bich huyet kiem

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đào Hoa Truyền Kỳ - Hồi 3 : Bình Minh

Tiếng vỗ tay còn chưa dứt, tiếng cười đã vang lên.

Tiếng vỗ tay trong trẻo, tiếng cười lại càng trong trẻo.

Một người theo tiếng cười từ dưới xe chui ra, nụ cười tươi tắng, ánh mắt tươi tắn.

Một nữ nhân tươi tắn mỹ lệ làm cho người ta vui tươi. Tuy trên người trên mặt bám đầy đất cát, nhưng xem ra vẫn làm cho người ta có cảm giác nàng có bộ dạng thanh cao.

Có dạng nữ nhân vô luận là dưới tình huống nào mà nhìn, đều giống như bình minh tươi tắn. Trương Khiết Khiết là dạng nữ nhân đó.

Nàng vỗ tay cười nói:

- Sở Hương Soái quả nhiên danh bất hư truyền, quả nhiên có thể lừa gạt người ta bất kể già trẻ lớn bé.

Sở Lưu Hương mỉm cười, cúi mình đáp lễ.

Trương Khiết Khiết cười nói:

- Cho nên vô luận là nữ nhân lớn tuổi tới bao nhiêu, đều ngàn vạn lần không thể nghe Sở Hương Soái nói, nữ nhân từ tám cho tới tám mươi đều không ngoại lệ.

Sở Lưu Hương thốt:

- Chỉ có một người là ngoại lệ.

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Ai ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Nàng.

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Tôi ? Tôi sao lại là ngoại lệ ?

Sở Lưu Hương mỉm cười:

- Bởi vì nàng nếu không lừa gạt ta, ta cũng đã cảm kích quá rồi, làm sao còn có thể lừa gạt nàng ?

Trương Khiết Khiết chu môi:

- Tôi đã lừa gạt chàng ? Lừa gạt chàng cái gì ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Ta nói không được.

Trương Khiết Khiết thốt:

- Hừm, tôi biết chàng nói không được mà.

Sở Lưu Hương mỉm cười:

- Lừa gạt người ta, người ta vẫn không thể nói gì, đó mới là cái hay.

Trương Khiết Khiết tròn xoe mắt nhìn chàng, tròng mắt bỗng đỏ ngầu, nước mắt rơi lã chã.

Sở Lưu Hương thấy lạ, nhịn không được phải hỏi:

- Nàng khóc ?

Trương Khiết Khiết nghiến răng:

- Tôi thương tâm muốn khóc cũng phạm pháp sao ?

Sở Lưu Hương hỏi:

- Nàng thương tâm ? Thương tâm chuyện gì ?

Trương Khiết Khiết quẹt nước mắt, nói lớn:

- Tôi thấy chàng bị người ta ám toán, ráng trốn dưới gằm xe, muốn đợi cơ hội cứu chàng, trên đường cũng không biết đã nuốt bao nhiêu đất cát, cuối cùng được gì chứ ?

Nước mắt của nàng lại bắt đầu chảy dài trên má, vừa nức nở vừa nói tiếp:

- Chàng không những không có một chút cảm kích, trái lại còn muốn chọc ghẹo mỉa mai đâm thọt tôi. Tôi ... tôi làm sao mà không thương tâm được chứ.

Nàng càng nói càng thương tâm, càng khóc òa lên.

Sở Lưu Hương ngẩn người. Chàng chỉ biết nàng là nữ nhân tươi cười, chưa bao giờ tưởng được nàng cũng khóc dữ như vậy.

Theo Sở Lưu Hương thấy, nước mắt nữ nhân đơn giản còn đáng sợ hơn so với ám khí.

Vô luận ám khí lợi hại tới cỡ nào, mình ít ra còn có thể tránh né. Nước mắt nữ nhân lại muốn tránh cũng tránh không được. Vô luận là ám khí lợi hại thế nào, tối đa cũng chỉ bất quá có thể đâm lủng vài lỗ trên thân mình. Nước mắt nữ nhân lại có thể làm tim mình tan nát.

Sở Lưu Hương thở dài, dịu dàng thốt:

- Ai nói ta không cảm kích, cảm kích muốn chết luôn.

Trương Khiết Khiết nói:

- Vậy ... vậy sao chàng không nói ra ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Cảm kích chân chính phải giấu trong tâm, nói ra đâu còn ý nghĩa gì.

Trương Khiết Khiết nhịn không được lại phá lên cười, dí dí vào mũi Sở Lưu Hương:

- Lão đầu tử nói quả không sai, chàng quả nhiên có cái miệng dẻo quẹo lừa gạt nữ nhân.

Sở Lưu Hương thốt:

- Đừng quên lão đầu tử cũng là nam nhân, lời nói của nam nhân không thể dùng được.

Trương Khiết Khiết thốt:

- Lão đích xác là lão hồ ly, hơn nữa võ công cũng không tệ.

Sở Lưu Hương thốt:

- Nhưng lại vẫn không bằng lão thái bà, cho nên không trách gì phải sợ lão thái bà.

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Chàng có phát giác thủ pháp điểm huyệt của lão thái bà rất cao không ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Nếu đem thủ pháp điểm huyệt đó ra mà luận, bà ta có thể xếp trong năm cao thủ điểm huyệt hàng đầu.

Trương Khiết Khiết thốt:

- Nói như vậy, bà ta đáng lẽ là một võ lâm cao thủ rất hữu danh.

Trương Khiết Khiết nói tiếp:

- Người ta nói kiến thức của Sở Hương Soái bao la, chắc là đã nhìn ra lai lịch của bà ta.

Sở Lưu Hương đáp:

- Còn chưa được.

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Nhìn không ra ? Chàng có nhìn kỹ chưa ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Bất tất phải lo. Hai vợ chồng đó vô luận là ai cũng đều không quan trọng.

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Tại sao ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Bởi vì bọn họ về sau chắc không dám đến tìm ta gây phiền hà nữa.

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Vậy chuyện nào mới quan trọng ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Quan trọng hơn là ai đã sai bọn họ tới ? Chở ta đi đâu ?

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Chàng hồi nãy sao không hỏi bọn họ ? Sao lại tùy tùy tiện tiện thả bọn họ ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Ta nếu hỏi bọn họ, bọn họ lại tùy tùy tiện tiện trả lời cho ta biết sao ?

Trương Khiết Khiết đáp:

- Chắc không.

Nàng ngẫm nghĩ, lại bổ sung:

- Bọn họ nếu là người dễ dàng tiết lộ bí mật, người đó cũng không phái bọn họ đến đối phó chàng.

Sở Lưu Hương mỉm cười:

- Đầu óc của nàng quả thật sáng suốt hơn nhiều nữ nhân khác.

Trương Khiết Khiết kênh kiệu:

- Chàng có phải là đang nịnh bợ đó không ? Tôi không phải dễ dàng bị gạt như người khác đâu.

Sở Lưu Hương thở dài:

- Nàng sao lại làm khó ta chứ ? Lời nói hồi nãy của ta là thật.

Trương Khiết Khiết trừng mắt nhìn chàng:

- Cho dù bọn họ ngậm miệng, chàng cũng có phương pháp làm cho bọn họ mở miệng.

Sở Lưu Hương cười khổ:

- Hai vợ chồng đó ít ra cũng đã một trăm ba chục, một trăm bốn chục tuổi, ta làm sao có thể tàn nhẫn khảo vấn bọn họ chứ ?

Trương Khiết Khiết thản nhiên đồng tình:

- Chàng tuy tịnh không tốt đẹp gì, vẫn không phải là hạng hành hạ người ta.

Nàng bỗng thở dài:

- Hiện tại bọn họ đã chạy mất, xem ra tôi chỉ còn nước dẫn chàng quay lại tìm bằng hữu của tôi.

Sở Lưu Hương thốt:

- Chuyện đó cũng không cần nữa.

Trương Khiết Khiết tròn mắt:

- Không cần ? Có phải đã có phương pháp tìm ra người đó ?

Sở Lưu Hương mỉm cười:

- Ta tuy tìm không ra, nhưng y lại có thể tìm ra.

Đôi mắt tròn xoe của Trương Khiết Khiết càng to hơn:

- Ai ?

Sở Lưu Hương chỉ tay về phía trước:

- Y.

Trương Khiết Khiết nhìn theo bàn tay chàng, chỉ nhìn thấy con la đang kéo chiếc xe đó. Con la đang cúi đầu gặm cỏ bên đường.

Trương Khiết Khiết ráng nhịn cười:

- Nguyên lai nó cũng là bằng hữu của chàng ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Con la ít ra có chỗ ích lợi, con la không biết nói láo.

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Nhưng nó nói gì được với chàng ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Nó không cần phải nói.

Chàng bỗng hỏi:

- Ta nếu đột nhiên bỏ đi, để nàng một mình ở đây, nàng sẽ đi đâu ?

Trương Khiết Khiết ngẩn người:

- Tùy tiện chỗ nào tôi cũng đều có thể đi được, tôi ít ra có một chỗ có thể về.

Sở Lưu Hương hỏi:

- Nếu cho nàng chọn, nàng đi đâu ?

Trương Khiết Khiết đáp:

- Tôi về nhà.

Sở Lưu Hương mỉm cười:

- Không sai, nàng đương nhiên muốn về nhà, cũng nhất định biết đường về nhà.

Chàng lại nói tiếp:

- Ngoại trừ người ra, còn có một loài vật có thể nhận ra đường về nhà.

Trương Khiết Khiết đáp:

- Ngựa.

Sở Lưu Hương đáp:

- Không sai, ngựa già nhớ đường. Mình vô luận bỏ nó ở đâu, nó đều có cách tìm đường về nhà.

Trương Khiết Khiết cười nói:

- Vậy còn ngựa thồ thì sao ? Ngựa cái thì sao ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Ngựa thồ cũng phải về nhà, nó không có chỗ nào khác để đi. Bởi vì trên thế gian còn chưa có kỹ viện và quán rượu cho ngựa.

Ánh mắt Trương Khiết Khiết đã phát sáng:

- Ý chàng muốn nói ... con la đó cũng có thể tìm đường về nhà ?

Sở Lưu Hương cười cười:

- Đừng quên con la phân nửa cũng là ngựa, hơn nữa còn thông minh hơn cả ngựa.

Con la đi đằng trước, Sở Lưu Hương và Trương Khiết Khiết đi theo phía sau, đang đi Trương Khiết Khiết bỗng cười vang, cười ngặt nghẽo. Sở Lưu Hương nhịn không được phải hỏi:

- Nàng cười cái gì ?

Trương Khiết Khiết đáp:

- Cười tôi.

Sở Lưu Hương hỏi:

- Sao vậy ?

Trương Khiết Khiết đáp:

- Tôi cười tôi quả là một ngốc tử.

Sở Lưu Hương cũng mỉm cười:

- Nàng sao lại bỗng biến thành úp úp mở mở như vậy ?

Trương Khiết Khiết đáp:

- Nếu không phải là ngốc tử, sao lại đi theo sau đít la như vậy.

Sở Lưu Hương đáp:

- Đó là vì ta muốn theo con la đến chỗ chủ nhân nó ở.

Trương Khiết Khiết thốt:

- Chàng làm sao biết được chủ nhân con la có phải là người muốn hại chàng không ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Ta không biết, cho nên ta mới đi thử vận may.

Trương Khiết Khiết nhìn chàng, lắc lắc đầu:

- Nghe nói một người nếu trông chờ vào vận may, nhất định gặp xui xẻo, tôi tại sao lại phải theo chàng đi gặp xui xẻo chứ ?

Nàng chớp chớp mắt, lại thốt:

- Vô luận là sao, ít ra tôi luôn luôn đâu có làm hại tới chàng.

Sở Lưu Hương vuốt vuốt chót mũi:

- Nàng quả thật không có.

Trương Khiết Khiết hỏi:

- Tôi là nữ, chàng là nam, nam nữ thụ thụ bất thân, câu nói đó chàng chắc đã nghe qua ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Ta đích xác có nghe qua.

Trương Khiết Khiết thốt:

- Cho nên chàng không thể bắt tôi phải đi sau đít con la của chàng.

Sở Lưu Hương thở dài:

- Ta không thể.

Trương Khiết Khiết nghênh mặt:

- Vậy thì tôi muốn đi, tôi không chịu đi sau đít một con la làm một ngốc tử điên khùng.

Nàng vỗ vai Sở Lưu Hương, lại cười nói:

- Đợi đến lúc bị người ta hại chết, đừng quên thông tri cho tôi biết một tiếng, tôi thắp nhang cúng chàng.

Câu nói cuối cùng vừa dứt, nàng đã phóng xa ngoài bảy tám trượng, lại quay đầu nhìn lại Sở Lưu Hương vẫy vẫy tay, sau đó đột nhiên biến mất.

Sở Lưu Hương chợt phát hiện khinh công của nàng rất cao, trên thế gian nếu còn có người có thể bắt kịp nàng, nhất định là Sở Lưu Hương.

Nhưng hiện tại cả Sở Lưu Hương cũng không còn có thể đuổi kịp nàng.

Sở Lưu Hương thở dài, lẩm bẩm:

"Ta nếu quả thật bị người ta hại chết, làm sao có thể thông tri cho nàng biết ?".

Chàng phát hiện cô gái đó mỗi câu nói đều chừng như có dạng như vậy, nửa thật nửa giả, bề ngoài hợp lý, lại làm cho người ta vô luận là gì đều không thấu rõ dụng ý của nàng. "Nàng là người ra sao ? Có ý tứ gì đối với ta ?".

Nếu nói nàng có ác ý, nàng lại đích xác chưa từng hại Sở Lưu Hương, hơn nữa ít ít nhiều nhiều còn tiết lộ chút bí mật cho Sở Lưu Hương biết.

Nàng trốn dưới xe, chừng như đợi chờ cơ hội để cứu Sở Lưu Hương, nhưng nếu không phải vì nàng, Sở Lưu Hương làm sao lại ngồi trên cỗ xe la đó ? Làm sao có thể lọt vào bẫy của hai vợ chồng hồ ly già đó ?

Sở Lưu Hương lại thở dài, chỉ hy vọng mình không gặp xui giống như lời nàng nói, chỉ hy vọng con la đó có thể chịu bước đi, nghe lời đi về nhà, dẫn chàng đến gặp người đó. Chàng thật sự muốn hỏi người đó tại sao lại muốn giết chàng ?

oo Quả nhiên đã về đến nhà, về đến quê nhà của nó -- lại là một trại ngựa.

Một trại ngựa rất lớn, bên trong có đủ loại lừa, la, ngựa.

Sở Lưu Hương thất thểu đi theo nó cả nửa ngày, cuối cùng lại gặp được cha lừa mẹ ngựa của nó.

Trương Khiết Khiết có phải đã đoán đúng kết quả này ? Xem ra một người nếu chịu đi theo một con la, quả thật không có kết quả gì.

Con la lắc lắc đuôi, dương dương đắc ý vì đã tìm ra đám bằng hữu thân thiết của nó.

Sở Lưu Hương lại chỉ có một mình ngây người đứng đó.

Qua một hồi rất lâu, chàng mới có thể mỉm cười, cười khổ.

Đối diện trại ngựa có tửu lâu, có tiệm bánh bao.

"Mình vốn là một ngốc tử. Một ngốc tử trên mọi phương diện".

Không sai, chàng hiện tại đã biết có người muốn giết chàng. Nhưng chàng vẫn còn sống.

"Y đã muốn giết ta, ta tại sao không đợi y đến giết ta ? Ta tại sao phải khổ cực đi kiếm y ?".

Sở Lưu Hương đã uống tới chén rượu thứ sáu, uống rất mau vì rượu không phải là rượu ngon. Ít ra dở hơn rượu chàng chôn rất nhiều.

"Cả con la còn biết về nhà, ta tại sao còn phải ở ngoài đổ mồ hôi ?".

Sở Lưu Hương quyết định uống tới chén thứ mười hai mới ngừng.

"Trước hết đi kiếm Tiểu Hồ, sau đó về nhà".

Trong nhà không những có rượu ngon đang đợi chàng, còn có rất nhiều người ôn nhu khả ái đang đợi chàng.

Chàng quyết định lần này phải về nhà ở thật lâu, nghỉ ngơi thoải mái, hưởng thụ dài dài.

Chàng cần phải hưởng thụ.

Thạch Quan Âm, Vô Hoa, Thủy Mẫu Âm Cơ, Họa Mi Điểu, Nam Cung Sơ, Tiết Y Nhân, Tiết Bảo Bảo, Thương Lang đại sư, Biên Bức công tử ...

Đám người đó không có một người nào dễ đối phó.

Sở Lưu Hương nếu không trông nhờ vào vận khí may mắn, hiện tại có lẽ đã chết bảy tám lần rồi.

Chàng vừa bắt đầu nghĩ đến chuyện cũ, không tự chủ được phải nghĩ:

"Ta có thể không lo nghĩ tới chuyện gì khác, nhưng không thể nhìn nàng chết vì ta".

Trong tâm của chàng chợt lại có một bóng đen. Vẫn là bóng đen của bàn tay đó.

Đột nhiên ngay lúc đó, một bàn tay thò ra từ bên cạnh chàng, thò tới trước mặt chàng.

Một bàn tay rất mỹ lệ, năm ngón tay thon thả, mềm mại không xương, đang cầm lấy hồ rượu trên bàn của Sở Lưu Hương.

Chén rượu đã cạn.

Sở Lưu Hương không ngẩng đầu, chỉ nhìn rượu rót ra khỏi hồ, rót đầy chén.

Chén rượu lại cạn.

Sở Lưu Hương vẫn không ngẩng đầu lên.

Chàng đã nhìn thấy áo quần màu đỏ, đã ngửi được một hương thơm quen thuộc.

Bao nhiêu đó đã đủ cho chàng nhận ra người đó là ai.

Ngải Hồng.

Sở Lưu Hương quả thật không nghĩ đến nàng còn xuất hiện:

- Nàng đã đổi hài rồi ?

Nàng cúi đầu, nhẹ nhàng giơ chân lên, để lộ một đôi hài thêu hoa màu xanh thanh tú, đầu hài rất mềm. Thứ hài mỏng như vậy tuyệt đối không tàng giấu được ám khí.

Sở Lưu Hương gật gật đầu, mỉm cười nói:

- Các cô gái hiền lành nên mang đôi hài như vậy.

Bình trà trên bàn bốc khói nghi ngút.

Sở Lưu Hương mời:

- Nàng đã đến rồi, sao không ngồi xuống uống vài chén ?

Ngải Hồng ngồi xuống.

Sở Lưu Hương bây giờ mới phát hiện sắc mặt nàng tái nhợt hơn nhiều so với lần trước, thần tình xem ra đã biến thành buồn bả, cả nụ cười mánh khóe cũng không còn thấy nữa, mi mắt ủ rũ, phảng phất có tâm sự rất nặng nề.

Bọn thiếu nữ hay đa sầu đa cảm, ai mà không có tâm sự ? Nhưng Ngải Hồng xem ra lại không giống dạng thiếu nữ đa sầu đa cảm.

Sở Lưu Hương rót rượu cho nàng, cười nói:

- Nàng có phải muốn đòi lại giày ? Đến đây đòi vị bằng hữu nằm dưới bàn hôm trước trả lại cho nàng ?

Ngải Hồng cúi đầu, phảng phất rất bất an.

Sở Lưu Hương lại cười:

- Nàng đừng lo, bằng hữu của ta tuy rất thích nắm chân nàng, nhưng lúc này không có trốn dưới bàn đâu.

Ngải Hồng cắn môi, chung quy cũng nâng chén uống cạn.

Sở Lưu Hương rót cho nàng một chén trà, đẩy đến trước mặt nàng:

- Uống rượu không rất dễ say, trà ở đây cũng không tệ, nàng nhấp thử đi.

Ngải Thanh bỗng ngẩng đầu, ngưng thị nhìn chàng, đôi mắt mỹ lệ ngập tràn vẻ u sầu phiền muộn. Một cô gái như nàng vốn không nên thống khổ như vậy.

Sở Lưu Hương đưa đũa cho nàng, dịu dàng thốt:

- Nàng ăn chút gì đi, rồi ta uống rượu với nàng, có được không ?

Ngải Hồng thở dài nhè nhẹ:

- Chàng nói chuyện với nữ nhân đều ôn nhu như vậy sao ?

Ngải Hồng lại hỏi:

- Còn nữ nhân chết thì sao ?

Sở Lưu Hương không hồi đáp, chỉ mỉm cười dịu dàng nhìn nàng.

Nhãn quang đó thông thường càng làm cho các cô gái thoải mái hơn là những lời nói hoa mỹ.

Nhưng tròng mắt của Ngải Hồng trái lại bỗng đỏ ngầu, hiển lộ nỗi thương cảm:

- Tôi đã lừa gạt chàng, lại còn muốn giết chàng, tôi căn bản là một nữ nhân rất xấu tính, chàng vốn không nên tha thứ cho tôi.

Sở Lưu Hương mỉm cười:

- Chuyện trước đây ta đã quên rồi, bởi vì ta biết đó tuyệt không phải là ý tứ của nàng.

Chàng bỗng phát hiện một chuyện rất kỳ quái. Tả thủ của Ngải Hồng nãy giờ giấu kín trong tay áo, không lú ra chút nào.

Ngải Hồng hỏi:

- Nếu là ý tứ của tôi thì sao ?

Sở Lưu Hương dịu dàng đáp:

- Cho dù là ý tứ của nàng, ta cũng không trách nàng, một cô gái mỹ lệ trong trắng như nàng, vô luận làm chuyện gì, người khác đều rộng lượng tha thứ.

Chàng đột nhiên khều tả thủ của Ngải Hồng. Sắc mặt Ngải Hồng lập tức biến đổi, biến thành trắng nhợt.

Sắc mặt của Sở Lưu Hương cũng biến đổi.

Trong tay áo trống không, Ngải Hồng đã mất một bàn tay.

Sở Lưu Hương hiện tại đã biết bàn tay nằm trên song cửa sổ là của ai.

Một cô gái trẻ trung xinh đẹp, thông thường ngoại hình của mình đã xem trọng còn hơn cả tính mạng, cho dù trên tay có một vết thẹo, đã là chuyện thống khổ phi thường, hà huống gì là thiếu mất một bàn tay.

Sở Lưu Hương không những đồng tình, hơn nữa cũng không khỏi cảm thấy thương cảm cho nàng.

Chàng quả thật đã tha thứ cho nàng từ sớm.

Nàng nếu trốn tránh chàng, hoặc cho dù đi tìm chàng, khi gặp chàng vẫn mang bộ dạng xem nam nhân như tên ngốc, tình huống có lẽ bất đồng.

Nhưng một cô gái ưu tư sầu muộn lại tự động đến tìm chàng, vô luận là nàng đã làm chuyện gì đối với chàng, chàng đều tuyệt không giữ trong tâm.

Sở Lưu Hương luôn rất mau quên lỗi lầm của người khác, lại quên không được tính tốt của người ta, cho nên chàng nhất định không những sống khoái lạc hơn, cũng sống lâu hơn người ta.

Người trong tâm không có thù hận, ngày trôi qua thoải mái hơn.

Một hồi rất lâu, Sở Lưu Hương mới thở dài nhè nhẹ:

- Vì nàng không giết ta được, cho nên nàng mới ra nông nỗi này ?

Ngải Hồng cúi đầu, không nói gì, nước mắt đã rơi lã chã vào chén rượu.

Sở Lưu Hương hỏi:

- Là ai đã làm chuyện này ?

Ngải Hồng dùng hết sức cắn chặt môi, như muốn kềm mình không nói ra bí mật trong tâm.

Sở Lưu Hương hỏi:

- Đến bây giờ nàng vẫn không dám nói ? Nàng vì sao lại phải sợ y như vậy ?

Ngải Hồng quả thật sợ.

Nàng xem chừng không những mệt mỏi đau đớn, mà còn sợ khủng khiếp, sợ đến nỗi toàn thân run rẩy không ngừng.

Người đó không những chém đứt một bàn tay của nàng, cố nhiên lúc nào cũng có thể lấy mạng nàng.

Sở Lưu Hương nghĩ không ra có người lại có thể đối với cô gái trẻ đẹp đó tàn nhẫn như vậy, nhưng nếu không phải vì chàng, Ngải Hồng cũng không thể tao ngộ nỗi bất hạnh như vầy.Sở Lưu Hương bất giác có cảm giác rất phẫn nộ.

Sở Lưu Hương luôn luôn rất ít khi động nộ, bởi vì nộ khí dễ dàng ảnh hưởng đến sức phán đoán của con người, người phát nộ dễ dàng làm sai việc nhất.

Nhưng chàng vẫn còn là người, cũng có lúc khống chế không được, hà huống hiện tại đang là lúc tâm tình chàng không tốt đẹp gì, là lúc tâm tình không mấy ổn định.

Chàng đã quên hẳn chuyện chàng hồi nãy muốn về nhà nghỉ ngơi, đột nhiên đứng dậy:

- Nàng ngồi đây đợi ta, ta sẽ quay lại rất mau.

Ngải Hồng gật đầu, mục quang ôn nhu nhìn theo chàng, phảng phất đã xem chàng như là người duy nhất có thể nương tựa.

Lần này nàng đến, ngoại trừ muốn Sở Lưu Hương tha thứ, có lẽ cũng bởi vì nàng có cảm giác mình cô đơn không ai trợ giúp.

Sở Lưu Hương hiểu rõ ý tứ của nàng. Cho nên có chuyện chàng không thể không làm.

Xem chừng làm nghề buôn bán nào cũng phải thân mật hòa khí.

Sở Lưu Hương mới bước tới, có một gã chăn lái buôn đã đứng lên nghênh tiếp:

- Khách quan muốn mua ngựa ? Hay là la ? Bọn tôi ở đây bán bảo đảm toàn là loại tốt nhất.

Câu nói đó rất khách khí.

Sở Lưu Hương đáp:

- Ta chỉ muốn hỏi thăm tin tức.

Nghe không phải là chuyện mua bán, cả khách khí cũng không còn cần phải khách khí, tên lái buôn lạnh lùng thốt:

- Bọn tôi chỉ biết chuyện lừa ngựa, không biết tin tức gì.

Sở Lưu Hương mỉm cười:

- Ta chính là muốn hỏi về chuyện một con la.

Gã lái buôn lạnh lùng nhìn chàng, nhưng nhịn không được cũng lắng nghe.

Sở Lưu Hương hỏi:

- Hồi nãy có con la chạy vào đây, ngươi có thấy không ?

Gã lái buôn hỏi:

- Có phải con la đó là của ông ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Không phải của ta, của ngươi.

Sắc mặt gã lái buôn xem chừng có vẻ chú ý:

- Đã là của bọn tôi, ông còn hỏi làm chi ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Nhưng con la đó đương nhiên đã bị bọn ngươi bán một lần, ta chỉ muốn hỏi ai đã mua nó.

Gã lái buôn bỗng chỉ về đằng trước:

- Ông nhìn coi, trong đó có bao nhiêu con la ?

Sở Lưu Hương nhìn theo, trong đó quả thật có rất nhiều la.

Gã lái buôn thốt:

- La không phải như người. Người còn có xấu đẹp, mấy con la lại toàn giống nhau, bọn tôi mỗi ngày cũng bán ra không biết bao nhiêu con, làm sao biết ai mua con la đó ?

Trên mặt gã lái buôn đã lộ vẻ bận bịu, hiển nhiên đã chuẩn bị kết thúc cuộc đàm thoại đó.

Sở Lưu Hương chỉ còn nước dùng thứ vũ khí cuối cùng của chàng, cũng là thứ lợi hại nhất.

Mình cho dù có đem vật đó đập bể đầu người ta, người ta có thể vẫn nheo mắt cảm tạ mình -- ngoại trừ tiền bạc ra, còn có cái gì có thể có ma lực lớn như vậy.

Bộ dạng của gã lái buôn lập tức thân thiện gấp bội, tươi cười:

- Để tôi coi cho ông, trên người con la đó nếu có in tiêu ký, có lẽ có thể tra ra lúc trước ai đã mua nó.

Trên người con la không có đóng dấu tiêu ký, toàn thân trên dưới đều còn nguyên vẹn, cả một chút lông tạp cũng không có. Sở Lưu Hương thở dài một hơi, đã chuẩn bị chịu thua.

Nhưng chàng ráng hỏi:

- Con la này có phải là con hồi nãy từ ngoài đi vào không ?

Gã lái buôn cười đáp:

- Tôi tuy phân không được mặt mũi con nào là con nào, nhưng con nào tốt con nào xấu thì tôi có thể coi được, giống như con la này, tôi cho dù còn cách nửa dặm đã có thể nhận ra.

Sở Lưu Hương hỏi:

- Con la này rất đáng giá ?

Gã lái buôn đáp:

- Đáng giá phi thường, Trong một ngàn con, cũng vị tất có thể tìm ra một con tốt như nó, cho nên ...

Cho nên gã lại cúi đầu, ánh mắt lại nhìn lên tay Sở Lưu Hương.

Tay Sở Lưu Hương luôn luôn rất ít khi làm cho người ta thất vọng.

Cho nên gã lái buôn lại nói tiếp:

- Hạng tốt như vậy, chúng tôi thông thường chỉ bán cho khách quen.

Mắt Sở Lưu Hương phát sáng, lập tức hỏi:

- Khách quen của bọn ngươi ở đây có nhiều không ?

Gã lái buôn cười đáp:

- Trại lớn như vầy cũng không có quá mười vị khách quen.

Gã lại nói tiếp:

- Nhiều đại tiêu cục ở Tượng Vạn Thành, Phi Long Trấn đều là khách quen của bọn tôi, nhưng khách quen lớn nhất vẫn là "Vạn Phúc Vạn Thọ Viên" Kim gia.

Sở Lưu Hương hỏi:

- Ngựa lừa cho toàn gia đều mua tại đây ?

Gã lái buôn đáp:

- Tất cả những giống tốt từ ngoài nhập vào đây đều để cho đám thiếu gia và tiểu thư của Kim gia đến lựa trước ...

Sở Lưu Hương động dung:

- Con la đó có phải đã bán cho Kim gia ? Ngươi có thể xác định không ?

Gã lái buôn gật gật đầu:

- Những con khác đều có đóng dấu tiêu ký vì sợ bị thất lạc, nhưng Kim gia tài hùng thế mạnh, có thể nói căn bản không ai dám động tới một cọng cỏ của bọn họ, cho dù có nhiều ngựa lừa, bọn họ cũng căn bản không thèm để ý.

Sở Lưu Hương thốt:

- Cho nên chỉ có ngựa lừa của bọn họ là trên thân không có đóng dấu tiêu ký, có phải vậy không ?

Gã lái buôn đáp:

- Từ hồi tôi nhìn thấy con la này, đã nghĩ là bọn họ để lạc mất.

Sở Lưu Hương ngẩn người.

Có những chuyện chàng vốn nằm mộng cũng đều không nghĩ tới, nhưng hiện tại đã nghĩ tới.

Chàng đến nơi này, không phải chỉ có người của Kim gia mới biết hành động của chàng sao ?

Đêm chuyện này phát sinh không phải là ở Kim gia sao ?

Hà huống ngoại trừ Kim gia ra, vùng phụ cận căn bản không có ai có thể dùng lực lượng lớn như vậy, chỉ huy nhiều cao thủ như vậy, giăng bày nhiều võng lưới như vậy.

Ít ra Sở Lưu Hương vẫn không nghe nói phụ cận có nhân vật nào có lực lượng lớn như vậy.

Nhưng Kim gia vì sao lại muốn giết Sở Lưu Hương ?

Sở Lưu Hương không những là bằng hữu của Kim Linh Chi, hơn nữa còn giúp nàng trong lúc hiểm nghèo, cứu trợ nàng qua khỏi cơn hôn mê.

Chỉ bất quá nhân khẩu của Kim gia quả thật quá nhiều, phần tử khó tránh khỏi phức tạp, kỳ trung cũng không thể chắc có oan gia đối đầu với Sở Lưu Hương hay không, cả Kim Linh Chi cũng không biết.

Nhưng theo Kim Linh Chi nói, nàng chỉ đem hành tung của Sở Lưu Hương nói cho một mình Kim lão thái thái biết, cả đám huynh đệ chú bác đều không biết Sở Lưu Hương lần này đến bái thọ.

Lẽ nào Kim Linh Chi lại nói láo ?

Lẽ nào chủ mưu chuyện này lại là Kim thái phu nhân ?

Tâm Sở Lưu Hương bấn loạn, càng nghĩ càng loạn, qua một hồi rất lâu vẫn không thể bình tĩnh lại.

Nếu bị địch nhân ám toán, chàng vĩnh viễn đều có thể bảo vệ sự bình tĩnh.

Nhưng bị bằng hữu ám toán lại là một chuyện khác hoàn toàn.

Gã lái buôn đó bỗng thở dài một hơi, bổ sung:

- Nghĩ không ra giữa thanh thiên bạch nhật như vầy, không ngờ lại có người dám làm chuyện phạm pháp như vậy.

Hắn chừng như tự nói với mình, lại chừng như cầu Sở Lưu Hương trợ giúp.

Ở đây căn bản không còn ai khác, Sở Lưu Hương không thể không hỏi:

- Chuyện gì ?

Gã lái buôn đáp:

- Bắt cóc.

Sở Lưu Hương nhíu mày:

- Bắt cóc ? Bắc cóc ai ? Ai bắt cóc ?

Gã lái buôn thở dài:

- Có vài đại hán vạm vỡ bắt trói một tiểu cô nương, giữa thanh thiên bạch nhật không ngờ lại dám bắt cóc cô nương đó ra khỏi tửu lâu, quăng lên cỗ xe ngựa, trên đường có rất nhiều người, lại không có ai để ý chuyện đó.

Sở Lưu Hương động dung:

- Tiểu cô nương đó hình dáng ra sao ?

Gã lái buôn đáp:

- Một tiểu cô nương rất đẹp, vận hồng y ...

Hắn còn chưa nói dứt lời, chỉ tiếc người nghe đã đột nhiên biến mất.

Sở Lưu Hương đã phóng người quay trở lại tửu lâu.

Hành động của chàng tuy nhanh lại đã chậm một bước, không còn thấy đại hán vạm vỡ nào, cũng không thấy cỗ xe ngựa nào, chỉ thấy một thiếu phụ đang góp nhặt rỗ trái cây văng lăn lóc dưới đất, còn có một đứa bé nhìn bình dầu và trứng gà vỡ nát dưới đất khóc lớn.

Xa xa cát bụi mịt mù, ẩn hiện còn có thể nghe thấy tiếng ngựa hí.

Trái cây và hột gà nghĩ tất đều bị cỗ xe đó đụng rớt.

Bên kia đường có người đang dẫn ngựa từ trong trại ngựa đi ngang qua, Sở Lưu Hương thuận tay móc kim ngân ra nhét vào tay người đó, lập tức nhảy lên lưng ngựa.

Người đó còn chưa biết ất giáp gì, Sở Lưu Hương đã quất ngựa tung vó cát bay mịt mù.

Chàng làm chuyện luôn luôn có hiệu suất cao nhất, không cần nói dài dòng mất thời giờ.

Cho nên chàng nếu thật sự muốn mua ngựa, chỉ cần giao cho chàng, không cần phải như người trong giang hồ chọn ngựa kỹ càng, bởi vì ai ai cũng đều chọn ngựa tốt, không những bình thường có thể làm bạn lữ đồng hành, có khi lúc nguy hiểm nhất còn có thể cứu mạng.

Ngựa nếu có thể tuyển chọn người kỵ mã, nhất định chọn Sở Lưu Hương.

Kỵ thuật của Sở Lưu Hương tịnh không thể cho là tối cao, chàng không lắm khi cỡi ngựa.

Nhưng thân người chàng rất nhẹ, nhẹ đến nỗi cơ hồ có thể làm cho ngựa có cảm giác không có ai trên mình nó.

Hơn nữa chàng rất ít khi dùng đến roi.

Vô luận đối với bất cứ sinh mệnh nào, chàng đều không chịu dùng bạo lực.

Không ai ghét bạo lực hơn chàng.

Cho nên đó tuy không phải là một con ngựa rất tốt, nhưng hiện tại lại phóng rất nhanh.

Sở Lưu Hương vỗ nhè nhẹ trên lưng ngựa, thân người tựa hồ đã thành một bộ phận trên mình ngựa.

Cho nên con lúc con ngựa tung vó, đơn giản tốc độ cũng như khi nó phi một mình.

Theo tình hình mà nói, tốc độ đó đáng lẽ đã có thể truy đuổi kịp cỗ xe đằng trước.

Một cỗ xe hai ngựa, trên xe còn có bao nhiêu người, vô luận là ngựa chạy nhanh tới đâu, tốc độ không thể nào nhanh hơn lúc bình thường.

Chỉ tiếc trên thế gian có rất nhiều chuyện không thể dùng lý mà nói.

Sở Lưu Hương đuổi cả nửa ngày cũng chưa bắt kịp cỗ xe, cả xe ngựa lẫn cát bụi tung bay đều theo ánh mặt trời hướng tây.

Đại lộ chia nhánh, một về hướng trái, một về bên phải.

Sở Lưu Hương dừng tại ngã ba đường, bên đường có một cây đại thụ, dưới cây đại thụ có một quán rượu nhỏ.

Quán rượu vắng tanh, chủ quán bán rượu lại là hai vợ chồng, trên lưng còn đèo theo một đứa bé.

Người chồng đã cỡ bốn mươi lăm tuổi, vợ lại còn rất trẻ tuổi.

Cho nên chồng có vẻ sợ vợ.

Cho nên chồng đèo con, vợ lại chỉ ngồi kế bên.

Sở Lưu Hương vừa xuống ngựa, người vợ đã đứng lên, cười chào khách:

- Mời khách quan vào uống rượu, ở đây có trúc diệp thanh thượng hạng.

Ả cười rất tươi, lại không phải là xấu xa khó nhìn, có lẽ đó là nguyên nhân tại sao chồng ả sợ ả.

Sở Lưu Hương lại nhìn ả một cái cũng không dám.

Thứ nhất, chàng chưa bao giờ có thói quen nhìn vợ người khác.

Thứ hai, gặp vận đào hoa hai ngày nay, chàng đã cơ hồ gần mất mạng, hiện tại chỉ cần là nữ nhân, chàng đã thấy có chút đáng sợ.

Chàng cố ý nhìn sang lão bản:

- Được, cho một bình rượu và đồ ăn.

Người vợ hỏi:

- Thịt bò được không ? Thịt đùi hay thịt sườn ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Được, cho thịt đùi.

Ngươi vợ lại hỏi:

- Nấu chín hay nấu tái ?

Sở Lưu Hương đáp:

- Sao cũng được.

Chàng có tập quán luôn luôn không tranh biện với nữ nhân, lúc đó lại thấy người chồng cười ngọt ngào, mang rượu thịt ra.

Trúc diệp thanh phải xanh, nhưng xem chừng lại vàng khè.

Thịt tối thiểu cũng đã cũ ba ngày.

Sở Lưu Hương vẫn không cằn nhằn, càng không tranh biện.

Mục đích tới đây không phải là uống rượu.

Chàng vẫn nhìn người chồng:

- Hồi nãy có cỗ xe ngựa đi ngang qua đây, các người có thấy không ?

Người chồng không trả lời, bởi vì lão biết vợ của lão thích nói chuyện, đặc biệt là thích nói chuyện với khách nhân.

Người vợ đáp:

- Nơi đây mỗi ngày có rất nhiều cỗ xe qua lại, không biết khách quan muốn nói cỗ xe nào ?

Chàng căn bản vốn chưa nhìn thấy cỗ xe đó hình dáng ra sao.

Người vợ chớp chớp mắt, lại nói:

- Hồi nãy có cỗ xe hai bánh phi ngang qua, chừng như ở nhà có người chết phải về chịu tang, cả dừng lại uống rượu cũng không dừng.

Ánh mắt Sở Lưu Hương phát sáng:

- Cỗ xe đó đi về hướng nào ?

Người chồng ngẫm nghĩ:

- Cỗ xe đó hình như đen sì, xem chừng đã quẹo trái ...

Người vợ trừng mắt nhìn lão, vừa cười vừa nói:

- Khách quan sao không ngồi xuống uống rượu, đợi tôi nghĩ cho kỹ.

Xem phương pháp buôn bán ở đây không phải là rượu ngon thịt tươi, mà là nụ cười của ả.

Phương pháp đó của ả luôn luôn rất hữu hiệu.

Chỉ tiếc lần này lại không linh nghiệm, lúc nụ cười của ả điềm mật nhất, Sở Lưu Hương cả người lẫn ngựa đã ra ngoài hai ba trượng, chỉ để lại một đĩnh bạc nhỏ. Chàng không muốn làm nữ nhân đó có ấn tượng quá tốt về chàng.

Người chồng cắn môi tiếc nuối:

- Nguyên lai là đi dự tang lễ siêu độ tống tử đó mà.

oo Hoàng hôn, sau hoàng hôn.

Đường đi càng ngoằn ngoèo khúc khuỷu, phảng phất đã đi sâu vào lòng núi.

Sắc trời bỗng âm u nặng nề.

Cánh rừng bao phủ mọi thứ, cả tinh quang nguyệt sắc cũng đều không thấy.

Sở Lưu Hương đột nhiên phát hiện mình đã lạc đường, không biết nơi đây là nơi đâu, cũng không biết con đường này dẫn đến đâu.

Dạ dày tới giờ bao nhiêu thức ăn vào lúc quá ngọ đã tiêu hóa hết, hiện tại co thắt không ngừng. Chàng tịnh không cần ăn uống, cho dù hai ba ngày không ăn gì, cũng tuyệt không gục ngã.

Hiện tại cho dù lần theo đường cũ mà về cũng không còn đuổi kịp, trên con đường đó chỉ có duy nhất một tiệm rượu ở ngã ba.

Từ đây về đó ít ra cũng tốn nửa canh giờ.

Chàng thở dài, nhìn bốn bên chỉ thấy bóng tối, sơn thạch âm trầm, nghe xa xa có tiếng gió vi vu, tiếng nước chảy róc rách ...

Chàng có cảm giác mình quả thật đã gặp xui tận mạng.

Nhưng ngươi xui nhất đương nhiên vẫn không phải là chàng, Ngải Hồng so với chàng còn xui hơn nhiều.

Nàng đã mất một bàn tay, lại bị người ta bắt cóc, cũng không biết ai bắt cóc nàng, càng không biết bắt cóc nàng mang đi đâu.

Còn có Ngải Thanh.

Tao ngộ của Ngải Thanh có lẽ càng bi thảm.

Sở Lưu Hương sờ sờ chót mũi, cười khổ.

Chàng bỗng phát hiện mình cũng là "họa thủy", nhũng cô gái đối tốt với chàng rất ít khi không gặp xui xẻo.

Tiếng nước chảy vang trong gió, giống như tiếng than thở bi ai của các cô gái.

Sở Lưu Hương vỗ vỗ bờm ngựa, lẩm bẩm:

- Xem ngươi cũng đã mệt, trước tiên đi kiếm nước uống đã.

Chàng đi đến bên dòng suối, nhìn thấy một căn nhà nhỏ bên một cây cầu nhỏ .

Tiểu kiều, lưu thủy, nhân gia.

Đó vốn là một bức tranh rất đẹp, một bức đồ họa rất có ý nghĩa.

Chỉ tiếc Sở Lưu Hương hiện tại không có chút nào muốn thưởng thức vẻ đẹp đó, nước miếng tràn trong miệng chàng, trên thế gian này bức đồ họa mỹ lệ nào cũng không thể so sánh với một chén cơm nóng ấm ruột.

Trên hàng rào trúc leo mấy dây hoa, song cửa vàng nhạt vẫn có ánh sáng rọi ra.

Trên nóc nhà khói bếp lảng vảng, trong gió ngoại trừ hương hoa ra, xem chừng còn có mùi nấu nướng, trừ tiếng nước chảy ra, còn có nhiều thanh âm khác. Bụng Sở Lưu Hương rồn rột, chàng nhảy xuống ngựa gõ cửa.

Người mở cửa là một lão đầu tử thấp lùn tiều tụy, không mở cửa liền, chỉ đứng sau cửa nhìn Sở Lưu Hương từ đầu xuống chân, ánh mắt chừng như một con thỏ sợ sệt.

Sở Lưu Hương mỉm cười:

- Tại hạ đi lạc đường, không biết lão trượng có thể cho ngụ lại đêm nay, đến sáng sớm ngày mai sẽ đi ngay, xin hậu tạ phí tổn.

Câu nói đó xem chừng hồi nhỏ chàng có nghe một vị thư sinh nói, hiện giờ không ngờ lại rất hữu ích, hơn nữa xem ra phảng phất rất hữu hiệu.

Chàng có cảm giác ký ức của mình quả thật không tệ.

Câu nói đó quả nhiên hữu hiệu, bởi vì cửa đã mở ra.

Lão đầu đó kỳ thực không già mấy, chỉ quá bốn mươi tuổi, đầu còn chưa bạc.

Lão tên là Bốc Đảm Phu, làm nghề đốn củi, có lúc cũng săn thú đổi rượu.

Hôm nay lão may mắn bắt được mấy con thỏ, cho nên tối nay đang uống rượu, uống cũng phải ăn, cho nên lại kêu bà vợ lão nấu vài món.

Lão cười cười:

- Có lẽ nhờ uống rượu cho nên mới có can đảm ra mở cửa, nếu không giữa canh ba nửa đêm, ta làm sao dám tùy tiện cho người lạ đi vào.

Sở Lưu Hương chỉ còn nước ngồi nghe, chỉ còn nước gật đầu.

Bốc Đảm Phu lại cười:

- Ta ở đây không có cái gì đáng tiền, chỉ có một đứa con gái đẹp đẽ.

Sở Lưu Hương bắt đầu có điểm cười không ra.

Hiện tại chàng cái gì đều không sợ, chỉ sợ nữ nhân đẹp.

Có người ham rượu, uống là nổi hứng.

Uống càng nhiều, hào khí càng nổi.

Mặt Bốc Đảm Phu đã trắng nhợt, nói lớn:

- Mau đem nửa con thỏ đó ra để uống rượu cho sướng chứ.

Trong nhà lại có tiếng truyền ra ba phần cằn nhằn, bảy phần kháng nghị:

- Nửa con thỏ đó lão nhân gia không phải muốn đợi đến mai mới ăn sao ?

Bốc Đảm Phu lắc đầu cười nói:

- Con gái tôi tên là A Quyên, cái gì cũng tốt đẹp, lại không ra ngoài thế gian, ta quả thật sợ tương lai của nó không cưới chồng được.

Sở Lưu Hương cả gật đầu cũng không dám gật, nghe chuyện cưới chồng của tiểu cô nương, chàng nào dám hồi đáp.

Một thiếu nữ vận quần áo thô cứng, không thoa phấn son, uyển chuyển bưng đồ ăn bước ra, cúi đầu.

Hơi thở dịu dàng, đặt chén đồ ăn trên bàn, lại cúi đầu bước đi.

Sở Lưu Hương tuy không dám nhìn, vẫn nhịn không được lén liếc một cái.

Bốc Đảm Phu tịnh không nói quá lời. Con gái của lão quả thật là một cô gái rất đẹp, tóc dài, mắt to tròn, chỉ bất quá sắc mặt chừng như đặc biệt trắng nhợt.

Con gái mắc cỡ bẽn lẽn đại đa số đều có dạng như vậy.

Nàng đã không dám gặp ai, đương nhiên cũng không thấy cả dương quang.

Sở Lưu Hương quay đầu, mới phát hiện Bốc Đảm Phu cũng đang nhìn chàng trân trân, mắt nheo nheo mỉm cười, vừa cười vừa hỏi:

- Ngươi thấy con gái ta ra sao ?

Người ta đã hỏi như vậy. Mình có không muốn trả lời cũng không thành.

Sở Lưu Hương vuốt vuốt chót mũi, cười đáp:

- Lão trượng đừng lo, nàng nhất định có thể cưới chồng.

Bốc Đảm Phu hỏi:

- Nếu nó không thể cưới ai, ngươi có cưới nó không ?

Sở Lưu Hương lại không dám trả lời, chỉ trách mình tại sao lại nhiều chuyện.

Bốc Đảm Phu cười lớn:

- Xem ra ngươi là người thành thật, không giống mấy tên lưu manh du đãng, ta kính ngươi một chén, thời nay thanh niên thành thật như ngươi cũng không có nhiều.

Bốc Đảm Phu đã say.

Một người dám cùng Sở Lưu Hương uống rượu, nghĩ không say cũng không được.

oo "Xem ra ngươi là người thành thật, không giống mấy tên lưu manh du đãng, ta kính ngươi một chén, thời nay thanh niên thành thật như ngươi cũng không có nhiều".

Sở Lưu Hương cơ hồ nhịn không được phải phì cười.

Chàng có khi được người ta xưng là đại hiệp, lại có khi bị người ta coi là cường đạo, cũng có khi người ta tôn là quân tử, có khi lại bị người ta xem là lưu manh. Nhưng được người ta khen là người "thành thật", vẫn là lần thứ nhất trong đời.

"Lão nếu biết ta thành thật ra sao, nhất định hoảng sợ nhảy dựng lên ba trượng".

Sở Lưu Hương mỉm cười nằm xuống.

Nằm trên đống rơm.

Thứ nhà như vầy đương nhiên không có phòng khách, cho nên chàng cũng chỉ còn nước ngủ ở phòng chất củi một đêm. Vô luận ra sao, chỗ này vẫn có mái che, so với giữa đường đầu trần vẫn tốt hơn nhiều.

Chàng nếu biết mình sẽ gặp chuyện gì ở đây, có thể đã thà ngủ ở cống rãnh cũng không chịu ngủ ở đây.

Đêm đã khuya, bốn bề vắng lặng.

Thâm sơn như vầy luôn luôn mang đến sự tĩnh mịch đáng sợ, người hồng trần tuyệt không thể tưởng tượng được.

Tuy có gió thổi lùa, lá cây xào xạc, nhưng cũng chỉ bất quá lại càng làm cho sự tĩnh mịch thêm phần thê lương.

Ngày dài đã trải qua quá nhiều chuyện thê lương, đến tối không khí lại thê lương như vầy, nằm dài trong phòng chất củi của người lạ, làm sao Sở Lưu Hương ngủ yên được.

Chàng bỗng nhớ đến lúc nhỏ thường nghe vị thư sinh đó kể chuyện.

"Một thư sinh trên đường lên kinh ứng thí, giữa đường lạc bước, thấy một căn nhà trơ trọi giữa thâm sơn, lão chủ nhân hiếu khách nhân từ, còn có một cô con gái mỹ lệ".

"Chủ nhân thấy thiếu niên học vấn có nhiều hứa hẹn, muốn gả con gái cho hắn.

Hắn cũng nửa muốn nửa do dự, cho nên đêm đó đã thành thân".

"Sang sáng ngày hôm sau, hắn mới phát hiện mình ngủ trên một nhà mồ, tân nương tử bên cạnh đã biến thành một bộ xương, vẫn còn đeo cái vòng ngọc sính lễ hắn tặng trên cổ tay".

Sở Lưu Hương luôn luôn có cảm giác chuyện cổ tích đó rất thú vị, hiện tại bỗng phát giác không còn mấy thú vị.

Gió vẫn vi vu, lá cây vẫn xào xạc ...

Thâm sơn như vầy, làm sao lại có một hộ nhân gia như vầy ?

"Sáng sớm mai, khi ta tỉnh dậy, có phải sẽ phát hiện đang nằm trên một ngôi mộ ?".

Đương nhiên là không, đó chỉ bất quá là cố sự hoang đường.

Sở Lưu Hương lại mỉm cười, nhưng cũng không biết vì sao, trên lưng chàng có cảm giác đã toát mồ hôi lạnh.

Cũng may Bốc Đảm Phu không miễn cưỡng muốn đem con gái gả cho chàng, nếu không lúc đó chỉ sợ đã phải tông cửa bỏ chạy.

Gió càng mạnh, song cửa kẽo kẹt.

Ánh trăng chiếu qua song cửa sổ, trắng nhợt giống như mặt A Quyên tiểu cô nương.

Sở Lưu Hương lẳng lặng đứng lên, lẳng lặng mở cửa muốn hít thở không khí trong vườn.

Chàng vừa mở cửa, đã thấy một chuyện cả đời chàng vĩnh viễn không quên được.

Chàng chỉ hy vọng mình vĩnh viễn không mở cánh cửa đó.

Ánh trăng chiếu khắp nơi, ánh trăng trắng nhợt.

A Quyên cô nương đang ngồi dưới ánh trăng lẳng lặng chải đầu, cũng không thể coi là chuyện kỳ quái gì, càng không thể coi là đáng sợ.

Nhưng phương pháp chảy đầu của A Quyên lại rất đặc biệt.

Nàng đem đầu mình đặt xuống, đặt trên mặt bàn, tay cầm lược chải mái tóc dài tha thướt.

Ánh trăng chiếu trên khuôn mặt trắng nhợt của nàng, bàn tay trắng nhợt. Đầu trên bàn, người không đầu.

Toàn thân Sở Lưu Hương lạnh như băng, từ ngón tay cho đến ngón chân tê cứng.

Cả đời chàng chưa từng gặp qua chuyện quỷ bí đáng sợ như vậy.

Thứ chuyện đó vốn chỉ phát sinh trong cố sự hoang đường nhất, chàng nằm mộng cũng không tưởng tượng được mình tận mắt chứng kiến.

Đầu của A Quyên cô nương bỗng quay lại, tay nàng bưng đầu nàng quay mặt đối diện Sở Lưu Hương, lạnh lạnh lùng lùng nhìn Sở Lưu Hương.

"Ngươi dám nhìn lén ?".

Bốn bề không có ai khác, thanh âm đó đích xác là từ miệng của cái đầu người trên bàn phát ra.

Đảm khí của Sở Lưu Hương luôn luôn rất to, luôn luôn không sợ tà ác, vô luận gặp chuyện gì đáng sợ tới cỡ nào, tay chân chàng đều không mềm nhũn.

Nhưng hiện tại chân chàng đã có chỗ mềm nhũn. Chàng muốn thoái lui, mới thoái lui một bước, trong bóng tối đột nhiên có một bóng đen phóng ra.

Một con chó mực. Con chó mực đó phóng lên bàn, há miệng ngoạm lấy cái đầu người trên bàn.

Đầu người đã bị chó ngoạm, vẫn hô vang:

- Cứu ... cứu ... cứu ta ...

A Quyên không còn đầu. Người không đầu không ngờ cũng hô thảm:

- Trả đầu cho ta ... trả đầu cho ta !Bích Huyết Kiếm - Hồi 2 : Tám phương hội anh tuấn

Ngày hôm sau là ngày Tết Trung thu, nên hôm đó Triều Tôn với Bàng Cử theo mọi người lên núi thật sớm. Khi đi tới lưng núi thì vừa đúng giờ ngọ đã có mười mấy người khiêng sẵn cơm nước ở đó chờ đợi rồi, nhưng các món ăn đều là món chay hết. Mọi người ăn uống xong, nghỉ ngơi một lát rồi lại tiếp tục đi luôn.

Từ chỗ nghỉ chân lên tới đỉnh núi, suốt dọc đường đều có trạm canh và khám xét rất nghiêm ngặt. Khi bị khám xét tới bọn Triều Tôn ba người, thì Trọng Thọ tiến lên gật đầu một cái, người canh gác để cho đi qua. Triều Tôn nghĩ thầm: "Nguy nan thật, nếu tối hôm qua không trò chuyện với Trọng Thọ thì ngày hôm nay chưa biết số phận mình sống chết ra sao?"

Đến lúc chiều tà mới lên tới đỉnh núi. Mấy trăm hảo hán, cao có, thấp có, đã xếp hàng đứng nghênh tiếp mọi người. Có một người vừa cao vừa mập, vạm vỡ khác thường, hình như là thủ lãnh của nhóm người ra đón, thấy Tô Trọng Thọ, vội tiến tới đó chào. Rồi, hai người dắt tay nhau cùng đi vào trong nhà. Triều Tôn thấy trên núi thưa thớt có mấy chục nóc nhà. Căn lớn nhất hình như là một ngôi chùa hoặc miếu. Những căn nhà đó không phải là nhà thường dân, mà cũng không giống sơn trại nào của giặc cướp. Vì không có một căn nào xây lầu canh pháo lũy cả.

Ở dưới núi, Bàng Cử đã thấy kiểu cách của các người ấy khác những đám giặc cỏ mọi nơi, thì chắc trên sơn trại thế nào cũng hùng vĩ lạ thường, nhưng có ngờ đâu lại sơ sài nghèo nàn đến thế! Chàng phân vân không hiểu những người này là hạng người gì?

Chàng nghĩ thầm: "Mình lăn lộn trong đám giang hồ chẳng gì cũng đã được mấy năm trường. Việc gì chẳng mục kích qua? Trường hợp nào chẳng có mình dự qua? Nhưng lần này có điều lạ nhất là những người này phần nhiều ở nơi xa xôi hàng nghìn vạn dặm tới. Khi gặp nhau, thái độ của họ thân mật như anh em ruột thịt, mà sắc mặt thì buồn bực phẫn uất, không thấy một người nào tươi cười vui mừng cả?"

Triều Tôn và ba người được dẫn vào nghỉ một căn phòng nhỏ. Một lát sau, có người bưng cơm nước tới. Có bốn món chay và hơn 20 cái bánh mì hấp (Người phía Bắc Trung Hoa ăn bánh mì hấp thay cơm). Đêm hôm đó, Triều Tôn cùng Bàng Cử bàn tán thầm thì. Cả hai đều không hiểu những người kia quy tụ trên núi này làm gì? Ngày hôm sau là ngày 16 tháng 6, hai người vừa ăn điểm tâm xong, ra ngoài dạo chơi quanh núi thấy đâu đâu cũng có những đại hán lạ mặt, có kẻ mặt đầy những sẹo vết thương, có người què chân cụt tay, đều là chiến trường trải, phong sương lịch duyệt cả. Hai chàng sợ người ta nghi kỵ lại sinh tai bay vạ gió thì nguy, nên vội trở về phòng ngay, cả ngày không dám ra khỏi phòng.

Hôm đó bốn bữa ăn đều toàn những món chay cả. Bàng Cử rủa thầm: "Chúng làm chay cúng cha cúng tổ, mặc chúng! Tại sao lại bắt buộc cả tụi mình phải ăn nhạt theo chúng thế này?"

Tới lúc hoàng hôn, bỗng tiếng chuông vang tai inh ỏi, có một người vào mời.

- Tổ tướng công mời quí vị lên trên điện xem làm lễ.

Triều Tôn và Bàng Cử theo người đi liền. Hầu Khang cũng định đi theo, người kia vội xua tay:

- Cậu em ở lại. Đi ngủ sớm còn hơn.

Triều Tôn và Bàng Cử theo người kia đi vòng qua mấy căn nhà ngói, đến một ngôi miếu.

Triều Tôn ngửng đầu thấy trên cửa có treo một tấm hoành phi đề ba chữ "Trung Liệt Từ", chàng nghĩ thầm: "Đây là căn từ đường, không hiểu họ thờ những ai thế?"

Xuyên qua gian ngoài và sân giữa thấy hai bên đều có để giá bày võ giới. Nào đao kiếm thương kích đủ thập bán ban, cái nào cái nấy đều lau chùi bóng lộn choáng mắt.

Vào tới đại điện, hai chàng thấy có ngót ba ngàn người, ngồi đông kín cả điện. Giựt mình hoảng sợ, hai chàng ngạc nhiên vì trên hoang sơn này sao lại tụ họp được nhiều người đến thể?

Triều Tôn nhìn lên bàn thờ thấy thờ một pho thần tượng, khôi giáp đàng hoàng ngoài phủ một cẩm bào, tay trái cầm bảo kiếm nhà vua, tay phải một cờ lệnh mặt xương xương, râu ba chòm, trông rất oai nghi, nhìn thẳng về phía trước có vẻ lo âu.

Hai bên có bầy hai hàng bài vị, vì đứng xa quá, nên chàng không trông thấy rõ những tên họ viết trên linh vị đó.

Mọi người đều phủ phục vái lạy. Một tiểu đội mặc áo đại tang tiến trước mặt mọi người, rồi phục xuống đất đáp lễ. Triều Tôn và Bàng Cử đều giựt mình vì thấy tiểu đồng ấy lại là tên mục đồng giết cọp đêm qua.

Mọi người vái lễ xong rồi đứng dậy, ai nấy nước mắt ràn rụa vẻ mặt đầy phẫn uất. Trọng Thọ nói với Triều Tôn:

- Hầu huynh tài hoa xuất chúng xin sửa chữa dùm cho những câu văn viết sai trong văn tế mà đệ đã soạn thảo.

- Dạ, đệ không dám nhận những lời quá khen ấy.

Trọng Thọ sai người đem văn phòng tứ bảo ra và nói tiếp:

- Sở dĩ tiểu đệ mời Hầu huynh lên đây cũng vì muốn nhờ vả đến tài ba của Hầu huynh để làm cho công luân của Nguyên nhung chúng tôi được vẻ vang thêm.

Triều Tôn khó xử quá, vì biết Vua Sùng Chính đã bị trúng kế phản gián của quân Thanh mà đem Viên Sùng Hoán ra xử trảm, thiên hạ ai ai cũng biết ông này bị oan. Nhưng đó là Thánh chỉ của nhà Vua, nếu người nào đứng ra minh oan cho ông ta sẽ mang tội phạm thượng và bị xử tử ngay, biết rõ như thế nhưng nay Trọng Thọ nhờ vả tới, không lẽ chẳng chối từ.

Dù sao chàng cũng là một văn nhân, nên chỉ nghĩ ngợi giây phúc rồi cầm bút viết luôn: "Tiến quân sắp tới Hoàng Long, Nhạc Nguyên soái đã bị thác oan. Nhà Hán đang phục hưng, Gia Cát quân sư đã vội lánh trần. Ô hô! Ai tai! Thượng hương!" Chàng lấy cố nhân ra vị văn tế này nếu có lỡ lọt vào tay nhà vua, thì cũng không thể khép tội cho chàng được.

Trọng Thọ thấy Triều Tôn hạ bút như rồng bay phượng múa mừng lắm. Và Tôn lại ví Viên Sùng Hoán như Gia Cát Khổng Minh và Nhạc Phi thật là ca ngợi hết bề nói. Mà sự thực cảnh ngộ của Viên Đốc Phủ cũng hơi giống cảnh ngộ của Nhạc Nguyên Soái, chứ không phải chàng tâng bốc bậy. Trọng Thọ giải nghĩa mấy câu đó cho mọi người hiểu. Ai nấy đều đồng thanh cám ơn và tỏ vẻ có thiện cảm với Triều Tôn và Bàng Cử, không coi hai người như khách lạ nữa.

Trọng Thọ lại nói:

- Văn bút của Hầu huynh quả thật khác thường. Huynh dùng hai vị thánh hiền Gia Cát và Nhạc Vũ Mục để ví, khiến Nguyên Nhung chúng tôi ở dưới chín suối cũng được hân hạnh vô cùng. Lát nữa đệ sẽ cho người khắc mấy câu nói đó vào bia đá dựng trước cửa miếu.

Triều Tôn vội bái tạ.

Hành lễ xong, mọi người ngồi về chỗ cũ. Người xướng lễ lại lên tiếng hô: "Mỗ Dinh, X Tướng quân," hoặc là "Mỗ trấn, Y Tổng Binh."

Cứ mỗi lần hô xong một danh tánh chức vị nào lại có một người đứng lên trình diện và báo cáo. Nghe thấy chức hạ cũ của Viên Sùng Hoán. Sau khi Viên tướng quânbị hãm hại, các bộ hạ tản mát đi bốn phương. Rồi hàng năm đúng ngày, đúng giờ họ đến núi Lão Ô này tụ họp, để làm lễ tưởng niệm vị chủ tướng cũ.

Những lời báo cáo của họ, có tới tám chín mươi phần trăm chàng Triều Tôn không hiểu. Hình như họ còn mưu toan sự gì nữa. Khi người xướng lễ hô tới tên: "Kế Trấn Phó tổng binh Châu An Quốc."

Có một người đứng dậy, Triều Tôn và Bàng Cử đều giật mình, ngạc nhiên. Người đó chính là người nông dân đã đưa Tôn và Cử vào ẩn núp trong hang núi.

Bàng Cử nghĩ thầm: "Không ngờ y lại là một danh tướng đã đánh bại giặc Liêu Ninh. Như vậy mình thua ông xa."

Châu An Quốc nói:

- Còn nội một năm năy, tiểu chủ đã tiến bộ về võ nghệ, và cũng đã đọc được rất nhiều cuốn sách. Võ nghệ của tôi và của hai chú La, Ngụy đều truyền thụ hết cả cho Công tử rồi. Xin các vị đề cử danh sư khác cho.

Trọng Thọ nói tiếp:

- Trong nhóm anh em chúng ta, chẳng còn ai võ nghệ quật cường bằng ba vị!

Vậy Châu tướng quân đừng nên khiêm tốn mà chối từ nữa.

- Tiểu chủ thông minh lạ thường, mới chỉ bảo qua loa mà cậu ấy đã hiểu ngay. Tất cả tài nghệ của chúng tôi đều đã đem ra dạy cho cậu ấy hết cả rồi. Thật quả phải mời vị danh sư khác dạy bảo, để khỏi lỡ mất thời giờ quý báu của cậu ấy đi.

- Thôi được, việc này để lát nữa sẽ bàn định sau. Còn vụ tiêu diệt kẻ gian phi, có kết quả gì không?

Người họ Ngụy đã giết chết mãnh hổ, liền đứng dậy tường trình:

- Tháng trước, La tướng quân theo dõi tên gian tặc họ ôn, tới Triết Giang thì diệt được y. Còn tên gian tặc họ Sử thì 10 ngày trước đây đã bị tôi giết chết tại Tràng An. Hai thủ cấp của chúng đều có cả ở đây.

Nói đoạn, y mở cái túi vải để dưới đất, lấy hai cái đầu lâu ra. Mọi người đều phẫn nộ, hô lớn: hoan nghênh. Và cũng có một số người nghiến răng nguyền rủa hai cái thủ cấp đó.

Trọng Thọ đặt hai cái đầu gian tặc lên trên bàn thờ, rồi quỳ xuống khấn vái. Tới lúc này Triều Tôn mới biết hai cái đầu người mà đêm nọ mình trông thấy trong hòm áo là thủ cấp của kẻ thù nhà họ Viên. Chắc hai người này là kẻ gian đã liên can vào vụ hãm hại Viên Sùng Hoán. Lúc đó, lại có vài người đêm những thủ cấp khác ra trình.

Thế là trên bàn thờ bày la liệt mười mấy cái đầu người.

Nghe lời báo cáo của họ, trong những đầu lâu này có một cái là đầu của quan Ngự sử đương thời, họ Triều Tôn đã được cha kể truyền cho nghe, quan Ngự sử này đã tâu với vua, vu oan cho Viên Sùng Hoán là mãi quốc cầu vinh, tư thông với địch, nên y bị cho quan thanh liêm khinh miệt. Vì vậy, ngày nay y mới bị bộ hạ của Viên Sùng Hoán giết chết. Mọi người báo cáo xong, Trọng lại lên tiếng:

- Thù lớn của chúng ta chưa báo xong, vua thái của Sát Từ (Mãn Thanh) và vua Sùng Chính vẫn còn tồn tại. Vậy các vị có cao kiến gì để trả thù cho Đại soái của chúng ta không?

Một người lùn đứng dậy nói:

- Tổ tướng công!

Tiếng nói của y lớn như tiếng sấm. Triều Tôn và Bàng Cử không ngờ người y bé nhỏ như vậy mà tiếng nói lại lớn đến thế đều phải giựt mình kinh ngạc.

Tổ Trọng Thọ trả lời:

- Chẳng hay Triệu tống binh có ý kiến gì? Xin cứ phát biểu.

Người lùn đó nói:

- Theo ý tôi...

Chưa dứt lời, bỗng có một người từ ngoài cửa hấp tấp chạy vào bẩm rằng:

- Bẩm, Lý Tự Thành tướng quân có sứ giả vào hầu kiến.

Mọi người thấy nói đến ngạc nhiên bàn tán ầm ỹ.

Trọng Thọ nói:

- Triệu tổng binh hãy khoan phát biểu. Chúng ta ra đón sứ giả của Lý tướng quân trước đã.

Triệu tổng binh:

- Xin tuân lệnh.

Nói đoạn, y đảo chân đi ba bước. Mọi người đều đứng dậy. Cánh cửa lớn mở rộng và một bàn tay cầm bó đuốc đứng sang hai bên, rồi có ba người bước vào. Bàng Cử ở Thiểm Tây đã nghe danh Lý Tự Thành từ lâu. Biết y làm phản, giết quan quân, oai thế rất lớn nên chàng muốn coi xem bộ hạ của y là những hạng anh hùng hảo hán nào?

Chàng thấy một người đi trước thời ngoài 60 tuổi, mặt rỗ tóc rối bù, mặc quần áo bóng cũ rách cả khuỷu tay và dưới đầu gối, chân đi đôi giày cỏ, không khác gì một tên công dân thường ở tỉnh Thiểm Tây.

Hai người đi theo sau, một người ngoài 30 tuổi, mặt trẳng trẻo trông nho nhã tuấn tú, ăn mặc gọn ghẽ, tỏ vẽ văn nhân và một người nữa, ngoài 20 tuổi, thân hình vạm vỡ, da mặt ngăm đen, ăn mặc theo lối nông dân. Người đi đầu tiên thẳng tới trước bàn thờ rồi đứng yên. Người mặt trắng lấy hương nến trong bọc áo ra, thắp lên và cắm vào bát hương. Rồi cả ba cùng quỳ xuống vái. Tiểu mục đồng quỳ cạnh bàn thờ đáp lễ. Ba người lễ xong. Người mặt rỗ lớn tiếng nói:

- Lý Tự Thành tướng quân chúng tôi được biết Viên đại nguyên soái ở Liêu Đông đã đánh lui quân Sài Tứ, lập công lớn, nên Tướng quân chúng tôi rất thán phục. Sau lại hay tin Viên đại nguyên soái bị nhà Vua nghe lời vu oan, giết chết. Thiên hạ bá tánh ai ai cũng đều căm hận. Bấy giờ quan buộc dân làm loạn, chúng tôi đói rét quá, đành phải kháng cự, không chịu nộp lương và giết quan quân. Cầu anh linh của Viên đại nguyên soái phù hộ chúng tôi đánh lên Bắc Kinh. Bắt tất cả nhà Vua và bè lũ gian tham, đem ra giết hết, để trả thù cho Viên đại nguyên soái và dân chung của thiên hạ.

Nói xong, y lại vái mấy cái.

Mọi người thấy sứ giả của Lý Tự Thành tôn trọng Đại nguyên soái của mình đến thế, ai nấy đều có thiện cảm với người ấy. Tổ Trọng Thọ tiến lại gần, chấp tay chào và nói:

- Chúng tôi rất cảm ơn quý thịnh tình. Xin ngài cho biết cao tính danh là gì?

- Tôi là Lưu Nhất Hổ, Lý tướng quân chúng tôi hay ngày hôm nay là ngày giỗ kỵ của Viên đại nguyên soái, thế nào quí vị cũng tới sùng lễ, nên sai tôi đến đây đại diện dự lễ và để cùng quý vị tương kiến.

- Dạ, tôi là Tổ Trọng Thọ.

- Thế thì Tướng quân là lệnh đệ của Tổ đại tướng quân đấy! Anh danh của Tổ đại tướng quân lừng lẫy bốn phương, chúng tôi rất bái phục!

Hai người đang trò chuyện, người tùy tùng mặt đen của Nhất Hổ bỗng thấy đứng chặn ngay cửa giữa.

Xuất kỳ bất ý, mọi người cùng ngơ ngác không hiểu có chuyện gì đã xảy ra, ai nấy đều đứng dậy.

Lúc ấy người thiếu niên mặt đen chỉ thẳng vào mặt hai người đứng lẫn trong đám người tới dự lễ mà quát rằng:

- Hai ngươi là bộ hạ của Tào thái giám, đến đây để làm gì?

Lời của y vừa dứt, mọi người đều kinh ngạc. Thì ra sau khi Vua Sùng Chính xử trảm Ngụy Trung Hiền và Khách Thị rồi, trong triều đình nghịch đảng đã bị quét sạch. Nhưng tính vua hay đa nghi, không tín nhiệm một vị đại thần nào cả, mà chỉ tin dùng có tên Thái giám theo hầu từ hồi nhà vua còn là Thái tử. Thái giám ấy tên là Tào Hóa Thuần. Y là thủ lãnh đội vệ sĩ của nhà Vua, chuyên môn phụ trách mặt điều tra các quan văn võ trong triều hoặc ở khắp nơi.

Tên tuổi của Tào thái giám không ai không biết tới. Cho nên người thanh niên mặt đen vừa quát hỏi xong, mọi người đều giựt mình sợ hãi.

Hai người kia, một người cằm tua tủa mọc râu vàng, tuổi ngót 40. Còn người nọ, mặt trắng, không râu, nhưng béo mập và lùn. Người béo lùn biết sắc mặt, nhưng y trấn tỉnh lại ngay, rồi vừa cười vừa nói:

- Ông hỏi tôi đấy ư? Xin ông đừng nói bông, nói đùa như vậy!

Người thanh niên mặt đen lại quát:

- Hừ; Ta thèm nói bông nói đùa à! Hai người ở lại điếm lén lút bàn tán, định vào trong núi này nằm vùng, rồi sai người đi báo cáo cho Tào thái giám hay, để đem quân đến vây bắt tất cả. Ta đã nghe rõ hết những lời bàn bạc của hai ngươi.

Tên râu vàng rút luôn đơn đao ra, định xông lại thí mạng với người thanh niên mặt đen. Nhưng tên mặt trắng béo mập kia vội cản lại, rồi nói:

- Lý Tự Thành định dụ dỗ anh em trên núi nhập bọn với y. Điều này ai cũng biết cả. Bây giờ các ngươi muốn đến đây làm ly gián anh em chúng ta không được đâu!

Tiếng nói của y nhỏ bé, giống hệt giọng nói của các vị Thái giám. Tuy vậy, lời nói của y cũng làm cho ý chí một số người bị lung lay; họ hoài nghi ba người sứ giả của Lý Tự Thành không phải thật tâm đến để dự lễ cúng kỵ Viên tướng quân.

Lưu Nhất Hổ tuy xuất thân ở nông dân nhưng dầu dự rất nhiều trận chiến, trở nên điêu luyện thành con người gan thép, nên rất tinh khôn và minh mẫn. Chàng thấy sắc mặt biến đổi của nhiều người, biết ngay lời nói của tên mặt trắng đã có hiệu lực liền đứng dậy thét hỏi:

- Ngài là ai? Có phải là bạn hữu của Sơn Tôn này không?

Hỏi trúng chỗ yếu, người kia không trả lời được.

Tổ Trọng Thọ cũng thét hỏi:

- Bạn có phải là bộ hạ cũ của Viên đại soái không? Tại sao tôi chưa hề gặp bạn bao giờ? Bạn là thủ hạ của vị Tổng binh nào?

Người mặt trắng biết việc đã bại lộ, liền đưa mắt ra hiệu với tên râu vàng. Cả hai cùng nhảy tới phía cửa giữa. Tên râu vàng dùng thế "Cực Lịch Hoa Sơn" chém thẳng một đao vào mặt thanh niên mặt đen. Tên mặt trắng nọ, trông như nam bán nữ, nhưng hành động của y cũng nhanh nhẹn lạ lùng. Y rút luôn đôi bút Phán Quan ở trong tay áo ra, nhắm ngay giữa ngực thanh niên mặt đen điểm tới. Vì tỏ thái độ tôn sùng, đến đây chỉ có mục đích dự lễ tế Viên Sùng Hoán, chàng thanh niên mặt đen không đem theo khí giới. Mọi người thấy chàng tay không tình thế có vẻ nguy ngập, liền có bảy, tám người võ giỏi vô địch xông tới cứu chàng.

Ngờ đâu võ nghệ của chàng cũng cừ khôi lắm, tay trái nhanh như gió giở miếng "Cầm Nã thủ" nắm luôn cổ tay tên râu vàng. Đồng thời, tay phải của chàng duỗi thẳng hai ngón tay trỏ và giữa đâm thẳng vào hai mắt của tên mặt trắng. Hai tác động của chàng tuy phát động sau, nhưng lại tới trước. Tên râu vàng và tên mặt trắng đều hoảng sợ, phải lùi lại thủ thế ngay. Mọi người thấy chàng thanh niên chỉ một miếng võ đã chuyển từ thủ ra công ngay.

Ai nấy đều dừng bước, khen ngợi thầm. Hai tên kia thấy không thể xông ra nổi bên ngoài, biết mình ở trong hang hổ, tình thế nguy ngập vô cùng, nên vừa lui một bước, cả hai nhất loạt tiến lên. Thanh niên mặt đen chỉ dùng song chưởng, tả xông hữu đụt, ra vào trong đơn đao và song bút.

Chàng tấn công nhiều hơn thủ thế. Hai tên kia mấy lần định tiến tới ngưỡng cửa, nhưng lại đều bị chàng nọ dồn lui trở lại.

Tên mặt trắng nóng ruột thay đổi luôn luôn bút pháp. Cặp bút của y đâm ngang, điểm dọc. Miếng nào cũng nhằm những yếu huyệt của chàng thanh niên mà tấn công.

Còn khách râu vàng thì áp dụng đao pháp của Võ Thắng môn Sơn Tây. Đứng theo lối trung bình tấn, đao nào của y cũng nhằm hạ thổ địch mà trảm. Thấy tình thế của thanh niên nọ nguy cấp, mọi người định xông lại giải cứu. Nhưng ai nấy thấy Lưu Nhất Hổ có vẻ trấn tĩnh lạ thường, nên cũng yên trí ngồi xuống xem họ tiếp tục tranh đấu. Mọi người nghĩ thầm: "Người cùng đi với họ mà không lo ngại thì tất nhiên họ phải như thế nào mới bình tĩnh như thế được. Ta hãy ngồi xem kết quả ra sao."

Ba người tiến lên, lùi xuống, tung hoành trong điện. Thấy lúc đang hăng hái chiến đấu, khách râu vàng bỗng kêu tiếng với giọng bi đát, đơn đao của y tuột tay bay vàođám đông người. Châu An Quốc nhảy lên bắt lấy chiếc đơn đao ấy. Ngay lúc đó người thanh niên mặt đen tiến lên một bước, giơ chân trái đá tên râu vàng ngã xuống. Trong lúc chân trái của chàng chưa thâu về, chân phải lại thừa thế đá luôn tên mặt trắng. Tên này võ nghệ khá hơn, nên y khòm lưng, thót bụng lại tránh miếng đá đó và đồng thời song bút của y phản điểm lại giữa ngực của địch. Nhưng tay phải của thanh niên mặt đen nhanh như chớp nhoáng, đột nhiên nắm lấy ngọn bút bên trái của tên mặt trắng. Rồi vặn mạnh một cái, chàng đã cướp được cây bút sắt của kẻ địch. Lúc ấy, cây bút bên phải của tên mặt trắng đã điểm tới, nhưng nhanh như cắt, chàng thanh niên liền dùng cây bút vừa giựt được gạt ngang luôn. Hai bút va chạm nhau "keng" một tiếng, bật đom đóm lửa lên. Tên mặt trắng bỗng cảm thấy hổ khẩu tay đau đớn lạ lùng, và cây bút cũng rời khỏi tay. Chàng thanh niên mặt đen cười khoái trá, tay phải túm luôn ngực kẻ địch và nhấc bổng lên, tay trái của chàng kéo luôn quấn của tên mặt trắng ra.

Đang khi mọi người đều ngạc nhiên, thanh niên mặc đen vừa cười vừa nói:

- Đây, xin quí vị lại gần chứng kiến xem y có phải là Thái giám không?

Lúc này mọi người mới hiểu tại sao người thanh niên mặt đen lại có cử chỉ lạ lùng như thế. Ai nấy cùng nhìn thẳng vào người tên mặt trắng. Quả thật y đã bị hoạn tất.

Mọi người đều cười ồ và xúm đông lại xem. Thấy chàng thanh niên mặt đen giải quyết rất nhanh chóng chứng tỏ võ nghệ chàng rất cao cường, ai nấy đều kính phục.

Lúc ấy bây giờ đã có người đến đè đầu hai tên gian tiếp xuống. Tổ Trọng Thọ quát hỏi:

- Tào thái giám phái hai người đến đây làm gì? Có bao nhiêu đồng đảng? Và trà trộn vào đây bằng cách nào?

Hai tên nọ làm thinh không trả lời. Trọng Thọ đưa mắt ra hiệu, La tham tướng giơ đơn đao lên, chỉ trong nháy mắt đã hạ luôn thủ cấp của hai tên gian phi và đặt lên trên bàn thờ. Trọng Thọ chắp tay vái chào Lưu Ninh Hổ và nói rằng:

- Nếu ba vị không lột mặt nạ của bọn gian tặc kia giúp cho thì họa lớn đến nơi chúng tôi cũng không hay.

Lưu Nhất Hổ vội đáp lời:

- Việc này chỉ là một sự ngẫu nhiên. Chúng tôi gặp bọn chúng ở dọc đường. Thấy chúng nó có nhiều điểm khả nghi nên chúng tôi để ý theo dõi. Đêm hôm qua, theo chúng vào một khách sạn, chúng tôi mới khám phá được tung tích của chúng.

Trọng Thọ nói với hai người tùy tòng của Nhất Hổ rằng:

- Hai vị quí danh là gì?

Người mặt mũi tuấn tú tự xưng họ Điền và người thanh niên mặt đen là họ Thôi.

Châu An Quốc tới gần nắm tay thanh niên mặt đen tỏ tình thân thiện và khen ngợi luôn miệng.

Nhất Hổ, Trọng Thọ và mấy vị thủ lãnh dắt nhau vào nhà trong đàm thoại bí mật.

Nhất Hổ phát biểu rằng:

- Lý Tự Thành tướng quân mong được liên minh với quí vị để đánh đổ nhà Minh.

Các bộ hạ của Viên Sùng Hoán trù trừ chưa dám quyết định. Sau cùng Trọng Thọ nói:

- Hành động của chúng ta đã bị Tào thái giám biết rồi. Nếu không liên minh với Lý tướng quân đề cử đại sự thì làm sao mà trả thù cho Viên nguyên soái và giết vua Sùng Chính được. Lỡ Tào thái giám phái quân đi khắp nơi đón giết chúng ta thì sao?

Mọi người nghĩ lại cũng phải, nên cuộc liên minh với Lý Tự Thành được giải quyết xong ngay.

Bên trong mọi người thương lượng liên minh đại kế.

Ngoài điện Châu An Quốc và Đả Hổ Anh Hùng Ngụy Hạo kéo thanh niên mặt đen Thôi Sơn ra một nơi tĩnh mịch trò chuyện.

Châu An Quốc nói:

- Thôi đại ca, hôm nay chúng ta tuy mới gặp nhau lần đầu nhưng nhất kiến vị của đại ca đừng coi chúng ta như người ngoài.

Thôi Thu Sơn trả lời:

- Hai vị đại ca trước kai đánh quân Thanh bảo vệ dân chúng, đệ xưa nay khâm phục lắm. Hiện nay đệ lại được hân hạnh gặp quý bạn anh hùng trên Sơn Tôn này, đệ rất lấy làm sung sướng.

Ngụy Hạo nói:

- Tôi nói câu này hơi đường đột xin đại ca thứ lỗi cho. Chẳng hay đại ca học vị danh sư nào?

Thôi Thu Sơn, hai mắt bỗng đỏ ngầu, trả lời:

- Gia sư là Nhất Thanh Lôi Trương Bạch Đế qua đời đã từ lâu năm rồi!

Châu An Quốc và Ngụy Hạo đưa mắt lên nhìn nhau trong lòng tỏ vẻ hoài nghi. Song Ngụy Hạo tính tình thẳng thắn, không nhịn được, nói liền:

- Nhất Thanh Lôi Trương lão tiền bối, chúng tôi ngưỡng mộ đã lâu, nhưng có một câu này xin Thôi đại ca chớ khiển trách, võ nghệ của Trương lão tiền bối tuy cao cường thật nhưng hình như còn kém Thôi đại ca xa.

Thôi Thu Sơn lẳng lặng không nói nửa lời. Thấy vậy, Châu An Quốc lại nói:

- Trò giỏi hơn thầy, đó cũng là lẽ thường. Nhưng vừa rồi, tôi thấy thân pháp và thủ pháp của Thôi đại ca trong lúc triệt hạ hai tên gian tế thì hình như đại ca còn được sự chân truyền khác.

Thôi Thu Sơn nghĩ ngợi giây phút mới trả lời:

- Hai vị là bạn quen, tôi không dám giấu diếm. Sau khi sư phụ tôi tạ thế, trong một trường hợp ngẫu nhiên, tôi may mắn gặp một vị cao nhân ngoài đời thương hại tôi mà đã chỉ bảo cho tôi chút ít võ nghệ. Nhưng ông ta bắt tôi thề không được nói tên tuổi của ông cho ai biết. Vì lẽ đó, xin hai vị đại ca lượng thứ cho.

Thấy chàng thành thật như vậy, sở dĩ chúng tôi muốn hỏi Thôi đại ca là vì có một việc muốn hỏi.

- Hai vị có việc gì, nếu tiểu đệ có thể làm được, tiểu đệ xin giúp ngay. Cùng là người nhà với nhau cả, hai vị hà tất phải khách khứa như vậy.

Châu An Quốc nói:

- Xin đại ca hãy chờ một tí để tôi đi kiếm thêm hai người bạn nữa đến đây trò chuyện.

Thôi Thu Sơn thấy thái độ của Châu An Quốc rất thận trọng, nhưng không biết định nhờ vả mình vào việc gì. Châu An Quốc và Ngụy Hạo cho gọi họ ứng và họ La đến.

Người họ ứng hỏi:

- Có việc gì thế?

Châu An Quốc trả lời:

- Người kia võ nghệ giỏi lắm. Anh em chúng ta đây không ai địch nổi hắn. Nghe hắn nói chuyện, tôi nhận thấy hắn là người chánh trực và hào phóng lắm.

Ngụy Hạo nói:

- Nhưng hỏi đến sư phụ hắn thì hắn giấu diếm không chịu nói.

Rồi y kể lại câu chuyện nói với Thu Sơn cho họ ứng và họ La nghe.

Người họ Ứng tên Tòng, là mưu sĩ dưới trướng của Viên Sùng Hoán. Vụ vây thành Ninh Viên năm nọ, y cũng có rất nhiều công lao trong đó. Người họ La tên Đại Can, là một pháo thủ trứ danh. Trong trận đánh ở Ninh Viên, y châm ngòi thuốc hồng y đại bác bắn chết vô số quân Thanh. Nhờ công đó, y mới được thăng lên chức Tham tướng.

Sau khi Viên Sùng Hoán bị xử tử oan, bộ hạ hắn tản mác, ai nấy trở về quê hương làm ruộng. Ứng Tòng nói:

- Chúng ta cứ nói thật, yêu cầu hắn giúp xem hắn trả lời ra sao.

Châu An Quốc nói:

- Tôi thiết tưởng việc này nên hỏi qua ý kiến của Tổ tướng công đã.

Ứng Tòng đáp:

- Phải đấy.

Nói đoạn y quay vào gian trong, thấy Trọng Thọ và Thất Hổ đang chuyện trò tương đắc. Nhưng y cũng mời Trọng Thọ ra bên ngoài bàn bạc mấy câu. Trọng Thọ nói:

- Ứng sư gia, việc này quan hệ đến đời sống của tiểu chủ nhân. Trước hết, sư gia phải hỏi xem người họ Thôi có bằng lòng hay không đã.

Ứng Tòng gật đầu nghe lời, rồi cùng Châu An Quốc, Ngụy Hạo, La Đại Can ba người đến gặp Thôi Thu Sơn, Ứng Tòng nói:

- Chúng tôi có một việc, chỉ có Thôi đại ca mới giúp được thôi. Cho nên...

Thôi Thu Sơn thấy Ứng Tòng muốn nói lại ngừng, vẻ mặt sượng sùng. Chàng sốt ruột hỏi luôn:

- Đệ là người thô lỗ. Các vị định chỉ bảo điều gì, xin cứ nói. Nếu việc gì có thể làm được, quyết không chối từ.

Ứng Tòng nói tiếp:

- Thôi huynh sảng khoái như vậy chúng tôi xin nói thật để huynh rõ. Viên đại soái chúng tôi bị hãm hại, còn lại một người con trai. Lúc bấy giờ cậu ta mới lên bảy. Chúng tôi cố gắng mãi mới cứu được cậu ta thoát nạn. Trước sau đã ác chiến với bọn Cẩm Y vệ 3 lần. Anh em chúng tôi có 2 người tử nạn. Nay mới bảo toàn được một chút cốt nhục đó cho Viên đại soái chúng tôi. Vị tiểu chủ chúng tôi là Thừa Chí. Và bốn anh em chúng tôi đảm nhiệm dạy cậu ta cả văn lẫn võ. Cậy ấy thông minh lắm chỉ bảo qua vài lần là hiểu ngay. Mấy năm nay bản lĩnh của chúng tôi đã truyền hết cả cho cậu ta rồi. Cậu ấy tuổi hãy còn nhỏ, tuy có một vài môn võ vẫn chưa lĩnh hội hết, nhưng nếu còn theo học chúng tôi nữa, thế nào cậy ấy cũng tiến bộ rất nhanh. Và sẽ có một tương lai rất lớn.

Thôi Thu Sơn đã hiểu ý nghĩ lời nói của Ứng Tòng liền trả lời:

- Các vị tính cho cậu ấy theo tôi học võ phải không?

Châu An Quốc trả lời:

- Vừa rồi chúng tôi thấy đại huynh ra tay đánh bại hai tên gian tặc. Chúng tôi công nhận võ nghệ của đại huynh giỏi hơn chúng tôi nhiều. Nếu Thôi đại ca chịu thâu nhận cậu ấy làm đồ đệ, dạy dỗ thành tài. Không riêng gì anh em chúng tôi, cả linh hồn của Viên đại soái chúng tôi nơi cửu tuyền cũng cám ơn đại ca vô cùng.

Nói đoạn bốn người cùng chắp tay vái lạy. Thôi Thu Sơn vội đáp lễ rồi ngẫm nghĩ giây phút mới trả lời:

- Được các vị coi trọng như vậy, tôi đâu dám từ chối. Nhưng hiện giờ tôi đang phục vụ trong quân đội Lý tướng quân, nay đây mai đó, không một lúc nào được ở một chỗ. Và chiến đấu với quan quân luôn luôn, chưa biết sống chết lúc nào. Nếu Viên công tử có theo tôi ở trong hàng ngũ, một là tôi e không có thì giờ dạy cậu ấy hai là nguy hiểm vô cùng.

Bốn anh em Ứng Tòng ngẫm nghĩ lời nói của Thu Sơn cũng phải. Ai nấy đều thất vọng, Thu Sơn bỗng nói lớn:

- Có một người võ nghệ giỏi gấp tôi trăm lần. Nếu ông ta bằng lòng thâu nhận thì thật may mắn cho công tử lắm.

Nói đoạn, chàng chợt nghĩ ra điều gì lắc đầu lẩm bẩm nói thầm:

- Không xong, không xong.

Lưu Nhất Hổ đã điều đình xong công việc liên minh với Tổ Trọng Thọ. Ngày hôm sau, mọi người tuyên thệ trước bàn thờ Viên Sùng Hoán. Thề quyết cùng nhau sanh tử, không ai được phụ lòng ai. Sau đó, Tổ Trọng Thọ thu xếp cho Triều Tôn, Bàng Cử và Hầu Khang, ba người lên đường về nhà. Khi chia tay, chàng nói với Triều Tôn và Bàng Cử rằng:

- Chúng ta gặp nhau đây, cũng do số phận xuôi nên hạnh ngộ này. Tất cả những sự gì xảy ra trên Sơn Tôn này xin hai vị đừng tiết lộ ra ngoài nửa câu. Nếu không nghe lời tôi, hậu quả ra sao, tôi không dám nói trước.

Hầu Triều Tôn và Dương Bàng Cử dạ dạ luôn miệng. Trọng Thọ tặng cho mỗi người 50 lạng làm tiến lộ phí, và còn phái hai người đàn em tiễn bọn Triều Tôn ba người xuống núi. Trải qua bao cuộc hiểm nguy, Triều Tôn và Bàng Cử đều chán nản cực độ. Một người đóng cửa ở nhà đọc sách, sau trở nên một nhà văn tên tuổi về cuối đời nhà Minh. Còn một người thấy trên giang hồ có biết bao nhiêu người tài giỏi xét ra "ngọn núi này đã cao lại còn núi khác cao hơn, ngoài vòm trời này lại còn vũ trụ khác", nên chàng đóng cửa cục tiêu lại, xoay sang nghề nông, suốt đời không nhắc nhở đến chuyện võ. Sau chàng bị quân Thanh giết chết.

Thương thuyết cuộc Liên minh xong, Lưu Nhất Hổ cùng người họ Điền hạ sơn trở về đơn vị trong đội Lý Tự Thành. Các bộ hạ Viên Sùng Hoán có một số người tham gia nghĩa quân Lý Tự Thành, còn một sối thì về nguyên quán sửa soạn cuộc khởi nghĩa.

Tổ Trọng Thọ, Châu An Quốc, Ngụy Hạo và Ứng Tòng, thì ở lại núi để bàn tán về việc xuất sư sau này của Viên Thừa Chí.

Được tin Thôi Thu Sơn nhận lời dạy cho mình Phục Hổ chưởng, Thừa Chí mừng đến nỗi suốt đêm hôm đó không ngủ được. Sáng hôm sau, vì ai nấy đều bận việc nên không có thì giờ nhắc nhở tới việc dạy võ. Chiều, mọi người lũ lượt xuống núi. Trước khi ra về, họ đều vào từ biệt tiểu chủ nhân, như vậy lại bận rộn thêm nửa ngày. Tối hôm ấy, Tổ Trọng Thọ vào trong thắp một đôi nến đỏ, đặt chiếc ghế bành ở giữa mời Thôi Thu Sơn ngồi lên trên ghế đó để Viên Thừa Chí làm lễ bái sư, Thôi Thu Sơn nói:

- Thật quả mới trông thấy chú em họ Viên, tôi đã cảm tình liền. Nay chú ấy thích học võ Phục Hổ chưởng, tôi xin vui lòng ở lại đây vài ngày để truyền thụ cho chú ấy.

Nhưng liệu trong mấy ngày trời, có thể học thành tài không? Và thành tài rồi có thể sử dụng được không? Những điều đó cần phải xem sự học tập với nhau thôi, chớ tôi không dám nhận thầy trò đâu!

Ứng Tòng nói:

- Quí hồ đại ca dạy cho năm ba miếng, một vài hiệp suốt đời cũng là sư phụ rồi. Hà tất đại ca phải khiêm tốn như thế?

Thôi Thu Sơn nhất định không nhận. Mọi người không sao cưỡng ép nổi, đành phải thôi, không nói tới nữa.

Mọi người cũng biết luật lệ của võ lâm. Thôi Thu Sơn ngồi trên ghế nghiêm nghị hỏi:

- Thừa Chí, thế Phục Hổ chưởng pháp này do một vị cao nhân tiền bối truyền cho. Tôi tuy chưa lãnh hội hết sự tinh vi huyền ảo của nó, nhưng ở chốn giang hồ, với kẻ địch hạng bình thường thì cũng dư sức để đối phó. Lúc ông ta truyền thụ cho tôi thế Chưởng pháp này có bắt tôi thề độc rằng: Sau khi học thành tài môn võ này, quyết không được giết hại người vô tội, đè nén kẻ lương dân.

Thừa Chí là người rất thông minh, nghe Thu Sơn nói như vậy vội quỳ ngay xuống và nói rằng:

- Đệ tử Viên Thừa Chí, sau khi học xong Phục Hổ chưởng pháp, quyết không đè nén lương thiện, giết hại kẻ vô tội. Bằng không, bằng không...

Vì không biết phải nói như thế nào, nên Thừa Chí nói tiếp:

- Bằng không sẽ bị sư phụ đánh chết.

Thu Sơn cười nói:

- Tốt lắm!

Bỗng thoáng một cái, người đã biến mất. Thừa Chí vội quay mình lại, thấy Thu Sơn đã ở đằng sau, và vỗ vai y vừa cười vừa nói:

- Chú bắt lấy tôi nhé.

Nhờ được danh sư Châu An Quốc và Ngụy Hạo chỉ bảo, nên võ nghệ của Thừa Chí có chút căn bản. Y đột nhiên hạ tấn xuống, tay trái đánh dứ một miếng, tay phải quàng về phía sau, nhưng y không quay mình lại, chỉ cần nghe hơi gió để phân biệt thân hình đối phương, rồi nhắm đùi Thu Sơn nắm lấy.

Thu Sơn mừng thầm:

- Biết sử dụng miếng này kể cũng khá lắm đấy!

Vừa nói dứt lời, tay chàng khẽ vỗ vào vai Thừa Chí, rồi thoắt một cái, chàng lại biến mất.

Áp dụng theo sự chỉ dẫn của Ngụy Hạo, Thừa Chí định thần nhìn, hơi dang hai tay ra, nhờ vậy cũng yểm hộ được các chỗ hiểm yếu của toàn thân. Y thấy thân pháp của Thu Sơn nhanh nhẹn lạ lùng, bắt thế nào cũng không nổi. Y không chạy vòng quanh như bịt mắt bắt dê nữa. Y lùi từng bước một, lui về phía chân tường. Rồi nhảy một cái, đứng sát lưng vào tường, y vừa cười vừa nói:

- Thôi thúc thúc, cháu đã trông thấy thúc thúc rồi!

Lúc ấy Thu Sơn không thể vòng ra sau lưng y được, liền ngừng bước, cả cười nói:

- Giỏi lắm! Giỏi lắm! Cháu không những khôn ngoan mà căn bản võ nghệ cũng khá. Thế Phục Hổ chưởng này học thế nào cũng đạt.

Thế rồi, bắt đầu từng miếng từng hiệp một, chàng dạy Thừa Chí cho hết thế võ đó. Thế "Phục Hổ chưởng" này có tất cả 108 miếng, mỗi miếng lại có 3 đường biến hóa "kỳ chính tương sinh tương khắc" cộng tất cả là 324 đường, Viên Thừa Chí đều nhớ hết cả. Thôi Thu Sơn lại dạy thêm 3 lần nữa. Thừa Chí đã học thuộc hoàn toàn thế võ đó. Thu Sơn vừa dạy vừa giảng, đem mỗi miếng mỗi biến hóa như thế nào để truyền thụ cho Thừa Chí một cách rất tỉ mỉ. Thừa Chí có căn bản sẵn, lại thêm thông minh có thừa, nên cả những chỗ tinh vi nhứt, y cũng lãnh hội hết, chỉ vì chưa tập được thành thục cho lắm, nên chưa có thể sử dụng được ngay thôi. Một người càng dạy càng thấy hứng thú, một người rất chăm chỉ học hỏi, nên cả hai tập luyện cho tới đêm khuya.

Sáng hôm sau, Thôi Thu Sơn ra ngoài bách bộ, trông thấy Thừa Chí một mình ở bãi đất hoang tập luyện võ nghệ. Y đem 108 miếng "Phục Hổ chưởng" hóa đi biến lại mà còn quán xuyến cả tám yếu quyết tinh vi. Thấy vậy, Thôi Thu Sơn bỗng nhảy vào nhằm giữa lưng đá một cái. Thừa Chí nghe thấy sau lưng có tiếng gió, vội né mình quài tay nắm luôn chân của kẻ địch. Đến khi nhận kĩ ra, y mới biết người tấn công mình là Thôi Thu Sơn, y liền rút tay lại và la lớn:

- Kìa, Thôi thúc thúc!

Thôi Thu Sơn vừa cười vừa nói:

- Đừng ngừng tay, cứ tiếp tục đánh đi.

Nói đoạn, chàng bổ luôn vào mặt Thừa Chí. Y không tránh mà lại thêm một bước đấm luôn một quyền vào hạ mạng Thôi Thu Sơn. Miếng võ này là miếng thứ 89 củathế võ "Phục Hổ chưởng" gọi là "Thâm Nhập Hổ Huyệt", Thôi Thu Sơn tấm tắc khen ngợi:

- Đúng lắm, đánh như thế được lắm.

Chàng miệng nói, tay vẫn không ngừng tiếp tục tấn công Thừa Chí. Có miếng nào Thừa Chí sai lầm, chàng lại chỉ bảo ngay, hai người, kẻ đi người lại, đem 324 đường biến hóa không cùng, càng vận dụng càng thấy kỳ lạ. Thừa Chí còn sung sướng hơn nhặt được của báu. Tập cho tới khi Thừa Chí mồ hôi nhễ nhại, Thôi Thu Sơn mới cho phép ngừng tay. Trong khi nghỉ ngơi, chàng giảng giải những miếng hóc hiểm cho Thừa Chí biết. Giảng giải xong, hai người lại đứng dậy tiếp tục luyện tập.

Từ sáng sớm cho đến khuya, ngoài hai bữa ăn ra, Thừa Chí không chịu bỏ phí một giờ phút nào cả.

Luyện tập trong bảy ngày liền, sáng ngày thứ tám, Thôi Thu Sơn lại nói:

- Tất cả võ nghệ của tôi đã truyền cho chú hết rồi. Còn sự thành công hay không, phải xem sau này chú có chịu khó luyện tập luôn không đã... Khi giao đấu với địch, dù áp dụng thế võ nào cũng vậy, ta chỉ có thể tin cậy vào tài nghệ bảy phần mười thôi, còn ba phần kia cậy nhờ vào trí khôn mới được, chớ nhắm mắt nhắm mũi đánh bừa thì khó lòng thắng lắm.

Viên Thừa Chí xin vâng lời... Thu Sơn lại nói tiếp:

- Ngày mai tôi phải trở về với Lý tướng quân. Sau này chú phải chăm chỉ tập luyện lấy.

Thừa Chí mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Thôi Thu Sơn tuy ở với Thừa Chí có mười ngày, nhưng chàng đã dạy cho y tất cả bí quyền của thế võ "Phục Hổ chưởng." Như vậy đủ thấy chàng thương mến Thừa Chí không cầm nổi cảm xúc, mếu máo khóc muốn bật ra tiếng. Thôi Thu Sơn sống trong hàng ngũ lâu năm, tuy giết người không hề chớp mắt nhưng thấy tình quyến luyến chân thật của Thừa Chí, chàng cũng phải cảm động.

Thôi vuốt ve vỗ về Thừa Chí giây lát rồi nói:

- Người thông minh như chú trong võ lâm này ít có lắm. Chỉ tiếc rằng chúng ta hông có dịp đoàn tụ lâu ngày.

- Thôi thúc thúc, cháu xin thúc thúc đến trại Lý tướng quân cũng được chớ sao?

- Chú con nhỏ tuổi, đến chỗ ấy ở sao được!

Vừa nói tới đấy, bỗng nghe tiếng kêu của nó không giống cọp mà cũng chẳng giống sài lang!

- Nó là báo đấy!...

Chàng đang nói, sực nghĩ ra điều gì, rồi lại nói tiếp:

- Chúng ta ra ngoài bắt sống con Báo ấy đi. Tôi cần dùng loại thú này...

Tính tò mò xúi giục, Thừa Chí vội cướp lời:

- Chú muốn dùng nó để làm gì?

Thôi Thu Sơn chỉ cười mà không nói, Thừa Chí đi theo ra, thấy chàng không cầm khí giới bèn hỏi:

- Thôi thúc thúc định dùng khí giới gì bắt con báo ấy thế?

Ngờ đâu Thu Sơn không ra thẳng ngoài cửa lại bước vào gian trong, chỗ ở của Tổ Trọng Thọ, rồi lên tiếng gọi:

- Châu đại ca, Ngụy đại ca, hai vị có ở trong đó không?

Nhờ các vị giúp hộ một tay, ra ngoài kia dồn hộ con báo vào trong này. Tôi đang cần dùng tới nó.

Ngụy Hạo là tay thiện nghệ giết hổ, thấy Thu Sơn nhờ mình một việc đúng sở thích, như gãi đúng chỗ ngứa liền trả lời:

- Được, để tôi dồn cho!

Nói đoạn, chàng cầm luôn chiếc đinh ba vẫn săn hổ, xông ra ngoài cửa. Thu Sơn vội gọi:

- Ngụy đại ca! Xin đại ca đừng đả thương nó nhé!

Ngụy Hạo ở đằng xa đáp vọng lại, vâng lời. Tiếp theo đó tiếng hò hét của chàng vang động trên đỉnh núi.

Thu Sơn, An Quốc và La Đại Can hai người cũng nhảy theo ra ngoài cửa. Thừa Chí cầm đoản thương định theo ra, Tổ Trọng Thọ vội gọi lại:

- Thừa Chí, cháu đừng ra nữa. Chúng ta ở lại trong này mà xem.

Bất đắc dĩ Thừa Chí phải ngừng bước, rồi cùng Trọng Thọ và Ứng Tòng ba người đứng tựa cửa sổ, nhìn ra phía ngoài xem. Thấy ba người ta cầm bó đuốc, chia nhau đứng Đông, Tây, Bắc ba ngã. Ngụy Hạo tay cầm đinh ba, chiến đấu với một con báo thật lớn ở bên sườn núi. Chàng chỉ dùng đinh ba cản không cho con báo vồ tới, chớ không đả thương nó. Báo thấy ánh sáng lửa hoảng sợ, muốn chạy, nhưng bị Thu Sơn, An Quốc và Đại Can ba người chận lại. Con báo cũng tinh khôn lắm, thấy Thu Sơn tay không, liền gào một tiếng thật lớn, nhảy tới định vồ. Thu Sơn né mình tránh khỏi đôi chân đầy móng sắc bén của con thú, rồi tay phải cứng như sắt, tạt luôn một cái vào trán cao báo. Con thú ngã lộn một vòng, quay mình chạy về phía Nam. Thấy cửa phòng phía này mở rộng, con báo tinh khôn lắm, nó nhất định không chịu chạy vào. Nó định quay sang phía khác, nhưng các người đã ập lại. Trong lúc nó đang ngơ ngác nhìn ngược, nhìn xuôi, thì Thu Sơn đã nhảy tới đá mạnh vào mông nó một cái. Con thú bị đau, rú lên một tiếng, chạy thẳng vào trong nhà. Lúc ấy Ứng Tòng đã đóng kín các cửa ngõ lại, chỉ để một cánh bên phía Tây. Thấy các người cầm đuốc đi tới, con báo vừa gầm gừ vừa đi thẳng vào phía trong cửa ngõ đó. Đại Can theo sau, rồi đóng nốt cánh cửa ấy lại. Thế là con báo bị nhốt ở trong điện.

Mọi người thấy bắt được con báo rồi, ai nấy vẻ mặt hân hoan, nhìn thẳng vào phía Thu Sơn như muốn hỏi chàng định bắt con báo ấy làm gì. Thu Sơn mỉm cười nói:

- Thừa Chí, chú vào đánh con báo ấy đi!

Chàng vừa dứt lời, mọi người đều giật mình sợ hãi, Trọng Thọ nói:

- Tôi e cháu Chí đánh không nổi con thú ấy đâu.

Thu Sơn vội trả lời:

- Không sao, đã có tôi ở cạnh trông nom; con báo ấy không làm gì nổi chú ấy được.

Thừa Chí nhanh nhẩu:

- Cháu xin vào ngay!

Tay cầm đoản thương, y đẩy cửa định bước vào, Thu Sơn vội cản lại:

- Hãy khoan, chú để cây thương xuống, vào đánh bằng tay không!

Thừa Chí ngẩn người trong giây phút nhưng y hiểu ngay ý định của Thu Sơn là muốn y dùng "Phục Hổ chưởng" mới học được để đối phó với con báo kia. Tuy vậy, y vẫn rụt rè chưa dám vào. Thu Sơn lại thúc giục:

- Cháu sợ phải không?

Thừa Chí không ngần ngại nữa, đẩy mạnh cánh cửa, ung dung tiến thẳng vào. Chỉ nghe thấy một tiếng "gầm" thật lớn, rồi một bóng đen nhảy tới vồ vào đầu Thừa Chí. Chàng né mình tránh sang một bên, rồi thuận tay tạt một cái vào mang tai con báo. Tuy bị đánh trúng, nhưng tay chàng bé nhỏ yếu ớt, nên con báo không thấy đau đớn chút nào, nó quay đầu lại giơ chân cào Thừa Chí, chàng nhảy tới phía sau con thú, hai tay nắm lấy đuôi kéo. Lúc ấy Thu Sơn đã đứng cạnh đó để bảo vệ, vì sợ con báo phát cáu nổi khùng, Thừa Chí sẽ không chế ngự nổi. Y tuy ít tuổi nhưng thế võ Phục Hổ chưởng y đã biết sử dụng thuần thục, nên tuy con báo vồ ba lần, cào ba lần, rốt cuộc vẫn không đụng chạm nổi vạt áo của chàng. Trái lại, nó còn bị chàng đánh cho một cái tát và tiếp luôn một cái đá.

Tổ Trọng Thọ, Châu An Quốc, Ngụy Hạo, ba người thấy Thừa Chí tay không đấu với báo, mặc dù đã có Thu Sơn đứng cạnh bảo vệ, nhưng vẫn còn lo ngại thay cho y.

Trong khi An Quốc và Ngụy Hạo đều cầm sẵn ám khí để đề phòng lúc nguy cấp giết báo cứu người.

Dưới ánh sáng của mấy bó đuốc thắp chung quanh, Thừa Chí nhảy nhót né tránh nhanh nhẹn vô cùng. Lúc đầu cậu ta không dám tới gần con báo. Nhưng sau đến khi sử dụng mới thấy "Chưởng pháp Phục Hổ" ảo diệu vô cùng. Càng đánh, càng thấy phấn khởi tinh thần. Vì bàn tay quá nhỏ và sức lực còn yếu ớt thấy đánh vào con thú không ăn thua gì, cậu liền xoay ra cách lôi kéo. Mỗi lần lôi là mỗi lần cậu vặt được một nắm lông của con báo. Con thú bị đau, rống lên ầm ĩ. Và nó cũng bắt đầu sợ đôi bàn tay bé nhỏ của Thừa Chí. Nó vừa nhe răng, vừa lui để trốn tránh kịp. Chỉ trong chốc lát, hầu khắp căn điện đầy lông báo bay tứ tung. Con báo bị vặt trụi lông, trông thật kỳ lạ, mọi người đứng xem đều cười ồ cả lên.

Thấy đánh mãi vẫn chưa phục nổi con báo, Thừa Chí đột nhiên đổi sang miếng "Bồ Tát Đê Mi" (Bồ tát lim dim đôi mắt). Cậu cúi thấp xuống, xông thẳng trước mặt con báo. Con thú ngơ ngác, rồi nhảy lên vồ Thừa Chí. Thấy cậu ta đã ở dưới bụng con thú nọ, Ngụy Hạo sợ quá, phi ngay song tiêu. Con báo tinh khôn lắm, giơ chân phải gạt song tiêu.

Lúc ấy không thấy hình bóng Thừa Chí đâu cả. Mọi người nhìn kỹ thì cậu đang núp dưới bụng báo, hai chân quặp lấy bụng nó, còn đầu thì đỡ cằm con thú lên, khiếncon vật muốn cắn không được, muốn cào không tới. Nó cứ nhảy đi nhảy lại, rồi lại lăn lộn dưới đất mấy vòng mà Thừa Chí vẫn ôm chặt không buông.

Một người, một thú cứ cầm cự nhau mãi. Nhưng Thừa Chí tự biết sức mình, nếu cứ kéo dài như thế mãi, cậu sẽ bị đuối sức. Hễ buông tay ra là cậu bị con báo vồ ngay, càng nghĩ càng sợ, cậu vội gọi:

- Thôi thúc thúc giúp cháu với!

Thu Sơn trả lời:

- Chú lấy đôi mắt của nó trước đi.

Nghe lời chỉ bảo, Thừa Chí vươn tay phải ra móc mắt trái của con báo. Con vật đau quá lồng lộn nhảy nhót dữ dội.

Thu Sơn tiến lên một bước. Chỉ nghe "bốp bốp" hai tiếng, chàng đã dùng thế liên hoàn hai tay đánh trúng đầu con báo. Con thú lắc lư đầu mấy cái, rồi nằm ngửa tênh hênh ra đất hết thở. Chàng liền ẵm Thừa Chí lên, cả cười nói:

- Giỏi lắm! Giỏi lắm!

Nói đoạn, Thu Sơn quay lại nhìn mọi người. Chàng thấy bọn Tổ Trọng Thọ, ai nấy đều kinh hãi đến nỗi mồ hôi toát ra ướt áo. Chàng mở cửa điện, rồi đá vào mông con báo một cái, vừa cười vừa nói:

- Tha cho mi!

Chiếc đá ấy mạnh đến nỗi con thú bị bắn thẳng ra khỏi cửa. Bỗng bên ngoài có tiếng người sợ hãi rú lên.

Mọi người tưởng con báo chưa chết ra tới ngoài lại vồ người liền đổ xô ra xem. Ai nấy đều thất kinh vì thấy xung quanh núi đầy những ánh lửa đuốc sáng tỏa một vùng, thành rừng đao thương lấp loáng phản chiếu bởi những ánh sáng của các ngọn đuốc ấy.

Thì ra quân Minh đã ùn ùn kéo tới vây đánh núi Lão ô.

Cũng may các đảng viên nhóm "Sơn Tôn" đã giải tán từ hồi trưa. Tổ Trọng Thọ xét tình hình thấy khó lòng tẩu thoát khỏi tay kẻ địch. Nhưng có người ngạc nhiên, tự hỏi: Phải chăng những đàn em canh gác dưới núi đều đã bị quân Minh sát hại hết chăng? Nên quân địch mới lên tới đỉnh núi, mà tuyệt nhiên không nghe thấy một tiếng báo động nào!

Những người còn lại trên núi đều là những người từng đánh trăm trận cả. Tuy trong lòng họ hơi e ngại, nhưng không một người nào tỏ vẽ nao núng cả. Trọng Thọ là người có địa vị cao hơn cả nên chàng phải lịnh chỉ huy:

- La tướng quân dẫn tất cả đàn em phụ trách nấu bếp, quét dọn và canh gác miếu ra đầu núi phía Đông phóng hỏa rồi hò hét làm nghi binh.

La Đại Can vâng lời đi luôn. Trọng Thọ nói tiếp:

- Châu tướng quân, Ngụy tướng quân, hai vị tới trước núi, mỗi người bắn 10 phát tên cho quân địch khỏi tiến đến gần. Bắn xong trở lại đây tức thì!

Chờ Châu, Ngụy hai người đi rồi, chàng lại nói tiếp:

- Thôi đại ca! Đệ nhờ đại ca giúp cho một việc rất quan trọng.

Thôi Thu Sơn tiến ra:

- Đại ca muốn tôi bảo vệ Thừa Chí phải không?

- Vâng.

Nói đoạn, Trọng Thọ và Ứng Tòng đều quỳ xuống vái Thu Sơn. Chàng giựt mình vội đáp lễ!

Lúc ấy tiếng hò reo, tiếng trống, tiếng thanh la nổi dậy, phát từ trên núi xuống. Mọi người đoán chắc những tiếng đó, do La Đại Can phát động, mục đích làm cho quân địch bối rối. Trọng Thọ chỉ vào Thừa Chí vội nói với Thu Sơn rằng:

- Viên đại soái chúng tôi chỉ có một người con này thôi. Bây giờ trăm sự nhờ đại ca hộ tống tiểu chủ xuống núi giúp.

Thu Sơn trả lời:

- Tôi xin tận tâm bảo vệ chú Thừa Chí!

Bấy giờ Châu An Quốc và Ngụy Hạo bắn tên xong, trở về. Trọng Thọ lại ra lệnh:

- Tôi và Châu tướng quân cùng đi một đường. Khi gặp La tướng quân ba người chúng tôi sẽ xông xuống núi bên phía Đông. ứng tiên sinh và Ngụy tướng quân xuống bên phía Tây. Bọn chúng ta xông xuống trước để dụ địch tập trung lực lượng về phía chúng ta. Thừa dịp đó, nhờ Thôi đại ca hộ tống giúp Thừa Chí xuống núi ở phía sau. Rồi tất cả sẽ gặp nhau ở trại Lý tướng quân.

Trong lúc nguy cấp mà Tổ Trọng Thọ vẫn bình tĩnh chỉ huy, mọi người đều phục chàng can đảm. Được Ứng Tòng và mọi người dạy bảo mấy năm, nhứt đáp chia ly, lòng Thừa Chí bùi ngùi khôn tả. Cậu ta liền quỳ xuống vái mọi người mấy cái và thưa rằng:

- Tổ thúc thúc, ứng thúc thúc, Châu thúc thúc, Ngụy thúc thúc, cháu... cháu...

Cổ họng tắc nghẽn, y không sao nói tiếp được. Tổ Trọng Thọ liền đỡ lời:

- Cháu đi theo Thôi thúc thúc, phải nên ngoan ngoãn nghe lời.

Thừa Chí gật đầu xin vâng.

Lúc đó, quân Minh sắp đánh lên tới đỉnh núi, Ứng Tòng nói:

- Chúng ta đi thôi! Thôi đại ca chờ một lát hãy lên đường nhé!

Mọi người tay cầm khí giới, chia đường xông xuống.

Thấy Thu Sơn tay không, Ngụy Hạo liền giao cây đinh ba cho Thu Sơn và nói:

- Thôi đại ca đỡ lấy.

Thu Sơn trả lời:

- Tôi không cần tới.

Nói đoạn, chàng định giao trả. Nhưng Ngụy Hạo đã đi xa rồi. Chàng đành phải tay trái dắt Thừa Chí, tay phải cầm đinh ba đi về phía sau núi.

Trên sườn núi phía sau cũng có rất nhiều bó đuốc chiếu rọi. Quân Minh đông như đàn kiến vừa hò reo vừa xông lên. Thấy tên và đá bắn như mưa, Thôi Sơn đành phải lùi vào trong Miếu. Chàng xuống bếp lấy hai cái vung chảo; mình cầm cái to, còn cái nhỏ đưa cho Thừa Chí và bảo rằng:

- Chúng ta lấy cái vung này làm tạm cái mộc để đỡ tên đá. Thôi, đi đi!

Hai chú cháu dùng khinh công, nhằm xó tối mà tiến thẳng vào, nhưng hai người bị quân Minh phát giác tung tích. Chúng hò reo, đuổi và bắn theo mấy chục mũi tên.

Thôi Sơn để Thừa Chí chạy trước, còn chàng đi đoạn hậu, tay trái múa vung chảo cản đỡ các mũi tên phía trước, tay phải múa đinh ba gạt mũi tên phía sau. Cả hai cùng theo đường chân núi xông xuống. Bỗng có một nhóm quan quân khá đông, chạy đi ngăn cản nhưng chỉ trong chốc lát đã có mười mấy tên quân bị đinh ba của Thôi Sơn đâm chết. Cây đoản thương của Thừa Chí tuy không giết nổi người nhưng cũng có thể hộ thân cho cậu. Chạy xuống tới lưng chừng núi, hai người định dừng lại nghỉ ngơi chốc lát, bỗng có tiếng hò hét vọng lại, rồi thấy một đội quân Minh khác ở ngang hông núi xông tới. Đi đầu là một viên Thiên Hộ, tay y cầm đại đao bổ thẳng vào đầu Thôi Sơn. Giơ đinh ba lên đỡ, Thôi Sơn thấy chĩu tay, biết tên Thiên Hộ sức lực khá mạnh.

Chàng liền dùng miếng "Độc Long Xuất Động" (rồng độc ra ngoài hang) đâm thẳng sang. Tên Thiên Hộ giơ đao gạt sang một bên và hô lên:

- Các anh em tiến!

Thôi Sơn không dám tiếp tục chiến đấu liền giơ cái vung chảo úp vào mặt kẻ địch. Tên Thiên Hộ vội tránh sang bên phải, Thôi Sơn cả thét lên một tiếng, đinh ba của chàng đâm thẳng vào mạng mỡ kẻ địch. Tới khi rút được cây đinh ba ra, chàng quay lại, không thấy bóng Thừa Chí đâu cả. Chàng thất kinh, bỏ đi tìm. Thấy bên trái có một đám đông đang hò hét, chàng hùng hổ phóng tới. Quân Minh sợ hãi, phải gạt sang hai bên để cho chàng đi. Khi tới gần tới nơi, quả nhiên chàng thấy Thừa Chí đang bị bao vây. Cây đoản thương đã rơi xuống đất, cậu ta chỉ dùng hai bàn tay nhỏ đỡ, thế "Phục Hổ chưởng" mới học được ra đối địch với bọn quân Minh. Vì người nhỏ sức yếu, Thừa Chí càng đánh càng kém thế. Sắp bị nguy hiểm đến nơi, thì may thay, Thôi Sơn đã tới cứu ứng. "Soảng soảng" hai mũi đinh ba đánh ngã hai tên địch, chàng vội kéo luôn Thừa Chí chạy. Bọn quân lính hò hét đuổi theo. Chàng bỗng đứng lại, dùng miếng "Hồi mã thương" đâm ngã hai tên địch đuổi tới gần.

Tiếp theo đó, chàng tiến lên một bước dùng chuôi cán đinh ba hất tung một tên lính lên rơi xuống mỏm đá. Tên lính nọ kêu lên một tiếng thảm khốc, rồi chết ngất.

Bọn quan binh thấy Thôi Sơn thần dũng quá, đều ngưng bước không dám đuổi theo nữa. Thôi Sơn cặp Thừa Chí vào nách, giở khinh công "Đề Tung thuật" (thuật nhẹ mình nhảy nhót) nhảy như bay, tiến thẳng vào trong bóng tối như vào chỗ không người. Không bao lâu đã rời bọn quân binh khá xa, Thôi Sơn mới đặt Thừa Chí xuống và hỏi rằng:

- Chú có bị thương không?

Thừa Chí thấy hỏi, vội giơ tay lau mồ hôi trên mặt thấy dính nhơm nhớm, vội ra chỗ có ánh trăng xem. Thấy tay dính đầy máu, cậu ta sợ quá. Quay lại nhìn mặt Thôi Sơn, cậu cũng thấy dính máu, liền hỏi:

- Thôi thúc thúc, máu... máu...

- Không sao. Đó là máu của địch quân. Người chú có chỗ nào thấy đau không?

- Không ạ.

- Hay lắm. Chúng ta đi thôi!

Cả hai cùng bò vào trong bụi cây mà đi. Một tiếng đồng hồ sau, sắp ra khỏi bụi rậm, Thôi Sơn ló đầu ra ngoài xem. Dưới núi, lửa đuốc sáng choang, mấy trăm quân lính đang canh gác ở đó. Chàng rỉ tai Thừa Chí:

- Chỗ này không xuống được. Phải rút lui.

Hai người quay trở lại, đi bộ mấy trăm thước, trông thấy một cái hang rất rộng. Trước cửa hang, cây cỏ um tùm, khó lòng phát giác, cả hai cùng chui vào trong đó ẩn núp, Thừa Chí trẻ người non dạ, đang ở chỗ nguy hiểm mà vẫn ngây thơ, không biết sợ hãi gì cả. Vì mỏi mệt quá, chỉ trong chốc lát, Thừa Chí ngủ lăn ra đất, Thôi Sơn khẽ ẵm cậu lên, ôm vào trong lòng. Lát lâu, tiếng hò reo của quân trên núi ánh sáng tỏ bừng, chắc quân Minh đang phóng hỏa đốt ngôi miếu. Lát lâu nữa, lại nghe thấy tiếng thâu binh của quân Minh, rồi đại đội người ngựa đi qua. Thôi Sơn kêu khổ thân, vì chỗ hang núi chàng ẩn núp ở ngay bên cạnh con đường xuống núi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro