abc-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tên của gã là Cao Như Đảng. 

Tên cúng cơm của gã là Cao Như Đảng. Trong lý lịch gã đề tên Cao Như Đảng. Tức là đích thị trên đời có thật một gã Cao Như Đảng.

Cao Như Đảng biệt tài làm thịt chó, thịt nhanh, nấu khéo, cả làng cả xóm biết tiếng. Ngay cả chó dại, chó chết ốm, chó bị trẹt xe…, gã mà đã nhúng tay pha thịt, ướp hấp, lúc dọn lên mâm vẫn ngon nhức.

Trong xóm nhà ai thịt chó cũng nhờ gã. Ủy ban xã khi nào tiếp khách hay liên hoan, cần thịt chó, lại gọi gã. Bản lĩnh ấy khiến gã với mấy vị trên Ủy ban thành thân tình.

Dần dần người ta lấy luôn cái nghề của gã gắn vào tên, gọi gã là Đảng Chó. Gã nghe vậy cũng chẳng lấy gì làm phiền.

.

Một ngày, Cao Như Đảng mở quán thịt chó.

Hôm khai trương, gã mời cán bộ trong xã đến đánh chén. Rất vui. Nhưng đang dở bữa, thì bí thư xã phát hiện ra cái biển trước quán đề THỊT CHÓ ĐẢNG.

Ông bí thư gọi Cao Như Đảng đến, quắc mắt: “Ông ghi thế này là chửi ai?”. Cao Như Đảng nói: “Thì dân vẫn gọi em là Đảng Chó, các bác trên xã cũng gọi em là Đảng Chó, thì giờ mở quán em làm biển thế cho tiện!”.

Bí thư bảo: “Lời nói gió bay, nói mồm với nhau không có gì làm bằng, chứ ghi lên thế này thì mặt mũi đảng còn cái chó gì nữa?”. Gã đành “dạ dạ…”.

.

Cái biển sau, rút kinh nghiệm, Cao Như Đảng đề: ĐẢNG THỊT CHÓ.

Bí thư xã đến ăn, nhìn biển mới, gật gật gù gù bảo: “Sửa thế này được, để cái giống ấy sau chữ đảng, cho đỡ bị hiểu lầm!”.

Đang bữa, bí thư sực nghĩ, giật mình, mới quát: “Dỡ biển xuống ngay, khẩn trương, phản động, muốn đi tù à?”. Cao Như Đảng méo mặt hỏi: “Cả nhà nhà em toàn người ngoan và ngu, có biết gì mà phản động?”.

Ông bí thư hạ giọng, thầm thì: “Nước mình là một đảng lãnh đạo, cấm có cái chuyện hai ba đảng, ông ghi thế này nhỡ ai hiểu là ông lập đảng đối lập, thì toi!”. Cao Như Đảng bảo: “Chả nhẽ thằng bán thịt chó và mấy thằng ăn thịt chó mà cũng bị thành đảng à?!”.

Bí thư bảo: “Ai chả biết thế! Nhưng cái nước mình nó thế! Mà thôi, tốt nhất thời này cái gì đã đảng thì đừng chó, mà đã chó thì đừng đảng!”. Gã đành “dạ dạ…”.

.

Sau bữa đấy, Cao Như Đảng lại thay biển mới, còn đề mỗi THỊT CHÓ.

Nhưng lắm lúc gã tấm tức: đến cái giống chó còn đi không đổi họ, ngồi không đổi tên, lúc biến thành thịt vẫn gọi là chó, chẳng nhẽ chỉ do nước này có độc cái đảng mà thành mình phải kị húy, phải kiêng cả tên cha sinh mẹ đẻ đặt cho, thì hóa chẳng bằng chó

Kẻ săn chó

Lưu Thuỷ Hương

Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó

Chết xuống âm phủ biết có hay không.

Ai chà, miếng ăn ở trên đời lớn đến thế sao.

Vâng, miếng ăn ở trên đời ghê gớm lắm, ông ạ. Riêng cái khoản dồi chó thì tôi chẳng lạ gì. Dồi chó làm từ ruột chó, ruột non lẫn ruột già, dồn đỗ xanh, lá mơ, riềng mẻ, húng lìu, mỡ lợn, cơm nếp.

Nói đến món dồi chó thì phải kể đến quán Cờ Tây, nổi tiếng cả một vùng với món dồi nướng rơm. Nhưng ông vào đấy chẳng việc gì cứ gọi mãi một món dồi. Bước chân đến cửa quán đã nghe thơm ngát mùi rựa mận, mùi chả chìa, mùi xáo măng… lại còn có tiếng là sạch sẽ vệ sinh. Quán Cờ Tây không hề bẩn thỉu bầy hầy theo quan niệm thịt chó cổ truyền. Thời buổi vươn ra biển lớn này, đã có chữ “ Tây ” thì nhất định phải sang trọng, sạch đẹp. Quán Cờ Tây vừa lên hai tầng lầu bằng gỗ cẩm lai, kiến trúc hiện đại theo kiểu nhà sàn không vách, đón gió lồng lộng từ đê sông Hồng thổi sang. Sàn nhà bằng gỗ xà cừ bóng loáng, trải chiếu hoa Bàn Thạch mới toanh. Ngay lối vào, tấm thẻ hội viên Hội Cây Còn phóng to hơn cả tấm chiếu, treo hoành tráng thị oai với nhân loại. Đều là dân bán thịt chó như nhau cả, nhưng có tấm thẻ của Hội treo đong đưa thì sang lắm cơ. Hai trăm thằng bán thịt chó – hay treo đầu dê bán thịt chó – xúm xít bu vào nộp đơn, chạy chọt đủ kiểu, nhưng chẳng mấy thằng được cấp cho cái thẻ Hội để mà tự bốc thơm. Từ ngày tấm thẻ được rước về treo nghễu nghện ở đấy, lão Hạc chủ quán cứ tấm tắc bảo, dường như mùi mắm tôm ngào ngạt hơn, miếng dồi chó béo đậm hơn, lát thịt luộc mềm mại hơn. 

Này, ông nhìn qua bụi chuối mà xem. Nhân vật chính đấy. Ông có biết thằng diễn viên vừa bẩn vừa xấu kia là ai không? 

Chẳng ai biết gã là ai. 

Một kẻ không tên, không tuổi, không cha, không mẹ… không vợ con, không bạn bè… không quê quán, không nhà cửa… không danh dự, không lòng tự trọng. 

Gã vừa ngồi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, rượu xong là gã chửi. Gã chửi trời, chửi đất, chửi đời, chửi cha đứa nào không chửi nhau với gã, chửi cả Hội Cây Còn. Nhưng cả Hội Cây Còn ai cũng nhủ, “ chắc nó trừ mình ra! ”. 

Những thằng ngọng như gã, rượu vào chửi bới rất hăng, khi cần nói lại cứ ngọng líu ngọng lo. 

Gã ngồi tựa lưng vào gốc chuối, chẳng mơ đến bát cháo hành cùng ánh trăng vàng rười rượi ngoài bờ sông, gã mơ đến miếng dồi chó nướng. Chỉ khi rượu vào gã mới dám to tiếng như thế, thường thì gã sống câm lặng tách biệt với cuộc sống bên ngoài, lùi lũi chui ra chui vào dãy chuồng chó. Thế giới của gã nằm tận phía sau mép vườn, khuất trong đám chuối già xanh mịt mùng, gói gọn trong dãy nhà tôn lụp xụp ẩm thấp. Gã ăn ở đấy, ngủ ở đấy, ngày đêm chui rúc dưới những mái tôn thấp lè tè tanh tưởi khai nồng. Không bao giờ gã bước qua khoảng sân gạch để đi lên dãy nhà trên. Khoảng sân gạch trơn ướt, đóng rêu xanh lè lúc nào cũng râm rấp phân chó máu chó, ngổn ngang dao thớt, rổ rá, nong nia. Gã chỉ ra đến khóm chuối già hương, ngồi cách mép sân độ hai bước chân. Gã giấu đôi chân sứt mẻ vào trong đám lá mơ, rau thơm, húng lìu… đổ đống bên cạnh mép cống. Gã ngồi lù lù ở đấy, như thân chuối đổ, háo hức theo dõi cảnh mổ chó.

Ông ạ, trên màn hình chỉ có cảnh mổ chó chứ chẳng có cái mùi tanh hôi tởm lợm đâu. Ông cứ nhìn đám chó bị trói nằm run rẩy cạnh mép sân kia, lông lá xác xơ bê bết phân. Đừng tưởng chúng chẳng biết gì. Chúng hiểu cái thân phận trên dao dưới thớt lắm, chúng sợ hãi lắm, chúng kinh khiếp lắm, đến vãi phân ra. Đấy là những con chó đã từng qua tay gã, đã từng bị giam cầm trong thế giới quyền lực bạo tàn của gã. Gã săn đuổi chúng. Nhưng gã không săn cái xác chó mà săn đuổi linh hồn. Gã đuổi theo linh hồn của những con chó đến tận cùng ranh giới của sự sống. Ông nhìn xem. Những cái chân bị trói ngoặt ra sau lưng kia là hình ảnh của sự bất lực. Tấm thân treo lơ lửng dốc ngược, chờ nhát dao đưa ngang cổ họng là hình ảnh của sự khiếp nhược. Ông cứ nhìn đi rồi gắp miếng dồi chó này đưa vào mồm. 

Gã ngồi tựa gốc chuối, há hốc mồm ra mà nhìn. Gã chờ nhát dao kết liễu đưa ngang cuống họng, chờ được thấy tận mắt sự sống tràn qua tĩnh mạch cổ, chảy vào ống tre con, dâng lên trong cái liễn nhỏ. A… a… tiếng rên tràn qua cổ họng gã – tao cho mày chết – giá mà mình được tự tay cầm con dao nhọn đâm vào cổ nó – sướng nhỉ – hồn nó biến thành dồi chó – tinh hoa dồn đỗ xanh riềng mẻ nước mắm mỡ lợn. A… a… Gã chồm dậy, háo hức nhìn vào liễn tiết canh, tưởng như hít thở được mùi sự sống vật vờ đang bị hãm lại trong liễn, chẳng thể nào đông cứng mà chết hẳn. Không chết hẳn mà cũng không chạy trốn đi đâu được. Gã nhe răng cười khoái trá – con mắt chó trợn trừng, trắng như củ cải thế kia – tròn như quả cà pháo thế kia. A… a… Gã ôm thân chuối trợn mắt cười – sao không sủa cho lắm vào – sao không cắn cho lắm vào – sao không chửi rủa cho lắm vào – nằm ngây như phỗng thế à. Những cái xác vô hồn câm lặng treo đong đưa. Chừng đấy là đủ, chừng đấy là đạt đến tận cùng của khoái cảm. Gã khoan khoái đưa tay xoa bụng, lững thững quay về khu chuồng chó, hùng hục làm việc như một kẻ vừa được ăn no. 

Có buổi sáng se lạnh, gã men theo đường rãnh thoát nước, lần mò ra bờ ao. Hơi ấm dậy lên từ lớp bùn đọng của ao tù toả làn sương trắng – cứ thơm thum thủm như vại mắm tôm vừa vào kỳ ngấu. Cây gạo bên bờ trổ hoa rực rỡ, hoa tháng ba rơi đỏ ối cả một góc ao nước xanh nhờ nhờ. Gã ngồi bệt dưới gốc gạo, khoan khoái cạ tấm lưng ghẻ lở vào lớp vỏ cây sần sùi. Dòng nước lờ đục, sủi bọt từ sân mổ thịt chảy qua chỗ gã ngồi, đổ xuống lòng ao đỏ rực màu hoa gạo. Gã mơ màng ngắm mấy mụ đàn bà đang xắn quần khoe cặp đùi béo, đám bèo tấm bám từng đốm li ti trên làn da trắng tái. Gã ngồi đệt mặt ra mà ngắm – dường như mình đang nhớ nhung một cái gì đấy – cứ nhớ như thế thôi – ơ, mà sao không thấy hối tiếc – không thấy thèm thuồng như thèm miếng dồi chó. Bọn đàn bà hùng hục rửa rau dưới ao, hì hụi vớt đám bao tải chứa thịt đông ngâm qua đêm dưới nước lạnh. Mụ răng vẩu kéo chiếc bao tải nặng chịch sũng bùn lên bờ, đổ những lọ thịt đông ra mép cỏ. Mấy lọ thịt ràng dây thép nằm ngổn ngang trên bờ mương như những con ốc bưu chết trương. Nắng mùa đông yếu ớt xuyên qua những tàn lá xoan, sáng loang loang trên lớp bùn nhão. Gã nuốt nước bọt – cái miếng thịt bên trong ấy, cái món rựa mận xào riềng mẻ ngấm hơi lạnh thuỷ thổ ấy – cắn vào một phát, vị thịt vừa lạnh vừa bùi vừa ngậy tan ra trên đầu lưỡi. Gã nhắm mắt lại sung sướng hít hà. Con mẹ răng vẩu đứng bên kia bờ, chỏ mồm sang kêu réo.

“ Ôi, lạnh thế. Thằng đần khỉ gió, không làm việc mà ngồi đấy nhìn trộm à? ” 

Cả bọn đàn bà cười hô hố nhìn sang chỗ gã ngồi, mấy mụ già sồn toé nước lạnh về phía gã. Mụ răng vẩu hùng hổ ném sang cả mấy vốc bùn đen thủi. Gã vùng đứng dậy, ú ớ vài tiếng vô nghĩa rồi cắm đầu chạy về khu chuồng chó. Tiếng cười độc ác của mấy mụ đàn bà đuổi mãi theo phía sau. 

“ Anh Ngọng ơi, sao bất lực thế. Ở lại cho bọn em nhờ tí. ” 

Gã vấp ngã vài bận, chuệnh choạng chạy băng qua vườn chuối xanh. Bản nhạc dìu dặt ở đâu trổi lên, cứ bay bổng êm đềm, cứ ngọt ngào như chùm khế – tiên sư thằng đạo diễn, đã đến nông nỗi này mà còn trổi nhạc còn bốc thơm. Cơn uất hận bỗng bừng bừng nổi dậy, gã túm lấy cây roi, quật lấy quật để vào đầu con Vàng. Con chó oằn mình tru lên từng hồi thê thảm. Mấy con chó khác cụp đuôi run sợ nép cả vào góc chuồng. Cho mày chết nhé – bảo ông ngọng này – bảo ông bất lực này – ông quật cho toé máu. Gã ú ớ khóc – bố bảo, đời ông mày ăn mặn, đời bố mày ăn mặn – mẹ đẻ ra mày lưỡi ngắn tịt thế kia. Gã ú ớ chửi. Gã chửi trời, chửi đất, chửi đời, chửi cha đứa nào không chửi nhau với gã, chửi cả Hội Cây Còn, chửi bà mụ nào đã nặn ra gã, nặn ra cái thứ đàn ông lưỡi ngắn tìn tịt, chẳng ra mùi mẽ gì. 

Từ hôm ấy gã không đi ra gốc gạo xem bọn đàn bà đanh ác rửa rau nữa. Buổi chiều nhập nhoạng tối, gã ra ngồi bên gốc chuối âm thầm xem bọn đàn ông thui chó, mổ chó. Nhưng đấy là những công việc hết sức nhàm chán, cũng giống như công việc của những kẻ dọn rác ngoài quán nhậu. Những cái xác nằm thẳng đơ trong đống rơm thui ở góc tường, khi vào thì trắng, khi ra thì vàng. Chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì khác đi. Cả việc mổ chó cũng nhạt nhẽo, bộ lòng nào cũng giống bộ lòng nào. Trắng lềnh phềnh, thối tha trong thau thuốc tẩy. 

Con chó sống khác hẳn con chó chết. Gã cười khục khặc trong chuồng chó. Hơi nóng đổ xuống ngùn ngụt, mấy con chó bị xích cổ nằm thè lưỡi thở dốc. Gã kéo ống nước xịt tung toé vào chuồng. Mấy con chó nhảy cẫng lên sung sướng – sắp đến giờ ăn rồi đấy – ăn cho béo đẫy vào. Gã kéo ống nước đi về phía nhà lao. Đấy là căn chuồng song sắt nằm cuối dãy chuồng chó, dưới gốc cây đu đủ đực. Cây đu đủ đực ngấm phân chó xanh tốt lạ lùng, lá mọc xanh rờn, tàn lá to bằng cái nia. Hoa trổ xuống từng chùm trắng xoá. Chỉ toàn hoa đực, không bói ra được một quả nào. Gã nhốt mấy con chó cứng đầu hay sủa nhặng xị trong nhà lao. Không ai quan tâm đến việc gã làm, không ai rỗi hơi bén mảng vào khu chuồng chó thối tha – chỉ cần đừng để bạo lực dã man hiện ra trên bàn ăn của quý khách. Gã cười khục khặc – miếng thịt béo ngậy không mang dấu vết giam cầm – lớp da vàng bóng không mang thương tích của roi vọt – khoanh dồi mịn màng không mang vết tím bầm của những cú đá.

Phía trước kia, lão Hạc ngồi đếm tiền bên quầy rượu, lão Hạc chạy lăng xăng cúi đầu vâng dạ. Mấy bản nhạc Madonna rậm rật khích động. Quán Cờ Tây chỉ chơi nhạc Tây. Miếng thịt chó luộc vàng ươm bày trên chiếu hoa. Thơm thế. Ngon thế. 

Gã xổm ngồi trước cửa nhà lao, giữa đống thức ăn thừa. Những thứ gì khách khứa bỏ lại, nhà bếp ngán ngẩm, bọn người làm chán chê, gã bê hết xuống chuồng chó. Chén đĩa bày ngổn ngang, thịt nướng, xáo măng, chả đùm, áp chảo… Mấy con chó đánh hơi mùi đồng loại, khiếp hãi cụp đuôi nép vào vách chuồng. Chó không bao giờ ăn thịt chó – vẽ chuyện, người vẫn ăn tươi nuốt sống nhau đấy thôi. Gã cười khục khặc, ném miếng dồi chiên vào nhà lao. Con chó đen nằm trong đấy lồng lên giận dữ, nó lùi xa khỏi miếng thịt đồng loại, lông gáy dựng ngược lên.

Đấy là con Rottweiler giống chó Đức. Lão chủ gọi nó là con Rốt. Con vật vạm vỡ hung hãn, thân hình to lớn gần năm mươi ký của nó đang trong thời kỳ sung mãn, bộ lông đen nhánh mỡ màng rực rỡ. Nó gầm lên căm phẫn mỗi khi gã đến gần. Hàm răng mạnh khoẻ của nó gặm roàn roạt lên lần song sắt. Nó húc rầm rầm vào cửa chuồng, húc đến toét cả da đầu, chảy cả máu mũi. Nó chỉ húc bừa vào đấy mà không thấy gì cả, hai con mắt của nó kéo màng đỏ mọng. Gã khoái trá nhìn lên cây đu đủ đực – mủ thằng đực rựa này độc thật đấy – độc thế – ừ, đui mù thì hết chống đối. Con Rốt bị đánh mủ đu đủ không còn nhìn thấy gì, nhưng nó nghe được, đánh hơi được sự hiện diện của kẻ thù. Nó là giống chó săn khôn ngoan, biết thủ thế và chờ cơ hội. Nó thôi cắn phá, nằm rên ư ử trong xó chuồng. Gã vừa chểnh mảng đẩy thức ăn vào, con vật mù loà phóng đến nhanh như chớp. Cái miệng to như cối đá há ra, ngoạm đứt hai ngón tay. Gã đứng chết trân, còn chưa ý thức được tai nạn khủng khiếp, con chó đã nuốt luôn hai ngón tay của gã vào bụng. Gã nhìn xuống bàn tay be bét máu, rú lên như điên loạn. Gã chạy hồng hộc trong khu trại chó, trong cơn đau đớn điên loạn, gã đè con Vàng ra, đánh nó đến suýt chết. Cậu Vàng nằm bẹp trên sàn nhà, thân thể bầm dập đầy những vết thương. 

Đấy là điếu cấm kỵ. Tra tấn hành hung mà để lại dấu vết là điều cấm kỵ.

Lão Hạc ở trong bếp nghe tiếng la thét náo động, cầm dao hớt hải phóng xuống chuồng. Lão nhìn cậu Vàng rách rưới bầm dập nằm trong góc, nhìn thằng người làm bê bết máu me đang cầm roi đứng bên cạnh. Lão gầm lên, quật luôn cái sống dao lên đầu gã. Hai thằng nấu bếp lôi gã xềnh xệch ra cổng, tống thêm hai cú đá vào bộ xương bánh chè. Gã té chúi nhủi trên lề đường, nằm co dúm trong đống rác, rách rưới bẩn thỉu như con chó ghẻ. 

Tiếng cười, tiếng cụng ly, tiếng hát Madonna, tiếng khách khứa hò hét vọng ra từ dãy nhà sàn. Gã bò dậy, nặng nhọc lết đi, nép vào bờ tường, đạp bàn chân nứt nẻ lên rác rưởi mà đi. Bàn tay đứt ngón rỉ máu giấu trong vạt áo cáu bẩn. Đi hết con phố nhà sàn mang tên Hội Cây Còn, một thế giới xa lạ hiện ra nhập nhoạng trước mắt, gã lấm lét cúi đầu. Những con phố đông nghẹt người xe, ồn ào náo động. Gã lạc vào giữa dòng người hỗn độn, trôi lang thang qua những góc đường xiêu vẹo. Ở nơi này không ai sợ hãi gã, không ai lấm lét cúi đầu khi gã bước ngang qua. Lão đẩy xe ba bánh ủi thành xe vào lưng gã. Mụ hàng rong quệt đòn gánh vào mặt gã. Gã co dúm người lại, ú ớ vài tiếng vô nghĩa rồi lại lủi đi. Gã rón rén bám theo một đứa con gái có khuôn mặt đẹp như thiên thần. Tóc nó nhuộm vàng hoe như lông chó, cái đuôi nhong nhỏng vẫy chào, một khoảng gáy trắng phau phau phơi ra mời mọc. Gã bị hút vào khoảng gáy trắng, cố bước dấn thêm vài bước. Một khoanh cổ trắng, một vùng ngực trắng mịn màng mê hoặc. Gã muốn đưa bàn tay lên sờ vào cái cổ nõn nà của nó – trắng thế – nhất bạch nhì vàng tam khoang tứ đốm. Đứa con gái bỗng quay phắt lại, nó nhìn gã khinh bỉ, ghê tởm. Nó lùi lại bịt mũi, quát lên the thé. “A, thằng thối thây này. Định móc túi đấy phỏng? Xéo đi không thì bà đấm cho vỡ mặt.” Gã giấu mặt vào trong tay áo, cuồng cuồng lủi đi.

Thành phố lên đèn, xanh đỏ hồng tím nhấp nháy. Tiếng nhạc đùng đùng lẫn vào trong tiếng máy xe, tiếng còi xe nhấn inh ỏi. Gã bịt tai lại, loạng choạng bước. Ai đấy húc vào lưng gã, cái bánh xe to đùng nghiến lên bàn chân. Gã rú lên đau đớn. Một thằng đàn ông thúc khuỷu tay vào ngực gã, quát lên hung tợn. “Thằng ăn mày, mù đấy à? Thấy xe mà không tránh.” Bóng đêm bên trên đổ ập xuống, những dãy nhà cũ kỹ chao nghiêng. Gã nấc lên, bò vào lề đường, lê lết bám dọc theo bờ tường loang lổ rêu đen. Qua hàng phở, mụ đàn bà hất cả chậu nước rửa bát vào người gã, lại quát lên, lại chửi mắng. Gã hoảng hốt phẩy những cọng bún nát bám trên tấm áo ướt, lại bỏ chạy. Cuối con phố tối đen, gã rúc được vào một góc đường vắng mấp mô ổ gà, loang loáng nước đọng. Mấy con chó cuối đường vừa đánh hơi thấy gã đã sủa lồng lên xông vào cắn xé, cấu nát hai ống quần. Gã lại cắm đầu bỏ chạy – về hướng kia là mùi mắm tôm, mùi dồi nướng. Đấy là nhà của gã, đấy là quê hương của gã. Thằng người tàn tật tả tơi mò về đến con phố của Hội Cây Còn, tưởng như sẽ khóc oà lên khi nhìn thấy tấm thẻ Hội to bằng cái chiếu treo đong đưa. Gã cuống cuồng quỳ mọp xuống dưới tấm thẻ Hội, gục đầu lên bậc cửa quán Cờ Tây. Gã nằm co quắp kiệt quệ, cất tiếng khóc ngọng nghịu van xin – mẹ ơi, thằng đạo diễn thối thây, lại cố lồng điệu nhạc chùm khế ngọt vào – tao sắp khóc ra quần rồi đây. 

Lão Hạc hiện ra trên bậc cửa, trong ánh đèn xanh nhạt nhoà, như một thiên thần. Cái bóng đen to lớn bao dung đổ choàng lên tấm thân rách rưới còm cõi. 

Buổi sáng, gã thức dậy trong ổ rơm chật chội quen thuộc, khoan khoái vươn vai rũ mấy sợi rơm nát. Từ trong bếp, tiếng khua niêu chảo vọng ra. Tiếng những người làm công gọi nhau í ới qua khoảng ao tù. Gã bò ra hiên, dụi cặp mắt đầy dử ghèn lên ống tay cáu đen. Mấy con chó chờ ăn, ve vẩy đuôi mừng. Gã ngọng nghịu hát, kéo ống nước xịt nước ào ào vào những khoảng sàn tanh hôi. Nước bắn phân và thức ăn thừa toé lên thành chuồng. Nước toé lên mặt gã. Mấy con chó động cỡn nhảy nhót rối rít. Gã cười khục khặc – chúng mày bẩn thế. Con Rốt ướt loi ngoi, rùng mình vẩy mãi bộ lông đen mượt. Gã tắt vòi nước, hằm hè cầm roi đứng bên vách nhà lao – mày nhé, Rốt – cứ đợi đấy – chúng nó mổ thịt mày ra. 

Quán Cờ Tây hiếm khi mổ thịt chó Tây. Thịt chó Tây không ngon, vừa tanh vừa nhạt, bọn người sành ăn đều biết thế. Con chó Tây này chỉ dành cho đại gia nấu món tráng dương cường lực. Gã cười khục khặc – ai cũng hiểu điều đấy – ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu – chỉ có chó là không hiểu. Con Rốt cúi đầu ăn hùng hục. Nó lồng lên khi gã dắt con chó cái vào chuồng bên cạnh. Nó không thấy được, nhưng nó nghe được, đánh hơi được sự hiện diện của tình nhân. Nó xông đến mép chuồng rên rỉ liếm láp. Con chó cái cũng rên rỉ liếm láp. Gã cười khoái trá – chết thèm nhé – thằng nào không ham muốn. Con Rốt nằm rên rỉ phủ phục trên sàn, bàn chân nó bật rật cào móng lên nền xi măng. Gã dắt con chó cái đi, đưa nó sang chuồng con Vàng. Con Rốt dỏng tai lắng nghe những âm thanh hoan lạc từ chuồng bên vọng sang. Nó không nhìn thấy nhưng nó biết cả. Nó hộc lên từng hồi, lồng lộn dãy dụa sau lớp song sắt, tấm thân vạm vỡ đẹp đẽ của nó tướp mồ hôi. Cẩu hoàn của nó căng ra như quả cà tím. 

Chiều nay, lão chủ đưa con Rốt đi nấu rựa mận cho đại gia. Đơn đặt hàng đã có từ ba ngày trước. Nó vùng vẫy dữ tợn, ngoác cái miệng to như cối đá ra cắn xé. Gã xiết thòng lọng ngang cổ cho đến khi nó nghẹt thở. Gã cười khoái trá – sướng lắm con ạ – cẩu thận, cẩu báo, cẩu hoàn – cà tím nhé – rựa mận nhé – chống đối nhé – mắm tôm thơm lắm – vì thế mà con vợ tao bỏ nhà đi theo thằng khác – tao bất lực đấy – thằng con trai tao cũng bảo thế, bố bất lực lắm, con vào Nam ăn cướp – nó cướp một đêm giàu hơn bố nó cả đời khoác áo nghệ sĩ. Gã bỗng tủi thân khóc sụt sịt – bất lực đấy. Đám người làm khiêng con Rốt đi, rồi khiêng con Rốt về. Nó nằm sõng sượt bất động trong chuồng, nước mắt ứa ra từ lớp tròng kéo màng đỏ. Hai túi sinh lực tràn trề của nó chỉ còn hai túm da bèo nhèo thấm thuốc đỏ. Nó nằm yên như đã chết, mù loà cam chịu, chờ ngày bị xẻ thịt bán cho hàng chợ. Thịt chó Tây vừa tanh vừa nhạt. Gã ngước mắt nhìn qua vườn chuối, nhìn lên mái nhà sàn cao ngất ngưởng. Tay đại gia ngồi trên đấy đang ngồm ngoàm món cẩu hoàn của con Rốt. Mấy em hoa hậu Hội Cây Còn – thơm nức mùi mắm – xúm xít vây quanh, ưỡn ẹo đưa mồi – mày sướng một đêm – thằng khác khổ một đời – chết rồi thành chó cả thôi. Gã ngồi xổm bên chuồng ngắm nghía con vật to lớn bạc nhược – sao con kia giống bố thế nhỉ – ơ, sao lại giống bố – sao không giống lão Hạc – không – giống ông chứ – ông cũng to béo và vô dụng như thế – ông tự ải chết vào ngày bố còn sống – bố tự vẫn chết vào ngày mình chưa chết – đều bất lực cả. Gã ngửa mặt lên trời cười.

“ Mùi mắm tôm thơm thế. ” 

Lão Hạc đưa về con chó Phú Quốc, xoáy dài trên sống lưng. Lông vàng như rơm mới. Con chó bé bằng cái bắp chân, bé đến độ, gã hằn học bảo, nuôi mày chỉ tốn cơm. Nhưng lão chủ bảo, bây giờ loại rặt giống Phú Quốc như con này khó tìm lắm. Bố mẹ nó đều là chó hoang trên đảo, nó đẻ ra trong hang, ăn uống thiếu thốn mới bé thế, vỗ béo nó vài tháng là thịt được. Con chó Phú Quốc dỏng tai nghe, nó lùi vào góc chuồng nhe răng thủ thế. 

Gã có nhiệm vụ nuôi thúc con Phú Quốc, đã có tay đại gia đặt cọc trước. Lão chủ cười xềnh xệch với khách hàng, thịt chó Phú Quốc cực dương, đàn ông ăn vào nhẹ người ích khí, sảng khoái cả thể xác lẫn tinh thần. Con chó Phú Quốc chỉ ở chuồng được hai tuần thì bị tống vào nhà lao. Gã căm ghét cặp mắt ti hí ranh ma của nó, căm ghét tiếng sủa dai dẳng của nó. Nó sủa khi nào nó muốn, bất chấp luật lệ, bất chấp roi vọt. Nó tự cho mình cái quyền được sủa mà không xin phép. Có đêm, nó tru từng hồi ai oán, tru dài dằng dặc, làm cả chuồng chó nhớn nhác thức dậy. Cả đàn chó phát rồ nghiến roàn roạt song sắt, hùng hục phá cửa chuồng, dằng kéo dây xích. Cả đàn chó cùng noi gương con Phú Quốc, chúng sủa khi nào chúng muốn. Chẳng còn đứa nào lấm lét cúi đầu khi gã ngang qua. Gã đánh con Phú Quốc đến toác da đầu. Gã cứ nhằm vào cái đầu của nó mà quật. Chỉ có cái đầu là thứ lão chủ không cần đến, là thứ nhà bếp bỏ đi, khách khứa cũng chẳng ai quan tâm, gã cứ nhằm vào đấy mà quật. Con chó biết thế, nó đổi chiến thuật. Nó thôi không sủa nhặng xị nữa, nó phản kháng bằng cách bỏ ăn, chỉ ăn cầm chừng vừa đủ sống. Dường như nó biết tỏng tòng tong, trong xã hội thối tha này thằng nào béo sớm là chết sớm. Sáng nào lão chủ cũng xuống chuồng kiểm tra, đánh dấu những con sẽ bị đưa ra làm thịt trong ngày. Sáng nào lão chủ cũng lăm le quan sát nó và sừng sộ mắng thằng làm công bất lực. 

Gã căm con chó quá, quyết cho nó một bài học. Nhưng đến khi con Phú Quốc bị nhốt vào nhà lao rồi, gã mới biết là mình hố to – bây giờ thì không cách gì đưa nó ra ngoài được. Gã vò đầu bứt tai đứng dậm chân ngoài cửa nhà lao – chỉ cần mình hé cửa là con ranh phóng ngay ra. Con chó nhỏ xoay trở nhanh nhẹn lạ thường trong khoảng chuồng rộng. Đừng hòng đưa thòng lọng vào, đừng hòng quật roi vào, nó cắn đứt roi, cắn đứt thòng lọng. Một lần, gã đưa thức ăn vào, nó cắn toạc cả bắp tay gã. Ban đêm nó cũng không ngủ, nằm lim dim trong góc chuồng, nhưng dỏng cả hai tai lên nghe ngóng. Nó đề phòng cả chuyện ăn uống. Thức ăn đưa vào, không bao giờ nó ăn ngay. Nó kiên nhẫn nằm im, cẩn thận chờ đợi xem có con ruồi nào đớp phải bả mà lăn quay ra chết không.

Gã hầm đu đủ xanh với xương gà. Quả đu đủ nóng hôi hổi vừa vớt ra khỏi nồi thơm nức – chỉ cần cắn ngập răng vào là nóng buốt, rụng toi cả hàm răng – đau thấu trời xanh. Gã ném quả đu đủ vào chuồng. Con chó thè lưỡi cười khục khặc. Chẳng lừa được nó. 

Chuyện trai gái cũng đừng hòng dụ dỗ được nó. Gã cột một bầy chó cái trước cửa nhà lao. Thằng Phú Quốc nằm trong góc lim dim tụng kinh như thánh nhân. Mấy con chó cái bị sỉ nhục hoá điên, bọn nó nhằm chân gã mà táp, rách cả hai ống quần. Mấy con chó đực khác cũng bị xúc phạm, sủa vống lên. Cả dãy chuồng náo loạn – ơ, lạ lùng chưa – từ bao giờ bọn mày biết đến lòng tự trọng, biết bị xúc phạm, biết bị sỉ nhục. Chẳng đứa nào thèm nghe gã quát. Mạnh thằng nào thằng nấy sủa. Hàng xóm cũng hoá điên, cứ nghe chó sủa là vác gạch đá, củi khô ném vào quán. Lão Hạc nghe ồn ào náo động lại xách dao hầm hầm chạy xuống chuồng, lão quật sống dao lên đầu gã. 

Lần đầu tiên gã thấy chán, thấy mệt mỏi, gã nghĩ đến nồi nước to lúc nào cũng sôi sùng sục trong bếp. Gã chỉ muốn chấm dứt cuộc nổi loạn bằng cách bê luôn nồi nước sôi đổ lên đầu con chó. Con chó nằm trong góc thè lưỡi cười cợt. Chỗ nó nằm không ai vào dọn dẹp, vun dần lên thành một đống rác, lá đu đủ, phên tre, phân khô, roi da, đất đá, chén đĩa nhựa… Gã quyết định đánh đòn tâm lý cuối cùng. Gã trải chiếu nằm trước cửa nhà lao, ăn đấy, ngủ đấy, thi gan với con chó. Gã thức mấy đêm liền, mệt mỏi hốc hác – sức lực mình cạn dần, mà sức con chó kia vẫn dai như đỉa đói. 

Gã nằm co ro cạnh nhà lao, ngủ thiếp đi lúc nào không hay, đôi mắt căm thù của con Rốt đi theo gã vào giấc ngủ. Gã chạy trên cánh đồng dày đặc sương mù, sình lầy ngập ngụa. Con Rốt đuổi theo phía sau, con chó săn xoải những bước dài, cái miệng to như cối đá của nó há ra. Hàm răng nhọn hoắt kia thèm khát được cắm ngập vào cổ họng kẻ thù. Gã cắm đầu chạy, đôi chân nặng như chì đưa gã lạc vào rừng tre gai rậm rạp. Sương mù giăng kín lối, qua khỏi rừng tre lại là cánh đồng – rừng tre cánh đồng – cánh đồng rừng tre – đều là sương mù cả – không thoát đi đâu được. Con Rốt vẫn hùng hục đuổi theo phía sau, cái bóng đen hiện ra cô độc giữa làn sương trắng, đôi mắt đỏ rực như hai ngọn đuốc. Trên cánh đồng, một đám đầu trâu mặt ngựa vỗ tay reo hò – cắn chết nó đi. Trong rừng tre gai, một đám thân dê đuôi chó ngoe nguẩy kêu gào – cắn chết nó đi. Bọn chúng chờ đợi màn cuối, chờ đợi con chó cắn đứt cuống họng thằng săn chó – bọn chúng nó tưởng bở – nếu gã chết đi, liệu có thay đổi được điều gì không – vấn đề là ở chỗ đấy, hạ thủ một thằng làm công, một thằng tép riu, chẳng giải quyết được vấn đề – nhưng gã bị đuổi đến cùng đường rồi, mệt mỏi lắm rồi, chỉ muốn chết quách đi cho xong – sẽ có đứa khác vào thế chỗ ngay thôi – thằng đạo diễn thối thây, nó có muốn thay đổi câu chuyện đâu. Chiếc bóng đen xé màn sương lao tới. Gã ngã xuống giữa đầm lầy đầy cỏ dại. Bóng cây gạo đỏ lập loè trong màn sương. Gã chồm dậy đưa hai tay ôm lấy cổ họng – nó xắn ngang cổ mình rồi – giời ơi, đau thế – hai chân mình biến đi đâu rồi – sao sương mù ngập ngụa thế này – thằng nào kêu thét trong bùn đen đấy hả. Tiếng kêu thét làm gã choàng tỉnh, u mê nhận ra chính tiếng kêu của mình. Tiếng kêu vẫn còn đọng lại ư ử nơi cuống họng gã. Miệng gã khô đắng, nuốt nước bọt đau như thắt. Trời còn nhập nhoạng sương, chưa tỏ mặt người.

Gã ôm đầu ngồi xổm trên thềm xi măng ẩm ướt, bỗng trợn mắt rú lên kinh hãi. Mấy cánh cửa chuồng chó sao mở toang thế này – ôi làng nước ơi – lão Hạc ơi – bọn trộm vào bắt chó đi cả rồi – thằng trộm nào khéo thế nhỉ, lừa được cả chó – ơ này, lão Hạc. Gã bò tới trước cửa nhà lao, thôi kêu gào, dán mắt kinh hãi vào cái đống to lù lù nằm trên sàn – ơ này, lão Hạc, sao vào nằm đấy – lão vào chuồng chó làm gì – lại nằm lù lù như con Rốt thế kia – con Rốt từ dạo mất cái thanh xuân chỉ nằm phễnh bụng ra mà ăn – hôm mổ bụng nó, mình xông vào moi ruột tìm lại hai ngón tay – tìm mãi, chẳng biết hai ngón tay mình biến đi đâu – nhưng, lão Hạc này… Gã bỗng toét miệng cười – con Phú Quốc cắn chết lão Hạc rồi – ơ, có kẻ chết thay mình rồi – làng nước ơi.

Cái chết bất ngờ của lão Hạc làm gã sung sướng. Bàn tay gã xoa mãi lên khoảng đầu bị dao bổ cứ nhức bưng bưng. Gã bò vào nhà lao. Lão Hạc nằm nghiêng, bàn tay đưa về phía trước, năm cái móng đen bấu chặt vào nền xi măng, dường như lão phải dồn hết sức tàn để đánh ra một đòn cuối cùng. Miệng lão Hạc ngoác ra đau đớn. Một con mắt kéo màng đỏ ối, một con mắt trợn ngược giận dữ kinh hoàng. Cổ họng lão bị con Phú Quốc cắn nát bét. Gã tò mò nhìn vào cái miệng rụng răng của lão Hạc, ở đấy thoát ra tiếng kêu đau đớn cuối cùng. Gã lẩn thẩn đưa tay sờ lên cổ họng lão chủ – khi lão ấy còn sống chẳng bao giờ mình sờ được cổ lão – ơ, nhưng sao ít tiết thế này – chẳng lẽ con người ít khí tiết đến thế sao – bọn chúng mày làm ăn bê bối thế – con Rốt nhiều tiết lắm cơ – nếu mình bị cắn cổ thì tiết đầy một liễn – ơ, nếu là mình – sao cứ lại là mình. Gã kinh hãi đưa tay lên chặn ngang cổ họng, gập người lại nôn oẹ. 

Từ trong nhà, tiếng khua niêu chảo vọng ra. Tiếng những người làm công gọi nhau í ới qua khoảng ao tù. Mấy mụ đàn bà xắn quần vớt rau thơm, vớt mấy lọ thịt đông ngâm trong nước rãnh – bọn chúng chẳng biết gì sao, mọi thứ đã thay đổi. Lão chủ nằm im trong khoảng nhà giam tối tăm hôi hám. Thế giới êm đềm thân thuộc của gã bỗng trở nên tối tăm và hôi hám. Gã xoa đầu mình, bần thần nhìn lão Hạc – tôi đi đây – nhưng phải đá cho ông một phát cho bõ hận – ráng mà chịu đau nhé. Gã lom khom đứng dậy, mắm môi đá một cú vào mông lão Hạc. Nụ cười trên bộ mặt thằng người méo mó nhạt nhoà. Gã chui ra khỏi chuồng, lần theo đoạn đường mương dẫn ra cánh đồng rau. Thế giới bên ngoài hiện ra mờ mịt trong sương sớm. Những người nông dân cắt rau dừng tay, họ ngẩng đầu lên lom lom nhìn gã, dường như họ biết cả. Những khuôn mặt héo hon méo mó, những đôi môi nhăn nheo tím tái bỗng trương phềnh thành những nụ cười. Chúng mày ơi, nhìn kìa, thằng săn chó nhà lão Hạc.

Gã ú ớ sợ hãi, cắm đầu chạy quàng xiêng. Mặt trời lên óng ả trên cánh đồng cải cúc đẫm sương. Một chùm hoa gạo đỏ thẫm hiện ra giữa màn hình. Đỏ như tiết chó. THE END. 

Ông giáo này, ngủ gục hay sao đấy? Ừ, hết rồi. Thằng đạo diễn lại đưa tiếng Tây u vào, mẽo thế. Thằng này tồi thật đấy, vì nó mà tôi bị chó cắn suýt nữa là toi mạng. Tay chuyên viên hoá trang cũng là thứ hạng bét. Tôi nằm cả buổi trong chuồng chó thối um chẳng hề lên tiếng than van. Bọn chúng cầm camera đứng bên ngoài lại cứ vờ vịt phun nước hoa. Tay thợ hoá trang bịt mũi bò vào vẩy lên cổ tôi được vài ba giọt màu đỏ rồi chuồn mất. Nên cái cảnh tôi bị chó cắn chết mà không chảy máu cứ dở hơi thế nào, cố diễn cho trọn vai mà chỉ thấy tủi nhục. Cũng may là thằng Chí vào vai rất đạt. Nhiều lúc nhìn nó diễn mà tôi trào nước mắt, thương hại cho cái thân nó, cái thân mình. Đau lắm ông giáo ạ, đau như thiến. Ừ, cái đoạn con Rốt bị thiến ấy, thằng Chí bỏ trường quay trốn ra bờ ao. Nó nằm trong bụi duối khóc lặng lẽ một mình. Thảm quá, ông giáo ạ. Có những thằng như thế đấy. Sống với nghệ thuật bằng chính nỗi đau đời mình, có mong hưởng được miếng dồi chó nào đâu. 

Mà, cái bọn nghệ sĩ xứ mình sắm vai bất lực sao hay thế. Ừ, mùi mắm tôm thơm thật đấy. Không, từ dạo đóng phim ấy đến nay, tôi không ăn thịt chó nữa. Còn thằng Chí lưu lạc phương nào, tôi cũng không rõ. Ông giáo ạ, tôi cũng phải đi thôi, không thể sống lây lất mãi kiếp tủi nhục này. Khi nào nó về, nhờ ông giáo nói lại với nó. “ Ðây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn: cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...”./.

Bạn Tôi: Trần Văn Tiếc

Vĩnh Lộc

Phải thành thật mà nói, trong đời Tôi có nhiều bạn, quá nhiều là đằng khác,  nào là bạn từ hồi học trung học, bạn trong quân ngũ, bạn đá banh, bạn trong tù, bạn đánh tennis, đủ thứ Bạn trên đời …. Tánh Tôi, lúc nhỏ hay te rẹt … ham đi chơi, ham dzui, cái gì cũng tham gia chút chút, chẳng từ một món gì cả, tứ đỗ tường, có món thì tham gia 100%, có món thì 50 thôi, thí dụ cờ bạc, rượu chè,  trai gái,  thì tham gia trọn gói, còn hút sách, may mắn làm sao,chỉ có “háp N háp” thôi.

  Ngay từ hồi nhỏ, thời gian  học Tiểu Học ở Phú Nhuận , Sài Gòn , trong đám Anh Em đông đúc, Tôi là Thằng bị đòn nhiều nhất nhà, Ông Cụ Tôi hiền lành, nhưng dậy Con rất nghiêm, Tôi đã bị những trận đòn thừa sống thiếu chết, sau những buổi trốn học đi chơi, thậm chí có những lần, Tôi bị Ông Cụ dùng giây xích, xích chân vào cột nhà, nhưng tánh nào vẫn tật đó, không bỏ.

  Tôi thường theo những đứa bạn trong xóm, lội  ra những ao rau muống ở ngoại ô, mò ốc, bắt cua, lượm trứng vịt đẻ rơi, hay theo Chúng di tận tới bến Vân  Đồn, cởi quần áo nhẩy xuống tắm, rồi đi bộ về tới công ty bia BGI  đường Hai Bà Trưng lượm nước đá ăn, có một lần cả đám đang say sưa  đùa giỡn dưới  sông, nghe tiếng quát trên bờ, nhìn lên thấy một thầy đội Cảnh Sát ôm một đống áo quần kêu lên, thì ra khúc sông này là chỗ cấm tắm, cả đám con nít, ở truồng nhông nhổng, vừa khóc, vừa xin lại quần áo,  nhiều lần, Tôi theo Chúng mò vào sân Tao Đàn ( lùc đó chưa có sân Cộng Hòa ), trong vườn Bờ Rô ( sau này là công viên Tao Đàn ) xem đá banh, say sưa chiêm ngưỡng những: Kane, Nhung, Thách, Mỹ  …..đi những đường banh  thần sầu, mê mẩn quên đi trận đòn đang chờ sẵn ở nhà, chỉ khi nào trên đương về, lúc đó mới thấy lo, nhưng sau  đó đâu cũng hoàn đấy, chả biết sợ là gì.  Có một điều, cho đến bây giờ, cố nhớ lại, Tôi vẫn không hiểu nổi, bằng cách nào, Chúng Tôi, một đám con nít, không tiền bạc, không quen biết, làm sao có thể lọt vào  trong sân banh, qua nhiều vòng kiểm vé vào cửa. Chuyện đi từ nhà Tôi, từ hẻm Đội Có ( Phú Nhuận ) lên bến Vân Đồn hay sân Tao Đàn là cũng cả một nghệ thuật đi xe cọp, vào cuối thập niên 50, xe buyt Sài Gòn  chỉ có một ngươì soát vé, thường xe đỗ lại trạm cho hành khách lên xuống xong xuôi, người soát vé có cái còi nhỏ trong tay, thổi “ toe, toe “ báo cho tài xế biết cho xe chạy trở lại, Chúng Tôi đứng tại trạm, thấy người soát vé đứng ở cửa trước, thì bọn Tôi lên bằng cửa sau, và ngược lại, khi người soát vé tới chỗ Chúng Tôi ( lúc đó xe đã chạy được một quãng xa ) thì năn nỉ  xin  quá giang, gặp người dễ thì cho  đi, gặp người khó đuổi xuống, cũng chẳng sao, chịu khó chờ chiếc xe sau, nhiều lần cũng tới nơi Mình muốn.

  Vì tánh ham dzui như vậy, nên khi gia đình theo Ông Cụ dọn xuống Châu  Đốc, Tôi theo học hết bậc Trung Học tại đây nên bạn bè còn nhiều dữ nữa, Tôi theo đám bạn  đi khắp xứ, từ An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn …. từ phố chợ cho đến thôn quêhẻo lánh, từ những xã biên giới xa xôi, cho đến những cù lao trù phú, nhà giầu có, nhà nghèo có, bước chân giang hố đưa Tôi theo  đám bạn học đi khắp nơi, Tôi thưởng thức đủ thứ món: từ món hầm dzỉ, chaó trắng hột vịt muối cuả các gia đình người Tầu, đến cá lóc nướng trui, mắm kho, mắm sống, chuột đồng của những gia đình nơi   thôn giã …Tôi ăn cả mắm bù hóc của gia đình người Miên.   Ăn tá lả, chẳng kị thứ gì ….

   Bạn bè nhiều  như vậy, nhưng trong bài này, đặc biệt Tôi muốn kể cho mọi ngươì  biết tình bạn, giữa Tôi và Tiếc -  một trong những người Bạn mà Tôi thương nhất - cho đến bây giờ, Tiết mất đã 33 năm, mà Tôi thấy  hình ảnh Nó vẫn  lẩn quất đâu đó, quanh đây, thật gần gũi với Tôi - 

 Tên cúng cơm của Nó là Trần văn Tiếc ( tại sao không là Tiết nhỉ ? ) đi hai hàng đến độ không  ai có thể hơn được, nên bạn bè gọi là Tiếc “ bẹt “. Tiếc bẹt có quá nhiều điều để nói,   bề ngoài  ăn mặc không trau chuốt nhưng rất phong lưu, quần áo tươm tất,  đầu luôn hớt cua, chỉ có bạn bè thân thiết mới biết rõ Tiếc là con nhà nghèo, chơi với bạn rất chân thật, xả láng sáng về sớm, Bạn Bè giầu nghèo mặc kệ, Tiết không hề bận tâm, cũng như chẳng cần a dua, ninh bợ, mặc cảm, phải thì nghe, đứa nào nói bậy thì cãi, không vị nể, tánh tình rất ư là dễ thương.  Có một thời gian, Tiếc ở trong Bảo Trợ Nhi Đồng, rồi gia đình Ông Tám Tảo ( nhà thuốc tây Bình dân ) đem về nuôi, lúc này chúng Tôi đã chơi thân với nhau lắm rồi, nhưng tình bạn càng khắn khít hơn, khi Bác Ba Mới   (Ba Má Dương Công Thiện ) gọi Tiếc  về ở, nhận làm con nuôi, ngoài giờ học, suốt ngày tụ tập trên lầu nhà Thiện, băng tùm tụp gồm có: Thiện, Tôi, Tiếc, , Lâm hữu Nhứt, Trí “ Tào Tháo “, Long “ Năm Tàng “, Quang “Đen “ thinh thoảng có Khoánh “ nước tương “,Đằng “ tiệm vàng Kim Quang “, Sơn “ tiệm vàng Đức nam Hòa “, Minh “ khọt “  Phước “Đen “ Tùng “ bắc Kỳ “….ghé chơi …Chúng Tôi bầy ra nhiều trò chơi lắm, từ binh xập xám Tại nhà , kéo nhau đi đánh ping pong trước trường TKN, xuống sân vận động đá banh, đi ăn dưa hấu ở dưới đường xe lửa, qua Châu Giang, xóm Chà, mua táo ăn, xuống ăn đá đậu cuả anh chị Đặng, trước trường Nữ Tiểu Học,cuối tuần thì đi xem xi nê năm đồng giành cho học sinh tại rạp Tân Việt, … nhưng màn hấp dẫn nhất của cả bọn vẫn là cáp đôi cho  nhau ,  được một cặp nào vừa ý thì cả đám lăn ra cươì khoaí chí,cáp đôi bậy bạ, vậy mà cũng có cặp sau này trở thành Vợ, thành Chồng,   rồi bắt chước Mao Tôn Cương trong những truyện chưởng, “bình loạn “. về những người đẹp của trường TKN, rất  là hồn nhiên, rất là học trò … vui tươi, yêu đời.chẳng âu lo, sầu muộn chi cả.

 Cuộc vui nào rồi cũng tàn, chiến sự mỗi ngày một ác liệt, Tôi lên đường nhập ngũ đầu tiên, không một tiệc chia tay, không một lời hứa hẹn, buồn thì buồn lắm, mấy ngày cuối, Tôi đứng ở cổng trường nhìn mọi người đi học mà thấy cõi lòng tan nát,  muốn khóc mà khóc không được,ngay lúc đó, Tôi đã  ý thức được rằng: thôi thế là hết rồi,chẳng còn níu kéo gì được nữa,  Mình đã mất đi những ngày tháng đẹp nhất, thơ mộng nhất trong đời. Ngay bây giờ, ngồi ngẫm nghĩ lại, quãng thời gian ở trong Quân Đội, mặc đồ bay, aó liền quần,  có lon có lá, oai hơn, được  mấy Em ngưỡng mộ hơn, nhưng thú thật, Tôi vẫn thích lúc còn mài đũng quần trên ghế trường TKN, Nó có cái gì đó hấp dẫn, lãng mạng, nên thơ,  dzui dzui  không giải thích được.

 Rồi thì ở xa, Tôi được tin Tiếc cũng đã đi lính, ra trường, Ba Má Thiện lo cho về Tiểu Khu Châu Đốc, lâu lâu về phép, bọn Chúng tôi cũng họp nhau đi chơi như xưa, một lần, lúc Tiếc làm Đại đội Trưởng Địa Phương Quân đóng ở bến đò Cồn Tiên, Tôi về chơi và qua ngủ với Tiếc một đêm  trong Đình, chỗ đóng Quân  ngay cạnh bến đò, mỗi đứa một cái ghế bố, nói đủ thứ chuyện, Tôi nhớ có nhắc Nó: Địa Phương Quân là lính ma, lính kiểng dữ lắm, Mày phải cẩn thận, thương Bạn thì dặn vậy, chớ Tôi chẳng có chút kinh nghiệm gì, trong chuyện này cả.

  Bẵng đi một thời gian khá lâu, một hôm Thiện ghé qua căn cứ Tôi ở Bình Thủy cho hay, Tiếc đang bị giam ngoài Quân Lao Cần Thơ chờ ngày ra Toà,   “ tán trợ tội đại hình “, Nó bị buộc tội như vậy, cái tên nghe từ chết tới bị thương, ( thời gian này, Phươc “đen “ cho biết, lúc đó   đang làm tại đây và  cũng gặp Tiếc) Tôi lật đật theo Thiện  vào thăm Tiếc , hai đứa gặp nhau không cầm được nước mắt, Nó kể cho Tôi nghe, sự việc xẩy ra như thế này: Đại đội đang đóng ở Đồng Ki, một buổi chiều, có bạn gái một người lính trong đơn vị ghé thăm, Anh Chàng này lại đang đi công tác, không có mặt, Tiếc gọi tên lính “ tà lọt “ của Mình, dặn lo nơi  ăn, chốn  ngủ  cho Cô ta, tối đến, tên lính “ tà lọt “ này, động lòng trần tục,  đè Cô ta  ra  làm hỗn, sau đó sợ quá, giết luôn để phi tang, chuyện đổ bể, Tiếc báo cáo liền về Tiểu Đoàn, cấp trên ra lệnh phải giữ ngay kẻ giết người và giải giao về Quân Cảnh Tư Pháp tức khắc, xui xẻo, lúc đó lại rơi vào ban đêm, Tiếc giữ lại tính sáng mai sẽ đưa về Châu Đốc cũng được,  đêm đó, tên giết người  bỏ trốn.  Tiếc bị ghép vào tội bất tuân thượng lệnh. Thật tội nghiệp cho Ba Má Thiện, Ông Bà đã không ngại tốn kém lo cho Tiếc, cuối cùng ra Toà án Quân Sự chỉ  bị phạt trọng cấm , nhưng buộc phải rời Tiểu Khu, đưa ra làm Đại Đội Trưởng một Đại Đội thuộc  Sư Đoàn 9.

 Đầu năm 1975 ( Tôi không nhớ rõ ngày tháng ) Đội banh của Sư Đoàn 4 Không Quân nhận xuống đá giao hưũ với đội Châu Đốc tại sân vận động tinh nhà, Trận này có Tôi đá và Điền đi theo chơi nữa, Chúng Tôi được trực thăng chở xuống Châu Đốc từ sáng  sớm, ở tại khách sạn Mỹ Lộc, Tôi mượn vespa cuả một người Bạn chở Điền đi chơi, gần tới giờ khai mạc, trên đường tới sân vận động,  ngang Ty Ngân Khố, gặp Thiện chạy ngược chiều, mặt hớt hãi, chặn  lại cho hay : thằng Tiếc chết rồi, xác đã được chở về nhà Vĩnh Biệt, gần trại Thượng Đẳng Lễ, nghe tin dữ, hai đầu gối Tôi bủn rủn, tai lùng bùng, thiệt tình đi hết muốn nổi, điệu này còn đá đấm gì nữa, Tôi chở Điền ghé thăm, vừa bước vào, Vợ Tiếc gặp Tôi khóc như mưa: Anh B.. ơi ! Anh Tiếc chết rồi ! tiếng khóc thảm thiết  của người Vợ trẻ, với vành khăn tang quấn vội vã trên đầu, bên cạnh đứa Con trai lẫm chẫm biết đi, Tôi ôm lấy, xoa nhẹ vai   Chị,  xúc động không  biết nói gì , những lời an ủi, những câu chia buồn sẽ chẳng còn cần thiết trong lúc này, Tôi nghĩ, nó sẽ trở thành kịch cỡm, vô duyên  ! Thôi nhé, từ nay hết rồi những ngày tháng hạnh phúc ngắn ngủi, những đêm chờ mong Anh về phép, mua cho  Vợ  chiếc aó dài, mua cho Con món đồ chơi …để cùng nhìn nhau sung sướng thấy Con trai lớn lên từng ngày, nhưng làm người vợ Lính trong thời chiến, ai ai cũng cảm nhận được, hạnh phúc như bọt xà phòng, thật mong manh dễ vỡ, thấy đó rồi mất đó. Tôi nhớ đến lời   bản nhạc “ Mấy dặm sơn khê “ của NVĐ:  Mấy Ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên, Chít lên vành tang trắng, cầm tay nhau đi Anh, tơ Trời quá mong manh, Anh đến đây, rồi Anh như bóng  mây, giữa khung Trời giá lạnh, nghìn sau nối nghìn xưa “ thật buồn và thấm thía. Bạn Tôi nằm đó, như đang ngủ, mong rằng Nó rũ sạch được nợ trần, về một cõi nào đó, không khổ đau, không thù hận,  Người Lính đi theo cho biết, khi Đại Đội nhẩy trực thăng vận xuống vùng Kiên Lương, vừa xuống đất, Tiếc bị một viên đạn mồ côi trúng sau ót trổ ra phía trước , chết liền  tại chỗ, ngoài ra Đại dội không ai bị thương vong gì cả.  Chúng Tôi đám Bạn bè tiếp với gia đình Thiện  hùn nhau lo đám tang cho Tiếc, đăt Nó nằm tại triền nuí Sam, gần Bạch Vân.

  Vào tuổi hoàng hôn của cuộc đời, Tôi đã mất đi nhiều bạn bè, xin viết bài này để tưởng nhớ đến những người bạn thân đã qua đời: NP Việt, TV Tiếc, PY Anh, LH Nhứt, LV Thọ, PN Quỳnh, TV Sơn và thương mến gởi đến các bạn đang  còn sống ở VN hoặc đang lưu lạc khắp nơi trên Thế Giới

Hoài bão tuổi thơ

Tôi sinh ra tại một làng quê ở miền Nam vào cuối thời kỳ Pháp thuộc. Nông thôn ngày đó nghèo lắm.

Nghe mẹ kể lúc mới sanh tôi, không có vải, bà xé quần áo cũ giặt sạch làm tả lót. Thau chậu thiếu, cha lượm mo cau may hộc đựng nước. Không xà-phòng mẹ sử dụng các loại lá cây có tính sát khuẩn nấu tắm. Sữa thiếu bà lấy nước cơm, bột gạo lức khuấy với đường chảy hoặc đường thẻ thốt lốt cho uống vì đường cát rất quí hiếm không mua nổi.

Tuổi thơ hồn nhiên vụng dại tôi chỉ biết theo chân mẹ chân cha ra đồng chạy bắt các loài động vật hoang dã nhỏ, mót lúa, trèo lưng trâu nhìn nó gặm cỏ hoặc đuổi theo bầy vịt hãng lượm trứng rơi... Nắng đốt khét cả thịt da.

Âm vang cuộc sống quanh tôi ngày ấy là tiếng chim hót, chuột kêu, giọng thê lương não nuột của đàn cuốc về chiều cùng lũ vạc ăn đêm, tiếng tù và, tiếng chuông chùa xa xa vọng lại... Mỗi tối buồn vùi đầu vào núm vú khô gầy của mẹ và những ngón chân phèn nứt thịt của cha mà cắn nhai đùa giỡn.

Bảy, tám tuổi tôi mới được học Vỡ lòng trường làng do một cô biết chữ dạy. Thầy cô nào học đến Sơ học là hay lắm rồi, hầu hết chỉ lớp Ba lớp Tư. Học mấy năm trời tôi mới biết đọc biết viết, làm được bốn phép toán cộng trừ nhân chia, thuộc bảng cửu chương. Vì ngày ấy có chiến tranh, học hành “thất bát”. Thầy trò lắm khi cùng tản cư, cùng chạy loạn dưới những trận đạn pháo mưa bom. Có thầy dạy vài tháng, ôm súng ra đi, rồi vĩnh viễn không về!

Tôi hơn mười tuổi mới được cha dẫn tôi ra thành học. Lần đầu rất lạc lõng. Thấy tôi “chòng ngòng”, nhà trường xếp nâng cho học lớp Nhì (lớp 4 bây giờ). An ủi cái là nhờ trong lớp còn có vài bạn lớn tuổi hơn, có anh đã lập gia đình. Thời đó học sinh Tiểu học lấy vợ cũng rải rác nhiều nơi, riêng tôi nghe một cái gì đáng tò mò và khủng khiếp lắm khi nhìn bạn ấy đang ngồi học mà vợ chờ ở nhà!

Mỗi ngày đi bộ mười cây số đến trường. Mẹ cho năm cắc đủ mua khúc bánh mì chan nước thịt cầm hơi. Cầu đường rất tồi tệ, muốn qua sông, mương nhiều chỗ phải lột cả áo quần nhùi chung tập vở, một tay đưa lên trời, một tay bơi trong nước, giống hình ảnh một số trẻ em miền ngoài lội đi học trong nước các báo chụp đăng tải gần đây.

Cả xóm không ai có một chiếc đồng hồ đeo tay hoặc treo tường, ban ngày thì nhìn bóng mặt trời xiên qua mái hiên nhà; ban đêm định thời gian bằng tiếng gà gáy canh khuya. Học buổi sáng có đêm gà “hứng chí” gáy sớm ba bốn giờ là thức dậy thay đồ đi! Nhiều lần luồn lách trong đám lau sậy mịt mờ dưới ánh hỏa châu Mỹ thả xuống. Có đêm gặp vài thi thể nằm co dúm nhạt nhòa da thịt trong bụi cỏ. Quen rồi với không khí thảm đạm chiến tranh, tôi vẫn đến trường!

Ở vườn, cha mẹ dốt nát, quanh năm chỉ biết đồng áng, thế mà ông bà không muốn đứa con nào bị thất học. Gian nan kiểu nào cũng động viên và làm mọi cách lo cho con cắp sách, bản thân tôi cũng nuôi hoài bão được học hành đỗ đạt nên nỗ lực phấn đấu.

Tưởng học không bằng ai, nào ngờ cuối niên đó tôi lên lớp Nhất (lớp 5). Rồi năm sau khi hoàn tất chương trình bậc Tiểu học tôi lãnh phần thưởng “Học sinh xuất sắc toàn trường”. Gia đình quá vui mừng, bản thân sung sướng tột cùng. Tôi lãnh nhiều quà trong đó có cuốn Tự điển Việt Nam của Thanh Nghị dầy cộm. Cuốn Tự điển trở thành bạn đường, một báu vật thiêng liêng theo tôi suốt cuộc hành trình dâu bể gần nửa thê kỷ làm người. Nó giúp tôi tra cứu để viết văn làm thơ vào cái tuổi già hắt hiu buồn vui lẫn lộn nầy…

Hết bậc Tiểu học tôi đậu thẳng vào trường Trung học công lập lớn nhất miền Tây. Năm đó hơn mười ngàn thí sinh khắp các tỉnh trong vùng đổ xô về thi tuyển, trường chỉ nhận ba trăm mấy học sinh. Tôi mừng hơn bây giờ người ta trúng số độc đắc. Mỗi ngày đi học giữa lòng Tây đô thân thương nghe rộn rã những ước mơ, nghe mạch sống hồn nhiên sắc nét thời học trò trinh nguyên bừng lên nhiều điều kỳ vọng. Tuổi thơ ấy lâng lâng niềm kiêu hãnh lạ lẫm đà đã trong lòng tôi…

Hoài bão của một đứa trẻ lặn ngụp trong đồng, học hành trễ nải, cha mẹ cầy cọc sớm hôm… trở nên như một huyền thoại đối với bản thân, họ hàng, làng xóm… tôi lúc đó.

Tôi luôn ôm ấp cái thời hoa niên, tự hào cho một nghị lực lúc trẻ dại và chắc mãi vùi sâu nó vào ký ức cho đến hết cuộc đời mình.

Thương khói lam chiều

Suốt một tuổi thơ ruộng đồng tôi luôn thích hương vị khói đốt đồng, tôi như đứa trẻ nghiện khói, tôi thả hồn mình cho khói phủ tràn ngập tâm hồn, khói che phủ cay xè đến tận tâm can những sợi khói nhỏ ấp iu những buồn vui. Cứ sau vụ gặt, cánh đồng lúa vàng hôm nào trước ngõ nhà chỉ còn trơ gốc rạ. Nắng vài hôm, đám gốc rạ ấy khô lại, chúng tôi bứt rạ dồn thành từng đống nhỏ rồi đốt. Lửa rơm cháy phần phật, gặp gió phất lên cao một màu vàng rực.

Và khói, khói như mây nhỏ tỏa ra từng đụn nồng nàn mùi bùn đất phù sa, mùi phân chuồng, sương mai, và mùi nắng gió những ngày vắng mưa. Quanh đống gốc rạ cháy bỏng ấy, chúng tôi nhảy múa và ca hát những lời hát ngu ngơ đến khản cổ, mồ hồi, mồ kê ra đầm đìa áo quần. Khói hắt lên mặt, lên mắt mũi cay xót một niềm thích thú kỳ lạ. Để cho đám cháy tỏa nhiều khói, cả bọn tỏa ra đi tìm những đám lúa lép, đổ dồn quanh đám lửa. Lúa lép gặp lửa già, nổ lép bép, tỏa một thứ khói un hương thơm mùi cơm cháy nấu bằng trả đất. Đốt rơm ngày lên đồng là một trò chơi thú vị nhất của tuổi thơ nghèo khó.

Chúng tôi gần như tự do giữa một cánh đồng mênh mông, chỉ có trời xanh cao vời vợi, chỉ có nắng mênh mang và gió thổi lồng lộng đến tận chân trời xa hút. Nếu bắt được cá hay lượm được trứng vịt đẻ sót trên ruộng, thì lấy lúa non đắp quanh rồi nướng vùi trong đám lửa đang cháy rần rật. Cá và trứng chín, đập bỏ phần bùn đã thành đất nung, bẻ chia nhau miệng đứa nào cũng đầy tro than đen nhẻm. Có nhớp nháp thì còn đó con sông quê bốn mùa nước xanh trong mát rượi. Chỉ cần nhảy ùm xuống bơi vài chục sải tay là người sạch sẽ.

Không gì đẹp bằng những buổi chiều mùa hè khi mặt trời chưa tắt, bóng khói lam chiều, tỏa ra từ những mái bếp tranh nghèo. Giữa bầu không gian tịch mịch, khói bếp như là hình ảnh sinh động, sự sống duy nhất làm cho tạo vật mờ ảo hơn. Ngọn khói mỏng có lúc leo lét như một ánh lửa nhỏ, bò dọc theo lưng mái tranh đẫm sương chiều, rồi gặp gió bung ra bãng lãng thành một vùng lớn lam nhẹ lơ lửng trên trời cao.

Ký ức tuổi thơ tôi khó có thể quên hình ảnh đẹp như một bức họa ấy. Từ con đường nhỏ rợp bóng tre xanh, phóng tầm mắt về tận cuối làng chỉ thấy độc một màu khói lam chiều bãng lãng trên những mái tranh. Màu khói thiết tha nhung nhớ đến thắt lòng. Ký ức ngủ yên bỗng như con chim trời trỗi dậy giang đôi cánh rộng đập thảnh thốt vào giữa vùng nhớ ngày xưa. Nhớ gì như nhớ làng quê: cánh đồng, con đường nhỏ và một bầu trời quang đãng. Ở đó, trong bóng khói lam chiều tà có mẹ, qua tháng năm hao gầy vẫn bên trời một vóc hạc xương mai.

Bóng mẹ nhạt nhòa trong ngọn khói lam chiều khiến lòng xót xa. Như thể bóng khói lam dịu buồn trong ký ức là hình ảnh mẹ trong một hiện thân của cõi vô thường. Sự tương cận của hình ảnh khói lam chiều và dáng mẹ, chợt cận nhân tình và bao trùm lên quê hương. Sợi khói nhỏ nhoi mà huyền hoặc ấy đã chuyển tải trọn vẹn một thông điệp sầu nặng của tâm hồn: dẫu đã từ giã tuổi thơ ruộng đồng, nhưng chưa một ngày tôi xa những sợi khói lam chiều, xa cõi ngày xưa với biết bao thương nhớ. Và quê nhà xa lắc bất chợt trở về mỏng manh một sợi khói nhỏ vướng vào mắt cay xè.

Viết tặng Trùng)

Coi hình anh em nhậu tiết canh vịt ở nhà Tư Địt, lại nghe Tư Địt kể dự tính bành trướng đàn vịt của mình mà chợt nhớ tới thằng bạn xứ Cà Đú.

Sau 75 tôi về xứ Gò Muồng ở đó một thời gian thì thằng Trùng cũng ra tới. Hai thằng ở chung một nhà, ăn chung một mâm, ngồi chung một mái hiên kể chuyện trên trời dưới đất hết đêm này tới đêm khác.

Có lần thằng Trùng kể nó ở xứ Cà Đú. Tôi không biết Cà Đú chỗ nào, hỏi Cà Đú ở đâu mậy?

Thằng Trùng nói Cà Đú gần Hộ Diêm lắm. Ừ thì gần Hô Diêm, mà Hộ Diêm chỗ nào tôi cũng mù trớt, chỉ biết xa tít mù khơi. Tôi lấy Hộ Diêm làm mốc vì khi xưa hay đi xe đò từ Ba Ngòi về Đà Lạt, mỗi lần đi ngang qua Hộ Diêm là mẹ tôi chỉ chỏ, nói chỗ này mình có bà con đó con. Bà con ông này bà nọ làm sao tôi biết! Tôi ù ù cạt cạt ngó ra thấy đồng ruộng xanh xanh chỗ này cũng như chỗ kia, chẳng có gì khác. Tôi gật gật đầu để bà đừng chỉ nửa

Hộ Diêm là những cánh đồng xanh theo ngón tay mẹ chỉ, còn Cà Đú là nơi của trí óc tưởng tương  trong lời thằng Trùng kể. Xứ này ở đâu thì tôi chịu chết, chỉ tưởng tượng trong đầu thôi. Nhưng chắc là cũng đồng xanh xanh, và chắc là xa Ba Ngòi lắm, vì xe chạy lâu lắm mới tới lận.

Xa hay gần tới bây giờ tôi cũng chỉ mang máng mơ hồ, không rỏ ràng. Nhưng khi tôi nghe Tư Địt kể chuyện vịt mà nhớ tới thằng Trùng và xứ Cà Đú là vì có lần 2 thằng ngồi đồng trước hiên nhà xứ, nó nói ở xứ nó người ta nuôi vịt không hà. Nhà nào cũng nuôi vịt,  riêng nhà nó có cả trăm con, mà không phải mấy con vịt đi lạch bạch kêu cạc cạc tôi hay thấy dưới ruộng nước trước nhà thờ đâu nhe, mà là vịt bầu tối nào cũng đẻ trứng.

Nó kể vịt nhà nó có ao để bơi, có chuồng khoanh quanh mảnh đất mé ao sạch sẽ đàng hoàng.

Nó kể vịt nhà nó không đẻ trứng vô ổ rơm đâu, mà đẻ ngay ra mảnh đất mé ao như gà đi ỉa vậy.

Nó kể sáng ra nó được đi lanh quanh chuồng vịt, lượm hằng hà sa số trứng vịt nằm la liệt khắp mặt đất.

Trời, nghe nó kể sao vịt đẻ trứng dễ dàng quá, vịt đẻ trứng như gà đi ỉa. Tôi chưa hề thấy vịt đẻ bao giờ nhưng gà ỉa thì tôi thấy hoài. Mấy con gà đang khệnh khạng từng bước trịnh trọng trước hiên nhà tự nhiên đứng lại, hạ mông đánh phạch một cái rồi lại nhổng mông tà tà đi tiếp, tỉnh queo, làm như không có sự cố gì xảy ra.

Tôi liên tưởng ra cảnh hàng trăm con vit cùng đi, không được trịnh trọng như mấy con gà mái dầu, nhưng lẹt đẹt lanh quanh bờ ao, rồi cũng đứng lại, cũng hạ mông đánh  phẹt một cái, không ra cứt mà ra cái hột vịt thiệt to.

Nghĩ tới đây thấy hấp dẫn quá chừng.

Trứng vịt to hơn trứng gà, mà hàng trăm cái trứng như vậy thì nhiều quá sức, không cách nào ăn hết một lượt được đâu. Thuở ấy ăn uống thiếu thốn nên nghe thằng Trùng kể trứng vịt phủ mặt đất như cứt bò rải đồng hoang làm tôi lơ mơ đắm chìm trong khung cảnh ăn uống thần tiên cực lạc.

Trứng vịt luột trắng phau chấm muối tiêu vài cái ăn không.

Trứng vịt chiên vàng với mở hành thơm phức ăn với cơm nóng

Trứng vịt đập ra nấu với cà chua đỏ, thêm hành xanh cắt nhỏ bỏ vô làm canh húp chơi

Hột vịt lộn thì ăn với rau răm buổi tối

Còn hột vịt muối thì ăn với cháo trắng buổi sáng

Sung sướng quá!

Mơ mộng trong khung cảnh thần tiên nơi có cánh đồng xanh tươi của Hộ Diêm bây giờ cộng thêm khu đất cạnh bờ ao đầy vịt và trứng vịt xứ Cà Đú, tôi thả hồn lang thang vào buổi đại tiệc linh đình, nơi tôi ăn thả giàn ngày và đêm. Ăn một lần hàng tá trứng vịt. Ăn mãi mà chẳng bao giờ hết.

Lim dim mơ màng tôi nói xứ mày sướng thiệt, khi nào tao về đó mày nhớ đãi tao một chầu hột vịt nghen.

Thằng Trùng nghe tôi khen xứ Cà Đú nó sướng rơn, khoái chí cười híp mắt, rung rung đùi.

***

**

16 năm sau buổi tiệc trứng vịt thần tiên đó tôi lại đón Trùng, lần này ở Sài Gòn. Tôi với Trùng lại cùng ở chung một nhà, ăn chung một mâm, ngũ chung một giường, cùng hàn huyên kể chuyện trên trời dưới đất.

Khuôn mặt Trùng luôn nở một nụ cười hiền hòa như xưa, không có gì thay đổi, có điều Trùng không kể chuyện vịt nửa. Tôi cũng không còn nhớ chuyện vịt đẻ như gà ỉa xứ Cà Đú nơi tôi vẫn chưa một lần ghé thăm.

Nhưng lâu lâu kể chuyện gì đó vui, Trùng cũng cười híp mắt, rung rung đùi.

Ao làng trong ký ức tuổi thơ

Thứ Tư, 15.6.2011 | 15:48 (GMT + 7)

Từ lâu, văn học dân gian đã nói tới hai từ ao làng như một hình ảnh không thể thiếu trong mỗi làng quê Việt Nam nói chung, và quê tôi – làng Phương Khê nói riêng. 

Ao làng là nơi lưu giữ những kỉ niệm, kí ức tuổi thơ sâu đậm của mỗi con người, ao làng là nơi gắn bó máu thịt với những ai xa quê, để mỗi khi lòng buồn man mác mà nhớ về quê hương, ở nơi xa ấy họ thường nhớ về hình ảnh quen thuộc, thân thương : ao làng, giếng làng, cây đa, cây gạo cổ thụ của làng!

Ao làng đã lưu giữ trong tôi những kỉ niệm, kí ức vui có, buồn có. Nhưng cho dù vui hay buồn thì ao làng đã gắn bó với tôi cả một quãng đời tuổi ấu thơ.

Những trưa hè, trốn nhà để cùng chúng bạn ra ao tắm. Mẹ vác roi đi tìm, ra bờ ao thấy quần áo của con mình vứt đống ở trên bờ. Mẹ đứng trên bờ, rồi nói vọng xuống ao trong tiếng tì tùm, ủng oẳng của những bàn chân đang quẫy đạp trên nước mà rằng :

Nhà có phúc con biết lội, nhà có tội con biết trèo! Sao con không ngủ trưa mà trốn ra đây tắm táp, con không sợ chết đuối à?

Nhà tôi ở gần ao, gần sông Hồng, thủa chăn trâu cắt cỏ, tôi ra sức tập bơi mà vẫn chẳng biết bơi, nhà ở gần sông nước mà tôi lại không biết bơi thì thật là buồn! Cha tôi chặt đổ cả một thân cây chuối hột sau nhà to bằng cột đình, rồi thả xuống ao, nó nổi lên cho tôi bám vào thân cây để tập bơi, rồi tôi nghe lời chúng bạn bắt cả chuồn chuồn cho cắn vào rốn của mình mà rút cuộc tôi vẫn chẳng biết bơi. Nhiều lúc nghĩ vẩn nghĩ vơ, hay do mình là mạng Thổ (đất), Thổ ném xuống nước thì chỉ có mà chìm nghỉm, chẳng thấy tăm hơi. Theo các thầy Tử vi thường hay nói về số của tôi thì : Tôi dễ mắc nạn sông nước, mỗi khi có việc đi đâu tôi đều hết sức tránh những nơi sông sâu nước chảy xiết.

Ao làng như một định danh về vị trí cư trú của gia đình tôi, tôi đi đâu xa, ai hỏi về nơi sinh, tôi thường giải thích với họ rằng: Nhà tôi ở xóm Ao, thôn Phương Khê. Một cái tên nôm na, dân dã nhưng đã ăn sâu vào trí nhớ của mỗi người dân quê tôi. Ngay cả khi cúng khấn những người quá cố trong ngày giỗ, ngày Tết, trong bài khấn bao giờ ông nội tôi, cha tôi cũng nhắc tên địa danh xóm Ao như để định danh nơi về của tổ tiên !

Ao làng tôi còn có cả một kho chuyện dân gian kì bí. Mẹ tôi thường hay kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện, trong đó câu chuyện về đôi vịt vàng thường hay xuất hiện ở Ao làm tôi nhớ nhất. Mẹ tôi bảo có nhiều người nhìn thấy, và đã từng bắt đôi vịt ấy về, rồi nhốt chúng vào chiếc cối đá mà người ta thường hay giã gạo, rồi đậy chiếc mâm gỗ lên trên. Nhưng rồi, đôi vịt vàng ấy biến mất lúc nào mà chủ nhà không hay. Không biết đôi vịt vàng ấy bây giờ ở đâu, đã có ai bắt được chúng chưa, và chúng có là tài sản của riêng ai không? Đến giờ mải mưu sinh nơi đất khách quê người, câu chuyện ấy chỉ còn đọng lại trong kí ức tuổi thơ của tôi.

Ao làng tôi không rộng lắm, quanh bờ ao là những rặng tre, rặng ổi của người dân sống xung quanh, soi bóng xuống mặt ao làm cho khung cảnh thôn quê bớt đi sự tẻ nhạt, nó giống như những nét chấm phá, những mảng màu trên một bức tranh nơi thôn dã.

Ao làng tôi xưa kia có ba cầu ao lên xuống được xây bằng ghạch nghiêng có nhiều bậc, ở đó tôi thấy dáng mẹ tôi rửa rau, giặt giũ...Còn tôi đã bao lần lên xuống cầu ao ấy, khi thì ngồi thả cần câu cá, khi thì ghánh nước tưới rau, ...Tất cả đều chìm vào trong kí ức tuổi thơ của tôi.

Bây giờ xa quê, tôi đã từng đi tắm ở bao nhiêu con sông, bao nhiêu bãi biển trên đất nước mình như bãi biển Trà Cổ đẹp bậc nhất ở vùng Đông Bắc của Việt Nam, bãi biển Cửa Lò sầm uất ở miền Trung, hay bãi biển mũi Nai, mũi Né ở miền Nam nước ta, điểm cuối cùng của tổ quốc thân yêu, lòng tôi chợt nhớ về ao làng như lời bài ca dao xưa vang vọng lại :

Ta về ta tắm ao ta

Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.

Nhưng ôi thôi, ao làng giờ không còn nữa, người ta đã cho lấp ao đi để xây nhà văn hóa thôn. Những hình ảnh thân thương như mặt ao trưa hè hàng tre rủ bóng, con trâu miệng nhai cỏ dưới lũy tre soi bóng mặt ao giờ không còn nữa. Những chiếc cầu giờ đã tan biến mất. Đứng trước khu ao xưa, tôi lại nhớ những vần thơ của cụ Tú Xương đã viết rằng :

“Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò".

Sự đổi thay của làng quê Việt Nam nói chung và làng tôi nói riêng đang dần làm tan biến đi nhiều nét đẹp văn hóa làng, trong đó hình ảnh ao làng một thời gắn bó với tôi và người dân quê tôi giờ chỉ còn trong kí ức tuổi thơ tôi một thời quá vãng

Kỷ niệm mang tên “nộm rau muống”

Rau muống cứ hiền lành, tần tảo nắng mưa cùng người dân quê gom góp ân tình, bình dị và lặng thầm để gợi nhớ và kết nối trái tim những người con về gần với quê hương thân yêu

Kỷ niệm có thể gọi tên, nhưng cũng có kỷ niệm chỉ là chút dư âm miên man, len lỏi vào ký ức. Dù đi xa tôi vẫn nhớ về quê hương, chốn thiêng liêng, nơi có những món ăn giản dị và khiêm nhường, dân dã và mát lành nhưng không thể thiếu, đó là món nộm rau muống.

Ở một góc vườn, hay trong ruộng cạn xen với cả những loại rau khác, chẳng có thứ rau nào sức sống mãnh liệt, dễ trồng như rau muống. Rau muống cứ hiền lành, tần tảo nắng mưa cùng người dân quê gom góp ân  tình, bình dị và lặng thầm để gợi nhớ và kết nối trái tim những người con về gần với quê hương thân yêu.

Nộm rau muống, giản dị và quá đỗi quen thuộc, món ăn “dai dẳng” luôn có mặt trong những bữa cơm nghèo. Không có một thứ rau nào lại gần gũi và thảo hiền như rau muống, thứ rau duy nhất có thể ăn suốt quanh năm.

Từ ngọn rau xơ mới xanh non, mỡ màng sau những cơn mưa rào của ngày hè oi ả, đến ngọn rau sẫm xanh, dai dai vì nhiều nhựa của mùa thu đều mang hương vị riêng và nét đặc biệt của nó.  Cái vị cằn chát như đầy suy tư, nghĩ ngợi của rau muống mùa đông và cả những chồi mầm, rau lộc ngọt bùi khi xuân đến. Vị thanh mát như hội tụ trong đĩa rau muống nộm đậm đà đủ vị mặn, ngọt, chua, cay, quen thuộc đến ngàn đời mà chỉ riêng rau muống mới có.

Mảnh vườn nhỏ trước nhà, bao giờ mẹ tôi cũng dành một khoảng khiêm nhường để trồng rau muống quanh năm. Sáu giờ sáng, cái nắng bình minh bắt đầu chói chang, len lỏi vào cửa sổ, khi những giọt sương mai vẫn còn đọng trên nhánh rau non tơ, mẹ đã thức dậy hái rau. Tôi đang còn ngỡ ngàng chưa kịp cất lời, mẹ cười bảo: “rau mới ngắt sẽ có vị ngái nên phải hái từ sớm và ngâm nước cho sạch”.

Rau muống mùa hè xanh rộ, cứ vài hôm lại thấy đĩa muống nộm xuất hiện trong bữa cơm. Mẹ làm thật đơn giản nhưng hương vị chẳng chê vào đâu được.

Rau muống rửa sạch, chần qua nước nóng cho giòn, để cả cọng hoặc chẻ làm đôi, cho vào cái đĩa thật to rồi trộn lẫn với rau kinh giới và rau ngổ đã thái chỉ. Để món nộm thêm bùi, mẹ tôi đã kỳ công rang, giã lạc trộn và phủ lên bề mặt đĩa nộm.

Chỉ còn một công đoạn nhỏ nữa là nêm gia vị, tỏi, ớt, đường và nước mắm ngon cho vào bát đánh bông rồi trộn đều vào đĩa rau muống đã nguội. Chanh cắt đôi, bỏ hạt vắt lấy nước cốt và rắc đều lên đĩa rau, ướp khoảng 10 phút là có thể thưởng thức.

 Đĩa nộm rau muống ánh lên màu xanh của rau, màu vàng ruộm của lạc, một chút sắc đỏ của ớt chín. Vị thanh chua của chanh, vị cay của ớt, ngọt nhẹ nhàng của đường và vị bùi bùi của lạc rang

Nhớ canh rau muống

Hồi nhỏ mẹ hay nấu canh rau muống, ngày đó còn khó khăn nên luống rau muống và khoai lang trước nhà luôn là bữa ăn thường nhật. Nhiều lúc ngán đến tận cổ nhưng vẫn ngậm ngùi nuốt vì trên mâm cơm còn gì đâu. Một nồi canh rau muống và vài con cá kho. Ngày đó khổ và khó khăn thật.

Nhưng không phải lúc nào những bữa cơm cũng đơn giản như thế. Còn nhớ, mỗi lúc ba lên thị xã chắc chắn khi về sẽ mua rất nhiều thịt heo, vì bà cô ở trên thị xã bán thịt heo. Và y như rằng chiều hôm đó sẽ có món ngon do mẹ nấu. Còn những lúc mẹ nhận lương, lương mất sức được vài đồng nhưng mẹ vẫn đãi cả nhà một bữa ra trò. Một tháng chỉ được vài lần như thế, nhưng đối với tôi như thế là quá đủ rồi. Ai bảo cuộc sống khó khăn quá làm chi.

Ngày đó, bố mẹ tôi còn làm trong nông trường, sống trong một khu nhà tập thể rách nát, ở đó có đủ loại thành phần, dân bắc có, trung có và có vài người miền tây mới lên. Chắc cũng vì cuộc sống khó khăn quá nên con người cũng khó tính và khắt khe. Trong một khu tập thể vài chục nóc nhà mà ngày nào cũng ầm ĩ, chửi nhau loạn cả lên, đôi khi còn có vài vụ xô xát. Ban quản lý nông trường xuống lập biên bản mấy lần nhưng rồi cũng như không, tức là vẫn đánh như thường.

Bố mẹ tôi thì vốn hiền lành, chưa gây chuyện với ai bao giờ mà cũng chẳng làm mất lòng ai trong cái xóm nghèo nàn. Chỉ có điều cuộc sống khổ quá nên bố cũng thường hay cáu với mẹ và mỗi lúc như thế tôi thường đứng phía ngoài vại nước nhòm vào. Có lần bố cầm cái bát sành ném mẹ, bố cố ý ném lệch sang một bên để chén bay ra ngoài vại, chén vỡ còn tôi khóc, mảnh sành đâm vào chân chảy quá trời máu. Thế là từ đó bố không bao giờ cầm ném cái gì nữa, nhiều lúc tôi nghĩ lại, lúc đó tuy tôi rất đau nhưng đổi lại được rất nhiều thứ đáng quý.

Tôi còn nhớ vào tôi bốn tuổi, mẹ tôi có mang thằng giữa, bụng to đùng nhưng mẹ vẫn ra đồng, lúc đó tôi thường đi theo mẹ, thường thì tôi đi hái rau tàu bay, hái rau cải rừng để trưa về nấu. Bây giờ nhiều lúc nhìn thấy mấy bà bầu được cưng như cưng trứng và nhớ lại bóng dáng mẹ cuốc từng nhát nặng trịch mà thương mẹ quá. 

Khu tập thể bị giải tán vì nông trường bị giải thể. Nông trường cắt đất bán cho dân, tôi còn nhớ bố phải chạy vạy khắp nơi để kiếm tiền mua đất. Thế là nhà tôi không còn ở trong khu tập thể đó nữa, bố đi rừng với mấy chú trong xóm cộng với mua gỗ từ trước, nhờ anh em họ hàng dựng cho cái nhà. Cái nhà ọp ẹp nhỏ xíu, nhưng ít nhất lúc đó chúng tôi đã có nhà, ngôi nhà đầu tiên.

Đến giờ thì tôi đã được sống trong ba căn nhà rồi. Ngôi nhà đầu tiên sinh thằng giữa, sau bố mua nhà ngoài đường, lúc đó sinh thằng út. Sau vì nhà xa vườn quá nên chuyển nhà lại vào trong vườn. HIện tại thì vẫn ở nhà trong vườn, giờ thì có đường lộ vô tới nhà nên cũng đỡ khó khăn trong đi lại.

Bây giờ đã lớn, ngồi nhớ lại mà lòng ngổn ngang. Xưa khổ không nói, nhưng giờ bố mẹ vẫn khổ, vẫn phải loa toan bao điều để lo cho mấy đứa. Nghĩ lại mà thương quá đỗi, giờ cũng cố gắng làm lụng còn phụ bố mẹ lo cho mấy thằng em thôi. Mong mấy thằng sau đừng khổ.

Ngồi ăn cơm với canh rau muống mà nhớ đến tận đâu đâu, rõ ràng những cái gì đã một thời gắn bó thì sẽ không bao giờ quên dù là những điều nhỏ nhặt nhất.

Mưa miền ký ức

(Dân trí) - Mưa ngập cả ruộng khoai nước của mẹ, những cọng rau muống hao gầy, xanh xao. Thủa ấy, học lớp 5 trường làng, người gầy nhẳng, hai ống chân ví như đôi que tăm nhưng tôi đã biết phụ giúp mẹ chăm đàn lợn lớn bé gần chục con.

Bố mẹ đều là công chức nhà nước nhưng thời buổi khốn khó nên hầu như thủa ấy, nhà ai cũng phải tăng gia thêm chứ ngồi ngóng lương có mà “chết đói”. Cơ quan mẹ cách nhà vài bước chân nên một tuần có bao nhiêu thời gian rỗi, tôi lại lạch cạch cái xe đạp sang bên mẹ làm để cuốc đất, nhổ cỏ, bắt sâu cho ruộng rau của mẹ. Sợ nhất là công đoạn dùng gáo dừa múc “nước giải” trong cái thùng xi-măng sau nhà vệ sinh tập thể để tưới rau. Dù chiều về có dùng nửa cục xà phong thơm kỳ cọ, toàn thân vẫn thoang thoảng mùi

“amoniac”.

Và hễ mưa to là nhà dột. Nhà tập thể cấp 4 mái ngói tường rêu, mưa rơi lộp bộp. Đang ngủ mẹ cũng phải vùng dậy, huy động áo mưa, thùng to thùng bé hứng mưa dột long tong trong nhà. Mấy chị em thích thú xòe tay đón mưa cười thích thú: “Hay quá mẹ ơi nhà mình sắp thành sông rồi” rồi lại bị mẹ cốc đầu mắng: “Ngốc quá, nhà dột thế mà còn vui được”. Mẹ con cùng co ro trong mảnh áo mưa ướt nước, co ro trong miền thời gian thiếu thốn, gian khó mà được vòng tay mẹ bảo bọc, chở che.

Bố công tác biền biệt, thăm thẳm nơi xa kia chỉ có bóng hình liêu xiêu, cặm cụi của mẹ tranh thủ hứng nước mưa để không phải xếp hàng dài chờ nước máy ngoài bể. Mẹ bao dung mà cương nghị, dịu dàng mà nghiêm khắc. Mẹ nói một là một, nói hai là hai, có cho tiền mấy chị em cũng không dám đòi hỏi, nũng nịu bất cứ thứ gì. Bao nhiêu năm mẹ đảm đang gánh vác, quán xuyến mọi việc trong gia đình khi bố không có nhà.   

Mưa mùa đông không ào ạt, xối xả, mưa nhẹ nhàng mà tê cóng. Cơn mưa mùa đông gắn với bóng hình của bố. Bốn năm tôi đi học là bốn năm bố dậy sớm đưa ra bến xe buýt. Trời mưa cóng lạnh, tôi ngồi sau xe ôm chặt lưng bố, mắt liu riu buồn ngủ, miệng thì hát líu lo: “Hôm nay em tới trường, mẹ dắt tay từng bước...”. Ngồi sau bố chẳng bao giờ lớn hơn được dù đã 20 hay 30 tuổi. Đều đặn và đúng giờ như một phần mềm được lập trình từ trước: 6h 10', con lên xe buýt, bố quay xe máy.   

Cơn mưa ngày đi làm. Một mình loay hoay với xe máy, gió lạnh, con đường đông đúc, tắc nghẽn. Chẳng mong ước được ngồi sau lưng bố. Bố giờ già yếu và gầy đi rất nhiều, không còn “phong độ Nuvi” như thời trai trẻ nữa. Mưa lây phây vào mặt. Chậm rãi nhích từng bước một trên phố, chỉ mong sao đoạn đường ngắn lại, trời bớt mưa để kịp về ăn bữa cơm chiều đoàn tụ với cả gia đình.

Và mưa rét cho Tết đầu làm dâu. Bố càm nhàm: “Nuôi lũ vịt trời thật vô ích, lớn là vẫy cánh bay đi” rồi lôi chai rượu thuốc của chàng rể quý biếu hôm 28 Tết ra nhấm.

Lụi cụi đi làm đến 29, chẳng sắm sửa gì Tết nhất cho bố mẹ rồi lại cắm đầu cắm cổ lo quần áo, quà cáp về quê chồng. Cô em gái tò mò mở lớp túi bóng, hét vang: “Chà, chơi mứt xịn thế, em mang lên bàn thờ thắp hương nhá” thì giật mình giãy nảy: “Quà bên nhà chồng tôi đó. Nhà mình đã có mứt của bạn trai dì rồi mà còn tham. Tôi mới ở riêng, tiết kiệm chút đi không thì móm lắm”.

Em gái “xì” một tiếng rõ dài. Bố mẹ chép miệng: “Chao ôi, đúng là vịt giời mà”…

Và mưa đã lắc rắc lên những chùm quả xoan úa vàng bên quê chồng, chờ nảy lộc cho một mùa xuân ấm áp. Lần đầu tiên đón Giao thừa xa bố mẹ và em gái, lòng xót xa một nỗi niềm. Những mùa mưa cứ dài ra theo ký ức

Canh rau muống nấu chắt chắt

Ngày cập nhật: 14/08/2011 11:46:07 SA

(QT) - Đối với người Quảng trị xa quê, có lẽ nỗi hoài hương “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương” sẽ càng đau đáu hơn, bởi bát canh rau muống xứ gió Lào cát trắng này dường như đậm đà, thanh mát hơn: canh rau muống nấu với chắt chắt.

Chắt chắt thuộc họ trìa, hến nhưng kích thước nhỏ hơn nhiều. Con chắt chắt nguyên vỏ to nhất cũng chỉ bằng ruột con hến. Cũng như hến, chắt chắt sống lẫn giữa đáy cát, muốn bắt được người ta phải ngụp lặn dưới sông để cào lên. Ở xứ mùa hè trời đất hanh nóng như thế này thì không có thức gì vừa giải nhiệt, vừa rẻ hơn những món ăn khác như rau muống nấu chắt chắt …

Muốn ăn canh chắt chắt phải mua trước một buổi, ăn buổi trưa phải mua từ sáng sớm, ăn bữa tối phải mua từ trưa để ngâm với nước vo gạo cho chắt chắt nhả hết chất bẩn trong ruột ra. Chắt chắt phải được chà nhiều lần dưới vòi nước chảy để sạch cát cũng như rong rêu bám trên vỏ.

Khi nồi chắt chắt trên bếp bắt đầu lục bục sôi, người nội trợ mới cho thêm vào ít muối và dùng đũa khuấy đều cho chắt chắt mở miệng ra hết. Nước chắt chắt lúc này có màu trắng đục, nếm thử sẽ thấy vị ngọt lừ mà không có thứ hạt nêm, bột ngọt nào có thể sánh bằng.

Sau khi lọc lấy nước, chắt chắt sẽ được mang đi “trơi” (đãi) lấy “mặt” (ruột). Đó là những khi rảnh rỗi, còn lúc bận rộn mà muốn ăn canh chắt chắt rau muống thì đã có mấy gánh chắt chắt làm sẵn của các mệ, các o ở chợ.

Hạt ném, ruốc và gừng tươi là những thứ gia vị không thể thiếu được khi nấu canh rau muống chắt chắt. Bắc nồi lên bếp, đổ dầu ăn (hoặc tóp mỡ thì càng tuyệt), phi hạt ném giã dập cho thơm rồi đổ chắt chắt vào, nêm thêm chút ruốc, hạt nêm và nước mắm cho thật thấm rồi mới chêm nước luộc chắt chắt vào nồi.

Khi nước sôi sùng sục, người nội trợ có thể nêm ít gừng tươi giã nhỏ trước khi cho rau muống vào để khử mùi tanh của bùn đất và cho canh có vị thơm. Để nồi canh được ngon thì phải chú ý canh lửa để rau muống vừa xanh lại vừa giòn.

Cảm giác mát lành khi ăn bát canh rau muống chắt chắt giữa những ngày hè nóng nực sẽ là một kỷ niệm khó quên. Vị ngọt đặc biệt của chắt chắt hòa quyện với vị bùi bùi của ruốc, vị cay nồng của gừng, ớt tươi, vị đậm đà của rau muống sẽ thỏa mãn các vị giác của bất cứ ai một lần được thưởng thức. Món canh sẽ càng thêm ngon nếu được ăn kèm với cà pháo.

Canh rau muống chắt chắt gắn liền với tuổi thơ của nhiều người bởi một lẽ giản đơn, đó là món ăn ngon mà lại rẻ nhất. Dường như vị ngọt của canh rau muống chắt chắt đã làm vơi bớt phần nào những đắng cay, vất vả trong kí ức tuổi thơ của bao người. Nên người Quảng Trị xa quê cứ thèm hoài bát canh quê mùa này, cùng là thương một thuở mình khốn khó.

Nhớ rau muống quê

Chủ nhật - 15/05/2005 00:00

·                                

·                                

·                                

Ngày tôi còn bé, những đêm mưa dai dẳng, khi tiếng rơi lộp bộp trên tàu lá chuối thưa dần, tiếng ếch nhái uôm uôm phía bờ sông, mẹ tôi thường trở dậy lôi những bó rơm gác gọn ở chái bếp xuống, sắp ra thành những nắm nhỏ để mai dậy hái rau muống. Tiếng gà gáy dồn, tôi vùng dậy, mắt nhắm mắt mở lếch thếch theo mẹ ra sông. Đẩy thuyền xuống bờ sông, hai mẹ con bám theo những bè rau muống.

Mẹ thoăn thoắt hái bằng cả hai tay những ngọn rau muống xanh non. Còn tôi thì rất khoái hái những ngọn rau muống giòn sật. Tảng sáng, cả thuyền chất ngất những bó rau tía xanh. Chỉ việc xếp rau vào quang gánh, mẹ tôi lật ngật gánh ra chợ, thoáng cái các bà buôn đã xếp hết veo. Về nhà, tôi tự thưởng cho mình khi thì bắp ngô luộc, khi thì tấm bánh rán, trong khi bàn tay đen đúa vì nhựa rau dính đầy. Lòng tôi lâng lâng vui sướng. Những đêm hái rau, những buổi chiều hè uống bát nước canh rau dầm sấu chua đeo đẳng tôi mãi. Nó là vệt ký ức sáng dìu dịu, có thể bị khuất lấp bởi những bận rộn của đời thường, nhưng một lúc nào đấy, nó lại trở về nguyên vẹn.

Chiều nay, mưa vừa tạnh. Tôi lang thang đi vào những ngõ ngách của phố Láng. Thật ngạc nhiên, giữa làng húng nổi tiếng của Hà Nội, tôi bắt gặp ao rau muống xanh rờn. Dân làng Láng gọi là Ao Phủ. Mấy chị áo gụ, đội nón trắng, vừa khom người đẩy thuyền, vừa thoăn thoắt hái rau. Hình ảnh ấy làm tôi như sống lại với những ngày thuở bé nơi miền quê trong trẻo. Tiếng ơi ới trên bờ: “Này để cho tôi một hai mớ nhé. Mưa xong, rau vừa non vừa ngọt. mà ăn rau này đỡ bị thuốc sâu". “Gớm, nhà bà rõ khéo. Ao này là rau sạch”. “Biết thế, nhưng mới rồi có khối người bị ngộ độc rau muống. Nhà tôi sợ chết khiếp.

Ăn mãi các rau khác cũng ngán. Mua rau muống về, nhưng phải ngâm đến vài tiếng. Rau nhạt thếch”. Các bà còn bảo nhau, trên phố người ta “truyền” nhau kinh nghiệm: cứ chọn những mớ rau lá thủng lỗ chỗ ấy, sâu nó ăn đấy, đích thị là chưa bị phun thuốc sâu, Người khác nghi ngờ: chắc gì, người ta phun chán ra rồi đấy, thuốc kích thích đủ rồi đấy. Sắp bán rau thì thả mấy con sâu vào cho nó cắn lá! Chao ôi, sự thật phũ phàng đến thế kia ư? Còn đâu là niềm tin vào những người sống quanh ta? Một bà thở dài: “Chả biết ở nông thôn bây giờ người ta có phun thuốc sâu vào rau muống không. Nếu họ cũng làm thế thì chắc cánh ta chả bao giờ được ăn rau muống chấm tương”.

Lại nói về món ăn dân dã, bây giờ thành đặc sản trong các nhà hàng sang trọng. Rau muống chấm tương là món ăn chính trong suốt mùa hè của người dân quê. Ngày xưa làm gì trồng được rau cải trái vụ như bây giờ.

Ngoài rau ngót, rau đay, rau mồng tơi trồng quanh nhà, món rau chính vẫn là rau muống. Rau muống rất dễ thả. Trên ao, trên hồ, trên sông, thậm chí trồng trên ruộng nó vẫn sống. Nhưng rau sông vẫn ngon nhất. Rau sông bao giờ ngọn cũng dài hơn, non hơn, nó chẳng bị quấn thành bè như thả ở ao. Chỉ cần buổi chiều, thấy sấm chớp loé sáng, một vài người quẳng bè rau muống xuống sông, cắm một hai cái sào vào giữa cho rau khỏi trôi, chỉ sau một vài đêm, rau muống đã nẩy ngọn non. Rau đấy luộc khi nước vừa sôi, vớt ra ăn vừa bở, vừa ngọt. Có loại rau muống trắng vừa bở vừa non nhưng nhạt. Chỉ có rau muống tía, ăn giòn, ngọt.

Vào những ngày nắng, rau đanh lại, ăn càng giòn. Chiều hè đi làm về, mẹ tôi vẫn thích ra sông hái mấy ngọn rau thả vào xoong. Nhập nhoạng tối, cả nhà trải chiếu ra hiên ăn cơm. Ngoài mấy món tép đồng rang với khế chua, hoặc canh cua rau đay, bố tôi - một thầy giáo làng, vốn “nghiện” ca dao cứ tặc lưỡi: “Cái anh rau muống chấm tương là “hoàng hậu bốn mùa”. Ăn không ngán bao giờ. Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”. Bữa cơm quê đơn giản vậy, ai cũng có nó trong tuổi thơ của mình nhưng có khi, chính những điều giản dị đó khiến người ta bâng khuâng, nhung nhớ…

Mấy chị hái rau xong, ôm những bó rau muống non xếp lên bậc cầu ao. Chị hàng xóm nhà tôi nhanh nhảu cầm một bó đặt vào tay tôi: “Em mang về xào. Rau này thì vô tư, khỏi lo thuốc sâu”. Tôi cảm ơn chị, cầm bó rau muống về nhà. Tôi nghĩ đến món quà thơm thảo của người làng Láng - làng mới vừa lên phố trong nhịp sống sôi động của đô thị. Tôi nghĩ đến những đêm mưa, tiếng ếch kêu loãng cả đêm hè, để sớm mai, những bè rau xanh mê mải đan kín lòng sông. Người làng, người phố vẫn như xưa, chắt chiu, nhuần nhị. Chiều nay bữa cơm nhà tôi chắc chắn ngon hơn.

Và những tháng Ba ký ức

Trong những tháng ngày vẫn đi qua chúng ta, qua những người già, người trẻ, và cả những người không còn trẻ nữa, tháng Ba có nỗi ám ảnh riêng. Những tháng Ba đầy mưa ẩm, bay qua những chiều bàng bạc buồn, bàng bạc thương, bàng bạc ký ức.

Ấy là những tháng Ba quê. Với một mái làng lơ thơ tre pheo. Những bụi tre còi cọc mọc dại khắp làng. Cả những con đường quanh co, nhỏ nhỏ, đi qua những mảnh vườn luống lấm tấm xanh, thấp thoáng những bù nhìn bằng rơm, đội nón rách, phất phơ dăm tàu lá chuối héo. Và ở đâu cũng thấy những cái ao bèo xanh đặc, với những bờ ao đầy hoa giành giành trắng...

Làng thuở ấy nhiều ao, mỗi mùa mưa, những cái ao bèo đầy nước, mấp mé lên tận đường đi khiến những con đường, những lối ngõ đều lầy lội, chân đi phải bấm xuống mặt bùn. Những chiếc xe đạp thồ, những gánh hàng rong đi qua làng, phải bì bõm lội qua những đoạn ngõ trũng, nước ngập ngang bắp chân, trong tiết rét cuối mùa. Câu nói "Trăm cái tội không bằng cái lội làng La" có lẽ ra đời sau những mùa mưa lội làng như thế.

Ở quê ngày xưa, tháng Ba, sau những ngày thanh minh tảo mộ, cũng là tháng đói tháng kém. Cái mùa cải chửa ra cây cà mới nụ. Lúa ngoài đồng đương xanh, cây ngoài vườn chưa quả. Nhìn quanh quất chỉ có mấy ngòi rau muống trái mùa, dăm thứ rau tập tàng trong vườn, vài buồng chuối xanh đầu ngõ... Trong nhà cũng chỉ còn mấy mẻ khoai giun, vài bắp ngô vàng lắt lay treo gác bếp, và mấy thùng thóc giống cuối buồng, một vài chum tương đã cạn gần đến đáy.

Những tháng Ba ngày giáp hạt, người lớn kéo nhau đi khắp nơi, thanh niên cửu vạn mọi miền, trẻ con bà già ngồi trong bếp khói hun nhoè mắt, vừa đan rổ hoặc bện chổi rơm, chờ nồi cháo loãng lục bục sôi trong củi rơm ướt chảy ướt chả. Khi đám trẻ con trầy trật với lên sởi, đậu mùa, trái dạ, thì những con vện, con Vàng, con Mực ngồi uể oải trước thềm, thi thoảng sủa lên vài tiếng vu vơ khi thấy một bóng người đi ngang ngõ... Trâu bò trễ nải gặm cỏ ngoài đê, ham ăn gặm vờn cả xuống mép lúa...

Những xế chiều trời hửng, ráng chiều vàng cả một bờ đê, mặt đường se khô lại, cũng là lúc trâu bò về chuồng, gặm nốt vài ôm rơm rút về từ cây rơm ngoài cổng. Những sợi rơm đã bị rút nhiều, để lại cây rơm vẹt một góc tướng, liêu xiêu như cây nấm ven đường đi...

Nhưng cũng lại là mùa của những mùa hoa. Trong những ưu tư rì rầm khốn khó, bên những hàng xoan nở ra những tím nhạt từng chùm, những hàng dâu da nở ra những trắng trời nhễ nhại, thấy hoa gạo đỏ cháy lên đầu những cành cây khô khẳng. Trong âm u, cái màu hoa cứ rực lên như lửa đỏ, đứng cách một quãng đồng xa còn hoa mắt. Thấy cả những tiếng cuốc kêu vang, loang từ ao nọ sang ao kia, vẽ những vòng sóng động dưới mặt cầu ao cá thòng đong tớp tớp. Những tiếng cuốc kêu thật buồn, thê thiết và ám ảnh. Để nhiều năm xa lắc rồi, vẫn thấy âm ba gờn gợn cuối trời, vẽ lên những mảnh làng xanh um, thao thức...

Sang tháng Tư, trời sẽ có thêm nắng mới. Những chị gái giặt áo bồm bộp bên cầu ao. Áo ấm, áo len, áo bông, áo đỏ, áo xanh phơi đầy sào, đầy dây phơi, đầy bờ dậu. Cỏ bắt đầu xanh ra đến ngoài đồng, lúa sớm cũng đã bắt đầu làm đòng, bụng lúa căng ra đương thì, hương bay về ngòn ngọt. Người ta ngồi trông chim tu hú về vườn vải, đợi những lúa mới đầu mùa.

Khi những vườn đỗ, vườn cà bắt đầu cho quả, sẽ lại đi qua những tháng Ba như thế. Trời dâng lên cao, khấp khởi những hy vọng. Sau những cơn mưa rào, rau muống non sậm sựt bốc khói trên mâm. Các chị gái quẩy quang ra chợ, mua thúng mủng, thừng chão, qua hàng thợ rèn mua dăm ba chiếc liềm, chờ mùa gặt, chờ những người đàn ông xốc vác trở về, vào vụ, kéo xe cút kít ra đồng...

Đấy thực sự là những tháng Ba của ký ức đã qua. Ký ức nào cũng rất mờ xanh, xanh như trông lại những cánh đồng, trong một chiều mưa hư ảo...

Cám ơn bánh mì

giùm một vài ổ coi bây!”

Người bình dân Sài Gòn trước đây thường ăn bánh mì nóng hổi để trong bội cần xé, đậy bằng bao bố hoặc giấy dầu. Ngày trước khắp các con hẻm Sài Gòn, sáng sáng, chiều chiều lúc nào cũng có bóng những người đàn ông khòm lưng trên xe đạp rao, “Bánh mì nóng hổi đây.” Con nít thì thích móc ruột bánh mì ăn trước còn người lớn thì khoái ăn vỏ bánh giòn giòn. Nhưng ăn bánh mì không hoài cũng ngán nên dân lao động chế ra món bánh mì chấm nước tương. Cái chén nước tương rắc chút tiêu xay, nặn chút chanh đúng là chấm bánh mì ăn ngon bá phát. Tất nhiên trong các món bánh mì giản dị nhưng lại thành ký ức khó phai mờ của dân đô thành Sài Gòn và phố tỉnh miền Nam còn có món bánh mì chấm đường cát, bánh mì rưới sữa bò hiệu Ông Thọ, Kim Cương. Chúng tôi lúc nhỏ thuộc lứa học sinh của thời viện trợ Mỹ, sáng nào vô lớp học cũng được phát một ổ bánh mì, một ly sữa lạt. Viện trợ Mỹ chăm sóc lớp học sinh tiểu học của chúng tôi ân cần lắm, nhưng tuổi nhỏ đâu hiểu chuyện gì về suy dinh dưỡng, cứ ăn bánh mì chấm sữa riết ngán tới cuống họng nên vò ruột bánh mì thành cục bột chọi lộn chơi. Ðã nhớ thì phải nhớ luôn về chuyện sau biến cố 1975, Sài Gòn rơi vào tình cảnh đói ăn. Những ai đã từng xếp hàng chầu chực để cầm tem phiếu mua bánh mì với bột mì, hẳn sẽ không quên cám ơn cái thứ chất bột được du nhập này đã đỡ đần bụng dạ lương dân vào thời buổi khổ nạn. Tôi thì không quên được cái mùi bột mốc, mùi mối mọt, cả mùi cứt chuột… từ bột mì thời bao cấp cộng sản. Còn riêng bánh mì tem phiếu thì không biết các công ty lương thực của nhà nước làm bằng thứ bột gì mà chai cứng như “sỏi đá cũng thành cơm.”

Giờ dây người Sài Gòn chỉ ăn vịt quay của người Hoa Chợ Lớn với bánh mì, với món càri Ấn Ðộ người ăn cũng đòi bánh mì. Trước đây ở tiệm phở bình dân của người Bắc di cư, lúc nào cũng có những thực khách đến ăn phở mà tay cầm thêm ổ bánh mì. Có người cho chuyện ăn phở chấm bánh mì là vì người lao động cần ăn no. Nói như vậy là trật lất, tỉ như đâu có ai chấm bánh mì với nước bún riêu. Phải tin rằng khẩu vị người Việt tinh tế lắm, cái bánh gốc Tây này phải hạp khẩu vị lắm người ta mới dùng chung với món phở quốc hồn quốc túy. Một trường hợp khác là bánh mì chả lụa rắc muối tiêu, ngò rí. Không có gì trật khi gọi món bánh mì là món đa văn hóa, có thể kể như sau. Với các món gốc Hoa, vịt quay, heo quay, xá xíu, xí mại… các món gốc Ấn thì cà ri gà, cà ri vịt, cà ri dê… với các món Việt thì có chả lụa, chả cá, bì heo mỡ hành, bò kho… Còn nếu kẹp các món có gốc lai Tây hoặc Mỹ thì khỏi phải nói, bánh mì ốp la, pa tê, phô mai, giăm bông, thịt nướng, xúc xích…

Có một điều nhiều người thắc mắc là vì sao người Việt chỉ khoái ăn bánh mì Tây kiểu nướng cứng giòn, dẫu đã du nhập đủ loại bánh mì trong đó có cả bánh mì Nga. Có lẽ không cần giải thích chi cho mệt mà chỉ cần nói cho qua rằng. Ôi cái thứ nhân duyên tiền định với bánh mì cứng của Tây đã thành dòng họ bánh mì Việt rồi, đố có thay đổi được. Người viết đã từng ngạc nhiên khi thấy tận bên Mỹ, người Việt mình vẫn cứ khoái ngậm bánh mì cứng theo kiểu Việt, có khi nhờ vậy mà những thương hiệu bánh mì Việt trên đất Mỹ hay ở các xứ khác có cơ hội chứng minh và đóng góp cái kiểu ăn bánh mì ngon lành Việt Nam.

Sài Gòn hôm nay không còn lò bánh mì đốt bằng củi nữa mà thay bằng bánh mì lò điện. Tất nhiên với người hoài cổ thì không ngon miệng, nhưng thử hỏi trong thời buổi lạm phát cao nhất thế giới này có thứ nào rẻ bằng bánh mì đâu. Với giá bán lẻ 3,000 đồng bạc một ổ bánh mì không thì nếu Thượng Ðế mà đi làm công nhân giá rẻ mạt ở các khu công nghiệp hoặc ngồi ngơ ngác ở các ký túc xá sinh viên… cũng phải gật đầu: Cám ơn bánh mì!

Cơm chiên của ba

Mùi thơm của tỏi phi, một chút của nước mắm và vị bùi bùi của những hạt cơm dẻo làm con nhớ tới món cơm chiên của ba vô hạn…

Nhớ ngày nhỏ, trước khi đi học, bao giờ con cũng được lót dạ một chén cơm chiên ngon lành. Mùi thơm của tỏi phi như chiếc đồng hồ báo thức đều đặn gọi con dậy mỗi buổi sáng. Mùi thơm ấy đánh thức con qua khướu giác nhẹ nhàng hơn chiếc đồng hồ báo thức reo inh ỏi với âm thanh thật đáng sợ.

Chú mèo mướp có bộ lông xù nằm cuộn tròn trong bếp trên đống than củi sáng nào cũng bị ba gọi dậy, chú vươn vai, giũ tro than rồi chậm chạp bước đi mà mắt vẫn nhắm nghiền vì chưa đẫy giấc. Nhưng chỉ vài phút sau, mùi quen thuộc của món ăn ưa thích khiến hai mắt mèo ta mở to chờ đợi. Sau khi chừa cho con một chén đầy, ba xúc cho mèo mướp một muỗng cơm vào cái chén ở góc bếp. Mèo ta thích lắm, vừa ăn vừa ngao ngao cho đến khi hết sạch.

Dậy sớm chiên cơm cho con ăn xong ba mới pha một bình trà nóng hổi, vừa uống vừa mở chiếc radio to đùng đầy bụi bặm và chỉ bắt đầu hoạt động khi dùng tay đập thật mạnh bên cạnh cái loa, sau đó là nhạc hiệu chương trình thời sự buổi sáng vang lên với tiếng kêu rè rè như tiếng vỗ cánh của con bọ hung.

oOo

Con lên đại học, những buổi sáng thức dậy gấp gáp, chân chạy vội vào giảng đường trong khi miệng còn gặm ổ bánh mì mua ngoài cổng trường. Mùi thơm của chén cơm chiên mỗi buổi sớm dần trôi vào kí ức xa vời, gắn với biết bao kỉ niệm tuổi thơ nơi làng quê nghèo khó.

Giờ đây, mỗi sáng ba cũng không còn chiên cơm nữa. Món ăn giản dị ngày nào vẫn ngon nhưng dường như bị quên lãng. Những khi con về thăm nhà, mẹ thức sớm ra chợ mua cho con bao nhiêu món ăn ngon bồi dưỡng. Còn em con thì thích xin tiền mẹ để ăn sáng ngoài trường cùng các bạn hơn ăn ở nhà. Thấy ba có vẻ buồn nhưng không nói, thói quen vẫn thế, khi trời vừa mờ sáng ba đã thức dậy. Chú mèo mướp vẫn bị đánh thức chui ra khỏi bếp lò, ba bắt bếp nấu một chút nước sôi pha trà, ngồi trầm ngâm đến khi mặt trời lên cao để rồi lại bắt đầu công việc của một ngày mới. Chú mèo mướp lắm lúc lại đi loanh quanh đòi bữa sáng quen thuộc nhưng không thấy nên tiu nghỉu quay về góc bếp ngủ thêm một giấc đến tận trưa.

oOo

Hôm nay, con lại được ăn món cơm chiên, không phải ở chiếc bàn nhỏ gần bếp lò đầy khói và cạnh ô cửa sổ bé tí phủ đầy nháng nhện cố đón lấy những tia nắng le lói của buổi tinh mơ. Nơi đây phủ đầy ánh điện từ những chiếc đèn chùm bằng pha lê trong suốt tỏa ra thứ ánh sáng màu vàng nhạt lạ lẫm, một khung cửa sổ to bằng kính được trang trí những hoa tuyết khẽ đung đưa và chiếc bàn trải khăn trắng tinh được may nhúng lại, tất cả đẹp như trong tòa lâu đài cổ tích. Với con, chúng thật là hào nhoáng và sang trọng, xung quanh con là những người quý phái như chính nơi này được xây nên để dành riêng cho họ vậy.

Con ngồi chung bàn với chàng trai mà con yêu quý, cậu ấy điển trai và có nụ cười có thể hút hồn bất kỳ cô gái nào. Mọi người bảo con thật may mắn khi được cậu ấy để ý đến và quan tâm chăm sóc. Không phải những đứa sinh viên nào sống xa nhà như con cũng có cơ hội vào nhà hàng nổi tiếng và thưởng thức những món ăn sơn hào hải vị như thế. Con chọn món ăn trên tờ menu dài chi chít những tên gọi mĩ miều, con chú ý đến món bắt đầu từ bằng từ cơm chiên.

Món cơm chiên ngũ sắc bày trí thật đẹp mắt, đầy thịt cá và rau củ loại đắt tiền mà từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ con được nếm thử. Nhưng con vẫn chưa cảm nhận được vị dẻo thơm như hạt gạo quê mình khi ba chiên vừa chín tới, con không nhận ra mùi hương đặc trưng đậm đà của nước mắm do tay mẹ chưng cất, con chỉ thấy vị ngấy của thịt và những hạt cơm khô sượng bời rời.

Thấy con ăn không ngon, cậu bạn nhìn đĩa cơm rồi ngước nhìn con, nhăn mặt: “Đã gọi rồi thì cố mà ăn hết, món này đắt tiền lắm, bỏ thì phí ra!”

Câu nói bất ngờ khiến cổ họng con nghẹn lại, buông lơi chiếc muỗng. Cố hít một hơi thật sâu, thế nhưng tự nhiên những giọt nước mắt không thể cầm được, con vội quay đi để cậu ấy không bắt gặp và lại bảo là con hay khóc vô lý.

oOo

Đường phố tấp nập lên đèn, không gian như trầm lắng khi bước chân vào xóm trọ quen thuộc…Cơn mưa phùn rả rích, mưa trái mùa càng làm lòng con se thắt…Tết này con mới được về nhà. Mong quá được về quê cũ, mong được trở về với không khí bình dị và thân quen. Người người sẽ sum họp bên gia đình để thưởng thức những món ngon ngày Tết, riêng con, vẫn tìm về món cơm chiên mà con biết ba đã để dành cho con, từng ngày, từng

ngày, lặng lẽ bên chái bếp…chờ mong con về…

Đèn dầu

Trong những thứ ánh sáng của tuổi thơ tôi, ngoài ánh trăng, còn có ánh sáng của chiếc đèn dầu một thời người dân quê tôi luôn gắn bó mật thiết với nó trong mọi sinh hoạt khi màn đêm buông…

Nhớ những ngày còn bé, cứ mỗi buổi hừng đông, chị em tôi ngồi ôn bài với chiếc đèn dầu thì bên chái bếp, mẹ lui cui chuẩn bị bữa ăn sáng cho cả nhà và cũng cho bọn trẻ chúng tôi kịp lội bộ đến trường. Ở cái xứ đèn dầu thì có cầu kỳ gì đâu, bữa điểm tâm có hôm mẹ nấu khoai, luộc chuối; sang hơn một chút thì một chão cơm rang mở hành để ăn cho chắc bụng.

Chiếc đèn dầu cũ kỹ với ánh sáng leo lét ấy đã gắn bó gần suốt cuộc đời của mẹ và theo suốt cả thời thơấu của chúng tôi cũng như của biết bao người nơi miền thôn dã này! Ngoại tôi kể, hồi trước muốn bắt được con ếch, con cá vào mùa mưa người ta phải làm những chiếc lồng đèn để đi soi. Khổ nỗi, hồi đó cũng chẳng có vật dụng gì để làm chiếc lồng đèn nên người ta nghĩ ra cách dùng chiếc mo cau và một thanh tre kẹp lại. Dụng cụ dùng để cá, dựng nhái cũng làm bằng mo cau. Những vật dụng này trông thật ngộ nghĩnh, nhưng đầy tính sáng tạo của cha ông mình ở cái thời “tự cung, tự cấp”.

Thời gian sau này, nhà quê có những miếng thiết, miếng tole người ta mới đóng chiếc lồng đèn bằng vật liệu ấy, vừa nhẹ lại vừa bền so với đóng bằng những tấm ván. Ba tôi khéo tay lắm nên tùy theo lồng đèn để soi nhái hay soi cá mà kích cỡ của nó lớn hay nhỏ cho phù hợp. Chiếc đèn dầu chui vào “mái nhà” của mình vừa để tránh gió vừa để hắt ra ánh sáng cho người dân quê tôi kiếm được con cá, con tôm…

Chiếc đèn quê trong tôi không hề đơn điệu từ công dụng đến hình thù của nó. Nhớ những ngày mưa dầm hay mùa nước nổi trắng đồng là mấy cậu tôi chuẩn bị những cây đèn rọi để đi soi cá trên đồng xa. Cậu tôi tìm mấy cái chai thủy tinh loại nhỏ, kiếm miếng thiết cũ để làm chụp đèn, một đoạn ống trúc vừa với miệng chai, cùng với cái tim bằng vải the nữa là thành chiếc đèn rồi. Cậu tôi nói, coi đơn giản vậy chứ nó sáng lắm và chịu được giông gió ở ngoài đồng!

Đi soi cá thì cực nhọc rồi nhưng chắc chắn đó là một cách bắt cá thú vị nhất! Người làm nghề chuyên nghiệp thì dùng mơm để bắt được cá sống, còn đi soi theo kiểu tài tử thì dùng chĩa để đâm hoặc dùng dao để chém. Nhờ cái chụp đèn mà ánh sáng không hắt ngược chói mắt, nó chỉ chiếu xuống mặt nước đúng với tầm mắt người đi soi. Ông tôi kể, hồi trước, người ta đi soi bằng đèn dầu cũng bắt được nhiều cá, có khi còn dư ra để bán nữa; còn bây giờ người ta soi bằng đèn bình hoặc xuyệt điện thì cá, lươn riết rồi cũng không còn!...

Cũng vào mùa mưa dầm, cây đèn chống mưa bão luôn hiện diện dưới bến sông quê cho những người làm nghề cất vó ban đêm. Chiếc đèn lúc này không chỉ làm nhiệm vụ chiếu sáng cho người cất vó mà nó còn là tín hiệu cho những phương tiện qua lại bằng đường sông biết phía trước mình có chướng ngại vật.

Đèn quê dùng để thắp sáng trong mọi sinh hoạt về đêm, điều đó thì ai cũng biết. Nhưng nếu để ý một chút thì cây đèn còn được thắp sáng vào ban ngày dành cho những người đã khuất. Ngọn lửa ấy mang ý nghĩa biết ơn tổ tiên, vừa là ngọn lửa tiếp nối truyền thống của gia đình, của dòng tộc. Ông tôi khuyên con cháu, những cây đèn trên bàn thờ thì nhất quyết không được đem xuống dùng ở những nơi khác, đó là phép lễ nghi mà tôi được ông chỉ dạy từ nhỏ!

Trong ký ức tôi luôn in đậm hình ảnh ngọn đèn dầu và bóng mẹ ngồi quạt để dỗ giấc ngủ cho chúng tôi trong những đêm hè. Ánh lửa yếu ớt của ngọn đèn dầu và bóng mẹ đã cho tuổi thơ chúng tôi ấm áp hơn, an tâm hơn giữa đêm mịt mù.

Ngọn đèn dầu với tuổi thơ tôi không đơn thuần chỉ là một vật dùng thắp sáng căn nhà trong đêm, mà nó còn thắp sáng cả trí tuệ tuổi thơ, với những câu chữ đầu tiên tôi biết được là nhờ có đèn soi tỏ. Cái ánh sáng đèn dầu nhỏ nhoi, yếu ớt ấy chỉ cần một cơn gió thoảng qua là vụt tắt; nhưng nó sáng mãi trong ký ức của bao thế hệ con người nơi miền quê, vì nhờ ánh sáng ấy mà lớn lên thành người. Thời gian trôi qua, bao mái tranh quê được thay thế bằng những căn nhà ngói, nhà tường, những ánh đèn dầu cũng dần dần được thay bằng đèn điện. Nhưng ánh lửa hắt hiu năm nào vẫn soi sáng và sưởi ấm mãi trong ký ức tôi về chiếc đèn quê…

Bữa cơm thời bao cấp

Cơm đôi khi có chút thịt, trứng, cá, cũng có khi chỉ có lạc rang muối, cà muối, rau muống luộc, rang cơm ngày đó chỉ có mỡ lợn và muối hoặc nước mắm. Ngày đó cái gì cũng thiếu thốn mà sao thấy cuộc sống có ý nghĩa.

> Tuổi thơ 7X ở Hà Nội

//

//

Ngày đó ở quê không phải lúc nào cũng có điện, thỉnh thoảng có điện vài ngày rồi cắt điện cả tháng. Ngày thường thường xuyên không có điện, nhưng khi chuẩn bị đón Tết là chắc chắn có điện, tôi còn nhỏ quá nên cũng không hiểu tại sao lại như vậy.

Chuẩn bị đón Tết, nhà thì to, sân thì rộng, vườn cũng rộng, cổng thì dài, tối chỉ có một mình mẹ còng lưng dọn dẹp. Ba chị em tôi thì vui đùa chạy nhảy hết chỗ này đến chỗ khác, rất vui vì có điện sáng trưng và thấy căn nhà sạch sẽ sáng sủa hẳn ra.

Trời mưa thì bố chỉ cần bắt cá rô rạch lên vườn nhà hoặc bắt ếch trong sân là cả nhà có một bữa ngon rồi.

Ngày đó cái gì cũng thiếu thốn mà sao thấy cuộc sống có ý nghĩa, sáng sớm thức dậy thấy vui vì 1 ngày mới bắt đầu, ánh nắng ban mai dường như có 1 mùi gì đó, lạ và thật tuyệt. Tôi phấn chấn đi tập thể dục, tắm, ăn sáng, đi học, ôn thi, đi chơi với các bạn, ra vườn hái quả ăn.

Bữa cơm không có gì, có khi có chút thịt, trứng, cá, cũng có khi chỉ có lạc rang muối, cà muối, rau muống luộc, rang cơm ngày đó chỉ có mỡ lợn và muối hoặc nước mắm chứ đâu có phong phú như bây giờ. Ăn thì như vậy tưởng sẽ thiếu chất, thiếu sức sống vậy mà không, lúc nào cũng thấy khoẻ khoắn yêu đời.

Còn bây giờ chất lượng cuộc sống nâng cao mà sao lúc nào cũng thấy mệt mỏi, sáng sớm thức dậy không còn muốn hít thở không khí buổi sáng nữa, món tiền đầu tiên tiêu không phải cho bữa sáng mà chính la tiền thuê nhà, 1 tháng 3 triệu suy ra mỗi sáng thức dậy món tiền đầu tiên là 200 ngàn tiền thuê nhà, thấy cuộc sống này đang bóp nghẹt con người ta.

Nhưng cũng chẳng có cách nào khác vì chúng ta buộc phải chạy theo thời gian.

Nhớ ngày xưa quá.

Thuở ấy

Nhớ sao những ngày nghỉ về quê, bắt cá rô đồng, lươn chạch là một bữa cải thiện. Chiều thu mát nhẹ, cả nhà quây quần bên mâm cơm có canh rau tập tàng, cơm trộn mỳ sợi và đĩa cá rô rán - sao mà ngon, mà thơm lừng lựng đến tận bây giờ... Nhưng cũng thuở ấy, đi học xa hơn 10 km mà cứ cuốc bộ suốt, chứ đâu có xe máy, ôtô như bây giờ.

Thuở ấy, không thấy có người bị bệnh gút, béo phì, máu - gan nhiễm mỡ vì mọi người đều thiếu ăn - mọi người đều gầy guộc. Còn bây giờ, người ta hỏi nhau mua gạo nào ngon, ở đâu - chứ không như ngày xưa họ hỏi nhau: Đong gạo ở đâu có nở không? (vì gạo xấu, nở thì ít gạo được nhiều cơm!!!). Và thuở ấy, sinh viên chúng tôi biết vá "píc - kê" mông quần và đầu gối (vì chỉ có 5m phiếu vải/năm, quần sờn rách mông và đầu gối được lót một tấm vải dày bên trong và khâu chần lại để gia cố, tăng thời gian sử dụng).

Thuở ấy, khổ nhất là mùa rét và mùa mưa. Mùa rét thì thiếu chăn đắp ấm phải mặc thêm trong người vài cái áo cũ rách cho đủ ấm đi ngủ và đắp thêm chiếu; còn khi trời mưa, nhà thì dột, đi đường có cái áo lành ướt mất rồi, choàng một tấm vải ni lông hình chữ nhật tránh mưa, gió thổi tứ bề, mặt mày tái xám... người dân đi làm đồng càng khổ - chứ đâu có nhà tầng, đệm Hàn Quốc và quần áo rét lỗi thời nhét đầy tủ mà không dùng đến như bây giờ.

Thuở ấy "vời vợi tuổi thơ một cỗ bánh đa vừng", cái kẹo lạc - chứ đâu có nhiều bánh trái xếp đầy tủ mà trẻ không thèm ngó ngàng đến như bây giờ...

Chỉ có điều: Những cánh đồng quê bát ngát ngào ngạt hương lúa thơm khi làm đòng và ngào ngạt rơm thơm vào mùa gặt thì, bây giờ đang mọc lên những khu công nghiệp với bê tông, bụi khói và tiếng ồn. Đi ra đường bây giờ như đang đi ở Nhật Bản vào những thế kỷ 17-18 vì gặp toàn "ninja" (áo chống nắng, khẩu trang, găng tay, đội mũ kín mít đến vợ chồng gặp nhau ngoài đường cũng đố có nhận ra nhau???). Nhưng, ngày xưa toàn trồng lúa mà vẫn quanh năm thiếu ăn, ngày nay diện tích trồng bị thu hẹp lại mà vẫn thừa ăn, được xuất khẩu lúa gạo. Chỉ có điều lẽ ra, cùng với sự phát triển chung của kinh tế xã hội thì phải có sự phát triển đồng bộ về môi sinh, môi trường và ý thức của con người, đằng này ở mình có sự phát triển đấy nhưng lôm côm, vô tội vạ, thiếu quy hoạch...

Ký Ức Biển

Thứ hai, 09 Tháng 1 2012 17:59 Viết bởi Lê Xuân Tiến

Khi xa nhà tôi lại nhớ về biển. Biển ám ảnh cả trong giấc mơ.Tôi mơ thấy mình nằm dưới tán phi lao đầy gió,những cơn gió mát rợi đi lên từ biển,một mặt biển xanh ngắt, êm ả, sóng vỗ nhè nhẹ như ru ngủ...Thức giấc nửa đêm,tôi chợt nhớ ra mình đang sống trong một thành phố lớn-một thành phố chật chội với người và bê tông cùng với giòng sống ồn ào,náo nhiệt.Tôi đã mơ về biển như một sự giải thoát

Tôi sinh ra và lớn lên từ một thành phố nhỏ ven biển. Một thành phố nhỏ và chật hẹp hơn Nha Trang và Đà Nẵng. Lúc nhỏ,tôi vẫn cho thành phố mình là lớn nhất, bãi biển mình là đẹp nhất, nhưng về sau đươc đi nhiều nơi tôi mới thấy nhận định đó là ấu trĩ. Dù nó nhỏ nhưng càng đi xa lại càng nhớ. Giống như Xuân Diệu, trên 20 năm tập kết, ông vẫn không nguôi nhớ về quê mẹ "Quê ngoại là gì, quê ngoại là ai /Mà tôi thương nhớ suốt tháng năm dài "

Mỗi lần về lại Quy Nhơn, tôi lại cảm nhận cái không khí chậm chạp của lối sống tỉnh lẻ. So với nhiều thành phố, Quy nhơn còn rất nhiều xích lô đạp. Đi xích lô đạp chúng ta mới cảm nhận hết sự yên tĩnh của phố và biển. Có thể hính dung thành phố này như một cái chéo áo, nơi cuối của thành phố là nơi hợp lại của đầm và biển " Đi năm phút đã về chốn cũ " Giống như câu thơ của Vũ Hữu Định để hình dung về sự nhỏ bé của thành phố này.Trong một truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nòi về sự có mặt lặng lẽ của cát. Ở đầu đường cuối chợ của thành phố. Nhưng 50 năm sự bành trướng của nhà cửa đã làm mất đi một địa danh với một cái tên là " Xóm Động". Đi vào xóm này giữa trưa thì đừng quên đôi dép vì mặt trời làm cát nóng lên, đi chân trần có thể làm bỏng chân. Ngày xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử đã từng sống ở đây trước khi vào bệnh viện phong Qui Hòa. Hiện nay nhà thơ của " bến sông trăng " đang yên nghỉ ở một ngọn đồi nhìn ra biển ở khu Gềnh Ráng, một đầu của biển Quy Nhơn, nơi đây đã trở thành khu tưởng niệm.

Biển đẹp nhất vào mùa từ tháng ba đến tháng bảy, lúc đó trời quang, biển lặng, có thể  nhìn rõ Cù Lao Xanh phía xa khơi và thấy cả những bọt sóng trắng đập tung tóe vào các bãi đá ở Gềnh Ráng. Những bọt sóng này như xoáy vào ký ức của tôi những lúc xa nhà đi học xa. Biển Quy Nhơn vào mùa gió nồm, thứ gió mát dịu như lời thì thầm của các cô gái. Gió nồm đã đi vào lịch sử "lạy trời cho cả gió nồm / để cho chúa Nguyễn giăng buồm kéo ra"

Đó là sự thay đổi của lòng dân, báo hiệu thời suy vi của nhà Tây Sơn.

Cách đây 50 năm người ta không có ý thức làm du lịch,nên không quy hoạch để giữ nguyên bãi cát trắng của biển Quy Nhơn. Vì thế trên bãi cát,nhà cửa xây cất lung tung kể cả dân chài cũng thi nhau lấn chiếm. Vì thế bãi cát đã không còn sạch sẽ. Sau năm bảy lăm,chính quyền có cơ hội để làm trong sach bãi cát vì lúc đó người dân rất sợ cách mạng, có thể di dời các hộ dân chài vào một vùng khác. Nhưng cơ hội đã qua đi. Mãi đến 30 năm sau giải phóng, chính quyền phải thực hiện một biện pháp tình huống là là xây dựng mới một con đường nhựa ngay trên bãi cát để đưa nhà dân về phía bên kia. Điều đó có mặt trái là làm cho bãi cát hẹp hơn.

Những ngày biển trúng là những ngày vui của cả thành phố. Biển trúng mùa được đánh dấu bằng những con ruốc nhỏ nhảy lao xao trên mặt biển. Mỗi sáng khi tắm biển, chúng tôi thường đưa hai tay hứng lấy, rồi cho ngay vào miệng. Những con ruốc ăn sống ngọt ngào làm sao. Vậy là những ngày sau đó bữa ăn thường có món ruốc tươi muối xổi trộn với sả ớt, ăn mấy chén cũng chưa hết thèm

Một món cá ít thấy ở các nơi khác là cá " Bánh Đường ". Loại cá có vóc dáng và màu sắc giống như cá hồng. Đem cá này muối lạt rồi chiên lên ăn với nước mắm ớt tỏi vắt thêm chút chanh, rất bắt cơm. Người Bình Định thường ăn nước mắm không pha đường gọi là nước mắm mặn. Có lẽ là nước mắm nguyên chất làm từ cá cơm không quá mặn đến nỗi phải pha thêm đường. Vào thời nhà thơ Xuân Diệu còn ở đây, trúng mùa cá Bánh Đường nậu rổi gánh cá đi rao khắp phố phường,vì thế có câu thơ " lanh lảnh nghe rao cá bánh đường " khi nhà tơ nhớ về Qui Nhơn.

Bún cá là đặc sản của cư dân miền biển, ở Qui Nhơn chả cá được làm bằng cá thu hoặc cá mối. Đa số cá quán bún cá thường dùng chả cá mối hơn, vì nó rẻ tiền. Tôi nhớ mãi gánh bún cá của vợ chồng người Huế,mỗi sáng thường gánh tới trước cửa hàng lương thực. Khi gánh cá đã an vị,những chiếc đòn nhỏ đươc bỏ ra quanh gánh,mọi người xúm xít ngồi quanh lại. Tô bún có nước dùng màu vàng cam,trên mặt là những lát chả cá trắng tươi đang bốc khói. Ăn kèm theo rau thơm, bắp chuối xắc nhỏ thì thật tuyệt vời. Ăn một tô muốn ăn thêm tô nữa, nhưng buổi sáng chỉ có thế thôi. Vừa ăn, vừa thèm mới đúng điệu. Sài Gòn gần đây có vài ba tiệm bún cá, mang thương hiệu " Qui Nhơn " đàng hoàng nhưng ăn sao không có hương vị như ăn tô bún cá ở quê nhà. Có lẽ món ăn địa phương này được gia giảm chút đỉnh cho hợp khẩu vị của người Sài Gòn.

Nhớ xưa, mỗi mùa hè chúng tôi trông đợi nhất là món bún sứa do má tôi làm. Bún sứa không phải bún cá bỏ sứa lên mà thành. Bún sứa là món ăn cầu kỳ phải ăn ở nhà mới có đầy đủ đồ dùng kèm theo sứa. Ví dụ như nước dùng phải nấu rục xương heo vớt bọt, trên mặt phải có tôm tươi, thịt ba chỉ (ba rọi ),còn rau sống thì nhiều nhất là rau húng lủi. Khi ăn, ngoài các phụ gia quen thuộc, ta còn nghe tiếng sực, sực của thân sứa tươi, rất thú vị. Má tôi có thói quen nấu xong không ăn, mà chỉ ngồi nhìn đám con tranh nhau nhai, húp sì sụp mắt má tôi lại sáng lên với một niềm hạnh phúc vô bờ. Vì thế mỗi khi ăn bún sứa, tôi lại bùi nhớ đến hình ảnh của má xưa.

Nói đến cá ngừ, những ai xa quê đều nhớ đến mắm ruột. Đó là ruột con cá ngừ được muối mắm. Món ăn đơn giản là cà dĩa xắt tươi từng lát dày chấm vào mắm ruột. Món ăn vùng biển dân dã như thế mà cũng làm lòng mình nhớ đến da diết...

Từ ký ức bàn tay mẹ

Đó là những vần thơ đầu tiên con viết tặng mẹ. Mười mấy năm bươn chải, xa quê lập nghiệp con có may mắn được đi nhiều, quen biết nhiều, nhiều người bạn của con họ tự hào khi bước ra đời được gia đình trang bị cho một hành trang xán lạn về vật chất. Nhưng đeo bám con suốt từ những ngày tuổi thơ cho đến khi thành đạt lại là đôi tay, chân sần sùi của mẹ. Đó cũng là thứ tài sản vô giá, là bài học đáng nhớ nhất đối với con, nó tiếp cho con nhiều nghị lực vượt lên. Lên 8 tuổi, nhà nghèo xơ xác, bố đi chiến trường B, mấy anh em trốn mẹ nghỉ học đi tát cá, bắt cua, khi cầm giỏ cá đầy ứ về cho mẹ bán để lấy thêm tiền mua quần áo mới, cứ tưởng mẹ phải vui lắm nhưng cầm giỏ cá lên mẹ đã giận dữ hắt cả ra sân. Lúc đó, mấy anh em con chỉ biết ấm ức. Sáng mai, mới 5 giờ, mẹ đã thức dậy rang lại cơm rồi rưng rưng nước mắt dúi cặp sách vào tay từng đứa. Mẹ nói "con chữ của các con học được nhiều là giúp mẹ rồi, là hạnh phúc của mẹ rồi chứ không phải giỏ cá đầy”. Nghe biết vậy, chứ lúc đó chỉ thích đi tát cá. Cũng từ đó, thỉnh thoảng thức giấc lúc nửa đêm, con thấy mẹ ngồi ở góc khuất sau chái nhà cặm cụi chẻ những khúc cây khô lấy từ bìa rừng bó thành từng bó nhỏ. Ở quê chẳng có gì hay để chơi, học buổi chiều nên buổi sáng con hay cùng đám bạn trốn vào bụi cây ven đường để trêu những bà mẹ, những chị gánh hàng ra chợ bán. Có lần đang trong bụi con thò đầu ra quăng con rắn nhựa vào người thím Tâm, thím tưởng rắn thật, sợ quá làm tung tóe cả gánh rau. Con lao ra, nhe hàm răng sún cười rú lên, thím Tâm vác đòn gánh lùa một chặp rồi lật đật quay lại nhặt từng mớ rau lau vào chiếc áo nhàu nhĩ màu cháo lòng cho sạch đất, vừa lau thím vừa lẩm bẩm "rau bẩn thế này làm sao bán, chắc hôm nay ế mất rồi”. Hôm đó, mẹ biết chuyện chỉ nhẹ nhàng nói con rằng thím Tâm cũng như mẹ, bàn tay phải xước rách mới có được gánh rau để nuôi các con thím ăn học. Bữa đó bỗng dưng mắt con xè cay.

Tết năm đó, mấy anh em con ai cũng có áo mới để mặc. Thế nhưng, trong mâm cơm chiều 30 tết, con thấy mẹ có vẻ gượng gạo trong khi dọn mâm. Đêm, vô tình cầm tay mẹ thấy đầy vết sần sùi, nhiều chỗ trong lòng bàn tay nứt toác và cứ chực tứa máu. Con nhìn thấy mà trào nước mắt, con nói sẽ chẻ củi cùng mẹ để bán kiếm tiền, để tay mẹ bớt sần sùi, để có thêm tiền mua cho mẹ chiếc áo mới. Nhưng mắt mẹ lại rơm rớm nước nói rằng: "Mẹ mặc chiếc áo nâu cũ này quen rồi, không thích áo mới, những điểm mười tròn trịa của các con là phần thưởng lớn nhất, món quà quý giá nhất cho mẹ rồi”. Suốt đêm đó, thương mẹ, con thức trắng, cứ nghĩ hoài về đôi tay sần sùi của mẹ, cũng từ đó con chăm học hơn, bỏ hẳn ý định trốn học.

Cuộc sống tưởng chừng cứ thế trôi qua nhưng năm hơn 10 tuổi, anh trai gặp nạn, gần như đêm nào mẹ cũng thức trắng, có những hôm nước mắt mẹ lăn xuống mặt con nóng hổi. Lúc này, cánh rừng bên làng người ta không cho lấy củi nữa nên mẹ phải theo mấy thím hàng xóm đi lên những quả đồi xa hơn chặt cây giang, cây nứa rừng về cắt từng khúc ngắn rồi đập dập ra mang đi bán cho người ta làm phên nhà, phên dậu. Thức đêm nhiều cộng với nỗi lo âu cho anh trai con thấy tóc mẹ nhanh bạc hơn, đôi tay làm việc nhiều nên những lúc trở trời cứ run lên bần bật. Những lúc đó chỉ muốn ôm lấy tay mẹ mà khóc. Con tự nhủ với lòng sẽ học tốt để không phụ mẹ, không phụ đôi tay quần quật để kiếm từng đồng tiền lẻ cho con ăn học.

Rồi con cũng vào đại học, ít được gần mẹ hơn, nhiều lúc nỗi nhớ bồn lên đến cồn cào, mỗi chuyến xe tết vội vã về lại vội vã đi ngay. Các món tiền học càng ngày càng tăng nhưng lúc nào trong thư mẹ cũng nói rằng ở nhà được mùa lúa, mẹ không phải đi làm thêm gì như trước nữa, thương mẹ hãy học cho giỏi.

Năm cuối đại học, đang hớn hở để chuẩn bị ra trường bỗng nhận điện của anh trai "mẹ nằm viện, không đi lại được nữa”. Trong con như có những đợt sóng cứ cồn lên dữ dội, hôm sau, vớ vội mấy bộ quần áo con vội vã ra bắt chuyến xe cuối ngày về quê. Ông bác sĩ buông lời lạnh lùng rằng: "Do vận động quá nhiều, thiếu phương tiện bảo hộ, gan bàn chân nhiễm trùng, các cơ chân bị dão, thấp khớp nặng, khó có khả năng hồi phục”. Ông bác sĩ vừa bước ra, chú Tùng chuyên đi cai thầu ở xã bước vào đưa cho mẹ một mảnh giấy ghi chi chít ngày làm ít, ngày đi muộn... Con thấy lạ, chú nói "nhiều công trình gấp quá, phải làm cả ban đêm, năm nay lúa lại mất mùa nên mẹ mày gánh đất thuê cho tao 8 tháng, tổng cộng 240 buổi, trừ 20 buổi đi chậm, tổng cộng được 5 triệu đồng. Lẽ ra tao trừ bớt vì mẹ mày chân đau, gánh chậm”. Nghe chú Tùng nói xong con thấy như có gì đó nghẹn đắng nơi cổ họng. Mẹ vẫn nhìn con dịu dàng nhưng con chỉ muốn thét lên vì sao mẹ dối con. Đêm đó nằm bên mẹ, giấc ngủ nông rối bời mộng mị, mẹ tưởng con ngủ say nên mẹ dậy đếm lại những đồng tiền chú Tùng vừa đưa. Vừa đếm mẹ vừa nhẩm từng này mua gạo, từng này cho con học phí, từng này, từng này... Sáng mai, dìu mẹ đi về trên con đường heo hút gió, chân mẹ dù băng bó một lớp băng dày nhưng vẫn phải đi nhón gót, lòng con quặn đau như có kim châm.

Quay lại trường, day dứt trước đôi chân cà nhắc của mẹ, con lao vào học như điên. Ra trường, được nhận vào một cơ quan văn hóa cấp tỉnh, trực tiếp về quê báo tin, mẹ chống gậy ra đón con bằng một nỗi vui mừng lắp bắp. Nhưng trớ trêu thay, vì cái tính "thẳng như ruột ngựa”, dám nói ra tội "ăn bẩn” của cán bộ cấp trên nên làm được hai tháng con bị đuổi việc. Hết tiền, mặc bộ đồ cũ đi gánh gạch. Người bán vé số ngày hôm qua thấy con quần áo thư sinh, sạch đẹp họ năn nỉ mua, hôm nay thì họ lướt qua. Ông chủ kêu con đi hầu rượu rồi cho thêm mười ngàn, con không thèm. Ông ta chửi "kiết xác mà làm kiêu, đồ con nhà gốc rạ”. Lần đầu tiên đi gánh gạch, ngày mai chân không nhấc nổi, con thấy thương mẹ đến xót lòng. Vậy mà mẹ đã làm việc này suốt 8 tháng. Nhiều lúc chán nản muốn bỏ hết tất cả nhưng đôi tay, đôi chân của mẹ cứ đeo đẳng nên con đã gạt qua mọi cám dỗ lao vào vừa làm, vừa học tiếp. Cuối cùng cũng có một công việc tử tế. Ở phố rồi nhưng không hiểu sao những lúc đêm khuya, khi con phố bình yên, gác trọ say sưa với những giấc ngủ nồng, con lại giật mình mộng mị khi nghe tiếng xạc xào của mấy cô lao công, tiếng kẽo kẹt quang gánh của mấy chị đồng nát. Chính tiếng kẽo kẹt ập ùa vào giấc mơ như sự luyến nuối, bồn chồn, thao thức. Sự sần sùi của đôi tay, chân mẹ lại tràn về như một nỗi nhớ không nguôi, một bài học vô giá.

Ký ức quê nghèo

Căn nhà tối om. Gió rít qua bức phên tre nghe rõ từng hồi cùng với tiếng ếch nhái oàm oạp. Tôi kéo chăn ngồi dậy tựa bên mép buồng suy nghĩ, một phút, hai phút, nửa tiếng, một giờ, hai giờ…

Quê tôi nghèo lắm. Kế sinh nhai của hơn trăm hộ dân nơi đây là trồng lúa và rau màu. Nhà tôi cũng trông vào ba sào ruộng được cấp.

Chẳng biết tự bao giờ, những ước mong của tuổi thơ trong tôi lụi hẳn, không khát khao con búp bê hay bộ đồ bán hàng, việc được một lần đến công viên chơi là điều xa xỉ, duy chỉ mơ một thứ mà trăm đứa khác gọi là bình thường: chiếc áo ấm mới.

Mùa đông năm ấy, liên tục nhiều ngày liền mây vần vũ xám xịt cả trời làng, ruộng đồng mênh mông nước, nương vườn ngập úng. Chiều tan lớp, con đường làng nhão nhoẹt “bẫy” tôi ngã nhào lấm từ đầu đến chân. Vừa đau vừa khóc nhưng tôi vẫn cố gượng dậy gắng nốt đoạn đường còn lại với toan tính sẽ trình bày ra sao để mẹ không la mắng. Về tới cửa, tôi vội chạy thẳng vào nhà định thay đồ nhanh để “phi tang” thì đã nghe mẹ nói:

- Trời ơi, răng ri con? Thay đồ khô mau kẻo đau chết con ơi.

Nghe mẹ đằm giọng, tôi thở phào rồi đi vào trong, mẹ lại với theo:

- Thay nhanh đi, ra ghế có thứ cho con đó.

- Thứ chi hả mẹ?

- Cứ ra rồi biết.

Hồi hộp quá, tôi dội nhanh ca nước mưa lạnh tanh cho trôi vết bùn bám rồi hấp tấp chạy ra ghế. Như nông dân quê tôi được mùa, con bé tôi ngày ấy nhảy cẫng lên sung sướng khi nhìn thấy chiếc áo ấm. Tôi mặc áo “trình diễn” trước mắt ba mẹ, đứng trước gương quay tứ phía rồi lại cởi ra áp lên mặt hít thật sâu để ngửi mùi áo mới.

Cơm tối vừa xong, cả nhà quây quần bên chiếc bàn nhỏ uống chè xanh. Bác Hạnh hàng xóm sang chơi nhưng không vào mà đứng ngay hành lang nhỏ to với mẹ:

- Tui mặc chiếc áo ấy đẹp lắm. Đỡ mất công tìm mua.

- Dạ, em cũng thích lắm nhưng để lại cho chị vì có việc cần – mẹ ôn tồn đáp.

- Tui biết chớ, cực chẳng đã chị mới để lại cho tui, tui đưa thêm ít chục coi như cám ơn – bác Hạnh dúi vào tay mẹ mấy tờ bạc rồi chào về.

Đang loay hoay cài then cửa, mẹ bỗng giật thót khi nghe tôi nấc lên từng hồi bên góc nhà.

- Mẹ lừa con, mẹ bán áo của mẹ để mua áo cho con mà không nói. Con không cần, con không mang - tôi lột áo quẳng sang bên ghế rồi chạy vào giường nằm ngằn ngặt khóc.

Đêm đã về khuya.

Căn nhà tối om. Gió rít qua bức phên tre nghe rõ từng hồi cùng với tiếng ếch nhái oàm oạp. Tôi kéo chăn ngồi dậy tựa bên mép buồng suy nghĩ, một phút, hai phút, nửa tiếng, một giờ, hai giờ… Đến nát óc mới ngộ ra mẹ không lừa mình, tại mẹ thương mình quá nên bán áo bông của mẹ để mua cho mình áo mới. Chao ôi, thế mà hồi tối lại thét lên rằng mẹ lừa, mẹ nói dối, mình hỗn và cạn nghĩ quá thôi.

Hết nằm lại ngồi, cả đêm cứ trằn trọc những nghĩ suy và khóc vì thương mẹ. Đã canh ba, tiếng gà gáy râm xóm. Tôi xuống giường quờ quạng lấy cây đèn lên nhà trên uống nước, ánh nến hắt chập chờn. Tôi khựng lại rợn tóc gáy khi thấy một cái bóng bó gối úp mặt hắt lên tường.

- Con xin lỗi mẹ, con sai rồi, tại con thương mẹ quá. Không có thì thôi, mẹ bán áo mẹ làm chi.

- Mẹ không muốn con lủi thủi bỏ về khi bạn bè con khoe áo mới, mẹ không muốn con chịu lạnh.

Cơn mưa chiều đột ngột ập đến. Tôi mở tủ lấy áo ấm ra,  thấy lòng se lại.

Lính truyền tải” nhớ “TẾT… MÌ TÔM”

19/01/2012 14:28:58

16 cái tết đã qua, nhưng mỗi độ xuân về, tôi lại nhớ đến cái tết đầu tiên chúng tôi trên vùng núi cao của huyện Như Xuân - Thanh Hóa đó là xuân Ất Hợi năm 1995.

Tháng 4 năm 1994, khi đường dây 500 kV Bắc Nam đóng điện đưa vào vận hành, chúng tôi vinh dự là những người đầu tiên tiếp quản vận hành lưới điện 500 kV. Tổ của chúng tôi có 17 người, được cấp trên giao nhiệm vụ tiếp quản vận hành cung đường dây 500 kV đi qua Rừng quốc gia Bến En thuộc địa bàn huyện Như Xuân (tỉnh Thanh Hoá).

Thời kỳ đầu, trụ sở làm việc của tổ chưa xây dựng xong, chúng tôi phân thành 4 nhóm vào ở cùng  4 gia đình thuộc làng Ré, thị trấn Yên Cát - Như Xuân. Giáp Tết, trụ sở làm việc hoàn thành, chúng tôi hối hả thu xếp nơi làm việc mới, nơi ăn ở sinh hoạt tạm ổn đúng vào ngày 27 Tết. Hồi đó, theo quy định, chúng tôi chia đôi quân số để thay nhau trực vận hành đường dây và về quê ăn Tết, vì 100% CBCNV đều là người dưới xuôi lên. Chế độ Tết cũng tạm ổn. Ngoài tiền trực Tết theo quy định, chúng tôi còn được Lãnh đạo Chi nhánh Truyền tải điện Thanh Hoá và Sở Truyền tải điện miền Bắc (nay là Công ty Truyền tải điện 1) lên chúc Tết và tặng rất nhiều quà, cẩn thận hơn, chúng tôi còn về thành phố mua sắm thêm rượu bia, bánh chưng, giò chả, bánh kẹo thuốc lá... và mì tôm.

Ở Yên Cát hồi đó, giao thông đi lại rất khó khăn, mỗi ngày chỉ có 1 chuyến xe khách về thành phố và xuất phát lúc 4h30 sáng, khoảng 13h00 mới về đến thành phố Thanh Hoá, mặc dù khoảng cách chỉ có 60 km. Điện sinh hoạt thì thường xuyên mất, tủ lạnh không có, nên chúng tôi cũng chỉ dám mua đủ cơ số thực phẩm, rau xanh dùng cho đến ngày mồng 2 Tết và dự tính lúc đó sẽ ra chợ thị trấn mua thêm.

Tối mùng 1 Tết, chúng tôi giao ca và chia tay nhau để ca 2 về quê ăn Tết, nên còn bao nhiêu thực phẩm mang ra “giải quyết” hết. Sang sáng mùng 2, tôi và một số anh em ra chợ đi mua thực phẩm phục vụ Tết cho ca 2. Đến chợ không một bóng người, lúc đầu nghĩ chợ họp đã tan, nhưng hỏi ra mới biết chợ ở đây nghỉ đến mùng 10 Tết mới họp lại. Vậy là, 8 ngày sinh hoạt, chúng tôi chỉ còn gạo và.... mì tôm. May mà có nhân dân địa phương nơi chúng tôi đóng quân và bà con sinh sống dọc theo tuyến đường dây. Dù chưa đầy 1 năm làm việc ở Như Xuân, nhưng chúng tôi đã gắn bó mật thiết với bà con dân bản như gia đình ruột thịt. Hàng ngày, chúng tôi thay nhau đi kiểm tra đường dây, hết giờ làm việc thì ghé vào nhà dân chúc Tết, nhiều khi đến lúc… say mới về, còn những người trực tại tổ chốt thì… mì tôm “diễn” đều.

Ở khu vực Như Xuân, chủ yếu là người dân tộc Thái sinh sống.  Bản làng vào những ngày Tết, đâu đâu cũng sặc sỡ màu sắc của váy áo và hoa đào.  Vào nhà nào, chúng tôi cũng được thết đãi như thượng khách, được uống rượu nấu bằng men lá rừng, ăn xôi nếp nương đồ trong chõ với thịt gà đồi, rồi ngà ngà bên bếp lửa hồng hát cho nhau nghe.

16 cái Tết qua rồi, nhưng “Tết mì tôm” vẫn mãi đọng lại trong ký ức tôi. Những tình cảm mà bà con dân bản huyện Như Xuân dành cho chúng tôi vẫn luôn là động lực giúp chúng tôi vượt qua khó khăn để trưởng thành. Từ đó, chúng tôi càng thêm yêu nghề đường dây lắm gian truân, vất vả nhưng cũng đầy thi vị và rất đáng tự hào.

Một lát cắt của ký ức – mỳ tôm

Đăng ngày: 21:48 09-08-2011

Thư mục: Blog

          Hồi mình còn bé, đã xa lắm rồi cái thời bao cấp đầy khó khăn ấy… Ngày đó mình vẫn nhớ có gói mì ăn liền, bao bì bằng giấy cũ màu vàng, và vì bên ngoài có hình con tôm nên mọi người gọi luôn là mì tôm. Mì thơm lắm, và ăn thì rất ngon. Hay bởi vì cũng chẳng có mì nào khác, nó độc quyền nên mình cảm thấy vậy?

Rồi mình lớn dần, gói mì giấy hình con tôm thân thương ấy cũng biến mất tự lúc nào, thay vào đó là hàng loạt những thương hiệu mới ra đời. Và mình cũng quên luôn nó…

          Và một ngày, mình tình cờ nhìn thấy nó trong một gian hàng nhỏ. Quá bất ngờ, mình cầm một gói lên nhìn, vẫn bao bì giấy vàng cũ in hình mấy con tôm. Và điều đặc biệt là vẫn mùi thơm quen thuộc đó…      

          Thì ra tên nó là Miliket. Ôi sao mà mình thấy cái tên lạ quá đi, chỉ có nó là vẫn quen thuộc như cũ... Quá khứ dường như quay trở lại…Bỏ qua cái tên gọi kia đi, nó sẽ vẫn là gói mì giấy hình con tôm ngày nào… Như những ngày xưa…Của một thời thơ bé đó…

Những ngày sống trong đói rét, có lẽ người ta mới lại nghĩ đến những gì bình dị đã nuôi sống con người trong thời thơ ấu.

Là một người con sinh ra sau chiến tranh, không biết có thể nói là tiếc hay không, khi tôi không còn được biết đến những món bất hủ chỉ được nghe kể lại như Mì Không Người Lái, Bột Mì Hấp, Nắp Hầm…của thế hệ đi trước, thế nhưng phải nói cái dư vị của một thời khó khăn mà đất nước tất yếu phải trải qua vẫn ít nhiều trôi qua một phần trong ký ức.

Thuở ấy cứ sáng sáng, lũ trẻ chúng tôi cứ ước ao một chiếc bánh mì Paté thật lớn, thế nhưng món đó chẳng có đâu, thay vào đó là củ Khoai, cơm nguội, sang lắm là bát cơm rang có mỡ không hành, thêm ít thuốc độc: Mì Chính. Hồi nhỏ tuổi, cứ mỗi lần đi nhổ răng ở bệnh viện Việt Đức về, món tẩm bổ sang nhất mà cả nhà dành dụm cho tôi là một bát cháo hành tía tô có đập vào quả trứng gà thơm phức.

Lúc ấy thú thực trẻ con chúng tôi nói dại chỉ ước được ốm, bởi ốm đồng nghĩa là được ăn Phở, ôi những bát Phở lúc đó sao mà ngon đến thế!? Tôi nhớ hồi ấy mỗi lần đi qua quán Phở Sinh trước cổng triển lãm Giảng Võ là mắt cứ dán vào cái nồi đang bốc hơi nóng nghi ngút. Hình như mùi thơm của Nhục Quế, Thảo Quả, tương ớt… đã ngấm cả vào những chiếc cột bằng tre nơi đây, cứ dậy lên một mùi thơm kỳ lạ!

Cái thú được húp xì xụp một bát nước canh nóng vào những ngày giá lạnh khiến người ta nghĩ ra đủ thứ để mô phỏng món Phở. Hồi nhà nước bán kèm bột mì vào phần lương thực, bọn trẻ con mê lắm món mì bằng bột cán mỏng nấu với nước dùng nêm muối, sang lắm là một chút mì chính, nước mắm, nếu có thêm vài lá hành thì thật đúng là không còn gì bằng. Mỗi chủ nhật, cả nhà quây quần bên chiếc nồi húp soàn soạt xem phim Cảnh sát lấy vợ của Pháp, ai nấy vui như vào hội.

Còn nhớ có lần đọc một cuốn truyện cách mạng, đến đoạn anh nuôi khéo tay nấu một nồi mì sợi nạo từ một thân cây đu đủ với nước mắm kem giúp cho một đơn vị bộ đội đang trong tình trạng cạn kiệt lương thực được một bữa no nê trước giờ vào trận đánh, tôi liền gấp sách lại, nằng nặc đòi mẹ cho đi ăn Phở bằng được.

Tháng năm qua lại, thị trường trên những chặng đường đổi mới dần xuất hiện những mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân. Sự có mặt của mì tôm, những gói mì ăn sẵn là tất yếu, phù hợp với nhịp độ làm việc và nếp sinh hoạt của từng gia đình. Lúc đầu, loại mì tôm được biết đến là mì Hai Tôm gói giấy màu vỏ bao xi măng in chữ đỏ. Loại mì này một thời được bọn trẻ con coi như một thứ sơn hào hải vị. Mỗi tối học bài xong, trước khi đi ngủ thật hạnh phúc khi được một bát mì nóng hổi thơm đượm. Ai cũng kháo nhau rằng đây là thứ mì hảo hạng có sợi tẩm bơ, thế mới có thể có mùi vị đặc biệt đến thế!!! Mà nghĩ cũng đúng thật! Mỗi lần ăn mì, từng đứa trẻ con thi nhau xì xụp húp cho đến cạn kiệt bát nước, húp trong hân hoan và tiếc nuối khi thứ chất lỏng ấy hết quá nhanh bởi sự háu ăn quá đỗi, khi dư vị thần tiên dường như vẫn chào mời trong cái cổ họng đang ngừng lại trách cái mồm sao không tiếp tục xuỳn xuỵt nữa. Không hiểu sao lúc đó bát mì tôm không người lái giản dị như thế ăn vào lại ngon đến vậy. Người thì bảo là thời ấy ăn uống còn khó khăn, ăn một gói mì tôm 81g lạ miệng trong sự thòm thèm thì cảm thấy ngon là điều tất yếu, người lại bảo mì tôm thời ấy sợi dai hơn, tẩm nhiều bơ hơn. Riêng tôi thì cảm thấy hình như bát mì Hai Tôm thuở nhỏ ăn thơm và ngon hơn thật, hơn cả mì Kim Chi và một loạt loại mì có cái tên rất kêu được tẩm ướp đủ thứ gia vị mới lạ. Đến bây giờ, nhiều người vẫn quả quyết rằng ăn mì tôm phải ăn mì gói giấy màu vỏ bao xi măng mới là sành điệu bởi loại mì này có mùi vị chân thực, đặc trưng, không bị pha phách, tẩm ướp những gia vị có mùi khác lạ.

Tôi có ông anh rể nấu ăn rất khéo, lần đầu đến nhà cưa chị tôi cứ khẳng định mãi mì Hai Tôm gói giấy mà nấu với rau cải là hợp nhất. Thứ rau cải mát he đắng quyện với mùi bơ là một sự kết hợp khá hoàn hảo mà sau này một thời sinh viên đã giúp những chàng thanh niên nghèo lang thang qua được bữa đói ban trưa một cách ấn tượng, ngon lành.

Cùng thời với mì Hai Tôm còn có mì Hai Cua loại gói trắng chữ xanh cũng rất thơm ngon. Thế nhưng không hiểu sao thứ mì đó chỉ thỉnh thoảng mới thấy ở Hà Nội, nghe nói ở Hải Phòng, Sài Gòn lại có bán rất nhiều. Kí ức một đứa trẻ con thời ấy như gắn liền hẳn với tên tuổi hai loại mì này với những liên tưởng về một cuộc sống ấm no, thanh bình có ông bà, bố mẹ, bạn bè, những tiếng trống khai trường, những trò chơi hào hứng và những buổi tối quây quần hứa hẹn một bát mì ngon lành trước khi trôi vào một giấc mơ đầy hương vị thơ ngây.

Từ những sản phẩm trình làng tiêu biểu như thế, mì tôm đã dần đi vào đời sống mọi người một cách tự nhiên, âm thầm nhưng thực ra thật sôi động. Quả thật có lẽ không chỉ đối với tôi, mà nhiều người cũng phải thừa nhận rằng hình như một đó là loại mì thật có nhiều duyên nợ.

Đầu tiên đó là thức ăn “Cứu đói cấp thời” của những sinh viên xa nhà trong những ngày hết tiền, trong những đêm học thi vất vả. Có những anh chàng để dành dụm tiền chiêu đãi bạn gái một bữa kem Tràng Tiền mà phải chấp nhận một tháng ăn mì tôm. Sau này nghe họ tâm sự cứ mỗi lần nhìn thấy những gói mì trên giá sách là đã thấy phát sốt, tôi cứ buồn cười mãi! Tình yêu gớm ghê như vậy đấy!

Mì tôm còn là thứ có trong hành trang của một số công nhân viên chức ăn uống kiêng khem, tiết kiệm. Có những giáo viên chỉ cần một gói mì tôm suông buổi trưa là đã đủ. Suốt cả học kỳ đều như vắt chanh, họ kiên trì ăn mì tôm như đó là một nhiệm vụ trong cuộc đời phải làm.

Hình như cuộc đời tôi có duyên số được quen với nhiều bạn vong niên là những người đàn ông muộn màng và độc thân. Và chính trong lúc giao tiếp với họ, tôi cứ nghĩ rằng phải chăng mì tôm được sinh ra cho những con người này!? Một gói mì tôm úp nước sôi được pha chế rất nhanh và đơn giản. Cứ mỗi lần nhậu say xỉn cho vơi nỗi sầu với chúng bạn về thì đây là thứ chống đói rẻ, dễ ăn và tiện lợi nhất cho những anh chàng phòng không lười biếng. Nhìn họ lọ mọ đun ấm nước, tay run run pha mì tôm một mình trong đêm đông giá buốt, liệu có cô nàng nào chạnh lòng không??? Tôi thì thấy tội cho họ lắm!

Bên Trung Quốc, gói mì tôm to hơn hẳn mình. Những tháng đầu sang công tác bên ấy. Thú thực tôi nhiều lúc rất ngại đi ra ngoài ăn. Thế là chỉ một gói mì ăn liền 100g là tôi đã có thể đánh một giấc đến sáng bảnh…Biết tôi hay ăn mì như thế, một giáo sư trường đại học Bắc Kinh mua hẳn cho tôi mỗi lần bốn năm thùng mì Khang Sư Phụ, một loại mì ăn liền ngon có tiếng. Tôi cảm động lắm, ăn mì mà biết ơn người thầy giáo ngoại quốc, nhớ đến quê nhà, nhớ những kỷ niệm gắn liền với gói mì Hai Tôm.

Giờ đây, vào siêu thị, người tiêu dùng như lạc vào một rừng thương hiệu mì với đủ các tên gọi từ Hảo Hảo, Mì Gà Nấm, Lẩu Thái, Mì Bò Hành Răm…thơm ngon tinh khiết, bao bì sặc sỡ đủ màu. Có mấy ai mỗi lần bê bát mì nấu tim gan bồ dục hay tái bò…còn nhớ đến những gói mì Hai Tôm, Hai Cua gói giấy giản dị úp suông, những gói mì đã gắn liền với một thời quá xa ấy không?

Mì tôm ơi

Đặng Thiên Sơn

Mẹ tôi đi chợ Giát bán khoai để mua lợn về nuôi nái. Biết mẹ đi chợ thể nào cũng có quà. Mà đi chợ Giát thì chắc chắn quà sẽ nhiều hơn. Suốt buổi sáng hôm ấy, ba anh em tôi nằm vắt vẻo trên cây ổi trơn sành trên bờ ao trước nhà chờ mẹ về. Đúng như dự đoán là sẽ có quà. Mẹ vừa về tới nhà ba anh em đã sà vào cái làn cước để lục lõi. Nào bánh xèo, cam, kẹo ông sư, kẹo chanh những thứ quà mà chỉ đi chợ xa mới mua được, chúng tôi được một bữa tiệc tưng bừng. Có mười lăm cái kẹo chanh mà ăn gần mười ngày mới hết. Nói là ăn nhưng thật ra là mút. Sau khi chia quà xong mẹ bảo tôi vào đun nước sôi để chế mì tôm. Lần đầu tiên trong đời tôi được nghe danh từ MÌ TÔM, nên lạ lẫm lắm, háo hức lắm. Nhìn vào một khối hình chữ nhật được bao bằng giấy cứng, trên bao vẽ mấy con tôm màu đỏ mà mường tượng ra bũa tiệc thơm ngon. Đúng là bữa ăn hôm đó ngon thật. Những sợi mì vàng, dai, thơm, ăn đến đâu hít hà đến đó. Sau giờ ăn ấy, chúng tôi chỉ mong mẹ lại sớm đi chợ Giát bán khoai để mua thứ gì đó và chắc chắn là không quên mì tôm. Vẫn biết rằng nửa vồng khoai mới mua được một giờ ăn trưa của gia đình tôi nhưng ba anh em tôi vẫn cứ nằm trên cây ổi vắt vẻo để ước rằng mẹ sẽ mua mì tôm.

Lên cấp ba tôi đi học xa nhà 11 km. Hôm nào học cả ngày thì ở lại trường và giờ ăn trưa là một tô mì tôm. Nhưng không phải mì tôm gói như mẹ tôi mua ở chợ Giát mà là mì tôm ký. Người ta đóng 10kg một bao, sợi mì nát vũn như nét chữ Lào, ăn vừa xẳng, vừa nghe mùi mỡ bò đến phát ngán. Nhưng không còn lựa chọn nào khác nên cũng phải ăn, ăn rất nhiệt tình là đằng khác. Ngày đó bạn bè khao nhau cái quần mới, cái Giấy khen, hay có người yêu cũng bằng mì tôm. Nhờ mì tôm mà chúng tôi những đứa xa trung tâm thị trấn mới vượt qua được thời THPT.

Lên thành phố học Đại học, đỡ hơn một chút là được ăn mì Hảo Hỏa nhưng Hảo Hảo thì cũng là mì tôm. Hảo Hảo có mặt trong giờ ăn sáng, ăn khuya. Sinh viên đứa nào cũng có một thùng dự trữ như Quốc gia dự trự lúa vậy. Có tháng bố mẹ gửi tiền vào muộn thì: “Mì tôm ơi! Ta hát khúc ca vời vợi”… Thế rồi cũng trở thành cử nhân. Nhưng thật ra có rất nhiều cử nhân mì tôm.

Giờ đi làm lại thấy mì tôm gắn bó với mình nhiều hơn nữa. Khi lương chỉ đủ để mua 500 gói mì tôm mỗi tháng nếu không tắm, không giặt, không xỉa tăm và không mặc gì hết chưa kể đến những việc to tát khác. Còn nếu nói như Bác Hồ “Ai pha trà thì đừng rửa mặt/ Ai rửa mặt chớ pha trà” thì trừ tiền tắm, giặt và xỉa tăm ra… số lương cũng chỉ còn mua 100 gói mì tôm là cùng.

Vì vậy, chẳng biết từ khi nào tôi và mì đã trở thành tri kỷ (có lẽ từ hôm mẹ đi chợ Giát), mì tôm nuôi sống tôi và cho tôi những ước mơ, hoài bão lớn lao. Mì tôm cũng là thước đo của đồng lương thời bão giá. Nếu như ngày xưa mẹ tôi chỉ cần nửa vồng khoai là đã mua được cho mỗi đứa con một gói mì tôm thì một gói mì bây giờ đã mua được một sào khoai ngày đó. Một sào khoai đủ để gia đình tôi ăn sáng một năm.

Sáng nay ra mua gói mì tôm ăn sáng bà chủ tạp hóa trước nhà đã tăng lên 3.700 đ một gói. Cứ tưởng 3.500 đ như mọi ngày nên không mang thêm 200 đ và thế là đành nhịn đói. Hỏi bà chủ quán thì được trả lời gọn lỏn một câu: xăng dầu tăng giá nên hàng hóa phải tăng. Thế là đành nhăn mặt đi làm. Với tôi được ăn mì tôm cũng là một ước mơ từ nhỏ đến giờ.

Tản mạn gói mì ăn liền

Chúng ta đã ăn phở tái, bún giò, miến ngan… từ xa xưa (từ thuở Hà Nội – băm sáu phố phường, Huế – thần kinh) nhưng ăn mì ăn liền thì mới chừng mấy chục năm nay.

Mì ăn liền là một thực phẩm khô, chiên trước với dầu cọ, vô gói (từ 60 -  80g), ăn liền sau 3 -  5 phút dội nước sôi lên. Mì ăn liền ra đời muộn mà có sức lan tỏa, “chiếm lĩnh thị trường” mạnh, nhanh, đến sớm rộng khắp. Có thể nói, ngày nay gói mì ăn liền đã đến với từng nhà, kết bạn với từng người. Có thế, nước ta mới mỗi năm sản xuất tới 6 tỉ gói mì với đủ các thương hiệu (Hảo Hảo, Miliket, 3 Miền, Tiến Vua, Bò Rau Thơm, Gấu Đỏ… Mì lâu đời nhất là mì Colusa gói giấy vẫn còn được ưa chuộng). Có những con số của năm 2005, tôi đọc được trên báo: Trung Quốc, ăn nhiều mì tôm nhất thế giới với 44, 3 tỉ gói / năm 2005, Indonesia thứ hai với 12, 4 tỉ gói / năm 2005, Nhật thứ ba – 5, 4 tỉ gói / năm 2005. Tiêu thụ mì ăn liền nhiều nhất, tính theo đầu người: Hàn Quốc 69 gói / người / năm,  Indonesia 55 gói / người / năm, Nhật 42 gói / người /  năm.

Nó nhờ vào đâu vậy?

- Chắc trước hết, nó nhờ vào cái giá rẻ: Trừ gói mì 5000đ – 6000đ dành cho người chuộng món ngon, gói mì phổ thông ba bốn ngàn đồng / gói, rẻ hơn cả đĩa bánh xèo rải rau giá búp, chén bánh bèo rắc tôm bột của mấy bà bán dạo xóm cho người nhàn rỗi vừa ngủ giấc trưa dậy. Đó là nói thời giá bữa nay, chứ hồi cách đây vài năm, mì ăn liền chỉ 500đ / gói thôi. Ít thấy có món vừa rẻ vừa ngon, theo nghĩa “tiền nào của nấy”, như gói mì. Ăn phở bò, bún giò thì “dội” lắm, lâu lâu mới dám cải thiện một bữa. Ăn bún cá, bún riêu cua giá cũng gấp rưỡi, gấp đôi gói mì tôm, mì thịt bằm ăn liền. Ăn bánh xèo, bánh bèo, ổ bánh mì cặp thịt “bình dân” đấy, nhưng bị thiếu nước, khô khan, khó nuốt, nhất là đối với người già ăn ít, có tật ăn hay mắc nghẹn. Sau cùng, nhiều người đã chọn “giải pháp” ăn gói mì, vừa rẻ vừa có cả cái lẫn nước, dễ nuốt trôi. Ăn xong tô mì tôm (cách gọi chung cho các loại mì), anh công nhân, chị cán bộ, bác nông dân yên tâm rằng mình đã nạp đủ “năng lượng” cho một buổi mai làm việc, từ sáng tới trưa. Nói, nhờ giá rẻ mà mì ăn liền tiêu thụ mạnh, “chiếm lĩnh thị trường” nhanh, chưa chắc trúng! Vì có những nước giàu vẫn ăn nhiều mì tôm kia mà.

- Ưu điểm thứ hai của gói mì tôm dễ thấy, là tiện lợi. Trước hết, tiện cho việc để dành, để trên bàn ăn, đậy rổ lại, hoặc cất trong chạn là tốt, miễn sao đừng để chú chuột đục khoét. Vì chuột mà đục khoét gói mì, chẳng khác gì ông Tám Khừng quê tôi, gặp cỗ giỗ được cho ngồi vào mâm. Mà cũng tiện cho việc chế biến, người bận rộn công việc, với gói mì tôm và chút nước sôi trong phích là có ngay bữa ăn, ăn lẹ. Bởi khỏi phải chế biến lâu lắc, ăn lẹ để còn công việc, gói mì tôm mới được đặt tên là “mì ăn liền” (nhưng cái tên này  người ta ít gọi hơn cái tên mì tôm đã quen miệng, quen miệng đến mức gói mì chay cũng bị gọi là mì tôm chay).

Trong đời, tôi đã gặp nhiều cảnh ăn mì ăn liền cảm động lắm. Cái hôm máy bay trực thăng sà xuống tới đọt tre, thả hàng cứu trợ xuống “ốc đảo” quê tôi (vùng đang bị thiên tai lũ lụt bao vây), tức thì từ trong các nhà ngập lũ sâu, bà con đã ào ra, bơi theo dòng nước cuộn chảy, vớt những thùng mì tôm bọc trong giấy nhựa. Và từ bữa đó, bà con làng tôi đã ăn mì tôm cầm hơi, suốt những ngày bão lũ gian nan, cơ cực. Khối cô cậu sinh viên, học sinh nghèo trọ học xa gia đình, vừa mua sách học vừa “kế hoạch” túi tiền, mua chục gói mì tôm để dành “ăn dặm”, vì nhiều bữa phải mì tôm thay canh, mì tôm bữa sáng đến trường, bữa tối thức khuya học bài. Khối anh chị công nhân nhà máy, ông bà cán bộ hưu trí (từng làm nhân viên cho lãnh đạo), đến kỳ lĩnh lương, liền ưu tiên dắt nhau ra siêu thị, mua một thùng mì tôm ôm về, bảo đã làm xong “kế hoạch tiền lương”. Một bà chủ quán trong khu dân cư nghèo đã có lần kể cho tôi nghe, những ngày giáp Tết, quán bà bán mì tôm chạy lắm, nhà nào cũng mua mì tôm ăn Tết, có nhà mua tới mấy thùng. Hình như đoán trước được, tôi sẽ có câu hỏi, tại sao, bà giải thích luôn: “Bởi tại cái gu của dân vùng này và cũng vì, bà con sợ ngày Tết quán xá nghỉ, mà lo trước còn hơn”.

Không ít người phong lưu, thích ăn ngon, phải bữa mì tôm, người ta đã “gia công” cho gói mì: cho thêm thịt ướp, chả giò, nhánh rau thơm, tiêu bột, củ hành ngâm chua, dội nước lèo nấu xương heo, sụn bò… Thế là thực khách có được một tô mì tôm hảo hảo, khác xa cái hương vị ban đầu của nó. Hương vị thuở ban đầu của tô mì ăn liền, nếu là mì tôm thì có chút hương vị tôm, mì thịt bằm chút hương vị thịt, mì bò bip – tết tí xíu hương vị thịt bò. Ngoài cái hương vị thịt hay tôm, theo tên gọi của gói mì, còn có cái hương vị rau thơm, cà rốt (hoặc khoai tây, đậu Hà Lan), muối, bột ngọt có trong bì gia vị của mỗi gói mì… Mì chay có hương vị nhiều loại rau: ngò thơm, cà rốt, khoai tây… và mùi thơm nấm (thay cho hương vị thịt, tôm, cua).

Đem mì tôm so sánh với bánh bèo, bánh xèo mới thấy cái “bất công” trong sự “đối đãi” của con người. Gói mì tôm (ba, bốn ngàn đồng) lại được sản xuất trong nhà máy công nghệ với dây chuyền sản xuất tiên tiến, có thương hiệu mĩ miều, bao bì láng bóng rực rỡ, được đóng thùng lịch sự, sang trọng; trong khi đó cái bánh chưn, chồng bánh xèo, đĩa bánh bèo…(cùng giá) lại chế biến trên lò than, bếp củi lọ lem, tới khi có cái bánh rồi, cũng chẳng gì hơn, vì bị thảy ra mâm, ra mẹt. May mà gặp người ăn tinh đời, có bụng tốt còn biết, đây là: “Món ăn dân dã”… để mà thương nhau.

Mì ăn liền chắc không bị cuộc cạnh tranh ráo riết, mặc dù ngày nay có xuất hiện gói phở ăn liền, miến ăn liền, cháo ăn liền… Tôi nghĩ, những gói sau này chỉ làm đa dạng, phong phú thêm cho gói mì ăn liền đang phục vụ cuộc sống hối hả thời nay.

Thử hỏi, ở trong nước mình, món ăn nào có tính phổ cập, “phủ sóng” toàn miền, toàn cõi, toàn quốc? Phở chăng? -Nhiều thị trấn không có quán phở tái, nạm. Bún bò giò heo chăng? –Cũng không. Cháo lòng, bánh hỏi thuộc “gu” của dân Bình Định, nhưng nơi khác thì cũng chẳng có “biệt nhãn”gì. Cao lầu vẫn “cố thủ” ở thành phố Hội An – Quảng Nam, Don “an phận thủ thường” ở thành phố Quảng Ngãi… Thưa, chỉ có gói mì ăn liền.

Mì tôm anh Tốm Quảng Nôm

báo chí — Viết bởi khoavietnam @ 02:12

"Mì tôm anh Tốm Quảng Nôm

Khi mô đúa bụng dzô lồm một tô".

Trước 1975, tại chợ bà Hoa Sài Gòn, câu thơ đậm đặc nước nhưn xứ Quảng được nhà thơ dân gian nào đó nguệch ngoạc trên vách một quán mì. Dịch "nghĩa": Mì tôm anh Tám Quảng Nam/ Khi nào đói bụng vô làm một tô. Rứa mà ám ảnh. Đã mấy mươi năm, vật đổi sao dời, tôi vẫn nhớ. Từ 1991, sống ở miền Nam, mỗi bận về thăm quê, trong chương trình thơm như... rau húng, tôi luôn dành thời gian đi tìm mì Quảng. Hết mì Túy Loan đến mì Đống Đa rồi mì Hải Phòng. Có hôm qua tuốt Ngũ Hành Sơn nhưng rồi với tôi, ngon nhất vẫn là mì Lực quê tôi bởi ở đó, sinh thời mẹ tôi đã từng ăn.

Từ Nam bộ, trở về Đà Nẵng hơn 5 năm, giờ đây thịt da tôi đã... dậy mùi mì Quảng. Chả bù hồi trước, mỗi bận về quê chỉ ăn cho đỡ nhớ. Chừ, sáng nào cũng có thể ăn. Trưa "lồm" tô, tối cũng có khi "mần" tiếp một tô. Bưng tô mì mà nhớ cha ông thuở khai canh khai cư, sáng "khà" năm đồng bạc rượu, đi cày tới nửa buổi mần tô mì ứ hự, no tới chiều. Tôi không đi cày mà chỉ đi viết và đi câu. Hôm nào rảnh, sáng sớm, nhịn cơm chạy xe vô Hòa Phước để được thưởng thức tô mì Bà Mãng. Chuẩn bị về quê, trực chỉ quán mì Lực làm tô mấy ngàn. Mì quê đơn sơ hơn mì thành phố. Thích vì nhẹ bụng chứ không bởi nhẹ tiền. Mấy quán mì ở Túy Loan- nơi mệnh danh thủ đô Mì Quảng- tôi cũng đã đến nhưng do nó đã bị cải biên trứng, chả, rau sống tạp lục nên không khoái mấy. Đã vậy lại có khi gặp bụi đường lẩn quất mặt bàn, mặt tô, phải dùng phép thắng lợi tinh thần "bụi nhà máy mới độc, bụi đường sá không độc". Sau này có quán mì gà chỗ ngã rẽ từ Túy Loan lên thị trấn P'rao với tô rau tươi nhanh trông no nê mắt nhưng riết rồi một hôm, thấy nó không được tinh tươm nên lười lên. Bữa nọ, tôi tìm ra tiệm mì đối diện bể bơi thành tích cao của thành phố. Mì ngon, rau sạch, nước nhưn (lèo) ý vị. Làm hai tô, mới biết chủ tiệm là con gái ruột của Bà Ngân, người nổi danh mì Quảng đường Đống Đa, có tên trong sách hướng dẫn du lịch Việt Nam.

Ở Đà Nẵng còn có mì cá lóc Ba Đình, mì tôm thịt Yên Báy. Cũng có mì sứa đường Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Diệu và Hòa Cường. Nghe đâu ngoài nguồn sứa biển Đà Nẵng, người ta còn phải "nhập" sứa khô từ Huế và Nha Trang. Lễ hội pháo hoa vừa rồi, tôi đôn đáo đưa mấy người bạn đi ăn mì sứa nhưng đến nơi, khách đông hết sứa, cô chủ cười trừ. Sứa giòn, đậu phụng bùi cộng vị thơm đặc trưng chuối chát làm nhiều người mê. Riêng bạn tôi mới gặp đã mê cái cách trò chuyện ngúc ngoắc, ưa "phản biện" của cô chủ mì xứ QuảngẨm thực không biên giới, mỗi lần công tác Quảng Nam tôi thường ghé tiệm mì ở Thăng Bình. Mì ngon đã đành nhưng ngon nhất vẫn là những trái ớt xanh ngăn ngắt, cắn nghe cái rụp, thơm cay cả đôi môi. Hôm nhà văn Hồ Trung Tú mới sắm chiếc Fiat, chở tôi vô Điện Phương, tìm mì gánh Phú Chiêm. Ngồi ngó bà cụ trụng mì trụng rau vô soong nước nhưn to bự chảng, ký ức thiếu thời đột nhiên sống động. Bánh tráng giòn, đậu phụng giã dập, rau sống như vừa mới hái, phát thèm... Nước nhưn đậm màu, ngọt lựng- đúng phong vị mì xưa- song tôi lại mất mê. Có thể do con mì hiện đại không làm từ bột gạo lúa xưa nên hơi bị dai.  Cũng có thể do "bụng dạ" tôi giờ đã khác. Hơn chục năm chinh chiến lẩu mắm, hủ tiếu phương Nam chứ ít oi gì. Đôi khi tôi mang tâm trạng "ngồi một phương mà nhớ một phương". Ăn mì Quảng nhớ lẩu Cần Thơ, đứng trên cầu Mỹ Thuận nhớ sông Hàn!

Cách nay một năm, tôi phát hiện Mì Quảng Faifo trên đường Pasteur, Đà Nẵng. Ngày khai trương, tiệm mì này lập kỷ lục với 700 thực khách! Hỏi chuyện mới biết, những lá mì óng ánh dầu phụng rin được chủ tiệm đặt hàng từ lò tráng mì truyền thống của ông Hoa ở  12 Nguyễn Thái Học, Tam Kỳ. Ông Hoa chuyên sản xuất mì pha nghệ từ gạo xuyệc trên những xứ đồng chính gốc Đại Lộc, Duy Xuyên. Rau sống với bắp chuối, chuối cây, húng duỗi, cải con được chọn từ những làng rau phố cổ Hội An. Gà số dzách, hạ sơn từ Đèo Le, Quế Sơn. Cá lóc câu hoặc lưới từ hồ to mấy mẫu ở Phú Thượng, Hòa Sơn. Tôm lấy từ những vùng nước lợ đầu biển cuối sông. Thịt bò mềm mại xuất xứ từ Cầu Mống, Mỹ Sơn. Toàn thương hiệu hàng đầu. Chưa ăn đã... nhớ! Theo tôi, cái hay của Mì Quảng Faifo lúc ấy là tinh thần khoa học của 4 ông chủ trẻ có bằng đại học. Rau sống được ngâm trong nước muối sống pha loãng. Mì được xắt bằng máy do kỹ sư Lê Nguyễn Quốc Việt chế tạo, bảo đảm vệ sinh. Cái hay nữa là tiệm nhận đặt hàng qua điện thoại. Mỗi cuộc gọi khoảng 100 tô. Nhưng rồi, do Pasteur là phố chính, sau đó mỗi tháng tiệm mì buộc phải trả tiền thuê cơ sở đến 20 triệu đồng nên mấy ông chủ trẻ đành phải "bái bai"! Hiện tiệm này chuyển về đường Núi Thành. Từ 4 cổ đông nay còn 1. Giá bình dân hơn nên không còn dùng nguồn mì gạo xuyệc pha nghệ từ Tam Kỳ, gà từ Đèo Le. Thật tiếc!

Ký ức về ba lại hiện về ...

Mùa này mưa nhiều, đó là những cơn dông lúc sẩm tối, bầu trời cứ xám ngắt, ủ ê. Mưa đổ lên mái tôn nhà nghe rào rào càng làm cho con không tài nào ngủ được. Nỗi nhớ ba cứ dâng lên và xoáy tít lòng con như từng đợt mưa đang vần vũ ngoài kia.

Quê hương. (Ảnh minh họa)

Đêm... Con nằm quay mặt về phía tấm hình của ba, nhìn ba, nói chuyện với ba và rốt cuộc con cũng chỉ muốn nói với ba một điều là con nhớ ba lắm... Ba ơi!

Nhất lại là mùa mưa thế này. Ký ức lại hiện về trong con...

Ngày còn thơ, có dịp con về thăm ba má. Trúng vào mùa mưa lũ, dòng kênh đục ngầu chảy xiết và độ sâu phải lút ngập qua đầu người lớn. Sau những giờ ra đồng cày ruộng thuê cho người ta ba vẫn chưa về nhà. Ba lội xuống kênh mò trứng vịt. Vịt người ta nuôi thường thả ra kênh mùa này kiếm ăn và cứ thế là chúng đẻ “rơi” tự do xuống dòng kênh mênh mông là nước.

Mỗi lần ba vừa về đến cửa, năm chị em con đã ùa ra, thò tay vào những cái túi áo rộng thình của ba, đếm từng cái trứng vịt và reo lên mừng rỡ: “ Má ơi! Hôm nay nhà mình có được năm cái trứng vịt rồi! “.

Chúng con có biết đâu rằng ba đã phải cắn răng chịu lạnh thế nào để dầm mình dưới con kênh ấy, mò tìm cho được vài quả trứng để tụi con có cái ăn cho có chất một chút.

Ôi! Những cái trứng vịt và gương mặt tái xám, làn môi tím ngắt vì lạnh của ba tôi. Một miền quê nghèo khó trong trí nhớ nhỏ nhoi của tôi.

Ba ơi! Con ở nơi xa vẫn đau đáu trong lòng những cái trứng vịt của ba mang về hồi ấy. Dù biết rằng giờ đây ba đã nằm yên trong lòng đất lạnh nơi miền ký ức mù tăm

Ký sự Mắm Ruốc (2)

Hương Quê Nhà

Người đưa bài:Chả Giò  | Jul 24 2008

Thuở đó trên quê hương...

 Khi tôi mới lớn thì đã có những ghè mắm, lu ruốc bao quanh tôi như con sông Bồ uốn khúc bao quanh phía Đông của làng Liễu Hạ. Tôi ăn mắm và thở quen hương mắm tự nhiên như ăn cơm gạo mới và thở không khí ruộng đồng ngây ngấy mùi rơm, mùi tót.

 Không biết mắm đã có tự bao giờ trên quê hương tôi, có lẽ là lâu lắm.  Tôi cũng giống như chín mươi phần trăm những đứa trẻ Việt Nam sinh vào giữa thập niên 40, sinh ra và lớn lên trong những vùng quê “Xôi Đậu”: Ngày Bảo Vệ, đêm Việt Minh! Thế giới trẻ thơ đã mất dần những tiếng hát ca dao ngọt ngào để thay vào bằng những khúc hát lổn chổn súng gươm và xám ngắt hận thù.

Ký ức trẻ thơ của tôi sẽ không bao giờ phai mờ hình ảnh của đêm trăng sáng Việt Minh về đánh đồn Bảo Vệ. Đám trẻ chúng tôi vừa chơi “đạp mạng” với mấy chú BảoVệ hồi chiều trên ruộng lúa tháng Ba vừa mới gặt. Vui quá!  Trời vừa chạng vạng, mấy chú Việt Minh ở đâu đã mang súng đạn ba lô hiện ra ở đầu xóm. Đám nhỏ chúng tôi lại quây quần chờ nghe kể chuyện “chiến khu”, nhưng hôm nay như có gì khác lạ, chẳng ai buồn để ý đến bọn nhỏ láu táu, chực toét miệng cười đưa những hàm răng sún ngây ngô. Giữa đêm, mẹ tôi kéo tôi xuống hầm một cách hoảng hốt. Tôi còn ngái ngủ nhưng vẫn nghe tiếng súng nổ ran, rồi tiếng mọt chê, lựu đạn nổ phía đồn Bảo Vệ cạnh đình làng. Tôi tỉnh ngủ, nằm nghiêng, nhìn ngọn đèn dầu lù mù, soi chếch những chùm rễ chuối mọc xuyên qua vách hầm ẩm ướt. Tôi chưa hình dung nổi những chú Bảo Vệ và những chú Việt Minh đang chơi trò gì giữa đêm trăng rằm tháng Ba đầu mùa gặt, đáng lẽ vào đêm trăng sáng đầu mùa như thế nầy, cả nhà phải ở trần, ngồi quanh cái “nốn” tròn phơi lúa để ăn cơm gạo mới, với mắm cà kho ớt ướp... Tiếng chó sủa và cây đèn cạn dầu phụt tắt làm tôi nhớ bến Dấu Hàn, nhớ trăng, nhớ trò chơi hồi chiều còn bỏ dở của chú Cà Bảo Vệ; nhớ chuyện chiến khu có con vượn biết hò ru con của chú Dưa Việt Minh kể còn dang dở...  

Sáng sớm tôi trốn mẹ chạy ra đồn Bảo Vệ. Từ xa tôi đã nghe tiếng khóc gào thảm thiết của dì Thiệu ở phe Đông. Dì là người “có tay” làm mắm ngon nhất xứ. Mẹ tôi thường chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng và nhờ dì Thiệu “nhận mắm” vào ghè. Mắm cà dì Thiệu được ưa chuộng vì lát cà chín mà trong, con mắm trắng hồng và nước mắm vàng nâu sóng sánh. Tôi chạy trong hơi sương mùa xuân còn lành lạnh, đến gần dì Thiệu đang vật vã khóc. Bỗng người tôi cứng lại, trước khi kịp co giò chạy lui về con đường cái. Tôi thấy rõ ràng là xác của chú Cà, chú Dưa con trai của dì Thiệu nằm đó. Chú Dưa nằm vắt trên bờ cỏ tranh, mo cơm bới và gói mắm cà nhuộm máu lả tả bên đường. Không lâu sau đó, dì Thiệu đã trở thành mụ điên thường lúp cái khăn trầu đỏ trên đầu, chạy lúp xúp trên đường quan với tiếng kêu thương buồn xé ruột: “Dưa ơi! Cà ơi! Răng bỏ mạ mà đi, mạ mần mắm cho ai ăn chừ... ?!”. Từ ấy, như Tử Kỳ chết, Bá Nha đã ném đàn không gảy nữa, dì Thiệu đã mất trí, mất luôn tay “nhận mắm” tài hoa không còn ai thay thế được. Cũng từ đó, tôi không bao giờ còn được ăn lại những lát mắm cà “ngon quên no” của một thời thơ dại.  Hàng năm, Xuân Thu nhị kỳ, hầu như gia đình nào ở những vùng nông thôn như quê tôi cũng có cúng đất để tạ ơn thổ thần. Trong những món ăn chủ lực bày cúng không thiếu được có món mắm nêm và rau luộc. Mắm nêm phải là mắm nguyên chất, không pha chế và rau phải là những đọt non của rau khoai, khi luộc chín vẫn còn giữ được màu xanh tươi. Theo thầy Thái người làng Thanh Lương, một vị thầy cúng được ưa chuộng nhất vùng thời bấy giờ vì có đạo đức và sở học, thì mắm nêm và rau luộc là để cúng cho thổ thần Hời, đó là những vị khai canh, khai khẩn người Chiêm Thành.  Như vậy phải chăng mắm nêm Huế có gốc gác từ thuở hai châu Ô và Rí còn thuộc về Chiêm Thành?  Lần đầu tiên tôi cảm nhận được rằng, mắm ruốc là một đặc sản của quê mình khi tôi vào học trường Bồ Đề Đà Nẵng bị tụi nhỏ cùng lớp gốc người Quảng Nam chọc là “dân mắm ruốc”, “dân trèo đèo”. Thì ra, còn có những người ở trên hay ở ngoài mắm ruốc! Cho đến khi sinh sống trên một đất nước hoàn toàn không có mắm ruốc như Mỹ, tôi lại lẩn thẩn tự hỏi: “Tại sao người Mỹ cũng khoái thực phẩm lên men đáo để như mì chua, phó mát, yogurt, pickle... mà lại không thích mắm hè? Hay vì họ chưa được khoái khẩu?”  Khi nói về mắm ruốc, những người phương Tây và nhiều người Việt theo “Tây” học thường có sự lầm lẫn giữa thức ăn thối rửa (rotten food) và thức ăn lên men (fermented food). Mắm là một loại thức ăn lên men chứ hoàn toàn không phải là một loại thức ăn  thối rửa.  Tuy rằng trên thế giới cũng có những nhóm dân tộc cố tình để cho cá thịt thành ươn (chứ chưa thối) rồi mới ăn. Tất nhiên họ có lối sống và cách giải thích riêng của họ. Như một tác giả rất điệu nghệ về ăn, Henley McKenry đã cất công đi thám hiểm bộ lạc  Botuum vùng Trung Phi, để được nghe giải thích về thức ăn “ươn” (slightly spoiled) của họ rằng: “Con voi, con hổ... chết, nhưng từng thớ thịt còn tươi chưa chết nên còn run rẩy chống lại sự hủy diệt. Ăn thịt tươi vào không tốt vì những kháng tố vô hình của thịt chưa thuần và tìm cách chống lại cơ thể con người. Những kháng tố nầy sẽ làm cho con người bị khó tiêu, dễ mắc bệnh và sinh ra tính tình hung dữ...” (A Review of the Strange Recipes; NY;95). Hèn chi mấy o học trò Đồng Khánh ăn mắm Huế hơi mặn miệng nên, trên nguyên tắc, hiền như “ma...  xơ”!  Bác sĩ Lê Văn Lân, một tay chuyên khảo về ăn cự phách không thua gì đốc tờ McKenry, đã cho rằng: “... xứng đáng gọi là mắm phải là những thứ thủy sản ướp   muối lâu ngày rồi để cho thiên nhiên tác dụng một cách kỳ bí bằng sự lên men.”(Bút Khảo Về Ăn; tr.51)  Cái hấp dẫn của khái niệm này có lẽ nằm ở chỗ “thiên nhiên tác dụng một cách kỳ bí” nhưng lại chưa thám hiểm hết khu rừng thâm u của mắm Huế, vì mắm Huế không chỉ là thủy sản mà còn là những thứ nông sản và thổ sản như mắm dưa, mắm cà “ngon quá trời độ” nữa chứ.  Mắm có lẽ bắt nguồn từ khái niệm “cá không ăn muối cá ươn...”. Muối là một hoá chất có tuổi ngang tầm với lịch sử của con người. Muối với hai chất chính, sodium và chlorine, là một chất khử trùng, một vị thuốc chữa bá bệnh lâu đời ở các vùng quê như đỏ mắt thì điểm nước muối; u đầu, trầy da thì bóp muối; đau bụng thì “chờm” muối; đau răng thì súc miệng với muối... Nồng độ và tính chất của muối biển thường quyết định cho phẩm chất hải sản nơi đó. Như quanh các vùng biển ở Huế thì cá và mực Mỹ Am là đựợc ưa chuộng nhất, “Dừa Mỹ Á, cá Mỹ Am, cam Mỹ Lợi”. Người ta tin rằng nồng độ nước biển ngoài khơi cửa Tư Hiền “cao” hơn nơi khác, nên cá mắm cũng ngon hơn (?).  Có dịp tiếp xúc với các dân tộc Á Châu khác nhau mới thấy việc làm mắm là một phản ứng tự nhiên để sinh tồn. Như các bộ lạc người thượng ở Việt Nam, hay các dân tộc sinh sống tại vùng miền núi thượng Lào như người Hõmong, Miên, Lào thì cách giữ đồ ăn phổ biến nhất của họ là xông khói thịt rừng cho đến khô quắt  mới đem lên treo ở giàn bếp để dành. Cách cất giữ thức ăn nầy rất giống với hình thức “smoked” của dân Âu Tây. Dân miền biển và đồng bằng thì giữ đồ ăn bằng hình thức ướp muối (salting), ướp đường (sugaring), ướp giấm (pickling) và ướp mắm (fermenting).  Hình thức ướp muối và ướp mắm rất gần nhau. Tuy nhiên, ướp muối thì chỉ là một hình thức đơn giản bằng cách dùng muối để giữ  cho thức ăn khỏi bị sự xâm lăng của các loại vi khuẩn hoại thể trong không khí, trong khi ướp mắm cũng là một hình thức nhằm giữ đồ ăn cho lâu dài kết hợp với nhiều hình thức “mắm hóa” như ướp, trộn, tăng cường thêm các loại gia vị, cây trái làm cho thức ăn không phải là “muối” mà là “mắm”. Như cà muối khác với mắm cà ; dưa muối khác với mắm dưa; cá nục muối khác với mắm nục.

Chén Cháo Kí Túc Xá

    Viết blog lâu nay mà chưa có dịp đề cập đến thời "học đại" của tôi. Gọi là học đại vì thật sự ngày xưa khi chọn con đường vào đại học sư phạm Văn tôi đã không nghĩ ngợi gì cả. Ngày ấy, gia đình nghèo , lại mang cái tì vết con "ngụy quân ngụy quyền" nên vào sư phạm là cách tốt nhất. Theo anh tôi thì đã theo nghiệp văn chương thì chỉ có hai con đường : một là dạy học, hai là viết lách. Mà với cái lí lịch của gia đình tôi thì nếu có trở thành nhà báo thì chưa chắc gì đã tìm được việc làm. Bởi vậy , dù muốn hay không, tui phải làm nhà giáo. Thế là vào ĐHSP Văn để "học đại".

    Quay lại chuyện chén cháo.

    Hôm nay được ăn chén cháo của Chí Phèo, giờ nghe tỉnh táo hơn nhiều. Nhưng vì ăn cháo nên nhớ bạn tôi kinh khủng.

    Đã hơn hai tháng rồi không liên lạc được với nhỏ. Gọi điện thì không bắt. Còn gửi email thì cũng chưa thấy hồi âm. Tức quá nên bây giờ tôi phải lôi nó lên blog để nó ngứa lỗ tai chơi.

    Hai đứa chúng tôi đều là dân Trung theo gia đình vào Nam sinh sống. Trời xui đất khiến hai đứa chui vào ĐHSP và ở cùng phòng ở kí túc xá. Đều là con của gia đình nghèo , chưa hết tháng đã hết tiền nên mượn mỏ nhau là "chuyện thường ngày ở huyện". Nhớ thời hai đứa nấu cơm chung hồi mới vào kí túc xá , bữa ăn của hai đứa là cơm , canh rau má và mắm ruốc. Tôi nhớ thời đó để nấu một nồi canh rau má chỉ tốn 200 đồng.(Khoảng năm 1991)

    Mòn mỏi bốn năm đại học với canh rau má và mắm ruốc. Thi thoảng mới có chút ít thịt. Không hiểu vì ăn uống thiếu thốn hay sao mà tôi hay bị bệnh lẹt xẹt hoài. Tôi nghiệp bạn tôi những lúc như thế , nó hay nấu cháo Thị Nở với hành lá và không quên đập vào một cái trứng gà để bồi bổ cho tôi. Thật tình lúc đó chúng tôi tin là cháo trứng gà là để giải nhiệt. Bởi vậy mà mau khỏi bệnh. Đến giờ mới biết là trứng gà có protein, ít ra có chút dinh dưỡng. Khổ nỗi là khi người ta bệnh thì không muốn ăn. Vậy mà nó ép tôi ăn cho bằng được. Không sạch chén cháo thì nó không chịu.

    Thương sao cái ngày học đại. Hai đứa lang thang đạp xe xuôi ngược thành phố Sài Gòn, có bản đồ trong túi nhưng không thèm coi vì muốn để cho lạc đặng rành đường hơn. Thời đó cũng không có trùm mặt mũi đeo khẩu trang như giờ nên nắng đen thui. Mỗi lần về nhà là ba tôi nói : đi học đại học chứ đâu phải  đi kinh tế mới đâu con?

    Tháng tháng chúng tôi về thăm nhà. Nói là về thăm nhà chứ thật sự là về để xin tiền. Cuối tháng rồi , đâu còn tiền mà đi xích lô ra bến xe , vậy là phải đèo nhau ra bến xe rồi hẹn ngày xuống để ra bến xe mà đón. Mệt là thế, cực khổ là thế nhưng tình cảm làm sao.

     Tính tôi thì hay bốc đồng, có chuyện là nói, xử trước rồi tính sau chứ để trong bụng nó ấm ức. Những lúc như vậy bạn thường nói : làm răng đó coi được thì làm. Nó như vậy đó, không cản cũng không xúi. Tính nó như vậy nên được lòng người khác hơn tôi. Nhớ nhiều lúc buồn phiền , hai đứa có hai giường nhưng lại dồn hai xác vô một giường để ngủ. Rồi lấn nhau, cãi nhau thiệt là vui. Hai đứa tâm sự mọi chuyện, ít khi nào nó khóc. Chỉ có một lần nó chảy nước mắt vì một người bạn của nó bỏ đi nước ngoài theo gia đình. Bởi vậy mãi đến 2004 nó mới lập gia đình. Hú hồn, tôi nói với nó: Tưởng mi ế thiệt rồi chớ. Ai dè cũng có người rước dùm , hú hồn. Bạn tôi chỉ nhìn tôi cười thật hiền.

   Rồi chúng tôi ra trường , hai đứa quyết định bám lại Sài Gòn không về quê. Thế là lại ở cùng nhà thuê. Rồi trời xui đất khiến hai đứa lại xin được vào một trường bán công để dạy. Thế là xưa nay là bạn cùng phòng, học cùng lớp , thỉnh thoảng ngủ chung giường. Bây giờ là đồng nghiệp dạy chung trường...

    Chúng tôi thực sự xa nhau khi tôi theo chồng qua đây.  Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Bạn tôi vẫn ở lại Sài Gòn, đi dạy 2 trường, "cày" thiệt nhiều để sắm xe sắm nhà. Bây giờ thì nó cũng yên mồ yên mả, í lộn, yên bề gia thất. Mừng !

    Bây giờ hai đứa hai nơi. Cuộc sống rẽ chia hai đứa ra hai con đường khác nhau. Mỗi đứa có hạnh phúc riêng, nỗi đau riêng, day dứt riêng. Không biết bạn tôi có còn nghĩ về tôi như tôi nghĩ về bạn. Chỉ cần nghĩ đến thời học đại là tôi nhớ đến bạn. Mong rằng mơ ước của bạn sẽ thành hiện thực. Còn nếu không, hãy vui vẻ chấp nhận mà sống, bạn nhé !

    Chiều nay ăn chén cháo của Chí Phèo nấu, tự nhiên nhớ tới bạn điên cuồng.

    Lộc ơi , tao thương mi , nhớ mi lắm !

Chén mắm ruốc...

Bữa cơm ấy, vẫn như mọi lần….

Đó là thời gian mà tôi còn “tại chức” tại Trung Tâm Khoa học Thành phố vào khoảng năm 89, 90… thông thường, thì bọn chúng tôi gồm 4 người đều xa gia đình cả, tôi và Khánh là người đã có gia đình, còn Thanh thì còn độc thân, chỉ có Hòa và Lương là hai vợ chồng là người đã nấu cơm tháng cho chúng tôi… trong thời gian mấy năm trời chúng tôi công tác tại đây….

Những bữa cơm, có lẽ không có gì đáng nói… nhưng hôm ấy, Lương – vợ của Kỹ sư Hòa – là một giáo viên cấp II tại Thành phố…. Bữa cơm dọn ra hôm ấy chỉ đạm bạc có mấy món canh rau muống, chén mắm ruốc cùng với những trái cà pháo muối chua, một dĩa su su xào… chỉ ngần ấy thôi… Hòa vốn người Bắc – có thể nói là con người của “xứ rau muống” nhìn tô canh và có ý tấm tắc khen vợ biết ý chồng, còn tôi và Khánh (họa viên kiến trúc) Thanh (chuyên viên phần mềm) nhìn vào “chén mắm ruốc” và nói lên:

- Oh, lâu lắm rồi mới thấy, bữa nay chị Lương cho tôi về quê…

Lương chưa hiểu sự tình chi, cất tiếng hỏi lại:

- Sao bữa nay lại nói tôi cho chú về quê ?

Tôi nhanh nhẩu cười cười nhìn Lương và chỉ vào chén mắm ruốc mà chị Lương chế biến trông rất hấp dẫn:

- Thì nó nhìn cái chén mắm ruốc của chị Lương đấy….

Lương như “khựng lại” chưa hiểu ý…. Tôi nói tiếp:

- Chén mắm ruốc của chị Lương là chị đã “dẫn nó về với quê hương miền Trung đấy chị ạ”

Lương nhìn cả bọn và cười cười, hiểu ý:

- ah, thì ra là thế, anh Hải và mấy chú là người miền Trung mà – tôi quên mất…..

Thế rồi bữa cơm ấy – tuy dẫu là đạm bạc, nhưng chứa đựng rất nhiều không khí thân mật… trong bữa cơm mọi người kể cho nhau nghe “về cái bản chất quê hương của mình” Hòa thì kể về cái ngọn rau muống của xứ Bắc thân yêu, tôi thì nói về “chén mắm ruốc quê nhà” của người miền Trung… còn Khánh thì cười cười … trong bữa ăn như hôm ấy – cũng như những bữa ăn khác có tinh “qua ngày” để tất cả đều lo cho công việc hàng ngày của mình khi đang còn tại thành phố xa hoa này… tất cả - tất cả đều bôn ba và hình như với một công việc, một cuộc sống có tính chạy đua với sự tăng tốc phát triển của xã hội…

Khoảng trời đêm bao la ở thành phố với sức chiếu từng chùm đèn điện… không bao giờ như ở xứ quê chúng tôi, ngồi nói chuyện trước hiên nhà – chúng tôi chuyện này chuyện nọ, cái này cái kia.. nhưng tôi chợt nhớ đến “chén mắm ruốc” lúc nãy…

Hồi đó ở Đà nẵng, thời gian còn nhỏ… những ngày của mùa mưa gió, hình ảnh mẹ tôi tần tảo ngoài chợ đi về… ít có thức ăn như mùa nắng… thì chén mắm ruốc ở tại nơi ấy, anh em chúng tôi cứ dành nhau với từng chén cơm nóng… trời mưa xứ miền Trung thường kéo dài ngày, mỗi bữa cơm thì những món mắm miền trung là cái hình ảnh đặc trưng của con người xứ này… hầu như nói lên cho tất cả những tảo tần hôm sớm, của người mẹ già biết lo toan, của những món ăn dân dã và thuần túy với những lúc nhiều công việc, các loại mắm dưa, mắm nêm, mắm cà… hầu như đã nói lên tất cả những nỗi nhọc nhằn của con người miền Trung kham khổ ấy… hình ảnh những đồng lúa xanh tươi đã ấn tượng cho tôi với những lần theo bạn đi bắt cá lia thia tận mãi gần xứ hoang đã Nam Ô…. Trong những ao nước ở Ngã Ba Cai Lang… nhớ lại “mắm ruốc” vào thời điểm ấy sao nó mặn mà như chất chứa tình người miền Trung của chúng tôi vậy….

Trước thềm nhà của vợ chồng Hòa – Lương, chúng tôi chuyện trò, bàn thảo công việc… nhưng trong tôi hình ảnh chén mắm ruốc lúc nãy đã làm cho tôi nhớ về ngày tháng xa xưa của cái đất miền Trung nghèo thưở ấy… và hình như:

- Chén mắm ruốc mặn mà chất chứa tình người đã làm cho tôi nhớ lại sau câu nói của Thanh – chị Lương ngẫn ngơ qua câu nói chưa hiểu nỗi cái hàm ý quê nhà của nó…

- Chén mắm ruốc mặn mà của một bộ phận con người khi xa quê… mà chính bây giờ khi sống trên mảnh đất xa lạ này – xa đi cái tổ ấm cảu tuổi thơ, xa đi cái hình ảnh ruộng lúa, xa đi hình bóng người mẹ tảo tần sớm hôm và lo cho con cái ăn học nên người…

- Chén mắm ruốc không cao sang, không cao lương mỹ vị như “nem công chả phụng” mà cái chén nhỏ nhắn xinh xinh kia, như mời gọi cho những ai đi xa đều nhớ về cho quê mẹ, nhớ về cho những ngày mưa trên phố nhỏ, nhớ về cho những đêm về có ánh trăng, nhớ về cho những phố chiều mưa bay của xứ Đà thành có một thời cũng là hoa lệ ấy…

- Chén mắm ruốc tuy đơn sơ, mộc mạc – hiền hòa, một chút ân tình của người con miền Trung khúc ruột ân tình, để tuổi thơ ngày đó nuôi ta lớn lên cùng cái nắng cái gió – đem ta lớn lên thành người trong những cơn mưa giông bão, đưa ta về với những dòng nước mát cảu một dòng sông quê chất chứa…

- - Chén mắm ruốc của ngày xưa – mà hôm nay vô tình chị Lương đưa lại hình ảnh ấy – đã làm cho Khánh, Thanh và ngay cả chính tôi – không thể nói lên được gì khi phải chạnh lòng nghĩ về cho cái xứ miền Trung bây giờ còn mãi tận nơi đâu, sống trong thành phố xô bồ và bôn ba, chén mắm hiền hòa, chứa đựng biết bao nhiêu ân tình của những người con xa quê và chính hôm nay – đêm nay chị Lương đã…..

- - Chén mắm ruốc – tôi chỉ ngồi và nhớ về… nghĩ miên man qua làn khói thuốc mỏng manh trong đêm tối… không nói gì, không kêu ca, không than oán, không trách móc, không hờn oán gì cho một điệp khúc tháng ngày của tuổi thơ đã qua đi rồi…. qua mất rồi… và hôm nay, trong cái không gian này… không lẽ……

- Những ngày với mẹ tôi, đến hôm nay “người bạn đời trăm năm” và cũng là người yêu muôn kiếp trọn đời của tôi đôi khi cũng đã đem tôi về với hình ảnh của ngày xưa ấy… tuy “người yêu trọn đời của tôi” là người của xứ rau muống như anh Hòa… nhưng cũng đã có những lúc tảo tần công việc, vì muốn cho mau chóng… nên đã vô tình cho tôi về với hình bóng quê nhà của tuổi thơ ngày nào… đôi khi “hai vợ chồng cũng ngồi kể cho nhau về những kỷ niệm của riêng mình như thế,

- Chén mắm ruốc hôm nay của chúng tôi – hầu như cũng có phần nói lên một niềm hạnh phúc bao la trong tình nghĩa vợ chồng, của những ngày tháng còn là yêu đương thắm thiết, của những ngày đầu mới cưới cho đến tận hôm nay… chén mắm ruốc trong bữa cơm gia đình tuy rất đạm bạc, nhưng hầu như chất chứa cả một niềm hạnh phúc bao la trong đó, chất chứa cả những nụ cười “của người yêu trọn kiếp” và cũng đã có sự cảm thông cho nhau trong cái nghèo hèn, trong những thiếu thốn, trong những lo toan của đời sống tình nghĩa ấy….

Từ những nghĩ suy – câu chuyện chỉ là “chén mắm ruốc” một món ăn dân dã của con người miền Trung nghèo nàn kia – như cũng như tôi – hầu như trong đó chất chứa cả những “mặn nồng” chất chứa với những “nghĩa ân tình” , chất chứa với những niềm yêu thương pha lẫn cho nhau… cuộc sống vẫn còn muôn vàn cái khó, vẫn còn đầy dẫy những bon chen, vẫn còn chất chứa những lo toan, nhưng vợ chồng chúng tôi – chén mắm ruốc đã đưa lên với những nụ cười, và những niềm thương yêu thắm thiết, và tôi cũng đã nhớ về cái lời thề trong chính cái đêm noel của năm 1982:

Anh…. Xin nhận e….. làm vợ - và hứa sẽ tôn trọng em những lúc bệnh hoạn cũng như lúc gian nan, lúc hạnh phúc cũng như lúc đau yếu… để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời tôi..

Khi cái se lạnh của những ngày cuối năm nhè nhẹ phà hơi thở tỏa khắp muôn nơi, đủcho các bà các cô khoe sắc muôn màu với đủ kiểu dạng áo len, áo khoác, là lúc tôi cảm thấy đầm ấm, nhớ lại hương vị của ngày Tết thời còn đi học. Cái hương vịngày ấy rất xa xôi mà gần gũi, rất mênh mông mà lại rất nồng nàn, khiến tôi nhớhoài, nhớ không nguôi, nhớ ngút ngàn, nhớ sao là nhớ!

Tôi làm sao quên được cái mùi thơm ngan ngát của lá dứa trong nồi bánh tét mà Mẹ và chị đã gói vào buổi chiều, cái mùi ngọt ngào của nhân dừa trong những cái bánh ít đang reo vui trong xửng hấp, mùi béo ngậy của thịt kho tàu đang rộn rã dưới lửa liu riu và cả cái mùi ngai ngái của dưa giá, dưa chua vàng ươm trong chậu. Ôi! Tất cả những hương vị ấy quyến rũ biết dường nào! Và làm cho tôi cảm thấy yêu thương hơn thêm bàn tay khéo léo của Mẹ, bàn tay dịu dàng của chị và cảm thấy rằng, cuộc đời sẽ trống vắng biết bao, nếu không có những bàn tay chịu thương, chịu khó đó.

Bước lên nhà trên, bộ lư đồng sáng rực trên bàn thờ, cành mai vàng với những nụ còn e ấp trong bình chờ giao thừa nở cánh, dĩa trái cây tươi tắn đủ loại, đủ màu, nào cam, quít, bưởi, xoài, dưa hấu cạnh bên những hộp bánh mứt sắc màu bắt mắt.Đủ thứ, đủ loại hòa quyện tạo nên một sắc thái đoàn tụ, ấm no trong ngày Tết, làm cho lòng người như quên đi những ưu tư, phiền muộn lo toan trong cuộc sống bình thường…

Chiều 30 Tết, là chiều cúng rước Tổ Tiên, Ông Bà, Mẹ và chị tôi chuẩn bị các món rất chu đáo. Cái món mà Mẹ tôi thường làm để cúng mà tôi nhớ mãi, nhớ hoài cái mùi vị thân quen, đặc biệt không bao giờ quên được—Cháo Cá Ám.

Đểnấu được món ăn đặc biệt này, mẹ tôi đã khó công đi chợ từ hai ba bữa trước, chọn mua thứ cá lóc con thật to khoảng chừng 1 kg trở lên. Rồi với bàn tay khéo léo của Mẹ và chị, những con cá lóc béo mập tròn được làm sạch sẽ, cắt làm 3 khúc, bỏ vào nồi cháo đang sôi ục reo vui. Quan trọng là những món phụ tùng kèm theo rất đầy đủ cho món cháo mà không thể thiếu được món nào, bởi vì, nếu thiếu một món thì hương vị của món "Cháo Cá Ám" sẽ giảm đi mùi vị đáng kể.

Nào là đậu phọng rang vàng giã nhỏ, món rau ghém đủ mùi với những cọng giá trắng muốt, thêm vào đĩa thịt ba rọi luộc được xắt sợi đan xen những sợi vàng óng của trứng chiên, rồi đĩa bún trắng mịn với những sợi bún mềm mềm, một chén nước mắm ngon nguyên chất với những lát ớt đỏ tươi, kế bên lại thêm chén tương hột giã nhuyễn xào mỡ và còn một món rất đặc biệt, nếu không có nó thì không thể nào là món“Cháo Cá Ám” được, đó là nước me chua chua, dìu dịu, sền sệt, càng tăng thêm mùi vị cho món ăn…

Khi mọi thứ đã đầy đủ rồi, cỗ được bày ra, trước cúng Tổ Tiên, Ông Bà, sau cả nhà cùng quây quần thưởng thức. Trước hết, mọi người múc vào chén vài muỗng cháo rồiđể một ít bún, rau ghém, trứng, thịt, đậu phọng rang, tương hột rồi cho một tý nước mắm, nước me trộn lại và gắp thêm cá vào. Thế là cứ hết chén này đến chén khác, nuốt đến đâu, nghe ngọt bùi đến đó. Ngậm mà nghe: Món “Cháo Cá Ám” ngonơi!

Cho đến bây giờ, đã hơn năm chục năm rồi, khi nhắc đến món cháo đó, lòng tôi vẫn nghe đầy mùi vị quê hương, nồng nàn không thể tưởng. Tôi cũng còn nhớ những ngày giỗ Tết, Mẹ tôi thường nấu món ănđó. Nhỏ Oanh, bạn tôi, thuở còn đi học thường ghé nhà tôi, được Mẹ tôi cho ăn món “Cháo Cá Ám”. Nhỏ Bắc Kỳ, không biết là món gì, nhưng ăn hết chén này đến chén khác, bảo sao, ngon quá là ngon! Oanh về nhà, đi chợ, mua cá lóc và đủ thứgia vị như Mẹ tôi, rồi Oanh nấu cho cả nhà cùng ăn. Ăn xong, ai cũng cười lắc đầu bảo là: “Thôi, lần sau, Oanh đừng nấu món này nữa nha?” Không biết Oanh đã nấu thế nào? Trình bày giới thiệu ra sao mà món Nam Kỳ đặc biệt đó lại bị điểm dưới Trung Bình, Oanh còn nhớ không Oanh? Sau này còn có gan dám trổ tài nấu món "Cháo Cá Ám" Nam Kỳ của mình không? Và không biết ông chồng Nam Kỳ của Oanh cùng quê với mình có biết ăn món này không nhỉ?

Sau này, mấy chục năm trời không gặp lại, tôi được biết Oanh bây giờ, nấu ăn khá lắm, làm đủ món cho cả nhà thưởng thức. Ai nấy đều mê tài nấu nướng của Oanh… Nào phở, xôi vò, bún măng vịt, chả lụa, bánh cuốn.

Oanh nấu rất khéo, nhưng rất tiếc, tôi chưa có dịp được thưởng thức món nào của Oanh cả, và tôi ao ước rằng: Nếu được gặp lại Oanh, chắc chắn tôi sẽ được Oanh đãi cho các thức ăn Oanh nấu và ngược lại, tôi sẽ trổ tài nội trợ, đãi Oanh món“Cháo Cá Ám” theo công thức Mẹ dạy ngày xưa.

Xa rồi, Oanh có biết đâu, chính món “Cháo Cá Ám” đó đã đi vào lòng “Ông Xã” mình và bắt đầu cho tình yêu thời con gái đó Oanh…

Dù năm tháng đã phủ bụi lên miền ký ức của tôi, có cả niềm vui, lẫn nỗi buồn, yêu thương, mất mát, nhưng mỗi lần nhắc đến món ăn ngày Tết, trong lòng tôi vẫn thấy rộn ràng, háo hức. Kể sao cho xiết, nói biết bao cho vừa? Bởi trong mọi hương vịcủa món ăn, còn có cả mùi yêu thương, hương kỷ niệm, vị nhớ nhung và tất cả những hương vị, màu sắc đó làm cho tâm hồn người ta phong phú hơn, cuộc sống có ý nghĩa hơn.

Tôi nhớ giọt mồ hôi lấm tấm trên trán Mẹ, lom khom chụm lửa cho nồi bánh, dù Trời đang se lạnh. Tôi thương cái dịu dàng nhẫn nại của chị, ngồi nắn nót từng hũdưa hành, dưa kiệu ngọt dịu trắng tinh. Tôi yêu cái màu sáng choang dịu mát của căn nhà trên bởi bàn tay tháo vát của Ba và anh chăm chút. Tôi say màu nắng hanh vàng tưới trên những cây mai, khóm cúc, cụm kim đồng đang e ấp nở.

Ôi! Tôi yêu biết bao, tôi quý biết bao hình ảnh thân thương ngày ấy, và biết bao giờ mới tìm lại được đây!

NHỚ ĐẾN NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU (1945-2005)

 Lời nói đầu

Kỷ niệm 60 năm nạn đói khủng khiếp (1945-2005) mà dân Việt Nam ở Đồng Bằng Miền Bắc Việt Nam đã phải chịu, chúng ta cũng nên ôn lại sự kiện đó mà thương cho số phận đất nước trong bối cảnh Thế Chiến II (1939-45). Ngoài nạn đói, cộng đồng Việt Nam còn phải chịu biết bao tai ương khác như: một cổ đôi tròng (Pháp-Nhật), tranh giành ảnh hưởng nhau giữa các lực lượng kháng chiến (các phe phái khác nhau), bom đạn khắp nơi của các bên lâm chiến (quân đội Đồng Minh và Phe Trục), mối đe dọa hằng năm của cảnh lụt lội và vỡ đê ở hệ thống sông Hồng. Nhưng nỗi khắc nghiệt đó vẫn chưa lớn lao, triệt để và tàn ác bằng nạn chuyên quyền nắm quyền điều khiển mọi sự, mọi người trên đất nước thân yêu theo ý chí độc đoán của một tập đoàn! Gióng lên tiếng chuông cho những tai mắt và lòng trắc ẩn bên trời Âu và thế giới hiện nay chắc không phải là thừa thãi! 

Đói kém năm Ất Dậu (1945) 

Có lẽ trong lịch sử, chưa bao giờ dân Việt lại chịu một tai nạn xã hội nhân văn lớn lao như thế này về số người tử nạn và qui mô của vùng bị tai nạn. Có nhiều vụ lụt lội hay hạn hán kiểu “Sơn tinh, Thủy tinh” từng xảy ra trong suốt dòng lập quốc của dân Việt nhất là xưa kia của nòi Việt ở đồng bằng Sông Hồng và sau này từ khi người Việt mở mang bờ cõi về phương Nam, xuống đồng bằng sông Cửu Long.

Nói trận đói năm Ất Dậu là một sự kiện nhân nạn, chết người tập thể vô tiền khoáng hậu cũng không ngoa, vì có lẽ chỉ thua về những thiệt hại nhân mạng và tài sản của chiến tranh giữa hai phe Quốc-Cộng từ năm 1945-1975, trải dài 30 năm. Nhưng về số người bị nạn tập trung trong một thời gian kỷ lục, thì sự kiện Nạn Đói năm Ất Dậu vẫn là độc nhất vô nhị cho đến nay. Bằng chứng sống động là những tầng văn hóa khảo cổ ở địa bàn thủ đô Hà Nội-Thăng Long người ta vừa phát quật mới đây, nhân cơ hội thám sát nền đất để xây tòa nhà quốc hội và các cơ quan công quyền, nơi đó chất chứa cả nhiều thế kỷ thành Thăng Long và có thể cả các khu ngoại vi bị chôn vùi dưới nhiều đợt lũ lụt do nước sông Hồng tạo ra 

Diễn tiến và qui mô nạn đói 

Trong bối cảnh Thế chiến II, nạn đói xảy đến với Bắc Kỳ vào đúng lúc cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra quyết liệt, nhất là khi quân đội Nhật chiếm đóng Đông dương từ năm 1941 với những toán quân tiền tiêu từ Trung Quốc xung đột với quân Việt Pháp ở đồn Tà Lùng, từ năm 1940, cửa ngõ vào Lạng Sơn. Mà nếu chiếm đóng Lạng Sơn, con đường vào sâu trong đồng bằng miền Bắc Việt Nam kể như bỏ ngỏ, vì từ Lạng Sơn, người ta chỉ cần di chuyển 120 km là đến Hà Nội, trung tâm vùng Đồng Bằng Bắc Việt.

Chính trong các diễn biến chiến tranh tích lũy từ những năm đầu thập niên 1940 đã đưa đến nạn đói khủng khiếp giết chết ít nhất hai triệu người vào năm 1945, từ phía Bắc miền Trung ra tới Đồng Bằng Bắc Kỳ. 

1. Tại Hà Nội, nhiều xác người đói đi ăn xin, nằm chết ngổn ngang trên các đường phố, sáng sáng người ta phải đem xe bò đi đế chở những xác chết đó rồi đem chôn vội vàng. Có nhiều người đi xin, đói lả giữa phố, đêm đến, nằm dựa trên cửa lối ra vào hay bờ tường các căn phố. Báo hại người trong nhà: nhiều người sáng ra vừa mở cửa, thì xác chết đổ kềnh sang bên hay vào phía bên trong, khiến nhiều người trong nhà kinh khiếp, mất cả hồn vía!

Tại Tràng Tập Hà Nội có khoảng 120 chú chủng sinh, các chú được nhà trường cho ăn mỗi ngày chỉ có một bữa tạm no với một chén cơm đầy, còn hai bữa kia, ăn cháo với cám xay. Có chú tuy thấy đói, nhưng không chịu ăn cám, vì khó nuốt, đã đổ đi hết. Thực ra Ban giám đốc Tràng Tập cho các chú ăn cháo với cám, vì muốn cho có đủ chất bỗ do cám mang lại. 

2. Ở khắp đồng bằng miền Bắc những người thiếu ăn tại chỗ đi nhan nhản kiếm ăn xin vì thiếu đồng ruộng canh tác, thiếu lúa gạo, rồi dần dần chết lả vì đói ở các cánh đồng và đường làng khắp nơi trong các tỉnh phường xã làng xóm ở nông thôn và thành phố. Có nơi, người đói còn vào cướp phá kho chứa lúa gạo của người giàu trong làng. Ngoài người cư ngụ sinh sống từ trước tại vùng đồng bằng miền Bắc, còn có nhiều người từ miền Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đi ra ăn xin. Vì nạn đói xảy ra trong lúc chiến tranh nên hầu như các số liệu chính thức không được ai thống kê đầy đủ và chính xác. Ở khắp nơi, mỗi phe trong cuộc chiến cố lập ra những ban cứu đói, như tại làng Hoàng Nguyên Phú Xuyên Hà Đông, Thầy Mai Xuân Hậu với nhiều người tham gia vào ban cứu đói địa phương, thầy Nguyễn Khắc Xuyên ở giáo xứ Bút Đông, Duy Tiên, Hà Nam, thầy Nguyễn Khắc Dương ở Hội Đồng Hương Chánh làng Côi Mỹ, Hà Tĩnh 

Ở miền quê tôi, làng Hòa Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, khu vực giáp ranh với huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội 45 cây số, chỉ mới lên bảy tuổi, tôi còn nhớ cảnh thương tâm những người đói, thiếu ăn, thiếu ruộng cày, phải đi lang thang xin ăn. Khi không thể xin đủ ăn được, người đói lả nằm ngã lăn lóc bừa bãi khắp nơi ở giũa hay bên đường, trên đồng ruộng, trước cửa nhà, đủ kiểu mòn mỏi, rồi chết tất tưởi trong tình cảnh tứ cố vô thân, rách rưới. Số người chết đông đảo đến nỗi chôn không xuể, khiến nhiều chỗ bị nhiễm trùng và có nơi đã có dịch.  

* Ở đầu làng tôi, bên kia sông, con sông đào làng Hòa Khê nối sang bên đồng ruộng là các thôn Tè Mũ, Mai Trang, Thần Nữ là một cây cầu tre. Người làng tôi thấy có quá nhiều người chết la liệt ở cả hai bên sông, nên những người còn khỏe mạnh rủ nhau đi sang bên kia sông thu lượm những xác chết lại, đào vội một hố lớn không sâu lắm ở bên kia cầu thuộc đất của làng bên sông và người ta đem chôn vùi như ma đuổi tất cả số người đói đó trong chiếc hố tập thể. Trong số người chết, có cả những người còn ngắc ngoải, chưa chết hẳn, có người còn rên lên: “Đừng chôn sống chúng tôi, để chúng tôi hết hẳn đã!”. Bất chấp những lời than vãn đó, người còn khỏe mạnh cứ lấp đất vội vàng trên những thân thể còn chút hơi sống đó và tiếng kêu chỉ tắt hẳn cho đến khi những tảng đất định mệnh bên bờ sông được lăn đầy!.

Hình ảnh đó ám ảnh đám trẻ chúng tôi nhiều tháng trời và mùi hôi trong nấm mồ tập thể đi theo chúng tôi khắp nơi, đến tận giấc mơ hãi hùng trên giường ngủ, trong những câu truyện rùng rợn hù dọa nhau trên cửa miệng mọi người hằng ngày. Hú vía, vì có những người giàu tưởng tượng đe dọa nhau, kế chuyện nghe thấy những khóc nỉ non rưng rức của oan hồn những người bị chôn sống mỗi lần đi qua cây cầu tre vắt ngang con sông đào cô quạnh, vắng bóng trẻ thơ mỗi chiều hôm, vì đứa nào cũng khiếp sợ hồn ma đói!

Đầu cầu tre bên làng, có một thanh niên gần chết nằm im lìm đầu xóm giữa ngay ngã ba đường vì không còn hơi sức cử động. Thấy thế đám trẻ tinh nghịch trong làng chạy đến xúm xít bu quanh xem người nằm đói có lẽ đang hấp hối. Một thanh niên còn trẻ nhưng trông như một cụ lão già, quần áo tả tươi, rách nát, nhăn nheo, chỉ còn da bọc xương, để lộ cả mông và bộ phận sinh dục. Bỗng nhiên một đứa tinh quái, nghịch độc, bẻ một cành tre, rồi chọc vào hậu môn người sắp chết. Thân thể đáng thương kia chỉ giật giật nhè nhẹ, chắc có vẻ đau đớn mà không phản ứng gì được. Một chú bé tò mò đứng xem gần đó, mủi lòng, bịt mặt, với đôi mắt đỏ hoe sợ hãi vội quay đi, chạy trốn một mạch về nhà.

Có quá nhiều người đói đến nhà tôi xin ăn. Tôi nhớ ở nhà tôi, mỗi ngày trong một thời gian ngắn, cha tôi cho người giúp việc trong nhà, lấy gạo ra nấu cháo và hễ cứ người nào đến xin ăn, thì múc chia sẻ một chén cháo cho đỡ đói lòng. Nhưng số người xin ăn đông quá không đủ để phân phát. Đến tối khuya vẫn còn người đến đập cửa xin ăn. Khi nghe tin có nơi những người xin ăn còn khỏe mạnh hơn đã vào ăn cướp phá kho lẫm của những nhà giầu, từ đó trở đi  nhà chúng tôi phải cài chặt cổng ra vào thường lệ phía ngoài.

Đấy là một số trường hợp điển hình. Các nơi khác ở thôn quê đều diễn ra nhiều cảnh thương tâm tương tự như vậy. 

* Tại Thái Bình, nhân chứng đặc biệt ghi lại[1]:  

“Tháng Ba năm ấy, nay quen gọi là tháng Ba đói của năm Ất Dậu, 1945, tôi đang sống tại đất Bắc. Phải nói là cảnh đói bấy giờ khủng khiếp không thể tưởng. Đúng là một một chặng đường lịch sử ảm đạm, âm u, sầu thảm. Nhiều người đói quá, đã chết vì đói. Nhiều người đói quá, nên đành bỏ nhà, bỏ quê.

Chiều hôm ấy, tôi đi bộ từ Thái Bình về Thượng Phúc. Đường vắng. Thỉnh thoảng tôi gặp những thân người tiều tuỵ ốm o, lê bước, ngẩn ngơ, mệt mỏi. Họ đi kiếm ăn. Đi một mình, hoặc đi chung gia đình. Họ tìm bới hy vọng ở những đám cỏ, ở những đống rác bụi cây.

Đến gần một bờ sông, tôi thấy ba người gầy guộc nằm bất động. Một phụ nữ trẻ đã chết, tay vẫn ôm đứa con nhỏ. Đứa con nhỏ cũng đã chết, miệng còn ngậm vú người mẹ đã chết. Một người đàn ông trẻ nằm sát bên kia đứa nhỏ đã chết, tay như đang cố với tìm chiếc chiếu rách cạnh bên, để đắp cho vợ con. Anh ngấp ngoái chết. Tôi nghẹn ngào ngồi lại. Anh nhìn tôi. Vài phút sau, anh tắt thở.

Tôi không có gì để giải quyết cảnh tang thương đó. Tôi tiếp tục tiếp nối cuộc sống họ để lại. Với tình cảm xót thương dạt dào, tôi cảm nhận nỗi khổ đau và tuyệt vọng họ trối lại cho tôi.

Tôi tự an ủi mình là những người này đã được an táng trong trái tim tôi. Họ như những người thân đồng hành với tôi. Thỉnh thoảng họ có những nhắn nhủ nhẹ nhàng, thân thương, để giúp tôi biết sống. Sống sao cho xứng là người. Một trong những điều kiện để được thế, là hãy biết thương cảm, xót thương.” 

* Tại Ninh Cường, cách Trung Linh, Bùi Chu khoảng hai mươi cây số đường bộ, nằm ỡ giữa vùng Đồng Bẳng Bắc Việt, có lẽ là khu vực chịu ảnh hưởng năng nề nhất của châu thổ sông Hồng, theo lời chứng của một linh mục[2], thì ở nhà chung Ninh Cường lúc đó (năm 1945) mọi người chỉ được ăn một bữa; trên nhiều đường trong bờ ruộng làng, nhà chung cùng với dân làng, cho làm nhiều lều tranh tạm trú cho những người từ các làng quê kéo ra xin ăn, vì không còn thóc hay khoai sắn để ăn. Quân đội Nhật ra lệnh, dưới áp lực súng ống lưỡi lê, cho tất cả các nông gia phải đóng thuế bằng hiện vật, tức là phải gánh hết thóc trong nhà đổ vào các kho chứa của nhà nước lúc đó mà người Nhật đã chiếm đóng và quản lý.

Có cả trăm người lết đến khu vực Nhà Chung Ninh Cường tạm trú trong các lều tranh bên vệ đường có dựng lều. Thấy thế, Nhà chung cho nhà bếp nấu cháo, phân phát cho những người đói ăn. Có người ăn được bát cháo hôm trước, thì hôm sau lăn đùng ra chết; người ta chết xếp chồng lên nhau cả hàng chục hằng trăm không đếm cho xiết. Lúc đó cũng từ trong Nhà chung có nhiều cha ra ngoài đi làm các phép sau cùng cho người đau ốm, như cha Học đi xức dầu cho kẻ liệt, người đói trước khi chết, do chính chú Thái đi giúp cha cầm bình dầu hay nước phép, và đo đó, chính chú Thái đã chứng kiến tất cả những hình ảnh khủng khiếp ấy và kể lại với hồi ức thật sống động ở tuổi gần 80.

Người trong làng, ai còn khỏe mạnh thì thường rủ nhau ra cánh đồng đào những hố lớn trên rồi ném chôn vùi xác chết xuống vội lấp đất sơ sài, vì số người chết quá đông chôn không kịp. Mùi hôi thối xác chết bốc lên nồng nặc mấy tháng trời. Nhưng một kích bản thảm thương, nghịch lý, nhưng lại rất khoa học xảy đến trước sự chứng kiến của những người còn may mắn sống sót, nhất là các nông dân: các vụ trồng cấy gặt hái lúa năm sau lại tươi tốt và thu hoạch nhiều vô kể hơn bao giờ hết, chắc là nhở nhiều xác người chết đã thối rữa trở thành phân bón hảo hạng cho đồng ruộng nhập nước! Nếu người Nhật còn thống trị ở châu Á Thái Bình Dương, sau ngày 15/8/1945, thì chính họ phải trở thành những kẻ khai thác xác người tinh vi tàn bạo chẳng khác nào quân phát xít Đức khai thác các mạng người trong thế chiến thứ II ở trong các trại giam và lò thiêu người bên châu Âu! 

Tại vùng này có một tướng cướp khét tiếng tên là Mạnh, đi cướp phá các làng chung quanh. Anh ta hoành hành nhiều làng mạc, đốt phá nhà cửa, giết người, lấy nhiều của cải thóc lúa của dân lành, mà mãi không ai trừ diệt được. Một hôm, người ta đuổi bắt tên cướp, và nhờ mưu của một linh mục quàn trị trong vùng, phải dùng đến cách giăng và chụp lưới mới bắt được tên cướp đang tìm cách trốn thoát này, giải giao cho chính quyền địa phương nghiêm trị làm gương, trừ hậu họa cho dân làng. 

* Cũng về cái nạn trộm cướp, tìm cách hôi của năm Ất Dậu này, tôi được một bác trọng tuổi, cụ năm nay đã 78 tuổi, kể lại[3] một điều mắt thấy tai nghe về một chi tiết thưong tâm mà nực cười.

Tại một gia đình “có của ăn của để” ở một làng quê vùng Kẻ Sông, tỉnh Hà Nam, Bắc Kỳ, người dân làng không bị đói ăn, nhưng hầu hết những người đói ăn từ phía Nam, tức là vùng Vinh, Bùi Chu, Phát Diệm, … theo ký ức của cụ hiện nay, đi ăn xin và cứ thế tiến dần ra phía Bắc, hy vọng kiếm được của ăn, rồi chết đói ở đó. Họ đào bới ăn tất cả những thứ củ quả nào còn có thể ăn cho đầy bụng, củ chuối, bắp chuối, củ khoai, củ ráy, …. Có người ăn nhiều quá lại bị “bội thực”[4] lăn quay ra chết “no”! Khi không còn gì nữa thì nhưng người còn chút sức tàn đi theo những tay anh chị đi cướp hay lấy trộm trong cót thóc của những người còn chút của cải. Một cảnh đau lòng là nhiều người có của phải canh ngày đêm để nền nhà kho khỏi bị đào ngạch cướp thóc đựng trong lẫm.

Người ta có những “sáng kiến rất dân quê và độc đáo” là dùng đến những chiếc “bừa ruộng” để chộp những tay mạo hiểm đào bên dưới cót thóc để kiếm ăn như người ta săn chuột. Nhưng thay vì những thứ cạm bẫy chuyên môn để bắt chuột, họ dùng “bừa ruộng”để chặn cổ những tay nào bạo gan đào lỗ dưới đất, chui vào chung quanh cót quây tròn, dựng cao, để lấy trộm được ít thóc. Đây cũng là những tay săn trộm ngộ nghĩnh: họ chặn cổ xong kẻ ăn trộm, cảnh cáo, rồi chỉ răn đe, cho đi khuất mắt ngay, mà không có bất kỳ hảnh vi bất nhân nào! Một chi tiết khá lý thú của người nông dân miền quê, bảo quản thức ăn là không dự trữ gạo, nhưng là thóc, tức là những hạt gao còn nguyên trong vỏ trấu bao bên ngoài. Trấu chính là một màng cứng bảo vệ hạt gạo an toàn, không bị thối, mọt hay kiến và chốn một cách hiệu quả nhiều loại sâu bọ tấn công và trữ được rất lâu!   

Nạn đói kéo dài có lẽ từ cuối năm 1944 cho đến khoảng giữa tháng 3,4 năm 1945, với số người chết ước lượng là trên dưới hai triệu người. Tội này đổ trên đầu dân Việt, ai là người chịu trách nhiệm, trong khi biết người ngoài đã chỉ thấy tranh nhau khai thác các tài nguyên béo bở của đất nước đáng thương này. Ôi thân gầy Việt Nam bao đời nghèo khổ, nay lại bị bóc lột đè nén thêm! 

Lại nói về mỡ lợn, mỡ quý không kém gì mì chính. Mỡ lợn mua về đem rán lên lấy mỡ để nguội, sau đó chắt vào trong một cái chai cổ nhỏ. Còn tóp mỡ thì phải cất đi để xào với rau hoặc kho với tương để ăn dần. Mục đính của việc cho mỡ vào chai cổ nhỏ là, không để cho một thứ gì thò vào lấy mỡ ra được. Mà muốn lấy phải hơ cái chai lên lửa, mỡ nóng lên, chảy ra từ từ và rót tí một vào chảo rán, sau đó được nút lại và cất đi ngay. Chỉ được rán trứng thôi, nếu nấu canh thì chỉ cho mấy giọt mỡ để có một lớp váng mỡ trên mặt bát canh, đấy là khi có khách. Còn bình thường thì nấu “canh suông”, có nghĩa là không mỡ, không mì chính. Mỗi khi có khách đến nhà, tôi thường phải "vác" bát đi dọc xóm để xin mỡ về rán trứng đãi khách, có hôm thì xin được, hôm thì không. Nói là hàng xóm thôi chứ toàn là anh em, chú bác nhà tôi ở quanh đấy cả. Không xin được mỡ không phải người ta không cho, mà là vì nhà họ cũng hết, nhà còn thì mẹ đi vắng. Mỡ được cất vào trong hòm đựng những đồ quý, mà chỉ có người mẹ mới được giữ chìa khóa. Thực ra cất kĩ như vậy không phải vì sợ mất, mà là vì sợ con cái ăn vụng hết. (Cái đói, cái khổ thời bao cấp thường sinh ra những tật như vậy đấy). Những hôm như thế chỉ còn biết cho trứng vào nồi để luộc lên, sau đó bóc ra dầm vào nước tương để đãi khách. Nếu khách mà biếng ăn thì anh em tôi còn được miếng. Vì nhiều khách, nên nhà tôi phải nuôi 10 con vịt đẻ trứng để phục vụ khách. 

Nhà tôi nghèo đi cũng vì nhiều khách. Những khoản chi phí cho khách ăn không được Hợp tác xã thanh toán. Vì nguyên tắc, cán bộ đi cơ sở là phải mang tiền ăn và tem gạo đi theo, ăn nhà nào thì nộp tiền và tem phiếu vào nhà đó. Bố mẹ tôi thì không lấy của một ai cả, kể cả những người ăn ở nhà tôi cả tháng để chỉ đạo phong trào. Thi thoảng thì được Hợp tác xã hỗ trợ cân thịt, cân cá vào dịp xã có hội nghị.

Tôi nhớ nhất là mỗi khi bác tôi về vào chiều thứ bảy. Ông công tác ở một trại chăn nuôi giống lợn của Trung ương, nên ông thường có thịt mang về. Về nhà, bác gái tôi lại thái miếng ra để kho với tương. Sau đó đem cho nhà tôi một bát con (bát ăn cơm bây giờ), trong đó có hai ba miếng thịt mỡ nổi lên. Về đến nhà tôi, tôi lại phải cho thêm tương vào kho lại để đủ cả nhà ăn. Thịt thì được cắt nhỏ ra cho đủ để anh em tôi mỗi người được một miếng. Lúc đó nhà tôi có năm anh em, tôi là lớn nhất. Những hôm như vậy, tôi luôn nghĩ không có gì để sướng hơn được nữa, vì nếu không được ăn thịt thì cũng được rưới nước tương kho thịt. Cuộc sống như vậy nó cứ dai dẳng theo nhà tôi suốt thời kì bao cấp.

Đấy là ăn, còn mặc thì sao? Cái ăn và mặc nó thường đi liền với nhau. (Mày ăn mặc thế à?). Ăn đã không có thì lấy gì mà mặc. Đối với tôi, hầu hết những năm học phổ thông đều phải mặc quần rách và mặc lại quần áo của ông cậu tôi. Ước mơ của tôi trong suốt thời gian đi học là được một chiếc quần vải kaki Liên Xô mà cũng không thành. Quần vải kaki Liên Xô vừa dày lại vừa bóng, không nhăn, bền màu và lâu rách. Quần vải thường toàn sợi bông (vải xanh chéo) nhanh phai màu và hay rách chỗ đầu gối và hai mông đít. Thông thường rách thì được vá bằng miếng vải của những quần áo cũ, rách nát cùng màu, không mặc được nữa. Quần rách được vá như vá săm lốp bây giờ. Nhà nào có điều kiện thì mang ra hiệu may bích kê, tức là lót một miếng vải cùng màu vào bên trong chỗ rách. Sau đó dùng máy khâu may những đường chỉ song song cách nhau khoảng 1,5-2cm từ trong ra ngoài theo hình miếng vá, có thể là vuông, chữ nhật, tròn hoặc là ê líp,… tùy theo tay nghề của ông thợ và kích thước của miếng vá. Bộ thời trang lúc bấy giờ có lẽ rất hợp với những bạn trẻ thời 8x, 9x ngày nay. 

Có một chuyện mất cắp hi hữu xảy ra (tức là cứ hỏi đến cái gì thì mất cái đó) và nó cũng đã liên quan đến chuyện ăn mặc của tôi. Đó là vào dịp hè năm 1976, khi đó tôi đang học lớp 10 phổ thông hệ 10/10 và chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông. Tôi phải ở trọ xa nhà 20km để đi học. Khi về nghỉ hè mấy hôm để giúp gia đình gặt lúa, tôi mang tất cả quần áo và sách vở về nhà. Quần áo sách vở của tôi được đựng trong một chiếc hòm bằng gỗ. Hôm đó, nhà tôi bừa rơm, tức là lúa gặt được lượm thành từng bó nhỏ, mang về sân kho Hợp tác xã, đập vào chiếc cối bằng đá xanh (đá vôi) còn lại rơm thì chia cho xã viên, theo khẩu hoặc theo công điểm. Rơm được trở về nhà, dùng trâu hoặc bò bừa lại để lấy thóc còn bám ở trên bó rơm mà xã viên đập ra chưa hết. Tôi không nhớ rõ hôm đó bừa mấy mẻ, nhưng đến khoảng hai ba giờ sáng mới xong. Mệt quá thế là cả nhà đi ngủ. 

Sáng ra, mẹ tôi là người dậy sớm nhất. Bà tìm chiếc càng để phơi rơm ra. Không thấy càng, bà mới gọi chúng tôi dậy để tìm nhưng cũng không thấy. Đó là cái bị mất đầu tiên khi tìm đến. Bà sai cô em gái tôi đi nấu cơm, nó vào buồng tìm gạo mãi không thấy. Bà lại chửi nó là "gạo vừa được xay, giã hôm qua để trong nhà mà lại tìm không thấy, mắt mày mù à". Khi bà vào thì thúng gạo cũng không cánh mà bay. Đó là cái thứ hai bị mất khi tìm đến. Tôi đang ngồi ở hè, bỗng thấy người hơi lạnh vì tôi ở trần không mặc áo, nên tôi vào trong nhà lấy áo mặc. Tôi phát hiện toàn bộ quần áo của tôi cũng mất luôn, không còn một cái nào, thế là cái thứ ba bị mất khi sờ đến nó. Bọn kẻ trộm thì nó lấy sách vở làm gì. Thực ra, quần áo tôi có bộ nào ra hồn đâu. Tất cả quần áo mặc năm lớp 10 là quần áo bộ đội cũ của ông cậu tôi cho, có hai bộ thôi. Đúng là “chó cắn áo rách” và thế là ước mơ của tôi đã thành sự thực. Không còn lí do nào để từ chối nữa, cho nên tôi được bố tôi may cho liền một lúc hai bộ quần áo, hai cái áo sơ mi trắng và hai chiếc quần kaki Liên Xô. Lần đầu tiên tôi được mặc đồng bộ, cả quần lẫn áo đều mới, không những một bộ mà tận hai bộ. 

Nhưng niềm vui đó cũng chỉ được mấy tháng. Đến tháng tám năm ấy, sau khi tốt nghiệp phổ thông, tôi phải lên đường nhập ngũ. Thế là hai bộ quần áo đó được chuyển lại cho chú em của tôi sở hữu. Thế đấy, chuyện ăn mặc thời bao cấp nó khó khăn như vậy đó. Thực ra nếu so sánh mức sống thời bao cấp của nhà tôi với mặt bằng chung của xã hội lúc bấy giờ thì chưa phải là nhà khó khăn lắm. Đấy cũng là mức sống chung của xã hội lúc bấy giờ thôi. Anh em tôi tuy có đói một tý, ăn không được ngon, mặc không được lành lặn, nhưng vẫn hơn nhiều gia đình khác: ăn không được no, con cái không được học hành gì,…

Chị hai hàng rong

Truyện ngắn: TRƯƠNG THANH THÙY

Chị tập cho bọn em của chị ăn hàng từ lúc chúng còn bé tí hin. Cũng mua, cũng bán, cũng rào đón, mời chào. Cũng ngả giá mắc rẻ. Cũng khen, cũng chê… Bốn chị em gái quây lại thành một gian hàng ăn uống xôm tụ. Chị thường rất ít khi đổi những món hàng chị bán. Hiếm hoi lắm thì có cá ngừ kho thơm, cà. Thi thoảng có mớ cá cơm kho mặn. Và, món thịt ba chỉ lắm mỡ kho sệt là rất ít ỏi… Chẳng sao cả. Chỉ là đĩa cơm nóng hổi lắm sạn và thóc bệt vào nhau bằng thìa mỡ heo được chị thăng kỹ càng và tí nước nắm vài ngàn một lít đã là quá ngon với bọn trẻ con nhà nghèo. Chị thường rao hàng bằng một chất giọng quen thuộc với những đứa em của chị. Cái chất giọng đều đều, hiền lành và cam chịu: “Cơm đi! Cơm đi! Có ai đói bụng chưa nè!”. Bọn chúng tôi ùa tới, nhao nhao: “Cho em một dĩa, em một dĩa”. Tiền trả cho những dĩa cơm lạt ngọt mồ hôi cha, mẹ và chị là những lá su già chúng tôi vừa vin hái sau vườn. Sau bữa bán hàng bận rộn ấy, chị sẽ thái mỏng mớ lá su nhận được từ chúng tôi, trộn thêm ít cám và giun đất để lấp mấy cái miệng ngoác to quàng quạc của lũ vịt chị nuôi. Đầu óc ngô dại của lũ em chị, chúng tôi, chưa bao giờ kịp lớn để hỏi: “Vậy, chị hai ăn vào lúc nào?”. Đến khi chợt nhận ra, thì, nỗi bàng hoàng biến chúng tôi thành những người mua hàng kiệm lời hơn, ít mè nheo hơn với chị. Chúng tôi cứ thế xếp hàng, rửa tay và ngoan ngoãn ngồi vào bàn ăn, ăn những dĩa cơm nóng hổi lắm sạn và thóc, bệt vào nhau bởi mỡ heo và nước nắm từ tay chị. Chị lặng lẽ quay đi và khóc. Ít nhất chị cũng được cái quyền quay đi nơi khác để che giấu những giọt đắng cay ấy, chứ không phải gằm cúi mặt nuốt bát cơm vừa hứng những giọt nước mắt lã chã rơi vào trước mặt cha mẹ. Chị không bao giờ nấc lên khi khóc. Tôi hồ nghi vì chị sinh ra và gắn cuộc đời mình với hai chữ cam chịu? Hay chị sợ những tiếng nấc thổn thức ấy sẽ đánh thức sự mệt mỏi và giận giữ từ phía mẹ cha? Phải chăng những vết quất mệt nhọc sau một ngày lam lũ làm việc kiếm bát gạo cho chúng tôi từ cha mẹ, là thứ kiềm hãm những nỗi đau đớn, tủi hờn riêng tư trong chị? Chị hai!

Là con gái mà lũ chúng tôi cứ thế lớn lên theo từng trận đòn roi của cha và những lời nặng nề của mẹ. Chúng tôi từng cảm thấy cùng nhau, rằng đây chính là một địa ngục trần gian hơn là một mái nhà mà chúng tôi có thể tìm về khi mình vấp ngã. Chúng tôi thường cả lũ thổn thức, nức nở sau mỗi trận đòn no nê mà chúng tôi nhận được sau mỗi lần phạm lỗi dù là lớn hay bé từ cha mẹ. Cha mẹ có một cách khiến chị em chúng tôi ngày càng ít phạm lỗi hơn, đó là, tất cả các chị em tôi cùng nhau nằm trên giường và cùng nhau chịu đòn khi một đứa trong đám phạm lỗi. Chị hai thường nằm ở đầu roi, còn tôi, tôi được chị cho nằm sát cán, ngay gần sát chỗ cha đứng, vì, như vậy, tôi sẽ ít đau hơn. Dường như tình cảm chị em chúng tôi lớn dần lên theo mỗi trận đòn “tập thể” ấy! Chúng tôi ý thức được cái nỗi đau tâm hồn khi chị em mình phải vì mình mà bị đánh đập. Và, cái ý thức về tình yêu thương ấy khiến chúng tôi trở thành những đứa con gái nề nếp, khéo léo và khó tính vô cùng. Nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ đến độ có thể soi gương trên từng mặt phẳng bóng của từng vật dụng trong nhà. Chị em tôi trưởng thành trước tuổi trong tư tưởng. Không có từng tiếng cười đùa vô tư như những đứa trẻ hàng xóm. Không có những trò chơi trẻ nít phá phách nghịch ngợm. Không gì cả, trừ trò chơi bán hàng từng bữa cơm của chị hai. Nhưng rồi, đó dường như chỉ còn là một thói quen rao bán cho từng giấc ăn của chúng tôi. Chúng tôi không ngả giá, không rào đón, chẳng khen chê. Cứ thế, lặng lẽ ngồi vào bàn ăn chờ đợi từng bát cơm hổi nóng nơi tay chị. Và, chúng tôi rủ chị ăn cùng. Cả đứa bé nhất, là tôi, cũng tự xúc ăn lấy, để chị hai có thể cùng chúng tôi thưởng thức những bữa ăn nhà nghèo vội vã trốn nước mắt. Lũ vịt con sau vườn dường như cũng lớn lên và cũng thôi không còn hay quàng quạc nữa!

Mỗi ngày, tôi và chị kế lon ton chạy theo chị hai, chị ba những chiều hai chị gánh nước tưới vườn cà phê. Đôi vai chị mòn nhỏ dưới cái đòn gánh dài và nặng nề bởi hai thùng nước trĩu trịt hai đầu. Chị tưới vườn còn tôi hái những quả dâu tằm chín đen ngoài rào. Chị thường lo lắng canh chừng xem chúng tôi có rửa trước khi ăn, nếu không, chị phải tự tay rửa chúng cho đến khi chị đảm bảo chúng đã không còn có thể gây hại cho mấy cái bụng non yếu của chúng tôi. Bất giác, trong cái đầu non trẻ, tôi chợt tự hỏi: Một ngày nào đó, khi không có chị hai bên cạnh, chúng tôi sẽ như thế nào?

Khi con người ta bước qua quá khứ, thì mọi kỷ niệm bỗng trở nên đẹp đến lạ lùng, dẫu rằng, chúng buồn hay vui! Chúng tôi lớn lên cùng cái ký ức đẹp đẽ về những bữa cơm chưa bao giờ đủ no chứ chưa dám mong là ngon hay dở từ tay chị hai luôn khéo léo gọn gàng. Lớn rồi, đòn roi cũng chẳng còn là thứ khiến chúng tôi hoảng sợ nữa! Không biết vì cha mẹ nhận ra sự trưởng thành của chúng tôi. Hay vì chúng tôi đã được cha mẹ rèn dũa thành những đứa con gái gần như hoàn hảo. Hoặc giả, nỗi sợ hãi ấy bị mài mòn bởi cảm giác chai lì, chán nản… Chúng tôi không biết và cũng chẳng cần biết! Thứ duy nhất chúng tôi biết rằng, chị hai không còn hay khóc nữa! Trong từng bữa cơm không còn tiếng rao bán mời chào của cái trò chơi mua bán chị bày ra cùng nỗi ước mong cho chúng tôi một bữa cơm yên bình. Bữa cơm của chúng tôi chỉ duy nhất có một thứ cứ trôi vào bao tử chúng tôi cùng rau, cùng cá - sự im lặng…

Có những đêm, tôi mơ, mơ cùng một giấc mơ lạ kỳ. Trong giấc mơ ấy, tôi thấy chị hai trong bộ quần áo lụa trắng. Chị quay mặt về phía mặt trời, có một quầng sáng bao lấy cơ thể chị như một quầng hào quang vàng rực. Tôi không nhìn thấy nước mắt chị, không nghe được tiếng nấc chị nén lại từ thuở chị còn là trẻ con, nhưng tôi thấy rất rõ bờ vai chị gầy còm đang run lên thổn thức. Cả giấc mơ tôi chỉ là dáng chị rực rỡ như một thiên thần, chỉ khác một điều là chị không có đôi cánh trắng. Và giấc mơ ấy kết thúc bằng giọng chị thân quen sát sạt bên tai: “Cơm đi! Cơm đi! Có ai đói bụng chưa nè!”. Cứ hễ khi cái giọng cam chịu, đều đều, hiền lành của chị cất lên bên tai tôi, là tôi lại choàng tỉnh để bắt đầu một ngày mới. Với tôi, tiếng rao ấy như nguồn sống của sức mạnh tinh thần mà tôi cần nạp vào cơ thể mình cho mỗi ngày dài mệt mỏi. Và, tôi vẫn thường kết thúc giấc mơ của mình bằng câu hỏi mang đậm nỗi hoang mang lo sợ đến mức phi lý, rằng, rồi chúng tôi sẽ ra sao khi một ngày thức giấc, chị hai không còn ở bên chúng tôi nữa?!

Và… ngày ấy đã đến! Chị hai đi lấy chồng! Anh hai xuất hiện trong gia đình tôi, trong trái tim chị em chúng tôi như luồng xẹt ánh xét của thần Cupid với đôi cánh và mũi tên tình yêu. Anh hai không có vẻ mặt thiên thần, không có mũi tên đính hình quả tim tượng trưng cho tình yêu. Nhưng anh hai có cái nhìn đính kèm âm thanh của tiếng vút mũi tên lao thẳng vào trái tim của những con người đang mỏi mòn ngóng đợi sự điểm dấu cho một tình yêu bừng cháy. Anh hai có nụ cười của một chàng trai nhà nghèo nhiều tham vọng được nuôi nấng bởi tài năng và tầm nhìn của một người đàn ông đi qua mọi thách thức, cay đắng của cuộc đời. Anh hai có tình yêu dành cho chúng tôi của một người anh trai đúng nghĩa - cái tình cảm mà chúng tôi vẫn đói khát từ thuở lọt lòng. Anh hai có thái độ quan tâm, bảo bọc chúng tôi của một người luống tuổi - dẫu khi anh xuất hiện trong trí óc chị em tôi, anh còn trẻ quá chừng - để chúng tôi có điểm tựa tinh thần mà dấn thân vào những nơi chúng tôi chưa từng nghĩ mình sẽ đến… Anh từ tốn nhưng đầy tự tin rước chị hai ra khỏi đời chúng tôi bằng mâm quả truyền thống ngày cưới. Ánh mắt chúng tôi đuổi rượt theo bước chị liêu xiêu run đều đều theo những giọt nước mắt cô dâu. Chị gửi lại cho chúng tôi dưới gót chân mình tiếng rao đeo đuổi tuổi thơ của chúng tôi. Chị hai đi lấy chồng!

Cha mẹ chuyển nhà mấy bận, mỗi lần một gần phố thị hơn. Bữa cơm nhà nghèo giờ chỉ còn là hoài niệm trong ký ức. Sự khá giả, khang trang không làm gia đình ấm cúng hơn khi thiếu bóng chị hai. Mẹ thường đăm chiêu về một góc, nơi chúng tôi biết rằng, mẹ có thể tìm thấy bóng chị hai trong mớ ký ức mặn nước mắt cảm thương cho đứa con gái đầu lòng gánh nhiều vất vả thay mẹ. Thi thoảng, dù rất khẽ, ba chị em còn lại chúng tôi nghe tiếng mẹ se sẽ thở dài. Chúng tôi không hỏi, vì, không dám hỏi. Trái tim từng nếm nước mắt chị hai suốt tuổi thơ mình, chúng tôi thật không muốn trái tim mình lại nhuốn nước mắt của mẹ. Cha không còn nóng tính như ngày xưa. Hiếm hoi lắm mới nghe cha lên tiếng, mỗi lần lên tiếng gọi là mỗi lần chúng tôi thót giật mình vì cha cứ theo thói quen cũ, gọi: “Bé hai à!”…

Chị em tôi theo chân chị hai, khôn lớn, trưởng thành để bình thản bước chân theo chồng về làm dâu, làm vợ. Anh hai luôn đưa chị hai và hai đứa cháu về dự cưới chúng tôi sớm trước cả tuần. Những phút giây ngắn ngủi bốn chị em được quây lại cùng nhau, chúng tôi khóc, nhưng, chị hai thì không. Chị điềm tĩnh và bình thản lạ lùng. Sự điềm tĩnh của một con người chúng tôi chưa từng được gặp trong quá khứ! Không còn cam chịu, không sợ sệt nữa rồi! Chị căn dặn chúng tôi đủ điều, những điều chị không cần học từ mẹ, nhưng từng lời chị nói hệt thể chị đang đọc lại những gì chị đã ghi chép được mỗi lúc mẹ dạy chúng tôi về đạo làm dâu. Cưới tôi cũng không ngoại lệ! Chị hai về. Lo toan. Thu xếp… Mọi thứ bỗng tinnh tươm, mới đẹp dưới bàn tay chăm sóc đầy tình yêu thương của chị. Đêm trước lễ đưa dâu, chị vào phòng tôi. Phảng phất trong cái giọng đều đều hiền lành ngày xưa là một niềm kiêu hãnh bất ngờ: “Út chưa ngủ sao?”. “Dạ chưa!” - tôi đáp. Chị cười, nhẹ nhàng hạ thấp gối xuống, tôi ngoan ngoãn nằm. Chị hai kéo chăn đắp ngang ngực tôi: “Út ngủ đi, mai làm cô dâu mới đẹp được!”. Tôi cứ mong chị hai sẽ căn dặn tôi thêm lần nữa, những điều tôi đã học thuộc lòng khi nghe mẹ và chị hai căn dặn hai chị gái trước tôi, nhưng chị hai chẳng nói thêm gì. Chị quay bước về phía cánh cửa phòng - nơi mà tôi biết, tôi và chị chỉ còn có thể thương yêu nhau bằng một nỗi nhớ nhung da diết khi an phận sống cuộc sống riêng cho mình. “Chị hai!” - tôi hốt hoảng gọi theo, như thể ngày mai không còn gặp được chị nữa! “Mọi thứ không như út nghĩ đâu. Tất cả đều sẽ tốt đẹp út à, em ngủ đi!”…

Chồng tôi công tác xa. Hết bốn tháng nghỉ sinh, tôi rong xe một mình đến công ty. Con dốc này tôi đã đi qua đến hàng ngàn lần, sao, nó vẫn cứ hoài xa lạ? Chưa bao giờ nó ướp vào trái tim tôi như con dốc đứng lổm ngổm đá nơi xóm cũ khi còn nghèo khổ sống cùng cha mẹ và các chị của tôi. Tôi thấy mình không khỏe! Ngực tôi nhói lên đau buốt! Tôi có cảm giác bất an! Bé Su khóc chăng? Ngần ngừ quay xe lại, và,… ầm!

Tôi mở mắt nhìn quanh, đầu đau như búa bổ. Mọi thứ xung quanh trắng xóa và sặc nắc mùi cồn. Mẹ già sọp đi bởi nỗi lo âu cho đứa con gái út lúc nào cũng yếu ớt: “Con tỉnh rồi hả? Còn đau lắm không con?”. Khó khăn lắm tôi mới mếu máo mỉm cười, cốt để mẹ bớt lo. Nhưng không tài nào tôi có thể trả lời câu hỏi của mẹ. Thứ duy nhất ám ảnh tôi, ngay cả khi tôi hôn mê, đó là hình ảnh bé Su bé síu với tay tìm núm vú của tôi: “Su đâu hả mẹ?”. Mẹ không cầm kịp giọt tình thương lăn tròn trên má: “Su ở nhà, nó ngoan lắm, con yên tâm đi. Mau khỏe mà về với nó, nghen con!”. Giọng của mẹ cứ kéo dài và vọng mãi, vọng mãi, tôi thiếp đi bởi những mũi thuốc giảm đau. Trong những cơn mê ấy, tôi dường như cảm nhận được một thứ quen thuộc, thương yêu mà tôi thiếu thốn bấy lâu… Một thứ tôi không thể gọi tên!

Bộ áo quần bệnh viện xanh sọc trắng thùng thình làm tôi trông càng nhợt nhạt. Tóc mọc ra lún phún vài cetimet cả đầu, trừ chỗ vết thương vòng cung kéo dài từ mang tai đến sau gáy. Tôi bước qua đau đớn để ngồi vào chiếc xe lăn. Van vỉ mãi bác sĩ mới cho tôi về nhìn bé Su một tí. Mẹ như hiểu hết những suy nghĩ đang quặn trong đầu tôi, những cảm xúc đang rên siết trong trái tim tôi. Đôi tay mẹ nắm thậy chặt tay đẩy. Đôi chân mẹ già nua nhưng vững chãi đến lạ lùng, bước vội vàng đưa con gái út của mẹ về với đứa con gái đầu lòng của nó! Tôi được về nhà!

Ngay từ đầu ngõ, phải, ngay từ đầu con hẻm nhỏ vào nhà mẹ, tôi đã nghe được cái giọng ấy, cái giọng đều đều, nhẹ nhàng và cam chịu đã theo tôi suốt những giấc mơ con trẻ: “Cơm đi, cơm đi! Có ai đói chưa nè!”. Tôi òa khóc! Chị hai đứng đó, tay muỗng bột, tay bé Su.

Ký ức 2 – Món của mẹ

Posted on Tháng Mười 9, 2008 by hoangthuyanh

Thời buổi khó khăn mà dưới đôi bàn tay khéo léo của mẹ những thứ đơn giản thành món ngon nhớ mãi.

Món truyền thống canh riêu cá mè. Chỉ cần một cái đầu cá mè to là được một bữa suýt xoa cho cả nhà. Hôm nào bẹ bảo chiều nay ăn canh cá là chị em săng sái ra ruộng hái rau muống về hì hục chẻ. Một rổ rau muống, một nắm rau kinh giới là hoàn hảo một bữa chiều. Bát canh cá mè béo, với chua chua của dọc, thơm thơm của thìa là và sánh đỏ của cà chua làm tứa nước miếng cái đứa xắp mâm cơm. Thêm một bát nước chấm cay cay, một bát cà muối xổi là nồi cơm vét sạch. Đến miếng cháy cuối cùng khi chan với canh chua vẫn còn thấy ngon ngon bùi bùi mặc cho cái bụng đã căng kềnh. Đến tận bây giờ trong những câu chuyện hoài cổ, món canh riêu cá mè chẳng bao giờ thiếu…

Món cá khô rán chưng cà chua trong những ngày đông lạnh. Ngày xưa nhà ai chẳng trữ cá khô trong nhà cho những đợt mưa bão hay cho những ngày đông tháng giá. Cá khô ngâm với nước ấm cho nở ra, cho nhạt bớt muối đi, rán qua trên chảo rồi chưng với cà chua. Một miếng cá khô hết một bát cơm nóng. Cá khô hồi đó mặn lắm, nhưng nó ngon ở cái mặn mà, cái bùi bùi, dai dai của thịt cá khiến người ta khó lòng cưỡng lại. Vẫn ước ngày nào làm lại món cá chưng, cho một bữa trong chiều đông lạnh…

Mắm tôm chưng. Món mắm tôm thì thường xuyên được tiếp tế, là quà quê của khách Thái Bình. Bỏ một chút mỡ vào cái xoong nhỏ, phi củ hành khô, cho chút ớt rồi đổ mắm tôm vào là có được một món rất đưa cơm. Hôm nào sang có thêm chút thịt băm cho vào thì ngon tuyệt. Món này ăn với cơm nóng, hợp với cơm rang, thêm quả cà pháo vào buổi sáng thì chỉ có cơm hết chứ cái miệng vẫn thấy thèm.

Rồi còn những giả cầy giềng mẻ, lòng lợn xào dưa, tôm đồ đỏ mặn, chả cá đồng tiền…Trong những ngày tết thì chẳng thể thiếu món thịt lợn tẩm hoa hiên rán. Trước tết năm nào mẹ cũng ướp thịt rán khô làm thức ăn dự trữ ba ngày tết. Có năm quá tay, thịt rán của mẹ đỏ rực hoa hiên đến nỗi nhuốm đỏ cái đầu ra của cả nhà. Mấy đứa nháo nhác chẳng biết bị làm sao, sau này mới biết thủ phạm là hoa hiên của mẹ

NGỌN  RAU  LÁ  CỎ

* Nguyên Nhung

Ngày còn bé, gia đình tôi sống rất đạm bạc vì cuộc phân ly Nam Bắc làm tiêu tan sự nghiệp của cha mẹ tôi. Khi vào Nam, để an ủi lũ con bằng lòng với nỗi thiếu thốn hằng ngày, mẹ tôi thường bảo: “Đói ăn rau, đau uống thuốc, thịt cá hương hoa, dưa cà căn bản”. Câu nói ấy nhập vào tâm hồn chị em tôi như nét mực tím in trên trang giấy trắng, khi lớn khôn dù cơm gà cá gỏi ngon đến đâu, vẫn thòm thèm hương vị những bữa cơm rau thời thơ bé.

Bản tính mẹ tôi hay lo xa, dành dụm tằn tiện đề phòng khi trái gió trở trời các con vẫn có cái ăn cái mặc, nên không bỏ phí món gì. Trước tiên là củi gạo,mắm muối, mỗi lần đi bán hàng về mẹ tôi lại mua thêm một ít, sau này khi lâm vào cảnh khó khăn như mẹ tôi, tôi cũng tính toán y hệt mẹ. Trên cái giàn bếp bồ hóng giăng giăng, mẹ tôi lèn đủ thứ lương thực phơi khô như đường tán, khoai khô, củ cải, xu hào để ngâm tương, cá khô, tép khô phòng khi mưa gió vẫn có thứ đưa được miếng cơm vào bụng. Ngoài mé hiên là vại tương vại cà, cũng nhờ cái vại tương nhiều chất đạm này thay cho thịt cá , khi lớn lên đọc sách vở mới biết dù cơm rau thanh đạm, nhưng mẹ tôi nuôi các con từ tấm bé it khi ốm đau bịnh tật.

Quanh khu vườn rộng vuông vức ấy không có chỗ nào thưà để phải thiếu rau ăn kể cả khi muà hè nắng khô ran không một giọt mưa. Chiều nào nơi cái giếng trong vắt  dưới lòng đá ong, chị em tôi thi nhau kéo nước tưới rau, trẻ con cũng vất vả như người lớn. Nhờ vậy trời oi ả thì đã có tô canh hoa lý ở sân trước làm mát mẻ. Đang đi ở ngoài nắng chang chang, bước vào sân trước có giàn hoa thiên lý tự nhiên thấy cái nóng dịu hẳn đi.Giàn thiên lý lá xanh biêng biếc che kín khoảng sân đất, được tưới tắm đầy đủ nên cho hoa quanh năm  để mẹ tôi nấu canh hoa lý với tôm khô.

Hoa thiên lý  màu ưng ửng vàng có mùi thơm dìu dịu, không nồng nàn như các loại hoa khác, hoa ra nụ từng chùm từ thân dây, lá thiên lý thuộc loại lá đơn, chi chít như lá hoa bông giấy. Hoa có hình dáng đơn sơ xoè ra năm cánh  như ngôi sao muà Sinh nhật, nhưng có duyên lạ lùng, nhìn nó người ta hình dung ra cái đẹp của một cô thôn nữ đoan trang, hiền lành, quanh năm ngày tháng không  cần đến phấn son tô điểm.

Những buổi chiều ở nhà quê thật êm ả, chỉ có bụi chuối bên hè xào xạc.Dưới giàn hoa thiên lý là một mảnh sân đất pha cát, nên khi trời mưa, mảnh sân như một tờ giấy thấm hút hết nước, khi cơn mưa tạnh, sân lại khô ran, khi nắng lên soi  qua giàn hoa lý những cái bóng nắng nhảy muá trên nền đất rất vui mắt. Ở cái sân đất cát này là nơi chị em tôi ngồi chơi ô quan, nhảy dây với lũ trẻ con hàng xóm, chí choé cãi nhau vui đáo để. Không phải hôm nào mảnh sân cũng ồn ào, ngược lại có những ngày mẹ tôi đi bán hàng xa chưa về, tôi tha thẩn chơi một mình trước nhà chờ mẹ. Trò chơi trẻ con cuả tôi là một cái que tre nhặt được, rồi cứ thế  ngồi phệt xuống ngạch cửa và bắt đầu vẽ những cái mặt người méo mó, tuỳ theo óc tưởng tượng của một đưá trẻ con.

Đâu có gì để chơi ngoài một cái que nhọn với khoảng sân đất nhẵn thín, vẽ rồi lại xoá, xoá rồi lại vẽ, trong đầu tôi là hình ảnh một bà tiên, một cô dâu khăn áo lượt là, bà hoàng hậu, cô công chuá trong những chuyện cổ tích. Lần lượt những nhân vật thần tiên huyền diệu  nằm đầy trên mảnh sân con trước nhà, không có trò chơi ấy chắc tôi phát khóc lên được khi bóng chiều đổ xuống căn nhà  nhập nhoà bóng tối  mà chờ mãi mẹ tôi vẫn chưa về. Chị tôi lo nấu cơm chiều, đưá trẻ con lên mười ở nhà quê cũng biết lo như người lớn, cũng biết cắp rổ ra vườn hái đọt đậu xào tỏi, thêm vài con cá khô nướng là mâm cơm đã tươm tất rồi. Sau này khi rời xa chốn cũ, trong ký ức của tôi vẫn thoảng lại mùi cá khô nướng bay tản mát trong khu vườn khoai sắn xanh um của những ngày bé dại.

Mảnh vườn ấy có nhiều thứ rau để mẹ con tôi sống qua ngày với mắm muối dưa cà, bây giờ ngồi nhớ lại tôi dám cho là những món sơn hào hải vị cuộc đời  dễ tìm để ăn hơn những món rau quanh vườn của mẹ con tôi hồi ấy. Chẳng hạn mẹ tôi trồng đậu đen nhưng không phải để lấy hạt nấu chè, mà cái chính là đọt đậu đen xào tỏi bùi bùi thơm ngon không chê vào đâu được.Giàn mướp trĩu quả ăn không hết mẹ tôi còn mang ra chợ bán, nhưng đọt mướp hương xào tỏi thì dám chắc ít người được thưởng thức, vì cả giàn mướp may ra mới bẻ được một nắm tay, khi xào tóp lại chỉ còn một dĩa, chị em tranh nhau gắp quên cả phần cho mẹ.

 Bây giờ ở quê người, rau cỏ tuy không phải cao lương mỹ vị mà vẫn khó tìm, ăn để mà ăn chứ tìm ra mùi  “hương đồng cỏ nội” trong những lá rau ngoài chợ không bao giờ có, người xa quê nhấm cọng rau trong miệng tìm lại mùi hương quê  lại càng khó tìm hơn nữa.

*    *    *

Ít lâu sau, chiến tranh lại bò vào cái miền quê nghèo ấy, mọi người sợ tên bay đạn lạc nên lại lần lượt bỏ đi, gia đình tôi chuyển về miền Tây vì nơi ấy đất lành chim đậu. Ngày về miền Tây chị em tôi như lạc vào một khung cảnh khác,  con người miền Nam cũng khác, đồng ruộng bao la bát ngát, sông nước mênh mông với bao nhiêu cây cầu lớn nhỏ, những ngôi nhà lợp ngói đã xậm màu với nắng mưa. Nhiều con đường còn lổn nhổn đất và đá, khi trời mưa xình bùn bám chặt vào tà áo dài lốm đốm như hoa.

Năm ấy tôi đã bước vào ngưỡng cửa Trung Học, làm thân được ngay với  con nhỏ bạn người Cần Thơ học chung lớp. Nhà nó cũng nghèo, căn nhà của cha mẹ nó là căn nhà lợp ngói âm dương, thấp và tối, buổi chiều thường âm u mùi khói nhang. Tuy nhà cửa ẩm thấp cũ kỹ nhưng sau nhà lại có được một mảnh sân vuông rất mát mẻ, trồng một cây vú sữa tím tàn che rợp khoảng sân sau,  xung quanh sân là những chậu sành lớn bé đã sứt vành mẻ miệng với thời gian, trồng đủ loại rau thơm đủ dùng trên mâm cơm hằng ngày.

Chỉ có ba cha con bạn tôi sống ở căn nhà ấy, không thấy bóng dáng bà mẹ. Sau hỏi ra mới biết, ông già cuả bạn làm công nhân chạy xe hủ lô cho ty công chánh, lương không đủ nuôi con ăn học, má của bạn phải ở nhà quê, trông coi mảnh vườn và chăn nuôi thêm  để phụ chồng nuôi hai đứa con đi học. Cuối tuần nào ba của bạn tôi cũng về thăm nhà ở trong quê, khi trở ra ông  mang theo những thức ăn đủ cho cả tuần, kèm theo rất nhiều rau xanh rất lạ.

Đám con trong nhà thường gọi « tía »  mình là  « ông già Ba Tri », bởi vì khi không có xị rượu trên mâm cơm, ông ít nói, tính hơi cộc nên lũ nhỏ đưá nào cũng sợ. Thói quen cố hữu của gia đình bạn là khi dọn cơm, dù không cao lương mỹ vị nhưng bao giờ cũng dành riêng một chén cơm trắng với chút thức ăn, một đôi đuã vắt ngang trên miệng chén, và một chung rượu đế đặt bên cạnh. Trước khi ăn cơm, « ông già Ba Tri »  chắp tay xá xá ba cái vào khoảng không chắc để mời ông bà hay những người khuất mày khuất mặt về dùng bữa, sau đó ông mới rót rượu cho mình và nhâm nhi cái đầu cá trong tô canh chua.

Cái đặc biệt nữa trên mâm cơm nhà bạn tôi là rổ rau tươi, không bữa nào thiếu, bởi vì nó rất hạp cho món cá kho mà người miền Nam gọi là kho mẳn. Những khúc cá  trong cái  nồi lõng bõng nước, người ta có thể thả thêm mấy khúc cà tím, hay mấy khoanh bầu cũng được, nổi lềnh bềnh trên nồi cá là những lát ớt xắt khúc trông rất bắt mắt, một nhúm rau răm cũng chẳng sao. Cái rổ rau kia gồm có ít giá mập tròn trắng phếu, rồi thì cần nước, lá sầu đâu, rau dấp cá, rau đắng, lá mơ, lá lụa , rau dưà, rau tiá tô, kinh giới, rau răm, húng lủi, bông súng, cả nhà ăn rau như thỏ ăn cỏ, khi xong bữa cơm thường rổ rau cũng hết...

Tôi gọi «ông già Ba Tri » ba của bạn tôi là bác Ba. Tuy mặt mũi trông khó đăm đăm vậy nhưng bác Ba lại rộng rãi miếng ăn, hễ đến chơi gặp bữa cơm ông điệu nghệ kêu ăn bậy ba hột cho vui. Nhờ vậy tôi còn biết thêm vài món canh chua rất ngon như vỏ trái cóc nấu cá lóc hay với thịt nạc, chua  rất thanh như ở miền Bắc có món cá quả nấu quả sấu chua.Lươn vàng nấu canh chua cơm mẻ và hoa chuối, không thể thay thế vào đó quả me chua vì nó không đúng vị. Xoài rụng trong vườn bác Ba gái phơi khô để dành, trời mưa lâm thâm mà nấu  với khô đuối, thả rau ngò om và ớt trái, ăn cũng hết xảy ! Bác Ba ăn cơm rất ít, thư thả nhấp rượu, vưà nhâm nhi cái đầu cá, tay ngắt mấy cọng rau mà hôm nào cũng  làm láng cái xị rượu rồi đi ngủ. . .

Tuy đến chơi nhà bạn hà rầm, nhưng tôi vẫn cón ngán « ông già Ba Tri » nhà nó vì tính cộc cằn bất chợt như sấm chớp trong cơn mưa giông mùa hạ. Bác Ba có một tính tốt, bình thường rất nóng nảy và khi nói hay đệm theo một câu chửi thề vô tội vạ, nhưng  khi ngồi vào mâm cơm, sau vài chung rượu tuyệt đối không bao giờ bác Ba rầy rà các con, vì ông nói « trời đánh còn tránh bữa ăn » mà...

Không biết một hôm « ma đưa lối quỷ dẫn đường » chi  mà tôi lại tự nhiên buột miệng hỏi xin bác Ba thử chơi một chút rượu đế sủi tăm trong cái xị rượu của bác. Tự nhiên bác Ba cười ha hả khiến tôi giựt nảy mình, còn nhỏ bạn thì lấm lét nhìn ông già nó đang ngoác miệng ra cười :

-  Thiệt hông mậy ?

Tôi làm gan gật đầu, khiến bác Ba càng thích chí, giống hệt ông Tản Đà quê tôi bảo « rượu ngon phải có bạn hiền », nhưng tôi đâu phải bạn nhậu của bác Ba, thỉnh thoảng ở nhà mẹ tôi cho uống một ly rượu bách nhật ngọt lịm thơm  mùi thuốc Bắc. Đó là thứ rượu nếp than khi làm thành cơm rượu, mẹ tôi cho vào đấy vài thang thuốc Bắc, đổ thêm chục lít rượu trắng rồi chôn cái khạp rượu  xuống lòng đất, đúng trăm ngày mới mang lên. Rượu này được gọi là rượu bách nhật, dành cho  phụ nữ sau khi sinh nở để ăn cho ngon cơm, lấy sữa cho con bú . Công nhận mẹ tôi là người phụ nữ đảm đang, lập nghiệp ở đâu là bà nghĩ ngay đến việc phải làm gì để kiếm tiền lo cho các con, sau này người miền Nam cũng biết mua cao hổ cốt cuả mẹ tôi để trị phong thấp, mua rượu bách nhật cho phụ nữ uống sau khi sinh nở,  thứ rượu này đối với những con sâu rượu như bác Ba, chỉ là thứ chè ngọt cuả đàn bà con gái.

Cha mẹ ơi ! Lỡ đâm lao thì phải theo lao, tôi yên chí cái món rượu trắng « quốc hồn quốc lủi » cuả bác Ba ngon như rượu bách nhật cuả mẹ tôi, nên hùng dũng cầm cái chung rượu cuả bác đưa mà làm một hớp nhớ đời vì nó cay xè tới cuống họng. Thấy tôi nhăn mặt sau khi làm thử hớp rượu đế , bác Ba cười khà khà thích chí, nói huyên thuyên khác với vẻ im lìm hằng ngày, hôm ấy lũ nhỏ cũng nói cười thoải mái.

Bác Ba làm việc cực nhọc,nên khi về nhà thường cau có khó chịu với các con, kể cả mấy đưá bạn đến chơi không đúng lúc. Nhưng từ hôm tôi làm gan xin hớp rượu cuả bác thì hễ  mỗi khi gặp, tôi lại  được bác ban cho một nụ cười thân thiện. Sau này  khi lớn khôn hơn, tôi mới nghĩ ra cái chân lý ở đời, hễ người ta thích gì mà mình cũng làm như cùng một sở thích thì lấy được cảm tình cuả người ta dễ ợt, huống chi uống rượu một mình như bác Ba đang thiếu người « chén chú chén anh » mà lai rai kể chuyện đời nữa.

Năm ấy cận Tết Âm lịch,  bác Ba gái tát đià lấy cá bán Tết. Khi thuỷ triều lên,  nước từ sông đổ vào mấy cái mương xung quanh vườn, cá tôm cũng theo nhau bơi vô rồi kẹt lại,  sinh sôi nảy nở ra trong cái đìa đầy bông súng. Bác Ba kéo lũ con về phụ việc, và cũng là dịp ăn Tết sớm với bà con lối xóm mà tụi nhỏ ít khi được gặp kể từ ngày ra tỉnh học. Vì thế ngoài số tôm cá chọn lọc đem ra chợ bán lấy tiền sắm sửa ăn Tết, còn lại bao nhiêu phơi khô để dành ăn dần trong năm, bác Ba gái còn làm một nồi mắm kho thật bĩ bàng, cho chồng con ăn thoải mái, đãi luôn những nhà lối xóm đến giúp tát đià hôm đó nữa.

Hôm đó tôi cũng được đi theo bạn về quê cho biết rõ cảnh sống của người dân quê miền Nam.Từ tỉnh đón xe Lam về quê bạn cách thị xã  khoảng hai chục cây số, đó là một cái vườn không lớn lắm nằm sâu cách  quốc lộ vài công vườn, phải đi theo một con đường đất rất trơn trợt khi trời mưa, vườn này cách vườn nhà kia bằng những cái mương đào và trồng nhiều dưà nước mát rượi, khác với lối trồng tre trúc bao quanh vườn như người miền Đông Nam phần.Trong vườn trồng được mấy chục gốc dừa, lợi tức chính cuả gia đình, chen trong vườn dưà là mãng cầu, ổi, quýt, mận, bưởi nằm dọc theo những bờ mương, những ngày cuối tuần về quê, bác Ba trai cũng không được hở tay chút nào vì vẫn phải múc bùn đắp lên những gốc cây. Cây trái tuy không nhiều nhưng mỗi mùa bác Ba gái đều có trái cây đem bán ngoài chợ mua thức ăn gửi cho chồng con ở ngoài  tỉnh.

So với cái khoảnh sân sau trồng chen chúc những loại rau sống ăn kèm trong bữa cơm ở ngoài thị xã, vườn rau ở nhà quê xum xuê đầy đủ hơn nhiều. Tát đià xong, số cá tôm năm đó trúng lớn nên bữa mắm kho hôm ấy thật phủ phê, bao nhiêu cá lóc, tôm càng , lươn vàng béo ngậy. Hôm ấy là đại tiệc của nhà bạn tôi, vì ngoài một số tôm cá nướng lửa than, còn bao nhiêu trút hết vào nồi mắm, bác Ba gái luôn tay xào xả cho thơm để đổ vào nồi mắm nấu tiếp, nước mắm kho  đục lờ lờ như nước bùn mà thơm hết biết !

Ăn mắm thì phải có rau, vì vậy mà hôm ấy tôi được dịp đi khắp khu vườn đầy bóng mát cây xanh cuả nhà bạn, nhân tiện tiếp bạn chuẩn bị các món rau để ăn với nồi mắm kho. Trong bưã ăn,  Bác Ba trai khi ấy mới nhẩn nha kể về những công dụng dược thảo trong các thứ rau xanh trong vườn nhà bác cho tôi và mọi người cùng nghe, thì ra trước đây đa số ăn rau vì thói quen, cho thêm ngon miệng chứ ít ai biết được những vị thuốc trong ngọn rau lá cỏ, mà ông bà mình thường cho rằng người mình sống trên đống thuốc mà không biết.

Rổ rau sống hôm đó còn đầy đủ hơn rổ rau cuả cha con bác Ba ăn hằng ngày nữa, rồi  khi cầm từng thứ rau trên tay, bác Ba mới bắt đầu e hèm để vào chuyện :

« Ngó đây nè ! Trước tiên là rau dấp cá, thứ này hễ mọc mạnh rồi là cỏ không lên nổi với nó, tên của nó gọi là ngư tinh thảo, ai đau khổ về bịnh trĩ là biết đến công dụng cuả dấp cá. Đàn bà ăn thường da dẻ mịn màng, con nít đau ban, lên trái lấy nước uống, hay xoa lên mình cũng liền lặn, viêm ruột , kinh nguyệt hổng đều ăn thường xuyên cũng có kết quả. »

Mấy người đàn ông lối xóm cười rộ lên :

« Đàn ông ăn được không anh Ba ? »

Bác Ba trai hôm nay cũng vui hơn thường ngày, chắc vì « rượu ngon mà lại có bạn hiền », nên vui vẻ gật gù bứt một cọng tiá tô giơ lên giải thích tiếp:

«  Còn lá tiá tô hay gọi là tử tô thì công dụng lại hay hơn nữa, chữa nhức đầu, cảm sốt rất hiệu nghiệm »

Nghe bác Ba nói tới đây tôi liền xen vô :

«  Hèn chi ở nhà mỗi khi bị cảm, mẹ cháu cũng hay nấu cháo trắng rồi đập thêm cái trứng gà, thêm một nắm tiá tô với hành lá, ăn xong toát mồ hôi là khỏi bịnh. »

Bác Ba gật đầu nhìn tôi rất  cảm tình :

« Cái con Bắc Kỳ « con »này cái chi nó cũng biết, cứ “mẹ cháu, mẹ cháu” là biết liền hà, nó còn biết nhậu nữa nghe bà con. Con nhà nghèo đâu có thuốc men chi, hễ bịnh thì cạo gió, giác hơi xong rồi làm tô cháo nóng tiá tô, hành lá là hết bịnh( e hèm).Còn đây là rau má (bác lại cầm cọng rau má bỏ vô miệng nhai chóp chép), bà con mình cũng xem thường loại rau này vì nó cũng mọc tràn lan như cỏ, người Tàu gọi là Tích tuyết thảo hay Liên tiền thảo, chữa nóng sốt, lên sởi, ói ra máu, kiết lỵ, ỉa chảy, táo bón, đái rát , thống kinh, bạch đới. Nghe nói mỗi ngày chỉ cần ăn vài cọng thôi là cũng đỡ được chứng phong thấp, không cần ăn nhiều vì rau má lạnh, ăn nhiều quá bị mất hồng huyết cầu, phàm cái chi cũng  vậy, không nên lạm dụng . . .”

Có tiếng cười khúc khích trong đám đàn bà con gái, ở nhà quê hễ nghe ai nói cái gì lạ là cười. Bác Ba trai chỉ đám xả lên phơi phới một màu xanh mát mắt trồng bên vệ rào:

“Trồng cây xả ở xung quanh rào là cũng có ý rồi đó, trước là khử không cho mấy con rắn bén mảng vô vườn, sau là khi nấu mắm như bữa nay thì phải có xả mới dậy được mùi mắm. Sách thuốc người ta gọi là Chu Cam Cun, giúp tiêu hoá, ói mửa, đầy bụng. Còn cái đám rau ngót xanh rờn kia người Bắc hảo ăn hơn người Nam, họ nấu canh với giò sống , xem như một món canh ăn thường xuyên, rau này trị ban sởi, mát phổi, bí tiểu tiện, thông huyết nên đàn bà mới sanh cũng ăn được.”

Mọi người cùng ồ lên vì sự thông thái của bác Ba, ngạc nhiên không hiểu người đàn ông quê muà này có vẻ am hiểu về thuốc men mà lại không làm ông thầy thuốc Nam. Bác Ba được dịp khoe tiếp:

“ Tui đi ta bà khắp nơi, đói ăn rau, đau uống thuốc nên vì vậy mà biết chút chút để dành khi cần xài, lỡ lúc ngặt nghèo cũng qua cơn khốn khó. Cho nên hễ đến nhà ai thấy có loại rau lạ, xin về làm giống rồi lan tràn ra khắp vườn. Miền Nam hay um lươn với lá cách, rau ngổ, mấy thứ lá này kết hợp với lươn mà thành thứ thức ăn bổ âm, rất tốt. Ông Lâm ngữ Đường viết sách nói phàm cái gì ăn được tự nhiên mà bổ dưỡng cho cơ thể, tốt hơn ba cái thứ thuốc bào chế uống nhiều chỉ hại gan, nát phổi thêm”

A hà, bây giờ khi bác Ba chạy qua ông Lâm ngữ Đường thì bà con cùng ngớ ra nhìn bác như Thánh sống. Ông Lâm ngữ Đường là ai thì họ không biết, nhưng nội cái tên Trung Hoa là đủ sức cho họ thán phục rồi. Bác Ba chỉ những vồng cây lá lốt mọc xanh tốt ven bờ rào rồi nói:

“Đó, thuốc nằm khơi khơi ra đó mà ai hễ đau lưng, thấp khớp cũng đi tìm thuốc, nó cho uống ba cái thuốc hạt dưa độc thấy bà ra mà ai cũng khen là thuốc tiên, uống vô một viên bách bịnh tiêu tan, có mà tiêu tán đường ra nghĩa địa luôn đó. Lá lốt nhiếu chất vôi, chủ trị thấp khớp, đau xương, đau lưng, tiêu hoá kém, đầy hơi, đau bụng, sưng phù ăn thường là có kết quả, ví nó là thứ quy trong thuốc Bắc cũng được. Riêng còn một thứ rau mà hễ Bắc Kỳ ăn bún riêu không có nó là không được, đó là cây kinh giới....”

Mấy người đang cắm cúi ăn cùng “ồ” lên một lượt. Bác Ba hứng chí tiếp:

“Bà con mình ở trong quê không biết tới thứ rau này, nó cay cay nồng nồng mà hay thượng hạng, cảm sốt nhức đầu, cảm cúm , viêm họng muốn ói chỉ cần bứt một nắm ăn là thấy khoẻ.”

Rồi bác xoay qua đuà với tôi:

“Ê, Bắc Kỳ con, có phải “trên trời có đám mây xanh, ở giữa có cây kinh giới, xung quanh Bắc Kỳ” không nhỏ?”

Mọi người lại cười ồ lên, ai cũng ngó tôi như người hành tinh khác, nhưng sao mặt mũi cũng dễ thương y chang mấy đưá con gái Nam Kỳ.

“Rau muống xào tỏi mà ăn với rau kinh giới thì mới đúng điệu con cá gỗ. Nhưng ăn bún riêu mà lại ăn rau muống chẻ với rau kinh giới nưã thì con trai Nam Kỳ đi theo con gái Bắc ráo trọi. Không nói đến công dụng về thuốc, mà nội hương vị của các thứ rau thôi cũng thấy nó ngon rồi...”

Ai cũng trố mắt lên nhìn bác Ba một cách thán phục. Đúng lúc đó thì hai con “ky ky” nhà bác Ba dành nhau mẩu xương cá, ủng oẳng dưới gầm bàn, bác Ba trai lại cười chỉ vào cái nhúm lá mơ ở trong rổ. Mọi người lại trố mắt lên chờ đợi, mấy cái miệng đều la lên:

 “Trời! Lá thúi địt, hôi muốn chết.” Rồi họ cười ầm ĩ lên như phát hiện điều gì thú vị lắm. Bác Ba lại nheo mắt nhìn tôi:

“Ậy, thứ lá này là mấy con cẩu nhà tao chạy cong đuôi, nhưng nói đến công dụng cuả nó thì đệ nhất hạng trong các thứ rau, vì nếu biết dùng thì rất tốt cho người yếu tỳ yếu vị. Mỗi ngày chịu khó ăn chơi vài lá có thể ngừa được nhiều chứng bịnh thông thường như sình hơi, kiết lỵ, sỏi thận, bí tiểu, thấp khớp, ăn không tiêu, đi cầu ra máu, viêm bao tử, viêm ruột.”

Nghe bác Ba nói tới đây thì ai cũng vội tìm một lá giơ lên ngắm nghiá. Màu lá phơn phớt nâu tím, một mặt xanh, lông tơ mịn phủ trên thân lá mềm, ai biết được  nó là vị thuốc quý  như vậy mà lại hằng hà sa số, không cần trồng cũng mọc. Người Bắc khi đánh chén “nai đồng quê” nhất định không thể thiếu lá mơ, nhà thuyền chài ăn gỏi cá mà không có lá mơ xem như thiếu tất cả, còn như bác Ba kẹt lắm có miếng thịt ba rọi luộc, quấn với lá mơ mà chấm mắm nêm, nhậu với xị rượu không có gì ngon hơn. Riêng bác Ba gái muà hè khi rảnh rỗi, bứt hằng rổ rồi đem phơi khô, bắt đầu tháng năm khi  sắp bước vào muà mưa, trời nắng hạn con nít nổi rôm, sẩy đầy người, khó ngủ, chỉ cần sao lên rồi nấu nước uống, mình mẩy lành trơn, mát rượi.

Bưã mắm và rau cuối năm ở nhà bác Ba năm ấy chắc là bữa ăn ngon cuối cùng, vì năm sau chiến trận xảy ra ở đây dữ dội lắm, dân chúng chạy tản cư ra chợ, lộn đi lộn về nhiều phen nhưng không ai dám ở vì ban ngày thì có vẻ bình yên, nhưng ban đêm tên bay đạn lạc i' xèo, bác Ba gái đành phải bỏ vườn chạy ra tỉnh ở luôn với chồng con. Lâu lâu khi  tình hình tạm yên, bác lại mò về mảnh vườn ở trong quê của mình, để nhìn các thứ rau không còn ai chăm sóc, bò quanh bò quẩn quanh vườn tìm cách tồn tại, vườn tược rậm rịt  y như những đưá trẻ côi cút không ai ngó ngàng tới.

Tôi vẫn đến nhà bạn chơi như những năm trước, khi đó hai đưá đã lớn bộn mà còn biết yêu nữa. Bạn tôi yêu một anh bạn hàng xóm, hai nhà cách nhau có cái giậu hoa trang  mà cũng viết thư xanh, thư hồng, tôi lâu lâu làm thơ tình giùm cho nó, dĩ nhiên cái sân sau nhà bạn chỉ trồng rau, cho nên thơ cuả tôi không khỏi có hương vị rau cỏ trong đó. Một bài thơ mà đối với tôi thuở đó rất dễ thương, nhớ hoài đến bây giờ, kể lại chuyện tình cuả bạn tôi năm mười bảy tuổi, đến cũng nhanh mà đi cũng vội, như con bướm bay từ vườn hàng xóm, đậu trên những luống cải hoa vàng mùa Xuân, rồi bay đi đâu không biết.

MÌ TÔM

Chẳng nhớ lần đầu tiên được ăn mì tôm là năm nào, nhưng cảm xúc thì vẫn như mới hôm qua và cảm giác thì…nhắc tới là cứ liếm môi liếm mép.

Ngày ấy, chú tôi- giám đốc một nông trường cafe – về thăm nhà. Sau khi chia quà bánh cho các cháu xong, chú mang ra mấy gói gì đó là lạ và với vẻ mặt nghiêm túc:

-Đây là..mì tôm!

Cả nhà, từ già đến trẻ cứ tròn mắt nhìn vào tay chú. Mỗi khi chú đưa lên thì vài chục ánh mắt nhìn lên, chú đặt xuống thì cũng chừng ánh mắt nhìn xuống.

Rồi chú cười và giới thiệu cách dùng.

Xong, chú cho mỗi nhà …một gói.

Ba tôi đọc to hướng dẫn sử dụng trước khi dùng lần nữa. Sau khi nghiên cứu xong xuôi thì mới nấu nước, bỏ mì vào tô và chế nước sôi lên, đậy nặp lại và …cả nhà ngôi canh đúng 3 phút mới mở ra. Giây phút mở nắp ra mới long trọng làm sao, 6 cặp mắt cứ chằm chằm nhìn vào mọi động tác của ba. Và…trời!!! Một tô đầy ắp – vì để lâu quá nên nó nở hết cỡ rồi! Ba lấy đũa gắp chia cho chúng tôi một đứa một ít để cảm nhận thế nào là mì tôm thôi!

Chưa bao giờ tôi ăn mì tôm mà ngon đến như thế!

Ngon đến tận bây giờ!

NHỮNG NGÀY Ở BỆNH VIỆN

Lên bốn tuổi, tôi bị thiếu máu nặng và nhập viện.

Nếu như bây giờ thì việc đi lại từ Vĩnh Linh vào Đông Hà là chuyện bình thường nhưng ngày ấy là cả một vấn đề.

Trong ký ức của tôi là những ngày tháng ba cõng tôi dọc hành lang bệnh viện, đến bữa thì trèo qua bức tường cao ngất để ra ngoài nấu cơm. Xong lại cõng tôi leo tường trở vào.

Mỗi ngày, cô y tá lấy ven và tiêm cho tôi nhưng cái con bé con bốn tuổi gầy còm thì không thể tìm được ven, thế nên hết ý tá, y sĩ và có khi cả bác sĩ nữa thi nhau nắm chặt cánh tay tôi, đâm tới đâm lui cho nát nhừ cả da mà chẳng thể tìm được. Tôi nằm trên giường có lò xo nhún lên nhún xuống – nếu bình thường chắc thích lắm đây, nhưng khi đó tôi cứ gào thét khản cả cổ, ba đứng nhìn tôi rơm rớm nước mắt. Có hôm mẹ vào đứng ngoài cửa kính nhìn tôi nước mắt lưng tròng.

Tôi nhớ phòng bệnh khá rộng, có hai bồn nước ở góc phòng. Có lần, một phụ nữ dân tộc Vân Kiều đang bồng con tới rửa, thế nào lại tụt váy ra giữa phòng, mọi người cười quá chừng. Cùng ở với tôi có hai bố con cậu bé dân tộc thiểu số nữa, chắc trạc tuổi tôi bị bệnh nặng, mấy hôm sau thì cậu ra đi để lại người cha với nỗi đau quặn thắt. Nhưng tôi nghe lõm bõm tiếng bà mẹ Vân Kiều ở giường bên nói về con mình: Sao nó không chết để mình được về (như ông kia).

Chiều chiều, ba lại dẫn tôi đi loanh quanh trong khuôn viên bệnh viện. Tôi sợ nhất khi đi qua khoa ngoại, toàn người bị thương do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh – nhìn như tai nạn giao thông ngày nay vậy. Người thì đi làm đồng bị, nhiều nhất là đám trẻ chăn bò cứ thầy mìn và bom bi là đem gõ chơi. Hình như 10 người bệnh thì 8- 9 ca là do bom đạn rồi. Đây có lẽ là điều ám ảnh tồi nhiều nhất cho đến khi lớn lên. Cứ mỗi buổi chiều, làng quê yên tĩnh nghe vang lên tiếng nổ chát chúa là y như rằng có người bị nạn. Đến bây giờ, sau 30 năm, nhiều lúc nhắm mắt lại thì những hình ảnh ấy vẫn hiện rõ trong tôi mồn một.

Ngày quan trọng nhất đến với tôi. Bệnh viện làm thủ tục truyền màu, tôi nhớ không nhầm thì 150 CC, nhưng từ năm 1980 thì như vậy là quý lắm rồi (Vì chưa có phong trào hiến máu như bây giờ). Vậy là từ đấy, ngoài dòng máu của ba mẹ, tôi còn mang trong mình dòng máu của một người nào đó mà tôi không bao giờ biết để nói lời cảm ơn. Đó cũng là lý do vì sao cho đến lúc này tôi luôn sống hết mình như thế!

Tôi muốn nói lời cảm ơn chân tình đến người đã cứu sống tôi ngày ấy! Tôi biết rằng, suốt cuộc đời này dẫu tôi có làm gì đi nữa thì cũng không thể trả hết ân nghĩa này được!

MÙA BÃO

Cứ mỗi mùa bão về, người dân quê tôi lại sống trong nơm nớp lo sợ.

Buổi chiều, những ráng vàng rực lên một góc trời và nhuộm cả không gian, ấy là lúc bão sắp đến. Những người đàn ông lo chặt cây ràng rịt lại nóc nhà, buộc lại cánh cửa cho chắc. Các mẹ, các chị lo gạo cơm, cá khô, đậu phụng... và củi. Bọn nhóc con thì chạy ra chạy vào như sắp đến Tết. Thỉnh thoảng, những người lớn nhìn lên bầu trời và thở dài.

Đêm. Vâng! Bão thường vào từ đêm. Tiếng sóng biển ngoài kia vang vọng. Tiếng gió rít trên ngọn cây nghe rợn cả người. Mọi người ngồi quanh bếp lửa, mở đài tiếng nói Việt Nam nghe theo dõi đường đi của bão. Càng về khuya, gió lớn dần, những mái tranh bị gió giật lên bần bật. Những cột lim đã bị gió nhấc lên khỏi mặt đất rồi hạ xuống như giã gạo. Ba nhìn mẹ lo lắng. Hai người thì thầm gì đó rồi ba mở cửa chiếc sập đựng lúa thả bốn chị em chúng tôi vào trong. KHi thuyết phục mẹ không được thì ba mới vào kẻo chúng tôi đang sợ và khóc ầm lên. Ba bảo:

-Mẹ ở dưới bếp không sao đâu. Bếp mới làm nên chắc chắn mà!

Mẹ bảo ba như thế và thỉnh thoảng ghé vào miệng sập trấn an chúng tôi.

Ngoài trời, tiếng gió gào thét, tiếng cây gãy, cả tiếng chú chim kêu yếu ớt, tiếng đàn vịt nhà bên bị gió lùa vứt sang sân nhà tôi kêu ầm ỉ. Cửa nhà bị gió giật tung, những mảnh tranh bị gió lôi ra bay lả tả. Những bức vách bằng đất rệu rã trước cơn bão. Từng cơn gió xoáy nhấc bỗng căn nhà lên khỏi mặt đất cả mét rồi lại hạ xuống. Chúng tôi ướt lướt thướt như chuột lột, lâu lâu lại đưa tay vuốt nước mưa trên mặt cho đỡ ngột. Mùi lúa lẫn nước mưa chẳng dễ chịu chút nào, cô em út mới ba tuổi cứ đòi ra với mẹ.

Gió lặng dần, mây tan, mưa tạnh. Ba gọi mẹ mở cửa đón chúng tôi ra. May quá, nhà chỉ hơi nghiêng thôi chứ không bị sập như hàng xóm.

Cả làng chạy qua lại hỏi thăm nhau, xem bao nhiêu nhà bị sập, bao nhà bị tốc mái. Trong khi người lớn đang ngao ngán với cảnh tượng hoang tàn thì chúng tôi lại sung sướng nhặt quả trứng gà rụng để ăn. Đoạn rủ nhau đi lội nước lụt nữa chứ.

Giờ đây xa quê, trên cao nguyên chẳng bao giờ còn cảm giác lo sợ bão lũ nữa; nhưng mỗi khi mùa bão về lòng lại lo lắng, khắc khoải không yên. Đêm nằm nghe tiếng mưa rơi, nghe tin báo bão lại đau đáu nghĩ về quê nhà. Nơi ấy vẫn còn mẹ cha và những người thân yêu của ta đang ngày đêm chống chọi với thiên nhiên hung dữ.

Thương lắm miền Trung mỗi mùa bão về!

Phở" không người lái"

Sáng chủ nhật, như thường lệ, tôi dẫn đứa con gái 9 tuổi ra quán phở Xưa, hai mẹ con gọi mỗi người một bát, con gái ăn phở bò, mẹ ăn phở gà.

Hôm đó cũng có một người khách ăn mặc rất lịch sự đến ngồi vào bàn bên cạnh hai mẹ con. Trông anh ta còn khá trẻ, nhưng phong cách có một vẻ gì đó già dặn, từng trải cuộc đời. Anh gọi hai bát, một bát có thịt bò và một bát không thịt. Tôi thầm nghĩ chắc anh gọi cho cô người yêu sắp đến, và có thể cô ta sợ béo nên không ăn thịt. Nhưng gọi rồi mà vẫn không thấy có ai đến cả. Anh vẫn ngồi như đang suy nghĩ điều gì đó, vẻ mặt rất buồn, tôi lại nghĩ anh buồn vì lỡ hẹn với người yêu chăng?

Và đánh bạo, tôi hỏi:

- Em chờ bạn à? Sao không ăn đi, nguội hết phở rồi.

Dạ không, em không chờ ai cả.

Thế sao không ăn? Thấy tôi cứ hỏi người thanh niên đó nói. Nếu chị không bận, chị đi uống cà phê với em được không, em sẽ có thời gian để nói chị hiểu. Tôi thầm nghĩ, có lẽ anh thanh niên này có vấn đề gì rắc rồi, cần sự giúp đỡ của mình chăng?

Và tôi đã nhận lời.

Tại quán cà phê, người thanh niên đó đã kể lại về tuổi thơ khó nhọc của mình.

Khi mẹ sinh, tôi rất bé, vì vậy bố mẹ đặt cho cái tên là Tý.

Tý kể lại hồi học lớp ba, từ nhà Tý đến trường không xa, hàng ngày bố tý dắt Tý đi học, hai bố con phải đi qua cái chợ nhỏ đầu làng, chợ chỉ có mấy hàng rau, hàng thịt, hàng cá, và hai quán phở...

Mỗi lần bố dắt tay em qua hàng phở, mùi nước phở thơm phức cứ làm cho bước chân em như chậm lại, em ra công mà hít hà cái mùi thơm thơm, ngầy ngậy quyến rũ đó, bụng em như có hàng ngàn con kiến cào cấu, cắn xé, rồi nó như có nước sôi ùng ục bên trong. Bố kéo mạnh tay em lôi đi trong sự nuối tiếc: "Tý đi nhanh lên kẻo muộn học!" .

Nhà Tý nghèo lắm. Mẹ mất vì tai nạn giao thông khi em mới tròn 2 tuổi, bố không công ăn việc làm, ai thuê gì làm nấy, hôm có việc, hôm không, cuộc sống bấp bênh, bữa đói bữa no. Bố lo cho đi học là may lắm rồi, tiền đâu mà ăn quà như các bạn.

Một hôm đi học về Tý kể:

- Bố ơi, ở lớp con, có bạn Hà My sáng nào mẹ bạn ấy cũng dắt đi ăn phở bố ạ. Nhưng bạn ấy nói là không thích, bạn ấy chỉ thích ăn linh tinh thôi. Mẹ bạn ấy bảo ăn linh tinh như cóc xanh, ô mai dễ đau bụng lắm.

- À mà mai con có muốn ăn phở không, bố sẽ đãi con phở bò nhé.

- Vâng ạ, vâng con thích lắm.

Sáng hôm sau, trên đường đến trường, hai bố con cu Tý rẽ vào quán gọi hai bát phở, nhưng một bát không có thịt. Cu Tý thấy cô bán hàng bê khay có hai bát phở ra. Cô nhẹ nhàng đặt xuống bàn. Bố đẩy bát có thịt bò sang chỗ cu Tý, còn bát không có thịt bố ăn.

Cu Tý ngạc nhiên hỏi:

- "Sao bát của bố không có thịt hả bố"

- À, phở này gọi là "phở không người lái đó con"

- Bố ơi! Tại sao phở không có thịt lại là “phở không người lái” hả bố?

- Ừ, rồi khi lớn lên con sẽ hiểu, con trai ạ.

Tý vẫn thắc mắc, tại sao lại thế ạ?

Bố trả lời:

- Phở không người lái là chỉ dành cho những người như bố thôi con ạ.

Tý nghĩ có lẽ bố nói đúng, vì mấy người lớn bàn bên vẫn ăn phở có người lái đó thôi.

Và sau cái lần đi ăn phở ấy đã khắc sâu vào tâm trí cu Tý là: Phở không người lái chỉ dành cho những người như bố.

Lần sau đi ăn, Tý gọi hai bát, một bát có thịt và một bát không thịt cho bố.

Và cứ như vậy đến khi Tý lớn hơn một chút, hiểu ra thì bố không còn bên Tý nữa, Tý cảm thấy ân hận vì cái sự ngây thơ của mình.

Bây giờ khi Tý đã trở thành một kỹ sư có cái tên mới là Tâm, có xe, có nhà, có tiền, Tâm có khả năng mua cho bố cả trăm, cả nghìn bát phở có thịt thì bố đã ra đi theo mẹ rồi. Để nhớ ký ức xưa, thỉnh thoảng Tâm quay lại quán phở ngày xưa, lục tìm lại cho mình hình ảnh bố đẩy bát có thịt sang chỗ mình, còn bát không thịt bố ăn mà thấy lòng thổn thức...

Bệnh để được ăn phở

By ngoclan · February 8, 2012 · 145 Comments

Truyện và Chuyện · Tagged: truyện nè, tưng tửng

Hôm rồi nhóm biên tập rủ nhau đi ăn phở, lần này ăn phở “đàng hoàng”, chứ không phải phở “Rón Rén” nữa

Tô được bưng ra trước, tô được bưng ra sau. Trong lúc ngồi chờ tô phở của mình, nhìn tôi ngắt rau quế, ngò gai, rồi cho giá, tương đen tương đỏ vào tô, anh Đỗ Dzũng bỗng nhớ chuyện đời xưa, “Trời, nhớ hồi đó mỗi lần bệnh thì mới được ăn phở! Mà đứa bệnh được ăn thì cả đám anh em đứng bu xung quanh nhìn…”

Cứ vậy mỗi người một câu, góp vào cái chuyện ngày xưa của những đứa con nhà nghèo như anh Đỗ Dzũng, như Khôi Nguyên, như tui; còn những đứa nhà giàu như Hạo Nhiên thì ngồi đó nghe cho hiểu cái sự đời của “tầng lớp lao động cần lao” là như thế nào.

Có người nhớ mỗi lần bệnh thì được ăn bánh mì chấm sữa Ông Thọ. Sữa đặc Ông Thọ rót tí tẹo ra ly, rồi châm nước sôi vô, chấm bánh mì vào cho mềm để ăn rồi uống cái sữa nóng đó vô cho ấm bụng.

Tôi thì nhớ hồi đó mỗi lần bệnh thì được má cho tiền, dù tiền chỉ đủ ăn sáng, nhưng với con nhà nghèo, cha mẹ chỉ biết đó như là một cách để an ủi, vỗ về, và cũng cầu mong sao cho đứa nhỏ đang nóng sốt hầm hập đó mau chóng lành bệnh.

Rồi cũng chỉ có lúc  bệnh mới được dỗ dành cho ăn, muốn ăn cái gì cũng cho, nhưng ngặt nỗi người thì sốt, miệng thì đắng, có muốn ăn cái gì đâu, thế nên mắt cứ lim dim, lờ đờ và đầu cứ lắc lắc…

Mà qua cơn bệnh rồi thì đứa nào cũng như đứa nào. Khác chăng là đứa vừa lành bệnh có được tí tiền “kiếm được” khi nằm đắp khăn nóng trên đầu, thì mua cục kẹo, mua cái bánh gì đó bên quán ông Chín ăn cho thỏa thuê cái cảm giác được mua và ăn quà vặt giống con nhà bác Hai hàng xóm, giống cháu ông Hai Xe Hàng… Khi hết tiền, lúc cơn thèm ăn ào đến, lại ao ước, “phải chi mình bệnh…”

Tôi không có “diễm phúc” được ăn phở mỗi lần bệnh như nhà anh Đỗ Dzũng. Hình như cả tuổi thơ tôi không có hình ảnh của tô phở trên bàn ăn trong nhà (nói “bàn ăn” cho ra dáng văn chương, chứ hồi nhỏ, tôi nhớ nguyên đám anh em tôi mỗi đứa bưng một tô cơm, hoặc tụm lại ngồi chồm hổm dưới bếp, hoặc mỗi đứa kiếm góc nào đó mà ăn cho hết phần mình). Tôi cũng không biết vì sao. Tôi biết món “hủ tiếu” trước khi biết phở.

Lần đầu tiên tôi biết đến cái món gọi là “phở” là khi tôi học lớp 6. Tôi chơi thân với một nhỏ bạn tên MK. Má nó mất sớm, hai chị em nó ở với ông bà ngoại và hai dì, cũng là hai cô giáo dạy trong trường. Còn ba MK thì sống một mình ở khu chợ thuốc lá Học Lạc, ngay nhà thờ Cha Tam. Hằng ngày ba MK cứ ghé thăm chị em nó. Cuối tuần thì chị em nó về nhà ba chơi.

Tôi nhớ lần đó là một ngày Chủ Nhật, ba MK chở nó xuống nhà tôi, xin ba má tôi cho đi ăn với họ. Đó là lần tôi biết phở. Nhưng thực sự mùi vị nó như thế nào, giờ này tôi quên rồi, chỉ nhớ được là tôi biết trên đời này có một món gọi là Phở, trong đó có một đống thứ kêu là nạm, gàu, gân, sách,…

Lần thứ hai tôi ăn phở cũng là năm học lớp 6. Lần này là thầy dạy tiếng Anh dẫn tôi đi. Thầy có 5 người con trai, nên thầy thương tôi như con gái thầy. Thầy cũng chạy xe xuống nhà xin ba má chở tôi đi ăn (giờ ngẫm nghĩ lại tôi đã hiểu vì sao lúc nào tôi cũng tròn quây!). Chỗ ăn phở cũng là chỗ ba MK đã chở tôi đi. Lần này, tôi nhớ thêm được rằng có món gọi là “Phở tái.” Và thầy dặn, “Ăn phở rồi nên uống trà nóng cho tan mỡ!” Dù vậy, thầy vẫn kêu cho tôi chai nước ngọt.

Cho đến năm học lớp 8, tôi mới thật sự nhớ được mùi phở nó thơm ra làm sao và trên cõi ta bà này có thêm cái người ta gọi là “bò viên.”

Đó là lần tôi đi ăn với TT, một đứa bạn gái thân suốt thời cấp 2 cấp 3.

Không nhớ là đi học cái gì về, mà hai đứa đạp xe ngang chợ Phú Lâm, lúc đó còn rất cũ kỹ, nằm đối diện với trường Phú Lâm. Tôi nhớ cái hàng bán đồ ăn ngó ngang cái cổng trường, mà bà ngồi bìa là bà bán phở. TT rủ vô ăn hàng. Tôi có đủ tiền cho ăn 1 ly chè ba màu. TT thì chỉ muốn ăn phở. Thế là ngồi ở hàng phở, và gọi chè sang, đồ của đứa nào đứa nấy ăn.

Không biết là do tôi đói hay là mùi phở đó đặc biệt thơm mà nó khiến tôi nhớ. Tôi nhớ TT kêu, “Cho thêm chén bò viên.” Người ta mang ra cái tô nhỏ thì đúng hơn, bên trên đầy hành, ngò rí, ngò gai xắt thật là nhỏ, bên dưới là nước súp và những lát bò viên. Người ta mang kèm theo cái chén nhỏ xíu có trong đó tương đen, tương đỏ và sa tế. TT trộn đều cái chén tí teo đó rồi rủ, “Ăn chung đi Lan!”

Tôi chẳng bao giờ màu mè khách sáo trong chuyện ăn. Tôi bắt chước TT dùng cái nĩa xiên lát bò viên, rồi chấm vào chén tương. Cho vào miệng, xong, lấy cái muỗng nhỏ, múc nước súp nóng hôi hổi và đầy hành ngò đó, húp một cái.

Trời ạ! Bây giờ mà tôi vẫn không quên được cái mùi thơm ngát của ngò, cái nóng rát đầu lưỡi của nước, cái cay cay của sa tế, cái mằn mặn ngọt ngọt của tương, và cái dai dai miếng bò viên ngày đó. Nó ngon mê tơi. Giá mà bây giờ có một tô…

Kỷ niệm về phở thời thơ ấu, tôi chỉ nhớ đúng 3 lần như vậy.

Sau này đi học đại học, có tiền học bổng, tôi cũng cùng bạn bè vào ăn phở bên trong căn tin trường Cao Đẳng Sư Phạm, đối diện với trường tôi học. Đó có lẽ là nơi bán phở dở nhất trên thế gian này. Nhưng tôi ăn vì nó rẻ, và vì có bạn bè mình. Nên ăn phở ở đó vui.

Ra trường đi làm, phở đã chẳng còn là một cái gì xa lạ. Tôi ăn phở từ trong xóm ra đến thành phố, từ Xa Cảng cho đến Phú Lâm B, từ quận 5 cho đến Bình Thạnh, rồi vòng về quận 1… Ăn từ phở tái miếng cho tới tái  bằm, từ chín nạm gầu cho đến bò viên, rồi có khi chuyển sang phở gà.

Sang đến Mỹ, tôi vẫn ăn phở nhiều hơn bất cứ món gì khác khi đi ăn ngoài.

Và, những ngày rồi, khi cơn bệnh tràn tới, tôi vẫn thòm thèm một tô phở.

Có điều, cho đến giờ, ngon nhất với tôi  vẫn không phải là tô phở, mà là tô bò viên ngày đó, món tôi hiếm khi ăn lại bây giờ…

Canh cua

Bài : Kenmai

Em nấu món canh cua dân dã, ngọt thơm như xưa mẹ vẫn làm. Món đồng quê đưa anh về quá khứ, ngày xưa mẹ tự bắt cua, giả cua, lọc lấy nước, mẹ nấu với rau mồng tơi trong vườn. Khi thì ăn canh với cà pháo muối xổi, khi cà bát và có hôm chả có cà... Món canh đơn sơ mà con nhớ mãi, rưng rưng với những ký ức ngày xưa. Cuộc sống thật nghèo, nhà mình cơm toàn độn khoai khô. Mẹ một buổi đi chợ xa, một buổi lại gánh bánh đa và mắm muối đi sang Quảng Hải để đổi lấy khoai lang. Nhà mình đầy một góc nhà toàn là khoai lang. Bốn giờ sáng mẹ và các anh chị trong nhà đã trở dậy bằm khoai để kịp phơi vào lúc nắng lên. Nào là khoai lang bằm, nào là khoai lia (khoai thái lát rồi thái nhỏ ra như ngón tay để phơi khô).

Mùa hè nhà mình có khi chỉ ăn khoai lang luộc cùng canh cà chua nam nấu với cá cơm. Đơn sơ dân dã mà sao ngon miệng thế, có lẽ ngày đó chúng con đang tuổi ăn tuổi lớn, cứ no bụng là được. Thời buổi bây giờ ở thành phố khoai lang đắt như xôi và các món hàng rong khác!

Ngày ấy nhớ lại khi con sang nhà hàng xóm, thấy thằng con nhà hàng xóm ăn cơm với đường mà rệu nước miếng. Lại nhớ mẹ mua một bánh đường bát về để nấu chè, mẹ để dành trong tủ, ngày nào mấy anh em cũng lén mẹ gặm một miếnggày xưa ơi sao rưng rưng thế!? Nhà mình hồi đó lợp lá cọ, xung quang nhà che bằng phên nứa... Chủ nhật nào ba và anh cả cũng lên rừng lấy củi, củi chất đầy một góc nhà. Củi dự trữ để đun dần và phòng khi bão lụt. Hồi đó quê mình gặp rất nhiều thiên tai bão lụt, năm nào cũng bị. Năm nào cũng thấy cảnh nhà xiêu cây đổ, bắt heo đưa vào nhà chạy lụt eng éc.

Nhà mình sau này chuyển sang lợp giấy dầu, nhà thì thấp và bé, mùa hè giấy dầu thu nhiệt, nóng không thể tưởng tượng được. Thế là cả nhà đành phải ra đồng cắt rạ để lợp lên trên giấy dầu cho đỡ nóng.

Mẹ vẫn tần tảo chắt chiu nuôi các con ăn học, vừa dành dụm mua gỗ lạt để làm nhà... Khi thì mua cái cột, lúc mua cái đòn tay, dần dần năm này qua tháng khác, cuối cùng cũng đủ để cất một ngôi nhà to rộng hơn, và ngôi nhà gỗ ba gian đã được cất lên bằng sự tần tảo chắt chịu của mẹ. Ngôi nhà đến bây giờ vẫn còn đó, nào cột sến, cột trường, nào xuyên đào, xuyên dổi, đòn tay trính... Ngày xưa đối với con ngôi nhà thật lớn thật cao... Nhà mình vẫn ăn cơm độn khoai nhưng thưa dần, mẹ vẫn tần tảo, ba vẫn đi làm cán bộ nhà nước, vẫn liêm chính, cần kiệm như xưa và vẫn nghiêm khắc với con cái.

Thao thiết thế ngày xưa ơi! Nồi canh cùng kỷ niệm

Mắm cá cơm bỏ măng vòi

Thứ Ba, 07/02/2012 12:00

Tay cầm cái rựa lụt, Anh chém cụt bụi măng vòi Để coi phụ mẫu em đòi bao nhiêu?

Qua tiết tháng năm, khi mụt măng vút thẳng lên trời để thành tre thì từ nách mo nẩy ra những vòi măng non mởn. Vòi măng tre đằng ngà khi dài chừng hai gang tay là có thể bẻ đem về bỏ mắm

Bóc vỏ nang, lấy phần non, dùng dao thái vòi măng thành từng mẩu. Mẩu nhỏ giữ nguyên tròn, mẩu lớn chẻ làm đôi, đem luộc trong nước lã có pha ít muối để khử mùi măng nồng.

Những mẩu măng vòi đã luộc được vớt ra rổ thưa cho ráo nước sau đó đưa vào hủ sành. Mắm cá cơm đã ngấu cho vào xăm xắp, rồi nút chặt miệng hủ bằng lá chuối khô. Đem hủ mắm đặt vào bếp tro nóng, chừng 3 ngày là ăn được.

Mắm cá cơm bỏ măng vòi (dân gian quen gọi là mắm vòi măng) vừa có vị mặn đậm của mắm cá, vừa có vị ngọt đắng của măng vòi, có thể dùng ăn với cơm hoặc kho với ít thịt ba rọi thành món mắm vòi măng kho.

Ngày trước, lệ làng cấm và phạt nặng những ai bẻ măng ở lũy tre phòng hộ của làng, nhưng măng vòi thì lũ trẻ tha hồ mà bẻ đem về cho mẹ, cho chị làm mắm.

Tuy chỉ là món mắm đạm bạc của nhà nghèo, nhưng những ai đã qua một thời thơ ấu với những bữa ăn cả nhà quây quần bên nồi cơm độn khoai lang khô, tô canh hến, đĩa mắm cá nục bỏ măng vòi thì bao nhiêu ký ức sâu đậm về gia đình, làng quê sẽ theo chân họ đi khắp nẻo đường đời.

Không biết tự bao giờ món mắm cá cơm bỏ măng vòi đã đi vào câu hát dân gian:

Bậu về bỏ mắm măng vòi

Nấu nồi canh hến đãi người phương xa.

Sống xa nơi kinh thành đô hội, hạng người cao sang quyền quý chưa phải là nhiều, lại đa phần xuất thân từ tầng lớp bình dân, nên trong chế biến đồ ăn thức uống, người Quảng Ngãi không quá tiểu vẻ, cầu kỳ mà chỉ cốt làm cho chúng thêm đậm đà, giàu hương vị và bắt mắt qua cách thức phối chế gia giảm nguyên liệu, gia vị, bột màu một cách khéo léo, hợp lý

Bữa cơm cá với măng già

(GĐVN)Tôi sinh ra ở một huyện nghèo của tỉnh Thanh Hóa. Bố đi bộ đội rồi về nghỉ mất sức (bệnh binh 61%) vào năm 1991 với hai bàn tay trắng. Trong làng tôi khi đó rộ lên phong trào trẻ con bỏ học vì khó khăn. Dù cho nhà tôi cũng thuộc diện nghèo nhất nhì xã nhưng bố vẫn cương quyết bắt ba chị tôi phải đến trường để học con chữ.

Ngoài mấy sào ruộng ra, bố mẹ tôi bắt tay vào nấu rượu gạo và chăn nuôi. Ngày ấy, bố mẹ chạy cả làng để vay tiền mua cái nồi đồng về nấu rượu nhưng chẳng được vì nhà nào cũng nghèo như nhau. Cuối cùng ông Ngoại phải đi đến các xã khác để mượn của những người bạn cũ. Rồi bố và ông Ngoại cả một ngày đường qua sông mới đến được huyện bên để mua nồi đồng về. Có thể nói đó là tài sản lớn nhất của nhà tôi khi ấy mà như bố vẫn thường đùa: “Vàng chìm vàng nổi của nhà mình đấy con ạ”.

Nhiều buổi trưa nắng như đổ lửa, bố còn đạp xe đi lên các huyện miền núi mua măng về bán. Những cọng măng non đem lên chợ, còn những cọng già loại ra để bỏ đi nhưng mẹ lại nhặt nhạnh để nấu canh chua. Em út nhà tôi có bữa nhai cọng măng già bị nghẹn lại nên nhăn mặt: “Khô như rơm ấy bố à. Con thích ăn măng non, không thích ăn măng già vì cứ bựa ở cổ họng. Con đã cố gắng lấy đà, thở thật mạnh để nuốt mà vẫn không trôi được”. Bố chỉ cười hiền: “Thôi để khi mô trả hết nợ, bố sẽ thịt gà cho các con ăn”. Thế là thi thoảng em trai tôi lại hỏi bố mẹ là đã hết nợ chưa khiến bố rơm rớm nước mắt

Cứ có thời gian rảnh là bố lại đạp xe xuống các huyện miền biển để mua cá về làm mắm để nuôi lợn. Mẹ chọn ra những con cá còn lành lặn nấu lên thay thức ăn. Cái đáng nói là cá này được dân miền biển ướp muối và để từ lâu nên mặn chát và có mùi “thum thủm”. Nhưng những bữa ăn với cá thối thế cứ triền miên từ ngày này sang ngày khác. Sẽ không có gì đáng nhớ nếu như buổi tối hôm ấy em tôi không nhăn nhó: “Cái mùi ni thối quá bố ơi, con toàn phải nhắm mắt với bịt mũi để ăn mà vẫn thấy thối. Răng bữa mô nhà mình cũng phải ăn cơm với cá của lợn? Con ứ ăn nữa mô”. Bữa cơm chùng xuống, tôi nghe thấy tiếng nấc của bố, cái thở dài của mẹ.

Ngước mắt lên, tôi trộm nhìn thấy khóe mắt bố có những giọt nước. Mẹ lẳng lặng không nói gì vội quay mặt đi. Khi ấy tôi lớn hơn nên gõ vào đầu em, nói: “Ngon lắm, mi không ăn thì tau ăn, đưa đây”.

Để cải thiện bữa ăn, hôm sau bố mua về một ít mỡ lợn rồi bảo mẹ rán lên lấy nước bỏ vào bát nước mắm để chúng tôi ăn. Em tôi đắc chí: “Ngon hơn cá nhiều. Giá mà bữa mô cũng được ăn cơm với mỡ lợn”. Bố ngồi nhìn chị em tôi ăn ngon lành lại vội cụp mắt xuống, và vội bát cơm rồi đứng dậy, ra bàn hút thuốc lào sòng sọc.

Khó khăn là thế nhưng bố vẫn động viên chúng tôi học hành thì mới ngóc đầu lên được. Cái nắng miền Trung gay gắt, những cơn bão đến thất thường nên mất mùa liên miên, thậm chí có năm mất trắng. Chuyện ăn cơm độn sắn, độn khoai lang đã là chuyện thường.

Tôi vẫn nhớ, khi mà trong nhà hết gạo, mẹ chạy sang nhà cô Hiền đi vay một bơ về nấu. Bố kêu mệt không ăn nhưng tôi biết là vì bố muốn nhường cơm cho chúng tôi. Mẹ ăn nửa bát rồi đứng dậy. Thi thoảng bố vẫn hỏi đùa: “Bố mẹ đã để mấy đứa đói bữa mô chưa?”. Em trai tôi lại nhanh nhảu nhất nhà: “Chưa, bữa mô con cũng ăn căng bụng. Cơm độn cái chi cũng được, miễn là không phải ăn cơm với cá”…

 Đã gần 20 năm trôi qua, trong tiềm thức của tôi, những bữa cơm đạm bạc chỉ với thìa mỡ lợn lại là bữa tiệc của cả nhà vẫn còn vẹn nguyên. Cả những bữa ăn cơm với cá vừa mặn vừa có mùi thối vì để lâu như một kỷ niệm về thời khốn khó. Ai cũng có một miền kí ức để nhớ, để thương. Để rồi giờ đây, ba chị em tôi đều đã tốt nghiệp đại học và đi làm. Chúng tôi hàm ơn công lao của bố mẹ. Những lúc cùng cực nhất mà bố mẹ vẫn cho chúng tôi được cắp sách đến trường. Với những vất vả và hy sinh thầm lặng của bố mẹ thuở nào, nay tôi chợt nao lòng khi nhớ đến những bữa cơm ăn với cá nuôi lợn và cọng măng già đến mức “lấy đà thở thật mạnh để nuốt” như em trai nói.

Thi thoảng chị em tôi gửi biếu một ít tiền, bố mẹ lại cảm ơn. Những lời cảm ơn ấy khiến tôi thấy rưng rưng. Nghĩ lại những lúc tiền chẳng có một xu, gạo chẳng còn một bát, cái lúc khốn khó nhất mà bố mẹ đã từng phải trải qua thì những đồng tiền ít ỏi của chúng tôi ngày hôm nay để đền đáp có đáng là bao? Cảm ơn bố mẹ, cảm ơn những bữa cơm đạm bạc mà cả đời này chúng con sẽ chẳng thể nào quên. Bởi những con cá “thum thủm” ấy đã cho chúng con khôn lớn thành người. 

Ăn trứng luộc lại nhớ mẹ

Cái ngày anh em con còn nhỏ và nhà mình nghèo rất nghèo ấy. mẹ thường nấu cơm và hấp một quả trứng. Quả trứng ấy mẹ dằm nát với nước mắm và chan cơm ăn thay thức ăn mặn. Bố mẹ thường chỉ ăn nước mắm không thôi còn trứng thì giành cho chúng con …

Đã lâu rồi con không viết thư cho mẹ. Từ ngày con biết đến máy tính, đến email và chat online. Và cũng từ ngày bố mẹ chuyển vào Tây nguyên xa xôi.

Đã lâu rồi, con không có được cảm giác thích thú khi viết một lèo những lá thư dài ngoằng đầy kín chữ. Con kể những chuyện linh tinh trên trời dưới biển với mẹ, những chuyện ngoài lề cuộc sống và những suy nghĩ của con, những hành động và cách ứng xử ngây ngô của con trong cuộc sống hàng ngày.

Như thế có thể là vì con đã trưởng thành và lớn khôn hơn trước. Con tự chủ được hành vi của mình và con đã phân biệt được thế nào đúng, thế nào sai, thế nào nên và thế nào không nên.

Như thế cũng có thể là vì cuộc sống bận rộn nơi thành phố cuốn con đi. Công việc và học hành nuốt chửng hết thời gian của con. Rồi khi con lập gia đình, đến chút thời gian hiếm hoi để con đi lang thang hóng gió trên đường cũng không còn nữa.

Như thế cũng có thể là vì con khô cằn hơn, con ít biết chia sẻ hơn.

Mẹ kính yêu,

Ngày hôm qua bố mẹ con (tức bố mẹ chồng con) mang qua cho hai vợ chồng con hơn ba chục trứng gà ta. Trứng gà con so nên nhỏ lắm. Nhưng mẹ con bảo là trứng con so ăn bổ hơn so với trứng rạ (chắc là loại trứng đời sau). Con thích ăn trứng luộc. Bữa sáng con thường luộc 4 quả trứng để hai vợ chồng ăn cùng mỳ tôm. Không hiểu sao sáng qua, con vừa ăn trứng vừa thấy rưng rưng mẹ ạ. Con nhớ về ngày xưa, cái ngày anh em con còn nhỏ và nhà mình nghèo rất nghèo ấy. mẹ thường nấu cơm và hấp 1 quả trứng. Quả trứng ấy mẹ dằm nát với nước mắm và chan cơm ăn thay thức ăn mặn. Bố mẹ thường chỉ ăn nước mắm không thôi còn trứng thì giành cho chúng con…

Ngày hôm trước đó, con đi chợ mua đồ ăn. Con thấy đi ngang qua hàng bán rau. Thấy họ cũng bán nhiều khoai tây nữa. Bất chợt lòng con chùng lại. Bất chợt thôi ạ, chứ không phải lúc nào cũng thế. Những kỷ niệm cũ cứ ùa về. Ngày ấy mẹ thường gọt khoai tây rồi hấp cùng với cơm. Sau đó cho một ít mỡ, một ít muối vào, và nấu cơm như thường lệ. Rồi mẹ đánh tinh cả khoai lẫn cơm để cả nhà cùng ăn. Lớn hơn một chút con mới hiểu đấy là cơm độn khoai. Vì nhà mình nghèo nên không đủ tiền mua thức ăn. Mẹ độn như thế vừa tiết kiệm được tiền mua thức ăn lại tiết kiệm được gạo. Con cứ thấy đắng đắng nơi cổ họng. Những ký ức ấy mỗi lần nhớ về con lại thấy rưng rưng.

Con là đứa vụng về trong thể hiện tình cảm. Con không thể ôm cổ mẹ và vòi vĩnh như những người bạn của con thường làm. Con cũng không thể nói con nhớ mẹ, con yêu mẹ hoặc thế này thế nọ. Con cũng ít khi gửi cho mẹ những tấm thiệp hoặc những lời chúc nhân dịp ngày lễ nọ, lễ kia. Con thấy nói những từ đó rất khó. Kiểu như là nó làm cho con cảm giác ngượng ngập và không phải là mình.

Nhưng mẹ biết không, lần đầu tiên con được học bổng và gửi tiền về cho mẹ. Con đã khóc rất nhiều. Con cũng khóc nhiều lắm khi mẹ gửi cho con đĩa cơm nếp mới vì lo con đi học xa nhà. Con viết một bài thơ trong đó có bốn câu: “Em lại về thành phố. Đôi bàn tay còn vương vất mùi bùn. Mẹ gói cả quê hương. Trong đĩa xôi đầu mùa nếp mới”. Nhưng mẹ sẽ chẳng được đọc những vần thơ ấy đâu vì con viết chỉ để cho riêng cho mình.

Ngày Phụ nữ Việt Nam, cũng lại như bao ngày lễ khác, con chẳng biết chúc mẹ cái gì. Chỉ biết là con đang rất nhớ mẹ. Mặc dù bây giờ con có thêm mẹ chồng con. Con yêu quý mẹ chồng con nhưng mẹ vẫn là mẹ, không ai thay thế được. Tối về con sẽ gọi điện thoại cho mẹ nhưng chỉ để hỏi han và kể những chuyện linh tinh. Nhưng mà con biết, mẹ vẫn hiểu được rằng, con muốn gửi tới mẹ những lời yêu thương nhất.

Và mẹ biết con yêu mẹ rất nhiều.

Bữa cơm tối diễn ra trong tiếng nói lanh lảnh,tiếng cười giòn tan của nó và sự hưởng ứng của cả nhà.Triền đê tim tím hoa tên lửa  là khám phá vô cùng thú vị đối với nó,không thể không khoe được.Nó khoái chí nuốt cả miếng trứng luộc to,đến nỗi phải nghẹn,làm chị hết vỗ lưng lại xoa ngực,mãi mới trôi.Hì hì,thích nhất là bữa nào cũng có một quả trứng luộc thật là bự.Đến tận bây giờ,mỗi lần ăn trứng luộc,nó vẫn nhớ lại lúc hồi bé về  quê.Cuộc sống vất vả,những bữa ăn cũng đạm bạc:gạo nhà làm ra,rau hái ở ruộng hay trồng trong vườn,tôm,cua cá hầu như là đăng,đó,lờ ở kênh ở biển,cũng chả mấy khi ăn thịt lợn,thịt gà.Trứng luộc là chế độ ăn đặc biệt dành cho nó.May là nhà có nuôi sẵn gà vịt chứ không các bác các bá  đến mệt với con nhóc khảnh ăn như nó.Có bữa nó sang nhà bá thứ ba ăn cơm,đã làm bá tủi thân đến khóc vì nó thắc mắc quả trứng nhà bá sao mà bé thế,chả to như trứng nhà bác trưởng.Sau  nó mới biết là trứng gà thì nhỏ hơn trứng vịt,quả trứng gà để ấp bá cũng luộc cho nó ăn,vậy mà nó có biết đâu,thương bá quá đi mất,mình ngốc ơi là ngốc.Rồi mỗi lần nó về quê,cả khi đã lớn rùi,có quà gì bá đều để dành phần cho nó ăn,chỉ là cái bắp ngô nếp luộc,cái bánh gấc nhân đỗ hay quả xoài xanh chua, mà sao nó thấy ngon thế không biết.Sau này có tiền,nhất định nó sẽ mua thật nhìu món ngon cho các bác các bá…

…Tối tối,sau bữa cơm,trẻ con cả bốn nhà lại tụ tập trên nóc cái bể nhà bác cả,chả biết lúc trước có thế không,nhưng từ khi nó về quê thì là như vậy.Ngày ấy vui thật đấy,hết nghe kể chuyện,hát hò lại chơi nu na nu nống,chị lớn được làm cô giáo cho cả một đám em lâu nhâu.Chơi mệt cả lũ lại vén áo phơi bụng,ngửa mặt lên trời ngắm sao.”Có biết ông  thần nông không?”.”Đâu,đâu,chỉ cho em với?”.”Cái cần câu cong cong kìa,cái nón nữa,thấy chưa?”.”A,ông ấy đi câu cá, ha ha,ông thần nông đang ngồi câu cá,hay ghê.”…

Đêm hè,đèn điện đã tắt cả,ánh trăng vằng vặc qua cửa sổ rọi lên vào giường,gió mát rượi,đúng là gió biển có khác.Nó thì thầm:Chị ơi đóng cửa sổ vào nhá?Sao mà đóng hả em?Em sợ.Sợ gì?Mộ!Các cụ,với ông bà nhà mình chứ ai mà sợ?Nhưng mà em sợ mộ lắm,chị đóng vào đi!Lát sau:Chị ơi em không ngủ được?Sao hả em?Nóng quá,rôm nó cắn em.Nó ngồi dậy lột phăng luôn cái áo ra:cởi trần cho mát,rồi vỗ vỗ lên cả mớ xương sườn.Chị kéo nó nằm xuống,xoa xoa bụng nó,tay chị mát lạnh,thích thật đấy.Để chị quạt cho,em ngủ đi.Nó lại bắt chị kể chuyện ỏ quê,nó nghe với tất cả niềm háo hức và hồi hộp khám phá,rùi ngủ từ lúc nào chả hay,trong tiếng quạt nan đều đều , khe khẽ,trong vòng tay mát rượi của chị…

 …Sáng,dậy sớm ăn cơm.Ở quê là thế,ngày nào buổi sáng cũng phải ăn cơm sớm hết,ăn để cho người lớn còn sở ra đồng,không trời nắng.Nó nhai láo nháo ít cơm trộn muối vừng cho xong bữa.Hai bác đã đi làm,chị bưng mâm đi rửa,nó lôi vở ra,cô giáo chị đã giao bài tập rùi.Nhoằng  cái là xong,tìm X với lại đếm tam giác.Nó quăng luôn vở lên giường,tìm cái mũ nan tót ngay đi chơi,không thèm nói với chị một tiếng.Đang dỗi,chiếc kẹp tóc có bông hoa nhựa màu xanh do chị tự làm từ ống hút nó thích ơi là thích,thế mà chị đem cho đứa em họ đằng ngoại của chị.Ra đến cổng,thấy anh họ đeo giỏ bên sườn,nó hỏi đi đâu.Đi bắt còng.Đi với.Đã xin ai chưa?Rồi.Anh họ còn kém nó một tuổi,thấp hơn con của bá giáp với mẹ.Lúc nhỏ còn ngang,không chịu gọi anh,lớn dần,thằng anh cao ngồng lên,nó gọi anh cũng chả thấy ngại nữa.

Lại ra bờ đê.Buổi sáng thủy triều xuống,nước biển rút đi,để trơ ra đám cói xanh mọc gần kè đá,để lộ ra cả một rừng bần lạ lẫm khác hẳn với lúc chiều lên.Nó ngẩn người ra nhìn sự khác biệt đó,trong lòng lại háo hức khám phá.Những con còng có càng màu đỏ chui ra từ những lỗ đất trên nền đất biển âm ẩm,chạy lăng xăng,cứ như tập thể dục ấy,mai của chúng nhìn thật ngộ nghĩnh với những họa tiết cứ như mặt người,vừa xấu vừa ngố.Nó tha thẩn đi hái hoa với bứt quả tên lửa,lát sau anh họ đã bắt đầy giỏ còng,nó không khỏi khâm phục,buột miệng khen :Anh giỏi thế.Rồi như chợt nhớ ra nó cúi gầm mặt xuống,rõ ít tuổi hơn mà gọi anh.Ra rừng bần không?Có gì hay?Đi thì biết…

Theo năm tháng,con nhóc ngày nào cũng lớn dần lên,cấp hai rồi đấy.Về quê cũng chỉ vỏn vẹn được vài ngày.Nó chả còn cởi trần đi ngủ nữa,chiều chiều vẫn tha thẩn trên bờ  đê,nhưng đã biết ngại khi nhìn thấy đám trẻ chăn trâu về đang tắm trần ở kênh,nó đã biết quy luật của hương gió thổi mỗi khi quét sân.Nó cũng không mải chơi như ngày trước nữa.Nó ngày càng hiểu được nỗi vất vả của các bác bá,anh chị ở quê,mà nó cũng chả giúp gì được nhiều.Nhớ có lần,bài tập làm văn của nó,đọc trước lớp được cô giáo khen.Đề bài là:hãy kể lại 1 việc làm có ích trong kì nghỉ hè của em.Nó chả mất chút thời gian nào để suy nghĩ tìm chủ đề hết,mà kể luôn cái lần nó phụ hai bác mộc vịt,nghe lạ nhỉ,cứ tưởng như chế biến 1 món ăn đấy,nhưng không phải đâu.Đấy là việc nhổ bớt lông vịt cho vịt nhanh lớn.Nhiệm vụ của nó là cầm con vịt từ sân thả vào trong chuồng,chạy cho nhanh,cầm cho chặt,kẻo vịt nó bay mất.Hi hi,thích nhất là lông vịt nhổ ra lại đem để đổi kem được,chỉ là những que kem nước đá,500đ 3 cái,mà sao đứa nào đứa nấy thi nhau mút ngon lành...

…Chiều,ngồi bên bờ ruộng,hái rau lợn,nó nhớ chị lớn,chị không còn ở quê nữa.Tốt nghiệp cấp Ba,thiếu ít điểm nữa thì đỗ cao đẳng mầm non,thương bố mẹ,chị đi làm luôn,chứ không ôn thi tiếp.Hè năm nay,nó không phải là em út nữa,cậu út làm biên phòng tận trong An Giang ra  đi học,đưa cả mợ và các em theo,cu em kém nó 6 tuổi,giờ là bé nhất,ai cũng quý cậu em có giọng lơ lớ,ăn cơm lúc nào cũng đòi gắp cho con miếng bự.Nó cũng thế,lớn rồi,không còn dỗi vặt kiểu trẻ con nữa,nó thương em như hồi nó về quê lần đầu các anh chị cưng nó vậy.Hum trước hai chị em  bắt chuồn chuồn ở bờ tre,hum sau em cảm sốt,nó ngồi trông em.Em nằm mê man,hai mắt lim dim,mặt đỏ lựng,trán nóng bừng,trời hè oi nóng mà điện lại mất.Nó hết thay khăn ướt lên trán cho em lại ngồi quạt phe phẩy cho em mát.Thương em quá,nó lại nhớ cả chị lớn nữa,hồi xưa có đứa dở hơi đêm hè đòi đóng cửa sổ,làm chị phải quạt cho nó ngủ.Bao giờ chị mới về với em hả chị.Chị về nó sẽ không bắt đóng cửa sổ nữa đâu,nó không sợ  mộ nữa,nằm đó là ông bà ngoại và các cụ cơ mà.Nó nhớ mẹ kể,hồi mẹ sinh nó,bà ngoại ra chăm,bà thương nó lắm.Mẹ kém sữa,nhà không có tiền mua sữa ngoài,nó quấy khóc nhìu ghê.Bà ngoại chả kể đêm ngày,cặm cụi ninh cháo,xay xay,lọc lọc,chắt chắt,lấy nước cho nó ăn.Bà gọi nó là cái kẹo của bà,vì nó suy dinh dưỡng,còi lắm.Chân nó bị lệch,cũng là bà suốt ngày xoa xoa nắn nắn cho nó.Cuối năm ấy,bà bị bệnh gan mất,lúc đó nó còn nhỏ lại ốm suốt,me cũng chả về chăm nom cho bà được.Mỗi lần kể lại,mẹ vẫn khóc,nó thương bà,thương mẹ quá.Hồi ấy nó bé quá,chả thể có được 1 chút kí ức nào về bà.Nó chỉ ước được 1 lần nghe bà gọi nó là cái kẹo,được 1 lần giúp bà nhổ những sợi tóc bạc trên đầu…

Món trứng chiên của mẹ

Mỗi lần nhìn những lát trứng vàng tự tay mình chiên, tôi lại nhớ về món trứng chiên ngày xưa của mẹ. Ký ức về món ăn ấy trong tôi không phải là mùi thơm nức mũi, vị ngon đậm đà mà bởi màu sắc của nó.

      Không mang màu vàng đặc trưng của trứng, cũng không có màu xanh của những lá hành, món trứng mẹ chiên chỉ  có một màu trắng, điểm thêm những chấm đen li ti của tiêu. Mỗi lần đứng nhìn mẹ chiên trứng, tôi lại hỏi: "Mẹ có phép hay sao mà trứng biến thành màu trắng thế? Con thấy nhà bác Hiển trứng chiên có màu vàng mà". Mẹ nhìn tôi cười, nói: "Không phải mẹ có phép đâu. Trứng này là của một bà tiên cho mẹ, bảo chiên cho con ăn để con mau lớn". Tôi nhìn mẹ tròn xoe mắt. Mẹ lại nói: "Thế con ăn có thấy ngon không?". Tôi trả lời: "Dạ ngon. Mấy bạn con chả có bạn nào được ăn món trứng màu trắng đâu mẹ ạ. Con hỏi bạn nào cũng nói trứng nhà bạn ấy màu vàng".

      Bữa cơm của gia đình tôi thường rất đạm bạc, có  khi chỉ là đĩa rau muống luộc cùng mấy con cá khô chiên, đĩa đậu phộng rang muối. Vậy mà lúc nào tôi ăn cũng thấy ngon. Hôm nào có trứng thì tôi gọi đó là những ngày "giàu có". Tôi luôn tự hỏi: "Bà tiên nào mà tốt bụng vậy nhỉ?". Hóa ra có "bà tiên" thật, nhưng bà tiên ấy không có phép và ở rất gần tôi. Tôi đã tìm ra câu trả lời cho mình vào một buổi chiều ra sân ngóng mẹ đi làm về. Lúc đó, chợt tôi nghe có tiếng ai đó gọi mình, quay lại là thấy nụ cười hiền hậu của bác hàng xóm. Tôi chạy đến, bác đưa tôi một chiếc bát.

      "Gì  đây bác?" - tôi hỏi. "Là trứng đấy cháu ạ".

      "A! Có phải là trứng này chiên lên sẽ thành màu trắng phải không bác?" - tôi reo lên vui sướng. Thì  ra bác ấy là "bà tiên" mà mẹ  tôi vẫn thường nói.

      - Nhưng sao trứng này lại có màu trắng hả bác?

      - Vì đây chỉ là lòng trắng thôi, lòng đỏ bác đã lọc ra để làm bánh rồi.

      Ra là vậy. Thảo nào món trứng mẹ tôi chiên chỉ  có một màu trắng.

      …

      Là  sinh viên, món ăn những lúc tôi hết tiền là trứng chiên. Trứng chiên vàng ươm và thơm lừng, nhưng sao tôi lại thấy nhớ và thèm món trứng ngày xưa mẹ chiên. Có phải vì ngày ấy mẹ đã gieo vào trong tôi hình ảnh đẹp đẽ của một bà tiên có thật hay vì món trứng chiên ngày ấy thấm đẫm tình thương của mẹ và tình láng giềng? Có lẽ là cả hai.

1.                         Duyên Tình Một Miếng Trứng Chiên

- Trước đây, tôi là một Hướng Đạo sinh.

Nhớ lại ngày đó, mỗi sáng Chủ Nhật mặc vô bộ đồng phục Hướng Đạo, cài cây gậy vào xe, tôi náo nức đạp thẳng một mách tới vườn Tao Đàn để họp đoàn. Cuộc đời và sinh hoạt hào hứng của đoàn thể HĐ, tôi hẹn các bạn trong một bài sau. Hôm nay, tôi muốn nói đến một lý do khác, không Hướng Đạo một chút xíu nào hết, nhưng cũng khiến tôi rất háo hức mỗi sáng Chủ Nhật đạp xe đến vườn Tao Đàn: Bột Chiên.

Bạn có biết ở vườn Tao Đàn có một xe bán bột chiên ngon nhất thế giới của ông Tàu già không? Những ngày khác ông bán ở đâu không rõ, nhưng mỗi Chủ Nhật là ông có một chỗ cố định trong vườn Tao Đàn bán cho những Hướng Đạo sinh sinh hoạt chung quanh. Xui làm sao, chỗ ông bán kế bên chỗ tôi họp đoàn. Cho nên, duyên tình định mệnh của tôi cũng bắt đầu từ đó.

Chỉ có hai giá tiền ở xe bột chiên này : $50 cho loại đĩa có trứng và $30 cho đĩa không trứng, nhưng bột chiên thì nhiều bằng nhau. Mỗi sáng Chủ Nhật đi họp, tôi được 30 đồng ăn sáng, tức là vừa vặn một đĩa bột chiên không trứng. Tôi chưa bao giờ sang đủ để kêu một đĩa bột chiên có trứng mặc dù cũng thèm lắm. Thỉnh thoảng tôi cũng giầu đủ 50 đồng để ăn trứng đó chớ, nhưng mà mỗi lần như vậy tôi đều ráng kiếm …10 đồng nữa để chơi luôn hai đĩa không trứng cho nó sướng cái bụng. Cho nên, nếu không nhờ một biến cố xảy ra trong đời, thì không biết đến chừng nào tôi mới biết bột chiên có trứng nó khác với bột chiên không trứng thế nào.

Xe bột chiên ngon như vầy dĩ nhiên là đắt. Khi nào cũng có người ăn và kẻ chờ . Vấn đề là ông Tàu chỉ có thể xếp khoảng gần chục cái ghế nhỏ chung quanh xe. Không đủ. Lâu lâu tôi cũng phải đứng chờ. Tôi để ý có một cô bé nữ Hướng Đạo cái đoàn bên cạnh hình như tuần nào cũng qua ăn bột chiên. Ô không, bạn đừng có nghĩ…xa quá oan uổng cho tôi lắm.Lúc đó tôi chưa biết yêu đâu. Tôi còn nhỏ, mà ả Hướng Đạo này xem ra còn nhỏ hơn tôi nữa. Nó ốm toong, tóc thắt đuôi gà, và hình như…hơi đen ( sau này lớn lên tôi mới biết chữ da bánh mật !). Vậy đó, không có gì đặc biệt. Nhưng tôi lại để ý đến “nó” vì tôi… ganh.

Không hiểu nó có bà con họ hàng gì với ông Tàu bán bột chiên hay không. Tôi thấy, người khác tới mà hết ghế thì phải đứng chờ, nhưng hễ nó bị hết ghế là ông…hóa phép lấy ra một cái ghế khác từ trong xe ra. Bất công thiệt, nhưng tôi không dám giận ông, chỉ dám…tành hanh với nó mà thôi.

Còn nữa nhe. Như đã nói, tôi bao giờ cũng chỉ ăn đĩa không trứng, nhưng con nhỏ này bao giờ cũng ăn đĩa… có trứng. Nó đâu cần kêu. Chỉ cần tới ngồi xuống là ông Tàu tự động làm một đĩa có trứng bưng ra. Xíí! Nhưng điều làm tôi tức tối nhứt là mỗi lần ngồi bên cạnh thấy nó ăn không hết, bột hay trứng gì nó cũng để lại, và ông Tàu cho vô giỏ rác hết. Ôi thiệt là phí của trời. Phải gặp tôi, hừ, Phải gặp tôi thì…không còn một cọng hành chứ đừng nói chi bột hay trứng. Vậy là từ “ giận”, tôi đâm ra “ ganh” và “ ghét” nó dễ sợ.

Một bữa kia tôi ăn xong đĩa bột chiên nhưng còn luyến tiếc, ngồi nhâm nhi ly trà nhạt chưa chịu đứng dậy thì …“nó” tới.

Như thường lệ, ông Tàu làm nó một đĩa bột chiên có trứng. Tôi liếc sang mà tức cành hông. Ông Tàu này quả là bất công. Tôi bự con như vầy mà ổng chỉ cho tôi một đĩa chút xíu. Trong khi con bé ốm toong thấp lè tè này ổng lại làm một đĩa thiệt bự.

Tôi ngồi mà ngao ngán cho tình đời đen bạc. Chưa biết phải làm gì. Bỗng nhiên nó quay sang nhìn cái đĩa bóng loáng không một miếng hành của tôi nhoẽn miệng cười hỏi

- Muốn ăn miếng trứng của tui hông?

Ô! Tôi có nghe lộn không.? Sợ mình lãng tai nên giả bộ không nghe. Nó lấy đôi đũa chỉ vào miếng trứng vàng óng ánh nói lần nữa, vẫn cái giọng trống không.

- Ăn miếng trứng này nhe?

Lần này thì nghe đã rõ ràng. Các bạn ơi, trong mấy giây, tôi biết là trong đầu tôi suy nghĩ đấu tranh tư tưởng dũ dội lắm. Không biết tôi suy nghĩ được những gì, và đã ôn được bao nhiêu bài công dân giáo dục về phép tự trọng, nghèo cho sạch rách cho thơm… Chỉ biết cái đầu tôi suy nghĩ gì mặc kệ nó. Cái cổ của tôi ngoan ngoãn …gật cái cụp. Nó lấy muổng xúc nguyên miếng trứng bỏ sang đĩa tôi. Chưa hết, lại còn sớt gần nữa đĩa bột chiên của nó sang bên tôi luôn.

Và đó là lần đầu tiên tôi biết mùi vị của bột chiên có trứng.

( Tôi quên không biết mình có nhớ mà cám ơn hay không ha? Hic!)

…....

Tuần sau tôi không dám tới ăn xe bột chiên đó nữa. Sợ gặp lại nó chắc tôi sẽ mắc cỡ lắm. Không quen, không biết, người ta mới mở lời là OK cái rụp. Thiệt tình xấu hồ ghê. Tôi định bụng sẽ có đủ 50 đồng mua một đĩa có trứng trả lại. Trong lúc chưa trả được thì đành tạm lánh mặt vậy.

Tôi tạm lánh mặt, nhưng vẫn kín đáo để ý nó bởi vì cũng đâu cách trở xa xôi gì cho cam. Chỉ qua một cái xe bột chiên. Tôi họp bên phải, nó họp bên trái. Nên tôi dễ dàng thấy nó vẫn tới ăn bột chiên như thường lệ. Chỉ khác là mỗi lần tới, trước khi ngồi xuống ghế nó đều nhìn dáo giác chung quanh như tìm kiếm ai thì phải( !)

Rồi nhiều chuyện xảy ra lắm. Đoàn của tôi rời vườn Tao Đàn di chuyển chỗ họp lên công viên trước mặt Dinh Độc Lập, rồi 30/4, Hướng Đạo bị ngưng hoạt động. Tôi trôi nổi đời mình theo vận nước. Không có dịp gặp lại cô ả Hướng Đạo đó để mà trả lại miếng trứng chiên...

***

Một hôm, tôi ngồi chơi và không hiểu sao bỗng hát nghêu ngao như vầy: “Anh em ta, mau cố chất cây khô vào đây,đốt chung. Đêm khuya nghe tiếng tí tách cây khô nổ vang giữa rừng…”. Chưa kịp hát tiếp, bỗng đâu đó một giọng ca ỏn ẻn vang lên tiếp lời “…dang tay nhau đứng vòng quanh lửa hồng, trong bóng đêm khói đưa bốc cao, cùng cầm tay hát vang lừng …”

- Ai ???

- Ai mà có thể biết được bài hát này?

Bà xã chứ ai ! Tôi như trên trời rớt xuống. Sao nàng biết được bài này? Đây là bài ca Nhảy Lửa của Hướng Đạo Việt Nam và dĩ nhiên chỉ có những người từng là Hướng Đạo sinh , từng tham gia trại đêm mới biết. Nàng nhớ và hát một cách rành rỏi như vậy thì chứng tỏ đã nhiều lần tham dự lửa trại, và là một Hướng Đạo sinh kỳ cựu. Tôi ngạc nhiên quá:

- Sao em biết?

Nàng nhún vai:

- Well, why not? Bài này ai đi Hướng Đạo cũng biết mà.

- Vậy em cũng là Hướng Đạo ? Sao không nói?

- Có bao giờ hỏi đâu mà nói! Nàng nguýt tôi.Ờ nhỉ. Sống với nhau gần ba năm. Thằng con đầu đã gần 2 tuổi, đây là lần đầu tôi nghe nàng ư ử ca, mà lại một bài ca HĐ mới hay chứ. Thôi kệ, trễ còn hơn không. Tôi dã lã hỏi :

-Vậy hồi đó em họp ở đâu?

-Vườn Tao Đàn chứ đâu.

- Hay nhỉ!

- Vườn Tao Đàn mà khúc nào?

Nàng ngưng dọn dẹp, suy nghĩ một hồi rồi lắc đầu:

- Vườn Tao Đàn rộng quá khó nói khúc nào. Chỉ nhớ là tụi em thường họp bên cạnh cái xe bán bột chiên đó.

Tôi suýt nữa la lên. Cái xe bột chiên này thì tôi còn lạ lùng gì. Tôi hỏi lại cho chắc ăn.

- Có phải xe bột chiên của ông Tàu đầu trọc lóc không?

..Nàng cười ngất...

- Đúng rồi, ổng chứ ai. Anh cũng biết ổng hả? Mà hình như cả vườn Tao Đàn chỉ có một cái xe bột chiên đó thôi. Công nhận ngon hết xẩy. Tuần nào em cũng làm một diã. Mà hồi đó anh họp ở đâu?

- Hừ, đâu phải ngon hết xẩy, ngon nhất thế giới mới đúng!

.. Nhưng bỗng nhiên tôi hơi chột dạ bèn nói trớ đi.

- Hơ anh họp cách đó xa lắm, lâu lâu mới lại ăn bột chiên vậy thôi.

Nàng chậc lưỡi :

- Uổng quá ha. Phải chi hồi đó anh họp đâu đâu gần đó là tụi mình đã gặp nhau rồi.

..Tôi chịu không nổi , hồi hộp hỏi :

-Em nhớ hồi đó ăn bột chiên có khi nào cho một thằng Hướng Đạo khác ngồi ăn bên cạnh miếng trứng không?

..Nàng phá ra cười nắc nẻ..

- Có chớ! có chớ. Tức cười lắm anh. Em nhớ hồi đó tuần nào cũng ngồi ăn với một thằng ở cái đoàn bên cạnh. Tội nghiệp. Nhà nó chắc nghèo lắm cho nên nó chỉ ăn bột chiên không trứng mà thôi. Có bữa em thấy “thằng nhỏ” ăn rồi mà còn thòm thèm nhìn sang cái đĩa em hoài thấy thương ghê, em hỏi nó có muốn ăn trứng không em cho. Trời ơi anh biết sao không, nó gật đầu chịu liền đó anh. Tức cười quá… Ủa mà sao anh biết chuyện này ?

- Nàng ngưng lại, trợn mắt nhìn tôi mấy giây, rồi la lên :

- Á Á .á .ááá!!!!!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro