4. Những kẻ bị buộc lại với nhau

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bất cứ khó khăn nào cũng hàm chứa một khả năng.

Albert EINSTEIN


Rời khỏi công viên, Alice và Gabriel bước ra Central Park West, đại lộ chạy dọc công viên. Họ đi vài bước trên vỉa hè rồi chợt cảm thấy bị hút ngay lập tức vào dòng chảy đô thị: những tiếng còi của đoàn taxi màu vàng đang chạy hết tốc lực về phía Midtown, tiếng rao của những người bán xúc xích nóng, tiếng khoan máy của công nhân cầu đường đang sửa hệ thống đường ống.

Không nên lãng phí thời gian.

Alice nheo mắt để quan sát xung quanh kỹ hơn. Từ bên kia đại lộ nhô lên mặt tiền màu cát đường bệ của Dakota, tòa nhà nơi ba mươi ba năm trước John Lennon đã bị sát hại. Tòa nhà nằm lạc lõng: với những đỉnh tháp nhỏ, những đầu hồi nhà, những cửa sổ nhỏ và những ban công nhỏ, nó phóng chiếu một bóng dáng gothic lên bầu trời Manhattan.

Thời Trung cổ giữa thế kỷ 21.

Trên vỉa hè, một người bán hàng rong đã bày ra mớ đồ lề lủng củng của mình và bán cho du khách những chiếc áo phông cùng poster mang dấu ấn của ban nhạc Beatles xưa kia.

Cô nhìn thấy một nhóm thiếu niên đi đằng trước mình khoảng chục mét: những công dân Tây Ban Nha ồn ào đang chụp ảnh trước tòa nhà. Ba mươi năm sau, huyền thoại vẫn còn phát huy tác dụng...

Sau vài giây quan sát, cô xác định được "mục tiêu" của mình và vạch ra kế hoạch tấn công sơ bộ. Cô hất hàm chỉ cho Gabriel thấy nhóm thiếu niên.

- Anh nhìn thấy thằng nhóc đang nói chuyện điện thoại kia chứ?

Gã gãi gãi gáy.

- Thằng nhóc nào cơ? Một nửa đám nhóc đó đang áp điện thoại lên tai.

- Thằng nhóc thấp béo đeo kính, tóc cắt kiểu bát úp và mặc chiếc áo ba lỗ Barca ấy.

- Tôi thấy việc tấn công một thằng nhóc chẳng lấy gì làm anh hùng cho lắm...

Alice nổi đóa:

- Anh chẳng có vẻ gì là nhận thức được rằng chúng ta đang gặp rắc rối to, Keyne ạ! Thằng nhóc đó ít nhất cũng đã mười sáu tuổi và đây không phải là tấn công nó, mà chỉ là mượn tạm điện thoại của nó thôi.

- Tôi đói ngấu rồi, gã than. Cô không muốn chứng ta thó một cái xúc xích thì hơn à?

Cô nhìn gã với ánh mắt hình viên đạn.

- Thôi đừng có phét lác nữa và nghe tôi cho rõ đây. Anh sẽ đi sát cạnh tôi. Tới ngang tầm thằng nhóc, anh phải đẩy tôi về phía nó, rồi ngay khi tôi tóm được điện thoại, chứng ta phải chuồn thật lẹ đấy.

Gabriel gật đầu.

- Nghe có vẻ dễ.

- Dễ á? Rồi anh sẽ thấy chạy với một bên tay bị còng sẽ dễ thế nào...

Phần tiếp theo diễn ra đúng như Alice dự liệu: cô lợi dụng lúc thằng nhóc bị bất ngờ bèn cướp luôn điện thoại của nó.

- Giờ thì chạy thôi! cô thét bảo Gabriel.

WALK: đèn dành cho người đi bộ đang nhấp nháy. Họ tranh thủ khoảnh khắc ấy để băng qua đại lộ rồi phóng vào con phố cắt ngang đầu tiên. Chạy trong tình trạng bị còng lại với nhau té ra còn tệ hơn so với những gì Alice e ngại. Điều chỉnh nhịp tiến đã khó, lại thêm sự khác biệt về vóc dáng và vòng thép cứa vào cổ tay đau điếng theo mỗi bước chạy khiến vùng da ở đó bầm giập.

- Lũ nhóc đang đuổi theo chung ta! Gabriel hét to khi ngoái nhìn lại phía sau.

Đến lượt Alice cũng ngoái lại và thấy nhóm thiếu niên Tây Ban Nha đang theo sát nút.

Đen không thể tả...

Họ gật đầu ra hiệu cho nhau rồi tăng tốc hơn nữa. Phố 71 vốn là một con phố yên tĩnh, điển hình cho khu Upper West Side, hai bên là những ngôi nhà brownstone mặt tiền ốp sành đỏ thanh lịch, vắng bóng du khách, những vỉa hè rộng rãi, điều này cho phép cặp đôi chạy nhanh qua những khối nhà dân sinh ngăn cách giữa hai đại lộ. Vẫn theo họ sát gót, nhóm thiếu niên tỏ ra vội vã hơn, gào thét để báo động và nhờ khách bộ hành giúp đỡ.

Đại lộ Columbus.

Trở lại với không khí náo nhiệt: những cửa hiệu đang dọn hàng, những quán cà phê đang dần đầy khách, đám sinh viên đang ra khỏi bến tàu điện ngầm ngay cạnh.

- Rẽ trái! Gabriel vừa rẽ gấp vừa hét.

Màn chuyển hướng đột ngột này khiến Alice bất ngờ. Khó khăn lắm cô mới giữ được thăng bằng và thốt kêu lên khi cảm thấy vòng còng khía vào da thịt.

Họ chạy xuôi đại lộ về phía Nam, xô đẩy người đi đường, hất đổ nhiều giá bày hàng, thậm chí thiếu chút nữa là đạp phải một con chó giống Yorkshire lùn.

Quá đông đúc.

Cảm giác chóng mặt. Quay cuồng. Cảm giác đau nhói xé toang mạng sườn. Để tránh đám đông, họ thử dợm bước vài mét xuống mặt đường.

Ý tưởng sai lầm...

Thiếu chút nữa thì một chiếc taxi cán phải họ. Phanh nghiến xe lại, tài xế tặng họ một hồi còi dài kèm theo một tràng rủa sả. Trong lúc cố gắng quay lại lề đường, Alice vấp chân vào mép vỉa hè. Vòng còng lại cứa vào cổ tay cô lần nữa. Lỡ đà, cô ngã nhào xuống đất, kéo Gabriel ngã theo và để văng mất chiếc điện thoại họ đã tốn bao nhiêu công sức mới có được.

Chết tiệt!

Bằng một cử chỉ nhanh nhẹn, Gabriel chộp lại chiếc điện thoại.

Đứng dậy nào!

Họ cùng đứng dậy và liếc nhìn lần nữa những kẻ truy đuổi. Nhóm đã tan, nhưng vẫn có hai thiếu niên tiếp tục theo sát họ, quyết tâm giành phần thắng trong một cuộc truy đuổi tại Manhattan để khỏi lỡ dịp khoe khoang với đám bạn gái khi gặp lại.

- Lũ khốn này chạy nhanh thật! Gabriel nổi cáu. Tôi thì quá già cho những trò dại dột này rồi!

- Gắng thêm chút nữa! Alice cố ép gã chạy tiếp.

Mỗi bước chạy thêm là một đòn tra tấn, nhưng họ vẫn cố. Tay trong tay. Mười mét, năm mươi mét, một trăm mét. Những hình ảnh ngắt quãng nhảy xổ ra trước mắt họ: những miệng cống bốc khói nghi ngút phun hơi nước lên trời, những cầu thang bằng gang đúc chạy dọc những mặt tiền gạch xây, gương mặt lũ trẻ nhăn nhó qua các ô cửa lánh của xe buýt học đường. Và vẫn luôn là hàng loạt các tòa nhà bê tông ốp kính, hàng dãy những biển hiệu cùng biển quảng cáo.

Phố 67, rồi 66.

Hai cổ tay họ rướm máu, họ bật ho sù sụ, nhưng lại một lần nữa được đà chạy. Được cuốn đi nhờ lượng adrenalin và trái ngược với lũ nhóc đang đuổi theo, họ đã hồi sức. Sự hậu thuẫn của họ chắc chắn hơn, hành trình chạy của họ khó nắm bắt hơn. Họ đang tới đoạn Broadway cắt Columbus. Vậy nên đại lộ biến thành một ngã tư khổng lồ, điểm giao thoa của ba trục đường bốn làn. Chỉ cần một ánh mắt là họ hiểu ý nhau.

- Luôn và ngay nào!

Bất chấp mọi rủi ro, họ thình lình băng qua ngã tư theo một đường chéo trong một bản hòa âm những tiếng lốp nghiến ken két và còi cảnh báo.

Giữa phố 65 và 62, toàn bộ khu vực phía Tây của Broadway đã có khu liên hợp văn hóa của Lincoln Center được xây dựng quanh Metropolitan Opera án ngữ. Alice ngước mắt nhìn lên để xác định phương hướng. Một con tàu khổng lồ cao nhiều tầng, làm từ kính và lưới mắt cáo bằng thép đang vươn mui tàu nhọn hoắt tới tận giữa đại lộ.

Cô nhận ra phòng thu của trường Juilliard School mà cô cùng Seymour đã từng đi ngang qua. Đằng sau mặt tiền trong suốt đó, người ta có thể nhìn thấy những bước múa của các vũ công ba lê cũng như bên trong các studio nơi các nhạc công tập luyện.

- Bãi đỗ xe ngầm của nhà hát! cô hét to, chỉ một đoạn dốc bằng bê tông dẫn sâu xuống lòng đất.

Gabriel gật đầu. Họ luồn lách trong những ngõ ngách ngầm được rải nhựa, tránh những chiếc xe hơi đang ngược về phía lối ra. Đến được tầng hầm thứ nhất, họ tận dụng chút sức lực còn lại để băng qua bãi đỗ theo chiều dọc rồi lên một trong những cầu thang thoát hiểm dẫn tới địa điểm cách đó ba dãy nhà, trong hòn đảo nhỏ của công viên Damrosch.

Lúc rốt cuộc cũng lên được mặt đất, họ nhẹ cả người khi nhận ra những kẻ bám đuổi đã biến mất.

* * *

Dựa người vào bờ tường thấp bao quanh bãi đất, Alice và Gabriel không ngừng thở dốc. Cả hai đều mồ hôi mồ kê nhễ nhại và đờ ra vì đau.

- Đưa tôi cái điện thoại nào, cô nấc lên.

- Chết thật, tôi... tôi đánh rơi mất rồi! anh kêu lên sau khi thò tay lục túi áo.

- Không phải chứ, anh...

- Tôi đùa đấy, anh vừa trấn an cô vừa chìa ra chiếc smartphone.

Alice nguýt anh một cú dài cả cây số rồi đang định tế cho anh một trận thì bỗng trong miệng cô dâng lên vị tanh lòm. Cô xây xẩm mặt mày. Cơn buồn nôn dâng lên từ trong dạ dày buộc cô phải cúi xuống một chậu hoa để nhổ ra một ít mật.

- Cô phải uống nước thôi.

- Tôi cần ăn thì đúng hon.

- Tôi đã bảo nên ăn trộm một cái xúc xích nướng còn gì!

Họ thận trọng bước tới đài phun nước để uống đã con khát. Bao quanh là Nhà hát Vũ kịch Thành phố và những vòm kính của Metropolitan Opera rộng thênh thang, công viên Damrosch đủ náo nhiệt để thiên hạ không chú ý tới họ. Trên thềm, các công nhân đang hối hả dựng lều và bục chuẩn bị cho một cuộc diễu hành.

Sau một hồi uống nước, Alice vớ lấy điện thoại, xác nhận nó không hề có mã bảo vệ rồi bấm số di động của Seymour.

Trong lúc chờ đầu dây bên kia nhận cuộc gọi, cô kẹp điện thoại vào hõm vai rồi xoa xoa gáy. Tim cô tiếp tục đập dồn trong lồng ngực.

Trả lời đi nào, Seymour...

Seymour Lombart là nhóm phó của nhóm điều tra do Alice chỉ huy. Ngoài họ ra còn có thêm năm cảnh sát khác là thành viên, "nhóm Schäfer" chia nhau bốn bàn làm việc nhỏ tại tầng bốn số nhà 36 kè Orfèvres.

Alice nhìn đồng hồ đeo tay để tính chênh múi giờ. Ở Paris lúc này đang là 14 giờ 20.

Anh chàng cảnh sát bắt máy sau ba hồi chuông, nhưng tiếng ồn từ những cuộc trò chuyện phía sau lưng anh khiến cho cuộc điện thoại trở nên khó nghe. Nếu Seymour không phải đang ngoài thực địa thì hẳn là cậu ta vẫn đang ăn trua.

- Seymour hả?

- Alice phải không? Nhưng chị đang ở đâu vậy, khỉ thật? Tôi đã gửi cho chị mấy tin nhắn liền.

- Tôi đang ở Manhattan.

- Chị đùa tôi chắc?

- Cậu phải giúp tôi, Seymour ạ.

- Tôi nghe chẳng được rõ tí nào.

Cô cũng vậy. Đường truyền nhiễu. Ngắt quãng. Giọng viên phụ tá của cô méo mó, chỉ nghe tiếng léo nhéo.

- Cậu đang ở đâu thế, Seymour?

- Ở Caveau du Palais, quảng trường Dauphine. Nghe này, tôi quay lại văn phòng rồi năm phút nữa sẽ liên lạc lại với chị, OK?

- Nhất trí. Số điện thoại có hiện lên rồi chứ?

- Rồi.

- Tuyệt lắm. Mà cậu nhanh lên nhé. Tôi có việc cho cậu đây.

Thất vọng, Alice dập máy rồi chìa điện thoại cho nghệ sĩ nhạc jazz.

- Anh có muốn gọi cho ai thì gọi luôn đi. Tôi cho anh năm phút. Khẩn trương lên.

Gabriel nhìn cô vẻ kỳ cục. Bất chấp hoàn cảnh đang nguy khốn và gấp gáp, anh vẫn không thể ngăn nổi nụ cười hé nở trên môi.

- Cô vẫn thường nói với mọi người bằng cái giọng độc đoán như vậy hả?

- Đừng có bắt đầu trêu tức tôi, cô nạt anh. Anh có muốn dùng điện thoại hay là không nào?

Gabriel chộp lấy điện thoại rồi suy nghĩ vài giây.

- Tôi sẽ gọi cho bạn tôi, Kenny Forrest.

- Anh chàng nhạc công saxophone ấy hả? Ban nãy anh bảo với tôi là anh ta đang ở Tokyo kia mà.

- Biết đâu có chút may mắn, anh ấy gửi lại chìa khóa căn hộ cho hàng xóm hay bà gác cổng thì sao. Cô biết bây giờ ở Nhật là mấy giờ không? anh vừa hỏi vừa bấm số.

Alice đếm ngón tay.

- Tôi áng chừng khoảng 10 giờ tối.

- Xui rồi, hẳn anh ấy đang trong giờ biểu diễn.

Quả nhiên, Gabriel gặp ngay hộp thư thoại và để lại một lời nhắn, giải thích anh hiện đang ở New York và hứa sẽ gọi lại sau.

Anh trả điện thoại cho Alice. Cô nhìn đồng hồ đeo tay rồi thở dài.

Nhanh lên nào, Seymour! cô năn nỉ trong lúc nắm chặt chiếc điện thoại trong tay. Cô đã quyết định gọi lại cho viên phụ tá thì bỗng nhìn thấy dãy số ghi bằng bút bi trong lòng bàn tay. Mồ hôi khiến dãy số đó mờ dần.

- Dãy số này có gọi cho anh nghĩ đến điều gì không? cô vừa hỏi vừa xòe tay ra trước mắt Gabriel.

2125558900

- Sáng nay lúc tỉnh dậy tôi đã nhìn thấy dãy số này. Thế nhưng lại không hề nhớ đã viết ra.

- Có khi nào là một số điện thoại không? Cho tôi xem lại một chút nào. Chuẩn luôn! Gabriel thốt lên. 212 là mã vùng của Manhattan. Nói xem, cô chắc chắn mình là cảnh sát đấy chứ?

Làm sao mình lại không nghĩ ra cơ chứ?

Cô lờ câu nói châm chọc ấy đi rồi ấn số gọi luôn. Đầu dây bên kia nhấc máy ngay sau hồi chuông đầu tiên.

- Xin chào, đây là khách sạn Greenwich. Candice xin nghe. Tôi có thể giúp gì cho quý vị?

Một khách sạn ư?

Alice nghĩ thật nhanh. Địa chỉ này tương ứng với cái gì nhỉ? Lẽ nào cô từng trọ tại khách sạn đó? Chuyện này thật vô lý, nhưng cô vẫn thử xem sao.

- Làm ơn nối máy cho tôi tới phòng của cô Alice Schäfer được không?

Đầu dây bên kia, cô nhân viên lễ tân dừng một lát rồi:

- Tôi tin là trong số khách trọ của chúng tôi không có ai mang tên này, thưa bà.

Alice cố nài:

- Cô tin thế hay cô chắc chắn thế?

- Chắc như đinh đóng cột vậy, thưa bà. Tôi lấy làm tiếc.

Alice còn chưa kịp ngắt máy thì số của Seymour đã hiện trên màn hình báo cuộc gọi chờ. Cô nhận luôn cuộc gọi của phụ tá, không buồn cảm ơn cô nhân viên lễ tân.

- Cậu về đến văn phòng rồi hả Seymour?

- Tôi đang tới đó đây, anh chàng đáp bằng giọng hổn hển. Chị hãy nói câu chuyện đang ở New York gì đó chỉ là chuyện đùa đi.

- Rủi nỗi đó không phải chuyện đùa đâu. Tôi có ít thời gian lắm, và cậu nhất định phải giúp tôi.

Trong vòng chưa đầy ba phút, cô thuật lại cho cậu ta nghe toàn bộ những chuyện mình đã gặp phải từ tối qua: hẹn hò cùng nhóm bạn gái trong các quán bar trên đại lộ Champs-Élysées, tình trạng mất trí nhớ kể từ lúc ra tới bãi đỗ xe, tỉnh dậy trong Central Park, bị còng chung với một người đàn ông lạ mặt, và cuối cùng là ăn trộm điện thoại để gọi cho cậu ta.

- Không, chị đang lừa tôi chứ gì. Chị đang chơi trò gì vậy hả Alice? Ở đây công việc của chúng ta đang ngập đầu ngập cổ. Thẩm phán muốn gặp chị: ông ta đã từ chối yêu cầu được nghe lén của chúng ta trong vụ Sicard. về phần Taillandier, mụ ta...

- Mẹ kiếp, nghe tôi nói đây! cô hét lên.

Mắt cô ngấn nước và tâm trí căng thẳng cực độ. Ngay cả từ bờ bên kia Đại Tây Dưong, viên phụ tá hẳn cũng nhận ra vẻ mong manh dễ vỡ trong giọng nói của cô.

- Đây không phải chuyện đùa đâu, khốn kiếp! Tôi đang gặp nguy hiểm và chỉ có thể tin ở cậu thôi!

- Được rồi. Chị bình tĩnh lại đi. Tại sao chị không đi báo cảnh sát?

- Tại sao ấy hả? Vì trong túi áo khoác của tôi đang có một khẩu súng không phải của tôi, Seymour ạ. Vì máu dính đầy áo sơ mi của tôi. Vì tôi chẳng có giấy tờ gì trên người cả! Bởi vì thế đấy! Họ sẽ tống tôi vào tù mà không thèm tìm hiểu gì thêm đâu.

- Nếu không có xác chết thì làm gì đến nỗi ấy, anh chàng cảnh sát bắt bẻ.

- Chuyện đó thì đúng thật là tôi cũng không chắc. Đầu tiên tôi cần biết mình đang gặp phải chuyện gì đã. Và tìm cho tôi cách xử lý đôi còng này nhé!

- Chị muốn tôi làm thế nào bây giờ?

- Mẹ cậu là người Mỹ mà. Cậu có gia đình họ hàng ở đây, cậu có người quen.

- Chị thừa biết mẹ tôi sống tại Seattle còn gì. Ở New York tôi chỉ có một người họ hàng là bà dì. Một bà già nhỏ thó mắc kẹt lại Upper East Side. Lần đầu tiên tới Manhattan cả hai chúng ta đã cùng nhau tới thăm bà ấy rồi đó, chị nhớ không? Bà dì tôi đã chín mươi lăm rồi, tôi không nghĩ trong nhà bà ấy sẵn có một cái cưa kim loại đâu. Bà ấy sẽ chẳng giúp gì được cho chị.

- Vậy thì ai có thể đây?

- Để tôi nghĩ nhé. Có lẽ tôi có ý này, nhưng tôi phải gọi điện đã, trước khi đưa cho chị một địa chỉ sai lè.

- OK, gọi lại cho tôi nhé, nhưng xin cậu khẩn trương lên cho.

Cô tắt máy rồi nắm chặt hai tay. Gabriel nhìn thẳng vào mắt cô. Anh có thể nhận thấy con giận dữ pha lẫn tức tối của "đối tác" qua cơ thể cô đang rung lên từng hồi.

- Gã Seymour đó chính xác là ai vậy?

- Phụ tá của tôi trong đội Hình sự, và cũng là bạn thân nhất của tôi.

- Cô chắc là ta có thể tin tưởng cậu ta chứ?

- Tuyệt đối chắc.

- Nghe tiếng Pháp tôi không hiểu được hết, nhưng tôi cảm thấy cậu ta không được khẩn trương cho lắm trong việc giúp cô...

Cô không đáp. Anh nói tiếp:

- Thế còn khách sạn, cuộc điện thoại không giúp được gì sao?

- Không, như anh đã nghe rồi đấy, bởi vì anh chuyên nghe người ta trò chuyện mà.

- Với khoảng cách này thì muốn làm khác đi cũng khó đấy! Quý bà làm ơn bỏ quá cho tôi tội vô ý vô tứ, cũng chỉ do hoàn cảnh bắt buộc mà thôi, anh tự bào chữa với giọng giễu cợt. Và vì bà đã nhắc cho tôi nhớ ra chuyện ấy, bà không phải là người duy nhất vướng vào tình cảnh rắc rối này đâu!

Phẫn nộ, cô quay đi để tránh ánh mắt của Keyne.

- Khỉ thật, đừng nhìn tôi chằm chằm như thế nữa đi. Anh không cần gọi thêm một cuộc điện thoại nữa hay sao? Ai đó để báo tin: một cô vợ, một cô bạn gái...

- Không. Phương châm của tôi là mỗi nơi ém một cô. Tôi tự do như không khí thôi. Tự do như những nốt nhạc bay bổng từ cây dương cầm của tôi vậy.

- Phải rồi: tự do và đơn độc. Tôi biết rõ những gã đàn ông kiểu như anh mà.

- Thế còn cô, không có chồng hoặc bạn trai à?

Cô lẩn tránh câu hỏi ấy bằng một cái lắc đầu, nhưng anh cảm thấy mình đã chạm tới điều gì đó nhạy cảm.

- Không, nghiêm túc mà nói, Alice: cô đã kết hôn chưa vậy?

- Anh xéo đi, Keyne.

- Phải rồi, tôi hiểu rồi, cô đã kết hôn, anh kết luận.

Vì cô không chối, anh bèn tấn công ồ ạt:

- Tại sao cô không gọi cho chồng?

Cô lại nắm chặt tay lần nữa.

- Vợ chồng cô có vấn đề chứ gì? Chẳng có gì là ngạc nhiên với tính tình cáu bẳn của cô...

Cô nhìn anh như thể vừa bị anh thọc một nhát dao vào bụng. Rồi vẻ sững sờ nhường chỗ cho nỗi tức giận.

- Bởi vì anh ấy mất rồi, đồ ngốc thảm hại ạ!

* * *

Bực bội vì sự vụng về của mình, Gabriel chường ra một vẻ mặt tiu nghỉu. Trước khi anh kịp xin lỗi, một hồi chuông kinh khủng - màn pha trộn bất khả giữa điệu salsa và nhạc điện tử - đã cất lên từ chiếc điện thoại.

- Ừ, Seymour đấy hả?

- Tôi có giải pháp cho vấn đề của chị rồi đây, Alice. Chị còn nhớ Nikki Nikovski không?

- Nhắc lại cho tôi nhớ luôn đi.

- Hồi chúng ta tới New York, dịp Giáng sinh năm ngoái đó, chúng ta đã ghé thăm một nhóm các nghệ sĩ đương đại...

* * *

- Trong một tòa nhà lớn gần kè đúng không?

- Đúng thế, trong khu Red Hook. Chúng ta đã trò chuyện hồi lâu với một nữ nghệ sĩ đang thực hiện những bản in đồ hình trên những tấm tôn thép và nhôm.

- Và cuối cùng cậu đã mua hai tác phẩm của cô ấy để sưu tầm, cô nhớ lại.

- Đúng, chính là cô ấy đấy, Nikki Nikovski. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc và tôi vừa gọi cho cô ấy. Xưởng của cô ấy đặt trong một nhà máy cũ. Nikki có những dụng cụ thích hợp để xử lý đôi còng và cô ấy đồng ý giúp chị.

Alice thở phào nhẹ nhõm.

Cô níu lấy thông tin đáng yên lòng này rồi trình bày kế hoạch tác chiến cho viên phụ tá nghe:

- Về phần mình, cậu cũng phải điều tra, Seymour ạ. Hãy bắt đầu bằng việc thu thập những cuốn băng ghi hình giám sát tại bãi đỗ xe ngầm thuộc đại lộ Franklin-Roosevelt. Hãy tìm hiểu xem liệu ô tô của tôi còn ở dưới đó không.

Anh chàng cảnh sát bắt đầu bị cuốn vào:

- Ban nãy chị bảo tôi là chúng đã trộm sạch đồ đạc tư trang của chị, vậy thì tôi có thể thử lần theo điện thoại của chị cũng như những giao dịch qua tài khoản ngân hàng.

- Nhất trí. Và nhớ thu thập thông tin về tất cả các chuyến bay bằng máy bay sở hữu tư nhân đã rời Paris tới Mỹ nội trong đêm qua. Hãy bắt đầu bằng Le Bourget rồi mở rộng danh sách tới tất cả các sân bay thương mại thuộc phạm vi Paris. Nhân thể tìm hiểu luôn thông tin về một gã nào đó tên Gabriel Keyne nhé: một nghệ sĩ dương cầm người Mỹ chuyên nhạc jazz. Kiểm tra xem liệu có đúng là tối hôm qua anh ta chơi nhạc trong một câu lạc bộ tại Dublin không, câu lạc bộ tên là Brown Sugar.

- Thông tin về tôi ấy hả? Gabriel tìm cách cắt ngang. Không phải chứ, cô thật là quá đáng!

Alice ra hiệu ra cho anh im miệng rồi tiếp tục lên kế hoạch hành động cho viên phụ tá:

- Lấy lời khai cả nhóm bạn gái của tôi nữa, ta chẳng bao giờ biết được: Karine Payet, Malika Haddad và Samia Chouaki. Chúng tôi học cùng khoa Luật. Cậu sẽ tìm thấy địa chỉ liên lạc của cả nhóm trong máy tính của tôi tại văn phòng.

- OK.

Cô chợt nảy ra một ý.

- Hãy thử xem liệu cậu có tình cờ lần ra xuất xứ của một khẩu súng không nhé. Một khẩu Glock 22. Để tôi đọc cho cậu số xê ri.

Cô đọc một dãy gồm cả chữ lẫn số khắc trên khẩu súng.

- Tôi ghi lại đây rồi. Tôi sẽ làm hết khả năng để giúp chị, Alice ạ, nhưng tôi cũng phải báo cho Taillandier biết.

Alice nhắm mắt. Hình ảnh Mathilde Taillandier, nữ chỉ huy đội cảnh sát Hình sự, thoáng hiện lên trong tâm trí cô. Taillandier không ưa cô cho lắm và cô cũng chẳng có cảm tình gì hơn với cô ta. Kể từ "vụ Erik Vaughn", cô ta đã nhiều lần tìm cách gạt cô khỏi số nhà 36. Cho tới giờ vẫn vậy, các cấp trên của cô vẫn có ý kiến trái ngược về vụ việc, chủ yếu là vì những lý do chính trị, nhưng Alice biết rằng vị trí của mình tại nơi làm việc vẫn hết sức bấp bênh.

- Đừng làm vậy, cô cắt ngang. Đừng để ai khác biết chuyện và cậu nhất định phải xoay xở thế nào đó để hành động đơn lẻ. Tôi từng cứu cậu nhiều lần đủ để lần này cậu chấp nhận chút rủi ro vì tôi, Seymour ạ.

- OK, cậu ta đồng ý. Ngay khi có tin mới tôi sẽ gọi lại cho chị.

- Để tôi liên lạc lại với cậu. Tôi sẽ không thể giữ chiếc điện thoại này lâu được, nhưng cứ gửi cho tôi địa chỉ liên lạc của Nikki Nikovski qua tin nhắn nhé.

Alice dập máy, và vài giây sau, địa chỉ căn xưởng của nữ họa sĩ đã hiển thị trên màn hình chiếc smartphone. Khi nhấp vào dòng liên kết, cô gặp ngay ứng dụng định vị.

- Red Hook cũng chẳng phải gần gụi gì đâu, Gabriel cúi xuống nhìn bản đồ rồi nhận xét.

Alice chăm chú nhìn màn hình, ngón tay cô miết trên bề mặt cảm ứng để tìm hiểu rõ hơn vùng ngoại vi. Căn xưởng nằm ở phía Tây Nam Brooklyn. Chẳng hy vọng gì có thể cuốc bộ tới đó. Mặt khác, cũng không có phương tiện giao thông công cộng.

- Mà thậm chí chúng ta cũng chẳng có tiền để mua vé xe buýt hay tàu điện ngầm, Gabriel nhận xét như thể đọc được suy nghĩ của cô.

- Vậy anh đề xuất phương án giải quyết đi? cô hỏi anh bằng giọng khiêu khích.

- Dễ ợt: chúng ta sẽ trộm một chiếc ô tô, anh khẳng định. Nhưng lần này thì cồ phải để tôi tiến hành đấy, nhất trí vậy nhé?

* * *

Ở góc đại lộ Amsterdam giao với phố 61 có một ngõ cụt nhỏ xíu lọt thỏm giữa hai tòa chung cư.

Gabriel thúc mạnh khuỷu tay làm vỡ cửa kính một chiếc Mini cũ kỹ. Alice và anh phải mất hơn mười lăm phút mới tìm thấy một chiếc xe đậu tại một nơi ít lộ liễu và có tuổi đời đủ chuẩn để có thể chịu khởi động "theo kiểu cũ".

Đó là một chiếc Austin Cooper S hai màu kiểu cổ với thân xe màu hạt dẻ láng bóng và nóc xe màu trắng. Một mẫu xe sành điệu của giai đoạn cuối thập niên 1960 dường như đã được một nhà sưu tầm phục chế một cách chính xác.

- Anh chắc chắn biết mình đang làm gì chứ?

Gabriel trả lời tránh trớ.

- Có thể chắc chắn được điều gì trên đời này chứ?

Anh thò cánh tay qua ô kính để mở cửa xe. Trái ngược với những gì thường thấy trên phim ảnh, đánh cắp một chiếc xe hơi bằng cách cọ xát các dây cáp châm lửa điện không phải là chuyện dễ dàng gì. Và còn phức tạp hơn nữa nếu ta đang bị còng chung với ai đó.

Gabriel ngồi vào ghế lái rồi lúi húi dưới vô lăng làm từ hợp kim nhôm và gỗ đánh véc ni trong khi Alice làm ra vẻ đang nói chuyện với anh trong tư thế chống khuỷu tay vào ô cửa kính xe.

Theo bản năng, họ đã tự phân công nhiệm vụ: cô phụ trách cảnh giới trong khi anh lo vụ đấu dây diện.

Gabriel giáng một cú mạnh làm bật tung những tấm nhựa bao quanh che đi trục vô lăng. Anh dùng bàn tay không bị còng gỡ những tấm ốp để tìm dây cáp. Từ một ống nhựa hình trụ cũ kỹ thò ra ba cặp dây điện khác màu.

- Anh học được cái trò này ở đâu vậy?

- Ở trường học đường phố. Khu Englewood, phía Nam Chicago.

Anh chăm chú quan sát chùm dây diện để xác định cặp dây khởi động bộ pin.

- Đây là sợi cáp cung cấp toàn bộ mạch điện cho xe, anh vừa giải thích vừa chí hai sợi dây diện màu hạt dẻ.

- Tôi đang mơ hay sao thế! Lúc này anh đừng có dạy tôi một khóa điện máy chứ!

Phật ý, anh tách các sợi cáp của ống trụ, rạch hai đầu mút cho lộ các dây điện bên trong ra rồi đấu chúng vào với nhau để kích hoạt bộ chuyển mạch đánh lửa. Bảng điều khiển tức khắc bật sáng.

- Khỉ thật, anh nhanh lên đi! Một bà đứng trên ban công kia đã nhìn thấy chúng ta rồi.

- Cô tưởng thao tác chỉ với một tay thì dễ lắm đấy hả! Tôi những muốn xem cô xoay xở thế nào!

- Anh chỉ việc thôi huênh hoang với cái "trường học đường phố" của mình thôi.

Bị giục giã và cũng chẳng buồn cẩn trọng, Gabriel ghé răng tước trần các sợi cáp của bộ phận khởi động.

- Nhúc nhích giúp tôi một tay đi, thay vì cứ càu nhàu than vãn như thế! Cầm lấy sợi dây điện kia. Cọ nhẹ vào sợi tôi đang cầm đây. Đó, như thế...

Hai sợi dây điện trong tay họ cọ xát tạo nên một tia sáng và họ nghe thấy vang lên tiếng động cơ. Họ liếc nhìn nhau vẻ đồng lõa để ăn mừng chiến thắng nho nhỏ này.

- Nhanh lên, cô vừa ra lệnh vừa đẩy anh vào trong buồng lái. Để tôi cầm lái cho.

- Không có chuyện...

- Đây là mệnh lệnh, cô ngắt lời anh. Và dù thế nào chăng nữa, chứng ta cũng không được lựa chọn! Tôi sẽ cầm lái, anh vào số.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro