5. Red Hook

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Có vài thứ khi trời lặng học sẽ hiệu quả hơn, và một vài thứ khác chỉ học được khi dông bão.

Willa CATHER


Một chiếc Ford Taurus được sơn màu đặc trưng của sở cảnh sát New York đang đỗ tại ngã tư giao giữa Broadway và phố 66.

Nhanh lên nào, Mike!

Bên trong xe, Jodie Costello, hai mươi tư tuổi, đang nóng ruột gõ gõ lên tay lái.

Cô cảnh sát trẻ gia nhập lực lượng cảnh sát thành phố từ đầu tháng và công việc của cô còn lâu mới được phấn khích như cô trông đợi lúc ban đầu. Sáng nay, cô mới thi hành nhiệm vụ thậm chí chưa tới ba phần tư tiếng đồng hồ, ấy vậy mà chân đã như có kiến bò. Khu vực Jodie phụ trách tuần tra, phía Tây Central Park, bao quát một khu phố sang trọng, quá đỗi yên bình so với mong đợi của cô. Suốt mười lăm ngày qua, hoạt động của cô chỉ là chỉ dẫn cho du khách, đuổi bắt cướp, ghi vé phạt cho những người lái xe quá vội vã và giải tán những kẻ say xỉn xả rượu ra trên lối công cộng.

Đã thế, người ta lại còn bổ nhiệm cô vào vị trí đồng sự của một kẻ lố lăng thực sự: chỉ còn sáu tháng nữa là về nghỉ hưu, Mike Hernandez là một hòn chì níu chân chính cống. Chủ trương gắng sức ở mức tối thiểu, ông ta chỉ nghĩ đến chuyện ăn uống và chuyên chú sao cho giảm thiểu công việc, nhân rộng những "giờ nghỉ giải lao ăn bánh rán", nhũng "chặng dừng bánh kẹp thịt", những "chặng nghỉ Coca-Cola" hoặc hễ có dịp là tán gẫu cùng hội tiểu thưong và những người đi nghỉ hè. Một ý niệm hết sức ích kỷ của cảnh sát.

Được thôi, giờ thì đủ rồi đấy! Jodie cáu tiết. Dầu sao cũng đâu cần đến hai tiếng đồng hồ để mua bánh rán chứ!

Cô bật đèn hiệu rồi ra khỏi xe và đóng sập cửa lại. Cô toan bước vào tiệm để chỉ trích người đồng sự thì bỗng nhìn thấy một nhóm sáu thiếu niên đang chạy về phía mình.

- Ladrón, ladrón!

Cô dùng giọng kiên quyết ra lệnh cho chúng bình tĩnh trước khi bằng lòng nghe nhóm du khách Tây Ban Nha này diễn đạt ấp a ấp úng bằng một thứ tiếng Anh tệ hại. Thoạt đầu, cô cứ ngỡ là một vụ trộm điện thoại di động tầm thường và định đưa chứng tới trình báo tại quận 20 thì bỗng một chi tiết thu hút sự chú ý của cô.

- Cậu chắc là hai tên trộm điện thoại của cậu bị còng chứ? cô hỏi cậu thiếu niên trông vừa có vẻ ít đần độn nhất vừa có vẻ xấu xí nhất bọn: một thằng nhóc mặc áo cầu thủ bóng đá, với khuôn mặt tròn ủng, cặp lánh cận và kiểu đầu bát úp lệch.

- Chắc chắn, cậu nhóc người Tây Ban Nha đáp, lũ bạn xung quanh ào ào xác nhận.

Jodie cắn môi dưới.

Bọn tù trốn trại sao?

Khó mà tin được. Như mọi sáng, cô đã đọc hết những thông báo truy nã và dấu hiệu nhận dạng mà các đồng nghiệp tại phòng Tuần tra gửi cho họ, nhưng trong số đó không có tài liệu nào tương ứng với những mô tả về hai kẻ khả nghi này.

Nghe theo linh tính mách bảo, cô lấy từ trong cốp xe ra chiếc máy tính bảng cá nhân.

- Điện thoại của cậu hiệu gì?

Cô lắng nghe câu trả lời rồi kết nối với dịch vụ cloud computing của hãng sản xuất. Sau đó cô yêu cầu cậu nhóc cung cấp địa chỉ thư điện tử kèm mật khẩu đăng nhập của cậu ta.

Một khi đã kích hoạt, ứng dụng cho phép truy cập thư từ của người sử dụng, danh bạ liên lạc cũng như vị trí của điện thoại. Jodie thành thạo thao tác này vì đã từng sử dụng nó cách đây sáu tháng trong chuyện tình cảm riêng tư. Một thao tác đơn giản cho phép cô lần theo hành trình của bạn trai cũ tới nhà cô ả tình nhân của anh ta và như vậy là có chứng cứ về sự thiếu chung thủy của anh ta. Cô chạm vào màn hình cảm ứng để bắt đầu quá trình tìm kiếm. Một chấm xanh nhấp nháy trên bản đồ. Nếu trang web hoạt động tốt, chiếc điện thoại của cậu nhóc hiện đang ở giữa cầu Brooklyn!

Rõ ràng là hai tên trộm không bằng lòng với việc đánh cắp một chiếc di động. Chúng hẳn cũng đã đánh cắp một chiếc ô tô và đang cô gắng rời khỏi Manhattan!

Trong tâm trí cô, những suy nghĩ lạc quan đã xua đi nỗi chán chường: niềm hy vọng rốt cuộc cũng được tham gia một vụ điều tra thực sự và cơ hội thăng tiến sẽ mở ra cho cô cánh cửa dẫn tới những chốn danh giá hon.

Về lý thuyết, lẽ ra cô phải tung thông tin vừa thu thập được lên tần số phát thanh của lực lượng cảnh sát New York để một đội tuần tra phụ trách khu vực Brooklyn chặn đứng hai kẻ tình nghi. Nhưng cô không mảy may muốn nhìn thấy vụ việc này vuột khỏi tay mình.

Cô liếc về phía tiệm bánh Dunkin' Donuts. Vẫn không thấy bóng dáng Mike Hernandez đâu.

Mặc kệ...

Cô ngồi vào ghế lái, bật đèn hiệu gắn trên nóc xe, bật còi hụ rồi lái đi thẳng hướng Brooklyn.

* * *

Bao quanh là nước, khu phố cũ của các công nhân bến cảng nhô trên một mỏm thuộc bán đảo ở phía Tây Brooklyn.

Chiếc Mini đi tới đầu phố Van Brunt, trục đường chính xuyên từ Bắc xuống Nam Red Hook và kết thúc bằng con ngõ cụt. Phía bên kia, con đường nhường chỗ cho một bãi đất công nghiệp bỏ hoang được rào lại và dẫn thẳng ra kè.

Alice và Gabriel đỗ xe dọc một hè đường gồ ghề. vẫn bị vướng víu bởi đôi còng, họ ra khỏi xe theo cùng một cửa. Bất chấp ánh nắng chói chang, một con gió lạnh băng vẫn quét qua cảnh vật.

- Ở đây lạnh cóng ấy nhỉ! anh chàng chơi nhạc jazz vừa than vãn vừa dựng cao cổ áo vest.

Alice dần dà nhận ra khung cảnh, vẻ đẹp thô ráp của khung cảnh công nghiệp, những nhà kho cải dụng, vũ điệu của những chiếc cần cẩu, những tàu lớn chở hàng san sát bên những chiếc sà lan.

Một ấn tượng về nơi tận cùng thế giới bị xóa nhòa đôi chút bởi những hồi còi rúc phát ra từ những chuyến phà qua lại.

Lần gần nhất cô tới đây là cùng với Seymour, khu phố vừa mới vực dậy sau khi bão Sandy quét qua. Bấy giờ thủy triều ngập lênh láng các tầng ngầm và tầng trệt của các tòa nhà nằm sát biển. Đến hôm nay, may mắn là dường như phần lớn thiệt hại đã được khắc phục.

- Xưởng của Nikki Nikovski nằm trong tòa nhà này, Alice chỉ vào một tòa nhà gạch xây sừng sững, nếu căn cứ vào những tháp xi lô và ống khói của nó, sẽ thấy hẳn đó là một nhà máy lớn vào thòi hoàng kim phát triển công nghiệp của Brooklyn.

Họ tiến về phía tòa nhà đang thách thức mặt biển. Những bờ kè vắng tanh vắng ngắt. Không một bóng người đi dạo lẫn khách du lịch. Vài quán cà phê nhỏ và các tiệm đồ cũ xếp thành hàng trên phố Van Brunt, nhưng cửa nhôm cuốn vẫn đóng im ủn.

- Chính xác thì người phụ nữ này là ai vậy? Gabriel hỏi trong lúc bước qua đường ống dẫn.

- Một siêu mẫu đã đạt tới đỉnh cao sự nghiệp hồi thập niên 1990.

Mắt anh chàng chơi nhạc jazz ánh lên tia lửa nhỏ.

- Một người mẫu thứ thiệt ấy hả?

- Một chuyện chẳng đâu vào đâu cũng khiến anh phấn khích, có phải thế không? cô nói với anh, giọng trách móc.

- Đâu có, tôi chỉ ngạc nhiên vì sự chuyển ngạch này thôi, anh đáp, vẻ hơi mếch lòng.

- Dù thế nào đi nữa, tranh vẽ và các tác phẩm điêu khắc của cô ta cũng đã bắt đầu có giá đối với các chủ galery.

- Anh bạn Seymour của cô là người ghiền nghệ thuật đương đại hả?

- Đúng vậy, thậm chí cậu ấy còn là một nhà sưu tầm thực thụ ấy chứ. Bố cậu ấy đã truyền lại cho con trai niềm đam mê đó, cùng một khoản thừa kế kếch xù cho phép cậu ấy thỏa mãn đam mê...

- Thế còn cô?

Alice nhún vai.

- Tôi thì chẳng hiểu gì về nghệ thuật hết. Nhưng mỗi người một đam mê thôi: tôi cũng có danh sách ưu tiên của riêng mình.

Anh nhướng mày.

- Vậy cô đam mê cái gì?

- Đám tội phạm, giết người, sát nhân.

Đã tới trước nhà máy cũ, họ dừng sững lại một lát rồi mới nhận ra cánh cửa bằng gang đúc chắn ngang lối vào tầng trệt không hề chốt khóa. Họ bước vào một thang máy quây lưới mắt cáo có vẻ giống với một thang chở đồ rồi bấm nút lên tầng trên cùng. Buồng thang máy mở ra một mặt bằng bê tông dẫn tới một cánh cửa kim loại chống cháy. Họ phải bấm chuông nhiều lần mới thấy Nikki ra mở cửa.

* * *

Một chiếc tạp dề bằng da to đùng, đôi găng dày cộp, một cặp ốp tai chống ồn, một chiếc bịt mặt và cặp lánh đen. Vóc dáng cân đối của một cựu người mẫu biến mất sau bộ trang phục của thợ sắt chính cống.

- Xin chào, tôi là Alice Schäfer. Anh bạn Seymour của tôi hẳn đã...

- Hai người vào nhanh lên! Nikki vừa ngắt lời cô vừa cỏi bỏ chiếc bịt mặt và cặp kính râm. Xin báo trước để hai người biết, tôi kệ xác câu chuyện của hai người và cũng không muốn xen vào làm gì. Tôi tháo còng cho hai người rồi hai người rời khỏi đây ngay lập tức, hiểu chứ?

Họ gật đầu rồi khép cánh cửa lại sau lưng.

Nơi này giống với một xưởng sắt hơn là một xưởng sáng tác. Một căn phòng rộng mênh mông, chỉ được ánh sáng ban ngày soi chiếu, bốn bề tường treo các dụng cụ đủ loại: búa đủ kích cỡ, que hàn, mỏ hàn. Những viên than hồng rực cháy đượm trong lò rèn vẽ nên những đường viền sắc cam quanh một cái đe và một que cời lò.

Theo chân Nikki, họ tiến vào một mặt sàn thô và vạch ra được chăng hay chớ một lối đi giữa các tác phẩm bằng kim loại tràn ngập không gian: những bức tranh đồ hình độc bản sắc sơn tía đang sáng lấp lánh trên mặt thép, những tác phẩm điêu khắc trên sắt gỉ với các cạnh sắc nhọn chỉ chực khía lên trần nhà.

- Hai người ngồi kia, nữ nghệ nhân điêu khắc ra lệnh, chỉ về phía hai chiếc ghế sụt hỏng mà cô đã kê trước khi họ đến.

Nóng lòng muốn xong việc, Alice và Gabriel mỗi người ngồi xuống một đầu bàn thợ. Trong khi bắt vít một lưõi cưa dạng đĩa lên một bàn cưa hình tam giác, Nikki yêu cầu họ kẹp sợi dây xích của còng vào một ê tô. Rồi cô làm rung chuyển cái máy của mình trong một âm thanh khủng khiếp và tiến lại gần hai kẻ chạy trốn.

Đĩa cưa đứt mắt xích trong vòng chưa đầy ba giây và dây nối giữa hai mắt còng đột ngột đứt rời. Vài cú đập bằng đục nhọn cuối cùng cũng buộc những cái ngàm của hai vòng còng bằng thép phải nhượng bộ.

Rốt cuộc! Alice vừa thở phào vừa xoa xoa cổ tay trầy xước và rướm máu.

Cô ấp úng vài lời cảm ơn nhưng Nikovski đã lạnh lùng cắt ngang:

- Giờ thì đi ngay cho! cô ta yêu cầu, tay chỉ ra cửa.

Nhẹ người vì đã tìm lại được tự do, cặp đôi vội làm theo.

* * *

Họ quay trở lại bờ kè với nụ cười trên môi. Sự giải thoát này không trả lời cho bất cứ câu hỏi nào của họ, nhưng nó đánh dấu một chặng: họ lấy lại được sự tự chủ, bước đầu tiên để tiến lại gần sự thật.

Như cất được gánh nặng, họ dạo vài bước trên bến cảng. Gió lúc này đã ấm hon. Bầu trời, vẫn xanh như thế, đối lập với vẻ sần sùi thô ráp của cảnh trí hậu công nghiệp: những mảnh đất bị bỏ hoang, hàng dãy nhà kho. Nhất là tầm nhìn đẹp mê hồn. Chỉ cần đưa mắt là người ta bao quát được toàn bộ vịnh New York, từ tượng nữ thần Tự Do cho tới New Jersey.

- Đi nào, tôi đãi cô một tách cappuccino! Gabriel rủ rê bằng giọng tươi vui, chỉ về phía một tiệm cà phê nhỏ xíu nằm trong một toa tàu điện cũ chi chít hình vẽ graffiti.

Alice dập tắt niềm hào hứng của anh.

- Thế anh định trả tách cà phê ấy bằng gì đây? Anh tính ăn trộm cả cà phê hay sao?

Gabriel nhăn mặt, phật ý vì phải đối diện với thực tế. Rồi rờ tay lên cánh tay. Con đau đã cảm nhận được khi nãy quay trở lại và giờ còn nhức nhối hon nữa.

Gabriel cởi áo vest ra. Ống tay áo sơ mi của anh loang lổ vết máu. Anh xắn tay áo lên và nhận thấy miếng băng đang quấn chặt cẳng tay: một miếng gạc vải bản rộng thấm đẫm máu bầm. Nhấc miếng gạc ra, anh phát hiện một vết thương hở hoác ngay lập tức chảy máu trở lại. Toàn bộ cẳng tay anh chằng chịt vết cắt. Thật may là những vết thương ấy không sâu. Những vết khía giống như đang vẽ thành...

- Một dãy số! Alice thốt lên trong khi giúp anh thấm bớt máu.

Khắc trên da anh, con số 141197 nổi bật từ các vết rạch khía rướm máu.

Nét mặt Gabriel đã thay đổi. Chỉ trong vài giây, vẻ nhẹ nhõm của tự do vừa tìm lại được đã nhường chỗ cho một bộ mặt lo lắng.

- Lại mật mã gì nữa thế này? Câu chuyện bệnh hoạn này bắt đầu làm tôi bực mình rồi đấy!

- Dẫu sao thì lần này cũng không phải là một số điện thoại, Alice đoan chắc.

- Có lẽ là một ngày tháng chăng? anh cáu kỉnh hỏi trong lúc mặc lại áo khoác.

- Ngày 14 tháng Mười một 1997... Có thể lắm chứ.

Anh bực bội tìm ánh mắt cô gái trẻ người Pháp.

- Nghe này, chúng ta không thể tiếp tục lang thang mà trong người không có cả giấy tờ lẫn tiền bạc thế này.

- Vậy anh tính thế nào? Đi báo cảnh sát trong khi anh vừa ăn cắp một chiếc ô tô sao?

- Nhưng chuyện này là do cô!

- Ô, có dũng khí gớm! Anh đúng là một quý ông chân chính! Anh nên nhớ, với anh thì dễ rồi, lúc nào cũng là lỗi của người khác. Tôi bắt đầu hiểu rõ con người anh rồi đấy.

Anh cố gắng không bốc hỏa và từ chối đôi co.

- Tôi biết có một hiệu cầm đồ giá cả hợp lý tại Chinatown. Đó là địa chỉ chuyền tay của những nhạc công chơi jazz đôi khi buộc phải cầm đồ nhạc cụ của mình.

Cô đánh hơi thấy cái bẫy được giăng sẵn.

- Và anh muốn chúng ta để lại đó thứ gì đây? Đàn dương cầm của anh chắc?

Anh nở một nụ cười nhăn nhúm rồi nhìn cổ tay của cô nàng dân Paris.

- Thứ duy nhất chứng ta có là chiếc đồng hồ đeo tay của cô...

Cô giật lùi vài bước.

- Chuyện đó thì đừng có mơ, anh bạn thân mến.

- Thôi nào, đó là một chiếc Patek Philippe, không phải sao? Chúng ta sẽ thu về ít nhất là...

- Tôi đã nói với anh là không rồi còn gì! cô gào lên. Đây là đồng hồ của chồng tôi!

- Vậy thì còn gì khác nữa nhỉ? Chúng ta chẳng có gì ngoại trừ chiếc điện thoại di động này.

Khi nhìn thấy anh khua khua chiếc điện thoại vừa rút ra khỏi túi, cô thiếu điều nghẹn họng.

- Anh vẫn giữ chiếc điện thoại đó sao? Tôi đã bảo anh quăng đi rồi kia mà!

- Làm gì có chuyện đó! Chúng ta đã tốn bao nhiêu công sức mới cướp được nó! Và ngay lúc này, đó là tất cả những gì chúng ta có trong tay. Nó vẫn có thể giúp ích cho chúng ta kia mà.

- Nhưng người ta có thê lần ra chúng ta trong vòng chưa đầy ba phút nếu chúng ta còn giữ thứ đó! Anh chưa bao giờ đọc truyện trinh thám hay sao? Anh chưa bao giờ tới rạp chiếu phim hả?

- Thôi được rồi, cô thư giãn đi nào. Chúng ta đâu phải đang đóng phim.

Cô định mở miệng sạc cho anh một trận thì bỗng im bặt. Vẳng theo gió, tiếng hú của một chiếc còi "chuyên dùng cho cớm" khiến đầu óc cô bấn loạn. Cô đứng sững lại vài giây trước những luồng sáng màu đỏ quét ngang đường. Còi hụ vang, đèn hiệu bật sáng, một chiếc xe cảnh sát đang phóng thẳng về phía họ.

* * *

- Lại đây nào! cô hét lên, túm lấy cánh tay Gabriel.

Họ chạy về phía chiếc Mini. Alice lách vào ghế rồi khởi động xe. Phố Van Brunt là phố cụt và chiếc ô tô cảnh sát đang lao tới đã chặn hết đường thoát của họ.

Toàn bộ khả năng chạy thoát thật nhanh...

Lối thoát duy nhất: cánh cổng lưới sắt dẫn ra kè. Rủi thay, cổng đã bị khóa chặt bằng một sợi xích.

Không còn lựa chọn nào khác.

- Cài dây an toàn vào đi, cô vừa ra lệnh vừa làm cho lốp xe rít lên ken két.

Hai tay bám chặt tay lái, Alice tăng tốc khoảng ba chục mét rồi lao chiếc Mini vào giữa hai cánh cổng. Dây xích đứt tung trong tiếng loảng xoảng của kim loại và chiếc ô tô lao trên những phiến gạch lát của đường xe điện cũ chạy vòng quanh nhà máy cải dụng.

Tiu nghỉu, Gabriel hạ cửa kính xuống rồi quăng chiếc điện thoại ra bên ngoài.

- Giờ thì hơi muộn rồi đấy! Alice vừa nạt nộ vừa liếc xéo anh với ánh mắt hình viên đạn.

Ngồi cách mặt đất vài xăng ti mét, cô gái có cảm giác mình đang lái một thứ đồ chơi. Vói khoảng cách trục hẹp và những bánh xe nhỏ xíu, chiếc Cooper xóc nảy trên mặt nền không bằng phăng và méo mó.

Liếc vào gương chiếu hậu. Không ngạc nhiên chút nào, chiếc xe cảnh sát đang bám đuổi họ sát nút dọc theo đường bờ biển. Alice vượt qua các bờ kè thêm chừng trầm mét nữa cho tới khi nhìn thấy một con phố bên tay phải. Cô rẽ luôn vào đó. Mặt đường rải nhựa lại rộng mở và một tuyến đường vừa dài vừa thắng cho phép cô thỏa sức đạp cần tăng tốc để điều khiển xe chạy hết tốc lực ngược lên phía Bắc. Vào giờ này, giao thông trong khu vực thuộc địa phận Brooklyn này bắt đầu đông đúc. Alice vượt liên tiếp hai đèn đỏ, thiếu chút nữa thì gây tai nạn, nhưng chừng ấy chưa đủ để vượt trước chiếc Interceptor của cảnh sát cũng vừa tăng tốc.

Chiếc Mini không phải một chuẩn mực về tiện nghi nhưng lại khá bám đường. Được đà, chiếc xe cà tàng phóng hết tốc lực thực hiện một cú vào cua, lốp nghiến ken két, để quay lại trục đường chính của khu phố.

Alice nhìn thấy trong gương chiếu hậu khung xe của chiếc Taurus đang tiến lại gần đầy vẻ đe dọa.

- Họ đang ở ngay đằng sau chúng ta! Gabriel cảnh báo sau khi ngoái nhìn lại.

Alice chuẩn bị tiến vào đường hầm dẫn sang đường cao tốc. Nỗi cám dỗ được hòa vào dòng xe cộ mới lớn làm sao, nhưng trên xa lộ thì động cơ của chiếc Mini sẽ không thể đấu lại động cơ V8 của chiếc Interceptor.

Tin ở linh cảm của bản thân, Alice phanh lại và đánh tay lái đột ngột đưa chiếc xe lên đoạn đường dốc dành cho khách bộ hành cho phép nhóm công nhân phụ trách việc tu bổ đi vào phần mái của lối đi ngầm.

- Cô đẩy chúng ta vào chỗ chết mất thôi! Gabriel hét lên, ra sức túm chặt dây an toàn.

Một tay bám chặt tay lái, tay kia bám trên cần số, Alice chạy xe chừng hai chục mét nữa trên sỏi. Chiếc xe bắt đầu sa lầy thì tới được chỗ đường nối rải bê tông dẫn về phía Cobb Hill.

Thiếu chút nữa thì...

Liên tiếp những cú ngoặt lái sang trái, sang phải, thay đổi tốc độ.

Chiếc xe lao ra một con phố buôn bán hai bên là các cửa hàng cửa hiệu rực rỡ màu sắc: hàng thịt, hàng gia vị Ý, hàng bánh ngọt, và còn có cả một hàng thợ cạo đang lúc tấp nập!

Ở đây đông đúc quá.

Kẻ bám đuổi vẫn đang theo sát, nhưng Alice tận dụng kích cỡ nhỏ gọn của chiếc Cooper để luồn lách giữa những chiếc xe khác, nhanh chóng rời khỏi con phố quá đỗi đông đúc và trở lại khu vực dân sinh.

* * *

Lúc này, khung cảnh đã thay đổi. Những cảnh trí đậm chất cồng nghiệp của Red Hook đã nhường chỗ cho một vùng ngoại ô yên bình: ngôi nhà thờ nhỏ xinh, ngôi trường nhỏ xinh và những mảnh vườn nhỏ xinh đằng trước những dãy nhà ốp sành đỏ giống hệt nhau.

Bất chấp những đường phố chật hẹp, Alice không giảm tốc mà vẫn lái với bàn chân đặt trên sàn xe, mặt dán vào kính chắn gió, tìm kiếm một ý tưởng. Đằng sau cửa kính, khung cảnh diễu qua với tốc độ chóng mặt. Hộp số của chiếc Mini khá đơn giản, ở tốc độ này, mỗi lần Alice sang số lại nghe vang lên một tiếng rắc khiến người ta nghĩ rằng hộp số sắp long ra đến nơi.

Alice đột ngột dừng xe khi họ vừa vượt qua một ngõ nhỏ. Cô cho xe chạy lùi rồi phóng thật nhanh vào ngõ.

- Không phải vậy chứ, đây là đường cấm mà!

Để mọi sự thêm phần bi đát, một chiếc ô tô hòm giao hàng đã chắn ngang đường khiến giao thông ùn tắc.

- Chạy chậm lại nào! Chúng ta sắp đâm vào chiếc xe tải UPS rồi kìa!

Lờ tịt lời cảnh báo đó, Alice tăng tốc hon nữa để chiếc Mini được đà lao lên vỉa hè. Vốn đã quá cũ mòn, các thanh giảm sóc rời ra. Alice bấm còi không ngơi tay và vừa liếc vào kính chiếu hậu bên ngoài vừa ra sức mở một lối đi. Không thể bám theo họ, chiếc xe cảnh sát phải dừng lại đối mặt với chiếc xe tải giao hàng.

Được vài giây ngơi nghỉ!

Vẫn trên vỉa hè, chiếc ô tô nhỏ nhắn ngược lên đầu phố và ngoặt gấp sang phải để trở xuống lòng đường.

Họ đang tiến về phía một khu vườn kiểu Anh, bao quanh là hàng rào thép: công viên Cobble Hill Park.

- Anh có biết ta đang ở đâu không? Alice hỏi trong lúc lái xe chầm chậm dọc theo hàng rào.

Gabriel đọc những tấm biển chỉ đường.

- Rẽ phải đi, chúng ta sẽ tới đại lộ Atlantic.

Cô làm theo lời anh và họ tới một đường bốn làn: trục đường huyết mạch xuyên từ Đông sang Tây New York từ vùng phụ cận JFK tới tận đôi bờ sông East. Alice lập tức nhận ra tuyến đường. Đôi khi những chiếc taxi vẫn đi đường này để ra sân bay.

- Chúng ta đang ở gần cầu Manhattan phải không?

- Cầu ở ngay đằng sau chúng ta.

Cô vòng xe quay trở lại đường liên bang. Chẳng mấy chốc cô đã nhìn thấy điểm nút giao thông dẫn tới Manhattan. Những cây cột xam xám của cây cầu treo hiện ra từ đằng xa. Hai tòa tháp bằng thép được giằng bởi một mớ nhằng nhịt những dây cáp và thừng chão.

- Đằng sau chúng ta kìa!

Chiếc xe cảnh sát đã lại theo sát họ.

Đã quá muộn để đổi hướng.

Đến nước này, chỉ còn hai giải pháp: hoặc đi về phía Long Island hoặc quay trở lại Manhattan. Họ đi theo lối ra 29A để quay lại cầu. Bảy làn đường giao thông, bốn đường tàu điện ngầm và một làn đường dành cho xe hai bánh: cầu Manhattan là một loài chằn tinh nuốt chửng hành khách cùng các xe cộ tại Brooklyn rồi lại khạc ra lên hai bờ sông East.

Bỗng chốc lòng đường hẹp lại. Trước khi tới lối lên cầu, phải men theo một đường nối bằng bê tông vẽ nên một vòng lượn dài.

Lối này đã đông nghịt, buộc dòng xe cộ phải chạy xe này sát xe kia. Bị cuốn vào đám tắc đường, Alice bật cảnh báo giống như các xe khác. Cảnh sát đang ở đằng sau họ, cách chừng trăm mét. Cảnh sát có còi hiệu cũng vô ích, trên phần đường này, lối đi quá hẹp để các xe có thể dạt sang một bên và nhường lối cho cảnh sát. Nhưng hai kẻ đào tẩu cũng chẳng có cơ may thoát ra.

- Hỏng kiểu rồi, Gabriel nhận định.

- Không đâu, chúng ta có thể vượt qua cầu.

- Cô thử nghĩ mà xem: họ đã có dấu hiệu nhận dạng của chúng ta và lúc này họ còn biết phương tiện di chuyển của chúng ta nữa. Thậm chi nếu có qua được cầu chăng nữa thì các xe tuần tra khác cũng sẽ đón lõng chúng ta ở lối xuống cầu thôi!

- Anh thôi cái kiểu cao giọng đó đi, OK? Xin báo để anh biết là chính tại anh mà cảnh sát mới lần ra chúng ta! Tôi đã bảo anh quăng chiếc điện thoại khốn kiếp đó đi cơ mà!

- OK, tôi đã làm mọi chuyện rối tinh, anh nhượng bộ.

Cô nhắm nghiền mắt vài giây. Cô không nghĩ đám cảnh sát đã nắm được danh tính của họ, và nói cho cùng, chuyện đó nào có quan trọng. Ngược lại, Keyne nói phải: vấn đề chính là chiếc xe họ đang lái.

- Anh nói có lý.

Khi quan sát thấy đằng xa dòng xe cộ đã thông thoáng hơn một chút, cô tháo dây an toàn rồi mở cửa xe.

- Cầm lái đi, cô ra lệnh cho Gabriel.

- Gì kia, nhưng... cô bảo sao kia, tôi nói có lý ấy hả?

- Chiếc xe chúng ta đang lái không được kín đáo cho lắm. Tôi sẽ thử làm gì đó xem sao.

Ngạc nhiên, anh vặn vẹo người để đổi chỗ sang ngồi ghế lái. Trên quãng đường vòng dẫn lên cầu, dòng xe cộ tiếp tục chạy chậm rì. Anh nheo mắt để không mất dấu Alice. Những phương sách của cô gái này không ngừng khiến anh ngạc nhiên. Không thể nắm bắt, cô đang luồn lách giữa đám tắc đường. Rồi anh bỗng phát hoảng khi thấy cô rút khẩu súng từ trong áo khoác ra. Cô đã tiến ngang tầm một chiếc Honda Accord cũ kỹ màu be.

Chiếc xe của Ngài Như-tất-cả-mọi-người, anh bỗng hiểu ra.

Cô nắm chặt vũ khí trong tay, chĩa họng súng thẳng hướng cửa kính. Người phụ nữ ngồi trên xe bước ra không chút kháng cự. Bà ta bước qua rào chắn và rảo bước xuôi xuống hơn hai chục mét trên bờ dốc cỏ mọc đầy hòng chạy trốn.

Gabriel không thể kìm nổi một tiếng huýt sáo thán phục. Anh quay lại. Chiếc xe cảnh sát đang ở phía đối diện, dưới mé thấp của đoạn đường vòng. Ở khoảng cách này, không thể có chuyện họ nhận thấy bất cứ diễn biến nào.

Đến lượt mình, anh bỏ lại chiếc Mini rồi tới chỗ chiếc Honda gặp Alice đúng lúc dòng xe cộ lưu thông trở lại.

* * *

Gabriel nháy mắt với cô và giả bộ than vãn để không khí bớt căng thẳng:

- Tôi thì vừa mới bắt đầu gắn bó với chiếc xe Anh nhỏ xinh đó! Trông ra dáng hơn chiếc xe cà tàng này.

Nét mặt Alice đanh lại vì căng thẳng.

- Thay vì làm trò hề, anh hãy mở hộc đựng đồ trên xe xem nào.

Gabriel làm theo và tìm thấy thứ anh thèm nhất từ lúc tính dậy tới giờ: một bao thuốc và bật lửa.

- Lạy Chúa lòng lành! anh thốt lên rồi châm một điếu.

Anh rít hai hơi thuốc dài rồi đưa điếu thuốc cho Alice. Không buông tay lái, đến lượt cô rít thuốc. Vị hăng hắc của thuốc lá xộc lên tận óc cô. Cô cần ăn thứ gì gấp, nếu không cô sẽ ngất ra đây mất.

Cô hạ cửa kinh xe để hít thở chút không khí trong lành. Bên phải, những tòa nhà chọc trời của khu Midtown đang lấp lánh nghìn tia sáng, trong khi bên trái là những khối nhà của khu Lower East Side khiến cô nhớ tới cảnh trí trong những cuốn truyện trinh thám cũ mà Paul, chồng cô, thường nghiến ngấu.

Paul...

Cô gạt kỷ niệm sang một bên rồi nhìn đồng hồ đeo tay. Đã hơn một giờ trôi qua kể từ khi họ vô thức tỉnh dậy trong công viên. Kể từ đó, cuộc điều tra của họ chưa hề mảy may có tiến triển. Không chỉ là điều bí ẩn vẫn còn đó, mà còn nảy sinh thêm nhiều câu hỏi khác, càng khiến tình huống này thêm mơ hồ. Và thêm nguy hiểm.

Công cuộc tìm hiểu của họ phải chuyển sang tốc độ cao hơn và về điểm này thì Gabriel đã không lầm: họ không thể làm gì nhiều nhặn nếu chẳng có xu nào dính túi.

- Cho tôi địa chỉ hiệu cầm đồ của anh, cô yêu cầu trong khi chiếc xe chạy thẳng hướng Manhattan.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro