PHẦN 2: CÁC LOẠI HÌNH BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG (6)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 5: TRUYỀN HÌNH

I. KHÁI NIỆM

Truyền hình đã trở thành phương tiện truyền thông quen thuộc trong mỗi gia đình, hiện nay chiếc ti vi được sáng chế theo chiều hướng màn hình rộng ra, mỏng lại (LCD, LED) và loại màn hình nhỏ gọn [ví dụ xem truyền hình trên điện thoại di động). Sự tiện dụng theo hướng tích hợp truyền thông đa phương tiện đang làm truyền hình có những hướng phát triển mới. Việc phát sóng truyền hình qua vệ tinh làm không gian trái đất "thu nhỏ", hàng nghìn kênh truyền hình đan xen trong không gian xung quanh ta. Có nhiều quan niệm về truyền hình có cả nhìn nhận tích cực và tiêu cực nhưng vai trò của truyền hình trong xã hội thì khó có thể phủ nhận.

Vậy truyền hình là gì? Televison là từ ghép, trong tiếng La tinh: "Tele" có nghĩa là "xa" còn "vision" là "nhìn", như vậy sự kết hợp của nó cho thấy nghĩa: nhìn từ xa. Truyền hình ra đời đánh dấu mốc quan trọng khi mong muốn nhìn được "từ xa" của con người trở thành hiện thực.

Trên phương diện kỹ thuật thì truyền hình là quá trình biến đổi từ năng lượng ánh sáng thông qua ống kính máy thu hình thành năng lượng điện, nguồn tín hiệu điện tử được phát sóng truyền đến máy thu hình và lại biến đổi thành năng lượng ánh sáng tác động vào thị giác, người xem nhận được hình ảnh thông qua màn hình.

Về mặt nội dung, truyền hình là loại hình truyền thông và thông điệp được truyền trong không gian tích hợp cả hình ảnh và âm thanh tạo cho người xem cảm giác sống động của hiện thực cuộc sống.

II. LỊCH SỬ RA ĐỜI TRUYỀN HÌNH

1. Trên thế giới

Truyền hình là loại hình ra đời gắn liền với phát minh của các nhà khoa học, sự ra đời của chiếc tivi được kế thừa từ nhiều nghiên cứu trước đó. Hơn nữa, trong giai đoạn đầu tiên, các nhà khoa học của một số quốc gia đều nghiên cứu và thử nghiệm về truyền hình. Mỗi thế hệ tivi mới ra đời lại đánh dấu một bước phát triển của truyền hình, và những chiếc tivi cũ lại trở nên "lạc hậu". Sự phát triển mạnh mẽ của các loại thiết bị truyền hình góp phần hoàn thiện hệ thống truyền hình trên toàn thế giới.

Cho đến nay, khó có câu trả lời làm hài lòng mọi người, bởi vì giai đoạn đầu của truyền hình, mỗi quốc gia đều cho rằng mình có người "phát minh" ra truyền hình. Người Mỹ tin rằng đó là Jenkins hoặc Farnsworth. Người Nhật tin đó là Takayanagi. Ở Nga - Boris Rosing. Ở Pháp - Belin và Barthelemy. Ở Đông u - Von Mihaly. ở Đức - Karolus. Ở Anh có sự chọn lựa Campbell - Svvinton - là người đưa ra khái niệm và Baird là người thử nghiệm, tiến hành.

Truyền hình đã được nghĩ ra (phác thảo trên giấy} trong một thời gian và chờ đợi sự phát triển theo kịp của lĩnh vực điện tử. Và nó đã bắt kịp vào những năm 20 của thế kỷ XX với sự nhanh nhạy của tế bào quang điện và đèn điện tử, khi đó chức năng quét hình chưa thể thực hiện bằng điện tử.

Paul Nipkow đã phát minh ra một phương pháp quét hình cơ khí vào năm 1884. Phương pháp này dựa trên nền tảng cơ bản dùng một đĩa quay với đường xoáy trôn ốc, trên đó có các lỗ thủng. Mỗi vòng quay sẽ cho một frame hình. Đĩa Nipkow đã được những người chế tạo ti vi sử dụng làm nền tảng cho hệ thống truyền hình của họ.

Khái niệm quét hình đồng bộ hiển thị bằng điện tử được biết đến vào năm 1908 bởi Campbell Swinton. ông đã đưa ra hệ thống "Nhìn xa điện tử" như một đề xuất trong thư gửi Nature (1 8 /6 /1 9 0 8 ) và các bài giảng (1911 ) minh họa bằng sơ đồ mạch. Điều này gần như tương xứng sẽ dẫn đến sự phát triển của hệ thống điện tử vào năm 1920 và những điều thực hành thực tế những năm 1930.

Một số mốc phát minh:

Năm 1862: Abbe Giovani,nhà vật lý người Italia truyền những hình ảnh tĩnh qua khoảng cách dài bằng một hệ thống mà ông gọi là "Pantelegraph"(hệ thống điện báo toàn năng).

Năm 1873: Hai nhà khoa học Anh là May và Smith đã làm thí nghiệm với các phân tử Selen và ánh sáng mở ra hy vọng truyền hình ảnh bằng tín hiệu điện tử.

Năm 1884: Paul Gottlieb Nipkow đưa ra phát minh về hệ thống tivi cơ điện tử đầu tiên. Thiết kế đĩa quay của Nipkow được xem là đã chuyển đổi hình ảnh thành các điểm chấm với 18 đường phân giải.

Năm 1900: Tại hội chợ quốc tế Paris, lần đầu tiên, Constantin Perskyi đưa "khái niệm" television, ông tóm tắt lại công nghệ điện tử, đề cập tới thành quả của Nipkow và các đồng sự.

Năm 1906: Boris Rosing đã kết hợp đĩa quay của Nipkow trước đó và đèn chân không để xây dựng hệ thống tivi cơ điện tử đầu tiên.

Năm 1911: Boris Rosing và Vladimir Kosma Zworykin thành công trong việc tạo ra hệ thống tivi sử dụng bộ phận gương để phát hình nhưng hình ảnh qua dây tới ống điện tử Braun (ống Cathode) còn rất "thô".

Năm 1924: John Logie Baird là người đầu tiên truyền được bóng ảnh động dựa trên ứng dụng từ hệ thống cơ điện tử cơ bản của Nipkow trước đây.

Năm 1925: John Logie Baird truyền thành công hình ảnh thật đang chuyển động.

Năm 1926: Tại phòng thí nghiệm của mình, John Logie Baird cho ra mắt chiếc ti vi cơ điện tử đầu tiên, nó truyền được hình ảnh trong 2 phút, không có âm thanh.

Truyền hình Mỹ:

Chiếc tivi điện tử đầu tiên ở Mỹ được chế tạo thành công vào ngày 0 7 / 9 / 1 9 2 7 , hệ thống điện tử bên trong do Philo Taylor Farnsworth, một nhà phát minh người Mỹ mới 21 tuổi thiết kế. Farnsworth đã bắt đầu nghiên cứu một hệ thống có thể bắt được và phát đi những tín hiệu có hình ảnh động bằng dạng sóng như sóng radio. Trước Farnsworth đã có Boris Rosing, nhà khoa học người Nga phát kiến truyền hình ảnh theo kiểu như vậy nhưng phát minh của Farnsworth tiến bộ hơn ở chỗ ông sử dụng chùm electron đế quét hình ảnh, một nguyên bản sơ khai nhất của chiếc ti vi hiện đại ngày nay.

Lúc đó tập đoàn truyền thông lớn nhất nước Mỹ RCA đã mua bản quyền phát minh của Farnsworth và đầu tư cho dự án phát triển truyền hình tại Mỹ.

2. Ở Việt Nam

Truyền hình Việt Nam có lịch sử ra đời đặc biệt, khi đó đất nước đang còn chiến tranh. Năm 1966, Ban Tuyên huấn Trung ương đã giao nhiệm vụ cho Tổng cục thông tin và Đài Tiếng nói Việt Nam lên phương án xây dựng vô tuyến truyền hình. Đến ngày 04/01/1968 Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị đã ký quyết định thành lập "Xưởng phim vô tuyến truyền hình Việt Nam", trước mắt đẩy mạnh tuyên truyền ra nước ngoài về cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam thông qua các phim tài liệu gửi ra phát sóng truyền hình ở nước ngoài. Trụ sở đầu tiên của phim truyền hình phải ở nhờ xưởng phim đèn chiếu số 5 Thi Sách - Hà Nội. Thiết bị đầu tiên là 4 chiếc máy quay phim 16 ly đã cũ, và một số hộp phim từ hàng viện trợ của Hội hữu nghị Xô - Việt, trong đó có bàn dựng phim 16 ly. Khi đó, phim đi quay về phải tráng bằng tay, ngâm thuốc trong chậu rửa mặt. Phim 16 ly khi đó là hình ảnh đen trắng và không có tiếng động.

Cuối năm 1969, Nhà nước đã cấp cho Xưởng phim một khu đất tại Chùa Bộc để xây đài phát hình và trường quay, nhưng do khả năng hạn hẹp và thiếu thiết bị nên Xưởng phim không tiếp tục hoàn thành "sứ mệnh" làm truyền hình được.

Trong khi đó, năm 1967 ông Trần Lâm, khi đó là Tổng Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, nhân chuyến thăm Cu Ba đã ký kết với Viện Phát thanh và truyền hình Cu Ba để "mượn" sóng phát thanh đối ngoại và nhờ đào tạo cán bộ làm truyền hình. Tháng 6/1 9 68 , Đài truyền hình Việt Nam gửi 18 kỹ sư và kỹ thuật viên giỏi sang Cu Ba học tập. Khi đó, ở miền Nam, Mỹ đã cho xây dựng đài truyền hình và phát sóng ở một số khu vực. Cuối tháng 11 /1 9 6 9, đoàn cán bộ kỹ thuật học ở Cu Ba về nước với nhiều kiến thức về truyền hình và sơ đồ máy móc thiết bị truyền hình.

Đầu năm 1970, các cán bộ kỹ thuật của Đài Tiếng nói Việt Nam bắt tay vào tìm kiếm thiết bị và lắp ráp camera. Tháng 8/1970 , ở Cục Kỹ thuật phát thanh số 45 Bà Triệu, Hà Nội đã cho chạy thử hai máy ghi hình điện tử với tên gọi "NT.l" (Ngựa trời 1) và "NT.2" (Ngựa trời 2). Đây là những camera được lắp từ những linh kiện cũ rời rạc, trong đó hai ống đèn điện tử cũ phải liên hệ "kỳ công" xin từ Liên Xô về.

Theo đúng kế hoạch của Bộ biên tập, vào ngày 0 7 /9 /1 9 7 9 , nhân kỷ niệm 25 năm thành lập, Đài Tiếng nói Việt Nam thử nghiệm buổi phát hình đầu tiên. Lễ ra mắt được tổ chức tại phòng thu ca nhạc lớn nhất của Đài Tiếng nói Việt Nam tại 58 Quán Sứ, Hà Nội. Có hơn 30 khách mời trong đó có Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Hoàng Tùng, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Phan Anh cùng chuyên viên cao cấp của Hội đồng Chính phủ, ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa - Thông tin... Đúng 19 giờ, tất cả chủ và khách đều có mặt trong phòng thu lớn, được ngăn đôi bằng một tấm màn. Một bên là khách ngồi xem, một bên là camera "Ngựa trời" bắt hình các tiết mục và nối liền sang máy thu hình bằng dây cáp. Chương trình ra mắt có phát thanh viên Lan Hương đọc bản tin 15 phút, rồi đến chương trình ca nhạc kéo dài 1 giờ do các ca sĩ nổi tiếng biểu diễn.

Những người có mặt đầu tiên được xem truyền hình rất xúc động. Mọi người đều "dán" mắt vào hai màn hình: một cái thu sóng từ ăngten, một cái làm màn hình kiểm tra nối từ máy quay phim. Cả hai chiếc tivi này đều mượn tạm của sinh viên học ở Liên Xô mang về. Người xem có thể đối chiếu hình ảnh từ hai máy thu hình và hài lòng với kết quả của buổi phát truyền hình đầu tiên này. Chỉ một tuần sau Hội đồng Chính phủ đã quyết định giao cho Đài Tiếng nói Việt Nam nhiệm vụ làm truyền hình thí nghiệm và cấp cho 400 nghìn rúp để mua thiết bị ban đầu. Sau buổi thử nghiệm đó vào dịp đón năm mới Tân Hợi (1971), Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát sóng truyền hình, công suất máy phát sóng 400W phủ sóng khoảng 500 km. Ngày 27/1/1971 (30 tết m lịch) Truyền hình Việt Nam chính thức ra mắt nhân dân thủ đô.

Đến năm 1972, nhà nước cấp khu đất tại Giảng Võ để xây dựng trung tâm truyền hình mới, đến 19 76 thì công trình này mới hoàn thành.

Đến năm 1975, Đài Tiếng nói Việt Nam cử 1 đoàn cán bộ kỹ thuật thạo về truyền hình tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Hơn 100 cán bộ đã lên đường hướng về Sài Gòn, sẵn sàng tiếp nhận "sóng" truyền hình. Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, nên sau khi giải phóng Sài Gòn, ngày 01/5 /1975 đã phát chương trình truyền hình của cách mạng và đều đặn duy trì sóng truyền hình.

Từ 25/6/1976, Truyền hình Việt Nam thôi phát thử nghiệm chuyển sang phát sóng chính thức hàng ngày.

Tháng 8/1980, trạm Hoa Sen được Liên Xô giúp đỡ xây dựng, lần đầu tiên người dân Việt Nam được xem truyền hình 2 sự kiện quan trọng: Olympic Mát-xcơ-va 1980 và Phạm Tuân bay vào vũ trụ. Đến năm 1983, truyền hình Trung ương chính thức sử dụng video thay cho phim nhựa, máy quay lúc này chủ yếu dân dụng hệ VHS và bán chuyên dụng UMATIC. Từ 1985, ở Việt Nam đã có cơ sở lắp ráp được tivi màu do đó số lượng tivi tăng nhanh. Đến năm 1987, Đài Truyền hình Việt Nam được coi là một tờ báo hình trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Biên chế Đài Truyền hình Việt Nam vào năm 1987 là 660 người.

Đầu năm 1991, Đài truyền hình Việt Nam thuê vệ tinh để phủ sóng cả nước. Đến năm 2008, Việt Nam đã có vệ tinh VINASAT 1, năm 2013 VINASAT 2 phóng lên quỹ đạo, mở ra một giai đoạn mới về chinh phục không gian. Một số đài truyền hình địa phương đã thuê kênh vệ tinh phát sóng. Đài phát thanh truyền hình Tp. Hồ Chí Minh, Nghệ An, Thanh Hóa, Đồng Nai, Hậu Giang... đã phát sóng qua vệ tinh V1NASAT 1 từ đầu năm 2009.

III. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN HÌNH

1. Đa dạng thông tin

Ngày nay công chúng bỏ ra khoảng 2 - 3 tiếng mỗi ngày ngồi trước máy thu hình, điều này cho thấy nội dung các chương trình truyền hình ngày càng phong phú. Mỗi đài truyền hình tổ chức nhiều kênh thông tin khác nhau và hướng tới nhóm đối tượng khán giả và tìm cách tiếp cận tốt nhất.

Quá trình truyền thông trong xã hội hiện đại đang làm thay đổi cách làm truyền hình truyền thống, ngày nay có các kênh truyền hình tập hợp các video clip của công chúng và phát sóng. Các đoạn hình ảnh được thu thập khắp nơi do khán giả gửi đến làm phong phú thêm "điểm nhìn" về mọi góc độ của cuộc sống. Những thiết bị ghi hình ngày càng nhỏ gọn giúp cho việc tác nghiệp dễ dàng hơn. Thông tin nhanh trực tiếp về sự kiện luôn thu hút người xem.

2. Tăng tính tương tác

Ngày này, các chương trình truyền hình được thiết kế tăng tính tương tác với khán giả, đây là hình thức tiếp nhận những phản ứng trong giao tiếp từ phía người xem. Việc khán giả tham gia vào chương trình ngày càng phổ biến, có thể thông qua điện thoại, tin nhắn, email, webcam, blog... đã tạo nên hứng thú mới cho khán giả. Cùng với nó là hàng loạt các dịch vụ gia tăng phát triển như dịch vụ thông tin, dịch vụ quảng cáo và bán hàng qua truyền hình.

Việc chia sẻ thông tin ngay lập tức từ phía khán giả mở ra nhiều hướng phát triển cho truyền hình hiện đại. Nó mang đến cho người xem nhiều chủ đề "nóng", những quan điểm mới làm mọi người có thể tham gia.

Số lượng các kênh truyền hình giải trí ngày càng tăng: kênh phim truyện, âm nhạc, thời trang, mua sắm, du lịch...

IV. BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH

Truyền hình là phương tiện truyền thông truyền tải nhiều loại thông tin khác nhau: báo chí, khoa học giáo dục, điện ảnh, ca nhạc, giải trí, quảng cáo... Do đó khi nghiên cứu về truyền hình cần phân biệt các loại thông tin, mục đích và đối tượng truyền thông của các chương trình đó.

1. Thông tín báo chí trên truyền hình

Một đài truyền hình trở thành cơ quan báo chí khi có hoạt động sản xuất các sản phẩm báo chí và phát sóng định kỳ. Mỗi quốc gia có luật pháp quy định về việc thành lập đài truyền hình khác nhau. Như vậy, một đài truyền hình được thành lập với tư cách là cơ quan báo chí dựa trên những yếu tổ sau:

- Luật pháp công nhận

- Cơ sở vật chất, kỹ thuật

- Tài chính

- Nhân lực đảm bảo cho hoạt động sản xuất các sản phẩm báo chí phát sóng định kỳ. Nhân lực đảm bảo cho hoạt động nội dung của một đài truyền hình rất đa dạng, tùy vào quy mô sản xuất để phân bõ nhân lực vào các bộ phận:

+ Bộ phận về nội dung gồm những người có chuyên môn về

biên tập, đạo diễn, quay phim, dẫn chương trình...

+ Bộ phận kỹ thuật gồm những người được đào tạo về kỹ thuật máy quay, bàn dựng, âm thanh, ánh sáng, xe màu...

+ Bộ phận hỗ trợ gồm những người làm sân khấu, trang điểm... Nhân lực cho đài truyền hình cần tính chuyên nghiệp và khả năng phối hợp tốt trong quá trình sản xuất chương trình truyền hình.

2. Một số hình thức truyền tải thông tin trên báo chí truyền hình

2.1 Bản tin thời sự

Đây là chương trình quan trọng nhất của một đài truyền hình với tư cách là cơ quan báo chí. Nó hàm chứa những đặc điểm nổi bật:

- Thông tin thời sự được cập nhật liên tục: cung cấp cho người xem những tin tức mới nhất về sự kiện đang diễn ra, có khả năng đưa tin nhanh nhất bằng truyền hình trực tiếp. Các bản tin được sản xuất liên tục theo chu kì thời gian, có thể là 1 tiếng, 3 tiếng, 6 tiếng, 12 tiếng... Ví dụ: bản tin 6 giờ, 9 giờ, 12 giờ, 15 giờ. Chu kỳ bản tin càng ngắn thì tốc độ làm việc của ban biên tập và các ê kíp sản xuất càng cao. Đòi hỏi tính chuyên nghiệp trong sản xuất để tiết kiệm chi phí. Các phóng viên phải theo bám sự kiện và biết "nuôi" tin tức để cập nhật trong từng bản tin.

- Đảm bảo cơ cấu thông tin các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, thể thao... nhờ đó mà nhu cầu thông tin của nhiều đối tượng được khán giả đáp ứng.

- Đảm bảo thông tin các vùng miền: mỗi đài truyền hình đều xác định đối tượng khán giả trong một không gian địa lý, việc xây dựng kết cấu bản tin và đưa tin tức đều khắp các khu vực là cần thiết, nó đảm bảo sự công bằng trong tiếp nhận tin tức của công chúng.

2.2. Các chuyên mục

Ngoài bản tin thời sự, các chuyên mục là hình thức thông tin sâu về một lĩnh vực, ví dụ: chuyên mục kinh tế, thể thao, an toàn giao thông, sức khỏe... Chuyên mục được thiết kế tương đối ổn định về hình thức và định kỳ phát sóng. Nó được duy trì trong một thời gian nhất định, có thể một năm hoặc nhiều năm. Thời lượng phát sóng của mỗi chuyên mục phụ thuộc vào khung chương trình tổng thể, khả năng sản xuất, sức hấp dẫn với người xem...

2.3. Tạp chí truyền hình

Là hình thức thông tin đa chiều về một nhóm chủ đề hoặc một nhóm chủ đề. Nếu chuyên mục đi sâu vào một lĩnh vực (nội dung) thì tạp chí truyền hình lại hướng tới sự quan tâm của nhóm đối tượng tiếp nhận thông tin về một chủ đề nhất định. Ví dụ: Tạp chí Phụ nữ số 1 bàn về làm đẹp, số 2 về thời trang, số 3 về giá cả thị trường...

2.4. Phim tài liệu truyền hình

Là một thể loại tác phẩm truyền hình, phim tài liệu chứa đựng thông tin mang giá trị khảo cứu, khái quát những ý tưởng cảm nhận từ cuộc sống của người làm phim. Là loại tác phẩm có thời lượng dài (trên 30 phút), mỗi bộ phim mang thông điệp tương đối hoàn thiện và nó có thể phát sóng độc lập.

Nếu các tác phẩm tin tức, phóng sự luôn bám sát sự kiện được sản xuất và phát sóng ngay, nếu để "nguội" sẽ không còn giá trị, thì phim tài liệu lại "bền vững" hơn với thời gian. Nó có thể phát sóng nhiều lần trên truyền hình.

Giá trị khảo cứu của phim tài liệu truyền hình có thể nhận thấy trên phương diện ý nghĩa lịch sử của những sự kiện, nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội. Ví dụ, phim tài liệu về Giải phóng miền Nam, về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh... được phát lại vào những thời điểm khác nhau, nhưng mỗi lần xem là người ta lại nhận ra những giá trị mới từ những thước phim cũ.

2.5. Truyền hình trực tiếp

Truyền hình trực tiếp là cách đưa thông tin đồng thời với thời điểm sự kiện đang diễn ra. Đây là ưu thế của truyền hình trong việc thông tin hình ảnh nhanh nhất về một sự kiện công chúng đang quan tâm. Truyền hình trực tiếp phụ thuộc rất nhiều vào thiết bị kết nối, truyền dẫn dữ liệu về trung tâm phát sóng. Chi phí cho việc truyền hình trực tiếp còn cao. Tuy nhiên, khoa học kỹ thuật đang thay đổi, các thiết bị ngày càng nhỏ gọn và đơn giản, do đó việc thực hiện tin tức, phóng sự trực tiếp tại hiện trường sẽ không còn xa lạ với truyền hình hiện đại.

2.6. Cầu truyền hình

Là sự kết nối các điểm thông tin từ những khu vực khác nhau. Có thể thực hiện cầu truyền hình về một sự kiện đang được diễn ra tại nhiều nơi. Ví dụ, các hãng truyền hình lớn trên thế giới tổ chức cầu truyền hình tại nhiều địa điểm đón chào năm mới tại nhiều quốc gia. Truyền hình Việt Nam thường xuyên tổ chức cầu truyền hình Vì người nghèo vào cuối năm.

Chương trình thời sự cũng có thể tổ chức hình thức thông tin cầu truyền hình khi có nhiều trung tâm xử lí tin tức ở các khu vực.

Đặc điểm cầu truyền hình là liên kết thông tin từ nhiều địa điểm khác nhau nên đòi hỏi phải có kịch bản và người tổng đạo diễn để kết nối đảm bảo chương trình không bị gián đoạn và mắc lỗi. Cầu truyền hình có thể phát sóng trực tiếp hoặc thu băng phát sóng chậm.

2.7. Chương trình tổng hợp

Là dạng chương trình sáng tạo về mặt hình thức đưa thông tin, linh hoạt trong kết cấu nội dung chương trình. Hiện nay có nhiều chương trình khai thác tính tương tác với khán giả để thu hút người xem. Trong chương trình tổng hợp, những người sản xuất có thể kết hợp nhiều thể loại tác phẩm và nhiều hình thức thông tin khác nhau để tăng tính hấp dẫn của chương trình truyền hình. Cũng có thể kết hợp giữa các yếu tố thông tin, giải trí, nghệ thuật trong một chương trình dạng tổng hợp.

3. Tác phẩm báo chí truyền hình

Là cách gọi từng tác phẩm báo chí đơn lẻ được thực hiện bởi cá nhân hoặc nhóm tác giả. Tác phẩm báo chí truyền hình phải đảm bảo sự toàn diện về nội dung và hình thức, có chủ thể sáng tạo (tác giả). Ví dụ, tác phẩm phóng sự, ký sự, phim tài liệu...

Quá trình phát triển của báo chí truyền hình đã hình thành hệ thống thể loại, ả đó mối quan hệ giữa nội dung và hình thức tác phẩm đã trở thành nguyên tắc giúp nhà báo khi tác nghiệp. Khi làm tin tiêu chí nhanh, ngắn gọn, chính xác được đặt lên hàng đầu.

Tác phẩm báo chí truyền hình thường được sản xuất và phát sóng định kỳ trong các chương trình truyền hình. Mỗi loại chương trình có nhiều cách đưa thông tin, các tác phẩm đơn lẻ là một bộ phận kết cấu thành tổng thể nội dung thông tin.

4. Đặc điểm của tác phẩm báo chí truyền hình

Tác phẩm báo chí truyền hình mang những đặc điểm chung của tác phẩm báo chí, ngoài ra có thể chú ý tới một số đặc điểm:

- Tính xác thực của hình ảnh: hình ảnh của tác phẩm truyền hình luôn đặt tiêu chí "sự thật" lên hàng đầu. Mỗi cảnh quay, mỗi nhân vật, mỗi câu chuyện... đều có địa chỉ thật trong cuộc sống. Nếu phóng viên dàn dựng cảnh quay sai sự thật, bóp méo bản chất thì đó là vi phạm đạo đức nghề nghiệp người làm báo. Đây cũng là đặc điểm để phân biệt sự khác nhau giữa tác phẩm báo chí truyền hình và tác phẩm điện ảnh. Điện ảnh là lĩnh vực nghệ thuật, người ta có thể xây dựng hình tượng nhân vật, sáng tạo hình ảnh, cảnh quay theo ý chủ quan của đạo diễn để đạt hiệu quả nghệ thuật. Còn với tác phẩm báo chí truyền hình, hình ảnh thu được đều dựa trên chất liệu thật của sự kiện, mọi sáng tạo của tác phẩm đều phải tôn trọng sự thật.

Tuy nhiên với ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh trên truyền hình người ta cũng có nhiều cách để truyền đạt thông tin xác thực và hiệu quả. Chẳng hạn, việc sử dụng hình ảnh đồ họa giúp khán giả nhận được thông tin khái quát hơn về một sự kiện nào đó. Bên cạnh đó, nếu hình ảnh là thông tin cụ thể thì lời bình sẽ giải thích rõ hơn về hình ảnh đó, nó đảm bảo cho người xem hiểu rõ bản chất của sự kiện và những gì đang diễn ra trên màn hình.

- Tính logic của thông tin: mỗi cảnh quay của tin tức, phóng sự... trên truyền hình được ghi bằng giây. Như vậy, hình ảnh trên truyền hình không phải là tất cả sự kiện được ghi hình liên tục mà là sự ghép nối rất nhiều cảnh quay ở những thời điểm khác nhau. Do đó, mỗi tác phẩm báo chí trên truyền hình phải đảm bảo sự logic của thông tin. Để có sự logic của thông tin, tác phẩm báo chí được xây dựng trên nguyên tắc ngôn ngữ hình ảnh, về tiếng động, về lời bình... và sự hoàn thiện của tác phẩm dựa trên các tiêu chí thể loại.

- Đảm bảo các yếu tố kĩ thuật: tác phẩm báo chí truyền hình được sản xuất theo những tiêu chuẩn kỹ thuật, từ ghi hình, dựng hình, đến truyền dẫn phát sóng... do đó đòi hỏi các khâu phải tuân thủ kỹ thuật để tín hiệu hình ảnh đến người xem trung thực nhất.

5. Chương trình truyền hình

Là nội dung thông tin được tổ chức ổn định theo chu kỳ thời gian. Chương trình truyền hình là khái niệm mang tính tương đối có thể hiểu trên hai phương diện:

Chương trình tổng thể: là toàn bộ nội dung phát sóng của một đài truyền hình, một kênh truyền hình phát sóng trong một ngày, một tuần...

Chương trình bộ phận: là các chương trình riêng được sản xuất "tương đối" độc lập để đưa vô khung chương trình phát sóng chung của một đài truyền hình. Ví dụ,"chương trình thời sự', chương trình "Chào buổi sáng", chương trình "Gõ cửa ngày mới"...

Tính định kỳ của các chương trình truyền hình: để đảm bảo

cập nhật thông tin báo chí liên tục, các chương trình truyền hình được thiết kế và sản xuất phải đảm bảo tính định kỳ. Tính định kỳ đảm bảo dòng chảy thông tin thời sự của báo chí, cập nhật thường xuyên những vấn đề công chúng quan tâm. Tính định kỳ với truyền hình giúp khán giả định hình và ghi nhớ thời gian xem chương trình. Việc quảng cáo lịch phát sóng các chương trình truyền hình giúp người xem có cơ hội lựa chọn và chờ đón thông tin. Ngày nay, việc lựa chọn kênh và chương trình yêu thích đã thành thói quen khi người xem cầm vào chiếc điều khiển ti vi. Nhờ thiết bị kĩ thuật hiện đại, ngày nay khán giả lựa chọn và xem chương trình chủ động hơn.

V. TRUYỀN ĐẠT THÔNG TIN GIAO TIẾP TRÊN TRUYỀN HÌNH

1. Người dẫn chương trình truyền hình

Sự khác biệt giữa báo chí truyền hình và các thế loại báo chí khác chính là khả năng truyền đạt thông tin qua hình thức giao tiếp đặc biệt. Mỗi chương trình truyền hình đều xác định nhóm đối tượng khán giả chính và lựa chọn người dẫn chương trình cho phù hợp.

Người dẫn chương trình truyền hình là người xuất hiện trong chương trình với tư cách là chủ thể giao tiếp, dẫn dắt, kết nối và truyền đạt thông tin tới khán giả. Người dẫn phải làm chủ không gian, lựa chọn phong cách phù hợp. Gương mặt "ưa nhìn", chất giọng tốt, linh hoạt, có tri thức... là những tiêu chí đang được nhiều đài truyền hình tuyển chọn người dẫn.

Người dẫn trên truyền hình cần rèn luyện phong cách riêng và giữ phong cách "ổn định" trong giao tiếp với khán giả. Không nên một người dẫn xuất hiện trong nhiều loại chương trình khác nhau.

- Quá trình giao tiếp

Theo "Từ điển Tâm lý học" của Nguyễn Khắc Viện, giao tiếp là quá trình truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay một nhóm cho một người hay một nhóm khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau (tương tác). Thông tin hay thông điệp được nguồn phát mà người nhận phải giải mã, cả hai bên đều vận dụng một mã chung.

Theo "Tâm lý học đại cương" của Trần Thị Minh Đức (chủ biên), giao tiếp là quá trình giao tiếp giữa con người nhằm mục đích nhận thức, thông qua sự trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau. Căn cứ vào tính chất của quá trình giao tiếp, có thể phân loại thành các hình thức giao tiếp:

- Giao tiếp trực tiếp: Là sự trao đổi, tiếp xúc giữa các chủ thể giao tiếp, được thực hiện trong cùng một khoảng không gian và thời gian nhất định.

- Giao tiếp gián tiếp: Là giao tiếp được thực hiện qua các phương tiện trung gian như điện thoại, thư tín, sách báo, tivi... Ưu điểm của giao tiếp gián tiếp là tính nhanh chóng, thuận lợi hơn so với giao tiếp trực tiếp. Tuy vậy, nó có một số hạn chế như phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, kém sinh động, kém hiệu quả hơn. Trong loại giao tiếp này, hình thức giao tiếp phi ngôn ngữ không đóng vai trò quan trọng.

- Quan niệm về giao tiếp trên truyền hình

Giao tiếp trên truyền hình là dạng đặc biệt, nó hàm chứa cả yếu tố giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp.

Các yếu tố trực tiếp: nhìn thấy, nghe thấy, có thể phản ứng tức thời (cảm xúc vui, buồn, giận, cảm thông...)

Các yếu tố gián tiếp: khán giả tiếp nhận thông tin qua màn hình ở không gian rộng.

- Quá trình truyền đạt thông tin

Thông tin trên truyền hình được truyền đạt theo tuyến tính thời gian, người xem khó có thể nóng lòng xem lướt như báo viết. Do đó, những người làm chương trình cần quan tâm đến tâm lí khán giả, lựa chọn thời điểm phát sóng chương trình cho phù hợp. Ví dụ, Đài Truyền hình Việt Nam chọn "giờ vàng" 19 giờ để phát sóng chương trình thời sự. Đây là khoảng thời gian nhiều người có mặt ở nhà để xem truyền hình nhất. Việc phân loại thông tin theo các kênh và chọn thời điểm phát sóng chương trình phù hợp sẽ giúp người xem chủ động hơn trong tiếp nhận thông tin.

- Sự biểu cảm của thông điệp

Sự xuất hiện của người dẫn chương trình truyền hình là "đầu mối" đại diện cho chủ thể [những người làm chương trình) giao tiếp với công chúng. Cho dù quá trình này thiên về hướng truyền đạt một chiều. Mỗi chương trình, phong cách người dẫn phải phù hợp với nội dung và đối tượng tiếp nhận thông tin. Người dẫn tạo cho người xem cảm xúc vui, buồn, hứng khởi. Ngay cả những tác phẩm truyền hình khi không có mặt người dẫn thì mức độ biểu cảm của thông điệp qua hình ảnh cũng rất lớn. Những chương trình truyền hình trực tiếp "Nối vòng tay lớn" của VTV huy động hàng tỷ đồng giúp người nghèo là một ví dụ. Thông qua hình ảnh, sự cảm thông và chia sẻ luôn là cảm xúc thực của người xem.

- Tính tương tác trong quá trình giao tiếp

Sự tích hợp của các loại hình truyền thông trở thành truyền thông đa phương tiện, trong đó có truyền hình, đang làm cho khả năng tương tác của truyền hình phát triển. Truyền hình trên mạng Internet (iTV), dịch vụ mạng cáp băng thông rộng... đang làm cho cách giao tiếp truyền thống trên truyền hình có những thay đổi.

Tháng 12/1996 , hãng Web TV của Mỹ đã công bố dự án đầu tư hợp tác với Fujitsu (Nhật Bản) để cung cấp dịch vụ Internet TV đầu tiên vào thị trường Nhật Bản. Khán giả Nhật có thể xem được 200 kênh truyền hình qua dịch vụ cáp băng thông rộng và vệ tinh tại nhà hoặc thu phát số mặt đất.

Singapore và Trung Quốc cũng là những quốc gia đang đẩy mạnh phát triển các dịch vụ truyền hình mở ra một giai đoạn phát triển thế hệ truyền hình tương tác mới ở châu Á.

2. Đặc điểm giao tiếp trên truyền hình

Giao tiếp trên truyền hình là loại giao tiếp đặc biệt, vì nó "kết nối" giữa giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp. Các yếu tố của giao tiếp trực tiếp: Khán giả được nhìn thấy, được cảm nhận như mình tham gia vào sự kiện.

Giao tiếp trên truyền hình thông qua 2 tầng thông tin:

- Tầng thông tin thứ nhất chủ yếu là lời nói, nó có thể là lời nói của người dẫn, người trả lời phỏng vấn, người phát biểu trên truyền hình...

- Tầng thông tin thứ hai là các yếu tố biểu cảm như gương mặt, cảm xúc, cử chỉ, bối cảnh... điều này trên báo viết và phát thanh có rất ít.

Trong quá trình truyền tải thông điệp, hai tầng thông tin hỗ trợ nhau tạo hiệu quả tốt. Cũng có khi hai tầng thông tin trái ngược nhau làm cho người xem nhận được thông điệp trái ngược với lời nói.

Bối cảnh của truyền hình hỗ trợ cho thông điệp, do đó từ trường quay cho tới hiện trường của sự kiện luôn được cân nhắc để có thông tin tốt.

Chuẩn bị giao tiếp trên truyền hình: mỗi chương trình đều xác định cho mình đối tượng người xem, tùy vào tính chất thông tin và hình thức chuyển tải để lựa chọn một chuẩn giao tiếp với khán giả.

Chuẩn giao tiếp trên truyền hình được nhìn nhận trên một số yếu tố:

- Thứ nhất, người dẫn chương trình phải đáp ứng yêu cầu về hình thể, giọng nói, cách ứng xử trong quá trình dẫn chương trình và thái độ với công chúng; về hình thức, như trang phục phải đảm bảo chuẩn về văn hóa của mỗi dân tộc.

- Thứ hai, việc đưa thông tin hình ảnh trên truyền hình phải tôn trọng các tiêu chuẩn về văn hóa, tôn giáo... tránh những hình ảnh bạo lực, kích động hay những hình ảnh làm tổn thương tinh thần người xem.

3. Đặc điểm khán giả truyền hình

- Sự "đa dạng": Không gian phát sóng truyền hình rộng lớn tạo nên sự đa dạng khán giả, sự đa dạng này bao gồm: độ tuổi, dân tộc, giới tính, tôn giáo, sở thích, trình độ, quan điểm chính trị, ngành nghề, vùng miền... Đặc điểm này cho thấy nhu cầu xem truyền hình rất phong phú, việc xây dựng nội dung các chương trình cần có nghiên cứu khoa học về nhu cầu của khán giả trước khi thiết kế chương trình.

- Tâm lý "thường ngày": Đây là đặc điểm của khán giả khi tiếp nhận thông tin truyền hình vì truyền hình phát sóng 24 /2 4 giờ trong ngày với nhiều kênh truyền hình khác nhau. Điều này làm cho khán giả quá quen thuộc với truyền hình, tạo ra thói quen "hờ hững" vừa xem tivi vừa nói chuyện uống nước... do đó thông điệp trên truyền hình phải rõ ràng và hấp dẫn. Điều này khác với khán giả điện ảnh, một người mua vé vào rạp xem phim họ có tâm lý đón chờ từ trước và chuẩn bị chu đáo cho khi đến xem phim. Thường thì khi đã vào rạp họ sẽ xem hết cả bộ phim với sự tập trung thị giác cao.

Tâm lý lây lan: Một thông tin quan trọng nào đó được phát trên truyền hình thường được lan tỏa nhanh trong cộng đồng. Họ thường hỏi ngay người hàng xóm có xem không, nếu có xem thì cùng bình luận, trao đổi; nếu không xem thì sẽ mô tả lại thông tin. Việc lan tỏa nhanh thông tin trong cộng đồng thường tạo ra những phản ứng tức thời trong dư luận xã hội. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro