anh hung linh nam 11 20

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bất tri hà nhật xuất lao lung 
(Phan Chu Trinh, Chí thành thông thánh thi) 
Nghĩa là: 
Không biết bao giờ đất nước thóat ra khỏi cảnh lao tù. 
Từ hơn một tháng nay, trai tráng trang Cổ-đại phải bỏ hết công việc đồng án để lo sửa
đường, cắt cỏ, đốn những cành cây chỉa ra đường và làm một đài cao giữa thôn. Lệnh của
quan Huyện-úy ban ra rằng: Trai tráng trong thôn từ 15 tới 50 tuổi đều phải có mặt tại chỗ từ
giờ Mão, để làm xâu. Lệnh còn cắt đặt rõ, người nào phải mang dao mác, người nào phải
mang cuốc, mang móng, mang xẻng. Sau hơn một tháng, con đường cái quan dài hơn chục
dặm đã được sửa chữa bằng phẳng. Một ngọn cỏ cũng không còn, một cành cây chỉa ra
đường cũng chẳng có. Hai cây cầu bắt qua suối được sửa lại. Hôm nay người ta bắt đầu
làm hai cái cổng lớn bằng tre, một cái ở đường cái quan rẽ vào thôn và một cái ở ngay kỳ
đài. 
Quan Huyện-uý lại ra lệnh: Ngày mai tất cả mọi người trong xã phải mặc quần áo chỉnh tề,
tụ tập ở chợ, để đón quan trên. Hỏi quan trên là ai thì không được trả lời. Dân làng thắc
mắc: Quan nào mà oai đến thế? 
Nhưng sáng nay thì người ta hiểu. Trên cổng chào, hai tấm vải đỏ viết hàng chữ vàng lóng
lánh: 
Cung nghinh Tô thái thú giá lâm 
Nghĩa là kính mừng ngài Thái-thú họ Tô giá lâm. 
Sang giờ Thìn, mặt trời đã lên cao, nắng mùa hè chói chang, già trẻ lớn bé mồ hôi nhễ nhãi,
có người đã phải ngồi xuống để nghỉ chân. Bỗng một hồi tù và vọng lại, rồi tiếp theo tiếng
trống thúc, mọi người đều đứng dậy nhìn về xa, chỉ thấy mờ mờ một đoàn người ngựa đi
đến, gươm dáo sáng chưng. 
Đầu tiên, hai con ngựa ô cao lớn, trên có hai vị tướng quân mặc giáp sắt, lưng đeo bảo kiếm
tiến qua cổng. Tiếp theo, hai người lính hầu cầm bảng đề chữ Tĩnh túc, Hồi tỵ, tiếp theo chín
con ngựa, ba con một hàng, trên mỗi con ngựa, một vị vệ uý, giáp trụ, đao kiếm sáng ngời.
Khoảng xa một chút, một người mặc quần áo đại quan, mắt hơi to, má phính đầy những thịt,
bụng lớn như cái trống ngồi trên con ngựa màu đỏ như huyết dụ, bốn bên có bốn vệ sĩ đeo
gươm theo hầu. Bỗng một tiếng loa hô lớn: 
– Thái-thú giá lâm, quỳ xuống. 
Dân chúng hai bên đường đồng quỳ xuống, cúi gầm mặt, không dám ngửng đầu lên. Thái-thú họ Tô giơ roi ngựa phất phất mấy cái. Ngựa tiến đến trước đình. Thái-thú nhảy xuống,
giữa hàng bô lão, chức sắc đang quỳ gối. Y vẫy tay nói lớn: 
– Miễn lễ. 
Theo sau Thái-thú là các huyện lệnh, quan lại, nghênh ngang tiến vào sân đình. Tất cả ngồi
xuống mấy hàng ghế trên khán đài. Dân chúng đã được điều động đến trước khán đài, quỳ
xuống. 
Huyện-lệnh đứng dậy, hướng về phía Thái-thú vái mấy vái rồi hướng ra dân chúng nói lớn: 
– Dân Giao-Chỉ chúng bay nghe đây, ngài Tô thái thú vừa được đức kim thượng phong cho
chăn dắt chúng bây. Sách nói rằng: Dân chi phụ mẫu nghĩa là quan trên là cha mẹ dân, nên
ngài từ tâm đi khắp nơi để thăm dân cho biết sự tình. Vậy ai có điều gì oan ức hãy đến khấu
đầu trước ngài, để đèn trời soi xét cho. 
Một lão ông đầu tóc trắng như cước, run rẩy tiến lên, dập đầu lạy bốn lạy trước Tô thái-thú,
rồi nói: 
– Bẩm thái thú, ngài thương dân như con đỏ, xin ngày cứu xét cho trang của tôi thoát khỏi
cơn bĩ cực. 
Tô Định gật đầu: 
– Người có gì cứ nói. 
Lão ông lạy thêm ba lạy: 
– Trang tôi trước đây có Trần Lạc hầu cai quản đã mấy đời. Mới đây, Lạc-hầu bị người ta
ám sát chết. Chúng tôi xin tôn Trần công tử lên thay. Nhưng Huyện-lệnh đại nhân không
cho. Vì vậy trang ấp không người cầm đầu. Bẩm Thái-thú đại nhân, trang tôi có 300 xuất
đinh, năm trước quan Huyện bắt nộp 600 cân quế, năm nay bắt nộp 900 cân. Vì rừng nhiều
thú dữ, rắn độc, nên đến giờ này là tháng bảy mà mới được có 400 cân. Đàn bà, trẻ con
phải lên rừng tìm quế, đồng ruộng bỏ hoang, mùa màng thất thu, chắc chết hết. Mong Thái-thú đại nhân ân giảm cho. 
Huyện-lệnh đứng dậy chỉ mặt lão ông nạt: 
– Dân trang Cổ-lễ đã lười biếng, lại vô phép, chỉ lêu lổng rong chơi, không chịu tuân phép
nước. Mày còn muốn kêu ca gì nữa? Bây đâu, lôi cổ nó ra đánh đủ 30 côn. 
Vệ sĩ dạ ran. Hai người tiến ra, đè cổ ông già xuống đánh. Đến côn thứ năm thì ông ngất
xỉu. Trong đám đông, có một thiếu nữ đứng dậy, chạy đến trước Thái-thú Tô Định quỳ xuống
dập đầu lạy bốn lạy: 
– Trăm lạy đại nhân, ngàn lạy đại nhân, tiểu tỳ xin thay cha chịu đòn. 
Tô Định liếc nhìn thiếu nữ, tuổi khoảng 17, 18, nhan sắc tươi như hoa, y nghĩ gì không rõ, sẽ
cau mặt rồi phất tay: 
– Tha cho lão. Còn cô kia, tên gì? 
Thiếu nữ cúi đầu thưa: 
– Tiểu tỳ họ Nguyễn, tên Thánh Thiên. 
Tô Định đứng lên nâng nàng dậy: 
– Nể lời bậc quốc sắc thiên hương, ta tha cho cha cô, nhưng cô phải theo ta về Luy-lâu. 
Thiếu nữ quỳ xuống, dập đầu liên tiếp: 
– Bẩm Thái-thú, cha tiểu tỳ chỉ có mình tiểu tỳ, nếu tiểu tỳ theo đại nhân về Luy-lâu thì không
người phụng dưỡng. Xin đại nhân cho tiểu tỳ được ở lại phụng dưỡng cha già. 
Tô Định gật đầu: 
– Được, nàng đem cha về đi. 
Y quay lại tên vệ sĩ nói mấy câu nho nhỏ. Tên vệ sĩ cười, rồi theo bén gót Thánh Thiên. 
Huyện-lệnh lại dõng dạc nói: 
– Ngài Tô thái-thú ban phép mới cho bọn man di Giao-chỉ các người, hãy lắng tai nghe: 
Ghi chú của thuật giả 
Đời Hán bên Trung-hoa (Tây Hán 206 trước Tây lịch đến 25 sau Tây lịch và Đông Hán 25-220 sau Tây Lịch), là thời kỳ tiếp nối thời Chiến-quốc, triều đình chưa có luật pháp cai trị
thống nhất, cho nên ngoài Cửu-chương luật của Tiêu Hà ra, thì các Thái thú có toàn quyền.
Thái thú như một ông vua con, được quyền bổ nhiệm từ các quan lại trực thuộc cho tới
huyện-úy, huyện-lệnh. Thái thú chỉ huy cả quân sự lẫn hành chính. Vì vậy, khi Vương Mãng
cướp ngôi nhà Hán, các thái-thú nổi lên cát cứ một phương. Sau Quang Vũ trung hưng lên
được, vẫn phải đi đánh dẹp từng quận một. Luật nhà Hán có điều khoản cho phép Thái thú
ban lệnh nội trị, trái với luật triều đình trong trường hợp cần thiết. Bởi vậy, Tô Định mới ban
hàn Ngũ-lệnh. 
Hết chú giải. 
“Niên hiệu Kiến Vũ (3) thứ mười nhà Đại Hán, tháng 7 mùa hạ, quan Thái-thú đất Giao-chỉ
họ Tô ban lệnh cho dân chúng Nam-man được rõ: 
“Kể từ đức Thái tổ Cao hoàng (4), thần thánh văn võ chém rắn khởi binh, trước diệt bạo
Tần, sau chinh phạt Nguỵ Sở, kể từ đấy, khắp lê dân thiên hạ đều cúi đầu quy phục. Vùng
Lĩnh Nam, Triệu Đà quỳ gối, nên thiên triều vẫn cho được tồn tạii. Sau Lữ Gia giết ấu chúa
làm điều bạo nghịch, chống lại thiên triều, nên thánh Thiên tử phải cho binh tướng chinh
phạt. Vừa rồi Vương Mãng lòng lang dạ thú, nhân việc Tiên-đế uỷ thác trọng sự, mưu đồ
phản nghịch. Nay chúa ta tuốt gươm, phất cờ trung hưng, lập lại nhà Đại Hán, đã nghĩ đến
các người ở xa. Phái ta làm Thái thú, để chăn dạy các người tuân theo lễ nghĩa, biết phép
tắc thiên triều. Ta đi khắp các châu quận để ban bố chính thống cho các người biết. Các
người phải bỏ thói man mọi hung hăng mà quy phục, thì ta sẽ giáo hoá dạy dỗ cho, còn trái
lệnh, quyết xử tử chẳng tha. Ta nay ban xuống chính lệnh năm điều, các người phải bảo
nhau quy phục. 
“Điều thứ nhất: Các người quen bạo tàn, ngang ngược, thường lấy cớ tập võ, tụ tập nhau
làm đạo tặc, mưu đồ phản nghịch. Kể từ nay cứ tụ tập từ 19 người trở đi phải có phép, dù là
đám tang, đám giỗ. Trái luật, người cầm đầu bị xử trảm. Tòng phạm bị chặt một tay hoặc
một chân. 
“Điều thứ hai: Trai cũng như gái, từ 15 tới 50 tuổi, mỗi năm phải nộp 500 cân gạo, gọi là
thuế quân phí. 
“Điều thứ ba: Mỗi trang, tuỳ vùng phải nộp gỗ quý, ngọc ngà, kim khí, đồi mồi, da thú, theo
quy định của Huyện-lệnh. 
“Điều thứ tư: Khi có lệnh, phải cung cấp đủ số dân đinh quy định, xung làm lao quân. Lao
quân bắt đầu từ 15 tới 40 tuổi. Trang nào thiếu một lao quân, phải nộp 10 lượng vàng (6).
Nếu không nộp vàng thì Lạc-hầu bị cách. Người nào trốn tránh, bị xử trảm. 
“Điều thứ năm: Kẻ nào biết âm mưu tạo phản, phỉ đồ, báo với quan trên thì trong nhà được
miễn lao quân, còn được thưởng tuỳ theo lớn nhỏ. Kẻ nào tri tình, che dấu sẽ bị tội như
chính phạm. 
“Kẻ nào vi phạm một trong các điều trên sẽ bị chém. Phạm từ hai điều trở đi, cả nhà sẽ bị
chém. Phạm từ ba điều trở đi sẽ bị giết cả ba họ.” 
Đọc xong, Huyện-lệnh hỏi lại: 
– Bọn man mọi Giao-chỉ các người có gì không hiểu thì được phép hỏi. 
Dân chúng im phăng phắc, không một tiếng trả lời. 
Bỗng có tiếng nói: 
– Tôi có điều thắc mắc. 
Mọi người đổ dồn mắt về phía có tiếng nói. Tất cả đều cười ồ lên, vì người nói là một đứa
trẻ, khoảng 17, 18, mặt mũi lem luốc, đầu bù tóc rối. Đứa trẻ đó chính là Đào Kỳ. 
Đêm ấy, trên đường trốn đi, nó gặp Đức Hiệp và đánh một chưởng khiến y bị thương nặng.
Giữa lúc đó, Lê Đạo Sinh xuất hiện, đánh nó một chưởng. Nó đã vận âm kình đủ mười
thành công lực, thế mà đỡ chường của y, nó còn thấy tê liệt khắp thân mình. Nếu hôm đó
Đạo Sinh không mải cứu Đức Hiệp, mà đánh một chưởng nữa, ắt nó khó toàn mạng. 
Rời Thái-hà trang, nó về vùng Cổ-loa để nghe tin tức cha, chú, nhưng vẫn biệt tăm. Tiền hết,
đêm nó lẻn vào đền thờ Hùng vương trong trang Thái-hà đào lên lấy mấy lượng vàng, thanh
kiếm của An-Dương vương với cây búa của Sơn Tinh rồi lang thang các nơi giả làm ăn mày.
Tối tối, nó về các đền thờ ngủ và tập võ. 
Trong mấy ngày đầu xa Thái-hà, nó như người mất hồn, nhắm mắt lại thấy Tường Quy ôn
nhu văn nhã, nước mắt chảy dài, ngồi đánh đàn. Có nhiều lần, nghĩ đến Tường Quy, nó
thức suốt đêm không ngủ. Nhiều lúc nó mơ thấy Tường Quy lấy chồng, bỏ rơi nó, nó khóc
lóc thảm thiết, lúc thức dậy mới biết là giấc mơ. 
Một hôm nhớ Tường Quy quá, nó đột nhập Thái-hà trang để tìm nàng, nhưng không thấy
đâu. Nó kiếm con nữ tỳ tra hỏi, được trả lời rằng Tường Quy đã về Bắc-đái rồi. Nó định đi
Bắc-đái, nhưng không biết đường. Nó lang thang khắp nơi giả làm ăn mày. Rồi nó kiếm thợ
rèn, nhờ khắc chữ Tường Quy vào thanh kiếm của vua An-Dương, lúc nào cũng đeo ở bên
cạnh nó. Vì nhớ thương quá, nó như người dở điên dở khùng. 
Một đêm nọ, nó lần mò về Thái-hà trang để dò tìm tin tức Tường Quy. Vào trong trang, nó
cảm thấy có điều khác lạ: Trang được canh gác nghiêm mật. Kinh nghiệm cho nó biết rằng
khi tráng đinh canh phòng như vậy, thế nào cũng có cuộc hội họp. Nó đã quen đường, nên
đã lần mò đến đại sảnh đường một cách dễ dàng. Nó thấy một tráng đinh cầm đao đứng
gác ở gần cửa sổ, có hình dáng tương đương với nó, nó tự nhủ thầm: 
– Ta bắt tên tráng đinh này, lột quần áo, giả làm y đứng canh gác để nghe trộm cuộc họp
của Lê Đạo Sinh, biết đâu chẳng dò ra được tin tức Tường Quy? 
Nghĩ là làm. Với võ công hiện thời, nó đến bên cạnh tên tráng đinh, mà y cũng không biết.
Nó dùng ngón tay làm chỉ, nó phóng một chỉ vào ngực, tên tráng đinh đã chết ngất. Nó lôi
tên tráng đinh vào bụi cây, lột quần áo, mặc vào, rồi cầm đao đứng gác bên cửa sổ. 
Một lát, sảnh đường đã đầy người. Tổng số người họp lên tới trên trăm. Nó đưa mắt quan
sát thấy toàn là đệ tử của Lê Đạo Sinh với các Lạc-hầu, Lạc-tướng, Trang-chủ, Động-chủ
thuộc Thái-hà trang. 
Lê Đạo Sinh tiến vào đại sảnh, ngồi lên ghế chủ toạ. Lê Đức Hiệp hướng xuống cử toạ, nói: 
– Sư phụ tôi cho mời các vị về đây họp, vì có sự thay đổi rất quan trọng của đất Giao-chỉ ta.
Xin để Vũ Hỷ, Vũ Phương Anh trình bày. 
Phong-châu song quái đứng dậy. Vũ Hỷ hướng vào Lê Đạo Sinh hành lễ rồi nói: 
– Thưa sư phụ, thưa các vị sư huynh, sư đệ, trước đây Kiến Vũ thiên tử phong cho Nghiêm
Sơn làm Lĩnh-nam công, lĩnh chức Bình-nam đại tướng quân. Nghiêm Sơn có công cứu giá
20 lần, bị thương 15 lần, rồi giúp Kiến Vũ thiên tử trung hưng Hán thất. Kiến Vũ thiên tử với
Nghiêm công kết huynh đệ với nhau, hẹn chia đôi thiên hạ. Sau khi đánh chiếm được chín
quận Kinh-châu, Nghiêm công đề nghị nên chiếm sáu quận Lĩnh Nam để có một vùng yên
ổn, cung cấp lương tiền cho Trung-nguyên. Kiến Vũ thiên tử phong Nghiêm công tước Lĩnh
Nam công. Nghiêm công một mình một ngựa, mang theo Hợp-phố lục hiệp kinh lược sáu
quận như một giang sơn riêng. Sau đó Nghiêm công dần dần loại hết các thái thú, cử người
thân tín của mình giữ chức Thái-thú, Đô-uý, Đô-sát rồi nắm lấy binh quyền. Đất Lĩnh Nam
trở thành một giang sơn riêng của người. 
Vũ Hỷ ngừng lại một lúc, để cho thính giả nắm được tình hình, rồi nói tiếp: 
– Lĩnh-nam công xuất thân là người nghĩa hiệp, lại là nghĩa đệ của Kiến Vũ thiên tử, được
toàn quyền, vì vậy người muốn các Thái thú thi hành chính sách cai trị dân như Nghiêu,
Thuấn. Nhất là khuyến khích võ lâm dạy võ cho dân chúng tự do. Mấy năm nay dân chúng
được hưởng ngày Nghiêu, tháng Thuấn. Người lại ra lệnh trọng dụng người Việt, vì vậy hiện
tất cả các Huyện-uý đều là người Việt. Chính trong chúng ta đã có tới sáu Huyện-uý. Trước
đây, chỉ có người Hán mới được giữ chức Giám sở Tế-tác tại các huyện. Lĩnh-nam công
cho mở rộng, người Việt được cử vào chức Giám-sở Tế-tác hầu hết các nơi. Riêng tôi còn
được cử làm Đô-sát Cửu-chân. Nhưng... không biết kẻ nào đã xàm tấu với Kiến Vũ thiên tử
rằng: Lĩnh-nam công làm phản, muốn biến Lĩnh Nam này thành một giang sơn riêng. 
Lê Đạo Sinh hỏi: 
– Thế Kiến Vũ thiên tử có tin không? 
Vũ Hỷ tiếp: 
– Không! Nhưng Mã thái hậu thì lại tin. Mã thái hậu lấy kinh nghiệm riêng trong nhà. Trước
đây Kiến Vũ thiên tử theo bá phụ là Cảnh-Thủy hoàng đế cầm quân chinh phạt (7), khi
quyền vào tay đã phản Cảnh Thủy thiên tử. Vì vậy bà cho rằng Nghiêm Công sẽ phản Kiến
Vũ thiên tử. Triều thần, hầu hết là chân tay cũ của Lĩnh-nam công, đều không tin lý luận của
Thái hậu. Song, Thái hậu cũng mua chuộc được một số quan lại mới, cùng anh em giòng họ
Thái-hậu, nên Kiến Vũ thiên tử đã sinh ra hoang mang. 
Lê Đạo Sinh tiếp: 
– Khi chúa đã nghi, bầy tôi chỉ có hai đường: Một là bầy tôi làm phản để sống, hai là chịu
chết. Trước cuộc tranh cãi của hai phe đại thần, Kiến Vũ thiên tử đưa ra quyết định: Cử
Ngũ-phương thần kiếm sang kinh lược Lĩnh Nam. Ngũ-phương thần kiếm trước đây đã từng
nổi dậy giúp Cảnh Thủy hoàng đế đánh chiếm Trường-an, Lâm-đồng, Đồâng-quan. Sau đó
Cảnh Thủy hoàng đế phong chức tước gì cũng không nhận, ngài mới ban cho một thanh
Thượng phương bảo kiếm, được quyền tiền trảm hậu tấu. Ngũ phương thần kiếm cũng có
quen biết với Nghiêm công. Tuy vậy, nếu quả họ thấy Nghiêm Công phản Thiên-tử thì có
quyền giết đi. Nhưng ta không hiểu sao Kiến Vũ thiên tử còn cử Tô Định sang làm Thái thú
Giao-chỉ, khi đã giao Lĩnh Nam cho Lĩnh-nam công thì Thái thú phải do Lĩnh-nam công cử
mới phải chứ? 
Vũ Hỷ nói: 
– Đệ tử đã cho dò thám trong đám tùy tùng của Tô Định, được biết: Mã thái hậu cho rằng
Ngũ phương thần kiếm cô đơn sẽ bị Lĩnh-nam công mưu hại. Cuối cùng bà đưa ra ý kiến
rằng: Bây giờ cứ cử một người thân của Thái hậu là Tô Định sang làm Thái thú Giao-chỉ. Lại
giao cho Tô Định ban hành pháp lệnh mới. Pháp lệnh này hình như hủy bỏ hết cả những
luật lệ của Lĩnh-nam công đã mở rộng cho dân Việt được nhiều quyền. Nếu Lĩnh-nam công
không nhận Tô Định, rõ ràng có ý tham quyền cố vị, tất sẽ làm phản. Còn Lĩnh-nam công,
nhận Tô Định thì vẫn là người trung thành. 
Lê Đạo Sinh ngắt lời: 
– Ngươi có biết Lĩnh-nam công đối phó ra sao không? 
Vũ Hỷ đáp: 
– Lĩnh Nam công được tin này vội họp với Hợp-phố lục hiệp, đưa ra ý kiến rằng: Công chỉ
kinh lược, xếp đặt cho Lĩnh Nam yên ổn, rồi về Trung-nguyên đánh giặc, thống nhất giang
sơn cho Kiến Vũ thiên tử, chứ người đâu có tham cái bả Lĩnh-nam công, nên vui vẻ nhận Tô
Định. Nhưng Tô Định có người con là Tô Phương, sư đệ của Ngũ-phương thần kiếm. Tô
Phương được cử làm Đô-sát Giao-chỉ. Đệ tử e rằng Tô Định dựa thế Mã thái hậu, cùng Tô
Phương sẽ ảnh hưởng vào Ngũ-phương thần kiếm, gây khó dễ cho Lĩnh Nam công. Bây giờ
đệ tử dám xin sư phụ ban quyết định: Chúng ta theo Lĩnh-nam công hay Thái-thú Tô Định? 
Lê Đạo Sinh nói: 
– Ta hiện giờ lĩnh chức Đô-úy của Giao-chỉ, nhưng binh quyền thì phủ Lĩnh-nam công nắm
hết rồi. Về quân sự, ta phải tuân theo lệnh Bình-nam đại tướng quân. Về hành chính, ta trực
tiếp với Tô Định. Vậy ta quyết định đứng ngoài sự tranh chấp giữa Nghiêm công và Mã thái
hậu. Đợi xem tình thế ra sao đã. 
Vũ Hỷ tiếp: 
– Thái thú Tô Định sang Giao-chỉ chuyến này có mang theo một số võ học cao thủ, có ý coi
khinh Lĩnh Nam không người. Ngày mai Thái thú đi Cổ-lễ để ban hành pháp lệnh mới, rất
khắt khe. Con e rằng võ lâm Lĩnh Nam sẽ gây ra chuyện chẳng lành với Thái thú. Vậy thái
độ chúng ta phải ra sao? 
Lê Đạo Sinh nói: 
– Thái thú Tô Định đã mang theo nhiều võ lâm cao thủ, chúng ta nên tìm cách tránh né,
không đi theo. Nếu võ lâm Lĩnh Nam gây sự với Tô Định, cứ mặc cho võ sĩ theo Tô đối phó.
Trai cò hại nhau, ngư ông hưởng lợi. Vậy ta quyết định: Các người đâu về đó, nhứt thiết chờ
thời cơ để quyết định sau. Còn Tô thái thú đi kinh lược đâu, các ngươi không đi theo. Dù có
đi theo, nếu xảy ra sự gì, cứ đứng ngoài, để mặc võ sĩ của Tô thái thú đối phó. 
Bất thình lình Lê Đức Hiệp quát lên: 
– Thằng bé Đào Kỳ, mi gớm thực. 
Nói rồi y vọt ra cửa sổ. Còn lơ lửng trên không, hai tay y đã biến thành trảo chụp xuống Đào
Kỳ. 
Đào Kỳ không ngờ y nhận ra nó. Nó xoạc cẳng xuống đinh tấn, hai tay sử dụng thế cầm nã
bắt tay Đức Hiệp. Đức Hiệp biến chiêu thành quyền đánh vào người nó. Đào Kỳ lộn người
đi, phóng một hồi phong cước vào người Đức Hiệp. Cước, quyền chạm nhau. Đức Hiệp
cảm thấy tay bị tê liệt. Y vội phát chưởng tấn công vào thượng bộ Đào Kỳ. Vì sợ Lê Đạo
Sinh can thiệp, Đào Kỳ hú lên một tiếng rồi phóng mình vào đêm tối. 
Ra khỏi trang Thái-hà, Đào Kỳ nghĩ thầm: 
– Nghiêm đại ca của ta một lòng một dạ với Kiến Vũ thiên tử, thế mà mụ Mã thái hậu lại
mưu hại đại ca. Ngày mai ta sẽ đến Cổ-lễ phá cho Tô Định biết mặt anh hùng Lĩnh Nam một
phen. 
Trước khi lên đường trấn nhậm, Tô Định đã nghiên cứu rất kỹ về các quận phía nam núi
Ngũ-lĩnh. Đây là vùng bờ sôi giếng mật, vàng bạc châu báu rất nhiều, nhưng cũng là vùng
rồng nằm, hổ phục, lắm anh tài. Dân chúng nhà nhà đều tập võ. Định đã từng nghe xưa kia,
đệ nhất võ tướng đời Tần Thủy Hoàng là Đồ Thư bị giết, bởi một võ tướng Lĩnh Nam là Vũ
Bảo Trung. Đất Giao-chỉ là nơi anh hùng tụ tập. Họ đều là người Việt, đang mưu đồ phục
quốc. Các trường võ, các môn phái mọc lên khắp nơi. Y có ý định dẹp hết các môn phái võ,
rồi dần dần đánh phá các Lạc-hầu, Lạc-tướng sau. Có như thế, y mới ngồi yên được. Bởi
vậy y mời cho được một số đầu trộm đuôi cướp, nhưng là những cao thủ thời đại của
Trung-nguyên sang với ý đồ dẹp Giao-chỉ, đàn áp võ lâm anh hùng. Y đã đi an dân khắp các
nơi, nay đến Cổ-đại, Cổ-lễ, Cổ-loa nữa là coi như xong. 
Đi đến đâu y cũng công bố ngũ pháp, cấm tập võ. Các phái, các gia ngơ ngác nhìn nhau,
không dám nói gì. Thảng hoặc có người phản đối, y cho vệ sĩ đánh chết ngay trước công
đường, làm gương cho kẻ khác sợ. 
Nay đến đây, thấy thằng ăn mày con có ý kiến, y ra hiệu cho nó nói. 
Đào Kỳ hiên ngang đứng giữa đình nói lớn: 
– Ngài là quan Thái thú mới đến nhậm chức, đúng như ông Khổng-Tử của quý quốc đã nói:
Phàm các đạo làm quan, phải yêu thương dân như yêu thương con đỏ, lo trước cái lo của
dân, vui sau cái vui của dân. Thế nhưng ngài lại ban ra ngũ pháp cực kỳ khắc nghiệt như
vậy, còn đâu là cái đạo tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ nữa? 
Đám quan lại theo hầu Tô Định quát tháo, đuổi Đào Kỳ đi. Nhưng Tô Định phất tay ra hiệu
bảo im lặng, rồi hỏi: 
– Cậu bé kia, cậu nói cũng có lý, nhưng cậu tên họ là gi? Cha mẹ là ai? Ai xúi cậu ra đây nói
như thế? 
Đào Kỳ trợn mắt, méo mồm, thè lưỡi quay lưng hướng về đám quan lại. Dân chúng được
một phen cười ầm lên. Nhưng đám người Hán thì không nhìn thấy! 
Đào Kỳ thủng thẳng trả lời: 
– Tôi họ Âu, tên Lạc, chẳng có ai xúi tôi ra đây cả. Bởi hai tháng nay tôi nghe các bậc huynh
trưởng trong làng nói rằng: Ngài tân thái thú họ Tô là người thương dân như con, nên mới
mạo muội ra đây để phân trần. 
Mọi người đều biết đứa trẻ nói mỉa Tô Định, nhưng Tô Định lại tươi nét mặt lên, cho rằng
dân chúng ca tụng y thực: 
– Cậu bé kia, ngũ pháp của ta đã ban ra, không thể thu về. Tuy vậy, ta cũng có biệt lệ. Trong
đám vệ sĩ theo ta, có năm người biết chút ít võ nghệ. Nếu trong trang, có ai thắng được một
người, ta sẽ miễn cho một điều. Nếu thắng được cả năm người, ta sẽ miễn cho cả năm
điều. 
Đào Kỳ chụp lấy cơ hội: 
– Sách binh thư của Tôn Tử quý quốc có nói: Quân trung vô hý ngôn. Nghĩa là trong quân,
không được nói đùa. Vậy nếu trong trang có ai thắng được một trong các vệ sĩ của ngài, xin
ngài y lời hứa. 
Tô Định liếc mắt nhìn đám vệ sĩ, lòng đầy tin tưởng: 
– Được, ta hứa! Không sai lời. 
Đào Kỳ chắp tay vái Tô Định, nói: 
– Tôi còn nhỏ, sức không được là bao, vậy đề tài xin cho tôi được chọn phép đấu, không
hiểu các vệ sĩ của ngài có dám cho tôi chọn không? 
Đám võ sĩ nhìn nhau mỉm cười rồi nói: 
– Chú mọi con Giao-chỉ kia, bất cứ đấu văn, đấu võ, đấu thứ gì chúng ta cũng đấu với chú. 
Đào Kỳ chấp tay xá y: 
– Ông là vệ sĩ của Tô thái thú, lại là người Hán, nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Không
được thay đổi. 
Người đứng đầu đám cận vệ nói: 
– Ta là anh hùng người Hán, lời hứa nặng như núi Thái-sơn, không bao giờ đổi. Cậu có biết
núi Thái-sơn ở đâu không? 
Đào Kỳ nghiêm trang trả lời: 
– Thái-sơn là ngọn núi nhỏ ở Trung-nguyên, nhưng lại là hòn núi lớn nhất nước Lỗ, quê
hương của Khổng-Tử (9), nên thường được mang ra để tượng trưng cho sức nặng. Bởi
Khổng-Tử là bậc thánh nhân dạy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho đời, nên người ta mới mang núi
Thái-sơn ra ví von, vừa có ý nghĩa sức nặng, vừa có ý nghĩa đạo lý. 
Nghe Đào Kỳ thuyết về Khổng-Tử, lại ca tụng Thái thú, vệ sĩ đám người Hán cảm thấy đứa
nhỏ này dễ thương, dễ cai trị, chứ không phải là đứa trẻ rắn mắt, do người xúi ra phá rối. 
Tô Định xuất thân là một võ học danh gia, tài kiêm văn võ. Trước khi đến Giao-chỉ trấn
nhậm, Định mang theo năm gia tướng, võ nghệ tuyệt vời, hy vọng giúp Định đối phó với các
môn phái đất Lĩnh Nam. 
Định đi khắp nơi để ban hành ngũ lệnh, không ai dám nói gì. Không ngờ đến vùng Cổ-lễ này
lại gặp một đứa bé dám ra lý luận. Lúc đầu, Định tưởng Đào Kỳ được cha mẹ xúi ra. Nhưng
sau một hồi vấn đáp, Định biết không phải, vì những điều Kỳ nói đều do nhân hoàn cảnh mà
trả lời. Thấy Đào Kỳ lễ phép, Định nghĩ cần phải thu phục đứa trẻ này mới mong dân chúng
trong trang quy phục. 
Định vẫy Đào Kỳ lại gần, hỏi: 
– Cháu ngoan, ta cho cháu chọn đề tài thi. Chỉ cần cháu thắng được một trong năm vị đại ca
đây, ta sẽ miễn cho trang một điều. Vậy cháu muốn đấu gì nào? 
Đào Kỳ cười hích hích,chắp tay vái Định: 
– Cháu đa tạ đại nhân, cuộc thứ nhất cháu xin đấu văn. 
Từ Tô Định cho đến đám quan người Hán, đều ngơ ngác nhìn nhau. Hồi đầu họ tưởng đứa
trẻ sẽ đấu võ, nên mới chỉ vào đám vệ sĩ, không ngờ Đào Kỳ lại xin đấu văn. Khổ một điều,
văn tự là của Trung-nguyên, người Hán tự hào mang văn hiến đi giáo hoá man di, nay đứa
trẻ man di lại xin đấu văn mà không nhận lời thì còn ra thể thống gì nữa? Định đành chỉ một
vệ sĩ: 
– Phương Đại, ngươi ra đấu với nó. 
Phương Đại là một vệ sĩ có nước da trắng, mặt mũi sáng sủa như một văn nhân. Y không
những là một võ sư mà còn là người đọc sách nữa. Y vâng lệnh Tô Định tiến ra đối diện với
Đào Kỳ. 
Tô Định hỏi: 
– Đây, Phương thúc thúc sẽ đấu văn với cháu. 
Phương Đại đầy vẻ kiêu căng hỏi Đào Kỳ: 
– Trong tứ Thư, ngũ Kinh, nếu có điều gì không hiểu, cháu cứ nêu ra, ta sẽ dạy dỗ cho
cháu. 
Đào Kỳ chắp tay xá Phương Đại ba xá: 
– Câu thứ nhất cháu hỏi Phương tiên sinh: Luận-ngữ là sách do đệ tử của Khổng-Tử chép
lại, nên trong 12 thiên, thiên nào cũng có chữ Tử viết tức Khổng-Tử nói. Theo cháu, trong 12
thiên đó có một thiên do chính Khổng-Tử viết nên mới không có chữ Tử viết. Vậy đó là thiên
nào? 
Phương Đại ngơ ngác, lắc đầu không biết, nhưng các quan văn đều gật đầu, vì họ cũng
hiểu như Đào Kỳ. 
Đào Kỳ thấy Phương Đại không trả lời được, nên cười: 
– Phương tiên sinh thua rồi. Cháu hỏi câu thứ nhì: Tư Mã Thiên chép bộ Sử-ký đã chia làm
bản kỷ, bát thư, thế gia, liệt truyện. Bản kỷ chép truyện các vị đế. Thế gia chép truyện các
vương hầu. Liệt truyện chép truyện danh nhân. Có đúng không? 
Phương Đại gật đầu đáp: 
– Đúng như vậy. 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Sai rồi! Nếu Phương tiên sinh nói vậy, chẳng hoá ra coi Hạng Vũ là bậc đế ngang với Cao-tổ hay sao? Trong ngũ pháp Tô đại nhân vừa ban hành có nói rằng: Cao-tổ trước diệt bạo
Tần, sau đánh nguỵ Sở. Nguỵ tức là giặc, tại sao Hạng Vũ được Tư Mã Thiên chép trong
quyển thứ bảy là Hạng Tịch bản kỷ. Muốn chép là bản kỷ thì phải chép là Sở đế bản kỷ chứ
sao lại chép tên tục rất vô lễ là Hạng Tịch bản kỷ? 
Phương Đại ngơ ngác không giải thích được, dù y đã đọc bộ Sử-ký hàng chục lần, nhưng y
không chú ý điều đó. 
Đào Kỳ cười: 
– Phương tiên sinh, người thua rồi. 
Đào Kỳ lại tiếp: 
– Tư Mã Thiên chép truyện các vương thì ghi là thế gia, Khổng phu tử không hề là vương
hầu, sao lại chép là Khổng-tử thế gia? 
Phương Đại lại không trả lời được. 
Tô Định và các quan người Hán đều ngơ ngác nhìn nhau. Sự thực, họ có đọc sách, nhưng
không hề chú ý đến những điều đó. 
Dân chúng trong trang đầu vẻ tự hào. 
Có tiếng thì thào: 
– Thằng bé thực lạ lùng. Nó đã lớn gan, còn thông minh nữa. 
– Chuyện, nó là con cầu tự. Thần đồng giáng sinh đó. 
– Bà biết gì mà nói. Trai đất Giao-chỉ có thua gì ai? 
Tô Định vừa sung sướng, vừa lo nghĩ: 
– Thằng bé này đã thông minh kỳ lạ như vậy, hẳn thầy nó chắc không phải tay tầm thường.
Ta đã hứa thì phải thực hành lời hứa. 
Nghĩ rồi, Định gật đầu: 
– Cháu giỏi lắm, ta miễn cho dân làng này điều thứ nhất. 
Đào Kỳ chắp tay vái: 
– Đức đại thánh vạn tuế. 
Quan huyện lệnh hỏi Kỳ: 
– Tại sao cháu không tạ ơn Thái thú đại nhân, lại đi tung hô đại-thánh? 
Kỳ hiên ngang: 
– Đức thánh Khổng dạy nhân nghĩa cho đời, Thái thú đại nhân là người thấm nhuần đạo lý
đại-thánh nên giữ lời hứa. Do vậy cháu tung hô đại-thánh. 
Tô Định cắn môi suy nghĩ: 
– Thằng nhỏ này đã khôn lại ngoan, nó ca tụng Khổng-Tử rồi mượn Khổng-Tử để buộc ta
vào lễ nghĩa, bản lãnh nó không vừa. Phải cẩn thận, nếu không sẽ hỏng với nó. 
Định hỏi: 
– Cháu muốn đấu nữa không? 
Kỳ đáp: 
– Cháu muốn đấu võ. 
Tiếng oà vang lên. Dù dân trang hay quan quân người Hán cũng đều ngạc nhiên, vì với khí
lực của đứa trẻ 17 tuổi làm sao có thể thắng đám võ sư như rồng, như hổ của Tô Định kia? 
Tô Định lại hỏi: 
– Cháu muốn đấu quyền, đấu vật hay đấu vũ khí? 
Đào Kỳ nói: 
– Cháu muốn cùng các vị thúc thúc đây đấu võ dưới nước. Thể lệ đấu như thế này: Cả hai
nhảy xuống nước, đấu quyền. Nếu ai mệt, hoặc bị chìm thì coi như thua cuộc. 
Tô Định cũng như đám tướng sĩ theo hầu, đều là những người võ học tuyệt đỉnh, đánh dư
trăm trận, nhưng họ không thông thạo thuỷ tính. Nếu bơi lội một lúc thì được, chứ còn giao
chiến dưới nước thì không thể được. Nhưng Định hy vọng đứa trẻ 17 tuổi, khí lực không là
bao, chỉ cần túm được nó, mọi chuyện sẽ xong xuôi. Y muốn tỏ ra mình là đại quan người
Hán, mang lễ nghĩa đi giáo hoá Nam man, nên y phải giữ lời hứa. Y hướng vào đám võ sĩ,
hỏi: 
– Có ai đại diện ra đấu với đứa trẻ này không? 
Trong năm võ sư theo hầu Tô Định, có Hầu Mạnh Đức là người bơi lội giỏi nhất. Đức bước
ra thưa: 
– Tiểu nhân nhận đấu trận này. 
Từ đình đến bờ sông không xa, Tô Định cùng các quan người Hán đồng kéo ra bờ sông.
Dân chúng thấy lạ cũng ùn ùn đi theo. Hy vọng Đào Kỳ thắng được trận nào, bớt được cái
ách đó. Tới bờ sông, Đào Kỳ leo lên ngọn cây rồi nhảy ùm xuống sông. Hầu Mạnh Đức cũng
nhảy vút lên cao, y đá gió một cái, lộn người xuống sông. Thế nhảy này chứng tỏ khinh công
của y đã vào mức thượng thừa. Lối nhảy vừa tỏ ra người có bản lĩnh cao, vừa đẹp mắt.
Xuống nước, y bơi ra giữa sông, chập chờn đợi Đào Kỳ. Nhưng chờ đợi mãi không thấy Kỳ
đâu. Tô Định cũng như dân chúng đều ngơ ngác tìm Kỳ, nhưng vẫn biệt tăm. Họ cho rằng
Đào Kỳ lặn sâu dưới nước, để bất thần nổi lên đánh Mạnh Đức, nên chờ đợi, nhưng chờ
hoài cũng không thấy tăm hơi. Về phía người Việt đã hơi sốt ruột: 
– Hay là nó bị nước cuốn chết rồi? 
– Hay là nó bị giao long nuốt mất rồi? 
– Có lẽ nhảy xuống đụng đá, đau quá, chết chìm dưới đáy nước rồi! 
Lại một khắc nữa qua đi, vẫn không thấy Đào Kỳ đâu. Mạnh Đức bơi đã thấy mệt, y nằm
ngửa lên mặt nước chờ. Chờ đến nửa giờ (một giờ cổ bằng hai giờ ngày nay) không thấy
Đào Kỳ nổi lên, phía người Việt đã có tiếng than: 
– Thôi chắc chết thật rồi! 
– Ai có thể ở dưới nước lâu như vậy được? 
Tô Định sai lính cầm loa truyền: 
– Quan Thái thú truyền cho Mạnh Đức vào bờ. Âu Lạc chết rồi. 
 Mạnh Đức đã mệt rã cả chân tay, vội lập lờ bơi vào bờ. Nhưng khi cách bờ vài trượng,
bỗng y kêu thét lên một tiếng rồi chìm nghỉm. Trên bờ không ai hiểu tại sao. 
Có tiếng kêu: 
– Thôi rồi, chuột rút rồi. 
– Không phải đâu, giao long cuốn mất đấy. 
Nhưng chỉ một lát sau, y nổi lên cùng với Đào Kỳ. Tay Kỳ cầm búi tóc y lôi vào bờ. Vì bị
uống nước no, bụng y phình ra như cái trống. Bạn hữu xúm lại dốc ngược người y cho
nước chảy ra, rồi làm hô hấp. Một lát, y mở mắt nhìn. Câu đầu tiên là chửi thề: 
– Tiên sư con mẹ nó, thằng Nam man con nó bóp... bóp...da... ai... da... ái tôi. 
Tô Định lại gần hỏi: 
– Nó bóp chỗ nào? 
Mạnh Đức nhăn nhó chỉ vào hạ bộ. 
Tô Định cảm thấy có sự gì quái gở, nhưng tìm không ra. Y cũng như những người Việt có
mặt đều không thể tin được rằng, Đào Kỳ có thể lặn lâu dưới nước một thời gian như thế,
để rồi khi Mạnh Đức mệt nhừ, mới nổi lên bóp... dế đến nỗi y ngất xỉu đi, bị Kỳ dìm xuống
nước. Y quay lại nhìn Đào Kỳ thấy Kỳ đã quỳ bên cạnh từ bao giờ. Bao nhiêu giận hờn, nghi
ngờ trong lòng y tan hết, y nghĩ: 
– Đứa trẻ này bất kỳ dùng mưu trí quỷ quái gì thắng vệ sĩ của mình cũng là thắng. Thắng rồi,
nó còn quỳ bên cạnh để cầu xin, vậy ta cũng nên gia ơn bố đức cho dân để mua chút cảm
tình mai hậu. 
Tô Định tuyên bố: 
– Cuộc đấu thứ nhì, Âu Lạc thắng. Ta miễn cho dân trang khoản thứ nhì. 
Dân trong trang đồng la lên: 
– Đa tạ Thái thú đại nhân. 
Nguyên Đào Kỳ nổi tiếng bơi giỏi từ nhỏ. Sư huynh, sư tỷ đã tặng cho nó biệt hiệu là con rái
cá. Trước khi thi, nó đã dắt vào lưng một ống sậy nhỏ. Khi nhảy xuống nước, nó đứng tận
dưới lòng sông, cho ống sậy ló đầu lên. Nó ngậm ống sậy hút hơi để thở. Mắt nó mở trừng
trừng nhìn Hầu Mạnh Đức. Đến khi thấy Đức bơi vào bờ, nó mới lặn theo, bóp dế cho y ngất
xỉu, dìm y xuống nước cho uống nước no, rồi mới nổi lên. 
Tô Định nói với các bô lão trong làng: 
– Trang này có được một thần đồng, xứng đáng để ta miễn cho hai điều. Nếu Âu Lạc hay
bất cứ ai thắng được các vệ sĩ của ta hai cuộc nữa, sẽ được miễn bốn khoản. Riêng khoản
cuối cùng không thể khoan miễn. 
Đào Kỳ tiến lên nói: 
– Khải bẩm đại nhân, cháu xin đấu vật. 
Đám quan người Hán cười ồ lên. Bởi Đào Kỳ mới 17, 18 tuổi, thân thể tuy có chắc chắn
thật, nhưng đứng cạnh các vệ sĩ của Thái thúc thì thực là cái trứng chống bên hòn đá. Họ là
võ sĩ, khinh công phải thuộc loại tuyệt đỉnh. Họ lại to lớn, kềnh càng. Nếu đấu vật, làm sao
Kỳ thắng được? 
Huyện-lệnh hỏi lại: 
– Thằng bé Nam man kia, có thực mi muốn đấu vật với các vị võ sư đây không? Mi không
sợ chết sao? 
Kỳ chắp tay thưa: 
– Cháu là thân phận hèn mọn, đâu dám đấu vật với các ngài võ sĩ. Bây giờ thế này: Mang ra
đây hai con trâu lớn. Các ngài võ sĩ chọn một con. Con còn lại thuộc phần cháu. Hai bên
cùng nhảy vào vật với trâu. Ai vật trâu ngã trước, người đó thắng. 
Lòng Tô Định đầy hứng thú. Y nghĩ thầm: Trong trang có đứa trẻ thông minh như thế này, ta
sẽ chu cấp tiền bạc cho nó ăn học. Lớn lên nó sẽ là chân tay của ta, dùng để trị lũ Nam
man, lo gì không yên? 
Dân trang đã dẫn đến hai con trâu mộng to lớn, khoẻ mạnh. Tô Định chỉ vào một võ sĩ to
lớn: 
– Triệu Thiết, mi ra vật với trâu đi. 
Tô Định mang sang Giao-chỉ năm đại võ sĩ. Y muốn mang năm võ sĩ đi các nơi biểu dương,
đe doạ người Việt. Nhưng khi đến đây, một người vì đấu văn mà bại, một người đấu dưới
nước bị bại một cách mơ hồ. Bây giờ tới vật trâu, thì không còn sợ gian mưu nữa. Y hy vọng
thế nào Triệu Thiết cũng tỏ được võ công của Trung-nguyên. Năm trước Thiết đã từng hai
tay không đánh chết hổ trên núi vùng Mân Triết, nay cũng hai tay đó, y đánh chết trâu thực
quá dễ dàng. 
Triệu Thiết ngắm nghía hai con trâu, rồi y chọn con nhỏ hơn để đấu. Mọi người lui ra thành
một vòng lớn. Bọn võ sĩ, vệ sĩ cầm binh khí đứng cản phía trong vòng đấu, đề phòng lỡ trâu
nổi điên húc người. 
Trâu và Triệu Thiết đứng giữa sân. Y cởi hết quần áo, chỉ còn cái quần lót. Người y to lớn,
bắp thịt nổi cuồn cuộn. Y khoanh tay quyền, chuyển động chân tay, gân cốt kêu răng rắc rồi
tiến đến cây lúc lác gần đó xuống tấn đánh một quyền. Cây lúc lác to bằng bắp chân gãy
đến rắc một cái, rồi đổ kềnh xuống. Từ các quan người Hán đến dân xã đều vỗ tay. Y tiến
đến trước trâu, ôm quyền thủ thế. Tô Định cầm dùi đánh tiếng trống thứ nhất. Thiết tiến lên,
xuống trung bình tấn, hai tay nắm hai sừng trâu đè xuống. Con trâu rống lên một tiếng rồi
hất đầu lên cao. Thiết vẫn không bỏ sừng trâu. Người y lộn đi một vòng, ngồi lên thân trâu.
Hai tay y ra thế Chung cổ tề minh đánh vào hai vai trâu. Trâu đau quá rống lên một tiếng,
quẹo đầu lại, dùng sừng chém vào chân y. Y nhảy vọt lên cao như chiếc pháo thăng thiên,
rồi từ từ đáp xuống trước đầu trâu. Trâu nổi hung xông lên húc Thiết. Thiết dùng đinh tấn,
hay tay cầm chắc sừng trâu mà đẩy. Trâu cũng dùng sức để đẩy. Một người, một vật không
ai nhường ai. Được một lúc, bất thình lình Thiết nhảy qua một bên. Trâu mất đà lao về phía
trước, Thiết vung quyền đấm vào bụng trâu. Trâu đau quá, rống lên một tiếng, quay đầu lại
húc Thiết. Thiết tránh sang một bên, hai tay biến thành trảo, chụp vào đầu trâu, móc lòi hai
con ngươi ra, rồi thuận tay nắm sừng trâu vặn trái. Trâu đau quá rống lên một tiếng rồi ngã
lăn. Quan lại, dân chúng cùng reo vang như sấm. 
Thiết tiến lại trước Tô Định, vái một vái: 
– Tiểu nhân chờ lệnh đại nhân. 
Tô Định lấy trong bọc ra một nén vàng, trao cho Thiết: 
_ Ta thưởng cho ngươi. 
Tô Định ấm ức vì các võ sĩ của mình chưa được dịp thi thố tài năng. Nay thấy Thiết vật ngã
trâu, biểu lộ sức khoẻ vô địch trước dân chúng, y mừng quá, quên mất rằng còn cuộc đấu
của Đào Kỳ. 
Y tuyên bố: 
– Trong 60 tiếng trống, Triệu Thiết đã vật ngã trâu. Nếu nay Đào Kỳ cũng trong 60 tiếng
trống vật ngã được trâu, coi như thắng. Dân trong trang được miễn khoản ba. 
Con trâu mộng được dẫn ra, đứng trước mặt Đào Kỳ. Nó khoan thai đứng chờ, khoanh tay
trước con trâu mộng. Tất cả mọi người dù Hán hay Việt cũng không thể tin được Kỳ sẽ
thắng. Có người còn lo sợ Kỳ sẽ bị trâu chém chết. 
Tô Định hỏi Kỳ: 
– Cháu chuẩn bị xong chưa? 
Kỳ đáp: 
– Xong rồi. 
Tô Định cầm dùi lên đánh tiếng trống thứ nhất. Chỉ thấy Đào Kỳ xuống đinh tấn, tay trái úp
lên lưng mình, tay phải đánh thẳng vào đầu trâu. Trâu rống lên một tiếng rồi đổ kềnh sang
một bên. Vừa lúc Tô Định đánh tiếng trống thứ nhì. Không ai nhìn rõ Kỳ đã đánh vào huyệt
nào của trâu? Cử toạ Hán, Việt đều reo hò ầm ĩ. Tô Định tiến lên xem xét, thấy trâu đã đứng
dậy, không một vết thương nào cả. 
Y lắc đầu hỏi Đào Kỳ: 
– Cháu dùng thế gì để đánh ngã trâu vậy? 
Kỳ đáp: 
– Cháu dùng Phục ngưu thần chưởng của Vạn-tín hầu. Đó là thức thứ bảy tên là Ngưu đảo
ư địa. 
Nói đến Vạn-tín hầu, Tô Định biến sắc mặt, không nói gì. Trở vào đình, lên ghế ngồi. 
Nguyên Phục ngưu thần chưởng là chưởng pháp do thánh Tản-viên Sơn Tinh chế ra. Mỗi
chiêu bao gồm chưởng, quyền, cước, chỉ, trảo biến hoá vô cùng. Chưởng được đặt tên
Phục ngưu, nghĩa là hàng phục trâu. Khởi đầu, Sơn Tinh luyện tập bằng cách lấy trâu làm
vật chịu đòn. Vì vậy chưởng pháp này đánh bất cứ thú vật nào cũng không hiệu nghiệm
bằng đánh trâu. Do thế, với công lực hiện thời của Đào Kỳ, nếu nó dùng chưởng Cửu-chân,
ít ra cũng phải bảy, tám chiêu trâu mới ngã. Nhưng nó dùng chưởng Phục ngưu sở trường
đánh trâu, nên chỉ một chiêu, trâu đã ngã lăn ra. Trong chiêu Ngưu đảo ư địa, nghĩa là trâu
ngã xuống đất, mục đích để vật trâu. Nó dùng hai ngón tay đã vận kình lực, bất thần chọc
vào hai lỗ mũi trâu. Con trâu bị đau rung động cả đầu, phản ứng lại bằng cách nghiêng đầu
đi. Nó tiếp tục dồn chân khí sang, khiến cho hai chân trước của trâu như bị tê liệt. Vì vậy,
trâu mới ngã lăn xuống đất. Có điều nó ra chiêu thần tốc với âm kình của phái Long-biên,
nên không ai nhìn rõ nó đánh trâu bằng cách nào. 
Huyện lệnh hỏi Tô Định: 
– Ban nãy Âu Lạc nói đến Phục ngưu thần chưởng tại sao đại nhân lại tỏ vẻ đăm chiêu? 
Tô Định gật đầu: 
– Ta không phải đăm chiêu mà thực ra là lo sợ. Nhà ngươi không biết đấy thôi, Phục ngưu
thần chưởng là bộ chưởng vô địch thiên hạ. Khắp Trung-nguyên, Hung-nô, Mân Việt, phàm
những ai đã học võ, nghe đến tên đều táng đởm kinh hồn. Khi xưa, sư phụ dạy võ cho ta có
nói : Quyền pháp của người là quyền pháp vô địch. Nhưng khi đối trận với Phục ngưu thần
chưởng thì phải tránh cho xa. Bởi thần chưởng này xưa nay chưa ai địch lại . 
Huyện lệnh lại hỏi: 
– Vạn-tín hầu là nhân vật thế nào? 
Tô Định không trả lời, mắt y mơ màng nhìn về hướng chân trời xa, lẩm bẩm: 
– Ta vẫn tưởng từ khi An Dương vương bị Triệu Đà đánh bại, chưởng pháp này đã thất
truyền. Không ngờ người Việt vẫn lưu giữ được. Sư phụ ta trước đây gặp một đối thủ, y chỉ
biết có một thức trong Phục ngưu chưởng, đã khiến cho lão nhân gia lộn hai vòng, đau đến
ba năm mới khỏi. 
Y lắc đầu liên tiếp: 
– Huyện lệnh không biết là phải: Năm Canh Thìn, nhằm niên hiệu Thục An Dương vương
thứ 37, bên Trung-hoa niên hiệu Tần Thủy Hoàng năm thứ 26. Thủy Hoàng muốn mang
quân đánh Âu-Lạc. Trước khi đánh, Thuỷ Hoàng cho dò thám tình hình, phong thổ, nhân vật
Âu-Lạc. Lệnh cho An Dương vương phải cống mười võ sĩ. An Dương vương cho Lý Thân
mang mười đệ tử sang cống. Đến kinh đô nhà Tần ở Hàm-dương. Lý Thân dùng Phục ngưu
thần chưởng đấu với các vệ sĩ của vua Tần, thường chỉ một chiêu đã thủ thắng. Thuỷ
Hoàng cho Lý Thân làm tướng đánh Hung-nô. Sau khi dẹp xong Hung-nô, Thủy Hoàng
phong Lý Thân làm Vạn-tín hầu, cho về Âu-Lạc thăm nhà. Trở về Âu-Lạc, Lý Thân cùng đệ
tử trốn vào rừng ở ẩn không trở lại Trung-nguyên nữa. Năm Bính Tuất (215 trước Tây lịch),
nhằm niên hiệu An Dương vương thứ 43 và niên hiệu thứ 32 Tần Thuỷ Hoàng, quân Hung-nô lại vượt Vạn-lý trường thành vào đánh Trung-nguyên. Thủy Hoàng sai tướng Mông Điềm
cầm quân chống giặc, nhưng bị thua. Thủy Hoàng sai sứ sang Âu-Lạc triệu Vạn-tín hầu Lý
Thân. Ông trốn vào rừng ở ẩn. An Dương vương cáo rằng Lý Thân đã chết. Sứ về tâu lại.
Thủy Hoàng biết Lý Thân chưa chết, truyền sứ giả đòi An Dương vương đưa xác Lý Thân
về Tần. Lý Thân không muốn để An Dương vương bị luỵ, ông triệu đệ tử lại, truyền người
thừa kế, rồi tuyệt hơi thở mà thác. Đệ tử y lời, mang xác sư phụ ướp lại, đóng quan tài đưa
về Tần. Thủy Hoàng sai mở nắp quan tài ra, thấy xác Lý Thân còn tươi, sai chôn cất theo lễ
vương, rồi đúc một tượng bằng đồng giống hệt Lý Thân, đặt ở cửa Tư-mã thành Hàm-dương. Tượng rất lớn, trong đặt lính điều khiển. Khi sứ giả Hung-nô qua, thấy tượng Lý
Thân, chân tay múa võ như người sống. Sứ Hung-nô về tâu lại với chúa. Từ đấy, Hung-nô
không dám nhập Trung-nguyên quấy rối nữa. 
Trong sử Việt Nam thường gọi Lý Thân bằng tên Lý Ông Trọng. Đến đời nhà Đường, Triệu
Xương sang cai trị Giao-châu, khâm phục Lý Thân, cho lập đền thờ bên sông Hồng thuộc xã
Thụy-Hương, huyện Từ-liêm, nay thuộc Hà-nội. Sau Cao Biền sang cai trị Giao-châu, cho
đúc tượng Lý Thân để thờ, gọi là tượng Lý Hiệu-úy. Tượng đó nay còn ở Hà-nội. 
Tài liệu chữ Hán: 
ĐVSKTT, Ngoại kỷ. 
KĐVSTGCM, Tiền-biên, Q1. 
Đại Việt địa chí. 
Nam Việt địa dư chí. 
Địa dư chí. 
Hoàng Việt địa dư. 
Nam sử lược biên. 
Thăng-long cổ tích khảo. 
Nhị hoàng di ái lục. 
Long-biên bách nhị vịnh. 
Chư dư tạp biên. 
Thoái thực kỳ văn. 
Trở lại với Tô Định, khi học võ, được sư phụ kể lại uy mãnh của Phục ngưu thần chưởng 36
thức, y đã sợ bóng sợ gió pho chưởng này. Lúc lên đường sang Giao-chỉ, y tự biết mình đã
nhập vào vùng rồng nằm hổ phục. Với năm võ sĩ vô địch vùng Mân Việt, Tây-xuyên, y tưởng
rằng sẽ trấn áp được đất Giao-chỉ, không ngờ khi đến trang nhỏ này, thấy đứa bé 17, 18 tuổi
có thể sử dụng chưởng pháp dễ dàng đánh ngã con trâu mộng, trong đầu óc y đầy nghi vấn:
Thế thì tất cả những võ công của Vạn-tín hầu, dân chúng đều biết, vậy khó mà sống cho yên
ổn được. Y có biết đâu, ngoài Đào Kỳ ra, có ai học được đâu? Y tuyên bố Đào Kỳ thắng mà
lòng đầy hoang mang. 
Y hỏi: 
– Trận thứ ba cháu đã thắng, ta miễn cho trang ba khoản. Còn trận đấu thứ tư là thi chạy,
vậy cháu có dám đấu nữa không? 
Đào Kỳ hiên ngang đáp: 
– Dù thắng, dù bại cháu cũng phải đấu, vì đấu sẽ đem lại cho trang tránh được nạn lao
quân. Bây giờ thế này, cháu cùng các vị thúc thúc đây chạy thi dưới ruộng nước. Chớ còn
chạy trên bộ thì thường quá rồi. 
Tô Định chỉ một võ sĩ cao nghệu, đứng bên cạnh: 
– Lý Tam Mạnh, ngươi ra đua với cháu nhỏ này đi. 
Tam Mạnh chắp tay tuân lệnh. Tất cả tiến đến thửa ruộng đấu nước phía sau đình. Cả hai
cởi giày dép, quần áo, chỉ được mặc đồ lót. 
Tô Định nói: 
– Thửa ruộng này rộng ước trăm trượng. Ta đánh một tiếng trống thì hai người cùng chạy.
Hễ ai tới bờ bên kia trước thì thắng. 
Tô Định cùng dân trang đinh ninh kỳ này Đào Kỳ không thể nào thắng được Tam Mạnh, vì
Kỳ chỉ đứng tới vai y mà thôi. 
Tô Định cầm dùi đánh tiếng trống thứ nhất. Cả hai đều nhảy xuống rộng. Tam Mạnh nhảy
xuống, vì người y nặng nên chân bị lút tới đầu gối, y luống cuống rút chân lên. Còn Đào Kỳ,
nó nhảy đúng hai gốc rạ, chân không bị lún, cứ lần theo các gốc rạ mà chạy. Khi Tam Mạnh
khám phá ra mưu kế của Kỳ thì đã trễ. Y cố vượt lên theo, nhưng vẫn tới bờ bên kia sau Kỳ
một bước. 
Tô Định tuyên bố Đào Kỳ thắng, miễn cho trang bốn khoản. Cả trang cúi lạy. 
Tô Định gọi Đào Kỳ đến cạnh, móc túi ra ba thoi vàng trao cho Kỳ và nói: 
– Cháu thực thông minh hiếm có, hãy cố gắng học hỏi. Nếu sau này cháu có gặp những
điều bất như ý, cứ đến thăm Luy-lâu gặp ta, ta sẽ giúp cháu. 
Tô Định vốn người xảo quyệt, bề ngoài y tỏ vẻ thua Đào Kỳ, nhưng bề trong y đang liệu bề
tính toán. Đợi sau khi rời Cổ-đại, y sẽ cho tế tác điều tra lý lịch Đào Kỳ và xem ai là người đã
xúi dục Kỳ. 
Khi Tô Định đi rồi, người Cổ-đại vây quanh Đào Kỳ, khâm phục nó như một vị đại cứu tinh. 
Cô gái tên Thánh Thiên tới trước mặt nó chắp tay hành lễ: 
– Cậu em, gia đình cậu ở đâu? Tại sao lại lưu lạc ăn mày? Cậu giỏi văn, giỏi võ như vậy, đi
ăn mày thì vô lý quá. Thôi, cậu về nhà chị đi. Nhà chị cũng không nghèo lắm, cậu yên tâm. 
Kỳ theo Thánh Thiên về nhà. Vừa bước vào nhà, nó cảm thấy như có ai đánh trộm phía sau
lưng. Nó vội trầm người xuống tránh, đồng thời vung tay ra sau phản kích. Trong lúc vội vã,
nó sử dụng tới chưởng pháp học trong thẻ đồng của cây gậy. Chưởng của nó gặp chưởng
người lạ, chạm nhau đến bịch một cái. Nó quay đầu lại. Đứng trước mặt nó là một người
đàn ông tuổi đã khá cao, mặt bịt một chiếc khăn lụa. 
Người đó suy nghĩ một lúc rồi nói: 
– Thực là cao nhân. Tiếp chưởng nữa của lão. 
Ông vận đủ mười thành công lực phóng ra. Chưởng phong chưa tới, Đào Kỳ đã cảm thấy
người ngộp thở. Nó không dám coi thường, vội vận sức chống lại. Hai chưởng gặp nhau lần
này nghe đến “xịt” một cái. Vì Kỳ vận âm kình, chưởng hoá âm nhu. Người kia mượn thế
chưởng của Kỳ lùi lại, rồi bỏ chạy. Y dơ tay vẫy Kỳ. Đào Kỳ vội rượt theo. Hai người chạy
được khá xa, người kia ngừng lại, ngồi xuống nơi gốc cây đa. Đào Kỳ thấy y dường như
không có ác ý, hỏi: 
– Xin lão bá cho biết cao danh quý tính. Lão bá gọi tiểu điệt tới đây có điều gì dạy bảo? 
Người kia cười: 
– Trọn đời lão chưa từng thấy ai có chưởng lực mạnh như vậy. Trên giang hồ trước đây chỉ
có Đặng Thi Kế của phái Tản-viên và sư thúc của ta là có chưởng lực như vậy thôi. Tiểu
hữu, người học chưởng này ở đâu vậy? Sư phụ người là ai? 
Đào Kỳ nói: 
– Cháu không có sư phụ. Cháu học võ với bố cháu, nhưng những chưởng vừa rồi lại không
do bố cháu dạy. Vì một nỗi khổ tâm riêng, cháu không thể nói tên bố cháu ra được. 
Người kia nói: 
– Tiểu hữu, người vừa sử dụng Phục ngưu thần chưởng đấu với ta. Chưởng thứ nhất là
Thanh ngưu nhập điền, chưởng thứ nhì là Ngưu ngọa ư sơn. Chưởng thứ nhất là dương
cương. Chưởng thứ nhì là âm nhu. Trong thiên hạ chỉ có Lê Đạo Sinh biết được những
chưởng này mà thôi. Nhưng y chỉ biết có 12 chưởng thuộc dương cương. Thức Thanh ngưu
nhập điền tiểu hữu sử dụng còn trầm mãnh hơn y. Còn chiêu Ngưu ngoạ ư sơn thì Lê Đạo
Sinh không biết. Tiểu hữu, người là người phái Tản-viên chăng? Tại sao tiểu hữu lại nói
theo giọng vùng Cửu-chân, và biết vận âm kình của phái Long-biên, lão thực không hiểu
nổi? 
Đào Kỳ thấy lão phẩm bình về võ học của mình không sai, nên nó biết ngay đây là một đệ
nhất cao nhân đương thời, ít ra cũng ngang hàng với bố, cậu của nó, nên nó càng tỏ ra
khách khí: 
– Lão bá dạy quả đúng. Hai chiêu vừa rồi, cháu thuận tay phản đòn chứ không kịp suy nghĩ.
Chưởng lực của lão bá hùng mạnh vô cùng. Nếu cháu không dùng Phục ngưu thần chưởng
thì không chống lại được. Thời thơ ấu, cháu sống ở vùng Cửu-chân. Chưởng pháp cháu sử
dụng là của Văn-Lang, chứ cháu không phải là người của Tản-viên. 
Lão già lại nói: 
– Hồi sáng nay, lẫn trong dân chúng quan sát, ta thấy lúc chạy ra sông thi bơi, tiểu hữu dùng
thân pháp của phái Cửu-chân, chỉ chạy có năm đầu ngón chân. Lúc đánh nhau dưới nước
thì dùng hai chiêu của phái Sài-sơn, lúc thi chạy lại dùng khinh công của thánh Chèm, và khi
vật ngã trâu lại dùng võ công gì, ta cũng không nhìn ra. Khi đấu chưởng với ta, thì dùng
chưởng pháp của Tản Viên. Hà... lão già này thực hủ lậu. 
Đào Kỳ thấy lão quả thực tinh mắt. Nó học võ công của cha thuộc phái Cửu-chân, nên tòng
tâm sử dụng, lão nhìn ra nó là lẽ thường. Nhưng nó chỉ học lỏm của Nguyễn Tam Trinh hai
chiêu hôm lão bắt Nghiêm Sơn trên sông Hồng, thế mà lão cũng nhìn ra. Nó hỏi: 
– Thưa lão bá, thánh Chèm là ai? Tại sao cháu sử dụng võ công của Văn-Lang, lão bá lại
bảo là võ công của phái Tản-viên? 
Lão già lột chiếc khăn che mặt ra, Đào Kỳ ồ lên một tiếng, vì thấy lão là một người tiên
phong đạo cốt. Tuổi tuy cao, nhưng mặt như ngọc, râu lốm đốm bạc, dài tới rốn. Hai mắt
sáng như điện. Răng lão đều như hàng ngô. Lão nói: 
– Nguyên Vạn-tín hầu Lý Thân là người đất Chèm, vì vậy người đời còn dùng tên đất để gọi
ngài. Còn Phục ngưu thần chưởng nguyên của Sơn Tinh thuộc dương cương. Sau Vạn-tín
hầu thắng Sơn Tinh mà vẫn phục tài đối thủ, bèn dùng nội công âm nhu chế ra 36 chiêu
khác, khắc chế lại. 
Đào Kỳ im lặng không nói gì. Người kia lại nói: 
– Vừa rồi tiểu hữu thắng Tô Định, cứu được dân Cổ-đại nhưng y không để yên đâu. Y vốn
người thâm hiểm, y sẽ cho người theo dõi và mưu hại tiểu hữu đó. Tiểu hữu mau rời khỏi
nơi đây. Bây giờ tiểu hữu định đi đâu? 
Đào Kỳ nhớ lời Nguyễn Phan dặn mình đến trang Cối-giang để trao cho Nguyễn Trát một
bài quyết về võ học, nên vội nói: 
– Tiểu bối định đi Cối-giang. 
Người kia thoáng một vẻ kinh ngạc, rồi nói: 
– Tiểu hữu định đi Cối-giang à? Thế thì cùng đường với ta. Nào, chúng ta cùng đi một thể. 
Thế là thủy chung lão già vẫn cứ gọi Đào Kỳ là Âu Lạc. 
Hai người, một già, một trẻ cùng nhau đi về hướng Cối-giang. Khi tới một cánh rừng, phía
trước có hai người mặc quan phục Hán cỡi ngựa, phía sau có một thiếu nữ bị trói ngồi trên
mình một con ngựa khác. Đào Kỳ nhận ngay ra thiếu nữ đó chính là Thánh Thiên. Nó nổi
giận, định sinh sự. Lão già nói: 
– Quân binh Hán rất tàn bạo, tiểu hữu để mặc lão đối phó, đừng nên lộ thân thể không mấy
tốt đẹp. 
Đào Kỳ đã một lần kinh nghiệm về vụ cứu cô gái tên Tiá, nên lần này nó thận trọng hơn. Lão
già dắt nó tránh sang bên nhường chỗ cho ba con ngựa đi. 
Thánh Thiên kêu lên: 
– Âu Lạc, cứu chị với! 
Lão già hỏi người quan binh béo mập: 
– Thưa quan, chẳng hay cô gái này phạm tội gì? 
Tên béo mập cười hì hì: 
– Chả có tội gì cả! Huyện-úy sai bọn ta mời cô về để đưa lên Luy-lâu làm Thái thú phu nhân.
Ngươi muốn sống thì đừng can thiệp vào. 
Lão già im lặng, rồi bỗng phi thân nhảy lên, không hiểu lão dùng thủ pháp gì, chỉ thấy thoáng
một cái, hai tên quan bịnh bị tát hai cái bốp, bốp. Thuận tay, ông nhấc thiếu nữ xuống đất.
Chỉ một cái bấu tay, bao nhiêu dây trói cô gái bị đứt hết. 
Hai tên quân binh hét lên một tiếng, rút kiếm khỏi vỏ, nhảy xuống vây quanh ông lão. Lão lơ
đãng nhìn phương trời xa xa dường như đang suy nghĩ một điều gì. Hai tên quân binh múa
đao nhảy vào chém. Lão vung tay bắt đao, nắm chặt lấy sống đao. Hai tên quan binh cố
gắng vùng vẫy, giằng co, hai cây đao như đóng đinh vào cột, không hề chuyển động. Không
hiểu lão chuyển động tay thế nào, bỗng hai tên quân binh ngã chúi về phía lão, té lộn xuống
như người quỳ trước mặt Thánh Thiên. Hai thanh đao lão dí vào cổ chúng. Chúng sợ quá,
chắp tay lạy lia lịa: 
– Trăm lạy lão gia, xin lão gia tha mạng. Chúng con chỉ là người thừa hành mệnh lệnh của
Huyện-úy mà thôi. 
Lão già thu đao về, phất tay ra hiệu cho chúng đi. Hai tên vội nhảy lên ngựa phóng đi như
bay. 
Đào Kỳ chú ý đến thủ pháp của lão thì rõ ràng là võ công Long-biên. Những chiêu thức của
lão giống hệt những chiêu thức Nguyễn Phan dạy nó. Có điều lão sử dụng rất thành thục.
Nó buột miệng kêu lên: 
– Úi chà! 
Lão già bảo Thánh Thiên: 
– Cháu không về nhà được nữa. Tô Định chỉ muốn bắt cháu. Không thấy cháu, ta đồ rằng
hắn không hại cha cháu đâu. 
Thánh Thiên đi theo Đào Kỳ với ông lão. 
Thánh Thiên hỏi: 
– Long-biên nhị hiệp, cháu có một điều không hiểu tại sao cha cháu cũng có võ công, mà
chịu để cho Tô Định đánh đòn như vậy? 
Đào Kỳ nghe nói đến Long-biên nhị hiệp, vội hỏi: 
– Chị Thánh Thiên! Chị vừa nói cái gì là Long-biên nhị hiệp? 
Thánh Thiên nói: 
– Lão bá đây họ Nguyễn, tên Trát, là chưởng môn phái Long-biên, em chưa biết sao? 
Đào Kỳ chắp tay hành lễ: 
– Hậu học xin tham kiến Long-biên nhị hiệp. 
Nguyễn Trát phất tay rồi nói: 
– Tiểu hữu, người đừng quá đa lễ. Hôm nay, Nguyễn Trát này được làm quen với một tiểu
anh hùng là mãn nguyện rồi. 
Nguyên lão già đó là Nguyễn Trát, Lạc-hầu trang Cối-giang. Lão năm nay tuổi khoảng 60,
chưởng môn phái Long-biên, vang danh thiên hạ. Hồi đại hội Ngũ-lĩnh, lão cùng sư đệ Phan
Đông Bảng đoạt chức Lĩnh Nam võ công đệ nhị. Đào Kỳ nghe đến tên Nguyễn Trát, nó nhớ
lời Nguyễn Phan nói với nó: “Lão là chưởng môn phái Long-biên, bị ba phản đồ Lê Nghĩa
Nam, Hoàng Đức Tiết và Mai Huyền Sương đánh thuốc độc cho mê man, bắt giao cho Lê
Đạo Sinh để khảo bí quyết võ công. Khi lão bị bắt, đám đệ tử lão tranh giành chức chưởng
môn, đệ tử thứ hai là Nguyễn Thuật thắng sư huynh, sư đệ lên nắm ngôi chưởng môn.
Nguyễn Thuật chết, con là Nguyễn Trát lên thay”. Nguyễn Phan khẩn khoản nhờ nó mang bí
quyết về luyện nội công âm nhu với 72 chiêu kiếm trấn môn ra truyền lại cho người đời sau. 
Về đến trang trại, Nguyễn Trát mang năm con ra giới thiệu với Đào Kỳ: 
– Đây là bốn con trai của lão: Anh, Hùng, Hào, Kiệt. Còn con gái út tên Phương Dung. 
Từ ngày rời Thái-hà đến giờ, bây giờ Đào Kỳ mới gặp được nhiều người ngang tuổi.
Chuyện trò như pháo nổ. Nguyễn Trát sai làm cơm đãi khách. Ông bà cùng năm con ngồi
tiếp Đào Kỳ. 
Ông nói: 
– Đây là tổng đường phái Long-biên. Phái Long-biên chúng ta đông người, ai cũng tập võ
cả. Nhưng hiện giờ Thái thú cấm võ, không biết rồi sẽ ra sao? Ta có người bạn là Đô-úy
Giao-chỉ, không biết tiểu hữu có nghe danh không? Y thực là tốt bụng, đúng là một vị hiền
nhân, quân tử. Tuy làm quan với Hán, mà lòng ở Việt. Y nổi tiếng trong võ lâm, lại là vị quan
nhân có đức. Thật khó kiếm được một người như y. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Có phải Lục-trúc tiên sinh không? 
Nguyễn Trát gật đầu: 
– Đúng đó, tiểu hữu đi ăn mày thế này là do ý thích tiêu dao tự tại. Chứ tiểu hữu là người võ
lâm, ghé thăm y, thế nào y cũng chu cấp tiền bạc cho tiểu hữu.

Đào Kỳ thấy Nguyễn Trát là bạn của Đạo Sinh, nó lại nghi ngờ, dè dặt. Nó thấy trong những
người thuộc Âu-lạc cũng có đến ba phái: Cửu-chân, Hoa-lư và Long-biên. Ngay trong phái
Cửu-chân cũng có chín chi phái; trong đó, năm chi phái phục Hán, hai chi phái đứng giữa,
chỉ có Đào, Đinh là chống Hán, phục Việt thôi, huống hồ các võ phái khác? Rồi Tản-viên còn
chia năm xẻ bảy, chém giết nhau không gớm tay. Nay nó mới gặp Nguyễn Trát, được ông
đưa về trang Cối-giang, nhưng nó chưa hiểu ông ra sao. Nên khi thấy ông nói đến Đạo Sinh
khác hẳn những điều nó thấy, nó đâm ra ngại ngùng, tự nhủ: 
– Đào Kỳ ơi! Mi cần phải thận trọng, không được tiết lộ thân thế. Cha mẹ, cậu mi hiện bị
người Hán truy lùng rất gắt, mi tiết lộ ra, đúng là cái mồi cho bọn thợ săn bắt mi. Nguyễn
Phan tiên sinh nhờ mi mang bí quyết võ công, kiếm pháp Long-biên ra dạy lại cho người có
lòng với đất nước, chứ không nhất thiết phải dạy cho người của phái Long-biên. Nếu lão tin
Nguyễn Trát, đã chỉ đích danh cho mi truyền lại. Ta phải cẩn thận, biết đâu Nguyễn Trát
chẳng theo Đạo Sinh như bọn phản đồ Lê Nghĩa Nam? 
Kinh nghiệm những ngày ở Thái-hà trang giúp nó thận trọng hơn, dù rằng đối với Nguyễn
Trát, nó cũng có đôi chút tin tưởng. Bốn con trai của Nguyễn Trát là: Anh, Hùng, Hào, Kiệt,
đối với nó thực tâm, tình cảm nồng hậu. Nó bớt đề phòng. Thỉnh thoảng vào buổi chiều, khi
mặt trời xuống, nó ngồi thừ người ra nhớ đến Tường Quy. Ruột nó lại đau nhói lên như bị
dao đâm. Nó tự hỏi không biết giờ này Tường Quy đã lấy chồng Hán hay chưa? Chắc nàng
cũng đang khổ sở và nhớ nó đây. 
Bên cạnh bốn người con trai Nguyễn Trát, còn có Phương Dung. Phương Dung rất thân với
nó. Nó muốn mượn Phương Dung để thay thế Tường Quy mà không được. So sánh
Phương Dung với Tường Quy, nó thấy hai người đều đẹp cả, nhưng ở Phương Dung thì
sắc sảo, tinh khôn, đa tài, đa năng. Còn Tường Quy ôn nhu văn nhã, thuỳ mị, giọng nói đầy
tình cảm. Nó thấy Tường Quy giống sư tỷ Thiều Hoa của nó nhiều hơn. Nó tìm ra được
rằng, sở dĩ nó say đắm Tường Quy vì nàng có nhiều nét ôn nhu như sư tỷ nó. Từ bé sống
bên cạnh sư tỷ, nó chỉ biết có nàng là thiếu nữ xinh đẹp, dịu dàng. Nên khi thấy Tường Quy
giống sư tỷ, nó cảm thấy như quen thân nhau từ bao giờ. 
Nó sống bình thản trong trang Cối-giang, tối tối thường kiếm chỗ vắng tập võ. 
Đôi khi Nguyễn Trát thắc mắc về võ công của nó, nó bèn trả lời lược đi rằng nó học lóm một
số võ công của các phái. Riêng về võ công Văn-Lang, nó kể rằng nó không có sư phụ. Nó
được học võ công Văn-Lang là do một cơ duyên đặc biệt. 
Trong câu chuyện, Đào Kỳ ưa dùng những tiếng, những chữ trong Tứ -thư, Ngũ-kinh và
Bách-gia Chư-tử, khiến Nguyễn Trát cũng ngạc nhiên. Ông không thể ngờ một thiếu niên
nhỏ tuổi như nó lại có thể có cái học uyên thâm về văn học như vậy. Trong đám con của
Nguyễn Trát, Phương Dung là người hợp chuyện với Đào Kỳ nhất. Tuy mới mười sáu, vì
được tập võ, nên đã lớn như một cô gái mười tám. Phương Dung đối với Đào Kỳ tuyệt
không có một chút e thẹn nam nữ. Mới gặp mà như đã thân nhau tự thuở nào. Hai người
trao đổi những câu chuyện về võ công, về văn học rất tương đắc. Còn bọn con trai của
Nguyễn Trát gặp Đào Kỳ như có thêm người bạn mới, càng thêm vui vẻ. Suốt ngày, họ
không đọc sách với nhau, lại bàn luận võ học. Chỉ có Thánh Thiên là lo buồn về chuyện gia
đình nên thường thở dài hơn. 
Đào Kỳ bàn: 
– Hay đợi tối đến, ta thử về Cổ-lễ thám thính xem tình hình của bá phụ ra thế nào? Nếu có
gì, mình mang bá phụ đi luôn. 
Nguyễn Anh nói: 
– Âu Lạc huynh nói phải đấy. Chúng ta đi đông người quá bất tiện, chỉ Aâu lạc, Thánh Thiên
với ta đi được rồi. Còn các em ở lại... Nhưng chúng ta cần phải xin phép bố đã. 
Họ đồng ý như vậy, trở về tìm Nguyễn Trát nhưng không gặp vì ông có việc mới đi khỏi.
Phương Dung bàn: 
– Chúng ta đi thăm người chứ có đi gây chuyện với ai đâu? Dù bố có biết cũng không trách
phạt đâu. Chúng ta làm việc nghĩa hiệp mà. Đại ca, anh cho em đi với. 
Nguyễn Anh định từ chối, nhưng khi thấy đôi mắt cầu khẩn của em thì không nỡ, nên gật
đầu ưng thuận. 
Đợi trời tối, bốn người lên ngựa ra đi. Họ rời khỏi Cối-giang được một lát, bỗng nghe phía
trước có tiếng binh khí chạm nhau. Dường như đang có cuộc giao chiến. Nguyễn Anh kinh
nghiệm giang hồ nhiều, chàng phất tay ra hiệu cho tất cả rẽ vào rừng, cột ngựa lại, rồi leo
lên cây nhìn về phía trước. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Có thấy gì không? 
– Có, có hai người đang đuổi theo ba người. Họ chạy ngược về phía ta. Chúng ta nên núp
xem sự thể ra sao. Nhất thiết không được lộ hình tích. 
Bốn người núp vào bên đường. Đào Kỳ núp bên Phương Dung, lắng tai nghe rồi nói: 
– Ba người chạy trước bước chân nhẹ nhàng, dường như họ thuộc phái Sài-sơn. Hai người
đuổi sau, bước chân nặng nề, có lẽ họ là người phái Tản-viên. 
Một lát, ba người chạy tới, hơi thở đã gấp. Trong đêm tối, Đao Kỳ không phân biệt được họ
già hay trẻ, nam hay nữ. Bỗng có tiếng nói: 
– Hai người chạy trước đi, ta ở lại cản chúng. Chỉ cần hai người sống sót về báo cho các sư
huynh, sư đệ ta biết mà trả thù thì ta cũng mãn nguyện rồi. Chạy mau đi! 
Tiếng nói rõ ràng là giọng đàn bà, không già lắm. Lại có tiếng đàn ông nói: 
– Mậu ơi, nàng dẫn con chạy trước đi. Ta cố gắng ở lại cản hậu. 
Có tiếng con gái đáp: 
– Thôi, chúng ta cùng chết cả. Bố, mẹ! Hôm nay con được chết với bố mẹ là sung sướng
rồi. 
Hai người kia đuổi kịp đến nơi. Người trẻ đi trước nói: 
– Vũ Công Chất, hôm nay ngươi phải chết dưới lưỡi gươm của châu Bạch-hạc ta, để mi hối
hận về những lời nói vô lễ của mi. 
Đào Kỳ nghe giọng rất quen thuộc. Thoáng một cái, nó nhớ ra, đó là gã họ Trần, đệ tử của
Đức Hiệp. Gã được lệnh sư phụ đi quy tụ dân, họp thành một châu lớn, rồi hắn làm Châu-trưởng, đó là châu Bạch-hạc. 
Nó lẩm bẩm chửi thầm: 
– Thì ra bọn Thái-hà trang đang đuổi người ta để bức bách. Nếu cần, ta phải ra tay cứu
người. 
Lại nghe lão già tên Vũ Công Chất thở dài: 
– Ta không hối hận! Con gái ta là ngọc, là ngà trên thế gian, thà chết chứ không chịu làm vợ
bọn châu Bạch-hạc các người. Các người có giỏi, cứ vào đi. Ta há sợ gì? 
Người đuổi theo thắp lên ngọn đuốc sáng lòa. Đào Kỳ nhận rõ y là một trung niên nam tử
khoảng 40 tuổi, khí vũ hiên ngang. Phía sau là một người già đeo bảo đao. Cả hai rút đao
xông vào. Vũ Công Chất cũng rút kiếm ra. Thế là năm người nhảy vào hỗn chiến. 
Được mười hiệp, bỗng kiếm của thiếu nữ đi với Công Chất bị đánh bay lên trời. Nàng đang
luống cuống thì tên trung niên nam tử đã chụp lấy cô cặp vào nách lùi lại phía sau. Vũ Công
Chất xả liền ba kiếm để cứu con gái, dường như ông đánh thí mạng, không cần phòng thủ,
mặc cho đao của đối phương phóng tới. Trung niên nam tử quát lớn: 
– Lão không muốn sống nữa ư? 
Choangmột tiếng nữa, kiếm trên tay vợ Vũ Công Chất bị rơi xuống đất. Lão già dí kiếm vào
cổ bà. Vũ Công Chất quăng kiếm xuống đất nói: 
– Được, ta thua các người. Các người muốn giết ta cứ giết đi. Ta vì trúng độc của người,
chứ thực ra, các người không phải là đối thủ của ta. Trần Cảnh Trung, ngươi thực là hèn hạ,
thế mà cũng xưng là anh hùng, không ngờ đến đời ngươi lại tàn tệ như thế. Ta, đệ ngũ
Thái-bảo phái Sài-sơn, một đời nghĩa hiệp, đâu có sợ chết. 
Vũ Công Chất chỉ lão già đi theo Cảnh Trung: 
– Ngươi là ai mà lại bịt mặt như vậy? Nếu là anh hùng hảo hán thì mở khăn ra cho ta nhìn
mặt? 
Người bịt mặt cười ha hả, tiếng cười rung động màng nhĩ mọi người: 
– Ta là ai? Không đến cái thứ như ngươi hỏi đến. Sắp chết đến nơi rồi còn lên giọng ngạo
mạn. 
Vũ Công Chất nói: 
– Ngươi tuy bịt mặt, nhưng ta cũng nhận được võ công ngươi. Ngươi dùng nội công của
phái Tản-viên, nhưng kiếm pháp của ngươi lại thuộc phái Cửu-chân. Ngươi định gây tội ác
rồi đổ cho phái Cửu-chân phải không? Âm mưu của ngươi ta đã biết rồi. Ha...ha... 
Người bịt mặt nói: 
– Đáng lẽ ta tha cho vợ con ngươi, chỉ giết mình ngươi thôi. Nhưng ngươi đã khám phá ra
tông tích của ta, vậy ta phải giết cả nhà ngươi. 
Đào Kỳ nghe giọng nói của lão già, chợt rúng động tâm can. Thì ra lão là Đức Hiệp, đại đệ
tử của Lê Đạo Sinh. 
Đức Hiệp vung đao chém xuống đầu Công Chất. Vũ Công Chất thản nhiên chịu chết. Đào
Kỳ thấy vậy, định nhảy ra can thiệp. Bỗng véo một cái, một người từ bóng tối nhảy ra vung
tay búng vào kiếm của Đức Hiệp. Thanh kiếm bay khỏi tay y. 
Y giật mình nhìn lại. Người búng kiếm của y là một lão già gầy gò. Y buột miệng kêu lên: 
– Lục-trúc tiên sinh! Tại sao người lại can thiệp vào chuyện của ta? Giữa Thái-hà trang với
châu Bạch- hạc xưa nay không thù, không oán... 
Lục-trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh chắp tay sau lưng nói chậm rãi: 
– Việc thiên hạ thì người thiên hạ can thiệp là chuyện thường. Trần tiên sinh, châu Bạch-hạc
của tiên sinh mấy trăm năm nay nổi tiếng giang hồ là hành hiệp trượng nghĩa, tại sao tiên
sinh lại hành động đê tiện như thế này? 
Trần Cảnh Trung chắp tay xá Đạo Sinh một xá, lùi lại nói: 
– Vãn bối tham kiến Lục Trúc tiên sinh. Tiên sinh là cao nhân đương thời, xin tiên sinh chủ
trì cho một việc. Vãn bối, về võ công, tư cách cũng không đến nổi nào. Vãn bối nghe Vũ
Công Chất có người con gái là Vũ Trinh Thục, vãn bối mang lễ đến cầu hôn để kết thân giữa
hai nhà Trần-Vũ, sau để nối thêm tình giữa hai trang Phượng-lâu với châu Bạch-hạc. Việc
cầu hôn là sự thường, đồng ý hay không là tuỳ lão. Không ngờ lão kiêu ngạo, chửi bới
người mai mối, còn đánh đến bị thương. Cái nhục ấy, vãn bối không trả sao được? 
Đạo Sinh nói: 
– Vũ tiên sinh tuy có nóng giận, nhưng Trần-châu trưởng cũng không nên vì thế mà giết
người. Lão cả gan dám xin Trần tiên sinh cho Vũ tiên sinh thuốc giải. 
Trần Cảnh Trung móc trong túi ra hai viên thuốc đưa cho vợ chồng Vũ Công Chất: 
– Đây là thuốc giải. Ta vì nể lời Lục-trúc tiên sinh mà cho vợ chồng ngươi. 
Vợ chồng Vũ Công Chất cầm lấy thuốc cho vào miệng uống. 
Trần Cảnh Trung và người bịt mặt chắp tay vái Lê Đạo Sinh: 
– Xin hẹn ngày tái ngộ. 
Đạo Sinh rút trong túi ra một thẻ tre, trên có khắc chữ, đưa cho Cảnh Trung rồi nói: 
– Trần châu trưởng, hiện thời đất Lĩnh Nam các gia, các phái, lại thêm các động, các châu
có đến hàng ngàn. Anh hùng Lĩnh Nam không thiếu gì người tài, thế mà Kiến Vũ thiên tử và
triều đình nghe lời xàm tấu của các quan lại người Hán, coi chúng ta như những bọn man di,
ban lệnh cấm tập võ. Vì vậy, lão phu dự định tổ chức một đại hội, bầu lấy người minh chủ,
rồi cử một phái đoàn sang Trung-nguyên, tâu xin thiên tử cho phép được tập võ. 
Trần Cảnh Trung tiếp thẻ tre, hỏi: 
– Vãn bối tưởng rằng Ngũ-lệnh của Tô thái thú cấm tập võ, chứ không phải là của Kiến Vũ
thiên tử? 
Lê Đạo Sinh lắc đầu: 
– Không phải thế đâu, Châu trưởng. Tô thái thú ban hành lệnh cấm tập võ là do chỉ dụ của
Kiến Vũ thiên tử. Lĩnh-nam công đã thượng tấu về triều để xin chỉ dụ chính thức. Còn lệnh
cấm tập võ, ngài coi như của Tô thái thú, nên đã thu hồi. Vì vậy, tôi định tổ chức đại hội vào
ngày 15 tháng tám sang năm tại Tây-hồ. Xin Châu trưởng tới dự. 
Trần Cảnh Trung và Đức Hiệp cầm thẻ tre, chắp tay nói: 
– Vãn bối xin tuân lệnh tiên sinh. 
Vũ Công Chất chấp tay hướng về phía Đạo Sinh hành lễ: 
– Đa tạ Lục-trúc tiên sinh cứu mạng. 
Đạo Sinh phất tay làm hiệu. Phía sau có bốn người xuất hiện. Y ra lệnh: 
– Các người mau đem kiệu của ta đưa Vũ tiên sinh về Thái-hà trang dưỡng thương. 
Đợi cho bọn Đạo Sinh đi rồi, Đào Kỳ, Nguyễn Anh, Phương Dung, Thánh Thiên mới từ bụi
rậm chui ra. Nguyễn Anh nói: 
– Cái tên bịt mặt là ai? Kiếm thuật của y đúng là phái Cửu-chân, nhưng nội công của y lại
thuộc phái Tản-viên. Âu Lạc huynh, anh là người thông thạo võ công nhiều phái, anh có biết
lai lịch y không? 
Đào Kỳ gật đầu: 
– Tôi biết rất rõ. Y họ Lê tên Đức Hiệp, đại đệ tử của Lê Đạo Sinh. Y hiện thống lĩnh Thái-hà
trang, thay sư phụ. Mọi việc của Thái-hà, y quyết đoán hết. Võ công y rất cao thâm. 
Thánh Thiên vò đầu: 
– Thực khó hiểu. Lão bịt mặt là Đức Hiệp giúp Trần Cảnh Trung, trong khi đó, sư phụ lão là
Lục-trúc tiên sinh lại cứu Vũ Công Chất. Thế là thế nào? 
Đào Kỳ cũng không hiểu, nói: 
– Trần Cảnh Trung là đệ tử đời thứ hai của Lê Đạo Sinh. Y vâng lệnh Thái sư phụ lên mạn
ngược, tập họp dân chúng, kết các động lẻ tẻ lại thành châu Bạch-hạc, đặt thuộc quyền
Thái-hà trang. 
Phương Dung nãy giờ im lặng, bây giờ mới lên tiếng: 
– Em thử giải đoán xem có đúng không nghe. Lục-trúc tiên sinh cho năm đệ tử ra làm
Huyện-uý, cầm quân năm huyện. Người lại cho năm đệ tử đi gom dân lập trang, ấp, thống
nhất các động nhỏ thành châu. Thế lực của người ngày một lớn. Người muốn đi đến một
bước nữa là thống nhất các môn phái Lĩnh Nam. Phái nào người cũng có chân tay, vì thế,
người thao túng được cả. Duy có phái Sài-sơn, tám vị Thái-bảo đạo cao đức trọng, chưa
chịu tuân phục nên người tìm cách mua chuộc tình cảm. Vì vậy, người sai Trần Cảnh Trung
cùng Đức Hiệp bày ra việc cầu hôn, gây xích mích, rồi người đứng ra cứu Vũ Công Chất,
như thế là vị đệ ngũ Thái-bảo phái Sài-sơn đã nằm trong tay người. 
Đào Kỳ kêu ủa một tiếng đầy vẻ ngạc nhiên. Vì Nguyễn Trát thân với Hoàng Đức, kính trọng
Lục-trúc tiên sinh là bề trên, trong khi Phương Dung lại nhìn y như một tên nguÿ quân tử.
Nàng giải đoán sát với những hành động ám muội của Lê Đạo Sinh. 
Nguyễn Anh lắc đầu: 
– Ta không đồng ý. Lục-trúc tiên sinh là một bậc khiêm khiêm quân tử, tiếng tăm nghĩa hiệp
lừng thiên hạ. Không bao giờ người lại có những thủ đoạn đê hèn như thế. 
Phương Dung cười: 
– Anh cả! Anh đừng lấy lượng quân tử mà đo lòng người. Phải nhìn vào sự thực mới được.
Chuyện trước mắt: Lê Đạo Sinh giả nhân giả nghĩa, rồi Đức Hiệp trùm khăn đánh người, thế
mà anh còn tin tưởng y ư? 
Thánh Thiên thêm vào: 
– Chị phải về thưa với cữu phụ ngay để người lột mặt nạ Lê Đạo Sinh mới được. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Chị Thánh Thiên, cậu của chị là ai vậy? 
Phương Dung đáp thay: 
– Cậu của chị Thánh Thiên cũng là sư phụ của chị. Ngài là một người lừng danh thiên hạ.
Ngài chính là đệ tam Thái-bảo phái Sài-sơn, họ Trần tên Công Minh. Ngài hiện đang điều
khiển nghĩa quân ở châu Ký-hợp, xưng là Nam Thành vương, đã đánh quân Hán nhiều trận
kinh thiên động địa. 
Đào Kỳ kêu lên: 
– Nam Thành vương à? Tôi đã nghe bố tôi nhắc đến nhiều lần. 
Thánh Thiên thở dài: 
– Âu Lạc, chị vẫn chưa biết tên họ em là gì đấy! 
Cả bọn lấy ngựa, tiếp tục lên đường về Cổ-đại để dọ thám tin tức gia đình Thánh Thiên. Họ
đi rất nhanh, khoảng giờ Tý đã tới Cổ-đại. 
Thánh Thiên cho buộc ngựa nơi cây bàng trước chợ, rồi nói: 
– Sư huynh Nguyễn Anh ở đây giữ ngựa, em với Âu Lạc, Phương Dung về nhà dò thám
xem sao. 
Nguyễn Anh đồng ý. Cả bọn men theo bờ của trang vào nhà. Họ cùng nhảy qua hàng rào
trúc tới sân. Thánh Thiên khẽ gõ cửa ba tiếng. Không thấy ai trả lời. Nàng lại gõ ba tiếng
nữa. Trong nhà vẫn im lìm. 
Nàng nóng nảy dùng tay đẩy mạnh cửa. Cánh cửa kêu kẹt một tiếng rồi mở tung ra. Nàng
nhảy vào nhà, dùng đá đánh lửa lên soi khắp nơi, nhưng vẫn không thấy cha nàng. Đồ đạc
trong nhà đổ ngổn ngang. Cả bàn thờ tổ tiên cũng sập xuống, chứng tỏ tại đây trước đó đã
có trận đánh khá dữ dội. 
Phương Dung tìm ra vết máu ở giữa nhà. Đào Kỳ tìm ra một thanh kiếm gẫy. Thánh Thiên
nhận ra đó là thanh kiếm của cha nàng. Phương Dung suy nghĩ rồi nói: 
– Kẻ địch với sư bá có quen biết, và có hai người, nên trên bàn có ba chén nước chưa
uống. Em đoán như thế này: Kẻ thù tới chơi, thương thảo một việc gì đó với sư bá. Sau đó
sư bá không đồng ý, mới xảy ra trận đấu. Sư bá dùng kiếm đã đánh một đối thủ bị thương,
vì vậy kiếm của sư bá có vết máu. Một trong hai đấu thủ có chưởng lực hùng hậu, thuộc loại
dương cương nên mới đánh vỡ được bàn thờ. Rồi sau đó, diễn biến thế nào thì không biết. 
Ngừng một lát, Phương Dung tiếp: 
– Nhất định sư bá bị bắt chứ không phải bị giết. Nếu bị giết thì xác còn đây. Nếu sư bá
không bị bắt thì đã trở về đây bày lại bàn thờ tổ tiên. Vì người Việt chúng ta dù còn một chút
hơi tàn, khi thấy bàn thờ tổ tiên bị đổ ngổn ngang, cũng phải bày lại. 
Phương Dung suy nghĩ, rồi tiếp: 
– Chúng ta thử đoán xem kẻ thù là người Hán hay người Việt? Thêm nữa, kẻ thù còn là
người thân nên mới được sư bá pha trà tiếp đãi. Nếu kẻ thù là người Hán, quyết lão bá
không cho vào nhà, chứ đừng nói tới mời uống nước. Sau khi chủ khách phân ngôi, chúng
mới đề nghị một việc gì đó, sư bá không chấp thuận, nên xảy ra cuộc chiến, rồi sư bá bị bắt. 
Thánh Thiên nói: 
– Võ công của bố chị không lấy gì làm cao cho lắm, nên cao thủ bậc trung cũng dư hại
người. 
Đào Kỳ nói: 
– Chúng bắt lão bá đi là vì chị Thánh Thiên, quyết chúng không hại lão bá đâu. 
Đào Kỳ, Phương Dung giúp Thánh Thiên dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, đóng cửa cẩn thận, rồi
cùng trở lại chỗ Nguyễn Anh đang chờ. Từ xa đã nghe thấy tiếng binh khí chạm nhau. Cả ba
chạy vội lại. Nguyễn Anh đang dùng kiếm đấu với hai người mặc theo Việt và một người
mặc theo Hán. Nguyễn Anh đã có vẻ luống cuống lắm rồi. 
Phương Dung nói: 
– Âu Lạc, võ công anh cao nhất, đứng ngoài lược trận, đề phòng địch có cứu viện và đừng
cho chúng chạy. Để em với Thánh Thiên nhập cuộc được rồi. 
Nói rồi, Phương Dung rút kiếm hô lớn: 
– Anh cả đừng sợ, có em đây. 
Lời vừa dứt, ánh kiếm loáng véo một tiếng, đâm thẳng vào lưng tên Hán. Tên này thu côn
trở về gạt kiếm của Phương Dung, đáng choang một tiếng. Phương Dung cảm thấy cánh
tay tê chồn, suýt nữa văng mất kiếm. Đào Kỳ đứng ngoài ngẫm nghĩ: 
– Kiếm pháp của Long-biên lấy mau thắng chậm, lấy nhu chế cương mà Phương Dung lại
dùng sức, thành ra lấy cái sở đoản của mình chọi với sở trường của địch, hỏng mất. Ta phải
nhắc nàng mới được. 
Nghĩ rồi, Đào Kỳ hô lớn: 
– Phương Dung, Tam hư thất thực. 
Phương Dung tỉnh ngộ. Đánh ra liên tiếp ba hư chiêu, tên Hán tưởng nàng đánh thực, vội
vung côn đỡ. Y đã mất khá nhiều sức, đến chiêu thứ tư y cho rằng Phương Dung vẫn đánh
hư chiêu, nên côn đến nửa chừng thì thu về. Không ngờ chiêu đó lại là thực. Xoẹt một tiếng,
kiếm đâm rách vai áo y, máu chảy ròng ròng. Y tức quá chửi lớn: 
– Con bà nó, con nhỏ Nam man. 
Rồi y vung côn đập chát, chát. chát, ba lần. 
Đào Kỳ lại hô lên: 
– Tam hư, thất hư. 
Phương Dung hiểu ý, đánh toàn hư chiêu. Chỉ một lát thì tên cầm côn mệt nhừ, lùi dần về
một góc. Còn tên Việt đánh với Thánh Thiên ngang sức. Đào Kỳ nhận thấy y sử dụng võ
công của phái Tản-viên, bản lĩnh y cũng vào loại bình thường. Tuy y dùng kiếm, nhưng
nguyên lý vẫn nằm trong võ công Văn-lang. Còn Thánh Thiên sử dụng võ công Sài-sơn rất
thành thạo nên hai người ngang nhau. Về phía Nguyễn Anh thì chàng đàn áp đối phương
không còn đường chống chọi. 
Được thêm vài hiệp, tên Hán hô lớn: 
– Chạy! 
Y chém bậy một đao rồi bỏ chạy. Nhưng y bỗng đâm sầm vào một người dù y đã cố gắng
dừng lại để khỏi đụng vào người đó, nhưng không kịp nữa. Hai người đụng vào nhau đánh
bộp một cái, người y văng trở lại, lộn đi hai vòng. Y đành buông tay nói: 
– Ta chịu thua. 
Nguyên khi thấy tên Hán bỏ chạy, Đào Kỳ nhảy ra chặn đường, định bắt sống. Không ngờ y
mải chạy, không nhìn thấy Kỳ, nên đụng vào người chàng. Công lực y yếu hơn nên bị văng
trở lại, bị Phương Dung dí kiếm vào cổ. 
Tên đánh với Thánh Thiên nghe đồng bọn hô chạy, y chém bậy một kiếm rồi biến vào đêm
tối. 
Đào Kỳ quay lại xem Nguyễn Anh thế nào thì thấy Nguyễn Anh đã bắt được tên đánh với
chàng. 
Phương Dung nói: 
– Đại ca, anh ở ngoài này giữ ngựa, tại sao lại xảy ra cuộc đụng độ? Chúng là ai? 
Nguyễn Anh nói: 
– Ta đang đứng giữ ngựa, không hiểu ba tên này ở đâu tới, xông vào đánh. Chúng không
nói một lời nào cả. 
Phương Dung bàn: 
– Chúng ta đưa hai tên này vào nhà chị Thánh Thiên thẩm vấn xem chúng là ai? Tại sao lại
tấn công chúng ta? 
Vào nhà Thánh Thiên, Phương Dung đốt đèn lên. Nàng điệu một tên ra ngồi đối diện, rồi rút
kiếm nhắm người y đâm một nhát nhanh như chớp. Y sợ quá hét lên, nhưng Phương Dung
đã thu kiếm về, cười hì hì. Rồi nàng ra trước sân, chặt một cây trúc, cắt thành từng đoạn
ngắn, dài khoảng hơn gang tay, một đầu vót thực nhọn. 
Thánh Thiên, Nguyễn Anh và Đào Kỳ đều không hiểu nàng định làm gì. Nhưng họ biết
Phương Dung hành sự quái dị, mưu kế không biết đâu mà lường, nên đành ngồi nhìn xem
nàng định làm gì. 
Phương Dung hỏi Thánh Thiên: 
– Nhà chị có chày giã cua không? Chị cho em mượn. 
Thánh Thiên không biết Phương Dung định làm gì, nhưng nàng chắc rằng cô bé này định
bày trò doạ mấy tên bị bắt. Nàng vội xuống bếp lấy cái chày giã cua đưa lên. 
Phương Dung cầm một đoạn trúc, chĩa đầu nhọn xuống đất, vận kình đóng chày vào đầu
kia. Đoạn trúc ngập xuống tận đuôi. Nàng cầm một đoạn trúc khác ướm thử lên đầu tên
Hán, dơ chày định nện xuống. Thánh Thiên vội kêu lên: 
– Đừng em, không nên. 
Tên quân Hán cũng kêu lên: 
– Đừng, cô nương, đừng làm thế! 
Phương Dung cười: 
– Tại sao lại không được? Cái chày này đóng đoạn trúc vào giữa đỉnh đầu thì khi ta hỏi
ngươi mới khai thực. Nếu không, ngươi sẽ nói láo. 
Tên quân Hán bở viá, lắp bắp: 
– Cô nương hỏi gì, tiểu nhân xin nói thực hết. 
Phương Dung cười: 
– Ta hỏi một câu, mi trả lời một câu. Nếu mi nói láo một câu, ta sẽ đóng vào đầu mi một
đoạn trúc. Mi nói sai hai câu, ta đóng vào mắt trái. Mi nói sai ba câu, ta đóng vào mắt phải,
mi nhớ không? Tên mi là gì? 
– Dạ, thưa cô nương, tiểu nhân là La Quý. 
– Mi làm việc ở đâu? 
– Dạ, thưa thuộc Long-biên. 
– Mi làm dưới quyền ai? 
– Thưa, thuộc giám sở Tế-tác huyện Long-biên. 
– Ai là người cầm đầu mi? 
– Thưa, Huyện-úy Hoàng Đức. 
– Ai sai mi đến đây? Tại sao lại tấn công chúng ta? 
– Thưa, Huyện-uý sai chúng tôi đến đây, gặp ai vào nhà này, phải bắt giải về huyện. 
Nguyễn Anh bàn với Phương Dung: 
– Huyện-uý Long-biên là Hoàng Đức, đệ tử Lê Đạo Sinh, không lẽ tiên sinh lại hại chúng ta?
Tiên sinh phải biết chúng ta là người phái Long-biên chứ? 
Đào Kỳ nghĩ được một kế, nói với hai tên đó: 
– Như vậy, chúng ta hiểu lầm rồi. Hai vị đại ca, chúng tôi xin lỗi đại ca nghe. Chúng tôi là
người của Huyện-úy Bắc Đái sai đến đây. Không ngờ các vị đánh lầm mà thành cớ sự. Thôi,
hai vị về đi, cho chúng tôi gửi lời chào Hoàng Đức tiên sinh. 
La Quýmắt sáng lên hỏi: 
– Thế công tử cũng quen thân với đại nhân Hoàng Đức ư? 
Đào Kỳ gật đầu: 
– Cho tôi gửi lời thăm cô nương Minh Châu, ái nữ của Hoàng đại nhân. 
Nói rồi, Đào Kỳ cởi trói cho chúng. Chúng nghe Đào Kỳ hỏi thăm Minh Châu liền tin ngay
chàng là người nhà. 
– Thì ra cùng người nhà cả. 
Nói rồi chúng lượm vũ khí, phóng vào đêm tối. 
Đợi hai tên đi rồi, Nguyễn Anh hỏi: 
_ Âu Lạc, anh thân quen với Huyện-úy Bắc-đái và Long Biên đấy à? 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Huyện-úy Bắc-đái là Chu Bá, con rể Lê Đạo Sinh. Huyện-úy Long-biên là Hoàng Đức, lại
là đệ tử của y. Chúng ta bắt được người của Hoàng Đức, nếu giết đi, chúng sẽ truy tầm lôi
thôi. Chi bằng tha chúng ra cho êm chuyện. Muốn tha chúng, ta dùng kế Hư hư, thực thực,
để chúng nhức đầu không tìm ra ta là ai. 
Phương Dung gật đầu: 
– Chúng ta đợi thân phụ về, thỉnh thị ý kiến mới được. Như vậy, thân phụ chị Thánh Thiên bị
Huyện-úy Long-biên bắt rồi. 
Bốn người về đến nhà thì trời vừa sáng. Nguyễn Trát dậy uống trà. Ông gọi bốn người vào
sảnh đường hỏi: 
– Hôm qua, các con đi thám thính tình hình bên nhà Thánh Thiên, đã giao tranh với ai? 
Phương Dung hỏi: 
– Bố ơi, sao bố biết? 
Nguyễn Trát nói: 
– Gì mà không biết? Các con đi từ chập tối, nếu không có gì trở ngại, đã trở về trước nửa
đêm. Đến giờ mới về, chắc là gặp địch thủ rồi đánh nhau nên mới lâu thế. 
Nguyễn Anh kể lại hai vụ đêm trước. Vụ Châu-trưởng Bạch-hạc đánh Vũ Công Chất và vụ
người sở Tế tác Long-biên do Hoàng Đức sai đến bắt cha Thánh Thiên. Nguyễn Trát cau
mày suy nghĩ nửa buổi không ra. 
Đào Kỳ nói: 
– Thưa lão bá, cháu có một điều muốn hỏi lão bá: Lục-trúc tiên sinh là người tốt hay xấu? 
Nguyễn Trát nói: 
– Thì dĩ nhiên là người tốt rồi. Sỡ dĩ người đời tôn ông là Lục-trúc tiên sinh, vì trong kinh Thi
có câu: 
Chiêm bỉ kỳ úc, 
Lục trúc a a, 
Hữu phỉ quân tử, 
Như thiết, như tha, 
để ca tụng đức độ của ông. Ông hiện là Thái sư thúc của chưởng môn Tản-viên, sư thúc
của Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công. Hai người này năm trước đây đã đoạt chức Lĩnh
Nam võ công đệ nhất. Ông tuy làm quan với Hán nhưng đối với dân Việt như ruột thịt. Suốt
bao năm qua đã bao che cho chúng ta. 
Đào Kỳ định nói vụ bí mật ở Thái-hà trang ra, nhưng lại thôi. 
Nguyễn Trát bỗng thở dài: 
– Môn phái ta mới nhận được thư của Lục-trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh mời đến 15 tháng tám
sang năm họp nhau ở Tây-hồ, tìm phương sách tâu với Kiến Vũ hoàng đế, xin hủy bỏ lệnh
cấm tập võ. Trong thư mời có nói rõ chỉ thỉnh đệ nhất cao nhân của môn phái, chứ không
phải chưởng môn. Do vậy, phái Long-biên chúng ta có nhiều điều không ổn. 
Đào Kỳ giả vờ như không biết, hỏi: 
– Cháu tưởng người chưởng môn là đệ nhất cao nhân chứ còn ai nữa? 
Nguyễn Trát lắc đầu: 
– Cháu không biết đấy thôi. Người chưởng môn phái Long-biên bao giờ cũng được truyền
hai võ công trấn môn. Một là bài tổng quyết về biến hoá kiếm thuật, hai là 72 thức kiếm căn
bản. Tất cả các đệ tử đều được học kiếm, quyền, nội công như nhau. Riêng người được
truyền ngôi chưởng môn thì được biết bài quyết về biến hoá kiếm thuật. Khi biết bài quyết
này, kiếm thuật trở thành huyền ảo vô cùng. Lại nữa, những thế kiếm rời rạc, khi sử dụng cứ
phải đánh từng thế một. Nhưng nếu muốn sử dụng những thế kiếm đó thành một mạch như
mây trôi, như nước chảy, thì phải có 72 thức kiếm trấn môn. Chỉ 72 thức đó thôi, có thể nối
liền các thức khác thành một dây liên miên bất tuyệt. Tuy nói rằng 72 thức, chứ mỗi thức có
36 chiêu, tổng cộng 2.592 chiêu. Mỗi chiêu lại phân âm dương thành 5.184 chiêu. Cứ tam
hư, thất thực thành 15.552 chiêu hư, 36.309 chiêu thực. Kiếm pháp Long Biên lấy mau
thắng chậm, chiêu số lên tới 51.861 chiêu, thì đối thủ còn biết đường nào mà mò nữa?
Chính với kiếm pháp này, năm xưa Vạn-tín hầu mới thắng hết các cao thủ của Tần Thuỷ
Hoàng, thắng luôn cả phò mã Sơn Tinh của Văn-Lang. 
Đào Kỳ đã nghe Nguyễn Phan nói về nguyên lý này. Chính ông đã dạy kiếm pháp cho
chàng. Nhưng Nguyễn Phan cũng quên mất một số câu quyết về nội công. Khi Đào Kỳ khám
phá ra những thẻ đồng trong cây gậy thời Văn-lang thì chàng được học đầy đủ nội công âm
nhu. Nhưng những câu quyết về biến hoá, nếu không được Nguyễn Phan giảng dạy, thì
chàng cũng không hiểu gì. Vì bài quyết biến hoá, người xưa đã dùng thuật ngữ riêng biệt để
chép phòng lỡ ra người ngoài bắt được thẻ đồng cũng vô dụng. Chàng đã được Nguyễn
Phan giảng giải, nên hiểu hết. Bây giờ, nghe Nguyễn Trát nói, chàng không ngạc nhiên cho
lắm. 
Phương Dung hỏi Đào Kỳ: 
– Hồi đêm, anh đánh với tên Hán, tại sao anh biết để nhắc em câu Tam hư, thất thực. Em
sử dụng lý thuyết đó, thắng tên Hán dễ dàng. Anh biết kiếm pháp Long-biên à? 
Nguyễn Trát giật mình nhìn Đào Kỳ: 
– Này cháu, hôm trước ta đối chưởng với cháu, thấy trong chưởng lực có hòa lẫn dương
cương với âm nhu. Dương cương thì giống như Tản-viên và Cửu-chân, còn âm nhu thì rõ
ràng của Long-biên nhà ta. Đã mấy hôm nay ta cố suy nghĩ mà không tìm ra nguyên do.
Hôm đó, ta có hỏi là cháu học võ với ai, cháu đã nói là có nỗi khổ tâm không thể nói ra. Cứ
như ta suy nghĩ, nội công của cháu bao gồm cả Cửu-chân lẫn Tản-viên. Hồi đầu ta nghi
cháu là đệ tử của Đào Thế Kiệt nhưng sau thấy không phải. Ta đã đấu với Đào Thế Kiệt trên
trăm chiêu, nhưng chưởng lực của y thấp hơn ta một bậc. Còn hôm đó chiết chiêu với cháu,
ta thấy nội công cháu thâm hậu hơn ta. Nội công của cháu không bằng Lê Đạo Sinh, nhưng
ngang với Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công, hơn ta nhiều. Về nội công âm nhu hôm đó
cháu sử dụng mới hai thành công lực nhưng đã hơn ta. Trên đời này, dù sư phụ ta sống lại
cũng không bằng cháu. Chỉ có Thái sư phụ là có thể hơn cháu mà thôi. 
Ngừng lại giây lát, ông nói tiếp: 
– Cháu mới ngần này tuổi, võ công đã đến trình độ đó thì chỉ vài năm nữa, ngay đến Lê Đạo
Sinh cũng thua cháu. Ta tự hỏi ai là sư phụ cháu? Về âm nhu, ta có thể nghi cháu được
Thái sư phụ ta hiện còn tại thế, ẩn nấp ở đâu đó truyền thụ cho. Thuyết này khả dĩ tạm
vững. Nhưng còn nội công dương cương, cháu học ai? Ta nghi phải hợp cả Đào Thế Kiệt
với Đặng Thi Kế lại mới bằng cháu. Cháu lại biết Ngưu phục thần chưởng, cả những chiêu
mà Lê Đạo Sinh cũng không biết thì thực kỳ lạ. 
Đào Kỳ thầm khâm phục kiến thức của Nguyễn Trát. Nó nghĩ thầm: 
– Các chưởng môn của Lĩnh Nam đều là những nhân vật kỳ vĩ ở thế gian này. Bố ta thì văn
võ toàn tài, thao lược xuất chúng. Người lại thương đệ tử, yêu dân như yêu con. Chưởng
môn phái Hoa-lư Cao Cảnh Sơn thì hào sảng, nhã lượng, cao trí. Chưởng môn phái Tản-viên Đặng Thi Sách thì hùng tâm, lược tài, cùng vợ là Trưng Trắc đang mưu đồ phản Hán
phục Việt, khắp nơi cúi đầu tuân phục. Còn Nguyễn Trát, chưởng môn phái Long-biên kiến
thức uyên bác, lòng dạ quảng đại. Chỉ gặp ta một lần, đưa ta về trang, đãi như thượng
khách, không nghi ngờ gì cả. Người như vậy thực hiếm có. 
 Thông thường, cứ trời sắp tối, Nguyễn Trát tập trung các đệ tử lại giảng võ đường để giảng
dạy. Đào Kỳ là người khác phái, nên chàng tránh xa. Hôm ấy chàng hơi mệt nên về phòng
ngủ trước. Một lát sau, chàng tỉnh dậy, khi nhìn sang giảng võ đường thấy còn đèn sáng.
Chàng rón rén lại gần ghé mắt nhìn vào, thấy Nguyễn Trát đang bảo Nguyễn Anh: 
– Để hiểu rõ Âu Lạc hơn, bây giờ con giả làm La Quý cầm côn đấu với Phương Dung. Đến
chỗ nào Âu Lạc nhắc Phương Dung thì cho ta biết. 
Đào Kỳ giật mình vì họ đang tìm hiểu chàng. Nguyễn Anh cầm côn hướng về phía cha làm
lễ, đứng chờ đợi. Phương Dung cũng rút kiếm hành lễ rồi đứng chờ. Nguyễn Trát quát lên: 
– Xuất chiêu! 
Nguyễn Anh diễn lại những chiêu của La Quý không sai một chút. Sau bảy chiêu, chàng dồn
Phương Dung vào góc. Chàng ngừng lại nói: 
– Đến đây thì Âu Lạc nhắc Phương Dung Tam hư, thất thực. 
Rồi chàng ra chiêu như La Quý, còn Phương Dung chiêu kiếm hư hư, thực thực ước
khoảng mười chiêu nữa, Nguyễn Anh nói: 
– Đến đây, Âu Lạc nhắc Phương Dung Thất hư, thất thực. 
Phương Dung đổi kiếm pháp. Được vài chiêu nữa, cả hai cùng ngừng lại, bái tổ rồi cất vũ
khí vào giá. 
Nguyễn Trát thở dài: 
– Phương Dung sử dụng kiếm rất đúng quy củ. Nhưng giữa hai chiêu Xuân đáo hoa khai và
Xuân khứ hoa lạc có khoảng trống lớn. Âu Lạc đã nhắc Tam hư, thất thực chính là yếu
quyết trấn môn của phái Long Biên. Về sau y nhắc Thất hư, thất thực cũng là một yếu quyết
đó. Như vậy, y thông thạo hết 72 chiêu kiếm trấn môn và nội công của bản môn. 
Phương Dung hỏi: 
– Bố ơi, thế tại sao bố không truyền thuật đó cho chúng con? 
Nguyễn Trát nói: 
– Một là bố không biết, hai là bố có biết cũng chỉ truyền cho người thừa kế chưởng môn,
chứ không truyền cho con. 
Nguyễn Hùng hỏi: 
– Tại sao bố là chưởng môn lại không biết? 
Nguyễn Trát thở dài: 
– Nguyên Thái sư phụ của cha tự nhiên mất tích. Các đệ tử của ngài họp nhau để bầu
người chưởng môn. Cuộc bầu này bất thành vì chẳng ai chịu ai. Cuối cùng đi đến giải quyết
bằng võ công. Sư phụ của ta đã thắng một sư huynh, một sư đệ, và một sư muội, giữ chức
chưởng môn. Các vị đó giận dỗi bỏ đi phiêu bạt các nơi. Do vậy, môn phái ta yếu đi nhiều.
Năm trước đây, ta với sư đệ, dự đại hội Lĩnh Nam, chiếm được ghế Lĩnh Nam đệ nhị võ
công cũng có chút danh. Nhưng... 
Nguyễn Trát buồn rầu nói tiếp: 
– Nay đại hội Tây-hồ sắp đến, các vị sư bá, sư thúc của ta cho người nhắn rằng sẽ trở về
đây để nhận nhiệm vụ cao nhân nhất phái Long-biên. Ta biết các vị sẽ tranh đoạt chức
chưởng môn với ta. Chức chưởng môn không có gì quan trọng, nhưng những vị sư bá, sư
thúc của ta hiện là những người làm việc với người Hán. Phái Long-biên chúng ta chủ
trương phục quốc, chống Hán phục Việt, mà nay có vị chưởng môn làm việc với Hán thì còn
gì là Long-biên nữa? Ngày mai, sư đệ Phan Đông Bảng sẽ đến đây bàn cách đối phó với
biến cố này. 
Chiều hôm sau, Phương Dung đến rủ Đào Kỳ ra bờ sông chơi. Đi cạnh Phương Dung,
chàng chợt nhớ tới Tường Quy và buông tiếng thở dài. Phương Dung là một thiếu nữ cực
kỳ thông minh, khi thấy Đào Kỳ thở dài liền hỏi: 
– Em thường thấy anh thở dài. Người ta có khi thở dài vì xa cha mẹ, quê hương, có khi thở
dài vì tình trường bất như ý. Anh... anh có thể nói cho em nghe được không? 
Đào Kỳ nhìn thẳng vào mặt Phương Dung hỏi: 
– Tại sao em biết anh có hai cái buồn khác nhau như vậy? 
Phương Dung vênh mặt lên, ánh mắt nàng chiếu sáng ngời: 
– Có gì mà không hiểu? Khi anh nhìn trời đất bao la, nét mặt đăm chiêu mà thở dài, là nhớ
đến cha mẹ. Còn khi mắt anh gần như nhắm lại, hoặc nhìn ra xa xuất hồn, mặt hiện nét nhu
mì là anh nhớ người yêu. Âu Lạc, anh có thể cho em biết về mối tình đã làm anh đau khổ
không? 
Đào Kỳ thở dài: 
– Cách đây một năm, anh làm nô bộc cho người ta. Tại trang của người, anh gặp một thiếu
nữ. Nàng là cháu trang chủ. Anh và nàng thương yêu mặn nồng. Nàng thường đánh đàn
cho anh nghe. 
Phương Dung hỏi: 
– Nhưng vì địa vị khác nhau nên trang chủ không cho anh và nàng thành vợ chồng có đúng
không? 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Không, nàng đã có vị hôn phu và dường như sau đó hai tháng nàng sẽ lên đường về nhà
chồng. 
Phương Dung càng thắc mắc: 
– Với võ công của anh như vậy, tại sao anh không cùng nàng trốn đi, ai làm gì được anh? 
Câu nói của Phương Dung làm Đào Kỳ giật mình nghĩ thầm: 
– Cô bé này thực là người có óc nổi loạn, dám bàn đến chuyện trai gái bỏ nhà đi với nhau. 
Thời bấy giờ, uy quyền cha mẹ rất lớn, con cái phải nhất nhất tuân theo, mà Phương Dung
dám bàn đến chuyện trốn đi, đó là điều Đào Kỳ không tưởng tượng nổi. 
Đào Kỳ tỉnh ngộ: 
– Ừ nhỉ, tại sao ta không làm thế? Không biết bây giờ có còn kịp không? 
Phương Dung hỏi: 
– Anh Âu Lạc, sau này lớn lên anh sẽ làm gì? 
Đào Kỳ đáp không suy nghĩ: 
– Anh sẽ đuổi người Hán, phục hồi lại nước Âu- lạc. 
Phương Dung ngắt lời: 
– Âu-lạc hay Văn-Lang? 
– Âu-lạc cũng được. Văn-Lang cũng thế, có khác gì đâu? 
Phương Dung nói: 
– Em thấy người Việt nào cũng nghĩ vậy. Thế nhưng trên đất Việt này, cứ một Hán thì có tới
cả vạn Việt. Nếu tất cả người Việt cùng ào lên bắt người Hán, thì chỉ mấy khắc là thành.
Nhưng không ai đứng ra hô hào cả. Dù có người đứng ra, nhưng những người khác cũng
không nghe theo. 
Đào Kỳ giật mình tỉnh ngộ. Cô bé này nói phải. Nếu bây giờ có người đi ước hẹn các gia,
các phái, đồng nhất loạt nổi dậy thì việc phục hồi đất nước đâu có khó gì? 
Phương Dung nói: 
– Anh Âu Lạc này, nghe cha nói võ công anh cao lắm phải không? Cha đấu chưởng với anh
còn bị thua, vậy anh dạy em đi. 
Đào Kỳ gật đầu: 
– Em muốn học võ công gì nào? 
– Nhưng anh có những võ công gì đã? 
Đào Kỳ thấy Phương Dung ánh mắt đầy vẻ quyến rũ, mơ màng, nên thấy không nỡ nói dối
nàng: 
– Anh biết quyền pháp, kiếm pháp, nội công của phái Cửu-chân. Anh biết chưởng pháp,
cầm nã pháp, kiếm pháp, nội công của phái Tản-viên. 
Phương Dung hỏi: 
– Võ công của hai phái Hoa-lư và Tản-viên đều thuộc Văn-Lang, vậy võ công hai phái đó có
gì khác nhau không? 
Đào Kỳ nói: 
– Trước đây chỉ có võ công Văn-Lang. Nhưng từ khi vong quốc, các hào kiệt Văn-Lang
phiêu bạt, thành lập nhiều môn phái khác nhau. Sau thống nhất lại còn Hoa-lư và Tản-vên.
Thoạt kỳ thuỷ họ giống nhau. Nhưng khi vong quốc, mỗi tướng có một sở trường, một trí
nhớ khác nhau nên họ truyền lại cho đệ tử cũng khác. Rồi từ đó đến nay, trên 200 năm, các
đời sau thêm thắt, sáng chế thêm nên khác nhau. 
Phương Dung hỏi: 
– Thế sư phụ anh là ai? 
Đào Kỳ nói: 
– Ahh không có sư phụ. Chỉ nhờ cơ duyên mà thôi. 
Phương Dung nói: 
– Bố em bảo võ công Long-biên không dùng sức, chỉ dùng mau thắng chậm, cho nên, nếu là
đệ tử thấp như em mà được truyền bài quyết và 72 thức kiếm trấn môn thì cũng thành anh
hùng vô địch. 
Đào Kỳ suy nghĩ: 
– Bài quyết và 72 thức kiếm trấn môn của Long- biên hiện Đạo Sinh cũng đang muốn có. Vì
muốn, nên y đã giam Nguyễn Phan hơn mười năm nay rồi. Có ngờ đâu Nguyễn Phan lại
dạy cho ta. Ừ! Ta đã học được võ công Văn-Lang thì cũng trở thành anh hùng vô địch, ta
giữ làm gì võ công của Long-biên? Không biết ta có nên dạy cho Phương Dung không? 
Đào Kỳ hỏi Phương Dung: 
– Dung ơi, em đã học được những gì về kiếm thuật của Long-biên? 
Phương Dung đáp: 
– Những gì bốn anh của em học, em cũng học được. Có điều em chưa đủ kinh nghiệm mà
thôi. Nếu anh dạy em kiếm thuật của Văn-lang thì hay biết mấy? 
Đào Kỳ nói: 
– Bố em bảo bài quyết và 72 thức kiếm trấn môn bị thất lạc. Anh nghĩ người xưa chế ra
được tại sao ta lại không chế ra được? Phương Dung, em nghĩ có phải không? 
Phương Dung nói: 
– Hay là chúng mình chế ra đi? 
Đào Kỳ ngẫm nghĩ: 
– Bây giờ ta cứ đem bài quyết của Nguyễn Phan dạy Phương Dung rồi bảo do mình chế ra,
Phương Dung đâu có phân biệt được? Như vậy võ công Long-biên ta trả về Long-biên thì có
gì lạ? 
Nghĩ vậy, Đào Kỳ liền bảo Phương Dung: 
– Em thử diễn lại cho anh xem các chiêu thức kiếm thuật Long-biên, may ra anh có tìm
được không? 
Phương Dung rút kiếm đánh từ chiêu thứ nhất đến chiêu cuối cùng mà nàng đã học, rồi hỏi
Đào Kỳ: 
– Anh thấy thế nào? 
– Trong 72 chiêu này, ta hãy biến một chiêu thành ba, tức 216 chiêu đã. Nguyên lý như thế
này: 
Sinh sinh, tử tử, vượng vượng, ly ly. 
Nhất khí, liên hoàn bất tự ly. 
Chàng giảng cho Phương Dung thế nào là Sinh vẫn là sinh, thế nào là Tử sẽ không là tử, rồi
Vượng vừa sinh vừa tử, cuối cùng là Ly không là ly. Làm thế nào để nối liền các chiêu lại,
các chiêu đều theo một biến thái là vòng tròn. Cần tránh không cho chiêu thức trở lại lúc
đầu. Lúc trước, Phương Dung đánh từng chiêu rời rạc. Bây giờ nàng đã hiểu, vung kiếm lên
như vòng tròn nọ nối vòng tròn kia, liên miên bất tuyệt. Khi nàng đi được 72 thức thì thành
cả muôn ngàn chiêu. 
Trời đã ngả bóng. Nàng cảm thấy mệt nhoài. Đào Kỳ truyền nội công âm nhu cho nàng, bắt
nàng tĩnh toạ, thở hít. Nàng vận khí một lúc thì thấy cơ thể mát rượi, bao nhiêu mệt mỏi đã
tan biến đi hết. 
Phương Dung phục quá, đứng dậy nói: 
– Em không tin anh sáng chế ra. Chắc những bí quyết đó là võ công của nhà anh thì đúng
hơn. 
Đào Kỳ dặn: 
– Những gì chúng mình sáng chế hôm nay, em đừng cho bố biết, người cười chúng mình
chết. 
Phương Dung gật đầu. 
Hai người trở về trang trời đã xế chiều. Từ đấy, Đào Kỳ cứ đưa Phương Dung ra bờ sông
luyện kiếm. Khoảng gần sáu tháng, nàng đã luyện xong bài quyết dài lê thê và 72 thức trấn
môn. Đào Kỳ dùng kiếm đấu với Phương Dung, khi chàng dùng nhu, Dung dùng cương. Khì
chàng dùng cương, Dung dùng nhu. Khi thì hai người song đấu, mỗi người đều dùng cả nhu
lẫn cương. Hai người vung kiếm cuốn lấy nhau, không còn phân biệt được nữa. 
Chiều hôm ấy, khi hai người về đến trang, người tỳ nữ đã vội nói với Phương Dung: 
– Cô nương, mời cô nương lên gặp ông. 
Phương Dung, Đào Kỳ lên nhà tổ, thấy có mấy người lạ ngồi đó. 
Nguyễn Trát bảo Phương Dung: 
– Con ra mắt sư thúc đi con. 
Phương Dung phục xuống hành lễ: 
– Cháu xin tham kiến sư thúc. 
Đào Kỳ chắp tay chào: 
– Tiểu bối Âu Lạc, xin tham kiến Long-biên nhị hiệp. 
Phan Đông Bảng: 
– Không dám, không dám. Tôi đã nghe sư huynh nói chưởng lực của tiểu hữu cao thâm
khôn lường, sư huynh tôi cũng không bằng. Không ngờ tiểu hữu còn nhỏ tuổi như vậy. 
Đào Kỳ nói: 
– Không dám. Đó chẳng qua Nguyễn lão bá muốn dạy dỗ cho hậu bối đấy thôi. 
Phan Đông Bảng nói: 
– Tuyệt thực, tuổi trẻ, có chân tài, lại không lộ chí kiêu căng

Chư quân khởi thị vô tâm huyết 
(Phan Chu Trinh, Chí thành thông thánh thi) 
Nghĩa là: 
Các người nào phải không có tấc lòng son với đất nước 
Chỉ còn năm ngày nữa là phái Long-biên khai hội. Đây là cuộc đại hội thường lệ, cứ ba năm
một lần, để người chưởng môn kiểm soát đệ tử. Để huynh đệ trong môn phái có dịp gặp gỡ,
trao đổi kinh nghiệm với nhau. 
Cuộc khai hội năm nay còn có tính chất quan trọng hơn: đó là cử người vào phái đoàn dự
đại hội võ thuật Lĩnh-nam ở hồ Tây. 
Từ ngày thành lập môn phái đến giờ, đây là lần đầu tiên phái Long-biên có cuộc khai hội
quan trọng thế này. Bởi ngoài ý nghĩa chỉ định người đại diện tham dự đại hội về phương
diện danh dự, cuộc hội còn có tầm mức bảo vệ lẽ sống của môn hộ. Theo như mọi người
suy nghĩ, cuộc đại hội do Lê Đạo Sinh mời các gia, các phái tham dự hầu đưa ra quyết định:
Nên giữ nguyên môn hộ hay thống nhất làm một. Sau đó cử người chưởng môn đi Trung-nguyên yết kiến Hán đế để tỏ lòng quy phục, xin được tiếp tục luyện tập võ nghệ. Cái rắc rối
là môn phái Long-biên vốn có nguồn gốc từ Vạn-tín hầu Lý Thân. Mà Lý Thân, nguyên là
một người đất Âu-lạc sang yết kiến Tần Thủy Hoàng, nhận chỉ dụ của vua Tần đánh Hung-nô, tức là thần phục Trung-nguyên. Song đã hơn 200 năm nay, người Hán cai trị Lĩnh-Nam,
người Việt lâm cảnh mất nước, đệ tử phái Long-biên lại chủ trương phản Hán phục Việt,
được dân chúng kính phục là võ học chính phái. Bên trong phái Long-biên còn ba cao thủ
vai sư thúc, sư bá của Nguyễn Trát. Họ tuy ly khai môn hộ, nhưng còn muốn trở lại tranh
dành chức chưởng môn. Nguyễn Trát đã mời sư đệ Phan Đông Bảng đến trợ giúp. Nhưng
ông nghĩ lại mình không phải đối thủ của ba vị sư bá, sư thúc. Nếu các vị bề trên đó muốn ra
tay, thực là nguy khốn. Ông được tin các vị này hiện nay đã được tân Thái thú Tô Định giúp
đỡ. Họ có ý định dùng võ công tranh dành chức chưởng môn. Sau khi dành được chức
chưởng môn, họ sẽ nhân danh môn phái tham dự đại hội hồ Tây. Họ cũng sẽ đi theo phái
đoàn sang Trung-nguyên, yết kiến Hán đế, như vậy, sẽ trái với ý chí của đệ tử phái Long-biên từ hơn 200 năm nay. 
Theo ý Nguyễn Trát, ông sẽ cùng sư đệ Phan Đông Bảng đến dự đại hội. Hai người sẽ phản
đối chủ trương của Lê Đạo Sinh, với lý do khi sang Trung-nguyên cầu xin Hán đế thì coi như
đã đầu hàng, còn đâu là ý chí phục quốc nữa? 
Sáng nay, ông họp các đệ tử bản môn để thăm dò ý kiến trước. Các đệ tử đã tụ tập đông
đủ. Ông chờ sư đệ Phan Đông Bảng để cùng tới chủ toạ. Ông đã quyết định: Nếu các các vị
sư bá, sư thúc thuận giữ nguyên chủ trương phản Hán, phục Việt thì ông đồng ý thoái vị
chức chưởng môn. Còn nếu chủ trương phục tùng người Hán, ông sẽ quyết chiến một trận,
lấy cái chết để báo ơn cho liệt tổ Âu-lạc. Thấy vợ, các con cùng đứng chung quanh, ông hỏi: 
– Có gì lạ không? 
Phương Dung nói: 
– Con thấy dường như bố đang lo lắng chuyện gì? 
Ông gật đầu nói: 
– Các con đến hội trường trước, cha sẽ cùng Phan sư thúc tới sau, chúng ta cùng giải quyết
chung. 
Phương Dung nói: 
– Thưa bố, các sư thúc Trương Thủy Hải và Trương Đằng Giang có tới không? 
Trong các sư thúc của phái Long-biên, Phương Dung gần gũi với hai vị sư thúc sinh đôi này
nhất. Tính nàng hay đùa nghịch, lí lắc, nên không hợp với cha. Ngược lại, hai vị sư thúc này
tính tình thâm trầm, nghiêm trang, nhưng hai ông thấy Phương Dung lanh lợi, phá phách,
hai ông lại thấy mến nàng. 
Nguyễn Trát cười gượng: 
– Hai sư thúc đã đến từ sáng sớm hôm nay, lúc con còn ngủ. 
Ông đứng dậy. Các sư đệ Phan Đông Bảng, Trương Thuỷ Hải, Trương Đằng Giang cũng đã
tới. Ông đứng lên cùng họ tiến vào hội trường. 
Một đệ tử hô: 
– Chưởng môn đến! 
Nguyễn Trát cùng các sư đệ tiến vào hội trường, giữa các hàng đệ tử đang cúi đầu hành lễ.
Ông vẫy tay: 
– Miễn lễ! 
Đợi cho các đệ tử ngồi xong, ông khoan thai đứng lên nói: 
– Thưa các vị sư đệ, các vị Lạc-hầu, các đệ tử của phái Long-biên. Hôm nay chúng ta tụ họp
nhau đây để bàn về một vấn đề quan trọng, đó là việc suy cử người dự đại hội Tây-hồ vào
ngày rằm tháng tám năm tới. Như chúng ta đều biết, tân Thái thú Tô Định ra Ngũ-lệnh, cấm
chúng ta tập võ. Đứng trước sự suy tàn của võ học Lĩnh-Nam, Lục-trúc tiên sinh gửi thư mời
hào kiệt thuộc các gia, các phái tới đại hội Tây-hồ hầu cử người đại diện sang Trung-nguyên
tỏ lòng quy phục Hán đế, xin Hán đế cho phép được tiếp tục luyện võ. Vì vậy, tôi mời các sư
huynh, sư đệ đến đây để tham khảo ý kiến. 
Phan Đông Bảng nói: 
– Tôi nghĩ, đó là dã tâm của Tô Định. Hán đế ở nơi xa xôi, làm sao biết được tình hình tập
võ của người Việt? Chẳng qua, một mặt Tô Định viết biểu tâu về triều rằng dân Giao-chỉ
mượn cớ luyện tập võ nghệ để tụ tập nhau làm loạn nên y mới ra lệnh cấm, một mặt y muốn
các võ phái thống nhất dưới sự kiểm soát của y, hầu để dễ sai phái. Phái Long-biên chúng
ta thành lập đã gần 200 năm nay, hiệp nghĩa khắp thiên hạ, chủ trương phản Hán, phục
Việt. Chúng ta không thể nào bỏ môn hộ, dù có bỏ môn hộ, chúng ta cũng không thể bỏ Âu-lạc. Các đệ tử nghĩ sao? 
Cả hội trường reo lên: 
– Phản Hán, phục Việt! 
– Lĩnh-nam muôn năm! 
Trương Thuỷ Hải và Trương Đằng Giang là hai anh em sinh đôi, sư đệ của Đông Bảng. Xưa
nay hai ông nổi tiếng cương trực, coi những người theo Hán hãm hại người Việt như cừu
thù. Nhưng các ông lại chủ trương rằng người Hán cũng có kẻ tốt, người xấu. Không nên
coi tất cả người Hán là cừu thù. Người Hán trên đất Lĩnh-nam chưa quá 50 vạn người mà
họ cai trị được mấy triệu người Việt vì có người Việt theo họ, chỉ đường cho họ. 
Trương Thủy Hải nói: 
– Chúng ta có thể hoà hoãn với người Hán, miễn là họ không tàn bạo. Tôi có nhiều người
bạn là người Hán. Họ rất tốt. Mới đây họ cũng tỏ ý chống lại Ngũ-lệnh của Tô Định. Nếu
chúng ta quang phục, họ có thể giúp chúng ta một tay. Quan trọng là phải giết bọn Việt theo
chân bọn Hán tham ô. Sau là giết những tên Hán ác độc. Chúng ta không thể bỏ qua những
người bạn Hán tốt, giúp chúng ta phục quốc. 
Nguyễn Trát tường thuật việc Tô Định tới Cổ-đại. Vụ Huyện-úy Long-biên cho người bắt cóc
Thánh Thiên, rồi ông kết luận: 
– Không hiểu giờ này thân phụ Thánh Thiên ra sao? 
Đông Bảng nói: 
– Tô Định bắt ông chỉ với mục đích áp lực đòi ông nộp Thánh Thiên cho hắn mà thôi. Còn
nếu Huyện-uý Long-biên bắt thì lại có vấn đề khác, vì Huyện-uý Long-biên muốn tìm cho ra
người chủ trương đứng sau chú bé Âu-lạc, khiến Tô Định phải bỏ Ngũ-lệnh ở Cổ-đại. Chúng
ta cần tìm cho ra nguyên uỷ. Thủy Hải sư đệ, ngươi có thể điều tra vụ này giúp cháu Thánh
Thiên được không? 
Trương Thủy Hải gật đầu. 
Nguyễn Trát nói: 
– Chúng ta chuẩn bị sáp huyết thề. 
Tục lệ sáp huyết thề đặt ra từ khi Vạn-tín hầu Lý Thân dẫn đệ tử sang Tần. Trước khi đi, An-Dương vương cùng các quần thần như Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Phương-chính hầu Trần Tự
Minh, Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung tiễn ngài lên đường. An-Dương vương sai dắt một con
trâu ra, lấy dao cắt tai trâu, hứng huyết vào một cái chậu sành nhỏ. Ngài cùng quần thần lấy
máu bôi vào kiếm của thầy trò Lý Thân, rồi khấn trước liệt tổ Lĩnh-nam: Mọi người cương
quyết bảo vệ đất tổ, ai phản bội sẽ bị gươm đao giết chết. 
Sau khi Vạn-tín hầu Lý Thân tự tận, tục lệ đó vẫn được giữ trong phái Long-biên. Hôm nay
là ngày đại hội, tục lệ sáp huyết được làm lại. 
Một con trâu mộng do đệ tử dẫn vào hội trường. Nguyễn Trát dùng kiếm đưa nhẹ một nhát,
tai trâu đứt lìa. Người đệ tử phụ trách bưng châu sành hứng lấy huyết, rồi để lên bàn thờ
Tổ-sư. 
Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng, Trương Thủy Hải và Trương Đằng Giang là những người
vai vế cao nhất, đứng lên sáp huyết trước. Bốn người rút kiếm ra, đưa tay vào chậu máu,
đang định bôi vào lưỡi kiếm, bỗng có tiếng quát lớn: 
– Khoan! 
Bốn mũi tiễn bay đến cùng một lúc. Bốn tiếng choang vang lên. Bốn thanh kiếm rớt xuống
đất. 
Một đoàn người tiến vào đại sảnh. Dẫn đầu, một lão già gầy khẳng kheo, một lão béo mập
và một phụ nữ tuổi khoảng năm mươi. Phía sau, lố nhố hơn mười người đều đeo kiếm. 
Phan Đông Bảng nhận ra lão già thứ nhất là Lê Nghĩa Nam, sư bá của ông. Lão thứ nhì là
Hoàng Đức Tiết và phụ nữ là Mai Huyền Sương; họ đều là sư thúc của ông. Ông chưa biết
phản ứng thế nào, Nguyễn Trát đã bước ra, chắp tay xá và nói: 
– Chúng tôi đã đạt thư mời các vị đến dự đại hội sau đây năm ngày. Nay các vị tiền bối
giáng lâm sớm quá, chúng tôi không kịp nghinh tiếp, thực vô lễ. Bây đâu! Đưa quý vị tiền bối
về nhà khách nghỉ! 
Tuy ngoài miệng nói thế, nhưng trong lòng ông không khỏi lo ngại: Trang Cối-giang của ông
canh phòng rất nghiêm mật. Từ ngoài trang đã có người giả làm nông dân canh chừng, rồi
cổng trang có đệ tử gác và chung quanh hội trường đều có người tuần phòng, sao đám
người này vào đây dễ dàng như thế này? Ông mời những người này vào nhà khách là có ý
không cho họ dự buổi họp nội bộ của ông. 
Lê Nghĩa Nam cười ha hả nói: 
– Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng, Trương Thủy Hải, Trương Đằng Giang các người thấy sư
bá, sư thúc mà không hành lễ, thực vô phép. Hành vi như thế cũng đòi lên mặt đại tôn sư
của phái Long-biên được ư? 
Nguyễn Trát nói: 
– Các vị tiền bối đã ly khai, từ bỏ môn phái rồi, chúng tôi kính là kính các vị cao niên, chứ
không còn tình sư thúc, sư bá gì nữa. Hôm nay quý vị tới đây, việc đầu tiên là dùng ám khí
đánh văng kiếm của bọn tôi đi, không cho thề theo tục lệ môn quy, như thế là đoạn tuyệt với
tổ tông rồi đó. 
Một người đứng sau Hoàng Đức Tiết chỉ mặt Nguyễn Trát nói: 
– Mày là tên phản bội sư môn, nguÿ tiếm ngôi chưởng môn, mày còn vô lễ với sư bá, sư
thúc, ta phải chém đầu mày để thanh lý môn hộ. 
Nói rồi y rút kiếm tiến đến trước mặt Nguyễn Trát. 
Cả hội trường nhất loạt đứng dậy, kiếm rút ra khỏi vỏ, tiếng binh khí và những giọng hằn học
vang lên: 
– Giết chết tụi phản nghịch! 
– Giết bọn phản quốc! 
Mọi người như muốn ăn sống nướt tươi bọn Nghĩa Nam, Đức Tiết và Huyền Sương. 
Nghĩa Nam cười gằn một tiếng: 
– Bọn đồ tử đồ tôn, mới học được vài cái múa mà đã dám lên mặt với người trưởng thượng
ư? Ta sợ các người sẽ chết không có đất mà chôn. Hãy coi đây! 
Y phất tay làm hiệu. 
Lập tức các cửa hội trường đều bị đánh văng trở vào, mỗi cửa có mấy chục người tuốt kiếm
chờ đợi. 
Mai Huyền Sương nói: 
– Nguyễn Trát, ngươi muốn cậy đông chăng? Ngươi hãy mở mắt ra mà coi. 
Nguyễn Trát suy nghĩ thật kỹ: 
– Đối phương đã tập kích, loại hết ba vòng đai canh gác của ta rồi, bây giờ lại bao vây hội
trường nữa. Chúng đã chuẩn bị mà ta thì chưa. Nhất thiết ra tay, giỏi lắm là hoà. Nhưng dù
hoà thì môn phái cũng hao tổn lực lượng ít nhất hơn nửa, còn đâu để mong phục quốc nữa? 
Nghĩ rồi, ông vội xua tay ra lệnh cho đệ tử: 
– Không được vọng động! 
Ông quay lại hỏi Lê Nghĩa Nam: 
– Xin tiền bối cho biết chủ ý? 
Mai Huyền Sương nói: 
– Cách đây hơn mười năm, sư phụ tự nhiên mất tích, không biết vì lẽ gì. Cho nên sư huynh
đệ chúng ta họp nhau bầu người chưởng môn thừa kế. Nhưng Nguyễn Thuật dùng xảo kế
đoạt chức chưởng môn. Đó là điều bạo nghịch bất đạo. Hôm nay chúng ta tới đây để chỉnh
đốn lại môn phái. Nếu các người thuận theo chúng ta thì chúng ta để cho được sống rời khỏi
đây. Còn các người chống đối, đừng trách chúng ta tàn nhẫn. 
Hoàng Đức Tiết tiếp lời: 
– Sư phụ mất tích có lẽ do Nguyễn Thuật ám hại. Hôm nay chúng ta phải trả thù cho sư phụ. 
Trương Thuỷ Hải nói: 
– Các người ngậm máu phun người, sư phụ ta hãm hại Thái sư phụ có gì làm chứng? 
Lê Nghĩa Nam nói: 
– Thôi, việc sư phụ mất tích hiện chưa biết ra sao, nhưng vấn đề trước mắt là: Chưởng môn
phái Long-biên phải biết bài quyết biến hoá kiếm thuật và 72 thức trấn môn. Vậy người có
biết không? 
Nguyễn Trát nói: 
– Thái sư phụ mất tích, không truyền lại cho ai, thành ra đến nay những bí quyết đó của bản
môn bị thất lạc. Ngươi cũng đã biết, còn hỏi làm gì? 
Hoàng Đức Tiết nói: 
– Khi võ công trấn môn không còn, đương nhiên người có vai vế cao nhất hoặc võ công cao
nhất sẽ làm chưởng môn. Nếu nói về võ công, về vai vế thì ngươi không đủ tư cách. Người
tự cho mình xứng đáng chăng? 
Nguyễn Trát chưa biết nói sao thì con thứ ba là Nguyễn Hào đứng dậy nói: 
– Tuy thân phụ ta không phải là người có vai vế cao nhất, cũng chẳng phải là người có võ
công cao nhất, nhưng người đã tiếp nhận chức chưởng môn từ Thái sư phụ. Khi các người
cùng Thái sư phụ luận kiếm tranh chức chưởng môn, các người đã bị bại rồi, nay còn dám
vác mặt về đây sao? 
Mai Huyền Sương vung tay một cái, chỉ thấy thấp thoáng bóng trắng, hai tiếng bốp, bốp nổi
lên. Nguyễn Hào bị tát hai cái, kiếm bị đoạt mất: 
– Chúng ta là bậc cao nhân tiền bối của cha ngươi, chúng ta đang thảo luận, ngươi có tư
cách gì mà xen mồm vào? 
Lê Nghĩa Nam nói: 
– Lê Đạo Sinh tiên sinh có thơ mời, ngày rằm tháng tám sang năm, các môn phái phải cử
cao nhân dự đại hội Tây-hồ, cử người làm chưởng môn chung cho đất Lĩnh-Nam. Sau đó
đến Trung-nguyên yết kiến Kiến Vũ hoàng đế để tỏ lòng quy phục, xin được tiếp tục luyện
tập võ nghệ. Bởi vậy chúng ta tới đây, trước để chỉnh đốn lại môn phái, sau sẽ cử người đi
dự đại hội Tây-hồ. 
Trương Thủy Hải hỏi: 
– Bây giờ hãy bỏ vấn đề ai là chưởng môn ra, các ngươi tự nhận là cao nhân của môn phái,
vậy xin cho biết chủ trương? 
Nghĩa Nam cười khan: 
– Còn chủ trương gì nữa? Chúng ta sẽ dẫn đệ tử phái Long-biên đến Tây-hồ, đoạt chức
Lĩnh Nam võ công đệ nhất rồi đi Trung-nguyên. 
Nguyễn Trát nói: 
– Thưa ba vị tiền bối, bốn anh em huynh đệ chúng tôi cai quản bốn trang ấp lớn, nhân đinh
mỗi trang bốn ngàn người, đệ tử trên hai trăm, nhất quyết noi theo tiền nhân phản Hán phục
Việt, Vì vậy, nếu các vị đưa ra lời thề, hứa tiếp tục chí hướng đó, tôi sẵn sàng quy phục.
Bằng không, chúng tôi thà chết chứ không khuất phục. 
Mai Huyền Sươnghỏi: 
– Ta hỏi ngươi, môn phái ta, ai là sáng tổ? 
Nguyễn Trát nói: 
– Là Vạn-tín hầu họ Lý, huý Thân. 
Mai Huyền Sươngcười nhạt: 
– Ngày xưa sáng tổ rời đất Âu-lạc sang Tần, đấu võ với các võ sĩ của Tần đoạt chức vô
địch, được Thuỷ-hoàng cử làm đại tướng đánh Hung-nô, sau được phong Vạn-tín hầu.
Ngày nay chúng ta muốn noi gương ngài. Noi gương tổ tiên là điều nên làm. Ai cãi lại thì
chém. Kẻ nào không phục, hãy rút kiếm ra nói chuyện. 
Phan Đông Bảng nói: 
– Đã vậy, hôm nay không tránh khỏi một cuộc giao đấu. Các vị là cao nhân tiền bối, chúng
tôi không dám. Vậy chúng tôi cử ra ba người, các vị sư đồ của quý vị cũng cử ra ba người.
Nếu chúng tôi bại sẽ xin rút lui để quyền điều khiển môn phái cho quý vị. 
Khi Đông Bảng nói câu này, ông đã biết trong các đệ tử của ba vị sư thúc, bá không ai địch
nổi Nguyễn Trát và ông. Hai sư đệ Thủy Hải, Đằng Giang tuy có sút kém hai ông đôi chút,
nhưng cũng không đến nỗi nào. Chỉ cần thắng hai cuộc đã coi như thành công. 
Mai Huyền Sương cười: 
– Không được, trong ba cuộc đấu thì hai vị sư huynh và ta phải chủ trì. 
Đông Bảng nói: 
– Các vị là tiền bối cao nhân không lẽ lại ra tay với bọn hậu bối chúng tôi, như vậy e nhẹ thể
diện chăng? 
Một đệ tử của Hoàng Đức Tiết là Lê Nguyên Phong nói: 
– Bọn phản đồ! Nếu các người sợ hãi, mau quỳ gối xuống van xin, sư phụ chúng ta sẽ tha
cho khỏi chết, rời khỏi nơi đây. Còn muốn ra mặt anh hùng hảo hán thì sẽ mất mạng. 
Nguyễn Anh nói: 
– Các ngươi là phản đồ mà dám xưng mình là chính phái để chửi người ư? 
Nói rồi chàng rút kiếm, phóng liền ba chiêu vào người Nguyên Phong ba chiêu vừa mau vừa
mạnh gọi là Hồng-hà tam điệp, đó là ba chiêu đắc ý nhất của Nguyễn Trát mới chế ra. 
Nguyên Phong hoảng hốt lùi lại ba bước, nhưng đã chậm, một lưỡi kiếm đã xẹt ngang vai y.
Y ối lên một tiếng, ôm vai lùi lại. 
Mai Huyền Sương vọt lên, người bà chỉ thấp thoáng một cái, thanh kiếm của Nguyễn Anh đã
bay vọt lên không, còn người chàng bị bắn ra khỏi hậu trường té huÿch xuống đất. Miệng
phun ra một búng máu. 
Phương Dung la lớn: 
– Anh cả! 
Rồi chạy ra đỡ chàng. Nguyễn Anh nhăn mặt, gượng đứng dậy. Phương Dung hầm hầm chỉ
vào mặt Mai Huyền Sương: 
– Mi tự hào là cao nhân sao lại ra tay đánh hạng tiểu bối thua mình đến hai bậc? Thực
không biết nhục. 
Mai Huyền Sương nói: 
– Ta sắp kết liễu cuộc đời con nha đầu này đây. 
Nói rồi, mụ vung tay phóng chưởng đánh vào đầu Phương Dung. Nguyễn Trát hoảng hốt
vung chưởng đỡ. Bộp một tiếng, ông lui lại ba bước, miệng ri rỉ ra máu. 
Mai Huyền Sươngnói: 
– Ta mới vận có năm thành công lực. 
Nguyễn Trát biết thị nói thật, chứ không phải đùa. Ông đứng im suy nghĩ một lúc rồi nói: 
– Các vị tiền bối, ta thuận nhường chức chưởng môn cho quý vị, nhưng quý vị phải thề nhất
tâm không được thù hận những việc từ trước đến giờ. 
Khi nói câu này, ông đã suy nghĩ kỹ: 
– Tạm thời lùi bước để cho chúng chiếm chức chưởng môn, hầu bảo tồn nguyên khí của
môn phái. Sau đó ta sẽ lên Mê-linh ở với Thi Sách, mưu đồ quang phục, còn hơn giữ chức
chưởng môn để làm chết hết tinh hoa của môn hộ, đến ngày khởi nghĩa lực lượng không
còn. 
Các đệ tử tại hội trường đồng cúi mặt xuống, nước mắt dàn dụa. Hai anh em Thủy Hải,
Đằng Giang đứng lên hướng về bàn thờ tổ lạy bốn lạy rồi khấn: 
– Liệt tổ chứng giám cho. Đệ tử không thể chịu nhục quỳ gối trước những kẻ làm tôi mọi cho
người Hán. 
Hai ông là anh em sinh đôi nên ý chí hợp nhất. Cả hai rút kiếm đưa lên cổ tự tận. 
Đông Bảng kêu lớn: 
– Sư đệ! Không nên. 
Từ đầu đến giờ Phương Dung thấy cha và các sư thúc đấu lý với bọn phản đồ. Về lý tuy
thắng, nhưng đối phương luôn tỏ ra là kẻ mạnh, muốn uy hiếp đối thủ. Nàng không dám xen
vào. 
Bây giờ thấy hai vị sư thúc vung kiếm tự tử. Không nhịn được nữa, nàng rút kiếm phóng ra
hai chiêu thần tốc. Hai tiếng choảng vang lên, kiếm của anh em họ Trương đều rơi xuống
đất. Nàng nói lớn: 
– Sư thúc, không nên tự tử. 
Động tác rút kiếm, phát chiêu của nàng thần tốc và quái dị vô cùng. Đến Nguyễn Trát cũng
không kịp nhìn rõ. 
Phan Đông Bảng thì ngẩn người ra vì ông thấy kiếm chiêu của Phương Dung rất quen
thuộc, nhưng ông không biết chiêu đó tên là gì và sử dụng như thế nào. 
Lê Nghĩa Nam kêu lên: 
– Nguyệt hạ ma kiếm! Con nhỏ kia, mi học chiêu này ở đâu? 
Phương Dung được Đào Kỳ truyền nội công âm nhu vì bí quyết 72 chiêu biến hoá của phái
Long-biên, nhưng chàng không cho biết đó là kiếm pháp nội công gì. Phương Dung là người
rất thông minh, nàng thấy những chiêu kiếm Đào Kỳ dạy cho nàng dường như hơi giống
những chiêu kiếm mà cha nàng đã dạy anh em nàng. Có điều những chiêu đó thần tốc và
quái dị lạ lùng. Đào Kỳ bảo rằng: Kiếm pháp Long-biên mà nàng đã học được tuy tinh diệu,
nhưng những chiêu đó rời rạc, khi sử dụng xong một chiêu lại phải chuyển sang chiêu khác.
Giữa khoảng trống là chỗ sơ hở, khiến đối thủ có thể trả đòn được. Bây giờ chàng dạy
Phương Dung một số chiêu thức để nối liền các chiêu kiếm kia lại, khi sử dụng sẽ thành một
giây liên miên bất tuyệt, khiến đối thủ không có thì giờ trở tay. 
Phương Dung tưởng thực, nàng thấy vui vui thì luyện, chứ nàng không thể ngờ rằng đó là
những yếu quyết võ công của nhà mình, khiến cho anh hùng thiên hạ nghe đến đều nhiễu
nước miếng. Thái-sơn bắc đẩu võ học Lĩnh Nam là Lê Đạo Sinh phải dùng trăm mưu nghìn
kế, bắt giam thái sư tổ nàng là Nguyễn Phan để tra hỏi, mong học được những bí quyết đó.
Các thái sư bá, sư thúc của nàng là bọn Lê Nghĩa Nam cũng chỉ vì thèm những yếu quyết
đó, đã đánh độc, bắt sư phụ giao cho Lê Đạo Sinh cùng tra hỏi. 
Song song với việc dạy 72 chiêu kiếm, Đào Kỳ còn dạy nàng nội công âm nhu. Vì nếu không
luyện tập nội công đó, không thể sử dụng 72 chiêu kiếm trấn môn được. Từ ngày luyện tập
đến giờ, nàng chưa có dịp sử dụng. Bây giờ thấy sư thúc sắp tự tử, nàng đem ra sử dụng,
đánh rơi được kiếm của hai ông xuống. Chíng nàng cũng ngạc nhiên đến ngẩn người ra. 
Khi Lê Nghĩa Nam quát hỏi, nàng cũng không biết phải trả lời sao, chỉ đưa mắt nhìn Đào Kỳ.
Đào Kỳ nhìn nàng lắc đầu. Phương Dung hội ý đáp: 
– Chiêu đó là kiếm pháp của bổn môn. 
Nguyên từ bọn Lê Nghĩa Nam cho đến Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng đều đã thấy Nguyễn
Phan sử dụng chiêu này một vài lần. Ông còn giảng rằng đó là chiêu Mài gươm dưới ánh
trăng khi ra chiêu cần phải tính toán để kiếm của mình đụng vào kiếm đối thủ sắp đổi chiêu.
Trong khoảnh khắc đó, lực đạo đối phương rất yếu, kiếm mình có thể đánh bay kiếm đối thủ
đi. 
Ban nãy, Mai Huyền Sương phải dùng đủ mười thành công lực mới phóng mấy mũi tụ tiễn
đánh rơi kiếm của bọn Nguyễn Trát. Thế mà bây giờ, chỉ với một chiêu kiếm quái dị,
Phương Dung đã đánh rơi kiếm của anh em họ Trương, hỏi họ không kinh hoàng sao
được? 
Mai Huyền Sương quát lên: 
– Dĩ nhiên chiêu đó là kiếm pháp bản môn, nhưng tại sao ngươi lại biết? 
Câu hỏi này chính Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng cũng định hỏi nàng. Phương Dung đáp
lững lờ: 
– Ta học chiêu kiếm này của người lớn. 
Nguyên vì Đào Kỳ lớn hơn nàng một tuổi nên nàng đáp lơ lững như vây để làm rối trí đối
thủ. 
Mai Huyền Sương thấy nàng trả lời lờ mờ, y thị là người nóng tính nên quát lớn: 
– Dĩ nhiên chiêu kiếm đó ngươi học được của bề trên. Nhưng ngươi có biết chiêu đó chỉ có
người chưởng môn mới được học không? 
Thị quay lại hỏi Nguyễn Trát: 
– Mi còn chối được nữa không? Rõ ràng sư phụ ngươi đã hãm hại sư phụ để học kiếm pháp
trấn môn, nếu không làm sao ngươi biết mà truyền cho con nhỏ này? 
Đào Kỳ ngồi dưới, chàng biết rõ bọn Lê Nghĩa Nam bắt giam sư phụ, được Nguyễn Phan
truyền thụ kiếm pháp, nội công giả cho chúng. Chúng luyện tập suốt hơn hai năm qua,
không kết quả. Bây giờ chúng còn đổ tội cho Nguyễn Thuật, sư phụ Nguyễn Trát, thì thực là
xảo quyệt, ác độc. Chàng không nhịn được, buông tiếng cười gằn: 
– Lê tiền bối! Địa vị người trong phái Long-biên cũng không nhỏ. Đã là cao nhân thì phải
quang minh chính đại. Đâu có chuyện mình làm những điều sai quấy, lại đi đổ cho kẻ khác.
Khổng-tử nói rằng: Những điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác. Ngài lại cũng
nói: Người quân tử đã làm điều sai quấy thì phải sửa đổi. Những điều tiền bối làm, tại sao lại
cứ đổ cho tiền bối Nguyễn Thuật? 
Nghe Đào Kỳ nói, bọn Lê Nghĩa Nam đều nổi da gà, vì trong lời nói của chàng dường như
chàng đã biết hết thủ đoạn cuả chúng. 
Hoàng Đức Tiết là người thâm trầm. Y hỏi Đào Kỳ: 
– Thiếu niên này, ngươi là ai? 
Đào Kỳ cười lạt: 
– Ta tên là Âu-Lạc. Cha ta là Lạc-long quân, mẹ ta là Âu-Cơ. Ta không phải đệ tử phái
Long-biên. Gia đình ta chẳng may gặp tai biến, nên phải đến sống nhờ ở trang Cối-giang đã
hơn năm nay. 
Mai Huyền Sương thấy chàng trải lời bằng giọng đâm họng, y thị nhảy vèo đến, phóng một
chưởng vào người chàng. Đây là chưởng âm nhu của phái Long-biên, Đào Kỳ đã được
Nguyễn Phan chỉ dạy. Chàng biết chiêu này tay phải đối thủ sẽ đánh thẳng vào mặt mình.
Tay đẩy từ dưới lên trên. Đối thủ không biết, đưa tay gạt, tức thì, hai tay, hai chân sẽ bị gãy.
Đào Kỳ giả vờ ngơ ngẩn, khoa tay múa loạn lên, nhưng chàng đẩy về phía Mai Huyền
Sương chiêu Ngưu ngoạ ư sơn âm nhu trong Phục ngưu thần chưởng. Kình lực của Mai
Huyền Sương gặp kình lực nhu hoà của chàng, bị tan biến mất tăm. 
Không những Mai Huyền Sương kinh hoàng, cả đến bọn Nguyễn Trát cũng ngẩn người ra.
Vì ông thấy Mai Huyền Suơng ra chiêu nội lực hùng hậu nhưng không hiểu Đào Kỳ đã ra
chiêu gì để hoá giải kình lực của y thị dễ dàng như vậy. 
Hoàng Đức Tiết nói với Mai Huyền Sương: 
– Sư muội, đừng nóng nảy. 
Rồi y tiến lên hỏi Đào Kỳ: 
– Tiểu bằng hữu, vừa rồi ngươi sử dụng một chiêu giống như võ công Tản-viên, nhưng sao
lại dùng nội công âm nhu của bản môn? 
Đào Kỳ nói ngang: 
– Võ công trong thiên hạ, dù nhu, dù cương cũng do người chế ra. Người này chế ra được,
người khác cũng chế ra được. Chiêu thức và nội công của ta do ta chế ra. 
Hoàng Đức Tiết còn muốn tra hỏi, nhưng y chợt nghĩ lại: 
– Việc chính mình tới đây là để chiếm chức chưởng môn với Nguyễn Trát, hơi đâu lý luận
đến việc khác? 
Nghĩ vậy y bèn nói với Lê Nghĩa Nam: 
– Sư huynh! Vừa rồi Nguyễn Trát đã quyết định từ chức chưởng môn để trả về cho chúng
ta. Vậy sư huynh hãy tiếp nhận đi. 
Nghĩa Nam tiến lên, hướng vào các đệ tử Long-biên: 
– Các ngươi nghe đây! Nguyễn Trát biết tội, thoái vị chưởng môn. Kể từ hôm nay ta là
chưởng môn. Các ngươi phải tuyệt đối tuân lệnh ta. Kẻ nào chống đối sẽ bị giết không tha. 
Hội trường im phăng phắc nhưng không khí căm hờn ngùn ngụt bốc dậy. Nghĩa Nam tiếp: 
– Ta tuyên bố ba điều căn bản: Thứ nhất, tuyệt đối tuân theo chí hướng của sáng tổ là Vạn-tín hầu, phục tùng Hán thất. Phải bỏ tất cả những mưu đồ phản Hán phục Việt. Thứ nhì, tất
cả các đệ tử phải có mặt tại bờ hồ Tây vào ngày rằm tháng tám sang năm để dự đại hội.
Thứ ba, Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng đã làm chuyện khi sư nghịch đạo, đuổi ra khỏi môn
phái. Chiếu môn quy, phải rời khỏi trang Cối-giang nội ngày hôm nay cùng với vợ con. 
Phương Dung thấy cha cùng sư thúc cúi đầu, nước mắt chảy dài, nàng không nhịn được,
bước ra hỏi: 
– Các người tự thị là cao nhân tiền bối đến đây để đoạt chức chưởng môn. Chức chưởng
môn vừa vào tay đã bắt chúng ta quỳ gối trước mặt người Hán, thực là một điều sỉ nhục lớn
lao của môn hộ. Chúng ta không tuân theo. 
Mai Huyền Sương hất hàm ra lệnh cho Lê Nguyên Phong: 
– Nguyên Phong, ngươi hãy bịt miệng con nhỏ ngạnh đầu cho ta. 
Nguyên Phong là đệ tử đắc ý nhât của Lê Nghĩa Nam, tuổi y khoảng 40, võ công không kém
Nguyễn Trát là bao. Nghe Mai Huyền Sương ra lệnh, y nhảy vào vung tay tát Phương Dung
hai cái. Thân pháp y nhanh không tưởng được. Nguyễn Trát định xuất chiêu cứu Phương
Dung nhưng đã trễ. Không ngờ khi hai tay y sắp tới mặt Phương Dung, nàng đã chuyển
thân mình, thoáng một cái, đã ở phía sau Nguyên Phong. y tát vào khoảng không. 
Mai Huyền Sương kêu lên: 
– Ủa! 
Phan Đông Bảng cũng ngạc nhiên: 
– Úi chà! 
Lê Nguyên Phong được lệnh sư thúc trấp áp một cô gái vào hàng hậu bối, ra tay đánh trộm
mà bị hụt. Y nổi giận, quát lên một tiếng, tay trái vận sức, quay thành vòng tròn xuất chưởng
đánh vào ngực Phương Dung. Tay phải biến thành trảo chụp vào mặt nàng. Phương Dung
chờ cho chưởng, trảo đối phương sắp tới người, mới nhảy vọt lên cao, chân nàng đá gió
một cái, người đã bắn ra xa Nguyên Phong. 
Nguyên Phong giận quá, rút kiếm, ra chiêu Hoa khai nguyệt hạ. Kiếm quay tròn, biến thành
18 chiêu hư, bao trùm người Phương Dung. Tất cả hội trường đồng kêu lên: 
– Chết! 
Họ đều nhắm mắt lại, không dám nhìn cảnh một cô gái xinh đẹp như vậy bị giết chết. Nhưng
bóng trắng thấp thoáng, Phương Dung chuyển động thân hình, đồng thời rút kiếm phóng ra
một chiêu thần tốc, quái dị. Kiếm chiêu đâm vào giữa vòng tròn kiếm quang của Lê Nguyên
Phong. Rồi nàng thu kiếm về, tra vào vỏ đến cách một cái. Kiếm của Nguyên Phong đã bị
rơi xuống đất. Cổ tay và vai vai y đều bị trúng kiếm, máu chảy xối xả. 
Từ Lê Nghĩa Nam cho tới Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng đều trông rất rõ Phương Dung ra
chiêu. Nhưng động tác rút kiếm, đâm ra, tra kiếm vào vỏ thần tốc vô cùng. Họ cũng không
biết chiêu thức Phương Dung sử dụng là chiêu thức gì? Họ thấy rõ lối xuất chiêu, tay trái bắt
kiếm quyết, đúng là kiếm pháp bản môn, nhưng họ không biết Phương Dung học kiếm đó ở
đâu? 
Hoàng Đức Tiết vẫy tay bảo Nguyên Phong: 
– Ngươi hãy lui ra! Thì ra Nguyễn Thuật đã cưỡng bức sư phụ đoạt kiếm pháp trấn môn
truyền cho Nguyễn Trát, rồi Nguyễn Trát truyền cho con nhỏ này. 
Y rút kiếm cầm tay, hướng vào Phương Dung: 
– Con nhỏ kia, hãy rút kiếm ra. 
Phương Dung khoanh tay, cười tủm tỉm: 
– Đối phó với bọn phản đồ, ta chả cần phải rút kiếm vội. 
 Hoàng Đức Tiết vung kiếm từ phải vòng qua trái, hướng vào ngực Phương Dung. Phương
Dung không đỡ, không tránh, nàng rút kiếm chĩa ra trước, mũi kiếm chỉ đúng vào cườm tay
Hoàng Đức Tiết. Nếu Đức Tiết tiếp tục đánh tới, chẳng khác gì y tự đưa tay vào mũi kiếm
của Phương Dung. Hoảng kinh, y vội thu kiếm lại, nhảy lùi về phía sau. Y chưa kịp đứng
vững thì bóng trắng thấp thoáng, cổ tay y bỗng thấy đau nhói. Phương Dung đã nhảy theo
như bóng với hình dí mũi kiếm vào cổ y. Y vội bật ngửa người ra sau tránh khỏi, lăn ba
vòng, rồi vọt người lên. Thuận tay y đâm kiếm về phía trước để cản Phương Dung. 
Phương Dung ra mấy chiêu thần tốc, chiếm được thượng phong, nhưng nàng mới sử dụng
kiếm pháp Đào Kỳ dạy lần đầu nên chưa kinh nghiệm, thành ra Đức Tiết có thời giờ phản
công. 
Đức Tiết tấn công liền mười chiêu. Phương Dung thuận thế phản công. Từ lúc nhập cuộc,
tới bây giờ Đức Tiết mới trả được đòn. Kiếm chiêu của y đánh ra liên miên bất tuyệt.
Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng ngây người đứng nhình, rồi nói với Trương Thủy Hải: 
– Các sư đệ! Nếu sư phụ còn tại thế, hiện giờ chưa chắc đã là đối thủ của y. Không ngờ
kiếm pháp của y đã cao đến trình độ đó. 
Đúng ra, kiếm pháp của bọn Nghĩa Nam chưa tới trình độ đó. Nhưng trước đây một năm,
bọn họ đã được Nguyễn Phan truyền kiếm pháp giả cho. Ông sợ chúng khám phá ra, nên
cứ ba chiêu ông truyền thực, bảy chiêu ông đã đổi đi. Chỉ với ba phần thực, nhưng họ đã
học kiếm pháp Long-biên hơn ba mươi năm, nên cũng thu được rất nhiều kết quả. 
Nhưng dù Hoàng Đức Tiết có ra chiêu thần diệu đến đâu, Phương Dung vẫn ung dung đối
phó dễ dàng. Kiếm chiêu của nàng cực kỳ thần tốc, biến hoá quái dị. Lê Nghĩa Nam đứng
ngoài cũng ngẩn người ra. Y nói với Mai Huyền Sương: 
– Thì ra lão già đã bí mật truyền thụ võ công trấn môn cho Nguyễn Trát. Nguyễn Trát tư vị
truyền cho con gái. Nếu chúng mình không học được kiếm pháp của lão, Hoàng sư đệ ắt
không thể chống nổi con nhỏ này. 
Càng đấu, Phương Dung càng thu được nhiều kinh nghiệm. Kiếm chiêu của nàng đã thuần
phục hơn. Hoàng Đức Tiết vừa ra chiêu, vừa nhảy nhót, hò hét; còn nàng, thuỷ chung tay
trái bắt quyết, tay phải xuất chiêu, ung dung nhàn nhã. Trận đấu như vậy, rõ ràng đã phân
thắng bại. 
Bất thình lình Đức Tiết quát lên một tiếng, xả ba chiêu véo, véo, véo liên tiếp vào vai trái
Phương Dung. Phương Dung không dám đỡ, nàng nhảy lui lại ba bước, rồi đẩy xéo lưỡi
kiếm từ dưới lên trên. Hoàng Đức Tiết kêu lên một tiếng ái chà, kiếm rơi xuống đất đánh
choang một cái. Cổ tay và vai y máu tuôn ra xối xả, trong lúc Phương Dung đã tra kiếm vào
vỏ hỏi: 
– Hoàng tiền bối! Người đã chịu thua chưa? 
Hoàng Đức Tiết lùi lại cho một đệ tử băng bó vết thương. Mai Huyền Sương tiến lên hỏi: 
– Tiểu cô nương! Cô nương danh tính là gì? Cô nương đã học kiếm pháp ảo diệu bản môn
của ai? 
Phương Dung chỉ vào Nguyễn Trát: 
– Tôi là Phương Dung! Căn bản kiếm pháp bản môn của tôi do bố tôi truyền thụ. Sau tôi
được một người lớn dạy dỗ cho tôi 72 chiêu kiếm và cách biến hoá. Người lớn dạy tôi, vì
một lẽ riêng, không muốn hiện lộ thân thế. 
Câu nói của Phương Dung ám chỉ Đào Kỳ là người lớn tuổi hơn nàng. Nhưng đối với Mai
Huyền Sương,không phải Nguyễn Trát, thì là Nguyễn Phan. Họ cùng nghĩ rằng Nguyễn
Phan ẩn nấp đâu đó, bí mật truyền kiếm pháp trấn môn cho nàng. 
Lê Nghĩa Nam nói: 
– Đã vậy, ta xin lĩnh giáo cô nương mấy chiêu. 
Nói rồi y rút kiếm từ từ đưa ra trước, khoanh tay như bái tổ. Đó là chiêu kiếm của phái Long-biên dùng để chào khách trước khi giao đấu. Phương Dung cũng rút kiếm, ra cùng một
chiêu. Nhưng nàng rút kiếm sau, mà tới trước, rồi thuận tay kéo thành một chiêu vòng cầu.
Nghĩa Nam cũng đã phản công. Hai người dùng cùng một thứ kiếm pháp của môn hộ, nên
người ngoài chỉ còn thấy hai quả cầu bạc. Họ không phân biệt được đâu là Phương Dung,
đâu là Lê Nghĩa Nam. 
Đấu được khoảng 200 hiệp thì Phương Dung đã thuần phục các chiêu thức. Bây giờ nàng
muốn ra chiêu nào, tòng tâm sử dụng, liên miên bất tuyệt. Nhưng dù nàng ra chiêu huyền
diệu đến đâu, Nghĩa Nam cũng ứng phó được. 
Đào Kỳ ngồi ngoài, thấy vậy, nghĩ thầm: 
– Công lực của Lê Nghĩa Nam đã tới độ tối cao, Phương Dung đấu với y dằng dai như vậy,
e rằng chỉ hơn trăm chiêu nữa, nàng sẽ bị bại. 
Nghĩ vậy, chàng bèn đọc lớn lên: 
Hư hư, thực thực, thị chân truyền, 
Thượng, hạ, chuyển khai ý chí kiên, 
Minh minh, toạ toạ, nhiên thị thắng, 
Minh tâm, nhật nguyệt hạc phi thiên. 
Phương Dung đang đấu với Nghĩa Nam, nghe Đào Kỳ đọc vậy, chợt tỉnh ngộ. Hôm trước
Đào Kỳ đã giảng cho nàng: Cần phải biết đang từ hư biến sang thực. Từ thực biến sang hư.
Như vậy, đối phương sẽ không biết đâu mà đánh, mà đỡ. Đối phương sẽ mất nhiều sức, mà
mình làm chủ được trận đấu. Nghĩ vậy, đang từ hư nàng chuyển sang thực. Lê Nghĩa Nam
suýt bị nàng đâm trúng bụng, vội nhảy lùi lại. Nàng vẫn chuyển kiếm theo toàn hư chiêu.
Chiêu nào y cũng phải vận sức để chuẩn bị đỡ đòn. Được mấy chiêu, y tưởng nàng đánh
hư, cũng ra hư chiêu, thì nàng lại biến thành thực. Lần này mũi kiếm của nàng đâm xéo vào
ngang hông y, xoẹt một tiếng, mũi kiếm đã chạm vào sườn y. Y kinh hoảng nhảy lùi lại, đưa
tay sờ vết thương. Thấy có vết máu, y biết mình đã bị thương, nhưng không nặng lắm. Y
quát lên một tiếng, lại xông vào tấn công. Lần này kiếm pháp của y đã đổi hẳn. Khi mau khi
chậm. 
Đào Kỳ nhận ra y sử dụng kiếm pháp Cửu-chân nhà chàng. Trong đầu óc chàng nảy ra
không biết bao nhiêu nghi vấn: Lê Đạo Sinh định dùng chàng làm con mồi để bắt cha, mẹ và
cậu chàng hầu đoạt lấy võ công Cửu-chân. Thế tại sao y lại biết võ công Cửu-chân để dạy
cho Lê Nghĩa Nam? 
Đánh được 30 chiêu, bỗng kiếm của Phương Dung chạm vào kiếm Nghĩa Nam đánh
choang một tiếng. Cánh tay nàng tê dại, suýt rơi mất kiếm. Nàng chợt nhớ Đào Kỳ giải thích
câu Thượng, hạ, chuyển, khai, ý chí kiên là: Suốt cơ thể, phải bỏ trống không. Chân khí
buông lỏng. Ý, chí hợp nhất mới chống được đối thủ có công lực dương cương. 
Phương Dung tỉnh ngộ, buông lỏng chân khí, phóng ra ba chiêu như điện chớp. Lê Nghĩa
Nam cố ý cho hai kiếm chạm nhau. Đến chiêu thứ sáu, y được như ý. Choang một tiếng, hai
kiếm chạm nhau. Nhưng lần này, khi hai kiếm chạm nhau, mũi kiếm của Phương Dung như
dính liền với người y, chĩa vào ngực y. Y kinh hoảng nhảy lùi lại đến bốn bước, nhưng mũi
kiếm vẫn theo y đúng với câu: Minh tâm, nhật nguyệt, hạc phi thiên, nghĩa là lòng dạ phải
trong sáng, kiếm chiêu như ánh mặt trời mặt trăng chiếu vào con hạc. Y nhảy đến bước thứ
năm thì chạm phải bức tường. Mũi kiếm đâm vào ngực y đến sột một cái. Y buông kiếm,
phát một chưởng đánh vào ngực Phương Dung. Phương Dung nhảy lùi lại ba bước, vung
kiếm cắt ngang vào chưởng của y để hoá giải kình lực. 
Lê Nghĩa Nam ôm ngực, mặt tái như gà bị cắt tiết, dơ tay vẫy đồng bọn: 
– Đi thôi. 
Cả bọn đưa mắt nhìn Phương Dung, rồi cùng theo Nghĩa Nam rời khỏi hội trường. 
Phan Đông Bảng bước đến bên Đào Kỳ chắp tay: 
– Đào công tử! Thì ra người là tam công tử của Đào hầu đất Cửu-chân. Ta dám hỏi người
một câu: Người đã gặp thái sư phụ ta trong trường hợp nào? Hiện thái sư phụ ta ở đâu? 
Từ khi mới gặp Phan Đông Bảng, Đào Kỳ đã cảm thấy kính phục ông. Nay hành tung của
chàng đã bị ông khám phá, chàng không dám dấu diếm, chắp tay hỏi: 
– Thì ra tiền bối biết cả rồi ư? 
Phan Đông Bảng gật đầu: 
– Ta chỉ đoán già mà thôi. Cách đây mấy năm ta nghe nói người con út của Đào hầu Cửu-chân, giữa chợ Long-biên tuốt kiếm giết tám tên lính Hán, bị huyện uý Long-biên là Đức
Hiệp bắt được. Sau vì đánh cuộc thua Lê Đạo Sinh mà bị làm tôi tớ cho y. Ta với Đào hầu là
chỗ thâm giao, nên ta đã mang tiền đến chuộc công tử ra. Nhưng Lê Đạo Sinh không chịu.
Gần đây, ta lại nghe nói công tử gặp kỳ duyên, học được võ công Văn-lang, Long-biên, đánh
bại Hoàng Đức, Đức Hiệp. Rồi giữa chợ Cổ-đại đấu với võ sĩ của Tô Định, khiến dân Cổ-đại
không phải chịu Ngũ-pháp. Khi trở về Cối-giang này thì sư huynh ta bảo công tử cải danh là
Âu Lạc, ẩn thân ở đây đã hơn một năm. Sư huynh ta thấy công tử dạy võ cho Phương Dung
thì cứ tưởng công tử dạy võ Cửu-chân. Có ngờ đâu, công tử lại dạy võ công thượng thừa
của bản môn cho nó. 
Ông quay lại Phương Dung: 
– Cháu ngoan, mau lại tạ ơn Đào công tử đi. 
Phương Dung đến bên Đào Kỳ, thình lình nắm lấy hai tai chàng vặn mạnh: 
– Cái anh này gớm thật! Người nói dối ta, xưng là Âu-Lạc. Ngươi dạy võ công trấn môn của
tổ sư cho ta, sao lại dấu ta? 
Đào Kỳ bị nàng vặn tai đau quá, nhăn mặt cười: 
– Thì anh phải nói dối như vậy chứ. Nếu anh bảo là kiếm pháp Long-biên, làm sao qua mặt
em được? Em thông minh quá đi! Mắt sáng như sao! Em sẽ hỏi anh học ở đâu, làm sao anh
trả lời cho nổi? 
Rồi Đào Kỳ nghiêm nét mặt, nói với Nguyễn Trát: 
– Sư bá! Xin sư bá thứ lỗi. Vì cháu giữ trong người nhiều bí mật, nếu nói ra e sẽ nguy đến
tính mệnh của hàng ngàn người Đào, Đinh trang, nên phải nói dối sư bá bấy lâu. 
Rồi Đào Kỳ vẫy Nguyễn Trát, Đông Bảng, Thuỷ Hải, Đằng Giang và Phương Dung đi theo.
Tới bờ sông, chàng mới nói: 
– Tôi mời các vị xuống đò, mình chèo ra giữa giòng sông nói một số điều cơ mật, vì nói ở
trong bờ sợ tai vách, mạch rừng. 
Trang Cối-giang chuyên về đánh cá và nông nghiệp nên có hàng trăm đò đâu ven sông.
Nguyễn Trát chỉ một con đò lớn mà ông thường dùng để di chuyển xa và du ngoạn. Trên đò
có đủ thực phẩm, trái cây, cùng rượu ngon. Bọn đò phu thấy ông thì cúi rạp mình xuống. 
Ông bảo họ: 
– Không dám phiền các vị, các vị về đi, chúng ta chèo lấy được rồi. 
Ông tháo dây cột đò, lấy sào đẩy mạnh một cái, đò đã đến giữa sông. Phương Dung ngồi
vào chỗ tay lái, cầm lấy. 
Thấy đò đã xa bờ, Đào Kỳ mới bắt đầu thuật lại từ khi chàng vào trang Thái-hà ra sao, làm
thế nào chàng tìm được bộ Văn-lang vũ kinh, làm thế nào chàng gặp Nguyễn Phan. Ông
truyền bí quyết tâm pháp phái Long-biên cho chàng ra sao, nhất thiết kể lại. 
Đông Bảng nói: 
– Không hiểu Lê Đạo Sinh bắt thái sư phụ tra tìm võ công bản môn làm gì? Thực khó hiểu. 
Phương Dung nói: 
– Theo con biết, y muốn lấy bí quyết võ công bản môn không phải để học, mà để truyền cho
kẻ nào đó trong môn phái mình, đưa y lên làm chưởng môn, rồi mưu hợp nhất các phái. Có
lẽ y muốn thống nhất các phái dưới quyền y chăng? 
Nguyễn Trát nói: 
– Có lẽ thế. Vậy thì Tây-hồ đại hội, không phải thiện tâm của y, mà y muốn mượn dịp để cho
các gia, các phái chém giết nhau chăng? 
Bỗng Đông Bảng quát lên một tiếng rồi nhảy ùm xuống sông. Một lát sau, ông nắm đầu một
người lôi lên. 
Ông nói: 
– Chúng ta bàn chuyện, tên này nghe hết rồi. Phương Dung, cháu hỏi xem y là ai? 
Phương Dung trói chặt tên đó lại. Nàng rút kiếm phớt ngang một chiêu, cái cọc đò đứt làm
hai. Rồi nàng ướm thử vào đầu tên đó, như định phớt một chiêu nữa. 
Y sợ quá kêu lớn: 
– Tiểu thư, xin tiểu thư tha mạng, tôi xin nói. 
Phương Dung bèn hỏi: 
– Mi là người của ai? 
– Thưa, Huyện-uý Long-biên, Hoàng Đức lão gia. 
– Mi đi với mấy người? 
– Chúng tôi có năm người. Mình tôi rình ở ven sông, còn bốn tên kia thì đi theo đám đệ tử
của Hoàng Đức Tiết. 
Đông Bảng nói: 
– Thế thì Đạo Sinh liên kết với đám Nghĩa Nam rồi. Thực lợi hại. Khó một điều, từ trước đến
giờ, Đạo Sinh khéo giả nhân giả nghĩa thành người hào hiệp giang hồ. Y bắt giam chưởng
môn Tản-viên, Long-biên, để lấy yếu quyết võ công. Rồi lợi dụng môn phái mất chưởng
môn, người người tranh nhau, y tìm đệ tử của môn phái, mua chuộc, rồi truyền bí quyết cho
để thành chưởng môn. Sau đó y thống nhất các môn phái, làm võ lâm chí tôn vùng Lĩnh-nam. Nhưng không hiểu y chỉ muốn làm võ lâm chí tôn Lĩnh-nam thôi, hay còn muốn dâng
đất nước này cho người Hán mãi mãi? 
Nguyễn Trát nói: 
– Nếu y muốn hợp nhất các phái lại để được Hán đế cho làm Thứ sử, hay Thái thú thì thực
là hèn hạ và nguy hiểm. Còn trường hợp y muốn hợp nhất để mưu đồ phục quốc, thì cũng
không đáng trách. 
Đông Bảng nói: 
– Bây giờ chúng ta chia làm ba: Một lực lượng đi dò thám động tĩnh các môn phái khác,
trình bày rõ dã tâm của Đạo Sinh, một lực lượng đi cứu những người bị giam ở Thái-hà
trang... 
Đào Kỳ xua tay: 
– Tất cả những người bị giam ở Thái-hà, Lê Đạo Sinh đã chuyển về nhà lao Luy-lâu. Chúng
ta không thể, và không đủ người đánh phá Luy-lâu! 
Nguyễn Trát hỏi: 
– Tôi với các cháu đi dò la tung tích của Cửu-chân song hiệp. Còn Đông Bảng đi dò tin tức
của Sài-sơn. Thủy Hải đi dò la tin tức của phái Hoa-lư. Đằng Giang đi dò la tin tức của cha
Thánh Thiên. Còn Đào Kỳ đi dò la tin tức của phái Tản-viên. Dù thế nào chăng nữa, ngày
rằm tháng tám sang năm cũng phải về dự đại hội Tây- hồ. 
Phương Dung nói: 
– Đào đại ca, đại ca cho em đi theo được không? 
Đào Kỳ thấy nếu cho cô bé này đi theo có lẽ được nhiều việc, nên nói: 
– Được, nếu Dung muốn đi, phải hỏi xem lão bá có đồng ý không đã? 
Phương Dung hỏi cha: 
– Bố ơi, bố cho con đi với Đào đại ca nghe? 
Nguyễn Trát thấy con gái mình quấn quýt bên Đào Kỳ từ lúc mới gặp, nay hai người phải
chia tay, tránh sao cho khỏi buồn, ông bèn gật đầu: 
– Đào huynh cho con đi, nhưng con phải ngoan ngoãn nghe. 
Trước khi lên đường, Đông Bảng trình bày cho Đào Kỳ biết tất cả những bí ẩn của phái Tản-viên, tính tình từng nhân vật một. Đào Kỳ nhất nhất ghi nhớ vào lòng. Nguyễn Trát dặn
thêm: 
– Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công của phái Tản-viên hiện giờ không rõ tăm hơi đâu.
Chưởng môn là Đặng Thi Sách, cùng vợ là Trưng Trắc tuy còn trẻ tuổi, nhưng họ là người
có hùng tài, đởm lược khác thường. Hơn nữa, họ là người ôn nhu, trí lự trung thuần, tôi tin
rằng khi công tử gặp họ, thì sẽ kết thành những người bạn đồng tâm nhất trí. Hiện giờ người
của phái Tản-viên rất nhiều, riêng họ Đặng cai quản trên trăm trang trại, họ Trưng cai quản
trên năm chục trang trại. Mấy năm nay họ luyện tập tráng đinh, kết nạp anh hùng hào kiệt để
chuẩn bị khởi nghĩa. Tô Định chắc chắn đã có kế hoạch phá họ rồi. Thi Sách, Trưng Trắcï
chỉ biết có một mối lo là Phong-châu song quái, chứ họ không bao giờ ngờ tới Lê Đạo Sinh
cả. Khó một điều là võ công Đặng Thi Sách và Trưng Trắc còn thấp hơn Phong-châu song
quái, làm sao họ địch lại Lê Đạo Sinh? Tôi e trong đại hội Tây-hồ, chính phái Tản-viên sẽ bị
khống chế trước. Phái Tản-viên người nhiều, thế lớn, bị khống chế rồi, các môn phái khác
làm sao có thể giữ nổi môn hộ? 
Chú giải : 
(1) PHAN CHU TRINH, Chí thành thông thánh thi. Câu Chư quân khởi thị vô tâm huyết, có
nghĩa là các người đâu phải là kẻ không có tấc lòng với đất nước. 
(2) PHƯƠNG CHÍNH HẦU TRẦN TỰ MINH, người châu Lục-hải đời Hùng Vương, xuất
thân làm nghề đánh cá (nay thuộc Nam-định). Ngài theo An-Dương vương đánh vua Hùng
đời thứ 18. Sau khi lập thành nước Âu-Lạc ngài được vua phong tước Phương-chính hầu,
giao quyền Tể-tướng. Ngài từ trần trước khi Trọng-Thủy sang làm rể Âu-Lạc. Cao-cảnh hầu
Cao Nỗ than: “Nếu Cao-cảnh hầu còn tại thế, sẽ can vua không gã Mỵ-Châu cho Trọng
Thủy được”. Chúng tôi thu được cuốn phổ nói về sự tích của ngài tại thư viện trung ương
Bắc-kinh. 
(3) Bài Tổng quyết nầy rất dài khoảng 100 câu. Muốn chép, chú giải hết phải trên 500 trang
mới đủ, nên chúng tôi chỉ chép sơ lược mấy câu mà thôi. 
(4) Các sách chính sử Việt-Nam đều chép là Thi Sách, chứ không chép họ của ông là gì. Sự
thực ông họ Đặng. Trong các cuốn phổ tại đền thờ Trưng Trắc, Trưng Nhị, Phương-Dung,
Đào Kỳ đều chép Thi Sách họ Đặng cả

 Quốc thù vị phục đầu tương bạc. 
(Đặng Dung, Thuật hoài). 
Nghĩa là: 
Thù nước chưa trả, đầu đã bạc? 
Đào Kỳ cùng Phương Dung rời khỏi Cối-giang đi về phía Long-biên. Hai ngựa ruổi nhẹ gót
trên đường. Dân chúng chen chúc, ngựa xe rộn rịp qua lại. Các quán ăn đầy thực khách,
Hán có, Việt có. Những toán thiết kỵ người Hán nghênh ngang giữa đường, dân chúng
hoảng hốt tránh vào một bên. Thỉnh thoảng có người không tránh kịp, bị lính thiết kỵ dùng roi
quất túi bụi vào người. Nạn nhân đau đớn, ôm đầu lủi vào bên đường. Bọn Hán binh được
dịp cười khoái trá. 
Đào Kỳ nhớ lại mấy năm trước, chàng đã cùng Thiều Hoa và hai người con của Nguyễn
Tam Trinh cũng đi trên con đường này. Chàng không dằn được cơn nóng giận, đã ra tay
giết quân Hán. Tuy cứu được cô bé Tiá, nhưng lạc Thiều Hoa và hai con của Tam Trinh.
Ngẫm lại thời gian qua đã sáu năm. Tuy mới sáu năm, nhưng vì trải qua nhiều biến cố,
khiến chàng trở thành người khôn ngoan, tinh tế. 
Nếu sáu năm về trước, chàng chẳng ngại ngùng gì, đứng giữa đường, đánh thiết kỵ người
Hán cho bõ tức. Nhưng, nay chàng đã chín chắn, nói nhỏ với Phương Dung: 
– Chúng ta không nên dây dưa với bọn lính Hán. Việc của chúng ta quan hệ hơn. Đợi ngày
phất cờ khởi nghĩa rồi, giết chúng nó cũng không muộn. 
Hai người chọn một quán ăn, cột ngựa ở cửa rồi bước vào. Chủ quán thấy hai người ăn
mặc sang trọng, biết rằng là con cháu của Lạc-hầu, Lạc-tướng gì đây nên vội khép nép ra
chào. 
Phương Dung hỏi: 
– Xin cho chúng tôi một bàn trên lầu, trông ra đường. 
Chủ quán dẫn hai người lên lầu. Liếc nhìn qua thực khách, Phương Dung nói khẽ với Đào
Kỳ: 
– Anh à, phân nửa là bọn Hán, số còn lại là bọn Việt làm việc cho Hán. 
Thực khách thấy Đào Kỳ, Phương Dung ăn mặc sang trọng, đeo kiếm thì đoán là người
trong võ lâm. Hai người gọi mấy món ăn Việt rồi ngồi bàn chuyện. 
Đào Kỳ khẽ nói: 
– Đêm nay chúng ta thám thính Thái-hà trang, nếu tiện thì đại náo một trận cho chúng táng
đởm kinh hồn. 
Phương Dung nói: 
– Vậy chúng ta phải giả dạng. Anh gắn thêm bộ râu, em thì giả trai. Đạo Sinh là đệ nhất cao
thủ đương thời, có thể hắn không nhận ra võ công của anh, nhưng võ công của em thì hắn
nhận ra. Vì vậy em sẽ mặc đồ đen giống như đệ tử của Mai Huyền Sương. Nếu Đạo Sinh
nghi ngờ, sẽ nghi ngờ Mai Huyền Sương. Mình quấy phá Đạo Sinh, làm cho bọn chúng nghi
ngờ nhau. 
Hai người đang ăn uống thì có tiếng hô: 
– Tô công tử giá lâm. 
Tất cả thực khách trên lầu đều đứng dậy, chắp tay cúi đầu hành lễ. Một thanh niên người
Hán trẻ tuổi, dáng người hùng vĩ đang bước lên lầu. Phía sau có năm người nữa, lưng đeo
kiếm. Phương Dung ra hiệu cho Đào Kỳ rồi cả hai cùng đứng dậy: 
– Anh phải nhớ, mình đừng làm khác người, để khỏi lộ hình tích. 
Đào Kỳ lắng nghe người ngồi bàn bên cạnh nói với nhau: 
– Đây là đại công tử của Tô thái thú, tên Tô Phương. Không hiểu sao hôm nay đại công tử
lại cao hứng lên đây uống rượu? 
Người khác nói: 
– Nghe đồn Tô công tử võ công cái thế, năm người đi theo là Ngũ-phương thần kiếm. Ngũ-phương thần kiếm trước đây giúp Cảnh-Thủy hoàng đế đánh Vương Mãng chiếm lại
Trường-an, Lâm-đồng và Đồng-quan. Thiên tử phong chức tước gì, Ngũ-kiếm cũng không
nhận. Thiên tử mới ban cho Ngũ-kiếm thanh Thượng-phương bảo kiếm, có quyền tiền trảm
hậu tấu. 
Một người khác hỏi: 
– Sao họ lại mặc quần áo khác nhau? 
– Có gì mà không hiểu? Họ mặc quần áo theo kiểu ngũ hành. Người đứng đầu tức là cai
quản trung ương. Theo ngũ hành thì trung ương thuộc màu vàng, nên họ mặc quần áo
vàng. 
– À, thì ra thế. Kế đó là bạch kiếm mặc quần áo trắng. Hắc kiếm mặc quần áo đen. Lam
kiếm mặc quần áo xanh. Xích kiếm mặc quần áo đỏ. 
– Nghe đâu Tô công tử được Kiến Vũ thiên tử phong làm Đô-sát Giao-chỉ thì phải? 
– Đúng đấy. Còn Ngũ-kiếm sang đây điều tra xem Lĩnh-nam công thực sự chuẩn bị làm
phản hay chỉ do người ta xàm tấu, vì triều đình chia làm hai phe. Một phe cho rằng Lĩnh-nam
công là người hiệp nghĩa, cai trị dân bằng nhân trị. Còn một phe cho rằng Lĩnh-nam công
muốn tự lập làm vua một nước. 
Ghi chú của thuật giả 
Nhân-trị, Pháp-trị là hai quan niệm cổ về phương pháp cai trị. Đời Nghiêu, Thuấn, Vũ,
Thang, Văn Vương thì dùng nhân đức để cải hoá dân chúng. Phương pháp trên chép trong
sách Đại-học. Người quân tử tự tu thân. Lấy đức của mình cảm hoá người trong nhà, tức là
tề gia. Lấy nhà mình làm gương mẫu cảm hoá thiên hạ, là trị quốc. Nước mình dân chúng
ăn ở khuôn mẫu, đạo lý, cảm hoá các nước khác phục tùng là bình thiên hạ. Thuyết đó
được Khổng-tử, Mạnh-tử nhắc nhở trong suốt cuộc đời hai ngài. Mạnh-tử nói: "Nhân chi sơ,
tính bản thiện", nghĩa là người ta sinh ra, tính vốn thiện như nước chảy chỗ trũng. Về sau
Hàn Phi-tử, Thương Ưởng đưa ra thuyết Pháp trị: Người ta sinh ra tính vốn ác, cần phải
dùng hình pháp mà cai trị. Danh từ Nhân- trị, Pháp-trị, các đời sau dùng để chỉ người dùng
đức độ, chăm lo hạnh phúc cho dân, và người dùng sức mạnh cai trị dân. 
Tô Phương ngồi xuống, nói với chủ quán: 
– Mời Bạch Lan cô nương ra. 
Chủ quán cúi rạp người xuống rồi đi vào. Chỉ lát sau, một thiếu nữ Việt, sắc phục theo lối
quý tộc Hán, ôm đàn bước ra. Nàng cung tay hành lễ trước Tô Phương: 
– Tiểu tỳ là Bạch Lan, xin cúi đầu tham kiến Tô đại công tử. Chúc Tô đại công tử danh vang
tứ hải, đức tựa Thái-sơn. 
Tô Phương vòng tay qua lưng nàng, kéo vào lòng mình, hôn lên má nàng hai cái. Bạch Lan
dạo đàn rồi cất tiếng hát theo điệu sa mạc: 
Hôm qua ra đứng bờ ao, 
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. 
Buồn trông con nhện giăng tơ, 
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ với ai? 
Tô Phương cười ha hả, nói: 
– Còn chờ ai nữa? Chờ ta chứ còn chờ ai? 
Y lại kéo Bạch Lan hôn cái nữa, thưởng cho nàng một nén bạc. Bạch Lan cúi đầu cảm tạ, rồi
dạo đàn hát khúc nữa: 
Trúc xinh trúc mọc bờ ao, 
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh. 
Trúc xinh trúc mọc đầu đình, 
Em xinh en đứng một mình cũng xinh. 
Xích kiếm ngồi cạnh Tô Phương ghé tai y nói nhỏ câu gì không rõ, chỉ thấy Tô Phương quay
lại liếc Đào Kỳ và Phương Dung một cái rồi gật đầu. Xích kiếm tiến đến bàn hai người, vái
Phương Dung một cái và nói: 
– Thưa Mỵ nương, Tô đại công tử của tôi muốn mời Mỵ nương sang bàn uống rượu, nghe
hát được chăng? 
Phương Dung lắc đầu: 
– Chúng tôi xin đa tạ Tô công tử. Xin để khi khác, hôm nay chúng tôi bận việc phải đi ngay. 
Phương Dung nói khá to. Tô Phương cũng nghe thấy. Y đứng dậy, tiến đến bên Phương
Dung chắp tay xá một cái: 
– Cô nương, cô nương là tiên nga giáng thế, xin cho tôi được mời chén rượu, nên chăng? 
Vừa nói, y vừa nắm tay Phương Dung kéo nàng đứng dậy. Đào Kỳ nháy Phương Dung.
Nàng hiểu ý, đứng lên chỉ Đào Kỳ: 
– Đây là biểu huynh tôi. 
Tô Phương chắp tay vái : 
– Không hiểu nhân huynh xưng hô thế nào? 
Đào Kỳ nói: 
– Tôi họ Âu, biểu muội họ Nguyễn. 
Rồi chàng cùng Phương Dung lại bàn của Tô Phương ngồi. Tô Phương cho rằng hai người
sợ mình, y mừng lắm, rót rượu mời Đào Kỳ uống. Y chỉ năm người theo hầu giới thiệu: 
– Đây là Ngũ-phương thần kiếm. Vị đứng đầu là Hoàng kiếm, vị thứ nhì là Bạch kiếm, vị thứ
ba là Hắc kiếm, vị thứ tư là Lam kiếm và vị thứ năm là Xích kiếm. Còn hai vị, chẳng hay là
đệ tử cao nhân nào? 
Đào Kỳ nói: 
– Đệ là người phái Tản-viên. Nghiệp sư là Phong-châu song hiệp. Còn biểu muội là đệ tử
phái Long-biên, đệ tử của Mai Huyền Sương lão sư. 
Tô Phương gật đầu: 
– Thì ra người nhà cả. Ta với Phong-châu song hiệp với Mai lão sư có chỗ giao tình rất hậu.
Chẳng hay hai vị về Long-biên có việc gì? 
Đào Kỳ nói: 
– Chúng tôi vậng lệnh tôn sư về Long-biên yết kiến Lục-trúc tiên sinh. 
Tô Phương cười ha hả: 
– Thực là tuyệt. Có phải hai vị tới yết kiến Lục Trúc tiên sinh về vụ đại hội Tây-hồ chăng?
Nhưng hai vị uổng công rồi. Lục lão tiên sinh mới đi Mê-linh hôm qua để... 
Hắc kiếm đưa mắt ra hiệu cho Tô Phương rồi nói: 
– Xin công tử tiểu tâm. 
Tô Phương cười hê hê: 
– Không lẽ ta còn không tin Phong-châu song hiệp với Mai lão nương ư? Lát nữa, bọn ta đi
Mê Linh, vậy mời hai vị cùng đi, nên chăng? 
Đào Kỳ thấy chàng công tử bột này vừa ngu lại vừa dại gái, nên muốn lợi dụng dịp này để
biết nội tình bên giặc: 
– Nếu Tô công tử thuận cho anh em chúng tôi đi cùng, còn gì hay hơn? 
Tô Phương gọi chủ quán: 
– Tất cả tiền ăn của hai vị đây tính về ta nghe. 
Chủ quán cúi rạp người xuống tiễn khách. Bọn bồi thấy chủ nhân cung kính Đào Kỳ,
Phương Dung thì biết ngay công tử nhà mình đã ăn phải bả tình của vị tiểu cô nương.
Chúng biết, muốn lấy lòng Tô Phương, không gì bằng tỏ lòng kính cẩn vị tiểu cô nương
ngày. 
Bọn người cùng hướng về phía đông xuất phát. Tô Phương cho ngựa đi song song với
Phương Dung, y nói: 
– Gia phụ tôi mới đến đất Giao-chỉ có năm tháng, đã liên kết được hết các anh hùng hào
kiệt, ban Ngũ-lệnh, thế là bọn phản nghịch không thể cựa quậy được nữa. Tấu chương gửi
về triều đình, Mã thái hậu mừng lắm, khen ngợi không tiếc lời. Người hứa sẽ thăng thân phụ
tôi lên làm thứ sử, cai quản các quận Cửu-chân, Nhật-nam và Hợp-phố. 
Đào Kỳ nói: 
– Tôi thấy sáu đại môn phái hầu như đều chống Hán triều, không hiểu Tô đại nhân làm cách
nào thu phục được họ? 
Tô Phương nói: 
– Điều này Lục-trúc tiên sinh đã định liệu sẵn rồi. Phái Cửu-chân người nhiều thế mạnh là
do tên hủ nho Nhâm Diên làm Thái thú. Y muốn bắt chước Khổng-Tử, dạy dân chúng lễ
nghĩa. Bọn phản loạn nhân đó âm mưu tổ chức lực lượng hùng mạnh. Khi Kiến Vũ thiên tử
đuổi Vương Mãng, chiếm lại Kinh-châu, người phong nghĩa đệ là Nghiêm Sơn làm Lĩnh-nam
công, tước Bình-nam đại tướng quân, sai kinh lược sáu quận Nhật-Nam, Cửu-chân, Giao-chỉ, Quế-lâm, Nam-hải và Tượng-quận. Nghiêm Sơn lợi dụng chức vụ, tìm cách giết dần các
Thái-thú, Đô-uý, đô sát, rồi đưa người của mình vào. Y dự định tổ chức thành một nước
riêng như Triệu Đà, rồi hướng lên Bắc, tranh đất Trung-nguyên với thiên tử. Vì vậy, Mã thái
hậu mới cử gia phụ làm Thái-thú Giao-chỉ, cùng với Ngũ-phương thần kiếm đây đến Lĩnh-nam điều tra hư thực. Gia phụ mới đến, ban hành Ngũ-lệnh cấm tập võ, thế là các phái võ
với mầm mống phản loạn tan rã dễ dàng. Nhưng... 
Y ngừng một lát rồi nói tiếp: 
– Nghiêm Sơn lấy quyền Lĩnh-nam công phế bỏ Ngũ-lệnh, cho các phái võ vẫn được hoạt
động như cũ. Gia phụ đành chịu thua và phải tìm cách thu phục các phái võ. 
Phương Dung hỏi: 
– Nhưng các võ phái ở Giao-chỉ lại không quy phục mới khó. 
Tô Phương cười: 
– Mặc cho Lục-trúc tiên sinh lo liệu. Phái Long-biên thì đã có sư phụ, sư bá cô nương lo
chiếm lại. Phái Tản-viên thì chính Lục-trúc tiên sinh tự liệu, còn phái Hoa-lư, Sài-sơn thì đã
có người phục sẵn ở trong. Khó khăn nhất là sáu đại môn phái. Khi sáu đại môn phái đã quy
phục, những môn phái nhỏ chỉ còn nước cúi đầu tuân theo. 
Đào Kỳ khen: 
– Tô đại nhân thực là người đại trí, đại lực. 
Chàng vừa khen, vừa nghĩ trong lòng: 
– Hỏng to rồi. Trong các môn phái đầy dẫy những bất đồng ý kiến. Sự tương tranh với nhau
khiến cho họ quên mất kẻ thù lớn. Nguy hơn nữa là họ chạy theo mượn tay kẻ thù để thanh
toán đồng môn. Khi đã thắng đồng môn rồi, họ sẽ không còn đủ lực lượng để đối phó với
quân thù nữa. Phái Cửu-chân nhà ta đã tan nát rồi. Phái Long-biên tuy đã đuổi được bọn
Nghĩa Nam đi, nhưng mối nguy vẫn còn đó. Phái Tản-viên thì Đặng Thi Sách không biết có
đối phó nổi với Lê Đạo Sinh hay không? 
Tô Phương hỏi Đào Kỳ: 
– Hiền đệ là đệ tử của Phong-châu nhị hiệp, nhưng không hiểu đứng vai thứ mấy? 
Đào Kỳ giật mình: 
– Chết thật, ta không biết Vũ Hỷ, Phương Anh có bao nhiêu học trò, làm sao trả lời đây? 
Nghĩ rồi, chàng phải lựa lời nói cho qua: 
– Đệ là cháu gọi sư phụ bằng cậu, nên không xếp vào thứ bậc. Nhưng võ công của đệ lại
được chân truyền. 
Chàng nói lấp đi như vậy, cố làm nổi bật võ công của mình khiến Tô Phương không ngờ tới.
Chàng tự tin võ công mình bây giờ còn cao hơn song quái, dù Tô có tra hỏi, chàng vẫn dư
sức trả lời. 
Hoàng kiếm hỏi: 
– Ta nghe phái Tản-viên có Phục ngưu thần chưởng 36 thức hùng mạnh vô cùng. Chưởng
môn trước đây là Đặng Thi Kế, cũng chỉ biết được có chín thức. Còn Lục-trúc tiên sinh cũng
chỉ biết có 12 thức mà thôi. Người ta đồn rằng Phong-châu song hiệp đã học được đủ chín
thức, mỗi thức đều biến hoá thành hai là âm, dương, rồi hai biến thành 18 và 18 biến thành
36. Chẳng hay tiểu huynh đệ học được tới đâu rồi? 
Hoàng kiếm là người lão luyện, có ý tra hỏi võ công của Đào Kỳ, bởi y sợ có thể chàng là
gian tế chăng? 
Đào Kỳ nghẫm nghĩ: 
– Mi hỏi ai câu này, chứ hỏi ta thì vô ích. Ta thông cả 36 thức, biến hoá thành 2.304 chiêu. 
Nghĩ rồi chàng bèn trả lời với vẻ tự đắc: 
– Cậu tôi thương tôi lắm nên đã dốc hết truyền cho. Ngặt vì cậu tôi chỉ biết các thức dương
thôi, không biết các thức âm. 
Hắc kiếm hỏi Phương Dung: 
– Nguyễn cô nương, dường như cô nương là đệ tử mới nhập môn của Mai lão nương thì
phải? 
Phương Dung cười: 
– Nếu so tuổi, tôi là đồ tôn của lão gia cũng không đáng. Nhưng lão gia đặc cách nhận tôi
làm đệ tử thứ chín. 
Hắc kiếm tiếp: 
– Hôm trước tôi có so tay luyện kiếm với lão gia. Khi ở Trung-nguyên, tôi cứ tưởng anh em
mình là đệ nhất rồi, không ngờ đến Giao-chỉ mới biết ngoài bầu trời này, còn có bầu trời
khác. 
Phương Dung hỏi: 
– Thế đại ca đấu với sư phụ tôi đến mấy hiệp thì phân thắng bại? 
Đào Kỳ xen vào: 
– Chắc ít ra cũng phải 100 hiệp? 
Hắc kiếm gật đầu: 
– Đúng đó, đấu tới hiệp thứ 98 thì tôi bị thua. 
Phương Dung cười: 
– Tôi không tin. Có lẽ đại ca đến đây là khách, nể chủ nhân nên nhường sư phụ tôi thì đúng
hơn. 
Hắc kiếm được Phương Dung gỡ nhục, y cười híp mắt lại, không nói gì. Cả bọn tiếp tục lên
đường. Đến khi mặt trời gần xế bóng, Hoàng kiếm nói: 
– Thưa công tử, sắp tới huyện Đăng-châu rồi. Đêm nay chúng ta ngủ ở Đăng-châu, mai sẽ
lên đường tiếp. Huyện-lệnh Đăng-châu là Trương Thanh, người Hán, quê ở Kinh-châu,
nhậm chức đã được trên mười năm. 
Tô Phương đồng ý. Đoàn người tiến vào Đăng-châu. 
Khi nghe đến tiếng Đăng-châu, Đào Kỳ thấy tim mình như bị nhói lên một cái. Bồi hồi thầm
nghĩ: 
– Trước đây Tường Quy nói rằng cha nàng đã hứa gả nàng cho con trai Huyện-lệnh Đăng-châu, họ Trương. Đã hơn năm qua rồi, chắc giờ này nàng đang sống hạnh phúc bên chồng.
Không biết lúc này nàng có biết ta cũng đang ở Đăng-châu không? Ta làm thế nào để tìm
được nàng? Nhìn nàng một lần cho thoả tấc lòng nhung nhớ bấy lâu? 
Tự nhiên Đào Kỳ nảy ra ý tưởng cứ liều đột nhập phủ đường Đăng-châu để gặp được
Tường Quy, rồi có vì nàng mà chết cũng cam lòng. Chàng nghĩ tiếp: 
– Ừ, sao ta không đột nhập phủ đường Đăng-châu lén nhìn dung nhan nàng? Biết đâu ta
chẳng được nghe nàng đánh đàn? Rồi sau đó bị vệ sĩ phát giác, ta vừa chiến đấu vừa chạy.
Nếu chẳng may ta bị giết, sáng nàng thức giấc, binh sĩ kể cho nghe, đêm qua có tên trộm
viếng dinh huyện lệnh bị giết, xác còn phơi ngoài đường. Nàng ra đường coi, thấy ta chắc
nàng sẽ nhỏ xuống xác ta mấy giọt nước mắt. Chỉ cần thế thôi, ta cũng mãn nguyện lắm rồi. 
Nghĩ tới đó thì đoàn người đã đi vào phố huyện. 
Bạch kiếm hỏi: 
– Công-tử chúng ta kiếm hàng quán, rồi cho gọi Huyện-lệnh tới, hay chúng ta vào Huyện? 
Tô Phương gật đầu: 
– Chúng ta vào quán ăn trước, rồi cho gọi y đến. 
Cả bọn tiến vàomột tửu lâu lớn nhất, trên có chiến đèn lồng mầu đỏ đề ba chữ Anh hùng
lâu. Chủ quán thấy bọn tám người ăn mặc sang trọng, nửa Hán, nửa Việt; lưng đeo kiếm,
vội cúi rạp mình xuống mời. Cả bọn lên lầu. Tô Phương chỉ một bàn lới trưng hoa thật đẹp
giữa lầu nói: 
– Ta lấy bàn kia. 
Chủ quán chắp tay thưa: 
– Xin quan nhân lấy bàn khác. Bàn này của Trương công tử. Công tử đã có lệnh, dù ngài
không đến ăn, cũng không cho ai ngồi vào. Nếu quan khách ngồi vào mà công tử biết được,
ắt người nổi lôi đình. 
Hắc kiếm hỏi: 
– Trương công tử là ai? 
Chủ quán thưa: 
– Thưa, là con trai duy nhất của Trương Huyện-lệnh. 
Hắc kiếm gạt đi: 
– Công tử ta muốn ngồi là ngồi. Các người khỏi lo. Nếu Trương công tử gây sự, chúng ta
khắc có biện pháp đối phó. 
Nói rồi cả bọn ngồi vào bàn. 
Tô Phương hỏi Phương Dung: 
– Nguyễn cô nương, cô nương quen các món ăn Việt, xin kêu cho mấy món thời trân. 
Phương Dung hỏi chủ quán: 
– Ông có đủ các món Việt không? 
Chủ quán đáp vẻ thản nhiên: 
– Thưa cô nương, tại bản quán, không món Việt nào mà không ngon. 
Phương Dung gật đầu: 
– Vậy thì tốt quá. Ông cho hai bát chuối xanh nấu ốc nhồi. Tôi nói lại là ốc nhồi chứ không
phải ốc ang đâu nhé. Hai đĩa chả rươi với trứng. Mùa rươi là tháng chín, bây giờ mới tháng
hai, nhưng quán ông lớn, tất có món mắm rươi để làm chả. Nước mắm chấm là nước mắm
nhĩ đã cất lên rồi. Cho thêm 16 đùi gà mái ghẹ luộc, với lá chanh non. Canh thì tám bát canh
cua đồng nấu với rau đay. Rượu, càng nhiều càng tốt, nhưng phải thứ rượu tăm mới được.
Còn tráng miệng, mùa này là mùa quýt. Ông cho quýt Đăng-châu là được. 
Chủ quán thấy Phương Dung kêu toàn những món trân quý, lại biết quýt Đăng-châu là ngon
thì phục vô cùng: 
– Cô nương quả thực là người sành ăn. 
Đào Kỳ chợt nhớ lại hồi còn ở Thái-hà trang, một hôm đi chơi Cổ-loa với Tường Quy và
Minh Châu, vô tình gặp Chu Thổ Quan. Chu nói rằng gặp hai người con trai tên là Đào Hiển
Hiệu, Đào Quý Minh và một gái là Đào Phương Dung đến từ Đăng-châu. Ba người đó là con
của chú ta. Vậy chú ta đang ở Đăng-châu. Ta phải dò la tin tức của người mới được. 
Phương Dung xin phép Tô Phương để nàng xuống lầu rửa tay. Lúc nàng đang rửa tay, bỗng
nghe có tiếng nói lớn ở ngoài: 
– Đứa nào dám cả gan ngồi vào bàn của lão gia? Lão gia phải băm vằm nó ra mới được. 
Nàng nhìn ra, thấy một thanh niên người Hán khoảng 20 tuổi, cùng với ba tên cận vệ, đeo
gươm đi vào. 
Chủ quán chạy ra chắp tay: 
– Trăm lạy công tử thương cho tôi nhờ. Bọn họ những tám người, đều mang gươm đao. Tôi
đã can, nhưng họ không nghe, cứ đòi ngồi vào bàn đó. 
Phương Dung đồ chừng đây là Trương công tử, nàng lẩm bẩm: 
– Tụi Hán sắp giết nhau rồi đây. Tội gì ta không đổ thêm dầu vào lửa? 
Nghĩ rồi, ngàng tiến ra đứng ở chân cầu thang, liếc nhìn Trương công tử mỉm cười. Trương
công tử thấy sắc đẹp của Phương Dung thì thần hồn, thần phách như bay mất. Y người lại
hỏi chủ quán: 
– Cô nương, cô nương... này là... ai vậy? 
Chủ quán muốn nói nàng là đồng bọn của kẻ chiếm bàn nhưng không dám. Y tảng lờ không
biết: 
– Cô nương đây cũng là khách mới đến. 
Phương Dung e lệ cúi đầu chào: 
– Kính chào công tử. 
Nàng liếc mắt đưa tình rồi chạy vụt lên lầu, ngồi xuống bên Tô Phương. Trương công tử
chạy theo. Thấy nàng ngồi cùng bàn với sáu người Hán, một người Việt ngay trên bàn của
mình, y liền có ý tưởng ra oai: 
– Bọn bay là ai mà dám ngồi vào bàn của ta? 
Phương Dung liếc mắt nhìn Trương công tử mỉm cười, rồi nhìn Tô Phương. 
Tô Phương hỏi: 
– Bàn này là của quán, ai có tiền thì được ngồi. Ngươi là ai mà dám lên đây to tiếng? 
Trương công tử bị Phương Dung đưa tình, hồn phách bay phơi phới. Y quát lớn: 
– Bay đâu, bắt bọn này cho ta. Trừ cô em này thì không được động đến. 
Hoàng kiếm đứng dậy, thân hình y chuyển động thấp thoáng một cái, mọi người nghe bốp,
bốp hai tiếng, y đã trở về chỗ cũ. Trương công tử bị tát hai cái ngã lộn xuống sàn. Lập tức
cả ba tên cận vệ cùng rút đao nhảy vào. Hoàng, Lam, Bạch kiếm đứng dậy, vung tay một
cái, chụp ba thanh đao, thuận đà túm lấy ba tên vật xuống sàn đánh rầm một tiếng. Xích
kiếm chụp Trương công tử liệng ra xa. Bọn Tô Phương cười ồ lên khoái chí. Trương công
tử với ba tên cận vệ vội lồm cồm bò dậy, chạy mất. 
Hoàng kiếm nói: 
– Thằng Trương công tử này là cái bị thịt. Nhưng có lẽ nó chưa chịu thua đâu. Không chừng
nó còn trở lại sinh sự cũng nên. 
Tô Phương cười: 
– Thế nào chúng cũng kéo thầy chúng đến để trả thù. Ta thấy võ công của chúng dường
như là võ công Giao-chỉ chứ không phải võ công Trung-nguyên. Âu huynh đệ, người có
nhận ra chúng thuộc phái nào không? 
Ngay từ khi bốn tên lên lầu, nhìn thân pháp của chúng, Đào Kỳ đã biết chúng sử dụng võ
công Cửu-chân rồi. Hơn nữa, lại chính võ công Đào trang nhà chàng. Nhưng, dường như
chúng mới học, nên chưa thành thạo. Chàng biết bọn Ngũ phương thần kiếm đều là những
người bác học, nên không thể nói dối được: 
– Đệ thấy chúng sử dụng võ công Đào gia thuộc Cửu-chân. 
Hoàng kiếm nói: 
– Đúng đó. Như vậy, trong nhà Trương Thanh có nuôi người của Đào gia. Chỉ một việc này,
chúng ta có thể moi của hắn được nhiều vàng bạc rồi đây. 
Đào Kỳ lo lắng suy nghĩ: 
– Nếu sư phụ của Trương công tử là người Đào gia, không chừng là bố mẹ, hay sư huynh,
sư đệ của mình cũng nên. Ta cứ im lặng mặc cho Tô Phương phản ứng. Mình chỉ nên toạ
thủ bàng quan mà thôi. 
Trước kia, chàng cứ tưởng tượng rằng chồng của Tường Quy phải là một gã đẹp trai, uy vũ,
văn võ kiêm toàn. Không ngờ hôm nay giáp mặt thì y chỉ có cái vẻ hách dịch của một công
tử văn không thông, võ không thạo. Chắc rằng Tường Quy sẽ đau khổ lắm. 
Nhưng ngoài sự dự liệu của Tô Phương, bọn Trương công tử không thấy trở lại. 
Hoàng kiếm nói: 
– Đêm nay chúng ta ngủ tại đây, sáng mai vào huyện đường cũng chưa muộn. 
Cả bọn đi ngủ. Khoảng gần canh ba, Phương Dung nghe có tiếng gõ cửa rất khẽ ở phòng
Tô Phương, rồi có tiếng mở cửa. Từ khi nàng được Đào Kỳ dạy tâm pháp trấn môn của
Long-biên, thì trở nên linh mẫn vô cùng. Nàng ghé tai vào vách nghe. 
Tiếng Hoàng kiếm nói nhỏ: 
– Công tử, chúng ta ra ngồi nói chuyện. 
Có tiếng Tô Phương hỏi: 
– Có chuyện gì đó? 
Hoàng kiếm nói: 
– Ra ngoài rồi hãy nói chuyện. 
Rồi có tiếng kẹt mở cửa sổ. Phương Dung khẽ mở cửa sổ nhìn theo, thấy Tô Phương cùng
Ngũ phương kiếm đi về phía sau vườn. Nàng cũng vượt cửa sổ, theo sau xa xa. Bọn họ đến
giữa đồng rồi ngừng lại. 
Hoàng kiếm nói: 
__ Công tử, công tử cho gã Âu-Lạc với Nguyễn cô nương là người thế nào? 
Tô Phương nói: 
– Thì họ là người đi cùng đường với Đạo Sinh, Huyền Sương. 
Hắc kiếm nói: 
– Đã đành như thế, nhưng dường như võ công rất cao cường, không kém gì bọn tôi. Tôi
thấy bước chân chúng đi nhẹ mà trầm, rõ ràng nội công rất thâm hậu. 
Tô Phương nói: 
– Võ công chúng cao đến đâu chăng nữa cũng không bằng sư phụ chúng. Phong-châu song
quái cũng chẳng đáng gì, huống hồ chúng? 
Lam kiếm nói: 
– Dường như công tử thâm tình với Nguyễn cô nương? 
Tô Phương nói : 
– Phải, từ ngày ta ra đời đến giờ, chưa thấy một người con gái nào nhu mì, yểu điệu như
vậy. Phụ thân ta lại không cấm lấy vợ người Việt, thế thì có sao đâu? 
Lam kiếm nói: 
– Tôi thấy mắt tên họ Âu với Nguyễn cô nương liếc nhau đầy tình tứ. Chắc chúng không thể
nào là anh em cô cậu đâu. 
Tô Phương nói: 
– Lam đại ca thực đa nghi. Tuổi gã họ Âu bất quá 17, 18, Nguyễn cô nương có 16, 17. Nếu
chúng có tình ý với nhau cũng là mối tình ngây thơ, dễ bị bộc lộ. Mấy hôm nay đi với chúng
ta, tuyệt không thấy chúng bộc lộ ra. Ta hỏi đại ca, người đã trên 30 tuổi rồi, nếu người yêu
của người có tình ý với một kẻ khác, người liệu có nhịn nổi không? Gã họ Âu nếu có tình ý
với Nguyên cô nương thì mấy hôm nay hắn đâu còn đi theo bọn ta? Những lúc ta với
Nguyễn cô nương ngồi bên nhau, hắn còn vui vẻ là khác nữa. 
Đến đây, sáu người trở về phòng ngủ. Phương Dung không dám về ngay, sợ chúng khám
phá ra. Nàng nằm yên một lúc, chợt thấy có tiếng chân người đi phía sau, rồi hơn mười
người đi tới. 
Nàng nằm yên quan sát. Bọn này đến gần cửa sổ thì đánh lửa lên, đốt một vật gì. Sau đó
lấy một ống tre, đục cửa sổ, rồi ghé miệng thổi vào. 
Phương Dung tỉnh ngộ: 
– Thì ra bọn chúng thổi thuốc mê để bắt bọn Tô Phương với mình đây. Không biết Đào đại
ca có thoát được không? Bọn này đúng là của Trương công tử rồi. Chúng ghê thật. Không
hiểu khi thấy mặt ta, chúng sẽ phản ứng ra sao? 
Một lát sau, nàng thấy bọn chúng khiêng sáu người là Tô Phương và bọn Ngũ-kiếm ra. Bọn
chúng ngừng lại giữa cánh đồng. Có tiếng nói: 
– Thưa công tử, không thấy vị cô nương xinh đẹp và gã người Việt trong phòng. Chúng tôi
đã lục khắp mà không thấy. Bây giờ công tử định sao? 
Trương công tử nói: 
– Chắc vị cô nương đã cùng gã người Việt lên đường trước rồi. Bây giờ giam sáu tên này
lại. Còn chúng ta đuổi theo. 
Phương Dung cười thầm: 
– Bọn này thiếu kinh nghiệm giang hồ. Chúng thấy hành lý của ta còn ở trong phòng, mà lại
bảo ta lên đường trước rồi. Thực ngu quá. Đợi bọn chúng đi rồi, ta tìm Đào đại ca để thám
thính xem bọn chúng định làm gì? 
Trương công tử và đồng bọn lục tục ra đi. Phương Dung trở về phòng. Nàng vừa mở cửa
bước vào thì bị một chưởng âm nhu quét vào mặt. Nàng vội lùi lại, thủ thế. Nhưng chưởng
người kia lại biến thành chỉ đâm vào mắt nàng, êm và nhanh không thể tưởng. Nàng hoảng
hốt lộn đi một vòng mới tránh khỏi, thì người đó lại vung một quyền đánh bồi vào ngực nàng.
Nàng đã tới chân tường, đành vận sức ra hai tay đỡ. Bỗng người đó nhảy lùi lại, nói khẻ: 
– Khá lắm. Em tránh được hai thế tấn công của anh thì võ công đã vào hạng cao thủ rồi. 
Nhận ra tiếng Đào Kỳ, Phương Dung vùng vằng: 
– Làm em hết hồn. 
Đào Kỳ xin lỗi, rồi nói: 
– Chúng ta sang lục hành lý của Tô Phương và Ngũ phương kiếm xem có gì lạ không? 
Hai người lục hành lý của Tô Phương thì thấy một sắc chỉ của Hán Quang Vũ phong cho y
làm Đô sát quận Giao-chỉ. Trong bọc còn nhiều thư tín nữa, nhưng Phương Dung không
dám đọc hết, vội thu vén cho vào bọc, rồi vượt tường ra ngoài. 
Phương Dung vẫy Đào Kỳ theo sát bọn Trương công tử. Bọn họ đi về phía đông huyện lỵ,
rồi vào trong một trại có lính Hán đứng gác bên ngoài. Đến gần, Phương Dung nhìn thấy
chữ Đăng Châu lao xá. 
Hai người vượt hàng rào, theo đến một căn nhà đèn đuốc sáng choang. Hai người núp vào
bên cửa sổ phía sau ghé mắt nhìn vào, thấy Trương công tử ngồi bên một chiếc bàn, ba tên
hộ vệ người Hán đứng một bên. Gần đó, khoảng bảy, tám người Việt khoanh tay chờ lệnh. 
Trương công tử hướng vào một người Hán, hỏi: 
– Chu quản ngục, người cho ta gửi sáu tên này. Nhớ trói chặt vì võ công chúng không tầm
thường đâu. 
Chu quản ngục khom lưng nói: 
– Tạ ơn công tử tín nhiệm. Không hiểu mấy tên này là ai, phạm tội gì? Dường như chúng là
người Hán. Coi y phục có lẽ chúng cũng là quan nha gì đây. 
Trương công tử nói: 
– Ừ, người lấy nước đổ vào mặt cho chúng tỉnh dậy để ta thẩm vấn chúng. 
Chu quản ngục vẫy tay. Một người lính Việt bước vào mang nước dội lên đầu bọn Tô
Phương. Sáu người tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn nhau không hiểu gì cả. 
Trương công tử đá vào mặt Tô Phương một cái, rồi hỏi: 
– Tên chó con này! Mày biết tay ông nội mày chưa? 
Tô Phương chưa kịp lên tiếng thì Hoàng kiếm đã nói: 
– Thằng chó chết kia, mày có biết công tử và bọn tao là ai không? 
Trương công tử nổi giận nói: 
 – Chúng mày là ai, tao cũng không sợ. Bất quá chúng mày là Thái tử của Kiến Vũ hoàng đế
là cùng, ta há sợ sao? Chúng mày đã lọt vào tay tao, tao sẽ cho biết mùi đau khổ. Hồi chiều,
chúng mày dám làm nhục bọn tao ở Anh hùng tửu lầu, chỉ một tội đó, dù chúng mày là
Diêm-vương, hay Ngọc-hoàng thượng đế tao cũng giết chết. 
Y giật lấy roi của một tên lính đứng gần đánh túi bụi vào người Tô Phương trên mười roi cho
hả giận, rồi mới ngưng. 
Hoàng kiếm cười nhạt: 
– Được, mầy đánh đại công tử của Tô Thái-thú. Công tử hiện là Đô sát phủ tế tác của Giao-chỉ, một mệnh quan của triều đình. Tao e rằng cha con mày sẽ bị tru di tam tộc. 
Chu quản ngục nói: 
– Sao, ngươi... ngươi nói... sao? 
Lam kiếm quát: 
– Người bị công tử mày đánh là Tô công tử của ngài Thái-thú Giao-chỉ. Tô công tử còn là
Đô-sát tế tác Giao-chỉ, một mệnh quan của triều đình. Công tử mầy vừa nói dù Tô công tử là
Thái tử của Kiến Vũ hoàng đế, y cũng giết. Thế thì cha con mi làm phản rồi! 
Trương công tử trong lúc muốn làm oai nói bừa bãi, đánh người không suy nghĩ, bây giờ
nghe Lam kiếm nói, y rụng rời tay chân. Nhưng y cũng làm già: 
– Chúng bay nói láo. Nếu là Tô công tử, tại sao không có chứng minh thư? 
Xích kiếm quát: 
– Mày cứ về nhà trọ, lục trong hành lý của công tử sẽ rõ. 
Chu quản ngục, vốn người khôn ngoan, xảo quyệt, thấy việc tày đình xảy ra, y chắc từ
huyện lệnh, công tử và y khó lòng toàn mạng. Y vội nói: 
– Công tử, chúng ta tạm giam mấy tên này lại, rồi đến nhà trọ lục xét xem sao. 
Trương công tử như người tê liệt, chỉ biết gật đầu. Bọn giữ ngục đem sáu người đi giam lại. 
Chu quản ngục bảo những người chung quanh: 
– Các người ra ngoài. Ta có việc cơ mật nói với công tử. 
Chờ cho bọn tuỳ tùng ra hết, Chu quản ngục mới nói: 
– Công tử, tôi đồ rằng bọn nó nói thực. Tô Thái-thú là một đại hồng nhân của Hán đế. Tô đại
công tử lại là một nhân vật tài ba lỗi lạc, văn võ kiêm toàn. Trong trận đánh Côn-dương với
Vương Mãng, Tô công tử một kiếm chém năm tướng. Mã thái hậu dường như không ưa
Lĩnh-nam công nên đặc biệt ban chỉ dụ cho Tô công tử theo dõi, điều tra hành tung của
Lĩnh-nam công. Công tử là Đô sát, tới huyện, chúng ta không biết mà tiếp đón, đã là một
điều đại bất kính. Hơn nữa, công tử lại bắt giam Tô công tử và đánh đập người. Công tử còn
nói những điều đại nghịch, phạm thượng. Tiểu nhân e rằng chúng ta không còn đất mà
chôn. 
Trương công tử mặt tái như gà cắt tiết: 
– Bây giờ chỉ còn cách vào tha Tô công tử, quỳ lạy xin người tha tội. 
Chu quản ngục nói: 
– Công tử lâm thế cưỡi cọp rồi, bây giờ có xuống cũng không được nữa. Người tuy không
giết cọp, nhưng e cọp sẽ không tha người. Dù Tô công tử có tha chúng ta, nhưng Ngũ-phương kiếm đi theo Tô công tử, được Cảnh-Thủy hoàng đế ban cho Thượng phương bảo
kiếm, được quyền tiền trảm hậu tấu, dù là thân vương, đại thần. Bây giờ thả họ ra, võ công
họ cao, có kiếm lệnh trong tay, đầu chúng ta sẽ rơi hết. 
Trương công tử run lật bật: 
– Chu quản ngục, người có kế gì cứu ta, ta nguyện tặng người một ngàn lượng vàng và nói
với cha ta thăng quan cho ngươi. 
Chu quản ngục ghé tai nói nhỏ: 
– Dễ thôi! Chúng ta giết hết cả sáu tên rồi chôn trong rừng, còn trời đất nào biết được nữa? 
Trương công tử gật gật đầu nói: 
– Bây giờ chúng ta phải trở lại khách điếm lấy hết hành lý, ngựa của bọn chúng, rồi giết tất
cả những tên hầu cận của ta để bịt miệng. Nhưng giết ngay đêm nay thì không được. Chúng
ta hãy nói dối rằng sáu kẻ bị bắt là đại phạm, mạo xưng là Tô đại công tử và Ngũ-phương
kiếm. Đợi chúng ta rượt bắt được thằng bé và con bé Việt đi cùng với chúng nó rồi hãy ra
tay. 
Nghe đến đó, Đào Kỳ khẽ vỗ vai Phương Dung, vượt tường chạy về khách điếm. 
Đào Kỳ nói: 
– Anh thấy tên họ Trương sử dụng võ công Đào gia mà ngại ngùng. Em có kế gì tìm ra
người họ Đào ẩn trong phủ Đăng-châu không? 
Phương Dung gật đầu: 
– Dễ quá! Chúng ta trở về lấy ngựa, cứ theo đường chính mà đi. Gã họ Trương sẽ đuổi
theo. Anh với em giả vờ chống cự, dùng võ công tầm thường đánh cho bọn chúng thua
chạy. Tất nhiên, dù thua, chúng cũng phải theo bắt chúng ta. Chúng sẽ mời sư phụ chúng
đến. Bấy gờ ta sẽ biết ngay người họ Đào nào ẩn thân ở trong phủ Đăng-châu. 
Hai người trở về khách điếm, lấy hai con ngựa, thủng thẳng theo hướng đông mà đi. Đi đến
lúc mặt trời lên thì tới một quán nước dưới gốc cây đa. Hai người dừng lại nghỉ chân. 
Cô hàng là một thiếu nữ tuổi khoảng 20, dáng người yểu điệu. Thấy Kỳ, Dung đeo kiếm,
cưỡi ngựa, liếc một cái rồi lấy gáo dừa múc nước, bưng đến đặt trước mắt khách: 
– Công tử, tiểu thư dùng bánh đi. 
Hai người thức suốt đêm, bụng đói meo, thấy bánh nếp vội cần lấy bóc ăn. 
Phương Dung hỏi: 
– Chị chủ quán ơi, chị có quả tươi cho em một đĩa. 
Cô chủ quán vào nhà, Phương Dung ghé tai Đào Kỳ nói nhỏ: 
– Cô này bước đi thân lượn như rắn, gót chân nhẹ nhàng, thân chúi về trước, chắc là người
luyện võ. Anh có hiểu cô thuộc môn phái nào không? 
Đào Kỳ nói: 
– Anh đã nghe cha anh nói, phái Sài-sơn luyện tập khác đời, khi đi thì chúi người về trước.
Chắc cô quán là người của phái Sài-sơn. 
Cô hàng bưng ra một mâm trái cây nào chuối, nào ổi, nào cam rất tươi. 
Phương Dung ngồi ăn, cố ý chờ bọn Trương công tử đuổi theo. Quả nhiên, chỉ một lát sau,
Trương công tử với hơn mười tên lính đã đuổi tới. Thấy Kỳ, Dung, chúng reo lớn: 
– Các người nghe đây. Huyện-lệnh truyền: Có hai tên phạm tội phản loạn, chúng ta phải bắt
về huyện. Ai không liên quan thì lui ra. 
Bọn chúng cùng nhảy xuống ngựa, rút vũ khí bao vây Kỳ, Dung. Hai người thản nhiên ăn trái
cây, như không có gì xảy ra. 
Cô chủ quán nói: 
– Xin các quan bắt phạm nhân là đủ, đừng làm hư quán của tôi. 
Chu quản ngục bảo Đào Kỳ, Phương Dung: 
– Các người nên ngoan ngoãn chịu trói đi. 
Đào Kỳ hỏi cô chủ quán: 
– Chị ơi, chúng tôi có hai người, mà bọn chúng đông quá, chị giúp bọn tôi một tay, không
bao giờ chúng tôi quên ơn. 
Cô chủ quán cười: 
– Nếu ta cứu ngươi, sau đó huyện lệnh sẽ cho người đến đốt quán của ta. Vả lại, ta đánh
không nổi mấy người này đâu. 
Chu quản ngục dơ tay chụp vào ngực Đào Kỳ. Chàng chờ tay y sắp tới nơi, giả bộ loạng
quạng lui lại. Y chụp hụt. Hai tên Hán khác nhảy vô vồ Đào Kỳ cùng một lúc với Chu quản
ngục. Đào Kỳ làm bộ bưng mặt khiếp sợ, tay vung loạn lên, giả vờ đẩy tay Chu quản ngục
đánh vào tay hai tên lính Hán, còn chàng lui vào gốc cây đa. Chàng bám rễ đa, leo lên cây
ngồi: 
– Ta lên đây rồi, đố các người bắt được ta. Này, ta bảo cho biết, muốn bắt ta thì phải có
thang. 
Bọn chúng bỏ Kỳ vào vây bắt Phương Dung. Hai tên cùng chụp lấy nàng. Nàng định chờ
chúng chụp trúng rồi mới vung tay phản đòn. Không ngờ cô chủ quán đã vung tay một cái,
hai trái ổi bay trúng giữa trán chúng. Chúng đau quá, há mồm ra la lớn định chửi, thì một trái
ổi khác đã bắn vọt vào miệng chúng. Chúng đau dớn lùi lại, đưa tay móc ổi ra. 
Trương công tử la lớn: 
– Lê Chân, nàng muốn làm phản sao? 
Cô chủ quán tên Lê Chân cười khúc khích: 
– Công tử, chúng tôi đãi ổi cho quan binh mà là làm phản sao? 
Cả bọn Trương công tử cùng xông vào. Lê Chân tay đấm, chân đá, chỉ vài chiêu, bọn Hán
đã bị đánh rơi hết vũ khí. Chúng hè nhau bỏ chạy mất dạng. 
Đào Kỳ từ trên cây nhảy xuống, chắp tay xá Lê Chân: 
– Anh em chúng tôi đa tạ đại đức của chị đã cứu giúp. 
Lê Chân thở dài: 
– Không hiểu hai vị đã phạm tội gì với huyện lệnh mà đích thân công tử phải đuổi bắt. Tôi đồ
rằng bọn họ sẽ trở lại, vậy chúng ta nên rời khỏi nơi đây thôi. Hà... cái quán này bỏ lại thực
tiếc. 
Phương Dung nói: 
– Chị yên tâm, chúng có trở lại cũng không dám đốt quán của chị đâu. Nếu chúng đốt, em
xin đền chị gấp trăm lần. 
Lê Chân cười, nàng vuốt tóc Phương Dung: 
– Vậy thì biết rồi. Em tôi xinh đẹp thế này, chị là gái cũng còn thương huống hồ con trai? Chị
đoán xem nghe. Chắc Trương Minh Đức thấy em, động lòng, muốn bắt về làm vợ. Em
không chịu mới bỏ chạy, có đúng không? 
Đào Kỳ thấy Lê Chân hào sảng mà dịu dàng, cười đùa mà nghiêm trang, chàng sinh lòng
kính phục: 
– Không hẳn thế đâu! Chúng em xin chị ừ cho một điều, lát nữa, người của Trương Minh
Đức đến, chị đừng có ra tay, để mặc bọn em đối phó. 
Lê Chân hỏi: 
– Cậu em dễ thương quá! Nhà ta chỉ có một mình ta là gái. Giá ta có một người em như cậu
thì kể cũng vui. Nhưng tại sao cậu lại yêu cầu như vậy? 
Đào Kỳ vắn tắt: 
– Chúng em có chủ ý riêng, lát nữa chị sẽ thấy. 
Lê Chân cười: 
– Thế thì được. 
Nhưng ba người chờ đến chiều cũng không thấy Trương Minh Đức và đồng bọn đến. Lê
Chân bàn: 
– Nếu hai em không có việc gì vội, về nhà chị nghỉ đêm nay. 
Đào Kỳ, Phương Dung cảm thấy ở Lê Chân toát ra một cái gì thân mật, hào hiệp. Cả ba
cảm thấy như đã quen nhau từ lâu. Lê Chân dẫn hai người vào một trang. Dân trong trang
đông đúc, tất cả đều làm nghề chài lưới. Họ thấy Lê Chân đều cúi đầu chào. Lê Chân ở
trong một căn nhà năm gian khá lớn. Đằng trước có hồ nước ngọt. Trong vườn đầy hoa cỏ.
Trời mới chập choạng tối, mấy cây dạ hương đã bốc hương thơm ngào ngạt. Cây đào trong
vườn nở đầy hoa. Đào Kỳ thấy các luống hoa được tỉa cắt giống như ở trang Mai Động của
Nguyễn Tam Trinh, chàng nghĩ thầm: 
– Lê Chân sử dụng võ công Sài-sơn, vậy sư phụ nàng chắc cũng ngang vai với Nguyễn
Tam Trinh. Nếu nàng có trồng hoa giống như trang Mai Động cũng không có gì lạ. 
Lê Chân dọn cơm đãi hai người. Những món ăn nàng nấu toàn đồ biển, tuy giản dị nhưng
tinh khiết. Nàng bưng lên một đĩa mực luộc, chấm với mắm tôm chanh. Nàng nói: 
– Mực tươi luộc mới ngon, chứ để ươn thì mất thơm. Ăn mực luộc phải bốc bằng tay mới có
mùi vị. Nếu ăn bằng đũa sẽ mất hết thi vị. Muốn cho thơm ngon phải ăn với húng tía. 
Đây là lần đầu tiên Đào Kỳ, Phương Dung ăn bốc. Đào Kỳ đã được ăn mực luộc nhiều lần,
nhưng đều cắt thành miếng nhỏ, dùng đũa gắp. 
Món thứ nhì là rạm rang. 
Lê Chân giảng: 
– Con rạm sống ở biển. Tuy nhỏ hơn cua đồng, nhưng ngon hơn. Cá biển tanh hơn cá
đồng, nhưng rạm lại thơm hơn cua đồng. Cứ con nước ròng thì rạm mẩy, nhiều gạch. Rạm
tươi bắt lên, vặt hết chân đi, rửa thực sạch, rồi cho vào nồi với mấy thìa mỡ rang lên với
mấy thìa muối. Phải có mỡ thì muối mới dính vào vỏ rạm. Khi ăn, ta gắp cả con mà cắn. Cắn
cho mạnh, tiếng rạm vỡ ra nghe dòn.. Thế là vừa ăn bằng miệng, vừa ăn bằng tai. Trên thế
gian, bất cứ thứ gì ăn vụng cũng được, nhưng có ba thứ, một là cam, quýt, hai là mực khô
nướng, ba là rạm rang thì không được, vì mùi thơm bốc ra điếc mũi thiên hạ. 
Lê Chân xé đôi một con rạm ra, lấy cơm cho vào mai, dùng đũa ngoáy, gạch rạm làm đỏ các
bát cơm, vừa thơm vừa đẹp mắt. Hai người ăn một bữa cơm ngon chưa từng có. Lê Chân
hỏi: 
– Hồi chiều, hai em xin chị đừng ra tay với bọn Trương Minh Đức, em còn bảo có chủ ý
riêng. Vậy chủ ý đó là gì? 
Đào Kỳ kể sơ lược bố chàng là đệ tử của Đào Trang, Phương Dung là đệ tử phái Long-biên,
vâng lệnh người trên đi liên lạc với Đặng Thi Sách, phái Tản-viên, không ngờ lại gặp Tô
Phương và Ngũ phương thần kiếm, và những diễn biết đã xảy ra. Đào Kỳ, Phương Dung
dấu tất cả những chuyện còn lại. 
Lê Chân hỏi: 
– Như vậy, chắc Trương Minh Đức không dám giết Tô Phương đâu. Không biết người họ
Đào hiện ẩn náu tại huyện Đăng-châu có chịu ra mặt hay không? Ta thấy hai em tuổi còn
nhỏ, chắc võ thuật cũng không cao lắm, cứ ẩn ở đây chờ, trước sau gì, bọn Trương Minh
Đức cũng sẽ tìm đến. 
Đào Kỳ nhìn Phương Dung gật đầu đồng ý. Lê Chân tiếp: 
– Chị là đệ tử phái Sài-sơn. Sư phụ của chị là một trong Bát-tuấn của môn phái. Chị chẳng
cần dấu hai em làm gì, môn phái chị cũng như phái Cửu-chân, Long-biên, đều gốc ở Âu-lạc
cả. Đã là người Việt thì ai cũng mưu phục quốc. 
Bỗng Đào Kỳ nghe thấy có tiếng chân người đi về phía nhà Lê Chân. Tiếng đi nhẹ và trầm,
rõ ràng người phái Cửu-chân của chàng. Chàng đồ chừng đây là một cao thủ ngang hàng
với cha chàng, vội nháy mắt cho hai người rồi thổi tắt ngọn đèn đi. Tiếng chân đi đến gần
nhà thì ngừng lại nghe ngóng, tiếp theo có tiếng chân đi của ba người nữa, võ công thấp
hơn. Lê Chân tính tình hào sảng như nam tử, lên tiếng hỏi: 
– Cao nhân phương nào giá lâm trang An-biên, xin xuất hiện. Tiểu nữ là Lê Chân hân hạnh
được tương kiến. 
Lập tức bọn người lạ dàn hàng ngang trước cửa nhà nàng. Lê Chân đánh lửa châm vào
đuốc, vẫy tay mời: 
– Quý vị giá lâm, xin vào dùng nước. 
Bốn người lưỡng lự rồi bước vào nhà. 
Lê Chân rót nước mới: 
– Quý vị yên tâm, đứa con gái An-biên này không bỏ thuốc mê đâu, tôi xin uống trước. 
Nàng bưng bát nước vối uống trước. Bọn người ngập ngừng giây lát rồi cũng bưng bát uống
theo. 
Lê Chân hỏi: 
– Coi thân thủ các vị đều là người võ công thượng thừa, chẳng hay tại sao lại đi làm tay sai
cho cho huyện lệnh người Hán? 
Người già nhất trong bọn nói: 
– Chúng tôi có nỗi khổ tâm không thể nói ra được, mong các vị thứ lỗi. Tôi đến đây thỉnh cầu
ba vị một việc: Một là Âu công tử, Nguyễn tiểu thư theo tôi về huyện đường. Hai là các vị
phải trốn đi thực mau. 
Phương Dung hỏi: 
– Bốn vị làm theo lời yêu cầu của Huyện lệnh, hay của Trương Minh Đức? 
Người già đáp: 
– Trương công tử yêu cầu, tôi không ra tay. Nhưng sau, Huyện lệnh thỉnh cầu, chúng tôi
đành phải đi. 
Phương Dung cười: 
– Bốn vị có biết tại sao họ yêu cầu bắt chúng tôi không? Tôi sợ quý vị bắt tôi rồi Huyện lệnh
sẽ giết quý vị để diệt khẩu. 
Dứt lời, nàng tường thuật chi tiết sự việc cho bốn người cùng nghe. Người già nhất nghe
xong, phát run: 
– Thế thì nguy rồi! Tôi sợ bây giờ ở nhà Huyện-lệnh đã bắt giữ vợ con tôi để làm áp lực.
Các vị có cao kiến gì, xin giúp chúng tôi thoát thân, nguyện không bao giờ quên ơn. 
Bất thình lình, Đào Kỳ vung chưởng đánh vào mặt người già. Chưởng pháp chàng sử dụng
đúng là chưởng pháp Cửu-chân. Người già vung tay đỡ lại, cũng bằng chưởng pháp Cửu-chân. Hai chưởng chạm nhau đánh bùng một cái. Người già nhảy lùi lại, trong khi Đào Kỳ
vẫn đứng nguyên tại chỗ. Đào Kỳ thấy chưởng lực người già ngang với chưởng của cha
mình. Chàng nhìn kỹ người thì thấy không phải là cha hay cậu mình. Người này nhỏ hơn
một chút. Tiếng nói pha giọng Bắc khá nhiều. Chàng liền vung chưởng đánh liên tiếp 20
chưởng, toàn hư chiêu. Người kia vung chưởng đỡ. Hai người sử dụng cùng một thứ võ
công, cuốn lấy nhau như đôi bướm lập lờ, khó phân biệt ai thắng, ai bại. Bỗng người kia
nhảy lùi lại một bước, hỏi: 
– Âu công tử! Công tử với Cửu-chân song kiệt là chỗ thế nào? 
Phương Dung bước ra, lấp loáng mấy ánh kiếm xoẹt xoẹt, cắt đứt vải che mặt của bọn
người kia rồi lùi lại. Tất cả mọi người đều kêu ái chà một tiếng. Tiếng ái chà của Lê Chân và
bọn người bịt mắt thì ngạc nhiên về kiếm pháp thần tốc của Phương Dung. Còn Đào Kỳ ái
chà là vì người già, mặt giống hệt cha chàng. Chàng vội hỏi người già: 
– Tiên sinh là Đào... Thế Hùng? 
Người kia thở dài: 
– Tôi ẩn thân gần mười năm, không ai biết tung tích. Không ngờ hôm nay bị công tử tìm ra.
Này công tử, võ công của người cao gấp mấy lần ta, người lại sử dụng võ công Cửu-chân,
nhưng dường như nội công là của Tản-viên, rồi cách biến hoá thì giống như kiếm thuật của
Long-biên. Ta ẩn thân đã lâu, không ngờ đất nước mình mới nảy ra được nhân tài quán thế
như vậy. 
Đào Kỳ phục xuống đất lạy: 
– Cháu là Đào Kỳ, xin ra mắt chú hai. 
Đào Thế Hùng đỡ Đào Kỳ dậy, nước mắt rưng rưng, hỏi: 
– Thì ra cháu là con út của anh ta. Chú ẩn thân làm Huyện-uý Đăng-châu từ lâu. Gần đây
chú nghe tin Thái thú Cửu-chân là Nhâm Diên đánh phá Đào, Đinh trang, không biết anh chị
và các cháu lưu lạc phương nào? Ta đau khổ vô cùng và đã cho người dò tìm khắp nơi.
Không ngờ hôm nay gặp cháu ở đây. 
Ông chỉ ba người đi theo: 
– Đây là Hiển Hiệu, Quý Minh và Phương Dung, em của cháu. 
Đào Kỳ nắm tay các em nói: 
– Cách đây một năm, anh được Chu Thổ Quan cho hay rằng ba em đến Cổ-loa tìm gia đình
anh, và Chu còn biết thêm là các em đã đến từ Đăng-châu. Anh đoán rằng chú và các em ở
đây. Thì đúng là chú ở Đăng Châu mà anh lại cứ đi Cổ-loa để tìm. 
Chàng nhìn lên đầu Đào Thế Hùng, thấy tóc ông đã bạc trắng hết. Đào Thế Hùng than thở: 
– Trước kia đọc sử, nghe thuật một đêm lo nghĩ, sáng hôm sau đầu Ngũ Tử Tư đã bạc, chú
không tin. Nhưng từ khi nghe Đào, Đinh trang bị tàn phá, chú thấy ngày phục quốc càng xa,
nên chỉ mươi hôm, tóc đã trở thành bạc trắng.

Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma 
(Đặng Dung, Thuật hoài) 
Nghĩa là: 
Mấy độ mài gươm dưới ánh trăng 
Mười năm về trước, anh em Đào Thế Kiệt, Đào Thế Hùng cùng Đinh Đại là ba Lạc-hầu vùng
Cửu-chân. Họ nổi tiếng là những người độ lượng, văn võ kiêm toàn. Hằng ngày, họ theo
gương Việt-vương Câu Tiễn, cứu kẻ cùng khốn, giúp đỡ người già, trẻ côi. Dân chúng trong
trang ấp của họ đều thấm ơn đức. Họ khai khẩn đất hoang, phá rừng làm rẫy, nên trang ấp
của họ ngày càng rộng, dân chúng tụ về đông đảo. Trong vùng Cửu-chân có chín trang ấp
đều là giòng dõi của các trung thần theo An-Dương vương chạy vào đây. Khi Vương khám
phá ra vụ Mỵ châu, xấu hổ với tướng sĩ, ngài dặn họ nhất tâm phục quốc. Còn ngài thì nhảy
xuống biển tự tận. Các trung thần mang binh lính còn sống sót lập trang ấp và họ thiếp lập
phái Cửu-chân. Trải qua 200 năm, phái Cửu-chân trở thành một phái võ danh tiếng bậc nhất
vùng Lĩnh Nam. Các đại tôn sư của môn phái đều nổi danh hào hiệp, lòng dạ luôn luôn
hướng về cố quốc. 
Trải qua mấy trăm năm, mới đây, Hán đế cử Thái-thú Nhâm Diên vào trấn vùng này đã làm
đảo lộn hết cả. Nhâm Diên là người đã đậu Hiếu-liêm ở Trung-nguyên. Nhiều mưu trí, giỏi
cai trị. Khi tới Cửu-chân, y nhận thấy đã trải gần 200 năm rồi mà con cháu các di thần Âu-lạc
vẫn còn giữ nguyên tinh thần Việt, không bị ảnh hưởng của Hán chút nào. Y muốn tập trung
quân tiêu diệt, nhưng không nổi. Thêm nữa, dù có phúc bẩm lên Thứ-sử để mang quân cả
vùng Giao-chỉ, Nhật Nam, Hợp-phố hợp với quân Cửu-chân cũng không dễ gì diệt được
chín Lạc-hầu. Mà ngay cả nếu diệt được hết chín Lạc-hầu, thì y còn gì để cai trị? Có chăng,
chỉ còn là vùng đất hoang vu mà thôi. Y là người đọc sách, thâm cơ viễn lự, nên thấy chỉ có
cách làm cho người Việt đồng hoá thành người Hán là tốt nhất. 
Nguyên trước đây có một chỉ dụ từ đời Lã hậu cầm quyền, cấm người Trung-nguyên không
được bán đồ đồng, đồ sắt, các thứ hạt giống, cũng như thú vật giống cái cho người Việt.
Người Việt không được đọc chữ Hán. Người Hán không được kết hôn với người Việt. Chính
những điều đó là nguyên nhân khiến người Việt bị cai trị mấy trăm năm cũng vẫn còn là
người Việt. Y mật tấu về triều đình, xin huỷ bỏ những điều đó. Một mặt, y mang vàng bạc
mời các nho sĩ khoa bảng không thích công danh, sang giúp y để truyền bá đạo Khổng,
Mạnh. Rồi y ban hành chính lệnh năm điều gọi là Ngũ-pháp Thánh hoá, nghĩa là năm điều
pháp lệnh, giáo hoá đạo Thánh cho dân Cửu-chân. 
Thứ nhất: Người Hán, người Việt đều bình đẳng trước pháp luật. Người Hán, người Việt
được kết hôn với nhau. 
Thứ nhì: Những người Việt được mời thầy, mở trường, dạy chữ Hán như người Hán. 
Thứ ba: Người Việt được quyền mua bán các thứ đồ đồng, đồ sắt, cũng như hạt giống, cây
giống, thú vật giống cái từ Trung-nguyên. Thái thú sẽ tổ chức những đoàn người sang
Trung-nguyên du học về phép đánh cá, trồng cây, chăn nuôi, làm đồ đồng, đồ sắt cho dân
chúng. 
Thứ tư: Dân chúng được học lễ nghi, thờ cúng tổ tiên, học lễ nghi về hôn sự, tang chế. 
Thứ năm: Trai tráng tới 18 tuổi không có tiền lấy vợ, phủ Thái-thú sẽ giúp đỡ. 
Chính lệnh ra ra, các Lạc-hầu đều mừng rỡ, cho rằng Thái-thú là người đi truyền đạo Thánh.
Các Lạc-hầu đua nhau gửi người sang Trung-nguyên đón thầy về mở trường dạy chữ Hán
cho dân chúng trong trang ấp. Nếp sống dân chúng đổi hẳn: Từ cách ăn mặc cho đến nhà
ở, lễ nghi, nhất nhất đều giống như Trung-nguyên. Người Việt đua nhau học chữ Hán, nói
tiếng Quảng. Trẻ con đến trường, chỉ chơi những trò chơi của người Hán, hát bài hát Hán,
nói tiếng Hán, bỏ tiếng Việt. Dân chúng chỉ biết Tam-hoàng, Ngũ-đế, biết đến Văn-vương,
Chu-công, Khổng-tử, Bách gia chư tử mà không biết đến Lạc-long quân, Âu-cơ, Hùng-vương. Trẻ con, người lớn ngồi kể chuyện cho nhau nghe về sự tích Tiêu Sử, Lộng Ngọc
mà quên truyện Trương Chi, Mỵ Nương. Những bậc trí giả đàm đạo với nhau về Lưu Bang,
Hạng Võ mà quên mất Hùng-vương, An-dương vương. Họ luận bàn về làm thế nào để ngăn
chận quân Hung-nô không nhập được vào quan ải, mà quên mất những phương cách đề
phòng người Hán nhập Việt. 
Dân chúng ca tụng Thái thú, có nhiều người Việt ngu muội còn lập đền thờ sống y. Dân
chúng được lập ấp sống với nhau, họ tự tách rời các ấp của Lạc-hầu, Lạc-tướng. Thế là các
Lạc-hầu, Lạc-tướng không còn lực lượng hậu thuẫn của dân chúng hầu mong phục quốc
nữa. 
Ghi chú của thuật giả 
Sau này, Hán-sử đề cao Nhâm Diên, Tích Quang, coi như y là người sang khai hóa ho
người Việt. Kể từ thời y, người Việt mới biết trồng ngũ cốc, mới biết cưới xin. Sau khi Trưng-vương tuẫn quốc, những triều đại Đông Hán, Tam-quốc (Ngô), Đông Tấn, Tuỳ, Đường (44-924), nghĩa là từ sau thời Trung-vương cho đến khi Dương Diên Nghệ khởi nghĩa, non một
nghìn năm. Các quan lại người Hán sang cai trị Lĩnh-nam hết sức ca tụng, đề cao Nhâm
Diên, Tích Quang. Bắt dân chúng lập đền thờ. Ngày rằm, mồng một, ngày Tết, dân chúng
phải đến tế lễ linh đình, coi họ như hai người Hán đầu tiên đến khai phá đất Nam-man, dạy
cho người Việt biết lễ-nghĩa, biết trồng cây, biết chữ thánh hiền. Làm như vậy để dân chúng
thêm tự ty mặc cảm, hy vọng quan lại người Hán là những người mang phúc đức đến Lĩnh
Nam hầu bớt mầm chống đối. 
Gần đây, sử gia Trần Trọng Kim cũng đi vào đường sai lầm, coi Nhâm, Tích là hai người tốt
bụng. Sau khi nghiên cứu thư tịch Trung-hoa hồi đó, nhất là những cuốn phổ của đền thờ
anh hùng Lĩnh-nam. Khi tổng hợp lại, thì tôi thấy khi Nhâm, Tích chưa tới nước ta, dân Việt
đã có một nền văn minh rực rỡ ngang với Trung-nguyên. Lễ giáo, phong tục đã thành, có
thua gì đâu? Đọc cuốn phổ về anh hùng Đào Kỳ, chúng tôi tìm thấy Nhâm, Tích là hai tên
thực dân lớn nhất, muốn đồng hoá đất Lĩnh-nam với Trung-nguyên, nhưng bị anh hùng Đào
Thế Kiệt, Đào Thế Hùng và Đinh Đại phá vỡ. 
Hồi còn thơ ấu, nhiều lần thuật giả được tiền nhân dẫn đi thăm đền thờ Nhâm Diên, Tích
Quang. Tại những ngôi đền thờ này, có rất nhiều thơ, phú, bia, ký ca tụng công đức chúng.
Thuật giả lấy làm ngạc nhiên, có nhiều tấm bia đến chữ Nhâm Diên, Tích Quang thì bị đục đi
mất. Hỏi tiền nhân, thì được dạy: 
"…...Những tấm bia lành lặn được tạc từ sau năm 1284. Còn những tấm bia bị đục tên
Nhâm, Tích là do Trấn Bắc đại tướng quân, Hoài-văn hầu Trần Quốc Toản. Khi qua đây,
Trần Quốc Toản thấy người thời đó thờ cúng Nhâm, Tích, hầu tuyên bố : Nếu y có thiêng thì
vật chết ngài đi. Rồi ngài sai quân đục tên y trên các bia đá, dùng côn đánh vỡ tan tượng
của y. Tương truyền từ đó, y hết linh thiêng" 
Xin coi bộ Anh Hùng Đông A, Gươm thiêng Hàm-tử, sẽ xuất bản. 
Trước kia, mỗi huyện đều có một Huyện lệnh để cai trị, một Huyện-uý để điều khiển quân
đội, bên cạnh có một sở Tế-tác (công an). Những chức vụ này toàn là người Hán cả. Nhâm
Diên tâu Hán đế giao quyền huyện uý cho các Lạc-tướng, chỉ giữ lại các chức huyện lệnh và
sở Tế-tác là người Hán thôi. Như vậy, sở Tế-tác điều tra thấy mầm mống nổi loạn, báo cáo
về, Huyện-lệnh sẽ truyền cho Huyện-uý người Việt mang quân Việt đi đàn áp người Việt.
Tuy nhiên, Thái-thú vẫn còn một Đô-uý chỉ huy những đội quân Hán, hoặc Hán-Việt hỗn
hợp, sẵn sàng đánh dẹp nếu các Huyện-úy làm loạn. 
Đứng trước thế nguy đó, chín nhà trong phái Cửu-chân họp nhau để đối phó, thì năm nhà
đã là quan chức của Thái thú, còn hai nhà thì mở rộng cửa dạy dỗ dân chúng thành người.
Hán. Chỉ có Đào gia, Đinh gia là cương quyết, không chịu Hán hoá, mà chỉ mưu đồ phục
quốc. Âm mưu của Thái-thú không nhắm vào lớp người lớn tuổi, mà nhắm vào lớp trẻ cắp
sác đến trường. Tương lai chúng sẽ thành người Hán. Những binh lính người Hán đến đồn
trú, đều lấy vợ Việt, khi sinh con đẻ cái ra, tất nhiên những đứa trẻ đó đều nhận mình là
Hán, nói tiếng Hán chứ không còn nói tiếng Việt nữa. 
Đào Thế Kiệt quyết định cho em là Đào Thế Hùng ra Bắc, lập ấp ở vùng Cổ-loa, kinh đô cũ
của Âu-lạc, liên kết với hào kiệt Giao-chỉ, lập thế ỷ dốc để chuẩn bị khởi nghĩa. Nếu Đào
trang ở Cửu-chân có điều gì, thì còn Đào trang ở Cổ-loa. 
Sau khi Đào trang ở Cửu-chân bị đánh phá, Đào Kỳ đến Cổ-loa dò tìm hết các nơi, vẫn
không thấy tin tức chú mình đâu. Không ngờ đêm nay, chú cháu lại trùng phùng. Nảy ra Đào
Thế Hùng làm Huyện-úy Đăng-châu. 
Đào Kỳ thuật hết tất cả những đoạn đường chàng đi mấy năm nay cho chú nghe. 
Đào Thế Hùng thẫn thờ như người mất trí: 
– Không biết bố mẹ cháu và Đinh Đại bây giờ ở đâu? Không chừng họ cũng ẩn thân làm
Huyện-uý nơi nào hầu chờ thời cơ cũng nên. Vậy hãy chờ đại hội Tây-hồ, chú cháu mình
cùng về tham dự nghe ngóng tin tức của cha cháu. 
Lê Chân hỏi: 
– Cháu có thể góp ý kiến với lão bá được chăng? 
Thế Hùng nói: 
– Tôi tuy thân làm quan với Hán, nhưng lúc nào cũng theo dõi tình hình của ta. Mấy năm
nay, nghe danh Đông-triều nữ hiệp vang dội như sấm. Cô nương tự lập ra trang An-biên
này, giả làm người bán quán, mà tôi tuyệt không hay. Cô nương là đệ tử chân truyền của
Nam Hải nữ hiệp, đứng hàng đầu trong Sài-sơn bát tuấn. Hà... cứ cái tên Đông-triều nữ hiệp
thì chú cháu tôi sẵn sàng dãi bày ruột gan với cô nương. Nãy giờ, những việc cơ mật nhất,
chú cháu tôi cũng nói trước mắt cô nương, như vậy, đã coi cô nương là người đồng tâm
vậy. 
Lê Chân nói: 
– Đa tạ lão bá quá khen. Xin hỏi lão bá, trong huyện Đăng-châu còn một cao thủ người Hán
nào không? 
Thế Hùng đáp: 
– Hiện chỉ có Giám-sở Tế-tác, võ công y thuộc vào hạng thượng thặng. Tuy nhiên, tôi chưa
đấu với y bao giờ nên chưa biết trình độ võ công đích xác của y. Tên hắn là Lưu Chương.
Không hiểu cô nương hỏi như vậy là có ý gì? 
Lê Chân nói: 
– Lão bá quên mất hoàn cảnh khó khăn của lão bá rồi sao? Tôi sợ trong khi lão bá ở đây,
Trương Thanh sai Lưu Chương bao vây trang ấp của lão bá, đổ tội bắt Tô Phương cho lão
bá. Đợi lão bá bắt xong Đào Kỳ, Phương Dung rồi, y ra tay giết Tô Phương, Ngũ Phương
thần kiếm và quản ngục để diệt khẩu. 
Phương Dung lắc đầu: 
– Nếu Trương Thanh ngu muội thì y sẽ hành động như vậy. Còn nếu khôn ngoan thì y
không dám. Muôn ngàn lần y không dám. 
Đào Thế Hùng ngạc nhiên: 
– Tại sao y không dám? 
Phương Dung cười: 
– Lão bá thử đặt mình vào trường hợp y, rồi suy nghĩ sẽ thấy. Lão bá là Huyện-úy, Huyện-lệnh chỉ có quyền giết khi lão bá cử binh làm phản. Còn không, y phải phúc bẩm về Thái-thú
để xin lệnh. Nay lão bá đã làm phản đâu? Vả lại các tướng sĩ cùng quân sĩ đều là người
thân tín của lão bá, dễ gì Lưu Chương đã điều động được họ? Quân số của huyện Đăng-châu cũng không đủ để đánh trang ấp của lão bá. 
Đào Thế Hùng hiểu ra, ông nhìn Phương Dung bằng con mắt khâm phục. Ông nghĩ thầm: 
– Con bé này là bạn của Đào Kỳ, mới từng ấy tuổi mà ước tính tình hình như một vị tể
tướng. Chỉ cần năm, ba năm nữa, nó sẽ trở thành vô địch. 
Ông trả lời: 
– Lưu Chương là tên hồ đồ, ngu muội. 
Lê Chân quyết định: 
– Đúng, tiên hạ thủ vi cường. Tôi có ba kế hoạch, xin lão bá chọn lấy một. Thứ nhất: Lão bá
cùng hai em Kỳ, Dung với tôi, đánh cướp nhà ngục thả Tô Phương ra. Tô Phương sẽ giết
chết Trương Thanh. Y cảm kích, có khi xin cha tấu cho lão bá làm Huyện-lệnh. Lão bá yên
tâm, ẩn thân, chờ ngày khởi nghĩa, đem quân bản bộ ở Đăng-châu đánh lên Luy-lâu. 
Phương Dung suýt xoa: 
– Kế này hay lắm. Nhưng Tô Phương võ công rất cao, kiến thức rộng, thêm Ngũ-phương
kiếm nữa, tôi e rằng chúng sẽ giết lão bá để che dấu cái nhục bị bắt, bị đánh ở Đăng-châu. 
Lê Chân cười: 
– Chị biết có em đây, thì em bảo Tô Phương chết, nó cũng chết. Huống hồ chính em đem
lão bá cứu y, y sẽ cảm kích biết mấy? Cứu hắn rồi, em liếc mắt, ban cho vài nụ cười, thì
điều gì em muốn chẳng được? 
Đào Kỳ chau mày: 
– Còn kế thứ nhì? 
Lê Chân cười: 
– Kế thứ nhì nguy hiểm hơn, nhưng nhiều ích lợi cho việc quang phục. Bây giờ Đào Kỳ,
Phương Dung về thả Ngũ-phương kiếm ra, bắt Tô Phương dấu đi. Đương nhiên, Ngũ-phương kiếm sẽ đến hỏi tội Huyện-lệnh. Huyện-lệnh nhờ Lưu Chương chống Ngũ-phương
kiếm. Lão bá vờ giúp Huyện-lệnh đánh đuổi Ngũ-phương kiếm, rồi vu vạ cho Ngũ-phương
kiếm làm phản, đã giết mất Tô Phương. Ngũ-phương thần kiếm không nơi nương tựa. Kỳ,
Dung sẽ xuất hiện cứu giúp họ. Họ cảm khái theo mình. Mình vô tình được năm tay trợ thủ
đắc lực. Trong khi đó, lão bá khống chế Huyện-lệnh và Lưu Chương bằng cái án Tô
Phương và nắm lấy thực quyền trong huyện. Khi cuộc khởi nghĩa bùng lên, lão bá thả Tô
Phương ra. Hắn sẽ tìm Huyện-lệnh trả thù. Bây giờ lão bá giết Huyện-lệnh, nộp đầu cho Tô
Phương. Tô Phương tin tưởng lão bá, giao Huyện-lệnh cho lão bá. Lão bá sẽ mang quân
đánh thẳng lên Luy-lâu. 
Đào Kỳ gật đầu: 
– Kế này thực tuyệt, nhưng hơi nguy hiểm. 
Lê Chân cười: 
– Chị biết em thích kế này hơn kế thứ nhất. Bởi kế thứ nhất thì Phương Dung phải liếc mắt
đưa tình với Tô Phương. 
Đào Kỳ nóng bừng mặt vì bị nói trúng tâm tư. 
Chàng cúi đầu xuống, tự nhủ: 
– Chị Lê Chân tuy thông minh, mưu kế tuyệt vời, nhưng hiểu lầm ta rồi. Ta coi Phương
Dung như cô em gái. Chứ lòng ta... ta chỉ tưởng nhớ có một mình Tường Quy mà thôi. Ta
cách xa Tường Quy đã hơn một năm rồi, không biết nàng đã về làm dâu họ Trương chưa?
Thằng Trương Minh Đức là một thứ công tử bột, văn dốt, vũ dát, tính khí ngông cuồng, chắc
nàng phải đau khổ vì hắn nhiều lắm. Nó là thằng ăn chơi trác táng, có thiết gì đến tiếng đàn,
giọng hát của nàng nữa? 
Chàng thở dài, hỏi tiếp: 
– Còn kế thứ ba? 
– Chúng ta đón gia đình lão bá lên Đông-triều ở với chúng tôi, mặc cho bọn Trương Thanh,
Lưu Chương với Tô Phương cắn cấu nhau. Trương Thanh thấy chúng ta bỏ đi, có khi sợ
không dám giết Tô Phương. Đành thả chúng rồi cúi đầu tạ tội... 
Đào Thế Hùng suy nghĩ một lúc rồi nói: 
– Kế thứ ba thì hèn quá, ta còn mang tên Hùng thế nào được? Còn kế thứ nhất chưa chắc
đã thành công. Chúng ta lấy việc phục quốc làm đầu, ta muốn chọn kế thứ nhì. Đông-triều
nữ hiệp mưu thần chước thánh, danh bất hư truyền. Sau này khởi nghĩa, cháu sẽ phải lĩnh
đội binh từ Đông-triều chặn không cho giặc rút lui. Cháu là gái mà chí khí hào hùng còn
muốn hơn bọn ta. Bây giờ chúng ta nên bàn thêm chi tiết. 
Phương Dung bàn: 
– Ngay đêm nay, em với anh Kỳ đến nhà tù bắt Tô Phương giao cho chị, để chị giam giữ ở
Đông-triều. Sau đó, chúng em cứu Ngũ-phương kiếm ra. Ngũ-phương kiếm tất tới huyện để
hạch tội Trương Thanh. Lão bá hợp với Lưu Chương đánh đuổi Ngũ-phương kiếm đi, rồi
hiến kế vu oan giá hoạ cho Ngũ-phương kiếm. Thôi, chúng ta bắt tay vào việc. 
Đào Kỳ, Phương Dung lên ngựa trở về Đăng-châu. Vừa đi được một quãng thì gặp Trương
Minh Đức với ba tên tuỳ tòng đi tới. Bọn chúng thấy Đào Kỳ, Phương Dung thì mừng rỡ vô
cùng, hô lên một tiếng, cùng rút vũ khí nhảy vào. Đào Kỳ chụp từng tên một, nắm đầu liệng
xuống đất. Chàng vận kình lực khá mạnh nên ba tên đó chết giấc tức thời. Trương hoảng
hốt chưa kịp chạy, Phương Dung đã từ mình ngựa vọt sang ngựa hắn, kề lưỡi kiếm vào cổ: 
– Mi dám bắt Tô đại công tử là mệnh quan của triều đình. Cha con mi mưu đồ phản nghịch,
tội đáng giết cả ba họ. Mi mau đưa chúng ta về nhà ngục thả Tô công tử ra. 
Trương Minh Đức hoảng hồn, nói lắp bắp: 
– Tiểu nhân xin nghe lời cô nương. 
Đào Kỳ vận hết sức mình vào tay, nhắm cây thông to bằng bắp đùi bên đường đánh một
chưởng. Cây thông to như thế, kêu cái ầm rồi gẫy đôi, đổ xuống. Chưởng này là một trong
Phục Ngưu thần chưởng tên là Ác ngưu nan độ, mạnh nhất trong 36 chưởng của Sơn Tinh
khi xưa. 
Phương Dung nói: 
– Từ đây về nhà ngục, nếu mi mưu đồ gì, đại ca đây sẽ cho mi một chưởng như vậy, thân
thể nát như tương, mi hiểu không? 
Trương Minh Đức biết việc hôm nay không thể nào cứu vãn nổi, y chỉ mong thả Tô Phương
ra, rồi cha con y dập đầu lạy, may mới thoát chết cả nhà. 
Y dẫn Đào Kỳ, Phương Dung đến Đăng-châu lao xá. Bọn lính giữ tù líu ríu đưa y vào.
Phương Dung vẫy tay bảo bọn lính: 
– Công tử với chúng ta có việc riêng, các người khỏi theo hầu. 
Trương Minh Đức dẫn hai người tới một dãy nhà, nói: 
– Tô đại công tử tôi giam tại đây, còn bọn năm người tuỳ tùng, tôi giam riêng ở bên kia. 
Phương Dung nhanh tay bóp cổ Minh Đức. Y há miệng ra hắc, hắc mấy cái, nàng đã nhét
giẻ vào mồm, trói lại, liệng vào một bụi rậm. Đào Kỳ lấy kiếm chặt khoá, đẩy cửa bước vào.
Phương Dung đánh lửa lên, thấy Tô Phương bị bịt mắt, trói nằm đó. Đào Kỳ cho tay vào
miệng, nói giọng ồm ồm: 
– Tô Phương, Trương Huyện-lệnh đã hợp mệnh trời, giúp người Việt phục quốc, nên muốn
giết người để tỏ ý phản Hán. Hôm nay là ngày chết của ngươi đây. 
Nói rồi chàng nhấc bổng y lên, vọt ra ngoài hàng rào, biến vào đêm tối. Còn Phương Dung
tiến đến căn nhà giam Ngũ-phương kiếm. Phía ngoài cửa có mấy tên lính canh. Chúng thấy
một người con gái đến cửa nhà giam vội hỏi: 
– Cô là ai? 
Nàng đáp: 
– Ta là người của Huyện-lệnh đại nhân sai đến để tra xét tù nhân. 
Một tên hỏi: 
– Có lệnh bài không? 
Phương Dung nói: 
– Có, ngươi lại đây mà coi. 
Y tiến lại. Phương Dung rút kiếm phóng vèo vèo hai nhát. Y giật bắn người thì mũi kiếm đã
xuyên qua ngực y. Y lảo đảo ngã xuống. Phương Dung vung kiếm chặt khoá, vào nhà tù.
Nàng đánh lửa lên thì thấy Ngũ-phương kiếm bị đóng gông ngồi đó. 
Nàng hỏi: 
– Huyện-lệnh làm phản nên bắt giam công tử cùng các vị. Tôi trốn được, đi cứu công tử và
các vị. Công tử đâu? 
Bọn Ngũ-phương kiếm nói: 
– Tôi cũng bị bắt giam cùng công tử, nên không biết người bị giam ở đâu. Nguyễn cô
nương, mau cứu bọn tôi để chúng tôi đi cứu công tử. 
Phương Dung chặt gãy còng, cắt dây trói cho năm người rồi ra lệnh: 
– Bây giờ chúng ta đại náo nhà tù tìm cứu công tử trước, hay đến huyện đường hỏi tội
huyện lệnh? 
Năm người thấy năm thanh kiếm của mình để gần đó, vội nhặt lấy đeo vào lưng. 
Hoàng kiếm nói: 
– Đại náo nhà tù, e khó cứu được công tử. Chi bằng chúng ta tới huyện đường bắt Huyện-lệnh dễ hơn. 
Phương Dung dẫn năm người vọt qua hàng rào nhà tù, rồi hướng huyện đường đi tới. 
Trời đã về khuya, nhưng trong huyện đường vẫn còn đèn đuốc sáng choang. Phương Dung
biết Huyện-lệnh đang ngồi chờ tin Thế Hùng và con trai đi bắt nàng với Đào Kỳ nên chưa đi
ngủ. Nàng bảo khẽ Ngũ-phương kiếm: 
– Chúng ta dò thám thử xem. 
Ngũ-phương kiếm là những người lịch lãm giang hồ nhiều nên gật đầu. Năm người vòng ra
phía sau huyện đường, dùng tay chọc thủng giấy dán cửa sổ, nhìn vào. 
Trong sảnh đường, chủ nhân Anh hùng tửu lâu đang quỳ dưới đất với một người con gái
tuổi khoảng 17, 18, vẻ mặt xinh tươi. Huyện lệnh ngồi trên ghé, bên cạnh, một tên lính cầm
roi như tra khảo. 
Huyện lệnh hỏi: 
– Phùng Đại Tín, bấy lâu nay ta che chở cho ngươi mở Anh hùng tửu lâu, ngươi đã trở
thành giàu có. Nhưng nay ngươi lại trở thành gian tham, ăn cắp. Bọn khách tám người đến,
trong đó có hai người Việt, chúng đi đâu mất, ngươi không hay? Hành lý của hai tên người
Việt và tên công tử đầu xỏ thì biến mất, chỉ còn hành lý của năm tên người Hán. Ta muốn
biết hành lý của tên công tử và hai tên người Việt ngươi cất nơi đâu? 
Chủ quán lắc đầu: 
– Tôi không biết gì hết. Hôm qua, sau khi ăn, họ cùng đi ngủ. Trưa nay không thấy họ thức
giấc, tôi cho cạy cửa phòng của năm vị quan nhân người Hán thì thấy hành lý còn để đó.
Hành lý của hai tên người Việt và của tên công tử thì biến mất. 
Trương Thanh phất tay ra lệnh. Tên lính vung roi quất túi bụi vào người chủ quán. Phùng
Đại Tín lăn lộn dưới đất, thịt nát, máu chảy đầm đìa nhưng vẫn chối là không biết gì cả. 
Huyện-lệnh thấy đánh chủ quán không ăn thua, quay hỏi người con gái chủ quán: 
– Phùng Vĩnh Hoa, cô là người đọc sách, là học trò giỏi nhất trong vùng Đăng-châu này, ta
tin cô, bởi cô biết lễ, nghĩa, liêm, sĩ. Những lời khai của cha cô có đúng không? 
Phùng Vĩnh Hoa nói: 
– Cha tôi là người ngay thẳng, người ta trả quá một đồng, cha tôi cũng không nhận, huống
hồ ăn cắp của khách hàng? Hôm qua, tám người khách trong đó có sáu Hán, hai Việt đều
ăn mặc theo lối quyền quý, người nào cũng đeo gươm bên mình. Họ trả tiền sòng phẳng,
còn thưởng nhiều tiền cho người hầu bàn nữa. Tối đến, cha tôi chọn tám phòng hạng nhất
cho họ ở. Nhưng sáng ra thì cửa các phòng còn đóng kín, nhưng cửa sổ đã mở tung. Cha
tôi cho người vào xét, thấy hành lý của năm vị quan nhân người Hán còn nguyên. Trái lại,
hành lý của vị quý nhân người Hán với hành lý của hai người Việt thì không thấy. Sự tình có
thế. Đại quan minh kiến. Nếu mấy người hầu trong khách điếm có lòng gian, thì có cho ăn
vàng cũng không dám vào phòng mấy vị đó, mà dù có vào phòng thì họ sẽ lấy hết tất cả
hành lý chứ đâu có lấy của ba người mà thôi? Như ngài đã khám xét, hành lý của năm vị
quan gia người Hán đều đầy vàng bạc, nếu chúng tham, chúng đã lấy hết rồi. 
Huyệnh lệnh nói: 
– Nghe ta hỏi! Ta muốn biết hành lý của quý nhân người Hán chứ không hỏi vị quý nhân
người Hán ở đâu. Ta muốn hỏi hai người Việt chứ không hỏi hành lý của chúng. 
Phùng Vĩnh-Hoa nói: 
– Sự tình như vậy thì tôi đoán ra rằng vị quý nhân người Hán và năm vị quan nhân bị quý
phủ bắt giam. Còn hai người Việt thì trốn được. Hai người Việt trốn đi, họ mang theo hành lý
của họ. Năm quan nhân người Hán thì hành lý vẫn còn đó. Còn hành lý của quý nhân người
Hán thì một là do hai người Việt ăn cắp mang theo, hai là do các vị công sai của quý phủ lấy
đi. 
Phương Dung nghe Vĩnh Hoa nói khen thầm: 
– Người con gái này quả thực cơ mưu viễn tự, đoán việc như thần. Ta đã nổi tiếng là quyền
biến, mưu mẹo nhưng còn thua Lê Chân một bậc. Nhưng cả Lê Chân với ta, đều thua người
con gái này. 
Trong khi đó, Huyện-lệnh Trương Thanh suy nghĩ: 
– Con ta ngu quá. Hôm qua nó chỉ mải mê bắt gái, không ngờ gái trốn mất. Bọn tuỳ tùng
thuận tay bắt luôn Tô Phương và Ngũ-phương kiếm để sinh vạ. Hai đứa người Việt chắc
chạy qua phòng Tô Phương, thấy hành lý có nhiều giấy tờ quan trọng thì lấy đi. Không biết
Huyện-úy với con ta có bắt được chúng về không? Nếu không bắt được thì họa không nhỏ.
Thôi, ta cứ đổ cho chủ quán là mọi việc êm đẹp. 
Trong khi đó, Ngũ-phương thần kiếm lại nghĩ: 
– Đêm qua bọn ta với đại công tử bị chúng thổi thuốc mê bắt đi. Có lẽ lúc đó, Nguyễn cô
nương ra ngoài chơi nên thoát được. Về sau, cô nương mới trở lại cứu bọn ta. Hành lý của
đại công tử chắc bọn sai nha đã dấu đi. Nguyễn cô nương và Âu tiểu đệ chắc không phải là
người ăn cắp hành lý của công tử. Nếu họ ăn cắp thì tội gì đêm hôm vượt nguy hiểm trở lại
cứu bọn ta? 
Vì đã có chủ ý nên Huyện-lệnh đập bàn quát: 
– Mi nói láo? Ta là quan người Hán, tại sao lại cho bắt quý công tử người Hán với năm vị
quan nhân người Hán? Nếu ta bắt thì đã đem người tới vây khách điếm, chứ việc gì phải
vượt cửa sổ lén lút? Ta nói cho cô hay, cô phải khai thực như thế này: Người hầu trong
khách điếm với cha cô thấy quý công tử với năm quan nhân người Hán có nhiều tiền, nên
đã xông thuốc mê cho họ ngủ say. Người hầu khách điếm đã giết chết quý công tử và ăn
cắp hành trang trốn mất. Bây đâu, lấy bút mực cho cô này cung xưng. 
Thư lại mang bút mực ra để trước mặt Phùng Vĩnh Hoa. Vĩnh Hoa cầm bút viết. Nàng đưa
bút thực nhanh, chỉ một lát đã đây trang giấy, đưa cho thư lại. Thư lại cầm lấy đọc lên: 
Niên hiệu An Dương vương nước Âu Lạc thứ 291 nhằm năm Ất Mùi, tháng ba, ngày 25. 
Việt nữ họ Phùng, tên Vĩnh Hoa, 18 tuổi, ở đất Đăng-châu khai như sau: 
Cha tôi là Phùng Đại Tín, chủ nhân đại tửu lầu Anh hùng, từ khi mở khách điếm đến giờ, là
người mẫn cán, trung thực, ai trả dư một đồng cũng không lấy. Suốt đời không tham của bất
nghĩa. 
Ngày 24, có tám quý khách đến, dẫn đầu là một công tử người Hán, tuổi khoảng 23, lưng
đeo bảo kiếm. Đi theo quý công tử có năm người Hán, người lớn tuổi nhất khoảng 40, người
nhỏ nhất khoảng 25, tất cả đeo kiếm, dáng điệu hùng vĩ, dường như đều giỏi võ. Ngoài ra,
còn có hai người Việt: nữ khoảng 17, mặt đẹp như hoa, nam khoảng 18, anh tuấn, tiêu sái.
Họ cùng đeo bảo kiếm. Khi tới khách điếm, quý công tử đòi ngồi vào chiếc bàn danh dự của
tửu lầu, mà công tử của Trương Huyện-lệnh bắt phải dành riêng cho người. 
Cha tôi phân trần rằng bàn này của Trương công tử. Công tử là quý tử của Trương Huyện-lệnh. Nhưng quý công tử nhất định ngồi bàn đó. Tám người đang ăn uống thì Trương công
tử đánh đuổi họ. Họ đánh Trương công tử và ba người hầu ngã lăn xuống đất, rồi tha cho đi. 
Đêm tới, Trương công tử mang người đến thổi thuốc mê để bắt cô gái Việt. Nhưng cô và
anh cô không có trong phòng. Trương công tử chỉ bắt được quý công tử và năm người Hán. 
Sáng nay, cha tôi khám phá ra sự tình, có vào huyện cớ. Quan Huyện-lệnh bắt cha tôi khảo
dã và ép tôi cung xưng cho người hầu phòng đã giết và ăn cắp hành trang của quý công tử.
Tôi không nhận, cứ sự thực khai. 
Nay ký: Phùng Vĩnh Hoa. 
Thư lại vừa đọc xong, Huyện-lệnh mặt tái mét, quát lớn: 
– Mi khai... láo! Rõ ràng là mi theo bọn phản nghịch. Mi dám dùng niên hiệu của Âu-lạc.
Nguyên một tội đó cũng đủ giết cả nhà mi rồi. 
Phùng Vĩnh Hoa cầm nghiên mực ném vào mặt Huyện-lệnh. Kình lực mạnh vô cùng. Huyện-lệnh né đầu sang một bên tránh khỏi. 
Phùng Vĩnh Hoa quát lên: 
– Này Trương Thanh! Con mi giữa chốn đô hội, bắt cóc gái đẹp toan hãm hiếp là một tội.
Con mi còn cho thủ hạ bắt cóc sáu người Hán đó là hai tội. Sau khi khám phá ra họ là
những quan chức người Hán, mi muốn giết người để bịt miệng, đó là ba tội. Mi còn muốn đổ
tội cho chúng ta ư? 
Mấy tên lính hầu nhảy vào bắt trói Vĩnh Hoa. Huyện lệnh cầm con dao nhỏ dí vào mặt nàng
cười hề hề: 
– Nếu nàng không chịu khai như lời ta, ta sẽ rạch mấy nhát dao vào mặt nàng, mặt nàng sẽ
trở thành xấu xí vô cùng. Ta hô ba tiếng, nếu nàng không chịu khai thì ta rạch. Nào... một... 
Phùng Vĩnh Hoa: 
– Mi cứ rạch đi. Chỉ mấy ngày nữa, cả nhà mi sẽ chết phơi thây. 
– Hai... 
– Ta đã bảo, dù mi rạch nát mặt ta, khoét mắt ta, cũng vô ích. 
– Ba... Được, ta rạch. 
Y vung dao lên thì đánh vèo một tiếng, hai mũi phi tiễn nhỏ từ cửa bay vào. Keng một cái,
con dao trên tay Huyện lệnh vuột khỏi tay y, văng ra xa. 
Trương Thanh quát hỏi: 
– Ai? 
Có tiếng đẩy cửa, rồi một người con gái nhỏ nhắn, mặt không đẹp nhưng tươi như hoa, tuổi
khoảng 18, 19, lưng đeo gươm tiến vào, khoanh tay đứng giữa nhà: 
– Trương Thanh, mi bắt giam Tô Phương và tùy tùng của y thì mặc người Hán của mi chém
giết nhau. Tại sao mi lại đổ tai vạ lên chủ quán và cô nương này? 
Trương Thanh quát: 
– Quân bây đâu? 
Thiếu nữ nhảy vèo đến, rút kiếm kề vào cổ y: 
– Muốn sống thì im mồm. Tô Phương hiện ở đâu? 
Tiếng quát của y vừa rồi làm bọn quân ở ngoài kinh động. Sáu tên mở cửa tiến vào. 
Huyện-lệnh kêu cứu: 
– Lưu Chương, cứu ta với. 
Người dẫn đầu sáu tên quân vào là Lưu Chương, Giám sở Tế-tác Đăng-châu. Y nói với cô
gái: 
– Cô nương, cô là ai? Có mau buông Huyện-lệnh ra không? Cô không thể nào địch nổi cả
đoàn thiết kỵ của huyện Đăng-châu đâu. Cô tha Huyện-lệnh ra, ta hứa sẽ tha cô rời chỗ này
an toàn. Lưu Chương này, xưa nay nói một là một. 
Cô gái chỉ Phùng Đại Tín và Phùng Vĩnh Hoa nói: 
– Các người phải tha cả hai người này ra. 
Huyện-lệnh gật đầu ưng chịu. 
Lợi dụng lúc cô gái phân tâm, Trương Thanh lộn người đi tránh khỏi lưỡi guơm của cô. Cô
gái phóng kiếm theo thì Lưu Chương đã vung chưởng đánh vào ngực cô. Hai chưởng chạm
nhau, cô gái cảm thấy khí huyết đảo lộn, lồng ngực như bị nghẹt thởi. 
Lưu Chương cười: 
– Thì ra cô là Nguyệt-điện Đàm Ngọc Nga, Nguyệt-điện nữ hiệp. Ngươi không phải là đối thủ
của ta đâu. 
Nói rồi, y vung chưởng đánh nữa. Đàm Ngọc Nga đảo kiếm theo hình bán nguyệt, rồi vòng
từ dưới lên trên. Lưu Chương thu chưởng về thì kiếm lại từ trên vòng sang phải. Y lùi lại,
kiếm chiêu lại từ phải hướng vào ngực y. Lưu Chương đối chưởng với nàng tuy thắng thế
nhưng võ công của y chỉ cao hơn Đàm Ngọc Nga một chút, làm sao y đánh lại kiếm của
nàng? Y lui đến cửa thì một toán cận vệ đã tràn vào bao vây lấy nàng vào giữa. 
Phương Dung bảo Hoàng kiếm: 
– Chúng ta xuất hiện ngay thì vừa, có đủ nhân chứng. Nếu chậm trễ, Trương Thanh có thể
trở mặt, ta không còn dịp tốt nữa. 
Hoàng kiếm ra lệnh: 
– Bọn chúng ta cùng xuất hiện. Bạch kiếm trấn cửa ra vào. Ta trấn áp Lưu Chương, Hắc đệ
bắt Huyện lệnh, Lam đệ thanh toán lũ cận vệ, Xích đệ bắt giữ Đàm Ngọc Nga, Nguyễn cô
nương tiếp ứng. 
Trong thâm tâm Hoàng kiếm, y coi Phương Dung không vào đâu, bất quá nàng đeo kiếm
cho oai, chứ võ công không có gì. Y hú lên một tiếng, cả bọn cùng nhảy vào sảnh đường. 
Hoàng kiếm hô lớn: 
– Ngừng tay. 
Tất cả ngạc nhiên, ngừng lại. 
Huyện lệnh hỏi: 
– Các người là ai? 
Hoàng kiếm nói: 
– Chúng ta là Ngũ-phương thần kiếm, khâm sai của Kiến Vũ thiên tử. Chúng ta vâng chỉ
thiên tử tới đây để tra xét việc ám muội của mi. 
Hắc kiếm nhanh tay chụp gáy Huyện-lệnh, bắt quỳ gối, rồi dí kiếm vào cổ y. Trương Thanh
run lẩy bẩy, nói không ra lời. 
Lưu Chương quát lớn: 
 – Các người vâng chỉ thiên tử, vậy chiếu chỉ đâu? 
Hoàng kiếm tức quá quát lên: 
– Lệnh bài đây! 
Y rút kiếm ra đâm Lưu Chương. Lưu Chương đã có đao trong tay nên vội vung đao đỡ.
Choang một tiếng, tay y tê chồn, y vội lùi lại hai bước, trong khi Hoàng kiếm vẫn đứng
nguyên. 
Nguyên Lưu Chương xuất thân là đạo tặc ở Trung-nguyên, được Thái-thú đời trước là Tích
Quang dẫn dụ sang Giao-chỉ cùng nhau tha phương cầu thực. Quang cho y chưởng quản
Tế-tác huyện Đăng-châu để cùng làm việc với anh em cô cậu y là Trương Thanh, hầu vơ
vét, làm giàu cho dễ. Từ ngày sang Giao-chỉ, y đã so tài với biết bao nhiêu cao thủ, nhưng
chưa bao giờ bị bại. Gần đây, y quen biết với Huyện-úy Thế Hùng là một cao thủ võ học
Lĩnh Nam. Nhưng Thế Hùng vốn tính hiếu hoà nên hai người chưa từng động thủ. Giờ đây,
lần đầu tiên trong mười năm tung hoành, y đã gặp một đối thủ lợi hại đến trình độ không thể
tưởng tượng được. 
Y đã nghe tiếng Ngũ-phương kiếm trợ giúp Cảnh-Thủy hoàng đế đánh Vương Mãng, chiếm
lại Trường-an, Hàm-đan, Đồng-quan, Lâm-đồng. Sau đó, khẳng khái bỏ đi hành hiệp cứu
dân, không nhận quan chức. Người này mặc áo vàng, chắc là Hoàng kiếm đứng đầu trong
Ngũ kiếm. 
Mặc dù đã biết rõ ràng Ngũ-phương kiếm từ Trung-nguyên sang, nhưng trước sự việc cỡi
cọp, y với Huyện lệnh đành phải làm tới. Y buột miệng khen: 
– Hảo kiếm pháp. 
Rồi, y múa đao xông vào đánh Hoàng kiếm. Hoàng kiếm vung kiếm trả đòn. Hai cao thủ đấu
với nhau trong phòng hẹp, nhưng vẫn biểu lộ được bản lĩnh tuyệt với. Trong khi đó, Lam
kiếm chỉ sau mấy chiêu đã dồn lũ cận vệ vào góc phòng, bắt bỏ vũ khí. Bọn cận vệ biết mấy
vị đại nhân này từ Trung-nguyên sang nên líu ríu tuân theo, không dám chống lại. 
Còn Xích kiếm vừa nhảy vào đã vung kiếm đâm Đàm Ngọc Nga năm chiêu. Ngọc Nga lui lại
tránh chiêu đầu, cố đỡ được bốn chiêu. Đến chiêu thứ năm, nàng phóng kiếm đâm y. Chiêu
thức của nàng dường như lối đánh liều mạng để hai bên cùng chết. Y giật mình lùi lại, đang
thế công trở thành thế thủ. Y là người trẻ nhất trong ngũ kiếm, tâm tính hiền hậu. Y thấy
Ngọc Nga dường như chỉ muốn gây hấn với Huyện-lệnh, có vẻ có lợi cho anh em y. Vì vậy y
đã không dám thẳng tay. Ngọc Nga đánh liền năm chiêu quái dị, rồi nàng thu kiếm nhảy lui
lại, cười: 
– Con bé nhà quê là Đàm Ngọc Nga hôm nay hân hạnh được diện kiến với Ngũ-phương
thần kiếm. 
Xích kiếm thu kiếm về, chấp tay đáp lễ: 
– Đa tạ cô nương quá khen. Dường như cô nương tới đây chỉ mục đích ăn thua với Trương
Thanh? 
Đàm Ngọc Nga nói: 
– Ăn thua thì không có. Nhưng tôi nghe dường như y muốn hại Ngũ-phương thần kiếm.
Đàm Ngọc Nga tôi, được đời tặng cho chữ nữ hiệp, nay thấy Thần-kiếm bị gian tặc hãm hại,
nếu không ra tay hỏi còn gì là hiệp nữa? 
Xích kiếm thấy Đàm Ngọc Nga xinh đẹp, nói năng uyển chuyển, dịu dàng, lại vì bọn y mà
đến, nên y chắp tay xá: 
– Vừa rồi tôi lỗ mãng, lỡ ra tay đánh mấy chiêu, mong cô nương hỷ xả đại xá cho. 
Ngọc Nga cười: 
– Người Việt chúng tôi thường nói: Đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận họ. Xích đại ca, người
võ lâm chúng ta qua lại với nhau mấy chiêu là chuyện thường. 
Cả hai ngừng lại theo dõi cuộc đấu giữa Hoàng kiếm và Lưu Chương. 
Trong khi Chương dùng hết sức, còn Hoàng kiếm chỉ như con mèo vờn con chuột chứ
không muốn ra tay. Y cầm cự được một lúc thì đã mệt nhừ, vội quăng đao nói: 
– Ta giận vì học nghệ không tinh, chịu thua dưới tay ngươi, vậy ngươi muốn giết, muốn băm
vằm, cứ ra tay. Lưu Chương này thề không nhăn mặt hay kêu một tiếng. 
Hoàng kiếm nói: 
– Lưu tướng quân! Chúng ta cùng là tôi nhà Đại Hán, tại sao lại giết nhau? Những việc ở
đây đều do Huyện-lệnh mà ra cả. Chúng ta chỉ cần cứu Tô công tử rồi đưa Huyện-lệnh về
để Thái-thú xử trị. Lưu tướng quân là người vô can, không nên dính líu vào việc này. 
Hoàng kiếm thu kiếm về rồi hỏi Lam kiếm: 
– Huyện-lệnh đâu? 
Mọi người chưng hửng. Nguyên trong lúc mọi người không chú ý, Huyện-lệnh đã chui theo
lỗ chó ở Huyện-đường sang phòng bên cạnh, trốn biệt. 
Lam kiếm nói: 
– Dù cho nó trốn đâu chăng nữa cũng không thoát khỏi tay chúng ta. Việc trước mắt, chúng
ta phải tìm cho ra đại công tử ở đâu? Bây giờ chúng ta nên tới Đăng-châu lao xá. 
Đàm Ngọc Nga nói: 
– Hậu hội hữu kỳ. Ngũ-phương thần kiếm đã ra tay thì một Huyện-lệnh chứ ngàn huyện lệnh
cũng bị trói tay. Tôi xin bái biệt. 
Hoàng kiếm nghĩ: 
– Người con gái này không hiểu lý lịch ra sao, nhưng nàng đã có hiệu là Nguyệt Điện nữ
hiệp, kiếm pháp khá kỳ diệu, ắt địa vị không nhỏ. Nàng lại tỏ cảm tình với bọn ta. Bọn ta
chưa quen nàng, trong khi nàng cũng muốn ăn thua với Huyện lệnh cứu bọn ta. Bọn ta phải
kết thân với nàng. Ta là người nghĩa hiệp, nếu được kết thân với những người như nàng,
thực còn gì hay hơn nữa? 
Nghĩ rồi, Hoàng kiếm chắp tay vái dài: 
– Nguyệt-điện nữ hiệp, khi nào có dịp, xin ghé Luy-lâu, anh em chúng tôi lúc nào cũng sẵn
sàng chờ đón nữ hiệp. 
Đàm Ngọc Nga nói với cha con Phùng Vĩnh Hoa: 
– Chúng ta đi thôi, Phùng tiên sinh, Phùng sư tỷ. 
Anh em Ngũ-phương thần kiếm tiễn Đàm Ngọc Nga ra cửa, lúc trở lại thì không thấy Lưu
Chương đâu nữa. 
Lam kiếm quát lớn: 
– Chúng ta là người của triều đình. Nó là Giám-sở Tế-tác Đăng-châu, lại không tuân lệnh
chúng ta, rõ ràng nó làm phản rồi. Hãy mau mau đến Đăng-châu lao xá cứu công tử ra đã. 
Năm anh em Ngũ-kiếm với Phương Dung vừa ra khỏi huyện đường thì tứ phương trống
dậy, thiết kỵ bao vây trùng trùng, điệp điệp. Bốn cánh quân bao vây bốn ngả. Mỗi cánh quân
do một tướng chỉ huy. 
Phương Dung nói: 
– Chúng ta có sáu người, không thể địch nổi với hàng nghìn thiết kỵ, vậy chỉ còn đường duy
nhất là chạy về Luy-lâu mang đại quân xuống bắt Huyện-lệnh mới giải quyết được vụ này. 
Anh em Ngũ-phương xuất thân là hiệp sĩ, không phải người lưu manh như bọn Lưu
Chương. Họ sang Giao-chỉ do chỉ dụ của triều đình. Họ không giữ chức vụ gì ở Lĩnh-nam.
Nhưng uy quyền rất lớn, chỉ thua có Tô Định. Khi đi đến đâu các Huyện-lệnh đều phải cúi
đầu. Nay gặp trường hợp Huyện-lệnh Đăng-châu phản trắc, không coi họ vào đâu, điều mà
họ chưa từng gặp. Uất giận cành hông, nhưng họ cũng biết rằng ngoài lời khuyên của
Phương Dung, không có đường nào khác. 
Hoàng kiếm nói: 
– Chúng ta mạnh ai nấy phá vòng vây chạy ra, rồi tụ họp ở Luy-lâu. 
Trong khi sáu người bàn tán thì quân sĩ phủ vây bốn mặt. Huyện lệnh Trương Thanh nói
lớn: 
– Các tướng và ba quân hãy nghe: Đây là năm tên phản nghịch đã liên kết với bọn tạo phản,
bắt Tô đại công tử của Thái-thú đại nhân, không chừng chúng đã giết công tử rồi cũng nên. 
Chỉ mặt bọn Ngũ-phương, y tiếp: 
– Các người đều ăn cơm, mặc áo của nhà Đại Hán, hãy bắt giữ lấy chúng nó cho ta. Ai bắt
hoặc giết được một tên sẽ được thưởng mười lượng vàng. 
Chư quân hô rầm một tiếng rồi lăn xả vào. Lam kiếm nhắm phía Đông chạy, đụng phải
Huyện-uý tức Đào Thế Hùng. Y khinh thường, nhắm đầu Huyện-uý phóng một chưởng. Thế
Hùng vận chưởng vào tay trả đòn. Hai chưởng gặp nhau. Lam kiếm phải thối lui ba bước
mới đứng vững, còn Thế Hùng cũng cảm thấy tê dại cánh tay. 
Ông nghĩ: 
– Tên này là một trong Ngũ-phương kiếm, ta chỉ nên đấu chưởng, mà không nên đấu kiếm
với nó. Vừa rồi, ta ngồi trên ngựa, nó đứng dưới đất, thắng không phải anh hùng. Dẫu sao
ta cũng là đệ tam thái bảo phái Cửu-chân, ta đâu cần mượn sức ngựa? 
Ông nói: 
– Lam kiếm, ta nghe nói ngươi là một trong Ngũ-kiếm danh vang đất Kinh Tương, vậy ngươi
có dám đấu chưởng với ta chăng? 
Lam kiếm cười: 
– Được, ta há sợ ngươi sao? 
Ông nhảy xuống ngựa. Trong khi còn lơ lửng trên không ông đã phóng ra chiêu Loa thành
nguyệt ảo. Chiêu này do đại tướng Vũ Bảo Trung của Âu-lạc sáng chế ra, dùng để đánh từ
trên xuống dưới, sức toả ra như ánh trăng từ trên trời chiếu xuống thành Cổ-loa. Lam kiếm
vận sức vung chưởng đỡ. Hai chưởng gặp nhau. Thế Hùng mượn sức chưởng đối phương
vọt ra xa, rồi phát chiêu Hải triều lãng lãng, chiêu này một thế sẽ thành hai, hai thành bốn,
bốn thành 16, một trong những chưởng tuyệt học của Cửu-chân. Lam kiếm vung chưởng đỡ
lớp thứ nhất, y chỉ hơi rung động. Lớp thứ nhì đến, y biết nguy hiểm, vội vận toàn lực đỡ.
Bùng một cái, người y tuy không bị lui lại, nhưng khí huyết cũng đảo lộn. Y chưa kịp thở, thì
lớp thứ ba đã đến. Y vận đủ toàn lực đón đỡ. Lần này, toàn thân y rung động và y phải lùi lại
đến bốn bước. Chưa kịp định thần thì lớp thứ tư đã đến. Y không dám đỡ, vội nhảy vọt lên
không. Kình lực của Thế Hùng đi dưới chân y mà y cảm thấy tê dại. Khi rơi xuống đất, y vội
vận kình lực để chuẩn bị đối phó với đối thủ. Nhưng đối thủ đã khoanh tay, đứng mỉm cười,
nói: 
– Lam hiệp, tại hạ thật vô lễ. Từ ngày ra đời đến giờ, Lam hiệp là người đầu tiên đỡ được
ba chưởng của ta. Ta vì khâm phục mà ngừng lại ở đây. Tâm phục ngươi. Ngươi đấu
chưởng thì thua ta, nhưng đấu kiếm thì ta không phải đối thủ của ngươi. Thôi, ngươi đi đi, ta
không làm khó dễ ngươi đâu. 
Lam kiếm tuy thua, nhưng thấy đối phương hào sảng, lỗi lạc, lại thú nhận không phải là đối
thủ kiếm thuật với mình, bất giác y cảm phục, và tự hẹn trong tâm rằng: 
– Nếu sau này có dịp gặp, ta phải kết bạn với người này. 
Hoàng kiếm phóng về phía trước viên tướng chỉ huy đội thiết kỵ. Tên tướng này có tài chỉ
huy, nhưng võ công tầm thường nên chỉ nội một hiệp, y đã phải lùi. 
Hoàng kiếm ra khỏi vòng vây dễ dàng, nhưng khi quay lại thì không thấy Phương Dung đâu. 
Y ngẫm nghĩ: 
– Nguyễn cô nương cứu anh em ta, nay ta bỏ đi một mình, còn gì là hiệp nghĩa nữa? Ta
phải trở lại tìm cô mới được. 
Y quay trở lại thì gặp Xích kiếm đi tới. Y hỏi thăm tin tức Phương Dung. 
Xích kiếm nói: 
– Chúng ta không cần trở lại. Dù Lưu Chương có bắt Nguyễn cô nương, chắc y không dám
hại cô đâu. Chúng sẽ giữ cô nương để nhử bọn ta đến cứu và gài bẫy bắt. Nếu ta trở lại, ắt
mắc mưu nó. Bây giờ phải về Luy-lâu đem đại quân tới cứu Tô công tử và Nguyễn cô
nương sau. 
Còn Phương Dung, nàng đợi Ngũ-kiếm thoát vòng vây rồi, mới chạy ra phía đông. Gặp Lưu
Chương, nàng rút kiếm ra nói: 
– Lưu tướng quân, ta nghe ngươi là một võ lâm anh hùng Trung-nguyên. Vậy, nếu là hảo
hán, hãy xuống ngựa đấu với ta ít chiêu kiếm. 
Lưu Chương thấy nàng còn nhỏ tuổi, y có vẻ khinh thường: 
– Cô nương là ai? Tại sao lại đi chung với Ngũ-kiếm? 
Phương Dung cười: 
– Lưu tướng quân, ta thấy ngươi sắp chết, gia đình ly tán, mà ngươi không hay sao? Ngũ-kiếm là khâm sai của triều đình đã thoát. Họ sẽ về Luy-lâu mang đại quân xuống đây bắt
ngươi với Huyện-lệnh. Bấy giờ người có đến 100 cái đầu cũng bị chặt hết. Ta thương cho
ngươi mà cảnh cáo trước. 
Lưu Chương tuy làm liều theo Huyện-lệnh, nhưng trong lòng lo ngay ngáy. Bây giờ nghe
Phương Dung nói, y mới thấy sợ hãi. Nhưng trước ba quân, y không muốn tỏ vẻ nhu
nhược: 
– Ta không nói chuyện với con gái Nam-man. 
Rồi y rút đao, nhảy xuống đất, nói tiếp: 
– Mời cô nương ra tay. 
Xoẹt, xoẹt, xoẹt Phương Dung rút kiếm ra khỏi vỏ, vung lên hai cái rồi thu kiếm tra vào vỏ,
động tác cực kỳ thần tốc. Lưu Chương cảm thấy mát rượi ở cằm và đầu. Y đưa tay lên sờ,
thì râu, tóc đều bị tiện sát da thịt. Y ngây người ra không tin ở đời lại có thứ kiếm thuật như
vậy. Y chưa chịu phục nên lui lại nói: 
– Ta không đề phòng, như vậy không kể. 
Phương Dung hỏi: 
– Bây giờ ngươi đề phòng chưa? 
Lưu Chương thủ kiếm đáp: 
– Rồi. 
Ánh kiếm lấp loáng xoẹt, xoẹt, xoẹt ba tiếng nữa. Lưu Chương chỉ kịp thấy ánh bạc lấp
loáng, thì Phương Dung đã tra kiếm vào vỏ. Y thấy lạnh ở ngực, vội đưa tay lên sờ, thì áo
đã bị thủng hai lỗ tròn bằng hai chén. Mũi kiếm cắt vải tuyệt không đụng vào da thịt y chút
nào. Mặt y tái nhợt. Động tâm linh, y nhớ lại trước đây nghe nói phái võ Long-biên, có một
thứ kiếm thuật cực kỳ thần tốc, chỉ người chưởng môn mới có thể sử dụng được. Y run run
hỏi: 
– Cô nương có phải đệ tử của phái Long-biên không? 
Phương Dung thấy y nhận ra môn hộ của mình, thì cười: 
– Bây giờ tướng quân có còn muốn cản đường ta chăng? 
Lưu Chương chưa kịp trả lời, thì thấp thoáng một cái, Phương Dung đã vượt khỏi hàng
quân, chạy mất hút vào bóng đêm. 
Phương Dung chạy thẳng về trang An-biên, đã thấy đủ mặt: Lê Chân, Đào Kỳ, Phùng Vĩnh
Hoa, Đàm Ngọc Nga và Đào Thế Hùng. Nàng cúi chào mọi người rồi đưa mắt hỏi Lê Chân
về Đàm Ngọc Nga, Phùng Vĩnh Hoa. 
Lê Chân cười tủm tỉm: 
– Tất cả kế hoạch chị đã an bài. Biết rằng sau khi cứu Ngũ-kiếm, em sẽ trở về huyện
đường, nên chị cho Vĩnh Hoa đến huyện đường xin yết kiến Huyện lệnh, xin tội cho cha. Khi
Huyện-lệnh làm khó dễ nàng, nàng nhân đó tố cáo tội lỗi của y để cho lính tráng, lại thuộc
biết âm mưu của Huyện lệnh, hầu sau này Đào lão bá dễ kiềm chế y. Có điều, Vĩnh Hoa
phải đóng vai người không biết võ, hầu qua mắt Ngũ-kiếm. Sau đó, chị cho Ngọc Nga xuất
hiện, làm thân với Ngũ-kiếm, hầu sau này kéo y theo mình. 
Phùng Vĩnh Hoa buồn bã: 
– Bố em đã chuẩn bị cả rồi. Bao nhiêu tiền bạc, châu báu đều mang theo. Bây giờ, em theo
bố lên huyện Yên-lạc lập nghiệp. Đó là quê mẹ của em. Ông ngoại em vừa mất nên trang
Tiên-nha không người trông coi. Em tới đấy sẽ huấn luyện tráng đinh, tích trữ lương thảo,
chờ ngày khởi nghĩa. Còn chị Lê Chân, chị nổi danh là Đông-triều nữ hiệp, khắp vùng ai
cũng phục. Chị nên bỏ nghề đánh cá, bỏ bán quán, dành thời giờ để chiêu mộ sĩ tốt, nuôi
ngựa, tích trữ lương thảo. Nếu không làm ngay, khi cuộc khởi nghĩa bùng lên, em sợ không
kịp đâu. Phàm làm tướng phải lo xa tính trước cho vạn người. Biết những việc người
thường không biết được. Nay chị đi đánh cá, bán hàng, đó là những việc ai mà chả làm
được? 
Lê Chân nói: 
– Em thực là người mưu lược hơn đời, nhìn xa thấy rộng, chị biết lỗi rồi. Từ nay chị xin nghe
lời em. 
Nguyệt-điện Đàm Ngọc Nga hỏi: 
– Vĩnh Hoa, nếu sau này khởi nghĩa, chị xin làm tiền đạo tướng quân đánh giặc, còn em,
ngồi trong màn mà quyết thắng ngoài ngàn dặm, em phải làm quân sư mới đúng. Chị Lê
Chân sẽ khởi binh ở vùng biển này đánh quặt lên phía Bắc, chặn đường về của giặc. Bây
giờ chị trở về huyện Thanh-hóa vùng Đà-giang hạ để thu thập 36 động, nuôi ngựa, tích trữ
lương thảo. 
Đào Thế Hùng nói với Vĩnh Hoa: 
– Ta tuy già, nhưng mưu lược không bằng cháu. Hôm qua ta nghe lời Lê Chân mà làm, nay
ta muốn cháu cho ta lời khuyên. 
Vĩnh Hoa đứng dậy, chắp tay thưa: 
– Lão bá trở về huyện ngay. Lão bá giúp Huyện-lệnh cử người phi ngựa ngày đêm về Luy-lâu cáo với Thái-thú Tô Định rằng Ngũ-phương kiếm đã giết Tô Phương, đoạt vàng bạc theo
bọn tạo phản. Ở đời, lời nói đầu tiên bao giờ cũng là lời nói mạnh nhất. Lão bá nhân đó nắm
lấy binh quyền ở Đăng-châu. Lựa con cháu, đệ tử giỏi võ xung vào quân ngũ, nhất là tổ
chức đạo quân của các trang ấp. Khi khởi sự, chỉ việc thí cho Huyện lệnh một kiếm, hô một
tiếng, con em nằm trong quân ngũ, các trang ấp là người của ta. Bấy giờ lão bá dẫn đội
quân Đăng-châu tiến đánh Long-biên, rồi đánh tập hậu Luy-lâu. Chủ lực chính là lão bá đó.
Có điều, những gì chuẩn bị, dù cho con đẻ, dù cho đệ tử, cũng không nên tiết lộ, rất nguy
hiểm. 
Nàng quay lại nói với Đào Kỳ, Phương Dung: 
– Hiện nay võ công hai em là đệ nhất Lĩnh-nam, phá âm mưu đại hội Tây-hồ của Tô Định,
ngoài hai em, không ai làm nổi. Hai em hãy đuổi theo Ngũ-kiếm để đi cùng với họ. Ngũ-kiếm
về đến Luy-lâu ắt ra mắt Tô Định. Nhưng Tô đã được tin báo của huyện lệnh Trương Thanh
rằng Ngũ-kiếm làm phản, sẽ sinh nghi ngờ. Nay họ đi với hai em nữa, tất Tô Định sẽ tin lời
Trương Thanh. Bấy giờ hai em chờ Ngũ-kiếm cùng đường mới ra tay cứu vớt. Như vậy
chúng ta gây cho Ngũ-kiếm có thành kiến với bọn quan lại người Hán toàn một thứ lưu
manh. Y tất tâu về triều đình rằng những việc làm của Lĩnh-nam công là đúng.

Đã hơn mười năm, chú cháu Đào Thế Hùng mới gặp nhau. Nhớ nhung chồng chất như núi,
tình thương như biển. Thời bấy giờ, tình nhân luân chú cháu, anh em rất nặng. Cho nên khi
Thế Hùng dẫn các con và đệ tử ra Bắc lập nghiệp, hằng ngày, ông và các con luôn nhắc đến
anh, đến các cháu ở quê nhà. Còn Đào Kỳ, khi gặp lại ba người em họ: Hiển Hiệu, Quý
Minh và Phương Dung, nỗi mừng kể sao cho xiết? 
Thuở bé, chàng cùng các em họ ở chung một nhà, nô đùa, tập võ với nhau. Chàng thường
cùng các em dạo chơi đảo Nghi-sơn, lên núi Biện-sơn hái trái cây. Từ khi các em theo chú
ra Bắc, chàng cảm thấy như thiếu thốn một cái gì trong đời. Hàng ngày, cha mẹ chàng cứ
nhắc tới người chú này luôn. Còn các anh chàng cũng hay nhắc đến những kỷ niệm vui đùa
với các em họ. Cho nên trong thời gian mười năm xa cách, lúc nào Đào Kỳ cũng nhớ đến
chú thím, nhớ đến ba người em họ. Hôm nay, trong hoàn cảnh bèo nước gặp nhau, kể sao
cho xiết nỗi vui mừng? Đào Kỳ gặp các em, chàng mới thấy con người ta có hai thứ tình:
Tình nhân luân, là cha con, anh em và tình yêu nam nữ. Trước kia xa chú, chàng nhớ
nhung, nhưng sự nhớ nhung đó nhẹ nhàng, dài dằng dặc. Khi xa cha mẹ, các anh, chàng
cũng thấy nhớ như vậy mà thôi. Khi xa sư tỷ Thiều Hoa, chàng vừa thấy cái nhớ nhung
giống như nhớ bố mẹ, kèm theo cái nhớ nhung đối với các anh chàng. Sau này gặp Tường
Quy, chàng thấy cái nhớ nhung mãnh liệt, rung động khắp người. Có khi chân tay chàng bải
hoải, đầu óc mơ hồ. 
Đào Thế Hùng nói: 
– Lâu ngày chú cháu không gặp nhau. Cháu với Nguyễn cô nương về trang ấp của chú ở
mấy ngày đã. Thím vẫn nhắc đến cháu luôn. Bây giờ võ công cháu cao như vậy, cháu nên
dạy cho các em, để khi khởi binh, còn dùng để đuổi giặc. Giòng giống họ Đào mà không
nghĩ đến đuổi giặc thì thà làm trâu, làm chó còn ích lợi hơn. 
Nghe chú nói, Đào Kỳ mới thấm thía trong lòng: 
– Người đời thường ca tụng cha, chú, cậu ta là hào kiệt có hùng tâm, tráng khí thực quả
đúng. Cha và cậu ta thì ta thấy bất cứ việc làm gì cũng hướng về phản Hán, phục Việt. Còn
chú ta... lưu lạc ra Bắc mười năm, thân phải làm Huyện-úy cho giặc mà tấc lòng son đối với
đất Lĩnh Nam vẫn không bao giờ nguôi. 
Dọc đường về trang của chú, Đào Kỳ, Phương-Dung ríu rít chuyện trò với ba người em họ.
Trang của Đào Thế Hùng tên là Hiển Minh. Chữ Hiển Minh ghép tên của hai con ông là Hiển
Hiệu và Quý Minh. Khi ông rời Cửu-chân, chỉ dẩn theo có trên trăm tráng đinh và đệ tử. Tới
Cổ-loa, ông tìm đất hoang để lập ấp, thì đất hoang không còn. Ông bàn cùng vợ, lên Đăng-châu đất rộng, người thưa, tai mắt của giặc không mấy chú ý. Ông tìm đến địa điểm nầy,
cùng gia nhân, đệ tử phá hoang lập ấp. Với chủ tâm phục quốc trong lòng, ông đi chiêu tập
dân chúng phiêu bạt sống rải rác các nơi về ấp. Ông chiêu nạp những người chống Hán,
thất thế sa cơ, những người bị Hán đàn áp, những người trốn không chịu đi lính Hán sang
Trung-nguyên đánh nhau. Chẳng bao lâu, dân đinh trong trang của ông đã lên tới trên hai
ngàn người. 
Thái-thú Tích Quang thấy thế lực của ông mạnh, uy tín lên cao, mời ông ra làm Huyện-úy.
Là người đọc sách, ông biết lẽ tiến, thoái, nên nhận lời ra làm quan. Ông nghĩ: với uy tín của
ông, không ai có thể nghi ông làm tôi mọi cho người Hán. Là Huyện-úy, nắm binh quyền
trong tay, ông có nhiều cơ hội giúp đỡ dân chúng. Chứ nếu ông chống lại, Tích Quang sẽ
phá trang ấp của ông ngay. Đến trang, Đào Kỳ xuống ngựa, gặp vợ Đào Thế Hùng, chàng
hành đại lễ: 
– Cháu là Đào Kỳ xin kính cẩn chào thím. Chúc thím được vạn sự nguyện đắc như sở cầu. 
Bà Đào Thế Hùng là một mẫu phụ nữ hiền thục, không biết võ nghệ. Bà chỉ biết có việc
chăm lo nội trợ. Nghe chồng con nói tìm được đứa cháu thì mừng lắm. Bây giờ thấy Đào Kỳ
thành người lớn, dùng đại lễ kính bà, bà nắm tay cháu: 
– Cháu đứng dậy đi. 
Bà lo dọn cơm đãi Đào Kỳ. Khi thấy Phương Dung đi theo bèn hỏi: 
– À, cháu lấy vợ rồi đấy à? Vợ cháu đẹp quá nhỉ? Vợ cháu quê ở đâu? Bao nhiêu tuổi? 
Phương Dung ngượng quá, cúi đầu xuống, chưa biết trả lời sao, thì Đào Kỳ đã đỡ lời: 
– Thưa thím, đây là Nguyễn Phương Dung sư muội. 
Đào Hiển Hiệu ngạc nhiên: 
– Hồi nãy em thấy Nguyễn cô nương sử dụng kiếm pháp Long-biên đến chỗ tuyệt kỹ. Em
nghĩ, dù bố em gặp kiếm pháp đó cũng đành chịu thua... Nhưng sao cô nương lại là người
của phái Cửu-chân ta? 
Đào Kỳ cười: 
– Để anh nói cho mà nghe. Nguyễn cô nương là sư muội của anh, nhưng không phải là đệ
tử phái Cửu-chân. Anh được một vị cao nhân phái Long-biên dạy cho kiếm pháp, thì Nguyễn
cô nương là sư muội của anh. 
Rồi chàng tỉ mỉ thuật hết tất cả những gì đã gặp từ khi xảy ra trận đánh cảng Bắc. Nhưng
chàng dấu chuyện gặp Tường Quy. 
Đào Phương Dung và Đào Kỳ bằng tuổi nhau, thuở nhỏ thường chơi thân với nhau, nên
nàng không tỵ hiềm, nói với cha: 
– Bố ơi! Luật lệ trong vũ lâm Lĩnh Nam có cấm sư huynh, sư muội lấy nhau không? Phái
Cửu-chân nhà ta có cấm như vậy không? 
Thế Hùng lắc đầu: 
– Trong các phái võ chỉ cấm những người trên, dưới vai như sư thúc với sư điệt không
được lấy nhau mà thôi. Phái Cửu-chân nhà ta còn khuyến khích sư huynh, sư muội lấy nhau
là khác. Như bác trai, bác gái con chả là sư huynh, sư muội là gì đó? 
Đào Phương Dung vỗ tay: 
– Bố ơi! Hai bác không biết bây giờ ở đâu? Vậy bố đứng ra hỏi Nguyễn cô nương cho anh
Kỳ đi, rồi làm lễ cưới. Nhà mình sẽ có thêm nàng dâu đẹp như tiên nga, kiếm pháp thần
thông mưu trí tuyệt vời. 
Đào Phương Dung là cô gái học võ, được nuông chiều, tính tình tự nhiên, nghĩ sao nói vậy.
Lời đề nghị của nàng làm Nguyễn Phương Dung ngượng quá, không biết trốn vào đâu cho
thoát. 
Bà Đào Thế Hùng cũng nói: 
– Ừ, cháu cũng đã lớn rồi, bố mẹ cháu hiện không biết ở đâu. Thôi, chú thím đứng hỏi
Nguyễn cô nương cho cháu, để trên đường xuôi ngược, vợ chồng bên nhau. Chứ cháu tuy
là sư huynh của Nguyễn cô nương, mà hai người cứ đi với nhau như vậy, thì còn ra... thể
thống gì nữa? À, thế song thân Nguyễn cô nương là ai? 
Đào Kỳ tường thuật tỉ mỉ tất cả những điều chàng đã trải qua cho chú thím với các em nghe.
Đào Thế Hùng bảo cháu: 
– À, thì ra Nguyễn cô nương là con nhà danh gia, Nguyễn Trát với chú là chỗ giao tình rất
hậu. Năm xưa, chú đã đấu với ông trên trăm chưởng. 
Từ lúc đến trang, Phương Dung bị hết cô em họ của Đào Kỳ đến bà Thế Hùng tấn công
không đường thoát, bây giờ thấy có chỗ tránh né, nàng đánh trống lảng: 
– Thưa chú, thế cuộc đấu đó ai thắng, ai bại? 
Đào Phương Dung reo: 
– Đấy nhé, chị đã gọi bố em bằng chú, tức là xong rồi nghe. 
Suốt đời Nguyễn Phương Dung chuyên tìm chỗ sơ hở của lời nói người ta mà tấn công. Nay
nàng bị Đào Phương Dung dồn vào chân tường, đành ngồi chết trân. Nàng nghĩ thầm: 
– Cái cô em này dồn mình vào chỗ dẫy không nổi rồi. Không biết cô này đã thôi chưa đây? 
Đào Thế Hùng nói: 
– Chúng ta ước hẹn đấu đến 120 chiêu thì thôi, vì vậy, không ai thắng, không ai bại. Thời
gian qua mau thực, mới hôm nào đây, mà nay tóc chúng ta đã bạc hết rồi. Việc phục quốc
thì chưa đi đến đâu cả. 
Ngừng một lát, ông tiếp: 
– Sau khi đi Mê-linh về, cháu phải đào kho tàng tại đền thờ Hùng-vương ngay. Biết đâu, một
ngày kia, chẳng bị người ta vô tình đào lên lấy mất. Cháu đem kho tàng về Cối-giang cất để
dùng vào việc khởi nghĩa. Còn vụ cháu với Phương Dung, chú khuyên cháu nên tiến hành
sớm thì tốt hơn. 
Tối hôm đó, Đào Kỳ dẫn các em đến giảng võ đường thao luyện. Chàng bắt các em biểu
diễn cho xem để biết trình độ đến đâu. Chàng thấy bản lĩnh Đào Phương Dung ngang với
sư tỷ Thiều Hoa của chàng. Còn Hiển Hiệu và Qúy Minh thì không kém gì nhị sư huynh. Đầu
tiên, chàng đem nội công dương cương của gậy đồng ra giảng rất kỹ cho ba người luyện
tập. Chàng giảng giải tới khuya mới ngừng. 
Chợt nhớ ra điều gì, chàng hỏi Hiển Hiệu: 
– Anh có một điều thắc mắc. Hôm qua trên tửu lầu, Trương Minh Đức sử dụng mấy chiêu
của họ Đào nhà ta. Vậy hắn có phải là đệ tử của trang mình hay không? 
Hiển Hiện lắc đầu: 
– Huyện-lệnh xin bố em dạy võ cho hắn. Nhưng hắn chỉ mải trác táng nên tuy có tập mà
chẳng thu được kết quả nào. Hắn lại mới cưới vợ. 
Tim Đào Kỳ nhói lên. Chàng nghĩ đến Tường Quy: 
– Hắn cưới vợ lâu chưa? 
Đào Phương Dung là gái, hay tò mò chuyện yêu thương, vợ chồng, nên nàng biết rất tận
tường, trả lời: 
– Vợ hắn là con của Huyện-úy Bắc-đái Chu Bá. Tức cháu ngoại của nhân vật lừng danh võ
lâm Lê Đạo Sinh. Nàng tên là Tường Quy. Võ công cũng không thua gì em. Nhan sắc thì
thực là tiên nga giáng trần. Dù cho Mỵ Nương, Mỵ Châu tái sinh cũng không bằng. Nàng
đàn ngọt, hát hay. Nhưng từ khi làm vợ Minh Đức, thì không được vui vẻ, suốt ngày ủ rũ.
Em thường vào dinh Huyện-lệnh chơi với nàng. Em có hỏi tại sao, nàng không trả lời. 
Khi Đào Kỳ nói chuyện với Đào Phương Dung, thì Nguyễn Phương Dung ngồi cạnh. Nàng
đã biết mối tình của Đào Kỳ với Tường Quy. Biết chàng chưa quên được Tường Quy, nàng
nghĩ thầm: 
– Ta không trách Đào lang được. Chàng đã gặp Tường Quy trước khi gặp ta là điều thứ
nhất. Điều thứ nhì, Tường Quy là người ôn nhu, văn nhã, thuần hậu hơn ta, tuy võ công
nàng thua ta. Mẹ ta chả từng nói rằng trai gái mới lớn, thì mối tình chớm nở lần đầu bao giờ
cũng làm người ta say đắm nhưng rồi mau quên. 
Đào Phương Dung là cô gái rất thông minh, lại gần Đào Kỳ từ nhỏ, nên cô biết rõ người anh
họ mình hơn hết. Nàng thấy Đào Kỳ chú ý đặc biệt đến Tường Quy, nét mặt, hơi thở thay
đổi theo lời tường thuật của mình thì nghĩ: 
– Anh ta kể rằng đã ở Thái-hà trang của Lê Đạo Sinh. Tường Quy là cháu ngoại Lê Đạo
Sinh, biết đâu hai người đã chả từng gặp nhau? Ta phải dò cho ra manh mối vụ này mới
được. 
Nghĩ thế, nàng tiếp: 
– Tường Quy thường ưa ra cửa sổ nhìn trăng đánh đàn. Dường như nàng có mối ẩn tình
câm nín thì phải. 
Câu nói này làm Đào Kỳ như mê như tỉnh. Bất giác, chàng buông tiếng thở dài não nuột.
Tiếng thở dài đó cả hai nàng Phương Dung cùng nghe, nhưng tâm tư họ khác nhau. 
Đối với Nguyễn Phương Dung, từ khi mới gặp Đào Kỳ, nàng đã cảm thấy xao xuyến trong
lòng. Rồi Đào Kỳ luyện võ cho nàng trong suốt một năm. Hai người ở bên sông, vừa luyện
võ, vừa ngắm trời nước mênh mông. Dần dần nàng yêu Đào Kỳ lúc nào không biết. Trai
cũng như gái, ở bất cứ thời đại nào, nơi nào, mối tình đầu bao giờ cũng dễ đến. Cái thuở
ban đầu đó mãnh liệt vô cùng. Còn Đào Kỳ thì chỉ coi nàng như một cô em gái. Chàng đem
tất cả những đau khổ của mối tình tuyệt vọng ra than thở với Phương Dung. Phương Dung
tuy yêu thương chàng, nhưng đành câm nín, không dám thổ lộ ra ngoài. Nàng là người
thông minh, tự nghĩ: 
– Dần dần chàng sẽ quên Tường Quy và nghĩ đến ta. 
Giờ đây, nghe cô em họ nói đến Tường Quy, chàng thở dài não nuột, thì Phương Dung biết
rằng hình bóng Tường Quy đã ăn sâu vào tâm tư Đào Kỳ, thật khó phai mờ đi được. Mấy
hôm trước, ông bà Đào Thế Hùng ngỏ ý sẽ về Long-biên hỏi nàng cho Đào Kỳ, nàng cảm
động, mừng vô hạn. Nhưng bây giờ nàng mới thấy: Muốn xóa bỏ hình bóng Tường Quy thật
không phải dễ. 
Trời về khuya, Đào Thế Hùng dục các con, các cháu đi ngủ. Đào Kỳ về phòng, để nguyên
quần áo, nằm vật xuống giường, ôm đầu mà khóc. Chàng tự biết mình khóc là thiếu vẻ anh
hùng, nhưng chàng không thể nào cầm được nước mắt. Nước mắt tuôn ra không ngừng.
Mãi về khuya, mối ẩn ức mới nhẹ đi đôi chút. Chàng nghĩ: 
– Ta phải đi thăm nàng. Ta chỉ cần được nhìn nàng một lúc cũng đủ thỏa mãn rồi. Huyện
Đăng-châu này có chú ta là cao thủ, lại ở riêng. Ta lọt vào dinh Huyện lệnh thăm nàng, dù ta
bị muôn ngàn mũi tên của giặc bắn vào người mà được nhìn nàng một cái cũng thỏa lòng. 
Nghĩ rồi, chàng lấy khăn bị mặt lại, đeo kiếm vào lưng, rồi theo cửa ngách của trang, hướng
về huyện đường. Từ trang Hiển Minh đến huyện đường không xa. Đứng ngoài nhìn vào dinh
huyện lệnh, nhờ bóng trăng dọi xuống, chàng thấy hai chòi canh của quân Hán. Nhún người
một cái, chàng nhảy vào trong hàng rào. Tên quân Hán thấy thấp thoáng có bóng đen trước
mặt, hắn cho rằng hoa mắt, đưa tay lên dụi, thì Đào Kỳ đã chạy qua. Chàng nhảy lên nóc
huyện đường, rồi móc hai chân vào mái ngói, đu người xuống cửa sổ, nhìn vào trong: Đó là
một căn phòng trang trí cực kỳ hoa mỹ, nhưng không có ai trong đó. Chàng buông chân, vọt
vào phòng. Chợt có tiếng chân người đi vào. Chàng vội núp sau một cái tủ. Người đi vào là
một thiếu nữ người Việt, mặc quần áo theo lối nô tỳ, cô bưng một dĩa trái cây để lên bàn,
châm lửa đốt trầm cho vào lư hương. Có tiếng nói từ phòng bên vọng qua: 
– Ninh ơi, công tử đã về chưa? 
Tim Đào Kỳ đập loạn lên. Chàng đã nhận ra tiếng nói đó là của Tường Quy. 
Người nữ tỳ đáp: 
– Thưa mợ, công tử đang bận việc với quan, không biết giờ nào mới xong. 
Tiếng Tường Quy nói: 
– Thôi, ngươi đi ngủ đi. 
Người nữ tỳ lau cái án thư rồi ra khỏi phòng. Cánh cửa phòng bên cạnh mở ra, Tường Quy
thẫn thờ bước vào. Nàng mặc bộ quần áo lụa màu thiên thanh, trên ngực có thêu nhánh đào
rực rỡ. 
Đào Kỳ bủn rủn cả chân tay, ngẫm nghĩ: 
– Không lẽ vì nàng nhớ đến ta mà thêu cành đào trên áo? 
Tường Quy đến bên cửa sổ, nhìn lơ đãng về phương trời xa, cất tiếng hát khe khẽ: 
Thanh thanh tử khâm, 
Du du ngã tâm, 
Túng ngã bất vãng, 
Tử ninh bất tự âm. 
Thanh thanh tử bội, 
Du du nga tư, 
Túng ngã bất vãng, 
Tử ninh bất lai. 
Yểu hề, đạt hề, 
Tại thành khuyết hề, 
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề! 
(Tà áo xanh xanh, em nhớ anh không nguôi. Em không đến thăm anh được, tại sao anh
không gửi thư thăm em? Chiếc khăn xanh xanh, làm em nhớ anh buồn dằng dặc. Em không
tới thăm anh được. Tại sao anh không đến thăm em? Một mình em ngồi, lòng bồi hồi nhớ
anh. Em chỉ thấy bóng mình theo mình mà thôi. Em ngồi trong cửa thành đã mòn mỏi. Một
ngày không gặp anh, dài bằng ba thu). 
Đào Kỳ biết bài ca trên là bài Tử khâm trong kinh Thi, nghĩa là Tà áo của anh. 
Tường Quy mơ màng nhìn trăng, cất tiếng ngâm sa mạc: 
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, 
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai? 
Anh ơi, chua ngọt đã từng, 
Non xanh, đất đỏ, xin đừng quên nhau. 
Tiếng ngâm của nàng dài lê thê, bay vào không gian. Dưới ánh trăng, Đào Kỳ thấy những
giọt lệ tuôn rơi xuống hai gò má. Nàng lấy ống tiêu đưa lên miệng thổi. Tiếng tiêu lên cao tít
tận mây mờ, bay vào trong đêm trăng, tạo thêm vẻ thảm não. Đào Kỳ nhận ra đó là bài Cổ
Loa di hận. Bản này chàng đã nghe Chu Thổ Quan thổi hôm chàng cùng Tường Quy, Minh
Châu đi thăm cố đô Cổ-loa. Có điều tiếng sáo của Tường Quy thổi trong đêm trăng, giọng
thảm não hơn nhiều. Đào Kỳ không tự chủ được nữa, chàng lột khăn bịt mặt ra, thẫn thờ tới
trước mặt nàng ngồi xuống. 
Tường Quy xuất thần theo tiếng tiêu, đắm chìm vào mối tình xa xưa, đến nỗi Đào Kỳ tiến ra
ngồi đó, nàng cũng không hay. 
Điệu sáo ngưng, nước mắt nàng rơi từng giọt trên gò má. Nàng ngửng đầu lên, thấy Đào Kỳ
ngồi trước mặt, thì cho rằng mình đang sống trong mơ. Nàng không dám chớp mắt, vì sợ
nếu chớp mắt, hình ảnh Đào Kỳ sẽ biến đi mất. Nàng than: 
– Anh ơi! Từ khi gặp gỡ ở trang Thái-hà, chúng mình du ngoạn cố đô Aâu-lạc, em đã mơ
màng được cùng anh trăm năm chữ đồng. Tại sao em lại sinh vào gia đình người Việt. Cha
mẹ dạy em hận thù người Hán, khinh ghét Mỵ Châu, rồi lại bắt em làm một Mỵ Châu? Tại
sao ông ngoại lại cho em mượn du thuyền của người, để chúng mình chơi trăng trên sông?
Đêm trăng trên sông Hồng-hà ấy, chúng mình đã yêu nhau. Em đánh đàn cho anh nghe. Để
rồi mấy ngày sau anh bỏ đi, chỉ để lại cho em mấy chữ. Từ hôm lấy chồng, em vẫn dành tình
yêu cho anh. Em ước mơ một ngày nào đó, em được gặp lại anh một lần, dù chỉ trong giấc
mơ. Hôm nay, trong giấc mơ, em đã toại nguyện. Nhưng tình trong giấc mộng, muôn ngàn
vẫn là không. 
Nàng đến ngồi bên Đào Kỳ, ngả đầu vào vai chàng mà khóc. Đào Kỳ như bay bổng lên cao,
chập chờn, mơ mơ, tỉnh tỉnh. Nước mắt Tường Quy nhỏ xuống cánh tay. Chàng đưa cánh
tay lên miệng hớp lấy giọt nước mắt đó. 
Bỗng những tư tưởng, ý thức trong sách Đại-học, Trung-ung, Luận-ngữ, Mạnh-tử trở về với
chàng. Chàng nghĩ: 
– Tường Quy đã có chồng. Ta có thể để cho nàng ô danh, thất tiết được không? Ta là con
trai của một Lạc- hầu, chưởng môn phái Cửu-chân, ta có thể nào đi tình tự với vợ một tên
Hán dốt nát, yếu hèn không? 
Chàng định đẩy Tường Quy ra, nhưng giọt nước mắt thứ nhì lại nhỏ xuống tay chàng.
Chàng đưa hai tay bế nàng lên, ôm chặt trong lòng, tự bào chữa cho hành động của mình: 
– Nàng với ta yêu thương nhau, thì ta là chồng nàng. Tên Trương Minh Đức là Hán tặc, đến
cướp đất nước ta, cướp cả người yêu của ta. Chỉ ta mới xứng đáng được hưởng mối nhu
tình của nàng. 
Trong đầu óc chàng lóe lên ý tưởng: 
– Bây giờ ta bồng nàng trở về Long-biên, đào kho vàng cất dấu ở đền Hùng, rồi tìm một nơi
xa xôi ẩn thân, hưởng diễm phúc bên nàng, thì thực là thần tiên. 
Nhưng hình ảnh cô bé Tía và mẹ bị quân Hán bắt giết giữa chợ Long-biên lại hiện lên. Hình
ảnh những đoàn người Việt bị bắt làm lao binh sang Trung- nguyên, vợ con, cha mẹ tiễn lên
đường khóc lóc thảm thiết, nhảy múa trước mắt chàng. Chàng nghe văng vẳng tiếng cha
nói: 
– Là con dân Âu-lạc, nếu một ngày quên phục quốc, thì thà làm chó, lợn còn ích lợi hơn. 
Hai giòng tư tưởng đối nghịch nhau làm đầu óc chàng mê đi, mà hai tay chàng vẫn ôm chặt
tấm thân mềm mại của Tường Quy. 
Cứ như vậy, hai người, hai cơ thể, mà hồn hòa lẫn với nhau trong giấc mộng dài. Không biết
thời gian đã trôi qua được bao lâu. Bỗng có nhiều tiếng nhạc ngựa vọng từ sân lên, rồi có
tiếng người nói: 
– Huyện lệnh đại nhân và công tử đã về. 
Tường Quy giật mình tỉnh giấc vu sơn. Nàng ngước mắt nhìn Đào Kỳ. Bấy giờ nàng mới biết
rằng Đào Kỳ đến thăm nàng thực chứ không phải giấc mơ. 
Đào Kỳ định phóng mình qua cửa trốn chạy. Nhưng chàng nghĩ lại: 
– Đất nước này là đất nước Văn-lang, đất nước Âu-lạc. Ta đường đường là một đấng nam
tử người Việt, tại sao phải trốn chạy trước kẻ thù người Hán? Võ công chúng muôn ngàn lần
không bằng ta. Tường Quy thương yêu ta thì nàng là vợ ta. Việc gì ta phải trốn? Ta cứ hiên
ngang ngồi đây. Cha con tên Trương Minh Đức vào thì ta phóng chưởng giết chết chúng. Ta
há sợ bọn Hán cướp nước sao? 
Trong khi đó, Tường Quy lo sợ cuống quýt: 
– Anh! Anh mau vượt cửa sổ trốn đi. Em những tưởng là giấc mơ, không ngờ là anh thực.
Anh ơi, em là gái có chồng, muôn ngàn lần chúng ta không thể thành vợ chồng được nữa.
Anh đi đi! 
Đào Kỳ hiên ngang nói: 
– Anh không đi đâu hết. Đây là đất nước Âu-lạc, em là người anh yêu. Anh cứ ở đây. Anh
mới chính là chồng em và em là vợ anh. Anh phải giết chết tên Huyện lệnh, chiếm huyện
này rồi đánh thẳng lên Luy-lâu, lập lại nước Âu-lạc. 
Có tiếng gõ cửa, rồi giọng Trương Minh Đức kêu: 
– Phu nhân! Mở cửa cho ta, sao lại đóng cửa như vậy? 
Đào Kỳ ôm chặt Tường Quy vào ngực, đặt lên môi nàng một cái hôn. Cả hai đắm chìm vào
cơn ảo mộng. 
Trương Minh Đức lại gọi: 
– Phu nhân! Mở cửa mau. Làm gì mà không lên tiếng vậy? 
Tường Quy bị Đào Kỳ ôm chặt, hai môi dính vào nhau. Đừng nói tiếng gọi của chồng, chứ
tiếng sét đánh nàng cũng không nghe thấy nữa. 
Đức gọi cửa không được, y tức mình, ghé vai huých một cái. Then cửa gãy lìa. Y mở cửa
bước vào. Tường Quy hất Đào Kỳ ra quát lên: 
– Ngươi là ai? Vào đây định làm gì? 
Trương Minh Đức nhận được mặt Đào Kỳ, gã kêu lên: 
– Thằng Nam-man này đi với thằng Tô Phương và Ngũ-phương kiếm. Phải bắt lấy nó. 
Trương Minh Đức nhảy tới, vung quyền đánh vào mặt Đào Kỳ. Chàng nhận ra đó là thế
quyền của phái Cửu-chân. Thấy công lực Minh Đức tầm thường, chàng không thèm tránh
né, chỉ vận công chịu đòn. Chát một tiếng, Trương Minh Đức ôm tay nhăn nhó, y có cảm
tưởng như vừa đấm vào một bức tường bằng đá. 
Thấy Đào Kỳ vẫn đứng yên, cho rằng có sự gì lạ, y vội kêu lên: 
– Phu nhân! Phóng chưởng đánh nó mau. Kiếm đây, giết nó đi! 
Tay trái Tường Quy tiếp kiếm, tay phải phóng chưởng đánh vào mặt Đào Kỳ. Chưởng lực
của nàng khá hùng hậu. Đào Kỳ không tin Tường Quy đánh mình thực. Chàng không vận
công chịu đòn, cũng không đỡ. Binh một tiếng, chàng bị hất tung vào tường. Người chàng
lảo đảo, rồi khạc ra một tiếng, nhổ ra một búng máu tươi. 
Trương Minh Đức kêu: 
– Dùng kiếm đâm nó mau. 
Tường Quy thấy Đào Kỳ không đỡ, không tránh, không vận công chịu đòn, khi thấy Đào Kỳ
thổ máu tươi, thì vô cùng ái ngại: 
– Ngươi là ai? Mau chạy đi, nếu không, đừng trách kiếm ta không sắc. 
Tường Quy đưa mũi kiếm chênh chếch hướng vào ngực Đào Kỳ đâm một nhát. Từ lúc bị
chưởng lực của Tường Quy đánh trúng. Đào Kỳ cảm thấy như trời long đất lở, chàng không
đau vì chưởng mà đau vì tình: 
– Thì ra nàng vẫn coi trọng chồng hơn ta. Chồng nàng bảo nàng đánh ta, giết ta, nàng cũng
làm theo. Đã vậy, ta để nàng giết ta cho vừa lòng chồng. Ta cũng không thiết sống nữa. 
Mũi kiếm đã tới trước ngực, Đào Kỳ vẫn không tránh. Tường Quy hoảng hốt đẩy xéo đi.
Xoẹt một tiếng, mũi kiếm đâm vào ngực phải chàng. Máu tươi phun ra đầy áo. 
Trương Minh Đức hô: 
– Đừng giết y, hãy bắt sống. 
Mấy tên quân Hán ở ngoài chạy vào phòng. Chúng ùa đến bắt Đào Kỳ. Vết thương ở ngực
làm chàng điên tiết: 
– Mấy tên Hán thối tha kia. Tường Quy là người yêu của ta, nàng có quyền giết ta, đánh ta.
Còn bọn mi, muốn bắt ta còn khó hơn bắc thang lên trời. 
Chàng vận chưởng phóng về phía trước. Bùng một tiếng, bốn tên quân Hán văng vào
tường, miệng phun máu có vòi. Thuận tay, chàng phóng một chưởng nữa về phía Trương
Minh Đức. Tường Quy hô: 
– Không được hại chồng ta! 
Nàng vung chưởng đỡ. Đào Kỳ thấy chưởng của mình mạnh quá, nếu để nàng đỡ trúng, thế
nào cũng bị gãy tay hoặc thiệt mạng. Chàng vội thu chưởng về, đẩy xéo sang một bên. Bình
một tiếng, cánh cửa sổ bị bay ra xa, rơi xuống đất, kêu lên một tiếng lớn. 
Chàng nhảy vèo đến, tay trái cặp Tường Quy vào nách, vượt cửa sổ ra ngoài. Phía ngoài,
lính Hán bao vây chặt như nêm, nhưng chúng không dám bắn tên vì sợ trúng Tường Quy. 
Lưu Chương đứng giữa bọn binh Hán. Y nhận ra Đào Kỳ là người đi với Ngũ-phương kiếm.
Y cho rằng chàng vào đây bắt huyện lệnh để đòi thả Tô Phương. Y bảo Đào Kỳ: 
– Ngươi đi cùng bọn Ngũ-phương kiếm thì đúng là bọn phản nghịch. Nếu ngươi là anh hùng
hảo hán, hãy để phu nhân của công tử xuống. Chúng ta đấu mấy trăm chưởng. Chứ thân là
anh hùng lại đi uy hiếp một nữ nhân, thực là hèn hạ. 
Uất khí làm Đào Kỳ nổi máu hung. Chàng hít một hơi dài, vận đủ mười thành công lực,
phóng chiêu Ác ngưu nan độ, một chiêu cương mãnh nhất của Phục ngưu thần chưởng. 
Lưu Chưởng kinh lịch nhiều. Y thấy chưởng lực ác liệt, chiêu số kỳ diệu, chưởng phong vừa
chụp xuống người thì y biết ngay là nguy rồi. Y vận hết sức, đưa hai tay lên đỡ chưởng của
Đào Kỳ. Binh một tiếng lớn, người y bị bật lên cao, lưng đập vào một cây lớn trong sân
huyện đường, rơi xuống. Y dãy dụa mấy cái, rồi nằm luôn. 
Đào Kỳ định tìm đường chạy, chợt chàng cảm thấy đau nhói trên vai, như bị ai đâm bằng
dao. Chàng bắt dao, thì ra Tường Quy đã đâm chàng. Kinh lực trên tay bị mất, chàng để
Tường Quy tuột xuống đất. 
Vừa đứng xuống đất xong, Tường Quy đã dùng dao tấn công chàng. Đám quân Hán thấy
chàng đã bị thương nặng nên chúng ào vào ôm chặt lấy chàng rồi trói lại. 
Thình lình, một bóng đen từ nóc nhà nhảy xuống, vung kiếm lên như sao sa. Mỗi lần vung
lên là đầu một tên quân Hán rơi xuống. Vòng vây đã mở rộng. Bóng đen ôm Đào Kỳ nhảy
qua hàng rào, biến mất trong đêm tối. 
Rung động mãnh liệt vì tình yêu, mệt mỏi vì chiến đấu, lại bị Tường Quy đánh một chưởng,
thích một kiếm vào ngực, cuối cùng đâm một dao vào lưng, máu ra nhiều quá, chàng ngất đi
lúc nào không hay. Trong lúc mơ màng, chàng biết một người trùm kín mặt, đánh đuổi quân
Hán, rồi ôm chàng chạy vào đêm tối. 
Chàng giật mình tỉnh dậy, thì thấy mình đang nằm trên giường, bên cạnh là ông bà Đào Thế
Hùng, ba người em họ và Phương Dung. Nhờ nội công thâm hậu, đầu óc chàng tỉnh táo trở
lại. Chàng tự nhủ: 
– Thế là mình không chết. Ù, tại sao mình không để cho Tường Quy giết mình đi có hơn
không? 
Ông bà Đào Thế Hùng ôn tồn hỏi cháu: 
– Hôm trước, cháu đã ước hẹn kế hoạch với Lê Chân, Phùng Vĩnh Hoa, Đàm Ngọc Nga.
Nhiệm vụ của cháu là đi Phong-châu gặp chưởng môn phái Tản-viên. Thế tại sao hôm qua
cháu lại đột nhập huyện đường Đăng-châu định bắt cóc con dâu Huyện-lệnh? 
Câu hỏi của Đào Thế Hùng chứng tỏ ông không biết chuyện của chàng? Khuya hôm qua,
Phương Dung gõ cửa phòng đánh thức ông dậy, báo cho ông biết rằng Đào Kỳ bị thương
nặng. Ông hoảng hốt vội cùng vợ và các con vào phòng Đào Kỳ. Thấy chàng bị hai vết
ngoại thương và bị chưởng lực đánh vào ngực. Thương thế không nặng lắm. Ông rịt thuốc
cho chàng. Ông hỏi nguyên do, Phương Dung rưng rưng nước mắt, lắc đầu. 
Nguyên đêm qua, nghe cô em họ Đào Kỳ kể chuyện Tường Quy, Phương Dung đoán biết
thế nào chàng cũng đột nhập huyện đường Đăng-châu thăm người yêu. Gần Đào Kỳ một
năm qua, nàng hiểu tính chàng hơn ai hết: Bề ngoài thì cương nghị, nhưng trong lòng đầy
tình cảm. Chàng có thể vì người yêu mà moi gan, móc tim cho ăn. Người yêu muốn là trời
muốn. Chàng còn đi trước cả ý muốn của người yêu nữa. Sợ Đào Kỳ có gì sơ xẩy, nàng dắt
kiếm vào lưng rồi băng mình theo sau. 
Khi Đào Kỳ nhảy vào phòng Tường Quy, nghe nàng hát, thổi tiêu... rồi xuất hồn đắm đuối
hôn nhau, nàng đều thấy hết. Cơn ghen nổi lên, nàng uất nghẹn trong cổ, định nhảy vào giết
chết cả hai người cho hả giận. Song đến lúc thấy Đào Kỳ bị Tường Quy đâm trọng thương,
nàng vội rút kiếm giết quân Hán cứu chàng đưa về trang Hiển Minh. 
Đào Thế Hùng thở dài: 
– Sau khi băng bó cho cháu, thì Huyện lệnh báo cho chú biết đêm qua có gian tế đột nhập,
định bắt cóc vợ Trương Minh Đức. Võ công thích khách cực kỳ cao thâm, một chưởng đánh
bốn tên quân Hán vỡ ngực chết trong phòng Trương Minh Đức. Lưu Chương võ công cao
biết chừng nào, thế mà chỉ một chưởng đã khiến y bị phun máu miệng, hôm nay còn chưa
biết sống chết ra sao. Sau khi thích khách bị vợ Trương Minh Đức đánh một chưởng phun
máu miệng, bị đâm một kiếm vào ngực, một dao vào vai. Ta biết ngay thích khách là cháu. 
Ngưng một lúc, ông thở dài nói tiếp: 
– Vợ Trương Minh Đức là cháu ngoại Lê Đạo Sinh, kể ra võ công cũng vào hàng cao thủ
hiếm thấy so với tuổi nàng. Nhưng nàng không thể đả thương vào ngực cháu được. Võ
công Cửu-chân nhà ta... 
Đào Kỳ kinh hãi tự nghĩ: 
– Chú mình là nhân vật tinh tế hiếm có ở đời. Đúng, võ công Cửu-chân luôn luôn bảo vệ khu
ngực. Dù cao thủ hạng nhất cũng khó có thể đánh trúng ngực một đệ tử Cửu-chân loại
thường. Trừ trường hợp chưởng lực mạnh quá, làm thiệt mạng thì không kể. 
– Với công lực của cháu, nếu cháu vận khí phản công, đến ngay sư phụ nàng cũng bị hất
văng đi, có thể bị nội thương mà chết. Thế mà cháu bị nàng đánh trúng, còn bị thương nữa,
rõ ràng cháu muốn để cho nàng đánh. Cháu còn bị nàng đâm hai nhát... Chú thực không
hiểu. 
Đào Kỳ đoán chú mình đã biết sự thực, chàng giả đau, rên lên một tiếng, rồi nhắm mắt vờ
ngủ. 
Thuốc trị thương của Đào trang Cửu-chân vốn nổi tiếng khắp Lĩnh Nam, nên chỉ ba ngày
sau, Đào Kỳ đã khỏe mạnh như thường, vết thương gần đóng vẩy. Chàng lại tiếp tục luyện
võ cho các em. Ba người con của Thế Hùng thấy mình gần người anh họ một ngày, bằng
luyện tập cả mấy năm. Võ công của họ tiến rất nhanh. 
Đào Phương Dung cùng tuổi với Đào Kỳ, thuở nhỏ anh em chơi đùa, sống chung trong một
nhà với nhau, tình nghĩa như ruột thịt. Xa nhau mười năm, nhớ thương chồng chất. Bây giờ
gặp lại nhau, Đào Kỳ đã trở thành người võ công tuyệt vời, còn hơn cả bố nàng. Nàng thấy
người anh họ thân thiết với mình nên nói với bố: 
– Bố ơi, anh Kỳ đi Mê-linh, bố cho con đi theo anh ấy, nghe bố! 
Đào Thế Hùng thấy con và cháu quấn quýt bên nhau thì mừng lắm. Ông bảo con gái: 
– Anh con đi có việc cơ mật, chỉ trong nửa tháng lại về. Con cứ ở nhà luyện tập. Nếu có con
đi theo chỉ thêm vướng tay vướng chân vô ích. 
Sau mười ngày, vết thương Đào Kỳ đã lành hẳn. Đào Phương Dung nói với anh rằng: 
– Anh Kỳ ơi! Em muốn dẫn anh đi dạo chơi một cảnh đẹp bậc nhất vùng này. Vậy anh có
muốn đi không? Mà này, chỉ mình anh đi với em thôi. 
Xưa nay Đào Kỳ vốn chiều cô em họ. Bất cứ nàng muốn gì, dù là những việc khó khăn
chàng cũng không từ chối. Huống hồ, nay nàng rủ đi chơi? 
Nguyễn Phương Dung là con nhà võ học danh gia, nàng hiểu biết tình nghĩa anh em Đào Kỳ
nên không tỏ vẻ khó chịu: 
– Cô em họ này tính hay làm nũng đã quen, bây giờ nàng muốn đi chơi với Đào Kỳ để tâm
sự riêng tư gì đó, ta chẳng nên xen vào. 
Đào Phương Dung lấy ngựa. Hai anh em rời trang đi về phía đồi núi xa xa. 
Hai người ruổi ngựa thong thả qua cánh đồng đầy hoa thơm. Đào Kỳ nhận thấy hôm nay nét
mặt cô em có vẻ huyền bí, cười không phải cười, nghiêm không ra nghiêm. Chợt Phương
Dung hỏi: 
– Em đố anh biết em sẽ đưa anh đến chỗ nào? 
– Thì dễ quá. Em bảo sẽ đưa anh đến một nơi cảnh trí nên thơ của núi rừng Đăng-châu,
chứ còn đi đâu nữa? 
Phương Dung nheo mắt: 
– Đành rằng núi rừng, có suối chảy, có nước trong, có hoa thơm, nhưng tại đó còn có một
người mà anh ghét nhất thế gian. 
Đào Kỳ nhìn thẳng vào mặt cô em để tìm lấy câu giải đáp, nhưng chỉ thấy khuôn mặt thanh
tú, hàm răng trắng đều và đôi mắt đen trong đen. Chàng nói: 
– Trên đời anh, anh chỉ ghét có một người, đó là cô em họ, con chú của anh. 
Phương Dung nheo mắt: 
– Nếu vậy, tất cả thiên hạ đều muốn được anh ghét. Anh ghét mà em nói gì anh cũng nghe,
em xin gì cũng được. Em hỏi anh câu này nhé: Có phải anh ghét Lê Đạo Sinh, Hoàng Đức
lắm không? 
– Đúng, vì chúng giả nhân giả nghĩa. Hoàng Đức bắt giam anh, Lê Đạo Sinh bắt anh làm nô
bộc, để gài bẫy bắt bố anh. 
– Thế thì anh ghét là phải. Giả dụ: Nếu anh tử tế với hắn, mà hắn đánh anh phun máu
miệng thì sao? 
 – Thì dĩ nhiên chúng là kẻ thù của anh. 
– Nếu chúng lại dùng kiếm đâm anh? 
– Thì anh phải giết chúng. 
Phương Dung xì một tiếng: 
– Anh nhớ lấy câu này nghe. 
Hai người leo qua ngọn đồi sim, đến một bờ suối, nước chảy trong veo. Phương Dung bảo
Đào Kỳ xuống ngựa, rồi cột ngựa vào gốc cây. Hai anh em men theo bờ suối mà đi. Đến
gần một thác nước, Phương Dung chỉ vào một tảng đá rất lớn: 
– Bên kia tảng đá có một cái hang rất sâu, anh lại đó coi trước đi, em sẽ đến sau. Trong
hang có một nàng tiên nữ đang ngồi ngắm mây trời và chờ tình quân Đào Kỳ tới. 
Đào Kỳ cho là cô em nói đùa, nên chàng xăm xăm bước tới. Chàng phì cười vì tài tưởng
tượng của Phương Dung. Sau khi vượt qua mấy tảng đá nhỏ, lúc đến trước tảng đá lớn,
chàng bỗng giật mình. Vì, quả nhiên bên kia tảng đá lớn có một thiếu nữ đang ngồi soi bóng
dưới nước. Tay nàng cầm ống tiêu để lên miệng thổi. Tiếng tiêu vang lên tít tận trời xanh, lơ
lửng theo mây trắng trôi về miền xa xa. Chàng nhận ra đó là bài Trường hận Trương Chi.
Trước đây, chàng đã nghe Đệ-tứ Thái-bảo của phái Sài-sơn thổi trên sông Hồng mấy năm
về trước. 
Chàng bước thêm mấy bước nữa thì nhìn thấy tấm lưng thon thon và bàn tay búp măng của
thiếu nữ. Tim chàng đau nhói lên, chàng loạng choạng muốn ngã, vì, người thiếu nữ đó
chính là Tường Quy. 
Nguyên sau hôm Đào Kỳ bị thương, Đào Phương Dung đầy thắc mắc về việc chàng đột
nhập huyện đường Đăng-châu, nên nàng tìm cách vào chơi với Tường Quy để hỏi cho ra lẽ.
Nàng là bạn Tường Quy, nên mỗi lần nàng đến thăm, nô tỳ không cần vào thông báo. Nàng
lên thẳng phòng khách, gõ cửa rồi bước vào. Tường Quy thấy nàng thì mừng vô kể: 
– Mình đang mong Phương Dung đấy. Vào đây, mình cần hỏi chị mấy câu. 
Tường Quy đóng cửa phòng, Phương Dung chặn trước: 
– Để mình hỏi trước đã. Cách đây nữa tháng, dường như có người đột nhập vào đây định
bắt cóc chị. Nghe nói người này võ công cao cường, chỉ một chiêu, bốn người lính vỡ ngực
chết. Lưu Chương võ công cao biết mấy, cũng chỉ chịu được có một chưởng, đến nay chưa
khỏi. Thế mà tại sao chị đánh hắn một chưởng, hắn đỡ không nổi? Rồi còn bị chị đâm cho
hai kiếm? 
Tường Quy thẫn thờ nhìn vào không gian vô tận, lúc sau mới thở dài, nói: 
– Hắn muốn mình giết hắn đấy chứ. Với bản lĩnh của hắn, dù ông ngoại mình có ra tay,
chưa chắc đã thắng. 
Phương Dung càng ngạc nhiên: 
– Chị có biết tại sao không? 
Tường Quy trả lời bằng cái gật đầu, hai hàng nước mắt tuôn rơi, nàng thuật lại chi tiết tất cả
những gì liên hệ giữa nàng với Đào Kỳ cho Phương Dung nghe. Rồi kết luận: 
– Giữa chàng với mình có nhiều ân ân, oán oán quá. Chàng bị sư thúc Hoàng Đức bắt giam,
bị thái sư phụ bắt làm nô bộc. Chàng với mình yêu nhau, rồi không hiểu sao chàng lại đi với
Tô Phương và Ngũ-phương kiếm tới đây. Rồi Ngũ-phương kiếm làm nhục chồng mình, rồi
chồng mình xông thuốc mê bắt Tô Phương và Ngũ-phương kiếm để xảy ra cuộc động binh.
Hiện giờ, Tô Phương đã được một bàn tay bí mật cứu ra, Ngũ-phương kiếm sẽ còn đi đến
sinh sự... Và chàng tới đây vì mình, muốn mang mình đi xa để cùng hưởng hạnh phúc. Hôm
qua, vì sợ chồng, mình ra tay đánh chàng, những tưởng chàng đỡ lại hay phản đòn. Không
ngờ chàng để cho mình đánh, mình đâm, mới đau lòng... 
Ngừng một lát, Tường Quy tiếp: 
– Trước đây, mình đã đi cùng chàng đến Cổ-loa tìm một người chú họ Đào nhưng không
thấy. Chỉ gặp Chu Thổ Quan, ông cho biết có ba người từ Đăng-châu, một gái hai trai cũng
đã đến Cổ-loa tìm cha chàng. Chàng cho biết đó là ba người em con chú của chàng. Bây
giờ mình mới hiểu ông chú chàng chính là lão bá và ba người em họ là hai người anh của
chị và chị. 
Tường Quy thở dài: 
– Nếu chuyện này lộ ra thì giữa cha chồng mình với lão bá sẽ xảy ra một cuộc đụng chạm
lớn, khó có thể biết kết quả sẽ đi về đâu. Mình đành im miệng, mặc cho con tạo xoay vần.
Mình nhờ Phương Dung làm cách nào giúp mình... giúp mình gặp lại anh ấy một lần, rồi
mình chết cũng đành cam. 
Thế rồi, hai người con gái bày mưu thiết kế, để dẫn Đào Kỳ tới đây, tương hội với Tường
Quy. 
Đào Kỳ như người mất hết sức lực. Chàng ngồi xuống tảng đá cạnh đó, ngắm nhìn cái lưng
thon thon, hai bờ vai gầy của Tường Quy. Chàng cứ ngồi như vậy, không biết đến bao lâu.
Còn Tường Quy thì tựa lưng vào phiến đá thổi tiêu. Mối hận tình trong lòng hợp với cảnh
trước mắt: Hai người tuy gần nhau trong gang tấc, nhưng lại cách nhau ngàn trùng, như hai
thế giới khác biệt, nàng phổ vào khúc tiêu. 
Khúc tiêu dứt, nàng thẫn thờ nhìn Đào Kỳ. Bốn mắt gặp nhau, không ai dám lên tiếng. 
Rồi những giọt nước mắt của Tường Quy chảy dài xuống hai gò má. Đào Kỳ không tự chủ
được nữa, chàng run run đứng dậy, tiến đến bên nàng. Nàng đưa tay hướng về trước chờ
đợi. Chàng nắm lấy tay nàng, ngồi xuống bên cạnh, tay trái quàng qua cổ nàng, tay phải
nắm lấy hai tay nàng, hai má kề nhau. Hai người cùng cảm thấy giờ phút thiêng liêng vô
cùng này không thể buông nhau ra, vì buông nhau ra, sẽ vĩnh viễn xa nhau. Họ cùng nhìn
bóng mình in dưới suối nước. Mỗi lần gió riu riu thổi, bóng của họ lại rung động dưới đáy
nước. 
Cứ như vậy, họ quên mất thời gian trôi đi. Họ cùng nhìn lên trời, thấy từ phía sau lưng họ,
một sợi khói xanh lơ lửng bốc lên. Bỗng Tường Quy lên tiếng: 
– Anh ơi! Anh hiểu cho em. Hôm trước em phải ra tay là sự bất đắc dĩ. Tại sao anh không
tránh? Sao anh không vận công để đến nỗi bị thương nặng như vậy? 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Anh nghĩ thà để chết dưới tay em, còn sung sướng hơn là chết vì nhớ nhung em. 
Câu nói của Đào Kỳ làm Tường Quy muốn ngất lịm đi. Nàng nằm gọn trong lòng chàng. Đào
Kỳ đặt lên môi nàng một chiếc hôn. Hai người lại lịm đi trong một thời gian lâu. 
Tường Quy giật mình tỉnh trước. Nàng vội đứng dậy, sửa quần áo, định bước đi. Nàng biết,
nếu còn chần chờ, chỉ chuốc thêm đau khổ mà thôi. Trí thì nàng nghĩ như thế, nhưng con
tim lại không cho nàng rời bước. 
Chợt nhớ ra chuyện gì, Tường Quy vội hỏi: 
– Hồi trước, trong trang Thái-hà xảy ra vụ gian nhân định cứu tù, rồi sư bá Đức Hiệp, sư
thúc Hoàng Đức, cha em, mẹ em vây đánh gian nhân. Y đã nhanh tay bắt dì út làm con tin
thoát nạn. Y lấy kho tàng của ông ngoại làm ông ngoại lo buồn không ít. Y còn đánh sư bá
Đức Hiệp bị trọng thương, y cũng đã đấu chưởng với ông ngoại. Người trong trang không
bao giờ ngờ là anh, chính em cũng thế. Hôm anh đột nhập vào huyện đường thăm em, em
mới biết kẻ đó chính là anh, vì anh chỉ phát có ba thành công lực đã đánh Lưu Chương suýt
bỏ mạng. 
Có tiếng chân người đi lại gần. Nội công Đào Kỳ đã tới mức thượng thừa, nên chàng nghe
rất rõ. Chàng nhận ra tiếng chân của một người đàn ông và một người đàn bà. Chàng còn
phân biệt được đó là người thuộc phái Cửu-chân. Chàng giật mình, vì quanh vùng này,
ngoài chú chàng ra, làm gì có người nào có nội công Cửu-chân cao như thế? 
Chàng vội đứng lên nhìn về sau thì thấy Nguyễn Phương Dung và Đào Thế Hùng đang đi
tới. 
Thế Hùng thấy chàng thì mừng lắm, nói: 
– Cháu đi chơi với em từ sáng đến giờ chưa về, làm chú lo ngại quá. Em đâu rồi? 
Đào Phương Dung từ ngọn cây gần đó nhảy vèo xuống cạnh cha: 
– Bố ơi! Con đây này. 
Đào Thế Hùng thấy Tường Quy, ông thở dài: 
– Con người ta, dù thánh hiền, dù anh hùng, dù kẻ ngu phu ngu phụ, cũng không ai thoát
khỏi đường tình. Nhưng hoàn cảnh của cháu, ông trời đã an bài như vậy, thì phải chấp
nhận. Cái thế của cháu: Tới có được không? Tường Quy với cháu có thể trở lại thành vợ
chồng được, thì cháu cứ tới. Còn không, nên sớm xa nhau, đừng để đau khổ làm hại cả
cuộc đời. 
Đào Kỳ nghe lời giảng giải của chú, chàng tỉnh ngộ liền. Tự suy nghĩ: 
– Dầu sao ta cũng không thể thoát khỏi cái ràng buộc luân lý của Khổng-Tử. Ta là người đọc
sách, hiểu biết nhiều. Xuất thân ta là con trai của một Lạc-hầu danh tiếng, làm chưởng môn
phái lớn trong võ lâm. Nếu ta cùng Tường Quy bỏ trốn, thiên hạ sẽ phỉ nhổ ta không ít. Bố
mẹ, chú thím, cậu mợ ta còn bị ảnh hưởng lây. Ta thương yêu Tường Quy, nhưng ta không
thể làm thế nào hơn. Ta đành phải xa nàng... 
Thế Hùng bảo con gái: 
– Con đưa Tường Quy về đi thôi. 
Tường Quy theo Đào Phương Dung, tới chỗ buộc ngựa, phi thân nhảy lên. Nàng dơ roi
ngựa định cho chạy, không biết nghĩ gì, nàng ngừng lại, liếc nhìn Đào Thế Hùng, Nguyễn
Phương Dung và Đào Kỳ, rồi dùng chân thúc vào bụng ngựa, lững thững trở về.

Thanh thanh tử khâm, 
Du du ngã tâm. 
(Kinh Thi) 
Nghĩa là: 
Tà áo xanh xanh, em luôn nhớ anh. 
Chiều hôm đó, Huyện-lệnh cho người mời Đào Thế Hùng vào dinh uống rượu. Việc giao tế
của hai người đầu não của Đăng-châu diễn ra mỗi tháng vài lần. Trương Thanh giỏi văn, là
người Hán lại ở vị thế cao hơn Thế Hùng. Y là người tham nhũng, tàn ác, bị dân chúng coi
như cựu thù. Y lại không biết võ, nên phải nhờ vả Thế Hùng che chở cho. Thế Hùng là
người hào sảng, văn võ kiêm toàn, điều khiển quân đội trong huyện, trong sạch, thanh khiết,
giúp đỡ lương dân, nên được dân chúng nể phục. Ông cũng có yếu điểm là trang ấp của
ông dung túng những người mưu phản Hán phục Việt ẩn náu. Hóa cho nên giữa hai người
đều có chỗ úy kỵ lẫn nhau. Nhưng từ sau khi xảy ra vụ Tô Phương và Ngũ-phương Thần-kiếm thì Trương Thanh như cá nằm trên thớt, không biết sẽ bị Tô Định truy cứu bất cứ lúc
nào. 
Hôm trước đây, xảy ra vụ Đào Kỳ đột nhập tư gia Trương Thanh định bắt Tường Quy đi,
làm hắn không thể nào hiểu được. Theo ý nghĩ của hắn, nếu Ngũ-phương kiếm ra tay thì
mục tiêu là hắn hay Trương Minh Đức, chứ sao lại là Tường Quy? Hắn cũng không hiểu nổi
khi thấy thích khách võ công cao cường tới mức Lưu Chương chỉ chịu có một chưởng đã
thành người tàn tật, mà thích khách lại bị Tường Quy đánh đến trọng thương. 
Phương Dung nói với Đào Thế Hùng: 
– Liệu Trương Thanh có dám đánh thuốc độc chú, rồi bất thần đem quân tiêu diệt trang Hiển
Minh hay không? 
Đào Thế Hùng nói ngay: 
– Không! Trước kia, hắn còn dựa vào Lưu Chương. Giờ đây, Lưu Chương bị thương rồi,
hắn chỉ còn dựa vào chú mà thôi. Các quan võ khác người Hán đều có xung đột với nhau vì
tranh ăn cả. Chú là người duy nhất không xung đột với họ vì quyền lợi, vì chú không tham
nhũng. 
Phương Dung nghĩ ra một kế: 
– Hôm trước cháu cứu anh Đào Kỳ, dùng kiếm thuật làm cho quân Hán kinh hồn táng đởm.
Vậy thì đêm nay chú mang Hiển Hiệu, Quý Minh đi theo hầu tiệc. Giữa tiệc, cháu với anh Kỳ
đại náo huyện đường. Chú để cho hai em đấu với bọn cháu. Bọn cháu giả thua bỏ chạy. Do
vậy, chú đề nghị cho Hiển Hiệu tạm thay Lưu Chương, Quý Minh làm phó Tế-tác. Rồi dần
dần chú yêu cầu Huyện lệnh tuyển mộ người Việt vào những chức vụ trong huyện. Chị Lê
Chân sẽ đưa đệ tử Sài-sơn gia nhập vào các chức vụ đó. Chỉ ít lâu sau, chú nắm trọn quyền
trong huyện, đợi khi khởi nghĩa, Đăng-châu sẽ là đội quân đầu tiên tiến lên Luy-lâu. 
Thế Hùng gật đầu: 
– Kế sách này trước đây Vĩnh Hoa đã đề ra, nhưng không có chi tiết. Bây giờ cháu đề ra chi
tiết đó thì phải rồi. Có điều khi các cháu giao đấu với hai em phải nhớ một điều, những chiêu
cháu đánh vào quân Hán thì nhả hết kình lực. Còn những chiêu đánh với các em, phát thì
cực mạnh, mà kình lực thì không nhả hết. Các em thì phải bám sát các cháu, để tránh hai
cháu bị quân Hán bao vây. Hai em đuổi các cháu đến suối Thạch-bích, thì hai cháu lên
ngựa, đi Mê-linh ngay, vì ở lâu, sợ bị lộ. Chú sẽ cho người dẫn ngựa, đem hành lý của các
cháu chờ ở đó trước. 
Phương Dung gật đầu: 
– Trong tiệc, nếu Trương Thanh yêu cầu chú nhận Trương Minh Đức làm đệ tử, chú cứ
nhận lời. Theo như nhận xét của cháu, chú có dạy hết mình, y cũng chẳng học được là bao
võ công của phái Cửu-chân. Có như thế, Trương Thanh mới không nghi ngờ chú. 
Đào Phương Dung kéo tai Đào Kỳ nói, nhưng cố tình để Nguyễn Phương Dung nghe: 
– Anh Kỳ thấy không? Khi thì chị Phương Dung gọi bố là lão bá, khi thì gọi là chú. Như thế
có nghĩa là lúc chị ấy gọi lão bá thì chị ấy giận anh, chưa coi anh là chồng. Còn khi chị ấy
gọi bố là chú thì chị ấy đã tự coi mình là cháu dâu rồi đấy. 
Thời gian ở trang Hiển Minh, Phương Dung bị cô em họ của Đào Kỳ trêu chọc mãi, riết rồi
thành quen. Cũng từ những vụ trêu chọc đó, nàng tìm ra được một điểm: Anh em họ Đào
thương nhau như chân tay. 
Đào Thế Hùng dẫn hai con trai, đeo kiếm đến huyện Đăng-châu. Huyện đường canh phòng
cực kỳ cẩn mật. Ba cha con vừa tới cổng, binh Hán vội cúi đầu chào. Ba tên lính chạy ra
cầm lấy giây cương dắt ngựa đến chuồng ngựa. Trương Thanh được loan báo, ra tận thềm
đón ông. Trên mặt y lộ vẻ đăm chiêu, nhưng vẫn giả làm vui: 
– Đào huynh, hôm nay chúng ta lại đối ẩm với nhau. Chà! Người lại dẫn cả hai công tử theo
nữa à? Quý hóa quá. 
Thế Hùng nói với Trương Thanh: 
– Hai con tôi đã lớn, bản lĩnh cũng tạm được. Chúng muốn được hầu rượu đại nhân với tôi,
hầu học hỏi kinh nghiệm. 
Thời bấy giờ, sư phụ hay cha ngồi uống rượu với bạn bè, thường cho học trò hay con cháu
đứng hầu bên cạnh. Hầu chỉ là cái cớ, mục đích là để nghe người trên nghị luận, thu thập
kinh nghiệm cuộc đời. 
Thế Hùng với Trương Thanh ngồi vào bàn rượu. Hiển Hiệu, Quý Minh khoanh tay đứng hầu
rượu sau lưng bố. Rượu được vài tuần, Trương Thanh bỗng thở dài thườn thượt: 
– Đào huynh sinh được hai người con uy vũ thế này thực là hổ phụ sinh hổ tử. Còn tôi... hổ
phụ sinh ra con chó ghẻ. Tôi cưới cho nó một thiếu nữ Việt con nhà danh gia, tài sắc vẹn
toàn, nhưng nó thì văn dốt vũ rát, chỉ lêu lổng ăn chơi, rồi gây ra đại họa. May nhờ huynh
che dấu cho... 
Y ngừng lại, rót rượu cho Đào Thế Hùng: 
– Tại huyện mình có một sư đoàn. Sư trưởng chỉ ham rượu chè, bệnh hoạn liên miên. Trong
năm lữ thì ba lữ trưởng đã già nua. Tôi muốn hai cháu theo gót cha, đề cử vào giữ chức sư
phó và lữ trưởng lữ kỵ. Không biết Đào huynh nghĩ thế nào? 
Đào Thế Hùng thầm khen Phương Dung đã tính trước. Ông định đưa con vào chức vụ
ngành Tế-tác, không ngờ Trương Thanh lại đề nghị trước. Ông chưa biết trả lời sao, thì
Hiểu Hiện nói: 
– Đại nhân rộng dung cho như vậy thì quý biết chừng nào, nhưng sợ rằng cử anh em chúng
tôi vào những chức vụ đó, phủ Đô úy sẽ không chấp thuận. 
Trương Thanh cười: 
– Các cháu không hiểu đấy thôi! Luật lệ cứ mỗi năm, các tướng từ lữ trưởng trở lên, đều
phải khảo thí một lần tại phủ Đô úy. Ai không đủ khả năng hoặc già nua thì cho về nghỉ. Ta
đề nghị cho cháu về thi, với tài năng của các cháu, sợ gì không được? 
Thế Hùng nghĩ đến việc hai con làm hai lữ trưởng, mình nắm phần điều quân trong huyện,
Đăng-châu coi như đã nằm trong tay mình rồi, lợi cho việc phục quốc biết bao? 
Nghĩ vậy, ông đứng dậy, chắp tay: 
– Đa tạ đại nhân có lòng tài bồi cho các cháu. 
Ông quay lại các con: 
– Các con mau đa tạ đại nhân đi. 
Hiển Hiệu, Quý Minh là con nhà danh gia võ học, bao nhiêu đời chỉ biết có phục quốc. Lòng
đầy kiêu khí, nay phải lạy một tên quan Hán tham ô thì cảm thấy tủi nhục vô cùng. Nhưng bố
đã bảo, đành phải phục xuống đất lạy Trương Thanh. Trong lòng hai chàng cùng tự nghĩ: Ta
lạy đây là lạy vua An-Dương của Âu- lạc. 
Trương Thanh cười khoan khoái, rót hai ly rượu đưa cho Hiển Hiệu, Quý Minh. Hai chàng
vội bưng lấy, uống một hơi. 
Trương Thanh cùng Thế Hùng còn đang bàn chuyện làm thế nào để che dấu vụ Tô Phương
với Ngũ-phương kiếm thì bên ngoài có tiếng la lớn: 
– Cướp! Có kẻ cướp! 
Mặt Trương Thanh tái mét: 
– Tôi sợ bọn Ngũ-phương kiếm trở lại. Chứ còn huyện đường mình, quân sĩ đông thế này,
cướp nào dám đột nhập. 
Đào Thế Hùng rút kiếm nói: 
– Hai con mau theo bố, bảo vệ Trương đại nhân ra ngoài xem sao? 
Bốn người chạy ra ngoài sân thì thấy đèn đuốc sáng rực, quân Hán đang bao vây thành một
vòng tròn. Ở giữa thì Lam kiếm đang ôm Trương Minh Đức trong tay. Bên cạnh, Bạch kiếm
đang đấu với Tường Quy. Tường Quy thì đánh thục mạng để cứu chồng, còn Bạch kiếm chỉ
đánh cầm chừng. Kể ra bản lĩnh của Tường Quy cũng không đến nỗi quá tệ, nhưng nàng là
đệ tử phái Tản-viên thiên về chưởng hơn về kiếm, lại đi đấu kiếm với một trong Ngũ-phương
thần-kiếm thì làm sao địch nổi? Kiếm pháp của nàng đã có vẻ rối loạn lắm rồi. Trương
Thanh nói với Đào Thế Hùng: 
– Xin nhân huynh xuất thủ cho. 
Vừa lúc đó, choang một tiếng, kiếm của Tường Quy bị đánh bay bổng lên trời. Bạch kiếm
nhảy vào định bắt sống, thì người nàng cũng bay bổng lên cao. Từ Đào Thế Hùng cho đến
Trương Thanh, Bạch kiếm đều ngạc nhiên: 
– Trên đời này làm gì có thứ khinh công kỳ diệu như thế? 
Tường Quy bay lên đến nóc nhà, thì có một người đầu trùm kín, mặc quần áo đen, bồng lấy
nàng phóng vào trong đêm. Bấy giờ mọi người mới biết rằng người đó đã tung giây chụp
Tường Quy. 
Đào Thế Hùng thoáng cũng biết đó là Đào Kỳ, ông quát lớn: 
– Để người lại! 
Ông ra hiệu cho Đào Hiển Hiệu rượt theo. Hiển Hiệu rú lên một tiếng, băng mình theo bóng
Đào Kỳ. Còn ông nhảy vào vòng, phóng chưởng đánh Lam kiếm. Lam kiếm thấy chưởng lực
dương cương bao trùm khắp người, biết rằng gặp địch thủ, y vội buông Trương Minh Đức,
đưa chưởng đỡ. 
Thế Hùng phóng liên tiếp ba chưởng liền, Lam kiếm cứ đỡ một chưởng lại lui một bước.
Nhờ vậy, Đào Thế Hùng đã chụp được Trương Minh Đức. Ông vội quăng Minh Đức cho
Quý Minh. Quý Minh tay phải đỡ lấy y định lùi lại, thì Bạch kiếm đã nhảy tới, vung chưởng
tấn công. Quý Minh vội phóng ngược chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cả hai đều phải lùi lại. 
Quý Minh đẩy Minh Đức lại cho Trương Thanh, chuẩn bị đối phó với Bạch kiếm. Sau khi đỡ
một chưởng của Quý Minh, Bạch kiếm giật mình: 
– Tại sao ở đất Đăng-châu lại có một thiếu niên chưởng lực mạnh đến thế này? Y là ai? 
Bạch kiếm hỏi Quý Minh: 
– Thiếu niên kia, ngươi tên là gì? Ta chưa từng thấy ai tuổi trẻ như ngươi mà đã có bản lĩnh
đến trình độ đó. Hãy đỡ chưởng nữa của ta! 
Nói rồi, y nhảy vọt lên cao, phóng chưởng xéo xuống. Chiêu thức của y quái dị vô cùng. Quý
Minh vận sức đẩy xéo một chưởng. Bùng một tiếng nữa, chàng thấy tạng phủ như muốn
đảo lộn trong khi Bạch kiếm cũng bị giật lùi hai bước. 
Đào Thế Hùng giao đấu với Lam kiếm, ông quay lại quan sát trận địa con mình, thấy Quý
Minh có vẻ thắng thế, ông mới yên tâm. Ông mừng thầm vì chỉ trong vòng một tháng, Đào
Kỳ đã huấn luyện cho con ông một bản lĩnh không thua gì ông. Ông mừng lắm, tiếp tục đấu
với Lam kiếm. 
Quân Hán kéo đến trùng trùng điệp điệp. Hai viên lữ trưởng đứng ngoài chỉ huy quân bao
vây nhị kiếm. Đào Thế Hùng suy nghĩ: 
– Mình đánh với nhị kiếm chẳng ích gì, chi bằng mình tìm cách rút lui để cho tụi Hán chém
giết nhau cho vui. 
Nghĩ vậy, ông hô lớn: 
– Ngừng tay! 
Đào Quý Minh cùng nhị kiếm cùng ngừng tay, lùi lại. 
Bạch kiếm hỏi Trương Thanh: 
– Trương Huyện-lệnh, ngươi dấu Tô công tử ở đâu? Mau thả ra, nếu không, ngươi không
yên được với ta đâu. 
Đấu võ thì Trương Thanh dở, nhưng đấu khẩu, thì y vô địch. Y quát lớn: 
– Chư quân nghe đây. Bọn Ngũ-phương kiếm cướp của, giết Tô công tử rồi còn đến huyện
cướp tiền của công nho nữa. Hãy bắt lấy chúng. 
Quân Hán ào vào. Ngũ-phương Thần-kiếm là những kiếm khách bực nhất Trung-nguyên.
Họ chỉ sở trường về kiếm, còn về chưởng rất dở. Ngược lại, võ công phái Cửu-chân thì sở
trường về chưởng, còn về kiếm thì chỉ bình thường thôi. Thế mà Ngũ-phương kiếm lại đi
đấu chưởng với cha con Đào Thế Hùng là lấy sở đoản của mình để đấu với sở trường của
địch, làm sao thắng nổi? Hơn nữa, võ công Cửu-chân do Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung
nghiên cứu chế ra để khắc chế với võ công Trung-nguyên. Nếu như một đệ tử Cửu-chân
đấu với một để tử phái võ Lâm-ấp thì họ phải nghiên cứu lối đánh của đối thủ, nhiên hậu
mới phản công. Còn họ đấu với người Hán thì mỗi chiêu, mỗi thức của họ đã bao hàm sát
thủ khắc chế võ công Trung-nnguyên, nên Ngũ-phương Thần-kiếm kém thế là lẽ đương
nhiên. Ngũ-phương kiếm đang nguy cấp mà quân Hán kéo tới đông quá. Họ vội rút kiếm ra
múa lên như mây bay, gió cuốn. Đi đến đâu, quân Hán dãn ra đến đó. Đào Thế Hùng đứng
nhìn mà ngơ ngẩn: 
– Quả thực là thần kiếm. Ta đấu kiếm với bọn chúng thì không biết có chống cự được mươi
hiệp hay không? 
Ông tự hỏi, trong Ngũ-kiếm, thì tam kiếm đi đâu? Mà tại đây chỉ có nhị kiếm? 
Nhị kiếm tả xung hữu đột, tiến dần đến hàng rào huyện đường, thì quân Hán cũng bao vây
theo. Hai người đã có vẻ mệt mỏi rồi. Bỗng có tiếng quát lớn trên mái nhà: 
– Ngừng tay! 
Mọi người nhìn theo thì thấy Xích kiếm đang ôm một người đàn bà, kề gươm vào cổ nói: 
– Trương Thanh, coi đây, ta bắt con gái ngươi rồi. Ngươi mau cho quân mở vòng vây, ta sẽ
thả con ngươi ra. Bằng không, ta sẽ giết y thị liền. 
Có tiếng con gái khóc lớn: 
– Gia gia, cứu con với. 
Trương Thanh phất tay cho quân Hán lui lại, nói: 
– Ngươi mau thả con gái ta ra. 
Quân Hán vừa ngừng tay, thì vèo một cái, ba anh em Ngũ-kiếm đã biến dạng vào đêm tối.
Đào Thế Hùng hô lớn: 
– Đuổi theo mau! 
Quý Minh vội phóng theo cha đuổi theo tam kiếm. Năm người, ba chạy trước, hai đuổi theo
sau, tới một bờ sông thì trời vừa hừng sáng. 
Tam kiếm ngừng lại hỏi Đào Thế Hùng: 
– Coi thân thủ hai vị cũng là bậc kỳ tài, tại sao lại chịu giúp Trương Thanh làm việc phi pháp
như vậy? Nếu mai này Thái-thú truy lùng, hai người cũng bị vạ lây. 
Đào Thế Hùng nháy mắt cho tam kiếm, chỉ vào đứa con gái bị Xích kiếm bắt, rồi chỉ vào tai.
Ý muốn nói rằng: Tôi không nói được vì còn con nhỏ này. Xích kiếm hiểu ý, vội mang cô bé
ra thật xa, trói lại, ném xuống cỏ. 
Đào Thế Hùng nói: 
– Tôi là Đào Thế Hùng, Huyện-úy Đăng-châu. Đây là Quý Minh, con tôi. Giữa chúng tôi với
Ngũ-kiếm không có thù oán gì. Tôi bị đứng ở giữa, một bên là Thái-thú, một bên là Huyện-lệnh, tôi phải làm sao bây giờ? Tôi nghĩ Ngũ-phương kiếm nên về Luy-lâu gặp Tô Thái-thú,
xin cử đại binh đến đây, bấy giờ, tôi sẽ án binh bất động, lo gì không tìm được Tô công tử? 
Xích kiếm nói: 
– Một trong chúng tôi đã từng đấu chưởng với đại nhân. Tuy đại nhân thắng, nhưng vẫn hào
hiệp nhận rằng nếu đấu kiếm thì không lại chúng tôi. Võ công đến trình độ như đại nhân, tuy
cao cường, nhưng còn tìm được vài mươi người. Còn tính tình hào sảng anh hùng, tôi e
rằng chỉ có một hay hai. Lúc nãy đại nhân đối chưởng với tam ca tôi, dù trình độ võ công
thấp kém, tôi cũng thấy đại nhân chỉ đánh cầm chừng. Như thế đủ tỏ đại nhân không phải là
bè đảng của Trương Thanh. Vậy đại nhân có thể cho tôi biết tình trạng Tô công tử hiện thời
ra sao không? 
Đào Thế Hùng thấy anh em Ngũ-phương kiếm là người trong võ lâm, tình tình hào sảng,
ông không muốn nói dối, chưa biết trả lời sao thì Quý Minh đã đỡ lời cha: 
– Thưa ba vị thần kiếm, việc làm vô thiên vô pháp của Trương công tử, họa chăng có
Huyện-lệnh biết mà thôi. Thảng hoặc giám sở Tế-tác Lưu Chương mới biết rõ. Cha con tôi
nào có hay? Tôi nghĩ ba vị thần kiếm cứ bắt Lưu Chương tra khảo, có lẽ sẽ ra manh mối. 
Xích kiếm gật đầu: 
– Công tử nói đúng! Chúng tôi phải đi bắt Lưu Chương mới được. Còn đôi nam nữ người
Việt đi cùng với chúng tôi, tuy chỉ mới sống với nhau có mấy ngày, nhưng Nguyễn cô nương
đã ra tay hào hiệp cứu chúng tôi, đại nhân có biết tin tức của họ ra sao không? 
Quý Minh lắc đầu: 
– Tôi không rõ lắm. Dường như hai người định vào phủ đường bắt sống con dâu của
Trương Thanh. Người con trai bị con dâu Trương Thanh đánh một chưởng hộc máu, còn bị
y thị đâm hai nhát kiếm. Người con gái đã cứu kịp người con trai rồi sau đó biệt tích, đến
nay không hiểu ra sao. 
Bạch kiếm thở dài: 
– Người Việt nghĩa khí đến thế là cùng! Vị tiểu huynh đệ đó, dường như võ công có phần
giống công tử thì phải. Đêm nay, chúng tôi sẽ bắt Lưu Chương, xin đại nhân đừng ngăn cản. 
Đào Thế Hùng nghĩ thầm: 
– Người mà bắt giết Lưu Chương, con ta sẽ thay thế chỗ đó. Sở Tế-tác đã nằm trong tay ta,
huyện Đăng-châu này coi như đã trở về với Âu-lạc rồi. 
Quý Minh gật đầu: 
– Chắc chắn Lưu Chương biết chỗ giam Tô công tử. Ba vị phải tra khảo thật kỹ mới hy vọng
y khai ra. 
Bạch kiếm cười: 
– Công tử yên tâm. Bằng mọi giá, chúng tôi phải bắt y khai ra tông tích Tô công tử. Công tử,
bây giờ phiền công tử qua lại với tôi mấy chiêu, rồi tôi giả thua, bỏ đứa con gái Trương
Thanh lại, để công tử có thể phúc đáp với Trương Thanh cho hợp lý. 
Nói rồi, y nhảy lại bụi cỏ, cắp đứa con Huyện-lệnh trên tay rồi múa kiếm đâm Quý Minh. Quý
Minh rút kiếm trả đòn. Đây là cuộc đánh nhau giả bộ, chứ đấu kiếm thực, ngay Đào thế
Hùng cũng chưa chắc đã chống nổi Bạch kiếm mấy chục chiêu. Hai bên qua lại ít chiêu,
Bạch kiếm giả vờ đánh rơi con gái Trương Thanh xuống. Y đấu với Quý Minh thêm hai
chưởng nữa rồi ba anh em chạy vụt vào rừng, nháy mắt làm hiệu. Quý Minh chạy lại cởi trói,
đỡ con gái Trương Thanh dậy: 
– Trương tiểu thư, tiểu thư có sao không? Khuê danh tiểu thư là Thanh Mai thì phải, bởi tôi
có nghe lệnh tôn nhắc đến một lần. 
Trương Thanh Mai oà lên khóc: 
– Đào lão bá, Đào công tử, các vị thực là đại ân, đại đức, đã cứu được tiểu nữ. Xin lão bá và
công tử nhận của tiểu nữ ba lạy gọi là tạ ơn. 
Quý Minh vội xua tay: 
– Tiểu thư đừng làm thế. 
Chàng định đưa tay đỡ Thanh Mai dậy, nhưng thấy mặt nàng hiện ra nét nhu hòa, xinh đẹp,
chàng tị hiềm nam nữ, vội dụt tay lại. Đào Thế Hùng phất tay áo một cái, làm Thanh Mai như
bị một luồng sức mạnh vô hình cản lại, không lạy được nữa. 
Quý Minh nói: 
– Bố ơi, thôi mình về đi. Con sợ chúng ta đi cả thế này, ở nhà lỡ xảy ra chuyện gì chăng? 
Đào Thế Hùng gật đầu. Ông vẫy con, cùng Thanh Mai ra về. Họ về đến phủ đường thì trời
đã đứng bóng. Quân Hán vây vòng trong, vòng ngoài phủ, trong sân có mấy xác chết chưa
kịp chôn. Sở Tế-tác bên cạnh bị đốt cháy thành tro. Ông biết ba anh em Ngũ-kiếm đã hành
sự xong. 
Trương Thanh thấy cha con ông về, lại cứu được Thanh Mai thì mừng lắm. 
Thanh Mai thấy cha thì oà lên khóc: 
– Gia gia ơi, nếu không có Đào lão bá và Đào công tử thì con đâu còn được thấy gia gia
nữa. 
Quý Minh nghe lời nói của Thanh Mai, chàng chợt nhận ra là cô gái Hán này không kiêu kỳ,
phách lối như anh cô. Trái lại, còn tỏ ra người thanh cao, nhu nhã nữa. 
Trương Thanh thở dài: 
– Khi Đào huynh đi rồi, bọn Ngũ-kiếm trở lại đánh phá sở Tế-tác, bắt sống Lưu Chương đem
đi mất. Huyện đường không ai là đối thủ của chúng. Đi theo chúng còn có người con gái bịt
mặt. Y thị thuận tay đốt luôn sở Tế-tác... 
Đào Thế Hùng biết người đó là Nguyễn Phương Dung, nàng làm thế để gây thù hận giữa
Ngũ-kiếm và huyện Đăng-châu. 
Ông bảo Trương Thanh: 
– Bây giờ tôi để Quý Minh ở lại bảo vệ đại nhân. Còn tôi đi tìm Tường Quy. À... mà công tử
đâu? Tôi lo cho công tử quá. 
Trương Thanh thở dài: 
– Tôi cho nó đi Luy-lâu phúc bẩm với Thái-thú về việc Ngũ-kiếm làm phản. 
Rồi y ghé sát tai Thế Hùng, nói khẽ: 
– Nó mang vàng bạc đi theo để hối lộ cho tay chân của thái Thú. 
Đào Thế Hùng lên ngựa, hướng về phía đồi núi xa xa, ông cho rằng Đào Kỳ chạy về hướng
đó. Đi được hơn giờ, ông gặp Hiển Hiệu đang ngồi trên phiến đá bên đường, gương mặt rất
quái dị. Ông hỏi: 
– Có chuyện gì xảy ra không? 
Hiển Hiệu chỉ về phía trước: 
– Anh... Kỳ với Tường Quy... 
Nguyên lúc Tường Quy giao chiến với Bạch kiếm, gặp lúc nguy nan, Đào Kỳ thấy người yêu
sắp lâm vào chỗ chết, chàng vội tung giây cứu Tường Quy, rồi ôm nàng băng mình vào đêm
tối. Hiển Hiệu tuy biết rằng anh mình bắt Tường Quy, nhưng cũng giả vờ rượt theo. Chàng
theo xa xa để Đào Kỳ không thấy được. Đến ngọn suối này, Đào Kỳ ngừng lại. Hiển Hiệu
biết mối tình tuyệt vọng của anh với Tường Quy, nên chàng ở ngoài canh chừng, mặc cho
hai người tình tự. 
Đào Kỳ đặt Tường Quy xuống. Trong đêm tối, nàng vẫn chưa nhận ra được người yêu, bèn
lên tiếng hỏi: 
– Cao nhân là ai, lại ra tay cứu tiểu nữ? 
Đào Kỳ nghe tiếng nàng nói, lòng lại nhũn ra. Chàng đứng im, hơi thở dồn dập. Người
chàng run run, không thốt nên lời. Tường Quy thấy sự hơi lạ, nàng lại lên tiếng: 
– Cao nhân đã cứu tiểu nữ, xin cho tiểu nữ từ tạ ở đây. Tiểu nữ phải trở về để cứu chồng. 
Nàng định cất bước đi, nhưng nàng không biết đã được cứu tới đây bằng lối nào, nên lại thở
dài, hỏi: 
– Cao nhân đã cứu tiểu nữ. Tiểu nữ xin trọn đời nhớ ơn. Xin tiền bối chỉ cho nẻo về huyện
đường. 
Đào Kỳ chỉ về phía trước. Tường Quy cúi đầu xá ba xá rồi trổ khinh công chạy vào đêm tối
âm u. Nàng chạy được một quãng thì thấy phía trước có hai ngọn đèn xanh chiếu thẳng vào
mặt. Nàng vội ngừng lại, vì trên đời nàng chưa từng thấy loại đèn kỳ lạ như vậy bao giờ. Rồi
một mùi hôi thối nồng nặc xông lên. Nàng thất kinh hồn vía, vì biết rằng đã gặp cọp. Nàng
vội đưa tay ra sau rút kiếm, mới chợt nhớ ra kiếm đã bị đánh văng mất tự bao giờ. Con cọp
gầm lên một tiếng, rồi nhảy bổ lại vồ. Tường Quy sợ quá, phi thân nhảy lên một cành cây.
Con cọp vồ hụt, lượn quanh gốc cây, há miệng nhìn Tường Quy mà táp, tỏ vẻ thèm thuồng. 
Nàng cứ ngồi trên cây nhìn xuống. Cọp cứ ngồi dưới gốc nhìn lên. Ngồi được một lúc, nàng
mệt mỏi quá, dựa vào chạc cây mà ngủ gật. Chợp mắt được một lúc, nàng giật mình thức
giấc vì tiếng cọp gầm. Nàng nhìn xuống, bất giác la lên một tiếng kinh hoàng: Dưới gốc cây,
nguyên một bầy năm con cọp nằm dài ra đó, chờ... mồi. Nàng ước mong: 
– Không biết cao nhân cứu ta hôm qua bây giờ ở đâu? Làm thế nào ta thoát khỏi đàn cọp
đói nầy? 
Trời hừng sáng. Từ phía xa, một người thất thểu đang đi tới. Nhìn kỹ ra, nàng suýt bật thành
tiếng la: Đó là Đào Kỳ. Tự nhiên nàng bật thành tiếng khóc, gọi lớn: 
– Đào đại ca! Cứu em với. 
Đào Kỳ nghe tiếng nàng, chạy lại. Thấy Tường Quy ngồi trên cây, dưới gốc có một bầy cọp.
Chàng hiểu tất cả. Chàng quát lên một tiếng, nhảy tới. Còn lơ lửng trên cao, chàng đã
phóng chưởng. Đây là chiêu Hải triều lãng lãng, một chiêu cực mạnh của phái Cửu- chân.
Bình, bình, hai con cọp lớn bật tung trở lại, rống lên một tiếng, nằm dãy dụa mấy cái rồi im
lìm. Ba con khác thấy vậy, cong đuôi chạy vào rừng. Đào Kỳ đến gốc cây gọi: 
– Tường Quy, nhảy xuống đi. 
Tường Quy buông mình nhảy xuống. Đào Kỳ đưa tay đỡ. Tường Quy ôm lấy cổ Đào Kỳ bật
thành tiếng khóc. Chàng đặt lên môi Tường Quy một cái hôn. Hai người ngã vào bụi cỏ. 
Trời hửng sáng, Đào Kỳ kéo Tường Quy ngồi dậy: 
– Bây giờ chúng mình đi Mê-linh để gặp Thị Sách cùng Nhị Trưng. Chúng ta sẽ bàn truyện
phục quốc. 
Tường Quy lắc đầu: 
– Em yêu anh, em có thể cho anh tất cả những gì em có, kể cả tính mệnh của em. Nhưng
em không thể theo anh được. Nếu em theo anh, danh tiếng của ông ngoại em, cha mẹ em
sẽ không còn nữa. Thôi, chúng mình chỉ có vậy thôi... Anh đi đường anh. Anh để em trở về
với kiếp sống của người con gái bán thân cho giặc Hán. Em ước ao rằng cuộc gặp gỡ đêm
nay của chúng ta, em sẽ có đứa con với anh. 
Thế rồi, hai người ngồi ôm nhau thẫn thờ. Họ quên mất cả ngày giờ. Họ cũng không ngờ
cách đó không bao xa, Đào Hiển Hiệu ngồi quan sát tất cả hành động của họ, cho tới lúc
Đào Thế Hùng tới. Hai người thấy Đào Thế Hùng và Đào Hiển Hiệu tới cùng một lúc, bẽn
lẽn đứng dậy. 
Đào Thế Hùng nói: 
– Kỳ cháu, cháu phải lên đường ngay. Phương Dung đang chờ cháu ở điểm hẹn. Còn phu
nhân của công tử, chú đưa về được rồi. 
Trước vẻ mặt uy nghiêm của ông chú, Đào Kỳ chỉ biết liếc mắt nhìn Tường Quy rồi ra đi. 
Chàng đến chỗ hẹn, đã thấy Phương Dung ngồi dưới gốc cây, nhắm mắt dưỡng thần. Bên
cạnh, hai con ngựa đang gậm cỏ. 
Đào Kỳ nghĩ lại chuyện đêm qua, nhìn Phương Dung chàng tự thấy mình không xứng đáng
với nàng, tự thẹn với chính mình. 
Thời bấy giớ, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, hoặc ngao du với những đào hát mà
không bị kết tội. Nên ý tưởng thẹn thùng của Đào Kỳ chỉ thoáng qua rồi thôi. Chàng đến gần
gốc cây thì Phương Dung đã mở mắt ra, nhìn chàng: 
– Đêm qua em giả dạng Ngũ-phương kiếm đốt cháy sở Tế-tác Đăng-châu để khai thêm hố
chia rẽ giữa bọn chúng. Em còn... 
Nàng chỉ vào bọc bên cạnh, rồi mở ra cho Đào Kỳ coi. Trong đó đầy vàng, ngọc sáng chói.
Nàng tiếp: 
– Em vào huyện đường, bắt trói vợ Trương Thanh tra khảo bắt chỉ chỗ dấu của, rồi em lấy
hết cho bõ ghét. Số vàng ngọc này sau có thể dùng để phục quốc. 
Phương Dung thấy Đào Kỳ mệt mỏi bơ phờ, tưởng rằng chàng mất ngủ. Nàng chỉ vào chiếc
võng treo trên cây: 
– Anh ngủ một lát rồi chúng ta lên đường. 
Đào Kỳ cười gượng rồi lên võng nằm. Chàng thiếp đi lúc nào không hay. Khi chàng giật
mình tỉnh giấc, trời đã về chiều. 
Chàng nói với Phương Dung: 
– Chúng ta lên đường thôi. 
Hai người ra roi cho ngựa phi lên hướng Bắc. Đi đến chiều, vẫn không gặp một trang ấp
nào. Phương Dung chỉ vào khu rừng trước mặt: 
– Chúng mình vào rừng, lấy lương khô ăn, rồi qua đêm tại đây. 
Hai người cho ngựa ruổi vó ngắm cảnh chiều tàn trên núi rừng hùng vĩ của đất nước. Qua
hốc núi, xa xa có con ngựa đang gặm cỏ bên đường. Cạnh con ngựa, một người lính Hán
đang đứng, lưng đeo đoản đao, mắt lơ đãng nhìn trời. 
Người lính thấy hai người thì chắp tay lễ phép hỏi: 
– Có phải Đào công tử và Nguyễn tiểu thư không? 
Đào Kỳ gò cương ngựa lại, đáp: 
– Phải, đại ca có gì muốn dạy bảo? 
Tên quân Hán đưa ra một gói nhỏ nói: 
– Đây là một món quà mọn của chủ nhân tôi gửi biếu Đào công tử, mong công tử nhận cho. 
Đào Kỳ cầm lấy gói quà. Bên ngoài gói bằng tấm khăn lục, trên viết mấy chữ theo lối triện,
rất đẹp: 
Thanh thanh tử khâm, 
Du du ngã tâm, 
(Tà áo xanh xanh, ta nhớ người, lòng sầu dằng dặc). 
Đào Kỳ biết hai câu này lấy trong kinh Thi. Chàng nhìn kỹ nét chữ xem người tặng là ai?
Nhưng không nhận ra. chàng hỏi tên lính Hán: 
– Đại ca có thể cho biết ai đã tặng cho tôi gói quà này chăng? 
Tên quân Hán nói: 
– Công tử cứ mở ra thì rõ. Chủ nhân tôi khẩn khoản nói rằng công tử chỉ nên mở ra coi một
mình mà thôi. 
Nói rồi, y ra roi cho ngựa chạy. 
Đào Kỳ ngẩn người hỏi Phương Dung: 
– Em thử đoán xem, ai đã tặng anh gói quà này? 
Phương Dung xịu mặt xuống: 
– Còn ai vào đây nữa? Đại ca thử nghĩ xem ai có thể sai phái được tên quân người Hán? 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Anh có nhiều người thân có thể sai phái được quân Hán: Nghiêm đại ca, chú anh, Tô
Phương, Ngũ-phương kiếm. 
Phương Dung hừ một tiếng: 
– Nếu là Nghiêm Sơn thì ông ấy đã xuất hiện gặp anh. Chú Hùng là người lớn, muốn tặng
anh cái gì thì đưa cho anh, việc gì phải sai lính Hán? Tô Phương thì bị chị Lê Chân giam rồi.
Ngũ-phương kiếm là thứ anh hùng hào sảng, đâu có thì giờ làm chuyện ú tim này? Chỉ còn
một người duy nhất mà thôi. Anh đừng giả bộ nữa. 
Đào Kỳ nhớ tới Tường Quy, mặt chàng chợt đỏ lên và nín thinh luôn. Phương Dung lấy
lương khô ra cho Đào Kỳ ăn, rồi mắc võng lên cây, nói: 
– Anh ở đây coi ngựa, em vào trong có chút việc. 
Nói rồi, nàng bỏ đi. 
Đào Kỳ lấy gói vải lụa mở ra, bất giác tim chàng đau nhói lên. Chàng ngẩn người ra: Nguyên
bên trong có bộ quần áo lụa xanh, trên ngực thêu cành đào. Chính là bộ quần áo của Tường
Quy đã mặc. Trong có mẩu giấy viết mấy chữ: 
"Xin cho quần áo thay người, theo bên mình anh trên bước gian nan vạn dặm. Em đã mặc
bộ quần áo này nửa tháng liền không giặt, để giữ hơi của em. Áo quần thay em ở bên anh". 
Tay Đào Kỳ run run, chàng đưa gói quần áo lên úp mặt vào hít lấy một hơi. Chàng thấy quả
mùi thơm của Tường Quy thấm vào tạng phủ. Có tiếng bước chân Phương Dung lại gần,
chàng vội gói bộ quần áo lại, cất vào bọc, leo lên võng nằm ngủ. 
Phương Dung cũng leo lên võng nằm. Nàng cất tiếng hát theo điệu Lý con sáo: 
Yêu nhau cởi áo cho nhau, 
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay. 
Qua cầu, ngả nón trông cầu, 
Cầu bao nhiêu nhịp, em sầu bấy nhiêu. 
Qua đình, ngả nón trông đình, 
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu? 
Đào Kỳ liệu chừng Phương Dung đã biết chuyện nên hát trêu mình, chàng nằm im không
lên tiếng. Phương Dung đằng hắng một tiếng, rồi hỏi: 
– Đào đại ca! Em muốn hỏi đại ca mấy câu có được không? Đại ca có hứa nói thực với em
không? 
Đào Kỳ nhỏm dậy: 
– Cái gì của anh, em cũng biết hết rồi, còn gì nữa đâu mà hỏi 
Phương Dung chua chát: 
– Thế mà có điều em chưa biết đấy. Em hỏi anh, trong đời anh, những người đàn bà nào
được anh yêu nhất? 
Đào Kỳ suy nghĩ một lúc rồi nói: 
– Trên đời anh, những người đàn bà sau đây anh ghi nhớ vào lòng: Thứ nhất là mẹ anh, thứ
nhì là sư tỷ của anh, sau đến cô em họ anh, rồi đến em và... và... Tường Quy. 
Phương Dung hỏi tiếp: 
– Mẫu thân anh thì dĩ nhiên anh yêu nhất rồi. Không ai có thể so sánh. Trong bốn người còn
lại, ai là người được anh yêu nhất? 
 Đào Kỳ suy nghĩ một lát rồi nói: 
– Đối với sư tỷ, anh vừa yêu vừa kính. Anh thấy yêu sư tỷ giống như yêu mẹ, không khác gì
mấy. Có thể nói, sư tỷ là bà mẹ thứ hai của anh. Nhưng anh yêu mà không sợ, vì sư tỷ rất
chiều anh. Đối với cô em họ thì anh yêu nhẹ nhàng hơn. Còn Tường Quy, anh vừa yêu vừa
hận, nghĩ đến nàng, anh có cảm tưởng như bị cái dùi đâm vào ngực. Còn đối với em... thì
chú anh đã quyết hỏi em làm vợ cho anh. Chúng mình tuy chưa cưới xin, nhưng tình nghĩa
đâu khác gì vợ chồng? 
Câu cuối cùng của Đào Kỳ làm Phương Dung hừ một tiếng: 
– Nếu bây giờ, hoàn cảnh bắt anh phải chọn em hay Tường Quy thì anh chọn ai? 
Đào Kỳ không bao giờ ngờ Phương Dung hỏi câu đó, chàng suy nghĩ mãi cũng không tìm ra
câu trả lời. Sau cùng, quýnh quá, chàng nói: 
– Anh không bỏ được người nào cả. 
Câu trả lời này làm Phương Dung cảm thấy vui lòng. Nàng nghĩ: 
– Nếu chàng yêu ta bằng Tường Quy, thì còn gì bằng nữa? Tường Quy là gái có chồng, đâu
có thể ở bên cạnh chàng mãi? Vả lại, Đào ca là người trọng danh dự, đời nào chàng chấp
nhận một đứa con gái vợ thằng Ngô làm vợ mình? Vả ta với chàng còn có cái chí phục quốc
vơí nhau. Tường Quy bì thế nào được. 
Thời bấy giờ, người Việt bị người Hán đối xử cực kỳ tàn bạo, có nhiều con gái Việt lấy
chồng Hán, rồi lên mặt hách dịch với đồng bào. Do đó, dân chúng thường dùng danh từ vợ
thằng Ngô, cũng như ngày nay, kẻ ác miệng gọi những người lấy chồng Pháp, Mỹ là me Tây
hay me Mỹ vậy. 
Hai người ngủ đi lúc nào không hay. Bỗng cả hai choàng dậy vì có tiếng bước chân nhiều
người từ xa vọng lại. Nội công Đào Kỳ rất thâm hậu, chàng nói: 
– Dường như là một đội quân Hán thì phải. 
Phương Dung gật đầu tỏ ý đồng tình. Hai người dấu ngựa vào rừng, đeo kiếm vào lưng rồi
ra đường nhìn. Phía xa xa, có nhiều ánh đuốc ngoằn ngoèo như một con rắn lửa. 
Phương Dung bàn: 
– Chúng ta nên leo lên cây quan sát tình hình. 
Đoàn người ngày càng tiến đến gần. Bước chân lẫn với tiếng roi vụt chan chát, tiếng chửi
rủa tục tằn của quân Hán. Phương Dung ghé tai Đào Kỳ: 
– Dường như một toán áp giải tù nhân thì phải. 
Người đi đầu cầm lá cờ đỏ, trên cờ thêu con gấu bay. Đào Kỳ biết đó là kỳ hiệu của lính thiết
kỵ Giao-chỉ. Phía sau, một đoàn người đi chân đất, lưng đeo túi vải. Cứ năm người bị trói
thành một chùm. Họ thất thểu lê bước, chứng tỏ đã quá mệt mỏi. 
Đào Kỳ nhẩm đếm rồi nói: 
– Không phải tù, mà là thanh niên bị bắt sang Trung-nguyên làm lao binh cho quân Hán.
Tổng cộng trên ngàn người. 
Bỗng tên chỉ huy đoàn quân hô lớn: 
– Ngừng lại! 
Đoàn người ngừng lại. Một tên Hán nói: 
– Bọn lao binh nghe đây: Chúng mày tạm ngừng để nấu cơm ăn. Sau đó đi ngủ. Sáng mai
tiếp tục lên đường. 
Bọn lao binh Việt chia nhau đi kiếm củi nấu cơm. Bọn lính Hán phân thành từng ngũ một,
mỗi ngũ đóng một chỗ. Chúng nằm dài ra nghỉ, mỗi đứa có tới ba lao binh phục dịch. Một
người bóp chân, đấm lưng, một người mang quần áo, một người phục dịch nấu ăn. Bọn lao
binh đầy vẻ mệt nhọc, bơ phờ. tuy ngồi nghỉ, nhưng có người khóc, kẻ kêu. Bỗng có tiếng
khóc rống lên: 
– Ối con ơi là con. Con đang đau nặng, mẹ con thì chết rồi mà bố phải đi lao binh thì con sẽ
sống với ai? Ai nuôi con? 
Người buông tiếng khóc là tráng niên mập mạp, tuổi chưa tới ba mươi. Anh ta khóc càng
ngày càng lớn tiếng, người run lên bần bật như bị lạnh. 
Có tiếng gọi: 
– Thằng Hoan đấy hả? Cơn sốt rét của mày chưa hết sao? 
Người tên Hoan càng run mạnh hơn. Tiếng khóc của chàng càng thê lương. Tên trưởng
đoàn phát cáu, quát: 
– Đứa nào khóc đó? Câm mồm lại ngay! 
Nhưng tiếng khóc vẫn không ngừng. Tên trưởng đoàn bực mình vẫy tay một cái. Hai tên lính
Hán đến nắm tóc người đàn ông khốn nạn lôi đến gốc cây bắt qùy xuống. Tên trưởng đoàn
bắt tập trung hết lao binh thành vòng tròn, nói: 
– Kể từ nay, tao cấm khóc. Đứa nào khóc, sẽ như thằng này. 
Nói rồi, nó cầm dao đưa lên. Loáng một cái, cắt đứt tai trái người kia. 
Người đàn ông tên Hoan đau đớn quá, hóa liều, y nhảy lên ôm lấy tên đội trưởng, cắn vào
mặt nó. Thế là hai ngươi ôm nhau lăn xuống đất vật lộn. Bọn Hán hò hét, lấy dao chặt một
tay người kia. Người kia còn có một tay, ôm không vững đành buông tên đội trưởng ra. 
Tên đội trưởng cáu quá, quát lên: 
– Đem cả xâu của nó ra đây. 
Bọn lính Hán lôi bốn người còn lại ra, bắt quỳ xuống trước mặt. Tên đội trưởng nói: 
– Thằng này đánh tao, vậy tao ra lệnh cho chúng mày, mỗi đứa phải xẻo một miếng thịt của
nó. Đứa nào lừng chừng đứa đó sẽ bị xẻo thịt. 
Nói rồi, nó đưa dao cho một lao binh. Tên lao binh này cầm dao run lẩy bẩy tiến đến, dơ lên,
rồi không hạ xuống được. 
Tên đội trưởng quát lên một tiếng, vung đao chặt xuống đầu tên lao binh... Mọi người rú lên
một tiếng kinh sợ. Họ thấy ánh thép loáng một cái, sau một tiếng ối, một cái đầu rơi xuống
đất. Khi họ mở mắt ra thì không phải cái đầu của tên lao binh mà là cái đầu của tên đội
trưởng. 
Tiếp theo, hai người từ trên cây nhảy xuống, vung kiếm đưa liên tiếp. Mỗi lần đưa, một cái
đầu quân Hán rơi. Hai người đó là Đào Kỳ và Phương Dung. 
Phương Dung hô lớn: 
– Anh em lao binh, mau cướp khí giới của giặc Hán, đánh nó. 
Đám lao binh có người cầm đầu cùng xúm vào ôm lấy bọn lính Hán, cướp vũ khí. Chỉ một
lát thì ba mươi tư tên lính Hán bị bắt hết. Còn mười sáu tên bị Đào Kỳ và Phương giết chết. 
Phương Dung nói lớn: 
– Anh em lao binh nghe đây: Chúng ta đều là người Việt, tại sao chịu nhục để cho bọn Hán
bắt làm lao binh? Bây giờ chúng ta đã giết mười sáu tên, bắt sống ba mươi tư tên, vậy
chúng ta hãy trốn vào rừng, lập trại để sống. Anh em có dám làm không? 
Bọn lao binh đồng la lớn: 
– Dám làm! 
Đào Kỳ chỉ vào khu rừng, nói: 
– Trong này có ngọn suối. Vậy ngày mai này, chúng ta vào đó lập trại, luyện tập võ nghệ,
chờ ngày khởi nghĩa, đuổi giặc Hán. Lúc đó, chúng ta sẽ được tự do hồi hương, sống với
gia đình. 
Đám lao binh reo hò đồng ý. 
Phương Dung điều khiển mọi người di chuyển vào trong rừng sâu. Đợi qua đêm, sáng hôm
sau, họ đẵn gỗ, cắt lá làm nhà. Đào Kỳ chia năm người thành một ngũ, năm ngũ thành một
lượng, năm lượng thành một tốt và năm tốt thành một lữ. Tổng cộng được hai lữ. 
Chàng chọn mấy người có sức khỏe, cử lên làm ngũ trưởng, lượng trưởng, tốt trưởng và lữ
trưởng... Chàng huấn luyện họ theo phép luyện quân của sách Tôn-tử, Lục-thao. 
Trong vòng một tháng, doanh trại đã đủ, kỷ luật nghiêm minh. Chàng thấy lữ trưởng lữ 1 là
Lê Hoàng lanh lẹ hơn lữ trưởng lữ 2 Phạm Tân, chàng bèn cho Lê Hoàng kiêm nhiệm chức
sư trưởng, coi cả hai lữ. 
Để cho đủ nhu cầu nuôi quân, Phương Dung lấy số vàng bạc cướp ở huyện Đăng-châu đến
các trang ấp gần đó bán đi, mua gạo thóc mang về. Hai lữ hàng ngày phải trồng trọt rau đậu,
khoai sắn làm kế sinh nhai. 
Đào Kỳ đặt tên cho trang là Văn-lạc, rút từ hai chữ Văn-lang, Âu-lạc. Sau khi chỉnh đốn trang
xong, Phương nói với Đào Kỳ: 
– Chúng ta có một nghìn người thực, nhưng cần phải liên lạc với các trang khác mới có thể
đứng vững. Ởã đây gần Mê-linh, chúng ta nên tới Mê-linh liên kết với Thi Sách và Nhị
Trưng. Bởi, nếu chỉ với một nghìn người, quân Hán kéo đến thì không đầy một ngày là bị
tiêu diệt. 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Việc gặp Đặng Thi Sách và Nhị Trưng chưa biết thế nào. Ba người này tiếng tăm lừng lẫy,
thì tai mắt giặc theo dõi không ít. Liệu họ có thể lo cho trang của chúng ta không? Từ đây về
Đăng-châu cũng không xa, chi bằng ta cho người về liên lạc với chú Hùng. Chú là Huyện-úy, giặc sẽ ít nghi ngờ. Vả xưa nay, chú vẫn quy dân lập ấp quen rồi, chú có thể lo thêm cho
trang Văn-lạc được. Hoặc biết đâu, chú có thể cử một trong các em lên đây trông coi trang
này cũng nên. 
Đào Kỳ gọi Lê Hoàng, trao cho bức thư và dặn: 
– Lê đại ca! Đại ca cầm bức thư này về trang Hiển Minh ở Đăng-châu, gặp Lạc-hầu là Đào
Thế Hùng trao cho người. Đào Lạc-hầu là chú ruột tôi. Đại ca kể sơ lược cho chú tôi nghe
mọi biến chuyển ở đây. 
Lê Hoàng tuân lệnh, cầm thư lên ngựa ra đi. 
Hàng ngày Đào Kỳ huấn luyện võ thuật, hành quân, xung trận cho các tráng đinh. Chàng
chia ra: Cứ hai toán làm việc thì một toán luyện tập. 
Phương Dung đã bán gần hết số vàng ngọc cướp được ở Đăng-châu, mua sắt, đồng về rèn
luyện vũ khí, mà vẫn không đủ. 
Nàng chợt nhớ đến một đoạn trong Tôn Tử binh pháp: 
– Tại sao ta không lấy vũ khí của Hán làm vũ khí của mình? 
Nàng bàn với Đào Kỳ: 
– Bây giờ chúng ta đã vũ trang cho bảy trăm tráng đinh rồi. Vậy chúng ta băng rừng tới vùng
Tiêu-sơn phục kích, đón đoàn tải vũ khí, lương thực về Trung-nguyên của Tô Định để đánh
cướp. 
Đào Kỳ thắc mắc: 
– Tại sao lại vùng Tiêu-sơn? 
Phương Dung cười: 
– Đại ca quên câu hư là thực, thực là hư sao? Nếu chúng ta chặn cướp ở đây, Lê Đạo Sinh
sẽ cho người điều tra, rồi mang quân lên đánh, chúng ta sẽ gặp nguy hiểm. Chúng ta vượt
rừng tới Tiêu-sơn là địa phận của chín trang ấp thuộc quyền Lê Đạo Sinh mà đánh cướp,
khiến cho y điên đầu. Thêm nữa, Tô Định lại có thể nghi ngờ y. Có điều, chúng ta phải phục
kích bắt gọn, không cho một tên sóng sót chạy thoát. Như vậy, Tô Định sẽ cứ tưởng đoàn
vận tải đã sang Trung-nguyên. Hơn năm sau không thấy trở về, mới cho điều tra, lúc đó, e
rằng còn khó khăn hơn bắc thang lên trời. 
Đào Kỳ khám phá ra rằng Phương Dung cũng đọc những sách Lục-thao, Tôn-tử binh pháp
như chàng, nhưng nàng áp dụng uyển chuyển hơn nhiều. Nàng tổ chức những toán do
thám nho nhỏ khắp nơi. Khi được tin có đoàn vận tải vũ khí, lương thảo sắp tới, nàng thân đi
thám sát địa thế: Chỗ nào phục quân, chỗ nào phục toán tiễn thủ, chỗ nào lăn gỗ đá chặn
đường. Phương Dung còn cẩn thận hơn, cho tráng đinh tập trận thử, để khi lâm trận không
bị bỡ ngỡ. 
Trong một tháng, Phương Dung đã đánh cướp ba đoàn vận tải. Lính Hán chuyên chở nào là
vũ khí, nào là lương thực, nào là lừa ngựa, trâu bò, đều bị cướp hết. Trong trang Văn-lạc
kho đụn chất đống, vũ khí dư thừa. Trang có đến hơn ba trăm con trâu để cày bừa, chuyên
chở. Ngựa chiến gần năm trăm con. 
Đào Kỳ định đánh cướp nữa, nhưng Phương Dung cản lại: 
– Không nên! Nếu trong chiến tranh, chúng ta đánh cướp của giặc càng nhiều càng tốt.
Nhưng chúng ta hiện còn đang ẩn thân, nếu đánh cướp nhiều quá, có thể sẽ bị lộ mất. Hãy
tạm ngưng. Chỉ khi nào thiếu lương thảo mới tiếp tục. 
Trong thời gian đó, Phương Dung giải thoát hơn năm trăm lao binh nữa. Thế là lực lượng
trang Văn-lạc lên tới một sư, toàn những trai tráng ngút lửa yêu nước, chờ đợi ngày tiến
đánh Luy-lâu. Hơn tháng sau, một hôm Phương Dung đang bàn với Đào Kỳ về phương
lược sử dụng đạo binh Văn-lạc bất thần đánh Luy-lâu, thì tráng đinh vào báo: 
– Có khách từ phương xa tới, xưng là Trương Thủy Hải, Trương Đằng Giang và Trần Khổng
Chúng xin vào yết kiến. 
Phương Dung nghe báo, mừng quá nói: 
– Ba vị sư thúc của em tới. Chúng mình mau ra đón. 
Đào Kỳ lấy áo khoác vào mình, theo Phương Dung ra cổng trang. Chàng hỏi: 
– Anh chưa từng nghe đến danh hiệu sư thúc Trần Khổng Chúng. Trong kỳ đại hội sao
không thấy người? 
Phương Dung đáp: 
– Trần sư thúc là đệ tử út của thái sư phụ. Năm xưa được sư tổ thương yêu rất mực. Khi sư
tổ mất tích, sư thúc nhớ thương người đến ngơ ngẩn cả người. Thế rồi, người bỏ đi tìm sư
tổ. Từ đấy, trong môn phái, không ai biết người ở đâu. Bây giờ người trở về, chắc có tin tức
của sư tổ. 
Phương Dung là cô gái lanh lợi, thông minh, lễ phép. Nàng được các sư thúc thương yêu
đặc biệt, tình nghĩa thâm trọng. Nàng thấy các sư thúc, định quỳ xuống làm lễ, Trương Thủy
Hải đã phất tay: 
– Sư thúc miễn lễ cho con. Cháu Đào Kỳ với con đã làm được nhiều việc đến bố cháu cũng
không ngờ tới. 
Vào tới sảnh đường, Trần Khổng Chúng mắng yêu Phương Dung: 
– Con gái yêu của sư thúc càng lớn càng xinh đẹp. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Tại sao các vị lại biết chúng cháu ở đây mà đến thăm? 
Trương Đằng Giang cười: 
– Các cháu ngạc nhiên là phải. Việc làm của các cháu bí mật đến quỷ thần cũng không hay,
bọn ta làm sao biết được? Nguyên chúng ta đi thăm dò tin tức của thân phụ Thánh Thiên, thì
gặp thái sư phụ. Người đã thoát khỏi nhà tù Luy-lâu. Người khen ngợi cháu Đào Kỳ luôn
miệng. Hiện người đã nhận một thiếu nữ còn trẻ làm đệ tử. Thiếu nữ đó là em út của Trần
sư đệ đây. 
Phương Dung nắm tay Trần Khổng Chúng: 
– Sư thúc, lâu nay ngươi đi đâu? Cháu nhớ sư thúc đến chết được. 
Trần Khổng Chúng cảm động: 
– Chú cũng vậy. Khi chú rời Cối-giang đi tìm sư phụ thì cũng nhớ cháu suốt ngày, suốt đêm.
Chú đoán rằng thái sư phụ bị Hán bắt, vì vậy, chú bỏ sang Trung-nguyên, học tiếng Hán,
đầu quân cho Quang Vũ. 
Đào Kỳ ngơ ngác không hiểu. Phương Dung vỗ tay: 
– Mưu kế của chú thực tuyệt. Chú muốn làm người Hán để dò la tin tức sư tổ. Chứ nếu chú
đầu quân làm việc cho người Hán tại Lĩnh-nam thì không được trọng dụng. 
Trần Khổng Chúng gật đầu: 
– Chú đầu quân vào đạo của Ngô Hán. Nhờ võ công Lĩnh-nam khắc chế võ công Trung-nguyên, chú thắng hầu hết các võ sĩ của Ngô. Ngô Hán trọng dụng chú, cho chú làm sư
trưởng. Từ sư trưởng, chú tham dự nhiều trận đánh, có công, chú được Quang Vũ tiếp kiến.
Quang Vũ hỏi chú muốn được thưởng gì? Chú xin được về làm quan ở Lĩnh-nam. Quang
Vũ cho chú theo Tô Định sang Giao-chỉ với chức vụ Đốc-bưu. 
Phương Dung ngơ ngác hỏi: 
– Đốc-bưu là chức vụ gì? 
Đào Kỳ gần Lục Mạnh Tân lâu, chàng biết khá nhiều về quan chức nhà Hán. Chàng đap: 
– Đốc-bưu là một chức vụ thay Thái-thú đi thanh tra các nơi. Cho nên người Trung-hoa
thường nói: Thái-thú là vua, Đốc-bưu là Ngọc-hoàng Thượng-đế. Ý chỉ Đốc-bưu là chức
quan hét ra lửa, mửa ra khói. Các Huyện-úy, Huyện-lệnh nghe Đốc-bưu đến thì sợ như sợ
cọp. 
Trần Khổng Chúng tiếp: 
– Chú trở về Giao-chỉ, đến bạn hữu, thân thuộc cũng không nhận ra chú. Ai cũng tưởng chú
là người Hán. Chú đi khắp các nhà tù Giao-chỉ thanh tra để tìm thái sư phụ. Cho đến một
ngày kia, chú vào thăm nhà tù Luy-lâu, thì khám phá ra thái sư phụ mới được đua từ Thái-hà trang về. Đêm, chú vào nhà tù giải thoát cho Thái sư phụ. Người sai chú về Cối-giang
thám thính tình hình. Chú trốn về Cối-giang gặp bố cháu. Giữa lúc anh em đang hàn huyên
vui vẻ, thì có khách từ Đăng-châu tới. 
Phương Dung ngắt lời: 
– Chắc là người của Đào gia? 
Trần Khổng Chúng cười: 
– Không phải là người của Đào gia, mà là ông bà Đào Thế Hùng. Ông bà tới gặp bố mẹ
cháu. Người mang theo nào trâu, nào bò, nào dê, nào lợn. 
Đào Kỳ kêu lên: 
– Ủa! Chú cháu tới có việc gì mà lại mang nhiều lễ vật như vậy? 
Trương Đằng Giang cười: 
– Còn gì nữa? Nếu là việc phục quốc thì chỉ mình ông đi là đủ rồi. Đây có bà đi theo thì chỉ
còn có việc hỏi con bé Dung về làm dâu họ Đào. Đào huynh với sư huynh ta là bạn cũ, hai
bên gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Họ ôm lấy nhau mà khóc. Hai bên khóc như trẻ con thiếu
sữa vậy. 
Thời bấy giờ, quyền cha mẹ rất lớn. Khi cha mẹ qua đời, chú thím hoặc cậu mợ, cô dì sẽ
thay thế, đứng ra dựng vợ gả chồng cho các cháu. Thường thì bề trên quyết định, không
bao giờ hỏi ý kiến đôi trẻ cả. Ông bà Đào Thế Hùng thấy anh chị thất lạc không tin tức, mà
Đào Kỳ, Phương Dung quấn quít bên nhau. Ông bà quyết định đi Long-biên hỏi Phương
Dung cho cháu làm vợ. Ông bà biết cháu với Tường Quy có mối ẩn tình. Tường Quy trước
mắt ông bà là một thứ Mỵ Châu, thân thể ô uế. Còn so bề gia thế, cha Tường Quy là Huyện
úy Bắc-đái, làm sao bì với Nguyễn Trát, tiếng tăm lừng lẫy về ý chí phục quốc. Phương
Dung xinh đẹp đâu kém Tường Quy? Võ công nàng lại siêu việt, kiến thức, mưu trí tuyệt vời.
Ông bà mới gặp đã thấy thương yêu như con đẻ. 
Trương Thủy Hải tiếp: 
– Ông bà Đào Thế Hùng đưa thư của hai cháu ra bàn với chúng ta. Hai cháu muốn ông tiếp
nhận trang Văn-lạc, nhưng ông không kham nổi, vì ông đang muốn liên hệ, ảnh hưởng đến
các Lạc-hầu ở Đăng-châu. Ông bà nhờ bố cháu cử người lên trông nom dùm. Bố cháu
quyết định cử chú với chú Đằng Giang lên đây. Nhân tiện chú Khổng Chúng nhớ cháu quá,
cũng đòi đi theo để nhìn mặt con bé xinh đẹp của chú. 
Đào Kỳ, Phương Dung tập họp tráng đinh, giới thiệu Trương thị huynh đệ với họ. Còn
Khổng Chúng thì vì cần bảo vệ bí mật nên không ra mặt. 
Sau lễ giới thiệu, Đằng Giang tiếp xúc với tráng đinh một buổi. Tối trở về sau khi cơm nước,
ông gọi Phương Dung, Đào Kỳ nói: 
– Hai cháu khôn thì khôn thực. Mưu trí, võ công đều giỏi hơn chú. Song có điều các cháu
còn trẻ, không kinh nghiệm đời. 
Phương Dung ngạc nhiên: 
– Chú muốn nói...? 
– Cháu cho tráng đinh ăn uống đầy đủ, đối xử tử tế. Nhưng vì các cháu còn trẻ, các cháu
quên mất họ đều đã có gia đình. Họ ở đây mà lòng nhớ nhung cha mẹ, vợ con. Vậy từ ngày
mai, ta phải tìm cách đón vợ con họ lên ở trong trang, làm kế lâu dài

Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. 
(Kinh Thi, Quan thư) 
Nghĩa là: 
Có người con gái nết na, người quân tử đến xin cầu hôn. 
Câu này trích trong bài Quan-thư, phần Quốc-phong, Chu-nam, kinh Thi. Hai câu này rất
thông dụng trong ngôn ngữ cổ, khi nói đến hôn nhân. 
Từ trang Văn-lạc đi Mê-linh không xa, chỉ mất khoảng một ngày sức ngựa. Đào Kỳ, Phương
Dung càng đi gần về phía Mê-linh, càng thấy dân cư đông đúc, trang ấp rộng rãi. 
Qua một vài thị trấn nhỏ, họ dừng bước ngắm cảnh. Phương Dung nhận thấy ở vùng này
quân Hán đỡ sách nhiễu dân chúng hơn vùng Long-biên. Dân chúng tương đối được tự do
hơn. 
Đào Kỳ đưa ra nhận xét: 
– Người ta bảo rằng người nước Lỗ ai cũng biết đọc sách cũng không sai. Từ đây lên Mê-linh còn cả mấy chục dặm, vậy mà ảnh hưởng của Đặng Thi Sách với Nhị Trưng đã mạnh
mẽ thế: Dân chúng sống thoải mái, tự do, bọn quân Hán không dám sách nhiễu. 
Nói xong chàng mỉm cười, mặt tươi hẳn lên, đầy hứng thú, tưởng chừng trên đời chưa bao
giờ có vậy. 
Phương Dung suy nghĩ: 
– Từ ngày gặp chàng đến giờ, chưa bao giờ thấy chàng cao hứng như vậy. Suốt ngày nếu
không than thở bọn Hán tàn bạo, lại nguyền rủa bọn Việt theo Hán, hoặc tủi hận đất nước
tối tăm, điêu tàn. Cho tới hôm gặp Lê Chân, Phùng Vĩnh Hoa và chú của chàng mới thấy
chàng cao hứng một lần. Nhưng sau đó chàng lại buồn sầu mất hết chí khí vì vụ Tường
Quy, ta không biết cách nào khuyên giải được. Không ngờ giữa đường, ta với chàng lập
đưọc trang Văn-lạc, rồi đến đây, thấy ảnh hưởng của Thi Sách, Nhị Trưng mạnh, chàng cao
hứng đến như vậy. Thì ra tình yêu nhân luân là chú thím, các em họ. Tình yêu nam nữ là
Tường Quy, là ta cũng không làm cho chàng vui bằng những tin tức tươi sáng về phục
quốc. Ừ! Bố ta nói: Đào-hầu là đệ nhất hào kiệt đời nay có khác. Cứ coi cung cách người
con út, bị xa cha mẹ từ năm mười ba tuổi mà còn thế. Thử hỏi chính bản thân người thì tư
cách, hùng tâm còn cao đến đâu? 
Hai người đi qua một trang, thấy ngoài cổng treo đèn kết hoa rất đẹp, trên có chữ Toàn-liệt.
Dưới chữ Toàn-liệt có chữ Vu-quy kết bằng hoa hồng, hoa mào gà đỏ thắm. Đào Kỳ gò
cương đứng ngắm, rồi nói: 
– Phương Dung! Em thử đoán xem, dường như trang chủ Toàn-liệt gả chồng cho con gái thì
phải? 
Dù học võ, dù mưu đồ phục quốc, Phương Dung cũng vẫn là cô gái tuổi còn nhỏ, thích tò
mò vào chuyện yêu thương, vợ chồng: 
– Ừ nhỉ, anh Kỳ, chúng ta đứng đây ngắm xem cô dâu có đẹp không, nghe. 
Đào Kỳ cười: 
– Ngắm xem cô dâu đẹp hay xấu để biết vậy thôi, chứ còn để xem người đẹp, thì không có
đâu. 
– Sao vậy? 
– Trên thế gian này làm gì có người đẹp hơn Nguyễn tiểu thư ở trang Cối-giang? 
Đào Kỳ là người ngay thẳng. Có sao nói vậy. Chàng khen Phương Dung đẹp, quả không
sai. Chàng có ý tưởng so sánh giữa sư tỷ Thiều Hoa, Phương Dung và Tường Quy, ai đẹp
nhất? Chàng lẩm bẩm một mình: 
– Sư tỷ Thiều Hoa vừa có vẻ đẹp tươi sáng, ôn nhu văn nhã, vừa có sức hút người nhìn sư
tỷ rất mạnh. Vẻ đẹp của sư tỷ cao sang như một hoàng hậu. Tường Quy thì trong cái vẻ đẹp
ôn nhu văn nhã, cón có vẻ lãng mạn, tha thướt, yểu điệu. Phương Dung thì khác, nàng đẹp
lồ lộ như bông hải đường mới nở chói chang dưới ánh nắng. Con mắt Tường Quy thì luôn
cúi xuống, bí hiểm, sâu xa. Còn đôi mắt Phương Dung thì chiếu ra ánh sáng long lanh, uy
nghiêm. Về trí khôn thì Tường Quy kém nhất. Sư tỷ Thiều Hoa thông minh thì có, nhưng
quyền biến thì không. Phương Dung thì thông minh tuyệt thế, lại thâm mưu viễn lự. Từ hôm
gặp mình, nàng mới học Lục-thao, Tôn-tử, thế mà nàng đã hiểu thấu đáo, áp dụng uyển
chuyển. Trong vài lần phục kích quân Hán, nàng điều động tráng đinh nhịp nhàng. Bọn lính
vận tải bị bắt gọn, trong khi tráng đinh không mất một người. Tài đó, ta e đến bố với cậu ta,
nổi tiếng giỏi dùng binh cũng không bằng. Nếu cứ đà này, mấy năm nữa, có lẽ không ai địch
nổi nàng. 
Phương Dung nghe Đào Kỳ khen mình đẹp, biết chàng khen thực tâm. Mặt nàng đỏ lên,
hiện ra vẻ e thẹn. Nàng định nói: Em đâu có đẹp bằng Tường Quy, nhưng nàng kìm lại
được, vì thời bấy giờ, con gái mà nói mát, nói dỗi, hay ghen tương là một tính xấu. Vả nàng
được bố dạy dỗ từ nhỏ, để sau này cầm quân khởi binh, nàng có cái khí hùng, trí dũng, nên
ít khi thốt ra những câu nhi nữ thường tình. 
Hai người vừa dừng ngựa, thì thấy một lão ông mặc áo đen, thắt lưng đỏ chạy ra vái: 
– Hai vị từ xa tới đây, gặp lúc trang chủ chúng tôi cho ái nữ vu quy. Trước lạ sau quen, xin
mời hai vị dời gót vào tệ trang uống chén rượu. 
Phương Dung vội nói ngay, vì nàng sợ Đào Kỳ từ chối: 
– Được chứ, được chứ. Người Văn-Lang thì đều là con cháu Lạc Long quân, một nhà cả
mà. 
Cău nói của Phương Dung làm ông lão áo đen tươi mặt lên, hiện ra vẻ khác lạ. Lão dẫn hai
người vào trang. 
Đào Kỳ thấy trang Toàn-liệt nhỏ hơn trang Thái-hà, nhưng lớn không kém trang Hiển Minh
của Đào Thế Hùng. Chàng hỏi lão già: 
– Lão tiên sinh! Chẳng hay cao danh quý tính của trang chủ là chi vậy? 
Lão già đáp: 
– Trang chủ chúng tôi họ Trần, húy là Hậu. Trang này truyền đã bảy đời rồi. Trần-hầu chúng
tôi chỉ có một tiểu thư gả về công tử của Hùng-hầu trang Thượng-hồng. Hùng-hầu là cháu
bảy đời của Hùng-vương thứ tám mươi tám (88). 
Hai người đã vào đến nhà rạp lớn, người ngồi rất đông. Trang chủ Trần Hậu là một người
tuổi khoảng bốn lăm, bốn sáu, tướng mạo thanh nhã như nho sinh. Ông ra mời Đào Kỳ,
Phương Dung vào bàn. Hai bên chưa kịp trao đổi câu nào, thì có tiếng pháo nổ dòn dã ở
cổng trang. Rồi có tiếng loa xướng: 
– Hùng-hầu và quý khách trang Thượng-hồng tới. 
Trần-hầu cáo lỗi cùng Đào Kỳ và Phương Dung để cùng phu nhân ra đón khách. Họ nhà trai
đi khá đông, khoảng trăm người, khiêng gạo, dắt trâu đến để nạp đồ sính lễ. 
Bước vào nhà rạp, Hùng hầu khoanh tay hướng vào mọi người hành lễ, thưa: 
– Nhờ phúc ấm của tổ tiên, giòng dõi họ Hùng chúng tôi sinh được một trai là Hùng Bảo.
Trai khôn tìm vợ, gái ngoan gả chồng, đó là lời dạy của các vua Hùng. Cho nên chúng tôi xin
đến trước cửa Trần hầu, khẩn cầu cho Trần tiểu thư kết hôn với Hùng Bảo. 
Đào Kỳ ghé tai Phương Dung nói nhỏ: 
– Hùng hầu là người chống Hán cực đoan. Ông dùng lời dạy của vua Hùng, chứ không
dùng chữ trong sách vở Trung-nguyên. 
Phương Dung không chịu: 
– Biết đâu ông không đọc sách Trung-nguyên thì sao? 
– Ừ nhỉ! 
Trần hầu đáp lễ, nói: 
– Nhất sinh chúng tôi chỉ có một gái là Trần Năng. Chim khôn tìm cây cao mà đậu. Được
Hùng-hầu đoái thương hỏi về làm dâu, chúng tôi xin kính cẩn tuân lời cầu hôn. 
Ông vẫy tay một cái, người nhà dẫn cô dâu ra. Cô dâu đầu quấn khăn vàng, mặc áo lụa đỏ,
từ nhà trong đi ra. Phương Dung huých cùi chỏ vào Đào Kỳ: 
– Cô dâu đẹp đấy chứ! 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Dĩ nhiên là đẹp rồi, nhưng còn thua ba người. 
Phương Dung hỏi: 
– Thua ai? 
– Một là sư tỷ Thiều Hoa, hai là Nguyễn tiểu thư ở Cối-giang, ba là... 
Phương Dung cướp lời: 
– Ba là Thanh thanh tử khâm. 
Phương Dung nhắc đến Tường Quy, Đào Kỳ lại ngơ ngẩn, xuất thần. Ngoài kia, Trần Hậu
quỳ xuống trước bàn thờ gia tiên khấn xong, ông nói: 
– Các con vào lễ gia tiên đi. 
Hùng Bảo tiến lên đứng ngang với cô dâu Trần Năng. 
Trần-hầu hô: 
– Lễ gia tiên, bốn lễ. 
Hai người cùng quỳ xuống lễ đủ bốn lễ. 
Trần-hầu nói: 
– Ơn đức của tổ tiên để lại, công cha nghĩa mẹ sinh ra con, nuôi cho khôn lớn. Cha cho con
đi làm dâu họ Hùng. Từ nay, con là người họ Hùng, sống gửi thịt, chết gửi xương. Các con
quỳ xuống lễ cha mẹ. 
Nói xong, ông cùng phu nhân ngồi lên sập. Hùng Bảo, Trần Năng quỳ xuống lễ bốn lễ. 
Ghi chú của thuật giả 
Theo phong tục tộc Việt, khi con gái rời cha mẹ về nhà chồng, là thuộc họ nhà chồng. Cô
dâu chú rể lạy cha mẹ vợ trong buổi hôn lễ, trước 1945 còn duy trì. Hiện trong nước cũng
như hải ngoại nhiều gia đình Việt Nam còn áp dụng. Tục lệ này rất tốt, rất đẹp. Chúng ta nên
duy trì. Còn tục lệ lễ Tơ Hồng là theo truyện truyền kỳ tưởng tượng ma trâu đầu rắn của
Trung-quốc truyền vào Việt Nam sau này. 
Trần-hầu nhận đủ bốn lễ rồi nói : 
– Phu thê giao bái. Hai con phải lạy nhau ba lạy. Sau lễ này là thành vợ chồng . 
Bỗng có tiếng quát lớn: 
– Khoan! 
Mọi người giật mình nhìn ra thì thấy một lão già và một số đông người gươm đao sáng
choang, đã bao vây quanh nhà rạp tự bao giờ. Phương Dung nói khẽ với Đào Kỳ: 
– Lão già này là ai? 
Lão già bước vào giữa nhà rạp. Hai họ đều đứng dậy, nhưng im phăng phắc. Trần Hậu
bước ra chắp tay vái dài: 
– Hôm nay được ngày lành tháng tốt, họ Trần tôi cho cháu gái vu quy về làm dâu Lạc hầu
họ Hùng. Không ngờ được Đinh nhị tiên sinh giá lâm chia vui với chúng tôi, thực là vạn
hạnh. Nào, mời Đinh tiên sinh vào. 
Lão Đinh nét mặt rất khó coi, nói gằn từng tiếng: 
– Trần trang chủ! Con gái trang chủ là Trần Năng đã hứa gả cho chủ nhân tôi rồi, tại sao lại
nuốt lời, gả cho gã tiểu tử Hùng Bảo này? 
Trần Hậu lắc đầu: 
– Đinh nhị tiên sinh dạy sai rồi. Tôi có hứa gả tiện nữ cho Đinh đại tiên sinh bao giờ đâu? So
với con gái tôi, Đinh đại tiên sinh đáng tuổi ông nội, sao Đinh tam tiên sinh lại nói vậy? 
Câu nói làm cả rạp cười ồ lên. Có tiếng cười khúc khích: 
– Đúng là già mà dê. Đã có mười vợ rồi còn không đủ sao? 
Lão Đinh liếc mắt một cái ban lệnh cho thủ hạ. Lập tức một người chạy vào nhà rạp lôi
người đàn bà vừa nói câu đó ra ngoài tát hai cái. Mũi người đàn bà bị chảy máu đỏ lòm.
Người đàn bà vừa khóc, vừa chửi: 
– Cha tiên nhân bố thằng Đinh Công Dũng. 
Tên thủ hạ lại tát hai cái nữa. Người đàn bà ngoác mồm ra chửi: 
Tiên nhân cha mày họ Đinh. 
Cậy tiền cậy của, 
Cậy thế, cậy thần, 
Hiếp người yếu đuối, 
Ăn ở bất nhân, 
Tổ tiên ô nhục, 
Con cháu nợ nần... 
Nguyên dân chúng vùng này thường đặt những bài ca khen ngợi những người đạo đức và
cũng có những bài vè để chửi rủa nhau. Người đàn bà bị đánh đau, thuận miệng đọc bài vè
chửi rủa lão Đinh. 
Lão Đinh tức quá, quát lớn: 
– Vả vào miệng nó cho ta. 
Bọn thủ hạ xúm vào chân đá, tay đánh người đàn bà. 
Người đàn bà bị đánh càng chửi rủa lớn hơn: 
– Tên khốn kiếp Đinh Công Dũng, người dám để lũ đệ tử đánh bà ư? Tổ tông mười tám đời
nhà mày sẽ không yên ổn với bà đâu. 
Bọn thủ hạ càng nặng tay hơn. 
Cô dâu Trần Năng quát lên: 
– Ngừng tay! 
Nàng phóng ra khỏi rạp. Tay chụp hai tên thủ hạ của lão Đinh liệng ra xa, rồi đỡ người đàn
bà dậy, hỏi: 
– Chị Cần, chị có sao không? 
Người đàn bà bị thâm tím mặt mày, nhưng tính khí quật cường vẫn còn: 
– Không sao, chị chỉ đau một tý thôi. Nhưng tổ tông mười tám đời họ Đinh nhà hắn sẽ bị
người đời xỉ vả. Cả giòng họ hắn không dám ngước mặt nhìn đời nữa. 
Bọn thủ hạ Đinh Công Dũng lại ào đến định đánh người đàn bà kia. Cô dâu lắc mình một
cái, binh, binh, binh cô đá một thế trực cước, một thế hoành cước, một thế hồi phong cước,
ba tên thủ hạ văng ra xa, nằm quằn quại không ngồi dậy được. Đồng bọn vội chạy đến đỡ
dậy. Ba tên mặt mũi nhăn nhó, tỏ vẻ đau đớn. 
Đào Kỳ nói nhỏ bên tai Phương Dung: 
– Nàng sử dụng võ công Tản-viên đấy. Cái đá thẳng trước, chân chưa thu về biến thành
vòng cầu, rồi nhảy vọt lên quay một vòng, đá giò lái là chiêu thức khá cao của Tản-viên.
Nhưng dường như tập chưa được thành thục lắm cho nên, lúc đáp xuống phải lùi hai bước. 
Bọn thủ hạ của lão Đinh không dám xông vào đánh Trần Năng. Chúng biết rằng chủ nhân
của chúng vì mê cô mà đến gây sự. Nếu chúng ra tay, chủ nhân chúng không những không
vui lòng, lại nổi giận thì nguy. 
Đinh lão nhị cười ha hả: 
– Mỹ nhân ơi! Không ngờ mỹ nhân cũng biết võ. Hôm nay đại ca sai ta đến đây đón mỹ
nhân về làm phu nhân thứ mười của người, chứ có phải sai ta đi đánh nhau đâu? Cô nương
sau này là chị dâu của ta. Ta đâu dám mạnh tay với cô. Nhưng sự thể đã thế này, ta đành
vô lễ vậy. 
Nói rồi y tiến đến trước mặt Trần Năng, chụp vào ngực nàng. Cử chỉ, thái độ thực khả ố. 
Trần Năng trầm người xuống tránh khỏi, chân di chuyển sang trái, rồi quay ngoắt người lại
tát vào mặt Đinh lão nhị đánh bốp một cái. Cái tát này nàng vận toàn lực, khiến Đinh lão nhị
phải lùi lại một bước. Cả hai họ cười oà lên, đầy vẻ chế diễu. Đinh lão nhị nổi giận quát: 
– À, con ác phụ. Mày dám hỗn à? 
Nói rồi, y vung quyền nhắm đỉnh đầu Trần Năng đánh tới. Trần Năng không sợ, phóng
chưởng đỡ. Chưởng lực của nàng khá hùng hậu. Quyền chưởng gặp nhau đánh bộp một
cái. Đinh Công Hùng cảm thấy cánh tay bị tê rần. Y ngạc nhiên suy nghĩ: 
– Con nhỏ này học võ bao giờ, ta không ngờ tới? Vì khinh địch, ta bị hạ nhục hai lần. Nếu ta
không thẳng tay, e rằng cục diện hôm nay đến mất mạng chứ không chơi. 
Đã có chủ ý, y vung chưởng phản công. Chưởng của y thuộc loại hỗn tạp, quái dị. Còn
chưởng của Trần Năng thuộc loại dương cương của phái Tản-viên. Hai người qua lại gần
ba mươi chiêu. 
Đào Kỳ bảo Phương Dung: 
– Trần cô nương thua đến nơi rồi. 
– Sao? 
– Đinh lão nhị sử dụng võ công phái Hoa-lư, bảo vệ môn hộ rất vững, trong khi đó, Trần cô
nương là nữ lại sử dụng chưởng dương cương, rất tốn hao chân khí. Chỉ một lát nữa, cô sẽ
bị bại. Chúng ta phải cứu cô mới được. 
Quả nhiên qua mấy chiêu nữa, Trần Năng bắt đầu thở hổn hển. Đinh lão nhị cười ha hả: 
– Chị dâu ơi! Nàng không địch nởi ta đâu. Thôi, mau theo ta về hợp hôn với anh ta đi. Đánh
nhau như vậy cũng đủ rồi. 
Dứt lời, y bước chéo sang bên cạnh, đánh dứ vào thái dương nàng. Trần Năng vội thụp
xuống tránh, thì y tiến lên một bước, một tay ôm ngực, một tay quàng ngang mông nàng, bế
bổng nàng lên. 
Đào Kỳ nhặt một viên sỏi định bắn vào Đinh lão nhị để giúp Trần Năng, thì, chú rể nãy giờ
đứng ngoài quan sát trận đấu, bỗng nhảy vọt lên cao. Ởã trên không, chàng vung chưởng
đánh vào đầu lão Đinh cứu vợ. 
Chưởng phong ào tới. Lão Đinh vội vuông Trần Năng ra, vung chưởng đở rồi cười: 
– À, thì ra thằng nhãi. Vậy ta với mi đấu võ ăn cuộc. Nếu mi thắng được ta, ta nguyện rút lui;
còn ta thắng, thì ta đón nàng về cho đại ca ta. 
Hai người quần thảo nhau quyết liệt. 
Đào Kỳ nói nhỏ: 
– Hùng Bảo là người nhà ta. 
Phương Dung cũng nhận thấy, nói: 
– Đúng, anh ta sử dụng võ công Cửu-chân, giống hệt những chiêu thức của chú anh sử
dụng hôm đánh nhau với Lam kiếm. Anh có biết Hùng Bảo là đệ tử của ai không? 
– Anh không rõ. Nhưng chắc không phải học trò của chú anh vì chú anh chưa từng lên vùng
này. Người cũng không hề nói cho anh biết có thu người đệ tử nào thuộc giòng dõi Hùng-vương. 
Hùng Bảo với Đinh Công Hùng qua lại với nhau trên ba mươi chiêu, thì Hùng Bảo bắt đầu
yếu thế, chân tay đã luống cuống. 
Phương Dung nhắc Đào Kỳ: 
– Anh phải giúp Hùng Bảo, nếu không, y lâm nguy mất. Y lâm nguy, e rằng mất vợ. 
Đào Kỳ gật đầu, nói lớn: 
– Kính thiên, tạ địa. 
Hùng Bảo đang luống cuống, thấy có người nhắc mình, lập tức tỉnh ngộ, một tay đánh vung
từ dưới lên, một tay vòng ngang xuống đất đúng với chiêu Kính trời, tạ đất. Bách một cái,
Đinh lão nhị bị tát trúng mặt, y đau đớn lùi lại, rồi nhảy xổ vào chụp đầu Hùng Bảo. 
Đào Kỳ lại la lớn: 
– Hàm mô nhược thủy. 
Hùng Bảo chống hai tay về phía trước như thế ngã chúi về phiá Đinh lão nhị, rồi chân lộn lên
trời, giống như con ếch nhảy xuống nước. Bốp một cái, Đinh lão nhị bị đá trúng cầm té lộn
ra sau. Cái đá này làm y cắn phải lưỡi, máu mồm chảy ra ri rỉ. Y đau quá ngã ngồi xuống
đất, không đứng dậy được nữa. Bọn bộ hạ vội ào vào, đỡ y dậy. 
Hùng Bảo sắp bại, nhờ Đào Kỳ nhắc cho hai lần đã chuyển bại thành thắng. Chàng quay
nhìn người chỉ điểm mình thì thấy đó là một thiếu niên ngang tuổi, tướng mạo uy vũ. Khi mới
đến đây, chàng đã thấy người này, ngồi bên một cô gái sắc nước hương trời. Chàng đoán
đây là những người trong họ nhà gái nên không chú ý mấy. Nay được thiếu niên chỉ điểm,
đúng là thứ võ công chàng đã học một cách thành thạo, chàng vội đến trước thiếu niên bái
tạ: 
– Không ngờ được cao nhân chỉ dạy, Hùng Bảo thành tâm đa tạ. 
Chàng đưa mắt nhìn Trần Năng dò hỏi vai vế Đào Kỳ. Nhưng Trần Năng cũng lắc đầu
không biết. Người quản gia họ Trần điều khiển đám gia nhân khiêng đồ sính lễ ban nãy vội
chạy ra nói: 
– Đây là hai vị miền xuôi mới lên Mê-linh thăm quê ngoại. Ban nãy tiểu nhân gặp trên đường
đi, khẩn khoản mời vào uống rượu mừng ngày vui của tiểu chủ. 
Trần Hậu nói với Đinh lão nhị: 
– Đinh lão tiên sinh! Mong tiên sinh giữ lời hứa, rời khỏi nơi đây. 
Đinh lão nhị chỉ mặt Trần Hậu: 
– Không bao giờ tao quên cái hận này! 
Nói dứt lời, y vẫy tay ra hiệu, rồi cả bọn kéo nhau đi. 
Trần Hậu chạy đến bên Đào Kỳ, Phương Dung nói: 
– Cao nhân giá lâm tệ trang mà tôi không biết để tiếp đón, thực đáng tội. 
Sau đó ông chủ hôn tiếp tục cho làm lễ. Lễ tất, hai họ ngồi quây quần ăn uống. Đào Kỳ,
Phương Dung được mời ngồi cùng bàn với Hùng Bảo và Trần Năng. Người nhà gái đi rót
rượu mời khách. Đào Kỳ chưa từng uống rượu bao giờ, nên lễ phép từ chối. 
Hùng Bảo hỏi chàng: 
– Nhân huynh! Dường như nhân huynh với tiểu đệ cùng một môn hộ, chẳng hay nhân huynh
có thể cho biết cao danh quý tính không? Sư thừa là ai? 
Đào Kỳ cười: 
– Tiểu đệ cũng đang muốn hỏi nhân huynh câu đó. 
Hùng Bảo nói: 
– Nhân huynh là ân nhân của tiểu đệ, đáng lẽ tiểu đệ không được dấu diếm điều gì mới
phải. Nhưng ân sư cấm tiểu đệ nói tên người ra. 
Đào Kỳ thấy Hùng Bảo trẻ tuổi, dáng người uy nghi, lại là đồng môn, nên chàng nói thực: 
– Tiểu đệ họ Đào. 
Hùng Bảo la lớn lên: 
– Chẳng hay Đào huynh với Cửu-chân song kiệt là thế nào? 
Đào Kỳ đáp: 
– Tiểu đệ là con út của Cửu-chân nhất hiệp. 
Hùng Bảo vội rời ghế đứng dậy, thụp xuống đất lạy bốn lạy: 
– Đệ tử là Hùng Bảo kính cẩn ra mắt Tiểu sư thúc. 
Hồng Bảo nói câu Tiểu sư thúc làm Đào Kỳ tỉnh ngộ. Chàng đỡ Hùng Bảo dậy, và suy nghĩ: 
– Nếu vậy, Hùng Bảo là đệ tử của sư huynh, sư tỷ ta đây. Nhị sư huynh hiện ở Hoa-lư, đại
sư huynh thì theo bố ta mất tích đã lâu. Người này mới học võ công Cửu-chân thì là đệ tử
của tam sư tỷ. Chắc tam sư tỷ ẩn náu không muốn ra mặt, nên đã cấm chàng khai rõ sư
thừa. Ta đợi sau bữa tiệc sẽ hỏi xem sư tỷ Hoàng Thiều Hoa hiện ở đâu. Ta nhớ chị muốn
chết, tìm chị khắp nơi, không ngờ chị lại ẩn ở đâu đây. 
Chàng liếc nhìn chiếc khăn vàng của cô dâu rồi mỉm cười. 
Hùng Bảo hỏi: 
– Chắc sư thúc đã đoán ra sư phụ của đệ tử rồi? 
Đào Kỳ cười, gật đầu. 
Hùng Bảo nói tiếp: 
– Sư phụ thường nhắc đến tiểu sư thúc luôn. Người nhớ tiểu sư thúc lắm. Ước mong sau lễ
cưới này, đệ tử sẽ đưa tiểu sư thúc đến tương kiến với sư phụ của đệ tử. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Câu chuyện ra sao mà lão Đinh lại đến đây gây sự như vậy? Trần Hậu nói: 
– Nguyên phía nam sông Mê-linh có ba mươi sáu động tất cả. Các động chủ mỗi động tự cai
trị lấy người của mình. Mấy chục năm trước đây, vì các động lẻ tẻ, không hợp quần với
nhau, nên bị những Lạc-hầu chung quanh lấn áp. Cho nên ba mươi sáu động phải liên kết
lại, bầu lấy một người thống lĩnh. Đinh Công Dũng là một trong các động chúa được đề cử
thống lĩnh ba mươi sáu động. Từ đấy, uy thế của hắn ngày một cao, y tụ tập bọn vô lại, tổ
chức thành đội ngũ, đi cướp của, giết người. Các động chủ không ai chống nổi hắn. Gần
đây, hắn có ý định hợp nhất ba mươi sáu động thành động Mê-linh. Các động chủ khiếp uy
hắn nên đều tuân theo, chỉ có tôi với động chủ Thượng-hồng là thông gia với tôi, thêm vào
mấy trang động nữa, dám chống lại mà thôi. Đinh Công Dũng đã có chín vợ, y muốn hỏi
cháu Năng tôi về làm vợ thứ mười, nhưng tôi không thuận. Hắn bèn cho em là Đinh Công
Hùng đến định bắt cóc cháu Năng giữa ngày cưới. 
Phương Dung cười: 
– Lão tưởng rằng với em lão, thêm một bầy đầu trâu mặt ngựa, sẽ bắt được Trần cô nương.
Không ngờ bị đánh chạy dài. Tôi xem chừng chúng nó chưa chịu thôi ngay đâu. 
Ông Hùng Trọng không biết con mình học võ và học với ai, và học bao giờ? Bất ngờ trong
tiệc cưới, thấy con ra chiêu đánh với Đinh Công Hùng, ông mới biết con mình võ công thuộc
loại cao. Ông không biết võ, nhưng thấy con mình được một người lạ mặt nhắc có hai câu,
đã đánh cho Đinh Công Hùng, một động chủ, đến phun máu miệng, thì ông biết bản lĩnh
Đào Kỳ không tầm thường. 
Sau bữa tiệc, đến lễ rước dâu. Đi đầu có ba người. Đi giữa là ông chủ hôn, bên trái là ông
cầm bó đuốc, bên phải là ông cầm bó hương. Đi sau là cô dâu chú rể và họ nhà trai. Họ nhà
gái cũng có một số người đi đưa dâu, nhưng bố mẹ cô dâu thì không đi tiễn con. 
Cô dâu Trần Năng là người học võ, tính tinh nghịch, không biết e thẹn. Nàng hỏi Đào Kỳ: 
– Sư thúc, cô nương đi bên cạnh là sư thẩm, phải không? 
Phương Dung ngượng quá, không biết trả lời sao. 
Đào Kỳ vội nói: 
– Không phải đâu. 
Trần Năng hỏi tiếp: 
– Thế cô là họ hàng hay sư muội của sư thúc? 
Đào Kỳ quýnh quá lắc đầu. Trần Năng cười, truy đến cùng: 
– À, thế thì chắc là đệ tử của sư thúc hẳn? 
Đào Kỳ cũng lắc đầu. Phương Dung than thầm: 
– Cái cô dâu này thực lý lắc. Kệ người ta có được không? Hỏi hoài! 
Trần Năng đã đoán biết trăm phần trăm rằng đây là cô bạn của sư thúc chồng mình, nhưng
vì thấy họ ngang tuổi, nên đùa cho vui: 
– Vậy thì cô là ... gì gì của sư thúc hẳn? 
Phương Dung ngượng quá, đưa tay ngắt Trần Năng một cái. Trần Năng giả bộ la lên: 
– Trời ơi! Gì gì ngắt tôi này! 
Đám cưới đi một quãng lại đốt pháo. Đến trưa thì tới trang Thượng-hồng. Cổng trang treo
đèn kết hoa rất đẹp. Bà mẹ chú rể ra trước cổng trang đón dâu. 
Tục lệ hồi đó khi cưới vợ cho con, rước dâu đến cổng, bà mẹ sẽ ra cầm tay dắt vào nhà, tỏ
ý nhận làm con trong nhà. Cô dâu phải bước qua một cái lò nhỏ đốt than ở sân. Người thời
đó tin rằng đốt cháy hết những lời nguyền rủa ác độc của kẻ thù đối với cô dâu, chú rể. Họ
nhà trai đối với Đào Kỳ cực kỳ cung kính, mời chàng với Phương Dung vào bàn nhất với
những người vai chú bác Hùng Bảo. Trong tiệc, Đào Kỳ toàn nói về chuyện phục quốc.
Những người cùng bàn với chàng tuổi đều từ bốn mươi trở lên. Họ là những người có kiến
thức, đều uất hận vì bị người Hán cai trị khinh bạc. Nghe Đào Kỳ, Phương Dung bàn luận về
chuyện phục quốc đâu ra đấy, thì biết rằng hai người này không những chỉ giỏi võ, mà kiến
thức lại khá rộng. Một vị lão thành hỏi: 
– Nghe Đào công tử bàn việc đuổi giặc Hán, chúng tôi thấy ngày sáng tươi sẽ đến. Nhưng
có điều, người Hán đông hơn ta gấp trăm lần. Nếu Hán đế quyết tâm kéo quân sang đánh
nữa, chúng ta làm sao chống lại? Đó là điều lão muốn thỉnh ý kiến công tử. 
Đào Kỳ nói: 
– Đời nhà Chu, tổ tiên chúng ta sai sứ sang cống chim trĩ và con rùa. Trên con rùa có khắc
rõ lịch số của ta. Vua nhà Chu sai chép lấy mà học. Tổ tiên ta đâu có hèn? Cống rùa, trĩ để
mua lấy an toàn cho đất nước. Cống rùa, có khắc lịch để cho vua tôi nhà Chu biết mình văn
minh hơn họ. Lại trải qua đời An-Dương vương của Âu-lạc cũng sai Lý Thân dẫn một đoàn
võ sĩ sang cống Tần Thủy Hoàng cũng để cho Thủy-Hoàng khỏi gây việc binh đao. Nhưng
Lý Thân hiển dương võ thuật, khiến cho vua Tần khâm phục, phong làm tướng đánh Hung-nô. Sau khi Vạn-tín hầu Lý Thân qua đời, Thủy-Hoàng sai Đồ Thư mang nửa triệu quân
sang đánh Âu-lạc. Âu-lạc giết Đồ Thư, đánh tan quân Tần. Chính quan Thái-sử lệnh nhà
Hán là Tư Mã Thiên đã kể về cuộc đánh nhau giữa Âu-lạc với quân Tần trong bộ sách mang
tên Sử-ký của ông, quyển 112 rằng : 
"Lúc bấy giờ vua tôi nhà Tần ở phía Bắc thì mắc họa với rợ Hồ, ở phía Nam thì mắc ách với
người Việt. Quân Tần đóng binh ở chỗ đất hoang phế vô dụng, tiến không nổi mà thoái cũng
không an. Trên mười năm đàn ông phải mặc giáp, đàn bà phải khuân vác, khổ sở cùng cực,
người ta thắt cổ tự tử trên cây dọc đường, người ta trông nhau mà chết". 
Cho đến khi Triệu Đà dùng gian kế chiếm Âu-lạc lập ra nước Nam Việt, thì bề trong là một
nước nhưng bề ngoài, vẫn phải chịu thần phục để được an toàn. Tới đời Triệu Kiến Đức thế
nước suy vi mới bị Vũ Đế nhà Hán sai bọn Lộ Bác Đức, Dương Bộc mang quân sang đánh.
Từ đó đến nay chúng ta bị người Hán cai trị. Vậy đối với người Hán, ta phải mạnh để họ
không thể đánh chiếm nước mình, nhưng vẫn phải có ngoại giao để được an thân. Vì vậy,
thái độ đối với người Hán là: Anh đánh tôi, tôi chống lại, dân tôi yêu nước, đất tôi hiểm trở,
tôi không sợ anh. Còn anh tử tế, tôi vẫn chịu ở vai dưới, thần phục anh. Như vậy, sau khi
đuổi được bọn Hán rồi, chúng ta chẳng ngại gì mà không mất một lễ, cử người sang sứ với
một tờ thư với lời lẽ nhún nhường mà được toàn vẹn quốc gia. 
Những người ngồi cùng bàn với Đào Kỳ đều gật đầu khen phải. Họ suy nghĩ: 
– Thiếu niên này không hiểu người gốc ra sao. Tuổi tác chỉ ngang với Hùng Bảo là cùng,
nhưng lại là vai sư thúc của Hùng Bảo, võ công của chàng phải cao lắm, nên chỉ nói có hai
câu mà Hùng Bảo đã đánh cho Đinh Công Hùng đến phun máu miệng. Rồi lại luận về tình
thế đất nước không chỗ nào mà không hợp tình, hợp lý. 
Tiệc tàn, hai họ lục tục ra về. Hùng Trọng đến trước bàn Đào Kỳ, chắp tay nói: 
– Chẳng mấy khi Đào công tử và Nguyễn cô nương giá lâm tệ trang, xin lưu lại ít hôm để
chúng tôi được nghe lời dạy bảo. 
Đào Kỳ liếc nhìn Phương Dung hỏi ý kiến, Phương Dung nói: 
– Anh em chúng tôi cũng không có việc gì gấp. Lạc-hầu đã có lòng quý mến, vậy chúng tôi
xin được quấy quả ít ngày. 
Hùng Bảo, Trần Năng lại ngồi cùng bàn với Đào Kỳ, Phương Dung. Đào Kỳ hỏi Trần Năng: 
– Hùng phu nhân! Hồi sáng tôi thấy phu nhân sử dụng võ công Tản-viên rất đúng phép.
Nhưng lại thiếu kinh nghiệm giao đấu. Đáng lẽ với bản lãnh phu nhân, chỉ mấy chiêu đã hạ
được Đinh Công Hùng. Nhiều khi phu nhân đắc thế rồi mà không biết lợi dụng lúc địch thủ
thất thế, đánh vào chỗ sơ hở, thì căn bản của hắn sẽ tự tuyệt. Cho nên khi Đinh lão rõ ràng
nguy cơ, lại hồi phục được căn bản để phản công. Lại nữa, phu nhân là gái, dùng dương
chưởng vốn dĩ dễ bị tiêu hao công lực, đấu với kể địch có gần bốn mươi năm luyện tập,
công lực thâm hậu. Phu nhân không biết lợi dụng cái sở trường của mình đánh liên tiếp như
sóng vỗ, để hạ địch nhân trong giây lát. Thành ra trận đấu kéo dài, công lực phu nhân cạn
dần, địch nhân mới thắng phu nhân. 
Trần Năng như người mù được mở mắt: 
– Sư thúc thực là cao nhân, cháu nghe mấy lời của sư thúc mà như được học thêm mấy
năm nữa. 
Đào Kỳ nói: 
– Võ công của phu nhân là võ công phái Tản-viên. Nguyên tắc của phái này là từ chiêu này
đến chiêu kia phải liên tục như những đợt sóng. Chiêu này chấm dứt, chiêu khác đã dồn dập
tiếp theo, địch nhân biết đâu mà tránh? Bây giờ phu nhân coi đây. 
Đào Kỳ giả làm Trần Năng, Phương Dung giả làm Đinh Công Hùng. Đào Kỳ với Phương
Dung diễn lại từ đầu tới chiêu thứ ba mươi tám thì Trần Năng bị bại. Rồi ngưng lại hỏi: 
– Có phải như vậy không? 
Trần Năng gật đầu: 
– Đúng không sai tý nào cả. 
Đào Kỳ bảo Phương Dung diễn lại. Chàng đánh chiêu đầu, Phương Dung đỡ thì chàng đã
chuyển tay nối liền hai chiêu làm một đánh chiêu thứ nhì rồi thứ ba. Đến đó thì Phương
Dung chỉ có lùi. Đào Kỳ vung chưởng đánh bùng một cái, Phương Dung mượn đà nhảy bắn
ra xa, coi như cuộc đấu chấm dứt. 
Chàng hỏi Trần Năng: 
– Phu nhân hiểu hết chứ? 
Trần Năng chấp tay thưa: 
 – Sư thúc là thần nhân. Nếu cháu được chỉ điểm trước thì chỉ ba chiêu đã hạ được lão
Đinh. Cháu gặp sư phụ trong một trường hợp kỳ ngộ, rồi được sư phụ truyền dạy võ nghệ.
Người không cho cháu biết tên, cũng không nói rõ môn hộ và dặn rằng giữa hai người chỉ có
duyên hội ngộ, mà không có tình thày trò. Người dạy cháu tất cả ba mươi sáu buổi, rồi sau
không gặp nữa. Từ ngày cháu học đến giờ, chưa từng đấu với ai, nên không có kinh
nghiệm. 
Phương Dung hỏi: 
– Phu nhân gặp sư phụ trong trường hợp nào? 
Trần Năng nói: 
– Cách đây bốn năm, cháu cùng bố cháu đi săn, một buổi sáng, gặp con gấu đang lội dưới
nước. Cháu dùng tên bắn chết con gấu thì từ trên bờ một sợi giây cũng quăng xuống chụp
cổ nó. Người quăng giây giật một cái, con gấu bay vọt lên. 
Người chụp gấu hỏi: 
– Ai bắn gấu của ta? 
Cháu trả lời: 
– Ta bắn được gấu, sao ngươi bắt của ta? 
Cháu vừa dứt lời , bỗng có một người xuất hiện. Đó là một cụ già đầu tóc bạc phơ, nhưng
mặt đẹp như ngọc. Vẻ người tiên phong đạo cốt, trông như một tiên ông. 
Ông cụ nói: 
– Rõ ràng tôi chụp giây trúng đầu gấu trước, như vậy là gấu của tôi chứ đâu phải của cô
nương. 
Cháu cãi: 
– Thể lệ săn bắn là ai bắn được thú thì của người đó. Cụ thử nhìn coi, mũi tên ở cổ gấu là
mũi tên của cháu chứ đâu phải của cụ? Tên của cháu trúng gấu trước, giây của cụ tới sau.
Vậy gấu thuộc về cháu. 
Ông cụ gật đầu: 
– Cô nói có lý. Tôi công nhận gấu của cô, nhưng tôi cần mật gấu cứu người. Nếu cô cho tôi
cái mật thì tôi cảm tạ vô cùng. 
Cháu thấy ông cụ nói năng ôn tồn, càng đùa: 
– Nếu cụ muốn được mật gấu thì kêu ba tiếng: Chị cả, chị cả, chị cả, cháu sẽ biếu cụ. 
Người đó cười nói: 
– Tuổi cô chỉ đáng tuổi cháu nội tôi, mà tôi kêu là chị cả thì có tổn thọ không? Cô đẹp như
thế mà chết non uổng lắm. Thôi, vậy tôi kêu cô ba tiếng: cháu nội, cháu nội, cháu nội để cho
cô sống lâu, rồi cô cho tôi cái mật gấu. 
Bố cháu thấy cháu đùa vô lễ, vội chắp tay hành lễ với lão bá đó, nói: 
– Cụ bảo cần mật gấu cứu người, vậy cụ là thày thuốc? Tôi xin tặng cụ cả con gấu này đấy. 
Đến đây, cháu không dám đùa nữa, nói: 
– Lão bá, cháu đùa mấy câu mong lão bá thứ tội. Nếu lão bá cần mật gấu cứu người, cháu
xin tặng thêm ít cái. Ở nhà cháu có nhiều mật gấu phơi khô, lão bá cần thêm, xin quá bộ về
nhà cháu. Cháu sẽ biếu lão bá chục cái nữa để lão bá cứu người. 
Ông cụ gật đầu, đi theo bọn cháu. Về tới nhà, cháu bưng ra một bao trên mười cái mật gấu
biếu ông cụ. Ông cụ cảm động lắm, bảo cháu: 
– Cô cho ta nhiều như thế này, ta có công trạng gì đâu mà dám nhận? Vậy cô muốn ta trả
ơn gì thì cứ nói. 
Tính cháu ưa nói đùa nên bèn trêu ông cụ: 
– Hồi nãy lão bá quăng giây bắt được gấu. Vậy, lão bá dạy cháu được không? 
Ông cụ gật đầu bảo cháu: 
– Mỗi buổi trăng tròn ta sẽ đến chỗ săn gấu hôm nay gặp cô, dạy cô ném giây. Nhưng cô
nhớ rằng không được tiết lộ với ai, dù rằng với cha mẹ hay anh chị. 
Cháu bằng lòng. Hôm sau cháu tới nơi, ông cụ bắt đầu dạy cháu ngồi, nằm ngủ, thở hít.
Ông cụ bảo muốn tập ném giây phải học những thứ đó trước rồi mới có sức mạnh để ném.
Cháu học được một tháng đã có thể ném tiêu giết chim. Cho đến một hôm, khi ông cụ đang
dạy cháu, bỗng có người Hán cưỡi ngựa đi tới. Người này trông thấy ông cụ là phóng
chưởng đánh liền. Ông cụ cũng phản công. Đánh được ít hiệp, người Hán có vẻ yếu thế. Y
nhảy lùi lại, chắp tay nói: 
– Tiểu bối chịu thua, không địch nổi tiền bối. 
Ông cụ nói: 
–Thế thì ngươi phải giữ lời hứa. 
Người Hán nói: 
– Tôi xin thề có trời đất, nguyện thi hành lời hứa. 
Ông cụ bảo người Hán: 
– Thôi, ngươi đi đi. 
Người Hán hú lên một tiếng, thấp thoáng thân hình một cái đã biến mất. 
Ông cụ bảo cháu: 
– Này con bé cứng đầu! Chuyện hôm nay, cô không được tiết lộ với bất cứ ai. Nếu cô không
giữ lời hứa, ta sẽ đập chết. 
Nói rồi, ông cụ đến bên một thân cây vung chưởng đánh một cái. Thân cây to bằng bắp đùi
kêu đến ầm một tiếng, rồi từ từ đổ xuống. Cháu thấy ông cụ hiển thân võ nghệ tuyệt vời, bèn
suy nghĩ: 
– Thì ra ông cụ này võ công cao không biết đâu mà lường. Thế mà hôm trước ông không ra
sức cướp con gấu của mình, còn năn nỉ xin. Như vậy, ông là người hiền lành. Ta phải trêu
ông cụ mới được. 
Nghĩ rồi, cháu bèn cười nói: 
– Võ công lão bá trên đời khó có hai. Nhưng không lẽ lão bá dùng võ công ăn hiếp con nít?
Lão bá bảo cháu phải giữ lời hứa, không được nói chuyện này với ai ư? Cháu có hứa bao
giờ đâu? Nội chiều nay cháu sẽ ra chợ nói với mọi người: Có một ông lão đầu râu tóc bạc,
trông như một vị tiên ông, đấu với một quan nhân người Hán. Vị quan nhân người Hán thua,
vị lão bá bắt người quan nhân phải hứa làm cho lão bá những điều như thế, như thế. Nếu
lão bá cho rằng chưa đủ, cháu sẽ kêu hết tráng đinh, tỳ nữ nhà cháu, dân chúng ra chợ, gặp
ai cũng nói như thế. 
Lão bá tức quá, vặt đầu vặt cổ rồi nói: 
– Cô thực là người cứng đầu cứng cổ số một trên thế gian này mà ta gặp. Giá cô họ Trần thì
đúng hơn, vì người ta thường nói: Trần thị Bà chằng... 
Cháu cười khúc khích: 
– Lão bá ơi! Cháu họ Trần đấy. Lão bá nên gọi cháu là Trần thị Bà chằng lửa thì đúng hơn. 
Ông cụ vò đầu, bứt tóc: 
– Vậy cô muốn ta phải làm gì, cô mới giữ những điều bí mật hôm nay? 
Cháu nói: 
– Xin lão bá dạy võ cho cháu. 
Ông cụ lắc đầu quầy quậy: 
– Ta không dạy cô, ta không dạy cô. Ta không muốn thu đệ tử. 
Cháu thấy ông cụ bực mình, càng trêu: 
– Thôi được, cháu ra chợ đây. Cháu sẽ nói hết những điều cháu nhìn thấy hôm nay. 
Nói rồi cháu chạy một mạch. Ra tới đường đã thấy ông cụ đứng đó tự bao giờ. Ông cụ bảo
cháu: 
– Con nhỏ cứng đầu! Rồi, ta chịu dạy võ cho mi, nhưng ta không thu nhận ngươi làm đệ tử
đâu. 
Kể từ hôm đó, ông cụ dạy võ cho cháu. Cho đến ngày gần đây, một hôm sau khi dạy võ
xong, ông cụ nói với cháu: 
– Ta có việc phải vắng mặt một thời gian. Vậy, mi trở về cứ tiếp tục luyện tập. Khi việc kết
liễu, ta sẽ trở lại dậy mi sau. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Trong thời gian đó, ông cụ có hành vi gì khác lạ không? 
Trần Năng đáp: 
– Ông cụ thường cùng cháu đi hái thuốc. Có một lần cháu bị cảm, lên cơn sốt mê mệt,
nhưng vẫn giữ lời hứa, đến điểm hẹn để học võ với ông cụ. Ông cụ bảo cháu nằm xuống bụi
cỏ, cầm tay chẩn mạch và nói: 
– Bệnh phong hàn đấy thôi, không có gì đáng lo đâu. 
Rồi ông cụ dặn cháu: 
– Bệnh này không chữa ngay, sẽ bị mắc chứng nghẹt mũi, ho, lâu khỏi lắm, không khéo sẽ
chết. Đây, ta cho mi gói thuốc này, về sắc lên với ba bát nước, khi còn một bát thì uống.
Uống xong, mi đắp chăn nằm ngủ, mồ hôi sẽ xuất ra, ngày mai hết bệnh. 
Cháu trở về làm y như vậy. Quả nhiên bệnh khỏi. Từ đó về sau, hễ cháu thấy ai bị cảm, vừa
sốt, vừa lạnh, cháu cho uống thuốc như ông cụ cho cháu, đều khỏi hết. Lần sau gặp ông cụ,
cháu kể cho ông cụ nghe. Ông cụ tát yêu cháu rồi nói: 
– Con bé này thông minh đáo để. Chỉ học sơ mà biết làm thầy lang rồi. Kể ra mi cũng mát
tay đấy, thôi ta dạy mi cách chữa cảm đây. 
Cháu thích quá. Ngồi nghiêm chỉnh nghe. Ông cụ giảng: 
– Bệnh cảm có hai loại. Một là phong hàn, hai là phong nhiệt. Phong là dương tà, gốc của
trăm bệnh. Hàn là âm tà, tính nó ngưng đọng lại. Khi phong với hàn nhập vào cơ thể, làm da
bị bế tắc, chân khí không thoát ra được, vì vậy nên bị sốt. Ngặt vì hàn nó ở ngoài da, nên
sốt mà vẫn cảm thấy rét. Dù trùm chăn vẫn thấy rét như thường. Trong y học gọi là ác hàn.
Muốn trị phong hàn phải dùng vị thuốc có tính chất chạy từ trong ra ngoài, lại nóng nữa, mới
đánh tan được hàn. Vì vậy, dùng gừng tươi, tính của nó cay lại nóng, làm cho hàn tan ra.
Thêm vào đó là quế chi, tính của nó làm cho dương khí chạy đều, cùng chạy ra ngoài, mà
làm tan hàn. Lại thêm ma hoàng, tính phát mồ hôi rất mạnh. Ba vị này giải được phong hàn. 
Cháu hỏi: 
– Thế còn cam thảo? 
– Cam thảo không phải là thuốc trị bệnh, mà nó chỉ làm cho vị thuốc dẫn vào cơ thể mau mà
thôi. Còn một loại nữa là phong nhiệt. Bệnh nhân thấy sốt, mà miệng khô, cổ họng khô.
Bệnh do phong và nhiệt, vậy phải dùng những dược vật gì để cho chạy ngoài, nhưng hạ
nhiệt. Ma hoàng, cam thảo vẫn dùng, nhưng thêm lá tre với thạch cao, là hai vị thuốc làm
giải nhiệt. 
Từ đấy, cháu cho tỳ nữ hái thuốc để sẵn. Gặp người cảm mạo, cháu chỉ việc phân ra phong
hàn hay phong nhiệt, đều chữa khỏi hết. Vì vậy, tiếng tăm cháu lan rộng. Một lần khác, cháu
hỏi ông cụ: 
– Có cách nào không uống thuốc mà hết bệnh không? Như ăn mà hết bệnh chẳng hạn? 
Ông cụ gõ tay vào đầu cháu nói: 
– Con bé láu cá, để ta dạy cho. Mi lấy một bó hành lá tươi, cắt nhỏ, cho vào nồi nấu cháo
cật lợn (heo), ăn rồi đắp chăn ngủ cũng ra mồ hôi, khỏi bệnh. Nhưng, hôm sau trở về, cháu
làm y như lời ông chữa cho người nhà, bệnh không khỏi. Cháu phải đổi cách điều trị, cho họ
uống thuốc. Lần sau gặp ông cụ, cháu bắt đền. Cụ cười khúc khích, bảo cháu: 
– Tại mi làm sai lời ta dạy. Trước hết, mi phải nấu cháo cho nhừ, lúc sắp ăn mới cho hành
với cật lợn vào đảo cho chín tái đi mà ăn. Trái lại, mi lại cho hành vào nấu nhừ với cháo,
bệnh nhân không xuống Diêm vương là may rồi. Thường, bệnh nhẹ ăn như vậy cũng khỏi.
Còn muốn ăn chắc phải cho uống thuốc, rồi ăn thêm cháo. Còn phương pháp thứ ba là
xông. Xông thì dùng như thế này: Phong hàn gồm gừng tươi, ma hoàng, quế chi, tiá tô, kinh
giới, nghệ, hương nhu. Phong nhiệt gồm bạc hà, lá tre, hoa cúc, bèo, sài hồ, thăng ma. Cho
vào nồi đậy kín bằng lá khoai hoặc bằng vung, đun sôi, rồi cho người bệnh ngồi trên giường,
trùm chăn kín, sau đó mở vung ra. Hơi nóng, đưa hơi thuốc lên người, làm mất phong đi,
làm giải nhiệt hoặc tan hàn là bệnh khỏi. 
Phương Dung hỏi: 
– Hùng phu nhân, ông cụ rời phu nhân lần chót cách đây mấy tháng rồi? 
Trần Năng nói: 
– Khoảng nửa năm. Sư thúc, thì ra ông cụ đó người phái Tản-viên? 
Đào Kỳ xuất hồn, mơ màng nghĩ đến một chuyện xa xôi: Hôm đó, trong lao xá Thái-hà trang,
chàng tiếp xúc với Đặng Thi Kế. Ông nói, ông còn một vị sư thúc nữa, võ công tuyệt cao, bỏ
xa hẳn Lê Đạo Sinh, tên là Trần Đại Sinh. Võ công cực cao, nhưng vị sư thúc này trốn vào
chốn sơn lâm thủy tận để nghiên cứu y học cứu đời, không biết nay ở đâu. Ông dặn Đào Kỳ
nếu gặp vị sư thúc này, mới có thể thắng Lê Đạo Sinh để cứu phái Tản-viên khỏi tai kiếp. 
Phương Dung hỏi: 
– Hùng phu nhân, những điều mà viên quan người Hán hứa với ông cụ, phu nhân đã nói với
ai chưa? 
Trần Năng nói: 
– Tuy ông cụ với cháu chỉ gặp nhau ít ngày, mà tính ông cụ thực đầm ấm. Ông cụ với cháu
tình như cha con. Dù cháu không hứa với ông cụ, dù ông cụ không dạy võ cho cháu, cháu
cũng không nói những điều ấy với ai. 
Đào Kỳ khen: 
– Phu nhân là nữ lưu mà tính tình khảng khái hơn trượng phu. 
Chợt nhớ ra điều gì, Phương Dung nói: 
– Thôi, xin cho chúng tôi tiêu dao tự tại, Hùng thiếu hầu, Hùng phu nhân cứ tự nhiên. 
Nàng nói câu này, Hùng Bảo, Trần Năng và chính nàng cũng đỏ mặt lên đầy vẻ ngượng
ngùng. Vì hôm nay là ngày cưới, việc động phòng hoa chúc là việc mà trai gái chờ đợi bấy
lâu nay. Phương Dung là người tinh tế, nàng giúp cho cô dâu chú rể được tự do, nhưng
chính nàng lại ngượng đến đỏ mặt lên. 
Đào Kỳ cùng Phương Dung theo Hùng Trọng ra bờ sông ngắm cảnh hoàng hôn. 
Hùng Trọng nói với Đào Kỳ: 
– Tổ tiên tôi lập ấp ở đây đã mấy mươi đời. Đời nào cũng lấy điền ấp làm thú vui. Trước kia,
tổ tiên tôi có tập võ. Đến đời tiên phụ, bị người Hán bắt giết lúc còn trẻ, tôi mồ côi cha,
không ai dạy dỗ. Vì vậy, tưởng không bao giờ cất đầu lên nổi. Trang chúng tôi tuy lớn,
thường bị những trang ấp khác lấn át. Không ngờ thằng con tôi lại được học võ của phái
Cửu-chân. Nếu không có Đinh Công Hùng khuấy phá, chúng tôi cũng không biết cháu đã
học võ nghệ. Đào thiếu hiệp, võ công của con tôi như vậy đã có thể gọi là khá chưa? 
Đào Kỳ nói: 
– Giỏi thì chưa thể nói rằng giỏi. Nhưng Bảo mới học, chưa có nhiều thời giờ luyện tập nên
chưa thành thạo đó thôi. Sư phụ của của Hùng Bảo là người bề trên của tôi, để tôi xin phép
người rồi sẽ truyền dạy thêm cho nó. Tuy không vô địch thiên hạ, nhưng trong vùng này sẽ
không ai sánh kịp. 
Hùng Trọng hỏi: 
– Đào công tử đã biết sư phụ của Bảo là ai rồi à? Tôi là bố mà lại không biết ân nhân của
gia đình mình, thực vô dụng. 
Đào Kỳ nói: 
– Người bề trên của tôi khi truyền dạy võ cho Bảo, chắc có nỗi khổ tâm gì nên dấu diếm đó
thôi. Tôi không dám quyết là ai, nhưng khi Bảo nghe tên tôi, biết là tiểu sư thúc, tôi biết ngay,
trong khi truyền thụ võ nghệ cho Bảo, sư phụ Bảo có đề cập đến tôi. Vì vậy, khi tôi xưng tên,
Bảo biết liền. 
Hùng Trọng nói: 
– Trang Thượng-hồng của chúng tôi trải đã mấy chục đời, lúc nào cũng tự tại. Gần đây,
chúng tôi bị Đinh Công Dũng uy hiếp, muốn thống nhất ba mươi sáu trang, động thành một
châu, dưới sự quản trị của hắn. Tôi với Trần hầu can đảm chống lại, ngặt vì chúng tôi không
biết võ. Hôm nay thấy Bảo và Năng có võ công, lại bái được minh sư làm thầy, chúng tôi yên
tâm hơn. Hà... chỉ còn mấy hôm nữa là đại hội Mê-linh bàn về việc thống nhất các động, tôi
và Trần hầu sẽ chống lại đến cùng. 
Phương Dung hỏi: 
– Trong đám thủ hạ của Đinh Công Dũng có những tay nào lợi hại không? 
Hùng Trọng đáp: 
– Đinh Công Dũng là một đại tôn sư võ học cao nhất vùng này. Tương truyền y đấu ngang
tay với Đặng Thi Kế, chưởng môn phái Tản-viên. Y có ba anh em được đời tôn là Lôi-sơn
tam hùng. Y đứng đầu, thứ đến Đinh Công Hùng, người mà thiếp hiệp đã gặp. Người này võ
công tầm thường nhưng văn hay chữ tốt, nhiều mưu lắm mẹo. Người thứ ba là Đinh Công
Thấng, võ công còn cao hơn Đinh Công Dũng nữa. Ba anh em làm chủ ba trang động.
Ngoài ra, Công Dũng còn có hai người con. Người con trai tên Đinh Công Minh, theo học võ
với một đại tôn sư vùng Quế-lâm từ nhỏ, mới trở về. Nghe nói võ công y dường như không
kém gì cha, chú. Người con gái là Đinh Hồng Thanh nhan sắc mặn mà, võ công cũng cao.
Ngoài ra, thủ hạ của ba trang họ Đinh cộng lại cũng đến gần vạn người. 
Phương Dung im lặng suy nghĩ, không nói gì. 
Sáng hôm sau, Phương Dung vừa dậy, tỳ nữ đã đưa một phong thư cho nàng: 
– Thưa cô nương, có người nhờ đưa cho cô nương phong thư này. 
Phương Dung mở ra coi, nàng ngẩn người ra rồi hỏi tỳ nữ: 
– Ai gửi cho tôi thế này? 
Tỳ nữ thưa: 
– Sáng nay có người cỡi ngựa đến trước trang nói rằng đưa thư này cho vị cô nương khách
quý của trang. Rồi họ đi ngay. 
Phương Dung định đi kiếm Đào Kỳ, thì chủ nhân trang là Hùng Trọng đã sai người mời nàng
ra phòng khách tương kiến. Nàng tới nơi, đã thấy Đào Kỳ cũng đang ngẩn người ra trước
một phong thơ. Nàng hỏi Đào Kỳ: 
– Đại ca, tại sao thơ đều không có một chữ gì? Ai trêu mình đây? 
Đào Kỳ cầm thơ của Phương Dung lên coi, thư cũng không có chữ như thư của chàng. 
Hùng Bảo nói: 
– Cháu nghĩ rằng sư thúc với Nguyễn cô nương đến trang đây, chỉ có hai họ và đám Đinh
Công Dũng biết mà thôi. Vậy thư này chắc do bọn Đinh Công Dũng trêu ghẹo bọn mình. 
Đào Kỳ cầm phong thư soi lên ánh sáng, nhưng tuyệt không thấy một chữ gì. Thoáng thấy
mùi thơm bốc lên, chàng đưa giấy vào mũi ngửi, thấy mùi thơm rất nặng. Chàng cầm phong
thơ kia lên coi, thì lại là mùi thơm khác. Chàng đặt thơ xuống, suy nghĩ: 
– Hai bức thơ có hai mùi vị khác nhau, thế thì kỳ lạ thực. Họ định làm gì đây? 
Bỗng chàng cảm thấy mũi như bị nghẹt dần. Miệng đắng, mắt hoa, đầu óc quay cuồng.
Chàng chợt tỉnh ngộ, la lớn: 
– Thư có chất độc. Cấm không ai được đụng vào. 
Nói rồi, chàng vội ngồi ngay ngắn vận công chống độc. Nhưng đầu óc càng hoang mang, rồi
ngã lăn xuống. 
Hùng Trọng, Phương Dung la lớn lên, lay gọi. Đào Kỳ chỉ gật đầu tỏ vẻ hiểu, nhưng chân tay
cử động gần như không được nữa.

 Ưu tùng trung lai, 
Bất khả đoạn tuyệt. 
(Tào Tháo) 
Chú giải: Câu thơ trên trích trong bài "Uống rượu dưới trăng sáng trên sông Trường giang"
của Tào Tháo. Tào Tháo là nhân vật lịch sử Trung-quốc. Ông cũng là một thi hào thời Kiến-an. Câu trên nghĩa là: Mối lo lắng trong lòng mà ra, không sao dập tắt đi được. 
Hùng Bảo, Trần Năng nghe tiếng kêu thất thanh vội từ trong nhà chạy ra, nhưng đều ngơ
ngác, không hiểu những gì đã xảy tới. Cả hai, tuổi còn trẻ, chưa ra đời, ít kinh nghiệm, trước
hoàn cảnh khẩn cấp, họ chỉ biết ngây người ra đứng nhìn. Phương Dung kiếm thuật thần
thông, kinh luân gồm tài, gặp nghịch cảnh diễn ra mau chóng, cũng luống cuống, không biết
giải quyết ra sao. Hùng Trọng lớn tuổi, kinh lịch nhiều, ông bảo Trần Năng: 
– Con cầm mạch cho sư thúc, coi sự thể ra sao? 
Trần Năng vội cầm tay Đào Kỳ bắt mạch, rồi nói: 
– Con thấy mạch đi khẩn và hồng đại. Như vậy là trúng nhiệt độc. 
Nàng nhớ sư phụ dặn: Khi trúng nhiệt độc, thì lấy rau má, đậu xanh, mỗi thứ một lượng, giã
nhỏ ra mà uống. Rau má thì dễ kiếm. Nàng sai gia nhân làm thực gấp. Lát sau, gia nhân
bưng nước rau má, đậu xanh lên. Phương Dung đỡ lấy, đổ vào miệng Đào Kỳ. Khoảng thời
gian nhai dập miếng trầu, Đào Kỳ từ từ mở mắt. Chàng không nói gì, ngồi xếp chân vận
công. Chàng nhớ một câu quyết trong thẻ đồng dạy luyện nội công âm nhu: Nếu nhiệt khí
trong người lên cao, thì khí trầm đơn điền, vận từ đơn điền ra ngoài da. Chàng vận thử. Một
lát sau, mồ hôi xuất ra như tắm, mùi tanh hôi bốc lên, mọi người đều buồn nôn. Chàng thấy
người khoan khoái, tuy nhiên, lồng ngực vẫn còn như nghẹn, hơi thở khó khăn. Trần Năng
than: 
– Không biết sư thúc trúng loại độc gì? Sư phụ chỉ dạy con trị cảm mạo, bong gân, gãy
xương, trị trúng độc vì thức ăn. Còn trúng độc lối này thì con không biết. Bây giờ phải đi
kiếm sư phụ mới cứu được sư thúc. 
Phương Dung mừng quá nói: 
– Thế sư phụ của Hùng phu nhân ở đâu? 
Trần Năng thở dài: 
– Có lần cháu hỏi sư phụ rằng người ở đâu? Thì người bảo: Ta ở nơi thánh Tản-viên ở. Rồi
người chỉ lên ngọn núi mây mù che phủ, cao ngất lưng trời. Bây giờ, cháu phải lên núi Tản-viên tìm người. 
Hùng Trọng lắc đầu: 
– Núi Tản-viên thì làm sao mà lên nổi? Núi cao đến một ngàn năm trăm trượng (3000 mét).
Từ dưới đi lên khoảng sáu trăm trượng thì núi thắt vào rồi lại phình ra như cái bầu, thử hỏi ai
có thể leo lên được? Tương truyền trên đỉnh núi có thành do tiên xây. 
Hùng Bảo ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 
– Dù sao thì cũng cứ đi thỉnh sư phụ về cứu sư thúc. Vậy anh ở nhà trông trang ấp, còn em
đi theo Nguyễn cô nương, quyết thỉnh cho được sư phụ, cứu sư thúc. 
Đào Kỳ gói hai tờ giấy tẩm độc vào hai tờ giấy khác nhau, dặn Phương Dung: 
– Em mang hai gói này đi, trình cho tiên sinh, thì người mới biết rõ là loại độc gì mà giải. 
Phương Dung cùng Trần Năng lấy ngựa lên đường khẩn cấp. Từ trang Thượng-hồng lên
núi Tản-viên phải qua trang Lôi-sơn. Hai người phi ngựa như bay. Chiều hôm đó tới một
ngọn thác chảy xuống rất đẹp. Trần Năng chỉ thác nước, nói: 
– Sư phụ thường dạy võ cháu ở chỗ này. Sau khi dạy xong, người hướng về đỉnh ngọn núi
Tản-viên mà đi. 
Nàng ruổi ngựa đi trước. Phương Dung cũng cho ngựa đi kèm theo. Vượt qua được khoảng
mấy trượng, thì lối đi thẳng như vách tường. Hai người xuống ngựa, ngửa mặt nhìn lên, chỉ
thấy mây trắng phiêu bạt. Trên đỉnh núi lờ mờ như có thành quách. 
Phương Dung bảo Trần Năng: 
– Bố tôi thường nói, đỉnh núi Tản-viên đường lên theo một cái hang, chỉ người chưởng môm
mới biết cửa hang ở đâu, chứ không ai có thể leo lên được. Hiện chưởng môn phải Tản-viên là Đặng Thi Sách. Vậy chúng ta phải đi Mê-linh, yết kiến Đặng chưởng môn, để hỏi
đường lên. 
Hai người lại trở xuống thì thấy ngựa đã bị hai tên tiều phu đang dắt đi hướng về phía bờ
suối. Phương Dung quát: 
– Này hai anh kia. Tại sao lại lấy ngựa của ta? 
Hai tên tiều phu cười: 
– Rõ ràng là ngựa rừng. Tôi bắt được, sao lại bảo rằng của cô? Thực là vô lý. Nếu cô cho
rằng ngựa của cô, thì cô thử lại cưỡi xem có được không? Tôi e các cô không biết cỡi ngựa
rừng, nó sẽ vật ngã các cô cho mà coi. 
Phương Dung, Trần Năng cùng tiến lại bờ suối. Bỗng nàng cảm thấy chân mình như dẫm
vào chỗ không. Biết gặp nguy hiểm, nàng vọt người lên cao, đá gió một cái, tà tà đáp xuống.
Chỗ đất nàng đáp xuống cũng bị lún. Nàng lại vọt người lên lần nữa, nhưng bị rơi xuống một
cái hầm. Nàng đang định vọt người lên, thì có hơn mươi tráng đinh ở đâu nhảy ra, ôm chặt
lấy nàng, đè xuống, trói lại. Nàng nhìn sang phía Trần Năng, cũng thấy nàng bị bắt như
mình. Rồi một giọng cười quen thuộc vang lên: 
– May thực là may. Ta vâng lệnh đi bắt một nàng về làm vợ cho đại ca, không ngờ lại được
một lúc hai nàng. Thôi thế thì nàng này phần ta. 
Người nói câu đó là Đinh Công Hùng. Bấy giờ Phương Dung mới biết hai nàng đã bị Đinh
Công Hùng theo dõi. Trong khi hai nàng mải trèo núi, chúng đã đào hố, đặt cỏ lên trên, rồi
sai tráng đinh giả làm tiều phu trộm ngựa, dụ cho hai nàng sa xuống hố. 
Trần Năng tức quá, chửi: 
– Chúng bay uổng danh là Lôi-sơn tam hùng. Hùng gì lại đi dùng xảo kế bắt chúng ta? Như
vậy, người cũng dám mở mắt nhìn thiên hạ ư? 
Đinh Công Hùng không nói không rằng, truyền tráng định đặt hai nàng lên ngựa, rồi dẫn đi. 
Phương Dung lo nghĩ: 
– Ta bị bắt, trước sau gì cũng có kế thoát thân. Nhưng Đào đại ca bị trúng độc, không thỉnh
được sư phụ Trần Năng thì chỉ mấy hôm là mất mạng. 
Đi được hơn hai giờ, tới chân núi Lôi-sơn. Vượt qua ngọn suối, đi vào trang. Phương Dung
để ý quan sát, thấy trang Lôi-sơn dài ít ra cũng năm mươi dặm, còn chiều rộng thì nàng
không biết. Dân chúng trong trang khá đông. Đời sống phồn thịnh không thua gì trang Cối-giang của nhà nàng. Tới một căn nhà lớn, xây bằng đá, Đinh Công Hùng gọi hai nữ tỳ lại
bảo: 
– Ngươi đưa Trần cô nương sang dinh của đại ca ta. Còn Nguyễn cô nương, ngươi đưa vào
dinh của ta. Chớ có cởi trói. Cả hai nàng đều là hai con sư tử thứ dữ đấy. 
Tên tỳ nữ dẫn Phương Dung qua một dãy nhà thứ nhất, tới căn phòng lớn, nó mở cửa đưa
nàng vào. Căn phòng không lớn lắm, nhưng trang trí thanh nhã. Nó bảo nàng: 
– Cô nương đã bị bắt vào đây, chỉ có một đường duy nhất là nhắm mắt chịu thua số phận.
Có chống cự cũng vô ích. 
Phương Dung dùng cước trái quét vào chân con nữ tỳ một cái. Nó ngã úp sấp xuống đất.
Nó vừa định mở miệng la lên thì Phương Dung đã đạp chân vào miệng nó, chân kia nàng
đạp lên ngực nó, miệng nói: 
– Nếu mi la lên, ta nhả kình lực ra, mi sẽ bị dập ngực mà chết. Mi biết không? Nếu chịu nghe
lời ta, hãy nháy mắt làm hiệu đi. Con nữ tỳ nháy mắt hai cái. 
Phương Dung dẫm lên hai bàn chân nó, cho nó ngồi dậy được. Nàng bảo: 
– Mi cởi trói cho ta đi. 
Con nữ tỳ ngồi dậy cởi trói cho nàng. Được tự do rồi, nàng xé áo con nữ tỳ, nhét vào miệng
nó rồi dùng giây trói nó lại, để lên giường. Nàng nhủ thầm: 
– Ta phải đi cứu Trần Năng trước, rồi sẽ đi thỉnh sư phụ nàng cứu Đào đại ca sau. 
Thấy trên tường có treo thanh kiếm, nàng cầm lấy, đeo vào lưng, rời khỏi phòng, thuận tay
nàng đóng cửa lại. 
Ra khỏi căn nhà, nàng nương theo hướng con nữ tỳ dẫn Trần Năng hồi nãy mà đi. Tới một
căn nhà lầu, dưới xây bằng đá, trên làm bằng gỗ, chạm trổ tinh vi, chung quanh trồng nhiều
hoa thơm cỏ lạ. Trong vườn có mấy con hạc, hươu nai nhởn nhơ. Cạnh đó, là chỗ cột ngựa
có cột bảy, tám con ngựa chiến. Thoáng nhìn Phương Dung cũng biết là ngựa của quân
Hán, vì nàng đã thấy ở Long-biên. Trong căn nhà lầu có nhiều tiếng nói lớn vọng ra. Nàng
ren rén lại bên cửa sổ, ghé mắt nhìn vào: Bên trong, Đinh Công Hùng ngồi đối diện với một
người lớn tuổi hơn y một chút, da mặt hồng hào, khuôn mặt giống hệt y. Nàng đoán là Đinh
Công Dũng. Cạnh đó là một người mặc theo lối quan lại người Hán, tuổi khoảng 25, 26 rất
anh tuấn. Cạnh viên quan Hán là một thiếu nữ mặc theo lối Việt, tuổi khoảng 23-24 nhan sắc
diễm lệ. Phương Dung nghĩ thầm: 
– Ta tưởng ta với Tường Quy đã là những người đẹp, thế mà so với thiếu nữ này, chúng ta
còn thua xa. 
Viên quan Hán lên tiếng hỏi: 
– Đinh tiên sinh. Hiện các trang, động Lôi-sơn được khoảng bao nhiêu tráng đinh? Khi hữu
sự tận dụng hết khả năng thì được bao nhiêu? 
Đinh Công Dũng lễ phép đáp: 
– Thưa Quốc-công, tráng đinh từ 15 tới 40 tuổi được trên ba ngàn. Khi hữu sự, có thể đạt
tới năm ngàn người chiến đấu. Chúng tôi đã huấn luyện, chuẩn bị để bất cứ lúc nào Quốc-công cần đến, thì có ngay. 
Phương Dung giật mình: 
–Thì ra viên quan Hán này là Nghiêm Sơn, tước phong Lĩnh Nam công, Bình Nam đại tướng
quân. Trước đây Đào đại ca có nói: Nghiêm Sơn là người Hán, theo học với phái Quế-lâm.
Y cùng Hợp-phố lục hiệp, một đêm đánh hai mươi trận, bị thương mười lăm lần, cứu Quang
Vũ thoát khỏi tay võ sĩ của Vương Mãng. Rồi một mình y giúp Quang Vũ khởi nghiệp từ
Côn-dương, đánh chiếm năm quận. Tất cả các đại tướng danh tiếng Trung-nguyên như
Đặng Vũ, Ngô Hán, Sầm Bành, Mã Viện đều do một tay y tạo ra. Sau khi chiếm Kinh-châu, y
được Quang Vũ phong cho tước Lĩnh-nam công, lĩnh Bình-nam đại tướng quân. Y cùng
Hợp-phố lục hiệp kinh lược Lĩnh-nam. Các Thái thú đều quy phục, nhưng vẫn được giữ đất
mình như giang sơn riêng. Chỉ hơn một năm sau, y đã tìm cách loại hết các Thái thú, nắm
lấy binh quyền. 
Nghiêm Sơn hỏi Đinh Công Dũng: 
– Đinh tiên sinh! Hôm nay tôi lên đường điều tra vụ Ngũ-phương thần kiếm giết Tô Phương.
Tôi nghe trước khi đi Đăng-châu, họ có ghé qua Lôi-sơn. Đinh tiên sinh có thấy gì khác lạ
không? 
Đinh Công Dũng gật đầu: 
– Trước khi đi Đăng-châu, Tô công tử cùng Ngũ-phương kiếm có ghé tệ trang ở lại chơi hai
ngày. Tiểu nhân thấy họ rất thân với nhau. Không ngờ tới Đăng-châu lại xảy ra sự chẳng
lành. 
Thình lình Nghiêm Sơn lên tiếng: 
– Chúng tôi đang bàn chuyện riêng tư với nhau, người là cao nhân phương nào, tại sao lại
nghe trộm, đâu có phải trượng phu? 
Nói rồi, y cầm chung trà liệng về phía Phương Dung. Phương Dung kinh hồn, vì với nội công
âm nhu, quy tức của nàng, ít ai khám phá ra được. Thế mà Nghiêm Sơn đã khám phá ra. 
Chung trà hướng về phía nàng, kình lực kêu rít lên, đủ tỏ nội lực cường mãnh tuyệt luân.
Phương Dung rút kiếm lên khoa một vòng. Kình lực âm nhu của nàng làm cho chung trà đổi
chiều. Nàng phát một chiêu chưởng âm nhu, chung trà bay trở về phía Đinh Công Dũng.
Đinh Công Dũng phát chưởng đỡ. Bốp một tiếng, chung trà vỡ tan tành. 
Phương Dung định chạy, thì thấp thoáng một cái, bốn người đã bao vây nàng vào giữa:
Đinh Công Dũng, Đinh Công Hùng, Nghiêm Sơn và nữ lang xinh đẹp. 
Nghiêm Sơn hỏi Đinh Công Dũng: 
– Cô nương này phải chăng là người quý trang? 
Công Dũng lắc đầu: 
– Không phải. Nó là người của phái Long-biên, được bọn phản tặc phái tới Mê-linh. Tôi vừa
cho bắt về để giải lên phủ Tế-tác. Không ngờ, nó đã thoát ra ngoài được. 
Nghiêm Sơn là người tinh tế, chàng đã cai quản hàng triệu người, nên nhìn Phương Dung,
chàng đã đoán ra tám, chín phần: 
– Cô này tuổi bất quá 17, 18 mà dùng một chiêu kiếm, vòng trên không, hoá giải kình lực
chung trà của ta, làm cho chung trà đổi chiều tấn công Đinh Công Dũng, tất nàng là con nhà
danh gia. Đinh Công Dũng nói không sai đâu. 
Đinh Công Dũng dùng một thế cầm nã, chụp vai Phương Dung. Thấp thoáng một cái, nàng
đã nhảy lui lại hai bước. 
Nàng kêu lớn: 
– Bình-nam đại tướng quân. Cứu tôi với! 
Nghiêm Sơn ra hiệu cho Đinh Công Dũng ngừng tay, hỏi: 
– Cô nương là đệ tử của cao nhân nào? Thân pháp cô nương là của phái Long-biên. Vậy cô
nương với Long-biên song hiệp là chỗ thế nào 
Phương Dung lắc đầu: 
– Tôi không là gì của họ cả. 
Nghiêm Sơn nói: 
–Vậy cô nương là đệ tử của Mai Huyền Sương nữ hiệp phải không? 
Phương Dung cũng lắc đầu. Nàng nói: 
– Bình-nam đại tướng quân! Người hiện là Lĩnh-nam công, tức là ông vua đất Lĩnh -nam. Tôi
nghe nói người xuất thân hiệp nghĩa. Xin người chủ trì cho tôi một chuyện. 
– Cô nương cứ nói. 
– Nếu trên đất Lĩnh-nam, có kẻ dùng sức mạnh, bắt cóc con gái có chồng về hãm hiếp, thì
người có cần trừng trị nó không? 
Nghiêm Sơn nói: 
– Ai đã làm việc đó, cô nương cứ nói, tôi sẽ chặt đầu nó liền. 
Phương Dung chỉ Đinh Công Dũng: 
– Thì anh em tên này. Hôm trước trong đám cưới con gái Lạc-hầu trang Toàn-liệt lấy con
trai Lạc-hầu trang Thượng-hồng, chúng nó đã kéo đến định bắt cô dâu. Sau bị cô dâu đánh
thua, chúng đem thuốc độc hại người, rồi dùng kế bắt tôi với Trần Năng về để hãm hiếp.
May tôi thoát ra được, còn Trần Năng, xin Lĩnh-nam công cứu nàng. 
Mặt Đinh Công Dũng xám như tro. Y nói: 
– Xin Quốc công đừng tin con nhỏ phản tặc này. Y thị bịa đặt ra đó. 
Nói rồi, y nhảy tới chụp nàng. Ánh kiếm lấp lánh, Phương Dung rút kiếm ra khỏi vỏ, chĩa vào
cổ Đinh Công Dũng. Đinh Công Dũng hoảng hốt ngửa cổ ra sau. Mũi kiếm như bóng với
hình, đuổi theo. Y kinh hoàng lăn người xuống đất tránh khỏi, rồi vọt người dậy. Tuy y thoát
chết, nhưng cũng bở vía. 
Nghiêm Sơn kêu lên một tiếng kinh ngạc: 
– Chiêu kiếm vừa rồi là chiêu gì? Rõ ràng đánh phải mà lại bật lên cao. Nếu ta là Đinh Công
Dũng, ta cũng phải lộn ngửa như y mới tránh nổi. Cô bé này kiếm pháp cao minh thực. 
Đinh Công Hùng nói: 
– Con nhỏ này bịa chuyện nói xấu người. Ta bắt Trần Năng bao giờ? Ngươi chỉ nói láo. 
Vèo một cái, một người từ bụi hoa hướng về phía Đinh Công Hùng đánh tới. Chưởng lực ào
ào. Đinh Công Hùng vung chưởng đỡ. Bốp một tiếng, y bật lùi lại hai bước. Người đó lại tấn
công liền ba chưởng. Đinh Công Hùng thối lui tới cạnh Nghiêm Sơn. Vừa lúc đó, chưởng
thứ năm đánh tới, mạnh vô cùng. Nghiêm Sơn phất tay đỡ. Bình một tiếng, tay chàng thấy
hơi tê tê. 
Phương Dung nhìn lại thì ra Trần Năng. Nàng reo lên: 
– Đây là Hùng phu nhân, nhũ danh Trần Năng. Chính bọn mi bắt chúng ta, mi còn chối được
nữa không? 
Nghiêm Sơn hỏi Trần Năng: 
– Hùng phu nhân, người vừa sử dụng Phục-ngưu thần chưởng, chiêu đó là Vong ngưu ư
sơn. Chiêu này phái Tản-viên đã bị thất truyền từ lâu. Đến Lục-trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh,
Đặng Thi Kế, Đặng Thi Sách cũng không biết, sao phu nhân lại biết? 
Trần Năng nhìn Nghiêm Sơn cười: 
– Bình-nam đại tướng quân, người quên tôi rồi sao? 
Nghiêm Sơn nhìn Trần Năng. Chàng chợt nhớ lại một chuyện: Cách đây mấy năm, chàng
ước hẹn với Khất đại phu Trần Đại Sinh, sư huynh của Lê Đạo Sinh đấu võ. Nếu chàng
thắng, thì ông phải ra nhận chức Thái-thú Cửu-chân. Còn chàng bại, chàng phải làm theo
một lời yêu cầu của ông. Chàng đấu với ông được chín chiêu thì bị thua. Chàng đành phải
hứa làm cho ông một điều. Trong lúc đấu với Khất đại phu, chàng thấy cạnh đó có một cô
gái nhỏ tuổi. Nhưng hôm đó là đêm trăng, chàng không nhận được mặt cô. Hôm nay, Trần
Năng lên tiếng, chàng mới nhận ra. 
Trần Năng nói: 
– Nghiêm quốc công, những điều Quốc-công nói với sư phụ tôi, dù tôi có chết cũng không
nói với bất cứ ai đâu. 
Nghiêm Sơn nói với Đinh Công Dũng: 
– Đinh tiên sinh! Cô này không phải là người của phản tặc đâu. Sư phụ cô với tôi là bạn tâm
giao. Tôi biết người rất kỹ. 
Rồi chàng quay lại hỏi Phương Dung: 
– Cô nương sử dụng kiếm pháp Long-biên, vậy cô nương mới từ miền xuôi lên đây phải
không? 
Phương Dung chưa kịp trả lời thì nữ lang xinh đẹp đã cất tiếng ôn nhu nói: 
– Này em! Em từ Long-biên lên đây, chị muốn hỏi em một vài tin tức, được không? 
Nghiêm Sơn chỉ nữ lang: 
– Đây là phu nhân của ta. 
Phương Dung thấy nữ lang xinh đẹp, nói năng nhu nhã, nàng có cảm tình ngay, nên đáp: 
– Tin tức phu nhân muốn hỏi là tin tức gì vậy? 
Nữ lang nói: 
– Tôi hỏi em, ở Long-biên có người nào họ Đào không? 
Phương Dung liếc nhìn nữ lang, thầm nghĩ: Không biết nàng hỏi Đào nào? Có liên quan gì
tới Đào đại ca không? 
Nghĩ rồi, nàng trả lời lửng lơ: 
– Tôi biết rất nhiều người họ Đào. Người chết có, người sống có. Người sắp chết cũng có.
Người giỏi võ có, người giỏi văn có. Song tôi đi đường xa hết tiền, nếu phu nhân muốn biết
tin tức một người họ Đào thì phải ban thưởng mười lạng vàng. 
Nàng những tưởng đùa vậy cho vui, không ngờ, nữ lang gật đầu: 
– Nếu em cho chị biết tin tức của người họ Đào, chị sẽ thưởng cho em bất cứ vật gì chị có. 
Phương Dung gật đầu: 
– Phu nhân là người lớn, không được nói dối trẻ con. Phu nhân là đệ nhất phu nhân Lĩnh-nam... Xin nhớ lời. Tôi có một người biết tất cả tin tức của Cửu-chân song kiệt Đào Thế Kiệt,
Đinh Đại. Y biết cả tin tức của Đào Thế Hùng nữa... Ngặt một điều, y bị trúng độc của tên
Đinh Công Dũng, đang hấp hối. Nếu phu nhân bắt Đinh Công Dũng đưa thuốc giải cứu y, y
sẽ cho phu nhân tin tức. 
Nữ lang đưa mắt nhìn Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn bảo Đinh Công Dũng, giọng uy nghiêm: 
– Xin Đinh tiên sinh ban thuốc giải. 
Đinh Công Dũng nói: 
– Y trúng phải chất độc của con tằm núi, pha với nọc độc lá han. Không có thuốc nào chữa
được cả. Duy chỉ dùng ma hoàng, tiá tô, gừng tươi nấu lên uống thì kéo dài mạng sống
được ba năm. 
Nữ lang nhảy lên ngựa. Thân pháp nàng đẹp vô cùng. Nghiêm Sơn nói với Phương Dung,
Trần Năng: 
– Chúng ta đi thôi. 
Bốn ngựa hướng trang Thượng-hồng phi như bay. Từ xa xa, Phương Dung thấy trong trang
khói bốc lên ngùn ngụt. Nàng la lớn: 
– Thôi, chết rồi. Chúng ta mắc kế điệu hổ ly sơn của anh em họ Đinh rồi! 
Bốn người đến cổng trang đã thấy có mấy xác chết của tráng đinh Thượng-hồng. Bên trong
có sáu người cỡi ngựa chỉ huy tráng đinh Lôi-sơn tấn công tráng đinh Thượng-hồng. Bên
phía Thượng-hồng, Hùng Bảo đốc chiến, có vẻ yếu thế lắm rồi. Phương Dung, Trần Năng
nhảy xuống ngựa. Ánh kiếm lấp lánh. Hai nàng đi đến đâu, tráng đinh Lôi-sơn rơi đầu đến
đó. 
Nữ lang ngồi trên mình ngựa thấy Đào Kỳ nằm ở sân, do hai tráng đinh Thượng-hồng chăm
sóc. Nàng xông vào trùng vây, đánh liền năm chưởng. Phương Dung nhận ra chiêu Hải triều
lãng lãng của phái Cửu-chân. Vòng vây dãn ra một khoảng. Nữ lang lách mình một cái đã lọt
vào trong. Nàng đến bồng Đào Kỳ lên, nước mắt chảy ròng ròng. 
Phương Dung nghĩ đến vụ Tường Quy, nàng cho rằng nữ lang cũng là loại người trắc nết,
nên nổi giận, cầm kiếm đâm liền. Nghiêm Sơn đưa kiếm gạt đánh choang một cái. Phương
Dung đổ quạu: 
– Ngươi là vua Lĩnh-nam, để vợ đi ôm trai, không biết nhục, sao còn đỡ kiếm của ta? 
Đào Kỳ đã tỉnh. Chàng vẫy tay gọi Phương Dung: 
– Em Dung, không được vô lễ. Đây là tam sư tỷ của anh. 
Nghiêm Sơn, Trần Năng, Phương Dung cùng rút kiếm ra tấn công đám tráng đinh Lôi-sơn.
Chỉ mấy chiêu đã giết trên mười người. Chúng kinh hoảng, hô lên một tiếng báo nguy, rồi
cùng bỏ chạy. 
Hùng Bảo thúc tráng đinh đuổi theo. Trần Năng cản lại, nói: 
– Chúng ta phải thu xếp mọi việc ở đây trước đã. Không nên đuổi theo. 
Hùng Trọng, Hùng Bảo điều khiển tráng đinh chữa cháy, thu dọn xác chết. Trần Năng thì
băng bó cho những người bị thương. 
Phương Dung bảo Hùng Trọng: 
– Hùng hầu, bọn chúng tới đây từ bao giờ? 
Hùng Trọng buồn bã đáp: 
– Khi cô nương với Trần Năng vừa đi khỏi, thì chúng kéo tới trên năm trăm tên. Không nói,
không rằng đánh vào hai mặt nam và đông. Hùng Bảo giữ mặt đông. Sư thúc giữ mặt nam.
Chúng đánh tới trưa mà không vào được, tráng đinh chết có hơn mười tên. Quá ngọ, sư
thúc bị lên cơn suyễn ngất đi. Hàng ngũ Thượng-hồng rối loạn, vì vậy chúng lọt được vào
vòng ngoài của trang. Tôi với Bảo thủ vòng trong, những tưởng sẽ nguy đến nơi, may nhờ
cô nương về kịp. 
Hùng hầu không hổ là người lãnh đạo. Sau trận đánh, ông vẫn bình tĩnh như thường. Ông
liếc mắt nhìn Nghiêm Sơn, Thiều Hoa, hỏi Trần Năng: 
– Quý khách đây là ai? Sao lại ra tay nghĩa hiệp trợ giúp chúng ta trong cơn nguy biến? 
Trần Năng chỉ Nghiêm Sơn và Thiều Hoa: 
– Thưa bố, vị này là Lĩnh-nam công. Còn vị này là phu nhân của người. 
Với địa vị Lạc-hầu, Hùng hầu thường chỉ gặp đến cấp Huyện-lệnh đã là ghê gớm lắm rồi,
chẳng mấy khi gặp được Thái-thú, huống hồ đối với Lĩnh-nam công? Hùng Trọng thất kinh,
vội kính cẩn ra mặt: 
– Lạc-hầu trang Thượng-hồng xin tham kiến Quốc-công, đa tạ Quốc-công đã ra tay cứu
viện. 
Nghiêm Sơn phất tay, một kình lực nhu hòa đỡ Hùng Trọng dậy, không cho dùng đại lễ.
Nghiêm Sơn nói: 
– Hùng hầu! Tôi ăn ở, cai trị không có đức nên để kẻ ác tới xâm phạm trang ấp của người.
Dù đây là dã tâm của Đinh Công Dũng, nhưng tôi là Lĩnh Nam công, tôi vẫn phải chịu trách
nhiệm. Hùng hầu yên tâm, tôi sẽ xử vụ này theo đúng luật lệ của bản triều. 
Hùng Trọng là giòng dõi Hùng-vương, coi người Hán như cựu thù. Vì luật lệ, ông phải hành
đại lễ với Nghiêm Sơn. Khi thấy Nghiêm Sơn ở địa vị tối cao, mà giản dị, không hách dịch
như những huyện lệnh, thái thú, ông đã thấy cảm tình. Nghiêm Sơn còn tự nhận là không có
đức, nên Đinh Công Dũng mới làm loạn, lại còn hứa sẽ xử vụ này theo luật. Ông mừng lắm,
kính cẩn mời Nghiêm Sơn với Thiều Hoa vào nhà khách, truyền làm tiệc đãi đằng. 
Hoàng Thiều Hoa đặt Đào Kỳ xuống sập, rồi hỏi: 
– Tiểu sư đệ! Em lớn quá rồi, tại sao em lại bị bệnh? Mấy năm nay chị nhớ em chết đi được.
Chị tìm em khắp nơi mà không thấy. 
Nàng thiết tha săn sóc Đào Kỳ như mẹ săn sóc con. Đào Kỳ đã tỉnh, chàng vẫy tay gọi
Phương Dung: 
– Phương Dung, lại ra mắt sư tỷ của anh đi. 
Từ lúc bị lầm lẫn, tỏ ý ghen tuông, Phương Dung xấu hổ đứng yên, không biết nói sao. Bây
giờ được Đào Kỳ gọi, nàng mới lên tiếng: 
– Sư tỷ! Chị là người lớn xin đừng chấp. Em chưa gặp sư tỷ lần nào, nên vô phép. 
Thiều Hoa cười, hỏi Đào Kỳ: 
– Cô nương đây là ai? 
Đào Kỳ đáp: 
–...Là Nguyễn Phương Dung, con gái của chưởng môn phái Long-biên. 
Hoàng Thiều Hoa à lên một tiếng: 
– Đúng là danh gia đệ tử. Hèn chi kiếm thuật thần thông. Mấy chiêu kiếm em đánh Đinh
Công Dũng, nếu chị là y, cũng chỉ có nước chịu chết. 
Hoàng Thiều Hoa vẫy tay gọi Hùng Bảo: 
– Đồ nhi! Con đến ra mắt tiểu sư thúc đi. 
Hùng Bảo đến trước Thiều Hoa thụp xuống lạy: 
– Đệ tử là Hùng Bảo, xin kính cẩn ra mắt sư nương. 
Đào Kỳ chỉ Hùng Bảo cười: 
– Ngay buổi đầu tiên gặp Hùng Bảo, em đã biết y là đệ tử của Cửu-chân. Bảo với em đã
nhận nhau từ hôm mới gặp. Tuy Bảo không nói ra, nhưng em cũng biết sư phụ của Bảo là
sư tỷ. 
Thiều Hoa nói: 
– Cách đây mấy năm, trên đường về thăm quê, ta gặp Bảo. Thấy Bảo là con cháu Hùng-vương, ta thu Bảo làm đồ đệ. Ta cấm không cho Bảo tiết lộ chuyện này với bất cứ ai. Vì vậy,
hồi nãy Bảo thấy ta mà không dám ra hành lễ, cho đến lúc ta gọi, Bảo mới dám ra mắt. 
Nàng nhìn Phương Dung cười: 
– Em cưới vợ bao giờ? Chị có cô em dâu vừa xinh đẹp, vừa con nhà danh gia, kiếm thuật
thần thông... 
Đào Kỳ ngắt lời: 
– Chúng em chưa thành vợ chồng. Chú Hùng đã đến Cối-giang cầu hôn. Cha mẹ đôi bên
đều vui lòng, nhưng em muốn ngày cưới phải có bố mẹ với sư tỷ, nên còn hoãn lại. 
Thiều Hoa hỏi: 
– Từ hồi lạc nhau ở Long-biên đến giờ, em ở đâu? 
Đào Kỳ thuật lại chi tiết mọi sự việc xảy ra. Đến chỗ chàng viết thơ nhắn Nghiêm Sơn, thì
Nghiêm Sơn ngắt lời: 
– Thư sư đệ viết cho ta, ta không nhận được. Ta không biết sư đệ ở Thái-hà trang. Chứ nếu
ta biết, đã cho người đi đón sư đệ về cho sư tỷ rồi. Sư tỷ của em, không tìm được em, ăn
không thấy mùi vị, ngủ không yên giấc, ta vui thế nào được? 
Phương Dung xen vào: 
– Như vậy Lê Đạo Sinh đã bịa ra chuyện đại ca viết thơ gửi gấm Đào đại ca cho y. Không
biết y làm vậy để mưu đồ việc gì đây? 
Nghiêm Sơn lắc đầu: 
– Bảo y phản ta thì không đúng, vì y đang cầu cạnh ta một việc. Ta lại ủy cho y tổ chức đại
hội Tây-hồ. Có lẽ y nói dối tiểu sư đệ như vậy để giữ tiểu sư đệ lại, chờ Đào hầu tới, rồi y
bắt giam như Nguyễn Phan với Đặng Thi Kế. 
Thiều Hoa buồn rầu nói với Đào Kỳ: 
– Chị đã thành hôn với Nghiêm đại ca rồi. Chị biết như vậy là có lỗi với sư phụ, sư mẫu. 
Đào Kỳ cười khúc khích: 
– Đã là anh hùng thì phải biết tùy hoàn cảnh. Nếu vì thời thế, sư tỷ không tìm thấy bố mẹ.
Sư tỷ sẽ ở vậy cả đời sao? Sau này gặp bố mẹ, nếu các người có trách phạt, em sẽ nhận tội
hết. Em là ông mai mà. 
Chàng quay lại hỏi Nghiêm Sơn: 
– Nghiêm đại ca! Theo tục lệ người Việt, đại ca phải tặng ông mai cái thủ lợn. Vậy thủ lợn
đâu? 
Nghiêm Sơn cười: 
– Xa nhau sáu bảy năm mà tiểu đệ tính tình vẫn như cũ. Tiểu sư đệ, ngươi là đại ân nhân
của ta. Đời ta, công danh lên đến Lĩnh Nam công, nhưng ta vẫn không lấy làm vui. Nguồn
hạnh phúc mà ta tìm được trên thế gian này là Hoàng sư tỷ. Vì vậy, tiểu sư đệ là đại ân
nhân, ta không biết lấy gì báo đáp. 
Nghiêm Sơn là người tinh tế. Chàng biết giữa vợ mình với Đào Kỳ tình thì là sư tỷ, sư đệ,
nhưng thực ra nàng săn sóc Đào Kỳ như mẹ với con. Hai người xa cách bấy lâu, bây giờ
trùng phùng, chắc có nhiều chuyện riêng muốn nói. Chàng bèn nói với Hùng Trọng: 
– Hùng hầu! Hùng hầu dẫn tôi đi quan sát trang ấp một lát đi. 
Hùng Trọng líu ríu vâng lời, dẫn Nghiêm Sơn đi. 
Nghiêm Sơn đi rồi, Thiều Hoa bật thành tiếng khóc: 
– Ta... Ta đã bất hiếu với sư phụ. Ta là Mỵ Châu mất rồi. 
Phương Dung ngắt lời: 
– Sư tỷ, em muốn góp một vài câu được không? 
– Được, em cứ nói. 
– Em thấy chị có ý tưởng cho rằng chị lấy Nghiêm đại ca là thành Mỵ Châu. Nghĩ như vậy là
sai. Mỵ Châu là đứa con gái ngu xuẩn, chỉ biết có tình yêu. Trọng Thủy là tên lưu manh. Còn
sư tỷ, thân tuy là vợ Nghiêm đại ca, mà lòng luôn hướng về Lĩnh-Nam. Nghiêm đại ca là
người hiệp nghĩa xuất thân. Từ khi tới Lĩnh-Nam, đã tạo cho dân Việt một đời sống thanh
nhàn. Đất Lĩnh-Nam bây giờ có thua gì Trung-nguyên đâu? Em sợ đời vua Hùng, vua Thục
cũng không bằng. Đại ca dường như không chú ý đến phong trào phản Hán phục Việt. Em
có cảm tưởng như đại ca là người Việt. 
Câu nói của Phương Dung làm Trần Năng biến sắc. Nàng mở to mắt nhìn Phương Dung,
nói lẩm bẩm trong miệng câu gì không rõ. Đào Kỳ tiếp: 
– Chính người Hán cũng có cảm tưởng như Nghiêm đại ca khuyến khích người Việt đứng
lên đòi Lĩnh-Nam. 
Thiều Hoa gật đầu: 
– Chị thấy Nghiêm đại ca làm những việc có lợi cho Lĩnh Nam, nên chỉ khuyến khích mà
không hỏi tại sao. Hôm chị lạc sư đệ ở Long-biên, thì trở về Mai-động với sư bá Nguyễn
Tam Trinh. Chị cho sư bá biết Nghiêm đại ca là Lĩnh-nam công. Sư bá kinh hồn động phách.
Người nghi chỉ một vài ngày Nghiêm đại ca sẽ đem đại quân đến san bằng Mai-động.
Nhưng không ngờ... 
Ngừng một lát, nàng tiếp: 
– Ba hôm sau, Nghiêm đại ca đến, mang theo trâu, bò, ngựa, lợn, gà gấp một trăm lần lệ
chuộc một người thường nạp cho sư bá. 
Theo tục lệ của Lĩnh-Nam, khi mình bị đối phương bắt thì phải mang trâu, bò, lừa, ngựa đến
chuộc mạng. Người bị bắt càng ở địa vị lớn, lễ chuộc càng nhiều. Nghiêm Sơn bị Nguyễn
Tam Trinh dùng mưu bắt được, chàng cũng mang lễ đến để chuộc mạng mình. 
Thiều Hoa tiếp: 
– Sư bá cảm động lắm. Người thắc mắc rằng nếu người bắt một Huyện lệnh nhỏ bé thôi, thì
y cũng ghép người vào tội chết, đem quân tàn phá trang ấp. Thế mà tại sao Nghiêm đại ca
không tính tội, còn đem lễ đến chuộc? Nghiêm đại ca là Lĩnh-nam công, những ai nói đến
phản Hán phục Việt thì phải giết đi. Nghiêm đại ca biết trang Mai-động là nơi chuẩn bị khởi
binh phục quốc mà lại đối đãi khách khí như vậy, ông thực không hiểu nổi. 
Nghiêm đại ca ghé tai ông nói chuyện một hồi lâu. Ông nghe xong, cúi xuống lạy Nghiêm đại
ca tám lạy. Rồi ông gọi chị vào nói: 
– Ta thấy cháu với Nghiêm huynh đây, trời sinh một cặp tài sắc song toàn, vậy ta xin đứng
ra thay mặt Đào hầu làm lễ thành hôn cho cháu với Nghiêm huynh. Đào hầu với ta là bạn.
Sau này người có trách phạt gì, lão xin nhận hết. Vì vậy, ta trở thành vợ Nghiêm đại ca. 
Phương Dung trầm tư một lát rồi nói: 
– Chúng ta đã biết ý Nghiêm đại ca rồi thì tốt lắm. Em với Đào ca đi khắp nơi, khích hào kiệt
tàng trữ lương thảo, huấn luyện tráng đinh, chờ ngày khởi sự. Nếu có gì rắc rối, đã có sư tỷ
ở trong lo liệu. 
Nghiêm Sơn với Hùng Trọng đã trở về. Đào Kỳ hỏi Nghiêm Sơn: 
– Nghiêm đại ca, nếu như bây giờ em tìm ra bố mẹ và cậu em, lúc đó đại ca định liệu như
thế nào? 
Nghiêm Sơn thở dài: 
 – Thì còn thế nào nữa? Ta sẽ mời các người trở về Đinh, Đào trang, rồi ta cử Đào hầu làm
Thái-thú, Đinh hầu làm Đô-úy Cửu-chân. Hai vị vốn đã có hùng tâm, thương dân thì ta trao
đất Cửu-chân cho hai người. Hai người mặc lòng lo cho dân. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Bố với cậu em xưa nay vẫn có chí phục hồi Lĩnh Nam, đại ca trao quyền Thái-thú cho
người, đại ca không sợ ư? 
Nghiêm Sơn vỗ lưng Đào Kỳ: 
– Tiểu sư đệ, người thực là ngay thẳng. Kiến Vũ thiên tử là nghĩa huynh của ta, người
phong Lĩnh-Nam cho ta khi Lĩnh-Nam còn ở trong tay giặc. Bây giờ, ta đã thu Lĩnh-Nam về
một mối, người vẫn nói với ta: Người khởi binh là muốn đem hạnh phúc cho dân. Bây giờ
Đào-hầu là người có thể mưu hạnh phúc cho trăm họ thì ta trao đất Cửu-chân cho. Đất Lĩnh-Nam trả cho người Lĩnh-Nam thì Đào hầu đâu có cần phải phản Hán phục Việt nữa? Nhưng
chuyện hôm nay nhất thiết tiểu sư đệ phải giữ kín, đừng lộ ra ngoài. Bọn tham ô người Hán
sẽ gây khó dễ cho ta. 
Hoàng Thiều Hoa rưng rưng nước mắt, cầm tay Nghiêm Sơn: 
– Nghiêm đại ca! 
Nghiêm Sơn nhìn nàng, bốn mắt gặp nhau. Hai người như nói với nhau hàng muôn ngàn
lời. Một lát sau, Nghiêm Sơn mới lên tiếng: 
– Ta vì đại nghĩa mới sang Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam thuộc Hán cũng thế, trả về cho người Việt
cũng vậy. Ta chỉ mong có một điều: Dân chúng được ấm no. Đây là nói về lý. Còn về tình,
dù ta có bỏ cả Lĩnh-nam công, nếu phải bỏ tất cả, để được Hoàng sư tỷ, ta cũng vui lòng. Ta
gặp Hoàng sư tỷ và tiểu sư đệ giữa lúc đánh phá Đào trang, hai người đã không coi ta là thù
nghịch, còn tử tế với ta, ta dù có chết đến mấy lần cũng không xứng đáng với sư tỷ. 
Nghiêm Sơn ngưng lời. Trong phòng im lặng. Một lát sau Phương Dung đến trước mặt
Thiều Hoa: 
– Hồi sáng ở trang Lôi-sơn, phu nhân có hứa rằng nếu em có tin tức một người họ Đào, phu
nhân sẽ ban thưởng. Bây giờ phu nhân đã được toại ý, xin ban thưởng đi thôi. Người nghĩa
hiệp không nói hai lời. Người lớn không dối trẻ con. Bậc cha mẹ dân phải thưởng cho dân. 
Thiều Hoa ngẩn người ra không biết trả lời sao. Nghiêm Sơn vội đỡ lời: 
– Sư tỷ đã hứa tức là ta hứa. Phương Dung, em muốn gì ta cũng sẵn sàng. 
Phương Dung chỉ Hùng Bảo, Trần Năng nói: 
– Bọn em đến đây ăn cưới, chưa có gì làm lễ mừng hai họ. Vậy em dám xin đại ca cho phép
em đánh đuổi Đinh Công Dũng, chiếm Lôi-sơn làm quà cưới cho Hùng Bảo. 
Nghiêm Sơn thất kinh hồn viá. Chàng không ngờ đầu óc Phương Dung lại nghĩ ra được việc
kinh thiên động địa đó. Kể ra thì Đinh Công Dũng đáng tội tử hình. Ngặt vì y là tay chân Tô
Định. Bây giờ để Phương Dung chiếm Lôi-sơn, thế nào cũng xảy ra trận đánh lớn. Tô Định
tất đem quân cứu Đinh Công Dũng. Lúc đó sẽ rầy rà to. Nghiêm Sơn ngẫm nghĩ rồi nói: 
– Kể ra món quà đó cũng chưa xứng đáng với sư muội. Song, Đinh Công Dũng là người của
Tô Định. Sư muội gây chiến với y, Tô Định ắt sẽ đem quân tiếp viện. Lúc đó không lẽ ta lại
tiếp cứu sư muội? Vậy ta ưng cho sư muội chiếm Lôi-sơn song có điều không được dùng
binh. 
Thiều Hoa ngẫm nghĩ: 
– Nếu bây giờ ta với Nghiêm đại ca ở đây mà tiểu sư đệ với Phương Dung đánh Lôi-sơn
trao cho Hùng Bảo, thì có khác gì chúng ta đánh? Chi bằng ta lánh mặt đi để Phương Dung
làm. Sau này Tô Định có khiếu nại, ta sẽ trả lời là ta không biết. Tô Định biết Hùng Bảo là đệ
tử ta, ắt hẳn y không dám làm khó dễ Bảo. 
Nghĩ vậy nàng nói với Đào Kỳ: 
– Tiểu sư đệ, mấy năm nay chị nhớ em đến héo ruột héo gan. Bây giờ Nghiêm đại ca với chị
đi Đăng-châu có chút việc. Tiểu sư đệ ở đây chờ sư phụ của Trần Năng chữa bệnh cho, rồi
sau đó về Luy-lâu ở với chị. Nhớ phải về ngay, đừng để chị mong. 
Nàng vẫy Phương Dung: 
– Em lại đây! 
Phương Dung lại gần. Hoàng Thiều Hoa tháo chuỗi hạt trai dài đến năm vòng trên cổ, đeo
vào cổ Phương Dung nói: 
– Vì không biết trước nên chị chỉ có món quà nhỏ này để làm lễ diện kiến sư muội. Kỳ này
xuống Đăng-châu gặp Đào sư thúc, chị sẽ bàn cùng người lo cưới hỏi cho hai em. 
Phương Dung là con gái yêu của Lạc-hầu, vàng bạc, châu báu nàng không thiếu gì. Nhưng
thái độ nhu nhã của Thiều Hoa khiến nàng cảm động. Hai chị em chuyện trò một lúc, rồi
Thiều Hoa với Nghiêm Sơn lên đường. 
Đợi hai người đi khỏi, Trần Năng nói: 
– Lĩnh-nam công đã hứa lấy Lôi-sơn phong cho chúng ta. Vậy chúng ta làm cách nào để
chiếm được? 
Phương Dung cười: 
– Không khó gì cả. Đinh Công Dũng viết thư mời ba mươi sáu động, trang Nam Mê-linh
cùng bàn chuyện thống nhất thành một châu lớn. Từ trước đến nay, trang Toàn-liệt với
Thượng-hồng kịch liệt chống đối. Vậy khi đại hội, Hùng hầu, Trần hầu bất thình lình tỏ ý
thuận. Cuối cùng thế nào cũng có cuộc đấu võ để chọn người thống lĩnh. Đào ca với tôi đại
diện Thượng-hồng, Toàn-liệt ra tranh phong. Khi chiếm được rồi, chúng tôi sẽ nhường cho
Hùng Bảo, lấy lý do Bảo là cháu vua Hùng. Hỏi ai dám nói? 
Hùng Trọng lắc đầu: 
– Chúng tôi không có tham vọng đó. 
Đào Kỳ phất tay: 
– Chúng ta chiếm Lôi-sơn là muốn mưu hạnh phúc cho dân. Hùng hầu chắc đã nghe tiếng
đồn dân chúng ở Đinh, Đào trang sống sung sướng như thế nào rồi chứ? Bây giờ, thống
nhất ba mươi sáu trang, động lại, chúng ta sẽ mưu đồ hạnh phúc cho dân theo gương vua
Hùng, vua Thục chẳng hơn để cho anh em họ Đinh cai trị dân như chó, như trâu hay sao? 
Hùng Trọng nghe Đào Kỳ dùng đại nghĩa khuyên, ông đứng dậy chắp tay nói: 
– Đa ta sư thúc chỉ dạy. 
Rồi ông gọi Trần Năng nói: 
– Tục lệ Văn-Lang ta là con gái lấy chồng, ba ngày sau phải trở về lễ tạ tổ tiên, tạ cha mẹ.
Vậy con với Bảo phải trở về ngay. Trang Thượng-hồng này không cần đề phòng, vì cái tin
Hùng Bảo là đệ tử của Lĩnh-nam công phu nhân, Đinh Công Dũng không dám tấn công nữa
đâu. 
Ông nói với Đào Kỳ: 
– Tuy vậy tôi vẫn sợ trong khi đi đường Đinh Công Dũng sẽ làm hại cháu Năng. Phiền sư
thúc với Nguyễn cô nương cùng đi, cho tôi được an tâm. 
Đào Kỳ khẳng khái nói: 
– Bảo đã là đệ tử của tam sư tỷ thì là người phái Cửu-chân rồi. Tôi có bổn phận giúp Bảo. 
Hùng hầu đã chuẩn bị xong lễ vật, cho gia nhân gánh theo. Đào Kỳ, Phương Dung lên ngựa
cùng đi với vợ chồng Hùng Bảo. Phương Dung với Trần Năng ngang tuổi nhau, tính tình lại
ưa đùa nghịch như nhau nên trên đường đi, hai người luôn cười đùa. 
Trần Năng nói: 
– Bây giờ sư thúc với sư thẩm đi theo bọn cháu. Mai này khi đám cưới sư thúc, chúng cháu
cũng sẽ đi tháp tùng để trả nợ. Có điều, đi từ Cối-giang đến Đào trang ở Cửu-chân thì phải
mất mấy tháng. 
Đi đến gần trưa mới tới khúc quẹo vào trang Toàn-liệt. Trần Năng mới xa nhà có ba ngày,
mà đã bao nhiêu biến cố xảy ra, nàng tưởng chừng như đã mấy tháng. Con đường này
nàng đã đi lại không biết bao lần, nhưng sao lần này như có một cái gì khác lạ. Cũng cây cổ
thụ ven đường, cũng hoa rừng, cỏ thơm như cũ, mà nàng cảm thấy nó như khác với ngày
thường. Nhìn thấy cây đa lớn ở cổng trang xa xa, lòng nàng rộn lên. Chỉ lát nữa đây, nàng
sẽ gặp lại cha, gặp lại mẹ, gặp lại cổng trang, sân trang thân yêu mà nàng đã từng sống gần
hai chục năm trời. 
Đang đi, thình lình có ba người từ ven đường, cầm đao bước ra ngăn lối. Trần Năng thấy ba
người có ý bất hảo, song hôm nay là ngày cô dâu trở về tạ tổ tiên, cha mẹ, nàng không
muốn gây chuyện. Phương Dung lên tiếng: 
– Phiền ba anh cho mượn đường. 
Tên đầu đảng cầm đao khoanh trước ngực: 
– Đường này ta mua từ lâu rồi. Ai muốn đi qua, phải tuân theo luật do ta đặt ra. 
Phương Dung hỏi: 
– Xin đại vương cho biết luật đó là luật gì? 
Tên đầu đảng múa thanh đao nói: 
– Điều thứ nhất: Đàn ông muốn đi qua, phải để ta thiến. Còn đàn bà, phải cởi truồng. 
Nói xong, cả ba tên cùng cười hô hố. 
Bỗng bốp, bốp, bốp, ba tên đã bị Phương Dung tát ba cái. Tiếng cười tắt ngấm. Ba tên quát
lên rồi cùng rút đao xông vào. 
Phương Dung rút kiếm đưa ra, ánh kiếm lóe lên, ba thanh đao cùng rơi xuống đất. Cổ tay ba
tên ứa máu. Chúng chưa kịp phản ứng gì, Phương Dung đã nhảy đến, bẻ tay chúng lốp cốp.
Hai bàn tay chúng đều bị trật khớp, không cựa quậy được nữa. 
Nàng nháy mắt cho Trần Năng rồi nói: 
– Hùng phu nhân, phu nhân có thứ thuốc uống vào, chỉ mười ngày sau người ta đứt ruột mà
chết. Phu nhân cho tôi ba viên. 
Trần Năng biết Phương Dung hành sự xuất quỷ nhập thần, thấy nàng nháy mắt, Trần Năng
vội móc trong bọc ra ba viên thuốc cảm , đưa cho nàng, dặn: 
– Thuốc này mới uống thì không sao. Nhưng sau mười ngày sẽ đứt ruột mà chết. Chỉ có
thuốc giải của tôi mới cứu được mà thôi. 
Phương Dung bóp miệng ba tên, nhét thuốc vào mồm chúng, rồi nàng bịt mũi cho chúng
nghẹt hơi, phải nuốt viên thuốc vào bụng. Xong, nàng kéo tay chúng, ráp cho khớp xương
trở lại như cũ, nói: 
– Thôi, ba vị đại vương cứ tự tiện. 
Nàng vẫy Đào Kỳ, vợ chồng Hùng Bảo lên đường. Ba đại vương tuy đau đổ mồ hôi hột,
nhưng cũng phải chạy theo. Chúng đến trước ngựa Trần Năng, quỳ mọp xuống, nói: 
– Xin phu nhân thương tình ban thuốc giải. Chúng tôi là phận tôi tớ, chỉ biết tuân theo lệnh
của trang chủ. Trang chủ bảo sao, chúng tôi phải làm vậy. 
Phương Dung hỏi : 
– Trang chủ của ngươi là ai? 
– Thưa là Đinh Công Dũng. 
Phương Dung đưa mắt nhìn Trần Năng hỏi tiếp: 
– Tại sao Đinh Công Dũng lại sai bọn ngươi đón đường bọn ta? 
– Đinh lão gia bảo chúng tôi đón đường, nếu gặp người của trang Thượng-hồng tới tiếp viện
thì đốt cỏ lên làm hiệu. Lão gia sẽ đem người tiếp ứng cho Đinh công tử. 
– Đinh công tử đâu? 
– Thưa, Đinh công tử đang đánh phá trang Toàn-liệt. 
Trần Năng nghe nói ruột nóng như lửa, hỏi: 
– Đinh công tử mang bao nhiêu người đi đánh trang Toàn Liệt? 
– Thưa khoảng năm trăm. Lên đường từ sáng. 
Phương Dung quát: 
– Bây giờ các ngươi muốn sống, phải trở về Lôi-sơn, tìm cách đốt dinh Đinh Công Dũng.
Phải làm cho bí mật. Sau đó tới đây đợi ta. Ta sẽ cho thuốc giải. Nếu không đốt được dinh
Đinh Công Dũng thì đừng đến đây, vô ích, hãy mau về bảo vợ con sửa soạn lo chôn cất
nghe chưa? 
Nói rồi, nàng phi ngựa theo vợ chồng Hùng Bảo. Một lát thì tới trang Toàn-liệt. Trong trang,
lửa cháy rực trời. Tiếng đàn bà, trẻ con kêu la thảm thiết. Tráng đinh Lôi-sơn đã đánh tới
trung ương trang. Trần Hầu cùng tráng đinh cố thủ trong hàng rào dinh mình. Sức chống trả
yếu lắm rồi. 
Trần Năng thấy cha mình khắp người đầy máu, đang đốc thúc tráng đinh. Nàng gọi lớn: 
– Bố ơi! Bố đừng sợ. Con đã về đây. 
Nàng rút kiếm xông vào đội hình tráng đinh Lôi-sơn cùng với Đào Kỳ, Phương Dung. Bốn
cao thủ cùng ra tay, loáng một cái, trên mười tráng đinh Lôi-sơn đã rơi đầu. Ánh kiếm của
Phương Dung như sao sa, như điện chớp. Nàng tiến tới đâu, đầu rơi tới đó. Vòng vây đã bị
vỡ. 
Một thanh niên đang chỉ huy tráng đinh tấn công, thấy bốn người xông vào trận, y bèn chỉ
cho tráng đinh vây bốn người vào giữa. Nhờ vậy trong dinh Trần Hậu, tráng đinh Toàn-liệt
được nghỉ ngơi để chữa cháy. 
Đào Kỳ bật tay một cái, đoạt được hai thanh đao. Chàng dùng kiếm pháp Long-biên múa
như mây bay thác đổ. Hợp với kiếm của Phương Dung, hai người đi đến đâu, thây người đổ
đến đó. 
Trần Năng vọt qua hàng rào, vào đỡ cha: 
– Bố ơi, bố có sao không? 
Trần Hầu mải chỉ huy tráng đinh chống trả bên địch, nên còn có sức. Khi thấy con gái xuất
hiện, ông mới thấy mệt. Ông không biết võ, lại bị trúng thương nhiều chỗ. Ông buông kiếm,
người loạng choạng muốn ngã. Trần Năng vội ôm bố vào nhà, lấy thuốc băng bó cho ông.
Nàng dặn tráng đinh trông coi ông, rồi nghiến răng, cầm kiếm xông ra ngoài. Thấy Phương
Dung, Đào Kỳ, Hùng Bảo đã đánh cho tráng đinh Lôi-sơn phải lui ra gần cổng trang. Nàng
rút kiếm nhảy vào. Cứ mỗi lưỡi kiếm đưa ra, một cái đầu rơi. Thình lình kiếm nàng chạm
phải một lưỡi kiếm khác đánh choang một cái. Kiếm của nàng vọt lên cao. Cánh tay nàng tê
dại, gần như không còn cử động được. Nàng nhìn lên, thấy đối thủ là một thanh niên tuổi
khoảng 23, 24, gương mặt hơi giống Đinh công Dũng. Nàng than thầm: 
– Ta nghe đồn rằng Đinh Công Dũng có hai người con. Người con gái học ở Đăng-châu,
người con trai thì học ở Quế-lâm, y tên là Đinh Công Minh, võ công y còn cao hơn cha chú.
Có lẽ là tên này đây. 
Ỷ có Đào Kỳ, Phương Dung bên cạnh, Trần Năng vọt người lên, đá một Hồi phong cước
vào đầu ngựa Đinh Công Minh. Con ngựa bị trúng cước, kêu thét lên một tiếng, nhảy dựng
vó trước. Đinh Công Minh đạp chân vào yên ngựa, tung mình lên cao. Từ trên cao, y phóng
chưởng đánh Trần Năng. Trần Năng chửi thầm: 
– Ta là đệ tử Tản-viên, sở trường về chưởng, nay ngươi đấu chưởng với ta, đó là điều ta
cầu mà không được vậy. 
Nàng lui lại, đứng hạc tấn, vung chưởng đỡ. Chưởng của nàng là Phục-ngưu thần chưởng.
Đó là chiêu Thanh ngưu nhập điền. Bốp một tiếng, Đinh Công Minh bật lui lại một bước. 
Y kêu lên một tiếng kinh ngạc, hỏi: 
– Cô nương, thì ra cô nương là đệ tử phái Tản-viên? 
Đinh Công Minh mới từ Quế-lâm trở về, y đã đấu với cha và chú. Y thắng được Đinh Công
Hùng, nhưng thua Đinh Công Thắng. 
Trong ba anh em họ Đinh, Đinh Công Dũng lớn nhất, xu phụ theo người Hán. Y muốn thống
nhất các trang, động Nam Mê-linh để ăn thua với các trang động của Bắc Mê-linh, của Đặng
Thi Sách và Nhị Trưng. Y xu phụ người Hán để mong chức huyện úy. Em thứ nhì của y là
Đinh Công Hùng, võ công tầm thường, nhưng nhiều mưu lắm mẹo, cũng theo chân y, ức
hiếp người Việt. Em thứ ba là Đinh Công Thắng, võ công cao cường, hùng tâm, tráng chí,
thương yêu dân chúng, có ý phục quốc. Vì vậy Thắng không hợp với hai anh. Trang ấp của
Đinh Công Thắng không chịu nhập vào hệ thống của hai anh. Đinh Công Minh tuổi trẻ hào
sảng, văn võ kiêm toàn. Y cùng chủ trương với Đinh Công Thắng. Đinh Công Dũng tức quá,
không biết làm thế nào, thì Đinh Công Hùng hiến kế rằng: 
– Chúng ta cần bày một kế để cho cháu Minh tấn công trang Toàn-liệt. Khi đã tấn công rồi,
dù muốn dù không, y cũng phải theo chúng ta. 
Rồi Công Hùng cho gọi Công Minh tới nói rằng: 
– Trang chủ Toàn-liệt là Trần Hậu. Y làm tai mắt cho sở Tế-tác Giao-chỉ. Trong trang y hiện
giam hàng trăm người Việt yêu nước nuôi chí phục hồi Lĩnh Nam. Vậy cháu hãy đem tráng
đinh bất thình lình đánh vào, để giải thoát cho họ. 
Đinh Công Minh mới từ xa về, không nắm vững tình hình. Chú nói sao, nghe làm vậy.
Chàng dẫn tráng đinh bất thần đánh vào trang Toàn-liệt. Trận chiến diễn ra khốc liệt. Chàng
thấy tráng đinh Toàn-liệt chiến đấu can trường, rõ ra những người liệt sĩ, chứ không phải là
bọn trộm cướp như chú mình nói. Y muốn thâu quân về, nhưng sự đã lỡ, chưa biết tính sao,
thì thấy bốn người, hai nam, hai nữ ở đâu nhảy vào vòng chiến. Y mới giao chiến với Trần
Năng một chưởng, đã thấy ở nàng một bản lĩnh không tầm thường. Đinh Công Minh hỏi: 
– Cô nương là ai? 
Trần Năng đáp: 
– Ta là con gái Trần-hầu. Ngươi là Đinh Công Minh phải không? Cha ngươi vì tham vọng
muốn gồm thâu các trang, động Nam Mê-linh, bố ta không đồng ý, cha ngươi đã sai ngươi
tới gây ra thảm cảnh này. Ta nói cho ngươi biết, trang Toàn-liệt ta người ít, thế cô, nhưng ta
cương quyết chống trả. Hãy tiếp chưởng của ta. 
Nàng lui lại hai bước, vận khí tấn công. Đinh Công Minh vung tay đỡ. Hai người lăn vào đấu
với nhau. 
Về phía Phương Dung, Đào Kỳ, Hùng Bảo, ba người dồn tráng đinh Lôi-sơn ra khỏi trang
Toàn-liệt. Phương Dung cho tráng đinh đóng cửa trang, dồn nỗ lực cứu hỏa. Nàng trở lại,
thấy Đào Kỳ đứng khoanh tay lược trận, Trần Năng đang đấu với Đinh Công Minh. Đào Kỳ
nói: 
– So về chưởng pháp tinh diệu thì Trần Năng hơn Đinh Công Minh. Nhưng so về công lực
thì nàng thua xa. Nàng tuy là học trò của Khất đại phu, nhân vật khét tiếng thiên hạ, nhưng
thời gian luyện tập chưa được bao lâu. Mới đây, tuy được anh chỉ điểm, nhưng công lực vẫn
còn chưa đủ. 
Đào Kỳ thấy võ công của Đinh Công Minh hơi giống võ công của Nghiêm Sơn. Y lại mới du
học ở Quế-lâm về, không chừng y cùng môn hộ với Nghiêm đại ca cũng nên. 
Dần dần Trần Năng đã hơi yếu thế. Nhưng ỷ có Đào Kỳ, Phương Dung bên cạnh, nên nàng
vẫn bình tĩnh phát chiêu. Phương Dung bảo Đào Kỳ: 
– Anh nhắc Trần Năng mấy câu, nếu không, nàng bại đến nơi rồi. Đào Kỳ nói: 
– Anh muốn coi bản lĩnh chân thực của Đinh Công Minh nên không muốn can thiệp vào. 
Được hơn mười chiêu nữa, bỗng Trần Năng quát lên một tiếng, nàng ra chiêu Loa thành
nguyệt ảo của Cửu-chân. Đinh Công Minh vung chưởng đỡ. Bình một tiếng, y thấy khí huyết
đảo lộn, vội nhảy lui hai bước, hít một hơi chân khí. 
Y mới trở về Giao-chỉ, chưa kinh nghiệm nhiều, nên không biết chiêu vừa rồi là võ công
Cửu-chân. Y chỉ thấy một chiêu dũng mãnh, gia số kỳ diệu, nhưng y vẫn tưởng đó là võ
công Tản-viên. Chân khí vừa phục hồi, y hít một hơi dài, tiếp tục tấn công. Trần Năng tiến
lên một bước, nàng ra chiêu Hải triều lãng lãng của Cửu-chân. Chưởng phong ào ào chụp
xuống. Đinh Công Minh thấy chưởng quái ác, vội vận sức chống. Binh một tiếng, y phải lùi
lại đến bốn bước mới đứng vững. Trong khi đó, Trần Năng cũng phải lùi lại hai bước. Hải
triều lãng lãng là một chiêu có năm lớp. Lớp đầu mạnh hai thì lớp thứ nhì mạnh bốn. Vì vậy
khi Trần Năng phát lớp thứ nhì, y cảm thấy bất hảo, nghiến răng vận đủ mười thành công
lực đỡ, y mượn sức địch, nhảy lui về sau năm bước để hóa giải kình lực. 
Trần Năng phóng lớp thứ ba, nhưng chưởng không ra. 
Nguyên Hải triều lãng lãng là một chiêu số sáng tác của An Dương vương trước khi tự tử.
Uất khí chồng chất nên chân khí đầy rẫy, mới đủ lực phát năm lớp. Ở đây, Trần Năng chân
khí chưa đủ, lại mới lấy chồng, nguyên khí bị kém, vì vậy, khi phát đến lớp thứ ba thì không
còn lực. 
Đinh Công Minh cười lớn: 
– Tưởng võ công Tản-viên thế nào, không ngờ chỉ có vậy thôi sao? 
Y phóng một chưởng chụp xuống đầu Trần Năng. Trần Năng biết cơ nguy đến, nàng chưa
biết phải giải quyết ra sao, thì Đào Kỳ đã hô lớn: 
– Thiết kình quá hải. 
Thiết kình quá hải là một chiêu trong Thiết kình phi chưởng của phái Cửu-chân mà Đào Kỳ
đã dạy Trần Năng. Thiết kình phi chưởng là một chưởng pháp lâu đời của phái Cửu-chân.
Khi phát chưởng, lực đạo như một mũi dùi, đánh thẳng vào đối phương. Chiêu Thiết kình
quá hải là một chiêu trông rất thô kệch, khi phát ra không thấy chưởng phong. Đối phương
thấy vậy sẽ có ý khinh thường. Khi mũi nhọn đâm vào người, đối phương sẽ không còn đủ
thời giờ để phản công nữa. 
Trần Năng xoạc cẳng, cuộn tròn hai tay, đẩy chưởng về trước. Đinh Công Minh ngơ ngác tự
hỏi: 
– Chưởng này là chưởng gì mà lại kỳ lạ thế này? 
Y còn đang ngần ngại chưa biết phải phản công ra sao, thì mũi thiết kình đã chạm vào ngực
y. Y vận khí chịu đòn, nhưng đã trễ. Chưởng như một mũi dùi đâm vào ngực. Đau quá, y
nhăn mặt nhảy lui lại, hơi thở như gián đoạn. 
Y quay lại nhìn, thấy tráng đinh Toàn-liệt lăm lăm vũ khí như muốn ăn tươi, nuốt sống y.
Nhưng y là người can đảm, vẫn không lùi bước. Y hít một hơi thực dài rồi dùng quyền tấn
công. Quyền pháp của y không ảo diệu, nhưng dường như khắc chế với quyền pháp Cửu-chân. Trần Năng thì dùng quyền pháp Tản-viên chống lại. Đào Kỳ quan sát quyền pháp của
Đinh Công Minh mà ngây người ra, vì, mỗi chiêu, mỗi thức đều bao hàm chống lại quyền
pháp của Cửu-chân nhà chàng. Phương Dung cũng cảm thấy thế. Nàng thấy quyền của
Đinh Công Minh, dường như chỉ để chống quyền pháp phái Long-biên nhà nàng. 
Chợt nhớ ra điều gì, nàng nói với Đào Kỳ: 
– Trước đây chỉ có võ công Văn-Lang, Âu-Lạc. Sau, Vạn-tín hầu Lý Thân và Trung-tín hầu
Vũ Bảo Trung nghiên cứu võ công Trung-nguyên, rồi chế ra võ công Âu-Lạc để khắc chế lại.
Cho nên, người sử dụng võ công Âu-Lạc, đấu với người sử dụng võ công Trung-nguyên thì
thắng dễ dàng. Phàm khi hai đấu thủ giao tranh, bao giờ cũng phải tìm ra sơ hở của đối
phương mà đưa ra những chiêu thích hợp để phản công. Đệ tử Âu-Lạc đấu với người
Trung-nguyên, thì võ công đã bao hàm những chiêu sát thủ sẳn, nên thắng dễ dàng. 
Khi Trọng Thủy sang làm rễ Âu-Lạc, y dùng lời nói ngọt ngào, dụ dỗ Mỵ Châu lấy cắp bí
quyết võ công Âu-Lạc cho y. Y học rồi về trình bày lại cho cha. Triệu Đà nhân đó mới nghiên
cứu ra các chiêu thức phá võ công Âu-Lạc. Chắc Đinh Công Minh học võ công với các đời
sau của Triệu Đà, nên võ công y mới khắc chế võ công Cửu-chân, Long-biên. 
Một lát sau, Trần Năng cảm thấy khí lực suy kiệt, lui dần đến bên cạnh đống rơm. Đinh
Công Minh phát một chưởng thần tốc đánh vào đầu nàng.

Trần Năng đang hoảng hốt thì Đào Kỳ đã phi thân đến trước mặt nàng. Chàng phất tay đỡ
chưởng của Đinh Công Minh. Hai chưởng lực gặp nhau, Đinh Công Minh cảm thấy chưởng
lực của mình mất tăm mất tích. Y lùi lại mấy bước, trố mắt nhìn địch thủ: Đó là một thiếu
niên ít hơn y tới mấy tuổi. 
Y bàng hoàng, sửng sốt. Tại sao trên đời lại có người luyện được nội công âm nhu đến độ
hai chưởng chạm vào nhau, kình lực của y mất tăm mất tích luôn? Y vẫn chưa tin, vội hít
một hơi chân khí, vận đủ mười thành công lực tấn công. 
Chưởng phong của y ào ào tuôn ra. Trần Năng đứng sau còn cảm thấy nghẹt thở. Đào Kỳ
vẫn ung dung đợi cho chưởng của địch tới nơi rồi mới đỡ. Hai chưởng gặp nhau, dính tẹt
làm một. Đào Kỳ thấy chưởng đối phương thuộc loại dương cương, chàng vận âm nhu ra
chống đỡ. Một lúc sau, mặt y đỏ bừng lên. Chàng biết chân khí y phát huy cùng cực rồi. Hai
người tiếp tục đấu nội lực. Được một lát thì Đinh Công Minh cảm thấy yếu dần. Y muốn lên
tiếng van xin, nhưng nếu mở miệng ra thì lập tức ộc máu mà chết. Y tự nghĩ: 
– Thôi rồi! Hôm nay ta phải chết. 
Đào Kỳ thấy nếu tiếp tục một lát nữa, gã họ Đinh tất phải chết. Tuy cha gã là một ma đầu,
nhưng gã là một thiên tài, giết đi thực đáng tiếc. Chàng từ từ thu hồi nội lực. Đinh Công
Minh như xuống quỷ môn quan được trở về, bải hoải ngồi bịch xuống đất. 
Phương Dung dí kiếm vào cổ y, hỏi: 
– Mi chịu phục chưa? 
Hắn gật đầu, uể oải đứng dậy nói: 
– Thiếu niên kia, ta muốn biết tên ngươi. Chưởng pháp của ngươi là chưởng pháp Tản-viên,
nhưng ta thấy chính Đặng Thi Sách chưởng môn của phái này cũng không phải là đối thủ
của ngươi. Vậy ngươi là đệ tử của ai? 
Đào Kỳ nói: 
– Ta không phải người của phái Tản-viên. Võ công ta học là võ công Văn-Lang, nên có đôi
phần giống võ công Tản-viên. Hôm nay ta tha cho ngươi trở về. Ngươi đã bại thì phải mang
trâu bò đến Thượng-hồng mà nộp. 
Đinh Công Minh nói: 
– Ta sẽ làm như lời ngươi nói. 
Rồi y vẫy tráng đinh ra đi. Lệ bấy giờ, hai đấu thủ đấu với nhau tới chỗ sống chết, nếu bên
này thua, muốn được đối phương tha chết thì phải nộp từ mười trâu trở lên để chuộc mạng.
Đáng lẽ giết Đinh Công Minh trả thù cho Trần Hậu, nhưng Đào Kỳ là người nhân hậu, chàng
tiếc tài, không muốn giết một thiếu niên có chân tài, lại có khí phách, chứ không giống như
cha chú. 
Chàng nói với Hùng Bảo: 
– Sư điệt, người cùng tráng đinh mai táng cho nhạc gia đi. 
Hùng Bảo cùng vợ điều động tráng đinh chôn cất Trần Hậu và những người tử thương. Trần
Năng nói: 
– Bây giờ trang của ta bị đốt phá hết rồi, các anh em hãy mang gia đình sang trang Thượng-hồng mà ở. 
Các tráng đinh vội vàng thu xếp đồ đạc, trâu bò, gà vịt, dắt díu vợ con, lên xe hướng
Thượng-hồng tiến phát. Đoàn người đi một buổi mới tới Thượng-hồng. Hùng-hầu được tin,
cho mở rộng cổng trang đón những người của trang Toàn-liệt. Ông nói: 
– Trần-hầu với ta tuy là thông gia, nhưng tình như thủ túc. Chắc Trần Hầu cũng đã trối lại
những điều giữa người và ta cùng mưu sự. Hỡi ôi! Ta những tưởng một mai sạch bóng
quân thù, ta cùng Trần-hầu, ngày ngày cưỡi ngựa, tiêu dao mây nước, thế mà thoáng đây,
nay đã cách trở đôi đàng! 
Đào Kỳ hỏi: 
– Ngày mai, ba mươi sáu động thuộc Nam Mê-linh họp để cử người đại diện dự đại hội Tây-hồ. Không biết Đinh Công Dũng có mời Thượng-hồng và Toàn-liệt ta dự không? 
Trần Năng đưa ra bức thư: 
– Có, trước ngày cưới, bố cháu cho biết người đã nhận được thư của Đinh Công Dũng mời
tham dự đại hội 36 trang, động vùng Nam Mê-linh, chuẩn bị cho đại hội Tây-hồ. Bây giờ cha
cháu đã ra người thiên cổ, cháu là con duy nhất, đương nhiên kế vị người. Sư thúc thử nghĩ
xem cháu có nên đi không? 
Phương Dung hỏi: 
– Trong thư có giới hạn mỗi trang được mang đi bao nhiêu người không? 
Trần Năng gật đầu: 
– Ít nhất một người, nhiều nhất trăm người. 
Hùng Trọng nói: 
– Tôi thấy đại hội này Đinh Công Dũng dùng để thống nhất 36 trang, động lại. Vậy chúng ta
phải đi, hầu phá vỡ âm mưu đó. Đại diện cho Thượng-hồng có tôi với Bảo. Tôi xin mạn phép
thỉnh sư thúc đi theo trợ thủ, không biết người nghĩ sao? 
Đào Kỳ nói: 
– Sư tỷ giao Bảo cho tôi, tôi có bổn phận phải lo. Tôi nghĩ, khi Đinh Công Dũng ép các trang,
động thống nhất làm một, chúng ta cứ chấp thuận. Cuối cùng sẽ đi đến việc cử người làm
thống lĩnh, ta cứ bạo tay đoạt lấy. 
Phương Dung bàn: 
– Về phía Toàn-liệt thì Hùng phu nhân là trang chủ, tôi xin đi theo trợ giúp. Dù không thắng
được Đinh Công Dũng, ít ra cũng phá cho đại hội nát bét. Tuy nhiên, chúng ta phải chuẩn bị
cho chu đáo. 
Đào Kỳ đồng ý: 
– Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Nghiêm đại ca hứa sẽ nhắm mắt cho chúng ta làm việc này, chúng ta
cứ tiến tới. 
Phương Dung bàn: 
– Chúng ta thấy những gì có lợi cho việc phục quốc thì cứ làm. Nếu có động đến quan nha
thì để Đào đại ca đứng chủ trì. Lĩnh Nam công thì không dám trái ý phu nhân. Còn phu nhân
thì rất thương yêu Đào đại ca. Ta cứ lợi dụng làm tới. 
Cuối cùng, Hùng Trọng mang theo Hùng Bảo, Đào Kỳ. Còn Trần Năng mang theo Phương
Dung với hai tỳ nữ. 
Sáng sớm hôm sau, họ cùng lên đường, nhắm hướng Lôi-sơn mà đi. Họ đi rất chậm. Trong
khi đi đường, Đào Kỳ đã giảng dạy cho Hùng Bảo những tinh yếu về võ công của Cửu-chân.
Còn Phương Dung với Trần Năng thì ríu rít chuyện trò. 
Tới chân núi Lôi-sơn thì có một toán ba người mặc quần áo xanh, chắp tay hành lễ: 
– Lôi-sơn tam hùng sai bọn tôi đến đây nghinh tiếp đại giá Trần trang chủ Toàn-liệt và Hùng
trang chủ Thượng-hồng. 
Hùng Trọng và Trần Năng đáp lễ, rồi đi theo đám người tiếp rước. Đến giữa sườn núi lại có
đám người khác tiếp rước thay thế cho đám người kia trở xuống. Đường lên núi đã được
sửa chữa bằng phẳng, cây cối cũng được chặt cho gọn gàng, quang đãng. Xem vậy đủ biết
Đinh Công Dũng đã chuẩn bị cho đại hội này thực kỹ càng. Nơi họp đại hội là đỉnh một ngọn
đồi, nằm dưới chân núi Ba-vì. Đây là ngọn núi cao, hùng vĩ của vùng Mê-linh. Giữa đồi dựng
lên một đài cao, xung quanh có tám khán đài làm theo hình bát quái. Hùng Trọng vừa tới nơi
thì có tiếng loa gọi lớn: 
– Hùng hầu, trang chủ Thượng-hồng và phái đoàn tới. 
Đinh Công Thắng bước ra, chắp tay hành lễ: 
– Xin mời Hùng-hầu lên đài cho. 
Hùng Trọng dẫn Hùng Bảo lên khán đài ngồi. 
Tiếng hô lại tiếp tục: 
– Trần hầu, trang chủ Toàn-liệt tới. 
Một thiếu nữ xinh đẹp, mắt sắc như dao cau, chắp tay mời Trần Năng: 
– Xin mời Trần hầu. 
Trần Năng nói nhỏ với Phương Dung: 
– Cô này là Đinh Hồng Thanh, con gái Đinh Công Dũng. Nàng trọ học tại nhà bà cô ở Đăng-châu mới về. Nghe đâu võ công của nàng không kém gì anh là Đinh Công Minh. 
Phương Dung liếc nhìn Đinh Hồng Thanh, thấy dáng người mảnh mai, nước da trắng, môi
hồng, mặc bộ quần áo lụa xanh, thắt giây lưng tím, phất phơ trước gió như một vị tiên nữ. 
Trần Năng nói nhỏ vào tai Phương Dung: 
– Sư thẩm coi kìa, cô nàng đẹp có kém gì sư thẩm đâu? 
Hai người cùng tỳ nữ lên đài ngồi: 
Chợt tiếng loa lại hô lớn: 
– Chưởng môn phái Tản-viên và phái đoàn tới. 
Đào Kỳ, Phương Dung cùng rúng động. Từ hồi còn nhỏ, chàng đã nghe nói đến đương kim
chưởng môn phái Tản-viên là Đặng Thi Sách, một trong đệ nhất cao thủ đương thời. Phái
Tản-viên có chi phái lớn, một do họ Đặng chưởng quản, một do họ Trưng chưởng quản.
Nhưng từ hơn trăm năm nay, hai họ không đồng ý với nhau, nên dù phái Tản-viên lớn là thế,
vẫn không thể khôi phục được đất nước. 
Trong kỳ đại hội Quế-lâm để tranh chức Lĩnh Nam võ lâm chí tôn thì chưởng môn phái này
là Đặng Thi Kế với sư đệ là Nguyễn Thành Công đứng đầu. Sau đó, đệ tử của Nguyễn
Thành Công là Phong-châu song quái phản sư môn, qua lại giang hồ, gây nên một trường
sát nghiệp kinh thiên động địa, khiến Nguyễn Thành Công xấu hổ, đã tuyệt tích giang hồ.
Còn Đặng Thi Kế truyền chức chưởng môn cho con là Đặng Thi Sách, rồi cũng tuyệt tích
luôn. 
Tuy Phong-châu song quái có hành vi ác độc, nhưng chính những hành vi đó, làm cho mọi
người biết tiếng võ công Tản-viên đứng đầu thiên hạ. Có ai ngờ rằng Đặng Thi Kế bị sư thúc
là Lê Đạo Sinh bắt giam ở dưới hầm trong vùng Long-biên, mà Đào Kỳ đã gặp. Riêng
Nguyễn Thành Công không biết hiện giờ ở đâu? 
Trong phái Tản-viên, cao thủ như rừng. Họ đều là người nghĩa hiệp, mưu đồ phục quốc.
Trên Đặng Thi Sách còn hai người thái sư thúc, đó là Trần Đại Sinh, tuyệt tích giang hồ đã
lâu, Đào Kỳ biết ông ẩn thân để nghiên cứu y học giúp đời. Ông là sư phụ của Trần Năng.
Người thái sư thúc thứ nhì hiện được coi như là Thái-sơn Bắc-đẩu, đó là Lê Đạo Sinh, khắp
giang hồ đều tôn ông là Lục-trúc, cho rằng ông là người quân tử. Nhưng Đào Kỳ đã biết rõ
hành vi của y. Y chỉ là một tên ngụy quân tử trá hình. Khi rời Cửu-chân, Đào Kỳ nghe hai chi
phái lớn nhất Tản-viên đã hợp lại với nhau, bằng cuộc hôn nhân của hai người thừa kế là
Đặng Thi Sách và Trưng Trắc. Cho nên hôm nay Đào Kỳ, Phương Dung nghe Đặng Thi
Sách đến, cả hai không khỏi rúng động. Phái đoàn Tản-viên là quan khách, được mời đến
một khán đài riêng biệt. 
Phương Dung hỏi Đào Kỳ: 
– Phái đoàn Tản-viên đông đấy nhỉ? Người đi đầu là Đặng Thi Sách, người đàn bà đi cạnh
chắc là Trưng Trắc. Còn người đàn bà thứ nhì đi cạnh Trưng Trắc chắc là Trưng Nhị. 
Đào Kỳ chú ý nhìn Đặng Thi Sách, tướng đi bệ vệ, mắt nhìn thẳng, mặt hơi bầu, dáng người
cao lớn, cử chỉ hòa nhã, vui tươi. Trưng Trắc dáng người thanh nhã, da trắng, mắt bồ câu
đen, to, lưng đeo bảo kiếm. Trái lại, Trưng Nhị dáng người hơi đậm đà, da trắng, môi hồng,
nụ cười luôn nở trên môi. 
Phái đoàn Tản-viên đến chỗ khán đài Đào Kỳ, thì Hùng Trọng đứng dậy, hành lễ: 
– Hùng Trọng xin tham kiến chưởng môn phái Tản-viên và phu nhân, cùng các vị anh hùng. 
Trưng Trắc đáp lời: 
– Hùng hầu, ngài là người thuộc dòng họ thân mẫu tôi, kể vai vế, tôi phải gọi người bằng
cậu. Vậy xin cậu đừng quá đa lễ. 
Trưng Nhị nhìn Hùng Bảo nói: 
– Hôm trước được tin đệ đệ thành hôn, chúng ta bận quá, không đến chia vui được, chúng
ta thành thực chịu lỗi với đệ đệ. 
Hùng Trọng nói: 
– Nhị Trưng là người hào kiệt đương thời, đừng quá khách sáo. 
Đặng Thi Sách thấy Trần Năng để tang, thất kinh hỏi: 
– Trần muội muội, chẳng hay lão bá đâu không đến dự? 
Trần Năng chỉ vào Đinh Công Dũng: 
– Tên ác tặc kia đã hại bố em rồi. 
Rồi nàng kể sơ lược tự sự cho Đặng Thi Sách nghe. Đặng Thi Sách nói: 
– Đinh tiên sinh định thống nhất 36 trang, động, không hiểu ý muội muội thế nào? 
Trần Năng nói: 
– Trang Thượng-hồng với Toàn-liệt sẽ chống đến cùng. 
Đặng Thi Sách nói: 
– Chúng ta tới đây cũng chỉ vì vấn đề đó. Dường như Đinh tiên sinh muốn thống nhất các
trang, rồi sau đó, ăn thua đủ với những trang Bắc Mê-linh của ta... 
Nhị Trưng nhìn thấy Đào Kỳ và Phương Dung, đưa mắt ngó Hùng Trọng. Hùng Bảo nói: 
– Đây là Đào sư thúc của em. Còn đây là Nguyễn cô nương từ Long-biên tới. 
Nhị Trưng nhìn Đào Kỳ, Phương Dung tự nhiên cảm thấy như thân quen nhau tự bao giờ.
Trưng Nhị nắm tay Phương Dung: 
– Em này, sau đại hội, nhất định hai em phải đến Bắc Mê-linh chơi với chúng ta ít hôm. 
Chủ ý chuyến đi này của Đào Kỳ và Phương Dung là tìm gặp Đặng Thi Sách và Nhị Trưng,
nên Phương Dung nói ngay: 
– Hồi em còn bé xíu đã nghe danh Đặng chưởng môn, và nhất là Tản-viên song phượng
Trưng Trắc, Trưng Nhị. Bố em thường nói: Sinh làm con trai mà chưa gặp Đặng Thi Sách thì
coi như uổng một đời. Sinh làm con gái mà không được thấy Tản-viên song phượng thì
đừng xưng là con gái Âu Cơ. 
Nhị Trưng còn đang quyến luyến Phương Dung chưa muốn rời, thì tiếng loa đã lại hô lớn: 
– Tổng động chúa 72 động Tây-vu tới! 
Mọi người quay lại, thấy một cụ già đầu tóc bạc phơ, ngồi trên một con ngựa ô đen không
cương đang đi vào. Phía sau là một con voi trắng. Con voi có đặc điểm là hai cái ngà chéo
nhau trông rất đẹp. Trên bành voi, một nữ lang ngồi với một thanh niên. Đào Kỳ ngơ ngác
hỏi Trưng Nhị: 
– Tản-viên song phượng, xin tỷ tỷ cho biết họ là ai vậy? 
Trưng Nhị nói: 
– Họ là khách đấy. Nguyên phía tây vùng Mê-linh ta, là vùng núi rừng Thiên-sớ thuộc đất
Tây-vu, nơi phát xuất ra Thục An-Dương vương, có 72 châu. Gần đây, 72 châu đã thống
nhất, cụ Hồ Công An làm thống lĩnh. 
Phương Dung hỏi: 
– Hồ lão gia có biết võ không? 
Trưng Trắc nói: 
– Ông không biết võ, nhưng con gái và con trai ông là hai cao thủ người Mường. Tính tình
họ chất phác, ngay thẳng. Suốt bao năm qua, họ sống tiêu dao, tự tại với núi rừng. Người
con gái là Hồ Đề, còn người con trai là Hồ Hác. 
Hồ Công An tuổi già, sức yếu, ông lên đài ngồi, chắp tay hướng vào đài hội vái chào. Còn
Hồ Đề, Hồ Hác thì đi khắp các khán đài chào mọi người. Tới khán đài có Đào Kỳ, Phương
Dung gặp Đặng Thi Sách, Nhị Trưng. Hồ Đề nói: 
– Chị em chúng tôi tới đây không phải để xem lão con khỉ làm trò, nhưng tới để được gặp
những người anh kiệt thời đại như Đặng chưởng môn, Nhị Trưng và các vị đây. 
Thế là họ kết thành một nhóm, đem chuyện phục quốc ra nói công khai. Một thiếu nữ đứng
sau Trưng Nhị nói: 
– Xin các anh, các chị nên kín đáo thì hơn. Rừng có mạch, bức vách có tai. 
Hồ Đề nói: 
– Phải, chúng ta sẽ gặp nhau ở Mê-linh, tha hồ mà bàn. 
Nàng liếc nhìn thiếu nữ nói câu đó thì thấy đó là một thiếu nữ dáng người mảnh mai, bàn tay
nhỏ đẹp, gương mặt thanh tú. Trưng Nhị giới thiệu: 
– Đây là Nguyễn Quý Lan. Lan mới đến Mê-linh với chúng tôi không lâu. Người thì nhỏ, võ
công không cao, nhưng văn tài, kế hoạch thì cực lỗi lạc. 
Phương Dung hỏi Hồ Đề: 
– Chị Hồ Đề, em hơi tò mò, chị đừng trách. Chị kiếm đâu được con ngựa đen cao lớn như
vậy? Hơn nữa, làm cách nào, không cần cương, cũng cỡi được? 
Hồ Đề nắm tay Phương Dung: 
– Em thắc mắc cũng phải. Nguyên nó là một con ngựa rừng, một hôm đi săn, chị gặp nó.
Không những nó không sợ chị mà còn chạy đến đá, cắn ngựa của chị. Lập tức chị phi thân
phóng lên lưng nó. Nó tinh lắm, dựng đứng thân lên rồi phi thẳng, làm chị đáp hụt. Chị đang
ở trên cao, liền đá gió một cái, người tạt ngang, thì nắm được bờm nó, giật mạnh. Thế là
người chị bay vào lưng nó. Nó hí lên rồi nhảy dựng. Nó nhảy thế nào, mặc nó, chị cũng cứ
bám chặc lấy bờm. Nó thấy nhảy dựng không hất được chị ngã, nó liền phóng nước đại, rồi
thỉnh thoảng lại nhảy lên. Chị mặc kệ, cứ nắm chặt bờm. Chạy được một lúc, nó ngưng lại
thở, tỏ vẻ phục tùng. Nó rất tinh khôn. Chị luyện cho nó quen với âm thanh, điều khiển nó
như điều khiển người vậy. 
Nói rồi Hồ Đề hú lên một tiếng dài. Lập tức thấy tiếng ngựa hí, rồi con ngựa ô phi thẳng đến
gần khán đài, nghểnh cổ nhìn chủ. Trần Năng tính hiếu động, hỏi Hồ Đề: 
– Chị cho em cỡi thử được không? 
Hồ Đề cười: 
– Được chứ. Em cứ cỡi đi. Chị bảo nó chạy cho mà coi. 
Trần Năng phi thân vọt lên mình ngựa. Lưng nàng uốn cong, trông thực ngoạn mục. Hồ Đề
hí lên một tiếng dài, một tiếng ngắn, con ngựa ô phi nước đại quanh khán đài. Trần Năng
thấy gió ù ù bên tai, thích quá. Con ngựa chạy được một vòng rồi ngừng lại. Trần Năng nhảy
xuống. Phương Dung nói: 
– Ngựa của chị hiền như vậy, coi chừng bị ăn cắp. 
Hồ Hác cười: 
– Cô nương nói đùa thì thôi. Nếu không có lệnh của chủ, ngươi khác cỡi lên thì đừng hòng
yên với nó. 
Phương Dung không phục. Nàng phi thân vọt lên lưng ngựa ô. Con ngựa thấy người muốn
cỡi lên lưng nó mà không có lệnh của chủ, nó dựng đứng lên, rồi hí một tiếng dài. Phương
Dung lơ lửng trên không sắp rơi xuống, nàng đạp chân trên lưng ngựa, vọt lên cao, vừa lúc
con ngựa đứng xuống. Nàng đã cỡi trên lưng nó. Con ngựa lại hí lên rồi phi nước đại.
Phương Dung đứng một chân trên lưng ngựa. Dù ngựa phi như thế nào nàng cũng chỉ đứng
một chân. Nó vẫn chưa phục thỉnh thoảng lại dựng đứng lên, nhưng chân Phương Dung vẫn
bám sát lưng nó. Quan khách không biết bao nhiêu người đều nhìn Phương Dung cỡi ngựa.
Họ ngạc nhiên: 
– Không hiểu một cô gái nhỏ bé thế kia mà học ở đâu được khinh công đến tuyệt mức như
vậy? 
Chính Đặng Thi Sách với Nhị Trưng cũng ngẩn người ra: 
– Cô bé có khinh công đến mức ấy thì muôn vạn lần mình không bằng. Trước đây, mình
nghe sư phụ nói khinh công phái Long-biên tuyệt thế vô song, hôm nay mình mới được thấy
lần thứ nhất. 
Con ngựa chạy một lúc rồi ngừng lại thở, tỏ ý khâm phục. Phương Dung nhảy xuống, vỗ
bờm nó, nó liếm tay nàng, tỏ ý âu yếm. Hồ Đề nói: 
– Tiểu muội muội, nếu em thích, chị tặng em con ngựa này đó. 
Phương Dung bái tạ: 
– Tính em thích đùa, cỡi thử một lúc thôi. Em không dám nhận của chị đâu. 
Hồ Đề tát yêu Phương Dung một cái: 
– Đã là chị em, còn nề hà gì nữa? 
Phương Dung đành tạ ơn, rồi hỏi Hồ Đề những âm thanh để sai khiến ngựa. 
Quan khách đã đến đủ, bọn Đặng Thi Sách, Hồ Đề về khán đài ngồi. Một đệ tử của Lôi-sơn
ra giữa sân đốt lên một cây pháo cối lớn, lập tức, bốn phương tiếng pháo nổ liên hồi. Pháo
dứt, Đinh Công Dũng lẫm liệt bước lên giữa đài trung ương, chắp tay xá mọi người, rồi nói: 
– Thưa quý vị huynh đệ xa gần. Hôm nay là ngày 36 trang, động Nam Mê-linh chúng tôi đại
hội để thống nhất. Chúng tôi lấy làm cảm động thịnh tình quý khách từ xa tới đây chứng
kiến. 
Ngừng một lúc cho mọi người vỗ tay, hắn nói tiếp: 
– Thưa quý vị huynh đệ trang chủ, động chủ 36 trang, động Nam Mê-linh, từ hơn trăm năm
nay, các trang chúng ta sống rải rác, không nương tựa vào nhau, thậm chí còn coi nhau như
người ngoài, chém giết lẫn nhau, tranh giành quyền lợi của nhau. Vì vậy, gần đây, tôi đã
luận bàn với các vị đạo cao đức trọng trong 36 trang, động chúng ta bàn về việc hợp nhất
làm một. May mắn thay, các vị đều đồng ý cả. Cho nên hôm nay, chúng ta mới hội nhau nơi
đây để ra mắt anh hùng thiên hạ. 
Bỗng một động chủ trong khán đài của 36 động đứng dậy nói: 
– Đinh trang chủ nói rằng đã bàn với anh em, chẳng hay những người ấy là ai? Lão Du tôi là
một động chủ mà sao không biết? Động Nam-hà của ta truyền từ trên ba mươi đời nay, lúc
nào dân chúng cũng sống ấm no đầy đủ. Không bao giờ ta chịu bỏ đâu. 
Bỗng có người ngồi cạnh lão Du quát lớn: 
– Du Lợi Nhan, người có đủ tư cách làm động chủ động Nam-hà chăng? 
Du Lợi Nhan nhìn lại thì là con cựu động chủ tiền nhiệm của động Nam-hà. Ông giận quá,
hỏi: 
– Trịnh Khánh Long, trong cuộc bầu cách đây bốn năm, ta thắng cử động chủ, chính ngươi
cũng có dự mà? Tại sao hôm nay ngươi lại trở mặt như vậy? 
Trịnh Khánh Long nói: 
– Động chủ Nam-hà từ bao nhiêu đời nay là giòng dõi của họ Trịnh ta chủ quản, mi đã dùng
thủ đoạn gian manh, cướp lấy. Hôm nay có anh hùng khắp thiên hạ tụ tập về đây, mi còn
dám chường mặt ra xưng là động chủ sao? 
Du Lợi Nhan nói: 
– Cách đây bốn năm, sư phụ cho hội đồng môn, tuyên bố từ nay động Nam-hà theo lối cử
người hiền lãnh đạo, chứ không theo lối lưu truyền huyết tộc nữa. Do vậy, ta mới đắc cử
động chủ. 
Trịnh Khánh Long cười hà hà: 
– Ởã đời làm gì có người thương đứa học trò lưu manh hơn con mình bao giờ? Cha ta chủ
tâm truyền chức động chủ cho ta, mi đã bỏ thuốc đầu độc cha ta rồi lừa dối anh em, chiếm
ngôi động chủ. Hôm nay, trước anh hùng thiên hạ, ta phải trả mối thù này. Người hãy ra đây
nói chuyện với ta. 
Du Lợi Nhan giận quá, vác côn đứng trước đài: 
– Ta há sợ ngươi sao? 
Trịnh Khánh Long nói: 
– Ngươi đã hại chết sư phụ là cha ta. Hôm nay ngươi có giỏi thì giết ta đi để anh hùng thiên
hạ phán đoán. 
Nói rồi Khánh Long vác côn đứng đối diện với Lợi Nhan. Hai người nhảy xổ vào nhau. Họ là
người đồng môn, nên họ hiểu các thế võ của nhau, khó có thể quyết thắng trong một vài
chiêu được. Hai bên đã qua lại trên hai chục hiệp. Đào Kỳ hỏi Trần Năng: 
– Hùng phu nhân, việc trước mặt, phu nhân nghĩ sao? 
Trần Năng nói: 
– Thì Đinh Công Dũng xúi dục gã Trịnh Khánh Long lật đổ Du Lợi Nhan. Cháu e rằng các
trang, động khác cũng làm hoàn cảnh tương tự. 
Hai người giao đấu được ít hiệp nữa thì bỏ côn, dùng quyền đấu với nhau. Phương Dung
nhận không ra quyền pháp của họ, liếc hỏi Đào Kỳ. Đào Kỳ cũng lắc đầu không hiểu. Giữa
lúc ấy, Khánh Long có vẻ đuối thế, lui dần. Lợi Nhan đánh liền mấy quyền veo, veo. Khánh
Long chợt nhảy vọt ra xa vung tay phóng chưởng đánh lại ba chiêu liền. Chưởng nọ liên tiếp
chưởng kia như vũ bão. Phương Dung, Hùng Bảo, Đào Kỳ cùng nhìn nhau: 
– Võ công Cửu-chân! 
Lợi Nhan luống cuống, chống đỡ được chưởng thứ nhất, thì chưởng thứ nhì đã tới. Y biết
không đỡ nổi, vội lăn tròn người đi mới tránh được, thì chưởng thứ ba đã bao trùm người y.
Bùng một cái, thân hình y văng ra xa, dẫy dụa mấy cái rồi nằm im. 
Khánh Long đá xác y vào góc đài, nói: 
– Cho quân lừa thầy phản bạn đền tội. 
Hắn hướng vào Đinh Công Dũng nói: 
– Đinh lão động chủ, tôi, động chủ động Nam-hà tán thành ý kiến của tiên sinh về việc thống
nhất 36 động chúng ta. 
Đinh Công Dũng hỏi lại: 
– Có vị động chủ, trang chủ nào có ý kiến nữa chăng? 
Trang chủ Thượng Hồng là Hùng Trọng đứng lên giữa đài, nói: 
– Thưa các anh hùng thiên hạ! Lời Đinh lão trang chủ nói rất đúng. Chúng ta sống lẻ tẻ,
không những bị ăn hiếp, mà việc canh tác, ngư nghiệp cũng không phát triển được. Nay,
nếu chúng ta hiệp lại làm một, người người coi nhau như trong gia đình, còn gì tốt đẹp hơn? 
Nỗi lo lắng nhất của Đinh Công Dũng là trang Thượng-hồng và Toàn-liệt, vì hai nơi đó xưa
nay vẫn chống đối y. Nay y thấy Hùng Trọng tán đồng thì y không khỏi ngạc nhiên. Tưởng
mình nghe lầm, y hỏi lại: 
– Hùng hầu, như vậy là hầu tán thành? 
Hùng Trọng nói: 
– Đúng, tôi tán thành việc hợp nhất 36 trang, động làm một. 
Đinh Công Dũng không tin ở tai mình nữa, y hỏi tiếp: 
– Ý kiến của Hùng hầu coi như đã xong, còn ý kiến của Trần hầu? 
Trần Năng đứng dậy nói: 
– Cha tôi mới qua đời, tôi tạm quyền thay thế. Nay tôi đã làm dâu họ Hùng, ý kiến của bố
chồng làm sao, tôi cũng đồng ý như vậy. Nhưng có một điều tôi hỏi Đinh lão gia: Ai sẽ là
người thống lĩnh toàn thể 36 trang, động chúng ta? 
Đinh Công Dũng nói: 
– Việc thống nhất 36 trang, động đã xong. Bây giờ tới lượt đề cử ai là người thống lĩnh. Xin
các động chủ, trang chủ cho biết ý kiến? Theo thiển kiến của tôi, người thống lĩnh phải là
người đạo cao, đức trọng, võ công cao cường mới xứng đáng. 
Lập tức có tiếng nhiều người cùng hô lớn: 
– Đinh lão tiên sinh! Đinh lão tiên sinh! 
– Lôi-sơn tam hùng! 
Đợi cho tiếng hô dứt, Trần Năng mới nói: 
– Tôi không phục! Tôi không phục! 
Cử tọa im phăng phắc, hướng vào nàng. Trần Năng để cho mọi người im lặng, rồi nàng
dõng dạc kể tất cả những hành vi của Đinh Công Dũng trong việc hại trang Toàn-liệt và
Thượng-hồng với mọi người. Đinh Công Thắng nói: 
– Theo ý Hùng phu nhân, ai mới là người xứng đáng thống lĩnh 36 trang, động chúng ta? Có
lẽ là phu quân của nàng chăng? 
Trần Năng lắc đầu: 
– Phu quân của tôi tuổi trẻ, tài sơ, đâu dám với cao. Nhưng Đinh lão trang chủ vừa nói: Phải
là người đạo cao, đức trọng, võ công cao cường phải không? Tôi xin cử một người hùng tài
đại lược, võ công hơn đời, không ai chê được một điểm nào cả. 
Nàng ngưng lại, làm mọi người ngơ ngác, tự hỏi: 
– Ai? Ai đây nhỉ? 
Trần Năng nghĩ một lúc rồi chỉ vào khán đài của phái Tản-viên: 
– Tôi xin đề cử Tản-viên song phượng Nhị Trưng. Nhị Trưng võ công cao cường, ôn nhu
đức hạnh, đạo cao đức trọng. Ai dám chê thì xin lên tiếng? 
Đinh Công Hùng nói: 
– Đã đành Nhị Trưng đạo cao đức trọng, võ công hơn đời, nhưng người có liên hệ gì với
Nam Mê-linh chúng ta? 
Trần Năng cãi: 
– Sao lại không? Tôi xin hỏi Nhị Trưng hiện là trang chủ trang nào vậy? 
Đinh Công Hùng nói: 
– Dĩ nhiên Nhị Trưng là trang chủ của 72 trang Bắc Mê-linh. Trần Năng nói: 
– Như vậy sao lại bảo không liên hệ với Mê-linh chúng ta? Nam hay Bắc cũng là Mê-linh. 
Đinh Công Hùng tắc họng, không nói được nữa. Một trang chủ của 36 trang, động Nam Mê-linh nói: 
– Phải là một người trong 36 trang, động của chúng ta mới được. Bây giờ tôi đề nghị: Trong
tất cả những người của 36 trang, động Nam Mê-linh, ai muốn tranh chức thống lĩnh thì lên
đài. Mỗi trang động chỉ được cử một người thôi. Sau đó, dùng võ công ăn thua, ai thắng thì
làm thống lĩnh. 
Lập tức quảng trường ồn lên. Trong nhóm Toàn-liệt, Thượng-hồng bàn luận xôn xao.
Phương Dung đề nghị: 
– Bây giờ Hùng phu nhân đại diện Toàn-liệt, còn phía Thượng-hồng thì tôi ra. Sau khi thắng
được lão Đinh, tôi sẽ nhường cho phu nhân, nên chăng? 
Đào Kỳ nói: 
– Hay là để Hùng Bảo đại diện Thượng-hồng, còn Phương Dung đại diện Toàn-liệt? Với
Hùng Bảo, tôi có thể mách nước cho được. 
Mọi người thấy rằng Hùng Bảo và Trần Năng đều không phải là đối thủ của Đinh Công
Dũng. Cuối cùng đành theo đề nghị của Phương Dung. Về phía họ Đinh thì Đinh Công Dũng
ra tranh tài. Về phía các trang khác thì có trang Đỗ-xá cử một nữ lang tên là Lê Ngọc Trinh. 
Hồ Đề đứng dậy, nói: 
– Đấu võ phải có quy củ, có trọng tài. Vậy quy củ như thế nào? Ai sẽ là trọng tài? 
Người này đề cử một người, người kia đề cử một người, quảng trường ồn ào hẳn lên. 
Cuối cùng, Đặng Thi Sách là người có tiếng tăm, được cử làm trọng tài. 
Ông đứng lên nói: 
– Trước mặt, chúng ta có bốn đấu thủ đại diện: Lôi-sơn thì Đinh Công Dũng tiên sinh. Toàn-liệt thì Hùng phu nhân. Thượng-hồng thì Nguyễn Phương Dung cô nương. Đỗ-xá thì Lê
Ngọc Trinh cô nương. Tôi viết bốn cái thăm bỏ vào một cái hộp. Tôi dùng một con chim gắp
thăm. Nó gắp hai cái thứ nhất, trúng hai đấu thủ nào thì đấu với nhau. Còn lại hai đấu thủ
khác sẽ đấu với nhau. Sau đợt đầu, có hai người thắng. Bấy giờ hai đấu thủ sẽ vào chung
kết. 
Ông vỗ tay một cái, người hầu đưa đến con két, lông xanh mướt, mỏ đỏ tươi. Ông vỗ tay cái
nữa, con két mổ hai cái thăm ra: Phương Dung đấu với Đinh Công Dũng. Còn lại, Lê Ngọc
Trinh sẽ đấu với Trần Năng. 
Đặng Thi Sách nói lớn: 
– Bây giờ tôi xin nhắc lại thể lệ cuộc đấu: Hai bên được dùng vũ khí, chưởng, quyền đấu với
nhau. Cấm dùng ám khí, cấm không cho người ngoài can thiệp. Hai bên chỉ đấu với nhau
đến 30 hiệp. Quá 30 hiệp là hòa. Cấm không được sát hại nhau. Nếu bên này đánh bên kia
tử thương, coi như thua cuộc. 
Đào Kỳ dặn Trần Năng: 
– Hùng phu nhân, tôi không rõ võ công, chiêu số của Lê Ngọc Trinh, rất khó mà đoán.
Nhưng phu nhân nên nhớ: Nếu thấy đối phương dùng nhu thì phải đánh rất gấp, phải thủ
thắng trong vòng từ 10 tới 15 chiêu. Với công lực của phu nhân, sau 15 chiêu, sức sẽ giảm
dần. Còn nếu đối phương dùng cương thì cứ cầm chừng cho đủ 30 chiêu cho hòa thì tốt
hơn. 
Lê Ngọc Trinh là một thiếu nữ tuổi khoảng 21, 22, dáng người đậm đà, xinh đẹp. Nàng
khoanh tay đứng giữa đài. Trần Năng cũng thượng đài. Đặng Thi Sách nói: 
– Cuộc tranh tài thứ nhất bắt đầu: Lê Ngọc Trinh cô nương, đại diện trang Đỗ-xá đấu với
Hùng phu nhân trang chủ Toàn-liệt. 
Trần Năng đứng thủ, chưa muốn ra tay. Nàng để ý thấy Lê Ngọc Trinh lấy mũi giày chùi trên
đài. Nàng nhìn lại thì thấy chữ Hòa. Trần Năng hiểu ý, gật đầu. Lê Ngọc Trinh tấn công
trước. Võ công nàng cũng là võ công Tản-viên như Trần Năng. Bấy giờ Trần Năng mới tỉnh
ngộ: Thì ra Lê Ngọc Trinh đã biết nàng là đồng môn, nên mới đề nghị hòa. 
Khi Lê Ngọc Trinh xuất chiêu, thì Đào Kỳ lẫn nhóm Thi Sách, Nhị Trưng đều kêu lên, kinh
ngạc: 
– Úi cha! 
Đầy vẻ ngạc nhiên, Đào Kỳ tự hỏi: 
– Cô này là ai? Tại sao lại có chưởng pháp giống của Tản-viên như vậy? 
Chàng liếc nhìn sang chỗ Đặng Thi Sách, thì thấy ông lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu. 
Chính Thi Sách cũng ngạc nhiên: 
 – Mình là chưởng môn Tản-viên mà sao không biết cô này là đệ tử ai? Cả đến Trần Năng
cũng sử dụng võ công phái mình mà mình cũng không biết. Không lẽ cả hai đều là đệ tử của
sư thúc Nguyễn Thành Công? Sư thúc tuyệt tích đã lâu, tại sao lại thu đệ tử? 
Nhưng ông chợt tỉnh ngộ, vì nhận thấy cách biến chiêu của hai người đều giống nhau.
Chính chỗ biến chiêu đó, khi cha ông dạy ông, có nói rằng người đã quên mất. Nay thấy hai
thiếu nữ sử dụng đầy đủ, ông đờ người ra nhìn. Trong đầu óc ông đầy nghi vấn: 
– Hay họ là đệ tử thái sư thúc Lê Đạo Sinh? 
Hai thiếu nữ trẻ tuổi, sử dụng cùng một thứ võ công dương cương cực mạnh đấu với nhau,
khiến mọi người ngây mặt ra nhìn. Bỗng Thi Sách hô lớn: 
– Ngừng tay! 
Hai người thu chưởng về, đồng chắp tay: 
– Bái phục! Bái phục! 
Thi Sách tuyên bố: 
– Hai vị: Hùng phu nhân và Lê Ngọc Trinh cô nương đấu quá 30 hiệp không phân thắng bại,
theo thể lệ như thế là hòa. Xin mời xuống đài. 
Trần Năng trở về chỗ, hỏi Đào Kỳ: 
– Sư thúc, sư thúc thấy thế nào? 
Đào Kỳ nói: 
– Tôi thấy dường như cả phu nhân lẫn Lê cô nương đều không dùng hết lực, giống như sư
huynh, muội dợt võ với nhau vậy. 
Trần Năng nói: 
– Vì cô nương đó dùng chân viết chữ Hòa trên đài. Ý nàng muốn hòa với cháu, nên cháu
cũng không dùng hết sức. Chắc chắn nàng biết rõ chân tướng cháu, mà cháu không biết rõ
nàng. Có thể nàng là học trò của sư phụ cháu sai đến tiếp viện cho cháu cũng nên. 
Trận thứ nhì, Phương Dung đấu với Đinh Công Dũng. Công Dũng vừa lên đài thì bốn
phương trống đánh, người hò reo ầm ĩ. Y chắp tay chào bốn phía rồi đứng giữa đài, thái độ
cực kỳ ngạo mạn. Phương Dung từ dưới đài tung mình nhảy lên. Nàng mặc chiếc áo xanh,
dây lưng đỏ trông rất đẹp. Đinh Công Dũng thì to lớn, nàng thì nhỏ bé, trông không xứng
chút nào. 
Đinh Công Dũng nói: 
– Nguyễn cô nương, lão già này mắt kém, không biết vị cao nhân nào đã tạo được một đệ
tử tài ba như cô nương? 
Phương Dung nói: 
– Tôi học võ với bố tôi. 
Đinh Công Dũng đã được báo cáo rằng thiếu nữ này từ Long-biên mới lên. Y nghĩ thầm: 
– Hôm trước nàng sử dụng một thế kiếm đã làm Đinh Công Hùng suýt chết. Nghiêm Sơn hỏi
nàng liên hệ thế nào với Mai Huyền Sương, Long-biên nhị hiệp, y thị đều chối. Thế thì y thị
thuộc phái nào? Tuy nhiên y thị mới từng ấy tuổi đầu, ta há sợ sao? 
Y làm mặt anh hùng nói với Đặng Thi Sách: 
– Tôi dùng chưởng đấu với kiếm của Nguyễn cô nương, nếu chẳng may tôi lỡ chết hoặc bị
thương, chẳng qua là vô tình, xin vẫn để cho cô thắng. 
Y đứng khoanh tay, nhường cho Phương Dung ra tay trước. Phương Dung rút kiếm vòng
lên không rồi chỉ xuống đất, đó là thế Tạ thiên, bái địa, một thế kiếm dùng để chào trước khi
giao đấu... Đinh Công Dũng phóng hư chưởng đánh trả: 
– Nguyễn cô nương không nên khách sáo. 
Chưởng của y bao hàm âm nhu, biến hóa rất kỳ dị. Phương Dung vung kiếm đánh liên tiếp
mười chiêu, y đều phản đòn được cả. Nàng chợt nghĩ: 
– Đã vậy, ta đánh hư chiêu. 
Nàng quay kiếm vòng lên không chuyển sang phải, sang trái toàn hư chiêu. 
Đinh Công Dũng ngơ ngác tự hỏi: 
– Kiếm này là kiếm gì vậy? 
Y mải nghiên cứu kiếm thuật, thoáng một cái đã qua 20 chiêu. Y vội vàng hít hơi, dùng hết
sức phóng một chưởng. Phương Dung vung kiếm đâm vào giữa chưởng của y. Y định thu
chưởng về, nhưng không kịp nữa. Sột một cái, tay y bị xuyên thủng. Người Phương Dung
bay bổng khỏi đài, rơi xuống đất. Nhưng nàng đạp chân phải một vật gì mềm mềm, thì ra
con ngựa ô thấy chủ rơi xuống, nó phóng lại đỡ chân nàng. Phương Dung đạp lên lưng nó
trở lại đài. 
Đinh Công Dũng nói: 
– Nguyễn cô nương, tuy cô nương đả thương được ta, nhưng cô nương rơi xuống đài là
thua rồi. 
Phương Dung cãi: 
– Hồi đầu Đặng chưởng môn có nói: Ai rơi xuống đất là thua, ai có người trợ giúp là thua.
Nay tôi đâu có rơi xuống đất? Đâu có người trợ giúp? 
Đinh Công Dũng đành chịu nàng có lý. Y đổ quạu, vung chưởng đánh liền. Đào Kỳ hô lớn: 
– Tam hư thất thực. Tử, tử, sinh, sinh. 
Phương Dung tỉnh ngộ, rút kiếm xoẹt, xoẹt, xoẹt phóng liền ba chiêu. Đinh Công Dũng lùi
đến mép đài. Y vung chưởng bổ lên đầu Phương Dung. Nàng muốn ngộp thở, ngã lăn trên
đài. Đinh Công Dũng nhảy đến phóng tiếp một chưởng. Phương Dung áp dụng lý thuyết Tử,
tử, sinh, sinh phóng liền 9 chiêu. Ba chiêu xuyên qua ngực Đinh Công Dũng. Y nhảy vọt lên
cao, bóp cổ nàng. Nhưng người y đã hết kình lực, mắt trợn lên rồi buông nàng ra. 
Đinh Công Thắng, Đinh Công Minh cùng nhảy lên đài phóng chưởng đánh Phương Dung.
Đặng Thi Sách, Trưng Nhị vội nhảy lên đỡ chưởng hai người. Chưởng lực của Thi Sách,
Trưng Nhị là Phục ngưu thần chưởng, hùng mạnh vô cùng. Binh, binh bốn chưởng gặp
nhau. Thi Sách, Trưng Nhị đứng nguyên còn Đinh Công Minh và Đinh Công Thắng lùi lại hai
bước, oẹ một tiếng, khạc ra một búng máu. 
Đặng Thi Sách nói: 
– Thứ lỗi, thứ lỗi. 
Trưng Nhị xuống đài, Đặng Thi Sách nói: 
– Nguyễn cô nương đánh tử thương Đinh lão, trái với thể lệ, như vậy, trang Thượng-hồng
thua cuộc. Nhưng Đinh lão tử thương rồi. Vậy chỉ có Hùng phu nhân với Lê cô nương rút
thăm. Ai được thì làm thủ lĩnh. 
Ông viết hai cái thăm, bỏ vào hộp, vỗ tay một cái, nói: 
– Lê cô nương lớn tuổi hơn rút trước. 
Lê Ngọc Trinh thò tay vào rút, nàng mở ra thì là thăm trắng. 
Đặng Thi Sách nói: 
– Như thế, Lê cô nương thua cuộc. Tôi tuyên bố Hùng phu nhân thắng cuộc. Từ nay Hùng
phu nhân thống lĩnh toàn thể 36 trang động Nam Mê-linh. 
Trần Năng lên đài giữa tiếng vỗ tay của bốn phương anh hùng. Hồ Đề lên đài chắp tay nói: 
– Đại diện 72 động vùng Tây vu và rừng Thiên-sớ, tôi xin kính mừng tỷ tỷ giữ chức thống
lĩnh 36 động Nam Mê-linh. Từ đây đến Thiên sớ, đường không xa. Nếu tỷ tỷ có gì cần đến,
xin cứ gọi. Tôi sẵn sàng. 
Ý Hồ Đề muốn nói, Trần Năng có bị đám dư đảng của Đinh lão gây sự thì Hồ Đề sẵn sàng
tiếp ứng. 
Đặng Thi Sách cũng chắp tay nói: 
– Phái Tản-viên cũng xin cáo từ, Hùng phu nhân, Mê-linh Nam, Bắc từ nay có nhau. 
Trần Năng tiễn quan khách về hết rồi mới nói: 
– Từ nay 36 động chúng ta thống nhất một nhà. Tôi xin đề nghị đặt tên cho trang chúng ta là
Lôi-sơn. 
Đám đệ tử của Đinh gia đang căm hận về cái chết của Đinh Công Dũng, nay Thấy trần Năng
đặt tên cho châu mới của mình là Lôi-sơn, tức biệt hiệu của Đinh Công Dũng, thì uất hận
dần dần tiêu tan. 
Trần Năng nói: 
– Tuy chúng ta có châu rồi, nhưng trong châu các trang, động vẫn giữ nguyên tên cũ. Các
trang chủ, động chủ vẫn ở chức vụ điều khiển trong trang, động của mình. Riêng trang Lôi-sơn, xin lão tiên sinh Đinh Công Hùng giữ cho. 
Nói rồi, nàng xuống đài, lên ngựa cùng mọi người trở về Thượng-hồng. Về tới nơi, Phương
Dung nói: 
– Tôi không ngờ chưởng lực của Đinh Công Dũng mạnh đến thế. Nếu không có con ngựa Ô
thì tôi thua rồi. Võ công của lão này không thua sư thúc Đào Thế Hùng là bao. Có lẽ ngang
với cha tôi chứ không ít. May nhờ có con ngựa Ô, chứ không thì thua rồi. 
Đào Kỳ nói: 
– Việc trước mắt, chúng ta phải tổ chức lại châu Lôi-sơn. Đinh Công Dũng tuy chết nhưng
đệ tử thế lực của Đinh gia còn mạnh. Nếu chúng ta không tổ chức thành hệ thống, thì rút
cục cái tên châu Lôi-sơn chỉ có tiếng, mà không có thực lực. Hùng phu nhân lấy quyền châu
trưởng lệnh cho các trang, động đặt đội quân của họ dưới quyền điều động trực tiếp của ta.
Các trang động có muốn sinh sự cũng không làm gì được. 
Chúng ta chia ra như sau: Năm người làm một Ngũ, năm Ngũ tức 25 người làm một Lượng,
bốn Lượng tức 100 người làm một Tốt. Năm Tốt tức 500 người làm một Lữ. Năm Lữ tức
2.500 người làm một Sư. Đó là lực lượng nòng cốt. Cứ bốn Lữ làm việc, thì có một Lữ tập
luyện trong vòng 10 ngày. Ngoài ra trai tráng từ 15 đến 18 tuổi mỗi tháng phải luyện tập
trong 5 ngày, và họ cũng được tổ chức thành một Lượng. Đến tuổi 18 họ được sung vào lực
lượng chính. Người trên 36 tuổi thì được xếp thành những lượng trừ bị, khi cần thì dùng
đến. Những ngày đi tập được phát lương thực đầy đủ. 
Về ruộng đất chia đều theo lối đầu người, không kể nam, nữ, già trẻ, lớn bé. Nếu trong trang
có người phải sung vào Sư đi chinh chiến xa, trong trang phải làm ruộng cho người đó. Nhà
con một, người có cha mẹ tàn tật thì chỉ sung vào các lượng trừ bị mà thôi. 
Về cách luyện quân tôi sẽ chỉ sau. 
Nguyên hồi ở trang Thái-hà, Đào Kỳ đã học binh thư của Khương thái-công, Tô Võ Tử, Ngô
Khởi nên chàng rất rành cách tổ chức. Nay chàng đem ra dạy cho Hùng Bảo để quản trị
châu Lôi-sơn. 
Chàng lại chỉ cho Trần Năng gởi người về Luy-lâu, Long-biên mua quặng sắt, mướn thợ về
rèn binh khí. Dạy cho người trong trang biết luyện sắt thép, chế binh khí. Chàng còn ra lệnh
cho trang Văn-lạc thống thuộc châu Lôi-sơn. Ngược lại châu Lôi-sơn sẽ giúp cho trang Văn
lạc lương thực, lừa, ngựa,.v.v... 
Hơn nửa tháng sau, một đêm Đào Kỳ đang luyện võ cho Hùng Bảo, Trần Năng, thì chàng
lên cơn suyễn đến ngất đi hơn giờ sau, mới tỉnh dậy. Người chàng mệt nhừ, không còn chút
kình lực nào. 
Phương Dung đứng cạnh chàng an ủi, chà sát lưng cho hạ cơn suyễn. Chàng vừa tỉnh dậy,
thì thấy dưới ánh trăng, một bóng người mặc quần áo lụa xanh. Nhìn kỹ, đó là một phụ nữ.
Chàng giật mình hỏi: 
– Chẳng hay người là ai? Đêm khuya đến đây có việc gì? 
Người đó dường như không có ác ý, từ bóng tối bước ra, mặt bịt kín, chỉ để hở hai con mắt.
Phương Dung lên tiếng: 
– Ngươi tuy bịt mặt, nhưng ta cũng biết ngươi là ai rồi.Ngươi có cái lưng ong, tay chân dài,
dáng tha thướt, thì ngươi là người đẹp lắm. Người đẹp như vậy thì cũng dễ tìm ra tông tích. 
Người đó vẫy Hùng Bảo, Hùng Bảo tiến tới trước mặt hỏi: 
– Cô nương là ai? Giá lâm tệ trang có điều chi dạy bảo? 
Người đó nhảy vút lên cao, hai tay chụp xuống như con chim vồ mồi. Hùng Bảo trầm người
xuống đinh tấn, hai tay biến thành cầm nã, bắt xuống hai trảo người đó. Người đó biến từ
trảo ra chỉ, đâm vào mắt chàng. Hùng Bảo phải lộn người đi mới tránh khỏi, kêu lên một
tiếng kinh ngạc. 
Đào Kỳ cũng suýt kêu lên, vì người đò sử dụng ba tuyệt chiêu của phái Cửu chân. Những
chiêu đó chỉ dạy cho nội đồ. Kình lực đó mạnh ngang với cô em họ Đào Phương Dung của
chàng. Đào Kỳ nhìn kỹ, thấy người đó cao hơn Đào Phương Dung một chút, có lẽ tuổi
ngang nhau. 
Hùng Bảo lên tiếng: 
– Cô nương sử dụng võ công Cửu chân, vậy chúng ta cùng môn hộ. Cô nương là ai? Tại
sao lại bịt mặt như vậy? 
Người đó không nói, tiếp tục tấn công Hùng Bảo. Hùng Bảo đem hết sức ra chống lại. Công
lực người đó không phải tầm thườngf. Nếu chàng không được Đào Kỳ chỉ điểm cho mấy
tháng qua, thì chàng đã bị thua từ hiệp thứ mười rồi. Đấu chừng năm mươi hiệp, người đó
nhảy lùi lại. 
Nàng thở dài một tiếng, rồi hướng vào Đào Kỳ tấn công. Đào Kỳ chỉ hóa giải chứ không
phản công. Người đó tấn công đến trên một trăm chiêu, thủy chung Đào Kỳ cũng chỉ chiết
giải. Người đó nhảy lùi lại, thở dài: 
Công cha như núi Thái sơn, 
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. 
Ta nghe lời sư phụ, hơn nữa vì sự nghiệp phục quốc của Lĩnh-Nam, nên mới tới đây trao
thuốc giải cho ngươi. Thuốc này chỉ khiến cho ngươi không chết mà thôi. sau đó, ngươi phải
tìm Khất đại phu, may mới thoát chết. Còn ta là ai, sau này ngươi sẽ biết. Việc họ Đinh, ta
bảo đảm, không ai gây sự với các ngươi nữa đâu. Người đó đưa cho Đào Kỳ bình thuốc rồi
phóng vào đêm tối. Đào Kỳ ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi Phương Dung: 
– Em đoán thử xem, người đó là ai? 
Phương Dung lắc đầu: 
– Người này vai vế ngang với Hoàng sư tỷ. Chắc y thị là người Lôi-sơn, nghĩ tình đồng môn
mà giúp đỡ chúng ta. 
Trần Năng hỏi: 
– Thuốc này có thể là thuốc độc không? 
Phương Dung lắc đầu: 
– Nếu y thị có ác ý, thì chẳng cần cho thuốc, một tháng sau, Đào đại ca cũng chết. Hơn nữa
người đó là đệ tử của Đào trang không lẽ lại đi giết con út của chưởng môn? Đào trang đâu
có phản đồ? 
Đào Kỳ ngẫm nghĩ thấy Phương Dung có lý. Chàng cầm hai viên thuốc bỏ vào miệng nuốt.
Chỉ một lát sau, chàng ho lên một tiếng, khạc ra một bãi đờm. Bao nhiêu cái khổ sở vì tức
ngực, nghẹt thở đều chấm dứt. Chàng mừng lắm nói: 
– Thuốc này là thuốc giải thực rồi. Vậy mà hôm trước Đinh Công Dũng bảo là không có. Thế
ra y chẳng tử tế gì với Nghiêm đại ca. 
Được hơn nữa tháng chàng nhắc Trần Năng: 
– Ngày trăng tròn là ngày phu nhân có hẹn tương hội với tôn sư. Vậy nhớ hỏi người cách trị
bệnh cho ta. 
Trong suốt mấy ngày qua, Đào Kỳ tuy không nói ra, nhưng đêm đêm, thường thấy tức ngực
khó thở. Chàng muốn vận khí luyện công mà không được. Chàng thường bị cơn suyễn
hành hạ khổ sở. Song may mắn là cơn suyễn đó, mỗi ngày chỉ lên có một lần thôi. 
Đúng ngày trăng tròn, Trần Năng cùng Đào Kỳ tới chỗ tương hội cùng sư phụ. 
Hai người ngồi chờ tới lúc trăng lên cao cũng không thấy ông đến. Hai người đã định ra về
thì thấy có tiếng ngựa. Trần Năng mừng quá, đứng dậy để đón tôn sư. Nhưng người đến là
Lê Ngọc Trinh. 
Kể từ hôm đại hội đến giờ, đây là lần đầu tiên Trần Năng gặp lại Lê Ngọc Trinh. Trần Năng
mừng quá nói: 
– Chị Trinh, từ hôm ấy đến giờ, chị đi đâu? 
Ngọc Trinh cười: 
– Thì còn đi đâu nữa? Chị đi hái thuốc với sư phụ. Cách đây hơn tháng, sư phụ có việc phải
đi xa, người gọi chị đến dặn dò giúp em. Người còn nói: Hiện giờ bên cạnh em có người võ
công không kém gì sư phụ. Em cứ việc học. Được người đó dạy, chỉ cần luyện tập trong
mười lăm năm, thì bằng sư phụ rồi. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Tỷ tỷ, tôn sư đi đâu? Bao giờ về vậy? 
Lê Ngọc Trinh nói: 
– Sư phụ tôi đi đâu, thường không bao giờ nói và cũng chẳng bao giờ cho biết ngày về. 
Đào Kỳ thất vọng ra mặt, chàng từ biệt Lê Ngọc Trinh, rồi cùng Trần Năng ra về. 
Hôm sau, chàng nói với Hùng Trọng: 
– Về võ công bây giờ Hùng Bảo, Trần Năng không thua gì chú cháu họ Đinh nữa. Tôi với
Phương Dung có việc phải đi, hậu hội hữu kỳ. 
Rồi chàng với Phương Dung nhắm hướng Bắc Mê-linh tiến phát.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro