19. Bên những người sống

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vần thơ nào cho một trái tim tan vỡ

Không hướng về bất cứ trái tim nào khác

Không chút đặc quyền

Vì chính mình cũng đã chịu đớn đau

Emily DICKINSON

...


Buổi chiều hôm nhẹ nhàng buông.

Trong lúc chờ đợi đêm tối, mặt trời rót những tia nắng cuối cùng với độ chói chang giống như một thợ đốt pháo hoa trổ tài trình diễn. Khu rừng bắt lửa. Ngay trước mặt là những ngọn lửa rừng rực cuộn xoáy của những cây thích, tần bì và bạch dương, những ánh phản chiếu vàng rộm của đám thông rụng lá, ánh lửa của những cây đoạn. Rồi thứ nhựa rỉ màu nâu ánh vàng của đám sồi rừng, thứ máu đen kịt của đám cây muối và sồi đỏ châu Mỹ, ánh sáng đỏ thẫm của những cây lê đá. Xa hơn là bức tường thành màu xanh lục của đám thông nhô cao trên khối đá vô cơ và xù xì góc cạnh.

Tại Greenfield, Gabriel đã đổ đầy bình xăng, điều chỉnh mực dầu và tìm được một chiếc lốp sơ cua mới. Khi Alice tới ga ra gặp anh, cô thuật lại cho anh những thông tin mới mất từ Seymour về nguồn gốc của khẩu Glock và về chiếc Audi của cô, được tìm thấy trên cầu Archevêché. Theo bản năng, cô đã quyết định không kể với anh về vật thể lạ cấy ghép dưới da cô. Cô muốn chờ đến lúc tìm hiểu rõ hơn mới chia sẻ với anh về dữ liệu mới mẻ kỳ cục này.

Họ lại lên đường, nhưng đến Brattleboro thì một chiếc xe bồn chở đầy xăng bị lật ra giữa mặt đường. Xăng lênh láng khắp nơi, buộc lính cứu hỏa và cảnh sát đóng cửa đường cao tốc liên bang 91 và khoanh vùng an toàn để tránh nguy cơ xảy ra hỏa hoạn.

Buộc phải rời khỏi những tuyến đường lớn và đi vào những đường nhánh, chiếc Shelby đã giảm tốc độ đáng kể. Nếu lúc đầu, hai cảnh sát còn than vãn về trò đùa số phận này thì dần dần họ đã nhụt chí bởi khung cảnh tĩnh mịch của những nơi đi qua. Họ bắt sóng một đài truyền thanh địa phương phát hết hit này tới hit khác: American Pie của Don McLean; Just for Today của George Harrison; Heart of Gold của Neil Young... Họ thậm chí còn mua được của một nhà sản xuất địa phương rượu táo và bánh rán vị quế bán bên đường.

Suốt gần một giờ đồng hồ, họ tạm quên đi cuộc điều tra đang tiến hành.

Cảnh vật rất thú vị, điểm xuyết những lối mòn, những cây cầu có mái che, những điểm quan sát toàn cảnh và những dòng suối nhỏ chảy từ trên núi xuống. Địa hình vốn nhiều thung lũng nhưng đôi khi cũng bằng phảng suốt nhiều cây số. Vì thế mà lòng đường cũng bắt đầu mang dáng dấp của một con đường miền quê, dọc hai bên đường là những thị trấn nhỏ đẹp như tranh vẽ, những trang trại phi thời gian và những bãi chăn thả rộng thênh thang nơi đàn bò sữa gặm cỏ nối tiếp nhau.

Mất một hồi lâu, Alice để mình được ru ngủ trong tiếng xe chạy ro ro. Khung cảnh khiến cô nhớ lại những kỳ nghỉ tại Normandie khi còn trẻ. Thời gian như ngưng đọng. Mỗi lần băng qua một ngôi làng, họ lại có cảm giác quay trở lại một trăm năm trước. Như thể họ đang xem lướt qua một tấm bưu thiếp chụp phong cảnh vùng New England với những nhà kho nông nghiệp, các xưởng chế biến sữa có buồng áp mái và những tán lá đỏ rực.

* * *

Phép mầu đứt quãng khi Alice mở hộc đựng đồ để lấy lại bao súng của mình. Suốt những năm đầu mới vào nghề, cô vẫn giễu cợt các đồng nghiệp lớn tuổi hờn vì thấy họ thường mang theo súng ngay cả khi không làm nhiệm vụ. Nhưng theo thời gian, cô đã trở nên giống như họ: cô có nhu cầu cảm thấy sức nặng của khẩu súng tì vào ngực mình để có thể hoàn toàn tự tin, hoàn toàn ăn khóp với cơ thể cô.

Khẩu súng vẫn ở đó, đúng nơi cô đã để nó lại, bó chặt trong bao da, nhưng bên cạnh đó còn có một món đồ chơi của trẻ con: một chiếc xe kim loại với thùng xe màu trắng nổi bật nhờ các dải sơn màu xanh lơ. Bản sao chính xác của chiếc Mustang Shelby họ đang lái.

- Đây là cái gì vậy?

Gabriel liếc nhìn món đồ chơi.

- Một thứ hẳn đã khiến Kenny mê tít, tôi đoán chừng như thế.

- Ban nãy nó đâu có ở đây.

Gabriel nhún vai.

- Cô không nhìn thấy đó thôi.

- Tôi chắc chắn hộc đựng đồ trống không khi tôi để khẩu súng của mình vào đó, cồ dằn từng tiếng.

- Thì có quan trọng gì đâu? anh nổi cáu.

- Tôi cứ nghĩ chúng ta chia sẻ với nhau mọi chuyện.

Keyne thở dài.

- OK, chính anh họ Barbie đã đua cho tôi. Vả lại đó là một tay rất dễ mến. Anh ta sưu tầm đồ chơi của hãng Hot Wheels[1]. Anh ta có ít nhất là ba trăm mẫu xe. Thật điên rồ đúng không?

- Đúng thế, thật điên rồ..., cô nhắc lại, không rời mắt khỏi món đồ chơi.

Anh cao giọng để thể hiện sự phẫn nộ của bản thân.

- Sao nào? Tay đó đã muốn lấy lòng tôi bằng cách tặng cho tôi chiếc xe này. Tôi đã nhận để không làm cậu ta phật lòng, chấm hết. Đó chỉ là một cử chỉ lịch sự thông thường thôi mà. Có lẽ chúng ta đâu cần dành cả buổi tối để nói về chuyện này!

Alice nổi đóa.

- Đừng coi tôi như con ngốc nữa đi! Anh muốn tôi nuốt trôi câu chuyện anh đã ăn ý với gã nông dân đó tới mức gã tặng anh một chiếc xe mô hình trong bộ sưu tập của mình hả? Mà trên lớp bọc vẫn còn sờ sờ nhãn giá kia kìa!

Gabriel căng thẳng nhìn cô chằm chằm với vẻ cà khịa trước khi châm điếu thuốc giắt sẵn sau tai. Anh rít nhiều hơi khiến buồng lái nồng nặc mùi thuốc. Alice hạ cửa kinh xe vì thấy khó chịu với khói thuốc. Cô vẫn nhìn anh chàng đồng sự không rời mắt, dò xét đôi đồng tử đen thẫm của anh, nét mặt anh biến dạng bởi cơn giận, hy vọng sẽ nắm bắt được một sự thực nào đó, xuyên thấu một bí ẩn nào đó.

Và bỗng một lẽ hiển nhiên xuất hiện.

- Anh có một đứa con trai, cô thì thầm, như thể đang nói với chính mình.

Anh ngồi như hóa đá. Im lặng bao trùm. Cô nhấn mạnh:

- Anh đã mua món đồ chơi này cho thằng bé.

Anh quay sang cô. Anh mắt đen của anh lấp loáng như dầu. Alice hiểu mình đang tiến vào vùng đất nguy hiểm.

- Đúng thế, anh thừa nhận rồi rít thuốc, tôi có một thằng con trai. Tôi chỉ muốn mua cho thằng bé một món quà. Không được làm thế hả?

Ngại ngùng, Alice không còn thấy thoải mái lắm nữa, không chắc lắm là muốn tiếp tục cuộc trò chuyện này. Bất chấp mọi chuyện, cô vẫn hỏi khẽ:

- Thằng bé tên là gì?

Gabriel tăng âm lượng radio rồi lắc đầu. Anh không dự kiến được việc tình cảm riêng tư của mình bị người khác hỏi đến đúng vào lúc bất tiện thế này.

- Tôi nghĩ chúng ta có những vấn đề khác cần giải quyết, cô Schäfer ạ...

Một tấm mặt nạ u buồn phủ lên mặt anh. Anh nheo mắt nhiều lần rồi cuối cùng cũng buông lời:

- Thằng bé tên Théo. Năm nay lên sáu.

Nghe giọng anh, Alice hiểu rằng chủ đề này đặc biệt gây đau đớn.

Cô xúc động vặn nhỏ radio rồi cố gắng nói một câu an ủi:

- Chiếc ô tô mô hình này đẹp lắm, cô vừa nói vừa chỉ chiếc Shelby. Chắc chắn thằng bé sẽ thích.

Không chút nể nang, Keyne giật món đồ chơi khỏi tay cô rồi ném qua cửa sổ xe.

- Thứ đó chẳng đuọc tích sự gì cả. Dù sao chăng nữa tôi cũng không bao giờ còn gặp thằng bé.

- Gabriel à, đừng làm vậy chứ!

Cô níu lấy vô lăng để buộc anh dừng xe. Anh bực bội phanh gấp, đỗ vào vệ đường rồi nhảy ra khỏi xe.

Alice nhìn qua gương chiếu hậu thấy anh đang đi xa dần. Lúc này họ đang ở trên một con đường hẹp uốn lượn về phía thung lũng. Cô trồng thấy Gabriel ngồi trên một phiến đá chìa ra mép vực như một hành lang dạo chơi lộ thiên. Anh hút nốt điếu thuốc rồi châm luôn một điếu nữa. Alice ra khỏi xe, nhặt lấy chiếc xe mô hình rồi lại gần Gabriel.

- Tôi xin lỗi, cô nói rồi tới ngồi cạnh anh trên phiến đá.

- Đừng ngồi đây, nguy hiểm đấy.

- Nếu chỗ này nguy hiểm đối với tôi thì đối với anh nó cũng nguy hiểm mà.

Cô cúi về phía trước và nhận thấy bên dưới có một hồ nước. Những sắc thu bàng bạc phản chiếu lung linh trên mặt hồ.

- Tại sao anh không thường xuyên gặp gỡ thằng bé?

Anh phác một cử chỉ thoái thác.

- Thằng bé sống cùng mẹ tại London. Đó là cả một câu chuyện dài.

Cô lấy của anh một điếu thuốc rồi loay hoay mãi không châm được vì gió tạt. Anh chìa cho cô điếu thuốc hút dở, và đúng vào lúc cô ít chờ đợi nhất, anh thổ lộ những suy nghĩ chất chứa trong tâm can:

- Bấy giờ tôi vẫn chưa làm việc cho FBI. Trước khi tham gia kỳ thi tuyển vào Văn phòng, tôi là cảnh sát địa phương tại Chicago.

Anh nheo mắt, để mặc cho ký ức ùa về.

- Đó là thành phố nơi tôi sinh ra và cũng chính là nơi tôi gặp gỡ người sau này trở thành vợ tôi: cả hai chúng tôi cùng lớn lên trong Ukraina Village, khu phố của dân Đông Âu nhập cư. Một nơi khá thanh bình nằm ở phía Tây Bắc Loop.

- Anh làm việc ở Đội trọng án hả?

- Đúng vậy, nhưng là Đội trọng án của khu phố phía Nam, bao gồm những điểm nóng nhất của thành phố: quận Englewood, quận New City...

Anh rít một hơi thuốc dài trước khi kể tiếp:

- Những khu phố bẩn thỉu bị đám lưu manh làm cho bại hoại, dân lành sống trong sợ hãi và thất vọng, cảnh sát không thể làm gì nhiều. Toàn bộ nhiều lãnh thổ bị xẻ nhỏ dưới tay những tên vô lại tự coi mình là trùm Mặt Thẹo và gieo rắc nỗi kinh hoàng bằng những phát đạn tiểu liên.

Một quá khứ không quá xa xôi hiện ra trong tâm trí anh. Một quá khứ mà anh muốn tránh thật xa, nhưng dù không muốn, anh vẫn đang lặn ngụp trong đó.

- Cô chưa bao giờ có cảm giác là chúng ta, những cảnh sát, chúng ta làm việc cho người đã chết sao? Nếu ngẫm cho kỹ, chính họ mới là đối tượng khách hàng thực sự của chúng ta. Chúng ta phải trả thù cho chính họ. Họ tới ám ảnh chứng ta hằng đêm mỗi khi chứng ta chưa tìm ra kẻ đã sát hại họ. Vợ tôi thường trách móc tôi: "Anh chỉ dành nhiều thời gian gần gũi người chết thôi. Anh chẳng bao giờ ở bên những người sống cả." Thực ra cô ấy nói không sai tí nào...

Alice cắt ngang lời Gabriel trước khi anh kết thúc màn độc thoại.

- Sai rồi! Ngược lại mới đúng: chúng ta làm việc vì gia đình họ, vì những người yêu thương họ. Để cho phép những gia đình này để tang người thân của mình, để trả lại lẽ công bằng, làm thế nào đó để những tên sát nhân không tái phạm nữa!

Anh bĩu môi hồ nghi rồi kể tiếp.

- Một hôm, tôi đã quyết định thực sự giúp đỡ những người sống. Tại Englewood, tôi giữ liên lạc thường xuyên với các thành viên của một hiệp hội những người làm trung gian hòa giải. Những người hỗn tạp, phần lớn là những người tham gia các hoạt động xã hội và những người từng ra tù vào tội trong khu phố, đã họp sức lại để làm điều mà chúng ta, những đại diện của luật pháp, không thể làm được: đổ dầu bôi trơn các bánh xe, tránh những cuộc xung đột, giảm căng thẳng. Và nhất là cứu vớt những người còn có thể cứu được.

- Những người trẻ nhất chăng?

- Nhất là những người còn chưa bị ma túy tàn phá. Đôi khi, các tình nguyện viên ấy không ngần ngại hành động bất chấp tính hợp pháp. Tôi đã nhiều lần giúp họ "di chuyển ngầm" những cô điếm trẻ trong khu phố bằng cách cung cấp giấy tờ giả cho họ, một chút tiền tịch thu được trong các cuộc bắt bớ những gã bán ma túy, một tấm vé tàu để đi tới bờ Tây, một địa chỉ nhà ở tạm, lời hứa về một việc làm...

Giống như Paul... Alice miễn cưỡng nghĩ như vậy.

Khu rừng phản chiếu trong mắt Gabriel, đem lại cho ánh mắt anh một chiều sâu đáng lo ngại.

- Tin chắc rằng mình đang làm điều tốt, tôi đã không lường trước được là mình đang tấn công vào cái gì. Tôi đã quyết định không màng đến những lời cảnh cáo hoặc những lời đe dọa nhận được. Lẽ ra tôi nên làm thế, bởi lũ ma cô dắt gái và trùm ma túy không đùa khi người ta động đến công cụ làm ăn của chúng.

Anh tiếp tục câu chuyện của mình sau một lát im lặng:

- Tháng Giêng năm 2009, em gái của vợ tôi dự định dịp cuối tuần sẽ đi trượt tuyết cùng đám bạn gái để mừng sinh nhật con bé. Con bé hỏi mượn chúng tôi chiếc xe hai cầu và chúng tôi đồng ý. Đứng sau hiên nhà, tôi nhớ mình vẫn đang vẫy tay ra hiệu cho con bé: "Cẩn thận nhé, Johanne! Đừng cố thể hiện ở những đường trượt quá khó!" Buổi tối hôm ấy, con bé đội một chiếc mũ có túm len trang trí. Đôi má con bé ủng hồng vì lạnh. Con bé mới mười tám tuổi. Tràn đầy sức sống. Nó ngồi vào sau tay lái chiếc ô tô địa hình, xoay chìa khóa điện. Và... chiếc xe nổ tung ngay trước mắt chúng tôi. Những tên khốn ở Englewood đã không ngần ngại gài mìn vào xe của tôi...

Gabriel dành thời gian dùng đầu mẩu của điếu thuốc hút gần hết để châm một điếu nữa rồi tiếp lời:

- Mai táng em gái hôm trước thì ngay hôm sau, vợ tôi đã bỏ nhà đi cùng với con trai. Cô ấy chuyển tới London nơi một phần gia đình cô ấy đang sinh sống. Rồi mọi chuyện ập đến rất nhanh: cô ấy yêu cầu ly dị và tôi đã chết đứng vì những chuyện không đâu cô ấy viện ra để được ly hôn. Họ kết án tôi bạo hành, nghiện rượu, thường xuyên qua lại với đĩ điếm. Họ đã chế ra những lời chứng giả mạo và những tin nhắn bị tách ra khỏi ngữ cảnh. Tôi không biết chống trả như thế nào và cô ấy đã giành được độc quyền nuôi nấng dạy dỗ Théo.

Anh rít hơi thuốc cuối cùng rồi dụi nó vào vách đá.

- Tôi chỉ được quyền gặp con trai mỗi năm hai lần. Thế nên một hôm tôi đã không chịu nổi. Tôi sang Anh gặp vợ, tôi đã cố gắng thuyết phục cô ấy, nhưng cô ấy xù lông nhím. Các luật sư của cô ấy nổi điên lên và đã có được một lệnh cách ly cấm tôi lúc này không được gặp Théo nữa.

Một tấm màn cam chịu phủ lên mắt anh. Màn đêm dần buông. Gió đã nổi lên và trời bắt đầu chuyển lạnh. Alice đang cảm động đặt bàn tay lên cánh tay anh thì bỗng tiếng chuông điện thoại phá tan bầu không khí riêng tư giữa họ.

Họ nhìn nhau, ý thức được rằng cánh cửa hé mở của khu vườn bí mật này đang sắp sửa khép lại. Cô mở máy nhận cuộc gọi.

* * *

- Phải, Seymour đấy hả? cô vừa đáp vừa bật loa ngoài.

- Tôi đã tìm ra nhà máy đường đó rồi. Tôi đang ở trong ấy đây. Mẹ kiếp, cái chỗ chị chỉ đến đáng sợ thật đấy, hoàn toàn biệt lập. Chỗ này được dùng làm bối cảnh quay phim Evil Dead phải không nhỉ?

- Mô tả cho tôi thứ cậu đang nhìn thấy xem nào.

- Nơi này trông giống nhà chờ địa ngục lắm.

- Đừng có quá lời thế chứ.

- Hơn nữa, trời lại mưa nặng hạt mà tôi không mang theo ô.

- Mặc xác chuyện đó đi, Seymour! Cậu mang theo đèn pin, kìm và gậy phát quang chứ?

- Có đây, có đây. Tồi để hết vào trong túi xách đây rồi.

Được khuếch đại bởi loa ngoài điện thoại, giọng nói òng ọc của viên cảnh sát lọt ra ngoài điện thoại vang vọng trong thung lũng, nảy thia lia trên những vách núi.

- Theo thông tin Castelli nói với tôi thì nhà máy này đã bị bỏ hoang hơn ba chục năm nay rồi. Tôi đang ở trong tòa nhà chính. Nó sập một nửa rồi. Mọi thứ đều đã han gỉ, với những bụi rậm cao lút đầu người.

Alice nhắm mắt để nhớ lại chính xác địa hình nơi bố cô đã miêu tả.

- Được rồi. Cậu vòng ra phía sau và tìm một khu nhà kho xem. Một tòa nhà giống với một hầm ủ.

Vài giây trôi qua rồi Seymour nói tiếp.

- OK, tôi nhìn thấy một thứ như kho chứa cao và hẹp rồi, dây thường xuân phủ kín. Trông như hàng họ của người khổng lồ xanh vậy!

Alice không đập lại câu đùa đáng ngờ đó.

- Vòng ra đằng sau tháp cho tới khi cậu tìm thấy một dãy ba chiếc giếng đá.

Lại chờ đợi.

- Đây rồi, tôi đã trông thấy chúng. Chúng được rào lưới sắt.

Alice cảm thấy tim mình đang đập gấp gáp hơn.

- Bắt đầu chiếc giếng nằm chính giữa nhé. Cậu có thể gỡ lưới sắt ra không?

- Chờ đã, để tôi bật bộ thoại rảnh tay... Được rồi, lưới sắt không chắc lắm. Ngược lại, bèn dưới có một cửa sập bằng sắt rèn.

- Cậu có thể nhấc nó lên không?

- Khốn kiếp, nó nặng tới cả tấn chứ không ít! Được rồi, cửa mở ra rồi.

Cô cảnh sát hít một hơi thật sâu.

- Cậu thấy bên trong có gì?

- Chẳng thấy gì hết...

Cô nổi cáu:

- Khỉ thật, chĩa đèn pin của cậu vào xem nào!

- Tôi đang làm đúng như thế đây, Alice! Tôi đã nói với chị rồi, chẳng có gì hết!

- Thử một gậy phát quang xem sao!

Cô nghe thấy bên kia đầu dây có tiếng làu bàu.

- Mấy thứ này hoạt động thế quái nào đây...

Alice cao giọng tức tối:

- Cậu cầm cây gậy, gập nó làm đôi, lắc qua lắc lại để kích hoạt rồi ném xuống đáy giếng.

Thêm vài giây nữa trôi qua, rồi Seymour khẳng định:

- Lòng giếng trống không, cạn sạch nước.

Khỉ thật, không thể như vậy được!

- Đáng nhẽ tôi phải tìm thấy cái gì? Seymour thắc mắc.

Alice đưa hai tay ôm đầu.

- Xác của Vaughn.

- Chị đang mê sảng mất rồi!

- Ngó thử hai cái giếng còn lại xem nào! cô ra lệnh.

- Các tấm lưới sắt han gỉ và kẹt cứng rồi. Hẳn là không ai thèm động đến chúng từ hàng chục năm nay!

- Cậu dùng kìm cắt lưới sắt đi!

- Không, Alice, tôi sẽ không cắt gì hết. Tôi nghe đủ những lời ngu ngốc của chị rồi. Tôi quay về Paris đày!

Bất lực, giữa khu rừng, cách nhà máy cũ nát ấy sáu nghìn cây số, Alice nắm chặt tay vì điên giận. Seymour đã nhầm. Có một cái xác trong nhà máy đó. Cô dám chắc.

Cô chuẩn bị tắt máy thì đầu dây bên kia bỗng vang lên một tiếng thở ran và một tràng chửi rủa muốn xuyên thủng màng nhĩ cô.

- Seymour? cô hét lên thảng thốt.

Im lặng. Cô lo lắng nhìn sang Gabriel, ngay cả khi không hiểu toàn bộ cuộc trò chuyện giữa hai người Pháp, anh vẫn cảm thấy căng thẳng.

- Seymour, có chuyện gì thế? cô hét vào điện thoại.

Một quãng im lặng dài, suốt thời gian đó họ nghe thấy một loạt liên tiếp những tiếng kim loại kèn kẹt. Rồi cuối cùng Seymour cũng lên tiếng:

- Chết tiệt thật... Chị nói đúng, có... có một cái xác!

Alice nhắm mắt như để cảm ơn trời đất.

- Nhưng nó không ở trong cái giếng nào hết! anh chàng cảnh sát nói tiếp.

Không ở trong giếng ư?

- Có một cái xác trong buồng lái chiếc máy xúc cũ!

Alice tái mặt hỏi liền một hoi:

- Là Vaughn phải không?

- Không, là một phụ nữ trẻ! Bị trói chặt và bịt miệng. Chờ đã... bằng một đôi tất da chân, khốn kiếp thật! Cô ta bị siết cổ bằng một đôi tất da chân!

Alice cố gắng giữ bình tĩnh.

- Cái xác đang phân hủy ở mức độ nào?

- Tròi đang đêm và lại mưa gió thế này, tôi không thấy rõ lắm... Theo tôi thì nạn nhân vừa chết cách đây cùng lắm là vài ngày.

Gương mặt Gabriel cũng lộ rõ nét băn khoăn.

- Cô có thể giải thích cho tôi biết đang xảy ra chuyện gì không?

Alice tóm tắt ngắn gọn tình hình bằng tiếng Anh. Một câu hỏi lập tức buột khỏi miệng viên đặc vụ liên bang:

- Ask him what color the tights are. According to the eyewitnesses, on the day of her murder Elizabeth Hardy was wearing PINK tights [1].

- Đôi tất da chân ấy màu gì hả Seymour? Alice hỏi.

- Khó nói lắm, trời tối lắm rồi... Tôi gác máy đây, Alice, tôi phải báo cho cảnh sát địa phương.

- Khoan đã, Seymour! Làm ơn nói đôi tất da chân ấy màu gì!! cô hét lên.

- Màu đỏ, tôi nghĩ thế... không, màu hồng thì đúng hơn, cậu ta nói trước khi tắt máy.

Alice và Gabriel nhìn nhau, sững sờ.

Cơn ác mộng vẫn tiếp diễn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro