Phần 3: Máu và nộ khí - 16. Theo dấu tên sát nhân

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

16

Theo dấu tên sát nhân

Những điều kinh khủng và đẫm máu đôi khi là những điều đẹp nhất.

Donna TARTT

Những cây số đường trôi qua.

Mải suy nghĩ, đốt thuốc hết điếu này đến điếu kia, Gabriel lái xe với đôi mắt gắn chặt vào mặt đường.

Một tấm biển chỉ dẫn thông báo: Lối ra tiếp theo Hartford, rồi ngay tiếp đó là một tấm biển khác: Boston 105 dặm. Với tốc độ này, trong vòng hai giờ nữa họ sẽ có mặt tại văn phòng FBI.

Tì trán vào cửa kính xe, Alice cố gắng sắp xếp lại suy nghĩ. Dưới ánh sáng của những phát hiện mới nhất, cô sắp xếp thông tin, tổng họp các tình tiết và dữ liệu trong các dạng hồ sơ tưởng tượng mà tiếp đó cô cất vào các ngăn khác nhau trong não bộ.

Có một điều đang khiến cô băn khoăn. Những lời Seymour nói liên quan đến các camera giám sát tại bãi đỗ xe: chúng đã ghi lại được biển số xe chị, nhưng bên trong xe thì tối om.

Cô hết sức khao khát được tận mắt xem những hình ảnh đó.

Vẫn là nhu cầu kiểm soát mọi thứ.

Xác minh từng chi tiết.

Nhưng làm thế nào bây giờ? Gọi lại cho Seymour chăng? Chẳng ích gì. Cậu ta đã báo trước cho cô: tôi đã ghé đồn cảnh sát Franklin-Roosevelt và xem qua các băng ghi hình nhưng không thấy được gì nhiều nhặn. Seymour đã xem cuộn băng ghi hình nhưng không cầm nó trong tay. Cũng hợp lý thôi. Nếu không có giấy yêu cầu ủy thác thì cậu ta không thể nào cho tịch thu cuộn băng được. Cậu ta đã tới bãi đỗ xe và hẳn đã phải thương lượng ra trò với gã phụ trách an ninh để có thể xem cuộn băng tại chỗ.

Cô thầm điểm lại trong tâm trí những mối quan hệ mình có. Cô mở điện thoại rồi bấm số di động của ủy viên Maréchal, phó giám đốc cảnh sát giao thông vùng.

- Chào Franck, tôi Schäfer đây.

- Alice hả? Cô đang ở đâu đấy? Số điện thoại đang hiển thị có thêm đầu số này.

- Tôi đang ở New York.

- Đội Hình sự cử cô đi công tác sao?

- Chuyện này kể ra thì dài lắm, tôi sẽ giải thích với ông sau...

- Được, tôi hiểu mà. Vẫn đang điều tra đơn lẻ chứ gì. Cô sẽ chẳng bao giờ thay đổi đâu!

- Không thay đổi, đúng vậy đấy, vả lại chính vì chuyện đó mà tôi gọi cho ông đây.

- Alice à, giờ là 10 giờ đêm rồi! Tôi đang ở nhà... Cô muốn gì nào?

- Cuộn băng ghi hình lấy từ một chiếc camera giám sát. Bãi đỗ xe Vinci trên đại lộ Franklin-Roosevelt. Tôi tìm kiếm tất cả những gì ông có thể tìm thấy về một chiếc

Audi TT màu xám xà cừ...

- Ơ này, tôi phải cản cô ngay, đó là một bãi đậu tư nhân!

Ông im lặng rồi nói tiếp:

- Cô muốn tôi làm gì đây?

- Việc mà ông biết quá rõ rồi đấy. Ông quen những người làm việc tại bãi đỗ Vinci: ông thương lượng, ông đe dọa, ông chiều chuộng lấy lòng. Ông có giấy bút gì trong tay để ghi lại biển số xe chưa?

- Tôi không...

- Ông còn nhớ khi tôi tóm được con trai ông hồi còn làm việc ở Đội phòng chống ma túy chứ? Ông đã vô cùng hài lòng khi thấy tôi tránh được cho thằng nhóc cảnh tù tội, phải không nào? Ông có muốn tôi nhắc để ông nhớ thằng nhóc mang theo mình bao nhiêu gam cocam không nhỉ?

- Mẹ kiếp, chuyện xảy ra đã ngót mười năm rồi nhé, Schäfer! Tôi sẽ không mắc nợ cô cả đời này đấy chứ?!

- Thực ra tôi nghĩ là có đấy. Chúng ta cứ coi đó như án chung thân đi: đó là nguyên tắc khi chúng ta có con mà, phải không? Được rồi, ông ghi lại biển số xe này nhé?

Maréchal thở dài nhẫn nhục.

- Ngay khi có được cuộn băng, ông gửi luôn cho tôi theo địa chỉ mail cá nhân, OK? Và đừng có kề cà: tôi cần cuộn băng đó ngay tối nay.

Alice hài lòng dập máy, rồi trước ánh mắt dò hỏi của Gabriel, cô tóm tắt lại nội dung cuộc trò chuyện. Anh chàng đặc vụ FBI muốn châm một điếu thuốc nữa nhưng bao thuốc đã rỗng.

- Vẫn chưa có tin gì từ bố cô à?

Alice lắc đầu. Gabriel gặng hỏi:

- Thế mà chính ông ấy lại là người nắm giữ chìa khóa đầu tiên của bí mật này. Nếu ông ấy đã nói sự thật với cô, và đã thực sự thủ tiêu Vaughn thì chúng ta đã nhầm hung thủ mất rồi.

- Anh tưởng tôi không biết điều đó hả?

Gabriel vò nhàu bao thuốc trong chiếc gạt tàn.

- Tôi không biết ông ấy được lọi lộc gì khi nói dối cô.

Alice nhún vai.

- Có lẽ ông ấy muốn giúp tôi bước sang một trang mới sau tai nạn đó.

Gabriel bĩu môi nghi hoặc.

- Chỉ vì thế mà phải bịa ra toàn bộ câu chuyện đó sao?

- Có thể thấy rõ là anh còn chưa biết bố tôi.

- Quả có thế thật.

Cô nhìn qua cửa kính những thanh chắn trên đường đang diễu qua với tốc độ chóng mặt, tạo ra một hành lang thép và bê tông.

- Ông thuộc kiểu người lắm tài nhưng cũng nhiều tật, cô giải thích. Vì quá hiểu tôi nên ông sợ rằng tôi sẽ dám làm tất cả để trả thù và tự tay giết Vaughn. Việc ông tìm cách ngăn tôi làm điều ngu ngốc không phải là chuyện không thể xảy ra.

- Nói gì thì nói, cô cũng không muốn thử gọi lại cho ông ấy à?

- Làm vậy chẳng ích gì đâu, nếu nghe được tin nhắn thoại của tôi thì ông ấy hẳn đã liên lạc rồi.

- Thôi nào, một cuộc gọi cuối cùng rồi tôi để cho cô yên, anh cố nài với một nụ cười.

Alice nhẫn nhịn bấm số điện thoại của bố rồi bật loa ngoài.

"Alain Schäfer. Không rảnh ngay lúc này. Để lại lời nhắn sau tiếng bíp."

- Thật lạ là ông ấy không gọi lại cho cô, phải không?

- Bố tôi không phải loại người cứ năm phút lại ngó chăm chăm vào màn hình điện thoại di động. Hơn nữa, từ khi về nghỉ hưu, ông ấy chỉ còn đam mê mỗi vụ thám hiểm hang động. Vào giờ này, có lẽ ông ấy đang ở trong một hang động nào đó cùng các bạn hữu thuộc câu lạc bộ cựu cảnh sát tư pháp, tại Isère hoặc dãy Pyrenees.

- Chúng ta không gặp may rồi..., Gabriel lẩm bẩm.

Alice vừa dập máy thì tiếng chuông điện thoại vang lên trong buồng lái. Cô nhấc máy luôn rồi hỏi bằng tiếng Pháp:

- Bố ạ?

- Well, I'm afraid not. I'm Thomas Krieg. Gabriel gave me your number. May I...[1]

Cô bật loa ngoài rồi đưa điện thoại cho Keyne. Gabriel ngạc nhiên cầm lấy điện thoại.

- Thomas hả?

- Chào Gab. Éliane Pelletier đã chuyển cho tôi kết quả phân tích ADN từ vết máu thu được trên áo sơ mi. Tôi đã nhập dữ liệu vào Codis, và cậu thử đoán xem? Chúng ta đã tìm ra người chiến thắng!

Hai viên cảnh sát nhìn nhau. Cả hai đều thấy tim đập dồn trong lồng ngực.

Alice chỉ cho Gabriel một tấm biển chỉ đường.

- Thomas này, hai ki lô mét nữa có một trạm nghỉ đường bộ. Chúng tôi sẽ dừng xe rồi gọi lại cho cậu.

* * *

Grill 91 là một tòa nhà hình chữ nhật dài hơi cũ kỹ, với các khối nhà đồ sộ và một chiều cao dưới trần ngoạn mục, như ta vẫn thường thấy trong thập niên 1970. Ngay cả khi các tấm vách kính không trông ra Thái Bình Dương (mà trông ra bãi đỗ xe của một trạm nghỉ trên đường cao tốc liên bang 91), hình dạng hình học và độ trong suốt của nó nhắc nhớ nhiều đến những căn biệt thự lớn ở California hơn là những căn nhà tồi tàn có hai sườn mái dốc New England.

Được trang trí bằng khẩu hiệu Miles away from ordinary, chiếc đồng hồ treo tường, mang logo của một nhãn hiệu bia Mexico nổi tiếng, chỉ 16 giờ 12. vầng mặt trời mùa thu đẹp đẽ tỏa chiếu xuống một căn phòng gần như vắng tanh. Đằng sau quầy, một cô phục vụ đang vừa lắng nghe tiếng kèn saxophone của Stan Getz vừa mơ mộng.

Alice và Gabriel ngồi vào một chiếc bàn ở cuối phòng, càng xa quầy thu ngân và quầy rượu càng tốt. Họ đã đặt chiếc điện thoại di động ở chế độ loa ngoài ra giữa bàn và trang nghiêm lắng nghe giọng nói trầm đầy phấn khích của Thomas Krieg đang phác ra cho họ một chân dung lạ lẫm.

- Vết máu dính trên chiếc áo sơ mi đó thuộc về một gã nào đó tên là Caleb Dunn, bốn mươi mốt tuổi, có hồ sơ lưu trong cơ sở dữ liệu Codis vì phạm những tội không mấy nghiệm trọng, bị bắt cách đây tám năm tại California vì buôn bán chất ma túy và chống đối lực lượng chức năng. Hắn đã ngồi tù sáu tháng tại Salmas Valley, rồi hắn có cuộc sống ổn định hơn, đã chuyển tới bờ Đông và tìm được việc làm. Cho đến giờ hắn vẫn im hơi lặng tiếng.

Alice ghi chép thật nhanh lên một tờ khăn giấy. Gabriel hỏi:

- Hắn làm nghề gì?

- Gác đêm trong một nhà dưỡng lão tại Concord thuộc bang New Hampshire.

- Bây giờ các nhà dưỡng lão lại tuyển cả những kẻ có tiền án tiền sự ư?! Gabriel ngạc nhiên.

- Tất cả mọi người đều có quyền có một cơ hội mới, phải không nào?

Alice vặn vẹo nắp chiếc bút bi khuyến mãi mà cô phục vụ cho mượn.

- Cậu có địa chỉ nơi ở của hắn không?

- Có đây, Krieg đáp. Một căn nhà tồi tàn tại Lincoln, giữa dãy White Moutains. Cậu muốn chúng ta làm gì đây, Gab?

- Ngay lúc này thì không có gì nhiều. Phần cậu cứ khai thác thêm vụ này. Lát nữa chúng ta nói chuyện tiếp nhé. Khoảng hai giờ nữa chứng tôi sẽ có mặt tại Boston.

- Nói gì thì nói cũng phải cho tôi biết thêm về mọi chuyện đi chứ. Sếp tưởng cậu vẫn ở Ai Len...

- Ngay lúc này đừng nói gì với ông ấy. Lát nữa tôi sẽ giải thích với ông ấy sau. Mà cậu có ảnh của Dunn không?

- Để tôi gửi cho cậu qua mail.

- Không được đâu, cái điện thoại này phải có từ thời tiền sử rồi.

Gabriel liếc nhìn bộ đồ ăn để bàn trên đó ghi thông tin liên lạc của nhà hàng.

- Gửi fax cho tôi nhé.

- Fax ấy hả? Cái thứ mà chúng ta thường sử dụng trước khi Internet xuất hiện sao?

- Đúng thế đấy, cậu cứ mặc xác tôi. Tôi đang ở Grill 91, một trạm dừng chân ven đường cao tốc 91. Tôi đọc cho cậu số fax nhé. Cậu gửi ảnh và địa chỉ nhà dưỡng lão cũng như địa chỉ nhà của Drum cho tôi.

Gabriel đọc số fax rồi gác máy. Hai viên cảnh sát im lặng nhìn nhau. Cuộc điều tra của họ đang chẳng dẫn đến đâu cả. Quá nhiều hướng điều tra. Quá nhiều câu hỏi. Quá ít cơ sở để kết nối các sự kiện không có mối liên quan rõ ràng. Gabriel lên tiếng phá tan bầu không khí im lặng:

- Chết tiệt thật, chứng ta chẳng tiến triển được chút nào! Sao máu của một người gác đêm lại có thể dính trên áo sơ mi của cô chứ?

- Anh nghĩ tôi đã bắn hắn sao?

- Cũng không loại trừ khả năng đó. Chính cô đã nói với tôi là trong ổ đạn của khẩu dock đang thiếu một viên còn gì.

Alice nguýt anh.

- Ra thế đấy? Và vì lý do gì cơ chứ? Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến gã này!

Anh giơ hai tay lên để làm hòa.

- OK, cô có lý, tôi cũng mù tịt về chuyện ấy.

Anh bẻ các ngón tay răng rắc trước khi quyết định.

- Tôi đi mua bao thuốc đây. Trong trạm phục vụ này có một siêu thị nhỏ. Cô có cần mua thứ gì không?

Cô lắc đầu và nhìn anh đi xa dần.

Alice lại một lần nữa có cảm giác bỏng rát ở dạ dày, dâng lên tận thực quản. Cô đứng dậy, bước tới tận quầy để báo cho nữ nhân viên phục vụ biết là họ đang chờ một bức fax được gửi tới đây.

- Chị ổn chứ?

- Vâng, vâng. Dạ dày tối hơi đau ấy mà. Sẽ qua nhanh thôi.

- Ôi, mẹ tôi cũng bị đau dạ dày đấy! Chị có muốn tôi làm cho chị một ly sinh tố đu đủ không? Món này hiệu nghiệm lắm đấy!

Đó là một cô Barbie tóc vàng nhỏ nhắn mắc tật cà lăm. Bộ trang phục cheerleader mặc trên người khiến cô trông như vừa bước ra từ phim Grease hoặc một tập phim Glee.

- Cô làm cho tôi một cốc đu đủ nhé, cảm ơn nhiều, cô nói rồi ngồi lên một chiếc ghế quầy bar. Cô tình cờ có tấm bản đồ vùng này ở đây không?

- Đôi khi các khách hàng bỏ quên bản đồ trên bàn đấy. Để tôi đi xem liệu trong văn phòng có còn tấm nào không.

- Cô tử tế quá.

Chưa đầy hai phút sau, Barbie quay lại cùng một tấm bản đồ New England. Alice trải tấm bản đồ ra mặt quầy. Đó là một tấm bản đồ Michelin cũ kỹ có từ thời GPS chưa xuất hiện, khi thói nghiện smartphone và Internet chưa xuất hiện, con người chưa đầu hàng để trở thành nô lệ của công nghệ.

- Tôi có thể viết lên đây chứ?

- Vâng, nó là của chị mà: món quà quán chúng tôi dành cho khách. Ly sinh tố của chị đây.

Alice mỉm cười với cô bé thay lời cảm ơn. Cô cảm thấy mến cô bé này: dễ thương, giản dị, cuốn hút. Cô bé bao nhiêu tuổi rồi nhỉ: mười tám chăng? cùng lắm là mười chín? Alice đã ba mươi tám. Hơn cô bé hai mươi tuổi. Tuổi tác là thế, không tránh được: cô bằng tuổi mẹ cô bé cũng nên. Thòi gian gần đây, cái cảm giác ấy trở đi trở lại càng lúc càng thường xuyên hơn mỗi khi cô gặp những thanh niên trẻ trung. Cô thấy mình ở trong một no man's land lạ lẫm: cảm giác tâm trí mình vẫn đang ở tuổi hai mươi còn cơ thể thì đã bốn mươi.

Thời gian khốn kiếp. Chủ nhân duy nhất của những thứ vốn vô chủ... như một câu cách ngôn Ả Rập đã chỉ ra.

Cô gạt những ý nghĩ này sang một bên rồi tập trung vào tấm bản đồ. Để tự xác định vị trí, cô vẫn luôn có nhu cầu biểu thị mọi thứ ra. Cô dùng bút khoanh vùng các địa điểm khác nhau. Đầu tiên là New York, họ đã rời khỏi đó cách đây hai giờ, và Boston, nơi có chi nhánh của FBI. Hiện tại họ đang dừng chân tại Hartford, chính xác là quãng giữa hai thành phố. Một vệt bút chì nữa: Krieg vừa nói Dunn làm việc tại một nhà dưỡng lão thuộc Concord. Địa danh này ở tít tận phía Bắc, bang New Hampshire, cách đây ít nhất 250 cây số. Krieg cũng đã nói rõ Dunn đang sống tại Lincoln. Cô mất gần một phút mới xác định được địa danh đó. Một nơi khỉ ho cò gáy kẹt cứng giữa hai dãy núi.

- Cô có biết nơi này không? cô hỏi người bạn mới.

- Có, gần đó có một trạm trượt tuyết: Loon Mountain. Tôi với bạn trai đã từng đến đó.

- Nơi đó thế nào?

- Dùng từ sầu thảm mới đúng, nhất là vào mùa đông. Mà còn xa xôi nữa.

Cô cảnh sát gật đầu. Trong phòng nóng đến nỗi cô phải cỏi áo len cổ lọ ra, chỉ mặc mỗi áo phông.

Gabriel quay trở lại phòng ăn với bao thuốc trên tay, anh ngồi vào chiếc ghế quầy bar ngay cạnh chỗ Alice.

- Tôi lấy cho anh thứ gì nhé?

- Cô không có cà phê expresso à?

- Tiếc là không.

- Có lẽ là một lon Perrier chăng?

- Cũng không.

Alice bực mình.

- Cố gắng đi nào, Keyne.

- OK, pha giúp tôi một tách regular coffee.

Trong khi nữ nhân viên trẻ tuổi pha cà phê cho anh, Gabriel quan sát cô bé kỹ lưỡng từ đầu tới chân, kề cà không chút ngại ngần ở phần đầy đặn nhất trên cơ thể đối phương.

- Anh đứt dây thần kinh xấu hổ rồi hay sao! Alice phẫn nộ.

Gabriel vội ngước mắt nhìn trời. Cô nói tiếp:

- Anh đúng ra cũng chỉ là một gã đàn ông như bao gã đàn ông khác mà thôi, cô thở dài.

- Tôi chưa bao giờ nói điều ngược lại, anh rút từ trong bao thuốc ra một điếu rồi giắt nó lên vành tai.

Alice toan vặc lại nhưng không kịp.

- Tôi nghĩ bức fax hai người đang đợi tới rồi đấy, Barbie thốt lên trước khi biến vào văn phòng vài giây.

Khi quay trở lại chỗ họ, trên tay cô bé đã cầm hai trang giấy in được ghim lại cẩn thận.

Hai viên cảnh sát cùng xem tấm ảnh chụp Caleb Dunn lưu trong lý lịch tư pháp.

- Ảnh ọt thế này thà rằng không có còn hơn..., Alice buông lời vẻ thất vọng.

Quả thực, tấm ảnh đen trắng chụp toàn thân, độ phân giải thấp, không giúp được gì nhiều. Trên bức ảnh đó Dunn xuất hiện như bao gã đàn ông khác: tóc nâu, tầm vóc trung bình, một gương mặt không có nét gì đặc trưng và một dáng vẻ chẳng có gì đặc biệt. Quý ngài Như-mọi- người. John Doe.

- Đúng là chẳng nhìn ra đặc điểm nhận dạng nào cả, Gabriel công nhận. Ai chụp ảnh trông chả giống thê này.

Anh chàng cảnh sát cố vượt qua nỗi thất vọng. Anh lật sang trang sau và nhìn thấy hai dòng địa chỉ mà Thomas Krieg đã tự tay viết thêm: địa chỉ nhà dưỡng lão và địa chỉ ngôi nhà tồi tàn của Dunn.

- Cô không thấy chuyện này rất kỳ lạ sao, chuyện nhà dưỡng lão thuê một kẻ từng ra tù vào tội làm người gác đêm ấy?

Alice không trả lời. Mắt cô vẫn nhìn chăm chú vào bức ảnh, cô gắng thấu hiểu "bí mật mang tên Dunn".

Gabriel nhấp một ngụm cà phê rồi cố kìm điệu bộ nhăn mặt vì ghê tởm.

- Cô đưa tôi mượn điện thoại di động được không? Tôi cần xác minh chuyện này.

Anh bấm số tổng đài để được kết nối với St Joseph's Center, nhà dưỡng lão nơi Dunn làm việc. Anh xưng danh "đặc vụ Keyne của FBI" với cô lễ tân rồi yêu cầu được nói chuyện với giám đốc viện dưỡng lão. Vì giờ đây họ đã quen với việc này, Gabriel mở loa ngoài để Alice có thể nghe được cuộc trò chuyện.

- Julius Mason xin nghe. Chính tôi có hân hạnh điều hành viện dưỡng lão này đây. Tôi có thể giúp gì cho anh?

Gabriel viện cớ một cuộc điều tra thông thường để hỏi thông tin về Dunn.

- Tôi hy vọng không có xảy ra chuyện gì với Caleb, Mason lo lắng.

- Tối hôm qua anh ta vẫn tới làm việc chứ?

Vị giám đốc thiếu chút nữa thì nghẹn họng.

- Nhưng Caleb Dunn đâu còn làm việc ở chỗ chúng tôi nữa, anh ta thôi việc cách đây ngót hai năm rồi!

- Thật sao? Tôi... tới không biết chuyện đó.

Gabriel khó khăn lắm mới giữ được vẻ bình thản.

Alice không thể nhịn được cười: ngay đến FBI còn không cập nhật được hồ sơ của mình nữa là. Thói chậm chạp và phức tạp hóa thủ tục hành chính không chỉ là thói tật của riêng gì nước Pháp.

Gabriel tiếp tục cuộc hỏi cung với giọng kiên quyết:

- Lúc nhận Dunn vào làm việc ông có biết anh ta từng có tiền án tiền sự không?

- Tiền án tiền sự ư? Thôi nào, anh ta chỉ bán vài tép cocain và nói năng quá thẳng thắn với gã cảnh sát ngớ ngẩn đã bắt giữ anh ta. Vụ này quá hay ho ấy chứ! Thật không đáng bị tống vào tù.

- Đó là suy nghĩ của riêng ông thôi.

- Vâng, và tôi đang chia sẻ suy nghĩ ấy.

Alice mỉm cười lần nữa. Người đàn ông này không hợp để khai thác thông tin.

- Ngày còn làm việc chỗ các ông, Dunn chưa từng có một cách xử sự nào bất thường hoặc sai trái ư? Không có điều gì khiến ông cảm thấy kỳ lạ sao?

- Không, ngược lại là khác: Caleb là người vô cùng nghiêm túc, và hết sức tử tế. Nhân viên và những người từng lưu lại đây đều không tiếc lời ngợi khen anh ta.

- Vậy thì tại sao anh ta lại không làm việc chỗ các ông nữa?

Mason thở dài.

- Hội đồng hành chính muốn giảm chí phí vận hành. Để tiết kiệm được vài đồng bạc, kể từ đó chúng tôi đã liên hệ với một công ty cung cấp người gác cổng ngoại trú. Làm vậy rẻ hơn, nhưng cũng phi nhân cách hơn nhiều.

- Ông có biết sau đó Dunn tìm được việc ở đâu không?

- Dĩ nhiên là biết, và rất nhanh nữa là đằng khác. Chính tôi đã giới thiệu anh ta tới làm trong một bệnh viện tại Maine, bấy giờ bên đó đang tìm một người gác đêm nghiêm túc.

- Ông có tên bệnh viện đó chứ?

- Để các anh có thể cập nhật các hồ sơ chết tiệt của các anh và tiếp tục quấy rầy các công dân lương thiện sao?

- Làm ơn đi ông Mason...

- Đó là bệnh viện Sebago Cottage thuộc quận Cumberland.

Hai viên cảnh sát nhìn nhau vẻ sững sờ. Cơ thể họ cùng căng ra. Bệnh viện Sebago Cottage cũng là nơi làm việc của Elizabeth Hardy, nữ y tá bị siết cổ tại nhà riêng cách đây mười ngày.

* * *

Những cảnh sát từ đầu tới chân.

Những cảnh sát tới tận đầu ngón tay.

Những cảnh sát cho tới tận cùng con người họ.

Họ không mất nhiều thời gian thảo luận đã đi tới thống nhất. Họ sẽ không mất thời gian tới Boston nữa. Họ sẽ hoạt động theo nhóm hai người, điều tra tự do: lái xe về phía Bắc tới Lincoln rồi trực tiếp hỏi cung gã Caleb Dunn này.

- Tôi đã bỏ qua gã này trong quá trình điều tra, Gabriel thừa nhận. Elizabeth Harly bị sát hại tại nhà riêng, một ngôi nhà gần Augusta. Cô ấy đã tắt hệ thống chuông báo động, chi tiết ấy khiến chúng tôi nghĩ rằng cô ấy quen biết hung thủ. Tôi đã lấy cung nhiều người quen biết trực tiếp với cô ấy. Bạn bè, các đồng nghiệp. Tôi cũng đã đích thân tới bệnh viện Sebago Cottage, nhưng tên của gã này chưa từng xuất hiện trong các ghi chép của tôi. Tôi chắc chắn đó không phải một người gần gũi với Hardy.

- Bao lâu nữa chúng ta có thể tới được đó?

Anh chăm chú quan sát tấm bản đồ, dùng ngón tay vạch ra quãng đường tới Lincoln.

- Tôi cho là khoảng bốn giờ nữa. Chưa đến bốn giờ nếu ta lờ đi các hạn chế về tốc độ.

- Đến mức ấy sao?

- Chứng ta có thể theo quốc lộ tới tận Bradford, nhưng sau đó, ta buộc phải đi sâu vào vùng núi. Chiếc xe này chạy tốt, nhưng nó không còn mới mẻ gì cho cam; đèn báo dầu khiến tôi thấy lo và tôi cũng đã xem qua bánh xe sơ cua: nó xẹp lép rồi. Trước khi tiến sâu vào vùng núi, ta phải ghé qua một ga ra sửa chữa.

Barbie, không để sót mẩu hội thoại nào giữa họ, kêu lên:

- Anh họ tôi làm thợ sửa xe đấy! Nếu hai người muốn tôi có thể gọi cho anh ấy?

Gabriel nhướng mày.

- Chúng tôi có thể tìm anh ta ở đâu?

- Ở Greenfield, cô bé nói rồi chỉ vào thành phố nhỏ trên bản đồ.

Anh nhìn tấm bản đồ. Chỗ đó cách đây chưa đầy một giờ đường.

- Anh ta biết xử lý một chiếc Mustang cũ chứ?

- Đơn giản nhất là hỏi thẳng anh ta xem sao, Alice xen ngang. Cô gọi cho anh ta đi!

Anh chàng cảnh sát gật đầu và Barbie vội vớ lấy điện thoại.

Trong khi Alice nháy mắt với Barbie một cách đồng lõa, thực quản của cô lại cảm nhận một tia trào ngược bỏng rát. Dữ dội chưa từng thấy. Như thể chất axít đang gặm mòn niêm mạc dạ dày cô.

Khi cảm thấy vị tanh lòm dâng trong miệng, cồ tụt xuống khỏi ghế rồi tiến về phía toa lét.

* * *

Mình sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì lấy hai viên Inexium!

Toàn thân rung chuyển vì cơn buồn nôn, Alice cúi xuống bồn cầu. Thực quản như có lửa đốt, cô liên tục xoa bụng mà vẫn không thể làm dịu đi cảm giác nóng rực. Tại sao cơn đau này lại dữ dội đến thế? Trầm cảm ư? Nỗi phấn khích vì được điều toa? Cơn mệt mỏi?

Cô tiếp tục xoa thêm vài phút rồi đứng thẳng dậy và bước tới lavabo để rửa tay. Cô tránh nhìn mình trong gương: không muốn bắt gặp đôi mắt thâm quầng cũng như nét mặt hốc hác vì kiệt sức. Cô vã nước lạnh lên mặt rồi nhắm mắt lại một lúc. Tại sao sáng nay cô lại tình dậy với chiếc áo sơ mi dính máu của Caleb Dunn được nhỉ? Và người đàn ông này thực ra là ai? Một đệ tử của Vaughn, kẻ hẳn đã sử dụng cùng cách thức để sát hại nữ y tá kia chăng?

Hay chính là Vaughn?

Không, ngay lúc này cô từ chối xem xét giả thiết đó. Bố cô có đủ khiếm khuyết trên đời, nhưng cô không muốn tin rằng ông có thể dựng lên một lời nói dối hoàn hảo đến vậy. Quá biến thái. Quá nguy hiểm. Quá quá quắt. Tại Pháp, từ hai năm nay, các cảnh sát giỏi nhất đã vây bắt Vaughn không ngừng nghỉ mà vẫn không thu được kết quả.

Đây chính là bằng chứng cho thấy tên giết người hàng loạt đã chết, cô cố gắng thuyết phục bản thân.

Vì Seymour sẽ sớm khẳng định chuyện đó, rằng xác Vaughn đã rữa ra dưới đáy giếng gần một tòa nhà cải dụng thảm thê trong một xó xỉnh heo hút thuộc miền Đông nước Pháp...

Nước rỏ tong tong xuống ngực cô.

Cô rút hai tờ khăn giấy từ trong hộp rồi lau cổ và ngực. Cô cảm thấy hơi lấn cấn nên cúi xuống nhìn.

Và chính vào lúc đó cồ nhìn thấy nó.

* * *

Một vật thể lạ, được cấy dưới da cô, chừng bốn hoặc năm xăng ti mét bên dưới xương đòn. Alice ấn mạnh hon nữa vào da để vật đó nổi lên.

Đó là một mảnh cấy to cỡ thẻ sim loại lớn: một hình chữ nhật chừng một hoặc hai xăng ti mét vuông, các cạnh tròn xuất hiện rõ hon khi cô căng da.

Tim cô đập dồn và dội thình thịch lên hai thái dương.

Khỉ thật, kẻ nào đã cấy thứ này dưới da mình? cô lo sợ.

Theo bản năng, cô tìm kiếm dấu vết của một cuộc phẫu thuật mới đây. Đứng trước gương, cô cởi áo phông, nghe ngóng và sờ nắn từng phần trên cơ thể: ngực, lồng ngực, nách.

Tuyệt nhiên không có dấu vết nào của một vết rạch mới đây. Không một vết sẹo nhỏ.

Trán cô toát mồ hôi đầm đìa. Trong số những câu hỏi đang chen lấn trong tâm trí cô, có hai câu hỏi chính yếu.

Cô mang trong người vật thể này từ bao giờ? Và nhất là: nó dùng để làm gì?

...

[1] Tiếng Anh trong nguyên bản: - À, tôi e là không. Tôi là Thomas Krieg. Gabriel cho tôi số của cô. Liệu tôi...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro