ném vào đống lửa một cành cây, con chím cú rúc lên những âm thanh ma quái trên cây lim già trước căn chòi. Bỗng dưng tiếng rúc ngưng giữa chừng, khu rừng tĩnh lặng mọi thứ im bặt, hắn bật dậy đặt tay vào chuôi dao. Vài phút sau, có tiếng cú rúc trở lại, hắn thở phào ngồi xuống, con gái hắn trở mình nhìn cha, rồi nhắm mắt. Mười mấy năm sống trong rừng với cha, con bé nhanh như sóc, nhấp nháy nó có thể phóng lên ngọn cây tranh nhau với lũ khỉ hái mớ trái gùi.

Hắn trở lại vùng đá đỏ không thuận lợi như lần trước, hầm đá mà hắn phát hiện đã có người khai thác. Nhưng hắn không nản lòng, hắn sẽ tìm chỗ khác, đất ở đây mênh mông hắn lo gì. Lúc này công an truy quét dữ lắm, nhưng hắn có bửu bối, chú hắn đã có lời nhắn gởi cho một người bạn làm lớn ở vùng này, nên hắn hoạt động tự do. Hắn hì hục suốt sáu tháng trời nhưng chưa trúng quả như lần đầu, hắn sẽ không trở về, nhất định như thế. Nàng sẽ trách hắn để cho nàng thiếu thốn. Hắn yêu nàng, hắn không muốn nhìn thấy cái cau mày của nàng. Hắn biết ơn nàng. Xung quanh nàng có bao nhiêu người săn đón, nhưng nàng chọn hắn. Hắn phải làm cho cuộc sống của nàng sung sướng. Lần này hắn sẽ cố kiếm thật nhiều tiền rồi giải nghệ nghề đào đá. Hắn sẽ nhờ chú kiếm một chỗ ở chợ huyện để mở một sạp vải cho vợ buôn bán. Trời lại mưa, hắn nằm ngữa, gối đầu trên đùi cô gái điếm. Nhà thổ phục vụ cho dân đào đá đỏ mọc lên từ lúc bãi đá mới có vài mươi người. Những cô gái điếm quá tuổi xuân dạt lên đây kiếm sống. Tuy nhan sắc tàn phai nhưng họ cũng giúp cho những tay đào đá khoẻ mạnh giải quyết khoản khao khát đàn bà. Hắn không bao giờ đụng đến bọn này, hắn chỉ cần chúng đấm lưng, nhổ tóc ngứa và hát cải lương cho hắn nghe thôi. So với vợ hắn , bọn này chỉ là con quạ xấu xí trước con công sặc sỡ. Trứơc khi lấy hắn, nàng cũng là kỹ nữ, nhưng kỹ nữ hạng sang, nàng chỉ chấp nhận đi chơi với những ai có xe hơi. Hắn là trường hợp ngoại lệ. Hắn bị nàng hớp hồn sau lần hắn được chú hắn đưa vào quán karaoke, gặp nàng hắn thấy đám bạn gái kiêu kỳ ở trường trung học chỉ là đám trẻ ranh. Chú hắn đã tạo mọi điều kiện cho hắn gặp nàng, nàng đã chiếu cố sau nhiều ngày hắn quỳ dưới chân nàng. Cậu học sinh trung học hoang đàng biết mùi đàn bà trong một cơn say, hắn cầu xin nàng làm vợ hắn, nàng đồng ý nhưng với điều kiện hắn phải đảm bảo cho nàng một cuộc sống sung sướng. Hắn lên đường kiếm tiền, lần ấy hắn gặp may và đã có được nàng. Hắn mơ màng nghĩ đến ngày hắn trở về, nàng sẽ đón hắn bằng nụ cươi tươi rói ngay đầu ngõ. Hắn sẽ vần cho nàng một trận ra trò, hắn không muốn phí sức với đám đĩ rài, đĩ rạc này. Hắn cũng nhớ con nữa, đứa con gái có đôi môi nhỏ xíu chúm chím mỗi khi hắn đặt nụ hôn trên đôi má thơm tho của nó. Đang mơ màng, mụ chủ quán sầm sập đá vào người hắn.

- Dậy đi, có người dưới xuôi báo tin mẹ mày chết rồi, chết cả tháng nay.

- Thật à ?

Hắn bật dậy như cái lò xo, bàng hoàng hỏi một câu thừa. Mẹ hắn đã chết ư? Hắn đúng là đứa con bất hiếu, mấy tháng qua hình ảnh nàng chiếm hết tâm trí, khiến hắn quên mất hình ảnh người mẹ tần tảo ngày xưa nuôi hắn khôn lớn. Hắn vơ vội túi đá vụn rồi lao ra đường. Về đến nhà trời đã khuya, hắn nghe tiếng con gái khóc. Hắn ngưng lại, với kinh nghiệm của một kẻ giang hồ bãi đá hắn nhận ra chuyện khác thường. Dưới ánh trăng mờ mờ hắn thấy chiếc xe gắn máy của ai giấu bụi chuối sau hè. Hắn rón rén như con mèo rừng, tay đặt lên chuôi dao găm đeo bên hông, lưỡi dao lê của Mỹ sắc như nước luôn được hắn đeo bên mình, đó là thói quen của dân đào đá đỏ. Ghé tai vào cánh cửa gỗ, hắn nghe tiếng rên nho nhỏ trong cổ họng của người đàn bà, tiếng rên này hắn quen thuộc lắm, tiếng rên đĩ thỏa của nàng. Mặt nóng bừng, hắn đạp cửa xông vào, hai tấm thần trần truồng thổn thện trắng lốp nổi lên giữa bóng tối mờ mờø, bọn chúng làm trò bỉ ổi ngay trên ghế salon, trước bàn thờ của mẹ hắn. Hắn vung dao, gã đàn ông vọt chạy về phía cửa sau, hắn lao theo. Nàng chồm lên ôm chân hắn. Không kịp suy nghĩ, hắn vung dao đâm xuống, lưỡi dao ngập vào tấm lưng trần trắng toát của nàng, hắn rút dao máu vọt thành vòi, nàng hực lên ngã xuống, hắn hất nàng ra và lao theo gã đàn ông, nhưng đã trễ, tiếng xe máy nổ xa dần trong đêm tối. Hắn quay lại sững sờ chết lặng bên xác nàng. Hắn hoàn toàn không ngờ điều khốn nạn này đã xảy ra trong ngày hắn trở về.

Oe…o..e..oe…

Tiếng khóc của con gái kéo nó về thực tại, hắn chợt nhận ra mọi chuyện, hắn bế thốc con gái và băng mình vào đêm tối…

Mới đó mà đã mười lăm năm rồi, mười lăm năm trốn tránh khắp nơi, cuối cùng hắn quyết định sống trong rừng sâu của miền Đông Nam bộ này… Mười lăm năm, mà hắn nhớ rõ mồn một như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua...

Thành nhìn đồng hồ dạ quang, đã ba giờ sáng, khẩu súng trong tay anh lạnh ngắt tê buốt. Thành căng mắt trong đêm tối, ngọn lửa vẫn âm thầm cháy. Một bóng người ra khỏi căn chòi, chính là cô ấy. Cuối cùng sự chờ đợi của Thành cũng đã đến, cô bé đi về phía dòng suối, rời chỗ ẩn nấp, anh rón rén đi về phía căn chòi. Thành áp sát căn chòi rồi bất thần đạp cửa bung vào, nhưng anh đã chậm, chưa kịp bóp cò thanh củi đã giáng xuống tay Thành, khẩu súng văng ra, anh lao vào hắn, nhưng hắn nhẹ nhàng lách qua một bên, thuận tay hắn rút lưỡi dao găm bên hông. Trong lúc Thành lỡ đà, hắn đã vung dao lên, lưỡi dao sáng loáng dưới ánh lửa. Bỗng có người xô mạnh, Thành loạng choạng dạt qua và sau đó là một tiếng rú dài vang động cả khu rừng..! Cô bé đã hứng trọn lưỡi dao của cha mình trên bả vai. Hắn không ngờ con gái bất thần quay lại và lao vào cứu kẻ lạ mặt này, hắn lại phạm thêm trọng tội, hắn hú lên thống khổ đau đớn và phóng mình vào bóng đêm của rừng già. Cô gái ngã trong vòng tay Thành, rất may lưỡi dao không trúng chỗ hiểm, anh rút lưỡi dao, xé phăng chiếc áo sơ mi băng vội vết thương và vác cô chạy về buôn. Anh chạy bằng tất cả sức lực trai trẻ của mình, cô đã được đưa lên bệnh viện trước khi trời sáng…

***

Mười hai giờ trưa, cô qua cơn nguy kịch, anh thẩn thờ rời phòng bệnh. Trước cổng bệnh viện, mọi người xúm quanh gã người rừng, gã dựa vào gốc cây xà cừ trước cổng bệnh viện, cúi đầu ủ rủ. Gã đứng như thế cả giờ đồng hồ qua. Khi Thành ra cổng, gã nhìn anh bằng đôi mắt buồn bã rồi đưa hai tay về phía anh, anh móc chiếc còng trong túi quần tra vào tay gã. Gã cố nhìn qua hàng rào bệnh viện, Thành khẽ gật đầu và nói thật nhỏ chỉ vừa đủ gã nghe: "Con gái ông đã được cứu sống" Gã lặng lẽ đi theo anh.

Người đàn ông đường bệ từ chiếc xe hơi bên kia đường bước xuống, nhìn theo gã người rừng, mĩm cười quay lên xe. Ông tin rằng gã không thể biết khu đất của gã, ông đang sở hữu theo luật thừa kế đang có giá hàng tỷ đồng. Con đường chạy ngang qua mảnh đất hương hoả được ông duyệt theo quy hoạch từ ngày gã còn đi đào đá đỏ nay đã làm xong. Ông cũng tin rằng gã không thể biết người đàn ông mà gã giết hụt đêm đó chính là ông. Mười lăm năm rồi còn gì, không chỉ gã mà không ai có thể biết được chuyện của ông làm, không một ai biết được! Ông dựa người ra nệm xe và tự thưởng cho mình một điếu ba số năm thơm lừng. Mãn nguyện với sự thông minh của mình, ông lẩm bẩm: "Cuộc đời này đâu cứ phải học nhiều là sẽ giỏi !".

Anh tài xế khẽ mỉm cười…

TRƯỚC MẶT LÀ DÒNG SÔNG

Dãy phòng trọ hướng mặt về dòng sông, trước đây là ao rau muống, khi khu công nghiệp hình thành chủ nhà lấp đất xây phòng cho thuê. Những căn phòng được công nhân ưa thích, ở đây mỗi chiều từ trước hiên nhà họ có thể ngắm dòng sông để tìm lại chút khung cảnh của quê nhà. Chủ nhà trọ là một thiếu phụ xinh đẹp và hoà nhã, có người thất nghiệp ở lì ba tháng liền, chị cũng không hỏi tiền nhà. Bốn căn phòng đã có người đặt từ lúc mới khởi công. Khi người thuê đến ở, hàng ngày vẫn có người hỏi. Ao rau muống được lấp kín, còn một khoảng đất rộng có thể xây thêm bốn phòng nữa, Phong nghe vợ chồng chủ nhà trọ nói với những công nhân thuê nhà từ ngày anh mới dọn đến. Bẵng đi một thời gian không thấy mặt người chồng, qua sự xì xào của công nhân anh biết ông chủ nhà trọ đã bỏ nhà đi. Một tháng, hai tháng rồi một năm trôi qua không thấy người chồng trở về, miếng đất định xây thêm nhà trọ cỏ dại mọc đầy, chúng tràn vào tận hiên nhà, xen lẫn trong đám cỏ vài ba bụi rau muống bò lan, già cổi nở những bông hoa như loa kèn màu tím. Sau giờ làm việc ở công ty về, Phong tìm được cây cuốc nhỏ, mòn vẹt lưỡi, rỉ sét, được dựng bên hông nhà chủ, có lẽ nó đã nằm đây từ nhiều năm trước, cỏ dại phủ lên, cán cuốc bằng cây tầm vông rắn chắc mọc rêu từ những kẻ nứt. Phong cẩn thận mài lưỡi cuốc, chêm lại cán, hai năm rồi anh chưa cầm cuốc nhưng anh không quên công việc đơn giản của một nông dân mà anh đã quen thuộc từ lúc chiều cao của anh còn ngắn hớn cán cuốc này đến vài gang tay. Ngày ấy, sau buổi học cha anh đặt vào tay anh một cây cuốc nhỏ, ông bảo: Hãy cố lên con, quê mình nghèo cần phải rèn luyện để trở thành một người nông dân giỏi mới sống được con ạ. Anh biết mài cuốc, tra cán cuốc từ dạo ấy. Thời đất nước mới giải phóng quê anh gặp muôn vàn khó khăn, vết thương chiến tranh làm lở loét cả đồng ruộng. Mất mùa liên miên, nắng như đổ lửa, lúa ngậm đòng chết khô ngoài ruộng, bướm trắng bay rợp trời. Bà nội nhìn đàn bướm, đôi mắt già nua nhăn nheo của bà hướng về phía cánh đồng, bé Ba em gái của anh ốm tong teo, da nhăn như hạt ươi rừng, khóc nhèo nhẻo, bà cất giọng khàn đục ru cháu:" À ơi ! Chiều chiều bướm trắng bay vô. Ba năm trời hạn cây khô lá vàng" Lời ru buồn như buổi chiều ngợp nắng trên cánh đồng khô hạn, vàng vọt. Cả nhà anh sống nhờ đám khoai lang trên mấy gò đất, bảy tuổi anh đã biết cuốc đất vun vồng trồng khoai. Dây khoai lên đến đâu lũ cỏ gà lan đến đấy, anh bứt từng cụm với lòng hận thù sâu sắc, đôi tay chai sần đỏ tấy. Đã hai năm xa rời ruộng đồng, nhưng anh vẫn còn giữ thói quen ghét cỏ dại, quân súc sinh , đồ ăn bám ! Không một người nông dân nào không ghét chúng. Anh nghiến răng mài lưỡi cuốc lên cục đá xanh, lưỡi cuốc chuyển dần màu xanh của sắt. - Anh làm gì vậy ?- Một giọng nói nhỏ nhẹ phía sau lưng, anh ngẩng lên, chị Hạnh chủ nhà trọ nhìn anh mĩm cười. - À chào chị, tôi tính xạc đám cỏ dại trên miếng đất này, chúng làm loạn cả rồi. Chị thở dài: - Làm phiền anh quá, nhà không có đàn ông thật khổ ! Nói xong chị quay lưng đi, bờ vai tròn và thanh mảnh thấm đẫm nắng chiều, trông chị cô độc và mềm mại như một bông hoa muống. Phong cắn môi cắm cúi xạc, những bụi cỏ lật tung lên dưới bàn tay mạnh mẽ của anh. Anh cố giữ lại những bụi rau muống xen lẫn trong đám cỏ. Những dây muống mọc rài trên bờ sông quê nuôi anh khôn lớn, anh có cảm tình với loại rau dân dã này. Mẹ càng ngày càng già cổi, gân guốc như dây muống dại. Ngày mai công ty anh phát lương anh sẽ gởi về phụ cha mẹ nuôi em, hàng tháng anh vẫn dành một phần lớn số tiền lương gởi về cho gia đình, số tiền ấy bằng nửa tấn lúa. Chị Hạnh trở lại đám cỏ với ly nước chanh trong tay, chị nhoẻn miệng cười với anh, nụ cười đẹp mê hồn, lâu lắm anh mới thấy chị cười, từ ngày chồng chị bỏ đi đến nay lần đầu tiên anh thấy chị cười. Anh cám ơn, đón ly nước từ tay chị, ly nước mát rượi, thấm tận ruột gan. *** Phong nhận quyết định nghỉ việc với một thái độ trầm tĩnh, anh chào bạn bè lần cuối, trước khi rời công ty . Họ siết chặt tay anh, ánh mắt lấm lét hướng về gã quản đốc, đang quàng vai đưa Phong ra cổng. Lần đầu tiên trong công ty này có một người nghỉ việc được chính gã quản đốc đưa đi một cách thân thiện như vậy. Gã siết chặt tay và nhìn anh với ánh mắt kính nể. Mãi sau này anh mới hiểu tại sao gã lại có thái độ lạ lùng như vậy đối với anh. Phong đưa tay rờ mặt, vết bầm đã đỡ hơn nhưng vẫn còn nhưng nhức, kể ra quả đấm của gã cũng có đẳng cấp lắm. Khi anh mang vết bầm trên gò má về nhà trọ, chị Hạnh rối rít dùng nước muối xoa mặt cho anh, bàn tay của chị mềm mại và nhẹ nhàng, lần đầu tiên trong đời anh được chăm sóc bởi bàn tay của một phụ nữ không phải mẹ anh. Phong nhắm mắt cố kìm chế hơi thở dồn dập của mình. Hôm qua, tại sân nhà xưởng công ty đã xảy ra cuộc quyết đấu tay đôi giữa Phong và gã quản đốc. Anh hành động, ngay cả chính anh cũng thấy bất ngờ. Một công nhân làm hỏng sản phẩm gã quản đốc gầm lên cầm chiếc giày ném vào mặt anh ta. Cú ném bất ngờ và chính xác khiến máu mũi anh công nhân tuôn ướt cả áo. Không kiềm chế được, anh công nhân lao vào và hậu quả là anh ta lãnh trọn những cú đấm liên hoàn của gã. Không thể khoanh tay nhìn, Phong lao vào quật gã văng ra và bảo :"Ông là một thằng hèn, nếu ông là một người có tinh thần thượng võ thì ông không được tấn công vào người không có khả năng tự vệ, nếu ông muốn đánh nhau ông hãy đánh với tôi, một cuộc giao đấu sòng phẳng tôi thách đấu với ông !" Sau tiếng " được " lơ lớ, gã phóng cú đá thần tốc về phía anh, Phong lòn người vừa tránh đòn vừa " nhập nội ", tung một chỏ ngược ngay cằm....Cuộc quyết đấu kéo dài chưa tới ba phút, gã đập tay xuống đất xin hàng. Những thế võ gia truyền dòng dõi võ tướng nhà Trần cộng với sự gân guốc của đôi tay " cuốc lật cày ải " trên cánh đồng khô cằn sỏi đá miền trung, Phong đã vô hiệu hoá môn võ truyền thống của xứ sở mà gã quản đốc luôn tự hào:" tinh hoa võ học trên thế giới ". Công nhân hét lên:" Đánh chết mẹ nó đi !" Phong khoát tay ra hiệu cho họ lui ra. Hôm sau, gã gọi anh lên văn phòng chìa tay xin được kết bạn cùng anh, gã bảo vì uy tín của gã với cả ngàn công nhân gã mong anh nghỉ việc, gã sẽ giúp cho anh một khoản tiền. Tỏ ra " mã thượng " Phong chấp nhận đề nghị nghỉ việc, nhưng dứt khoát không nhận tiền của gã cho, anh chỉ nhận khoản tiền trợ cấp theo luật lao động. Phong thả bộ dọc theo con đường chính của khu công nghiệp. Hoa điệp vàng nở rộ. Cô công nhân vệ sinh đang quét lá khô, những chiếc lá nhỏ li ti cứ rắc xuống con đường bóng lộn này như trêu chọc, thách thức sự cần mẫn của cô. Cô dừng chổi gỡ khẩu trang, mĩm cười chào anh. Hành động của anh đã trở thành một " sự kiện " trong khu công nghiệp, anh trở nên nổi tiếng, dù sự nổi tiếng chẳng vinh quang gì . Hàng ngày anh vẫn gặp cô trong bộ quần áo công nhân rộng thùng thình với cái khẩu trang che kín gương mặt, không ngờ cô còn trẻ và rất xinh đẹp. Vài triệu bạc tiền trợ cấp thôi việc trong túi, anh sẽ phải đối đầu với khó khăn phía trước nhưng Phong cảm thấy thanh thản, anh không ân hận việc đã làm. Trước khi anh lên đường vào nam lập nghiệp, ông nội anh làm thịt con gà trống mà ông yêu quí nhất bắt anh đội đến nhà thờ tộc, ông nhắc cho anh nhơ, tộc Trần có năm quan võ, bảy quan văn, một anh hùng, mười bốn liệt sĩ . Trong làn khói hương nghi ngút ông nói :" Cần biết sống cho ra sống, đừng để người ta khinh !" Chạy vạy nhiều ngày anh mới kiếm được một chỗ làm trong cái khu công nghiệp rộng thênh thang này, nơi có hàng trăm ngàn con người đang giam mình mỗi ngày tám tiếng đồng hồ giữa bốn bức tường, cặm cụi bên những dây chuyền máy chạy ầm ầm. Phong đã cố làm thật tốt công việc và nhịn nhục theo lời khuyên của những người đi trước. Nhưng cái câu "kiến ngãi bất vi, vô dõng dả " mà ông của anh dạy cho anh từ lúc còn học đứng tấn bất ngờ bật ra và Phong mất việc ! Con đường đẹp quá vậy mà sao lâu nay anh không chú ý nhỉ ? Sau giờ tan ca những gương mặt bơ phờ nhoà vào nhau, ai cũng vội vã chạy về nhà trọ để lo cho bữa cơm chiều rồi tranh thủ ngã lưng chuẩn bị sức cho ngày mai vào ca, có mấy ai chú ý những hàng điệp nở vàng rực dọc hai bên đường khu công nghiệp. Con đường này dẫn ra bờ sông, con sông lừng lẫy một thời của miền Đông nam bộ, đang bị lở lói bởi nạn khai thác cát nhưng nó vẫn còn mênh mông lắm. Khác với những con sông miền Trung, sông ở đây lúc nào cũng đầy ắp nước, chảy êm đềm, trầm tĩnh và từng trải. Nghĩ về dòng sông anh chợt nhớ lời dặn của ông nội trước khi lên đường. Ngày đó với lòng háo thắng của tuổi hai mươi anh nghĩ ông mê tín và lẩm cẩm. Ông là người duy nhất trong làng còn đọc được chữ Nho. Nỗi đau lớn nhất của đời ông là trong số con cháu tộc Trần còn sót lại sau chiến tranh, không ai đọc được cuốn gia phả của dòng họ." Bây giờ chúng nó quên cả lễ nghĩa !"- ông thường phàn nàn như thế. Để giữ được ngày ba bữa cơm và ba tuần nhang cho nhà thờ họ, cha mẹ anh đã vắt kiệt những giọt mồ hôi trên những mảnh ruộng cằn cổi. Nhìn lưng áo cha trắng xoá mồ hôi dưới cái nắng gay gắt của miền trung, anh quyết định phải ra đi! Thế hệ anh không thể chịu được đói, nghèo để cố gìn giữ những cái mà theo anh là rất mơ hồ và lỗi thời, đang cố vùng vẫy sống lại. Căn nhà từ đường của dòng họ mới được xây lại, sau thời gian dài đổ nát bởi chiến tranh và sự ấu trĩ , nó được xây bằng những " hạt mồ hôi " trắng tinh của những người như cha anh. Ngày anh ra đi, ông nội mặc áo dài khăn đóng, đốt trầm hương rồi trịnh trọng nâng ba đồng bạc cổ gieo vào cái đĩa sành. Khi thanh âm phát ra từ sự va chạm khô khốc ấy, chìm vào những kèo, cột, rui, mè bằng gỗ mít đỏ au, ông lẩm bẩm:" Chưa qua sông con ạ ! Con đi lần này nhớ cố bình tĩnh giữ gìn, đừng nóng nảy hấp tấp, không có lợi. Tuy nhiên con cũng cần nhớ là chưa qua sông chứ không phải không qua sông được !." Anh khoanh tay cố ra vẻ chăm chú nghe ông dặn nhưng đầu óc mãi nghĩ về nơi anh sẽ tới , một xứ sở sôi động nhịp sống hiện đại. Bây giờ bỗng dưng lời ông ngày ấy lại hiện về rõ mồn một, y như ông vừa mới nói với anh ngày hôm qua...Phong sẽ không trở về quê với hai bàn tay trắng, cứ ở tạm trong phòng trọ một thời gian, thế nào cũng phải nghĩ ra cái gì đó, chắc chắn như thế. Không buồn, không vui Phong trở về phòng trọ. Mỗi căn phòng trọ mười sáu mét vuông, hai chiếc giường, bốn người ở. Ba chàng trai cùng phòng với Phong đã đi làm. Từ ngày thất nghiệp đến nay Phong thành kẻ phụ việc cho họ. Anh nấu ăn giặt giũ, lau dọn phòng. Giờ rảnh Phong loay hoay làm những ngôi nhà nhỏ bằng tre. Cái nghề này ngày xưa ông nội dạy cho anh. Chị Hạnh vào phòng lúc Phong đang chuốt bóng những thanh tre, ngồi ghé bên mép giường chị gợi chuyện : - Phong làm nhà cho búp bê hả? - Ừ làm cho vui, ngồi không làm gì . - Nóng khiếp Phong ha ! - Ừ , mấy ngày nay nóng quá, chắc sắp có mưa giông. Chị Hạnh cười : - Phong cứ làm như ở miền trung quê anh không bằng, trong này làm gì có mưa giông. - Ừ quên mất. - Sao mấy ngày nay chẳng thấy tí gió nào ở sông thổi vào cả. Hạnh lơ đãng nhìn về phía dòng sông, nước đục ngầu vài khóm lục bình tả tơi lặng lờ trôi. Dòng sông lạc lỏng và buồn thảm. Không rời mắt khỏi giề lục bình, chị nói với Phong: - Bây giờ Phong tính làm gì ? - Phong sẽ làm những ngôi nhà bằng tre bán cho bọn trẻ. Ở quê Phong tre nhiều vô kể, con người sống nhờ cây tre, ông nội Phong là một "nghệ nhân tre ". Ông làm được những lồng chim và những ngôi nhà tuyệt đẹp, chúng đẹp như trong chuyện cổ tích. Những ngôi nhà ông làm để bày chơi. Quê Phong không ai mua thứ ấy làm gì, nhưng những ngôi nhà là cả một thế giới đầy huyền thoại của tuổi thơ. Phong luôn mơ ước lớn lên mình sẽ làm những căn nhà thật, xinh như vậy để mà ở. Chị Hạnh mơ màng: - Tôi cũng thích những căn nhà như thế . Căn nhà đầu tiên anh làm tặng cô bé con của chị Hạnh, cô bé thích quá nâng niu như báu vật. Phong nhiều lần thấy chị say mê ngắm căn nhà. Chị bảo:" Ngày xưa mình cũng ở trong căn nhà như thế này!" Chị kể cho Phong nghe chuyện vợ chồng của chị, một câu chuyện lạ mà Phong không thể tin là có thật trong cuộc đời này. Căn nhà đầy ắp tiện nghi mà vợ chồng chị sắm được từ ngày anh bỏ dạy đi làm phiên dịch cho công ty nước ngoài. Tiền cho thuê phòng trọ, tiền lương của anh, chị chắt bóp trả nợ, xây nhà, sắm sửa vật dụng. Ngày anh phá căn nhà bằng tre lá chị thẩn thờ mấy ngày đêm. Từ ngày anh ra đi đến nay mọi vật vẫn như cũ. Mỗi ngày, chính xác là mỗi buổi sáng chị đều cẩn thận mở hộp thư trước cổng, rồi thẩn thờ nhìn lá thư của mình nằm chỏng chơ lạc lõng. Những giờ lên lớp trở nên nhạt nhẽo vô vị. Chị không còn tìm thấy niềm vui, nỗi buồn trong đôi mắt của lũ trò nhỏ. Những ánh mắt thơ ngây một thời giúp cho chị vượt qua khốn khó để đứng trên bục giảng. Ngày xưa- chị còn nhớ, mỗi sáng chị rời ngôi nhà bằng tre lá, ngôi nhà đẹp như ngôi nhà búp bê mà Phong làm tặng con chị, cùng xe rau muống ra chợ bỏ mối. Đám học trò đi học cũng mang cặp lên vai đẩy xe phụ chị, cô trò ríu rít, có lẽ nhờ đám học trò mà các bạn hàng ngoài chợ lấy hàng của chị không một chút so kè. Chị mua cho mỗi đứa một cây kẹo, học trò vừa mút kẹo vừa nhìn vào mặt chị, chắc hẳn trong đầu óc ngây thơ bọn trẻ nghĩ chị là cô tiên. Cô bé lớp trưởng bảo gương mặt cô giáo rất giống cô tiên! Niềm vui ngày ấy thật hồn nhiên. Ao rau muống giúp chị xoay xở bù đắp vào đồng lương khiêm tốn của hai vợ chồng. Căn nhà nhỏ bé của họ luôn đầy ắp tiếng cười, ngày nào cắt rau, chị cũng nhặt vài bông hoa muống cắm trên bàn làm việc của anh, anh yêu hoa muống lắm, anh bảo:" Ít có loài hoa nào giản dị mà đẹp như hoa muống, màu phớt tím của nó đã chứng minh tạo hóa là bậc thầy về phối màu ." Sau ngày cưới anh đặt một cái hòm thư bằng sắt, anh bảo :" Có chuyện gì cần tâm sự chúng mình viết ra giấy rồi bỏ vào hòm thư, không nên dùng ngôn ngữ nói, dễ xúc phạm đến nhau. " Lúc nào anh cũng hấp dẫn chị bằng ý tưởng bất ngờ. Mỗi sáng thức dậy chị hồi hộp mở hòm thư và thở phào nhẹ nhỏm khi đọc những dòng chữ chứa đựng sự âu yếm của anh dành cho chị. " Con bồ câu nhỏ của anh hôm qua món canh rau muống thật tuyệt !" " Con mèo con của anh em mặc áo hoa cà đẹp quá, anh gọi anh là mèo hoa nhé !" Ôi sao mà hôm nay em ngũ trông đáng yêu đến vậy, anh ước gì những bông hoa muống này biến thành hoa hồng để anh ướp quanh người em !" Những dòng chữ mới tuyệt vời làm sao, chị cám ơn anh đã nghĩ ra cái hòm thư. Viết thì dễ, chứ ngày nào cũng nói những lời có cánh như vậy khó quá. Chị đáp trả anh những dòng chữ nồng thắm không kém. Tất nhiên đôi lúc chị cũng cảm thấy gờn gợn, ví như chị thắc mắc:" Vì sao anh bảo anh thích hoa muống và anh biết mình cũng thích mà anh lại ước nó biến thành hoa hồng ?" Thắc mắc cỏn con ấy chìm mất tăm vào những lời yêu thương nồng thắm nên chị cũng mau quên. Nhiều ngày , nhiều tháng, nhiều năm trôi qua chị bắt đầu cảm thấy buồn vì những lời thư của anh không có gì thay đổi, vẫn nồng nàn và âu yếm. Bỗng dưng chị đâm hoảng, chẳng lẽ vợ chồng mình hoàn hảo đến thế sao? Chẳng lẽ cả hai đều không có khuyết điểm nào hay sao? Mỗi lần mở hòm thư chị lại thở dài khi thấy những lời âu yếm, chị chờ đợi một lời trách mắng hay giận hờn của anh. Sự chờ đợi của chị rồi cũng đến, dù một lời trách nhẹ nhưng chị vui mừng và sung sướng. " Có thế chứ !"- chị khẽ thốt lên. Lời trách móc anh dành cho chị nhờ vào đứa con gái tinh nghịch. Con gái chị đã lớn, nó lén xem trộm thư trong hòm, một hôm đang ngồi ăn nó bảo :" Ba mẹ chat(*) kiểu cổ điển, chúng con bây giờ chat trên máy tính không hà ?" Con bé nói xong anh đưa mắt nhìn chị. Sáng hôm sau, chị nhận được bức thư :" Em yêu! Từ câu chuyện của con nảy ra vấn đề là em quản lý con không chặt để nó rong chơi mấy điểm internet và chưa giáo dục nó không được xem trộm thư người lớn. Để khắc phục tình trạng này anh yêu cầu em phải mua ngay ổ khoá, khóa hòm thư và theo dõi con bé tốt hơn!". Ngay hôm sau, chị mua ổ khoá giao cho anh một chìa. Từ ngày hòm thư có khoá những bức thư của anh có vẻ hằn học hơn, chị bắt đầu cảm thấy lo lắng, dù chị cố viết cho anh những bức thư hết sức dịu dàng, nhưng sự đáp trả của anh ngày càng nặng nề. Bức thư cuối cùng chị nhận được sau cái đêm anh dành cho chị "sự cuồng nhiệt " đến ngạc nhiên. Bức thư vẻn vẹn có mấy chữ :" Anh không thể tìm được khuyết điểm để từ bỏ em, nhưng anh đã trót yêu ...! Hãy tha lỗi cho anh !" Anh lặng lẽ ra đi, để lại tất cả tài sản cho chị. Chị tưởng mình có thể nhảy xuống sông nhưng chị chợt nhớ ra anh có để lại cho chị một niềm hy vọng: anh đã đem theo chiếc chìa khoá hòm thư mà chị trao cho anh ! Chị quyết định đưa hòm thư ra ngõ, chị gắn cái hòm thư nhỏ bé trên cánh cổng, chị bỏ vào đấy một lá thư và chờ đợi sự hồi âm của anh. Mỗi chiều sau giờ lên lớp, chị dẫn đứa con gái mười bốn tuổi đi dạo bờ sông, nói đúng hơn là con bé dẫn chị đi, trông họ như hai chị em. Đã ngoài ba mươi mà chị còn đẹp lắm, một nét đẹp mỏng manh và thuần khiết. Con gái tung tăng phía trước, còn chị nhìn đăm đắm qua bên kia sông, chân bước vô hồn....! Những lúc như vậy Phong lặng lẽ đi theo sau lưng mẹ con họ, một khoảng cách vừa đủ để anh ngắm tấm lưng thon thả của chị. *** Cuộc đời có nhiều chuyện không ngờ. Phong làm những ngôi nhà nhỏ bằng tre cột lên xe gắn máy cà tàng mới tậu chở đi bỏ mối, sản phẩm của anh làm ra không đủ bán. Đang còng lưng vượt dốc bỗng chiếc xe hơi bóng lộn thắng két trước mặt. Một người nước ngoài tiến về phía anh reo lên bằng tiếng Việt khá sõi : - Kìa Phong, Phong phải không ? - Ô Lee ! Không ngờ chúng ta còn gặp nhau . - Phong mĩm cười trả lời. - Chúng ta là bạn mà, vào quán nghỉ chân một tí nhé! Sau khi an vị quán bia ven đường Phong hỏi Lee: - Sao lúc này ông nói tiếng Việt giỏi như vậy? - Cũng nhờ bạn đấy, sau vụ chúng mình đụng độ với nhau, mình cất công tìm hiểu văn hoá và võ học Việt Nam, càng tìm hiểu mình càng khâm phục. Bây giờ mình đã cưới vợ Việt Nam và quyết tâm theo quê vợ. Lúc này mình khắc phục được tính nóng nảy và thái độ coi thường người Việt. À anh công nhân làm hỏng sản phẩm ngày xưa, bây giờ đã là tổ trưởng. Phong cầm ly bia : - Xin chúc mừng ông. Lee hưởng ứng: - Chúc mừng cuộc hội ngộ của chúng ta hôm nay. Sau khi uống cạn chai bia, Lee hỏi : -Cuộc sống của bạn lúc này như thế nào ? Phong vắn tắt công việc của anh cho Lee nghe, anh còn nói với Lee về dự định trong tương lai, anh sẽ làm những căn nhà xuất khẩu. Ngắm nghía căn nhà nhỏ của Phong đang cột trên xe , Lee gật gù bảo : - Ngày còn nhỏ mình cũng từng mơ ước ở trong những căn nhà như thế này. Nói xong, Lee đưa tay về phía Phong : - Chúng ta hợp tác làm ăn nhé. - Hợp tác ư ? Tôi có gì đâu. - Bạn có ý tưởng và tay nghề, tôi có vốn, bạn hãy suy nghĩ lập một đề án làm những căn nhà tre lớn để người ở hẳn hoi chứ không phải để cho búp bê. Tôi sẽ đầu tư vốn và bao tiêu sản phẩm. Những sản phẩm này sẽ xuất khẩu qua châu Âu. Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ với Lee, Phong suy nghĩ nhiều đêm, cuối cùng anh quyết định hợp tác với Lee. Anh nghĩ đất nước thời mở cửa nhà nước kêu gọi đầu tư, nhiều quốc gia đã từng là kẻ thù của dân tộc ta bây giờ còn hợp tác một cách thân thiện. Anh với Lee đâu phải kẻ thù, trước đây anh còn chấp nhận bắt tay kết bạn với Lee kia mà. Anh cắm cúi lập đề án. Một tháng sau công ty " Phong Việt " ra đời. Phong không ngờ sản phẩm tre nứa nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường. Những ngôi nhà tre xuất khẩu của công ty đã có mặt nhiều nơi trên thế giới. Phong vô cùng biết ơn ông nội anh, những lời dạy, cả những thế võ của ông và loại cây mộc mạc của làng quê giúp cho anh có ngày hôm nay. Tất nhiên anh không thể quên Lee, người bạn nước ngoài đã từng đánh nhau với anh. Như thường lệ, Phong cho cậu tài xế đi chơi để một mình anh bên quán café nhỏ hướng mặt ra sông. Kể từ ngày rời phòng trọ bên bờ sông đến nay, không ngày nào Phong không nghĩ về chị Hạnh. Phong không thể lý giải được vì sao có nhiều cô gái trẻ vây quanh mà anh chỉ yêu một mình chị. Đôi mắt thăm thẳm của chị làm anh choáng ngợp ngay từ khi vừa đặt chân đến nhà trọ, ngày anh trả phòng trọ dọn về công ty, chị tiễn anh ra tận bờ sông và chúc anh thành công. Chị bảo :" Mọi người lần lượt bỏ tôi ra đi" Dường như đôi mắt đen láy ngấn lệ, đôi mắt ám ảnh cuộc đời anh cho đến hôm nay. Lần này Phong trở lại với lòng quyết tâm sẽ thực hiện một việc mà anh đã chuẩn bị nhiều ngày. Bờ sông bây giờ khác, mỗi chiều chị vẫn đi dạo trên con đường mới làm dọc bờ kè bên sông. Có lẽ con gái đã vào đại học nên chị dạo một mình, mái tóc buồn hơn xưa, bay rối cả hoàng hôn! Phong ngắm chị từ xa, từ bờ sông quay về chị ngập ngừng nhìn hòm thư han rỉ, rồi cúi đầu bước qua vòm cổng sắt cũ kỹ. Chị vào nhà, Phong thở dài đứng lên trả tiền nước. Nhưng lần này anh sẽ không trở về cùng với tiếng thở dài ! Phong đưa tay sờ túi, cái phong bì mỏng manh anh chuẩn bị công phu hơn những căn nhà tre xuất khẩu mà anh đã tạo ra, anh viết đi viết lại nhiều lần về mối tình đơn phương anh ấp ủ nhiều năm qua. Anh cũng sẽ không dám thổ lộ tình cảm của mình nếu như anh không tìm hiểu và được biết chồng chị đã định cư nước ngoài cùng với một cô gái khác. Mặt trời khuất dần sau những ống khói của khu công nghiệp bên kia sông, dòng sông lấp loá ánh đèn cao áp hai bên bờ rọi xuống. Chị chậm chạp quay về, ngập ngừng, cúi đầu bước qua cổng. Phong rảo bước, thu hết can đảm cho tay vào túi lấy phong bì màu xanh trịnh trọng bỏ vào hòm thư....! Hẳn chị sẽ rất bất ngờ với lá thư của Phong. Phong sẽ trở lại khi chị bình tĩnh. Lòng thanh thản và đầy tự tin vào tương lai Phong chậm rãi đi về phía dòng sông.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro