391-410

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

391

Đ

nh M

nh


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*



Biên Hoang Tập, Dạ Oa Tử.



Hoang nhân có một tập quán là không ngồi cùng người lạ. Bất kể là tửu lâu hay quán ăn dù có hết chỗ nhưng bàn nào đã có người ngồi rồi thì Hoang nhân vẫn như không thấy và thích đi thẳng đến bàn của Hoang nhân hơn.



Lúc này tại bàn lại là một nữ tử xinh đẹp đang ngồi một mình nên Hoang nhân lại càng cẩn tâm đề phòng. Một nữ nhi xinh đẹp dám một mình đi lại ở Biên Hoang tập nếu không phải võ công cao cường, thì cũng có chỗ dựa lưng vững chắc. Hoang nhân căm ghét nhất là dâm tặc hái hoa, một khi bất cẩn gây phiền phức tới đàn bà con gái sẽ làm mọi người phẫn nộ là một trong những cấm kỵ của Hoang nhân.



Cho nên khi Mộ Dung Chiến bước vào quán ăn món Hồ tên Tuần Tượng vốn nổi tiếng đã lâu nằm cạnh Hoàng Kim Oa thuộc góc Tây Bắc của Dạ Oa Tử, thì gã thấy cả tiệm đang đầy khách, nhưng Sóc Thiên Đại vốn một mình lại độc chiếm một bàn lớn gây nên cảm giác như hạc giữa bầy gà, càng thu hút được nhiều chú ý hơn.



Mộ Dung Chiến lên tiếng thỉnh an, Sóc Thiên Đại quay sang nhìn với ánh mắt sắc lẻm. Mộ Dung Chiến lộ một nụ cười rực rỡ, đến cạnh nàng kéo ghế ngồi xuống nói: ”Xin chào công chúa.”



Sóc Thiên Đại không vui: ”Đến bây giờ mới đến tìm người ta, ngươi đã trốn đi đâu?”



Mộ Dung Chiến háo hức nhìn nàng từ trên xuống dưới, vui vẻ: ”Ta vốn là người công tư phân minh, xong chánh sự rồi mới làm việc riêng tư.”



Sóc Thiên Đại không hề vì mình ở vị trí thứ yếu mà nổi giận, quay đầu lại liếc mắt nhìn hắn: “Hiện tại ngươi đã có thời gian chưa? Làm sao ngươi lại biết ta ở đây? Ai đã nói cho ngươi biết ta là công chúa?”



Mộ Dung Chiến bình tĩnh đáp: “Công chúa đã quên đây là đâu à, Biên Hoang tập là khu vực của ta, nếu muốn tìm ai, Hoang nhân của ta để làm gì? Trong thiên hạ Biên Hoang tập này vốn là nơi tin tức linh thông nhất, công chúa đã có tên tuổi như vậy chúng ta đương nhiên là điều tra được!”



Sóc Thiên Đại tiếp lời: ”Nghe nói ở đây canh thịt dê là nổi tiếng nhất, đúng chăng?”



Lúc này tiểu nhị mang canh thịt dê còn bốc hơi lên, Sóc Thiên Đại nhắm mắt ngửi một hơi khen: ”Thơm quá!”



Khi tiểu nhị giúp Mộ Dung Chiến bày biện bộ đồ ăn xong, Mộ Dung Chiến biểu hiện phong độ của một nam nhi Hoang Nhân, tự mình phục vụ nàng, cười: ”Vốn nghe công chúa vốn rất thích ăn món 'Thiên thượng phi tường'

*

gì đó, điều này có thật không?”



Sóc Thiên Đại không hề khách khí, bưng canh thịt dê uống một hớp lớn, thay đổi sắc mặt nói: ”Mùi vị thật kích thích.”



Sau đó nàng nhìn hắn nói: “Nhu Nhiên tộc chúng ta vốn là dân tộc thích tự do nhất! Cho nên càng thích tự do như chim bay trên trời. Kỹ thuật cung tên của chúng ta lại càng vượt trội, Tiên Ti nhân của các ngươi cũng phải cam bái hạ phong. Bọn ta kiếm một nơi nào đó để so tài bắn tên chứ?”



Mộ Dung Chiến cười lớn, trả lời: “Nàng thử qua đao pháp của ta còn chưa đủ à? Còn muốn thử thứ khác? Phải chăng là đang tuyển chồng?”



Sóc Thiên Đại thản nhiên nhún vai nói: “Nếu vậy thì sao?”



Mộ Dung Chiến mỉm cười: ”Vậy thì nàng đã tìm sai đối tượng rồi. Mộ Dung Chiến ta không phải là loại người thích có cuộc sống gia đình, giống như người tộc Nhu Nhiên của nàng thích sinh hoạt tự do. Ta thân là Hoang Nhân, sống hôm nay không biết đến ngày mai, không hề lo lắng, ta không đặt sống chết trong mắt chỉ làm chuyện gì mình thích.”



Sóc Thiên Đại thần thái không đến nửa phần thương tổn cười nói: “Được, chúng ta cùng đợi xem! Muốn làm chồng của ta ngươi nghĩ là đơn giản à? Ít ra phải có biểu hiện xuất sắc, bằng vào thành tựu hiện giờ của ngươi, chỉ có thể miễn cưỡng chấp nhận. Hừm! Nói lời thanh cao như vậy thế thì đêm nay vì sao ngươi đến đây tìm người ta?”



Mộ Dung Chiến cực kỳ hứng thú: ”Hỏi hay lắm! Nếu như ta nói với nàng là thấy sắc động lòng, muốn xem đêm nay có thể chiếm lấy nhiều tiện nghi của công chúa hay không, lại sợ sau này lại không hy vọng trốn được trách nhiệm, công chúa liệu có tin tưởng không?”



Sóc Thiên Đại đưa bát lên, thản nhiên nói:”Chúng ta cạn một chén!”



Mộ Dung Chiến nâng chén cùng nàng đối ẩm, uống cạn đến một giọt không còn, hai người đặt bát xuống. Sóc Thiên Đại kiều mị nói: ”trả lời vấn đề vừa nãy của ngươi! Ta không tin! Biên Hoang Tập đích xác có rất nhiều sắc quỷ, ví dụ như Cao Ngạn, Hồng Tử Xuân, hoặc là Cơ Biệt, nhưng tuyệt không phải Mộ Dung đương gia ngươi. Đã không phải mỹ sắc của người ta mà đến, vậy thì vì chuyện gì?”



Mộ Dung Chiến mỉm cười: ”Ta lần này đến tìm công chúa là vì muốn xem công chúa thuộc phe nào."



Sóc Thiên Đại ngạc nhiên: ”Vậy ngươi hoài nghi ta là người phe nào đây?”



Song mục Mộ Dung Chiến xạ ra tia nhìn sắc bén: ”Việc Công chúa đến Biên hoang tập lần này, phải chăng là có quan hệ tới Bí tộc?”



Sóc Thiên Đại lộ ra thần sắc ngạc nhiên cau mày hỏi: ”Bí tộc! Sao đột nhiên lại có liên quan đến bọn chúng?”



Mộ Dung Chiến lạnh nhạt: ”Vì Bí tộc đã đầu hàng đại địch của chúng ta là Mộ Dung Thùy mà Nhu Nhiên tộc lại đời đời có quan hệ thân cận với Bí Tộc.”



Sóc Thiên Đại không đồng ý: ”Vậy là ngươi đang hoài nghi ta có phải là gian tế không rồi. Nhưng đó cũng không phải vì việc tư mà là vì việc công, ngươi thu được tin tức này vào lúc nào? A, ta hiểu rồi! Tin tức là từ chỗ Yến Phi, thế nên ngươi đến tối nay mới tới tìm ta mà lại có ý bất thiện.”



Mộ Dung Chiến cười khổ: ”Nếu ta muốn gặp nàng vì việc công thì sẽ không đích thân đến đây thế này. Hiện tại ta đích thân tới gặp nàng, tức là đã nhận lãnh hết mọi việc của nàng, không để cho các huynh đệ Hoang nhân khác xen vào.”



Sóc Thiên Đại thần sắc hòa hoãn trở lại liếc hắn một cái: ”Nói vậy là ngươi có hứng thú với ta à, nhưng sao lại không lập tức tới tìm ta chứ? Đối với nữ nhân tộc Nhu Nhiên mà nói thì đây là sự nhục nhã rất lớn.”



Mộ Dung Chiến nói: “Là vì ta sợ nàng xem là thật, mà ta lại không muốn xem là thật. Ha ha! Như vậy đã đủ thẳng thắn chưa?””



Sóc Thiên Đại phẫn nộ: “Ta thật sự không có sức hấp dẫn sao?”



Mộ Dung Chiến than: “Nếu ta nói công chúa đối với ta không có sức hấp dẫn, thì chính là dối lòng. Thực sự là tính cách của nàng rất hợp với sở thích của ta, hận không thể lập tức ôm nàng lên giường ngay, để xem nàng phải chăng có đủ tư vị như vậy không.”



Đối với lời nói trực tiếp và bạo dạn của Mộ Dung Chiến, Sóc Thiên Đại chẳng những không hề cho là ngang ngược, còn lộ ra vẻ tươi cười ngọt ngào, vui sướng nói: “Đã như vậy, sao còn phải có nhiều lo lắng? Có thể ta chỉ cần một đêm vui vẻ thôi mà?”



Mộ Dung Chiến nói: “Toàn là vì thân phận đặc thù của nàng. Công chúa kén rể, sao có thể dễ dãi như nữ nhân khác chọn chồng, chỉ cầu một đêm hoan du? Được! Xin công chúa giải thích cho ta một nghi vấn trước, rốt cuộc công chúa là người phe nào?”



Sóc Thiên Đại cười lớn: “Đổi lại người khác hỏi ta, ta sẽ đổ dương nhục thang còn thừa lên đầu hắn, với ngươi thì ta coi như tạm tha! Ngươi nghe cho rõ, ta chỉ nói một lần không lặp lại nữa. Sóc Thiên Đại ta chỉ thuộc về bản thân ta, cũng không quan tâm đến ý đồ của Bí tộc, càng không hứng thú đến việc của Hoang nhân các ngươi. Rõ ràng chưa?”



Mộ Dung Chiến cười nói: “Công chúa quả thật nhất ngôn cửu đỉnh, ta an tâm rồi!”



Nhìn thấy hắn chuẩn bị tư thế li khai, Sóc Thiên Đại nhíu mày nói: “Ngươi bận vậy sao?”



Mộ Dung Chiến vốn đã đứng lên, nghe thấy vậy lại ngồi xuống ghế, kinh ngạc nói: “Đã hiểu rõ tâm ý của công chúa, ta còn lưu lại đây làm gì nữa?”



Sóc Thiên Đại cả giận nói: “Hoang nhân các người không có một ai bình thường cả. Thực hận là không khiến các ngươi thua trận một cách hồ đồ, bắt cả cái tên Thác Bạt Khuê hỗn đản cho nếm mùi đau khổ một phen.”



Mộ Dung Chiến cười nói: “Ai dám coi thường Hoang nhân chúng ta, thì sẽ không có kết quả tốt, trước là như vậy bây giờ cũng thế, tương lai cũng không ngoại lệ.”



Sóc Thiên Đại mỉm cười nói: “Lần này không giống! Bởi vì địch nhân của các ngươi ngoại trừ Mộ Dung Thùy, còn có rất nhiều Bí nữ của Minh Dao, ta và nàng biết nhau từ nhỏ, ta là người biết rõ nhất bản lĩnh của nàng, dưới sự lãnh đạo của nàng, chiến sĩ Bí tộc sẽ phát huy uy lực rất đáng sợ, Mộ Dung Thùy thông qua họ nắm rõ nhất cử nhất động của các ngươi và Thác Bạt Khuê như lòng bàn tay. Cho nên mặc dù chưa chân chánh khai chiến, ta đã biết được các ngươi và Thác Bạt Khuê chắc chắn sẽ bại trân, hơn nữa còn bại trận vô cùng thê thảm. Thức thời vụ thì hãy tìm nơi khác ẩn náu, nếu không có ngày hối hận không kịp.”



Mộ Dung Chiến cười dài nói: “Để ta mượn lời của công chúa được không? Mọi người chờ mà xem!”



Nói xong tiêu sái đi ra, Sóc Thiên Đại tức giận đến trợn trừng mắt, nhưng không thể làm gì được.






Yến Phi nâng vò Tuyết Giản Hương ngồi xuống, phía sau năm dặm là Thiên Huyệt ở vùng núi Bạch Vân Sơn, chàng không có hứng thú ngoạn cảnh bởi vì phiền não đã quá nhiều rồi, không muốn Thiên Huyệt lại làm ảnh hưởng tâm tình mình nữa.



Chàng cần rượu. Từ lúc chia tay Mặc Sĩ Minh Dao, rượu luôn là biện pháp duy nhất giúp hắn chống lại nội tâm thống khổ, đặc biệt là Tuyết Giản Hương. Hắn vô thức bóp vỡ niêm phong của vò rượu, kéo nút ra, mùi rượu thơm xộc lên mũi. Chỉ có rượu mới có thể khiến cái thế giới “chân” này trở nên không “chân” nữa, không còn đe dọa nữa.



Yến Phi nâng bầu rượu lên uống ba hớp,sau đó hạ bình rượu xuống, thuận tay đem nắp đậy miệng bình lại. Càng yêu sâu đậm bao nhiêu thì càng thương tổn sâu sắc bấy nhiêu, để đối phó chàng chỉ biết giấu kín trong lòng, chàng vốn tưởng rằng vĩnh viễn không thể phục hồi trở lại cho đến lúc gặp Kỷ Thiên Thiên. Trong lúc chàng đang ở vào thời khắc thống khổ nhất, nàng tựa như một tia nắng chiếu sáng rạng rỡ, soi vào thế giới nội tâm âm u giá lạnh của chàng.



Thiên Thiên, nàng hiểu được ta chăng, nàng có thấu được sự đau xót chăng? Nàng hiểu ta hơn bất luận kẻ nào khác, bởi vì lúc chúng ta quen nhau thì cả hai giống như đồng bệnh tương lân, đều có điều đau khổ, nên mới đem chia sẻ.



Tuyết Giản Hương là loại rượu thơm ngát, uống vào cơ thể sẽ nóng dần lên, khiến tâm tình ngày càng dâng lên, không có cách nào bình ổn lại sự tiếc nuối trong thâm tâm. Mặc Sĩ Minh Dao là giấc mộng đẹp thời niên thiếu, cũng là giấc mộng của Thác Bạt Khuê. Lúc ấy bởi vì trốn tránh người của Nhu Nhiên truy sát, vì kinh hoảng mà thất thố lạc vào vùng sa mạc rộng lớn, lầm lẫn xông vào vùng lục châu

**

bên lề sa mạc, tình cờ chàng đã tham dự vào lễ cuồng hoan của một tộc thần bí. Đúng tại nơi này, bọn họ đã gặp được nữ thần của lòng mình. Trải qua một đêm khó quên đến ngày hôm sau, người của tộc thần bí đã như hoàng hạc biến mất không để lại bất kỳ dấu vết nào, chỉ còn lại hai tên tiểu tử họ say say tỉnh tỉnh, khiến cho bọn họ cả đời nghi hoặc là thật hay là “Mộng”.



Chàng và Thác Bạt Khuê từ đó không cách nào quên được Mặc Sĩ Minh Dao, nhiều năm tiếp theo cứ đến mùa đó lại quay lại sa mạc để cố tìm mảnh đất xanh lục kia, mỗi lần đều thất bại quay về, như là nó căn bản không tồn tại, phảng phất trong hai người bọn họ chỉ còn khí trời nóng cháy, khiến cả hai đều coi đấy như ảo ảnh về giấc mộng đẹp.



Đương nhiên chàng hiểu được thật sự chuyện gì đã xảy ra. Tại Trường An trùng hợp gặp lại nàng, cho dù đã gần bảy năm xa cách, chỉ cần liếc mắt cũng nhận ra nàng. Chàng lần đầu cảm thấy mất đi tự chủ, bỏ hết cùng nàng đi hành thích Mộ Dung Văn, rồi vì nàng làm nhiều việc không suy nghĩ, điên cuồng theo đuổi nàng. Vì yêu nàng mà sẵn sàng hy sinh tất cả, nhưng không được đáp lại tương xứng, đổi lại chỉ là thương tâm tuyệt vọng. Bất quá chàng tuyệt không có hối hận đã từng điên cuồng vì nàng như thế.



Lúc rời Trường An, trong lòng chàng đã hạ quyết tâm là ra đi vĩnh viễn không quay đầu lại, càng sẽ không tìm nàng. Nhưng tạo hóa trêu ngươi, bọn họ như nhất định phải gặp gỡ tại nhân gian vốn hư ảo này, ai cũng đều không có cách nào tránh né. Không ai rõ sự lợi hại của Mặc Sĩ Dao Minh hơn chàng, nàng chẳng những là một thích khách đáng sợ mà còn là thám tử cao minh. Lúc ấy kiếm thuật của Yến Phi còn thua nàng một khoảng cách, khinh công, công lực còn kém xa hơn nhiều. Mỗi lần tỷ thí là Yến Phi thọ nhục, đã thế lại còn bị nàng cười cợt nhạo báng.



Bây giờ thì như thế nào đây? Mộ Dung Thùy có Mặc Sĩ Minh Dao ra tay trợ giúp khẳng định là như hổ thêm cánh. Nếu không phải An Ngọc Tình trượng nghĩa cảnh tỉnh, e rằng họ thất bại hồ đồ mà vẫn chưa rõ chuyện gì đã xảy ra.



Chàng chưa bao giờ nghĩ tới tình huống bị Mặc Sĩ Minh Dao vây công, nhưng sự thật bày ra trước mắt. Vì cứu chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên, vì nghiệp lớn phục quốc của Thác Bạt Khuê, chàng và Thác Bạt Khuê đều không có cách lựa chọn nào khác.



Mộ Dung Thùy có thám tử thần kỳ, chàng cũng có tâm linh kỳ diệu với Kỷ Thiên Thiên, đến cuối cùng ai thắng ai bại? Yến Phi có điểm không muốn tưởng tượng thêm sau đó sẽ ra sao.



Yến Phi để vò rượu xuống, triển khai cước pháp, toàn lực tăng tốc theo hướng Hoài Thủy điên cuồng lao tới.






Diêu Mãnh và hơn mười huynh đệ Dạ Oa Tộc theo Cao Ngạn cưỡi ngựa dong ruổi lên Trấn Hoang Cương, dõi mắt tìm kiếm về phía sơn lâm hoang dã phía Nam.



Một người trong đám thở dài nói: “Cao thiếu, Tiểu Bạch Nhạn sẽ không thể tới Biên Hoang tập nhanh như vậy, ngươi bởi không tin nên khiến mọi người cùng ngươi đi một chuyến công toi, đêm nay ta khẳng định không có cách nào đến Lạc Dương lâu để cùng Tiểu Thúy gặp mặt, nàng tối qua còn nhắc đi nhắc lại ngàn lần rằng đêm nay ta phải tới gặp nàng."



Cao Ngạn đưa đầu roi ngựa về hướng tiểu Kiệt, cười quái dị nói: “Thanh Huy ngươi yên tâm đi, tiểu Thúy gần đây vận đỏ, không khiến ngươi phải lo lắng nàng phòng không đơn chiếc. Ặc ặc!”



Giọng Thanh Huy la lên một cách giận dữ: “Ta đi với mẹ ngươi, ân tình của ta với tiểu Thúy ngươi làm sao hiểu được.”



Diêu Mãnh cười nói: “Lần này khẳng định là Thanh Huy ngươi lẫn lộn rồi! Cảm tình của ngươi với tiểu Thúy ra sao, chúng ta đều là người từng trải, làm sao lại không rõ. Khặc! Nói về chuyện chính, chúng ta có thể mở đường quay về tập không?”



Cao Ngạn nói: “Các ngươi làm sao mà hiểu được Tiểu Bạch Nhạn, nàng nghe được tin ta tử nạn, nhất thời lòng như lửa đốt, bất chấp mọi chuyện toàn lực lao đến, bằng vào khinh công trác tuyệt của nàng, không dừng lại một khắc và sẽ không ngủ không nghỉ mà đến đây. Chỉ cần một ngày nửa buổi sau khi nhận tin, là có thể xuất hiện ngay trước mặt ta ngay bây giờ. Ta đến nơi này là muốn nàng có thể nhanh chóng lao vào vòng tay mạnh mẽ ấm áp của ta, hiểu chưa?”



Tiểu Kiệt vội nịnh nọt nói: “Đúng, đệ ủng hộ Cao đại ca.”



Một tên khác lải nhải nói: “Trừ phi Tiểu Bạch Nhạn có thể bay, nếu không dù có ở đây đợi thêm hai ngày ba đêm nữa cũng không có cái tình huống Tiểu Bạch Nhạn xuất hiện như Cao tiểu tử nói. Trở về đi! Cái gì muốn tới thì sẽ tới, nếu khinh công của Tiểu Bạch Nhạn được như lời ngươi nói thì bọn ta có thể phải chờ thêm nhiều canh giờ nữa mới đến lúc nàng nhào vào lòng ngươi.”



Diêu Mãnh nói: “Cao thiếu, ngươi ngẫm lại đi, thay vì cùng nàng tình tự ở đây rồi lại phải chạy một đoạn đường dài mới về tới Biên Hoang tập để thành thân, chi bằng chờ nàng nhào vào lòng ngươi tại Biên Hoang tập thì ngươi lập tức có thể động phòng. Tiểu Bạch Nhạn còn không đem chung thân đại sự tính cho rõ ràng được ư? Rồi lại mơ mơ hồ hồ đem cái trân quý nhất của nữ nhân để mất trên tay ngươi, ngươi nói xem tính toán thế có thiếu điểm nào không?”



Mọi người lập tức rộ lên cười lớn, hò hét quái dị liên tục.



Cao Ngạn than thở nói: “Lần này là các ngươi vì rượu thịt quên bạn, con bà nó, bình thường theo ta phát tài thì tư thái nghĩa bạc vân thiên ngời ngời, bây giờ mới nếm có chút khổ cực thì đã hiện nguyên hình, chỉ có tiểu Kiệt là có chút nghĩa khí. Các lão già này! nói cho cùng là không chịu theo giúp ta nghênh đón tiểu Bạch Nhạn.”



Thanh Huy nắm tay lôi kéo cương ngựa Cao Ngạn quay đầu lại, ý định muốn buộc cả người lẫn ngựa theo phải hắn trở về phía Tây, Cao Ngạn chưa kịp có cơ hội kháng nghị, mắt chợt trông thấy một bóng đen đang từ phía sườn dãy núi của Biên Hoang tập, lao như làn khói nhẹ hướng về phía bọn họ.



Nếu không phải trùng hợp xoay người theo ngựa, có lẽ đến khi kẻ đánh lén ra tay bọn họ mới một phen kinh hãi mơ hồ, nhưng lúc đó khẳng định hối thì đã muộn.



Cao Ngạn hô lớn “Thích khách!”



Lần này theo Cao Ngạn đi, ngoài Diêu Mãnh cố nhiên là đệ nhất lưu cao thủ, các người khác đều là tinh nhuệ của Dạ Oa tộc, mỗi người vốn đều kiếm sống trên đầu đao lưỡi gươm cả, đều đã trải qua trăm trận, kinh nghiệm chiến đấu phong phú, tinh thông đường lối giang hồ, phản ứng đương nhiên là nhanh nhẹn đồng loạt như nhau.



Diêu Mãnh đầu tiên kêu to một tiếng, nhảy lên lưng ngựa, rút ra trường đao, những người khác nếu không lánh dưới bụng ngựa thì cũng xuống ngựa, hiện trạng lập tức thay đổi hoàn toàn, điều này khiến thích khách đột nhiên xuất hiện không thể tiến hành theo chiến lược đột kích bất ngờ.



Diêu Mãnh có tầm quan sát rộng nhất, là người đầu tiên nhìn thấy thích khách, trong lòng nổi lên một cảm giác kỳ dị. Đối phương toàn thân mặc y phục dạ hành, chỉ để lộ cặp mắt, tựa như một u linh hòa lẫn vào đêm đen, từ trong hắc ám bước ra. Lại có tốc độ kinh người khiến cho Diêu Mãnh có cảm giác nửa giả nửa thật, tựa như đối phương không phải là một thực thể mà chỉ là một cái bóng hư ảo.



Mặc dù lộ tuyến di chuyển của đối phương phiêu hốt khó đoán, dật dờ bất định, nhưng Diêu Mãnh vẫn cảm giác được mục tiêu của thích khách là Cao Ngạn. Hắn liền hét to một tiếng, người và đao hợp nhất hướng về phía trước Cao Ngạn ngăn chặn địch nhân.



“Keng! Keng!”



Thích khách với tư thái như hổ vào bầy dê, nhảy vào vòng chiến giữa bọn họ. Đột nhiên trong người thích khách phát ra mũi kiếm, hai huynh đệ đang nhào đến lập tức trúng đòn, lảo đảo ngã ra, tiếp đó người nào xông tới cũng bị đánh lùi, không thể hình thành thế hợp vây.



Diêu Mãnh lúc này lăn tròn trên mặt đất chưa kịp đứng lên chắn trước mặt Cao Ngạn. Trước mắt Diêu Mãnh chỉ là hàn khí kiếm ảnh dày đặc, nhất thời mắt hoa cả lên.



Diêu Mãnh bất chấp sinh tử, toàn lực bổ ra một đao, trực tiếp chịu một thế kiếm vô cùng cường bạo.



“Choang!”



Trường đao bổ ngay vào mũi kiếm hung mãnh như rồng bay của đối phương, với căn cơ vững vàng của Diêu Mãnh, cũng thấy khí huyết nhộn nhạo, chịu không nổi một kiếm của đối phương, loạng loạng thối lui, vô tình vấp vào người Cao Ngạn, khiến hắn lại biến thành hồ lô lăn tròn trên đất, nhưng lại thành công chặn đứng địch nhân.



Các huynh đệ còn lại lao vào không màng sống chết, quyết một trận sinh tử, thích khách đột nhiên di chuyển sang ngang, phá khỏi trùng vây, xoay mình xuống sườn núi đi mất.



Chúng nhân hoang mang nhìn nhau, giao thủ đến thời khắc này, đối phương là nam hay là nữ cũng không hề hay biết.



Tiểu Kiệt nâng thanh kiếm bị chém đứt một nửa lên, nói không nên lời: “Thật lợi hại!”



Diêu Mãnh thần sắc nghiêm trọng nói: “Trong thiên hạ không ngờ vẫn còn thích khách đáng sợ như thế này,chẳng lẽ là Mặc Sĩ Minh Dao đến đây?”

392

T

n Hoài Chi

ế

n Vân


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*



Cánh buồm nhanh chóng rời hẻm Ô Y, xuôi theo sông Tần Hoài hướng về Hoài Nguyệt lâu. Vương Hoằng cùng người tùy tùng bên hắn là Lưu Dụ giả trang đứng ở đầu thuyền, chăm chú lưu ý tình huống trên sông. Nói cho cùng, hai người đều không biết Can Quy sẽ chọn loại thủ đoạn nào để tiến hành ám sát, toàn bộ chỉ dựa vào suy đoán.



Lưu Dụ cảm khái nói: “Không có Kỷ Thiên Thiên của Tần Hoài hà, Kiến Khang phải chăng rất đỗi buồn tẻ?”



Vương Hoằng giọng điệu có kèm theo chút lo lắng nói: “Chỉ nghe câu hỏi của Lưu huynh liền biết Lưu huynh không hiểu chúng ta.”



Lưu Dụ kinh ngạc hỏi: “Điều này và việc có minh bạch các ngươi hay không có quan hệ gì?”



Vương Hoằng đáp: “Đương nhiên có quan hệ lớn, bản lĩnh lớn nhất của Kiến Khang tử đệ chúng ta là khinh thường cười ngạo thế gian, không có sự việc gì là không thể tiếp nhận, việc lớn như thay đổi triều đại, việc nhỏ như Kỷ Thiên Thiên rời Kiến Khang, chúng ta đều có thể tìm cách gửi gắm tình cảm. Quan trọng nhất là chúng ta có thể duy trì được phương thức sinh hoạt. Chúng ta sợ hãi Tôn Ân, cố kị Lưu Lao Chi, nhưng không sợ Hoàn Huyền, bởi vì Hoàn Huyền cùng với chúng ta là loại người giống nhau.”



Hắn hơi ngừng lại rồi tiếp tục nói: “Nói thẳng ra, trước đây ta cũng là loại người này, đến khi thảm bại trong tay Tiêu Liệt Vũ mới tỉnh ngộ, bằng không sau khi trở về Kiến Khang, ta vẫn tiếp tục lối sinh hoạt thỏa thích buông trôi, túy sanh mộng tử. Đó xác thực là phương thức khiến người dễ dàng sa vào và chìm đắm, nói là quên đi hiện tại cũng đúng, bất mãn với hiện trạng cũng đúng, dù sao sinh hoạt như vậy cũng không có phiền não.”



Lưu Dụ tâm thần chấn động, thầm nghĩ bản thân xác thực là chưa hiểu rõ cao môn tử đệ Kiến Khang. Chỉ khiêm tốn xin thỉnh giáo: “Vương huynh có thể chỉ điểm cho ta phương diện này không?”



Vương Hoằng trầm ngâm giây lát đáp: “Chỉ cần huynh hiểu rõ Thanh Đàm là việc gì thì sẽ nắm bắt rõ ràng tâm thái của sĩ tộc chúng ta. Trước tiên là từ cuối thời Đông Hán, thiên hạ đại loạn, tầng lớp đại phu đã bất mãn hiện thực xã hội, lại không thể thay đổi và càng nhìn thấu các việc xấu xa của nhân tình thế gian, mâu thuẫn đã hình thành như vậy. Đến Đại Tấn chúng ta an phận ở Giang Tả. Nhiều lần bắc phạt đều không thành quay về, quốc nghiệp thật đã dần tiến tới cảnh tuyệt vọng, chúng ta chỉ có thể từ tinh thần tìm lối thoát, về tâm linh hoặc về hành vi đều khao khát có được tự do và giải thoát. Thanh Đàm là làm theo tư tưởng tự tìm đường về của Lão Trang và Phật môn, ly khai hiện thực tàn khốc, dựa vào đàm luận từng người sẽ lĩnh hội quan điểm, phân tích những chỗ kỳ diệu để ký thác tinh thần.”



Lưu Dụ nghe thấy chỉ lờ mờ hiểu, lắc đầu nói: “Ta vẫn không minh bạch lắm.”



Vương Hoằng mỉm cười nói: “Lưu huynh bởi vì chưa từng tham gia Thanh Đàm yến hội của chúng ta, cho nên không thể bằng một vài câu nói của ta mà hiểu được tình huống kì diệu trong đó. Qua đêm nay, Lưu huynh sẽ có nhận thức mới.”



Lưu Dụ sửng sốt hỏi: "Đêm nay nếu thực sự có một cuộc tụ họp Thanh Đàm, bảo ta làm sao mà ứng phó?”



Vương Hoằng đáp: "Đêm nay tuyệt không phải là buổi yến hội được sắp đặt để Thanh Đàm, nhưng Thanh Đàm đã trở thành một bộ phận trong sinh hoạt của nhân sĩ chúng ta, bất cứ cuộc tụ họp nào rồi cũng sẽ tự nhiên tràn ngập không khí Thanh Đàm. Tuy nhiên ta rất tin tưởng vào kinh nghiệm và kiến thức của Lưu huynh, tất có phương pháp khác để ứng phó.”



Lưu Dụ vốn đối với Thanh Đàm không có nửa điểm hứng thú, nhưng để không bất lực trước buổi yến hội sắp tới, buộc lòng phải hỏi thêm vài câu để tăng thêm nhận thức đối với Thanh Đàm: “Vương huynh ban nãy nói về nguồn gốc bắt đầu của Thanh Đàm dường như chưa hết ý, đúng không?



Vương Hoằng gật đầu: “Đúng vậy! Thanh Đàm sở dĩ có thể có thành tựu như vậy còn có một vài nguyên nhân. Thanh Đàm còn gọi là Huyền Đàm, bởi vì Thanh Đàm không tách rời với Tam Huyền.”



Lưu Dụ bắt đầu cảm giác bộ óc phình to như quả dưa, bởi vì mặc dù gã có nghe sơ sơ về phong trào Thanh Đàm thịnh hành, nhưng thực chất không phải là người đọc sách, cho nên một chút cũng không biết, cười khổ hỏi: “Tam Huyền là cái gì?”



Vương Hoằng giải thích: “Tam Huyền chính là Lão Tử, Trang Tử và Chu Dịch, cùng gọi là “Tam Huyền”. Trào lưu này bắt đầu từ thời Tào Ngụy, danh sĩ trong triều là Hà Yến, Vương Bật đứng đầu “Chánh Thủy Huyền Phong”. Kỳ thật đó là mười người cùng chống lại việc học theo truyền thống Nho gia, vì bất mãn với quan niệm đạo đức cứng nhắc và sự trói buộc của lễ giáo truyền thống, chuyển sang ngưỡng mộ tư tưởng mọi thứ đều thuận theo tự nhiên của Lão Trang. Thế là theo ngôn luận huyễn hoặc này, tiến tới hành vi phóng đãng cũng không bị xem là lầm lỗi, quan trọng nhất là phẩm chất cao quý, tâm hồn thanh khiết, còn việc có thể giúp dân cứu nước hay không, lại không phải là vấn đề bọn họ quan tâm.”



Lưu Dụ ngạc nhiên hỏi: “Như vậy nếu bàn luận về những lý lẽ huyễn hoặc này thì có thể vui vẻ cả đêm sao?”



Vương Hoằng vui vẻ trả lời: “Người chưa thử qua Thanh Đàm thì rất khó mà hiểu được diệu thú trong đó. Thanh Đàm khi bắt đầu, mọi người cùng nắm tay nhau đi vào một cảnh giới khác, vứt bỏ hiện thực lãnh khốc lên chín tầng mây. Hiện thực đối với người Thanh Đàm không có bất kỳ quan hệ và ảnh hưởng nào, càng không nhận bất cứ sự trói buộc nào của lễ giáo. Mọi người phóng túng không gò bó, thỏa thích rượu vui, vài người còn ăn ngũ thạch tán, thông qua các loại phương pháp đạt đến cảnh giới không âu lo, tự do tự tại. Cực điểm Thanh Đàm hư vô, nhưng cũng cực điểm phong nhã.”



Lưu Dụ quan sát kỹ hắn nói: “Vương huynh dường như đặc biệt hưởng thụ niềm vui Thanh Đàm.”



Vương Hoằng chán nản đáp: “Nói không hưởng thụ là lừa huynh. Bất quá ta cũng hiểu đó là uống rượu độc để ngừng cơn khát, mà không có chọn lựa khác, cũng có thể cái đó được xem như cách bảo mệnh tốt nhất. Cái gọi là bổng đả xuất đầu điểu*, ngươi xem trên thực tế các danh sĩ muốn có thành tựu bậc nhất, có người nào có kết cục tốt đẹp không? Kể cả An công và Huyền soái trong đó. Vương Cung và Vương Quốc Bảo càng không cần phải nói đến. Hiện tại huynh cần hiểu rõ chúng ta hơn, trừ phi rơi vào tình thế hết sức đặc thù, cao môn Kiến Khang chỉ khoanh tay đứng nhìn coi mọi việc như đã qua, họ không muốn từ bỏ sinh hoạt túy sanh mộng tử, họ căn bản không đủ dũng khí đối diện với tình huống hiện thực. May thay tình huống hiện tại đúng là hết sức đặc thù, nếu để Tôn Ân chiếm được Kiến Khang, bọn thổ hào Nam phương tích oán lâu ngày sẽ lan tràn thành họa, hủy diệt hoàn toàn kiều ngụ thế tộc, chúng ta đang sợ hãi, khát vọng có cứu tinh, và Lưu huynh hiện tại đã trở thành lựa chọn số một của chúng ta."



Lưu Dụ hời hợt hỏi: “Hoàn Huyền không phải là một lựa chọn khác sao?”



Vương Hoằng đáp: “Đúng như vậy. Hoàn Huyền bản thân cũng là kiều ngụ thế tộc, có thù sâu như biển với Tôn Ân kẻ đại diện thổ hào Nam phương, thế bất lưỡng lập, hắn có trở thành một Hoàn Ôn khác hay không cũng không quan hệ, quan trọng nhất là hắn có thể bảo vệ lợi ích của chúng ta. Nhưng hắn đã hại Đạm Chân tiểu thư tự sát thân vong, kích thích sự công phẫn của chúng ta, khiến địa vị hắn trong lòng chúng ta sụp đổ, cũng khiến cho Lưu huynh so với hắn uy thế đại tăng.”



Lưu Dụ hỏi: “Bọn họ dám tin tưởng ta, một tên áo vải này sao? Giữa hào môn và hàn môn là trùng trùng mâu thuẫn.”



Vương Hoằng trả lời: “Nói đúng ra, chúng ta chẳng những không tín nhiệm hàn sĩ áo vải, mà còn coi thường họ. Nhưng Lưu huynh không phải là kẻ áo vải bình thường, mà là người Huyền soái tự tay chọn lựa, lại được An công gật đầu đồng ý. Lưu huynh về phương diện bối cảnh này khiến chúng ta cảm thấy huynh sẽ là người suy nghĩ tới đại cục, sẽ bảo vệ ích lợi và phương thức sinh hoạt của chúng ta, khôi phục lại xã hội ổn định và thịnh vượng thời An công và Huyền soái đương quyền.”



Lưu Dụ cười khổ nói: “Vương huynh rất thẳng thắn. Huynh nói nghĩ tới đại cục là chỉ về phương diện nào?”



Vương Hoằng nói: “Đại cục trong lòng ta là chỉ về toàn bộ kết cấu và sự an bình của xã hội. Sự xuất hiện và sự trở thành tầng lớp thống trị của cao môn không phải là chuyện một sớm một chiều, mà là bắt đầu từ cuối thời Đông Hán, sự đánh giá về nếp sống giới thượng lưu và chế độ cửu phẩm trung chính đã thành thâm căn cố đế. Bất luận người nào muốn thay đổi triệt để tình huống này, sẽ khiến cho toàn bộ cơ cấu xã hội sụp đổ, mọi người không có chỗ để nghe theo, phương Nam chia năm xẻ bảy, càng khó chống lại Hồ tộc phương Bắc.”



Hắn lại than: “Những lời này ta kìm nén trong lòng từ rất lâu! Trước đến giờ không dám nói thẳng với huynh. Sự thật phụ thân ta cũng có chung một nghi vấn, Lưu huynh, huynh rốt cuộc là người ủng hộ hay là kẻ phá hoại chế độ hiện tại đây?”



Đến lúc này Lưu Dụ mới hiểu rõ Vương Hoằng là mượn đề mục để nói ra ý khác. Nói cho cùng Vương Hoằng cuối cùng vẫn là cao môn đệ tử, tịnh không thể vì ân cứu mạng của Lưu Dụ mà không nhìn đến lợi ích gia tộc, mù quáng đi theo một kẻ áo vải như Lưu Dụ, so về gia thế khác biệt một trời một vực với hắn.



Nhưng gã có thể trở thành người được Tạ Huyền chú ý, thật ra cũng đại biểu cho sự suy yếu của cao môn đại tộc. Sự hình thành của nếp sống Thanh Đàm đã khiến công khanh Ngụy Tấn tuy thân mang trọng trách của quốc gia mà chỉ biết nói lời sáo rỗng, không làm việc thật, sa sút tinh thần chí khí, mạnh mẽ tôn sùng sự hư vô của Lão Trang mà lại tràn trề ham muốn hưởng thụ vật chất, ẩm tửu phục dược, sinh hoạt thối nát bại hoại. Vì thế binh quyền dần rơi vào trong tay một số tướng soái xuất thân hàn môn.



Nếu như Tạ Huyền có thể tìm được nhân tuyển trong đám đệ tử cao môn đại tộc, khẳng định sẽ không chọn lựa Lưu Dụ gã. Nói thẳng ra, Tạ Huyền thực tế là người anh hùng hào kiệt cuối cùng của cao môn.



Vấn đề Vương Hoằng đề ra, trên thực tế Lưu Dụ chưa hề suy nghĩ nghiêm túc qua. Gã hiện tại chỉ đi một bước tính một bước, mò mẫm tìm cách tiến tới. Nhưng thân vốn tầng lớp hàn môn, gã càng thiếu hụt, không có được sự thừa hưởng về chính trị trong gia đình của đám cao môn đệ tử, mà đây lại chính là khâu yếu kém nhất của gã.



Gã biết rõ lúc này chỉ cần trong lời nói có chút hàm hồ sẽ khiến Vương Hoằng nảy sinh suy nghĩ rút lui. Gã lập tức nhớ lại những lời nói của Đồ Phụng Tam, khi ngươi ở vị trí nào đó thì chắc chắn phải nói những lời nói phù hợp vị trí ấy, và không bị lung lạc bởi tình cảm yêu ghét cá nhân.



Trước mắt rõ ràng là như vậy, nếu như gã lộ ra tư thái sau khi lấy được quyền lực, sẽ bãi bỏ quyền thế mà cao môn đại tộc được hưởng một cách bất công, cao môn Kiến Khang sẽ lập tức đầu phục Hoàn Huyền, trở thành kẻ địch của gã, và gã sẽ từ người lãnh đạo trở thành kẻ lệ thuộc vào Tư Mã Đạo Tử. Cho nên lựa chọn như thế nào, đã rõ ràng phân minh.



Lưu Dụ nói một cách kiên quyết: “Vương huynh yên tâm, những điều mà huynh lo lắng sẽ không xảy ra, ta sẽ kế thừa chí hướng để lại của An công và Huyền soái, chấn hưng Hán thống, đánh đuổi người Hồ ra khỏi Trung Nguyên, giữ xã hội ổn định phồn vinh như trước kia, tất cả các chuyện khác ta chưa từng nghĩ qua.”



Vương Hoằng thở phào một hơi vui vẻ nói: “Ta quả nhiên đã không nhìn nhầm Lưu huynh.”



Lưu Dụ cười nói: “Chúng ta phải chăng đã nói quá xa? Chỉ một câu ‘Không có Kỷ Thiên Thiên của Tần Hoài hà’ thì đã nói đến đại sự về giai đoạn khó khăn của quốc gia.”



Vương Hoằng nói: “Không có Kỷ Thiên Thiên, thì có Lý Thục Trang của Hoài Nguyệt lâu danh xưng ‘Thanh Đàm nữ vương’ thay thế. Nàng ta và Kỷ Thiên Thiên phong tư hoàn toàn không giống nhau, đầy mùi vị giang hồ, còn là nữ lão bản của Hoài Nguyệt lâu, nói đến chuyện nàng ta liều lĩnh làm giàu như thế nào, càng có nhiều tình huống chí quái truyền kỳ.”



Lưu Dụ hỏi: “Chí quái truyền kỳ là cái gì?”



Vương Hoằng hơi chút kinh ngạc, hiển nhiên không nghĩ tới Lưu Dụ ngay cả việc bình thường như vậy cũng không biết, nhíu mày suy nghĩ một lát, đoạn giải thích: “Chí quái truyền kỳ, chính là trường phái thứ mười trong cái Ban Cố thời Đông Hán gọi là Chư Tử thập gia**, trường phái gọi là: “Tiểu thuyết gia giả lưu, cái xuất vu bì quan, nhai đàm hạng ngữ, đạo thính đồ thuyết giả chi sở tạo dã.”*** Trước kia chí quái tiểu thuyết đã tồn tại dưới phương thức thần thoại, truyền ngôn và ngụ ngôn. Cho đến ngày nay, do việc theo đuổi thuật trường sinh thịnh hành, những lời thần bí vì thế hợp thời, khiến mọi người có thể kí thác ham muốn phá bỏ bất bình trong lòng, nguyện vọng trừng phạt kẻ có tội, biểu thị khát khao của mọi người mong muốn qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai. Giống như Lưu Huynh “Nhất tiễn trầm ẩn long” thật đúng là một đề tài thích hợp cho tiểu thuyết, thể hiện đầy đủ tinh thần đằng sau của chí quái tiểu thuyết.”



Lưu Dụ cảm thấy nút thắt bỗng chốc mở ra, thì ra Trác Cuồng Sinh lúc đầu soạn thảo cuốn thiên thư kia, là có một số uyên nguyên và bối cảnh. Trác Cuồng Sinh chẳng những là người thuyết thư cừ khôi mà còn là người nổi bật trong việc dẫn dắt trào lưu văn hóa.



Vương Hoằng cực kỳ hứng thú nói: “Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết cùng với Thanh Đàm kỳ thực có liên quan gần gũi. ‘Chí’ là ý tứ được ghi chép, chí quái là những chuyện thần bí, quái dị được ghi chép, cho nên ngoài chí quái hãy còn có chí nhân tiểu thuyết, ghi lại những ý nghĩa bàn luận tinh diệu và hành vi đặc biệt của các Thanh Đàm danh sĩ.”



Lưu Dụ nào có hứng thú đi sâu nghiên cứu, liền quay trở lại đề tài trước hỏi: “ Lý Thục Trang bao nhiêu tuổi, có mỹ lệ hay không, nàng ta làm sao có thể trở thành đại lão bản của Hoài Nguyệt lâu vậy?”



Vương Hoằng đáp: “Không ai rõ nàng bao nhiêu tuổi, nhìn bề ngoài chỉ lớn hơn Kỹ Thiên Thiên bốn, năm tuổi. Về vẻ mỹ lệ, Kỹ Thiên Thiên ở Kiến Khang không có đối thủ, còn Lý Thục Trang lại thắng ở điểm biết phô bày vẻ phong tình. Nói đến nàng lập nghiệp như thế nào, nói với huynh chỉ sợ huynh vẫn không cách nào tin, nàng chính là bằng buôn bán ngũ thạch tán mà phát tài.”



Lưu Dụ thất thanh kêu: “Cái gì? "



Chiếc thuyền từ từ giảm tốc độ, cuối cùng cũng đến Hoài Nguyệt lâu.



Can Quy đúng như sở liệu, không ra tay trên đường họ đến Hoài Nguyệt lâu.




Đồ Phụng Tam đến bên cạnh Tư Mã Nguyên Hiển, cùng hắn nhìn Hoài Nguyệt lâu ở bờ bên kia qua cửa sổ, hạ giọng nói: “Lần này chúng ta có lẽ cực khổ không công rồi.”



Tần Hoài hà bắt đầu nhiệt náo.



Bảy tám chiếc thuyền hoa đậu lại ở khúc sông này, tất cả đều đèn đuốc sáng trưng, chiếu sáng cả một khúc Tần Hoài hà như ban ngày. Tiếng đàn tiếng sáo theo sóng nước sáng lấp lánh trên mặt sông bay bổng khắp không gian rộng lớn hai bên bờ, càng hiện rõ sự phồn hoa của chốn ăn chơi trứ danh thiên hạ mười năm như một giấc mộng này. Thuyền chèo trên mặt sông qua lại không ngớt, tao nhân mặc khách tựa như muốn trước lúc chấp hành lệnh giới nghiêm, tận tình hưởng thụ nhân sinh.



Nơi này là Vũ Bình đài của Kỷ Thiên Thiên. Sau khi Kỷ Thiên Thiên bỏ đi, Vũ Bình đài liền bỏ không, tịnh không để cho các cô nương khác trong thanh lâu chiếm dụng, sự thật cũng không có người nào dám chiếm cứ thánh địa này của Tần Hoài hà. Lần này là do Tống Bi Phong ra mặt, mượn dùng Vũ Bình đài, để bọn họ làm bộ chỉ huy lâm thời.



Tư Mã Nguyên Hiển giữa lúc nhìn đến say mê, trong lòng suy nghĩ, muốn ở giữa đám thuyền đông đúc đang qua lại như con thoi, tìm thấy được con thuyền mà Can Quy ngồi, nhưng bản thân hắn quả thực không có bản lĩnh này.



Lúc này nghe Đồ Phụng Tam nói trong lòng chấn động, biến sắc hỏi: “Đồ huynh sao lại có những lời này.”



Đồ Phụng Tam thần sắc ngưng trọng, ánh mắt ném sang phải hướng cửa sông chảy vào Trường Giang, nói: “Mạng lưới giám sát của Can Quy không hề có động tĩnh, tựa như hoàn toàn không biết đến việc họp mặt ở Hoài Nguyệt lâu, nếu như tình hình giữ nguyên như vậy, chúng ta không có cách nào điều động quân đội tinh nhuệ trong quý phủ.”



Tư Mã Nguyên Hiển nhịn không nổi hỏi: “Đồ huynh nói mạng lưới giám sát, rốt cuộc là chỉ về cái gì?”



Đồ Phụng Tam nói: “Là chỉ bảy tám người chứng thực là thám tử do Can Quy phái đến, bọn họ mỗi ngày đều đóng giả thành những người có thân phận bề ngoài khác nhau, có nhiệm vụ canh chừng các địa điểm như quý phủ, Tạ gia.”



Tư Mã Nguyên Hiển nhíu mày hỏi: ”Làm sao có thể chứng thực họ xác thực là người của Can Quy?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Bởi vì họ luân phiên trực ban xong sẽ quay về khu vực bến đò rộng lớn, dùng thủ pháp trở về thuyền tương tự như Nhậm Thanh Thị.”



Tư Mã Nguyên Hiển hỏi: “Chúng ta có thể dùng phương thức sấm đánh không kịp bưng tai không, một phát bắt toàn bộ địch nhân giám thị, rồi hãy điều động nhân mã?”



Đồ Phụng Tam trả lời: “Người của Can Quy toàn bộ đều là hảo thủ kinh nghiệm đến nơi đến chốn, muốn một phát bắt tất cả bọn họ gần như là chuyện không thể, nếu như bị đối phương dùng pháo bông hỏa tiễn để truyền tin tức thì càng thêm đả thảo kinh xà.”



Tư Mã Nguyên Hiển nhức đầu hỏi: “Rốt cuộc đã phát sinh chuyện gì? Chúng ta hiện tại nên giải quyết như thế nào?”



Đồ Phụng Tam nói: “Càng khiến cho người ta nghi hoặc là mãi cho đến lúc này chúng ta vẫn không phát hiện người nào khả nghi ở phụ cận Hoài Nguyệt lâu, cũng không cảm thấy có hoạt động nào khả nghi, xác thực là khó nghĩ.”



Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Có thể nào chúng ta phán đoán sai không, Can Quy căn bản không biết cuộc họp ở Hoài Nguyệt lâu, chúng ta nghi ngờ vô cớ cho hắn, chuyến này đi công toi?”



Đồ Phụng Tam nói: “Ta vẫn cho rằng chúng ta không suy đoán sai, vấn đề nằm ở chỗ không đoán được thủ đoạn ám sát của hắn.”



Tư Mã Nguyên Hiển sốt ruột nói: “Nhưng nếu như chúng ta không có cách nào để điều động nhân mã, vạn nhất Can Quy thực sự xuất thủ , chúng ta dựa vào cái gì để giết hắn?”



Ánh mắt Đồ Phụng Tam nhìn lên cửa sổ đèn đuốc sáng rực của sương phòng đối diện bờ sông trên tầng năm Hoài Nguyệt lâu, kín đáo nhìn nhân ảnh thiểm động, nói: “Hiện tại chúng ta nhất định phải bình tĩnh, sau đó đem toàn bộ cao thủ tập trung nơi đây, yên tĩnh chờ tình hình phát triển. Chúng ta tịnh không phải là hoàn toàn không có cơ hội.”



Tư Mã Nguyên Hiển hỏi: “Nếu như người của Can Quy trà trộn vào đám tân khách của Hoài Nguyệt lâu, chúng ta làm sao ứng phó?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Phương diện Hoài Nguyệt lâu do người của Vương Hoằng phụ trách. Tối nay theo hắn tới Hoài Nguyệt lâu có tám tùy tùng, chỉ có hai người xác thực là gia tướng của hắn, sáu người còn lại qua mối quan hệ của phụ thân hắn được mời đến, đều là nhất đẳng cao thủ, có đầy đủ năng lực và kinh nghiệm phòng ngừa địch nhân bên trong lâu làm loạn.”



Tư Mã Nguyên Hiển hỏi: “Còn bên ngoài lâu thì sao?”



Đồ Phụng Tam trả lời: “Chúng ta có bốn khoái thuyền tuần tra tại đường sông phụ cận, mỗi thuyền có bốn người, do Tống Bi Phong chỉ huy. Công tử sẽ không hoài nghi năng lực của Tống Bi Phong về phương diện này chứ?”



Tư Mã Nguyên Hiển không thể không đồng ý, nói đến phòng ngừa thích khách, chống ám sát, Kiến Khang không có người nào xuất sắc hơn Tống Bi Phong.



Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Hiện tại đi theo ta có mười sáu hảo thủ, trong đó có hai người đã được phụ thân ta đặc biệt phái đi cho hành động lần này, chủ yếu phụ trách theo bên mình bảo vệ ta. Đồ huynh phương diện này có bao nhiêu người?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Trong tay ta chỉ có mười chín người, tất cả đều đưa cả vào hành động lần này. Hừm! Can Quy có lẽ còn cao minh hơn suy đoán của ta, mặc dù ta đã cố gắng hết sức đánh giá cao hắn.”



Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Hoặc là cuộc họp ở Hoài Nguyệt lâu với hắn xác thực không có quan hệ.”



Đồ Phụng Tam lắc đầu, nói: “Khả năng là hắn đang dùng thủ đoạn ‘mọi việc như thường’, khiến chúng ta nảy sinh ảo giác, chúng ta tuyệt đối không được lơ là cảnh giác.”



Tư Mã Nguyên Hiển lộ một chút thần thái buồn tẻ, than: “Hiện tại chúng ta nên làm thế nào?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Chúng ta vẫn phải bắt tay vào chuẩn bị, một mặt thỉnh Trần công công bí mật tới, mặt khác thông tri cho Lưu Dụ tình huống trước mắt, để hắn biết rõ nội tình.”



Tư Mã Nguyên Hiển hỏi: “Nhân mã đang chờ điều động trong phủ thì như thế nào? “



Đồ Phụng Tam trả lời: “Hãy để họ tiếp tục chờ lệnh, không được vọng động.”



Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Chúng ta có nên phái chiến thuyền phong tỏa chỗ giao nhau của sông Tần Hoài và Đại Giang không?”



Đồ Phụng Tam thở dài hỏi: “Nếu như công tử làm như vậy, Can Quy có chịu đến không?”



Tiếp theo vui vẻ cười nói: ”Niềm vui và nỗi khổ của đấu tranh trên giang hồ chính là ở chỗ này, chưa đến khi địch nhân thật sự phát động, ngươi sẽ không biết được địch nhân sẽ dùng sách lược thủ đoạn gì, cái này gọi là đấu trí đấu lực, chỉ có đến lúc nào phân rõ thắng bại, ngươi mới biết rốt cuộc là làm đúng hay là làm sai.”



Chú thích:



* Bổng đả xuất đầu điểu: chim xuất đầu thì bị gậy đập



** Chư tử thập gia do Lưu Hâm đề xướng chia từ Bách gia chư tử ra làm 10 trường phái tư tưởng: âm dương, nho, mặc, danh, pháp, đạo, tung hoành, tạp, nông, tiểu thuyết. Trường phái thứ 10 là tiểu thuyết gia, trường phái phản ánh tư tưởng bình dân cổ đại có ảnh hưởng cực ít so với 9 trường phái kia (9 trường phái kia được gọi là Cửu lưu).



*** Những người theo trường phái Tiểu Thuyết Gia, phơi bày lợi ích che đậy của nhà nước, lấy những chuyện nghe được trên đường phố để viết sách.

393


Hoài Nguy

t Chi H

i


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*



Hoài Nguyệt lâu nằm ở bờ Nam sông Tần Hoài, cùng một thanh lâu khác là Tần Hoài lâu tề danh đối nhau hai bờ. Lầu cao năm tầng, vượt hẳn các tòa lâu gần đó. Lầu chủ yếu được xây từ gỗ cây long não, vật liệu đơn giản nhưng tinh tế, góc mái uốn cong, khí thế hùng vĩ. Đỉnh lâu hình như hồ điệp, phối hợp tiếp nhau lên cao, tư thế hiên ngang khoáng đạt như hồ điệp vỗ cánh bên bờ sông. Toàn bộ lâu do cột đá chống đỡ trên không, tựa như ngừng lại trên mặt nước, trong tĩnh có động.



Khắp bên ngoài lâu trồng toàn cây quế hình thành bố cục tường cao viện sâu. Bên trong lâu các vật dụng đều được làm bằng hồng mộc*, khiến người ta khi vừa mới bước vào đại sảnh đón khách dưới lầu lập tức có cảm giác mộc hương nồng nàn trong mũi. Bất luận xà nhà, cột trụ, cửa sổ, cửa chính hay cầu thang đều được chạm khắc để trang trí mỹ thuật, ý tưởng bay bổng, trong cái đơn giản có cái hoa lệ, khiến người ta chỉ biết tấm tắc khen ngợi.



Lưu Dụ hóa trang làm tùy tùng, hòa mình trong đám “gia tướng” của Vương Hoằng. Gã sau khi xuống thuyền thì theo Vương Hoằng tiến vào Hoài Nguyệt lâu. Mọi việc tự có Vương Hoằng vốn rất thông thuộc nơi này ứng phó.



Nói chuyện cùng Vương Hoằng trên đường đi khiến Lưu Dụ càng hiểu rõ sâu sắc tâm thái của cao môn danh sĩ Kiến Khang, mở rộng tầm mắt và càng minh bạch rõ ràng vị trí của bản thân mình.



Bởi sự nghi kị của triều đình, tình huống thiên hạ chia năm xẻ bảy, Hồ nhân uy hiếp, chính cục bất an khiến kẻ sĩ bất mãn với hiện thực, nhưng lại sợ ra mặt thì chuốc họa vào thân. Cho nên họ lấy tháng ngày vui chơi khoái hoạt để thoát khỏi hiện thực phiền não. Họ đối với hiện thực không có dũng khí cải cách, chỉ hy vọng có thể tìm được phút giây giải thoát và khuây khỏa từ những buổi thanh đàm. Họ muốn trốn tránh hiện thực, đi tìm kiếm chốn đào nguyên trong thế giới tinh thần, cuộc sống thần tiên mà họ khao khát. Nam Tấn nếu không phải trước có Vương Đạo, sau có Tạ An, lại có Tạ Huyền vô địch thống soái thế gian hãn hữu, thì thực không biết sẽ biến thành như thế nào. Hiện tại Tạ An và Tạ Huyền trước sau ra đi, lòng người tan tác không chỗ dựa, tình trạng hỗn loạn đã xuất hiện. Cho nên Nam Tấn từ trên xuống dưới đều trông ngóng một vị anh hùng cứu quốc khác xuất hiện. Người anh hùng đó sẽ là Lưu Dụ gã chăng?



Đối với cao môn Kiến Khang mà nói, người bọn họ cần không phải là người cải cách thay thiên lập đia, phản loạn đảo chính, mà là người bảo hộ để bọn họ có thể tiếp tục duy trì phương thức sinh hoạt hiện nay. Đó mới là ý nghĩa bên trong của cuộc gặp tối nay.



Nói đến Tổ Địch, người mà gã sùng bái thật sự là hiện tượng lạ của thời kì đó. Ông biết rõ việc nói suông chỉ làm hại nước, muốn dùng ý chí ngoan cường, tinh thần bền bỉ sớm khuya, để xuất sư Bắc phạt, quy phục Trung thổ. Nhưng cuối cùng vì không thể trên dưới một lòng, đã thất bại khi gần đạt tới thành công.



Cách sống “Bất luận thế sự, duy vịnh huyền hư”*** sẽ có một ngày khiến giang sơn của người Hán huỷ diệt sao? Lưu Dụ gã có thể bằng vào thân phận dân thường áo vải, trong tình huống hễ cao môn đại tộc sẽ đương nhiên thành kẻ thống trị, cứu vãn lại thế cục đã mất hay không?



Vương Hoằng dừng bước, quay đầu ra sau mỉm cười nói với Lưu Dụ: “Tới rồi!”



Thì ra đã đến bên ngoài sương phòng đã đặt trước ở tầng lầu thứ năm. Đám cao thủ tùy tùng người người đều lộ ra thần sắc như trút được gánh nặng, đương nhiên là vì không có thích khách tập kích khi leo lên lầu.



Lưu Dụ trong lòng chợt bừng lên ý niệm cổ quái. Bất luận trên đường đến đây hay li khai, người người đều đề cao giới bị, chỉ có lúc ở trong sương phòng phong hoa tuyết nguyệt, uống rượu vui vẻ mới bớt cảnh giác. Như vậy không phải cơ hội thích hợp nhất để ám sát phải là trong sương phòng chứ không phải bên ngoài hay sao?



Thế nhưng trong vòng bảo vệ của các cao thủ, ai có khả năng tiến hành ám sát lúc bọn họ đang say sưa trong sương phòng? Cái đó căn bản là không thể.



Sự thật là sau khi bữa tiệc tối nay bắt đầu, cả tòa Hoài Nguyệt lâu đều đặt dưới sự giám thị nghiêm mật của phe ta, bất cứ động tĩnh gì cũng không thể qua được tai mắt của bọn họ.



Bản thân Lưu Dụ sau khi được Tạ Huyền nhìn trúng, liên tục vào sinh ra tử, đã nuôi dưỡng được tính cảnh giác cao độ. Tuy gã vẫn chưa đoán ra thủ đoạn của Can Quy, nhưng đã ngầm để ý cẩn thận. Đối với những nơi nhìn có vẻ như an toàn lại càng làm cho gã có cảm giác đặc biệt nguy hiểm.



Cửa mở.



Vương Hoằng dẫn đầu đi vào sương phòng.




Khoái thuyền xuôi dòng chạy nhanh.



Dưới tài điều khiển thuyền của Đồ Phụng Tam, kẻ tinh thông các ngón nghề giang hồ, không đợi Tống Bi Phong phải chỉ thị, đã biết phải nên chọn tuyến đường nào, làm sao để không gây chú ý cho địch nhân.



Tống Bi Phong và Khoái Ân đóng vai tao nhân mặc khách+, giả vờ làm như đang uống rượu du sông. Đây là một cảnh quá quen thuộc trên sông Tần Hoài. Lúc này còn có hơn mười chiếc thuyền cũng đang du sông như bọn họ.



Tối nay đêm thu trăng thanh gió mát, ánh trăng trên không rót ngân quang xuống nước, sông nước từ ngàn xưa vẫn vậy, mênh mang kiên trì chảy về với biển.



Tống Bi Phong như đang tự nói với mình: “Thật không hợp lý!”



Khoái Ân đang đưa mắt dò xét Hoài Nguyệt lâu ở bờ đối diện, nghe vậy liền hỏi: “Sao địch nhân còn chưa triển khai hành động vậy?”



Tống Bi Phong hỏi ngược lại: “Nếu ngươi là Can Quy, ngươi có biết lúc nào thì Lưu gia đi khỏi không?”



Khoái Ân thật thà lắc đầu đáp: “Không biết! Nhưng ta sẽ phỏng đoán là Lưu gia thế nào cũng lưu lại trong lầu đó nửa canh giờ hoặc lâu hơn.”



Tống Bi Phong nói: “Đã như vậy, địch nhân nên sau khi Lưu gia đến Hoài Nguyệt lâu, lập tức triển khai hành đông, tiến nhập vị trí công kích theo kế hoạch đã vạch sẵn. Bất luận Lưu gia khi nào rời khỏi đều có thể tiến hành ám sát. Nhưng bây giờ xung quanh sông Tần Hoài hoàn toàn không có bóng dáng địch nhân, điều này bất hợp lí. Giải thích duy nhất là chúng ta đoán sai phương thức ám sát địch nhân.”



Khoái Ân suy tư: “Có thể nào địch nhân căn bản không biết ước hội đêm nay?”



Tống Bi Phong nói: “Ngươi tin vào trực giác trong chuyện này sao? Không cần bất cứ đạo lí gì, tóm lại ngươi hiểu được sự tình sẽ theo cảm ứng của người mà phát triển.”



Lúc này tiểu thuyền đi qua một chiếc thuyền lớn đậu cách bờ phía nam hơn mười trượng, nơi ánh đèn từ các lâu thuyền thắp sáng như ban ngày. Trên thuyền đèn lửa soi rõ bóng người và vật. Tiếng ca vũ nhạc tràn ngập không gian vọng lại bên tai, so với tâm tình lúc này của bọn họ, cảm giác càng cổ quái đặc dị.



Mục quang sắc bén của Khoái Ân liếc qua lâu thuyền, nói: “Một cách giải thích khác là có thể địch nhân không hề chuẩn bị tiến hành ám sát trên sông.”



Tống Bi Phong nói: “Cái này cũng không hợp lý. Địch nhân chắc chắn có phái thám tử giám thị Vương Hoằng. Nhìn thấy hắn theo thủy lộ đến Hoài Nguyệt lâu, Lưu gia lại đóng giả thành người hầu, chúng tự nhiên có thể dự đoán Lưu gia sẽ theo thủy lộ li khai, dù không muốn phát động công kích trên sông cũng không được.”



Khoái Ân chấn động nói: “Vậy nhìn theo tình hình hiện giờ, địch nhân nên chọn tiến hành ám sát ở trong lâu.”



Tống Bi Phong nhíu mày: “Nhưng cái đó không còn là ám sát nữa mà là liều mạng xông vào. Những người tham dự tụ họp tối này, toàn là danh sĩ có tiếng, cao môn hiển hách, mỗi người đều có cao thủ gia tướng tùy tùng. Cho dù với thực lực của Can Quy, cũng không có cách đắc thủ dưới tình cảnh như vậy. Kẻ khôn ngoan sẽ không làm như thế.”



Khoái Ân nghĩ nát óc nói: “Địch nhân nhất định có cách chui vào Đông sương.”



Tống Bi Phong than: “Nếu chúng ta nghĩ không thông điểm này, đêm nay sẽ tốn công vô ích.”



Khoái Ân lấy làm lạ thắc mắc:” Tống gia tựa hồ như không quan tâm lắm tới an nguy của Lưu gia.”



Tống Bi Phong nói như đó là chuyện đương nhiên: “Sự thật là bọn ta chưa bao giờ lo lắng Lưu gia sẽ bị người giết. Đối với Đồ gia mà nói, Lưu gia chính là chân mệnh thiên tử, làm sao có thể vô dụng đến mức tráng chí chưa thành đã chết được? Đối với ta mà nói, nếu trước đây Lưu gia là người kém may mắn, An công sẽ không gật đầu để cho gã làm người kế thừa Huyền soái.”



Khoái Ân nghe xong liền ngây người ra.



Tiểu thuyền ly khai khỏi phạm vi ánh sáng của lâu thuyền tráng lệ, tiến vào đêm trăng.



Tống Bi Phong mỉm cười hỏi: “Ngươi không tin gã là chân mệnh thiên tử sao?”



Khoái Ân cúi đầu đáp: “Tiểu Ân làm sao dám?”



Tống Bi Phong nói: “Tin hay không cũng không quan trọng, ít nhất Lưu gia và ngươi cũng có cách nhìn giống nhau. Bản thân gã cũng không tin tưởng rằng mình là cái gì mà chân mệnh thiên tử. Cho nên gã nhất định sẽ đề cao cảnh giác, cũng vì vậy mà đêm nay gã tuyệt không thể chết.”



Khoái Ân lại ngẩng đầu nhìn Tống Bi Phong, hai mắt ánh lên tia nhìn chua xót nhưng kiên định, trầm giọng: “Khoái Ân ta tối nay ở đây quyết tâm sẽ giống như Hầu gia trung thành đi theo Lưu gia, vì người sẳn sàng hy sinh tính mạng.”



Tống Bi Phong ngước nhìn trăng sáng trên trời, chậm rãi nói: “Tốt! Nam nhân vốn nên có đại chí. Ta có thể khẳng định với ngươi, trong tương lai ngươi sẽ không hối hận.”



Khoái Ân ánh mắt hướng về bốn khung cửa sổ đặc biệt lớn bên sông của Đông sương trên tầng thứ năm của Hoài Nguyệt lâu, đột nhiên mắt phát ra ánh sáng kì lạ, kinh hoàng nói: “Ta đã nghĩ ra!”



Tống Bi Phong ngây ngốc hỏi: “Ngươi đã nghĩ ra điều gì?”



Khoái Ân đáp: “Ta đã nghĩ ra thủ đoạn thích sát của địch nhân.”




Tầng cao nhất của Hoài Nguyệt lâu chỉ có Đông Tây hai đại sương phòng, cũng là hai sương phòng tôn quí nhất Hoài Nguyệt lâu. Người bình thường đừng nghĩ có thể tiến vào đây nửa bước, chỉ có những bậc quyền quý hiển hách có địa vị tột cùng mới có thể vào đây. Trong đó thì Đông sương phong cảnh đẹp nhất, cho dù quý khách có đủ tư cách, vẫn cần phải đặt trước.



Bọn Lưu Dụ đi vào phạm vi Đông sương, còn phải đi qua một khách sảnh hình chữ nhật. Hơn mười gia tướng theo hầu chủ nhân cũng đến nơi này đợi lệnh, đồng thời có bốn tiểu tỳ xinh đẹp phía trước nghênh tiếp phục vụ khách nhân.



Vương Hoằng sau khi cắt cử chúng gia tướng canh gác các cửa chính và cửa sổ, liền cùng Lưu Dụ tiến vào Đông sương, quý tân phòng trên tầng năm của Hoài Nguyệt lâu nổi danh ở Kiến Khang. Với quang cảnh ở đây, trầm tĩnh lão luyện như Lưu Dụ cũng phải ngẩn người ra mà nhìn. Mọi thứ vượt xa dự liệu của gã, vì gã không hề nghĩ đến sẽ gặp phải tình huống trước mắt.



Đông sương đại khái là một phòng hình vuông rộng mười lăm bộ, rộng rãi thoáng mát, toàn bộ được trải thảm ngồi, hai bên tường tả hữu đều có câu đối. Bức tường bên trái đề “Nhất trì bích thủy, kỉ diệp hà hoa, tam đại tiền hiền tùng bách hàn". Bức tường bên phải viết “Mãn viện xuân quang, doanh đình hạo nguyệt, sổ triêu khiển vận chi lan hinh". Mặt hướng ra sông có bốn khung cửa lớn kéo đến sát đất, đứng ở chỗ cửa ra vào cũng có thể nhìn thấy hết mỹ cảnh tráng lệ, đèn đuốc huy hoàng của Kiến Khang cung. Cái lạnh mùa thu len lỏi lùa vào qua cửa sổ.



Trong phòng không thấy cột trụ, đỉnh phòng theo kiểu vòm cuốn, chắc chắn, mạnh mẽ, đơn giản và thoáng đãng. Trong phòng bày biện đơn giản, ngoại trừ những vật nhu yếu như bàn trà, thu hút sự chú ý nhất là bảy giá hoa, trên đặt các loại cây cảnh, giống như đem thiên nhiên vào trong phòng.



Nhưng nằm ngoài ý liệu của Lưu Dụ không phải vật mà là người.



Năm người ước hội lần này toàn bộ đã đến đủ. Trong đó, làm gã liếc mắt nhìn trước tiên là một người đang nằm ở một góc, trên ngực có thả một bình rượu, không biết là hắn đã say hay là đang ngủ thiếp đi một lúc.



Một người khác quay lưng lại ngồi bên cửa sổ, tay đang vuốt ve một dây đàn trên thất huyền cầm, nhưng không hề phát ra bất cứ nhạc âm nào. Tuy nhiên nhìn tư thế thân mình đung đưa tựa như chuyển động theo điệu nhạc, điệu bộ như đang lạc bước trong một khúc nhạc, có thể biết đây là dạng người đang mê say quên mình.



Một người nữa thì ngồi tựa vào tường phía bắc, cổ áo phanh rộng, để lộ ngực trần, mắt nhắm, miệng lẩm bẩm nói một mình, thần thái mê muội. Nếu không biết hắn là một đương kim danh sĩ, sẽ nghĩ hắn là thằng điên đến đây.



Người duy nhất Lưu Dụ có thể hiểu rõ đang làm cái gì là một người đang dùng lò than nhỏ đun rượu ở một góc. Bất quá người này không những trên mặt thoa phấn, mà còn có chút ái nam ái nữ, khóe miệng ngậm một ống điếu dài. Hắn đối với việc Lưu Dụ đi đến, nhìn mà như không thấy, nghe mà như không thông.



Người bình thường nhất lại đang ngồi chính diện hướng Lưu Dụ và Vương Hoằng đi tới. Bất quá y phục của hắn đích thực chỉ có một không hai, đầu đội khăn trắng, mình mặc áo lông cừu, bên mình để đôi guốc gỗ, tay cầm phất trần. Thấy hai người tiến đến, hắn vẫy phất trần khẽ một tiếng, ra hiệu "im lặng”, hạ giọng nói nhỏ: "Chờ ta nghe xong khúc này rồi nói chuyện.”



Lưu Dụ chưa bao giờ gặp qua tình cảnh như trước mắt, nhất thời cũng không biết nên tức giận hay buồn cười. Gã càng cảm thấy bản thân không hòa nhập với bọn họ được, không những vô pháp hiểu được bọn họ, mà còn sinh ra ý muốn quay đầu bỏ đi.



Vương Hoằng kéo nhẹ tay áo gã, cùng gã ngồi xuống. Sương môn ở đằng sau đã đóng lại.



Người cầm phất trần nhắm mắt, thân thể nhẹ nhàng đung đưa, toàn bộ tinh thần tập trung nghe cầm tấu vô âm đó.



Vương Hoằng ghé sát tai Lưu Dụ nói nhỏ: “Đây là tiết mục thần giao của danh sĩ ở buổi tụ hội, có nguồn gốc từ ‘Đại Âm Hi Thanh’ của Lão Tử, ý tứ là âm nhạc làm động lòng người nhất là thanh âm không nghe thấy, mà Trang Tử cũng chỉ ra rằng, nhất thiết không dùng tai nghe mà dùng tâm để nghe. Mọi người đều cho rằng chỉ có loại âm vô thanh mới có thể không chịu bất cứ sự ràng buộc nào của nhạc khí và kỹ xảo, vứt bỏ mọi hình thức bên ngoài, chỉ dùng tâm ý, giải thoát khỏi trùng điệp chế ước, đạt được sự tự do lớn nhất.”



Nhìn thấy Lưu Dụ lộ ra thần sắc như không cho là vậy, hắn vội nói thêm: “Lưu huynh uống rượu phục dược xong sẽ hiểu phần nào lời ta nói.”



Lưu Dụ đương nhiên không thể li khai. Không chỉ bởi vì buổi tụ hội đêm nay tịnh không bình thường, mà có thể là cơ hội duy nhất để giết Can Quy. Lúc này gã ngồi quay mặt về cửa sổ, từ từ cởi Hậu bối đao xuống, đặt bên trái ghế ngồi. Chỉ cần tay trái cầm vỏ đao, tay phải gã có thể cấp tốc bạt đao, ứng phó bất kỳ cuộc tập kích nào.



Trước mặt gã và Vương Hoằng đều có một chiếc bàn vuông, phía trên bày một bộ đồ ăn, mặt bàn bốn thước vuông vức, tương đối rộng.



Gã tự vấn không có bản lĩnh “Tâm trung hữu nhĩ”, không nghe được “Đại âm” của “Hi thanh” mà người đó đàn. Bất quá ở trên lầu cao cảnh đẹp mê người, vẫn có thể hưởng thụ nhã thú trăng thanh gió mát mùa thu.



Trăm nghe không bằng một thấy.



Hắn hiện giờ đã hiểu rõ ràng cái gọi là “thanh đàm ngộ quốc”++.



Thanh đàm tịnh không chỉ là một trường thảo luận biện chứng, nói lý cãi lẽ đơn giản như vậy, mà là một loại thái độ xử thế và phương thức sinh hoạt, còn là một loại hình xa hoa lãng phí, thói quen phóng túng làm càn đến cực điểm. Những việc đi ngược lại với sự ràng buộc lễ giáo bị bẻ cong thành việc chính đáng. Cách sống phóng đãng không kiềm chế, hủ bại thấu đỉnh, tiết tháo trụy lạc đã khiến cho chính quyền Đại Tấn rơi vào khốn cảnh bước đường cùng, chỉ còn tạm kéo chút hơi tàn.



Bọn người trước mặt đúng là điển hình của loại phóng đãng trác táng, mải chơi không cầu tiến. Trong lòng bọn họ xét cho cùng là sung sướng hay đau khổ đây?



Lưu Dụ khó có thể tưởng tưởng nổi một trong số bọn họ lại có mối quan hệ với người của Can Quy.



Trước đây không biết họ, gã có thể theo lẽ thường mà phán đoán, nhận định. Nhưng vì đã quá rõ ràng bọn họ là loại người nào, nên gã đối với suy đoán của chính mình cũng mất đi lòng tin. Bởi vì căn bản không thể đối đãi như người thường với năm người trước mắt.



Có một số thứ không thể giả vờ được, thế gia danh sĩ là một trong số đó. Lúc khởi đầu, cái gọi là thanh đàm, có thể chỉ là những buổi tụ tập của danh sĩ để tìm thế giới khác bên ngoài sách vở, giả dại lánh trần. Nhưng khi các loại trào lưu thịnh hành phổ biến liên tục được truyền lại, sẽ xác lập thành một loại hình thức tư tưởng hành vi, được kế thừa tiếp tục, biến thành một loại phong tục và truyền thống không thể phá, mà năm người trước mắt chính là thể hiện của thói quen đó. Bọn họ căn bản thiếu đi cái dũng khí “nhân thế”, làm sao có thể vì Hoàn Huyền mà bán mạng, nhúng tay vào việc ngu xuẩn rất dễ rước lấy họa sát thân ấy.



Chẳng lẽ đêm nay chỉ là một sự nhầm lẫn, một trò cười huyên náo thôi sao?



Bỗng nhiên tiếng reo hò tán thưởng ngông cuồng vang lên khắp Đông sương, hóa ra “Cầm tấu” vừa mới chấm dứt.



Người tấu cầm trong tiếng hoan hô, mãn nguyện đứng lên, ngâm nga: “Đắc tượng tại vong ngôn, đắc ý tại vong tượng."+++



Vương Hoằng ho khan một tiếng, lôi kéo sự chú ý của mọi người về phía hắn. Sau khi thấy người nhắm mắt đã mở mắt, người nằm đã ngồi dậy, hắn mới nói: “Nào chúng ta hãy hoan nghênh Lưu Dụ Lưu đại nhân.”



Mọi người lại reo hò một trận.



Công tử mặc hoa phục, đầu đội khăn xếp màu trắng ấy, cầm cây phất trần phất nhẹ một tiếng ‘soạt’ rồi mới nói: “Vãn sinh Chư Cát Trường Dân, thỉnh Lưu đại nhân thứ cho tội đến sớm, chỉ vì sương phòng tầng năm phía đông này cũng giống như Vũ Bình đài của Kỷ Thiên Thiên, là thánh địa của Tần Hoài hà, có ngàn vàng cũng khó cầu, cho nên không dám lãng phí, từ giờ Thân đã tụ tập về nơi này để tìm hoan hưởng lạc."



Lưu Dụ nghe thấy trong lòng rung động, đang muốn hỏi vì sao gian sương phòng này khó cầu đến thế, lại chỉ có thể thu xếp trong vài ngày ngắn ngủi. Lúc đó vị công tử khuôn mặt thoa phấn mang lại cho người ta cảm giác đàng điếm ấy cầm bình rượu đứng lên đi đến quỳ trước mặt Lưu Dụ, vừa châm rượu cho Lưu Dụ, vừa cười nói: “Tại hạ là Si Tăng Thi, Lưu đại nhân lần đầu tham gia cuộc gặp gỡ của Kiến Khang lục hữu chúng tôi, có thể là không quen với hình dáng lãng tử phóng túng, hành động cuồng loạn rất thật của chúng tôi. Bất quá khi Lưu đại nhân hiểu rõ được rằng chỉ có vượt qua những ràng buộc câu thúc của lễ giáo và thế tục, mới có thể bộc lộ ra bản chất của mình. Lúc đó Lưu đại nhân sẽ có thể hiểu được chúng tôi.”



Đến tận thời khắc này, Lưu Dụ vẫn chưa biết nói chuyện gì cho phải, duy nhất chỉ biết là không thể hòa nhập với bọn họ dù chỉ một điểm, hoàn toàn không một chút tâm đầu ý hợp. Lại có một điểm hồ đồ là bọn họ muốn gặp gã là bởi lý do gì, chả lẽ là muốn biến gã thành người thứ bảy thêm vào “lục hữu” của bọn họ.”



Si Tăng Thi sau khi châm tửu xong cho Lưu Dụ, đoạn rót tiếp rượu vào chén của Vương Hoằng. Tuy miệng vẫn ngậm một tẩu thuốc dài nhưng vẫn nghe được hắn nói chuyện một cách rõ ràng, có thể thấy là đã được đào luyện tinh tường.



Người vốn lúc trước nằm ở một góc, sau một hồi ngồi yên lặng chợt đứng lên, bình rượu tiện tay đặt ở một bên. Thì ra người này dáng vẻ to khỏe khôi ngô, thần khí phong thái nhiếp người. Nếu không phải Lưu Dụ vừa tự mắt nhìn thấy tư thái phóng đãng của hắn, e rằng không thể tưởng tượng nổi con người trẻ tuổi triển vọng như thế lại lấy cuộc sống đồi trụy này đầu độc bản thân.



Vương Hoằng giới thiệu: “Vị này trước đệ đã từng đề cập với Lưu huynh. Đó là Chu Linh Thạch Chu huynh, văn võ song toàn, ở Kiến Khang e rằng khó kiếm nổi mấy người có bản sự như huynh ấy."



Người gảy đàn vô thanh phá lên cười: "Vương huynh nói vậy là không đúng rồi! Nhất bên trọng nhất bên khinh, chỉ đề cao Chu huynh, không lẽ những người khác không đáng nhắc tới chăng?"



Vương Hoằng cười nói: "Lưu huynh không cần trách hắn thẳng tính, Mao Tu Chi vẫn luôn như thế."



Lưu Dụ cuối cùng cũng tìm được cơ hội mở lời. Gã hướng về phía gã thanh niên vẫn ngồi dựa vách tường, ngực áo phanh ra, nói: “Vị này chắc hẳn là Đàn Đạo Tể huynh, thế mới biết Vương huynh tuyệt chẳng phải chỉ đề cao một người.”



Chư Cát Trường Dân lại phẩy phất trần một cái, đoạn cười nói: “Lưu Dụ quả nhiên là Lưu Dụ. Một câu là có thể giải thoát Vương huynh khỏi tai ương bị mọi người đồng thời công kích. Tốt lắm! Hội Hoài Nguyệt lâu Đông ngũ tầng có thể bắt đầu được rồi.”



Chú thích



* Hồng mộc: gỗ cây dái ngựa.



** Phù điêu, viên điêu, lũ không điêu, âm dương điêu: Điêu khắc nổi, điêu khắc chìm, điêu khắc rỗng, điêu khắc âm dương.


*** Bất luận thế sự, duy vịnh huyền hư: Không màng thế sự, chỉ ngâm thơ gảy đàn.



+ Tao: Nhã nhặn, có tài thi văn. Nhân: người. Mặc: mực. Khách: người.


Tao nhân là người có tài về thơ văn, đó là các thi sĩ. Mặc khách là khách cầm bút, đó là các văn sĩ. "Tao nhân mặc khách" là chỉ chung những thi sĩ và văn sĩ.



++ Thanh đàm ngộ quốc: thanh đàm hại nước.



+++ Ý nói được hình thì mất lời mà được ý thì mất hình.

394


Cùng Chung Tài V

ng


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*



Sau khi Cao Ngạn cùng Diêu Mãnh về đến Biên Hoang tập, lập tức đến Bắc Kỵ liên tìm Mộ Dung Chiến, báo cáo về việc đã bị tập kích ở trấn Hoang Cương. Đây là quyết định của Chung lâu hội nghị. Bất kỳ chuyện gì cũng phải thông báo cho chủ soái trước tiên, để còn định ra kế hoạch xử lý.



Mộ Dung Chiến tịnh không hề nhàn rỗi, gã đang nghị sự cùng Hô Lôi Phương, Giang Văn Thanh, Vương Trấn Ác và Lưu Mục Chi ở đại đường trong tổng đàn phía Tây môn của Bắc Kỵ liên. Sau khi nghe chuyện, ai nấy tâm tình đều trở nên nặng nề, không thể ngờ hôm nay lại nhận được tin tức Bí tộc đầu nhập về với Mộ Dung Thùy, khi đêm xuống đã có chiến binh của Bí tộc xuất hiện ở Biên Hoang.



Hô Lôi Phương nhíu mày hỏi: "Bí nhân làm như vậy phỏng có tác dụng gì? Nếu như họ đắc thủ, giết được Cao Ngạn, cũng chỉ rước lấy sự phản kích của chúng ta mà thôi.”



Mộ Dung Chiến hướng về phía Vương Trấn Ác nói: "Hiện giờ ở Biên Hoang tập, trừ Sóc Thiên Đại thì Trấn Ác là người thông thuộc Bí tộc nhất, ngươi đối với việc này có ý kiến gì không?”



Vương Trấn Ác trầm ngâm: "Bí nhân nhìn ra được nhược điểm của chúng ta, nên muốn triệt phá ưu thế của chúng ta, làm nền kinh tế của chúng ta mới được chấn hưng phải sụp đổ."



Giang Văn Thanh hừ lạnh: "Có chuyện dễ dàng thế sao?"



Diêu Mãnh hỏi: "Kẻ lén tấn công bọn ta có phải là Mặc Sĩ Minh Dao không?"



Do Vương Mãnh từng giao chiến với Bí tộc, lại đã từng bắt giữ tộc chủ của họ đưa về Trường An giam cầm, nên mọi người đều tin rằng tôn tử của Vương Mãnh là Vương Trấn Ác nhất định sẽ biết rõ về tình hình cũng như tác phong của Bí tộc.



Vương Trấn Ác nói: "Khả năng này rất thấp, Mặc Sĩ Minh Dao là lãnh tụ kiệt xuất nhất của Bí tộc trong gần trăm năm trở lại đây, nếu quả đúng là nàng xuất thủ, chỉ sợ Cao công tử đã một đi không trở lại."



Mộ Dung Chiến ngạc nhiên: Mặc Sĩ Minh Dao quả thật lợi hại như vậy sao?"



Vương Trấn Ác nói: "Năm đó Mặc Sĩ Nỗ Nã bị cầm tù tại thiên lao của Trường An, do các cao thủ Đê tộc canh giữ, nhưng Mặc Sĩ Minh Dao vẫn có thể dựa vào tin tình báo do Mộ Dung Thùy cung cấp, xâm nhập vào cung cứu Mặc Sĩ Nỗ Nã đã bị phế võ công ra, từ chuyện này có thể thấy tài trí võ công của nàng đến mức nào."



Cao Ngạn nói: "Nhưng kẻ xuất thủ thâu tập chúng ta đêm nay công phu cũng không tệ. Ngay cả Diêu Mãnh cũng bị hắn một kiếm chấn lui. Hà!”



Diêu Mãnh bực bội trừng mắt nhìn gã.



Vương Trấn Ác nói: "Đây là võ công tâm pháp khiến cho Bí tộc có thể trở thành thích khách đáng sợ nhất, là trong khoảnh khắc có thể dựa vào bí pháp vận công độc môn để đề tăng công lực lên đến cực hạn, rồi lại đem toàn thân công lực phát huy hết trong một khoảng thời gian ngắn, nên không thể duy trì được lâu, sau một số đòn tập kích mà không thành công, ắt phải lập tức đào tẩu, đợi công lực hồi phục lại như cũ”



Diêu Mãnh gật đầu đáp: "Đúng! Thích khách đến đã nhanh, mà thoát đi cũng hết sức đột ngột, đúng như tình huống mà Vương huynh đã nói. Ôi! Gã tiểu tử Bí tộc này làm ta nghĩ đến thân pháp của Hoa Yêu."



Vương Trấn Ác nói: " Diêu huynh đã nói ra một nghi vấn từ lâu của chúng ta, chính là việc Hoa Yêu rất có thể là cao thủ đến từ Bí tộc. Hoa Yêu võ công cao cường khỏi phải nói, nhưng lợi hại nhất phải là độn thuật của hắn, giúp hắn dù liên tục hãm nhập thiên la địa võng vẫn có thể đột phá vòng vây một cách thành công."



Hô Lôi Phương hít vào một hơi khí lạnh nói: "Mẹ ơi! Nếu như chiến binh Bí tộc ai ai cũng đều lợi hại như Hoa Yêu, thì trận này làm sao mà đánh được đây?"



Vương Trấn Ác bình thản mỉm cười đáp: "Nếu như Hoa Yêu đúng là Bí nhân, thì hắn khẳng định phải là cao thủ siêu quần bạt tụy trong tộc. Bí nhân không có mấy người được như hắn đâu, các vị có thể yên tâm đi."



Giang Văn Thanh hỏi: "Chúng ta nên ứng phó với bọn chúng như thế nào?"



Lưu Mục Chi điềm đạm nói: "Trước tiên chúng ta phải hiểu rõ ý địch nhân, xem thực ra bọn chúng có ý đồ gì? Tại sao lại phải xuất thủ với Cao thiếu?"



Mộ Dung Chiến nói: "Có khả năng Bí nhân muốn thị uy với chúng ta!"



Lưu Mục nói tiếp: "Nếu chỉ vì muốn thị uy thì chỉ cần tùy tiện giết một vài người là xong. Nhưng hành động thích sát đêm nay dường như chỉ đối phó với một mình Cao thiếu."



Hô Lôi Phương nói: "Chẳng lẽ hắn từ Biên Hoang tập liên tục theo dõi Cao Ngạn, mãi đến trấn Hoang Cương mới hạ thủ?"



Lúc này Thác Bạt Nghi mới đến, vẻ mặt vui vẻ, ngạc nhiên hỏi: "Mọi người sao lại tập trung hết cả ở đây thế này?"



Mộ Dung Chiến vui mừng đáp: "Thỉnh Thác Bạt đương gia ngồi xuống, bọn ta đang gặp chuyện đau đầu đây!"



Thác Bạt Nghi ngồi xuống chiếc ghế cạnh Mộ Dung Chiến, nói: "Đầu tiên phải báo một tin tốt lành, ta nhận được tin vui từ phương bắc truyền đến, tộc chủ của bọn ta đã quyết định phái người áp tải năm xe hoàng kim đến Biên Hoang tập, muốn chúng ta tiếp ứng trên đường."



Mọi người nghe xong đều ngây người ra, không biết nên cao hứng hay nên kinh hoàng.



Thác Bạt Nghi ngạc nhiên gạn hỏi: "Đây không phải là một tin rất tốt lành hay sao? Chúng ta hiện giờ đang rất thiếu vốn cho việc kinh doanh vận tải mà."



Lưu Mục Chi nói: "Trước tiên ta muốn hỏi một vấn đề ngoài lề, muốn thiết lập hệ thống phi cáp có thể truyền thư ngoài ngàn dặm, thì phải mất bao nhiêu thời gian?"



Thác Bạt Nghi tuy không rõ ý tứ vấn đề mà lão nêu ra nhưng vẫn nén nghi ngờ trả lời: "Bọn ta mất khoảng hai năm."



Lưu Mục hướng về mọi người nói: "Đây chính là đáp án, Bí nhân không thể trong khoảng thời gian ngắn thiết lập một hệ thống thông tin hoàn thiện. Sau khi đến Biên Hoang, thám tử của bọn chúng muốn truyền tin tức trở về địa phương phía bắc Tù Thuỷ tất phải dùng người để truyền tin, không những tốn thời gian mà Bí tộc còn khó phát huy được tác dụng của chúng. Muốn xoay chuyển thế bất lợi, bọn chúng ắt phải bỏ công ở hai phương diện. Đầu tiên là phải nắm rõ tình huống ở Biên Hoang, thiết lập một hệ thống truyền tin tình báo nhanh chóng hữu hiệu; mặt khác, phải phá hoại làm giảm năng lực truyền đạt thông tin tình báo của chúng ta. Cao thiếu là đệ nhất phong môi của Biên Hoang tập, lại là thủ lĩnh phụ trách thám thính nội tình của địch. Trừ được gã sẽ làm suy yếu năng lực nắm bắt địch tình của chúng ta. Trong tình huống kẻ mất người được, địch nhân sẽ có thể thu hẹp được khoảng cách với chúng ta trong việc thu thập thông tin tình báo."



Thác Bạt Nghi ngẩn ngơ hỏi: "Cao thiếu bị Bí nhân thích sát à?"



Cao Ngạn mặt mày khổ não rên rỉ: "Thật ra ta gặp vận hạn gì đây? Lúc nào cũng là mục tiêu thích sát của kẻ khác, sau này còn có thể ngủ yên được nữa hay không?"



Giang Văn Thanh trước tiên giải thích tình hình cho Thác Bạt Nghi, sau đó nói: "Lưu tiên sinh đúng là suy đoán chặt chẽ, từ hành động thích sát Cao tiểu tử của đối phương mà đoán ra kế hoạch của địch nhân. Bất quá bảo vệ Cao tiểu tử thì dễ, nhưng muốn bảo vệ cả Biên Hoang tập lẫn khách thương qua lại thì khó như lên trời. Sợ rằng ngày mai sẽ có tin tức truyền về, một đội thương lữ nào đó trên đường đến Biên Hoang toàn thể bị ngộ hại, hay có người tham gia đoàn du ngoạn Biên Hoang bị giết trong tập, thì Biên Hoang tập chúng ta sẽ gay lắm đấy!"



Thác Bạt Nghi than: "Chẳng ngạc nhiên khi các ngươi nghe có người mang vàng đến lại chau mày ủ mặt vậy. Ôi! Hiện giờ ta cũng lo Bí nhân nghe được phong thanh về việc vận chuyển vàng."



Lưu Mục Chi ung dung nói: "Binh đến thì tướng ngăn, trong tình thế hiện giờ, không có địch nhân nào mà Hoang nhân chúng ta đối phó không lại cả; cũng không có việc gì mà Hoang nhân chúng ta không giải quyết được. Vì Biên Hoang tập là địa phương tập trung tinh anh trong thiên hạ, cần nhân tài gì có nhân tài ấy. Xin các vị cho ta trình bày ý kiến."



Mọi người đã sớm tâm phục khẩu phục đối với tài trí siêu phàm của lão, liền vội vàng xin chỉ giáo.



Lưu Mục nói: "Thiên biến vạn hóa cũng không thoát khỏi bản thể, nói đến cùng vẫn không ngoài bốn chữ "biết mình biết người". Lần này Mộ Dung Bảo viễn chinh Thịnh Nhạc, toàn quân bị tiêu diệt, đối với thực lực Yên quốc đã là một đả kích nghiêm trọng, làm Đại Yên rơi vào nguy cơ to lớn nhất từ khi lập quốc đến giờ. Có thể nói như thế này, Yên nhân bảo vệ được thành trì ở một dải kinh đô Trung Sơn đã là giỏi chứ đừng mong nhắc đến chuyện thu phục Bình Thành và Nhạn Môn."


Mọi người biết đây chỉ là đoạn mở đầu nên không ngắt lời, yên lặng nghe lão tiếp tục nói.



Lưu Mục Chi dừng lại một lúc, quan sát phản ứng của mọi người, đoạn ung dung nói tiếp: "Lực lượng quân đội duy nhất có thể phản kích Thác Bạt tộc nằm trong tay Mộ Dung Thuỳ, nhưng vì vừa mới phá tan Mộ Dung Vĩnh, đại cuộc tuy đã định song muốn tận diệt lực lượng tàn dư của hắn phải mất thêm một thời gian nữa. Nếu như Mộ Dung Thùy đột nhiên tập trung binh lực phản công Bình Thành và Nhạn Môn, ắt sẽ bị bá chủ các phương khác thừa cơ xâm lấn, chiến quả trăm cay nghìn đắng mới có được sẽ đành cung kính dâng cho kẻ khác, đó thật là hành vi của kẻ bất trí. Mà điều cố kỵ nhất của Mộ Dung Thùy là sợ dẫm vào vết xe đổ của con mình, lao sư động chúng viễn chinh mà lại không thấy tăm hơi quân Thác Bạt đâu cả. Vì vậy hắn mới phải cầu đến sự báo ân trợ quyền* của Bí tộc."


Thác Bạt Nghi tán thưởng: "Tiên sinh phân tích thấu triệt vô cùng, cứ như tận mắt chứng kiến vậy."



Giang Văn Thanh nói: "Theo cách nói của tiên sinh, sợ rằng trong nửa năm một năm, Mộ Dung Thùy khó mà dụng binh được đối với Biên Hoang tập chúng ta."



Lưu Mục Chi nói: "Nên nói thế này: ngày nào Mộ Dung Thùy chưa hoàn toàn nắm được tình thế xác thực, ngày đấy hắn còn không dám khinh cử vọng động."



Cao Ngạn lập tức hai mắt lóe sáng: "Vậy nếu như chúng ta không để Bí nhân nắm bắt được thực hư, thì Mộ Dung Thùy cũng sẽ không thể đến tiến công chúng ta nữa ư?"



Hô Lôi Phương cười khổ: "Việc này nói thì dễ nhỉ?"



Vương Trấn Ác nói: "Tình huống Lưu tiên sinh chỉ ra đích thực rất tổng thể, bao quát được tình thế Bắc phương và bố trí chiến lược của Thác Bạt tộc. Chỉ cần Mộ Dung Thùy thấy có cơ hội, sẽ lập tức dùng kỳ binh đột tập, chỉ đánh một trận là thu được thành công. Đây chính là nguyên nhân hắn xem trọng Bí tộc, vì Bí tộc có thám tử thiên hạ vô song và thích khách cực kỳ đáng sợ.”



Mộ Dung Chiến trầm giọng nói: "Biên Hoang tập là một thành tập không có tường thành phòng vệ, hoàn toàn thông thoáng với bên ngoài, đối với Bí nhân lại càng không thể đề phòng được. Đây là nhược điểm và sơ hở mà chúng ta không thể có cách nào bù đắp được."



Lưu Mục Chi thần thái vẫn ung dung, mỉm cười: "Ta chưa bao giờ nghĩ có những sơ hở không thể bổ cứu được, phương pháp của chúng ta là nhân tận kỳ tài, vật tận kỳ dụng**."



Mộ Dung Chiến nói: "Cả đời ta lần đầu tiên có người phản đối nhận định của mình mà vẫn cảm thấy cao hứng, rốt cuộc làm thế nào để nhân tận kỳ tài, vật tận kỳ dụng đây?"




Bảy chỗ ngồi được sắp xếp thành hình bán nguyệt trong sương phòng vuông vắn, bốn phía đều có cửa sổ chấn song dài xuống sát đất, để ai nấy đều có thể thưởng lãm phong cảnh cung thành Kiến Khang ở bên ngoài.



Lưu Dụ ngồi giữa ở chủ vị, bên trái là Mao Tu Chi, Chư Cát Trường Dân và Si Tăng Thi; bên phải là Vương Hoằng, Chu Linh Thạch, Đàn Đạo Tể.



Mọi người đầu tiên nâng ly đối ẩm, cùng cạn một ly.



Rượu vào đến cổ họng, Lưu Dụ biết ngay không có độc, mặc dù đã có ví dụ của Cao Ngạn trước kia nhưng Lưu Dụ đối với mình cũng không xác nhận được có năng lực kháng độc hay không. Trong lòng gã vẫn thấy hoài nghi bất an. Trước khi địch nhân phát động, gã cũng không chắc tí nào có khu trục được độc tố đã xâm nhập vào thể nội hay không, vì vậy trong rượu không có độc đương nhiên là một việc tốt.



Vương Hoằng nghiêm mặt nói: "Đêm nay Vương Hoằng ta có thể mời Lưu huynh đến quả là chuyện không dễ, mọi người chắc cũng biết ta đang nói về chuyện gì. Mà Lưu huynh cũng không tiện ở lại đây lâu. Vì nguyên nhân này, ta đã định ra quy tắc cho buổi tụ hội đêm nay, mọi người phải nghiêm chỉnh chấp hành."



Lưu Dụ và Vương Hoằng đã thương lượng trước về những lời này để rút ngắn thời gian Lưu Dụ lưu lại Hoài Nguyệt lâu, nhằm bảo toàn trạng thái tốt nhất cho gã ứng phó với thích khách của địch nhân. Nếu không Lưu Dụ cơm no rượu say, sự cảnh giới qua một thời gian dài sẽ giảm, đối với gã chỉ có hại mà không có lợi.



Chu Linh Thạch nói: "Chúng ta đương nhiên biết rõ, thỉnh Vương huynh chỉ đường."



Trong năm danh sĩ Kiến Khang ở đây, Lưu Dụ có ấn tượng tốt với Chu Linh Thạch và Đàn Đạo Tể. Tại sao có ấn tượng như thế quả không thể nói ra đạo lý, chỉ thuần túy là dựa vào trực giác cảm nhận.



Vương Hoằng nói: "Đêm nay Lưu huynh chỉ uống một chén rượu, không ăn cơm, không hút thuốc, không trò chuyện phiếm, không gọi ca kỹ. Các vị mỗi người chỉ được hỏi một câu, Lưu huynh sau khi trả lời xong sẽ rời đi, mọi người sẽ coi như chưa từng gặp Lưu huynh."



Mao Tu Chi nhíu mày: "Ta bụng đầy nghi vấn, hy vọng Lưu huynh có thể giải quyết giùm. Một câu hỏi làm sao đủ được?"



Đàn Đạo Tể cười: "Cực kỳ đơn giản. Vương huynh đưa ra điều kiện chỉ hỏi một câu thực ra chứa đầy ý vị thiền cơ đạo pháp, vừa khảo sát công lực truy vấn của chúng ta, bên trong cũng rất thú vị là vừa xem xét phạm vi mà câu hỏi đề cập đến. Ví như Đại Tấn của ta sau này sẽ đi đâu về đâu, Lưu huynh có thể phải nói đến sáng cũng chưa thể thoát thân được. Hà hà!"



Vương Hoằng cười: "Ta vẫn chưa nói rằng câu hỏi không được liên quan đến phương diện thay đổi triều đại, nếu không cuộc gặp đêm nay sẽ làm mọi người phạm phải đại tội bị chém đầu."



Chư Cát Trường Dân nói: "Đạo Tể chỉ đùa thôi mà, chúng ta đều biết cân nhắc nặng nhẹ, Lưu huynh và Vương huynh yên tâm."



Lưu Dụ nghe họ nói có chút lơ đãng, vì tâm trí một nửa phải phân ra nghe ngóng động tĩnh phía ngoài sương phòng, đáng lý ra phải có tin tình báo mới nhất truyền đến, để gã có thể nắm được tình hình về Can Qui.



Vương Hoằng nói: "Tốt! Mọi người đã nắm vững qui tắc, ai sẽ hỏi trước đây?"



Si Tăng Thi hỏi: " Trước hết ta có thể giải thích tại sao chúng ta muốn gặp Lưu huynh được không? Như thế khi Lưu huynh trả lời câu hỏi của bọn ta trong lòng mới có thể rõ ràng một chút. Bởi những lời tối nay chỉ được giới hạn trong một phạm vi trói buộc, lại không thể một câu nửa chữ mà nói xong được."


Vương Hoằng nhìn về phía Lưu Dụ, ngụ ý do gã quyết định.



Lưu Dụ không thể không thu hồi tâm trí, gật đầu: "Tốt thôi! Các vị tại sao lại muốn gặp một tiểu tướng bất đắc chí của Bắc Phủ quân như ta?"



Chư Cát Trường Dân nói: "Danh vọng của Lưu huynh đâu chỉ như một tướng lĩnh bình thường ở Bắc Phủ binh. Ta khá quen biết với tướng quân Lưu Nghị, đồng hương kiêm bạn học của Lưu huynh, từ chỗ y mà biết được rằng tên tuổi Lưu huynh trong đám quan tướng nơi quân ngũ, Lưu Lao Chi so ra còn xa mới bằng được. Ta không nói nguyên nhân, tuy nhiên nếu tuân theo quy tắc thì không nói ra cũng là hợp lý. Chúng ta đêm nay phơi bày gan ruột, mong Lưu huynh tin tưởng."



Trong lòng Lưu Dụ thấy rất ngạc nhiên, Lưu Nghị nói tốt cho mình, rốt cuộc là muốn hại mình hay giúp mình. Nếu vế đầu là đúng thì chắc hẳn hắn mượn cớ giúp mình để thay đổi hướng chú ý của triều đình.



Chư Cát Trường Dân không dám nói ra nhưng ai nấy đều hiểu rõ. Đó là thân phận người kế thừa Tạ Huyền và câu sấm truyền "Nhất tiễn trầm Ẩn Long" mà Lưu Dụ có được.



Lưu Dụ cười: "Các vị đã quá kỳ vọng vào ta. Tốt thôi! Ta đã hiểu rõ! Ai sẽ hỏi câu đầu tiên đây?"



Mọi người đưa mắt nhìn nhau, do dự không biết có nên là người đầu tiên đưa ra câu hỏi không.



Vương Hoằng gợi ý: "Lưu huynh chỉ định được không?"



Lưu Dụ nói bừa: "Đạo Tể huynh vậy!"



Đàn Đạo Tể hân hoan nói: "Vốn ai nấy đều muốn tranh nhau nói, giờ lại biến thành ai cũng tiếc lời vàng ngọc bởi sợ phí mất câu hỏi quí báu. Giờ đây Kiến Khang nhân tâm bối rối, hết sợ Thiên Sư đạo như lửa hoang đồng cỏ lan đến Kiến Khang lại lo Hoàn Huyền tạo phản. Vì vậy lòng người không yên hy vọng có cơ hội biến chuyển thần kỳ, lại càng nhớ đến thời thái bình an thịnh lúc trước khi An Công, Huyền Soái còn tại thế. Ôi! Nói quá xa rồi, điều mà ta muốn hỏi là Tạ Diễm phải chăng giống Tạ Vạn, cũng chỉ là một kẻ 'bạch vọng'?"



Gã lại tiếp: "Ta hỏi vấn đề này là có dụng tâm, hi vọng Lưu huynh có thể vứt bỏ cố kỵ, giãi bày trung thực để chúng ta còn biết mà theo, cũng để tối nay tụ hội mọi người có thể nói chuyện có ý nghĩa, chứ không phải bàn chuyện phù phiếm."



Tạ Vạn là em Tạ An, thông minh tuấn tú, giỏi khoe khoang, mặc dù thanh danh còn xa mới bằng Tạ An nhưng cũng có chút danh khí trong giới sĩ phu. Đương thời có thuyết "Phan An Đề Vạn", ý nói phải leo lên mới có thể tới độ cao của Tạ An, trong khi leo giữa chừng có thể rẽ ngang sẽ đến chỗ Tạ Vạn ở dưới, từ đó có thể thấy được khoảng cách khác biệt giữa hai người trong tâm trí mọi người.



Tạ Vạn tuy là danh sĩ tâm cao khí ngạo ngông cuồng nhưng đối với chuyện thống lĩnh quân đội lại không có tư cách nhắc đến. Được triều đình bổ nhiệm chức Tây Trung lang tướng, Dự Châu thứ sử kiêm Hoài Nam thái thú, nhưng vẫn không thay đổi thói quen phong lưu phóng đãng của danh sĩ, cả ngày chỉ uống rượu viết nhạc, không quan tâm đến việc quân vụ, kết quả thảm bại về tay Hồ nhân, một người một ngựa đào tẩu, bị biếm làm dân thường, đã sớm chết vì bệnh. Tạ An chính vì vậy mới bắt buộc phải rời Đông Sơn, quản lý việc triều chính.



Lưu Dụ đương nhiên biết Tạ Vạn có tài gì, Đàn Đạo Tể lấy Tạ Diễm so sánh với Tạ Vạn không phải là nói tốt. Tuy nhiên gã không rõ cái gì là "bạch vọng", bèn hỏi: "Bạch vọng có nghĩa là gì?"



Vương Hoằng giải thích: "Hiện nay ở Kiến Khang lưu hành thuật ngữ 'bạch vọng' ý để chỉ hư danh, không có danh vọng. Từ "bạch vọng" lại sinh ra 'dưỡng vọng', chỉ cần đàm luận những điều cao siêu bí ẩn, rượu chè phóng khoáng, phóng túng buông tuồng chuyện lễ giáo, trở thành danh sĩ, sẽ có cơ hội kiếm được quan chức."



Mao Tu Chi nói: "Từ thời Hán mạt đến nay, con đường duy nhất để có được quan chức là 'dưỡng vọng'. Vì vậy mới có câu 'Tuyển quan dùng người, không cần thực đức, chỉ cần bạch vọng, không cầu tài cán'."



Si Tăng Thi nói: "Câu 'Trước bạch vọng sau thực sự' như An công và Huyền soái đều là ví dụ đặc biệt trong mọi ví dụ. Nhưng Tạ Vạn lại là 'bạch vọng' từ đầu đến đuôi. Đạo Tể huynh lo Tạ Diễm cũng là một loại bạch vọng nữa, vậy thì triều đình nguy mất."



Vương Hoằng nói: "Lưu huynh hiện tại cần minh bạch Kiến Khang lục hữu bọn ta đều là những người có tâm, không như bọn danh sĩ khác chỉ giỏi miệng lưỡi biện bạch để chống lại hiện thực. Xin Lưu huynh yên tâm nói thẳng."



Lưu Dụ thực sự trong lòng khó xử, nếu những lời bất mãn Tạ Diễm bị truyền ra ngoài, liệu có bị coi là kẻ ăn cháo đá bát hay không? Gã ngược lại không lo những lời nói ở đây truyền đến tai Tư Mã Đạo Tử, vì Tư Mã Đạo Tử đã sớm biết cách nhìn của gã đối với Tạ Diễm.



Đúng lúc này gã nghe được tiếng gõ tường làm ám hiệu từ bên ngoài truyền lại.



Lưu Dụ mỉm cười: "Trước tiên ta phải ra ngoài thay đổi không khí cái đã, khi quay về sẽ trả lời câu hỏi của Đạo Tể huynh."



Ai nấy ngạc nhiên.



Chỉ có Vương Hoằng biết rõ tại sao như vậy.



---------------


* Vì báo đáp ơn nghĩa mà ra tay trợ giúp



** Nhân tận kỳ tài, vật tận kỳ dụng: Người thì tận dụng hết tài năng, vật thì tận dụng hết tác dụng. Ý nói phát huy tối đa khẳ năng và tác dụng của những gì đang có.

395

Nhan tan ki tai


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Lưu Mục Chi nói: "Thực lực chân chính của Bí tộc, chỉ sợ ngoài người trong tộc ra, không ai biết rõ, nói 'vĩnh viễn không vượt quá con số một ngàn' sợ rằng cũng chỉ là tin đồn thất thiệt, không thể coi là chuẩn xác. Bất quá nhân số cũng không thể đông đúc hỗn tạp, nếu không thì chẳng có lời dèm pha như vậy."



Giang Văn Thanh nói: "Nhận định này cũng có đạo lý. Chủng tộc thần bí này luôn gợi lòng hiếu kì của người khác, cộng thêm đủ loại xuyên tạc phụ hoạ và tin đồn truyền khắp chốn nữa."



Lưu Mục Chi nói: "Chiến binh Bí tộc có thể phái đi giúp Mộ Dung Thùy đấu với thiên hạ nhân số nhất định hạn chế, bởi vì nhất định phải lưu lại đủ để bảo vệ người già yếu hoặc để bảo vệ địa bàn của bọn họ ở sa mạc. Nếu cả tộc tính là ngàn người, có thể động viên được một nửa là năm trăm người cũng đã giỏi lắm rồi."



Thác Bạt Nghi đồng ý: "Ước tính như thế dù không đúng nhưng cũng không sai là mấy. Như lời tiên sinh nói trước kia, chiến binh Bí tộc sẽ phân tán ra các chiến tuyến khác nhau. Thế nhưng, bằng vào chiến thuật và mưu lược của Mộ Dung Thùy khẳng định sẽ tập trung chiến binh Bí tộc lại ứng phó trên cả hai chiến tuyến là tộc ta cùng với Biên Hoang. Trong đó Biên Hoang là chủ yếu, bởi vì Sóc Bắc chính là địa phương Bí nhân hiểu rõ nhất, một ít chiến binh cũng đủ để đảm đương các nhiệm vụ trinh sát và xâm nhập.



Mộ Dung Chiến động dung: "Cách nhìn của Thác Bạt đương gia rất có đạo lý, Bí nhân sẽ tập trung lực lượng để đối phó với Hoang nhân chúng ta, tiến hành đủ loại trinh sát, thủ đoạn phá hoại, làm cho Biên Hoang tập vô phương phục hồi, chịu những tổn hại nghiêm trọng. Khi chúng ta tự lo cho mình còn không được, thì Mộ Dung Thùy lúc đó có thể hướng mũi thương về phía Thác Bạt tộc. Nếu Thác Bạt tộc mà bị đánh bại hoặc bị dồn về đại thảo nguyên, bọn ta lúc đó cũng sẽ đi đời."



Hồ Lôi Phương thở ra một hơi: "Đó là sách lược hữu hiệu nhất của Mộ Dung Thùy hiện nay để phá hoại liên minh giữa chúng ta, nếu vận dụng thỏa đáng thì căn bản không phải dụng binh đối với Biên Hoang tập.”



Diêu Mãnh hỏi: "Lưu tiên sinh đối với việc này có biện pháp ứng phó gì không?"



Lưu Mục Chi bình tĩnh đáp: "Bọn ta phải cùng Bí tộc đối đầu một trận hoàn toàn quyết liệt."



Cao Ngạn vò đầu hỏi: "Đối với Bí nhân lai vô ảnh khứ vô hình làm sao có thể đối đầu quyết liệt được?”



Lời của gã đúng là nghi hoặc trong lòng mọi người, nếu như song phương bày binh bố trận chính diện quyết chiến, khẳng định Bí nhân sẽ bị tiêu diệt toàn quân. Nhưng chỗ phiền hà nhất của Bí nhân là bọn họ quen tác chiến trong hoàn cảnh ác liệt nhất, thần xuất quỷ mạt, dù địch nhân thực lực có cường đại đến đâu cũng không thể chạm được đến sườn họ, lợi dụng ưu thế địch sáng ta tối, phát huy sức phá hoại đáng sợ nhất.



Lưu Mục Chi nói: "Bí nhân thâu tập chúng ta đêm nay chắc là quân tiên phong của họ, thích sát Cao thiếu lần này chỉ là hành động bột phát, tịnh không có dự mưu, chỉ là bỗng nhiên có được cơ hội, hi vọng một kích thành công. Từ đây có thể thấy được Bí nhân hiện nay chỉ có thể hiểu rõ bề ngoài của chúng ta, còn xa mới nói là hiểu rõ như lòng bàn tay được. Nếu như trước khi Bí nhân nắm rõ được tình hình của bọn ta, chúng ta đánh bại toán quân đang không ngừng tiếp cận Biên Hoang của họ, tính toán thiển cận của Mộ Dung Thuỳ sẽ như chuông vỡ gõ không lên tiếng được.”



Mọi người đều nhìn Lưu Mục Chi không chớp mắt, đến giờ khắc này vẫn không đoán ra được sách lược ứng phó của hắn.



Lưu Mục Chi cười nói: "Nếu như Bí nhân hiểu biết toàn diện về chúng ta hơn, mục tiêu cần giết nhất không phải là Cao thiếu mà là Phương tổng tuần của chúng ta.”



Ai nấy đều cảm thấy phân tích của hắn đột ngột chuyển hướng, khiến mọi người không ai hiểu đầu cua tai nheo thế nào.



Giang Văn Thanh kinh ngạc nói: "Hoá ra tiên sinh hiểu rõ bản lĩnh đặc thù của Phương tổng tuần, thật khiến người bất ngờ mà."



Lưu Mục Chi vui vẻ nói: "Đây là vấn đề ‘Biết mình’. Mấy ngày gần đây, ta luôn luôn tìm cách lý giải Biên Hoang tập, cảm thấy hứng thú tại sao Phương tổng tuần lại trở thành tổng tuần bộ của Biên Hoang tập, lại có tư cách đại biểu tại Oa hội."



Diêu Mãnh hỏi: "Phương tổng có thể phát huy tác dụng gì trong tình huống này?"



Lưu Mục Chi trả lời: "Nếu như người chúng ta muốn đối phó không phải là Bí tộc, cái mũi nhanh nhạy của Phương tổng tuần khó mà phát huy được tác dụng. Thế nhưng đối với Bí tộc, cái mũi của Phương tổng tuần chính là khắc tinh. Mấy đời Bí tộc đều lấy sa mạc làm nhà, thói quen lối sống và đồ ăn thức uống đều khác biệt so với các tộc ở ngoài sa mạc khác, cho nên có mùi vị thân thể đặc dị. Điều này có thể chứng minh được, chỉ cần lập tức đưa Phương tổng đến trấn Hoang Cương, gã có thể khi khí vị chưa tiêu tán hết nắm lấy dạng khí vị của thích khách Bí tộc nọ."



Cao Ngạn vui mừng: "Nếu như bọn ta có thể lập tức đuổi theo bắt sống hắn trước khi công lực hắn kịp phục hồi. Ha ha! Quả nhiên là cao chiêu."



Lưu Mục Chi nói: "Truy tìm địch nhân theo cách này khó mà tự tin được, càng lãng phí thời gian vô tích sự. So ra có một cách sáng suốt hơn, là sau khi Phương tổng nắm được khí vị thân thể đặc thù của Bí nhân thì trở về Biên Hoang tập tiến hành hành động dùng khứu giác tìm kiếm địch nhân. Chỉ cần bố trí phù hợp là chúng ta có thể tung lưới tóm gọn địch nhân đã tiềm nhập trong Tập. Sau khi hoàn thành bước thứ nhất, chúng ta có khả năng tiện tay triển khai hành động ra toàn miền Biên Hoang, hóa bị động thành chủ động."



Chúng nhân đồng thanh khen hay.



Lưu Mục Chi nói: "Một mặt chúng ta phải chống lại các chiến binh Bí tộc xâm nhập Biên Hoang, mặt khác chúng ta phải có sự phân bổ mới về quân sự ở Biên Hoang tập. Bước thứ nhất là chuyển công tác chế tạo chiến thuyền đến Phượng Hoàng hồ, khiến Phương Hoàng hồ trở thành một trung tâm quân sự bên ngoài Biên Hoang tập, có thể hỗ tương hô ứng với Biên Hoang tập, phòng thủ lại càng dễ dàng hơn, cũng có thể chi viện cho Thọ Dương, nhất cử lưỡng tiện. Đương nhiên là việc này cần nhiều tiền của nhưng chỉ cần năm xe hoàng kim của phương Bắc đến Biên Hoang tập thành công, những vấn đề khó khăn về tiền bạc đều được giải quyết dễ dàng.”



Giang Văn Thanh nói: "Bọn ta luôn muốn xây dựng Phượng Hoàng hồ thành cứ địa quân sự, chẳng qua do thiếu tài vật thôi."



Hồ Lôi Phương nói: "Đây là sách lược vô cùng cao minh."



Vương Trấn Ác nói: "Ta tình nguyện phụ trách hộ tống hoàng kim, tiến hành một kế dụ địch khác."



Lưu Mục Chi vui vẻ: "Vương huynh quả nhiên là người thông minh."



Mộ Dung Chiến và Thác Bạt Nghi nhìn nhau, cùng cảm thấy kinh ngạc đối với khả năng suy nghĩ mẫn tiệp của Vương Trấn Ác, Bọn họ vừa nghĩ đến việc có thể dễ dàng biến việc vận chuyển vàng làm kế dụ địch thì Vương Trấn Ác đã nói trước một bước rồi.



Lưu Mục Chi nói: "Hành động chống lại Bí tộc đêm nay sẽ bắt đầu từ giờ phút này, một mặt phiền Thác Bạt đương gia lập tức phi cáp truyền thư, thông báo cho quý tộc chủ những sự việc liên quan đến việc vận chuyển hoàng kim, mặt khác thỉnh Phương tổng động thân đến trấn Hoang Cương, sáng sớm ngày mai, tình thế địch tối ta sáng sẽ hoàn toàn đảo ngược lại.




Thành Thọ Dương.



Ở bên ngoài tổng đàn Dĩnh Thủy bang xuất hiện một gã thiếu niên vận thanh y, tả thủ cầm kiếm, lưng đeo túi hành lý nhỏ, đội nón sụp xuống tận mắt.



Hai hán tử trông cửa thấy gã muốn sấn vào liền vội vã đưa tay cản lại. Hán tử cao hơn quát: "Tiểu tử muốn tìm ai?"



Gã thiếu niên cộc cằn nói giọng thô lỗ: "Ta đến tham gia du ngoạn Biên Hoang."



Hai hán tử nhờ ánh đèn trên cửa đưa mắt xem xét kỹ, chỉ thấy gã thiếu niên mặt mũi tuấn tú tuyệt luân chẳng hợp tí nào với giọng nói của gã, nhất thời cùng trợn mắt ngẩn ngơ.



Gã thiếu niên nói tiếp: "Hai người các ngươi trước tiên trả lời câu hỏi của ta, du ngoạn Biên Hoang có một qui định, chỉ cần đến tham gia du ngoạn Biên Hoang, dù là địch nhân cũng phải toàn tâm chiêu đãi à?"



Gã thiếu niên nói năng không khách khí, ngữ điệu như ra lệnh. Bất quá hai người bị phong thái của gã nhiếp hồn nên cả hai đều không phát sinh phản cảm. Người kia nói: "Đúng là có một điều qui định như vậy. Hà! Cái loại tiểu tử miệng còn hôi sữa như ngươi thì có tư cách gì mà đối đầu với Hoang nhân?"



Gã thiếu niên tuy bị nói là miệng còn hôi sữa nhưng chẳng hề bực mình, quát lên: "Thế thì được rồi, ít nói lời thừa đi, ta cần tham gia đoàn ngay lập tức, ngày mai đi thuyền đến Biên Hoang tập."



Hai hán tử nhìn nhau cười lớn.



Hán tử lúc đầu nói: "Muốn báo danh phải đến Biên Hoang đại khách sạn, bất quá hơn ba mươi đoàn tiếp theo đã đủ chỗ rồi!"



Gã thiếu niên tức giận: "Ta không quan tâm! Ngày mai ta nhất định phải đến Biên Hoang tập, bằng không bản cô nương sẽ làm cho Dĩnh Thủy bang các ngươi…Ôi !”



Hai người đồng thời trợn mắt nhìn gã, cùng hét lên: "Bản cô nương?"



Gã thiếu niên bỏ nón ra, một mái tóc mượt như mây liền xõa ra hai bên vai, biến thành một tiểu mỹ nhân xinh tươi ngát hương, mắt phượng hàm đầy sự giận dữ nói: "Bản cô nương thì bản cô nương! Ta đây đi không đổi tên ngồi không đổi họ, chính là tiểu Bạch Nhạn Doãn Thanh Nhã, đủ tư cách làm kẻ thù không đội trời chung với Hoang nhân rồi nhé! Ta đã đến Biên Hoang đại khách sạn báo danh tham gia đoàn du ngoạn lại bị nói giọng khinh thường là hôm nay đã đóng cửa, ngày mai xin đến sớm, làm bản cô nương đánh cho ba tên khốn nạn đó bò lê bò càng ra mới chịu nói phải đến đây làm thủ tục. Các ngươi hiện giờ lại muốn nói ta quay lại cái quỷ tặc điếm ấy, Doãn Thanh Nhã ta dễ khinh phụ lắm à? Ta không thèm, ngày mai mà không lên được thuyền đến Biên Hoang tập thì ta sẽ kéo sập cái tổng đàn vô dụng của các ngươi."



Nàng vẫn dùng cái giọng cộc cằn thô lỗ, tuy phi lý câu nào câu nấy thóa mạ người ta, nhưng giọng nói ngọt ngào như hoàng oanh bay lượn trên thung lũng rót vào lòng người, khiến kẻ khác hy vọng được nàng tiếp tục thóa mạ.



Hán tử cao vội bảo: "Doãn tiểu thư đừng giận, là do tiểu nhân có mắt không biết Thái Sơn, Doãn tiểu thư muốn ngồi thuyền nào thì cứ lên thuyền ấy, nhất thiết đều là tiểu nhân phụ trách hết."



Tiếp theo ngầm huých hán tử lùn vẫn đang ngẩn ngơ nhìn Doãn Thanh Nhã, quát lên: "Còn đứng ngẩn ngơ ra đấy làm gì? Còn chưa mau đi thông báo cho lão đại biết tiểu Bạch Nhạn đại tiểu thư lão nhân gia đến rồi."



Doãn Thanh Nhã phì cười: "Cái gì mà tiểu Bạch Nhạn đại tiểu thư lão nhân gia, nhà người đột nhiên phát cuồng rồi à?"



Hán tử lùn nhìn thấy thần thái tươi cười yêu kiều động nhân của nàng, tựa như đóa tiên hoa nở rộ kiều diễm, miệng thì đáp ứng nhưng chân lại mọc rễ không nhúc nhích nửa tấc.



Hán tử cao cũng quên cả trách mắng nói: "Doãn tiểu thư đã biết chuyện Cao gia chưa? Huynh ấy....."



Doãn Thanh Nhã ngắt lời: "Không cần lải nhải lảm nhảm, chán chết đi được. Tiểu tử Cao Ngạn đạo hạnh thế nào, ta há không biết hắn giả chết lừa người ta sao? Đưa tay ra đây."



Hán tử cao còn chưa kịp hiểu để có phản ứng thì hán tử lùn đã chìa cả hai tay ra như bị ma ám.



Doãn Thanh Nhã thò tay vào bọc, lấy ra mấy đĩnh vàng, quẳng vào tay gã, cười nói: "Giao đủ phí tham gia đoàn rồi nhé! Theo quy củ giang hồ là không được thất hứa đâu đấy. Ngày mai thuyền khởi hành lúc nào?"



Hán tử cao cung kính nói: "Giờ thìn ngày mai thuyền sẽ khởi hành."



Doãn Thanh Nhã hoan hỉ quay người đi luôn.



Hán tử cao gọi to: "Doãn tiểu thư nghe qua bài thuyết thư 'Cao tiểu tử hiểm trung mỹ nhân kế' tại Biên Hoang đại khách sạn chưa?"



Tiếng Doãn Thanh Nhã uyển chuyển vọng lại: "Có quỷ mới hứng thú đi nghe đồ lường gạt đó."




Yến Phi leo lên đỉnh một ngọn núi cao, đêm mát lành như nước, từng trận gió thổi tới làm quần áo chàng tung bay phất phơ, tựa như muốn theo gió mà đi.



Hoài Thủy ở xa xa phía trước nhìn không rõ, chầm chậm trôi. Rừng núi và thảo nguyên hoang dã chìm trong bóng tối, tựa như nhân gian mộng cảnh, ngoại trừ bầu trời mênh mông sâu thẳm ra, những thứ khác dường như đều không hề tồn tại.



Nhân gian tốt đẹp như vậy, vì sao lại luôn luôn có nhiều việc làm đau lòng người như vậy.



Buổi tối lúc li khai Mặc Sĩ Minh Dao khiến chàng cảm thấy lại nỗi buồn bi thống và đau thương lúc sinh tử biệt ly cùng với mẹ, lúc đó chàng như đã mất hết mọi cảm giác, biến thành người không có hồn phách, chỉ còn lại thân xác biết đi, cuộc đời không còn một chút xíu ý nghĩa nào nữa.



Cũng chính trong tâm trạng không luyến tiếc sinh mệnh, chàng đã thích sát thành công Mộ Dung Văn ở phố hoa nổi tiếng nhất Trường An, hoàn thành lời thề trước mộ của mẹ chàng.



Nếu mọi thứ chỉ là một phần của giấc mộng nhân thế, chàng có thể tiếp nhận được chăng?



Có một việc mà chàng không thể phủ nhận được, sau khi biết được sự tồn tại của Tiên môn, chàng không thể hồi phục được tâm trạng trước kia. Chàng luôn luôn hoài nghi – hoài nghi tất cả mọi sự trước mắt.



Cho nên chàng thật không hiểu Tôn Ân.



Lão nhằm vào Tạ Đạo Uẩn tập kích, rõ ràng là công khai tuyên bố khiêu chiến với chàng.



Lão vì sao lại làm chuyện ngu xuẩn như vậy?



Bất luận đạo pháp hay võ công, Tôn Ân đều đứng trên chàng, tuyệt đối không kém. Chàng đã cảm ứng được Tiên môn, Tôn Ân cũng sẽ cảm ứng được. Đã biết được đích xác có chuyện phá không mà đi thì thế gian đấu tranh cừu hận giết chóc này đối với lão còn có ý nghĩa gì? Sao không theo đúng phương hướng này mà khổ công tu luyện? Luyện thành tuyệt kĩ bí truyền khôn lường từ cổ xưa “Phá toái hư không”, thành tiên thành thánh, bạch nhật phi thăng mà đi, lại muốn làm cái hành động nhỏ nhặt dạng này.



Chàng quả thực không rõ.



Giết chết Yến Phi chàng thì có tác dụng gì? Lẽ nào làm như vậy có thể làm thần tiên phá không mà đi?



Yến Phi ngấm ngầm cảm thấy trong đó có nguyên nhân mà chàng khó có thể lý giải được. Tôn Ân không những không phải là kẻ ngu dốt, mà còn là chi sĩ đại trí tuệ. Lão sáng lập Thiên Sư đạo phản Tấn, chàng cũng khó mà bình luận. Đúng hay sai chỉ là vấn đề lập trường. Nói đến hoàng triều của dòng họ Tư Mã, Tôn Ân đương nhiên là đại nghịch bất đạo, nhưng đối với dân Nam phương bị áp bức bóc lột mà nói, lão chính là cứu tinh.



Vô luận thế nào, quyết chiến với Tôn Ân, đã tựa như mũi tên đặt sẵn trên cung, ở vào thế tất phải phát ra. Bất luận cục diện cuộc chiến sẽ như thế nào, ai thắng ai bại, đều không thể ảnh hưởng đến trường quyết chiến liên quan tới bí mật của tận cùng sinh mệnh vượt trên tất cả này.



Chàng tuyệt đối không thể thua được, bằng không tất cả đều phải kết thúc.




Đồ Phụng Tam và Tư Mã Nguyên Hiển cùng sánh vai đứng trên tầng hai của Vũ Bình đài, nhìn Hoài Nguyệt lâu cao ngất ngưởng ở bờ đối diện qua song cửa sổ. Mọi chuyện vẫn bình an hoà thuận. Thuyền bè qua lại, ở bên tay phải là Chu Tước kiều vắt ngang Tần Hoài hà nối hai bờ nam bắc, chỉ thấy mố sắt, trụ sắt cùng xích sắt. Chiếc xích sắt cực lớn buộc mấy chục chiếc thuyền lại, hình thành cây cầu phao trứ danh nhất Kiến Khang. Sự tồn tại hay phá huỷ nó đại biểu cho chiến tranh hay hoà bình của Kiến Khang.



Suy đoán của Khoái Ân đã truyền vào tai họ.



Tình huống nhìn như không thể đã thành sự việc có khả năng phát sinh nhất trong tương lai, nếu không thì không thể giải thích vì sao đến thời khắc này địch nhân vẫn chưa có động tĩnh gì. Có một cách giải thích khác là Can Quy căn bản không biết được buổi tụ hội ở Hoài Nguyệt lâu.



Có tiếng bước chân truyền lại.



Hai người chuyển thân nhìn lại, bất ngờ ngoài ý liệu của cả hai người, không chỉ Trần công công đến mà cả Tư Mã Đạo Tử quyền khuynh loát Kiến Khang cũng đến, còn có thêm sáu bảy cận vệ hảo thủ nhất lưu. Toàn thể mặc kình trang dạ hành chỉ rõ rằng Tư Mã Đạo Tử muốn tự thân xuất trận.



Cận vệ lưu lại tại cầu thang dẫn lên lầu, Tư Mã Đạo Tử và Trần công công bước đến chỗ hai người, Trần công công đi sau một chút, thần thái lạnh lùng, ngược lại với vẻ tươi cười xuất hiện trên khuôn mặt củaTư Mã Đạo Tử: "Tình hình thế nào?"



Đồ Phụng Tam cung kính thi lễ nói: "Phụng Tam thỉnh an vương gia."



Tư Mã Đạo Tử đến giữa hai người nói: "Không cần đa lễ, ta đang nhàn rỗi vô sự nên mới đến xem nhiệt náo."



Trần công công đứng sau lưng Tư Mã Đạo Tử gần Đồ Phụng Tam. Nếu như lão đột nhiên cùng Tư Mã Đạo Tử đồng xuất thủ, khẳng định với năng lực của Đồ Phung Tam cũng khó thoát chết.



Tư Mã Nguyên Hiển vui vẻ nói: "Có cha đến chỉ huy đại cục, chuyện đêm nay lại càng vạn vô nhất thất."



Tư Mã Đạo Tử đột nhiên nhớ đến Vương Quốc Bảo, tình cảnh tự mình giết hắn hôm đó hiện về trong tâm trí, nói: "Ta khó có cơ hội thi triển chân tay, bỏ qua thì thật đáng tiếc."



Nói không đề phòng Tư Mã Đạo Tử và Trần công công là hoàn toàn trái ngược với tính cách của Đồ Phụng Tam, nhưng hắn biết đối phương có thể có ý dò xét mình, không chỉ không nên ngầm phòng bị, mà còn phải cố gắng thể hiện mình không có ý cảnh giác để không làm đối phương sinh lòng cảnh giác, để lộ địch ý trong lòng. Cảm giác này xác thực không dễ chịu.



Đồ Phụng Tam lại hiểu rõ Lư Tuần tối nay khó có thể thừa cơ hội nước đục thả câu, vì Tư Mã Đạo Tử có mặt ở đây trợ trận, không chỉ làm thực lực của bọn họ tăng cao, càng khiến Trần công công khó mà ám trợ Lư Tuần, thậm chí không có cách gì truyền tin tức cho Lư Tuần được.



Đương nhiên, đó là giả thiết Trần công công quả thực có quan hệ với Tôn Ân.



Lư Tuần có thể đang mai phục ở quanh đây, nhưng vì hắn không thể nắm được tình hình mới nhất, nên chỉ có thể chờ thời hành động, tùy cơ ứng biến. Nếu như mọi việc theo dự đoán của Khoái Ân xảy ra, Lư Tuần khẳng định không có cơ hội.



Khoái Ân chính là nhân tài hiếm có, thảo nào Hầu Lượng Sinh phải tự mình nhờ hắn giúp đỡ.



Thanh âm Tư Mã Đạo Tử tràn đầy uy nghiêm truyền đến: "Hiện tại tình hình thế nào? Tất cả xem ra bình tĩnh phi thường, không có chút nào khác lạ."



Tư Mã Nguyên Hiển đáp: "Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn chưa phát hiện được hành tung của kẻ địch."



Tư Mã Đạo Tử ngẩn ra hỏi: "Phải chăng tin tức tình báo có gì sai sót?"



Đồ Phụng Tam nhìn về phía thánh địa Đông ngũ tầng của Hoài Nguyệt lâu, nói: “Đó chính là chỗ cao minh của Can Quy, cũng là sách lược thích sát siêu quần trác việt nhất. Trước sự việc thì chẳng thấy nửa điểm triệu chứng, đến khi hắn phát động thì quyền chủ động đã hoàn toàn nằm trong tay hắn, lại có thế lôi đình vạn quân. Nếu lúc ấy chúng ta mới tỉnh ngộ ra thì mọi chuyện đã quá muộn."



Tư Mã Đạo Tử trầm giọng: "Tốt! Các ngươi đã đoán được thủ đoạn của Can Quy rồi, nhanh nói ra để bản vương xem xét."



Đồ Phụng Tam cười nói: "Chuyện này nên để cho công tử tự mình nói ra."



Hành động này của Đồ Phụng Tam rất cao minh, thừa cơ dâng một phần đại lễ lên cho Tư Mã Nguyên Hiển, cố ý dùng từ hàm hồ, để nói là Tư Mã Nguyên Hiển hiểu rõ kế hoạch thích sát Can Quy, chỉ cần Tư Mã Nguyên Hiển chấp nhận là mọi việc không liên quan gì đến Khoái Ân. Nếu như liên quan đến Khoái Ân, không chỉ tốn miệng lưỡi giải thích Khoái Ân từ đâu mà ra, mà còn bộc lộ rõ nhân tài bên mình, đối với bọn họ có hại mà không có lợi.



Quả nhiên Tư Mã Nguyên Hiển lập tức ưỡn ngực, bộ dạng coi suy đoán của Khoái Ân như ý kiến của mình, hướng đến cha già tranh công.

396

Hành Đ

ng Thích Sát


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Lưu Dụ quay trở lại chỗ ngồi. Không hiểu thế nào, mọi người ngay cả Vương Hoằng trong đó, đều cảm thấy gã so với trước đấy có điểm bất đồng, nhưng lại không thể nói ra bất đồng ở chỗ nào.



Vương Hoằng bảo: “Vừa nãy huynh đi ra bên ngoài, bọn ta mượn cơ hội trao đổi ý kiến. Mọi người đều nghĩ nên thẳng thắn đối với huynh, để Lưu huynh hiểu rõ bọn ta thêm một bước.”



Đàn Đạo Tể nói: “Do ta đại diện cho mọi người đem câu chuyện nói ra. Sáu người bọn ta chỉ vì chí khí tương đồng mà kết thành bằng hữu, là vì bọn ta cùng những cao môn tử đệ khác có một sự khác biệt rất lớn. Bọn ta đều cho rằng không thể đoán trước hoang đường như thế được, cảm giác thật rất không được thỏa đáng. Mà thế lực của Thiên Sư quân khuếch trương mau như vậy, khiến trong lòng bọn ta nổi lên tín hiệu cảnh cáo. Đối với triều đình nhà Tư Mã bọn ta đã tuyệt đối thất vọng, với hành động và hành vi của Hoàn Huyền cũng không dám tâng bốc. Cho nên Lưu huynh là hy vọng cuối cùng của bọn ta.”



Lưu Dụ bình tĩnh nói: “Ngươi thừa biết, nếu những lời nói này, người ta truyền đến tai Tư Mã Đạo Tử, khẳng định sáu người bọn ngươi sẽ chết bất đắc kỳ tử đó.”



Si Tăng Thi đáp: “Chỉ cần bọn ta bề ngoài giữ nguyên phương thức sinh hoạt danh sỹ tiêu cực ẩn dật, sẽ không có người nào hoài nghi bọn ta. Vừa rồi bọn ta cố ý giả vờ thái độ phóng túng, để Lưu huynh tự mình nhìn thấy. Mà nhìn thần tình vừa rồi của Lưu huynh, khẳng định đã bị bọn ta qua mặt, đinh ninh không chút nghi ngờ gì chuyện con cháu thế gia bọn ta coi như đã hết thuốc chữa.”



Lưu Dụ vô cùng ngạc nhiên, không thể tưởng được sự việc vừa nãy tận mắt chứng kiến lại là giả tạo. Sáu người trước mặt không chỉ là những danh sỹ thế hệ mới có tâm “chúng nhân giai túy ngã độc tỉnh”* tại Kiến Khang, mà còn là những chi sỹ có lý tưởng hiểu được mưu thuật. Bất quá trong lòng vẫn thầm nhủ khó trách mình đánh giá sai lầm, vì tâm tình gã đã hoàn toàn dành cho sự việc sát tử Can Quy.



Vương Hoằng nói: “Kiến Khang lục hữu bọn ta tuyệt không giống bọn tiểu nhân bỉ ổi bán bạn cầu vinh, sáu người cùng một lý tưởng, mong Lưu huynh hiểu cho.”



Lưu Dụ hiểu được rằng việc hoài nghi trong bọn họ có nội gián đã làm Vương Hoằng tổn thương sâu sắc. Nói cho cùng, tính tình Vương Hoằng thủy chung vẫn là danh sỹ thâm căn cố đế, không giống loại người có lòng dạ hiểm ác mà gã đã biết rõ.



Mao Tu Chi nói: “Bản thân ta là Tứ Xuyên đại tộc, bị một đại tộc Tiều Túng** khác hại cho tan nhà nát cửa người chết thân vong, mà người ủng hộ phía sau Tiều Túng chính là Hoàn Huyền. Cừu này không thể không báo. Lưu huynh là người duy nhất bọn ta có thể hy vọng, chỉ cần Lưu huynh nói một câu, Kiến Khang lục hữu bọn ta sẽ toàn lực phò trợ Lưu huynh. Không có người nào hiểu rõ chính quyền ở Kiến Khang hơn bọn ta, vả lại bọn ta ai nấy đều nắm giữ quyền cao chức trọng, đối với tầng lớp thanh niên Kiến Khang lại càng có sức ảnh hưởng rất lớn. Nếu không Vương huynh sẽ không bị Tư Mã Đạo Tử nghi kỵ, chút nữa không còn mạng.”



Lưu Dụ thầm đồng ý, gã hiện tại thiếu nhất chính là sự ủng hộ của cao môn Kiến Khang, đặc biệt là sự ủng hộ của thế hệ trẻ tuổi. Trước mắt chính là một cơ hội đánh vào đám con cháu thế gia ở Kiến Khang, nhưng liệu gã có thể thực sự hoàn toàn tín nhiệm bọn họ hay không? Nếu như trong bọn họ quả thực có người ra sức vì Hoàn Huyền, chỉ cần đem lời nói của gã tối nay tiết lộ cho Tư Mã Đạo Tử, thi triển kế mượn đao giết người thì gã khẳng định xong đời anh hùng, mà còn chết rất thảm. Cả bọn Đồ Phụng Tam, Tống Bi Phong cũng sẽ phải bồi táng theo.



Nhưng nếu gã không chấp nhận bọn họ, dội một gáo nước lạnh lên lòng trung thực của bọn họ, hậu quả cũng nguy hiểm tương tự.



Giết Can Quy đương nhiên cần thiết, nhưng “sự chuyển hướng lòng trung thành” của bọn họ cũng có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến thành bại trong tương lai. Bọn họ nhìn trúng Lưu Dụ là vì sức ảnh hưởng của gã trong quân đội. Còn điểm mấu chốt khiến gã xem trọng bọn họ, chính là vì bọn họ có thực lực trên vũ đài chính trị Kiến Khang. Quân sự và chính trị thiếu một cũng đều không thể được.



Đột nhiên Lưu Dụ hỏi: “Vì sao Si huynh không châm thuốc hút, hưởng thụ cái thú hít mây nhả khói?”



Mọi người ngạc nhiên, không hiểu Lưu Dụ đang lúc bàn chính sự quan trọng, vì sao đột nhiên lôi một vấn đề không liên quan vào.



Si Tăng Thi cười khổ: “Ta đang thèm chết đây, nhưng quy củ đêm nay không cho phép dùng thuốc, ta đành phải chịu thôi.”



Chu Linh Thạch rất ít lên tiếng, cười nói: “Thuốc hút của Si huynh không phải loại thuốc bình thường, mà là ´Lưu Đan Bạch Tuyết´ rất khó tìm, người luyện đơn dùng Văn Vũ hỏa thất phản cửu hoàn*** tinh luyện mà thành. Phương pháp dùng tốt nhất là đốt lên sau đấy hấp thụ khói thuốc, sau khi dùng tinh thần sảng khoái sáng suốt, phiền não đi hết.”



Đàn Đạo Tể ngạc nhiên hỏi: “Vì sao Lưu huynh đột nhiên lại hỏi đến vấn đề đấy?”



Lưu Dụ hỏi: “Lưu Đan Bạch Tuyết của Si huynh có phải gần đây mới tìm được không?”



Si Tăng Thi rất lạ kỳ hỏi: “Lưu huynh sao đoán được? Hôm nay ta phải dùng trọng kim mới mua được một bình từ Lý Thục Trang. Loại hàng tốt thế này tại Kiến Khang luôn luôn thiếu, mà thứ này còn là loại hàng cao cấp nhất.”



Lưu Dụ không trực tiếp trả lời y, lại hỏi: “Bọn ngươi trước khi ta đến có dùng qua chưa?”



Chu Linh Thạch trả lời: “Chỉ là mỗi người mới thử một hơi, vốn đợi Lưu huynh đến rồi, nhường Lưu huynh có thể nếm mùi diệu thú trong đó, để cho mọi người khả dĩ thoải mái tâm sự, bỏ đi tất cả cố kỵ.”



Lưu Dụ lại hỏi: “Thông thường Si huynh sử dụng thứ đan dược này lúc nào?”



Mọi người bắt đầu cảm thấy Lưu Dụ kiên trì truy hỏi vấn đề này không ngừng, trong đó chắc có thâm ý. Chỉ có Vương Hoằng hiểu được sự việc có thể có liên quan đến việc dùng độc của phe địch.”



Si Tăng Thi đáp: “Đương nhiên trong trường hợp nhàn đàm, không có vật này, tựa như thiếu một cái gì đấy.”



Đàn Đạo Tể nói: “Thỉnh Lưu huynh minh bạch, đối với Ngũ thạch tán, Tiểu hoàn đan và Đan thạch nào đó .v.v., bọn ta đã sớm ngừng sử dụng. Duy chỉ có Lưu Đan Bạch Tuyết là bọn ta vẫn có hứng thú vì sau này không có di chứng gì khác.”



Lưu Dụ cười: “Vậy chẳng lẽ Lý Thục Trang hiểu rất rõ tình hình sử dụng thuốc của những danh sỹ Kiến Khang sao?”



Chư Cát Trường Dân gật đầu: “Lưu huynh suy xét nhanh nhẹn chính xác, thực tình đúng là như thế. Bọn ta vẫn không ngừng mua thuốc của ả cũng là thủ đoạn che giấu tai mắt người khác. Khi đốt Tuyết Phấn lên hương thơm của nó có thể lan truyền rất xa.”



Lưu Dụ lại thấy nhẹ cả người, cười nói: “Quay lại chính đề nhé, các vị nên thông cảm hoàn cảnh khó khăn hiện tại của ta, không thể dễ dàng tin tưởng người khác. May mắn ta tìm được một phương pháp có thể làm cho mọi người tin tưởng lẫn nhau.”



Tất cả đều ngạc nhiên, Vương Hoằng hiếu kỳ hỏi: “Cái này cũng có phương pháp khả dĩ chứng minh sao?”



Lưu Dụ vui vẻ nói: “Không có việc gì mà không có khả năng, bây giờ thỉnh Si huynh đi đến bên của sổ, đốt Tuyết Phấn lên, hút khói thuốc vào rồi chỉ phun ra bên ngoài cửa sổ, đợi một chút sẽ có sự việc phi thường kích thích phát sinh.”




Tiểu thuyền đậu ở thượng du cách Hoài Nguyệt lâu hơn hai mươi trượng, có thể giám sát tình hình cả một khúc sông.



Khoái Ân đang cầm xem một cái cung lớn, tựa như có được đồ trân quý yêu thích, không muốn bỏ xuống.



Tống Bi Phong nói: “Chỉ coi thủ pháp tiểu Ân cầm cung, cũng biết tiểu Ân là người thiện xạ.”



Khoái Ân nói: “Toàn nhờ Hầu gia chỉ điểm, cho nên ta mới đặc biệt khổ luyện thuật xạ kỵ. Mỗi buổi sáng đều đến giáo trường luyện tập kỵ xạ, không dám trễ nải.”



Tống Bi Phong đưa mắt nhìn về phía cửa sông Tần Hoài thoát ra Đại Giang, trầm giọng hỏi: “Ngươi còn tin tưởng Can Quy sẽ đến không?”



Khoái Ân gật đầu: “Hầu gia thường giáo huấn ta, sau khi đã đưa ra phán đoán, thì phải tin tưởng nhận định của mình, kiên định không thay đổi cho đến khi đạt được mục tiêu. Trong hoàn cảnh chiến tranh hung hiểm thế này, thái độ cực kỳ quan trọng, vì như khi lâm trận mà lưỡng lự, thành công cũng có thể biến thành thất bại. Lần này là cơ hội duy nhất để Can Quy thích sát Lưu gia, mà phương pháp thích sát chỉ có một cách. Cho nên ta tin tưởng Can Quy chẳng những sẽ đến, mà phương pháp hành sự sẽ đúng như bọn ta suy đoán. Ta cũng đã chuẩn bị kỹ càng.”



Tống Bi Phong: “Tiểu Ân ngươi có lẽ vẫn chưa hiểu ra, nếu như đêm nay có thể thành công giết chết Can Quy, ngươi coi như lập được đại công. Đối với tiền đồ của ngươi sẽ có sự giúp đỡ rất lớn. Quan hệ giữa ngươi và Hầu gia mới khiến ngươi được gia nhập bọn ta, nhưng được trọng dụng hay không, còn phải xem biểu hiện của ngươi. Tối nay là một cơ hội tốt nhất.”



Khoái Ân cung kính trả lời: “Tiểu Ân hiểu rõ, đa tạ Tống gia chỉ điểm.”



Tống Bi Phong giật mình: “Đến thật rồi!”



Khoái Ân nhìn ra cửa sông, một chiếc thuyền hai buồm đang chạy hết tốc độ ven theo bờ Bắc lao đến. Chiếc thuyền này có chỗ làm cho người ta cảm thấy đặc biệt khác thường. Những thuyền khác khi tiến vào sông Tần Hoài, đều sẽ giảm tốc độ tránh va chạm ngoài ý muốn, vì đây là tuyến giao thông đường thủy nhộn nhịp. Chỉ có chiếc thuyền ấy lại không ngừng tăng tốc, càng biểu hiện chỗ khác biệt không tầm thường.”



Tống Bi Phong hét: “Chuẩn bị!”



Những huynh đệ phụ trách chèo thuyền cầm lấy mái chèo thò xuống dưới nước, nhịn không nổi thở một hơi nặng nề.



Tư Mã Đạo Tử hai mắt nheo lại, ngữ điệu vẫn giữ nguyên bình tĩnh, nói: “Can Quy quả nhiên trúng kế!”



Đồ Phụng Tam, Tư Mã Nguyên Hiển và Trần công công đồng thời nhìn thấy thuyền địch từ Đại Giang tiến đến, đúng như dự kiến, ven theo bờ Bắc ngược dòng mà lên, thần tốc tiếp cận.



Trần công công nói: “Đúng là thuyền của Can Quy rồi.”



Tư Mã Nguyên Hiển líu lưỡi: “Chạy ngược dòng mà vẫn có tốc độ như thế chắc chắn phải có cao thủ cầm lái.”



Đồ Phụng Tam trầm giọng: “Trừ phi trong đám thủ hạ của Can Quy có người thân thủ cao minh hơn y, không cần y tự mình ra tay, nếu không tối nay nhất định Can Quy phải chết.”



Tư Mã Đạo Tử hét: “Mọi người chuẩn bị!”




Can Quy mặc một bộ y phục dạ hành màu đen, đứng ở vị trí gần đầu thuyền, hai mắt lấp lánh thần quang sống động, nhìn Hoài Nguyệt lâu cao năm tầng nằm bên bờ phải đằng trước. Bên cạnh là một máy bắn đá đã được cải tiến lại.”



Gió sông thổi đến, làm cho y cảm thấy rất đắc chí.



Y cảm giác bản thân đang ở vào trạng thái tốt nhất, nắm chắc hoàn thành nhiệm vụ thích sát tối nay, qua kế hoạch tỉ mỉ cẩn thận. Hành động đêm nay, tuyệt không để sơ thất, chẳng những địa vị có thể được nâng lên rất cao trong Hoàn gia, lại có thể giúp y danh chấn thiên hạ, đập tan thần thoại Lưu Dụ là chân mệnh thiên tử giết không chết.



Cái y đang mang trên tay chỉ cần là phàm nhân thì bất luận võ công cao cường như thế nào, cũng không có cách chống được lợi khí sát nhân Vạn Độc Thủy Pháo. Nhìn qua chỉ là một cái ống đồng dài ba thước rộng nửa thước, nhưng bên trong chứa đầy Vạn Độc Thủy có độc tính và sức ăn mòn rất cao, do Tiều gia ở Tứ Xuyên luyện chế mà thành, thiết kế xảo diệu. Chỉ cần y dùng nội lực đẩy mạnh, Độc Thủy sẽ phá nắp mà ra, hướng Lưu Dụ phun tới. Chỉ cần một trong mười phần Độc Thủy trúng Lưu Dụ, bảo đảm gã sẽ chết rất thê thảm. Nếu như phun trúng mắt, bảo đảm lập tức biến thành kẻ mù.



Hành động thích sát lần này thật tuyệt diệu, đến như tia chớp đi tựa cuồng phong. Khi máy bắn đá bắn y lên tầng năm chỗ Lưu Dụ, y sẽ phát động nhất kích oanh động cả vạn quân.



Khi đó đám tuỳ tùng vẫn còn đang ở trên mặt sông quan sát, đến khi y thành công thối lui, đám tùy tùng này mới chỉ đến được sát dưới chân Hoài Nguyệt lâu. Mà y lại có thể nhảy thẳng xuống thuyền, vào cái lưới to do thủ hạ giăng ra hứng sẵn, nên sẽ không thụ thương vì quá cao.



Tiếp theo đương nhiên là dương buồm ra sông, xuôi dòng trở về Giang Lăng.



Thủ hạ kêu: “Tất cả như thường, không có hình tích địch nhân.”



Can Quy vẫn không buông lơi cảnh giác, hai mắt đã sớm quan sát gần xa trên mặt sông. Sau khi nhận thấy tất cả đều thỏa đáng, đề khí khinh thân nhảy lên trên vị trí phát xạ “Nhân đạn” của máy bắn đá.



Tiến hành thích sát như thế này khẳng định là sáng kiến mới. Nói không chừng uy danh có thể lưu truyền thiên cổ trong lịch sử thích khách.



Khi Can Quy nghĩ đến đoạn nếu như Lưu Dụ chết rồi, coi Hoang nhân còn đem cố sự “Nhất tiễn trầm ẩn long, chánh thị hỏa thạch thiên hàng” tiếp tục kể truyện nữa không, thì chiến thuyền đã tới đoạn sông dưới Hoài Nguyệt lâu.



Can Quy chuyên chú tinh thần, đem tất cả những suy nghĩ vớ vẩn bỏ ra khỏi đầu, trong lòng không còn một ý niệm, hét: “Phát xạ!”



“Vù!”



Máy bắn đá phát ra âm thanh dữ dội, Can Quy giống như viên đạn bằng đá xiên xiên bắn lên, vượt qua một khoảng sông lớn, nhằm thẳng tầng trên cùng của Hoài Nguyệt lâu lao tới.



Cái cảm giác đằng vân giá vũ này y đã rất quen thuộc, bởi vì hai ngày qua, y từng tại nơi hoang dã luyện tập nhiều lần. Lần này tuy yếu tố sóng gió nhiều hơn, nhưng y vẫn có thể dựa vào công phu của bản thân để bổ khuyết vào những chỗ bất cập.



Mỹ cảnh sông Tần Hoài phía dưới lọt vào tầm mắt y, bất quá tinh thần y lại hoàn toàn tập trung nơi tầng năm.



Trong thoáng chốc y đã lên đến độ cao hơn bốn mươi trượng, thế bay yếu dần, khoảng cách đến phía Đông của tầng năm vẫn còn những bảy, tám trượng.



Can Quy vận chuyển thể nội chân khí lại khống chế được quyền điều khiển, “vù” một tiếng nhào thẳng đến một trong những cửa sổ ở phía Đông tầng năm. hai tay nâng Vạn Độc Thủy Pháo lên, chuẩn bị xuất ra một đòn trí mạng đối với Lưu Dụ.



Vào thời khắc y vừa lên đến bệ cửa sổ, vẫn chưa nhận rõ tình hình, thì một vật thể màu đen đón đầu trực diện đánh lại.



Dẫu Can Quy dùng công phu trấn định, cũng lập tức bị dọa cho hồn phi phách tán, hiểu được không hay. Giữa lúc nguy cấp y phát xạ Thủy Pháo theo bản năng. Một chùm Độc Thủy phun ra đằng trước như mưa, lại bắn hết lên trên vật phi đến. Lúc này y mới nhìn được rõ ràng là một cái ghế lớn hình vuông.



Thanh âm Lưu Dụ truyền đến: “Can huynh không mời mà đến, theo lý phải chịu phạt!”



Can Quy trong lòng biết nguy to, đâu còn thời gian suy xét vì sao hình tích bị bại lộ. Tuy biết được đám tuỳ tùng vẫn chưa đến được vị trí tiếp ứng cho Lưu Dụ, nhưng cũng không thể không lập tức thối lui. Y hét lên một tiếng lớn, dùng chân điểm một cái trúng ngay giữa chiếc ghế. Chiếc ghế lập tức đổi hướng ngược trở lại, bay vào trong cửa sổ. Y lập tức mượn lực lật người, lao đầu hướng xuống sông Tần Hoài.



Một cước này Can Quy đã dùng hết chân khí bản thân. Chẳng những hóa giải được thế đánh mãnh liệt mang đầy nội lực mà Lưu Dụ đã chuẩn bị sẵn, còn khiến ghế bay ngược trở lại, làm cho đối phương không có cách nào tiếp tục thực hiện được hành động tập kích, tuy nhiên việc này cũng khiến cho khí huyết của y nhộn nhạo, hoa mắt.



Trong phút chốc y đã rơi xuống gần hai trượng, đúng trong lúc này, y nghe được tiếng dây cung bật lên.



Can Quy trong lòng kêu cứu mạng, nghe tiếng gió suy đoán, miễn cưỡng trong không trung mượn cách co mình mong tránh được một chút, nhưng vẫn khó thoát khỏi kiếp nạn. Đột nhiên vai trái đau thấu tận tâm can, bị trường tiễn kết hợp với nội lực lăng lệ, bắn xuyên từ vai ra đến sau lưng.



Can Quy kêu lên một tiếng thê thảm, bị lực đạo của cường tiễn đẩy văng qua hướng bờ Bắc. Lại không giữ được Vạn Độc Thủy Pháo, rời khỏi tay y rơi xuống.



Nhìn qua không cần phải suy nghĩ, y cũng biết địch nhân tràn lên chiến thuyền của mình, đang triển khai tàn sát, tiếng binh khí giao tranh từ trên thượng du truyền vào tai.



Tay

phải Can Quy nắm lấy trường tiễn, vận kình chấn gẫy đoạn gần đầu mũi tên, rồi nhổ mạnh mũi tên ra.



Lúc này y đang đầu dưới chân trên rơi xuống, cách mặt sông chưa đầy hai mươi trượng. Chỉ thấy một số đạo nhân ảnh từ Vũ Bình đài lao xuống sườn dốc bên bờ sông, hiển thị rõ ràng muốn tấn công y tại không trung. Một người trong số đó chính là Trần công công.



Bất luận là Can Quy kiên cường như thế nào, giờ phút này cũng ngăn không nổi cảm giác anh hùng khí đoản. Tất cả phảng phất như trong cơn ác mộng không cách giãy giụa trốn tránh. Hành động thích sát vốn thiên y vô phùng***, ngược lại đã biến thành việc làm ngu xuẩn khiến bản thân rơi vào cạm bẫy của địch nhân. Tình thế phát triển ra ngoài sự tiên liệu trước, thật không cách nào tiếp thụ.



Can Quy quát lên một tiếng lớn, lật tay đánh mạnh lên thiên linh cái của mình, lập tức thanh âm xương vỡ vang lên.



Cho dù phải chết, cũng không thể chết vào tay người khác.



Ý niệm cuối cùng trong đầu là nếu không bị trúng một tiễn của người chưa biết tên làm nội phủ thụ trọng thương, công lực giảm sút nhiều, y vẫn còn đủ sức liều mạng, chỉ cần thoát vào trong lòng sông, sẽ có cơ hội đào sinh.



Hai kiếm, một đao và một chưởng đồng thời đánh trúng vào thân thể y, nhưng y lại chẳng có cảm giác gì.



Lưu Dụ cùng bọn người Vương Hoằng, tại phía Đông tầng năm trên cao nhìn xuống. Thấy được rõ ràng cả quá trình Can Quy chạy trốn, trúng tiễn rồi tự sát. Chỉ trong thời gian chớp mắt mọi việc đã kết thúc.



Bọn Vương Hoằng nhìn thấy đều trợn mắt ngẩn ngơ, kinh tâm động phách, ngay Lưu Dụ trong lòng cũng cảm thấy cảm khái.



Không phải ngươi chết, thì ta chết.



Nếu như chẳng phải Nhân Thanh Thị đề tỉnh gã, kẻ chết hôm nay có khả năng rất lớn là Lưu Dụ gã.



Kiến Khang lục hữu không có vấn đề nội gian. Vấn đề xuất phát từ vị Thanh Đàm Nữ Vương danh xưng Lý Thục Trang. Thị chẳng những để cho bọn họ có thể gặp nhau tại phía Đông của tầng năm, còn trước khi lục hữu gặp nhau lại lấy loại Lưu Đan Bạch Tuyết tốt nhất bán cho họ. Cái thứ độc phấn có thể khiến cho người ta vui vẻ quên âu lo này, khẳng định đã bị người của Can Quy cho thêm độc phấn, mới có thể làm yếu đi năng lực ứng biến của gã, để gã không thể thoát khỏi sự tập kích của Can Quy. Nếu như bị thủy khí lợi hại của Can Quy phun vào được trong sương phòng, những người khác cũng gặp tai họa.



Tại sương phòng tầng dưới phải có người của Can Quy, sau khi ngửi được mùi thơm, lập tức dùng thủ pháp thông báo cho đồng bọn ở gần đây chuyển tiếp cho Can Quy biết, khiến cho y có thể nắm vững, tiến hành thích sát kịp thời.



Gã phải đối phó thế nào với Lý Thục Trang đây?



Mặc dù vẫn chưa nắm được bằng chứng thực sự có thể vạch mặt thị, nhưng chỉ cần nói một lời với Tư Mã Nguyên Hiển, khẳng định Lý Thục Trang khó mà thoát chết. Chẳng biết như thế nào, gã cảm thấy làm như vậy tịnh không phải là một hành động sáng suốt.



Gã còn ẩn ước cảm thấy Nhâm Thanh Thị không phải một lòng giúp gã giết chết Can Quy, mà hy vọng bọn họ lưỡng bại câu thương.



Mấu chốt nằm ở trên người Lý Thục Trang.



Nếu như ngày mai thị không chạy trốn, gã sẽ đi đến bái phỏng thị, coi thị rút cuộc là một nữ nhân như thế nào rồi sẽ có biện pháp.



Tối nay tất cả thế đã quá đủ rồi.



Chú thích:




* Chúng nhân giai túy ngã độc tỉnh: Mọi người đều say mình ta tỉnh. Ý nói mọi người u mê nhìn nhận không rõ, chỉ mình mới tỉnh táo suy xét vấn đề.



** Tiều Túng (?- Năm 413), Tây Thục quốc thành lập vào thời kỳ mười sáu nước (thập lục quốc), thêm người Ba Tây Nam, Hán tộc. Đông Tấn An Đế Nghĩa Hy nguyên niên (năm 405), Thứ Sử Ích Châu Mao Cừ lệnh cho quân đội đông hạ thảo phạt công hãm Giang Lăng, Hoàn Chấn bắt sống An Đế. Do Thục Quân không nguyện ly hương, bèn binh biến. Tiều Túng lúc đó đảm nhiệm Tham Quân trong quân đội, cá tính luôn luôn cẩn thận hòa ái, mọi người đều rất quý trọng y. Bởi vậy mới muốn y làm thủ lĩnh, bản thân Tiều Túng không chịu tiếp nhận, nhảy xuống nước muốn tự sát, sau khi được cứu thoát lại hướng về mọi người khấu đầu cự tuyệt. Tuy nhiên biến quân vẫn dùng bạo lực ép y phải làm, đề cử y làm Thứ sử hai châu Lương và Tần. Không lâu sau, biến quân giết Mao Cừ, chiếm lĩnh Thành Đô, Tiều Túng bèn xưng Thành Đô Vương. Năm 407, hướng Hậu Tần tự xưng phiên thuộc. Năm 409, Hậu Tần Thiên Vương Diêu Hưng phong Tiều Túng làm Đại đô đốc, Tướng Quốc, Thục Vương, thêm Cửu Tích. Năm 413, Thái Úy Đông Tấn Lưu Dụ dùng Chu Thạch làm soái phạt Tây Thục, phá Thành Đô, Tiều Túng tự sát, Tây Thục diệt vong.



*** Một trong những cách dùng nội lực vận khí luyện đơn.



**** Áo của nhà trời hoàn hảo đến mức không thấy được đường may; Kín kẽ; Kín như áo trời.

397

Tâm Ý Khó Dò


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Biên Hoang tập, tiệm màn thầu của lão Vương.



Bọn Cao Ngạn, Diêu Mãnh, Mộ Dung Chiến và Tiểu Kiệt hơn mười người chiếm nguyên cả cửa hàng, ăn điểm tâm. Nếu như đổi lại là ngày thường, khẳng định vào thời gian này mỗi người bọn họ vẫn đang ngủ, hoặc là chuẩn bị lên giường đi ngủ. Chỉ vì tối qua bọn họ cùng nhau hộ tống Phương tổng đến trấn Hoang Cương “ngửi địch", đến tận lúc rạng sáng mới trở về.



Diêu Mãnh nói: “Tên tiểu tử họ Lưu quả nhiên có chút đạo hạnh, những thứ hắn nghĩ ra so với lão Trác điên còn khó tin tưởng hơn, nào ngờ hắn nhìn nhận trúng hết, tỏ ra bản lĩnh tuyệt diệu. Phương tổng quả thật nắm được khí vị của cao thủ Bí tộc ấy, và chứng thực tương tự như của Hoa Yêu, xác nhận được bọn ta hoài nghi Hoa Yêu là Bí nhân là phỏng đoán đúng. Lần này cái mũi của Phương tổng lại có thể đại hiển thần oai.”



Mộ Dung Chiến giáo huấn hắn: “Đối với Lưu tiên sinh tôn trọng một chút được không?” Cái gì mà cứ kêu réo tên tiểu tử này, tên tiểu tử kia, thật không có phân lượng.”



Cao Ngạn đang nhấm nháp màn thầu bên cạnh, lúng búng trong mồm, tiếng có tiếng không, nói: “Khí vị Hoa Yêu thực ra có hữu ích như vậy, việc này giao cho Phương tổng, hắn làm quen rồi. Con bà nó, bọn ta thấy một người thì giết một người, cho đến khi Bí nhân cong đuôi chạy khỏi Biên Hoang, như thế mới có thể biểu hiện ra thủ đoạn của Hoang nhân bọn ta.”



Diêu Mãnh còn đang định nói, đột nhiên có cảm giác, nhìn ra ngoài cửa.



Thực tế không người nào trong tiệm không nhìn ra cửa, vì hình dạng Trác trâu điên giống như người điên tựa cơn gió lốc cuốn vào tiệm, một bước đến ngay sau lưng Cao Ngạn, hai tay chụp lấy vai gã, một phát nhấc gã từ trên ghế lên như một con gà con, rối rít: “Tiểu tử ngươi hôm nay vận may đến, còn không cảm tạ ta?”



Đầu tiên mọi người im lặng, tiếp theo reo hò ầm ĩ, biết sự tình khẳng định có liên quan đến tiểu Bạch Nhạn. Ngay lão Vương cũng từ trong bếp chạy ra, hỏi: “Chuyện gì? Chuyện gì?”



Cao Ngạn có vẻ hớn hở: “Con bà nó! Có phải nàng đến không?”



Trác Cuồng Sinh buông Cao Ngạn xuống, vui vẻ nói: “Là như thế cũng không sai biệt lắm. Tiểu Bạch Nhạn của ngươi đêm qua tại Thọ Dương đã đăng ký vào đoàn du ngoạn Biên Hoang, giờ Tỵ sáng nay đã ngồi thuyền đến Biên Hoang tập. Hắc! Coi tên tiểu tử ngươi có còn oán giận ta suốt ngày nữa không.”



Nhất thời tiếng hoan hô, reo hò sôi động, chút nữa đổ cả cửa tiệm của lão Vương.



Cao Ngạn nghe xong vọt tới cửa định đi ra ngoài.



Trác Cuồng Sinh chớp mình một cái, nhanh hơn một bước chặn cửa lại, quát: “Ngươi phát điên hả? Định đi đâu?”



Cao Ngạn ôm đầu réo lên: “Đừng có cản ta! Ta phải lập tức đi gặp tiểu Nhạn của lão tử.”



Mộ Dung Chiến hét: “Kéo y trở lại!”



Có vài huynh đệ tại đương trường giúp đỡ, nắm gã lôi lôi kéo kéo ép trở về nguyên vị.



Trác Cuồng Sinh mắng: “Tên tiểu tử ngươi thật là thành công thì chưa đủ, thất bại thì có thừa. Đối diện với cửa quan trọng yếu liên quan đến việc chung thân cả đời của ngươi, sao có thể hành động lỗ mãng vậy? Lần này thành công hay thất bại, hoàn toàn phải xem bọn ta có thể lập kế hoạch trước rồi mới hành động không, một khi để cho ngươi làm hỏng, đấy gọi là nước đổ khó hốt, gương vỡ khó lành. Đến nông nỗi như thế ngươi đừng có oán giận người khác.”



Lão Vương ra vẻ quan trọng: “Trác quán chủ nói đúng! Ngươi nên khiêm nhường thỉnh giáo những nhân sỹ có kinh nghiệm thành công về phương diện này. Lòng của nữ nhân không phải dễ dàng nắm bắt được. Bộ dạng ngươi như vậy thì người rõ ràng thích ngươi cũng sẽ bị ngươi yêu đến phát khiếp. Nghĩ năm đó ta...“



Thanh âm Vương tẩu từ trong bếp truyền ra: “Lão Vương ngươi lập tức lăn vào đây cho ta!”



Lão Vương nghe tiếng lập tức như gà trống bại trận, trở về bếp trong tiếng cười cố nén của mọi người.



Cao Ngạn hổn hển hỏi: “Hiện tại ta phải làm thế nào?”



Diêu Mãnh: “Tình trường như chiến trường, trước hết cần phải biết mình biết người, tìm hiểu rõ ràng tiểu Nhạn rút cuộc là đi tìm chồng hay là tìm cừu nhân để tính sổ? Ngươi như vậy đi đến gặp nàng, sẽ là cát hung khó liệu.”



Cao Ngạn lẩm bẩm: “Đương nhiên là tìm chồng, lẽ nào đến Biên Hoang tập để du ngoạn sao?”



Trác Cuồng Sinh đối diện với gã ở bên kia mặt bàn cầm cái ghế xoay ngược lại ngồi xuống, nắm lưng ghế thản nhiên nói: “Sự tình có phần ly kỳ, những người Dĩnh Thủy bang hỏi nàng biết tình hình của ngươi không, nàng lại cười nhạt nói, nàng hiểu rõ đạo hạnh của ngươi, khẳng định ngươi chỉ là giả chết. Hỏi nàng đã nghe qua truyện 'Cao tiểu tử hiểm trung mỹ nhân kế´ đang sôi nổi ầm ỹ chưa, nàng nhấn mạnh bổn cô nương không có hứng thú. Ha ha! Rút cuộc trong đầu nàng đang nghĩ ngợi gì đây?”



Tiểu Kiệt nói: “Lão đại ngươi xác thực phải bình tĩnh một chút, trước tiên hiểu rõ ý định của nàng, gặp chiêu phá chiêu. Chiếu theo đạo lý dựa vào thân thủ của nàng, căn bản không cần tham gia du đoàn để đến Biên Hoang.”



Trác Cuồng Sinh nói: “Chỗ này chính là mấu chốt. Nàng trước tiên hỏi có phải du ngoạn Biên Hoang có một quy củ, dù cho là địch nhân tham gia vào đoàn du ngoạn, chỉ cần tuân thủ quy củ du ngoạn Biên Hoang, phía bọn ta cũng phải thành thật đón chào.”



Mộ Dung Chiến vỗ đùi: “Khẳng định nàng ta chưa nghe qua toàn bộ ´Tiểu tử hiểm trung mỹ nhân kế’, còn nghĩ bọn ta vẫn coi nàng là địch nhân, còn ngươi là anh hùng cứu mạng. Lần này gay go rồi! Nữ nhân ghét nhất là nam nhân không trung thực, hận nhất là người lừa dối nàng, nếu như để nàng phát hiện chân tướng, khẳng định sẽ ra tay giết chồng, sau chuyện này bọn ta không thể có cách nào báo thù cho ngươi. Khặc …….”



Mọi người đồng thanh cười to, cục diện toàn trường hỗn loạn náo nhiệt.



Cao Ngạn hướng mặt về Trác Cuồng Sinh gào lên: “Tốt xấu gì cũng toàn là lão già ngươi gây ra cả, mau nghĩ biện pháp giải quyết cho ta.”



Trác Cuồng Sinh lắc đầu thở dài: “Tên tiểu tử ngươi chỉ được cái oán hận người khác, con bà ngươi, đã nói phải nghĩ mưu trước rồi mới hành động! Có cái gì phải sợ chứ, mọi người trong Tập đều đứng bên cạnh ngươi, sự việc nào mà bọn ta không có biện pháp giải quyết? Trước tiên ngươi hãy để cho ta yên tĩnh đã. Mọi người đừng ồn ào nữa!”



Trong cửa hàng lập tức yên lặng đến mức nghe được tiếng kim rơi.



Thanh Huy ngữ khí có phần quái lạ: “Ta nghĩ rằng Cao thiếu chỉ có hai lựa chọn. Một là tiếp tục làm anh hùng. Một nữa là trở lại nguyên hình cẩu hùng.”



Mọi người không thể khống chế được nữa bật lên tiếng cười cuồng dại, bầu không khí có một chút nghiêm túc bị phá tan hết.



“Bình!”



Thấy Mộ Dung Chiến dùng sức vỗ mạnh tay lên trên mặt bàn, mọi người ngừng cười.



Mộ Dung Chiến: “Bây giờ có phải là lúc đùa giỡn không? Tiểu Bạch Nhạn chi luyến đã thành chuyện thiên hạ ai cũng biết, càng quan hệ đến sự vinh nhục của Hoang nhân bọn ta và thiên thư của lão Trác.”



Diêu Mãnh nhịn cười khổ sở nói: “Đúng! Vì đại cục mà nghĩ, Cao tiểu tử mặc dù thời gian qua đắc tội với nhiều người, được lòng ít người. Nhưng bọn ta cũng vui vẻ bỏ qua ân oán riêng tư giữa nhân gian với nhau, vì khát vọng mãnh liệt về đêm động phòng hoa chúc của gã mà nỗ lực.”



Cao Ngạn quát: “Cút mẹ cái ân oán của ngươi đi, ta là cừu nhân giết cha ngươi sao?”



Mọi người lại bật cười rộ lên, bất quá so với trước kìm chế phần nào. Trong cửa tiệm tràn đầy khoái lạc, vui vẻ và háo hức nồng nhiệt như sợ thiên hạ không loạn.



Trác Cuồng Sinh: “Tóm lại chỉ một lời, bất luận tiểu Bạch Nhạn vì sao mà đến, sự thật cuối cùng là nàng sẽ đến đây, đến rồi sẽ có cơ hội. Nếu như Cao tiểu tử không nhanh chóng nắm lấy cơ hội này, sợ rằng câu chuyện tiểu Bạch Nhạn chi luyến chỉ đến đây thôi. Cao tiểu tử chỉ có thể thương tâm tuyệt vọng, ôm cô đơn nuối tiếc sống nốt nửa phần đời còn lại.”



Thanh Huy: “Như thế nào mới coi là nắm được cơ hội đây? Hành động gì tất cũng phải xác định mục tiêu chính xác rõ ràng, mới có thể vận trù chiến lược. Mục tiêu lúc này của Cao tiểu tử là thế nào?”



Một người khác kêu lên: “Đương nhiên là đem tiểu Bạch Nhạn bỏ lên trên giường, để gạo sống nấu thành cơm.”



Trong cửa hàng lại cười reo ầm ỹ. Mỗi người, ngươi một câu, ta một câu tranh nhau hiến kế, huyên náo đến nghiêng trời lệch đất, loạn hơn tình thế thiên hạ bấy giờ.



Trác Cuồng Sinh hét lớn: “Tất cả câm miệng lại cho ta!”



Mọi người ngoan ngoãn không dám lên tiếng nữa.



Trác Cuồng Sinh: “Trước tiên bọn ta phải quyết định, Cao thiếu nên lưu lại Biên Hoang tập đợi kiều thê tương lai, hay ngồi thuyền rung chuông đánh trống đi nghênh đón? Cái nào lợi? Cái nào hại?”



Mộ Dung Chiến: “Lão nhận được phi cáp truyền thư, nói về chuyện phát sinh đêm qua, nhưng tiểu Bạch Nhạn có lên thuyền sáng nay hay không vẫn chưa thể chứng thực. Có lẽ nàng tham gia đoàn du ngoạn chỉ là muốn mua sự bảo đảm an toàn của Hoang nhân bọn ta, sự thật trong đó, tối qua nàng đã sớm lên đường đến Biên Hoang tập rồi.”



Tiểu Kiệt gật đầu: “Có đạo lý! Với cước trình của nàng, nếu tối qua động thân, khẳng định có thể đến sớm hơn lâu thuyền một ngày.”



Thanh Huy nói: “Thế phải coi là nàng tình thâm ái phu hay là tâm lo báo cừu.”



Diêu Mãnh than: “Không nên trêu chọc Cao tiểu tử nữa, các ngươi nhìn xem con người gã thảm thương thế, sao còn nhẫn tâm chứ?”



Cao Ngạn cả giận: “Ngươi mới thảm thương. Không biết đấu chí của lão tử hiện tại thịnh vượng hơn nhiều, tình huống gì cũng đều có thể ứng phó.”



Trác Cuồng Sinh vội vàng nói: “Phải rồi! Phương pháp chiếm được trái tim tiểu Bạch Nhạn là giả đáng thương. Để tiểu Bạch Nhạn nhìn thấy Cao tiểu tử đối với nàng hết lòng vô tư cống hiến và hy sinh, thấy được Cao tiểu tử vì yêu nàng mà bất chấp tất cả.”



Cao Ngạn lắc đầu: “Cách này dùng ở trên người tiểu Bạch Nhạn là vô tác dụng. Trong tâm trí nàng trò chơi phải có đủ kích thích, nếu như ta biến thành một tên buồn phiền đáng thương, khẳng định nàng sẽ cho ta một cước bay ra khỏi Biên Hoang.”



Mộ Dung Chiến bảo: “Cao tiểu tử nên trở lại là chính mình thì tốt hơn! Giấy không gói được lửa, để nàng nhìn ra chân tướng, chỉ sợ tưởng khéo hóa vụng. May mà ít ra còn hơn hai ngày thời gian, mọi người bọn ta nghĩ biện pháp cho Cao thiếu đi.”



Cao Ngạn thống khổ nói: “Mấy ngày này ta làm thế nào chịu đựng đây? Rõ ràng ta có thể sớm gặp được nàng, lại phải ở lại Biên Hoang tập khổ sở chờ đợi.”



Tiểu Kiệt nói: “Nếu như lão đại dùng thuyền đi đón, tiểu Bạch Nhạn lại từ đường bộ đến, không phải là mất cơ hội gặp nhau sao. Bọn ta lại không có bản lĩnh giữ nàng, bị nàng đến Thuyết Thư quán nghe được thuyết thư ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ ấy, càng cát hung khó đoán.”



Cao Ngạn hướng về Trác Cuồng Sinh oán giận: “Giả thần là ngươi, làm quỷ cũng lại là ngươi, làm cho bây giờ ta tiến thoái lưỡng nan, mau lấy công chuộc tội cho lão tử.”



Trác Cuồng Sinh đang định nói, thì Vương Trấn Ác xuất hiện ngoài cửa, tiến vào nói: “Đến lúc làm việc rồi!”



Mọi người trong cửa hàng thu liễm nụ cười đồng thời đứng dậy, lập tức sát khí đằng đằng theo Vương Trấn Ác rời khỏi tiệm màn thầu lão Vương.



Phương tổng dùng mũi tìm địch nhân đã có kết quả.




Kiến Khang thành, Thanh Khê tiểu trúc.



Tống Bi Phong, Đồ Phụng Tam và Lưu Dụ đang ngồi ăn bánh ngọt do Tư Mã Đạo Tử sai người mang đến ở trong phòng, hiển thị Tư Mã Đạo Tử đối với việc đêm qua giết chết Can Quy vô cùng vừa ý.



Ba người tâm tình vui vẻ, cho nên mặc dù được ngủ chưa đến hai canh giờ, vẫn cảm thấy tinh thần đầy đủ.



Tống Bi Phong nói: “Điều nuối tiếc duy nhất là không khám phá được quan hệ giữa Trần công công và Lư Tuần.”



Đồ Phụng Tam điềm đạm nói: “Ta lại cho rằng có chút không được hoàn hảo mới tốt, đầy đủ ngược lại thành tổn thất. Nếu bọn ta một lần thu thập cả Can Quy và Lư Tuần, sẽ khiến trong lòng Tư Mã Đạo Tử càng cố kỵ bọn ta. Để lại Lư Tuần là một sự uy hiếp, đối với bọn ta là chuyện tốt.”



Lưu Dụ hướng sang Khoái Ân hỏi: “Tiểu Ân cảm giác như thế nào?”



Khoái Ân: “Trong lòng ta thoải mái hơn rồi.”



Đồ Phụng Tam: “Biểu hiện của tiểu Ân tối qua vô cùng xuất sắc, nhưng ngàn vạn lần đừng vì thế mà tự mãn, người phải khiêm nhường tài năng mới có tiến bộ.”



Khoái Ân cung kính đáp: “Tiểu Ân kính cẩn tuân theo giáo huấn của Đồ gia.”



Tống Bi Phong cười: “Tiễn thuật của tiểu Ân tựa hồ tốt hơn ý liệu của ta, nắm vững bất luận là thời gian, góc độ và kình đạo đều không thể chống đỡ được, đã đạt cảnh giới như đại gia rồi.”



Lưu Dụ nói: “Tiểu Ân làm rất tốt, ta sẽ để cho ngươi có cơ hội thi triển sở trường.”



Đồ Phụng Tam hỏi: “Tiểu Ân ngoại trừ xạ tiễn, còn có sở trường đặc biệt gì?”



Khoái Ân khiêm nhường đáp: “Ta từng làm Mã đồng, hiểu rõ tính ngựa. Khi đến Hầu gia làm thủ hạ, lại kiêm luôn quản lý chuồng ngựa, tại phương diện chăm sóc và xem ngựa coi như có chút tâm đắc.”



Đồ Phụng Tam cười: “Ta sẽ ghi nhớ.” Lại nói tiếp: “Tiểu Ân, ngươi lập tức đến mã trạm, coi xem có tin tức từ Biên Hoang tập đến không.”



Khoái Ân lĩnh lệnh đi khỏi.



Tống Bi Phong và Lưu Dụ biết hắn có ý sai Khoái Ân đi khỏi, bình tĩnh đợi hắn lên tiếng.



Đồ Phụng Tam trầm ngâm một chốc, nói: “Lý Thục Trang chắc không phải là người của Hoàn Huyền. Nữ nhân này ba năm trước đã bắt đầu lập nghiệp ở Kiến Khang, với quan hệ giữa ta và Hoàn Huyền lúc ấy, nếu như thị làm việc cho Hoàn Huyền, thì không thể che giấu được ta.”



Tống Bi Phong: “Đến bây giờ ta vẫn không minh bạch, vì sao đêm qua bọn ta không trực tiếp tìm thị tính chuyện, còn để thị có cơ hội đào tẩu, nói không chừng lúc này thị đã sớm rời khỏi Kiến Khang.”



Đồ Phụng Tam: “Cái này gọi là tình thế không cho phép, sự thật trong đó là bọn ta vẫn chưa nắm được đuôi của thị, lại không thể không xem xét đến sức ảnh hưởng của thị tại Kiến Khang. Tư Mã Đạo Tử xác thực có thể đem thị ra chính pháp trị tội, cũng chẳng có người nào dám vì thị ra mặt. Nhưng tất sẽ dẫn đến sự phản cảm của triều đình và dân chúng Kiến Khang, làm liên lụy tổn thất thanh danh bọn ta, việc này trí giả không nên làm. Phương pháp thông minh nhất là quay trở lại khống chế thị, mà chuyện này tất phải Lưu gia tự thân ra tay.”



Lưu Dụ thong dong nói: “Ta đã kêu Vương Hoằng đi hẹn thị gặp mặt, chắc là tin tức sẽ nhanh đến thôi.”



Tống Bi Phong: “Sợ nhất là thị sợ tội bỏ trốn.”



Đồ Phụng Tam lắc đầu nói: “Ta khẳng định thị vẫn ở Kiến Khang, trong kế hoạch hành động phản hành thích, ta từng điều tra kỹ càng về thị. Tổng hợp tình báo từ các mặt, thị là một nữ nhân mánh khóe đủ điều. Trong hắc bạch lưỡng đạo quan hệ phi thường gần gũi, đối với triều đình và dân chúng cũng có sức ảnh hưởng nhất định, quan hệ với Tư Mã Đạo Tử cũng không tồi.”



Lưu Dụ ngạc nhiên: “Chẳng lẽ Tư Mã Đạo Tử cũng dùng Ngũ thạch tán sao?”



Đồ Phụng Tam: “Hoàn Huyền cũng dùng, Tư Mã Đạo Tử cũng dùng. Sử dụng Ngũ thạch tán phổ biến giống như bình thường ta và ngươi uống rượu. Đây là thói quen xấu của cao môn phương Nam, ta cũng thử qua vài lần, xác thực làm cho người ta có cảm giác vui vẻ quên sầu, tâm hồn phiêu diêu. Ngươi thử qua một lần sẽ rõ ràng.”



Tống Bi Phong: “Thứ này không nên thử là hay.”



Lưu Dụ lảng tránh hỏi: “Vì sao Phụng Tam bảo tiểu Ân đi?”



Đồ Phụng Tam: “Nhân vì ta muốn bàn luận chuyện Nhậm Thanh Thị, không thích hợp có y tại trường.”



Lưu Dụ: “Có phải ngươi suy đoán Nhậm Thanh Thị và Lý Thục Trang có quan hệ không?”



Đồ Phụng Tam nói: “Ngươi không nghĩ là Nhậm Thanh Thị bỏ đi đột ngột phi thường sao?”



Lưu Dụ nói: “Có phải Phụng Tam hoài nghi Lý Thục Trang là dư nghiệt của Tiêu Dao giáo không?”



Đồ Phụng Tam: “Cái khả năng này tính ra cực kỳ ít. Lý Thục Trang năm năm trước đến Kiến Khang, tại Tần Hoài lâu làm cô nương ba ngày, bị đại lão bản Cổ Thương của Hoài Nguyệt lâu chấm trúng, thu thị về làm thiếp. Do thủ đoạn làm ăn của thị phi thường xuất sắc, năng lực làm việc cao chẳng phải nói, lại am hiểu cách giao tiếp với giới quyền quý Kiến Khang, cho nên dần dần nhận được sự coi trọng của Cổ Thương. Hai năm trước đây Cổ Thương đột nhiên vì dùng dược vật quá liều mà chết, Hoài Nguyệt lâu mới rơi vào tay thị. Sau đó thị mới bắt đầu buôn bán lớn Ngũ thạch tán, khiến cho tài phú tăng mạnh. Dựa vào tác phong khẳng khái phóng khoáng trượng nghĩa, càng khiến cho thị trở thành nữ nhân nổi tiếng nhất ngoài Kỷ Thiên Thiên ở Kiến Khang. Một con người như vậy, phải chăng Nhậm Dao có thể chi trì và khống chế phạm vi hoạt động giới hạn tại phương Bắc. Hậu trường của thị phải tại phương Nam, ví dụ như nguồn nguyên liệu Ngũ thạch tán của thị là từ đâu tới?”



Tống Bi Phong: “Lý Thục Trang xác thực là một nữ nhân có biện pháp, bất quá An công lúc sinh tiền ấn tượng đối với thị rất xấu, cố tình không thèm đặt chân vào Hoài Nguyệt lâu nửa bước. Lý Thục Trang nổi tiếng thích lang quân tuấn tú, không ít cao môn tử đệ đã từng cùng thị âm thầm hẹn hò, bọn đĩ đực tuy chưa đến mức ba nghìn, nhưng khẳng định số lượng chẳng ít.”



Lưu Dụ nói đùa: “Nguyên lai là một nữ nhân ăn uống cầu kỳ, thế thì ta không hợp khẩu vị nàng rồi.”



Tống Bi Phong: “Vấn đề này có quan hệ thế nào với Nhậm Thanh Thị?”



Đồ Phụng Tam: “Ta hoài nghi Lý Thục Trang là người của Nhiếp Thiên Hoàn.”



Lưu Dụ chấn động: “Nếu mà như thế, tất cả những vấn đề trước đấy nghĩ không thông có thể dễ dàng hiểu được.”



Tống Bi Phong vẫn thấy mờ mịt bèn hỏi: “Ta vẫn chưa rõ?”



Đồ Phụng Tam: “Hoàn Huyền và Nhiếp Thiên Hoàn là bạn hợp tác, nếu như Lý Thục Trang có quan hệ với Nhiếp Thiên Hoàn, đương nhiên trong sự việc thích sát Lưu gia sẽ là một cánh tay đắc lực hỗ trợ Can Quy. Mà Nhậm Thanh Thị lại vì Nhiếp Thiên Hoàn mới cùng Lý Thục Trang âm thầm qua lại, cho nên hiểu rõ kế hoạch của Can Quy. Xác thực Lý Thục Trang có lòng hỗ trợ Can Quy, chỉ là không nghĩ qua Nhậm Thanh Thị sẽ bán đứng bọn họ. Mà Nhậm Thanh Thị tâm kế hiểm độc, muốn Can Quy sau khi thành công thích sát Lưu gia, không còn mạng trở về Giang Lăng. Bất luận ai sống ai chết, thị cũng là người thắng lớn.”



Tống Bi Phong thở ra một hơi khí lạnh, nói: “Nữ nhân này thật độc ác.”



Lúc này Vương Hoằng đến, vui vẻ nói: “Thật không thể tưởng được, nghĩ cũng không ngờ Lý Thục Trang một lời đáp ứng gặp Lưu huynh. Thời gian giữa giờ Dậu tối nay, địa điểm là hậu viện Vọng Hoài đình cạnh bờ sông của Hoài Nguyệt lâu, điều kiện là Lưu huynh phải đơn độc đến gặp thị.”



Tống Bi Phong than: “Phụng Tam đoán đúng rồi, thị quả nhiên không nỡ bỏ gia tài.”



Đồ Phụng Tam: “Như thế căn bản thị không sợ bọn ta có thể bắt giữ thị, còn muốn thử đảm lượng của Lưu gia.”



Lưu Dụ: “Nếu như ta không dám đến, sau này còn có thể trước mặt thị ngẩng đầu làm người sao?”



Đồ Phụng Tam nói: “Nếu như ngươi gặp được Lư Tuần, có nắm chắc giữ mạng trốn thoát không?”



Lưu Dụ mỉm cười: “Ngươi lại quên mất ta là ai sao? Chân mệnh thiên tử có giết cũng không chết.”

398

Ban ba tien thi

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Ba Lăng thành.



Nhiếp Thiên Hoàn đang ngồi thưởng thức trà thơm ở Động Đình lâu trứ danh thì Hác Trường Hanh mang tin tức mới nhận được từ Thọ Dương tới. Nhiếp Thiên Hoàn xem xong liền lộ thần sắc kỳ dị mà ngoài Hác Trường Hanh ra không ai có thể hiểu nổi, vô cùng phức tạp, vừa kinh ngạc lại pha chút mất mát, vui buồn khó phân.



Hác Trường Hanh thấp giọng: “Thật làm người ta không thể tin nổi. Từ tối hôm kia, Dĩnh Thuỷ bang mời thuyết thư tiên sinh đến Biên Hoang đại khách sạn mỗi tối phục vụ ba buổi kể câu chuyện ‘Cao tiểu tử hiểm trung mĩ nhân kế’, làm toàn thành bàn tán xôn xao. Quái chiêu của Hoang nhân quả là xuất mãi mà không hết.”



Động Đình lâu được xây dựng sát bờ hồ, lâu cao hai tầng. Bàn hai người ngồi ở một góc trên lầu hai cạnh cửa sổ, nhìn qua cửa sổ có thể thu hết cảnh đẹp của Động Đình hồ vào trong tầm mắt.



Nhiếp Thiên Hoàn trầm ngâm không nói. Rõ ràng là nhất thời lão không thể tiêu hoá nổi sự thật mà tin tức này mang tới.



Hác Trường Hanh lại tiếp: “Nếu quả thực nội dung câu chuyện ‘Cao tiểu tử hiểm trung mĩ nhân kế’ mà có bảy phần là sự thật, thì đó là một thất bại lớn của Hoàn Huyền, lại có thể thấy Hoàn Huyền tuyệt không tin tưởng chúng ta, giấu giếm chúng ta đi cấu kết với Tiều gia Ba Thục. Nếu không phải thế thì con gái Tiều Túng là Tiều Nộn Ngọc tại sao lại làm việc cho hắn? Nhưng lần này Tiều Nộn Ngọc đã làm Tiều gia mất mặt quá rồi.”



Nhiếp Thiên Hoàn gằn giọng: “Tiều Túng!”



Hác Trường Hanh nói: “Không lạ tại sao Hoàn Huyền có thể dễ dàng khống chế Ba Thục. Tiều Túng là ông vua vô danh nhưng hữu thực của Ba Thục. Từ sau khi trừ khử Mao gia thì lão độc bá Thành Đô, thế lực mở rộng ra khắp đất Thục, khống chế huyết mạch kinh tế của toàn bộ khu vực. Hoàn Huyền có lão tương trợ đúng là như hổ thêm cánh, không còn phải lo lắng về mặt vật tư hàng hoá, lại khống chế hoàn toàn khu vực trung, thượng du Trường Giang, không thể coi thường được. Ài! Không tưởng nổi là thông tin quan trọng này lại do Hoang nhân khám phá ra.”



Nhiếp Thiên Hoàn dường như không nghe hắn nói gì, lẩm bẩm tự nói một mình: “Không ngờ Cao tiểu tử gặp đại nạn mà không chết ư? Việc đó không thể nào, hắn thì có tài đức, năng lực gì? Lại có thể ứng phó được với kỹ năng dụng độc danh chấn thiên hạ của Tiều gia?”



Hác Trường Hanh đáp: “Việc này thật khó tin, nhưng đệ tử cho rằng đó là sự thật vì nếu Cao Ngạn một mạng ô hô rồi thì làm sao có thể giấu người khác được?”



Nhiếp Thiên Hoàn hít sâu một hơi, hai mắt lấp loáng thần quang, gật đầu: “Đúng! Cao tiểu tử đúng là mạng lớn. Rốt cuộc là chúng ta nên cao hứng hay là thất vọng đây? Nhã nhi sẽ có phản ứng thế nào đối với việc đó? Ài! Ta chửi mười tám đời tổ tông bọn Hoang nhân, ngay đổ ước giữa chúng ta và Yến Phi lại dám công khai cho thiên hạ biết, trở thành đả kích rất lớn đối với danh dự của chúng ta.”



Hác Trường Hanh đáp: “Về mặt đó thì coi như Hoang nhân vẫn còn để lại chút tình, không hề đề cập đến việc Yến Phi thành công cứu người từ tay chúng ta nên mới thắng đổ ước đó……”



Nhiếp Thiên Hoàn than: “Cái gì mà Yến Phi đại chiến với ta một trăm hiệp, không phân thắng bại rồi vì anh hùng trọng anh hùng nên ta sảng khoái đáp ứng không can thiệp vào chuyện tình giữa Cao tiểu tử và Nhã nhi nữa. Con mẹ chúng nó! Lại còn phóng đại chuyện đó lên tới mức đó nữa sao? Tin này mà truyền đến tai Hoàn Huyền thì hắn sẽ có phản ứng gì?”



Hác Trường Hanh đáp: “Về mặt đó thì chúng ta ngược lại không cần lo lắng. Chỉ cần cái đầu của Hoàn Huyền không để ở sau đít hắn thì hắn sẽ biết đó là tác phong nhất quán luôn khoa trương của Trác Cuồng Sinh trong đám Hoang nhân. Hơn nữa, đó là do chúng ta thỉnh hắn làm thịt giúp Cao tiểu tử. Điều chúng ta lo lắng là Thanh Nhã sau khi biết việc đó thì sẽ nghĩ gì.”



Nhiếp Thiên Hoàn lo lắng: “Trong lòng ta rất rối loạn. Ngươi nói xem ta phải làm sao?”



Hác Trường Hanh đáp: “Tốt nhất là không cần nghĩ gì nữa.”



Nhiếp Thiên Hoàn thất thanh hỏi: “Cái gì? Làm sao lại không nghĩ cách gì cho được?”



Hác Trường Hanh cười khổ: “Sự tình đã phát triển đến mức không thể khống chế được nữa rồi, sức chúng ta không làm được gì. Chỉ hy vọng Thanh Nhã có thể hiểu tâm ý của bang chủ, không làm ra những việc khiến cho bang chủ khó chịu.”



Nhiếp Thiên Hoàn muốn nói mà không biết nói gì.



Hác Trường Hanh lộ vẻ do dự, một lúc sau mới hạ quyết tâm hỏi: “Cao tiểu tử không chết, sai lầm lớn đã không xảy ra. Giả sử Thanh Nhã thật chui đầu vào lòng gã thì bang chủ có thể tiếp nhận được không?”



Nhiếp Thiên Hoàn ngây người một lúc rồi đưa mắt nhìn hắn, chán nản: “Ta có thể làm gì đây? Nếu như có thể do ta quyết định thì đương nhiên là không thể chấp nhận. Nhưng con gái lớn rồi thì không ở trong nhà nữa. Ài! Ta làm sao nhẫn tâm mà trách mắng nó.”



Hác Trường Hanh hỏi: “Giả sử Cao tiểu tử không phải là Hoang nhân thì bang chủ vẫn sẽ phản đối hai đứa chúng kết hợp sao?”



Nhiếp Thiên Hoàn nói: “Không phải là vấn đề thân phận Hoang nhân, mà là vấn đề nhân phẩm. Tên tiểu tử đó nổi tiếng thích gái ưa rượu, trong đầu chỉ nghĩ đến sắc đẹp, sợ nhất là gã đùa cợt tình cảm của Nhã nhi. Người như thế làm sao là người chồng tốt được?”



Hác Trường Hanh nói: “Nói đến chuyện thích gái ưa rượu thì chúng ta lăn lộn trong giang hồ có ai là không như thế? Hơn nữa, tiểu tử đó từng hai lần thả Thanh Nhã từ tay Hoang nhân đi, lại dám đến Ba Lăng, chắc là gã có thành ý.”



Ánh mắt đang hoang mang của Nhiếp Thiên Hoàn bỗng trở nên lợi hại, trừng mắt nhìn Hác Trường Hanh hỏi: “Ngươi lại nói tốt cho Cao tiểu tử, phải chăng muốn tác hợp cho chúng nó?”



Hác Trường Hanh vội đáp: “Xin bang chủ minh bạch đệ tử chỉ vì nghĩ cho Thanh Nhã. Nếu nó đã quyết định việc gì thì ai cũng không cách gì thay đổi nó được.”



Nhiếp Thiên Hoàn cười khổ: “Ngươi nói đúng lắm! Ài! Nhã nhi phải chăng đã nhìn trúng Cao tiểu tử rồi? Nó chẳng phải vẫn ghét nhất những nam nhân rượu chè, trêu hoa ghẹo nguyệt sao? Nếu nói về diện mạo thì Cao tiểu tử thật không đáng nói đến. Nếu như nó yêu Yến Phi thì ngược lại ta lại dễ chấp nhận. Luận võ công thì mười tên Cao Ngạn cũng không đánh lại Nhã nhi được. Đúng! Hắc! Vô cùng đúng! Tốt nhất là không nghĩ gì nữa. Thuận theo ý trời là biện pháp tốt nhất trong tình huống này.”



Lão lại tiếp: “Bắc Phủ binh xuất phát rồi.”



Hác Trường Hanh: “Như đã biết Bắc Phủ binh chia thành hai lộ nam hạ. Trận đánh mở màn sẽ xảy ra trong vài ngày tới.”



Hai mắt Nhiếp Thiên Hoàn lấp loáng tinh quang lợi hại. Lão bình tĩnh nói: “Ta và Hoàn Huyền đã ước hẹn, khi tin tức về trận đại bại của Bắc Phủ binh truyền tới, thì cũng là lúc chúng ta sẽ diệt trừ Ân Trọng Kham và Dương Toàn Kỳ.”



Hác Trường Hanh: “Chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ rồi. Một trăm năm mươi chiến thuyền đang đợi lệnh. Chỉ chờ bang chủ ra lệnh một câu.”



Nhiếp Thiên Hoàn nói liền hai tiếng “Hảo hảo”, đoạn từ từ nói: “Trường Hanh đi đi! Ta muốn ngồi yên tĩnh một mình một lát.”




Tôn Ân phóng vọt ra từ nơi bí mật mà lão dùng để tiềm tu, chạy thẳng tới ghềnh đá cao sát bờ biển, tinh thần lên cao đến cực điểm.



Yến Phi cuối cùng cũng đến rồi.



Từ khi trở về từ Biên Hoang tập, Hoàng Thiên đại pháp của lão không ngừng đột phá cao hơn, đạt tới cảnh giới tối cao là thiên nhân giao cảm. Chỉ hận là lão cũng biết khi mình tiến bộ được một phân, thì lại cũng rời xa khỏi cơ hội khai mở Tiên môn một phân.



Đạo lý rất đơn giản. Chỉ khi Thái Dương chân hỏa và Thái Âm chân thủy lưỡng cực tương giao*, thì năng lượng sinh ra mới có thể phá mở hư không, phi thăng bỏ đi, thoát khỏi tù ngục trói buộc của giấc mộng kiếp nhân sinh này.



Lão đã có Thái Dương chân hỏa đến mức cực hạn, có một nửa năng lực để phá không mà đi, nhưng vẫn còn thiếu nửa kia là Thái Âm chân thủy.



Nếu như lão có thể luyện lại từ đầu thì đương nhiên là sẽ không thiên lệch về một phía như thế. Đáng hận là không thể đảo ngược lại, lão có thể phế bỏ hết võ công để luyện lại từ đầu sao? Việc đó không thể vì tuổi tác lão không cho phép lão làm thế.



Bản thân Thái Dương chân hỏa cũng phân thành âm dương, tất cả đều tự cung tự cấp, nhưng nếu muốn khai mở Tiên môn thì lão hiện giờ chỉ có một nửa khả năng. Nửa kia là ở trên mình Yến Phi.



Khi tu vi võ công về Thái Dương chân hỏa càng thâm hậu, thì càng khó dùng lực Thái Âm chân thủy, vì hai lực lượng tương phản cực đoan này trong tình huống bình thường sẽ bài xích lẫn nhau. Một chút không hay là sẽ tẩu hoả nhập ma.



Nhưng lực lượng tương phản đó trong tình huống cực đoan nhất thì vật cực tất phản, sẽ biến thành hấp dẫn lẫn nhau, giống như tình hình lúc tam bội hợp nhất. Lực hút đó thì không thể có bất kỳ một lực lượng của thế gian nào có thể thay đổi nó hoặc cản trở nó.



Yến Phi tuy thân mang sự cân bằng vi diệu giữa chân hoả và chân thuỷ, nhưng vẫn chưa đại thành, chưa đạt tới năng lực có thể khai mở Tiên môn. Nếu như có thể phá huỷ chân hoả trong người Yến Phi, bức chàng phải toàn lực thi triển kỳ công Thái Âm chân thuỷ thì Tôn Ân có thể lợi dụng lực hấp dẫn kỳ dị ảo diệu giữa chân hoả và chân thuỷ để hút sạch toàn bộ chân thuỷ của Yến Phi làm của mình. Sau đó thuần hoá tu luyện thì việc khai mở Tiên môn là việc có thể mong đợi trong tương lai biết trước.



Yến Phi đang đến, không ngừng tiếp cận, mục đích là Kiến Khang.


Người duy nhất trên thế gian này có thể làm lão lại được nhìn thấy Tiên môn đã đến rồi.



Lão sẽ gửi chiến thư, hẹn kỳ quyết chiến với Yến Phi.



Thu thập xong Yến Phi thì thanh uy Thiên Sư quân sẽ đại chấn, coi như là một chút lòng tốt cuối cùng của lão đối với Thiên Sư quân do một tay mình sáng lập nên.




Bọn Mộ Dung Chiến, Trác Cuồng Sinh, Vương Trấn Ác, Cao Ngạn, và Diêu Mãnh đến vị trí ở Bắc môn đã thấy bọn Hồng Tử Xuân, Cơ Biệt, Âm Kì và gần năm mươi cao thủ đang đợi ở đó, người nào cũng trang bị đầy đủ, đại bộ phận mang theo tên cứng cung mạnh.



Họ tụ tập ngoài quảng trường dịch trạm. Hơn trăm chiến mã đã chuẩn bị sẵn sàng bên cạnh.



Trác Cuồng Sinh hỏi: “Phương tổng đâu?”



Phương Hồng Sinh là nhân vật linh hồn của hành động lần này, nên không thấy hắn đương nhiên là lão cảm thấy kỳ quái.



Thác Bạt Nghi lưng đeo đại đao và đoản mâu vui vẻ đáp: “Đến rồi!”



Được Giang Văn Thanh và Phí Nhị Phiết bảo vệ hai bên, Phương Hồng Sinh hăng hái tiến vào quảng trường, đi thẳng đến trước mặt mọi người, nói: “Khẳng định là y ẩn nấp ở một trong những toà nhà hoang phế góc tây bắc.”



Góc tây bắc có đến hơn trăm gian phòng hoang phế đã bị tàn phá, Hoang nhân gọi là Bắc phế khu.



Mộ Dung Chiến hỏi: “Làm sao mà phát hiện tung tích địch?”



Phương Hồng Sinh đáp: “Sau khi trở về, ta đã lượn một vòng bên ngoài Biên Hoang tập, đến Bắc phế khu thì đã có phát hiện. Vì sợ đánh cỏ động rắn, nên ta không dám vào trong đó tìm kiếm mà chỉ đi vòng quanh khu vực hoang phế đó, nhưng lại không ngửi thấy khí vị của địch nhân nữa. Ta khẳng định người đang nấp trong đó và thích khách ở Trấn Hoang Cương là một người.”



Cao Ngạn nghiến răng: “To gan lắm. Sau khi chọc giận ta lại còn dám trốn vào trong Biên Hoang tập.”



Trác Cuồng Sinh nói: “Đó gọi là nghề cao mật lớn. Nếu chúng ta có thể tìm thấy y trước khi y hồi phục tà công thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều sức lực. Vì thế hành động cần nhanh chóng không được chậm trễ. Mời Chiến soái hạ lệnh.”



Mộ Dung Chiến đưa mắt nhìn đám chiến mã nói: “Tiếng vó ngựa sẽ làm địch nhân cảnh giác, nên chúng ta không dùng ngựa nữa. Ta và Phương tổng, Thác Bạt đương gia, Trác quán chủ, Hồng lão bản năm người vào tìm người. Những người khác do đại tiểu thư chỉ huy phân phối, cần phải bao vây khu vực hoang phế đó mưa gió không lọt. Người đó giống như là một Hoa Yêu khác, hoặc có thể là nhân vật lợi hại nhất của Bí tộc là Mặc Sĩ Minh Dao nên chúng ta tuyệt không thể coi thường.”



Mọi người không dám lơ là, gật đầu đáp ứng.




Vương Hoằng đi rồi, Tư Mã Nguyên Hiển thần thái tưng bừng đến.



Trải qua chiến dịch tối qua, ít nhất thì ngoài mặt hắn và Tống Bi Phong không còn khúc mắc nữa, nên gặp nhau lúc này đương nhiên sẽ không xuất hiện tình huống sượng sùng.



Tư Mã Nguyên Hiển ngồi xuống xong liền hưng phấn nói: “Can Quy lần này đúng là hại người không được thành ra hại mình, tự chuốc hại vào thân. Chúng ta lại quét sạch một đám tai mắt lợi hại của Hoàn Huyền. Cha ta không biết là cao hứng đến thế nào mà nói, nhưng cũng kỳ quái sao các ngươi lại có thể nắm được một cách chính xác hành động của Can Quy như thế. Không cần nhìn ta như thế. Ta không hề tiết lộ bí mật về Nhậm Thanh Thị với ông ta đâu. Ồ! Chút nữa thì quên mất, cha ta hỏi ta trong số Kiến Khang lục hữu có bao nhiêu tên gian tế, ta nói cần phải hỏi Lưu huynh thì mới biết được.”



Lưu Dụ sinh cảm giác cổ quái coi Tư Mã Nguyên Hiển như là bằng hữu, thản nhiên: “Trong bọn họ không có gian tế.”



Tư Mã Nguyên Hiển vô cùng ngạc nhiên.



Đồ Phụng Tam giải thích: “Can Quy từ một kênh khác mà biết được tin mọi người gặp mặt. Chỉ nghĩ tới việc hắn dùng thuỷ pháo để phun độc thuỷ là biết. Nếu hắn phun thẳng vào vị trí sương phòng thì sẽ trúng phải tất cả mọi người trong đó, mà phạm vi phun nước độc ra của thuỷ pháo này có thể điều chỉnh được. Bọn ta tìm thấy thuỷ pháo dưới đáy sông, thấy nó được điều chỉnh có thể bao trùm phạm vi lớn nhất. Từ điểm này mà đoán thì mục tiêu của Can Quy là tất cả những người trong sương phòng. Nếu trong số đó mà có người của hắn thì hắn làm sao làm thế được?”



Tư Mã Nguyên Hiển gật đầu: “Các ngươi suy nghĩ thật chu toàn.”



Tống Bi Phong hỏi: “Tình hình tù binh thế nào?”



Tư Mã Nguyên Hiển đáp: “Bọn người của Can Quy đều là loại hung hãn không sợ chết. Nếu Tống thúc không tự thân xuất thủ thì chỉ sợ không còn lại tên nào sống sót. Hiện giờ chỉ có ba người bị thương chưa chết. Đợi khi tình trạng chúng tốt lên thì cha ta sẽ phái chuyên gia thị hầu bọn chúng, đừng hòng có thể giấu giếm nửa câu. Cha ta thường nói con người không thể nào chịu nổi nghiêm hình bức cung, chỉ coi lúc nào thì tinh thần tan rã, khuất phục thôi!”



Ba người đều thấy ớn lạnh, không phải vì Tư Mã Đạo Tử dùng thảm hình tàn khốc mà là vì cách nhìn người của lão, cho thấy lão là người có thiên tính tàn nhẫn lạnh lùng thì mới có ý niệm như thế.



Đặc biệt là Tống Bi Phong đã nhiều năm sống trong cảnh thơ rượu phong lưu ở Tạ gia, càng khó thi triển hình phạt thảm khốc đối với những người đang sống sờ sờ ra đó, có máu có thịt.



Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Lần này, trong một thời gian ngắn như vậy mà giết chết được Can Quy, cha ta cao hứng vô cùng, đang nghĩ xem trọng thưởng cho các ngươi như thế nào. Ta nói cho ông biết các ngươi muốn có cơ hội lập công với triều đình, cha ta đáp ứng sẽ xem xét tích cực, còn mời Lưu huynh, Đồ huynh và Tống thúc hôm nay vào Hoàng cung dùng cơm trưa với ông ấy. Ta sẽ đi cùng ba vị, phụ trách dẫn đường.”



Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam ánh mắt giao nhau, đều cảm thấy thành quả trước mắt đạt được không phải dễ dàng. Từ Biên Hoang đến Hoàng cung, trong đó đã trải qua biết bao sóng gió, con đường dài đó gian nan biết chừng nào.



Đương nhiên không thể loại trừ khả năng Tư Mã Đạo Tử với bản tính sài lang, thỏ hết thì giết chó săn, nhân cơ hội này làm thịt bọn gã. Nhưng nếu tầm nhìn của Tư Mã Đạo Tử chỉ ngắn hẹp như vậy, cho rằng Can Quy là con thỏ còn quan trọng hơn hai con thỏ khác là Hoàn Huyền và Tôn Ân thì họ chỉ còn cách chịu chết. Họ không thể không mạo hiểm. Nếu không, mọi nỗ lực trong quá khứ sẽ trôi tuột về biển đông mất.



Khả năng lớn nhất là Tư Mã Đạo Tử đã thay đổi cách nhìn đối với bọn gã, cho rằng bọn họ trung thành làm việc cho lão. Ít nhất thì cho tới trước lúc Hoàn Huyền và Tôn Ân mất mạng, lão vẫn có thể lợi dụng bọn gã, dùng uy thế hoàng cung chấn nhiếp chế phục họ, dùng vinh dự của Hoàng triều để lung lạc họ. Đó là cách giải thích hợp lý nhất.



Tư Mã Nguyên Hiển bỗng nhiên thấp giọng thì thào: “Có một chuyện ta vốn không định nói cho các ngươi biết, nhưng ta quả thực coi các ngươi là chiến hữu và bạn tốt, nếu giấu các ngươi thì đâu còn nghĩa khí giang hồ gì nữa.”



Lưu Dụ ngạc nhiên: “Rốt cuộc là chuyện gì vậy?”



Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong đều tập trung tinh thần lắng nghe. Cả hai đều thấy khẩn trương.



Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Cha ta hiện giờ hoàn toàn yên tâm về các ngươi vì một người như Hoàn Huyền, nhất định sẽ báo thù các ngươi đã làm thịt thủ hạ đại tướng xuất sắc nhất của hắn. Vì thế, chúng ta hiện giờ biến thành ngồi chung một thuyền, cùng chung vinh nhục.”



Lưu Dụ nhẹ cả người, thuận miệng hỏi: “Nếu là như thế, Vương gia tại sao không tin tưởng Lưu Lao Chi? Lão chẳng phải đã giết Vương Cung sao?”



Tư Mã Nguyên Hiển lạnh lùng: “Các ngươi làm sao lại giống tên tiểu nhân phản phúc vô thường đó? Hắn có thể phản bội Hoàn Huyền, thì cũng có thể phản bội triều đình. Hơn nữa hắn không hề báo cáo bất cứ tình hình gì cho cha ta. Cha đối với hắn không còn hy vọng gì nữa.”



Đồ Phụng Tam nói: “Công tử có thể hoàn toàn tin tưởng bọn ta. Chúng đều nói tới nghĩa khí giang hồ, là thứ vĩnh viễn không thay đổi.”



Lưu Dụ hiểu rõ Đồ Phụng Tam tuyệt không nói hoang, chỉ là hắn không nói ra dự đoán về cuộc kháng chiến với Hoàn Huyền là trước bại rồi sau mới cầu thắng, khi đó thì triều đình Đại Tấn sớm đã kết thúc rồi, căn bản không tồn tại vấn đề lời hứa nữa. Gã cũng thầm nghĩ nếu như sau này có thể giữ được mạng Tư Mã Nguyên Hiển thì mình sẽ làm. Đó chính là nghĩa khí giang hồ.



Tư Mã Nguyên Hiển than: “Tối qua ta hưng phấn đến nỗi không thể chợp mắt được. Lần này so với lần ứng phó với Hác Trường Hanh trên Đại Giang kích thích hơn nhiều. Tuyệt diệu nhất là tất cả đều dựa vào dự đoán, cho đến ngay trước khi hành động vẫn không hề có đầu mối rõ ràng. Cho tới phút cuối cùng mới mạo hiểm bắt đầu nắm được hành tung địch nhân. Cả quá trình quả thực kinh tâm động phách, giống như là cao thủ quyết chiến phân thắng bại trong chớp mắt. Cảm giác này quả là làm người ta cảm thấy dư vị lạ thường.”



Tống Bi Phong vỗ vai hắn nói: “Toàn là nhờ có công tử lãnh đạo.”



Sắc mặt Tư Mã Nguyên Hiển đỏ bừng lên nói: “Trước mặt các ngươi ta làm sao dám tự xưng là anh hùng đây? Nhưng quả thực ta đã học được rất nhiều điều. Chỉ cần các ngươi khẳng khái ra sức vì triều đình, thì Tư Mã Nguyên Hiển ta đảm bảo triều đình sẽ không bạc đãi các ngươi.”



Lưu Dụ nghĩ tới việc ước hẹn gặp mặt với Lý Thục Trang tối nay, tiện dịp liền hỏi: “Cao môn Kiến Khang có phản ứng thế nào đối với chuyện tối qua?”



Tư Mã Nguyên Hiển đáp: “Đương nhiên là rung động toàn thành. Buổi triều sớm nay, rất nhiều đại thần đã hỏi cha ta đó là chuyện gì. Cha chỉ nói một nửa sự thật, đương nhiên là không tiết lộ quan hệ giữa Can Quy và Hoàn Huyền, càng không đề cập tới các vị một chữ, chỉ nói ta thành công bắt giết được một tên đại đạo đã gây hoạ cho Ba Thục nhiều năm, lại chỉ rõ Can Quy là hung đồ chủ yếu trong việc giết hại Mao gia ở Tứ Xuyên. Lại đem xác hắn bêu tại Ngọ môn thị chúng ba ngày.”



Tống Bi Phong lắc đầu than: “Không tưởng nổi Can Quy đã tung hoành bao năm lại kết thúc như thế.”



Lưu Dụ lại hỏi: “Đại lão bản của Hoài Nguyệt lâu có phản ứng gì không?”



Hai mắt Tư Mã Nguyên Hiển sáng bừng lên, đáp: “Tối qua, ta tự thân bồi bạn với nàng ta, lại đáp ứng sẽ tu bổ tầng năm lầu đông cho nàng. Chi bằng hôm nào bọn ta đến tầng năm lầu đông hưởng phong lưu khoái hoạt, hồi tưởng lại tráng cử chém chết Can Quy được không?”



Ba người không biết nói gì. Càng hiểu sâu sắc hơn về sức ảnh hưởng của Lý Thục Trang ở Kiến Khang.



Chú thích:



* Lưỡng cực tương giao: hai thứ cực đoan giao hoà

399

Thành Hoang Truy Ác


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Giang Lăng thành, Hoàn phủ.



Hoàn Huyền ngồi trong thư phòng, trong lòng chỉ muốn làm một việc, chính là giết người.



Hôm nay hắn trước sau thu được hai tin tức, tin sau xấu hơn tin trước. Với


tính cách cương nghị bất khuất của hắn cũng cảm thấy chịu đựng không nổi. Chỉ có máu của địch nhân mới có thể trấn tĩnh tình cảm đang dao động của hắn, phải để Đoạn Ngọc Hàn uống máu địch nhân.



Tin tức đầu tiên là Cao Ngạn bất ngờ lại không chết, hơn nữa còn bị Hoang nhân nhân cơ hội truyền bá rộng rãi nói cái gì “Cao tiểu tử suýt trúng mĩ nhân kế”, đã châm chọc còn vạch trần mối quan hệ mật thiết giữa hắn và Tiều Túng.



Tiều Túng tương tự như một Nhiếp Thiên Hoàn khác, mỗi người đều có thực lực riêng của mình, người sau có đội chiến thuyền hùng mạnh, Tiều Túng thì thao khống tài nguyên Ba Thục giàu nhất thiên hạ.



Mối quan hệ với Tiều Túng tịnh không phải thiết lập trong một sớm một chiều. Trước khi chinh phục Ba Thục hắn đã sớm ngầm đi lại với Tiều Túng trong bóng tối. Hắn cung ứng muối, thứ mà khu vực Ba Thục thiếu thốn nhất cho Tiều Túng, còn Tiều Túng thì chuyển sắt ngược lại. Chuyện này Hoàn Xung cũng biết nhưng không can thiệp vào, bởi vì không có sắt quân Kinh Châu sẽ nảy sinh vấn đề trong việc cung ứng binh khí.



Trong một mức độ nào đó, Tiều Túng do một tay hắn nâng đỡ.



Cho nên sau trận chiến Phì Thủy, binh quyền quân Kinh Châu rơi vào tay, hắn lập tức thừa thế dẫn quân phạt Thục, Tiều Túng thì giúp đỡ hết mình trong ứng ngoại hợp thu phục Ba Thục. Tiều Túng được hắn dâng tấu thỉnh triều đình sắc phong làm Ích Châu công, trở thành đệ nhất đại tộc ở Ba Thục.



Tiều Túng tuy lớn hơn hắn mười bảy tuổi nhưng hai người cùng xuất thân vọng tộc, tính cách hợp nhau, đều có chí lớn. Hoàn Huyền hắn muốn cướp lấy địa vị của Tư Mã thị còn Tiều Túng thì hy vọng trở thành thiên hạ đệ nhất gia, chính thức thay thế hai nhà Vương, Tạ. Cho nên hai người như cá gặp nước, cùng quý tài của nhau, so quan hệ vì lợi ích mà kết hợp với Nhiếp Thiên Hoan cách biệt một trời một vực.



Vì vậy hắn tín nhiệm Can Quy không ngừng đề bạt y.



Còn Can Quy là người giỏi như thế không ngờ đã chết, điều này thật khó mà tin nổi, càng khó tiếp nhận. Tin tức xấu hơn lần lượt nối đuôi, khiến hắn kinh hãi. Sức chấn động của nó gần bằng cái chết của Vương Đạm Chân tạo cho hắn.



Người của Can Quy gần như bị tiêu diệt toàn bộ, chỉ còn bảy tám người hoảng loạn chạy khỏi Kiến Khang, và truyền phi cáp truyền thư báo cáo tình huống Can Quy bị giết.



Hắn biết Can Quy gục ngã trong tay người nào, khẳng định là Đồ Phụng Tam. Hắn quá quen thuộc Đồ Phụng Tam, chỉ từ thủ pháp thì biết có Đồ Phụng Tam chủ trì đại cục trong bóng tối.



Hắn trọng dụng Can Quy vì nhìn trúng Can Quy thuộc loại người như Đồ Phụng Tam, thâm mưu viễn lự giỏi về dùng mưu kế, bộ dạng giống như vĩnh viễn không phạm sai lầm. Nào ngờ Can Quy mà hắn dùng để thay thế cho Đồ Phụng Tam lại bị Đồ Phụng Tam làm thịt. Điều này là sự chế nhạo cực lớn đối với hắn.



Hiện tại Đồ Phụng Tam đã thành cái gai trong mắt của hắn, chỗ nào cũng nhúng tay vào đánh lại hắn, hơn nữa chiêu nào cũng trúng vào chỗ yếu hại. Hầu Lượng Sinh cũng vì bị vạch trần cấu kết với y mà sợ tội uống thuốc độc tự sát.



Nếu như Hầu Lượng Sinh là cánh tay trái của hắn, Can Quy chính là cánh tay phải, hai tay đều bị Đồ Phụng Tam chém đứt.



Đoạn Ngọc Hàn của hắn phải uống máu, là máu của Đồ Phụng Tam, Lưu Dụ ngược lại trở thành thứ yếu.



Thanh Thị tiểu thư đến!



Bóng dáng xinh đẹp của Nhậm Thanh Thị đập vào mắt Hoàn Huyền, dù trong thời khắc tâm tình tồi tệ như thế, hắn vẫn cảm thấy tâm thần thoải mái hơn, đau khổ tích tụ trong lục phủ ngũ tạng như biến đi đâu hết.



Mỹ nữ khó đoán này chầm chậm ngồi xuống trước mắt gã khẽ nói: “Thanh Thị xin thỉnh an Nam Quận công.”



Hoàn Huyền tịnh không giống như thường ngày quen dùng ánh mắt lướt trên cơ thể hấp dẫn của thị, trái lại lạnh lùng nhìn thị nói: “Thái độ Lưu Lao Chi ra sao?”



Nhậm Thanh Thị bình tĩnh nói: “Hắn sợ ngài.”



Hoàn Huyền ngạc nhiên: “Sợ ta?”



Nhậm Thanh Thị nói: “Chuyện mất mặt như thế hắn dĩ nhiên không chính miệng nói ra, mà là cảm giác của nô gia. Bất quá hắn chịu gặp nô gia đã chứng tỏ hắn có suy nghĩ thừa cơ nước đục thả câu. Hắn nhờ nô gia chuyển cáo Nam Quận công, tình hình hiện tại vẫn chưa phải lúc liên thủ với Nam Quận công, khi thời cơ xuất hiện hắn mới cân nhắc có ủng hộ Nam Quận công hay không.”



Hoàn Huyền hừ lạnh: “Vẫn là không biết thức thời.”



Nhậm Thanh Thị đột nhiên hơi cúi đầu quỳ bên cạnh dịu dàng nói nhỏ: “Nam Quận công hôm nay có tâm sự ư?”



Hoàn Huyền trong lòng dâng trào tình cảm cả bản thân cũng không hiểu, chỉ muốn nhào qua đè ngửa ra đất ả mỹ nữ giảo hoạt đến bây giờ vẫn nửa muốn dâng hiến nửa chống cự này để tuỳ tiện dâm loạn. Như thế mới có thể tiết ra khí phẫn nộ trong lòng. Nhưng cũng biết thời gian và địa điểm đều không thích hợp. Vì trước khi Nhậm Thanh Thị đến Giang Lăng, hắn đã sai người đi thỉnh Tiều Nộn Ngọc đến, vị mỹ nhân phong tư khác với Nhậm Thanh Thị có khả năng đến bất cứ lúc nào.



Với tính cách buông thả ngang ngược của Hoàn Huyền, cũng cảm thấy nếu như khi vợ góa của Can Quy đợi ngoài cửa lại nghe thấy thanh âm mây mưa cuồng bạo phát ra bên trong của hắn, sẽ hết sức không thích đáng.



Hắn cũng có chút không hiểu mình, không ngờ trong tình hình như vầy lại sinh ra dục vọng nguyên thủy.



Hoàn Huyền đè nén khát vọng trong lòng, trầm giọng nói: “Can Quy chết rồi.”



Thân thể yêu kiều của Nhậm Thanh Thị hơi run, ngẩn đầu nhìn hắn thất thanh: “Cái gì?”



Hoàn Huyền lặp lại lần nữa, chán nản: “Can Quy lần này quả thật trí không bằng người, đi hành thích Lưu Dụ trái lại trúng phải gian kế của gã. Ta không muốn tiếp tục nói về việc này. Thanh Thị đi đường vất vả, trước tiên đến nội viện nghỉ ngơi cho khỏe, ta còn rất nhiều việc cần xử lý. Tối nay sẽ đến thăm nàng.”



Nhậm Thanh Thị lườm hắn một cái, không lưu ý hỏi: “Tối nay?”



Hoàn Huyền bực bội nói: “Không phải tối nay? Lẽ nào phải đợi tối mai hay tối kia ư? Đi đi!”



Nhậm Thanh Thị không nói tiếp, tha thướt bỏ đi.



Hoàn Huyền ngầm thở dài, trong tâm nổi lên ánh mắt nóng bỏng đến mức có thể làm mềm đi trái tim người ta của Tiều Nộn Ngọc. Thật không biết nên nói ra sao chuyện Can Quy chết thảm ở Kiến Khang với nàng.




Mộ Dung Chiến, Thác Bạt Nghi, Trác Cuồng Sinh, Hồng Tử Xuân và Phương Hồng Sinh năm người vượt tường thành sụp đổ ở góc tây bắc Biên Hoang tập, đạp chân vào đống đổ nát. So với tứ đại nhai của Biên Hoang tập, nơi đây như một thế giới hoàn toàn bất đồng, đại biểu cho một gương mặt khác hoang vu, hỗn loạn của Biên Hoang tập.



Trác Cuồng Sinh cảm khái nói: “Vốn dĩ tường thành của chúng ta không đến mức trở thành đất bằng như thế này. Nhưng Biên Hoang tập trước đây mọi người chỉ ngĩ cho mình, tháo dỡ gạch đá của tường thành xây dựng nhà cửa cho mình khiến tường thành càng bị hủy hoại không chịu nổi mà sụp đổ.”



Hồng Tử Xuân cười: “Hiện tại nào phải lúc oán trách? Vẫn còn lưu lại mùi vị phải không?”



Câu nói sau nhắm vào Phương Hồng Sinh.



Phương Hồng Sinh ưỡn ngực biến thành một người khác, lãnh tĩnh nói: "Nếu thật không có mưa, không có gió thổi mạnh thì mùi vị hai ngày trước không giấu được ta. Nơi đông người qua lại sẽ khó hơn nhiều nhưng tại khu hoang phế loại dấu tích này rất hiếm, ta mười phần tin chắc. Theo ta!"



Mộ Dung Chiến rút đao khỏi vỏ, Thác Bạt Nghi nắm đoản mâu vào tay, chia ra hai bên Phương Hồng Sinh thâm nhập vào khu hoang phế.



Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân rơi lại sau, chia ra cùng tiến tới. Năm người đều lão luyện giang hồ, trong tình huống như thế tuy không cần phải thương lượng với nhau cũng đã biết phối hợp hô ứng như thế nào.



Giang Văn Thanh đã dẫn mọi người bao vây toàn khu vực, đem thủ pháp bắt rùa trong rọ ra đối phó với địch nhân, rồi chiếu theo đề nghị của Vương Trấn Ác chuẩn bị một đội khoái mã khác, ngay cả nếu địch nhân đào thoát ra khỏi khu hoang phế cũng phải có cước lực nhanh hơn ngựa mới hòng thoát thân được.



Hoa Yêu xác thực đã xuất thân từ Bí tộc, bởi đã có vết xe đi trước nên chúng nhân đối với cao thủ Bí tộc này không hề dám khinh thường. Lần này Hoang nhân mang hết cao thủ ra tay nhất định muốn thành công. Nếu bắt sống được đối phương là lý tưởng nhất, bằng không cũng muốn giữ cái mạng nhỏ của đối phương lại.



Dấu tích hoang tàn đổ nát ngổn ngang khắp nơi, đại bộ phận phòng xá chỉ còn tàn dư hư hoại, chỉ có thể bằng óc tưởng tượng mới hình dung được trạng thái lúc hoàn hảo của chúng. Mấy gian còn hoàn chỉnh nhất cũng đã sụp đổ hầu hết khiến trên mặt đất đầy tường xiêu ngói đổ. Dấu vết của hỏa thiêu còn lại khắp nơi, biến thành cây hoang cỏ dại. Nếu bước tới khu này vào đêm tối sẽ tưởng như quỷ vực, nhưng đúng là một địa phương lý tưởng cho việc ẩn nấp, nhà cửa đường xá lẫn lộn khó phân biệt khiến người ta phải kinh hoàng vì cảm giác bị mất phương hướng.



Phương Hồng Sinh vẫn nhanh chóng nhìn ra một chỗ vốn trước đây phải là một tòa nhà lớn với vẻ ngoài rất quy mô, nhưng bây giờ cảnh tượng của cổng vào thật tiêu điều đổ nát, lão ra dấu cho họ ý bảo địch nhân đang ẩn nấp trong ngôi nhà hoang đó.



"Soạt, Soạt" hai tiếng, Hồng Tử Xuân và Trác Cuồng Sinh từ sau chia ra phóng lên hai bên đầu tường cao nhất của căn phòng đổ nát, sẵn sàng động thủ.



Mộ Dung Chiến ra hiệu cho Phương Hồng Sinh thoái lui, hắn không dám chậm trễ rút đại đao khỏi vỏ bước lui gần mười bộ mới ngừng.



Mộ Dung Chiến và Thác Bạt Nghi nhìn nhau ra hiệu rồi đồng thời tấn công vào lỗ hổng lớn vốn là cửa ra vào. Uy lực của hai người liên hợp tạo ra thì ngay cả người bên trong là Tôn Ân, Yến Phi cũng phải ứng phó hết sức cật lực mới hòng chịu nổi.



Bất ngờ phía trước một bóng đen phóng lại nghênh đón, kình phong thốc vào mặt. Chuyện này thật ngoài ý liệu của hai người nhưng không ai vì thế mà trận cước bị loạn. Bọn họ trước khi hành động đã sớm có chuẩn bị tâm lý, bởi nếu đối phương đúng như Cao Ngạn, Diêu Mãnh và các người miêu tả cao minh như thế tất sẽ biết có người đến, chỉ không tưởng rằng đón chào bọn họ không phải vũ khí bén nhọn mà lại là một tấm khăn choàng.



Đoản mâu của Thác Bạt Nghi đâm ra, gã quát lớn: "Ngươi lên!"



Mộ Dung Chiến phóng tới, khi ngực hắn gần đụng mặt đất đầy ngói gạch cỏ dại bên trong phòng thì hai chân duỗi ra, người và đao hợp nhất như mũi tên theo tấm áo choàng rơi bắn tới bên kia. Động tác của hắn sảng khoái liền lạc giống như đã tập dượt cả vài trăm lần, cùng Thác Bạt Nghi phối hợp nhịp nhàng ăn khớp, không hề sai chút nào.



Khi Thác Bạt Nghi đâm đoản mâu vào tấm khăn choàng, Mộ Dung Chiến đã đến phía bên kia, vừa kịp thấy một hắc y nhân phóng lên không trung vừa phóng lại một ngọn phi đao, nhanh như thiểm điện nhắm mặt gã bắn tới, phản ứng cực lẹ và chuẩn xác đáng khâm phục vô cùng. Mộ Dung Chiến tức giận hừ một tiếng, lăn tới một bên tránh ngọn phi đao cực kỳ nguy hiểm.



Hai bên tả hữu đồng thời vọng lại âm thanh giận dữ của Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân.



"Há!"



Thác Bạt Nghi không hề trực tiếp đâm tới tấm khăn choàng đầy chân kình, mà dùng một thủ pháp dùng mâu quấn lấy tấm khăn choàng "soạt" một tiếng cuốn lấy nửa vòng, tấm khăn choàng mới rời mâu bay đi, như một đám mây cắt tới hai chân của Bí tộc cao thủ nọ. Hắn liên tục ra chiêu, hoàn toàn biểu lộ thân thủ và trí tuệ.



Tiếp theo đó lại phóng mình vọt lên, cùng với Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân đã từ hai bên tả hữu bay lên không trung chận đánh địch nhân.



Lúc này Mộ Dung Chiến từ mặt đất vụt phóng lên, trường đao nhắm lên trên phong bế bên dưới của địch nhân.



Người ấy đầu che vải đen chỉ lộ hai mắt, tinh quang ngời ngời không chút gì kinh sợ, trở mình phóng xuống, bất ngờ đạp lên tấm khăn choàng do Thác Bạt Nghi đánh bật lại, thân thủ y quả cao minh, mặc dù trong vị trí đối lập nhưng cũng làm cả bốn người trong lòng bội phục.



Lúc bốn người thầm kêu không hay thì người ấy chân đã đạp tấm khăn choàng, đằng vân giá vụ lướt theo tấm khăn choàng mà đi, tránh khỏi sự chặn đánh chớp nhoáng ác liệt của Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân.



Trác Cuồng Sinh nhanh trí hét lớn: "Nghi gia đuổi theo, lão Hồng trợ thủ."



Lúc này Thác Bạt Nghi mới vừa đến giữa hai người, Hồng Tử Xuân hiểu ý, cùng Trác Cuồng Sinh đồng thời vận chưởng đẩy vào lưng Thác Bạt Nghi. Thác Bạt Nghi có được hai đạo chân khí trợ giúp nên tốc độ gia tăng càng lẹ, phóng sau đến trước, nhắm địch nhân đuổi theo.



Cao thủ Bí tộc cười ha hả một tiếng, vận kình vào hai chân, giở lại trò cũ, tấm khăn choàng rời chân nhắm đầu mặt Thác Bạt Nhhi bay ngược lại, còn tự mình đổi hướng, bay về phía bắc.



Thác Bạt Nghi tức giận đến độ thất khiếu bốc khói vì thấy đã sắp đắc thủ rồi bị đối phương lại liên miên giở ra toàn quái chiêu để hóa giải.



Bỗng nhiên có thanh âm của đao kiếm kịch liệt vọng tới, thì ra Mộ Dung Chiến đã sớm hơn một bước mau lẹ chận ở vị trí phía tây bắc chờ người đó vừa hạ xuống thì bất ngờ tấn công.



Trác Cuồng Sinh và Hồng Tử Xuân cả mừng đuổi tới, chỉ thấy người đó đầu vai đầy máu, cũng nghĩ Mộ Dung Chiến ra tay đã thành công, nào ngờ người đó như làn khói nhẹ thoát khỏi đao quang đang bao phủ của Mộ Dung Chiến, còn với tay phóng kiếm lại rồi sau đó mới đào thoát về hướng bắc.



Trác Cuồng Sinh, Hồng Tử Xuân và Thác Bạt Nghi đến bên cạnh hắn, quát to: “Đuổi theo!”



Mộ Dung Chiến thần sắc ngưng trọng nói: “Đuổi theo cũng không ích gì. Võ công người này cực cao, so ra còn cao hơn cả Hoa Yêu, thân pháp khinh công cũng ngang tầm, bọn ta khẳng định không chặn được hắn đâu.”



Nói chưa dứt câu, “Đùng! Đùng! Đùng!” ba đám khói đen kịt bốc lên bên cạnh khu hoang phế, sau đó là một loạt tiếng la ó hò hét.



Phương Hồng Sinh cũng đã đuổi tới, nhìn thấy bốn người trong dáng vẻ chán nản, thất hồn lạc phách, cầm trường kiếm địch nhân bỏ lại trên mặt đất, nói: “Đây chính là văn tự của Bí tộc.”



Bốn người đưa mắt nhìn trường kiếm đang nằm trong tay y, chỉ thấy trên kiếm khắc một hàng hơn mười văn tự cổ quái tựa như sâu bò.




Kiến Khang đô thành là thành trì quy mô to lớn nhất trong thành khu Kiến Khang. Chu vi thành là hai mươi dặm mười chín bộ, có sáu cửa, ba cửa ở phương nam. Tuyên Dương môn hoành tráng nhất nối với ngự đạo ở ngay giữa, phía trên treo xà ngang to lớn nặng nề, hai bên có hai con hổ bằng gỗ nhìn nhau, cực kỳ tráng lệ.



Từ Tây Minh môn ở phía tây cho đến Kiến Dương môn ở phía đông là một con đường lớn chạy ngang nối hai bên đông tây, chia đô thành ra hai phần nam bắc rộng lớn. Bắc là cung thành, nam là các đài tĩnh sở tại của triều đình.



Cung thành lại gọi là Đài thành, là nơi cung điện của Kiến Khang. Đài thành hùng vĩ tráng lệ, có tường dày hai lớp, tường của nội cung kéo dài năm dặm, tường của ngoại cung kéo dài tám dặm, Kiến Khang cung nằm ở ngay giữa.



Lúc mới xây cung thành có tường đất, đến năm Hàm Khang thứ năm, mới đào lũy xây thành, xung quanh có thành hào rộng năm trượng sâu bảy thước bao bọc, hiện rõ mối lo lắng của Tư Mã hoàng triều đối với thời cuộc bất ổn.



Phía nam Đài thành có hai cửa, có Đại Tư Mã môn làm chủ, phàm những người dâng lên tấu chương, phải tới cửa này quỳ gối đợi kêu, vì vậy cũng được gọi là “Chương môn”.



Lưu Dụ, Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong ba người theo Tư Mã Nguyên Hiển nhập đô thành qua ngã Tuyên Dương môn, phía trước có binh lính mở đường, phía sau có binh linh đi theo hộ vệ, cảm giác phong quang đó có chút cổ quái, làm cho Lưu Dụ có chút không quen. Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong đã sớm quen với kiểu tiền hô hậu ủng như vậy, nên vẫn cứ an nhiên tự tại.



Lưu Dụ lần đầu tiên bước chân vào đô thành, giục ngựa chạy trên ngự đạo dài đến hai dặm từ Tuyên Dương môn đến Đại Tư Mã môn, bị kiến trúc hoành tráng hai bên đường trấn nhiếp, nghĩ đến mình được người ta cho là “chân mệnh thiên tử”, cảm giác thật không bút mực nào có thể hình dung được.



Chỉ riêng ngự đạo trong đô thành này cũng đủ cho người thưởng thức. Bề ngang có thể để tám ngựa song hành, hai bên có kênh ngòi, trên bờ kênh trồng cây hòe và cây liễu. Dưới bóng cây rậm rạp ẩn hiện những khu thự của mệnh quan óng ánh màu vàng sáng chói , làm gã có vọng tưởng thế nào, cũng không sao tưởng tượng được có một ngày sẽ biến thành chủ nhân của đô thành hào hoa mỹ lệ này.



Bất quá nếu từ góc độ quân sự mà nghĩ, tòa đô thành này đúng là một bảo lũy hết sức kiên cố, mà an nguy của Đài thành phía trước, cũng chính là đại biểu cho hưng vong của Tư Mã hoàng triều.



Tư Mã Nguyên Hiển vào đến đô thành, liền trở nên thoải mái như về tới nhà, không ngừng chỉ trỏ, giới thiệu những tòa nhà dọc đường.



Sau khi đi qua Đại Tư Mã môn, Lưu Dụ cuối cùng cũng đạp chân vào Đài thành, chỉ thấy lớp lớp lầu các, cung vàng điện ngọc, sông núi ao hồ, xảo đoạt thiên công, Lưu Dụ tựa như “lão nhà quê” ra thành thị, nói không ra được câu nào.



Một tòa đại điện đứng ở phía trước, cao tám trượng rộng mười trượng, dài độ hơn hai mươi trượng, tả hữu hai bên địên đối chội lẫn nhau càng làm tăng thêm khí thế.



Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Đây là Thái Cực điện nơi hoàng thượng triệu kiến đại thần, cử hành yến tiệc cung đình và xử lý chính vụ thường ngày.”



Phía trước Thái Cực điện là quảng trường rộng sáu mươi mẫu, mặt đất dùng đá cẩm thạch lót thành, bóng loáng mỹ lệ, xung quanh trồng đủ các loại cây, cung điện tàn lá tương phản, đứng ở nơi này cứ ngỡ đã rời xa nhân thế.



Lưu Dụ bắt đầu minh bạch vì sao Hoàng Đế không thể đi sát dân tình, hoàng đế sống trong cung cấm, căn bản vốn bị cách biệt trong một hoàn cảnh độc lập xem như là an toàn, sự hiểu biết về dân tình toàn do thần tử đưa lên, chuyện tổ quốc giang sơn tự nhiên là không để ý đến.



Bất luận là nhìn trái ngó phải, nhìn gần trông xa, Lưu Dụ chỉ thấy toàn là đình viên lâu các, không nhịn được mới hỏi: “Trong cung thật ra là có bao nhiêu cung điện đền đài?”



Tư Mã Nguyên Hiển hào khí dâng cao đáp: “Nói ra nhiều khi Lưu huynh không tin. Tổng số có trên dưới ba ngàn năm trăm cung điện, trước các cung điện đều có trọng lâu phục đạo thông tới ngự hoa viên ở trung tâm.



Lưu Dụ thất thanh kêu: “Cái gì?”



Đồ Phụng Tam hỏi: “Công tử muốn dẫn bọn ta đến cung điện nào để diện kiến Vương gia?”



Tư Mã Nguyên Hiển làm như vô sự đáp: “Là Tỵ Hàn điện ở phía tây của Ngự Hoa viên.”



Tống Bi Phong hiểu rất rõ tình huống trong cung, ngạc nhiên hỏi: “Tỵ Hàn điện không phải là nơi Hoàng thượng làm việc sao?”



Tư Mã Nguyên Hiển ung dung đáp: “Sau khi diện kiến Hoàng thượng, cha ta sẽ thiết yến khoản đãi ba vị tại Lựu Hỏa các, là một trong những chỗ có phong cảnh đẹp nhất trong nội cung.”



Ba người lấy làm ngạc nhiên nghĩ lại, mới biết lần này phụng chiếu nhập cung không phải là đơn giản, nếu không sao lại phải đi tham kiến Hoàng Đế.

400


Bí M

t trong Bí M

t


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Tình huống Hoàn Huyền dự tính tịnh không xuất hiện.



Tiều Nộn Ngọc cầm phi cáp chứa tin tức Can Quy bị chết ra xem, nàng không hề có chút phản ứng kịch liệt đau khổ khi chồng chết mà chỉ chậm chậm cúi đầu, đặt thư tín sang một bên, thần sắc bình tĩnh khẽ khàng nói: “Chàng chết rồi!”



Từ lần đầu tiên nhìn thấy Tiều Nộn Ngọc, Hoàn Huyền đã bị khí chất đặc biệt của ả hấp dẫn. Nhìn ngang nhìn dọc, mỹ nữ xinh đẹp thông minh chưa đến mười chín tuổi này tựa như người mới bước vào đời, không chút xảo trá, đoan trang cao nhã như nữ nhân cao môn, khí chất như lan như ngọc có điểm giống Vương Ðạm Chân, nhưng trong vẻ tĩnh lặng lại chứa đựng một thứ sức sống sinh động nào đó. Khi ả đưa mắt ngắm nhìn người nào, người ấy sẽ cảm thấy ả biến thành một con người khác. Nhiệt lực yêu mị trong mắt ả như có từ tính hút lấy người ta, như muốn khiêu chiến với định lực của nam nhân, khiến người ta nghĩ ngay đến thần sắc lúc phóng túng của ả, ví như chuyện được khích lệ cùng ả làm điều gì đó, hay nắm tay cùng đi dạo, hoặc cùng ngủ vài đêm, làm cho người ta rất kích thích. Phương diện này ả có nét giống với Nhậm Thanh Thị. Ả chính là tiên nữ và yêu tinh kết hợp trong cùng một thân thể. Căn bản là ả ta muốn thể hiện phương diện nào với người ta mà thôi. Mỗi lần thấy ả, cảm giác của Hoàn Huyền đều không giống nhau.



Nếu như ả không phải là vợ của Can Quy, mà còn là con gái Tiêu Tung, hắn sẽ tìm mọi cách chiếm đoạt ả. Trước kia ước nguyện này hắn chỉ có mỗi cách áp chế trong lòng, hiện tại Can Quy đã chết, hắn đối diện với quả phụ mới này sẽ như thế nào đây?



Trong lòng Hoàn Huyền dâng trào những tư vị khó hình dung, trầm giọng nói: “Mong Càn phu nhân bớt buồn phiền. Món nợ máu này ta sẽ vì phu nhân mà đòi lại. Hoàn Huyền ta đảm bảo điều đó.”



Tiều Nộn Ngọc thờ ơ đáp: “Ta không còn là Càn phu nhân nữa. Nam quận công gọi lại ta là Nộn Ngọc được rồi.”



Một cỗ nhiệt khí trong nháy mắt chạy khắp toàn thân Hoàn Huyền làm huyết dịch hắn như sôi lên. Người con gái này chẳng những kiên cường ngoài sự tưởng tượng của hắn mà sự vô tình cũng có thể so được với hắn.



Tiều Nộn Ngọc ngẩng đầu lên nhìn hắn. Hai mắt xạ xuất những tia sáng yêu mị nóng bỏng kỳ lạ, ngữ điệu lại vẫn bình tĩnh, nhẹ giọng nói: “Người chết không thể phục sinh. Nhiệm vụ chấn hưng gia tộc của Nộn Ngọc không cho phép Nộn Ngọc bi thương, sẽ có một ngày ta tự tay giết chết tên Lưu Dụ cẩu tặc đó.”



Sau đó ả cúi đầu khẽ khàng nói: “Dù trong lòng Nộn Ngọc tràn đầy phẫn hận, nhưng vô pháp phát tiết. Nam quận công có thể giúp Nộn Ngọc một chuyện được không?”



Hoàn Huyền ngơ ngẩn đáp: “Chỉ cần ta làm được, tất sẽ vì Nộn Ngọc mà hoàn thành.”



Tiếu Nộn Ngọc chậm rãi đứng lên, hai má ửng hồng, song mục xạ xuất dục tình nóng bỏng, khẽ giọng: “Nam quận công đương nhiên làm được.”



Sau đó với tư thế xinh đẹp như múa, trước mắt trợn trừng mở to hết cỡ của Hoàn Huyền, ả chuyển thân quay vòng. Mỗi lần chuyển thân y phục của ả lại bớt đi một thứ, rồi rơi xuống đất. Khi ả ngừng quay và đối diện với Hoàn Huyền, trên người ả không còn vật gì, chỉ còn chiếc vòng cổ hình con chim bằng ngọc sáng lấp lánh trên ngực.



Hoàn Huyền bỗng có cảm giác bản thân quay lại thủa thiên địa sơ khai hàng vạn nghìn năm trước. Trong thiên địa trừ hắn ra chỉ còn vưu vật có thể làm bất cứ nam nhân nào cũng phải say mê trước mắt này thôi.



Tiều Nộn Ngọc bình tĩnh nói: “Hai ta chuyện gì cũng chẳng lý tới, chuyện gì cũng chẳng nghĩ, quên tất cả mọi sự hợp thể giao hoan với nhau. Chỉ có làm như vậy, Nộn Ngọc mới có thể phát tiết nỗi khổ trong lòng. Nam quận công có chịu giúp Nộn Ngọc chuyện này không?”


oOo



Mộ Dung Chiến quay lại tổng đàn Bắc Kỵ Liên ở tây môn đại nhai, trong lòng chứa đầy cảm giác thật khó mà nói ra. Từ sau khi quang phục lại Biên Hoang tập, tâm tình hắn chưa bao giờ kém như thế này.



Rõ ràng đã chặn được cao thủ bí tộc đó, lại để đối phương chịu một chiêu của hắn rồi sau đó chạy đi thật xa, làm hoang nhân mất hết mặt mũi.



Ðịch nhân đáng sợ như vậy phải ứng phó sao đây?



Kẻ không sợ trời, không sợ đất như Mộ Dung Chiến, lần đầu tiên bỗng phát sinh sợ hãi. Trách nhiệm thống soái trên vai hắn càng nặng nề hơn. Chuyện tốt duy nhất là Phương Hồng Sinh tịnh không ngửi thấy tung tích của các bí nhân khác ở bên trong tập. Như vậy rõ ràng là bí nhân vẫn chưa tiến vào trong tập.



Tình trạng này đương nhiên không phải mãi mãi giữ nguyên không đổi. Cao thủ bí tộc chạy thoát chính là kẻ tiên phong mở đường. Sau lần thua thiệt này, khi bí tộc chính thức triển khai hành động đối phó với Biên Hoang tập sẽ càng cẩn trọng hơn, định rõ kế hoạch ổn thoả.



Mộ Dung Chiến đặt thanh kiếm tuỳ thân của cao thủ bí tộc đó lên mặt bàn, rồi chán nản ngồi xuống ghế, trong lòng rộn lên bao lo lắng.



Bất lợi lớn nhất của bọn họ bây giờ là địch tối ta sáng. Vì vậy địch nhân có thể dễ dàng nắm được tình hình của bọn họ. Chỉ cần nhìn bí tộc cao thủ đó tìm cách hành thích Cao Ngạn là biết địch nhân có sự hiểu biết nhất định đối với Biên Hoang tập.



Bọn họ lại không biết chút gì về bí tộc, chỉ biết bí tộc do thần bí “Bí nữ” Minh Dao lãnh đạo.



Uy hiếp của Mộ Dung Thùy đối với Biên Hoang tập giờ trở thành thứ yếu. Bởi vì Mộ Dung Thùy căn bản không cần phải ra tay. Bí nhân đã đủ làm loạn Biên Hoang tập lên rồi. Chỉ cần bí nhân tùy tiện tiến hành những việc phá hoại mà bọn họ không thể đề phòng nổi hết như sát nhân phóng hoả, tập kích các thương nhân qua lại Biên Hoang tập là đủ biến Biên Hoang tập đang lấy lại sức lực trở thành một toà Tập chết.



Trong tình huống này, chỉ dựa vào chiếc mũi của Phương Hồng Sinh thật khó có tác dụng.



Trước khi tình huống phát triển kịch liệt hơn phải tìm được biện pháp ứng phó.



Bỗng nhiên hắn lại nhớ tới Sóc Thiên Ðại. Nàng có thể nói là người duy nhất ở Tập biết về bí nhân. Có nên nhờ nàng giúp đỡ không?



Mộ Dung Chiến do dự khó quyết định.



Bởi vì chẳng những nàng đã nói không quản đến chuyện của hoang nhân, còn vì hắn cảm thấy tình ý của Sóc Thiên Ðại đối với mình.



Hắn với Sóc Thiên Ðại vốn không có chút hảo cảm nào, nhưng vì vậy lại thành có động lực mà sản sinh ra hảo cảm, tuy còn xa mới làm hắn cải biến cường độ cách thức sinh hoạt hiện nay. Ðiều quan trọng là hắn đã từng trải qua đau khổ khó mà chịu đựng đó rồi.



Hắn vẫn yêu Kỷ Thiên Thiên sâu sắc.



Chuyện này đã biến thành bí mật chôn kín trong lòng hắn.



Hắn từng tự thân hứa trước Kỷ Thiên Thiên, kể cả hy sinh tính mệnh cũng đảm bảo được an toàn cho nàng. Lúc hắn vì Kỷ Thiên Thiên hết lòng khuyên ngăn, không còn cách nào khác phải rời nàng mà đi, hắn đã lập thệ trong lòng, ai dám làm nàng bị tổn thương, hắn sẽ báo thù bất chấp thủ đoạn.



Người Kỷ Thiên Thiên yêu chính là Yến Phi chứ không phải hắn. Ðiều đó đương nhiên làm hắn đau khổ, nhưng hắn nguyện ý chấp nhận, còn thầm chúc phúc cho hai người trong lòng. Bởi vì Yến Phi là người hắn tôn kính và yêu mến nhất.



Trong lòng hắn bây giờ, việc cứu chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên cao hơn nhiều với so với lợi ích của cá nhân hắn, kể cả việc quan trọng liên quan đến sinh mệnh.



Tâm tình này không có cách nào giải thích cho ai hiểu, bao gồm cả Ðồ Phụng Tam. Hắn cũng mơ hồ cảm thấy Ðồ Phụng Tam trong lòng vẫn còn yêu Kỷ Thiên Thiên. Bất quá Ðồ Phụng Tam so với hắn đã thư thái hơn nhiều, nên sao có thể hiểu được cảm giác khổ sở sâu sắc trong lòng hắn.



Trong tình huống này, hắn không cách nào tiếp nhận được Sóc Thiên Ðại, còn có điểm sợ nàng, bởi vì hắn sợ sẽ làm tổn thương nàng.



Nghĩ đến đây hắn không biết nên khóc hay nên cười. Bản thân hắn và Sóc Thiên Ðại gặp nhau không quá hai lần, nhưng sao hắn lại cảm giác hiểu rõ nàng. Ðó có phải chỉ là ảo tưởng do cam tâm tình nguyện của một phía hay không?



Hắn thật sự có cảm giác hiểu rõ nàng có thể vì nàng rất thẳng thắn, không có tác phong giấu kín tình cảm vào trong lòng. Nàng có hảo cảm với Mộ Dung Chiến hắn là điều không phải nghi ngờ gì. Nhưng trong đó có chút tình cảm nam nữ nào không? Có bao nhiêu phần là xuất phát thuần tuý từ việc suy nghĩ lợi ích hơn thiệt? Hắn không biết.



Ðúng như nàng đã nói. Muốn làm chồng của nàng tuyệt không dễ dàng, phải xem có bản lĩnh hay không.



Bỗng có thủ hạ đến báo: “Có một cô nương xinh đẹp tên Sóc Thiên Ðại muốn gặp Chiến gia.”



Mộ Dung Chiến trong lòng thầm nghĩ sao lại khéo thế, vừa nghĩ tới nàng thì nàng đến. Ðồng thời hắn cũng cảm thấy kỳ quái. Nàng không giận hắn sao? Sao lại chịu xuống nước ủy khuất đến tìm hắn như vậy?



Khoát tay ra hiệu cho thủ hạ mời nàng vào, Mộ Dung Chiến ngả người ra ghế, tự nhiên đặt hai chân lên mặt bàn. Ðây là tư thế hắn thích ngồi nhất, giúp hắn đầu óc thoải mái. Hắn cũng rất thích cảm giác phóng túng kiểu này.



Sóc Thiên Ðại đã đến. Thần tình nàng có chút lạnh lùng. Nàng nhíu mày khi nhìn thấy Mộ Dung Chiến ngồi gác cả chân lên bàn mà không chịu đứng lên chào đón nàng.



Mộ Dung Chiến muốn dứt việc cho xong, thầm nghĩ nàng bất mãn cũng tốt, hận hắn cũng tốt. Quan hệ giữa nàng với hắn không để phát triển hơn, hắn cười nhẹ nói: “Mời công chúa ngồi.”



Sóc Thiên Ðại bỗng nhiên không nhịn được bật cười phì một tiếng đáng yêu rồi ngồi xuống bên cạnh, nhăn mũi nhìn đôi giầy của hắn hỏi: “Ngươi không biết chân mình rất có mùi hay sao?”



Mộ Dung Chiến phá ra cười đáp: “Cái gì mà chẳng tập cho quen được huống chi là cái chân thối không thể vứt bỏ này. Công chúa đại giá quang lâm không hiểu có việc gì?”



Sóc Thiên Ðại nhún vai thản nhiên đáp: “Ta sắp đi rồi.”



Mộ Dung Chiến thu hai chân xuống ngồi thẳng người dậy ngạc nhiên hỏi: “Phải về nhà rồi sao?”



Sóc Thiên Ðại chăm chú nhìn hắn đáp: “Cứ ở đây chẳng có ý nghĩa gì, còn bị người ta hoài nghi là gian tế thật khó chịu. Ta không muốn chết cùng với bọn chẳng tự biết mình như các ngươi.”



Mộ Dung Chiến cười khổ: “Tình huống chưa tồi tệ như vậy chứ!”



Sóc Thiên Ðại giận dỗi: “Chẳng những hoang nhân không hiểu bản thân mà bọn ngươi cũng chẳng có hy vọng gì. Nghĩ tình đã từng là bằng hữu ta mới đến chào từ biệt. Ta sẽ lập tức ly khai Biên Hoang tập, vĩnh viễn không quay trở lại.”



Mộ Dung Chiến trong lòng chợt nổi lên cảm giác mất mát gì đó mà bản thân cũng không rõ. Hắn hỏi: “Bọn ta sao lại không có hy vọng gì?”



Sóc Thiên Ðại giận dữ nói: “Hy vọng gì? Hy vọng ở đâu? Trên chiến trường không ai là đối thủ của Mộ Dung Thuỳ. Trước kia hắn không có cách nào tập trung tinh thần đối phó với bọn ngươi. Hiện tại hắn đã thu thập xong Mộ Dung Vĩnh, thống nhất Mộ Dung Tiên Ti tộc. Bọn ngươi còn nói có hy vọng sao? Mộ Dung Thùy cộng thêm với Vạn Sỹ Minh Dao, trong thiên hạ hỏi ai là địch thủ của bọn họ? Thác Bạt Khuê không phải. Bọn ngươi lại càng không phải.”



Mộ Dung Chiến nhìn đôi mắt trong sáng của nàng, cảm nhận được cá tính can đảm kiên cường và tính tình lanh lợi tinh tế của nàng rồi mới chậm rãi nói: “Người làm tộc Nhu Nhiên bọn nàng lo lắng nhất có phải là Thác Bạt Khuê không?”



Sóc Thiên Ðại đáp: “Hoá ra ngươi cũng rất hiểu biết.”



Mộ Dung Chiến bình tĩnh nói: “Nàng phải biết Mộ Dung Thuỳ trước kia trợ giúp Thác Bạt Khuê là muốn Thác Bạt Khuê thay hắn bảo vệ bắc cương, áp chế người Nhu Nhiên bọn nàng.”



Sóc Thiên Ðại thản nhiên đáp: “Ðại khái là như vậy. Có liên quan gì không?”



Mộ Dung Chiến thở dài: “Sao lại không có liên quan gì? Nếu để cho Mộ Dung Thuỳ trước tiên thu thập Thác Bạt Khuê và hoang nhân bọn ta, rồi khi Mộ Dung Thuỳ thế lớn đã vững sẽ dùng tư thế như cơn gió lớn quét sạch lá để dọn sạch phương bắc. Với dã tâm của Mộ Dung Thuỳ, chỉ cần điều kiện chín muồi sẽ lập tức dẫn quân xuống phía nam tiêu diệt chính quyền người Hán ở phương nam.”



Sóc Thiên Ðại nhíu mày hỏi: “Thế thì sao?”



Mộ Dung Chiến đáp: “Không lạ khi nàng lại muốn tìm một người chồng có bản lĩnh hùng tài đại lược. Cái điều kiện chín muồi ta nói chính là khi cục thế phương bắc trở nên ổn định, muốn chuyện đó cần phải ưu tiên bắc cương trước tiên. Nhu Nhiên tộc của nàng từ hồi Phù Kiên thống nhất phương bắc luôn là dân tộc cường đại nhất trên thảo nguyên. Mộ Dung Thuỳ chịu để bọn nàng ngồi yên, rồi nhân dịp hắn xuống phương nam chinh chiến mà từng bước xâm chiếm các dân tộc khác trên thảo nguyên đến mức trở thành nạn cướp ở biên giới hay sao?”



Sóc Thiên Ðại không hiểu hỏi: “Chuyện đó thì có vấn đề gì? Ai làm chủ của phương bắc bọn ta cũng ứng phó như vậy.”



Mộ Dung Chiến nói: “Ðương nhiên khác biệt rất nhiều. So với Mộ Dung Thùy, thực lực của Thác Bạt Khuê hẳn còn cách một cự ly dài, kể cả khi hắn có thể đánh bại Mộ Dung Thùy, muốn diệt được nước Yên cũng phải mất một năm hay hơn mới làm nổi. Lúc đó quần hùng Quan Tây đã lũ lượt kéo đến tìm cách phân chia đất đai Yên quốc. Diêu Trường, Khuất Phục Quốc Nhân, Hách Liên Bột Bột, Lữ Quang, Ngốc Phát Ô Cô đều toàn là đối thủ mạnh, chỉ sơ sểnh một chút bắc phương sẽ rơi vào loạn cục quần hùng tranh đoạt, chứ không giống với chuyện mỗi Mộ Dung Thuỳ chiếm ưu thế như bây giờ. Diêu Trường hùng mạnh ở Quan Trung cũng chỉ đợi tình huống thuận tiện như vậy. Trong tình thế đó, Thác Bạt Khuê tay chân sẽ bị trói buộc, thân mình lo còn chưa xong. Bọn nàng mới có thể thừa thế phát triển ra bốn phía. Phân tích rõ ràng như vậy rồi, giờ công chúa hy vọng liên quân bọn ta và Thác Bạt Khuê đánh bại Mộ Dung Thuỳ hay là hy vọng Mộ Dung Thuỳ dễ dàng thu thập bọn ta đây?”



Sóc Thiên Ðại ngây ngốc một hồi, khẽ thở ra một hơi rồi gật đầu nói: “Lời ngươi vừa rồi rất có lý. Bất quá vấn đề là bọn ngươi không có khả năng là đối thủ của Bí tộc và Mộ Dung Thuỳ. Thực lực chênh lệch quá lớn.”



Mộ Dung Chiến thản nhiên đáp: “Công chúa có biết chuyện tám vạn đại quân chinh phạt Thịnh Nhạc của Mộ Dung Bảo đã bị Thác Bạt Khuê dùng kỳ binh đánh tan ở Tham Hợp Pha, toàn quân bị diệt, chỉ còn Mộ Dung Bảo được hơn mười danh tướng liều chết bảo hộ mới chạy được về Trung Sơn hay không?”



Sóc Thiên Ðại biến sắc hỏi: “Lại có chuyện vậy sao?”



Sau khi Mộ Dung Chiến kể lại một hồi, cuối cùng nghiêm chỉnh nói: “Vì vậy Mộ Dung Thùy không còn cách nào khác mới phải mời bí tộc để nhanh chóng thu thập bọn ta. Chỉ khi gạt bỏ được nỗi lo lắng là bọn ta bọn chúng mới có thể toàn lực đối phó với Thác Bạt Khuê. Có thể nói ngày nào Biên Hoang tập chưa bị lật đổ, Mộ Dung Thuỳ vẫn có khả nãng bị thất bại trong trận chiến này.”



Sóc Thiên Ðại lần đầu tiên dời ánh mắt đi nơi khác, ngẫm nghĩ đến những lời Mộ Dung Chiến nói. Khi mục quang nàng chuyển đến trường kiếm đặt trên mặt bàn, nàng giật mình thảng thốt: “Ðây chẳng phải là trường kiếm của Hướng Vũ Ðiền hay sao?”



Mộ Dung Chiến thần tình chấn động hỏi: “Hướng Vũ Ðiền?”



Thần tình sợ hãi trên vẻ mặt của Sóc Thiên Ðại chỉ có tăng mà không có giảm, trừng trừng nhìn hắn hỏi: “Bọn ngươi giết được Hướng Vũ Ðiền. Chuyện này tuyệt không thể nào.”



Mộ Dung Chiến đáp: “Nàng trước tiên hãy nói cho ta biết Hướng Vũ Ðiền là ai, sau đó ta sẽ nói cho nàng biết tại sao lại lấy được thanh kiếm này.”



Thần sắc Sóc Thiên Ðại hoài nghi nhìn hắn rồi lại liếc nhìn thanh kiếm đặt trên mặt bàn.



Vừa rồi Mộ Dung Chiến đặt chân lên bàn che mất thanh kiếm, sau đó Sóc Thiên Ðại lại mải nói chuyện với Mộ Dung Chiến nên không để ý đến thanh kiếm trên mặt bàn.



Mộ Dung Chiến giục: “Nói đi! Công chúa vốn là người thẳng thắn mà.”



Sóc Thiên Ðại thoả hiệp đáp: “Ðược rồi. Hướng Vũ Ðiền là bí nhân trong bí nhân. Võ công của hắn gồm cả võ công của bí tộc đã đại thành và võ công được truyền riêng duy nhất cho hắn trong bí tộc. Thanh danh hắn tuy không bằng ‘Bí Nữ’ Minh Dao, nhưng võ công nghe nói không dưới Mặc Sĩ Minh Dao, thậm chí còn vượt hơn. Thêm vào đó người này thiên sinh bác học, hiểu biết sâu rộng, bất kể trí tuệ hay đảm thức đều có thể so với Minh Dao.”



Mộ Dung Chiến ngạc nhiên hỏi: “Tên của hắn sao lại giống tên người Hán vậy?”



Sóc Thiên Ðại đáp: “Ðơn giản nói với ngươi thế này, đó chính là bí mật của Bí tộc. Bí tộc vẫn luôn bài xích ngoại nhân. Dù cho ngươi có quan hệ rất tốt với bọn họ, cũng vô pháp thâm nhập vào chỗ sinh sống của bọn họ. Chỉ có một người là ngoại lệ, đó là một người Hán. Người đó chẳng những được bọn họ tiếp nhận, còn tôn thờ như thần minh. Còn đó là nhân vật thế nào? Xuất thân lai lịch ra sao? Tên gọi là gì? Ðều là những điều cấm kỵ của Bí tộc bọn ta vô pháp biết được. Người đó chỉ thu nhận một đồ đệ duy nhất, chính là Hướng Vũ Ðiền, tên gọi của Hướng Vũ Ðiền là do người Hán này đặt. Ðược rồi! Ðến lượt ngươi nói cho ta biết làm sao có được thanh kiếm này?”



Mộ Dung Chiến đem quá trình đoạt được thanh kiếm kể lại tỉ mỉ một lượt, không giấu điều gì, chỉ giấu chuyện Phương Hồng Sinh bằng chiếc mũi thính mà tìm ra bí mật của Huớng Vũ Ðiền mà thôi.



Quả nhiên Sóc Thiên Ðại hỏi ngay: “Hướng Vũ Ðiền có danh đến vô tung đi vô tích. Sao lại để bọn ngươi dễ dàng tìm được như vậy?”



Mộ Dung Chiến không muốn nói dối cho qua chuyện. Thật ra hắn cũng không tìm ra lời nói dối làm cho nàng tin nên chỉ còn cách đáp: “Chuyện này thứ cho ta không nói được.”



Sóc Thiên Ðại tức giận hỏi: “Ngươi không tin ta sao?”



Mộ Dung Chiến đáp: “Cô nương chẳng phải không có hứng thú quản chuyện của bọn ta sao? Hơn nữa còn sắp ly khai.”



Sóc Thiên Ðại bực tức trừng trừng nhìn hắn nói: “Ngươi đúng là loại người chết đến nơi vẫn không đổi tính. Hiện tại đã rõ là Hướng Vũ Ðiền đối phó bọn ngươi. Minh Dao chắc là đối phó với Thác Bạt Khuê. Chỉ riêng một Hướng Vũ Ðiền đã đủ làm bọn ngươi rối tung lên rồi, vậy mà còn dám tự mãn nữa.”



Mộ Dung Chiến thở dài: “Chẳng nhẽ ta nghe được ba từ Hướng Vũ Ðiền là phải sợ hãi cúp đuôi chạy mất sao? Như vậy công chúa mới hài lòng hả? Hoang nhân bọn ta quả là đang rất sợ hãi đấy. Ta tuy không chặn được hắn lại, nhưng cũng đã chém hắn được một đao. Nàng nói ta phải sợ hắn sao?”



Sóc Thiên Ðại tức khí: “Vô tri!”



Mộ Dung Chiến thất thanh hỏi: “Vô tri cái gì?”




Sóc Thiên Ðại lại càng tức nói: “Hắn cố tình để ngươi làm hắn bị thương đấy. Ðó gọi là ‘Huyết Giải’, là bí pháp chỉ một mình Hướng Vũ Ðiền có, có thể mượn sự mất máu để vận hành huyết mạch, nhanh chóng đề thăng công lực, phá vây chạy đi.”



Mộ Dung Chiến thở ra một hơi hỏi: “Ðó là công pháp gì vậy? Sao lại quá tà dị.”



Sóc Thiên Ðại than thở: “Ðó chính thị là chỗ làm người ta sợ Hướng Vũ Ðiền nhất. Kỳ công dị thuật của hắn xuất mãi chẳng hết. Năm đó nếu không có hắn giúp đỡ Minh Dao đến cấm cung của Phù Kiên ở Trường An làm loạn một trận, việc cứu thoát phụ thân của Minh Dao rất có thể đã thất bại rồi.”



Mộ Dung Chiến trong lòng chợt trầm xuống, thuận miệng hỏi: “Hoa yêu có phải cũng là bí nhân?”



Sóc Thiên Ðại bực tức: “Không nói!”



Rồi nàng đứng bật ngay dậy.



Mộ Dung Chiến cũng đứng dậy nói: “Ðể Mộ Dung Chiến tiễn nàng một đoạn.”



Sóc Thiên Ðại lườm hắn một cái rồi nói: “Không cần phải tiễn. Ta không đi nữa.”



Mộ Dung Chiến vui mừng: “Công chúa có phải đã nghĩ thông rồi chãng?”



Sóc Thiên Ðại đáp: “Ta không biết. Ta đang bối rối lắm. Tối nay đến Tiểu Kiến Khang tìm người ta được không?”

401


Ti

c Tr

ư

a

Gác L

u


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Tâm tình Yến Phi tuyệt không an tĩnh. Nguyên nhân đến từ nhiều phương diện vì chúng có ảnh hưởng lẫn nhau, tạo thành một mạng lưới vận mệnh. Chỉ cần là đặt thân trong thế cục của sinh tử như vậy thì không ai có thể may mắn tránh được.



Sáng sớm nay, chàng cảm ứng được Tôn Ân. Tinh thần và lực lượng của Tôn Ân đã lớn mạnh rất nhiều, làm chàng phát sinh cảm giác đất trời tuy rộng nhưng lại không có chỗ nào có thể trốn tránh được. Đương nhiên chàng không nghĩ sẽ chạy trốn vì căn bản là muốn tránh cũng không được, chỉ còn cách đối mặt với lão. Sự tinh tiến mạnh mẽ của Tôn Ân quả thực làm chàng không thể tưởng nổi. Điều đó cho thấy do được tiên môn khai mở, làm Hoàng Thiên đại pháp của lão đạt tới cực hạn trên nhân thế, hoàn toàn vượt quá võ kỹ của thế tục. Lão đã đạt tới cảnh giới tối cao là “tinh hoa đoạt cả thiên địa”, “thiên nhân hợp nhất”.



Sở dĩ chàng có ý trốn tránh tuyệt không phải vì sợ hãi Tôn Ân mà chính là hy vọng có thể sớm quay về Biên Hoang tập để ứng phó sự xâm phạm của Bí tộc.



Chàng hiểu rõ hơn ai hết sức phá hoại của Bí tộc, biết phương thức hành sự của chúng vì chúng tuyệt không chịu tiếp thu quy phạm đạo đức lễ pháp mà người bình thường tuân theo.



Mặc Sĩ Minh Dao gây ra vết thương lòng nghiêm trọng sâu sắc đến thế là vì chàng đã quên mình theo đuổi rồi mới phát giác ra nàng ta đang đùa giỡn với tình cảm của mình.



Đối với Mặc Sĩ Minh Dao mà nói, Yến Phi chỉ là một món đồ chơi tiện tay cầm lấy, bỏ đi cũng không tiếc. Sự tỉnh ngộ này làm tổn hại triệt để tâm tình Yến Phi. Trước khi rời khỏi Mặc Sĩ Minh Dao, mọi cử chỉ của Yến Phi vẫn như thường, không hề có một câu trách cứ nàng ta. Chàng chỉ âm thầm bỏ đi.



Khi đó, Mặc Sĩ Minh Dao giả trang thành quý tộc Quy Tư quốc, đến Trường An biểu diễn nhạc vũ vang danh thiên hạ của Quy Tư. Đi cùng nàng là một người tên Hướng Vũ Điền. Y mới là tình lang chân chính của Mặc Sĩ Minh Dao.



Chàng chưa từng giao thủ với Hướng Vũ Điền, nhưng cảm thấy võ công y không dưới Mặc Sĩ Minh Dao. Đó chỉ thuần là cảm ứng giữa cao thủ với cao thủ.



Bỏ qua không nói chuyện võ công thì bất kể là tư tưởng, hành vi hay cách xử sự của Hướng Vũ Điền đều có điểm khác người. Từ vẻ ngoài cho tới tính cách đều tràn đầy mỵ lực. Đó là một loại mỵ lực gần như yêu dị, làm y trở thành một người vô cùng đặc biệt, tràn đầy phong cách riêng.


Hồi tưởng lại, việc Mặc Sĩ Minh Dao thích chàng, một nửa chắc là xuất phát từ sức hấp dẫn giữa nam và nữ. Nửa khác khẳng định là để đả kích Hướng Vũ Điền, làm y đố kỵ.



Nhưng Hướng Vũ Điền lại làm như hoàn toàn không quan tâm đến quan hệ nóng bỏng giữa Mặc Sĩ Minh Dao và chàng. Y còn tỏ ra thân cận hơn với Yến Phi, thường cùng Yến Phi đàm luận về những ý niệm và suy nghĩ thiên hình vạn trạng của y.



Cuồi cùng cũng đến một ngày Yến Phi phát hiện quan hệ thực sự giữa Mặc Sĩ Minh Dao và Hướng Vũ Điền. Mình chỉ là một tên đại ngốc chen vào giữa họ. Yến Phi lòng đau như cắt, biết rằng không thể ở lại được nữa, chỉ còn cách bỏ đi cho xong.



Chàng chưa từng nghĩ sẽ có ngày gặp lại hai người. Nhưng rõ ràng vận mệnh không tha cho chàng, lại còn là quan hệ đối địch không còn lựa chọn nào khác.



Nếu như không thể đánh bại Bí tộc, Biên Hoang tập khẳng định sẽ kết thúc. Thác Bạt Khuê sẽ biến thành cô lập không có viện trợ. Mộ Dung Thùy sẽ trở thành người thắng lợi. Chủ tì Thiên Thiên sẽ vĩnh viễn là tù nhân trong tay Mộ Dung Thùy.


Trong tình hình đó, Tôn Ân trở thành vấn đề đau đầu nhất của chàng.



Mộ Dung Chiến đến Bắc môn. Bọn Trác Cuồng Sinh, Giang Văn Thanh, Thác Bạt Nghi, Cơ Biệt, Hồng Tử Xuân, Cao Ngạn, Diêu Mãnh, Âm Kì, Phương Hồng Sinh và Lưu Mục Chi đã tập trung ở đây. Ngoài ra còn có mấy chục huynh đệ Hoang nhân nữa. Mọi người đều lộ vẻ ủ rũ.



Mộ Dung Chiến nhíu mày hỏi: “Đuổi theo không kịp ư?”



Âm Kì than: “Thật làm người ta không thể tin được. Hắn luôn chạy trước bọn ta, càng chạy càng nhanh, ngựa không thể đuổi kịp. Khi hắn chạy vào trong một khu rừng hoang dã thì ta sợ hắn sẽ tập kích trong rừng nên mới hạ lệnh thủ tiêu hành động truy sát hắn.”



Diêu Mãnh hỏi: “Đó là võ công quỷ quái gì vậy? Trên đoạn đường ngắn chạy nhanh hơn ngựa thì không có gì ly kỳ. Đằng này trên đoạn đường dài hơn mười dặm mà vẫn nhanh hơn ngựa thì ta chưa từng nghe qua.”



Mộ Dung Chiến đáp: “Đó là một loại kỳ công ‘Huyết Giải’, dùng việc trích máu để thúc đẩy hết tiềm năng trong cơ thể. Vì thế có thể làm những việc mà bình thường con người không làm được.”



Mọi người ngạc nhiên nhìn hắn.



Giang Văn Thanh hỏi: “Mộ Dung đương gia làm sao lại biết?”



Mộ Dung Chiến giơ cao thanh kiếm đang cầm trong tay trái lên, cười khổ nói: “Là do Sóc Thiên Đại cho ta biết. Chủ nhân thanh kiếm này tên là Hướng Vũ Điền, là một cao thủ siêu quần ngoài Mặc Sĩ Minh Dao của Bí tộc, võ công lại có sư thừa riêng, kỳ công bí kỹ xuất ra không bao giờ hết. Hà! Tại sao không thấy Trấn Ác huynh?”



Phương Hồng Sinh đáp: “Hắn không chịu bỏ, kiên trì tiếp tục truy đuổi địch. Bọn ta chỉ còn cách mặc kệ hắn.”



Âm Kì nói: “Hắn là một hảo hán tử. Nói thật, khi ta thấy bóng sau lưng tên cao thủ Bí tộc tên là Hướng Vũ Điền gì đó càng chạy càng nhanh, trong lòng ta càng lúc càng thấy ớn lạnh. Nếu muốn ta một mình đuổi theo y thì ta thật không có dũng khí.”



Mọi người trong lòng đều cảm giác được sự ớn lạnh do sợ hãi gây ra đó. Âm Kì không phải là một hảo thủ giang hồ bình thường mà đã kinh qua nhiều gió to sóng lớn trên giang hồ, là nhân vật hạng nhất mà Đồ Phụng Tam coi là trợ thủ đắc lực. Hắn mà cũng phát sinh cảm giác sợ hãi người đó thì đủ biết Hướng Vũ Điền lợi hại đến thế nào.



Trác Cuồng Sinh cảm thán: “Kỳ công dị thuật của người đó làm người ta không tưởng nổi. Nhưng làm người khác kinh hãi nhất là trí tuệ tùy cơ ứng biến của y. Một ngày mà chưa trừ diệt được người đó thì Biên Hoang tập thật khó yên ổn được.”



Lưu Mục Chi vẫn giữ vẻ khí định thần nhàn, cười nhẹ: “Hiện tại, quyền chủ động vẫn ở trong tay chúng ta. Ít nhất thì đã bức Hướng Vũ Điền phải chạy khỏi Biên Hoang tập. Trấn Ác huynh lại không phải là người thất phu cậy mạnh. Hắn dám tiếp tục truy đuổi thì sẽ tự có cách nhìn nhận và sự đảm bảo. Bọn ta không cần lo cho hắn.”



Trác Cuồng Sinh nói: “Đến Thuyết Thư quán của ta đi. Đứng giữa đường đông người xung quanh mà nói chuyện này sẽ làm họ sợ hãi đó.”



Thác Bạt Khuê giục ngựa từ từ tiến về phía tây. Trưởng Tôn Tung và Thúc Tôn Phổ Lạc theo sát hai bên đằng sau. Hơn trăm thân vệ theo sau, làm dấy lên một đám bụi mờ.



Gió tây bắc từng trận quất tới, làm bụi mù trên không trung tan dần.



Hai ngày nay khí trời chuyển lạnh. Xem ra một trận tuyết lớn không còn xa nữa.



Thác Bạt Khuê lòng như lửa đốt, chính hắn cũng không hiểu nguyên nhân.



Nhận được tin Sở Vô Hạ mang Phật tàng trở về, hắn lập tức phái Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành lĩnh năm trăm quân tinh nhuệ đến Thịnh Nhạc hộ tống họ và một lượng lớn hoàng kim về Hồ Thành, sau đó chuyển tới Biên Hoang tập.



Hắn có ý muốn tài bồi cho Thôi Hoành, để hắn quen thuộc hết hoàn cảnh địa lý khu vực đó.



Thác Bạt Khuê căn bản chưa từng nghĩ trong tình thế như bây giờ lại có người dám có ý đánh cướp xa đội của hắn. Hiện tại, Mộ Dung Tường và Mộ Dung Bảo đều đang quay về Trung Sơn nên từ Thịnh Nhạc cho tới Bình Thành và Nhạn Môn đều nằm trong phạm vi thế lực hắn thao túng. Ai mà dám động thổ trên đầu Thái tuế*?



Nửa khắc trước, hắn tiếp được tin khoái mã báo về xa đội bị phục kích trước khi trời sáng. Địch tuy chỉ có hơn trăm người, nhưng người nào cũng võ công cao cường, trước khi tập kích lại không hề có dấu hiệu báo trước. Toàn nhờ Sở Vô Hạ, Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành liều chết phản kích, đánh lùi địch nhân nhưng bên mình mất gần năm mươi chiến sỹ, tử thương thật thảm trọng.




Sở Vô Hạ, Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành đều bị thương. Trong đó, Sở Vô Hạ thương thế nghiêm trọng nhất.



Rốt cuộc là từ đâu đột nhiên mọc ra đám địch nhân lợi hại đó? Sở Vô Hạ tuyệt không phải là người tài hèn trí thấp. Nàng kiêm thủ tuyệt kỹ hai nhà Trúc Pháp Khánh và Ni Huệ Huy. Kể cả Yến Phi nếu muốn giết nàng cũng phải tận hết sức lực. Thần thánh phương nào có thể lợi hại đến thế?



Bản thân hắn cũng không rõ tâm tình của mình phiền não bất an có phải là do đột nhiên mọc ra đám địch nhân thần bí đó hay không, hay là do tức giận vì xa đội vận chuyển hoàng kim bị tập kích, hoặc cũng có thể do Sở Vô Hạ bị thương nên trong lòng lo lắng.



Làm người ta kinh hãi nhất là bên địch hoàn toàn không lưu lại một người chết nào, khiến người ta càng cảm thấy sự quỷ dị của địch nhân.



Làm sao đối phương biết có xa đội vận chuyển hoàng kim? Nếu không có Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành đến tiếp ứng thì tình hình càng không dám tưởng tượng.



Bỗng nhiên Thác Bạt Khuê hiểu được gian khổ đã quay lại, ưu thế mà hắn phải trải qua bao gian lao vất vả vừa mới tạo được đang chịu một sự khiêu chiến và khảo nghiệm rất khắc nghiệt.



Thạch lựu đỏ hồng như lửa, tỏa hương thơm khắp điện đường.



Lựu Hỏa các nằm ở phía bắc ngự trì trong ngự hoa viên. Điện đài, lầu các bốn phía đều đầy thạch lựu, quýt, hòe và dương thụ. Cây cối xanh tươi, trái lựu đỏ hồng, cảnh đẹp như tranh vẽ.


Từ Lựu Hỏa các nhìn ra phía ngự trì thì thấy một loạt đình đài lầu các hành lang quanh co bên bờ đối diện, kỳ thạch quái thụ đan xen lẫn nhau, ý cảnh thâm sâu.



Lựu Hỏa các kết cấu dựa vào Uyên Ương thính, hai tòa thính các đông tây đều có xà cột. Nhìn từ trong ra thì thấy hai nóc nhà, mái ngoài là một mái cong vểnh hướng lên phía đỉnh. Trong phòng dùng bình phong ngăn cách. Tư Mã Đạo Tử vì đã cho gọi ba người bọn Lưu Dụ tới nên di chuyển bình phong đi, hai phòng nhỏ trở thành một phòng lớn.



Cùng tiếp khách, ngoài Tư Mã Nguyên Hiển còn có hai đại tướng tâm phúc của Tư Mã Đạo Tử là Tư Mã Thượng Chi và Vương Du, cho thấy Tư Mã Đạo Tử đối với cuộc ngọ yến tưởng chừng tuỳ tiện đó không đơn giản.



Lưu Dụ nhìn ra mặt ngự trì được trồng đầy hoa sen, trong lòng lại nhớ đến lúc nãy gặp Hoàng đế Đại Tấn, gã có chút cảm xúc.



Tư Mã Đức Tông nhìn qua chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mình mặc long bào. Hắn không nhìn những người trước mặt mà trong mắt là một phiến mơ hồ, chừng như đang nhìn ngươi, nhưng nhưng lại không nhìn. Khí trời mặc dù bắt đầu chuyển lạnh mà hắn đã mặc áo bông dày ngự hàn, chừng như bên ngoài đang đổ tuyết lớn. Khó chịu nhất là những hỏa lò do cung nga thái giám thị hầu đằng sau hắn, làm những người gặp hắn đều phải chịu khổ như nhau. Không biết vì hắn tiết kiệm lời nói hay là có trở ngại trong việc dùng ngôn từ biểu đạt mà ngoài việc gật đầu ra hiệu đồng ý thì tất cả đều do Tư Mã Đạo Tử làm thay.



Nhưng lần gặp này đúng là một sự chuyển đổi có tính quan trọng. Tư Mã Đạo Tử thông qua vị Hoàng đế con rối chỉ biết gật đầu đó ban hành cho gã nửa mảnh hổ phù và Nhậm mệnh trạng**, có thể mang theo hai vạn quân. Lại cho Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong làm tả hữu phó tướng của gã, đồng thời ân tứ cho hai mươi người mà Lưu Dụ tuyển chọn làm thân binh. Từ nay, Lưu Dụ đã có căn cứ để ra lệnh trong quân, ý nghĩa vô cùng trọng đại.



Từ trước tới nay, việc thăng chức trong Bắc Phủ binh ngoại trừ chức Đại đô đốc thì triều đình không trực tiếp tiến hành, chỉ do Đại đô đốc bẩm lên triều đình, rồi do triều đình chấp thuận. Nhưng gần đây, uy thế của Lưu Lao Chi thua xa Tạ Huyền, lại đang xuất chinh bên ngoài. Tư Mã Đạo Tử thừa cơ bỏ qua Lưu Lao Chi, trực tiếp trao quân quyền cho Lưu Dụ làm gã không còn là một tướng quân chỉ có danh mà không có lính nữa.



Chỗ xảo diệu là hàm cấp chức vụ của Lưu Dụ không thay đổi, thêm nữa bản thân Lưu Dụ trong quân có địa vị đặc thù. Cho nên dù lần này Tư Mã Đạo Tử tuy rõ ràng tước quyền giao nhiệm vụ của Lưu Lao Chi trong quân nhưng lại đạt được sự ủng hộ của đại bộ phận tướng lính trong quân. Lưu Lao Chi cũng khó đưa ra dị nghị gì.



Rượu đã quá ba tuần, Tư Mã Đạo Tử ân cần mời mọc, không khí rất hòa hợp.



Trong ba người, lộ vẻ không tự nhiên nhất là Tống Bi Phong. Nhưng Tư Mã Đạo Tử nói một hồi về chuyện ‘hoài niệm Tạ An’, tỏ ra tôn sùng Tạ An vô cùng, làm Tống Bi Phong cũng cảm thấy thư thái hơn nhiều.



Chủ đề nói chuyện chuyển sang việc giết Can Quy tối qua. Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam một mực quy công lao cho Tư Mã Nguyên Hiển đã giúp đỡ rất nhiều. Tư Mã Nguyên Hiển càng nói càng nở mày nở mặt, vô cùng hưng phấn.



Ít nhất thì bề ngoài Tư Mã Đạo Tử đã cởi bỏ lòng cảnh giới đối với Lưu Dụ làm chủ khách càng thêm hân hoan vui vẻ.



Tư Mã Thượng Chi đột nhiên nói về cuộc chiến chinh phạt Thiên Sư quân. Lão nhìn Lưu Dụ ra giọng khách khí để thỉnh giáo: “Lưu đại nhân cho rằng quân Nam chinh sẽ thắng nhỏ trước, sau sẽ đại bại rốt cuộc có căn cứ nào?”



Lưu Dụ khiêm tốn đáp: “Đó chỉ là dự đoán của tiểu tướng mà thôi, tuyệt không có bằng cứ đặc biệt nào. Do tiểu tướng từng giao thủ với Thiên Sư quân ở Biên Hoang tập nên có chút hiểu biết đối với Từ Đạo Phúc, lại đặt bản thân mình vào vị trí đó mà nghĩ. Ví dụ đặt bản thân vào vị trí Từ Đạo Phúc sẽ ứng phó quân bình loạn của triều đình thế nào? Vì thế mới có kết luận đó.”



Lời gã nói vô cùng đắc thế, không làm người ta khó chịu vì thấy hắn khoa trương tài trí. Gã lại chỉ ra việc mình biết rõ chiến lược của Từ Đạo Phúc hơn là Tạ Diễm và Lưu Lao Chi vì thế tuyệt không phải gã cố ý nói quá lên để dọa dẫm.



Vương Du không hiểu hỏi: “Lưu đại nhân tại sao chỉ đề cập đến Từ Đạo Phúc mà không nói đến Tôn Ân? Chẳng lẽ Tôn Ân không còn là lãnh tụ tối cao của Thiên Sư quân sao? Thân thúc của Tôn Ân là Tôn Thái bị triều đình xử quyết, Tôn Ân chạy ra hải đảo, mang chí phục thù, tôn Tôn Thái là tổ thần đã vũ hóa thành tiên. Lần này Thiên Sư quân làm loạn, Tôn Ân lại tụ thủ bàng quan sao?”



Hai vấn đề mà hai người thay nhau hỏi là đã thương lượng với Tư Mã Đạo Tử trước. Đó cũng là nghi vấn trong lòng Tư Mã Đạo Tử nhưng do người thân tín hỏi thay thì phù hợp hơn.



Lưu Dụ biết buổi ngọ yến này vô cùng quan trọng, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cách nhìn của Tư Mã Đạo Tử đối với gã, ảnh hưởng tới giá trị lợi dụng của gã trong lòng Tư Mã Đạo Tử.



Lưu Dụ ung dung đáp: “Tôn Ân tuy có tiếng là thủ lĩnh Thiên Sư quân, nhưng lại là thượng cấp siêu nhiên của Thiên Sư quân, trở thành lãnh tụ tinh thần. Toàn bộ việc quân đều giao cho hai đồ đệ xử lý. Tình hình đó đã lộ rõ khi Thiên Sư quân cử hành chiến dịch đánh chiếm Biên Hoang tập. Khi Từ Đạo Phúc và Lư Tuần lĩnh quân đánh Biên Hoang tập thì lão lại ở Trấn Hoang cương quyết chiến cùng Yến Phi. Suốt chiến dịch, lão độc lai độc vãng. Điều đó có thể thấy lão không có hứng thú lãnh đạo quân đội. Đến chiến dịch gần đây nhất là đánh phá Cối Kê, lão chỉ một mình hành động đuổi giết Vương phu nhân.”



Tư Mã Đạo Tử gật đầu: “Có đạo lý! Sau khi công hãm Biên Hoang tập, Tôn Ân lập tức bỏ về hải đảo tiềm tu. Như vậy đủ biết lão không quan tâm tới việc quân, chỉ một lòng truy cầu việc vô bổ là thành tiên thành thánh gì đó.”



Lưu Dụ đáp: “Chỉ cần xem việc Lư Tuần có thể đến Kiến Khang gây sóng gió là biết quân quyền đã rơi hết vào tay Từ Đạo Phúc rồi. Đối thủ của quân dẹp loạn chính là Từ Đạo Phúc không còn nghi ngờ gì nữa.”



Tư Mã Thượng Chi hỏi xen vào: “Từ Đạo Phúc là người thế nào?”



Lưu Dụ đáp: “Người này mưu lược cực kì phong phú, tinh thông binh pháp, tuyệt không phải là loại hữu dũng vô mưu. Từ việc ngày trước hắn cơ trí liền thay đổi chiến lược, rút khỏi Biên Hoang tập để bảo tồn thực lực Thiên Sư quân là biết hắn là người lắm mưu nhiều kế.”


Tư Mã Nguyên Hiển hỏi: “Lần này quân ta Nam hạ dẹp loạn là đã qua nhiều lần tính đi tính lại, có kế hoạch chu toàn. Về nhân số tuy thua xa loạn dân, nhưng là quân tinh nhuệ, được huấn luyện bài bản, hơn xa Thiên Sư quân chỉ là một bọn ô hợp. Lưu huynh tại sao lại không lạc quan thế?”



Lưu Dụ đáp: “Thiên Sư quân đánh Biên Hoang tập tuyệt không phải là đội quân ô hợp. Vì thế trong Thiên Sư quân cũng có tinh binh, nhân số cũng không dưới năm vạn. Với tác phong của Từ Đạo Phúc sẽ không dễ dàng đưa số tinh binh này ra chiến trường mà chờ đợi cơ hội. Lại có thể làm quân dẹp loạn sinh ra cảm giác sai lầm, cho rằng Thiên Sư quân chỉ có thế thôi, sau đó sẽ sinh lòng tự tin sai lầm. Một khi khinh suất sẽ là cơ hội cho địch lợi dụng.”



Tư Mã Đạo Tử nhíu mày hỏi: “Con số năm vạn ấy làm sao có được?”



Đồ Phụng Tam điềm đạm nói: “Là do Phụng Tam cung cấp. Phụng Tam quan tâm nhất là công tác tình báo, tự tin con số đó tuy không chính xác nhưng cũng không sai mấy.”



Mọi người trầm mặc hẳn xuống. Ai nấy đều thầm tính toán.



Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam luôn giữ vững quan điểm quân viễn chinh sẽ thắng lợi nhỏ rồi sau sẽ đại bại. Chỉ cần Tư Mã Đạo Tử tin tưởng cách nhìn này của họ thì kế hoạch của họ có thể triển khai toàn diện. Nếu như quân viễn chinh đại bại quay về đúng như sở liệu thì dưới tình hình đó, nếu Tư Mã Đạo Tử muốn đánh bại Thiên Sư quân thì Lưu Dụ trở thành lựa chọn duy nhất của lão.



Đồ Phụng Tam phá vỡ bầu không khí nặng nề khó thở: “Hai lộ quân dẹp loạn phải chăng chuẩn bị hội sư ở Cối Kê?”



Tư Mã Đạo Tử, Tư Mã Nguyên Hiển, Tư Mã Thượng Chi và Vương Du đồng thời động dung.



Tư Mã Đạo Tử nói: “Phụng Tam rốt cuộc là đoán mò hay có tin tức chính xác?”



Tống Bi Phong chen ngang nói: “Ta dám đảm bảo là Phụng Tam đoán ra vì Bi Phong lần đầu tiên nghe thấy chuyện này.”



Từ phản ứng của bọn Tư Mã Đạo Tử là biết Đồ Phụng Tam đã đoán đúng. Đó không những là mục tiêu quân sự của quân dẹp loạn, lại là bí mật trọng yếu. Chỉ có những người chủ soái như Tạ Diễm và Lưu Lao Chi mới biết. Lưu Lao Chi đương nhiên không nói cho Lưu Dụ biết. Tính ra chỉ còn Tạ Diễm, nhưng Tống Bi Phong đã biểu lộ rõ như thế đã loại trừ khả năng Tạ Diễm đã làm lộ tin.



Đồ Phụng Tam nói: “Ta có thể đoán được thì đương nhiên cũng khó giấu được Từ Đạo Phúc. Nếu ta là hắn, sẽ lợi dụng quân dẹp loạn hành quân rất dài mà nghĩ ra biện pháp chặt đứt hai tuyến đường cấp lương thủy lục, làm quân dẹp loạn không được bổ sung, lún sâu vào trận địch.”



Tư Mã Đạo Tử cười nhẹ: “Vấn đề này chúng ta chưa từng nghĩ qua, nhưng may là một dải Chiết Đông*** là quê hương lúa gạo, lương thực sung túc. Chỉ cần lấy lương ở đó là có thể giải quyết vấn đề quân nhu rồi.”



Lưu Dụ than: “Đó chính là hậu quả mà bọn tôi lo lắng nhất. Cũng là việc Từ Đạo Phúc mong muốn xảy ra nhất. Cưỡng bức thu lương thực của dân sẽ làm tình hình bộc phát không thể thu thập được, biến thành việc dung túng cho thủ hạ sát nhân cướp lương, càng đẩy cao lòng quyết tâm chống đối đến chết của dân chúng. Thế yếu đó nếu đã xuất hiện thì không một thống lĩnh nào có thể khống chế được.”



Tống Bi Phong nói: “An công sinh tiền từng nói muốn dẹp loạn Thiên Sư đạo thì ngoài việc chuyên cần tu bổ võ bị, còn phải mất công phu đối với dân chúng, cần có sách lược phủ dụ dân chúng. Nếu không, dân loạn sẽ biến thành nguyên liệu để lửa cháy càng to thêm, cuối cùng sẽ có một ngày thiêu hủy cả Kiến Khang.”



Tư Mã Đạo Tử tắc miệng không nói được gì.



Mọi người đều không dám nói năng, sợ làm nhiễu loạn suy nghĩ của lão.



Một lát sau, Tư Mã Đạo Tử thở dài, trầm giọng: “Đại quân đã đi rồi. Việc đó đã không thể thay đổi. Ba vị có biện pháp bổ cứu nào không?”



Ba người ngấm ngầm thở nhẹ. Cái họ muốn nghe nhất chính là câu cuối cùng này.



Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam khẽ liếc mắt nhìn nhau, biết đã đến lúc đem toàn bộ kế hoạch dâng lên, không sợ Tư Mã Đạo Tử sẽ cự tuyệt vì lão là người thông minh, biết không còn lựa chọn nào khác.



Chú thích:



* Nguyên văn: Thái tuế đầu thượng động thổ (

太岁头上动土). Nghĩa của thành ngữ này có thể hiểu như xâm phạm người cường bạo hùng mạnh. Ở đây tác giả muốn nói ai ở trong vùng của Thác Bạt Khuê mà dám giỡn mặt hắ

n, vuốt râu hùm.



** Hổ phù và Nhậm mệnh trạng: Hổ phù là thẻ của tướng ngày xưa, được dùng để nhận biết, có thể dùng để điều động binh sĩ trong phạm vi quyền lực. Nhậm mệnh trạng thường là một quyển trục ghi rõ nhiệm vụ và các điều cam đoan của tướng lĩnh khi được giao việc.



*** Chiết Đông: Chiết là sông Chiết, tỉnh Chiết Giang. Trong cách nói một dải Chiết Đông, chúng tôi nghĩ là nói dải phía đông của sông Chiết. Trong lịch sử có Chiết Đông học phái rất nổi tiếng. Học phái này bắt đầu từ thời Tống, phát triển mạnh ở thời Minh Thanh.

402

Tài Năng Phi Th

ườ

ng


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Vương Trấn Ác xuống ngựa ở cốc khẩu, để con ngựa đã mỏi mệt được thoải mái nghỉ ngơi gặm cỏ, tự mình tiến vào tiểu cốc.



Hang núi này cách Biên Hoang tập gần mười dặm, nằm ở khu vực núi non phía tây bắc Biên Hoang tập. Vương Trấn Ác đuổi mãi không tha đến đây là vì hắn biết về người thần bí hơn Hoang nhân, hiểu khi người thần bí thi triển Viễn độn thuật thì không thể dừng lại được nên sẽ lưu lại dấu vết hành tung.



Viễn độn thuật rất hao tổn chân nguyên. Nếu không có một thời gian nghỉ ngơi thì đừng hòng hồi phục lại được. Vì thế nếu muốn giết người này thì đây là cơ hội khó gặp.



Bốn mặt tiểu cốc đều có núi non bao phủ, cảnh trí thanh u. Vì thế mặc dù Vương Trấn Ác trong lòng tràn đầy sát cơ mà sau khi vào cốc cũng cảm thấy như rũ sạch bụi trần, tâm thần bình hòa, nhất thời khó có lòng tranh thắng với ai.



Vừa bước chân vào trong cốc, Vương Trấn Ác đã có cảm giác bị người ngấm ngầm theo dõi. Bất chợt trong lòng vô cùng ngạc nhiên. Chẳng lẽ mình lại đoán sai rồi? Địch nhân chạy trốn đến đây nhưng không tĩnh tọa vận khí hành công mà vẫn giữ được trạng thái cảnh giác sao?



Vương Trấn Ác cao giọng nói: “Bản nhân là Vương Trấn Ác, một mình đến đây, bằng hữu Bí tộc nếu có gan thì hãy ra mặt cùng bản nhân quyết một trận tử chiến, để ta khỏi phí công tìm ngươi.”



Một trận cười lớn tràn đầy ý vị coi thường từ lưng chừng núi truyền xuống. Vương Trấn Ác ngửa mặt nhìn lên phía tiếng cười vọng xuống liền thấy cao thủ Bí tộc đó hiện thân trên một khối đá lớn nhô ra ngoài vách núi, đang cúi đầu nhìn hắn.



Y không còn trùm đầu che kín diện mạo nữa mà lộ xuất ‘Lư sơn chân diện mục’.



Người này tuổi chừng hai mươi, hình dáng vô cùng đặc dị. Khuôn mặt dài rộng, vầng trán cao rộng và cằm cao làm người ta cảm giác khí thế hùng vĩ. Mắt, tai, mũi và miệng y đều đơn sơ như được tạc từ đá hoa cương. Đôi mắt dài tràn đầy tiếu ý, nhưng lại làm người ta cảm thấy y bản tính ngạo thế không chịu khuất phục, kiêu ngạo tự phụ không coi thiên hạ chúng sinh vào đâu.



Y đang đứng trên hòn đá, dáng vẻ ngạo nghễ thiên hạ, tư thái như là ngoài ta ra chẳng có ai. Hơn nữa, y vai rộng lưng dày, lồng ngực căng vồng làm nổi bật bộ kình trang đen tuyền bó sát người y mặc. Nét mặt và thể hình đều tuấn tú hơn người, làm người ta cảm thấy y có điểm tà dị, khí chất bất đồng.



Y ngạo nghễ nói: “Trước tiên, ta tuyệt không phải là bằng hữu của ngươi. Tiếp nữa, ta xuất hiện gặp ngươi không có liên quan đến chuyện gì, mà là muốn xem xem ngươi là tên ngu ngốc nào, có tư cách nói câu đó không.”



Tiếp đó mục quang nhìn xuống thắt lưng da của Vương Trấn Ác, lại nhìn thanh đoản kiếm được đeo bằng một dây vào thắt lưng, hai mắt sáng bừng lên hỏi: “Cái ngươi đeo phải chăng là binh khí lừng danh thời nhà Hán?”



Vương Trấn Ác vô cùng ngạc nhiên hỏi: “Huynh đài cao tính đại danh là gì? Ngươi là người đầu tiên nói đúng lai lịch thanh kiếm này của bản nhân.”



Hắn cũng thật kỳ quái, nói xong liền tùy tiện cởi bội kiếm ném lên cho đối phương.



Người kia ung dung thò tay bắt lấy, vui mừng nói: “Việc đó có gì là khó? Kiếm này dài không quá ba thước, cho thấy được dựa theo phương pháp chế tạo đoản đồng kiếm thời Xuân thu Chiến quốc. Tuy là kiếm sắt, nhưng lại không được chú trọng lắm về chiều dài. Tiếp đó, kiếm này mũi kiếm hình tròn thon nhọn, mũi kiếm và thân kiếm được đúc liền thành một thể. Loại kiếm hình dạng thế này không hề thấy trước đời Hán. Hơn nữa, hình dạng kiếm này dẹp mà sống kiếm thu vào, chính là kiểu thịnh hành vào đời nhà Hán nên ta chỉ nhìn một lần là biết.”



Y lại cười nhẹ tiếp: “Xem ngươi cũng là người có tiếng tăm. Tiện đây cũng cho ngươi biết ta là ai. Hướng Vũ Điền chính là ta.”



“Choang!”



Tay

phải Hướng Vũ Điền cầm vỏ kiếm, tay trái bạt kiếm khỏi vỏ, tán thưởng: “Kiếm tốt! Đã trải qua bao nhiêu năm dài mà vẫn như vừa mới được đúc ra. Chất sắt thế này càng khó được thấy. Nhìn thanh kiếm này không có kiếm quang, nhưng ở lưỡi lại ẩn hiện ánh sáng vàng rực rõ đủ biết binh khí này là loại hợp kim được đúc thành bằng nhiều loại chất sắt khác nhau. Thuật đúc kiếm cũng đạt tới cảnh giới tối cao. Nếu ta đoán không lầm thì kiếm này có chứa cả thành phần huyền thiết.”


Đoạn y lại cười tươi nói: “Vương huynh không nên thấy ta dùng tay trái rút kiếm mà cho rằng ta là người thuận tay trái nhé. Thật ra dùng tay phải hay tay trái đối với ta không khác nhau nhiều. Khi động thủ mà Vương huynh cho rằng ta thuận tay trái thì sẽ thất bại nặng nề đấy.”



Với tài trí của Vương Trấn Ác mà cũng bị y làm cho hồ đồ, không rõ hư thực của y. Hắn than: “Hướng huynh đúng là kỳ nhân, nhãn lực cao minh. Kiến thức về kiếm lại càng làm người ta kinh dị. Làm người ta khó hiểu nhất là kiến thức của Hướng huynh đối với Hán tộc bọn ta. Hướng huynh chẳng phải sống lâu dài ở sa mạc, cách biệt với thế giới sao?”


Hướng Vũ Điền trả kiếm vào vỏ, tiện tay ném xuống cho Vương Trấn Ác, vật về chủ cũ. Y tiêu sái ngồi xuống rìa mỏm đá, hai chân thả xuống khẽ đong đưa vô cùng thoải mái tự nhiên. Y cười nhẹ: “Vương huynh làm sao mà có được thanh kiếm này? Không cần giấu ta đâu. Chúng ta vẫn chưa động thủ thì vẫn coi như còn là bằng hữu.”


Vương Trấn Ác đeo kiếm lên, thầm nghĩ phải chăng hắn đang thi triển kế kéo dài thời gian. Nhưng kiểu gì cũng không nhìn ra hiện tượng chân nguyên hắn tổn hao nghiêm trọng. Động thủ sớm hay muộn tuyệt không khác nhau gì. Hơn nữa hắn cũng rất hân thưởng người này, bèn cười nhẹ: “Hướng huynh tài năng phi thường, huynh đệ bội phục. Kiếm này đúng là có lai lịch. Nếu như ta nói rõ nguồn gốc của nó thì Hướng huynh sẽ đoán ra ta là ai.”



Hướng Vũ Điền cười rộ nói: “Ta đã sớm đoán ra ngươi là ai rồi! Thanh kiếm này tên là Bách Kim, là một danh kiếm đã theo Vương Mãnh tung hoành thiên hạ. Nhìn tuổi tác của Vương huynh, chắc là cháu Vương Mãnh. Hướng mỗ có nói sai không?”



Vương Trấn Ác trong lòng chấn động. Người này kiến văn quảng bác, nhãn lực cao minh tới mức làm người ta kinh sợ. Nếu hôm nay không thể đưa hắn vào chỗ chết thì Biên Hoang tập khẳng định sẽ bị hắn làm loạn đến nghiêng trời lệch đất.



Hắn trầm giọng: “Tổ phụ của ta là tử địch của quý tộc. Xin Hướng huynh dạy bảo.”



Hướng Vũ Điền ngạc nhiên: “Vương Mãnh là Vương Mãnh, ngươi là ngươi, có quan hệ quái gì đâu? Làm người mà cứ phải mang những gánh nặng như thế, ân oán của đời trước lại kế thừa nhận lấy thì cuộc sống ngắn ngủi này làm sao làm hết được?”



Hai mắt y lại xạ xuất thần sắc mơ màng, nhìn ra xa nói: “Niệm tình Vương huynh mạng không còn dài, ta nói thực với Vương huynh một chuyện. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ lần này, Hướng mỗ sẽ có thể thoát ly Bí tộc, sống theo lý tưởng của ta, truy cầu những thứ ta hằng mơ ước.”



Y lại nhìn xuống, hai mắt đột nhiên tràn đầy những tia nhìn sắc nhọn kỳ quái, ngữ khí vẫn bình tĩnh như thường, điềm đạm tiếp lời: “Thấy Vương huynh không phải là tiểu nhân ti bỉ thừa lúc ngưòi ta nguy cấp, Hướng mỗ sẽ dành cho ngươi một ân tứ là giữ cho ngươi toàn thây, còn cho ngươi nhập thổ an lành nữa. Danh kiếm Bách Kim sẽ thay cho bia đá.”



“Xoảng!”



Vương Trấn Ác rút Bách Kim bảo kiếm ra. Phía trên dậy lên đầy trời bóng người hư thật khó phân, kèm theo là một luồng kình khí kinh nhân đổ ập xuống.



Thân pháp và võ công kỳ bí quỷ dị thế này, lần đầu tiên Vương Trấn Ác mới gặp phải.




Yến Phi hiểu rõ mình đang bị hãm vào một trường nguy hiểm, lại là cục diện tiến thoái lưỡng nan.



Bí tộc không dễ hứa hẹn điều gì với ai, nhưng một khi đã hứa thì vĩnh viễn không hối hận. Đó là truyền thống của Bí tộc. Bí tộc hợp tác với Mộ Dung Thùy có thể chỉ giới hạn trong việc đối phó với liên quân Thác Bạt Khuê và Hoang nhân. Ngày liên quân bị phá thì cũng là lúc Bí tộc hoàn thành lời hứa. Nếu một ngày liên quân còn tồn tại thì Bí tộc chiến sỹ sẽ không màng sinh tử làm việc cho Mộ Dung Thùy.



Mặc Sĩ Minh Dao vẫn chưa biết chàng là Yến Phi. Ngày gặp nhau ở Trường An, Mặc Sĩ Minh Dao cũng nhận ra chàng là một trong hai tiểu tử Thác Bạt tộc tham gia lễ hội cuồng hoan. Khi đó Yến Phi vẫn chưa đổi tên, chưa gọi là Yến Phi mà vẫn gọi tên theo họ mẹ là Thác Bạt Hán. Đây là tên mà mẹ chàng đặt cho.



Mặc Sĩ Minh Dao chỉ biết chàng là Thác Bạt Hán, tuyệt không biết chàng là Yến Phi. Thanh kiếm chàng dùng khi đó cũng không phải là Điệp Luyến Hoa. Bội kiếm ngày đó đã thoát tay cắm vào lồng ngực Mộ Dung Văn, nằm yên ở đó rồi. Việc trở thành chủ nhân Điệp Luyến Hoa là chuyện sau này. Vì thế dù Mặc Sĩ Minh Dao biết con người Yến Phi và kiếm của chàng, nhưng không thể liên tưởng được tình nhân mà từng có quan hệ thân mật trong một thời gian ngắn lại là Yến Phi.



Bí tộc luôn bài xích người ngoài. Chàng và Thác Bạt Khuê sở dĩ có thể được tham gia lễ hội cuồng hoan vì Yến Phi biết ngôn ngữ Bí tộc, hiểu rõ quy củ của họ.



Mẹ Yến Phi là một trong số rất ít người Thác Bạt tộc tinh thông Bí ngữ. Bản lĩnh đặc thù này cũng được bà truyền thụ cho chàng. Còn như việc mẹ làm sao lại biết nói Bí ngữ thì bà chưa từng lộ ra đến nửa câu.



Chính vì quan hệ vi diệu như thế nên Mặc Sĩ Minh Dao tuyệt không hoàn toàn coi chàng là người ngoài, lại còn tuyệt đối tin tưởng chàng. Trên phương diện này, chàng cũng không làm Mặc Sĩ Minh Dao thất vọng.



Họ đều có oán thù với vương triều Đê Tần, chung một kẻ thù.



Mặc Sĩ Minh Dao, Hướng Vũ Điền và vài trăm chiến sỹ Bí tộc sùng bái tử vong, hung hãn không sợ chết, ở bất kỳ phương diện nào cũng trở thành mối uy hiếp rất lớn đối với Thác Bạt Khuê và Hoang nhân.



Chàng cần toàn lực quay về Biên Hoang tập để ứng phó với liên quân Mộ Dung Thùy và người Bí tộc.



Vấn đề ở chỗ Tôn Ân không bỏ qua cho chàng, muốn tránh cũng không được.



Kể cả trong tình trạng trong lòng không có trở ngại gì thì thắng bại với Tôn Ân vẫn chưa biết thế nào. Tôn Ân tinh tiến rất lớn, hơn nữa, chàng lúc này vô tâm quyết chiến, trong lòng trùng trùng ưu tư. Kết quả có thể tưởng tượng được.



Trong thâm tâm, chàng ngấm ngầm cảm thấy đối với Mặc Sĩ Minh Dao vẫn còn dư tình chưa dứt nên chàng cảm thấy khó xử, càng làm loạn đạo cảnh bình tĩnh của chàng.



Nếu như lúc đối mặt với Tôn Ân mà tâm cảnh chàng vẫn trong trạng thái đó thì cuộc chiến này tất bại không sai.




Thanh Khê Tiểu Trúc.



Lưu Dụ, Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong ngồi trong phòng thương lượng đại kế.


Tống Bi Phong nói: “Xem chừng Tư Mã Đạo Tử quả trọng dụng ý kiến của tiểu Dụ, bắt đầu tín nhiệm tiểu Dụ. Nếu không, lão tuyệt không cho bọn ta sử dụng Hoang nhân làm tử đệ binh*. Với Tư Mã Hoàng triều mà nói, đây là hành động phá lệ chưa từng có.”



Đồ Phụng Tam cười nhẹ: “Ngàn vạn lần đừng nên cao hứng sớm quá. Tư Mã Đạo Tử chỉ đang dùng lại kế cũ thôi.”



Lưu Dụ không hiểu hỏi: “Dùng lại kế cũ?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Ngươi đã quên tình hình ngày trước của Lưu Lao Chi và Hà Khiêm rồi sao? Đầu tiên, Tư Mã Đạo Tử thu nạp Hà Khiêm, kiềm chế Lưu Lao Chi. Sau đó hy sinh Hà Khiêm, làm Lưu Lao Chi phản bội Hoàn Huyền, phả hủy liên minh với Hoàn Huyền. Lần này cũng là như thế. Lão tài bồi cho ngươi để phân hóa thế lực Lưu Lao Chi. Nếu như Tạ Diễm thật sự bại trận thì nhân mã trước đây trực thuộc Hà Khiêm không còn cách nào khác sẽ về với ngươi. Lưu gia ngươi sẽ biến thành một Hà Khiêm khác, Tư Mã Đạo Tử lại có thể diễn lại tình hình ngày trước.”



Tống Bi Phong nói: “Theo ta thấy Tư Mã Đạo Tử vô cùng bất mãn Lưu Lao Chi. Có thể lão sẽ cho tiểu Dụ thay thế hắn.”



Đồ Phụng Tam nói: “Bất mãn thì bất mãn, nhưng trong lòng Tư Mã Đạo Tử điều quan trọng nhất là bảo vệ Hoàng quyền của họ Tư Mã. Tình cảm cá nhân thích hay không thích tuyệt không được xem xét nhiều. Ta hỏi các ngươi một vấn đề, nếu các ngươi là Tư Mã Đạo Tử thì sẽ sợ Lưu Lao Chi hơn hay là Lưu Dụ đây?”



Lưu Dụ lập tức tắc họng không nói được gì.



Tống Bi Phong than: “Nhìn nhận của Phụng Tam rất tinh tường thấu đáo. Có thể nói thanh danh của Lưu Lao Chi ngày càng thấp. Tiểu Dụ lại như mặt trời lên cao. Điều mà Lưu Lao Chi không thể so sánh được với tiểu Dụ là tiểu Dụ không những được lòng người, mà còn được những kẻ sỹ tiến bộ của Kiến Khang chấp nhận. Nếu như tiểu Dụ ngồi thế vào ghế Đại thống lĩnh của Lưu Lao Chi thì khẳng định sẽ trở thành một Huyền soái khác.”



Đồ Phụng Tam nói: “Tư Mã Đạo Tử là người trở mặt vô tình. Hãy nhìn lão đối đãi Hà Khiêm như thế nào, chúng ta vĩnh viễn không được quên điểm này. Vô luận thế nào, mục tiêu ngắn hạn của chúng ta đã đạt được. Bước tiếp theo là làm sao vãn hồi được cơn cuồng bạo này. Khi quân dẹp loạn lâm vào thế binh bại như núi đổ, đánh bại Thiên Sư quân, đoạt lợi ích lớn nhất vào tay mình, củng cố binh quyền.”



Lúc này, Khoái Ân về tới, hắn đầy vẻ vui mừng nói “Nhận được tin tức từ Biên Hoang tập, rồi. Yến gia đang toàn lực đến đây, trong hai ngày nữa sẽ tới Kiến Khang.”



Ba người tinh thần đại chấn. Tống Bi Phong nghĩ Tạ Đạo Uẩn được cứu rồi, vui mừng hơn hết.



Khoái Ân lại tiếp: “Biên Hoang tập phái đến ba trăm bộ đội tiên phong. Sớm hôm nay ngồi thuyền xuất phát đi Kiến Khang. Xin Lưu gia an bày tiếp ứng họ.”



Đồ Phụng Tam nói: “Yến Phi đến là bọn ta có đủ vốn để chào hỏi Lư Tuần rồi. Ta bây giờ lại hy vọng Trần công công đúng là người của Tôn Ân để có thể lợi dụng lão dụ Lư Tuần xuất hiện.”



Tống Bi Phong nói: “Trước khi Yến Phi đến Kiến Khang, bọn ta càng phải cẩn thận hơn.”



Đồ Phụng Tam cười nói: “Hôm nay Lưu gia đã gặp Hoàng đế, chính thức nhận mệnh lệnh, có thể tiền hô hậu ủng đi khắp phố phường rồi.”



Lưu Dụ cười khổ: “Người tùy tùng nếu miễn được thì cứ miễn. Tập quán của ta là sinh hoạt độc lai độc vãng, mình thích gì làm nấy.”



Tống Bi Phong nói: “Đề nghị của Phụng Tam không sai đâu. Để ứng phó với Lư Tuần thì ta có thể làm đầu lĩnh tùy tùng. Về mặt này thì ta rất thành thạo.”



Đồ Phụng Tam nói: “Việc này vạn lần không thể. Nguyên nhân rất vi diệu vì cao môn của Kiến Khang đã quen với việc Tống đại ca là cận vệ của An công. Nếu bỗng nhiên biến thành tùy tùng của Lưu Dụ thì sẽ làm người ta cảm thấy là một sự mạo phạm đối với An công. Nhiều khả năng sẽ cho là Lưu Dụ muốn ngang với An công khiến cao môn Kiến Khang rất khó chấp nhận. Từ đó sẽ phát sinh phản cảm đối với bọn ta. Việc này ngàn vạn lần không nên thử.”



Tống Bi Phong gật đầu: “Phụng Tam quả hiểu rất rõ tâm thái của cao môn Kiến Khang.”



Đồ Phụng Tam nói: “Nói cho cùng thì đó là khác biệt giữa cao môn và áo vải, là cấm kỵ không thể phạm vào. Nếu thật cần người tùy tùng thì có thể để tiểu Ân làm đầu lĩnh, ngoài ra tuyển thêm ba thủ hạ cơ linh mẫn tiệp lập thành thân binh đoàn.”



Khoái Ân mừng nói: “Tiểu Ân nguyện thị hầu Lưu gia.”



Lưu Dụ đáp: “Ta tuyệt không sợ Lư Tuần. Đánh không được thì chạy, ta tự tin có biện pháp giữ mạng. Đối với ta mà nói, đây là cơ hội tốt để luyện tập, làm ta không dám bỏ bê võ công, luôn luôn cảnh giác.”



Tiếp đó hỏi Khoái Ân: “Tiểu Ân biết luyện binh chưa?”



Khoái Ân đáp: “Hầu gia tuy có chỉ điểm cho ta phép luyện binh, nhưng chưa từng có cơ hội thực hành.”



Lưu Dụ nói: “Giờ thì cơ hội đến rồi. Tư Mã Đạo Tử giao Dã Thành bên cạnh đô thành cho bọn ta làm nơi đóng quân. Ngươi có thể làm phó tướng cho Đồ gia, theo học cách huấn luyện quân lính. Tử đệ binh Hoang nhân của bọn ta sau khi đến Kiến Khang sẽ vào ở Dã Thành. Thành đó là đại bản doanh của bọn ta ở Kiến Khang.”



Khoái Ân nói: “Như vây có sợ Lư Tuần hành thích không?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Việc này không thể lộ liễu được. Hoang nhân huynh đệ của bọn ta sẽ đóng giả làm Nhạc Chúc quân mà Tư Mã Nguyên Hiển mới chiêu mộ. Tư Mã Nguyên Hiển cũng sẽ đến Dã Thành bất cứ lúc nào để giấu tai mắt người khác. Đương nhiên quyền khống chế thực tế nằm trong tay bọn ta. Có thể nói đây là thành quả lớn nhất của lần gặp mặt Tư Mã Đạo Tử này.”



Khoái Ân nói: “Đa tạ ba vị đại gia tài bồi. Tiểu Ân sẽ nỗ lực học tập.”



Tống Bi Phong nói: “Nếu bọn ta đoán không sai thì trong vòng ba tháng nữa tiểu Ân sẽ có cơ hội xuất chinh.”



Hai mắt Khoái Ân lộ thần sắc phấn chấn.



Ba người biết rõ tâm tình y. Khoái Ân là người có chí lớn. Dưới sự chỉ đạo tận tình của Hầu Lượng Sinh, đã học hiểu rõ ràng thị phi, sinh ra chí hướng bình thiên hạ. Cái chết của Hầu Lượng Sinh gây đả kích nghiêm trọng đối với y, làm y cảm thấy tất cả đều kết thúc. Bây giờ, bỗng nhiên tình hình thay đổi, trước mắt xuất hiện cục diện hoàn toàn mới, y đã có phương hướng để phấn đấu, mọi u sầu trước đây đều được gột rửa sạch sẽ. Sự hưng phấn của y có thể hiểu được.



Tống Bi Phong nói: “Bọn ta có nên cảnh cáo Tư Mã Đạo Tử không? Vì nếu như Trần công công đúng là người của Tôn Ân thì Tư Mã Đạo Tử đã đặt thân trong hiểm cảnh. Nếu Tư Mã Đạo Tử đột nhiên ngộ hại thì bọn ta cũng không tốt đâu.”



Quyền lực của bọn họ hiện nay đều nhận từ Tư Mã Đạo Tử. Nếu Tư Mã Đạo Tử xảy ra chuyện gì thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến họ.



Đồ Phụng Tam vui vẻ nói: “Nói thật, ta hận việc đó sao không phát sinh. Nếu Tư Mã Đạo Tử đột nhiên lăn ra chết thì ai sẽ được tiện nghi? Đương nhiên là bọn ta. Bây giờ ở Kiến Khang, quyền lực lớn nhất là Tư Mã Đạo Tử, lão cũng như là một nửa Hoàng đế rồi. Sau đó là đến Tư Mã Nguyên Hiển. Trong tình hình đó, Tư Mã Nguyên Hiển sẽ phải dựa vào bọn ta giúp hắn ổn định chính cục. Vậy chúng ta không cần đánh Tôn Ân mà vẫn có thể nắm được triều chính.”



Khoái Ân nói: “Nếu như cả cha con đồng thời bị hại thì sao?”



Đồ Phụng Tam nói: “Thế càng lý tưởng. Lưu Dụ có thể bằng danh dự của hắn nắm lấy thực lực, với danh nghĩa bảo vệ Hoàng đế mà tiếp thu binh quyền Kiến Khang.”



Tống Bi Phong nói: “Nói vậy thì Trần công công sẽ không hành thích Tư Mã Đạo Tử đâu.”



Đồ Phụng Tam nói: “Lý là như thế nhưng để giết Tư Mã Đạo Tử cũng chẳng phải dễ dàng. Lão là nhân vật hoàng tộc đã trải qua nhiều sóng gió, đối với bất kỳ ai đều có lòng cảnh giác. Ví dụ như hôm nay bọn ta và lão đạt được hiệp nghị bí mật, lão cũng tuyệt không tiết lộ cho Trần công công. Lão lại biết rõ Lư Tuần đang rình mò bên cạnh, Tư Mã Đạo Tử làm sao dám khinh suất. Nếu như minh đao minh thương thì nếu Trần công công muốn giết Tư Mã Đạo Tử căn bản là không thể làm được.”



Tống Bi Phong nói: “Phải chăng tiểu Dụ đã quyết định tối nay sẽ đi phó hội với Lý Thục Trang?”



Đồ Phụng Tam nói: “Để Lưu gia đi một mình đi! Nếu không sẽ bị Lý Thục Trang coi thường gã. Bọn ta phải nói thế nào làm thế ấy, chân chính tín nhiệm Lưu gia là chân mệnh thiên tử giết không chết được.”



Lưu Dụ trong lòng cười khổ. Ài! Chân mệnh thiên tử.



Chú thích



* Tử đệ binh: Tử đệ nghĩa là con cháu. Tử đệ binh có nghĩa là đội quân chỉ dùng con cháu trong nhà làm rường cột. Ngoài ra còn có nghĩa là đội quân của riêng một (hay một nhóm) người. Nghĩa trong truyện là lấy ý thứ hai.

403

Tiên Tr

ườ

ng M

c C

p


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Biên Hoang tập, Thuyết Thư quán.



Mọi người ai nấy thần sắc đều trầm trọng. Đó gọi là một khi đại hành gia xuất thủ là biết ngay thực lực.



Tối qua Cao Ngạn bị phục kích, tuy bị Hướng Vũ Điền đả thương vài người, lộ rõ thực lực hùng mạnh của y, nhưng mọi người vẫn không để trong lòng. Đến vừa rồi, Hoang nhân trong tình thế nắm vững cục thế, cao thủ xuất ra hết rồi nhưng vẫn bị đối phương dễ dàng đột vây chạy mất làm bọn họ cảm thấy sự việc rất nghiêm trọng.



Chỉ cần những người Bí tộc khác có công phu bằng một nửa Hướng Vũ Điền thì đây sẽ là một việc rất khó ứng phó. Nhớ lại quá trình gian khổ ngày trước khi tróc nã Hoa Yêu, đến bây giờ mọi người vẫn còn thấy sợ hãi.



Riêng Lưu Mục Chi vẫn lạnh lùng ung dung, bộ dạng vô cùng tự tin.



Trác Cuồng Sinh nói: “Chỉ cần có thể giữ được đến lúc Yến Phi trở về thì bọn ta có thể xoay chuyển cục thế. Bây giờ thì phải ở vào cục diện giằng co, địch trong bóng tối ta ngoài sáng. Vấn đề là bọn ta có thể cầm cự được đến lúc Yến Phi quay về hay không.”



Yến Phi không những là Biên Hoang đệ nhất cao thủ mà có thể trở thành thiên hạ đệ nhất cao thủ. Trong thiên hạ, người có tư cách làm đối thủ của chàng không quá vài người. Tôn Ân là một, Mộ Dung Thùy cũng là một trong số đó. Còn như người thứ ba thì vẫn chưa biết cho ai vào.



Nếu Yến Phi đang ở Biên Hoang tập thì đương nhiên là chuyện sẽ khác. Ít nhất là tình hình như vừa rồi sẽ không xuất hiện. Người đuổi theo Hướng Vũ Điền sẽ là Yến Phi chứ không phải là Vương Trấn Ác. Bọn họ cũng không phải lo lắng như bây giờ.



Yến Phi tuyệt không phải là một cao thủ bình thường mà là người có linh giác rất cao và dị lực tinh thần, vượt trên bất cứ kỳ công tuyệt nghệ nào khác. Đó chính là khắc tinh của người Bí tộc xuất quỷ nhập thần.



Giang Văn Thanh nói: “Tình hình vẫn chưa đến mức ác liệt thế đâu! Phương tổng có thể chứng thực chưa có người Bí tộc trà trộn tiến vào trong Tập. Biên Hoang tập vẫn an toàn. Lưu tiên sinh phải chăng bằng vào chiếc mũi linh ứng của Phương tổng mà đề nghị chủ động xuất kích? Ta nhận thấy biện pháp đó có thể thực hiện được.”



Âm Kì than: “Bọn ta không thể nào rời khỏi hang ổ được. Nếu rời khỏi hang ổ thì ở nơi rộng rãi như Biên Hoang mà muốn đối phó với một người có thể chạy nhanh hơn cả ngựa thì không thể làm được. Biện pháp duy nhất đối phó với Hướng Vũ Điền là do tiểu Phi tự thân xuất mã, còn những người khác thì không thể được. Nhiều người cũng không có tác dụng gì.”



Mộ Dung Chiến cười nhẹ: “Bọn ta ngàn vạn lần không được mất đấu chí. Ta hiểu rõ tâm tình của Âm huynh. Nhìn thấy Hướng Vũ Điền ở phía trước càng chạy càng nhanh thì cảm giác bất lực đó quả thực làm người ta chán nản. Nhưng nếu như nhìn nhận một cách khách quan toàn bộ sự kiện, bọn ta vẫn ở vào vị trí có lợi. Trước hết là Cao tiểu tử hồng phúc tề thiên, đã tránh được không bị Hướng Vũ Điền thích sát. Tiếp đó là bọn ta đã đuổi Hướng Vũ Điền khỏi Biên Hoang tập, làm ảnh hưởng toàn diện đến đại kế xâm phạm của Bí tộc. Quan trọng nhất là trước khi Bí tộc phát động, bọn ta đã sinh lòng cảnh giác. Giờ cần xem thủ đoạn của bọn ta thế nào thôi.”



Có tiếng vỗ tay vang lên.



Người vỗ tay chỉ là một mình Lưu Mục Chi, làm toàn thể mọi người nhìn lão. Lão trí giả này vẫn khí định thần nhàn, thản nhiên nói: “Mộ Dung đương gia không hổ là có tài chủ soái, nắm tình hình địch, ta vô cùng thấu triệt. Thật ra, bọn ta vẫn chiếm ưu thế nên có thể đánh thắng trận này. Nhưng câu đầu tiên ta muốn nói với các vị là bọn ta cần phải ‘dùng hết nhân tài, sử dụng hết vật lực’. Nói cho cùng thì bất luận cao thủ Bí tộc dù biết giấu giếm hành tung thế nào thì họ vẫn chỉ là người phàm, chứ không phải là ma quỷ. Chỉ cần vẫn là người thì cũng có nhược điểm của con người. Đúng như Nhu Nhiên** công chúa đã nói, bản lĩnh của Hướng Vũ Điền tuyệt không dưới Mặc Sĩ Minh Dao. Người như thế này, Bí tộc chỉ có thể đào tạo ra được một người, nửa người đã vô cùng khó khăn rồi, không phải mỗi một người Bí tộc đều đạt được như vậy. Cùng giống như Biên Hoang tập chỉ có một Yến Phi. Nếu như Biên Hoang tập có mười người, tám người như Yến Phi thì chỉ sợ Mộ Dung Thùy đã sớm hai tay dâng Thiên Thiên tiểu thư về rồi.”



Cơ Biệt vỗ đùi nói: “Đúng! Bọn ta không nên bị cái tên gia hỏa họ Hướng đó dọa cho khiếp vía mới được.”



Hồng Tử Xuân hỏi: “Xin hỏi Lưu tiên sinh, làm sao có thể ‘dùng hết nhân tài, sử dụng hết vật lực’ được?”



Lưu Mục Chi cười nhẹ: “Trước khi nói về vấn đề đó, ta muốn phân tích tình hình của Bí tộc trước.”



Trác Cuồng Sinh vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế trên Thuyết Thư đài đối diện với chiếc bàn dài mà các Hoang nhân huynh đệ đang ngồi, cười nói: “Bắt đầu thú vị rồi! Qua sự phân tích của Lưu tiên sinh, cảm giác lập tức sáng lên một cách mới mẻ, như là sinh cơ chợt hiện vậy. Lưu tiên sinh mời nói tiếp.”



Mọi người đã tâm phục khẩu phục tài trí của Lưu Mục Chi rồi, ai nấy đều nghiêm trang lắng nghe.



Lưu Mục Chi tiếp lời: “Mộ Dung Thùy đề xuất thỉnh cầu với Mặc Sĩ Minh Dao, Mặc Sĩ Minh Dao đáp ứng để báo ân, nhưng để Mặc Sĩ Minh Dao tham gia toàn diện vào cuộc chiến này thì sẽ phải mất một thời gian không ngắn để xây dựng bộ máy thì phía Bí tộc mới có thể phát huy sức chiến đấu của họ được. Chỉ là Bí tộc vượt qua trăm sông ngàn núi từ sa mạc Tái Bắc điều động đến Biên Hoang tập của bọn ta, là một nơi mà Bí tộc không biết một tí gì không phải là một chuyện dễ dàng. Ta tin rằng để đối phó với Hoang nhân bọn ta thì đội quân đầu tiên của Bí tộc tạm thời vẫn tiên trường mạc cập*. Vì thế mới cần có Hướng Vũ Điền làm nhiệm vụ thăm dò đường lối. Dù người Bí tộc có đi lại như gió thế nào thì chỉ sợ vẫn đang ở đằng sau so với Hướng Vũ Điền tám ngày mười ngày. Nếu tình hình đúng như ta dự liệu thì cơ hội của bọn ta sẽ đến.”



Cao Ngạn thốt lên: “Đúng! người Bí tộc chắc là vẫn đang trên đường đến đây.”



Lưu Mục Chi lại tiếp: “Hiện giờ, người Bí tộc chỉ có thể ỷ lại vào đồ hình địa thế Biên Hoang tập do Mộ Dung Thùy cung cấp. Hoặc là do người của Mộ Dung Thùy dẫn đường, đến chỗ nào đó của Biên Hoang tập hội họp với Hướng Vũ Điền. Rồi sau đó sẽ do người đã nắm rõ hình thế Biên Hoang tập là Hướng Vũ Điền phân công nhiệm vụ. Nếu như bọn ta có thể nắm được địa điểm mà chúng hội họp thì có thể rời ổ, xuất toàn lực. Nói không chừng kể cả Hướng Vũ Điền cũng không thoát khỏi kiếp số. Vậy thì có thể đánh tan đợt công kích đầu tiên của người Bí tộc.”



Phương Hồng Sinh hưng phấn thốt lên: “Kế hay! Chỉ cần đi xem xét những nơi địch nhân đã đi qua, do địch nhân nhân số nhiều người nên ta chỉ ngửi một lần là biết rõ.”


Hô Lôi Phương cười rộ: “Đó chính là dùng hết nhân tài.”



Lưu Mục Chi điềm đạm nói: “Việc dùng nhân tài của bọn ta chỉ dừng ở chỗ đó. Người Bí tộc vốn như rồng về biển khi ở sa mạc quen thuộc, nhưng ở địa phương nhiều sông ngòi như Biên Hoang thì phải do chúng ta làm chủ. Bọn ta chỉ cần điều phối một chiếc Song Đầu chiến thuyền do Phương tổng và đám hảo thủ tinh nhuệ bảo vệ là có thể điều tra men theo bờ sông, đặc biệt là đề phòng chúng bơi vượt sông vào. Binh quý thần tốc. Người Bí tộc sẽ không đi một vòng lớn theo những đường mòn gấp khúc đến Biên Hoang. Vì thế họ tất sẽ qua sông ở Tứ Thủy, ở đó khẳng định sẽ có vết tích có thể tìm ra. Chỉ cần tìm thấy tung tích người Bí tộc, bọn ta có thể dùng chiến thuyền điều động quân đội, với thế như lôi đình vạn quân đánh dập đầu đám bộ đội người Bí tộc vừa mới chân ướt chân ráo xâm nhập vào Biên Hoang tập còn chưa ổn định được trận cước, giết cho chúng trỏ tay không kịp, tỏ rõ Hoang nhân bọn ta tuyệt không thể trêu vào được.”



Mọi người vỗ tay rầm trời.



Chỗ Lưu Mục Chi làm người ta phục nhất chính là liệu địch như thần. Trong việc đối phó Hướng Vũ Điền, mặc dù đối phương cao minh nhưng cũng mất công toi, đã đại hiển công lao của lão.



Lão đoán bộ đội của địch nhân đang trên đường tới đây làm mọi người đều mười phần tin tưởng.



Nếu như có thể thành công đánh bại đám bộ đội người Bí tộc đó, không để đối phương có cơ hội xâm nhập Biên Hoang thì sẽ tạo ra một cục diện mới.



Thác Bạt Nghi hỏi: “Việc vận chuyển hòang kim thì như thế nào?”



Lưu Mục Chi đáp: “Phiền Thác Bạt đương gia dùng phi cáp truyền thư thông tri cho quý chủ tạm thời án binh bất động, đợi bọn ta phái người đến Bình Thành tiếp nhận rồi mới vận chuyển hoàng kim về. Đó chính là cuộc chiến lần thứ hai với người Bí tộc, bọn ta cần thương nghị kỹ càng, tránh không bỏ lỡ cơ hội tốt. Chiến tranh cũng giống như đánh cờ. Đối phó với người Bí tộc cũng như thế, tất cần phải tranh tiên, bao vây dồn ép đối phương phải bỏ chạy để tránh chết. Cuối cùng, người Bí tộc không cách nào phát huy được sức phá hoại, càng đừng hòng trở thành thám tử cho Mộ Dung Thùy. Như thế bọn ta đã thành công rồi.”



Trác Cuồng Sinh cười dài: “Bộ máy chiến lược đã hoàn thành, chỉ còn một vài tiểu tiết mà thôi, có thể tiếp tục nghiên cứu kỹ. Nhưng thuyền điều tra tung tích địch nhân của Phương tổng thì phải lập tức khởi hành, tránh bỏ lỡ thời cơ. Nhớ mang theo bồ câu đưa thư đó.”


Giang Văn Thanh trách lão: “Ta thấy hình như Lưu tiên sinh còn chưa nói hết thì phải?”


Thác Bạt Nghi nhìn thần sắc Lưu Mục Chi, cười nói: “Đại tiểu thư thật tinh tế.”



Trác Cuồng Sinh ngẩn người, nhìn Lưu Mục Chi hỏi: “Còn gì mà nói nữa?”



Lưu Mục Chi đáp: “Vẫn liên quan đến việc ‘dùng hết nhân tài, sử dụng hết vật lực’. Biên Hoang tập của bọn ta có một cơ sở sản xuất binh khí ưu việt nhất thiên hạ, nếu không tận dụng cho tốt thì thật là lãng phí đáng tiếc. Hiện giờ, bọn ta và người Bí tộc rơi vào tình trạng chiến tranh, không cần nói chuyện quy củ giang hồ gì nữa. Y có thể dùng yên vụ đạn thoát thân thì bọn ta cũng có thể dùng hỏa độc khí, không lựa chọn thủ đoạn đối phó với bọn chúng. Vậy thì bọn ta càng nắm chắc thắng hơn.”


Cơ Biệt nhảy nhổm lên nói: “Việc đó cứ để cho ta. Ta sẽ động viên nhân lực vật lực hiện có, trong vòng ba ngày chế ra một số độc hỏa thủ pháo lợi hại, nhẹ nhàng tiện dụng. Đảm bảo người Bí tộc sẽ không còn chỗ mà chạy.”



Bỗng tiểu Kiệt chạy ào vào như cơn gió, hét vang: “Tiểu Bạch Nhạn lên thuyền rồi! Tiểu Bạch Nhạn lên thuyền rồi! Lão đại! Tiểu Bạch Nhạn của ngươi lên thuyền rồi!”



Hô Lôi Phương giữ chặt hắn lại quát: “Ngươi vừa hét cái gì vậy?”



Tiểu Kiệt nhìn Cao Ngạn đang trợn tròn hai mắt nói: “Vừa mới nhận được phi cáp truyền thư từ Thọ Dương, Tiểu Bạch Nhạn của lão đại đã lên thuyền tới Biên Hoang tập rồi.”



Cao Ngạn thét lên một tiếng kỳ quái, bắn tung người lên như một viên đạn, lộn mèo một vòng rơi xuống cửa rồi chạy thục mạng ra ngoài.



Trác Cuồng Sinh khẽ chửi một tiếng, vội vàng triển khai thân pháp đuổi theo hắn.



Chú thích



* Tiên trường mạc cập: Nguyên ý là roi ngựa tuy dài nhưng không thể đánh dạ dày ngựa được. Ý nói như xa xôi quá nên lực lượng không với được tới. Trong chương này ý nói người Bí tộc dù mạnh nhưng vì quá xa Biên Hoang nên chưa thể đến được ngay, Hoang nhân vẫn còn thời gian để lên kế hoạch ứng phó.



** Tiếng Anh là Ruran, còn gọi là Nhuyễn nhuyễn/nhuế nhuế/như như (Ruanruan/Ruru), hay Đàn Đàn (Tartar) là một dân tộc phương Bắc Trung Quốc cổ đại, một chi của người Tiên Ti. Thời kỳ phân tranh Thập Lục quốc, chủ yếu sống du mục tại lưu vực Ngạc Nhĩ Hồn Hà (Nay thuộc tỉnh Ngạc Nhĩ Hồn, phía Bắc Mông Cổ) và Thổ Lạp Hà (1 nhánh của Ngạc Nhĩ Hồn Hà)

404


Ch

ng ta thì ch

ế

t


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Vương Trấn Ác sử hết toàn thân công lực, ngạnh tiếp từng đợt từng đợt thế công cuồn cuộn như ba đợt sóng của Hướng Vũ Điền. Trong lòng hắn kinh hãi không thể hình dung.



Từ khi còn nhỏ, Vương Trấn Ác đã gặp hết những cao thủ Hồ, Hán ở phương Bắc, tuyệt không phải là người chưa từng va chạm. Nhưng hắn chưa từng gặp hoặc tiếp cận với người nào có phong cách như Hướng Vũ Điền.



Vương Trấn Ác sinh ra trong võ học thế gia lừng danh nhất phương Bắc. Lúc đó Vương Mãnh được coi là đệ nhất nhân phương Bắc, thanh thế còn đứng trên cả Mộ Dung Thùy và Trúc Pháp Khánh. Bản thân Vương Trấn Ác đã có căn cốt rất tốt để luyện võ, lại được tài bồi từ nhỏ, do đích thân Vương Mãnh chỉ dạy gây dựng nền móng. Bản thân Vương Trấn Ác lại thích võ, cố học hết chân truyền của Vương Mãnh nên dù biết Hướng Vũ Điền không phải là chiến sỹ Bí tộc tầm thường, nhưng hắn vẫn có gan một mình truy đuổi.



Đầu tiên, Hướng Vũ Điền sử dụng phương pháp đánh cận chiến, triển khai đợt công kích đầu tiên. Thân pháp mau lẹ như quỷ mỵ, làm người ta phát sinh ảo giác, phối hợp với những chiêu thức mà bất cứ bộ phận nào của cơ thể cũng có thể trở thành vũ khí như đầu, chưởng, chỉ, khuỷu tay, vai, chân, gối, tay, tóc,… thế công dày khít không kẽ hở nào có thể đánh vào.



Bách Kim kiếm của Vương Trấn Ác thiện nghệ nhất là đánh cận chiến. Đối phương lại dùng sở trường của hắn tấn công hắn, hàm ý khinh miệt. Vương Trấn Ác tuy cố gắng chống đỡ được hết, không rơi vào thế hạ phong, nhưng biết là bất diệu.



Nếu ở lĩnh vực mình mạnh nhất mà vẫn không thể thủ thắng thì trận này hoàn toàn không có hy vọng gì, lập tức lòng tin bị ảnh hưởng.



Sau đó Hướng Vũ Điền lại dùng chiêu to thức lớn, cương ngạnh dùng chưởng kình, quyền kình công kích cực mạnh từ xa, làm Vương Trấn Ác không thể triển khai thủ đoạn quyết thắng là cận chiến. Vương Trấn Ác lúc này đã rơi vào hạ phong, chống đỡ vô cùng vất vả.



Nội công tâm pháp của Hướng Vũ Điền vô cùng tà dị, nhưng khẳng định là một loại Tiên thiên chân khí, lại đạt tới cảnh giới đại tông sư. Lúc hàn lúc nhiệt, bác đại tinh thâm, trong nhanh có chậm, tưởng chậm hóa nhanh, khí theo ý chuyển, nặng nhẹ không đều làm người ta không thể đề phòng. Hơn nữa, mỗi chiêu của y lại khóa chết những biến hóa tiếp theo của Vương Trấn Ác, làm hắn có tuyệt kỹ nhưng không cách gì thi triển được, khó lòng đánh ra nên sinh chán nản.



Đến khi triển khai đợt tấn công như sóng biển thứ ba, Hướng Vũ Điền lại không theo một chương pháp nào, chiêu số đánh ra giống như lâm trận mới sáng tác ra, tựa thiên mã hành không, không thể tìm ra dấu vết. Chân khí lại rộng lớn vô biên, không có giới hạn.




Chiêu thức liên miên đánh Vương Trấn Ác tới tấp.



Vương Trấn Ác lúc này đã hoàn toàn rơi vào thế chỉ còn chống đỡ. Nếu như tâm chí hắn không kiên cường và tính khí cứng cỏi được rèn thành từ thuở nhỏ thì chỉ sợ đã sớm mất hết đấu chí để ngoan cường chống cự.



Bùng!



Một chỉ của Hướng Vũ Điền điểm trúng kiếm phong, một cỗ chỉ kình tập trung cao độ đã phá vỡ chân khí của Vương Trấn Ác, đánh thẳng vào tâm mạch hắn.



Vương Trấn Ác như diều đứt dây, thân hình bắn tung ra sau, “ọe” một tiếng, mửa ra một búng máu rồi lưng hắn đập mạnh vào một thân cây, ngồi phệt xuống đất. Bách Kim kiếm vẫn cầm chặt trong tay, chĩa sang phía địch nhân đáng sợ và thông minh bình sinh chưa từng gặp này.



Hướng Vũ Điền đuổi tới như thiểm điện, đến trước mặt hắn thì dừng lại, hai tay mở ra lập tức tạo thành một trường kình khí khóa chặt Vương Trấn Ác.



Vương Trấn Ác thầm nghĩ chết chắc rồi, nhưng hắn vẫn không buông tay, ngấm ngấm đề tụ toàn bộ công lực còn lại, chuẩn bị đòn phản kích cuối cùng trước khi chết.



Thần sắc trong mắt Hướng Vũ Điền chuyển thành vô cùng lợi hại, quát lớn: “Chỉ cần Vương huynh tình nguyện giải đáp một điểm nghi ngờ trong lòng ta thì ta có thể để cho Vương huynh an nhiên bỏ đi, tuyệt không làm khó dễ hoặc phát sinh thêm việc. Lời Hướng Vũ Điền đã nói ra thì chưa từng không giữ lời.”



Vương Trấn Ác không hề vì thế mà lơi lỏng phòng bị vì hành vi của Hướng Vũ Điền khó đoán, không biết y nói thật hay giả. Hắn cười nhẹ: “Chết thì chết! Còn có gì đáng sợ hơn thế nữa? Thực ra, mấy năm nay ta luôn cảm thấy sống mà như chết. Nếu Hướng huynh muốn dùng lời nói khiến ta không phòng bị nữa thì ta sẽ xem thường ngươi đó.”




Hướng Vũ Điền than: “Trong tình thế này mà Vương huynh vẫn có thể cười được làm huynh đệ bội phục, lại không muốn lừa ngươi nữa. Vương huynh có thể yên tâm. Vấn đề của ta vô cùng đơn giản. Chỉ cần Vương huynh khẳng khái cho ta biết các ngươi làm sao mà biết ta ẩn thân trong chỗ hoang phế đó thì Vương huynh có thể ung dung phủi đít quay về Biên Hoang tập. Sau này ta sẽ không tiết lộ chuyện Vương huynh từng nói với ta đâu.”



Vương Trấn Ác trong lòng vô cùng ngạc nhiên. Người này tài trí thực không tầm thường, biết chỗ quan trọng nhất trong việc đấu tranh giữa hai bên nên mới cho mình dùng tin tình báo đó để đổi mạng. Chỉ riêng việc đó có thể thấy người này không những đại trí đại dũng mà còn nhìn xa trông rộng, tuyệt không tính toán chuyện được mất nhất thời, mà biết phân biệt sự tình có mức độ nặng nhẹ.



Vương Trấn Ác cười khổ: “Hướng huynh động thủ đi! Vương Trấn Ác ta lại là loại tiểu nhân ti bỉ đó sao?”



Hướng Vũ Điền cười rộ: “Chỉ bằng câu nói này của Vương huynh là ta biết Hoang nhân quả có diệu pháp truy ra tung tích ta chứ không phải là bất ngờ tấu xảo tìm ra.”



Nói xong, y buông thõng hai tay xuống, cười nhẹ nói: “Vương huynh đi đi!”



Trường kình khí đang trói chặt Vương Trấn Ác lập tức tiêu biến. Hắn liền thừa thế đứng lên, nhưng vẫn sợ đây là kế độc, nhíu mày hỏi: “Hướng huynh nói đùa chăng?”



Hướng Vũ Điền than: “Không phải là ta đột nhiên đại phát từ tâm, cũng không phải không muốn giết ngươi. Ngược lại còn muốn đến chết. Không giấu Vương huynh, từ khi ta mười lăm tuổi, chưa từng có ai có thể ngạnh tiếp bằng ấy chiêu khi ta toàn lực xuất thủ. Cảm giác thật thống khoái mê ly. Nguyên nhân ta không giết ngươi vì ngươi vẫn còn sức phản kích. Nếu ta cậy mạnh hạ thủ thì bản thân cũng không tránh khỏi thương tổn.”



Vương Trấn Ác ngạc nhiên: “Có vấn đề gì đâu? Chỉ cần thương thế không phải là trí mạng thì có thể phục nguyên mà.”



Hướng Vũ Điền cười nhẹ: “Tình hình của ta khá đặc biệt. Lúc nãy đã thi triển công phu ‘Huyết Giải’ để chạy mới có thể đột vây thoát khỏi Biên Hoang tập. Bây giờ nguyên khí vẫn chưa hồi phục, chỉ có thể sử ra bảy, tám thành công phu so với bình thường. Vừa rồi ta đã thi triển bí kỹ công pháp tộc truyền nhưng vẫn không làm khó được Vương huynh. Trong trường hợp bất đắc dĩ thì chỉ còn cách thi triển công phu giữ nhà là ‘Chủng ngọc công’ mới có thể áp chế được Vương huynh. Nếu ta muốn giết chết Vương huynh thì chỉ có thể dùng công pháp đó mới hy vọng thành công. Nhưng công pháp đó bá đạo phi thường, nếu ta vọng động xuất thủ khi chân nguyên vẫn chưa hồi phục sẽ phản ngược lại, tạo thành thương tổn bản thân vĩnh viễn không thể bổ cứu được. Ta sẽ không làm chuyện ngu xuẩn đó.”



Vương Trấn Ác ngạc nhiên hỏi “Chủng ngọc công? Đó là công phu gì vậy? Tên gọi lại kỳ quái đến thế?”



Đồng thời trong lòng thầm nghĩ nếu y nói thật thì sau khi y phục nguyên sẽ lợi hại tới mức nào? Thiên hạ còn có ai có thể chế trụ được y?



Hướng Vũ Điền nói: “Rất nhiều việc rất khó giải thích hết cho Vương huynh được. Tính cách của Vương huynh cũng có chút giống tính khí của ta. Chỉ tiếc là trong một thời gian ngắn trước mắt, giữa ta và ngươi có mối cừu địch không thể hóa giải. Nếu như Vương huynh có bản lĩnh làm thịt ta, ta chỉ có bội phục chứ không oán hận. Nhưng nói thật, việc đó không ai có thể làm được. Ngươi có biết Yến Phi không?”



Vương Trấn Ác đã hồi phục lại, trong lòng ổn định, từ từ đút kiếm vào vỏ nói: “Hắn sẽ là kình địch của Hướng huynh. Lời Vương mỗ đến đây là hết. Sau này gặp lại.”


Nói xong rời khỏi cốc đi mất.




Trác Cuồng Sinh đuổi đến bên cạnh Cao Ngạn than vãn: “Ta chưa bao giờ thấy tiểu tử ngươi chạy nhanh đến thế.”



Cao Ngạn không hề lý gì đến lão, ánh mắt lùng sục các con thuyền lớn nhỏ đậu trên bến.



Trác Cuồng Sinh nắm lấy tay gã, cười hề hề: “Ngươi không sợ sao? Ngươi là mục tiêu ám sát của người Bí tộc. Bí tộc người nào cũng thần xuất quỷ một, đi lại như gió. Chỉ chờ thêm hai ngày nữa mà ngươi cũng không nhẫn nại được sao?”



Cao Ngạn không khách khí đáp: “Đừng nói phải đợi hai ngày. Chỉ đợi hai khắc ta cũng không đợi được. Hiểu chưa? Đừng có dọa ta. Bây giờ trong Biên Hoang tập không có người Bí tộc. Hơn nữa bọn chúng đều là vịt cạn cả. Ngồi thuyền còn an toàn hơn ở trên bờ nhiều, hiểu chưa?”



Tiếp đó, gã giằng thoát ra khỏi tay lão, phóng về phía một con thuyền nhỏ một buồm đang đậu trên bến, hét: “Lão tử cần trưng dụng con thuyền của các ngươi.”



Trong thuyền có hai hán tử đang bận rộn làm việc, nghe tiếng liền ngẩng đầu lên nhìn. Thấy Cao Ngạn, một trong hai người hỏi: “Cao gia cần đi đâu?”



Cao Ngạn không hề khách khí, nhảy vọt lên thuyền. Gã làm như chuyện đương nhiên nói: “Ta cần đi gặp tiểu Bạch Nhạn, mau khai thuyền.”



Một người khác lộ vẻ khó khăn nói: “Bọn ta còn….”



Cao Ngạn không ngần ngại nói ngay: “Đừng có lải nhải nữa. Lão tử sẽ trả tiền.”



Trác Cuồng Sinh thầm thở dài, cũng nhảy lên thuyền nói: “Làm theo ý hắn đi! Nếu không, tên tiểu tử này chưa gặp được tiểu Bạch Nhạn đã phát điên lên mất.”



Hai người chỉ còn cách cởi dây đẩy thuyền ra, thuận dòng đi xuống phía nam.




Lưu Dụ nhớ tới Vương Đạm Chân.



Từ khi đến Kiến Khang, trừ đêm gặp Tạ Chung Tú ở tiểu Đông Sơn bị nàng ta trực tiếp khơi dậy hồi ức về Vương Đạm Chân thì gã đã ‘cải thiện rất nhiều’ so với trước đây.



Hiện thực căn bản không cho phép gã thương tâm về Vương Đạm Chân nữa.



Sau khi đến Kiến Khang, mỗi khắc gã đều phải cật lực đấu tranh bên lề sự sống và cái chết. Đến đêm qua, giết chết Can Quy, trưa nay lại được Tư Mã Đạo Tử biểu hiện rõ ràng sẽ ủng hộ gã thì gã mới có thể thanh thản hít thở vài hơi.



Gã vừa đả tọa dưỡng khí gần hai canh giờ, tinh thần hoàn toàn hồi phục, Vương Đạm Chân liền chiếm cứ toàn bộ tâm thần gã.



Hoặc có thể khi thuyền nhỏ đi qua hẻm Ô Y làm xúc động hồi ức động nhân đã vùi sâu trong tim gã khi lần đầu tiên gặp Đạm Chân ở đó.



Khoái Ân đứng ở cuối thuyền phụ trách việc chèo thuyền. Tống Bi Phong ngồi ở đầu thuyền. Gã và Đồ Phụng Tam ngồi ở giữa. Bốn người không hề nói chuyện.



Tống Bi Phong lộ vẻ cảnh giới, lưu ý nhìn tình hình dưới nước và trên mặt nước. Đương nhiên là lão đề phòng Lư Tuần.



Đồ Phụng Tam nhắm mắt dưỡng thần, nhưng với tính cách của hắn thì hắn cũng đang trong trạng thái giới bị để ứng phó với bât kỳ đột biến nào.



Nhưng họ đều biết Lư Tuần sẽ không hạ thủ trong tình huống này. Kể cả Tôn Ân thân hành đến đây cũng không có cách nào đồng thời ứng phó với bốn người bọn họ. Lư Tuần càng không thể làm được.



Mặt trời mùa thu lặn dần phía trời tây. Trên sông Tần Hoài gió lạnh ào ào làm y phục bốn người bay phất phới.



Buổi yến tiệc trưa nay làm gã tiến một bước dài trên con đường trả thù cho Đạm Chân. Có thể nói đó là một bước ngoặt trên con đường thực hiện bá nghiệp vương hầu, làm gã hòa nhập vào chế độ triều đình, trở thành người có thực quyền.



Khi tử đệ binh Hoang nhân của gã tiến vào Dã Thành, họ sẽ trở thành nòng cốt của gã. Kể cả Tư Mã Đạo Tử đột nhiên hối hận, muốn trừ khử gã thì cũng phải có một bộ máy tinh mật chứ không dễ dàng như trước nữa.



Gã thực sự hy vọng có thể tận mắt chứng kiến phản ứng và biểu tình của Lưu Lao Chi khi biết việc này, nhìn vẻ kinh hoàng thất thố của hắn. Đối với cái chết của Đạm Chân, Lưu Lao Chi không còn nghi ngờ gì nữa cũng phải gánh trách nhiệm. Gã phải thấy Lưu Lao Chi thân bại danh liệt, hối hận về những việc hắn đã làm.



Đồ Phụng Tam mở mắt, bình tĩnh nói: “Đến rồi!”


Lưu Dụ nhìn ra phía trước. Tần Hoài lâu sừng sững cao vút bên bờ nam sông Tần Hoài, đối diện với Hoài Nguyệt lâu qua con sông. Xa hơn một chút là Chu Tước kiều, trong lòng gã bất chợt nổi lên tình cảm kỳ dị. Nhiều năm sau nữa, nếu gã trở thành người có quyền thế lớn nhất Kiến Khang, ruổi ngựa vượt qua Chu Tước kiều, nhớ lại chuyện cũ từng phát sinh tại tầng năm Hoài Nguyệt lâu ngày hôm nay thì sẽ có tự vị gì?



Vừa nghĩ Lưu Dụ vừa đứng lên.



Tống Bi Phong thấp giọng: “Không thể không có lòng đề phòng người khác. Ngươi hãy cẩn thận đó.”



Khoái Ân cho con thuyền ghé vào bờ Nam.



Đồ Phụng Tam đề tỉnh Lưu Dụ: “Nhớ kỹ trong bọc ngươi có hỏa tiễn báo hiệu. Bọn ta đợi ngươi trên thuyền. Chỉ cần nhìn thấy tín hiệu thì nửa khắc sau là bọn ta đã có thể tới đó rồi.”



Lưu Dụ gật đầu ra hiệu đã hiểu, đoạn đứng lên đi thẳng tới Hoài Nguyệt lâu.




Thác Bạt Khuê vào trong trướng, đến bên Sở Vô Hạ quỳ xuống, đưa tay ra đặt lên trán nàng.



Sở Vô Hạ yếu ớt vô lực mở mắt ra nhìn, thấy Thác Bạt Khuê lập tức hai mắt lộ vẻ vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lập tức phục hồi vẻ mệt mỏi, nói: “Cuối cùng chàng cũng tới rồi!”



Thác Bạt Khuê rất giỏi nhìn biểu hiện trong mắt người khác. Tình cảm bên ngoài còn có thể giả vờ, che giấu, nhưng nhãn thần lại bán đứng bí mật nội tâm của người đó. Đặc biệt độ thu nhỏ hay mở lớn của con ngươi mắt càng giống như hai cánh cửa sổ để hắn tiến vào tâm hồn người ta.



Phản ứng của Sở Vô Hạ làm lòng giới bị của hắn đối với nàng giảm nhiều. Đồng thời lòng thương lại tăng lên. Bất kể là trước đây diễm danh của nàng truyền xa thế nào, nhưng nàng đối với mình rất chân tâm, hoặc ít nhất thì cũng bảy, tám phần chân tình. Nghĩ tới việc Trúc Pháp Khánh và Ni Huệ Huy trước sau rời khỏi nhân thế, Di Lặc giáo mây tàn khói tỏa, nàng biến thành một người cô khổ lưu lạc, cừu nhân khắp nơi, lại không có một bằng hữu. Bây giờ lại vì mình mà thụ trọng thương. Dù hắn vô tình đến thế nào cũng không thể không động lòng.



Thác Bạt Khuê thò tay vào trong tấm chăn da dê tìm đến bàn tay nàng. Hắn cảm thấy huyết mạch nàng khẽ đập ở đầu ngón tay. Ngay vào thời khắc này, hắn biết mỹ nữ mê người này đã hoàn toàn thuộc về hắn. Tương lai của nàng nằm trong bàn tay hắn khống chế.



Hắn dịu dàng nói: “Tất cả đã qua rồi. Ta đến đón nàng về nhà.”



Sở Vô Hạ khép đôi mi xinh lại. Những sợi lông mi dài đẹp khẽ rung động. Dưới ánh đèn lửa lay động, hoa dung không còn chút huyết sắc của nàng lại có một vẻ đẹp khác lạ, có phần hơn lúc bình thường. Khoé miệng nàng thoáng nét đau khổ, thì thầm: “Nhà ư? Vô Hạ lại có nhà sao?”



Thác Bạt Khuê cẩn thận đắp lại tấm chăn da dê cho nàng, cười nhẹ nói: “Nàng vừa mới có nhà rồi!”



Tấm thân yêu kiều của Sở Vô Hạ khẽ run rẩy, mở bừng mắt ra, ánh mắt bừng bừng như lửa hô: “Tộc chủ!”



Thác Bạt Khuê nhất thời quên hẳn quá khứ của nàng, quên hẳn ân oán giữa nàng và Yến Phi. Hắn cúi xuống khẽ hôn vào đôi môi xinh đẹp thơm tho của nàng. Vì sợ động đến thương thế của nàng nên hắn vốn chỉ định khẽ chạm môi là thôi. Nào ngờ, hai cánh tay ngà ngọc của Sở Vô Hạ từ trong chăn thò ra ôm chặt lấy đầu hắn, nồng nhiệt hưởng ứng.



Môi rời môi.



Thác Bạt Khuê say sưa ngây ngất, thần hồn phiêu đãng.


Hai mắt Sở Vô Hạ nhắm chặt. Khuôn mặt vốn trắng bệch vì bị thương lại đỏ bừng, xuất hiện dưới làn da mịn màng trong suốt của nàng càng làm khuôn mặt nàng có vẻ đẹp kinh tâm động phách.



Thác Bạt Khuê miễn cưỡng áp chế nỗi xung động muốn hôn nàng lần nữa, nói: “Từ nay về sau không một ai có thể làm thương tổn nàng nữa. Nghỉ ngơi một đêm rồi sáng mai chúng ta sẽ lên đường về Bình Thành.”



Hô hấp gấp gáp của Sở Vô Hạ đã điều hoà trở lại, hổn hển nói: “Đả thương muội là Mặc Sĩ Minh Dao. Thị có thể giấu người nào khác chứ không thể qua mắt muội được.”



Thác Bạt Khuê giật mình kinh hãi hỏi: “Cái gì?”



Sở Vô Hạ ngạc nhiên tròn mắt nhìn hắn hỏi: “Chàng sợ thị sao?”



Vẻ kinh hãi trên mặt Thác Bạt Khuê vẫn chưa giảm, hai mắt mở lớn chừng như không hề nghe thấy câu hỏi của nàng. Một lát sau hắn hồi phục lại sự lạnh lùng như thường, cúi đầu nhìn nàng hỏi ngược lại: “Làm sao nàng biết đó là Mặc Sĩ Minh Dao?”



Sở Vô Hạ lộ vẻ hoài nghi, đáp: “Đại Hoạt Di Lặc có quan hệ đặc thù với Bí tộc. Nguyên nhân vô cùng phức tạp khúc chiết. Vì thế muội mới có nhận thức sâu sắc về Bí tộc. Đặc biệt là võ công tâm pháp của người Bí tộc. Chỉ giao thủ vài chiêu là muội liền biết đối thủ là thị. Thị tuy đả thương muội, nhưng cũng bị muội đáp trả lại rồi. Nếu không có mấy ngày công phu thì thị đừng hòng phục nguyên.”



Thác Bạt Khuê nhíu mày: “Nàng đã biết người phục kích là người Bí tộc, tại sao không nói cho Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành biết?”



Sở Vô Hạ nhắm mắt lại, khẽ khàng đáp: “Muội chỉ nghĩ sẽ tự mình nói cho chàng biết. Ngoài tộc chủ, muội không tin bất kỳ ai.”



Thác Bạt Khuê cảm động không nói nên lời. Một lát sau mới hỏi: “Bí tộc và Thác Bạt Khuê ta từ xưa vô oán, ngày nay vô cừu, tại sao lại đột nhiên công kích bọn ta?”



Sở Vô Hạ đáp: “Xem ra chàng tuyệt không biết quan hệ giữa người Bí tộc và Mộ Dung Thuỳ. Nhưng biết chuyện này quả thực cũng chẳng có mấy người đâu.”



Hai mắt Thác Bạt Khuê bừng lên thần sắc lợi hại, trầm giọng: “Người Bí tộc và Mộ Dung Thuỳ có quan hệ gì?”



Sở Vô Hạ mỉm cười nói: “Vô Hạ có thể nói với chàng, nhưng phải có điều kiện.”



Thác Bạt Khuê lấy làm kỳ hỏi: “Điều kiện gì?”


Đôi mắt xinh đẹp của Sở Vô Hạ đầy vẻ khao khát, thì thầm nói: “Nô gia phải ở trong lòng chàng mới nói được.”



Thác Bạt Khuê miễn cưỡng cười: “Nàng chừng như không biết mình đang bị nội thương nghiêm trọng thì phải.”



Sở Vô Hạ than: “Không phải ý nô gia muốn chàng làm gì cả. Tộc chủ nghĩ đi đâu rồi vậy?”



Thác Bạt Khuê cũng than: “Đợi ta ra ngoài xử lý việc phòng thủ cho đêm nay rồi sẽ quay lại bồi tiếp nàng được không?”



Sở Vô Hạ ngạc nhiên một cách thích thú nói: “Nô gia ở đây chờ chàng.”



Thác Bạt Khuê vừa định rời khỏi doanh trướng thì Sở Vô Hạ đằng sau gọi hắn.



Thác Bạt Khuê dừng bước, nhưng không quay lại, ôn nhu hỏi: “Có thể đợi ta quay về hãy nói được không?”



Sở Vô Hạ đáp: “Muội sợ sẽ quên mất! Nô gia muốn cho chàng biết Thôi Hoành là một nhân tài hiếm có. Bất luận võ công tài trí, không đứng dưới bất kỳ người nào trong quân ta. Nếu không có bản lĩnh lâm nguy ứng biến của hắn thì chỉ sợ không thể giữ được năm xe hoàng kim.”



Thác Bạt Khuê không đáp lời nàng, vén trướng đi ra ngoài. Gió lạnh thổi tới xua tan hơi ấm nồng nàn trong trướng còn vương trên thân thể hắn, càng làm hắn cảm thấy bên trong là cả một thế giới hoàn toàn khác, không đừng được lại nhớ tư vị ôn nhu vừa rồi.



Bọn Thôi Hoành, Trưởng Tôn Đạo Sinh, Thúc Tôn Phổ Lạc và Trường Tôn Tung đang tập trung nhìn hắn.



Hai mắt Thác Bạt Khuê lộ thần sắc kiên định trầm giọng nói: “Tập kích bọn ta chính là chiến sỹ Bí tộc.”



Thôi Hoành ngạc nhiên hỏi “Bí tộc?”



Thác Bạt Khuê ung dung nói: “Thôi khanh sẽ rất mau biết bọn chúng thôi. Bí tộc lần này tự tìm diệt vong, mới dám đứng về phía Mộ Dung Thuỳ, đối địch với Thác Bạt Khuê ta. Ai dám cản đường Thác Bạt Khuê ta, người đó sẽ phải chết. Mặc Sĩ Minh Dao cũng không ngoại lệ.”

405

Tình Yêu Th

i Lo

n


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Cao Ngạn đến đuôi thuyền, ngồi xuống bên cạnh Trác Cuồng Sinh. Lúc này bóng tối đã bao trùm vạn vật, mưa bụi lất phất bay, pha chút khí lạnh đầu thu.



Trác Cuồng Sinh mắng: “Cuối cùng ngươi cũng chịu ngồi xuống rồi à? Nhìn tên ngu ngốc nhà ngươi cứ đi đi lại lại trên thuyền, đứng ngồi không yên, đến người nhìn là ta cũng thấy khó chịu!”



Cao Ngạn phản kích: “Đừng có lấy ta ra mà trút giận được không? Tầm mắt cũng nên nhìn xa một chút. Thuyết Thư quán sẽ không đóng cửa vì không có ngươi ở đó đâu. Những người kể chuyện thủ hạ của ngươi sẽ tiếp tục kể về cái gì là ‘Lưu Dụ nhất tiễn trầm Ẩn Long’, ‘Yến Phi nộ trảm giả Di Lặc’ gì gì đó mà. Đừng nghĩ vì mình là thiên hạ đệ nhất cao thủ thuyết thư mà không có ngươi không được. Cuối cùng sẽ có một ngày ngươi sẽ bị người kể chuyện khác thay thế. Thời đại không ngừng thay đổi, cục diện mới sẽ có những câu chuyện mới, giờ là thời đại đón chào những cái mới. Con bà nó! Việc quan trọng nhất của ngươi bây giờ là làm sao để câu chuyện danh lưu sử sách là ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ có kết cục tốt đẹp. Ngoài ra đều là thứ yếu, hiểu chưa?”



Trác Cuồng Sinh không khách khí nói: “Cần đến tên tiểu tử miệng còn hôi sữa nhà ngươi giáo huấn ta ư? Lão tử nói mình không thể bị thay thế bao giờ? Nói thật ra, nếu có người thay thế thì ta còn cao hứng là khác. Như thế thì thuyết thư mới có thể tiếp tục hưng vượng, trăm hoa đua nở, vui vẻ nhiệt náo được. Con bà ngươi! Nếu như không có ta thì ngươi liệu có ngày hôm nay không? Con mẹ nó! Ngươi phải cảm kích ta mới đúng.”



Cao Ngạn đáp: “Ta quả thực rất cảm kích ngươi, vì thế mới quan tâm đến ngươi. Cho ta biết! Ngươi làm người là vì cái gì? Chẳng phải là chỉ biết vùi đầu vào viết thiên thư rồi đến Thuyết Thư quán ăn to nói lớn. Chẳng lẽ chỉ như thế là thoả mãn rồi sao? Tại sao ngươi không tìm một mỹ nhân làm ngươi động tâm làm bạn? Sinh hoạt sẽ không khô khan vô vị như bây giờ đâu.”



Trác Cuồng Sinh lắc đầu than: “Ngươi chẳng phải là ta, làm sao biết cuộc sống của ta khô khan vô vị? Thật ra, ta sống tràn trề phong phú, sảng khoái vui vẻ không biết thế nào mà nói. Nữ nhân ta chưa từng thử qua ư? Khi ta tay ôm tay ấp gái thì ngươi vẫn còn nằm trong bụng mẹ. Đừng nói những lời thừa như thế nữa. Trước hết ngươi hãy tự lo việc của bản thân mình cho tốt đi! Để chờ xem ngươi ứng phó làm sao với Tiểu Bạch Nhạn đây?”




Lập tức hai mắt Cao Ngạn sáng bừng, hưng phấn nói: “Không một ai hiểu rõ Tiểu Bạch Nhạn bằng ta. Nghe lời tên quân sư quỷ quái nhà ngươi thì chỉ làm rối loạn chuyện của ta lên mà thôi. Sau khi lên thuyền, mời ngươi tìm chỗ nào mà tránh mặt đi. Lão tử tự sẽ có cách làm Tiểu Bạch Nhạn cao hứng, cam tâm tình nguyện cùng ta chung giấc đêm xuân, để cho ngươi có thể viết thêm một câu chuyện ‘Tiểu Bạch Nhạn tình mê Cao tiểu tử, Dĩnh Thủy lâu thuyền đính uyên minh’*.”



Trác Cuồng Sinh thở dài, không nói gì nữa.




Biên Hoang tập, dịch trạm ở Bắc môn.



Trong đại sảnh Phi Mã hội, Vương Trấn Ác vừa trở về kể lại chuyện giao thủ với Hướng Vũ Điền cho Lưu Mục Chi, Thác Bạt Nghi, Giang Văn Thanh, Cơ Biệt, Hồng Tử Xuân, Âm Kì, Phí Nhị Phiết và Diêu Mãnh. Cuối cùng hắn nói: “Nếu quả thực hắn không nói dối để hù doạ bọn ta thì lúc đó hắn chỉ có thể sử ra sáu, bảy phần công phu. Thực lực chân chính của người này tuyệt không dưới Mộ Dung Thuỳ. Y lại linh hoạt biến hoá, bí kỹ xuất ra vô cùng vô tận, thật làm người ta khó ứng phó.”



Hơn mười người ngồi quanh bàn, không ai nói được gì.



Lưu Mục Chi hỏi: “Vương huynh từng giao thủ với Mộ Dung Thuỳ chưa?”



Vương Trấn Ác đáp: “Gọi ta là Trấn Ác đi! Mộ Dung Thuỳ từng chỉ điểm võ công cho ta. Vì thế ta mới có thể so sánh được như vậy.”



Giang Văn Thanh nói: “Kiến thức của y đối với kiếm thâm sâu như vậy, rõ ràng đã từng khổ công luyện kiếm. Giờ y không dùng kiếm mà cũng lợi hại như thế thì thực lực của người này chỉ có thể dùng từ ‘thâm bất khả trắc’ để hình dung.”



Thác Bạt Nghi nhíu mày: “Thông thường thì người giỏi cận chiến khi công kích địch từ xa sẽ có chút khác biệt. Nhưng Hướng Vũ Điền lại đều giỏi cả hai phương diện đúng là làm người ta kinh dị.”



Phí Nhị Phiết trầm giọng nói: “Làm người ta kinh hãi nhất là chiến lược hắn lựa chọn sử dụng. Ai nhìn thấy Bách Kim kiếm của Trấn Ác đều biết ngay Trấn Ác giỏi về cận chiến vì ‘một thốn ngắn thì một thốn hiểm’. Sư phụ nào khi dạy đồ đệ cũng đều nói khi đối trận phải tránh cường đánh nhược. Người này lại làm ngược lại đạo lý đó. Trước tiên để Trấn Ác thi triển hết sở trường, làm Trấn Ác phát sinh cảm giác chán nản vì dùng công phu giỏi nhất của mình mà vẫn không cách gì đánh bại được đối phương. Sau đó y mới dùng thủ đoạn hoàn toàn tương phản làm lòng tin của Trấn Ác giảm sút rất lớn, rồi mới thi triển sát thủ. Chỉ từ cách vận dụng chiến lược của y là biết người này vô cùng khó đấu lại được.”



Cơ Biệt cười: “Nếu đơn đả độc đấu chỉ sợ chỉ có tiểu Phi mới có thể chế trụ được y. May là bây giờ không cần nói quy củ giang hồ gì nữa. Bọn ta đã biết y lợi hại đương nhiên sẽ không khách khí với y.”



Lưu Mục Chi nói: “Ở đây Trấn Ác là người hiểu rõ nhất tình hình của Bí tộc. Trấn Ác ngươi trước đây đã từng nghe qua nhân vật số một của họ chưa?”



Vương Trấn Ác lắc đầu: “Gia gia bắt cầm tù chủ nhân Bí tộc Mặc Sĩ Nỗ Nã thì không lâu sau đó đã mất. Tiếp đó cha lại bị người ám sát, nhà ta tan nát, không rõ tình hình của Bí tộc nữa.”



Lưu Mục Chi nói: “Hướng Vũ Điền đúng là kỳ nhân của Bí tộc, tác phong hành sự làm người ta khó dự đoán. Y rõ ràng có thể giết chết Trấn Ác, nhưng lại không hạ thủ để giữ làm đầu mối. Từ một lời của Trấn Ác đã đoán ra bọn ta có phương pháp điều tra hình tích y, càng cho thấy y tài trí cao minh. Hiện giờ cái mũi của Phương tổng trở thành chỗ dựa để chúng ta đối phó với Bí tộc. Bí mật này phải giữ cho kín, tuyệt đối không thể tiết lộ cho người Bí tộc, nếu không Phương tổng sẽ nguy hiểm đó.”



Giang Văn Thanh nói: ”Việc này để ta xử lý. May là người biết không nhiều, toàn là huynh đệ bên mình sẽ không tiết lộ ra đâu.”



Mộ Dung Chiến đứng lên nói: “Càng biết nhiều điều liên quan đến Bí tộc thì bọn ta càng có thể thiết kế chống lại thủ đoạn của người Bí tộc. Giờ ta sẽ tận lực để làm việc đó, xem thử có thể thuyết phục được Sóc Thiên Đại đứng về phía bọn ta không.”



Hồng Tử Xuân cười: “Chiến gia định dùng mỹ nam kế sao?”



Mộ Dung Chiến cười mắng: “Ta vẫn còn tự biết mình. Khi soi mình trong gương thì không dám khen mình nữa.”


Hắn lại tiếp: “Trách nhiệm vạch kế sách, tổ chức bộ máy do Lưu tiên sinh chủ trì. Phương tổng không có ở đây, chúng ta phải giữ tinh thần tỉnh táo. Không nên tin tưởng chuyện Hướng Vũ Điền nói chưa hồi phục gì đó, nói không chừng đó là kế của y. Nhiều khả năng Hướng Vũ Điền bám theo sau Trấn Ác về đây xem Trấn Ác gặp người nào rồi sẽ quyết định mục tiêu ám sát.”



Mọi người đưa mắt nhìn ra chỗ tối ngoài song, trong lòng bất chợt ớn lạnh.



Người như Hướng Vũ Điền đúng là có thể làm người ta sinh lòng khiếp sợ.




“Giang Hồ địa” sau Hoài Nguyệt lâu ở Kiến Khang có tiếng tăm rất lớn, được vinh dự là một trong tám khu vườn nổi tiếng nhất Kiến Khang, đứng ở vị trí thứ năm. Đứng đầu trong tám khu vườn nổi tiếng nhất này đương nhiên là “Tứ Quý viên” của Tạ gia trong hẻm Ô Y.



Để đến “Giang Hồ địa” phải xuyên qua đại đường của Hoài Nguyệt lâu. Đến Lâm Thuỷ Nguyệt đài liền kề với Tây môn.



Lâm Thuỷ Nguyệt đài đình viện rộng lớn, có bậc thềm bằng đá nối với hành lang dài chạy quanh toàn bộ khu vườn. Vườn này phía đông hẹp phía tây rộng, chính giữa có một hồ nhỏ có vài hòn đảo, giả sơn, thác nước và năm cây cầu uốn lượn. Phía bắc có hành lang quanh co, phía đông có hành lang dựa vào tường viện. Phía nam có hành lang nhỏ quanh co. Một bên trồng đầy ba tiêu, trúc, đá, khai thác được hết cảnh sắc thâm u, khiến cho người ta cảm thấy tuyệt đẹp khi đi dạo quanh hành lang.



Vọng Hoài đình là một toà lục giác đình nằm ở góc đông bắc “Giang Hồ địa” trên một hòn giả sơn. Xung quanh trồng đầy tùng bách, hoa bạch lan, tú cầu. Chỗ bờ hồ có bạch bì tùng được trồng tự nhiên, phối hợp với hoa sen trên mặt hồ tạo ý cảnh cao xa. Có thể vừa ngắm cảnh hồ ao bên trong, lại ngắm được thắng cảnh phía bắc Tần Hoài. Vườn nổi tiếng, sông cũng nổi tiếng, tôn vẻ đẹp của nhau lên.



Lưu Dụ báo danh lên, lập tức có người chuyên trách tiếp đãi, dẫn gã đến “Giang Hồ địa” để hội diện với Thanh Đàm Nữ Vương Lý Thục Trang.



Đặt mình vào khu vườn nổi tiếng, cảnh trí mỹ lệ sắc hoa bóng liễu biến hoá vô cùng này, Lưu Dụ cảm giác được mình đã kiến lập được địa vị ở Kiến Khang.



Hai tiểu tỳ cầm đèn đi trước dẫn đường. Hai ngọn đèn soi đường này chỉ để làm dáng mà thôi vì trong vườn treo đầy phong đăng, không nhiều không ít, như hợp như phân, làm tăng cao niềm lạc thú dạo bước trong vườn ngắm cảnh. Trong khung cảnh thần bí mê người này, không những làm người ta quên đi trần tục, còn khó nổi lòng tranh cường hiếu thắng.



Chầm chậm thả bước ven hồ, nghe thấy tiếng nước sông Tần Hoài chảy bên cạnh. Hoài Nguyệt lâu cao vút phía sau, những tiếng đàn ca cười đùa ầm ỹ bên tai theo bước gã tiến vào khu vườn, từ từ nhỏ dần. Dường như gã đang không ngừng rời xa trần thế.



Trải qua một đêm yên tĩnh hôm qua, Lưu Dụ đặc biệt cảm thụ được phương thức sinh hoạt chỉ biết say sưa mơ mộng trong lâu.



Bốn phía dần dần tối đen, chỉ còn ánh sáng mờ nhạt của hai ngọn đèn dẫn đường. Bỗng trước mắt sáng lên, Vọng Hoài đình xuất hiện cao cao phía trước. Từ góc độ của gã nhìn lên chỉ thấy mái đình và bậc thang xây bằng đá tảng dẫn lên đình.



Lý Thục Trang không thể không gặp gã.



Bất kể nàng ta giàu có thế nào, có thế lực ra sao, có bao nhiêu người cao sang quyền quý chống lưng, nhưng nàng cũng biết Lưu Dụ gã có đủ lực lượng huỷ diệt nàng.



Cùng với sự uy hiếp của Hoàn Huyền ngày càng tăng, phản loạn Thiên Sư quân ngày càng nguy kịch thì sức ảnh hưởng của gã càng như nước nâng thuyền lên. Có thể bây giờ thì gã chưa thể làm gì được nàng, nhưng nàng là người thông minh, hiểu rõ tình thế sẽ có thể xoay chuyển.



Nàng có phải là người thông minh không?





Giang Văn Thanh, Lưu Mục Chi, Vương Trấn Ác và Phí Nhị Phiết dưới sự bảo vệ của hơn mười hảo thủ Đại Giang bang vượt qua Dạ Oa Tử đến tổng đàn Đại Giang bang ở Đông môn.



Trong các bang hội của Biên Hoang tập thì Đại Giang Bang được kế thừa tổng đàn Hán bang có sức phòng thủ mạnh nhất. Vương Trấn Ác đến tổng đàn Đông môn này để có môi trường an toàn trị thương. Còn Lưu Mục Chi càng cần có một nơi ở an toàn để tĩnh tâm suy nghĩ, vận trù quyết sách trong trường tranh đấu với người Bí tộc.



Lưu Mục Chi trở thành túi khôn của Biên Hoang tập. Do lão không biết võ công nên phải được Hoang nhân bảo vệ nghiêm mật nhất.



Giang Văn Thanh khẽ hé môi thơm hỏi Vương Trấn Ác: “Trấn Ác tựa hồ đối với việc rơi vào tay Hướng Vũ Điền hoàn toàn không để trong lòng. Ta nhìn có sai không vậy?”



Vương Trấn Ác ung dung đáp: “Đại tiểu thư nhìn rất chuẩn. Ta từng không để chuyện thắng bại giữa hai người trong giang hồ vào trong lòng, chỉ coi trọng chuyện thắng bại trên chiến trường bằng thiên quân vạn mã. Vì thế chỉ cần giữ được cái mạng nhỏ này, chứ thật không tính toán chuyện được mất nhất thời.”



Phí Nhị Phiết nói: “Trấn Ác thoả mãn với tình thế hiện tại sao? So với lúc ngươi mới đến thì dường như ngươi đã biến thành một người khác.”



Vương Trấn Ác vui vẻ đáp: “Biên Hoang tập là một địa phương kỳ dị, Hoang nhân lại càng bất đồng với người khác. Hiện giờ ta tràn đầy đấu chí và sinh thú. Chỉ nghĩ tới một trường đại chiến với Mộ Dung Thuỳ, sinh tử không hề tính toán.”



Lưu Mục Chi cười nhẹ: “Ta cũng minh bạch cảm thụ của Trấn Ác vì bọn ta ngồi chung một thuyền đến đây.”



Giang Văn Thanh hỏi: “Cái gì đã làm Trấn Ác ngươi nổi lên ý tưởng đi du lãm Biên Hoang tập vậy? Sức hấp dẫn của thiên huyệt lại lớn như thế sao?”



Vương Trấn Ác than: “Ta cũng không hiểu rõ mình nữa. Từ khi cha bị ám sát, ta luôn trải qua những ngày tháng sống không bằng chết, mắt nhìn gia tộc ngày càng suy sụp, lại bị người Hồ mà đứng đầu là Mộ Dung Thuỳ và Diêu Trường bài xích, chịu hết mọi nỗi khuất nhục. Đến khi chiến bại tại Phì Thuỷ, Hoàng triều Đại Tần tan vỡ, không thể không bỏ chạy giữ mạng. Những cảm giác này thật không biết nói ra thế nào. Ta luôn sống trong quá khứ, nghĩ về phong quang ngày trước khi theo gia gia trên chiến trường, không thể tiếp thụ tình hình trước mắt. Ta luôn muốn quay về phương Bắc. Có chết cũng phải chết ở đó, nhưng cũng biết đó là việc ngu xuẩn không thể làm. Tâm tình mâu thuẫn muốn chết.”



Phí Nhị Phiết nặng nề nói: “Con người rất khó quay đầu lại được. Gia gia ngươi một lòng muốn tài bồi ngươi làm một người khác như ông ta. Ngươi thường trải qua tư vị uy phong bát diện trên sa trường, bỗng nhiên biến thành một người không binh không quyền, đương nhiên là khó có thể tiếp thụ. Ngựa tốt chờ thời, chí ở ngoài ngàn dặm. Hơn nữa, ngươi chính là đang trong độ tuổi đầy hứa hẹn, làm sao cam tâm chết già một xó. Biên Hoang tập khẳng định là một lựa chọn tốt nhất của ngươi, ngươi có thể lấy đây làm bàn đạp để kiến công lập nghiệp. Sẽ có một ngày ngươi hiểu lời ta nói.”




Thác Bạt Nghi về đến nội đường, trong lòng vô cùng mệt mỏi chán chường. Việc này không hề liên quan đến thể lực hắn, mà là cảm giác chán ngán từ tận sâu trong đáy lòng hắn. Sau giờ ngọ hôm nay, hắn nhận được một tin tức đáng sợ, nhưng lại không dám nói cho các huynh đệ Hoang nhân biết, chỉ giữ ở trong lòng.



Ở đèo Tham Hợp, gần bốn vạn Yên binh đầu hàng Thác Bạt Khuê nhưng lại bị giết sạch.



Tin tức do tộc nhân từ Bình Thành mang đến, chỉ dám nói với mình Thác Bạt Nghi.



Yến Phi có biết việc này không? Tại sao Yến Phi không nói đến nửa câu về việc này?



Nếu nhìn từ góc độ chiến tranh thì hành vi tàn nhẫn đó của Thác Bạt Khuê sẽ làm thay đổi quan trọng thực lực hai bên. Theo tình hình lúc đó mà nói, thì cần phải làm như vậy vì với binh lực của Thác Bạt Khuê thực khó xử lý số tù binh nhiều như thế. Chỉ riêng việc cung ứng lương thực đã là một vấn đề khó khăn rồi, lại không thể thừa thắng truy kích, không thể dễ dàng lấy được một vùng đất rộng lớn như Nhạn Môn, Bình Thành. Một trường đại đồ sát đó có lợi mà cũng có hại. Hại ở chỗ sẽ làm người Yên nổi lòng liều chết phản kháng Thác Bạt tộc. Sau này dù có thể đánh bại Mộ Dung Thuỳ, nhưng chỉ cần người Yên còn một hơi thở thì sẽ chiến đấu tới một binh một tốt cuối cùng, dù chết cũng không đầu hàng.



Trên chiến trường giết địch cầu thắng thì hắn tuyệt không mềm lòng. Nhưng giết đến bốn vạn hàng binh trong khi đối phương hoàn toàn không có sức phản kháng thì mặc dù không phải là chưa từng có tiền lệ. Như thời Chiến Quốc, tướng Tần là Bạch Khởi đã giết bốn mươi vạn hàng binh nước Triệu, con số còn lớn gấp mười lần chiến dịch đèo Tham Hợp. Nhưng Thác Bạt Nghi vẫn cảm thấy run sợ, không cách gì đối mặt với nó. Đó thực là một việc thương tổn tới âm đức.



Nói cho cùng thì họ Thác Bạt và họ Mộ Dung đều thuộc Tiên Ti tộc, cùng nguồn cùng giống, thật làm người ta cảm khái.



Hắn lại cảm thấy không hiểu được Thác Bạt Khuê, hoặc là bây giờ hắn mới chân chính nhận thức Thác Bạt Khuê.



Từ khi còn là những hài nhi, dưới cặp lông mày dày rậm, Thác Bạt Khuê có một đôi mắt trong sáng, ánh mắt như một đứa trẻ ngoan. Nhưng thỉnh thoảng trong đôi mắt như ngây thơ vô tội của hài tử đó lại thoáng qua thần tình phức tạp mà hắn không thể hiểu nổi. Hôm nay hắn đã hiểu nhãn thần đó là sự cừu hận mà không hài tử nào có, sự cừu hận đối với người gây trở ngại đối với đại nghiệp phục quốc của gã.



Sau khi nhận được tin tức kinh người đó, hắn cảm thấy máu trong người như đóng băng, cũng cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Cảm giác thắng lợi chừng như bị gió thổi bay. Nổi lên trong lòng gã là một cảm giác hoang lương, không biết mình đang nỗ lực vì cái gì, mình đang làm gì. Sức lực của tấm thân huyết nhục tiêu biến, chỉ còn lại một trái tim mệt mỏi chán chường.



Thác Bạt Nghi ngồi xuống ghế.



Thác Bạt Khuê là lãnh tụ tối cao của Thác Bạt Tiên Ti tộc. Quyết định của gã cũng là quyết định của Thác Bạt tộc. Những người khác chỉ còn cách làm theo. Một điều duy nhất có thể an ủi bản thân hắn là nếu tình hình xoay chuyển, người thắng là Mộ Dung Bảo thì một trường đại đồ sát tương tự sẽ rơi vào bên mình. Với tính cách tàn nhẫn của Mộ Dung Bảo thì hắn sẽ không lưu lại bất kỳ tính mạng người Thác Bạt tộc nào.



Gió thơm ùa đến.



Hai cánh tay mềm mại từ phía sau ôm lấy cổ gã. Hương Tố Quân hôn nhẹ hai má hắn mỗi bên một cái.



Thác Bạt Nghi vòng tay ra sau khẽ vuốt làn tóc mây của nàng, thở dài.



Trong thời loạn thế tràn đầy chém giết và cừu hận này, chỉ có nàng mới có thể làm hắn tạm thời quên những ưu phiền.



“Có việc gì làm chàng phiền não thế?”



Thác Bạt Nghi hưởng thụ mối tình nồng nhiệt như ánh nắng mặt trời của nàng, loại bỏ hết tư vị lạnh lẽo động nhân trong lòng. Hắn than thở: “Không có gì! Chỉ cần có nàng, ngoài ra tất cả đều không còn gì quan hệ.”



Hương Tố Quân ngồi vào lòng hắn, khẽ lườm hắn một cái, than nhẹ: “Còn giấu người ta. Từ sáng sớm nay đã không thấy chàng đâu. Lúc nãy chàng lại đóng cửa mật đàm với huynh đệ Hoang nhân của chàng. Vậy mà còn nói không phát sinh việc gì ư?”



Thác Bạt Nghi ôm chặt nàng vào lòng, cảm thấy thân thể mềm mại của nàng ép sát vào người mình, nói: “Một trường chiến tranh lại đến rồi! Nàng có sợ không?”



Hương Tố Quân khẽ run rẩy, hỏi: “Vẫn có người dám tới chọc giận Hoang nhân bọn ta sao?”



Thác Bạt Nghi bỗng nhiên cảm thấy hai chữ “Hoang nhân” như chọc vào tai hắn. Hắn tối đa cũng chỉ là một nửa Hoang nhân. Vì thế mà Yến Phi không ủng hộ hắn làm chủ soái của Hoang nhân, mà người được chọn biến thành Hoang nhân chân chính là Mộ Dung Chiến.



Muốn làm Hoang nhân chân chính thì đầu tiên phải là ‘không có nhà để về’, chỉ có Biên Hoang mới là nhà.



Hắn rất hy vọng mình trở thành Hoang nhân chân chính, cùng sinh tử vinh nhục với Biên Hoang tập, không phải lo nghĩ về bất cứ việc gì ngoài chuyện đó.



Chỉ hận sự thật lại không phải vậy. Hắn chỉ là tướng lĩnh do Thác Bạt Khuê phái đi thường trú tại Biên Hoang. Có một ngày Thác Bạt Khuê thay đổi chủ ý thì hắn phải tuân mệnh ly khai, và không thể mang theo ý trung nhân này, trừ khi được Thác Bạt Khuê đồng ý.



Hắn nhiều lần dám khẳng định với tính cách của Thác Bạt Khuê thì nếu như không ngại Yến Phi đã sớm điều hắn rời Biên Hoang tập rồi. Vì Thác Bạt Khuê cần chính là những thủ hạ mù quáng trung thành với hắn chứ không phải là bản thân Thác Bạt Nghi.



Suy nghĩ này càng làm hắn thất vọng.



Thác Bạt Nghi nói: “Trong thiên hạ này quả là không mấy người dám chọc giận Hoang nhân chúng ta, nhưng Mộ Dung Thuỳ và Hoàn Huyền lại không thuộc giới hạn đó.”



Hương Tố Quân nói: “Muội rất muốn cho chàng biết, chỉ cần có Thác Bạt Nghi chàng thì Hương Tố Quân muội sẽ không sợ hãi. Nhưng cũng không muốn giấu chàng, muội quả thật rất sợ. Người nói không hề sợ hãi đối với chiến tranh chỉ là vì chưa từng trải qua chiến tranh. Muội từ phương Bắc tránh chiến hoả đến phương Nam nên có lĩnh hội sâu sắc đối với chiến tranh.”



Thác Bạt Nghi khẽ nâng khuôn mặt xinh đẹp của nàng lên, thương cảm nói: “Thế này được không? Chúng ta yêu thương lẫn nhau, nhưng khi chiến hoả lan đến Biên Hoang tập thì ta muốn nàng lập tức rời khỏi Biên Hoang tập. Trừ khi Biên Hoang tập có thể vượt qua cửa ải khó khăn đó, nếu không vĩnh viễn nàng không nên trở lại.”



Chú thích



* Tiểu Bạch Nhạn tình mê Cao tiểu tử, Dĩnh Thủy lâu thuyền đính uyên minh: Tiểu Bạch Nhạn tình mê Cao tiểu tử, trên lâu thuyền ở Dĩnh Thủy đính ước uyên ương.

406

B

n S

c c

a N

V

ươ

ng


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Đập vào mắt Lưu Dụ là bóng sau lưng một nữ nhân dáng cao cao, thon thả. Lý Thục Trang duyên dáng đứng ở cạnh đình, đang ngắm nhìn cảnh sông Tần Hoài dưới trời đêm đầy sao. Quả thực thị có chút khí phách của một “Thanh Đàm Nữ Vương”* bá chủ sông Tần Hoài.




Trên mặt bàn đá trong đình có bày hai chén uống rượu, một hồ rượu lớn, còn có những món nhắm được bố trí tinh xảo ngon lành và mấy chiếc bánh bột lọc.



Thị mặc một chiếc váy vải sa đỏ màu bích lục, bên ngoài khoác thêm chiếc áo lụa phủ cả hai tay, ống tay áo lớn bay phất phơ, càng tôn lên vẻ thướt tha xinh đẹp. Cổ áo và tay áo đều được viền bằng đoạn cẩm, ống tay áo còn có mấy đường nẹp đủ màu sắc, lưng buộc một dải lụa trắng. Bên ngoài lại quấn một chiếc xiêm y, chân đi đôi guốc gỗ mũi tròn.




“Phu nhân! Lưu đại nhân đến rồi!”



Một giọng nữ trầm ấm đầy sức thu hút uyển chuyển cất lên: “Các ngươi lui ra đi.”



Thị vẫn không quay lại.



Hai tiểu tì rời đi. Ở khoảnh sân nhỏ của Vọng Hoài đình chỉ còn lại hai người nam nữ địch hữu khó phân bọn họ.



Lưu Dụ có cảm giác thị không những rất biết cách ăn mặc, mà còn biết biết dẫn dụ nam nhân. Ít nhất thì vào lúc này, gã quả thực rất muốn được nhìn mặt thị.



Lý Thục Trang từ từ nói: “Mời Lưu đại nhân đến bên cạnh thiếp thân.”



Lưu Dụ không làm theo lời thị, bước đến chỗ cách sau lưng thị nửa trượng thì dừng lại nói: “Lưu Dụ bái kiến phu nhân.”



Không biết là do gã bị vẻ đẹp của thị hớp mất hồn, hay là vì đang ở trên đình cao có cảnh quan tuyệt đẹp này. Cũng có thể vì buổi tối khí trời êm dịu mà ý chí cứng rắn của gã vốn muốn đến để hưng binh vấn tội lại có khuynh hướng trở nên mềm mỏng.



Ngay lúc này, gã cảm ứng được từ thân hình yêu kiều của thị một luồng hàn khí như có như không, tuyệt không phải là chân khí thông thường, mà là một loại trường khí công hình thành bởi tiên thiên chân khí. Nếu là gã ngày trước thì không thể cảm giác được.



Lý Thục Trang tuyệt không hề ngạc nhiên việc gã vẫn đứng sau lưng thị, điềm đạm hỏi: “Lưu đại nhân có biết tại sao thiếp thân lại gặp ngươi không?”



Lưu Dụ bật cười nói: “Nếu như chỉ nghe phu nhân nói câu này thì sẽ lầm tưởng phu nhân mới lần đầu tiên bước chân vào giang hồ. Ta muốn hỏi ngược lại một câu, chỉ cần phu nhân vẫn đang ở Kiến Khang thì còn có tự do trong việc lựa chọn gặp ta hay không gặp ta sao?”



Lý Thục Trang vẫn dung dung không sợ, đáp: “Nếu như quả thực ngươi cho là thế thì ta không còn hứng thú nói chuyện với Lưu đại nhân nữa. Lưu đại nhân, xin mời!”



Lưu Dụ thầm hô lợi hại. Thị thẳng thắn cho thấy không sợ gã, lại có hành động khiêu khích, không khách khí hạ lệnh trục khách đối với gã. Đánh giá của gã đối với thị thay đổi rất lớn, biết thị tuyệt không đơn giản. Phong phạm lâm nguy bất loạn này của thị làm Lưu Dụ khẳng định công phu trấn tĩnh của thị vào loại cao thủ trong cao thủ.



Nhất thời, gã đi không được, không đi cũng không được, gã có thể làm gì đây? Chẳng lẽ động thủ đánh thị? Không thắng được càng làm gã nhục thêm. Trước khi đến đây, gã quả thực không hề nghĩ Lý Thục Trang lại là một nữ nhân có hào khí và bá đạo như vậy.



Lưu Dụ cười nhẹ: “Chậm đã! Mời phu nhân trước tiên nói rõ nguyên nhân gặp ta, để ta có thể suy nghĩ xem có nên xin phu nhân thu hồi lại lệnh trục khách hay không. Được chứ?”


Lý Thục Trang chầm chậm xoay mình lại đối mặt với Lưu Dụ.



Lưu Dụ ngấm ngầm hít vào một hơi, bắt đầu hiểu tại sao thị được tôn là “Nữ Vương”.



Một khuôn mặt rất nhiều khiếm khuyết. Trán cao cằm rộng, mặt rất dài. Lưỡng quyền quá cao, mũi lại càng cao hơn, nhưng hai khuyết điểm đó lại phối hợp với nhau liền lạc như áo trời không vết chỉ. Đôi mắt thị tròn sáng như ánh trăng làm sáng bừng cả khuôn mặt, lại tự nhiên mộc mạc, hoàn toàn không có dấu vết chạm khắc, như tranh như hoạ.



Đó là một khuôn mặt vô cùng mê người, không giống như Kỷ Thiên Thiên làm người ta chỉ nhìn một lần là kinh hãi cho là người trời, mà là một vẻ đẹp càng nhìn càng thích, càng nhìn càng muốn nhìn thêm.



Mái tóc đen bóng của thị bện thành ba lọn quấn trên đầu như ba con rắn theo kiểu tóc linh xà, càng tăng thêm cảm giác hoạt bát, tôn lên những đường nét trên khuôn mặt thị.



Lý Thục Trang lộ tiếu ý, ánh mắt liều lĩnh trực tiếp nhìn gã thăm dò, dùng ánh mắt săm soi như của nam nhân nhìn ngắm nữ nhân bình luận: “Ta muốn gặp ngươi là xem xem Lưu gia rốt cuộc là nhân vật thế nào mà có bản lĩnh có thể làm thịt được Can Quy.”



Lưu Dụ đã miễn cưỡng áp chế được những rung động về tình cảm do sắc đẹp của thị gây ra, trầm tĩnh ứng chiến. Gã hỏi: “Dám hỏi Can Quy và phu nhân có quan hệ thế nào?”



Lý Thục Trang điềm đạm: “Tuyệt không phải là kiểu quan hệ như ngươi tưởng đâu. Ta và Can Quy có điểm uyên nguyên, chi tiết xin thứ cho không thể nói ra. Nhưng bằng vào điểm quan hệ đó cũng đủ làm ta phải tận lực cho Can Quy. Lúc đó, Lý Thục Trang ta vẫn chưa biết Lưu Dụ Lưu đại nhân ngươi, chỉ biết người là một kẻ vong mạng trong Bắc Phủ binh do Hoang nhân phái đến, là một nhân vật mà các phương đều không cam tâm, chỉ muốn giết đi mới thấy thoải mái. Hơn nữa, ta với Tạ gia không hề có giao tình. Trong tình huống đó, việc ta giúp Can Quy một tay chỉ là một việc thông thường trên giang hồ, cũng là vì nghĩa khí giang hồ. Lưu gia muốn trách Thục Trang, Thục Trang không có cách nào, chỉ còn cách đối mặt mà thôi, xem xem có thể chống đỡ được bao lâu. Câu này ta vốn không định nói ra, sau này sẽ không nhắc lại nữa, mà sẽ phủi tay sạch sẽ. Lý Thục Trang ta tuyệt không phải như Lưu gia có nói là lần đầu tiên bước chân vào giang hồ đâu. Ta làm việc gì đều đã qua suy nghĩ sâu xa rồi. Nếu không tin, mời Lưu gia cứ điều tra sâu hơn, xem có nắm được chứng cớ Thục Trang giúp Can Quy hay không?”



Lưu Dụ trong lòng thầm kêu cha gọi mẹ, biết mình đã bị bức vào thế hạ phong. Vấn đề ở chỗ mình đối với Lý Thục Trang không biết là bao, nhưng đối phương lại biết rõ gã như trong lòng bàn tay, hoàn toàn nắm được nhược điểm của gã.



Gã không phải là không có thực lực huỷ diệt thị, nhưng hậu quả thì gã không thể gánh nổi vì gã mới chỉ tạm thời đứng chân được ở Kiến Khang, căn cơ vẫn còn rất bạc nhược. Một việc không tốt sẽ gây phản cảm và sự khinh bỉ của giới quyền quý Kiến Khang.



Nên biết Lý Thục Trang là người cung ứng chủ yếu Ngũ thạch tán cho giới quyền quý Kiến Khang. Nếu như mình không có chứng cớ xác đáng mà trừ khử nàng đi thì giới quyền quý vốn trầm mê vào dược thạch sẽ trở thành những người chống phá, không đầu nhập về với Hoàn Huyền mới là lạ.



Kể cả gã có chứng cứ thật sự chính xác, thông qua Tư Mã Đạo Tử đối phó nàng thì hậu quả càng nguy hiểm. Hình tượng cứu tinh Kiến Khang của gã sẽ hoàn toàn tan biến. Trong mắt cao môn đại tộc Kiến Khang thì gã trở thành chó săn của Tư Mã Đạo Tử. Sau này đừng hòng ngóc đầu dậy làm người được nữa.



Khúc mắc giữa gã và Lý Thục Trang chỉ có thể dùng thủ pháp giang hồ để giải quyết. Nhưng hiện tại, gã đã cưỡi trên lưng hổ không thể xuống được. Làm sao có thể ngang nhiên hạ đài, lại không làm tổn hại tới uy tín của gã đây?



Nhất thời, Lưu Dụ đau đầu đến cực điểm.




Mộ Dung Chiến tiến vào tiểu Kiến Khang, trong lòng vô cùng cảm xúc.



Hắn phát hiện mình đã thay đổi. Trước đây, hắn chưa từng quan tâm đến người khác, đối với hắn mà nói, Biên Hoang tập chỉ là nơi mà hắn tranh thủ lợi ích cho bản tộc. Nhưng qua một đoạn đường dài vừa qua, hắn cảm thấy mỗi người đang đi trên đó đều có mối liên quan với hắn, hắn sẽ bất chấp tất cả bảo vệ cho sinh mệnh của họ, cho họ có thể tiếp tục hưởng thụ lạc thú sinh hoạt hoàn toàn khác biệt của Biên Hoang tập.



Hắn trưởng thành trong một dân tộc mạnh bạo hung hãn, sống trong thời đại sùng bái vũ lực, coi việc dùng vũ lực để giải quyết tất cả mọi tranh chấp là chuyện bình thường. Điều đó tạo thành tác phong ngoan cường ngang ngạnh của hắn.



Sau khi đến Biên Hoang tập, hắn bắt đầu một đoạn đường mới trong cuộc đời. Hắn hiểu chỉ đơn giản dựa vào vũ lực thì không đủ để thành công. Biên Hoang tập tự nó có phương thức sinh tồn độc đáo, tiền đề lớn nhất là tất cả vì lợi ích, vũ lực chỉ dùng để ‘hoà mục tương xử’**. Nhưng tộc nhân tuyệt không hiểu hắn, lại còn hiểu nhầm hắn làm hắn cảm thấy vô cùng rầy rà, tâm trí bị chia rẽ rất sâu sắc. Chính vì tộc nhân của hắn chỉ thích dùng vũ lực, kết quả trở thành vật tế dưới cờ của Mộ Dung Thuỳ, hắn cũng hoàn toàn biến thành Hoang nhân.



Nhưng việc thực sự làm hắn thay đổi chính là Kỷ Thiên Thiên. Khi mới gặp Kỷ Thiên Thiên, hắn có cảm giác cuộc sống trước đây chỉ là thừa thãi. Sinh mệnh từ giờ phút đó mới có ý nghĩa. Nhưng lúc đó hắn vẫn chưa biết sự thay đổi trong hắn đã bắt đầu diễn ra.



Tới hôm nay, cảm tình của hắn đối với Kỷ Thiên Thiên không giới hạn trong một mối tình nam nữ thông thường, mà đã tiến lên một tầng mức cao hơn, do lý trí và tư tưởng tôn sùng chi phối. Quá trình lý trí và cảm tình xung đột lâu dài đó làm tình cảm của hắn đối với Kỷ Thiên Thiên càng thêm mãnh liệt, tính cách hắn càng trở nên kiên định, con người hắn cũng trở nên càng lạnh lùng như băng tuyết.



Nhưng Sóc Thiên Đại bỗng nhiên tiến vào thế giới tình cảm của hắn như một cơn hồng thuỷ nóng bỏng, phá vỡ trạng thái vốn cân bằng ổn định của hắn.



Hắn nên đối đãi với Sóc Thiên Đại như thế nào đây?



Nghĩ tới đây, hắn phát giác mình đã đứng trước bậc thềm trước cửa lữ quán.




Lý Thục Trang không chờ Lưu Dụ đáp lời, hai mắt thoáng qua thần sắc đắc ý, thản nhiên nói: “Ta muốn gặp Lưu gia ngươi là muốn xem xem ngươi là nhân vật thế nào. Nói thực, ta thấy Lưu gia là một người hiểu lý lẽ, biết nặng nhẹ. Thiếp thân nói những lời này có thể không êm tai, nhưng chỉ là nói ra sự thật. Chuyện Can Quy, thiếp thân ở đây xin có một đề nghị với Lưu gia, là hy vọng vấn đề giữa chúng ta chỉ dừng lại ở Can Quy. Sau này, Lưu gia có việc gì cần thiếp thân giúp đỡ, thiếp thân sẽ vui vẻ cam tâm làm việc vì Lưu gia, chỉ cần Lưu gia báo cho một tiếng.”



Lưu Dụ trong lòng vô cùng không phục, nhưng cũng biết mình không làm khó được thị. Nữ nhân này chỗ nào cũng đầy vẻ thần bí, tuyệt không giống như bề ngoài đơn giản của thị. Thủ đoạn của thị lại rất linh hoạt, nếu như thị mở một cơ hội hạ đài cho mình mà không nhận lấy thì chỉ là tự làm mình mất thú thôi.



Quân tử báo cừu, mười năm vẫn chưa muộn.



Lưu Dụ vui vẻ đáp: “Lý đại thư quả là danh bất hư truyền. Hơn nữa, oan gia nên giải không nên kết. Việc Can Quy coi như xí xoá là xong.”



Lý Thục Trang yêu kiều cười một tiếng, phong tình vạn trượng nói: “Lưu gia rất nhanh biết thiếp thân là người thế nào. Sự độ lượng của Lưu gia càng làm thiếp thân cảm động. Tương lai Thục Trang tất sẽ có hồi báo. Mời Lưu gia ngồi xuống để thiếp thân mời rượu bồi tội.”




Lưu Dụ trong lòng cười khổ. Trước khi đến đây, không tưởng nổi sự tình lại kết thúc một cách vô vị như thế. Lần này đúng là bị lật thuyền trong cống rãnh rồi.




Mộ Dung Chiến vừa mới bước qua cửa lữ quán thì một tên tiểu nhị đón gã nói: “Chiến gia quả nhiên đến rồi!”



Mộ Dung Chiến ngấm ngầm cảm thấy bất diệu, hỏi: “Ai nói cho ngươi là ta sẽ đến?”



Tiểu nhị đáp: “Là một vị cô nương xinh đẹp tên là Sóc Thiên Đại nói thế. Nàng ta còn lưu lại một vật giao cho Cihến gia.” Nói đoạn, tiểu nhị thấp giọng thì thầm: “Ta sợ có người sẽ lấy mất nên luôn mang theo trong người.”



Vừa nói hắn vừa móc trong bọc ra một một vật dài chừng nửa xích được gói bằng tấm lụa, hai tay cung kính dâng lên.



Mộ Dung Chiến nhận lấy. Không cần mở ra xem cũng biết đó là một vật gì đó giống như cây truỷ thủ. Cõi lòng bất chợt chìm xuống, hỏi: “Vị cô nương đó đâu?”



Tiểu nhị đáp: “Nàng ta đã thanh toán và dời đi vào lúc hoàng hôn, lại còn nhờ ta nói với Chiến gia nàng sẽ không quay lại nữa.”



Mộ Dung Chiến thưởng tiền cho tiểu nhị rồi thất hồn lạc phách rời khỏi lữ quán.



Ài! Nàng cuối cùng cũng đi rồi.



Hắn nguyện để nàng lập tức rời Tập như nàng đã nói khi gặp hắn lần trước chứ không phải bây giờ. Hiện tại hắn mang theo hy vọng và trông đợi đến tìm nàng thì nàng đã ra đi chỉ còn lại một căn phòng trống.



Nàng cuối cùng cũng đã lựa chọn, lại là lựa chọn tuyệt tình như thế. Tất cả đã không còn do hắn quyết định nữa. Mộ Dung Chiến cảm thấy mình rời vào cảm giác mất mát khó có thể tự dứt bỏ, lại không thể làm gì được. Hắn tưởng tượng đến nàng đang nơi xa xôi hoang dã, mênh mông, cô độc trong bóng chiều hoàng hôn bên ngoài Tập, làm vết thương lòng của hắn vẫn chưa hồi phục, lại bị vỡ ra đau đớn, ứa máu.



Có thể hắn vĩnh viễn sẽ không còn gặp lại nàng nữa.




Thuyền nhỏ rời khỏi Hoài Nguyệt lâu, tiến về phía Thanh Khê.



Lưu Dụ kể lại tỷ mỉ việc gặp gỡ Lý Thục Trang vừa qua. Thật ra, gã không có gì hay mà nói, vài lời đã nói rõ tình hình rồi cười khổ: “Bọn ta đã đánh giá thấp thị rồi.”



Đồ Phụng Tam trầm ngâm: “Nữ nhân này là một mầm hoạ.”



Tống Bi Phong ngạc nhiên: “Không có gì nghiêm trọng đâu! Thị tuyệt không có ảnh hưởng trực tiếp đến triều đình.”



Đồ Phụng Tam đáp: “Ngươi có nghĩ thị là cao thủ thâm tàng bất lộ không? Kiến Khang ngoạ hổ tàng long. Đến hôm nay mà nữ nhân đó vẫn chưa bị người ta khám phá ra thân mang tuyệt nghệ. Chỉ một điểm này cũng tuyệt không đơn giản rồi.”



Lưu Dụ tiếp: “Thị chắc chắn là người của Hoàn Huyền. Chỉ là Hoàn Huyền luôn giấu ngươi thôi.”



Đồ Phụng Tam quả quyết: “Hoàn Huyền căn bản không có năng lực chế ngự thị.”



Tống Bi Phong nói: “Trước đây bọn ta đánh giá thấp thị. Bây giờ phải chăng lại đánh giá thị cao quá rồi?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Ta cho rằng nhận xét của ta rất vừa vặn. Cho ta biết, Lưu gia của bọn ta trải qua sóng gió đã nhiều, đã có lúc nào gặp phải thất bại như thế, lại còn phải nuốt nỗi tức giận vào lòng, phải thuận theo lời thị mà không truy cứu thêm chưa. Chỉ riêng khả năng đó là đủ biết thị chẳng phải là một thanh lâu nữ tử. Bọn ta hoàn toàn không biết gì về xuất thân lai lịch của thị, chỉ biết trong vài năm đã từ một cô nương trong thanh lâu trở thành một trong hai đại lão bản sở hữu một trong hai toà thanh lâu lớn nhất Tần Hoài. Thị lại còn khống chế nguồn cung ứng đan dược cho Kiến Khang, thao túng mọi thứ, lại tinh thông thuật ‘Thanh đàm’. Do đó đã trở thành nữ nhân giàu có nhất Kiến Khang. Một người như thế, làm sao chỉ cam tâm một cuộc sống phú quý vinh hoa? Chỉ riêng việc thị một lòng giấu diếm võ công đã làm người ta nghi ngờ rồi.”



Khoái Ân đang chèo thuyền ở cuối thuyền chỉ im lặng lắng nghe, không dám xen lời.



Tống Bi Phong cuối cùng cũng thừa nhận, nói: “Thị đúng là không đơn giản. Nhưng thị chưa từng một lần hỏi qua sự việc về triều đình.”



Đồ Phụng Tam nói: “Đó là chỗ thông minh nhất của thị. Nếu như thị không bị dính líu vào sự việc Can Quy lần này thì bọn ta làm sao biết được Kiến Khang lại có một nữ nhân nguy hiểm như thế?”



Lưu Dụ nói: “Hiện giờ thị giữ thế cùng với chúng ta nước sông không phạm nước giếng. Chỉ cần bọn ta không chọc giận thị thì hai bên vẫn có thể giữ quan hệ hữu hảo vi diệu. Thị thậm chí nói sẽ xuất lực cho chúng ta khi cần.”



Tống Bi Phong khổ não hỏi: “Rốt cuộc thị là người của bên nào?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Bất kể thị là người của bên nào, chúng ta tuyệt không thể lơ là đối với thị. Bây giờ, ưu thế lớn nhất của chúng ta là thị vẫn mơ màng trong mộng, không biết Lưu gia của bọn ta có dị năng có thể khám phá ra thị là cao thủ thâm tàng bất lộ, phát sinh cảnh giác đối với thị.”



Lưu Dụ nói: “Ở Kiến Khang, thị buôn bán lớn cái thứ gọi là ‘tiên đan linh dược’, phải chăng muốn hạ độc con cháu cao môn Kiến Khang làm bọn họ hoàn toàn mất hết đấu chí. Làm việc đó có gì tốt đối với thị?”



Gã lại quay sang Tống Bi Phong hỏi: “An công chẳng lẽ cũng nhắm mắt làm ngơ trước hành vi đó sao?”



Tống Bi Phong than: “Vấn đề là quyền lực của An công có hạn. Ngày đó, Tư Mã Diệu mượn tay Tư Mã Đạo Tử áp chế An công, làm An công có lương sách nhưng lại không thể thi hành. Hơn nữa, phong trào con cháu cao môn thích dùng đan dược thịnh hành đã lâu. Nếu đột nhiên hạ lệnh cấm sẽ chỉ làm họ phản ứng kịch liệt. Để giữ vững đại cục, An công chỉ còn cách tạm gác vấn đề đó lại.”



Đồ Phụng Tam nói: “Cách sống của cao môn Kiến Khang thì dù là ai cũng không thể trong một đêm mà thay đổi được. Bọn ta càng không thể nhúng tay vào. Nếu không, chưa thấy lợi thì đã gặp hại rồi. Lý Thục Trang chính là hiểu rõ tình hình đó nên không sợ bọn ta dám đến đánh thị.”



Lưu Dụ cười khổ: “Nỗi tức giận này thật khó mà nuốt trôi được.”



Đồ Phụng Tam cười: “Vì thế ta mới nói nữ nhân này là mầm hoạ mà. Vì thị rất nổi tiếng ở cả hai phái hắc, bạch nên bản thân thị có một mạng lưới tình báo không chỗ nào là không vươn tới ở Kiến Khang, thâm nhập vào đời sống sinh hoạt hàng ngày của giới quyền quý Kiến Khang. Sức ảnh hưởng và tác dụng thật khó mà tưởng tượng được. Bọn ta cần coi thị là nhân vật nguy hiểm cực độ, nếu không, sớm muộn cũng sẽ phải nếm mùi thất bại lần nữa.”



Tống Bi Phong hỏi: “Bọn ta có thể đối phó thị như thế nào?”



Đồ Phụng Tam đáp: “Trong thời gian ngắn, bọn ta củng cố cơ sở, không còn là không có binh tướng nữa mới có thể tiến hành hàng loạt hoạt động dưới sự làm ngơ của Tư Mã Đạo Tử. Bọn ta sẽ có năng lực mở một chiến tuyến mới đối với thị ở Kiến Khang. Trước tiên triển khai hoạt động trinh sát toàn diện và tỷ mỷ về thị, kể cả cho người thâm nhập vào vương quốc đan dược của thị, nắm rõ nguồn đan dược của thị, nắm được thực lực thị rồi mới quyết định xem sẽ hợp tác với thị hay là huỷ diệt thị. Việc này do ta toàn quyền phụ trách. Lý Thục Trang là một đối thủ khó kiếm, vạn lần không được lơ là mất cảnh giác.”



Lúc này, Tống Bi Phong cảnh giác nhìn về phía thượng du.



Họ đã đến chỗ hai con sông Tần Hoài và Thanh Khê giao nhau. Một con thuyền nhỏ đang từ sông Thanh Khê thuận dòng phóng xuống. Thuyền đó gấp đôi con thuyền họ đang ngồi, thân thuyền rộng, bằng đầu bằng đáy nên lực cản khi đi trên nước rất nhỏ. Nó thuận dòng chạy xuống nên càng nhanh chóng vững vàng.



Thuyền như thế ở trên sông của Kiến Khang vốn là chuyện bình thường. Nhưng thuyền này làm bọn họ sinh lòng cảnh giác và phát sinh cảm giác không thoả đáng. Trước tiên là thuyền này xuất hiện rất đột ngột, trong thuyền lại chất đầy tạp vật. Nhưng khiến bọn họ cảnh giác hơn cả là không thấy một ai trên thuyền.



Đồ Phụng Tam quát: “Cẩn thận!”



Nói chưa dứt lời thì con thuyền kia bỗng nhiên tăng tốc và thay đổi phương hướng. Nó không vượt qua bên cạnh mà theo dòng phóng thẳng vào thuyền họ. Trên thuyền lửa bùng lên, đương nhiên là có loại chất dẫn lửa nào đó. Trên mặt sông tối đen, uy thế càng chói loà, kinh tâm động phách.



Trong sát na, con thuyền kia chỉ cách thuyền họ không đến ba trượng, căn bản không thể tránh được.



Khoái Ân thét lớn một tiếng, nhảy bật lên, mái chèo trên tay phóng thẳng vào đầu thuyền kia. Phản ứng mau lẹ, thể hiện rõ cơ trí và thân thủ của hắn.



Tống Bi Phong thét: “Bờ trái!”


Nếu đổi lại là những người chưa từng trải qua sóng gió, chứ không phải dạn dày kinh nghiệm như bọn Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam, thì nghe thế sẽ nghi ngờ không hiểu vì vị trí thuyền nhỏ họ đứng cách bờ phải chỉ ba trượng, nhưng lại cách bờ trái đến mười trượng. Nếu muốn rời khỏi khu vực nguy hiểm thì đương nhiên nên chạy về bờ phải.



Nhưng nếu như có địch nhân mai phục ở bờ phải thì chạy về đó chẳng khác gì tự giao thân cho địch nhân làm thịt. Đặc biệt người muốn đánh lén bọn họ lại là Lư Tuần, đã luyện thành Hoàng Thiên đại pháp thì đó thực là một mối nguy hiểm không nên thử.



“Oành!”


Thân thuyền kia vỡ tan, bị kình lực trong mái chèo do Khoái Ân phóng ra đánh dạt về phía bờ phải. Lúc này bốn người đồng thời nhảy vọt khỏi thuyền, lao xuống mặt sông phía bên trái thuyền.



“Ầm!”



Chiếc thuyền kia nổ bùng lên thành một quả cầu lửa cháy rực lao thẳng về phía thuyền nhỏ của họ, bao trùm hoàn toàn nó. Nếu như họ vẫn ở trên thuyền, khẳng định khó thoát kiếp nạn.



Lợi hại nhất là hoả khí nổ tung bắn ra bốn phía, văng ra những miếng sắt sắc nhọn, bắn tung toé khắp nơi, loạn xạ bắn về phía bọn họ vẫn đang lộn vèo trong không trung.



Đòn này quả thật hung độc tuyệt luân.



Bốn người đồng thời vận chân khí hộ thân, đánh văng những miếng sắt lực đã yếu đi bắn vào người.



“Bõm! Bõm! Bõm! Bõm!”



Bốn người trước sau lao vào dòng sông giá lạnh. Bên trên, con thuyền mà họ vừa ngồi đã ngập trong biển lửa, hoả quang bùng lên dữ dội chiếu sáng cả chỗ hai khúc sông giao nhau.



Chú thích



* Thanh đàm nữ vương (

清谈女王). Thanh đàm có hiểu như nói chuyện phiếm. Cũng có thể chỉ cuộc nói chuyện thanh tao của Đạo gia. Ý

ở trong truyện là Lý Thục Trang nhờ vào tài “thanh đàm” nên thu được rất nhiều tiền của của quý tộc Kiến Khang. Danh hiệu hình thành vì lẽ đó.



** Hoà mục tương xử: Chung sống hoà bình.

407

Tâm Linh Hò H

n


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Lư Tuần cũng phát sinh cảm giác sợ hãi đối với Lưu Dụ như Từ Đạo Phúc.



Y đã mất đi cơ hội có thể là cuối cùng để giết chết Lưu Dụ trong lần đến Kiến Khang này. Thành bại chỉ cách nhau một sợi tóc. Khi con thuyền đáy bằng chở đầy hỏa dược phát nổ, y đang ẩn thân ở chỗ tối bên bờ, hai tay cầm hai khúc gỗ. Bằng khúc gỗ này, y có thể tá lực trong dòng nước, tấn công bất cứ địch nhân nào nhảy vào trong nước. Với tốc độ và công lực y thỉ kề cả người võ công cao cường như Lưu Dụ khẳng định cũng không còn mạng trong lúc không phòng bị.



Lần này, y không thể thất bại nên đã tính toán chính xác, chờ đợi cơ hội đến khi Lưu Dụ ngồi thuyền trở lại Thanh Khê.



Sau thời gian dài chờ đợi, cơ hội cuối cùng cũng tới.



Từ lần hành thích Lưu Dụ không thành bên ngoài Lang Nha Vương phủ, Lư Tuần đã biết tình thế không được tốt. Không những võ công Lưu Dụ tiến bộ rất nhiều, dù trong tình hình đơn đả độc đấu thì đối phương vẫn có sức đánh một trận. Càng bất diệu hơn là đối phương đã đề cao cảnh giác, làm y khó có thể một lần nữa ám sát trong lúc gã không phòng bị.



Vì thế, để hoàn thành nhiệm vụ y cần có thủ đoạn phi thường.



Y đã động viên toàn bộ nhân lực vật lực Thiên Sư quân ở Kiến Khang, gom một số lượng lớn độc hỏa khí có lực sát thương kinh người, nghĩ ra kế hoạch tiến hành hành động ám sát trên mặt sông.



Chỉ cần chiếc thuyền chất đầy hỏa khí đó phát nổ cách mục tiêu trong vòng hai trượng, bắn ra những miếng sắt bén nhọn tẩm độc và lửa độc lan rộng thì có thể làm địch nhân hoặc chết, hoặc bị thương. Thêm vào đó, y đồng thời xuất thủ thì nhiều khả năng có thể Lưu Dụ sẽ bại vong.



Chỉ tiếc là tên tiểu tử chèo thuyền của đối phương bất kể phản ứng, võ công đều vượt ngoài dự đoán của y. Hắn lại lâm nguy bất loạn, trước khi chiếc thuyền đầy hỏa khí tiến vào cự ly chết người đã nhanh chân hơn một bước, phóng mái chèo đánh trúng thuyền hỏa khí, làm thuyền hỏa khí chệch phương hướng. Chỉ với sự sai biệt nhỏ nhoi đó mà địch nhân lại hung hiểm tránh khỏi đại họa.



Nhìn thấy bốn người nhảy vào dòng sông trong khi vẫn giữ được trận thế, trong lòng Lư Tuần khó chịu muốn chết. Hai con thuyền vẫn rực cháy trên mặt sông, cuộn lên từng đám khói đen, nhưng dòng nước sông đã trở lại yên tĩnh. Địch nhân khẳng định đang di chuyển dưới dòng nước sâu, ý định thừa lúc nguy của địch mà xuất thủ cũng không thực hiện được.



Chẳng lẽ Lưu Dụ quả thực là chân mệnh thiên tử không thể đánh chết được sao? Suy nghĩ này là nguyên nhân làm y sợ hãi.




“Yến lang à! Yến lang! chàng đang ở đâu?”



Yến Phi tạm ngừng việc vượt sông, ngồi xuống một khối đã lớn bên bờ, đáp ứng sự kêu gọi bằng tinh thần vượt hẳn phàm trần, cự ly và vật chất của Kỷ Thiên Thiên.



Đây là một cảm giác phá bỏ cách biệt giữa tiên giới và phàm giới. Duy trì liên hệ tâm linh giữa họ là tình yêu nồng nhiệt, là khát vọng từ tận đáy lòng. Ở đó không hề có chỗ cho sự giả tạo giữa người với người, là sự tiếp xúc của linh hồn, vừa mỹ lệ lại vô cùng huyền bí.



Yến Phi tiến nhập vào cảnh giới động nhân thần giao cách cảm, truyền tải ý nghĩ với Kỷ Thiên Thiên. Tinh thần chàng vượt qua đại địa rộng lớn mênh mông đang chìm trong bóng tối trước lúc bình minh, ngọn lửa tình yêu đang bùng cháy mãnh liệt. Chàng đáp: “Đang chảy cuồn cuộn trước mặt ta là Đại Giang mà Thiên Thiên đã quen thuộc. Bờ bên kia là Kiến Khang đô thành lớn nhất ở phương Nam. Con sông Tần Hoài chảy qua nơi ở cũ của Thiên Thiên là Vũ Bình đài. Ở trên thượng du không cách xa chỗ này mấy là nơi nhập vào Đại Giang, tham gia vào hành trình tráng lệ tới biển lớn.”



Tâm linh của Kỷ Thiên Thiên liền kết hợp chặt chẽ với Yến Phi, không còn phân chia ta, người vì mọi cách trở đều không còn tác dụng. Những ưu phiền sau bao ngày chờ đợi đã hoàn toàn được bù đắp vào thời khắc đó.



Sâu thẳm trong tâm linh Yến Phi, Kỷ Thiên Thiên say đắm nói: “Yến lang hình dung thật xúc động lòng người. Thiên Thiên bỗng nhiên cảm thấy mình và Yến lang là một đôi uyên ương hạnh phúc nhất trên thế gian này. Những gì chúng ta đang chung hưởng chính là tình yêu xúc động lòng người nhất mà tất cả nam nữ trên thế gian này mơ có được. Chúng ta hiểu nhau hơn bất kỳ ai khác. Thiên Thiên vì có chàng mà không còn cảm thấy cô độc nữa, không còn bất kỳ tình cảm hoặc bí mật gì không thể chia sẻ cùng chàng. Đó chính là tình yêu chân chính. Kể cả nếu Thiên Thiên phải chết vào lúc này thì cũng không còn gì phải ân hận trên đời nữa.”



Yến Phi hoàn toàn hiểu một cách tuyệt đối cảm thụ của Kỷ Thiên Thiên. Đó không phải là những phân tích về lý tính mà là sự truyền cảm toàn tâm, toàn thần vượt trên cả ngôn ngữ giữa hai trái tim vì họ không còn là hai cá thể cô lập bị cách ly nữa. Cho dù nhục thể bị thiên sơn vạn thủy phân cách nhưng tinh thần họ lại kết hợp thành một! Tất cả những khát vọng, mong đợi, mê say, nhiệt tình và thống khổ đều hiện ra một cách chân thực. Giả dối căn bản không còn một chỗ dung thân.



Chàng để tâm linh hoàn toàn khai mở để Kỷ Thiên Thiên cảm nhận được từng làn sóng tình cảm trong lòng chàng. Tình yêu sâu sắc nhất của chàng đối với nàng đã an ủi linh hồn đang run rẩy sợ hãi của nàng. Yến Phi trong tâm linh ứng đáp: “Tử vong tuyệt không phải là cảnh giới cuối cùng, bên ngoài tử vong còn có thế giới khác biệt nào đó. Tình trạng của Thiên Thiên thế nào? Từ sau khi chúng ta đối thoại ở đèo Tham Hợp, thân thể Thiên Thiên có xuất hiện vấn đề gì không?”



Kỷ Thiên Thiên đáp: “Vì Thiên Thiên khao khát có thể lại được tiếp xúc tâm linh với Yến lang nên đã quên hết tất cả, một lòng tu luyện và đã có tiến bộ lớn. Như lần này người ta kêu gọi chàng, cảm thấy tinh thần mình đã mạnh mẽ hơn rất nhiều, có thể tiến hành đối thoại tâm linh lâu hơn. Làm người ta phấn chấn nhất là có một thu hoạch không ngờ tới. Đó là nội công Thiên Thiên đã tinh tiến rất nhiều. Mỗi ngày luyện công và tưởng nhớ đến chàng, thân thể muội mặc dù đã mất tự do nhưng tinh thần lại hoàn toàn không chịu câu thúc và khống chế, tràn đầy mong đợi và hy vọng đối với tương lai. Cuộc chiến đèo Tham Hợp kết quả thế nào? Người thắng đương nhiên là bên phía Yến lang. Bảy, tám ngày nay, Mộ Dung Thùy đi đâu mất tăm. Kỳ quái nhất là Phong Nương từ trước tới nay vốn không rời xa bọn muội cũng mất tung mất tích, làm người ta cảm thấy có chuyện không tầm thường.”



Yến Phi đem kết quả cuộc chiến thuật lại, sau cùng nói: “Đúng là kỳ quái. Phong nương chẳng phải phụ trách trông coi các nàng sao?”



Kỷ Thiên Thiên đáp: “Thiên Thiên chưa có lúc nào đề cập đến Phong Nương với chàng. Bà ta là một người rất đặc biệt, thỉnh thoảng lộ vẻ đồng tình với bọn muội. Bà ta còn nói biết mẹ của Yến lang, lại nói khi chàng còn nhỏ bà ta đã từng gặp chàng. Yến lang có ấn tượng nào không?”



Trong lòng Yến Phi nổi lên một cảm giác mà bản thân chàng cũng không rõ là gì, thốt: “Lại có việc đó ư? Thật không thể ngờ được.”



Kỷ Thiên Thiên than thở: “Yến lang à! Muội lại thấy lực lượng tinh thần giảm sút rồi, không thể không chia tay Yến lang mặc dù Thiên Thiên còn vô vàn lời muốn nói với Yến lang. Phong Nương tựa hồ có ân oán gì đó với mẹ chàng. Hic! Yến lang bảo trọng, Thiên Thiên phải đi đây!”



Liên hệ ngừng lại.



Yến Phi mở bừng hai mắt. Sắc trời đã trắng bạch. Đại Giang vẫn cuồn cuộn chảy không ngừng trước mặt, sóng gió dập dồn như tâm tình của chàng lúc này vậy.




“Đừng có đẩy nữa! Tay ngươi không cần đụng đến ta thì lão tử đã sớm tỉnh rồi. Ngươi tưởng ta cũng là loại vô dụng như ngươi sao?”



Cao Ngạn mở to mắt nhìn xuống hạ du, không lý gì đến Trác Cuồng Sinh bị gã đánh thức đang cằn nhằn, hỏi: “Kia phải chăng là Hoang Mộng Tam Hào?”



Trác Cuồng Sinh nhìn theo ánh mắt gã. Dưới ánh sáng ban mai, thấp thoáng nhìn thấy bóng dáng một chiếc thuyền buồm. Lão thầm nghĩ với nhãn lực của mình mà cũng không thể nhận ra có phải là lâu thuyền của Biên Hoang du lịch không thì Cao Ngạn đương nhiên càng không nhìn được. Lão đứng lên nói: “Để ta nhìn kỹ xem nào. Một cánh, hai cánh… Hà! Quả nhiên là lâu thuyền ba buồm của chúng ta. Ngươi thành công rồi!”



Cao Ngạn nhảy vọt lên không lộn một vòng, hét vang: “Các huynh đệ, mở hết tốc độ tiến lên phía trước. Tiểu Bạch Nhạn của ta đến rồi!”



Hán tử chèo thuyền cười khổ nói: “Báo cáo Cao gia. Từ lúc khởi hành tối qua, chúng ta luôn đi với vận tốc lớn nhất rồi, không thể tăng tốc thêm nữa.”



Trác Cuồng Sinh vẫn còn ngái ngủ cất giọng khê nồng: “Có điểm không thỏa đáng. Tại sao không hề thấy Song Đầu thuyền dẫn đường?”



Cao Ngạn không khách khí đáp: “Ngươi quả thực hồ đồ hay giả vờ hồ đồ đây? Vì đã chứng thực đường đi không có vấn đề gì về mặt an toàn nên để tiết kiệm chi phí đã bỏ việc cho Song Đầu thuyền dẫn đường rồi. Ngươi vẫn như nằm mơ không biết vậy.”



Trác Cuồng Sinh ho mấy tiếng để che giấu sự bẽn lẽn trong lòng rồi nói: “Dường như là có chuyện đó thật.”



Cao Ngạn vui sướng hai mắt sáng bừng, hứng thú thừa thắng truy kích, giơ tay lên la: “Tiểu Bạch Nhạn nàng không cần vội, như ý lang quân trong mộng của nàng đã tới rồi!”




Giang Lăng thành, Hoàn phủ.



Hoàn Huyền một mình ngồi trong đại đường, trầm tư uống trà. Quan giữ cửa báo Nhậm Thanh Thị vừa tới. Hắn liền đặt chén trà xuống chiếc bàn bên cạnh, đưa mắt nhìn ra.



Nhậm Thanh Thị vẻ mặt nghiêm túc đến trước mặt hắn thi lễ: “Thanh Thị xin thỉnh an Nam Quận công.”



Hoàn Huyền liếc nhìn nàng, ra vẻ lãnh đạm nói: “Ngồi đi!”



Nhậm Thanh Thị ngồi xuống một bên Hoàn Huyền, cúi thấp đầu, rõ ràng thị đã cảm thấy sự thay đổi thái độ của Hoàn Huyền.



Hoàn Huyền hỏi: “Tối qua có ngủ được không?”



Nhậm Thanh Thị khẽ khàng thở dài, chừng như trách hắn tối qua không y ước đến gặp thị, từ từ nói: “Nghĩ xem ta có thể không? Không biết Nam Quận công mới sáng sớm ra đã triệu kiến nô gia, là có việc gì khẩn cấp vậy?”



Hoàn Huyền nói: “Trước tiên ta muốn rõ một việc. Nàng hiện nay có quan hệ như thế nào với Lưu Dụ?”



Nhậm Thanh Thị không hề ngẩng mặt lên nhìn hắn, nhẹ nhàng đáp: “Chẳng phải đã nói với Nam Quận công rồi sao? Quan hệ của Thanh Thị và gã đang ở trong tình huống rất vi diệu, không phải là bằng hữu, nhưng cũng không phải là địch nhân.”



Hoàn Huyền trầm ngâm một lát, rồi lộ vẻ khó khăn nói: “Không giết người này ta tuyệt không cam tâm.”



Nhậm Thanh Thị cuối cùng cũng ngẩng đầu lên nhìn hắn. Hoàn Huyền lại né tránh ánh mắt u oán của thị, ngửa mặt nhìn lên trần nhà. Nhậm Thanh Thị nhướng mày hỏi: “Nam Quận công phải chăng muốn nô gia giết Lưu Dụ cho ngài?”



Hoàn Huyền gật đầu: “Nhậm hậu có nắm chắc sẽ làm được việc này cho ta không? Chỉ có nàng mới có thể tiếp cận gã.”



Nhậm Thanh Thị thần thái như thường nói: “Giết Lưu Dụ tuyệt không dễ dàng vì gã đối với ta không phải là hoàn toàn không đề phòng. Có thể Nam Quận công chưa từng nghĩ qua, nhưng trong tình hình trước mắt mà giết chết Lưu Dụ sẽ giúp cho Lưu Lao Chi một việc lớn, hắn sẽ không để ai vào trong mắt nữa. Tư Mã Đạo Tử cũng là nhìn thấu điểm này mới lợi dụng Lưu Dụ để kiềm chế Lưu Lao Chi.”



Hoàn Huyền không ngần ngại nói: “Lưu Dụ có Hoang nhân làm hậu thuẫn, lại có sức hiệu triệu kinh người trong Bắc Phủ binh. Vì quan hệ với Tạ Huyền nên cao môn Kiến Khang cũng nhìn gã với con mắt khác. Ngu dân càng cho hắn là chân mệnh thiên tử. Một người như thế ta làm sao có thể tha cho gã sống trên thế gian này? So với gã, Lưu Lao Chi căn bản không thành vấn đề vì hành vi giết Vương Cung của hắn làm hắn vĩnh viễn không có được sự ủng hộ của nhân sỹ Kiến Khang, khó có thể làm nên đại sự.”



Nhậm Thanh Thị lại cúi mặt xuống, mềm mỏng nói: “Nam Quận công có lệnh, Thanh Thị nào dám không tuân? Để nô gia thử xem sao!”



Hoàn Huyền ngấm ngầm thở dài, chừng như định nói gì đó nhưng lại thôi. Cuối cùng, hắn xua xua tay ra hiệu cho nàng lui ra.



Nhậm Thanh Thị thần sắc bình tĩnh nói: “Nếu Nam Quận Công không còn phân phó gì khác thì Thanh Thị muốn lập tức đi đến Kiến Khang.”



Hoàn Huyền đáp: “Nàng cần bất cứ cái gì cứ nói với Hoàn Tu. Ta sẽ phân phó cho hắn toàn lực ủng hộ nàng.”



Nhậm Thanh Thị gật đầu: “Để đối phó với Lưu Dụ thì nhiều người cũng tuyệt không có tác dụng gì. Cứ mỗi ngày trôi qua, thực lực của gã lại tăng cường một bước. Thanh Thị chỉ có thể tận hết sức mình thử một lần. Nếu như thất bại, Nam Quận công không nên trách tội nô gia.”



Nói xong, thị đứng lên thi lễ rồi cáo lui.



Hoàn Huyền ngây người nhìn theo bóng dáng thị biến mất ngoài cửa lớn, lại ngấm ngầm thở dài. Bỗng nhiên một trận gió thơm từ phía sau tràn tới, chui tọt vào lòng hắn.



Lập tức, mọi cảm khái của Hoàn Huyền đều biến mất, hai tay ôm chặt người ngọc trong lòng, cất giọng thương yêu: “Nàng nghe thấy hết rồi đó! Ta và thị không hề có quan hệ gì.”



Tiều Nộn Ngọc nằm trong lòng hắn như một con mèo nhỏ hoàn toàn thần phục, yêu kiều thỏ thẻ: “Nộn Ngọc hiểu rồi! kể cả phải chết cho Nam Quận công, Nộn Ngọc cũng cam tâm tình nguyện.”



Hoàn Huyền cười nhẹ: “Không cho phép nàng nói đến chữ ‘chết’ đó. Nàng khẳng khái theo ta thì Hoàn Huyền ta sẽ làm Nộn Ngọc hưởng không hết phú quý vinh hoa, an khang thịnh vượng.”



Tiều Nộn Ngọc áp chặt khuôn mặt tươi cười vào ngực hắn, dịu dàng: “Thiếp phải làm một việc cho Nam Quận công.”



Hoàn Huyền ngạc nhiên: “Ta chỉ cần Nộn Ngọc ngoan ngoãn theo ta là được rồi. Nàng đâu cần phải đi làm việc gì?”



Tiều Nộn Ngọc nũng nịu: “Trong lòng Nộn Ngọc không phục.”



Hoàn Huyền quên cả Nhậm Thanh Thị, bật cười: “Thì ra vì vẫn chưa diệt trừ được tên tiểu tử Cao Ngạn đó nên nàng vẫn bận lòng. Để ta cho nàng biết, sinh tử của Cao tiểu tử căn bản không có liên quan trọng yếu gì. Ta đã suy nghĩ định ra kế hoạch tổng thể để đối phó với Hoang nhân rồi. Những ngày tháng phong quang của Hoang nhân chỉ còn đếm trên đầu ngón tay mà thôi.”



Tiều Nộn Ngọc yêu kiều giận dỗi: “Cao Ngạn làm sao có tư cách khiến thiếp để ở trong lòng? Người thiếp muốn đối phó chính là Lưu Dụ. Lưu Dụ sở dĩ có thể hô phong hoán vũ toàn là do được Hoang nhân ủng hộ. Chỉ cần hủy đi Biên Hoang tập thì Lưu Dụ sẽ trở lại nguyên hình, không thể làm một tướng lĩnh có sức hiệu triệu lớn trong Bắc Phủ binh nữa. Nộn Ngọc từng có tiếp xúc với Hoang nhân, hiểu rõ thủ đoạn của họ. Để Nộn Ngọc làm tiên phong của Nam Quận công. Chỉ cần Nam Quận công gật đầu, Nộn Ngọc sẽ làm cho Biên Hoang tập loạn đến nghiêng trời lệch đất. Ngày sau, Nam Quận công dẫn quân đánh Biên Hoang thì Hoang nhân cũng không có sức phản kháng.”



Hoàn Huyền nhíu mày: “Hoang nhân có thể công khai nêu tên nàng cho thấy trong bọn chúng có người hiểu rõ nguồn gốc của nàng. Nàng cứ thế này mà đến Biên Hoang tập thì quá mạo hiểm. Ta làm sao yên tâm được?”



Tiều Nộn Ngọc càng ôm hắn chặt hơn, nhẹ giọng: “Nam Quận công có thể yên tâm. Nộn Ngọc đã có thể khuấy đảo Hoang nhân một trận thì đương nhiên có thể khuấy đảo thêm lần nữa. Biên Hoang tập hoàn toàn không từ chối đối với những người đến làm ăn. Nộn Ngọc sẽ triệu tập cao thủ gia tộc trợ trận, không cần đến một binh một tốt của Nam Quận công. Mất sự ủng hộ của Biên Hoang tập thì Lưu Dụ tuyệt không phải là đối thủ của Nam Quận công.”



Hoàn Huyền cuối cùng cũng động tâm, hỏi: “Trong lòng Nộn Ngọc có nhân tuyển nào chưa?”



Tiều Nộn Ngọc nói: “Đương nhiên là chú của Nộn Ngọc là Tiều Phụng Tiên. Công phu dùng độc của ông ta không hề dưới cha thiếp, hơn nữa mưu trí lại tuyệt luân, võ công cao cường. Chỉ cần bọn ta có thể trà trộn vào Biên Hoang tập, nắm rõ hư thực của Biên Hoang tập thì có thể làm thám tử cho của Nam Quận công. Khi Nam Quận công đánh Biên Hoang tập thì bọn ta có thể phá tan đấu chí của Hoang nhân, nội ứng ngoại hợp. Khi đó còn lo gì Hoang nhân không ngoan ngoãn khuất phục?”



Hoàn Huyền ngạc nhiên: “Làm sao mà phá tan được đấu chí của Hoang nhân đây? Hoang nhân toàn là bọn liều lĩnh, hung hãn không sợ chết, càng bại càng đánh. Hai lần mất Biên Hoang tập rồi cũng lấy lại được.”



Tiều Nộn Ngọc vui vẻ nói: “Dù Hoang nhân có là sắt đi nữa cũng không chịu được độc dược làm đứt ruột. Chỉ cần bọn ta nắm được nguồn nước mà Hoang nhân sử dụng là có thể làm số lớn Hoang nhân trúng độc mất mạng. Nói cho cùng thì Hoang nhân chỉ là một đám ô hợp kết hợp lại vì lợi ích. Một khi khủng hoảng xảy ra, lại thêm đại binh của Nam Quận công uy hiếp, Hoang nhân sẽ không đánh mà tan, làm sao chống lại được cuộc tấn công mãnh liệt Biên Hoang tập?”



Hoàn Huyền nhíu mày: “Nghe nói Hoang nhân dùng nguồn nước từ Dĩnh Thủy là chính, nước giếng chỉ là phụ. Phương pháp hạ độc chỉ sợ không dùng được.”



Tiều Nộn Ngọc ung dung đáp:


”Phép dùng độc thiên biến vạn hóa, dùng mãi cũng không hết. Nhưng bọn ta cần đến quan sát thực địa Biên Hoang tập mới có thể đối chứng tình hình để sử dụng độc. Nộn Ngọc muốn làm chút việc cho Nam Quận công mà! Đảm bảo sẽ không làm Nam Quận công thất vọng.”


Hoàn Huyền cười nói: “Ta làm sao thất vọng đối với Nộn Ngọc được? Đơn giản là mừng rỡ ngoài ý liệu.”



Tiều Nộn Ngọc trong lòng hắn ngọ ngoạy tấm thân, hờn dỗi: “Nam Quận công xấu lắm nhé!”



Hoàn Huyền bỏ hết ưu tư cười lớn, hai tay bắt đầu hoạt động không theo quy củ gì nữa.



Tiều Nộn Ngọc rên rỉ: “Giờ là lúc nói chuyện chính sự. Ôi!”



Hoàn Huyền vui vẻ: “Thì ta đang làm việc chính đáng nhất đây mà.”



Hai tay Tiều Nộn Ngọc đang ôm eo hắn chuyển thành ôm cổ hắn, hổn hển: “Nam Quận công đáp ứng muội chứ?”



Hoàn Huyền do dự: “Nàng đi rồi, ai sẽ bồi tiếp ta qua những đêm dài sắp tới đây?”



Tiều Nộn Ngọc đáp: “khi Quận công trở thành chủ nhân triều đại mới thì Nộn Ngọc chẳng phải có thể luôn ở bên mình thánh thượng, thị hầu thánh thượng sao?”



Hai mắt Hoàn Huyền sáng lên, tưởng tượng đến sự phong quang khi trở thành bậc cửu ngũ chí tôn, hoàn thành đại chí chưa xong của phụ thân Hoàn Ôn, lập nên đế hoàng bá nghiệp cho Hoàn gia.



Tiều Nộn Ngọc hỏi: “Thế nào?”



Hoàn Huyền cúi xuống nhìn thị, trầm giọng: “Được rồi! Nhưng nếu như tình hình không thuận lợi thì Nộn Ngọc ngàn vạn lần không nên mạo hiểm. Quan trọng nhất là có thể an nhiên trở về, ngoài ra tất cả đều là thứ yếu.”



Tiều Nộn Ngọc hoan hô một tiếng, chủ động dâng hiến môi thơm.

408


Tr

ườ

ng Sinh Đ

c Chú


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


“Yến Phi!”



Một con thuyền nhỏ từ thượng du tiến lại.



Yến Phi nhảy lên, đáp xuống đầu thuyền, ngạc nhiên: “Làm sao lại xảo hợp thế được?”



An Ngọc Tình quay thuyền ngược lại, thần thái nhàn nhã ung dung đẩy mái chèo cho thuyền ngược dòng men theo bờ bắc Đại Giang tiến lên. Nàng cười nhẹ: “Ta đặc biệt ở đây đợi huynh đó!”



Nàng vận bộ đồ bình thường dân dã của ngư dân, đầu đội chiếc mũ rộng vành che đến gần cặp lông mày thanh tú càng lộ rõ khí chất thanh lệ thoát tục của nàng. Hai mắt nàng trong suốt, sâu thăm thẳm không thấy đáy, bên trong như ẩn giấu một vực sâu huyền bí vô hạn.



Yến Phi biết mình vẫn chưa hồi phục lại sau khi gặp gỡ với Kỷ Thiên Thiên bằng tâm linh, nên hỏi một câu chừng như không hề suy nghĩ: “Để tiểu đệ làm thay cho nhé?”



An Ngọc Tình nhẹ nhàng ôn nhu đáp: “Yến đại hiệp cứ ngồi yên đó cho tiểu nữ. Thật ra ta đang hưởng thụ cảm giác được chèo thuyền đây.”



Yến Phi tiêu sái ngồi giữa thuyền, mỉm cười nhìn nàng. Mỹ nữ này có một khí chất vô cùng đặc biệt làm người ta đang khẩn trương căng thẳng cũng nhanh chóng thư thái lại, phát sinh cảm giác vô tư lự.



An Ngọc Tình lẳng lặng nhìn chàng, bỗng nhiên khẽ thở dài nói: “Sau khi chia tay với huynh ở Bạch Vân sơn, liên tục mấy ngày liền ta chìm trong suy tư và nghĩ đến một vấn đề.”



Yến Phi hào hứng hỏi: “Vấn đề có thể làm cô nương dụng tâm đương nhiên không phải là việc tầm thường, phải chăng có quan hệ với tiên môn?”



An Ngọc Tình lộ vẻ khổ não đáp: “Huynh sai rồi! Vấn đề này có quan hệ trực tiếp với huynh, lại là quan hệ vô cùng kinh người. Huynh tốt nhất nên chuẩn bị về tâm lý.”



Yến Phi kinh hãi hỏi: “Không nghiêm trọng đến thế chứ? Ta hoàn toàn không nắm được ý tứ cô nương thì làm sao có thể chuẩn bị về tâm lý được?”



An Ngọc Tình cười khổ: “Ta có chút không muốn nói ra, nhưng đứng trên lập trường bằng hữu lại cảm thấy không nói không được.”



Yến Phi hít vào một hơi khí lạnh hỏi: “Rốt cuộc là việc gì vậy?”



An Ngọc Tình đáp: “Trước khi nói ra, ta cần biết rõ một chuyện. Sau khi huynh và Tôn Ân quyết chiến bên ngoài Biên Hoang tập, Thiên Sư quân tuyên bố ầm ỹ rằng huynh đã chết dưới tay Tôn Ân. Nhưng sự thật là huynh đã thất tung một thời gian. Trong thời gian đó đã phát sinh chuyện gì vậy?”



Đến lúc này, Yến Phi vẫn chưa hiểu rõ vấn đề An Ngọc Tình đang nghĩ trong lòng, chỉ còn cách thành thật kể lại: “Lần quyết chiến đó kết cục là ta thảm bại, hoàn toàn mất hết tri giác. Khi tỉnh lại mới phát hiện mình bị chôn dưới lòng đất.”



An Ngọc Tình ngạc nhiên thốt: “Tôn Ân làm sao lại sơ suất như thế?”



Yến Phi đáp: “Tôn Ân tuyệt không hề sơ suất. Khi ta bị lão đánh bay khỏi Trấn Hoang cương thì Nhậm Thanh Thị xuất thủ đánh lén lão, làm lão không cách nào đánh thêm một chưởng vào người ta. Tiếp đó, Ni Huệ Huy lại mang ta chạy đi và an táng cho ta. Hắc! Cô nương cho rằng việc đó có quan hệ với ta, rốt cuộc là liên quan thế nào đây?”



An Ngọc Tình than: “Lần này thì nguy rồi!”



Yến Phi bỗng lạnh cả lòng, ngấm ngầm nghĩ tới tâm sự của An Ngọc Tình có liên quan đến sinh tử của chàng.



An Ngọc Tình muốn nói lại thôi, nhìn chàng mấy lần rồi từ từ nói: “Huynh còn nhớ ta đã nói gì ở Tạ gia tại hẻm Ô Y không? Ta nói huynh làm ta sinh lòng sợ hãi, là nỗi sợ hãi đối với sự việc mà mình không hiểu được vì trong lịch sử Đạo môn ghi chép lại thì chưa từng có ai đạt được cảnh giới thai tức một trăm ngày. Vì thế huynh đã kết thành Kim Đan trong người. Càng kỳ quái là huynh vẫn chưa bạch nhật phi thăng* thành tiên, nên ta không hiểu huynh là người hay là tiên. Còn nhớ chuyện đó không?”



Yến Phi gật đầu: “Cô nương đúng là có nói chuyện đó.”



An Ngọc Tình tiếp: “Ni Huệ Huy mang huynh từ trong tay Tôn Ân bỏ chạy là muốn thị uy với Tôn Ân, bày tỏ ý cừu hận của thị đối với Tôn Ân. Còn việc an táng cho ngươi là vì thấy huynh sinh cơ đã tuyệt, lại vì sinh lòng thương hại, không muốn để huynh phơi thây ngoài nơi hoang dã nên mới cho huynh nhập thổ an lành. Ai biết huynh đã chết lại sống lại.”



Yến Phi nói: “Ta chưa hề nhìn thấy Diêm La vương, cũng chưa từng chết đi. Có thể là ta chưa hoàn toàn đoạn khí.”



An Ngọc Tình trấn định tinh thần nhìn gã nói: “Lời đó của huynh không sai. Cứ theo các cụ ngày xưa có nói, người có ba hồn bảy vía. Tấm thân huyết nhục sau khi chết thì ba hồn bảy vía sẽ tiêu tan. Khi hồi hồn lại thì hồn vía sẽ tụ lại, xem xem có phải là chết oan uổng hay không rồi mới quyết định tiếp tục làm quỷ âm hồn bất tán hay là chuyển thế luân hồi. Cách nói này là thật hay giả đương nhiên không người sống nào biết được.”



Yến Phi hít sâu một hơi nói: “Nàng nói làm ta sởn cả gai ốc. Ài! Cô nương xin nói ra suy nghĩ trong lòng. Hy vọng ta có thể tiếp thụ được.”



An Ngọc Tình đáp: “Khi đó huynh đích xác là đã chết rồi, nhưng hồn phách vẫn dựa vào nhục thể mà nối lại tâm mạch đã bị đứt làm huynh sống lại. Đó là giải thích duy nhất hợp lý.”



Yến Phi thoải mái hẳn, nói: “Ta tuyệt không hề chết thật mà chỉ là giả chết. Ta từng nghe qua trong tộc nhân có mấy người chết đã hai ngày, bỗng nhiên lại sống lại. Người sống lại đó còn sống được hai năm nữa rồi mới chết thật.”



An Ngọc Tình nói: “Khẳng định là huynh đã kết thành Kim Đan, thứ mà người cầu Đạo đều mơ có được.”



Yến Phi bị câu nói không đầu không đuôi của nàng làm cho cảm thấy hồ đồ, nhíu mày hỏi: “Kim Đan rốt cuộc là cái gì vậy? Ta thực không cảm thấy trong cơ thể mình có thêm cái gì cả?”



An Ngọc Tình đáp “Kim Đan là dương thần do tu luyện trí lực tinh thần của Đạo gia bọn ta tạo thành, còn gọi là thân ngoại chi thân** sờ không thấy nhìn không ra. Cứ theo điển tịch ghi chép thì phàm là người kết Kim Đan sẽ trở thành người trường sinh bất tử.”



Yến Phi thất thanh hỏi: “Cái gì?”



An Ngọc Tình cười khổ: “Giờ huynh chắc đã hiểu tại sao ta không muốn nói ra rồi đó! Đối với Đạo gia mà nói, việc đó đương nhiên là tin mừng lớn nhất. Nhưng đối với huynh, lại là ….. Ôi! Ta không biết dùng từ nào cho được.”



Yến Phi ngây người nhìn nàng, một lúc sau hỏi: “Nếu như có người đem ta ra phân thây thành vạn mảnh thì ta liệu vẫn có thể bất tử không?”



An Ngọc Tình than: “Vấn đề của huynh chỉ sợ không ai có thể trả lời được, chỉ có trời mới biết. Ài! Sắc mặt huynh biến thành khó coi quá rồi!”



Yến Phi mặt không còn chút máu, trong lòng ầm ầm nổi lên những luồng tư tưởng khổng lồ như sóng cồn, xung kích tâm linh chàng.



Lời An Ngọc Tình rất có sức thuyết phục. Ngày đó, khi phá đất chui ra, Yến Phi quả có cảm giác sống lại từ cõi chết, lại từ đó sinh ra linh giác có thể cảm ứng Kỷ Thiên Thiên. Sự tình quái dị đến mức làm chàng cũng cảm thấy vô cùng khó chấp nhận. Nhưng dần dần việc đó đã quen đi, trở thành tập quán nên chàng đối với sự ‘dị thường’ của bản thân không còn kinh dị nữa.



Chàng cũng hiểu An Ngọc Tình nói “nguy hiểm quá” nghĩa là gì vì nàng biết chàng là người như thế nào, là “hồng nhan tri kỷ” của chàng.



Đối với những người có chí tu tiên thì ‘trường sinh bất tử’ quả là một ân tứ lớn vì họ có thời gian vô hạn để đi tìm phương pháp trở thành Tiên, khám phá bí mật của sinh tử.



Nhưng đối với chàng mà nói, đó chỉ là một giấc mộng vĩnh viễn không kết thúc. Chàng sẽ biến thành một quái vật không bao giờ chết. Việc này không phải là phúc, mà là một lời nguyền, lại là một lời nguyền độc ác nhất.



Thử nghĩ, mắt thấy Kỷ Thiên Thiên từ hồng nhan biến thành bạch phát, thấy nàng trải qua đủ lão, bệnh, tử, nhưng Yến Phi chàng lại vĩnh viễn giữ hình dạng này. Bất kể là đối với Kỷ Thiên Thiên hay đối với chàng, đó là một việc vô cùng tàn nhẫn và đáng sợ. Khi đó, biện pháp giải quyết duy nhất là chàng tự vẫn nếu như chàng có thể làm được việc này.



An Ngọc Tình không hề làm nhiễu loạn tư tưởng chàng, im lặng chèo thuyền, tiến vào sông Tần Hoài.



Phương pháp giải quyết duy nhất là mở ra tiên môn, nhân lúc Kỷ Thiên Thiên vẫn còn trong giai đoạn thanh xuân tươi đẹp, hai người dắt tay nhau phá không mà đi, tiến vào nơi đất trời kỳ dị không biết là Tu la Địa ngục hay là Động thiên phúc địa đó, còn hơn là nhìn Thiên Thiên già chết còn bản thân mình lại vĩnh viễn là một người sống.



Nhưng chàng sớm gạt bỏ tính khả thi của việc đó. Kể cả chàng nhường cho Kỷ Thiên Thiên tiến vào tiên môn trước thì Kỷ Thiên Thiên cũng sẽ bị năng lượng do tiên môn khai mở làm cho thịt nát xương tan



Đó căn bản là một vấn đề khó khăn không thể giải quyết.



Yến Phi phát sinh cảm giác bị tuyên án cực hình, là một hình phạt tàn khốc nhất trên nhân thế và không bao giờ kết thúc.



An Ngọc Tình nhẹ giọng nói: “Phương pháp duy nhất kết thúc nỗi khổ trường sinh chính là luyện thành tuyệt học cao nhất ‘Phá toái hư không’ của ‘Chiến thần đồ lục’, mở cửa tiên môn, sang thế giới bên kia khám phá xem bên đó là cảnh giới gì. Đúng không?”



Yến Phi ngoảnh đầu nhìn nàng, tiếp xúc với đôi mắt tuyệt đẹp thâm sâu thần bí, mỗi lần nhìn đều làm chàng chấn động tâm thần, bên trong tràn đầy khát vọng và mong đợi.



Yến Phi giật mình hỏi: “Đó phải chăng là việc duy nhất trong lòng cô nương nghĩ đến sao?”



An Ngọc Tình phóng tầm mắt nhìn cảnh đẹp hai bên bờ sông Tần Hoài, mơ màng nói: “Ta từ nhỏ đã tràn đầy hiếu kỳ đối với đất trời trước mắt. Trời bắt đầu từ đâu? Đất kết thúc ở chỗ nào? Tất cả đã bắt đầu như thế nào? Tất cả rồi sẽ kết thúc ra sao? Những sự vật trước mắt phải chăng chỉ là ảo ảnh? Con người đến thế giới này với mục đích gì? Sinh mệnh phải chăng cũng không ngừng tuần hoàn như bốn mùa và tinh tú? Vì thế, ta đối với sự tranh danh đoạt lợi của thế nhân vô cùng nhạt nhẽo. Nhưng ta lại hoài nghi thuyết thành Tiên Phật của Phật, Đạo hai nhà. Tới khi gặp được Yến Phi huynh, từ huynh trực tiếp nghe được tình hình tiên môn khai mở thì lòng ta đã an tĩnh lại. Bên kia của tiên môn có phải là ‘Động thiên phúc địa’ hay không tuyệt không quan trọng. Chỉ cần biết việc đó là có thể thì ta không thử một lần sẽ không cam tâm được. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ càng về tình huống tam bội hợp nhất khai mở tiên môn mà huynh thuật lại thì tiên môn dường như chỉ cách mình có một bước chân, chỉ cần bước một bước chân, nhưng lại khó như lên trời, có thể nhìn thấy nhưng lại không thể đi vào. Mâu thuẫn trong lòng ta chỉ sợ chỉ có Yến Phi huynh là hiểu được.”



Yến Phi khổ não nói: “Ta hiểu. Ài! Nếu như ta có thể khai mở tiên môn, cô nương có dám không do dự mà tiến vào không?”



An Ngọc Tình bình tĩnh nói: “Nếu ta đoán không sai thì tuyệt thế chiêu số ‘Phá toái hư không’ kinh thiên địa, khiếp quỷ thần, có thể khai thiên tịch địa đã vượt qua giới hạn của bất kỳ võ học đại sư nào. Cả đời chỉ có thể sử chiêu đó một lần là đã hao tổn hết tiềm năng bản thân. Huynh hiểu không? Tiên cơ chỉ có một lần, nếu huynh nhường cho ta thì ta chắc chắn có thể vượt môn mà đi, nhưng huynh sẽ vĩnh viễn mất đi cơ hội sang bờ bên kia. Hơn nữa, phải chịu hậu quả nghiêm trọng không biết thế nào. Huynh liệu vẫn tình nguyện hy sinh cho ta như thế không?”



Yến Phi tắc họng không nói nên lời. Chàng không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho Kỷ Thiên Thiên.



An Ngọc Tình cười nhẹ: “Cuộc sống của ta vì tiên môn mà tràn đầy hứng thú. Huynh lại càng vì nó mà bản thân bị đặt vào cảnh khó khăn chưa từng có tiền lệ, phải đối mặt với vấn đề khó khăn nhất. Nhân sinh vĩnh viễn là một nửa khổ đau và một nửa lạc thú. Nhưng chúng ta không giống với những người khác. Điều chúng ta truy cầu tuyệt không phải là những chuyện được, mất thông thường của thế tục, mà là vượt lên sinh tử, siêu thoát nhân thế.”



Yến Phi vẫn không có lời nào để nói.



An Ngọc Tình tiếp: “Huynh muốn lên bờ chỗ nào? Ta tạm thời ở Quy Thiện Tự của Chi Độn đại sư. Huynh đi gặp Chi Độn đại sư thì có thể gặp ta. Không cần phải có việc mới đến gặp ta, mà đến nói chuyện chơi cũng được.”




Lưu Dụ vào phòng chính, thấy Đồ Phụng Tam và Khoái Ân đang nói chuyện. Khoái Ân tập trung tinh thần lắng nghe, không ngừng gật đầu, một mực toàn tâm học hỏi.



Đối với người ưu tú trẻ tuổi mới nổi Khoái Ân, Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam sớm đã nhận định hắn là một tài năng có thể đào tạo, nhưng chưa từng nghĩ hắn lại có thể xuất sắc như thế. Mới đến Kiến Khang chưa được mười ngày đã lập đại công. Trước tiên là phá tan phương pháp ám sát của Can Quy. Tối qua lại nhờ hắn kịp thời phóng mái chèo ra khiến thuyền hoả khí của địch thay đổi phương hướng và tốc độ. Nếu không, hậu quả thật không dám tưởng tượng.



Lưu Dụ ngồi xuống bên cạnh hai người, ngạc nhiên nói: “Sao lại dùng phương thức vẽ trên giấy và nói suông để truyền cho tiểu Ân thuật luyện binh như thế này? Đợi khi quân tinh nhuệ Biên Hoang của bọn ta đến đây rồi giảng dạy tại hiện trường thì chẳng phải hiệu quả càng lý tưởng hơn sao?”



Đồ Phụng Tam trầm giọng: “Vì ta muốn gặp lại Dương Toàn Kỳ xem xem có thể nỗ lực lần cuối cùng, kích động hắn và Ân Trọng Kham tiên phát chế nhân, đánh đổ Hoàn Huyền hay không.”



Lưu Dụ ngạc nhiên hỏi: “Vẫn còn hy vọng thuyết phục hắn sao? Một việc không tốt, ngược lại sẽ làm luỵ đến ngươi. Hơn nữa ở đây cũng cần có ngươi.”



Đồ Phụng Tam cười nhẹ: “Kiến thức, tài năng của tiểu Ân trong việc chỉ huy quân đội khẳng định sẽ làm ngươi kinh ngạc vui mừng. Sự dạy bảo liên tục tuần tự của Hầu tiên sinh đã cho thấy thành quả đáng tự hào trên con người tiểu Ân. Chỉ cần cho hắn cơ hội, đảm bảo có thể làm ngươi mãn nguyện. Hơn nữa, không có ta thì còn có ngươi. Chỉ cần ngươi luôn cho tiểu Ân theo bên cạnh, để hắn tạo dựng quyền uy trong lòng các huynh đệ Hoang nhân bọn ta thì tiểu Ân sẽ là mãnh tướng hàng đầu của ngươi.”



Khoái Ân lúng túng nói: “Đồ gia đã khoa trương ta quá rồi. Nhưng ta sẽ tận lực mà làm, hy vọng không phụ ý tốt của hai vị nhân gia.”



Đồ Phụng Tam lại nói: “Đây là một suy nghĩ về mặt sách lược. Bất kể Hoàn Huyền hoặc Tư Mã Đạo Tử hoặc Từ Đạo Phúc đều đã hiểu biết tường tận chiến thuật và thủ đoạn ta thường dùng vì thế chúng có chỗ để tìm ra. Nhưng tiểu Ân là người mới, tác phong mới. Chỉ cần bọn ta bồi dưỡng hắn thành tài sẽ trở thành một kỳ binh quý giá.”




Lưu Dụ biết Đồ Phụng Tam quyết ý ra đi, nhíu mày: “Nếu thực có thể đánh ngã Hoàn Huyền. Khi đó Tư Mã Đạo Tử mất đi kình địch hàng đầu rồi thì có còn cần dựa vào bọn ta nữa không?”



Đồ Phụng Tam than: “Nói là như vậy, nhưng ngươi và ta đều rõ Dương, Ân hai người làm sao là đối thủ của Hoàn Huyền và Nhiếp Thiên Hoàn được? Ta chỉ hy vọng bọn họ có thể nắm vững tiên cơ, không phải là chỉ một đòn đã tan vỡ, có thể hết sức làm chậm lại thời gian Hoàn Huyền phát động công kích đối với Kiến Khang. Nếu không, khi bọn ta đang đối phó Tôn Ân lại vẫn phải lo lắng về Hoàn Huyền.”



Lưu Dụ đang định nói, thấy Khoái Ân bộ dạng như có gì muốn nói nhưng lại thôi, trong lòng chợt động, nhìn Khoái Ân nói: “Trong lòng tiểu Ân có gì muốn nói cứ nói hết ra đi.”



Đồ Phụng Tam cũng cười: “Đúng! Không cần rụt rè mắc cỡ. Ngươi từng qua Biên Hoang tập, chắc phải biết Hoang nhân đều là những tên điên luôn có những ý tưởng tuyệt diệu, mà Lưu gia lại là tên điên trong những tên điên. Đối mặt với binh lực áp đảo của cường địch nhưng vẫn nghĩ làm sao để tác thành mỹ sự giữa Tiểu Bạch Nhạn và Cao Ngạn đó.”



Khoái Ân lấy hết dũng khí nói: “Kể cả Hoàn Huyền và Nhiếp Thiên Hoàn liên thủ, nhưng để công hãm đô thành có năng lực phòng thủ rất mạnh như Kiến Khang thì vẫn chưa đủ sức. Nếu không hắn đã không chờ đợi đến ngày hôm nay, lại tìm trăm phương ngàn kế tranh thủ Lưu Lao Chi đứng về phía hắn. Hoàn Huyền còn có một lo lắng là sợ nếu cùng với Kiến Khang quân đánh đến lưỡng bại câu thương sẽ bị Thiên Sư quân chiếm hết tiện nghi. Vì thế, một ngày còn Thiên Sư quân thì Hoàn Huyền vẫn không dám trực tiếp tiến đánh Kiến Khang.”



Chuyện này đối với Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam mà nói chỉ là chuyện phiếm hàng ngày, nhưng Khoái Ân mới đến Kiến Khang một thời gian ngắn mà đã nắm vững được tình hình, đúng là làm người ta phải vỗ tay khen hay.



Đồ Phụng Tam gật đầu nói: “Nói hay lắm!”



Lưu Dụ khích lệ: “Nói tiếp đi!”



Khoái Ân can đảm tiếp tục: “Hoàn Huyền sau khi độc bá Kinh Châu, việc có thể làm là phong toả thượng du Kiến Khang, chặt đứt con đường huyết mạch chủ yếu của Kiến Khang, làm vật tư từ thượng du không thể đều đặn liên tục vận chuyển về chi viện cho Kiến Khang được. Kiến Khang dưới tình hình bị cô lập gay gắt như thế càng khó khăn trong việc ứng phó Thiên Sư quân.”



Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam đều gật đầu ra vẻ đồng ý.



Phong toả thượng du Kiến Khang là việc Hoàn Huyền chỉ cất tay là xong do lực lượng của hắn đủ khả năng làm việc này, lại là thủ đoạn cao minh để nắm quyền chủ động. Khi Kiến Khang khổ sở lâm vào cục diện khó giữ nổi vì huyết mạch đường thuỷ bị cắt đứt thì Hoàn Huyền có thể dĩ dật đãi lao, đánh thẳng vào đầu não đối phương, một trận giành giang sơn. Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam tuy biết rõ là như thế, nhưng lại không thể làm gì, vì thế họ mới có sách lược ‘trong bại cầu thắng’.



Đồ Phụng Tam lần này phải trở lại Kinh Châu chính là vì hy vọng có thể trì hoãn kế hoạch phong tỏa Đại Giang của Hoàn Huyền càng lâu càng tốt.



Khoái Ân tiếp: “Tình hình đó không thể thay đổi được. Nhưng tiểu Ân nhận thấy trước khi Thiên Sư quân thất bại thì Hoàn Huyền sẽ không lỗ mãng tiến hành hành động phong toả đường sông vì việc đó sẽ tạo ra sự phản cảm rất lớn của cao môn đại tộc Kiến Khang, cho rằng Hoàn Huyền là một kẻ ti bỉ vô sỉ chỉ biết lợi dụng lúc người ta nguy ngập. Sau này dù hắn có thể đánh bại Kiến Khang quân nhưng sẽ ảnh hưởng rất xấu tới khả năng trị vì của hắn ở Kiến Khang. Hơn nữa, từ lập trường của Hoàn Huyền mà nói, sách lược tốt nhất là toạ sơn quan hổ đấu. Lý tưởng nhất là Thiên Sư quân bại trận, Kiến Khang quân và Bắc Phủ binh thương vong nặng nề. Khi đó Hoàn Huyền có thể dùng thế như phong quyển tàn vân, quét trọn Kiến Khang, thay thế vị trí Hoàng triều họ Tư Mã vốn đã làm cao môn đại tộc Kiến Khang mất hết lòng tin.”




Đồ Phụng Tam và Lưu Dụ đều động dung.



Tiếng Tống Bi Phong từ cửa sau vọng tới: “Nhận xét đó rất mới mẻ, lại rất có cơ sở.”



Khoái Ân ngượng nói “Chỉ là ngu kiến của tiểu Ân.”



Tống Bi Phong ngồi xuống. Đồ Phụng Tam nói: “Tiếp tục nói đi.”



Khoái Ân nói: “Đồ gia đừng trách tiểu Ân mạo phạm. Tiểu Ân nhận thấy Ân, Dương hai người không hề có đến nửa điểm cơ hội. Sự mạo hiểm đó không đáng để Đồ gia phải đi. Hiện tại, chúng ta nên tập trung tinh thần đối phó Tôn Ân, mặt khác dùng Biên Hoang tập kiềm chế Hoàn Huyền. Ví dụ như tập kết chiến thuyền tại Thọ Dương làm Hoàn Huyền cố kỵ, phải đặt hy vọng lên chúng ta.”



Đồ Phụng Tam gật đầu: “Giải thích của tiểu Ân rất có đạo lý.”



Khoái Ân lộ vẻ cảm động, cho thấy hắn vốn cho rằng lời mình nói không có trọng lượng, không tưởng nổi nói ra suy nghĩ rồi lại được sự tiếp nhận trọng thị của Đồ Phụng Tam như thế. Hắn cũng nhận thấy sự bao dung rộng rãi của Đồ Phụng Tam.



Ngay lúc đó, bốn người đều có cảm giác khác lạ.



Một đạo thân ảnh xuyên qua cửa sổ vào phòng như quỷ mỵ. Khi bốn người cảnh giác đứng lên thì mới nhìn rõ người đến là Yến Phi.



Khoái Ân là người duy nhất không biết Yến Phi. Hắn lại còn cho rằng chàng là địch nhân, liền tiến lên một bước, đấm mạnh một quyền vào Yến Phi. Mọi người không kịp cản hắn lại, chỉ quát bảo hắn dừng tay.



Yến Phi đẩy chưởng ra ngăn cản thiết quyền của Khoái Ân, nhưng không hề làm phát ra tiếng kình khí giao kích. Chàng lộ thần sắc ngạc nhiên nói: “Công phu của vị huynh đệ này rất khá.”



Khoái Ân phát giác quyền đầu của mình đánh trúng chưởng tâm của đối phương nhưng chân kình lại biến mất tăm tích như ném đá xuống biển. Hắn hoảng hốt lùi lại thì Đồ Phụng Tam than: “Biên Hoang đệ nhất cao thủ của chúng ta tới Kiến Khang rồi.”



Chú thích



* Bạch nhật phi thăng: Những người trong Đạo giáo sau khi tu luyện đắc đạo, sẽ bay lên trời thành tiên giữa ban ngày. Ngoài ý trên, đời nay còn dùng cụm này như một thành ngữ chỉ một lần xuất chúng hay vinh hiển.



** Thân ngoại chi thân: Cơ thể khác bên ngoài cơ thể này.

409


C

u L

ư

u Chiêu S


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Vương Trấn Ác tiến vào phòng nhỏ. Lưu Mục Chi đang một mình im lặng ăn sáng, thần tình ngưng trọng trầm tư.

Vương Trấn Ác ngồi xuống bên cạnh lão, tiện tay cầm lên một chiếc màn thầu. Trước tiên hắn đưa lên mũi ngửi ngửi rồi mới đút vào miệng.

Lưu Mục Chi nhìn hắn, cười nhẹ hỏi: “Tối qua ngủ được chứ?”

Vương Trấn Ác vui vẻ đáp: “Ngủ nghê là một bản lĩnh đáng tự hào của ta. Thường thường, cứ nhắm mắt là có thể ngủ một mạch tới lúc trời sáng. Nếu như không có tuyệt kỹ này thì chỉ sợ ta đã sớm không chịu nổi đến bây giờ, tự vẫn cho xong từ lâu rồi.”

Lưu Mục Chi điềm đạm nói: “Ngươi trước khi ăn màn thầu thì phải dùng mũi ngửi ngửi. Phải chăng vì sợ bị người hạ độc?”

Vương Trấn Ác bẽn lẽn đáp: “Đó là thói quen. Trước đây, là chân lý để giữ mạng ở phương Bắc, hiện tại đã thành tập quán. Chắc đã làm tiên sinh phải cười rồi.”

Lưu Mục Chi lộ vẻ đồng tình nói: “Xem ra những ngày ngươi ở phương Bắc trước đây chắc không dễ dàng.”

Vương Trấn Ác buồn bã nói: “Tận mắt nhìn thấy người thân từng người một đột nhiên lăn ra chết đương nhiên là không dễ chịu rồi. Bản thân ta đã bị người ta ám sát năm lần, lần nào cũng suýt chết.”

Lưu Mục Chi nhíu mày hỏi: “Phù Kiên lại không hề niệm tình như thế ư?”

Vương Trấn Ác cười khổ: “Nếu như hắn không niệm tình cũ thì ta đã sớm xương cốt không còn rồi.”



Dường như hắn không muốn nói chuyện quá khứ đã qua nữa, bèn chuyển đề tài hỏi: “Tiên sinh đã nghĩ ra biện pháp chống địch chưa?”

Lưu Mục Chi đáp: “Để đối phó với số đông chiến sỹ Bí tộc thì chỉ cần làm đúng như kế hoạch hôm qua chúng ta đã bàn là có thể thu được hiệu quả. Nhưng để ứng phó một người như Hướng Vũ Điền thì ta lại bó tay không có sách lược gì. Theo tác phong hành sự của người này có thể biết đó là một cao thủ không theo quy luật thông thường, thiên tư cực cao, bác học đa tài có thể ngạo thị thiên hạ. Một người như thế căn bản là không có điểm nào để làm căn cứ mà phán đoán, lại không thể dùng thủ pháp thông thường để chế phục được. Biên Hoang tập mặc dù cao thủ như mây, nhân tài đầy rẫy, nhưng có thể chế phục y thì sợ là chỉ có một mình Yến Phi. Nhưng Yến Phi đã đi Kiến Khang rồi.”

Vương Trấn Ác hoàn toàn đồng ý, gật đầu: “Ta dù đã giao thủ với y nhưng cho tới tận lúc này vẫn không biết rõ y là một người thế nào. Cổ quái nhất là ta còn có chút ngưỡng mộ y. Cái tên gia hoả này như là chính, như là tà, nhưng khẳng định không phải là đồ ti bỉ, mà là một người có khí độ thâm sâu rộng rãi.”

Lưu Mục Chi than: “Sáng nay thức dậy, ta sợ nhất là nghe được tin tức gì liên quan đến y. Nếu vậy, khẳng định không phải là tin gì tốt lành. Ví dụ như một thành viên nghị hội nào đó bị y ám sát chết, hoặc bị y lấy trộm mất thánh chung đại biểu cho vinh nhục của Hoang nhân trên Cổ Chung lâu. May là tất cả vẫn bình thường.”

Vương Trấn Ác bật cười: “Sức tưởng tượng của tiên sinh thật phong phú. Để lấy trộm chuông đồng thì mười tên Hướng Vũ Điền cũng không làm được.”

Lưu Mục Chi cười khổ: “Mặc dù bình an vô sự, nhưng sự lo lắng của ta chỉ tăng chứ không có giảm. Tình hình bây giờ chính là sự yên tĩnh trước khi cuồng phong bạo vũ kéo tới. Với tâm cao khí ngạo của Hướng Vũ Điền, khẳng định không nhịn nổi nỗi tức giận bị bọn ta trục xuất khỏi Biên Hoang tập. Y lại muốn biết bọn ta bằng cái gì có thể khám phá hành tung của y. Vì thế y đang chờ đợi cơ hội để lập uy. Y mà phản kích sẽ trúng chỗ yếu hại của bọn ta. Y sẽ đánh vào mặt nào đây?”

Lão lại hỏi: “Cho ta biết! Hướng Vũ Điền rốt cuộc là một tên nhát gan hay là quá yêu quý sinh mệnh của mình?”

Nghi vấn này của Lưu Mục Chi là có căn cứ.

Từ khi Hướng Vũ Điền như thần long xuất hiện tại Trấn Hoang cương, tiếp đó đột vây chạy khỏi Biên Hoang tập. Sau đó, rõ ràng có thể giết chết Vương Trấn Ác nhưng lại bỏ qua cho hắn. Những việc này đều làm lão giang hồ sống trên đầu đao mũi kiếm cũng khó mà hiểu được. Y chưa từng giết một người nào, nhưng cũng không để cho bất cứ ai động tới nửa sợi lông của y.

Nhưng y rốt cuộc là nhát gan nên không dám mạo hiểm thụ thương? Hay là vì quá yêu quý thân thể mình mà không muốn thụ thương? Toàn là những việc mà không ai có thể hiểu nổi.

Vương Trấn Ác khẳng định đáp: “Y tuyệt không phải là người có lá gan bé xíu, ngược lại gan lớn tày trời, chẳng coi ai ra gì. Vì thế mới dám một mình đến Biên Hoang tập. Nhưng tác phong thấy khó là lui của y đúng là làm người ta không hiểu nổi.”

Lưu Mục Chi nói: “Chỉ cần hiểu được điểm này thì chúng ta nói không chừng có thể tìm ra chỗ sơ hở của y, từ đó thiết kế đối phó y.”

Lão lại trầm ngâm: “Bốn chữ ‘thấy khó là lui’ này hình dung vô cùng chuẩn xác. Với thân thủ của y, nếu như có thụ thương thì vẫn còn sức đánh một trận, sẽ có cơ hội đánh chết Cao thiếu gia. Nhưng khi y phát giác Diêu Mãnh cũng có thực lực ngạnh tiếp y một kiếm thì y liền bỏ đi không quay lại. Có thể thấy sự mạo hiểm đó y không dám làm. Việc y thả cho ngươi đi còn có thể đúng như giải thích của y là không muốn thụ thương thế vĩnh viễn không thể hồi phục. Nhưng việc đối phó với Cao tiểu tử hoàn toàn không có vấn đề đó, làm ta càng nghĩ càng hồ đồ rồi.”

Vương Trấn Ác tư lự: “Hoặc là y đang tu luyện một loại kỳ công tuyệt nghệ nào đó. Trước khi thành công không thể thụ thương. Ài! Trong thiên hạ này lại có loại công phu cổ quái như thế ư?”

Lưu Mục Chi cảm thấy đau đầu nói: “Sự uy hiếp của Hướng Vũ Điền chỗ nào cũng có, đề phòng không được. Y chỉ cần mỗi ngày tìm một người giết đi để tế cờ thì có thể làm Biên Hoang tập rơi vào hoảng loạn khủng bố, tạo thành đả kích nghiêm trọng đối với Biên Hoang tập đang bước vào thời kỳ phục hồi kinh tế. Ai còn dám đến Biên Hoang tập làm ăn nữa?”

Vương Trấn Ác lắc đầu phản đối: “Y không phải là loại lạm sát người vô tội thế đâu. Trong lòng ta thấy y là một người khí khái anh hùng, lại rất coi trọng danh dự bản thân. Nếu như y tuỳ ý giết người thì sẽ trở thành một Hoa Yêu khác, gây nên công phẫn, sau này chỉ là những ngày chạy trốn khắp nơi.”

Lưu Mục Chi dường như nghĩ ra được việc gì đó, giật mình nói: “Ta đoán được mục tiêu của y là cái gì rồi!”


Cao Ngạn tim đập thình thịch, đến trước căn phòng vốn là phòng của thuyền chủ Trình Thương Cổ, nhưng giờ là phòng dành cho Doãn Thanh Nhã ở. Gã giơ tay lên nhưng lại không có dũng khí gõ cửa, thần tình vô cùng cổ quái.

Đứng ở cuối hành lang cách gã chừng hai trượng là bọn Trác Cuồng Sinh, Trình Thương Cổ và hơn mười huynh đệ theo thuyền. Mọi người đều lộ vẻ vừa kỳ quái vừa hứng thú đứng nhìn gã, lấy tay ra hiệu thúc giục gã mau gõ cửa. Đúng là “Hoàng đế bất cấp, cấp sát thái giám”**.



Vì hành khách đầy thuyền nên Trình Thương Cổ chỉ còn cách ra vẻ nghĩa khí lấy phòng của mình cấp cho Tiểu Bạch Nhạn dùng. Còn hắn thì ở chung với các huynh đệ Hoang nhân. Tiểu Bạch Nhạn cũng thật kỳ quái. Sau khi lên thuyền không hề rời phòng nửa bước, lại không dùng đồ ăn thức uống ngon lành trên thuyền, chỉ dùng những đồ ăn uống và hoa quả mang theo.

“Cốc! Cốc! Cốc!”

Cao Ngạn cuối cùng cũng đánh liều gõ cửa. Bọn Trác Cuồng Sinh đang đứng xem ai nấy đều cảm thấy tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bình tức tĩnh khí chờ xem Cao Ngạn sẽ được nàng nhiệt tình chào hỏi như gã vẫn ăn to nói lớn, hay là bị Tiểu Bạch Nhạn đánh văng xuống dòng Dĩnh Thuỷ.

Thanh âm khiến người ta si mê của Tiểu Bạch Nhạn từ trong phòng truyền ra: “Đến Biên Hoang tập rồi sao? Tên ngu ngốc nào dám đến gõ cửa phòng bản cô nương thế?”

Mọi người run bần bật cố nhịn cười, im lặng chờ xem tình hình phát triển.

Cao Ngạn nghe thấy thanh âm Tiểu Bạch Nhạn, lập tức nhiệt huyết trào dâng, khuôn mặt căng thẳng đỏ hồng lên. Hắn ưỡn ngực về phía mọi người ra vẻ hiên ngang, rồi quay mặt lại đối diện với cửa phòng há to mồm ra. Mọi người đang nghĩ gã sẽ tuôn ra diệu ngữ như nước chảy mây trôi, mồm loa mép giải như thường thấy thì gã lại không nói nổi một câu, hại mọi người suýt chút nữa thì đấm ngực giậm chân, khó chịu thay cho gã.

Thanh âm Tiểu Bạch Nhạn lại truyền ra hỏi: “Đứng trơ ra đấy làm gì? Mau lăn đi cho ta. Chọc giận bản cô nương tức lên sẽ lập tức ra lọc da rút gân ngươi đó.”

Trác Cuồng Sinh vượt mọi người tiến ra, hai tay làm bộ như chuẩn bị xé xác Cao Ngạn ra, mặt lộ vẻ vô cùng sốt ruột.

Dưới áp lực của mọi người, Cao Ngạn cuối cùng cũng nói ra tiếng người, nhưng gã hưng phấn đến mức giọng trầm nghẹn khó khăn thốt: “Là ta! Hắc! Là ta Cao Ngạn. Nhã nhi mau mở cửa cho ta.”

Kỳ quái là trong phòng bỗng nhiên yên tĩnh lại, không hề phát ra âm thanh nào.

Mọi người lại khẩn trương đến mức không dám thở mạnh.

Tiểu Bạch Nhạn trong phòng cuối cùng cũng hưởng ứng, hỏi “Cao Ngạn? Cao Ngạn nào? Ta không biết ngươi. Mau lăn đi cho ta.”

Mọi người nghe xong đưa mắt nhìn nhau. Tiểu Bạch Nhạn chẳng phải đến Biên Hoang tập là vì Cao Ngạn sao? Cao Ngạn thường ba hoa là cùng với Tiểu Bạch Nhạn thề non hẹn biển, biển cạn đá mòn, chung thuỷ không thay đổi thế nào đó. Rốt cuộc là chuyện gì?

Đầu tiên, Cao Ngạn ngẩn người ngơ ngác, rồi hồi phục thần khí, phát huy bản lĩnh ba tấc lưỡi của gã, hắng giọng cho cổ họng thông suốt rồi ngang nhiên nói: “Nhã nhi nói hay lắm! Rốt cuộc là ai là Cao Ngạn đây? Đương nhiên là tên Cao Ngạn đã từng cùng nàng vào sinh ra tử, dù đến cùng trời cuối đất vẫn luôn yêu nàng đây. Đến đây! Mau ngoan ngoãn mở cửa cho ta. Rất nhiều người đang ….. Hắc! không có gì.”


Mọi người thiếu chút nữa thì không nhịn được phải cười đến vỡ cả khoang thuyền. Đương nhiên đều khổ sở nhịn lại, không ai dám phát xuất một chút tiếng động. Câu mà Cao Ngạn nói chưa hết đó, chắc là kiểu như ‘Rất nhiều người đang nhìn đó! Việc này lão tử không thể mất mặt được’.

Tiểu Bạch Nhạn “ặc” một tiếng, phì cười, rồi lại giả vờ không để ý hỏi: “Có tên Cao Ngạn như thế sao? Nhân gia không nhớ ra được.”

Mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, biết ‘hai đứa trẻ’ này đang đùa giỡn làm vui.

Cao Ngạn hồi phục vẻ bình thường, cười rộ nói: “Nhớ ra hay không nhớ ra tuyệt không quan trọng. Cao Ngạn ta sẽ cùng Nhã nhi ôn lại giấc mộng xưa, ví dụ như xoa xoa cái bụng nhỏ nhắn xinh đẹp cho Nhã nhi chẳng hạn. Hà! Mau vì chồng mở cửa.”

Tiểu Bạch Nhạn thấp giọng mắng một câu. Vì cách một cánh cửa dày nên dù Cao Ngạn đứng gần nàng nhất cũng không nghe rõ nàng mắng gì. Xem ra nếu không phải là câu chửi người thường thấy như ‘tử sắc quỷ’, ‘xú tiểu tử’ thì cũng là ‘ngu ngốc’ gì đó.

Cao Ngạn không còn nhẫn nại được nữa, hét: “Mau mở cửa! Nếu không ta sẽ vận khởi thần công chấn cho then cửa gãy đoạn, sấn vào tân phòng đó.”

Tiểu Bạch Nhạn cười sặc sụa, hổn hển nói: “Tên tiểu tử chết bầm, tên xú tiểu tử nhà ngươi, ngươi thì có bao nhiêu cân lượng? Bằng công phu của ngươi, dù có luyện mười kiếp nữa cũng không chấn gãy được cái then cửa bằng sắt này. Hơn nữa then cửa đâu có cài. Muốn bị đánh đòn thì cứ thế mà lăn vào đây! Ngươi cho rằng ta vẫn chưa biết ngươi và bọn Hoang nhân của ngươi thông đồng với nhau lừa dối ta sao? Lần này ta đến là để tìm ngươi trút giận đó. Có đảm lược thì tiến vào đi!”

Cao Ngạn không hề do dự mở cửa tiến vào.


Yến Phi ngồi ở đầu thuyền, im lặng không nói.

Tống Bi Phong đang đứng ở đuôi thuyền chèo thuyền, nhìn bóng sau lưng chàng mà trong lòng bồi hồi cảm xúc, nhớ lại ngày đó khi Yến Phi lạc phách tại Kiến Khang thì cũng là lúc thế chính trị của Tạ gia đạt tới đỉnh cao. Tạ Huyền chém chết nhân vật thứ hai của Di Lặc giáo là Trúc Bất Quy, Tư Mã Đạo Tử vì Thạch Đầu Thành bị đoạt mất mà không dám ho he nửa tiếng.

Yến Phi ngây người nhìn dòng nước chảy mãi không ngừng, trong lòng nảy sinh cảm giác mọi sự đều trở thành tro tàn nguội lạnh. Chàng chưa từng nghĩ qua một vấn đề không thể giải quyết là có thể cùng với nữ nhân yêu dấu của mình ‘cùng nắm tay nhau’ nhưng lại không thể cùng trở thành ‘giai lão’ trong ‘dữ tử giai lão’***. Tất cả những nỗ lực, phấn đấu, tránh chết trước đây chừng như hoàn toàn mất hết ý nghĩa. Dù trong tương lai có thể cứu chủ tì Thiên Thiên từ ma chưởng của Mộ Dung Thuỳ ra thì đợi chờ họ ở phía trước chỉ là một giấc mộng đáng sợ. Tuổi thanh xuân mau chóng trôi qua, hai người không thể cùng nhau ‘chết già’. Đối với Kỷ Thiên Thiên mà nói, đó là một kết cục tuyệt vọng cho tới tận lúc chết. Đối với chàng mà nói, đó lại là một hình phạt mãi mãi không ngừng.



Theo như lời An Ngọc Tình thì tự vẫn cũng không thể giải quyết vấn đề của chàng. Kể cả khi tấm thâm huyết nhục bị huỷ diệt thì chàng vẫn tồn tại dưới hình thức dương thần, làm một cô hồn dã quỷ.

An Ngọc Tình nói rất đúng. Phương pháp giải quyết duy nhất là luyện thành chiêu thức tối hậu của “Chiến thần đồ lục” là “Phá toái hư không”. và phải đột phá cực hạn của nhân loại, tạo ra năng lượng mạnh đến mức có thể để cho chàng và Kỷ Thiên Thiên phá không mà đi, cùng Kỷ Thiên Thiên vượt qua tiên môn, đến bờ bên kia, làm một đôi thần tiên quyến thuộc ỏ một nơi thần kỳ trong truyền thuyết là Động thiên phúc địa.

Ài!



An Ngọc Tình thì sao? Chàng có thể nhẫn tâm chỉ giúp Kỷ Thiên Thiên mà bỏ qua vị hồng nhan tri kỷ làm chàng xúc động tơ lòng sao?

Muốn đạt được điều đó quả là còn quá xa vời. Với công phu hiện tại của chàng thì khoảng cách để đạt tới cảnh giới “Phá Toái Hư Không” còn rất xa. Hơn nữa còn có những vấn đề khó khăn khác nên càng không thể nói đến việc cùng với mỹ nhân phá không mà đi.

Nhưng chàng sẽ không thúc thủ đón nhận vận mệnh bị định sẵn với kết cục là cái chết. Chỉ cần có một tia hy vọng, chàng sẽ phấn đấu đến cùng, hoàn thành những việc mà gần như không thể.

Làm sao để đột phá ngục tù thế giới hiện thực này, làm giấc mộng trở thành tiên duyên, chàng thật không có đầu mối để bắt đầu. Làm sao để đột phá thêm một lần nữa đây?

Bỗng nhiên chàng nghĩ tới Tôn Ân.

Thanh âm Tống Bi Phong ở phía sau cất lên: “Đến rồi!”

Thuyền nhỏ giảm tốc độ, từ từ tiến vào bến thuyền của Tạ phủ ở hẻm Ô Y.


Bình!
Mọi người trợn mắt líu lưỡi, thấy Cao Ngạn từ trong phòng bắn văng ra, nặng nề đập vào bức tường hành lang rồi ngồi phệt xuống nền. Gã đau đớn đến nỗi cắn môi chảy máu, nhưng vẫn kịp ra hiệu ngăn không cho mọi người đến giúp. Tình cảnh này làm người ta không biết nên tức giận hay nên cười lớn đây.

Tiểu Bạch Nhạn Doãn Thanh Nhã từ trong phòng chửi lớn: “Tên tiểu tử chết bầm, tên xú tiểu tử nhà ngươi! Còn dám đến lừa bản cô nương ư? Ngươi cho ta là người dễ dàng bị khi phụ sao? Con bà ngươi! Hừ! Rõ ràng ngươi và bọn Hoang nhân là một lũ du thủ du thực, chuột rắn lẫn lộn. Các ngươi câu kết với nhau lừa gạt ta, hại ta đến mức không còn mặt mũi gì với sư phụ và Hác đại ca. Người ta còn phải giả vờ như không có chuyện gì, nhẫn nhịn chịu đựng, trong lòng chỉ hận không thể đem ngươi ra rút gân lột da. Cái gì là ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’? Hoạ có quỷ mới nói chuyện yêu đương với ngươi. ‘Cộng độ xuân tiêu’ càng hỗn láo sai sự thật. Ngươi cho Tiểu Bạch Nhạn ta là hạng người gì? Trong lòng ta thật không biết đau khổ đến thế nào mà nói. May là tên tiểu tử ngươi biết giả vờ chết, làm ta tìm ra được lý do thoát thân đến Biên Hoang tìm ngươi tính sổ. Một cước vừa rồi là còn nhẹ đấy. Mau lăn đi càng xa càng tốt cho bản cô nương. Sau này ta không muốn nhìn bộ mặt giả dối xấu xí của ngươi nữa.”


Cao Ngạn nghe thấy Doãn Thanh Nhã càng nói càng nhanh, càng tức giận, nhưng mỗi lời đều thánh thót như trân châu rơi xuống đĩa ngọc vậy. Giọng oanh vàng của nàng liên thanh bất tuyệt, mắng người mà người bị mắng lại thấy êm tai. Gã miễn cưỡng hồi phục khí lực, trước tiên liếc Trác Cuồng Sinh một cái, ra vẻ ‘lần này ngươi đã hại chết ta rồi’, sau đó, gã rên rỉ: “Ài! Không lạ sao Nhã nhi lại hiểu nhầm. Sự tình là thế này…”

Duẫn Thanh Nhã quát: “Câm cái mồm thối của ngươi lại. Ta không muốn nghe những lời hoa ngôn xảo ngữ của ngươi nữa. Ngươi đem những chuyện căn bản không phải là sự thật đó truyền khắp hang cùng ngõ hẻm. Sau này, ta làm sao có thể đi lấy chồng được nữa?”

Cao Ngạn ôm bụng, khó nhọc đứng lên. Mọi người đoán Tiểu Bạch Nhạn đã tặng cho gã một cước vào bụng. Gã loạng choạng mấy cái rồi tạm thời đứng yên lại, hổn hển nói: “Nhã nhi không cần lo lắng về chuyện đó. Nàng nhất định sẽ xuất giá lấy chồng được mà. Ta đã chuẩn bị sẵn kiệu hoa đại hồng để đến đón nàng về nhà thành thân rồi.”

Nghe xong câu này, ai nấy đều lộ thần sắc cho rằng Cao Ngạn sẽ lập tức mất mạng. Trong khi Doãn Thanh Nhã đang khí tức dâng đầy ngực như thế này mà gã vẫn nói ra những lời sàm sỡ chiếm hết tiện nghi của cô nương nhà người ta như thế mà không bị đánh chết mới là lạ!

Không ngờ ngoài dự đoán của mọi người, Tiểu Bạch Nhạn tuyệt không hề tức giận đến phát điên, như hổ cái xông ra động thủ đánh gã. Nàng lại còn yêu kiều cười phì một tiếng, thản nhiên nói: “Tiểu Bạch Nhạn ta gả cho ngươi ư? Ngươi bị điên thật rồi! Ngươi còn muốn ta nói bao nhiêu lần nữa đây? Ta tuyệt không thích ngươi. Ngươi nên tự lấy gương mà soi một lần sẽ từ bỏ ý muốn bản cô nương phụng bồi.”

Cao Ngạn cuối cùng cũng đứng vững lại được, nhưng vẫn không dám đến gần cửa phòng. Gã hồi phục thần thái bình thường, nhăn nhó cười nói: “Nhã nhi nghĩ thế nào tuyệt không quan trọng, quan trọng nhất là lão thiên gia nghĩ gì. Chúng ta chính là đã được chú định từ kiếp trước đến kiếp này sẽ trở thành chồng vợ. Không phải là ta nói lung tung đâu. Chỉ cần Nhã nhi tĩnh tâm suy nghĩ, tại sao Tiểu Bạch Nhạn Doãn Thanh Nhã lại cùng với oan gia là Cao Ngạn tán tỉnh, cười đùa mắng chửi ở đây? Vậy nàng sẽ biết trong cõi bên kia thật sự đã có an bài……….A!”

Mọi người nghe xong đều ngao ngán lắc đầu. Bản lĩnh chăn gái của Cao Ngạn khẳng định là vào loại hạ lưu nhất. Quả nhiên Cao Ngạn nói chưa hết đã vội vàng né sang ngang.

Bình!

Quyền phong đập vào vách tường bằng gỗ phát ra tiếng động chói tai.

Nếu như bị quyền kình này đánh trúng thì đảm bảo Cao tiểu tử sẽ mất khả năng nói chuyện trong vài ngày.

Cao Ngạn hướng về phía Trác Cuồng Sinh làm điệu bộ sẽ xé xác lão ra để báo hận, rồi gã cố gắng xoay người một cái thật tiêu sái, dùng tư thế mà gã tự cho rằng đẹp đẽ nhất đi đến trước cửa phòng, cười bồi nói: “Nhã nhi tức giận, gọi là ‘thiên lý nhân duyên nhất tuyến khiên’****.Nói sao thì Nhã nhi đã trở về rồi, quá khứ thì cứ để cho nó qua đi! Để chúng ta tiếp tục tiền duyên, nắm tay nhau vui chơi thưởng ngoạn ở Biên Hoang tập. Ta đảm bảo sẽ làm Nhã nhi nàng cao hứng vô cùng, đến mức cảm thấy có được người chồng như thế này chẳng còn mong gì nữa.”

Mọi người nhắm tịt mắt lại, thà rằng không nhìn còn hơn, để khỏi phải thấy tình trạng của Cao Ngạn bị đòn thê thảm.

Lần này lại cũng khác hẳn với dự đoán của mọi người. Tiểu Bạch Nhạn không hề phát tác, ngược lại còn cười ngặt nghẽo “Ai muốn đi với ngươi? Ta đến Biên Hoang tập vui chơi cho đỡ buồn là việc của Tiểu Bạch Nhạn ta. Nếu ngươi dám bám theo như âm hồn bất tán thì ta sẽ chặt đôi chân chó của ngươi xuống, xem ngươi làm sao theo ta được nữa?”

Cao Ngạn thấy Doãn Thanh Nhã không xuất thủ nữa, lập tức tinh thần phấn chấn, khoa bước tiến vào phòng cười nói: “Nàng còn phải chặt cả tay của ta mới được. Nếu không, dù chỉ còn tay thì ta cũng sẽ vẫn bò theo sau nàng. Hà! Cười đùa đủ rồi đó! Để chúng ta ngồi xuống, cùng kể cho nhau nghe những tình cảm nhớ nhung khi xa cách. Chúng ta ……A! Mẹ ta ơi!”


Lần này thì tình hình hoàn toàn đúng như mọi người dự đoán. Cao Ngạn chạy trối chết ra khỏi phòng, phóng thẳng về phía bọn họ.

Trác Cuồng Sinh đưa tay ra giữ gã lại.

Bóng người nhoáng lên. Tiểu Bạch Nhạn hiện thân bên ngoài cửa, nhìn thấy mười mấy cặp mắt đang trừng trừng nhìn cả vào mình. Nàng ngẩn người ra một lát, rồi vẻ tức giận trên khuôn mặt bị nét sượng sùng thay thế. Tiếp đó, nàng yêu kiều cười phì một tiếng, khuôn mặt rạng rỡ như hoa nở. Nhìn thấy, cả đến lão giang hồ như Trình Thương Cổ cũng thấy hoa mắt mê man. Nàng lại gằn giọng nói: “Tên tiểu tử chết bầm nhà ngươi thật vô dụng, lại kéo bằng này người đến giúp.”

Nói xong liền trở lại phòng. “Rầm” một tiếng đóng sập cửa lại, còn chốt cả then cửa nữa.

Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn bốn mắt nhìn nhau, nhất thời không biết làm thế nào thì tốt. Những người khác đều đứng ngẩn người ra.

Bỗng nhiên, từ phía đầu thuyền truyền lại một tràng cười dài. Có tiếng người quát lớn: “Lão tử là Hướng Vũ Điền đến để đốt thuyền đây! Biết điều thì mau nhảy hết xuống nước cho ta.”

Mọi người vô cùng ngạc nhiên.

Chú thích

* Cửu lưu chiêu số: Nghĩa là tất cả các loại chiêu số có thể. Cửu lưu là chỉ các học phái (nghề) thời cổ gồm nho, đạo, âm dương, pháp, danh, mặc, tung hoành, tạp và nông. Nếu thêm tiểu thuyết gia nữa thì thành thập gia. Trong truyện Tàu vẫn hay nói về một người uyên bác là “trên thông Tam giáo, dưới tường cửu lưu” nghĩa là như vậy.

** Hoàng đế bất cấp, cấp sát thái giám. Nghĩa là là Hoàng đế không vội, mà thái giám lại vội vàng. Ở đây ý nói Cao Ngạn thì không gõ cửa mà họ lại khẩn trương hơn gã.

*** Ý nói vợ chồng cùng nhau bạc đầu.

**** Thiên lý nhân duyên nhất tuyến khiên: Có duyên thì dù ngoài ngàn dặm cũng gặp được.

H

ế

t ch

ươ

ng 409


~*~*~*~*~*~*~*~*~



N

ế

u phát hi

n sai sót xin b

n đ

c vui lòng đ

ế

n s

i

v

Biên Hoang

này đ

báo l

i. Cám

ơ

n nhi

u

.



----- Bài viết này được gatre thêm vào sau 13 phút và 31 giây -----



Ch

ươ

ng 410

-

D

Đ

ch Chu Toàn



Cùng Đ

ch Giao Du


~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*


Khoái Ân đã đến Mã Hành. Thanh Khê Tiểu Trúc chỉ còn lại hai người Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam. Nói chơi vài câu, bất chợt hai người lại nói về chuyện gặp phục kích tối qua.

Đồ Phụng Tam băn khoăn: “Lúc đó, Lư Tuần hành động một mình hay là còn có đồng bọn nhỉ?”

Lưu Dụ trầm ngâm: “Ta từng nghĩ về chuyện phát sinh tối qua. Rất nhiều khả năng là không chỉ một mình Lư Tuần vì để thao túng con thuyền chứa đầy hoả khí, lại để tập kích bọn ta thì nếu chỉ bằng vào một mình hắn không thể làm được.”

Đồ Phụng Tam gật đầu đáp: “Lư Tuần lúc đó chắc mai phục ở chỗ nào đó trên bờ, chờ lúc bọn ta hoảng loạn hoặc bị thương sẽ đánh một đòn chí mạng vào ngươi. Người trợ giúp hắn là người châm lửa cho hoả khí bộc phát, lại ở trong nước phát kình làm con thuyền hoả khí đó tăng tốc. Theo như tốc độ của thuyền hoả khí lúc đó thì người này rất nhiều khả năng là bản thân Trần công công. Chỉ có loại cao thủ như lão mới làm được thế.”

Lưu Dụ nói: “Chỉ cần bọn ta điều tra được trong thời gian đó Trần công công có ở trong Vương phủ hay không là có thể chứng thực được Trần công công là người của Lư Tuần.”

Đồ Phụng Tam cười khổ: “Vấn đề là bọn ta làm sao mà điều tra đây? Chẳng lẽ trực tiếp hỏi Tư Mã Nguyên Hiển?”

Lưu Dụ chán nàn gật đầu, đồng ý với nhận xét của Đồ Phụng Tam.

Đồ Phụng Tam tiếp lời: “Hơn nữa, với sự giảo hoạt của Trần công công thì tất lão sẽ có phương pháp ẩn giấu hành tung, có hỏi cũng không được kết quả gì. Ngoài ra, còn một vấn đề nữa là trong việc này Lý Thục Trang liệu có tham gia không? Nếu không, Lư Tuần làm sao có thể nắm được chính xác hành tung của bọn ta?”

Lưu Dụ nhíu mày “Khả năng này không nhiều! Lý Thục Trang đã có quan hệ với Can Quy, làm sao lại câu kết với Lư Tuần được?”

Đồ Phụng Tam cười đáp: “Thế sự khúc chiết ly kỳ, thường nằm ngoài dự liệu của người ta. Đến tận bây giờ, bọn ta vẫn chưa nắm được chi tiết về Lý Thục Trang, lại không biết lập trường và suy nghĩ của thị, càng không hiểu quan hệ chân chính của thị với Can Quy. Đối với thị, bọn ta tuyệt không thể lơ là.”

Lưu Dụ nhíu mày hỏi: “Thị vì cái gì mà nhiệt tình đối với ta như vậy?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Thị giúp Can Quy đối phó ngươi khả năng đúng như thị nói là đáp lại đạo nghĩa giang hồ với hắn. Nhưng nếu thị quả thực có phần tham gia vào việc tối qua thì đó là hành động sát nhân diệt khẩu, tránh khỏi bộc lộ bí mật về thân phận của thị vốn vẫn được che giấu vô cùng kín đáo. Nữ nhân này khẳng định là địch chứ không phải bạn.”

Lưu Dụ hỏi: “Đó là kết luận về thị! Hắc! Ngươi vẫn phải đi gặp Dương Toàn Kỳ à?”

Đồ Phụng Tam cười khổ: “Tiểu Ân nói đúng lắm, không cần phải mạo hiểm làm thế. Mục tiêu chủ yếu trước mắt của chúng ta là đánh bại Thiên Sư quân, ngoài ra tất cả các việc khác không cần chúng ta phải nhúng tay vào. Lực lượng của chúng ta cũng không cho phép làm thế.”

Lưu Dụ trầm ngâm một lát, hỏi “Ngươi có cảm thấy tiểu Phi tâm sự trùng trùng, miễn cưỡng cười nói không?”

Đồ Phụng Tam gật đầu tán đồng: “Yến Phi đúng là có chút bất thường. Có thể hắn lo lắng về sự uy hiếp của Bí tộc đối với Biên Hoang tập đó!”

Lưu Dụ than: “Đúng là con sóng này chưa yên con sóng khác đã tới. Cuộc đấu tranh với Mộ Dung Thuỳ vốn đã lộ ra ánh sáng ban mai khi tám vạn đại quân Mộ Dung Bảo toàn quân tiêu diệt. Ai tính được Mộ Dung Thuỳ còn có đòn này.”

Đồ Phụng Tam nói: “Mộ Dung Thuỳ có thể uy chấn phương Bắc, tung hoành bất bại thì đương nhiên là hắn có bản lĩnh. Lần này đối với Biên Hoang tập, hắn quyết ý phải lấy bằng được. Nếu như bị hắn huỷ diệt Biên Hoang tập thì bọn ta cũng xong đời. Thật làm người ta phiền não.”

Lưu Dụ nói: “Huynh đệ Hoang nhân của bọn ta tuyệt không dễ đối phó như vậy. Hơn nữa, cứ như tiểu Phi nói thì Biên Hoang tập lại có thêm mấy nhân tài kiệt xuất. Trong đó có một người là cháu của Vương Mãnh.”

Đồ Phụng Tam cười: “Bọn ta không cần phí công suy nghĩ nữa. Chỉ cần làm cho tốt những việc của mình. Đừng quên ngươi là chân mệnh thiên tử, sẽ không đi trên con đường cùng đâu.”

Lưu Dụ cười khổ để đáp lại.

Lúc này Tư Mã Nguyên Hiển đến. Chưa ngồi yên chỗ hắn đã hưng phấn nói: “Tạ Diễm đánh Ngô Quận rồi! Cứ theo tin báo về thì Thiên Sư quân ở Gia Hưng, hạ du Ngô Quận nghe tin đã hoảng hốt triệt thoái về Ngô Nghĩa. Hiện giờ con đường thông tới Cối Kê đã mở rộng thênh thang. Chỉ cần theo Vận Hà mà tiến thì trong mười ngày có thể trực tiếp tấn công Cối Kê.”

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Làm sao nhanh thế được? Chủ lực đại quân của Tạ Diễm vẫn còn chưa tổ chức xong bộ máy tấn công mà.”

Tư Mã Nguyên Hiển vui vẻ đáp: “Nhưng bộ đội tiên phong của Chu Tự đã vượt qua Thái Hồ, lên bờ ở mặt tây Ngô Quận. Bộ đội của Tạ Diễm lại tiến lui không có dấu vết, hình thành thế chia binh hai đường giáp kích Ngô Quận.”

Đồ Phụng Tam dửng dưng nói: “Từ Đạo Phúc đang dụng kế dụ địch vào sâu đó!”

Tâm tình Tư Mã Nguyên Hiển vẫn như trên mây, cười nói: “Lần này khẳng định Từ Đạo Phúc muốn làm tinh vi mà lại thành vụng về rồi. Cha ta đã phái người đi thông báo cho Tạ Diễm, cảnh cáo lão về gian kế của Từ Đạo Phúc dụ địch vào sâu rồi cắt đứt đường vận lương. Tạ Diễm lại chia binh đánh phá Ngô Nghĩa làm quân giặc không dám nhúc nhích. Đồng thời Ngô Quận và Gia Hưng do trọng binh ở lại để giữ để đảm bảo chắc chắn không để mất hai nơi này, làm đường vận lương thông suốt. Ba toà thành Vô Thích, Ngô Na và Gia Hưng hỗ ứng lẫn nhau. Quân viễn chinh của ta được sự chi viện hùng mạnh có thể một đòn là trực tiếp đâm kiếm vào thẳng trái tim Thiên Sư quân, thắng lợi đã có thể thấy.”

Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam đã sớm biết Tư Mã Đạo Tử sẽ không ngồi nhìn Tạ Diễm thê thảm trúng kế địch nhân nên tất nhiên sẽ cảnh cáo Tạ Diễm.

Tư Mã Nguyên Hiển lại hỏi: “Đây có phải là tin tốt không?”

Đồ Phụng Tam cười đáp: “Từ Đạo Phúc tuyệt không phải là ngọn đèn hết dầu. Chỉ cần y có thể thủ vững hai thành Nghĩa Hưng và Ngô Nghĩa, lại bí mật giấu chiến thuyền ở Thái Hồ tuỳ lúc có thể thực hiện phản kích. Đến lúc đó thì quân viễn chinh binh lực phân tán, chiến tuyến lại quá dài, tình thế tuyệt không lạc quan như bề ngoài đâu.”

Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Cha ta và ta đã nghiên cứu qua tình huống đó. May là đội chiến thuyền của Lưu Lao Chi đã đi trước một bước theo đường biển đến Cối Kê kiềm chế Từ Đạo Phúc. Khi đại quân của Tạ Diễm đến nơi, có thể hai quân hội sư đánh phá Cối Kê. Sau đó dùng Cối Kê làm căn cứ địa tiền tuyến, thu lại các thành trì xung quanh. Chỉ cần cắt đứt sự liên công Nam - Bắc của quân giặc thì Nghĩa Hưng và Ngô Quận sẽ sớm rơi vào tay chúng ta. Khi đó thì đại thế quân giặc sẽ mất hết.”

Lưu Dụ đang định nói thì Đồ Phụng Tam phát xuất một đạo chỉ phong khẽ chích vào đầu gối gã, tỏ ý gã không nên nói. Đồ Phụng Tam lại thay đổi đề tài: “Yến Phi đến rồi!”

Tư Mã Nguyên Hiển vô cùng vui mừng hỏi: “Yến Phi? Hắn ở đâu?”

Trong lòng Lưu Dụ ngầm than. Thật ra tâm tình gã cực mâu thuẫn. Vừa hy vọng quân viễn chinh xuất sư bất lợi, làm bản thân có cơ hội ra chiến trường, nhưng gã cũng không nỡ thấy em trai của Huyền soái là Tạ Diễm thảm bại thu quân.

Gã đương nhiên hiểu rõ ý tứ Đồ Phụng Tam, chính là không cho mình đề tỉnh Tư Mã Nguyên Hiển, làm cha con chúng lại đề tỉnh Tạ Diễm. Nói như thế là vì một ngày quân viễn chinh chưa thất bại thì bọn họ không có cơ hội kiến công lập uy.

Đồ Phụng Tam đáp: “Yến Phi theo Tống đại ca đến Tạ gia trị bệnh cho Tạ Đạo Uẩn.”

Tư Mã Nguyên Hiển rõ ràng vô cùng sùng bái Yến Phi, vui mừng nói: “Tối nay ta phải thiết yến tẩy trần cho Yến Phi mới được. Đến chỗ nào thì được đây? Hà! Đương nhiên là tầng năm Hoài Nguyệt lâu rồi! Việc này sẽ do ta an bài, ước định giờ Dậu tối nay gặp nhau ở đó được không?”

Nói xong, Tư Mã Nguyên Hiển vội vã bỏ đi.

Hai người đưa mắt nhìn nhau.

Đồ Phụng Tam cười nhẹ “Lưu gia thấy thế nào?”

Lưu Dụ than thở: “Bất cứ người nào tinh thông binh pháp cũng đều có thể nắm được sách lược trước mắt của quân viễn chinh. Việc này sớm đã nằm trong mưu kế của Từ Đạo Phúc. Vì thế, nói cho cùng thì quân viễn chinh đang từng bước tiến vào cạm bẫy của Từ Đạo Phúc.”

Đồ Phụng Tam nói: “Cứ theo bề ngoài mà xét thì quân viễn chinh đúng là có khả năng chiến thắng rất cao. Nhưng vấn đề ở chỗ ở Ngô Quận và Gia Hưng, người sinh sống ở đó và người khác tới rất khó phân biệt, nội bộ bất ổn. Chỉ cần Từ Đạo Phúc giấu kỳ binh ở gần đó, tuỳ lúc có thể tiến hành đại phản công thì quân viễn chinh không thể tiến hành kế hoạch như ý mình được, ưu thế sẽ mất hết.”

Lưu Dụ hỏi: “Bây giờ chúng ta có thể làm gì?”

Đồ Phụng Tam ung dung đáp: “Đã đến lúc chúng ta hành động rồi. Quân tình đệ nhất, giờ chúng ta đến Mã Hành, an bài nhân thủ đến thám thính địch tình ở một dải Ngô Quận, Gia Hưng, đặc biệt là khu vực duyên hải rộng lớn ở mặt đông Ngô Quận, kể cả những thành trấn hương thôn trong Hải Diêm. Nếu ta đoán không nhầm thì Từ Đạo Phúc tất giấu kỳ binh thuỷ sư ở đó để cắt đứt thuỷ lục giao thông của quân viễn chinh.”

Lưu Dụ gật đầu đồng ý.

Đồ Phụng Tam vui vẻ nói: “Cơ hội của chúng ta cuối cùng cũng đến rồi. Đợi khi Hoang nhân huynh đệ tới đây thì mục tiêu tấn công đầu tiên là Hải Diêm. Chỉ cần chúng ta có thể dùng kỳ binh đánh úp thành công thì có thể xây dựng nó trở thành căn cứ địa ở tiền tuyến. Khi Ngô Quận và Nghĩa Hưng rơi vào tay địch, quân viễn chinh thảm bại tại Cối Kê thì chúng ta có thể tiếp thu bại quân của Tạ Diễm, tính mưu phản công Thiên Sư quân. Không một ai ở phương Nam có thể cản trở chúng ta vươn lên được nữa.”


Trong nháy mắt, Trác Cuồng Sinh đã nắm được mấu chốt của thành bại. Do Trình Thương Cổ chưa biết Hướng Vũ Điền là người thế nào. Một người khác cũng biết là Cao tiểu tử thì lại đang điên đảo thần hồn vì Tiểu Bạch Nhạn. Vì thế trên thuyền chỉ có mình lão biết phải ứng phó thế nào với cục diện trước mắt.

Hướng Vũ Điền cố ý khiêu chiến ở đầu thuyền là có hai khả năng.

Một là y muốn khơi lên sự khủng hoảng trong đoàn khách, như thế thì y có thể thừa cơ nước đục thả câu, phát huy ưu thế của chiến thuật một mình địch lại số đông.

Hai là lúc này trời vẫn chưa sáng, chưa đến lúc dùng điểm tâm nên cả đoàn vẫn ngủ say trong phòng. Càng xảo diệu là đại bộ phận huynh đệ đều vì đến xem nhiệu náo giữa Cao Ngạn và Tiểu Bạch Nhạn nên tập trung vào trong thuyền, làm cả chiếc lâu thuyền chừng như không có phòng vệ làm tên điên khùng thông minh kia trong lòng nghi ngờ, sợ trúng kế của Hoang nhân nên mới làm thế để thăm dò thực hư.

Hướng Vũ Điền nói phóng hoả đốt thuyền chỉ là hư ngôn doạ người mà thôi. Nhưng với công phu của y thì quả có sức phá hoại rất lớn. Nếu như bị y nhân lúc hỗn loạn trong một trận thu thập Trình Thương Cổ và các huynh đệ, đuổi tất cả đoàn khách lên bờ, lại huỷ lâu thuyền đi thì không những chương trình Biên Hoang du lập tức kết thúc mà Hoang nhân càng mất hết thanh danh. Biên Hoang tập sẽ bị y đưa trở lại nguyên hình, là một địa phương nguy hiểm nhất thiên hạ. Người phương Nam còn ai dám đến làm ăn nữa?

Những suy nghĩ này thoáng qua trong bộ não siêu việt của Trác Cuồng Sinh như điện quang hoả thạch. Lão nhanh chóng phát xuất mệnh lệnh, đầu tiên là ổn định những thành viên trong đoàn bị đánh thức, không để bất kỳ ai rời phòng. Lão lại sai người đóng cửa khoang thuyền lại rồi cùng Trình Thương Cổ và Cao Ngạn lên vọng đài cao nhất đối mặt với địch nhân.

Đinh! Đinh! Đang! Đang!

Tiếng binh khí giao kích liên miên bất tuyệt. Chỉ thấy hình dáng đặc dị của Hướng Vũ Điền hiện rõ chân diện mục, tay cầm chiếc côn gỗ lựu mới làm, đánh cho bảy tám huynh đệ Hoang nhân binh khí văng khỏi tay, nghiêng đông vẹo tây không còn ra đội ngũ gì nữa.

Trác Cuồng Sinh thét lớn: “Các huynh đệ, lùi về phòng thủ cửa khoang thuyền.”

Mọi người sớm đã bị mộc côn của y đánh cho kêu khổ không ngớt, nghe thấy thế liền lập tức lùi lại, hội hợp với những huynh đệ từ trong khoang thuyền tiến ra lập thành trận thế.

Hoang nhân không còn là một đám ô hợp nữa. Những chiến sỹ Hoang nhân đã trang bị đầy đủ từ trong khoang tiến ra, tay phải cầm đao, tay trái cầm thuẫn, bày ra trận thức ngạch chiến. Lại có mấy người cầm cung nỏ làm cho Hướng Vũ Điền dù võ công cao hơn họ rất nhiều cũng không dám lỗ mãng truy kích.

Trình Thương Cổ chắp hai tay sau lưng. Bề ngoài ra vẻ phong phạm của một cao thủ nhất phái, thần thái ung dung. Thật ra, trong lòng lão lại ớn lạnh từng cơn. Những người bảo vệ thuyền này đều là những cao thủ được tuyển chọn trong những chiến sỹ Hoang nhân, người nào cũng có thể một địch mười. Vậy mà Hướng Vũ Điền đối phó với bảy, tám cao thủ này rất ung dung, chừng như không phí tổn một chút sức lực nào. Chỉ riêng việc này cũng đã đủ thấy sự đáng sợ của Hướng Vũ Điền.

Hướng Vũ Điền đưa mắt nhìn về phía Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn, lộ vẻ nhận ra hai người này là ai, song mục thoáng qua thần sắc kinh nghi.

Trác Cuồng Sinh trong lòng chợt động, biết y đang cảm thấy mù mờ tại sao lão và Cao Ngạn lại xuất hiện ở đây, lập tức trong lòng nảy ra diệu kế. Lão cười dài: “Hướng huynh cuối cùng cũng đến rồi! Trác mỗ chờ đợi đã lâu. Chắc Hướng huynh đang cảm thấy kỳ quái tại sao bọn ta lại biết rõ hành tung của Hướng huynh như trong lòng bàn tay, nhưng chờ đến khi bọn ta bắt sống Hướng huynh rồi sẽ thành thực cho biết. Đảm bảo Hướng huynh nghe xong sẽ tự than là không may mắn.”

Cao Ngạn trong lòng kêu tuyệt, lại nghĩ chắc Tiểu Bạch Nhạn đang lắng nghe động tĩnh ở đây, cảm thấy không thể không lộ ra chút hào khí anh hùng. Gã cười rộ: “Hướng huynh tuy là đệ nhất cao thủ của Bí tộc, nhưng để giết Cao Ngạn ta thì đạo hạnh vẫn còn kém lắm. Lần trước ở Trấn Hoang cương đã bị lão tử đánh cho phải tháo chạy, đến Biên Hoang tập lại bị bọn ta chặn đánh phải cong đuôi bỏ trốn. Lần này mau nhảy xuống sông mượn nước trốn đi, nếu không, người Bí tộc mất hết mặt mũi vì ngươi mất!”

Lâu thuyền vẫn ngược dòng phá sóng tiến lên. Gió sông thổi tới làm y phục mọi người bay phần phật, càng tăng thêm sát khí hai bên đối trận.

Hướng Vũ Điền lộ vẻ hứng thú quái dị, như thể “ta chính là ông trời”, bật cười nói: “Cao Ngạn ngươi thích ăn to nói lớn, ta đương nhiên không có cách nào bịt cái mồm ngươi lại không cho ngươi nói nữa. Nhưng việc chọc giận ta đối với ngươi tuyệt không có gì tốt cả. Nếu như ta một lòng muốn giết một người nào đó thì dù thiên quân vạn mã cũng không ngăn cản Hướng Vũ Điền ta được. Được rồi! Các ngươi còn có cao thủ nào thì cứ ra hết cho ta, để ta xem xem liệu có đủ tư cách đối phó Hướng Vũ Điền ta không.”

Trình Thương Cổ ung dung nói: “Ngươi muốn biết bọn ta có bao nhiêu người ở đây để hầu hạ ngươi chẳng phải dễ lắm sao? Cứ lên đây đọ sức là biết.”

Lão là tay lão luyện giang hồ, nhanh chóng nắm bắt tình hình, cố tình nói ra những lời phối hợp với “kế không thành” của Trác Cuồng Sinh, hư là thực, thực là hư, nhằm gia tăng áp lực tâm lý đối với Hướng Vũ Điền.

Hướng Vũ Điền lắc đầu cười: “Được lắm! Để ta trước hết giết chết Cao tiểu tử, xem xem các ngươi còn có thủ đoạn gì.”

Nói xong, y đứng thẳng người lên, mộc côn điểm vào đầu thuyền đánh ‘cốp’ một cái, thân hình tà tà vọt lên vọng đài. Người chưa đến mà kình khí đã áp thẳng tới ba người.


Yến Phi buông tay Tạ Đạo Uẩn ra. Tạ Đạo Uẩn vẫn im lìm ngủ mê một lúc, rồi sắc mặt có chuyển biến tốt lên, cho thấy chân khí của Yến Phi đã phát sinh hiệu dụng, giảm mạnh thương thế của bà ta.

Nhìn bà làm Yến Phi nghĩ về mẹ ruột của mình. Cũng giống như Tạ Đạo Uẩn, hôn nhân của bà không được như ý, cả đời u sầu rầu rĩ không vui.

Chàng lại nhớ tới những lời của Kỷ Thiên Thiên, Phong Nương không những biết mẹ chàng mà còn đã gặp chàng khi còn nhỏ. Nhưng chàng không hề có một ấn tượng gì. Tại sao trong tộc lại không hề đề cập tới một người tỷ muội hiển hách như thế của mẹ chàng? Mẹ làm sao lại biến thành bằng hữu với Phong Nương?

Yến Phi cũng nghĩ tới một vấn đề mẹ làm sao lại học hiểu được ngôn ngữ Bí tộc? Bí tộc luôn bài xích người ngoài. Trừ khi trở thành một phần tử của Bí tộc, nếu không, làm sao hiểu được ngôn ngữ của họ?

Chẳng lẽ mẹ lại có quan hệ gì đó với Bí tộc?

Ngày Mặc Sĩ Minh Dao đến Trường An để cứu cha, làm sao nàng ta tạo được quan hệ với Mộ Dung Thuỳ?

Yến Phi ngấm ngầm nghĩ tới việc này có thể có liên quan với Phong Nương mới có thể giải thích tại sao Phong Nương vốn luôn không rời chủ tì Thiên Thiên lại rời khỏi bọn họ một thời gian. Rất nhiều khả năng là vì bà ta có quan hệ gì đó với Bí tộc nên Mộ Dung Thuỳ nhờ bà ta đi du thuyết Bí tộc xuất mã trợ trận.

Nếu như đúng là như thế thì giao tình giữa mẹ chàng và Phong Nương đương nhiên có liên quan với Bí tộc, hơn nữa….. Ài! Hơn nữa có thể là có liên quan đến cha ruột của mình.

Đối với người nào đó là cha mình, Yến Phi không những không có cảm tình, mà còn oán hận sâu sắc. Chàng oán ông ta đã bỏ rơi người mẹ đáng thương của chàng, hận ông ta vô tình vô nghĩa, không hề có trách nhiệm đối với mẹ con chàng.

Những chuyện đã qua trong quá khứ, chàng thật không muốn nghĩ tới nữa.

Tống Bi Phong đặt tay lên vai chàng, tỏ ý giục chàng rời đi. Tạ Phinh Đình thay Tạ Đạo Uẩn nhìn Yến Phi lộ vẻ cảm kích. Bọn con cháu Tạ gia như Tạ Hỗn, Tạ Chung Tú đều lộ thần sắc nhẹ nhõm.

Ai cũng thấy rõ Tạ Đạo Uẩn đã có biến chuyển lớn.

Yến Phi chầm chậm đứng lên, theo Tống Bi Phong dẫn đường đi ra phòng ngoài.

Tạ Hỗn không chờ được, vội vàng hỏi: “Tình hình cô mẫu thế nào?”

Hắn tỏ vẻ rất lễ độ đối với Yến Phi.

Yến Phi đứng lại, bình tĩnh đáp: “Kinh mạch của Vương phu nhân bị Tôn Ân dùng nhiệt khí đánh bị thương. Nhưng Tôn Ân đã hạ thủ lưu tình, nếu không Vương phu nhân tất không thể may mắn như thế.”

Tạ Phính Đình nhíu mày hỏi: “Tôn Ân vì sao lại làm thế?”
Yến Phi cười khổ: “Lão mượn Vương phu nhân để hạ chiến thư với ta, bức bách ta phải ứng chiến. Việc này do ta gây ra, ta sẽ ra mặt thay cho mọi người.”

Tạ Hỗn ngạc nhiên: “Không ngờ lại có liên quan đến Yến huynh, thật làm người ta không tưởng nổi.”

Tống Bi Phong nghe Tạ Hỗn nói vậy cảm thấy tức giận, trầm giọng: “Nếu như Tôn Ân không có ý với tiểu Phi thì đại tiểu thư khẳng định không cách gì sống lại được. Đến cái mạng già của Tống Bi Phong ta cũng phải đi theo.”

Tạ Hỗn lập tức tắc họng.

Tạ Chung Tú hỏi: “Uẩn cô mẫu có hy vọng khỏi không?”

Yến Phi cười nhẹ: “Cái đó ta có thể nắm chắc. Vừa rồi ta đã khu trừ hết nhiệt độc trong thể nội phu nhân rồi. Sau hai ngày nữa, Vương phu nhân có thể phục nguyên. Sau đó điều dưỡng một thời gian là được.”

Mọi người Tạ gia ai cũng lộ vẻ vui mừng, không nghĩ Tạ Đạo Uẩn có thể khoẻ mạnh lại sau một thời gian ngắn như thế.

Trong lòng Yến Phi lại thầm than. Nghĩ lại ngày Tạ An, Tạ Huyền còn tại thế thì Tạ gia phong quang như thế. Bây giờ thì tình hình đó khó tái hiện lại. Chỉ còn một mình Tạ Đạo Uẩn chống giữ đại cục, nếu muốn bằng bọn con cháu thế gia không biết nỗi khổ cực của nhân gian như Tạ Hỗn để chấn hưng gia nghiệp thì chỉ là nằm mơ giữa ban ngày mà thôi.

Chàng có thể làm gì?

Tôn Ân và chàng đã kết mối cừu oán không thể cởi bỏ được. Giữa bọn họ, chỉ một người có thể sống còn.



Kể cả Tôn Ân không đến tìm chàng thì chàng cũng sẽ đến gõ cửa nhà lão, cùng Tôn Ân thanh toán cho sạch sẽ thù cũ hận mới.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hiep#kiem