Chuong 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Gươm báu trao vào tay tuấn kiệt

Đại thần tuyên thệ dụng nhân tài

Bọn Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển nhìn Nhạc Phi như muốn nói: Xin Nhạc huynh đừng khiêm nhượng nữa, chúng tôi cũng đang nóng lòng muốn nghe đây!

Biết không thể từ chối được, Nhạc Phi nói:

- Khi trước tôi có nghe tiên sư dạy rằng "Phàm kiếm chi lợi giả, thuỷ đoạn giao long, bộ hoa tây tượng. Hữu long tuyền" Thái A, Bạch Hồng, Tử Điển, Mạc Gia, Cang Tướng, Ngư Trường, Cự Khuyết mỗi cây gươm đều có một nguồn gốc tiểu sử riêng của nó. Riêng cây gươm này hễ rút ra khỏi vỏ thì toát ra một hơi lạnh thấu xương, ấy quả thật là gươm thời Xuân Thu.

Ngừng một lát chàng tiếp:

- Hồi ấy Sở vương muốn thâu tóm các nước chư hầu, lại nghe đến nước Hàn chỗ Thất Lý Sơn có tên thợ rèn Âu Dương chuyên môn đúc gươm, Sở Vương vội sai người đến đòi y về triều phán:

- Trẫm đòi ngươi đến đây để nhờ ngươi rèn cho trẫm một cây gươm.

Thợ rèn Âu Dương tâu:

- Chẳng hay Đại vương muốn thứ gươm gì?

Sở Vương đáp:

- Trẫm muốn một cây Thư, một cây Hùng thật tốt, và hai cây gươm ấy phải biết bay và tự bay đến giết địch thủ theo ý muốn của trẫm, chẳng biết ngươi có thể rèn được không?

Người thợ rèn nghĩ thầm:

- „Sở Vương này bạo ngược lắm, nếu không chịu thì bị giết ngay".

Rồi vội quỳ tâu:

- Gươm ấy, kẻ tiện dân này có thể rèn được, nhưng phải tốn một thời gian lâu lắm e đại vương chờ không được, nghĩa là rèn gươm ấy phải tốn thời gian ba năm mới xong.

Sở Vương nói:

- Thời gian ba năm có lâu chi? Được rồi, ta hẹn cho ngươi ba năm phải làm xong cặp gươm báu này.

Nói rồi, vua truyền lấy gấm nhiễu cùng vàng bạc ban thưởng. Người thợ rèn tạ ơn ra về nói cho vợ hay và để tiền bạc lại cho vợ, lên núi đúc gươm. Sau ba năm hắn đúc được một cặp gươm Thư, Hùng nhưng lại rèn them một cây gươm tầm thường nữa đem về bảo vợ rằng:

- Nay ta đến Sở quốc dâng gươm, nhưng ta tiên đoán rằng Sở Vương được gươm này sẽ giết ta mất.

Vợ hỏi:

- Tại sao vậy?

- Chỉ vì Sở Vương muốn một mình có gươm báu ấy thôi để thâu tóm các nước chư hầu nên sợ ta truyền nghề cho kẻ khác nên phải giết ta. Vì thế ta rèn thêm một cây gươm giả này để thay thế vào cây Hùng gươm kia cho đủ cặp, còn cây Hùng gươm thật ta sẽ chôn giấu tại nhà.

- Để làm gì vậy?

- Vì vua Sở có một cây Thư thôi thiếu cây Hùng thì không thể bay được, vua Sở lại cho ta là dở nên giết ta. Mối thù ấy sau này con ta lớn lên sẽ dùng cây gươm này mà báo oán. Như hiền thê có hay được tin dữ thì đừng than khóc mà mang họa, đợi cho mãn kỳ thai nghén sinh con, nếu con gái thì thôi, bằng con trai thì ráng nuôi nó để nó báo thù cho ta.

Dặn rồi, từ biệt vợ đi qua nước Sở dâng gươm.

Sở Vương thấy tên thợ rèn đến mừng rỡ cho đòi các quan văn võ họp tại giáo trường để thử gươm. Nhưng gươm không bay được, vua bị mất công chờ đợi ngót ba năm, nguồn hy vọng nay biến thành mây khói nên nổi giận truyền quân giết chết tên thợ rèn ngay.

Vợ người thợ rèn nghe tin chồng bị Sở Vương giết cũng không dám khóc than. Thấm thoát đến tuần khai hoa nhuỵ sinh được một trai. Khi đứa nhỏ được bảy tuổi, mẹ nó cho vào trường học. Một hôm nó gây lộn với bạn học, mấy đứa kia mắng:

- Mi là đứa không cha.

Thằng bé tức mình khóc, trở về hỏi mẹ cho biết cha mình đâu? Mẹ bèn kể hết câu chuyện xưa cho con rõ. Đứa bé sục sôi máu hận xin lãnh cây gươm và một mình mang sang nước Sở để rửa hận.

Đi đến Thất Lý San đường sá hiểm trở, đứa bé không biết đường nào đi nữa, nó ngồi khóc mãi, ba ngày sau con mắt chảy máu ròng ròng.

Bỗng có một lão đạo sĩ đi qua thấy thế thương hại hỏi:

- Vì sao cháu khóc đến nỗi chảy máu mắt như vậy?

Nó liền thuật lại câu chuyện sang nước Sở báo thù cho cha mà đến đây không biết đường đi.

Lão đạo sĩ nói:

- Mi còn nhỏ, còn Sở vương thì binh hùng tướng mạnh yểm hộ trước sau, làm sao mi báo thù được? Nhưng ngươi đã có chí như vậy thì ta cũng xin tình nguyện đi báo thù cho ngươi, nhưng muốn đạt được ý nguyện, ta cần dùng một vật của ngươi chẳng biết ngươi có bằng lòng không?

Bằng giọng cương quyết, thằng bé nói:

- Ông có lòng tốt giúp tôi việc này thì dù ông muốn dùng cái đầu của tôi, tôi cũng xin dâng ngay lập tức.

- Đúng đấy, quả thiệt ta muốn dùng cái đầu của ngươi đấy, ngươi có bằng lòng không?

Thằng bé quỳ xuống ngửa cổ ra nói:

- Ông đã không ngại gian lao báo thù cho tôi thì cái đầu này đâu dám tiếc?

Ông đạo sĩ còn lưỡng lự thì thằng bé đã nhanh tay rút gươm tự vẫn. Ông đạo sĩ vội cắt thủ cấp nó và cầm cây Hùng kiếm đi thẳng qua nước Sở.

Đến được cung vua, lão đạo sĩ cười lên ba tiếng ra vẻ khinh mạn rồi khóc lên ba tiếng nghe thảm não. Quân sĩ thấy chuyện lạ kỳ như vậy vào báo vua Sở hay. Vua Sở sai quân ra hỏi, đạo nhân đáp:

- Ta cười là cười cho thế gian không ai biết quý trọng người tài. Chính ta đây là thầy cho thuốc trường sinh bất lão đây.

Quân sĩ vào tâu lại cho Sở Vương hay, Sở Vương cho mời vào, đạo nhân lấy cái đầu thằng nhỏ giơ ra trước mặt Sở vương.

Sở Vương ngạc nhiên hỏi:

- Ấy là cái đầu lâu, sao ngươi gọi là thuốc trường sinh?

Đạo nhân bảo:

- Đây chính là thuốc trường sinh đấy chứ. Xin bệ hạ sai lấy vạc dầu đem tôi nấu cho mà xem. Nấu độ một khắc thì môi nó đỏ, răng nó trắng, chừng hai khắc thì mắt nó đỏ, răng nó trắng, chừng ba khắc thì mắt nó nháy, bốn khắc thì nó kêu lên danh tính nội trào, năm khắc thì cây Diệp Hà trổ ra hoa, đến sáu khắc thì biến thành bụi sen, bảy khắc sen ấy có hột, ăn mỗi hột, sống được một trăm hai chục tuổi.

Sở Vương nửa tin nửa ngờ, sai đem vạc dầu ra, lão đạo nhân thực hiện thì quả nhiên đến bảy khắc có trổ hột sen, cả triều đình văn võ bá quan đều khen ngợi.

Đạo nhân chắp tay mời vua Sở xuống hái hột sen mà lấy thuốc trường sinh.

Sở Vương mừng quá bước xuống chẳng đề phòng, bị đạo nhân rút gươm ra chém một nhát đầu rơi vào vạc dầu. Các quan văn võ thấy vậy liền áp tới bắt tên hành thích, nhưng lão ta tự chặt đầu mình trước. Cái đầu lão ta cũng rớt chung vào vạc dầu ấy. Các quan vớt ra thì ba cái đầu ấy giống hệt như nhau không biết cái nào là của Sở Vương cho nên phải đem chôn hết cả ba cái đầu vào một chỗ. Bởi vậy lời xưa có nói "Sở hữu tam đầu mộ", nghĩa là: Nước Sở có cái mả ba đầu. Còn cây gươm ấy để đến nay tên là Trảm Lư, qua triều Đường thì về tay Tiết Nhân Qúy, chẳng biết sao đến nay lại về tay ông.

Sự tích gươm này theo tôi được biết là như vậy, chẳng biết có đúng không?

Châu Tam Huý nghe qua mừng rỡ bảo:

- Quả thật tinh sinh là người thông kim, bác cổ, quảng văn.

Vừa nói, Tam Huý vừa cầm gươm đứng dậy dâng lên hai tay nói với Nhạc Phi:

- Cây gươm này thất lạc đã lâu đời, nay gặp được người biết, tất nhiên là chủ của nó, vậy xin tiên sinh hãy thâu nhận để ra công giúp nước, thì tôi mãn nguyện vì đã thực hiện lời dặn dò của ông tôi.

Nhạc Phi cũng đứng dậy khiêm nhường từ chối:

- Vật báu của người khác, tôi đâu dám lãnh?

Châu Tam Huý nói:

- Đây chỉ là tiền nhân tôi dạy bảo, tôi đâu dám trái lời.

Nhạc Phi từ chối năm bảy phen rồi mới chịu nhận gươm. Chàng bái tạ Châu Tam Huý rồi xin kiếu từ ra đi mua gươm cho các sư đệ mỗi người một cây.

Khi về đến quán trọ trời đã sẩm tối. Cơm nước xong, Nhạc Phi kêu chủ quán dặn:

- Việc thi cử của chúng tôi ba năm mới có một kỳ, vậy xin người hãy lo cơm nước cho sớm để sáng mai anh em tôi nhập trường cho kịp.

Chủ quán nói:

- Xin chư vị chớ bận tâm, việc ấy tôi hứa sẽ lo chu đáo.

Trống vừa điểm canh tư, chủ quán đã gọi anh em dậy dùng cơm, đoạn sửa soạn thương giáp chỉnh tề cùng nhau thẳng đến giáo trường.

Đến nơi đã thấy võ sinh từ các tỉnh về tề tựu đông đảo. Nhạc Phi nói nhỏ với chư huynh đệ:

Chỗ này đông đúc, ồn ào quá, chúng ta hãy tìm chỗ khác nghỉ, chờ gọi đến tên sẽ nhập trường.

Chợt thấy một người quảy gánh chạy vào gọi:

- Nhạc tướng công đâu?

Vương Quới ứng tiếp đáp:

- Có đây.

Tên quân để gánh xuống nói:

- Thức ăn trong gánh này của Tông Lưu Thú lão gia sai tôi đem đến cho các vị dùng đỡ đói.

Anh em Nhạc Phi đều bái tạ rồi cùng nhau ngồi lại ăn uống.

Trời vừa sáng, đã thấy ba quan chủ khảo: Trương Bang Xương, Vương Đạt và Trương Tuấn đến giáo trường trước, còn ông Tông Trạch chậm bước đến sau. Mấy ông mời nhau ngồi trà nước xong, Trương Bang Xương hỏi Tông Trạch:

- Tông đại nhân, người môn sinh của đại nhân ghi vào bảng rồi chứ?

Tông Trạch nói:

- Môn sinh của tôi là ai đâu?

Trương Bang Xương nói:

- Tên Nhạc Phi ở Thang Âm huyện không phải là môn sinh của đại nhân là gì?

Tông Lưu Thú nghe nói biến sắc mặt, đáp:

- Việc này là quốc gia chọn anh tài để ra gánh vác giang san chứ không phải chúng mình khảo thi riêng, vậy thì trước khi khảo hạch, chúng ta nên lập bàn tuyên thệ để chứng tỏ là công tâm, công đức.

Nói rồi vội sai quân sĩ lập bàn đốt nhanh đèn lên. Tông Lưu Thú quỳ lạy trời đất rồi cất tiếng thề:

- Tôi là Tông Trạch ở Tích Giang, Kim Huê phủ, Nghĩa Điền huyện, được Thiên Tử giao cho nhiệm vụ khảo hạch võ sinh chỉ lấy công tâm mà chọn hiền tài. Như tôi có lòng khi quân ngộ quốc, ăn hối lộ, thì cho tôi thác về nghiệp đao tiễn.

Tông Trạch thề rồi mời Bang Xương cùng thề với mình. Bang Xương nghĩ rằng:

- "Lão này sao lại bày ra chuyện thề nguyền làm chi, nếu mình không thề ắt lão ta nghi kỵ".

Nghĩ đoạn, lão ta quỳ xuống lẩm bẩm:

- "Tôi là Trương Bang Xương ở Hồ Quảng, người Huỳnh Châu, nhờ thánh ân cho làm giám khảo võ sinh, nếu như tôi có khi quân ngộ pháp, ăn của hối lộ thì cho tôi đời này hoá thành con lợn của phiên bang, chiết vì đao kiếm".

Bang Xương thề xong tự nghĩ:

- "Ta đường đường là một quan đại thần thế này thì đời nào có thể làm lợn Phiên bang sao?"

Nghĩ vậy nên lão lấy làm đắc kế cho lời thề của lão, còn Tông Lưu Thú thì cố bày ra việc thề nguyền như vậy để chứng tỏ lòng mình ngay thẳng mà thôi chứ không thèm để ý đến lời thề của Bang Xương lèo lá ra sao.

Khi Bang Xương thề xong, Vương Đạt cũng quỳ xuống nói:

- Tôi là Vương Đạt cùng ở một làng với Bang Xương, lòng tôi có khi quân thì cho tôi hoá ra làm dê mà cùng thác như vậy.

Trương Tuấn thì thề rằng:

- Tôi là Trương Tuấn ở Nam Trực Lệ, người Thuận Châu, nếu tôi có lòng khi quân thì tôi chịu chết nơi miệng muôn người.

Ba lời thề của ba người thật là kỳ quặc, chúng tưởng thề như vâỵ cho qua chuyện, ngờ đâu về sau lời thề ấy ứng nghiệm chẳng sai.

Khi bốn vị chủ khảo tuyên thệ xong liền lên ngồi chỗ cũ. Tông Lưu Thú nghĩ thầm:

- Thế nào bọn này cũng vị tình để cho Sài Vương giật giải Trạng võ chớ chẳng không, chi bằng ta đòi Sài Vương đến khảo hạch trước.

Nghĩ đoạn, sai kỳ bài quan ra đòi võ sinh tên Sài Quế ở Nam Ninh Châu đến ngay. Một lát sau Sài Quế bước vào xá Tông Lưu Thú rồi đứng lại một bên chờ lệnh.

Tông Lưu Thú hỏi:

- Có phải ngươi là Sài Quế không?

- Dạ phải.

- Ngươi đã đến đây chịu khảo thí sao chẳng quỳ? Nếu muốn cướp bảng đề danh thì phải làm theo nghi lễ, bằng cứ hợm mình là một vị Phan vương không chịu khảo hạch thì ta mời ngồi khỏi phải thi cử gì. Ta thiết tưởng người đã tới bực Vương hầu rồi lại nghe lời sàm nịnh tranh giành chức Võ Trạng làm gì? Có ai bỏ địa vị lớn theo đuổi chức vụ nhỏ nhen không? Hơn nữa chốn này là tứ phương anh hùng đủ mặt, chẳng lẽ không có kẻ cao cường, có đâu lại để chức Võ Trạng về tay người được? Chi bằng đừng màng chi việc ấy, danh vọng mình có mất đi đâu. Ngươi nghĩ kỹ xem lời ta nói có phải chăng?

Sài Quế đành ngậm miệng không biết nói gì hơn, vội quỳ xuống ngay.

Vì sao Sài Quế đang đường đường một vị Phan vương lại hạ mình tranh chức Võ Trạng và chịu nhục như vậy. Nguyên vì khi trước, Sài Vương đi về triều chầu Thiên tử, khi đi ngang qua núi Thái Hành có một tên cướp cầm Kim Bối Đao xưng là Kim Mao Đại Vương tên là Vương Thiện, sức địch muôn người, xung quanh hắn có bọn bộ hạ tâm phúc là Mã Bảo, Hà Lục, Hà Nhân, lại còn có tả hữu quân sư là Lưu Võ và Điền Ký.

Toàn là những bọn túc trí đa mưu tụ tập lâu la hơn ngàn vạn tên chiếm cứ núi Thái Hành, cướp phá nhiều nơi, nhưng quan binh không làm gì nổi.

Vương Thiện lại muốn cướp đoạt cả giang sơn của nhà Tống, ngặt vì không người nội ứng. Ngày kia Sài Vương nhập triều, Vương Thiện mời vào trà nước tử tế rồi Quân sư Điền Kỳ nói:

- Buổi Nam Đường suy thoái thì bị Triệu Khuông Dẫn lập mưu soán đoạt thâu tóm thiên hạ. Đến nay Đại Vương bất quá chỉ là một ông Phan Vương còn phải xưng thần quì bái. Nay tôi đây binh nhiều, lương đủ sao Đại vương không về triều thông mưu với kẻ gian thần đoạt cho được chức Võ Trạng nắm binh quyền trong tay làm nội ứng rồi gửi cho tôi một phong thư, tức tốc tôi đem binh giúp cho Đại vương dấy nghiệp. Kế ấy có phải là hay không?

Vương Thiện và quân sư hắn nói vậy là để lừa Sài Quế chớ lẽ nào khi nên việc rồi Vương Thiện lại để cho Sài Quế làm vua sao? Thế mà Sài Quế ngây thơ đem lòng mừng rỡ đáp:

- Lời của các khanh thật là chí lý, để cô gia về triều sẽ tính. Như thành công rồi thì cô gia với các khanh cùng hưởng.

Vương Thiện mừng rỡ bày tiệc thiết đãi rồi đưa Sài Quế xuống núi. Khi về đến kinh thành, Sài Quế bèn hối lộ với các vị chủ khảo. Mấy tên gian thần đều nhận của lót bằng lòng cho Sài Quế đoạt chức Võ Trạng, duy chỉ có một mình Tông Lưu Thú là lòng ngay, dạ thẳng quyết tâm chọn anh tài nên không chịu nhận, ông lại biết rõ mấy vị đại thần kia ăn hối lộ nên ông chỉ mặt Sài Quế nói mấy điều làm cho Sài Quế cứng họng quỳ gối làm thinh.

Trương Bang Xương thấy thế giận lắm, nghĩ thầm:

- "Lão ta chơi cú xỏ như vậy, để ta cũng đòi môn sinh của lão ra mắng cho bõ ghét".

Bang Xương vội sai kỳ bài quan ra đòi Nhạc Phi ở Thang Âm huyện vào. Nhạc Phi bước vào thấy Sài Quế quì trước mặt Tông Lưu Thú, chàng cũng đến quì trước mặt Trương Bang Xương.

Bang Xương hỏi:

- Ngươi là Nhạc Phi phải không?

- Vâng, Nhạc Phi chính tên tôi.

Bang Xương nhìn chàng từ đầu đến chân rồi bĩu môi nói:

- Ta xem hình thù ngươi chẳng phải con nhà võ, mong gì đạt được chức Trạng võ?

Nhạc Phi đáp:

- Tiểu sinh đâu dám mong đoạt chức ấy, và chăng trong hội thi này hàng muôn ngàn cử tử đến đây chịu khảo hạch ai lại chẳng muốn đoạt chức Trạng võ, nhưng có phải ai đi thi cũng đoạt được sao? Vì thế đã là võ cử thì phải tuân theo luật lệ mà ứng thí, chứ tôi đâu dám vọng tưởng?

Trương Bang Xương tưởng kiếm chuyện mắng Nhạc Phi cho đã giận, ngờ đâu chàng trả lời trôi như nước chảy khiến lão ta lúng túng bèn nói:

- Vậy thì bây giờ khảo hạch hai người này trước rồi sau sẽ khảo hạch người kia.

Rồi Bang Xương quay lại hỏi Nhạc Phi:

- Ngươi dùng binh khí gì?

- Dạ tôi dùng cây thương.

- Còn Sài Quế, dùng món binh khí gì?

- Tôi thì dùng đao.

Bang Xương liền bảo Nhạc Phi làm bài thương luận còn Sài Quế thì làm bài đao luận.

Hai người vâng lệnh vội hạ bút ngay giữa giáo trường.

Tài văn học của Sài Quế cũng không phải dở lắm, xong vì bị Tông Trạch nhục mạ nên lửa giận bốc lên tối tăm cả mặt mày, tay chân run rẩy khiến chữ viết không minh bạch, chữ đao không ra chữ đao, chữ lực không ra chữ lực. Cho nên bài thương luận của Nhạc Phi được dâng lên trước còn bài đao luận của Sài Quế phải dâng sau.

Bang Xương xem bài của Sài Quế trước rồi đút vào tay áo mới xem bài của Nhạc Phi sau. Ông ta thấy bài của Nhạc Phi nghĩa lý cao siêu, chữ lại tốt nên nghĩ thầm:

- Người này văn học có kém chi ta, hèn chi lão Tông Trạch yêu chuộng cũng phải.

Tuy nghĩ vậy nhưng ông cũng vẫn nạt lớn:

- Chữ nghĩa của ngươi như vầy mà dám tranh chức Trạng võ?

Dứt lời lại quăng bài xuống đất truyền quân đuổi ra.

Quân sĩ vừa ra tay, Tông Trạch nạt lớn:

- Hãy khoan, còn phải đợi lệnh ta nữa mới được thi hành.

Quân sĩ thấy quan Tông Lưu Thú quát, vội dãn ra chẳng dám trái lệnh.

Rồi Tông Trạch bảo quân sĩ lấy bài của Nhạc Phi đem cho mình xem. Quân sĩ đứng nhìn nhau chẳng ai dám đi lấy vì sợ Trương Thái sư giận. Nhạc Phi thấy vậy vội lấy dâng lên.

Tông Trạch trải bài thi lên bàn xem thì thấy lời lẽ như vàng đá, chữ viết như hạt châu. Tông Trạch nghĩ thầm:

- Ai ngờ kẻ gian thần nó khinh tài mà trọng lợi như vậy!

Liền lấy bài Nhạc Phi cất rồi hỏi Nhạc Phi:

- Tài năng ngươi như vậy mà vọng cầu công danh sao? Vậy ngươi có biết Tô Tần dâng thư vạn chữ và Ôn Đình Huân làm bài Nam Huê phú không?

Sở dĩ Tông Trạch hỏi Nhạc Phi hai câu ấy là vì khi trước Tô Tần đến nước Tần, Thương Ưởng thấy người tài cao thì ghét, lại sợ Tô Tần tài giỏi chiếm đoạt quyền thế của mình nên không dùng Tô Tần mà chỉ dùng Trương Nghị thôi. Còn ông Ôn Đình Huân là người nước Tấn khi vua Tấn mời thừa tướng Hoàn Văn vào ngự chốn hoa viên để xem hoa Nam Huê và truyền làm bài phú cho ngài xem. Hoàn Văn xin đem về nhà làm và sáng hôm sau đem nạp, chỉ vì Hoàn Văn không làm được bài ấy nên đem về mượn người trong nhà là Ôn Đình Huân làm hộ. Khi Ôn Đình Huân làm xong, Hoàn Văn xem qua thất kinh nghĩ thầm:

- Trong đời này lại có người tài giỏi đến thế, nhất định người này trước sau gì cũng được trọng dụng và khi ấy sẽ đoạt mất quyền thế của mình. Vì vậy ông bỏ thuốc độc giết chết ông Huân ngay rồi mang bài phú dâng vua bảo là của mình làm, ấy là những chuyện ghen ghét kẻ hiền tài.

Khi Bang Xương nghe ông Tông Trạch hỏi Nhạc Phi hai câu ấy thì biết rằng Tông Lưu Thú đã mắng khéo mình trong lòng vừa hổ thẹn vừa giận dữ nên đã quyết kiếm chuyện làm khó dễ cho Nhạc Phi.

Tỉ võ, đâm chết Tiểu Lương Vương

Phá võ trường, Nhạc Phi thoát hiểm

Sài Quế tự biết rằng bài đao luận của mình không ra gì nên chỉ đứng đưa mắt cầu cứu Trương Bang Xương.

Quả nhiên, Trương Bang Xương quay qua thách đố Nhạc Phi:

- Thôi được rồi, ta cũng chẳng cần đếm xỉa đến chữ nghĩa của ngươi làm gì nữa. Bây giờ ta hỏi ngươi: Vậy ngươi dám thi võ thuật với Sài Vương không?

Nhạc Phi thưa:

- Lão gia đã dạy tôi đâu dám chẳng vâng?

Tông Lưu Thú thấy thế trong lòng mừng thầm:

- "Nếu tỉ thí cung tiễn thì nhất định Nhạc Phi phải thắng"

Tông Trạch sai quân đem bia dựng ra cách xa chừng một trăm hai chục bước, Sài Vương thấy dựng bia xa quá vội bước đến thưa với Bang Xương:

- Việc cung tiễn thì tôi xin nhường cho Nhạc Phi bắn trước.

Bang Xương quay lại bảo nhỏ kẻ tả hữu:

- Chúng bay hãy lén nới bia ra cho xa đến hai trăm bước cho ta, nếu Nhạc Phi thấy xa không dám bắn thì ta đuổi quách nó ra cho rồi.

Nhưng Nhạc Phi chẳng chút nao núng, chàng vâng lệnh xuống thềm khai cung giữa đám anh hùng. Cung trương như mặt nguyệt, tên bắn tựa sao bay. Chàng bắn luôn chín mũi đều trúng đích hồng tâm, cờ phất, trống đánh vang tai.

Kẻ giữ bia đem lại cho Trương Bang Xương xem và nói:

- Người võ sĩ này bắn giỏi lắm.

Sài Quế nghĩ thầm:

- "Thi cung tiễn thì chắc ta thua hắn rồi, chi bằng xin tỉ võ với hắn, ta sẽ tìm lời dụ dỗ, nếu hắn chịu thì thôi, bằng không thì ta thừa kế giết quách hắn đi cho xong".

Nghĩ vậy Sài Quế lớn tiếng bẩm:

- Nhạc Phi đã bắn trúng rồi, tôi có bắn trúng nữa cũng không biết ai cao ai thấp, vậy tôi xin thí võ với y mới định hơn thua được.

Trương Bang Xương chấp thuận ngay. Sài Quế nắm đao lên ngựa tới chỗ giáo trường kêu Nhạc Phi bảo:

- Ngươi hãy đến lãnh giáo đường đao của ta đây.

Nhạc Phi tuy võ nghệ cao cường nhưng thấy Sài Quế là một vị Phan vương, nếu thẳng tay chiến đấu thì sợ phạm thượng chăng? Trong lòng chàng phân vân vô cùng, nhưng vẫn gượng gạo cầm thương lên ngựa ra vẻ sợ sệt.

Mọi người đứng ngoài xem thấy thái độ của Nhạc Phi như vậy xúm nhau bàn tán:

- "Tên võ sinh mà thí võ với Phan vương thì chắc chắn phải thua rồi"

Ông Tông Trạch thấy Nhạc Phi đến chỗ giáo trường mà sợ sệt như vậy thì giận và trách thầm:

- Thật là vô dụng, uổng công ta săn sóc lắm

Nhạc Phi vừa đến, Sài Vương lại nói nhỏ:

- Nếu ngươi biết điều giả thua chạy, thì cô gia sẽ trọng thưởng, bằng không nhất định tính mạng ngươi khó bảo toàn.

Nhạc Phi nói:

- Vương đã dạy vậy, lẽ ra tôi vâng lời mới phải, nhưng vì hôm nay là ngày khảo hạch, chẳng phải chỉ một mình tôi thôi, xin ngài hãy nhìn kỹ anh hùng tụ hội rất nhiều. Biết bao năm công phu luyện tập chỉ trông cho đến ngày nay để lập công danh cho hiển vinh tông tổ. Vả chăng Ngài đường đường một vị Phan vương phú quí vinh dự, lẽ nào đi tranh chức Trạng võ với cử tử làm chi, có phải là trên đã phụ lòng Thiên tử cầu hiền còn dưới lại khuất lấp anh hùng, thiếu kẻ ra đền nợ nước. Thế thì đúng ra Vương nên nhượng lại cho tôi mới phải, xin Ngài xét lại.

Sài Quế nghe nói nổi giận, mắng:

- Ta đã ôn tồn khuyên dỗ ngươi, đã không bằng lòng thì thôi, ngươi lại còn hàm hồ loạn ngôn thế sao?

Rồi thình lình chém Nhạc Phi một đao, Nhạc Phi vung thương đỡ khỏi. Sài Quế lại bồi thêm một đao nữa. Nhạc Phi cầm thương gạt ngang qua bên hữu.

Sài Quế không giết được, càng căm gan hơn, bèn vận hết thần lực chém luôn sáu bảy đao một lượt, buộc lòng Nhạc Phi phải đưa ngón võ "Đồng Tử Bảo Tâm" ra đón đỡ đủ bốn mặt Đông Tây Nam Bắc nên Sài Quế chém không trúng một đường nào cả.

Sài Quế liền dừng đao quay ngựa lại bước đến thính đường bẩm:

- Nhạc Phi võ nghệ tầm thường quá, làm sao thượng mã giao phong cho được.

Trương Bang Xương phụ hoạ:

- Ta cũng nhận thấy võ nghệ Nhạc Phi chẳng bằng Phan vương. Nhạc Phi cưỡi ngựa chạy theo đến nơi xuống ngựa quỳ sau Sài Quế, Tông Lưu Thú thấy vậy kêu Nhạc Phi nói:

- Võ nghệ ngươi như vậy mà mơ ước công danh sao được?

Nhạc Phi bẩm:

- Bẩm đại lão gia, chẳng phải là võ nghệ tôi chẳng được tinh thông, song chỉ vì tôi với Sài vương có tôn ty chi phận, nên tôi chẳng dám giao đấu thực sự đó thôi.

Tông Trạch bĩu môi đáp:

- Nếu vậy ngươi đừng đến đây chịu khảo thí.

Nhạc Phi lại thưa:

- Ba năm mới gặp hội một kỳ, lẽ nào tôi lại chẳng đi? Nhưng tôi tưởng khảo thí là cầm cung lên ngựa, múa đao thương cho trúng cách mà định liệt ưu, chớ như nay tôi với Phan vương thượng trận giao phong, hễ lưỡng hổ tranh hùng sao cho khỏi một con bị tử thương. Như Phan vương giết tôi chết thì chẳng nói làm chi, bằng tôi sẩy tay giết chết Phan vương thì dễ gì êm xuôi? Tôi tin chắc lúc ấy chẳng những một mình tôi mà cả thân tộc tôi cũng đều bị hại nữa.

Nay xin các vị chủ khảo làm chứng cho chúng tôi, hai bên lập một tờ giao kết sinh tử, hễ ai chết nấy chịu, không bồi thường nhân mạng, thì tôi mới dám giao thủ.

Tông Trạch nghe Nhạc Phi nói một hồi rồi gật đầu nói:

- Nói như thế cũng phải, vì cổ nhân có nói "Tráng sĩ lâm trận không chết cũng bị thương", Sài Quế, ngươi có bằng lòng không?

Sài Quế còn do dự, Bang Xương đã nói tiếp:

- Nhạc Phi quả là người lợi khẩu, ta xem ngươi có tài cán chi mà dám làm điều tuyệt mạng như vậy?

Rồi quay lại bảo Sài Quế:

- Vậy Sài Quế hãy lập tờ giao kết sinh tử đi để cho nó có chết nó cũng thoả mãn và cho các cử tử kia vui lòng hàng phục đồng thời che lấp tiếng thị phi.

Sài Quế không biết tính sao, túng thế phải viết tờ giao kết. Nhạc Phi cũng làm một tờ, có bốn quan đại thần chủ khảo làm chứng và đóng dấu trong mỗi tờ.

Tờ của Sài Vương thì giao cho Nhạc Phi cầm, tờ của Nhạc Phi thì giao cho Sài Vương giữ. Nhưng Sài Vương giao cho Bang Xương cầm giùm, Nhạc Phi thấy vậy cũng trao tờ giao kết trong tay mình cho ông Tông Trạch, Tông Trạch lắc đầu nói:

- Tờ giấy này là bổn mạng ngươi, ngươi phải giữ lấy chớ nên giao cho lão có hại.

Hai người bước xuống dưới thềm, Nhạc Phi nói:

- Tờ của Ngài Phan vương thì Thái sư cầm giùm, còn tờ của tôi thì Tông lão gia không chịu cầm cho tôi, vậy để tôi giao tờ ấy cho bằng hữu của tôi, rồi tôi sẽ trở lại.

Nhạc Phi bước ra chỗ anh em đứng, gọi Thang Hoài bảo:

- Nếu như Tiểu Lương Vương có thua anh thì anh em phải coi chừng chỗ trướng phòng kia kẻo chúng đánh lén ta đấy.

Rồi gọi Trương Hiển đến dặn:

- Như trong trướng phòng có kẻ ra tay thì đệ phải ra sức ngăn cản còn Vương đệ thì phải giữ lấy cửa giáo trường mà chờ ta. Bằng ta bị Sài Quế giết chết thì nhặt xác về chôn, còn như ta bại trận thì phá cửa giáo trường cho ta chạy. Còn việc giấy giao kèo sinh tử này xin đệ giữ cho cẩn thận, nếu làm mất thì tính mạng ta chẳng còn, xin chư đệ hãy nhớ.

Nhạc Phi dặn dò anh em xong, liền trở lại chỗ giáo trường. Thiên hạ cùng các cử tử đứng bao vòng xem rất đông đảo.

Khi Sài Quế lập tờ giao kết sinh tử trao cho Nhạc Phi rồi thì trở lại trướng phòng trong lòng lo lắng chẳng yên.

Đây là chỗ giáo trường chứ chẳng phải trận mạc chi mà lập trướng phòng? Nhưng vì Sài Quế là một vị Phan vương chẳng phải như cử tử tầm thường khác, hơn nữa y đã lo lót với mấy lão gian thần nên muốn lập gì mà chẳng được, vả lại y có ý làm dữ nên phải phòng xa, lập trướng phòng để mai phục kẻ bộ hạ mình, phòng khi bất trắc có chúng nó phò tá.

Khi Sài Quế đến trướng phòng thì tập hợp gia tướng lại bảo:

- Nay cô gia muốn ứng thí để đoạt chức Trạng võ, chẳng ngờ Nhạc Phi nó lập "sinh tử trạng" mà tỉ thí với ta. Như cô gia giết nó được thì chẳng nói làm chi, bằng nó hại cô gia thì các người tính sao?

Gia tướng đồng thanh nói:

- Nhạc Phi có mấy cái đầu mà dám hại Lương Vương? Như nó ỷ sức mạnh thì chúng tôi xông ra bằm xác nó cho rồi. Trong triều đã có Trương Thái sư làm chủ và có mấy ông kia đỡ đầu, chúng mình lo gì.

Phan vương gật đầu tỏ vẻ đắc ý rồi giục ngựa thẳng ra giáo trường, lúc ấy Nhạc Phi cũng vừa đến.

Phan Vương trông thấy Nhạc Phi lúc bấy giờ oai phong lẫm lẫm chứ không phải khiếp sợ như lúc nãy, trong lòng hơi hồi hộp bèn nói với Nhạc Phi:

- Nhạc cử tử hãy theo lời ta hoà đi là hơn, vì khi ta được Trạng võ thì ngươi cũng được Thám hoa hay Bảng Nhãn cũng tốt lắm rồi.

Nhạc Phi đáp:

- Điều ấy tưởng tôi đã nói nhiều với Vương gia lúc nãy rồi. Vả chăng mười năm khổ công rèn luyện mới nên danh học trò, hơn nữa trong hội thi này đâu phải một mình tôi? Nếu làm như vậy có nên danh phận cũng không ai phục đâu.

Sài Vương nghe qua nổi giận vung đao chém liền. Nhạc Phi giơ Lịch Tuyền thương vừa gạt ngang một cái Sài Vương đã bị dội ngược lại rung động cả toàn thân, trong lòng kinh hãi song cũng ráng sức bình sinh lao mình tới chém một đao nữa. Nhạc Phi cũng đưa thương lên đỡ. Sài Vương trông thấy Nhạc Phi chỉ đỡ mà thôi tưởng chàng không dám đâm mình nên vung đao chém lia lịa.

Nhạc Phi nổi giận nói:

- Sài Quế, ta tưởng ngươi là một Vương gia nên ta chẳng nỡ, ngờ đâu ngươi lại không biết điều gì cả. Vậy đừng trách ta sao ra tay độc ác đấy nhé.

Sài Vương nghe Nhạc Phi gọi tên tục mình thì nổi nóng quát mắng:

- Nhạc Phi, ngươi quả là loại cẩu đầu. Sao ngươi dám mạo phạm đến tính danh của ta? Ta quyết phân mi ra muôn mảnh mới hả giận.

Nói rồi nghiến răng vận đủ mười thành công lực nhắm ngay đầu Nhạc Phi chém xuống một đao thật mạnh quyết hạ thủ cho kỳ được, nhưng Nhạc Phi đã gạt ngang một cái khiến Sài Quế quay mấy vòng, thừa thế Nhạc Phi đâm một thương trúng ngay giữa ngực. Sài Quế té nhào xuống ngựa, máu phun ra có vòi, chỉ còn giãy giụa mấy cái rồi im lìm, hồn lìa khỏi xác.

Thiên hạ đứng xem cùng các cử tử đều vỗ tay rầm rộ khen hay. Các quan tuần trường cùng bọn vệ binh trông thấy thế đều biến sắc mặt, vội bảo lính hộ vệ phải coi giữ lấy Nhạc Phi đừng để cho chàng tẩu thoát.

Nhưng Nhạc Phi vẫn thản nhiên như thường, chàng nhảy xuống ngựa cột dây cương vào cán thương rồi đứng đó chờ lệnh.

Tuần trường quan chạy đến phi báo với mấy quan giám khảo:

- Nhạc Phi đã đâm chết Phan vương rồi, xin quý thượng quan định liệu.

Tông Lưu Thú nghe báo vẫn làm thinh, nhưng trong lòng hơi sợ hãi. Còn Trương Bang Xương thì thất kinh hồn vía rụng rời vội sai quân trói Nhạc Phi lại tức tốc.

Tả hữu tuân lệnh chạy ra giáo trường thì thấy bọn thủ hạ của Sài Vương tay cầm gươm giáo đang lăm le muốn xông ra báo thù cho chủ. Thang Hoài vội vàng cầm thương lên ngựa chạy bay ra chận lại.

Ngưu Cao cùng múa song giản chạy đến thét lớn:

- Nhạc Phi đâm Sài Vương chết vẫn còn có chỗ công luận chứ bọn ngươi ỷ sức mạnh thì chúng ta chẳng dung đâu.

Gia tướng thấy tình thế không ổn muốn chạy quật ra phía sau thì có Trương Hiển cầm cây liêm thương cản lại. Bọn chúng bèn giựt phá trướng phòng hư hết phân nửa.

Trương Hiển quát lớn:

- Các ngươi muốn động thủ phải không? Nếu các ngươi muốn làm dữ thì anh em ta sẽ giết không chừa một đứa đấy.

Bọn thủ hạ Sài Quế khiếp nhược không dám ló ra một tên. Kế thấy quân đao phủ dẫn Nhạc Phi đi, chúng đoán chắc là Trương Thái sư sẽ gia hình nên yên tâm không rộn lên như lúc nãy nữa. Còn Ngưu Cao thì trông thấy Nhạc Phi bị quân đao phủ dẫn đi chàng thất kinh hồn vía vội chạy theo.

Đến nơi, Ngưu Cao lại nghe Trương Bang Xương truyền lệnh đem chém Nhạc Phi lấy đầu thị chúng, chàng toan xông vào cản trở. Bỗng nghe Tông Lưu Thú quát:

- Hãy dãn ra hết!

Rồi giơ tay nắm áo Trương Bang Xương gằn giọng:

- Tại sao lại truyền lệnh chém Nhạc Phi hả? Thiết tưởng hai bên đã lập trạng thư giao kết với nhau thì ai chết nấy chịu chứ còn nói năng gì nữa. Chẳng lẽ chúng mình thị chứng đóng dấu vào tờ giấy rồi đem Nhạc Phi ra giết, cử tử coi chúng ta ra gì nữa? Và như vậy chúng ta có thể bị hại nữa là khác. Chi bằng việc đâu còn có đó, để về tâu lại với thánh thượng, chờ lệnh trên định đoạt.

Bang Xương vẫn một thái độ hằn học:

- Không thể như thế được. Nhạc Phi là một kẻ võ sinh dám giết chết một vị Phan Vương? Quả là kẻ vô quân, vô phụ, loạn thần tặc tử, ai ai cũng đều giết được hà tất phải tâu vua làm gì?

Dứt lời lại truyền quân đao phủ đem Nhạc Phi chém cho mau.

Quân đao phủ tuân lệnh áp lại toan ra tay thì Ngưu Cao xông vào hét lớn:

- Hãy nghe ta nói đã. Thử hỏi thiên hạ anh hùng đến đây hôm nay ai mà chẳng vọng tưởng hai chữ công danh? Nay Sài Vương ỷ thế ra tranh chức, rủi bị Nhạc Phi võ nghệ cao cường đâm chết, đáng lẽ ra Nhạc Phi phải được chức Võ Trạng mới phải, sao lại còn bị đem chém, thế thì anh em tôi đây không phục tý nào cả. Chẳng lẽ chốn này là chỗ phỉnh phờ lừa gạt như vậy sao? Chi bằng giết quách bọn quan ôn dịch này cho hết, rồi chúng ta đến hoàng đế mà khiếu nại.

Nói dứt lời, Ngưu Cao vung song giản đánh ngã cây cột cờ để hăm doạ.

Các cử tử đứng bao vây xugn quanh cũng cùng la lên phụ hoạ:

- Trong ba năm mới mở hội một kỳ để tuyển chọn anh tài, Sài Vương ỷ thế, cậy thần ra cướp giựt chức Trạng võ tức là muốn dìm chúng ta xuống đáy biển rồi, chẳng lẽ ta nhịn thua sao?

Rồi mỗi người một tiếng hò nhau vang dội một góc trời. Cây cột cờ kia lại ngã xuống vang lên tiếng động như long trời lở đất, người ta cảm thấy có sức mạnh không gì cản nổi.

Bấy giờ Tông Lưu Thú buông Trương Thái sư ra và nói:

- Thái sư đã nghe các cử tử nói đó không? Thái sư có giỏi thì giết Nhạc Phi đi, tôi cũng không can thêm nữa.

Ba vị giám khảo kia bấy giờ mới xuống nước, mặt ông nào cũng tái mét cắt không còn giọt máu, vội xúm lại năn nỉ Tông Lưu Thú:

- Sự việc đến nước này thì nguy cho chúng tôi lắm, xin Nguyên Nhung lo liệu giùm. Vẫn biết ba anh em tôi với Nguyên Nhung cũng đều lãnh mạng triều đình, song chỉ có lệnh Nguyên Nhung thì cử tử mới chịu phục mà thôi.

Rồi ông lại quay qua dặn quân đao phủ:

- Chúng bay phải chờ lệnh Nguyên soái chứ đừng làm càn mà phạm quốc pháp đấy.

Các cử tử nghe nói có lệnh của Tông Lưu Thú thì im lặng dóng tai nghe, nhưng ông ta vẫn làm như không thèm nói gì hết.

Bang Xương lại bước tới trước mặt Tông Lưu Thú dịu giọng:

- Mặc tình Nguyên Nhung liệu định thế nào chúng tôi cũng theo cả.

Lưu Thú nói:

- Bây giờ nhân tình không phục toan làm loạn lên rồi, dù có viết sớ tâu lên vua cũng không kịp nữa, chỉ bằng thả Nhạc Phi ra cho bọn cử tử hài lòng cái đã rồi chúng mình sẽ toan liệu sau.

Ba người liền gật đầu ưng chịu ngay, vội sai mở trói cho Nhạc Phi.

Nhạc Phi thấy mình được thoát khỏi tai nạn lật đật lấy thương giáp nhảy phóc lên lưng ngựa chạy thoát ra ngoài không kịp nói một tiếng tạ ơn. Ngưu Cao cùng các huynh đệ cũng chạy theo. Vương Quới đứng giữa giáo trường chờ cho anh em chạy hết chàng mới phá cửa giáo trường tẩu thoát.

Chỉ trong chốc lát, giáo trường nhộn nhịp trở nên hoang vắng, các cử tử thì kéo nhau về hết, chỉ còn gia tướng của Sài Quế lo nhặt xác của chủ tướng.

Vương Thiện dấy binh quyết phá Tống

Tông Trạch cáo ốm, chối mệnh vua

Ra khỏi giáo trường, anh em Nhạc Phi phóng ngựa thẳng đến dinh Tông Lưu Thú thì thấy cửa dinh đóng kín, mọi người xuống ngựa vào cổng dinh rồi gọi quân canh nói:

- Xin làm ơn bẩm lại với lão gia rằng, Nhạc Phi này suốt đời đền ơn Ngài chẳng đặng, kiếp sau xin quyết làm thân khuyển mã để đền bồi.

Rồi cùng nhau lên ngựa trở về quán trọ tính tiền trả cho chủ quán và từ biệt trở về quê.

Lại nói chuyện các quan giám khảo trông thấy các cử tử bốn phương giải tán hết rồi, liền bảo bộ hạ của Sài Vương liệm hài cốt cẩn thận rồi vào Triều chầu thiên tử.

Trương Bang Xương dập đầu dưới bệ tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, khoa này chốn võ trường có tên học trò của ông Tông Trạch tên Nhạc Phi đã đâm chết Tiểu Lương Vương nên các cử tử đều bỏ về hết. Tình trạng này xảy ra là do ông Tông Trạch đó thôi.

Vua nghe qua vô cùng thương tiếc Tiểu Lương Vương và giận dữ quở mắng Tông Lưu Thú.

- Thế thì tội khanh đáng chết nhưng ta cũng nể tình khanh là một quan đại thần có công với triều đình lâu nay nên trẫm tha chết cho.

Phán rồi truyền quân lột áo mũ Tông Trạch đuổi về làm thường dân. Tông Trạch cũng muốn thanh minh nhưng trống đổ bãi triều, Vua và các quan ra về hết.

Tông Trạch về đến dinh đã thấy quân giữ cửa quỳ thưa:

- Lúc nãy có năm anh em Nhạc Phi đến cửa viên môn quỳ lạy và hứa xin chờ kiếp sau sẽ đền ơn.

Tông Trạch nghe nói cảm động sa nước mắt, bèn vào dinh gói ghém một ít quần áo cùng vàng bạc ra đi một cách vội vã.

Gia đinh không biết Tông Trạch đi đâu vội hỏi:

- Lão gia đi đâu một mình mà gấp lắm vậy?

- Ta đi theo anh em Nhạc Phi.

- Bẩm mấy người ấy đã đi xa rồi, lão gia đi làm gì vô ích.

Tông Trạch đáp:

- Các ngươi đâu rõ lòng ta? Thủa xưa Tiêu Hà trong đêm tối, nhờ bóng trăng mà theo Hàn Tín, đến sau nhờ người ấy mà nhà Hán bền vững được bốn trăm năm, huống chi ngày nay Nhạc Phi tài trí thua gì Hàn Tín, vả lại trong lúc này quốc gia cần gấp người hiền, lẽ nào lại bỏ kẻ có tài sao? Vì vậy ta cần phải theo để căn dặn vài điều.

Tông Trạch đem theo vài tên tuỳ tùng, giục ngựa buông cương quyết theo gót Nhạc Phi.

Khi Nhạc Phi ra khỏi cửa thành, chàng ra roi cho ngựa phi nước đại, miệng thúc anh em chạy cho mau. Ngưu Cao nói:

- Mình đã ra đến đây còn sợ ai nữa mà chạy dữ vậy?

Nhạc Phi nói:

- Vì Ngưu đệ chưa rõ lòng nham hiểm của bọn gian thần, nhất định không khi nào chúng chịu buông tha anh em chúng ta đâu. Chúng ta được may mắn ra đến đây là nhờ có ân sư giúp đỡ. Nếu mình không tẩu thoát cho mau thì chúng sẽ kiếm chuyện khác đuổi theo tróc nã, lúc ấy có ăn năn cũng chẳng kịp.

Anh em nghe nói đều cho là phải rồi giục ngựa theo bén sát Nhạc Phi không dám chậm trễ.

Trong đêm tối, nhờ bóng trăng soi lờ mờ, năm chàng tráng sĩ kẻ trước người sau vừa đi vừa chuyện vãn chỉ trong chốc lát đã vượt được hai mươi dặm đường, bỗng nghe phía sau có tiếng động, Nhạc Phi quay lại xem thì quả nhiêm có bóng người cưỡi ngựa đuổi theo. Nhạc Phi kinh hãi nói:

- Hay là bộ hạ của Sài Quế theo chúng mình chăng?

Vương Quới nói:

- Sợ gì, chúng mình đi chậm lại chờ chúng nó đến, cho chúng toi mạng hết một lượt.

Ngưu Cao tán đồng:

- Phải đấy, chúng ta lại sợ lũ chuột nhắt ấy sao? Chi bằng cùng nhau quay lại Thành đô giết sạch lũ gian thần thâu đoạt Biện Kinh rồi tôn Nhạc đại huynh lên làm hoàng đế, còn lũ mình làm tướng thì sướng biết chừng nào, cần gì phải chịu khảo hạch chức Trạng võ cho mệt xác.

Nhạc Phi trợn mắt quát:

- Nói bậy, ngươi điên rồi sao? Từ nay về sau đừng có loạn ngôn như vậy nữa.

Ngưu Cao hờn dỗi:

- Thôi tôi chẳng thèm nói gì hết, để cho bọn nó đi đến đây rồi ngửa cổ ra cho chúng nó chặt chắc êm lắm!

Thang Hoài nói:

- Ngưu đệ chớ có nói vậy, anh em ta dừng ngựa lại chờ bọn nó đến xem sao. Nếu như chúng dùng lời lẽ ôn tồn thì chúng ta cũng dùng lời mà đối với chúng, bằng chúng hành hung thì chúng ta cho chúng một trận chí mạng chớ sợ gì?

Bỗng thấy một người cưỡi ngựa lướt tới, gọi lớn:

- Nhạc tướng công, hãy đi chậm chậm lại đợi lão gia với.

Nhạc Phi reo lên:

- Đúng là ân sư ta rồi, nhưng người theo ta có việc gì mà hấp tấp dữ vậy?

Tông Trạch vừa đến nơi, năm anh em đều xuống ngựa quỳ bên đường. Tông Trạch vội bước tới đỡ dậy, Nhạc Phi nói:

- Môn sinh nhờ ơn ân sư cứu thoát chết, chưa biết lấy chi báo đáp. Trong khi bất cập chẳng được diện kiến để bái từ, nay ân sư theo đến đây chẳng biết có điều gì dạy bảo?

Tông Trạch nói:

- Cũng vì việc ấy mà bọn Trương Bang Xương dâng sớ lên Thánh thượng cất chức ta rồi.

Bọn Nhạc Phi nghe vậy lấy làm ái ngại, vội lạy mà xin lỗi.

Tông Trạch khoả tay:

- Không can chi đâu. Lâu nay ta cũng muốn từ quan, song sợ triều đình không cho ta nghỉ, nay được như vầy, lão gia càng được an nhàn lắm có sao?

Rồi Tông Trạch quay lại hỏi hai tên tuỳ tùng:

- Chúng bay biết gần đây có chỗ nào nghỉ tạm đỡ một đêm được không?

Gia tướng bẩm:

- Thưa lão gia, đi chừng nửa dặm đường nữa thì đến vườn hoa của quan Giám nghị, vườn ấy rộng rãi mát mẻ có thể nghỉ được.

Tông Lưu Thú cùng Nhạc Phi lên ngựa đi ngay, chỉ trong chốc lát đã đến vườn hoa. Người coi vườn chào hỏi niềm nở và dẫn mọi người vào vườn.

Ngồi nghỉ hồi lâu, Tông Lưu Thú hỏi người coi vườn.

- Chúng ta đã đói bụng lắm rồi, chẳng biết gần đây có chỗ nào bán rượu không?

Người coi vườn đáp:

- Cách đây độ một dặm đường có chợ Chiêu Phong, bán đủ thực phẩm.

Tông Lưu Thú liền sai kẻ tuỳ tùng xuống chợ mua thức ăn, rồi mở lấy một gói vải trao cho Nhạc Phi nói:

- Lão phu chẳng có chi quí gí, chỉ còn một bộ khôi giáp đem theo tặng cho ngươi, hãy nhận lấy mà dùng.

Nhạc Phi chưa có giáp nay được Tông Trạch cho, chàng mừng rỡ tạ ơn rối rít.

Tông Lưu Thú nói:

- Chư vị tướng công chớ thấy công danh chưa đạt được mà buồn lòng, thối chí. Chỉ sợ mình bất tài chứ đừng sợ mình vô dụng. Rồi đây mưu thâm, kế ác của bọn gian thần bại lộ ra rồi, lão phu sẽ ra sức mà tâu với triều đình, thế nào các ngươi cũng được trọng dụng. Bây giờ đây chữ trung chưa thực hiện được hãy trở về phụng dưỡng mẹ cha để làm tròn chữ hiếu. Còn việc văn chương, võ nghệ phải luôn luôn luyện tập chớ có xao lãng.

Bọn Nhạc Phi đồng thanh nói:

- Lão gia đã thương tình chỉ dạy cho mấy lời châu ngọc, chúng tôi nguyện khắc cốt ghi tâm.

Câu chuyện vừa đến đây thì cỗ bàn đã dọn lên, anh em mời Tông Lưu Thú ngồi trước rồi anh em ngồi sau. Kẻ tuỳ tùng hầu hạ rót rượu thiết đãi.

Tông Lưu Thú cùng năm anh em Nhạc Phi ăn uống chuyện vãn, đàm luận việc binh pháp, Vương Quới và Ngưu Cao ngồi cuối bàn, hai người này ăn cơm hồi đầu canh rồi suốt ngày ở tại giáo trường chẳng ăn uống chi cả cho nên trong bụng đói như cào. Bây giờ trông thấy rượu thịt ngon miệng, mặc cho ai nói năng gì thì nói, hai người cứ việc ăn uống như rồng khát thấy nước, cọp đói gặp mồi vậy. Ăn xong hai người không thèm uống trà mà dùng gáo múc nước suối uống cho đã khát.

Bấy giờ tiếng gà trong xóm đã gáy vang, vừng đông ửng hồng hiện lên trăm nghìn hình tượng đẹp mắt. Bọn Nhạc Phi từ tạ Tông Lưu Thú ra đi, còn Tông Lưu Thú cũng trở về dinh.

Trên đường đi, anh em Nhạc Phi nói nói cười cười ai nấy đều cảm mến ông Tông Lưu Thú, họ không biết ngày nào mới đền ơn cho ông ta được.

Đang lúc trò chuyện, đột nhiên Vương Quới thình lình ngã nhào xuống ngựa, mặt mày tái nhợt, cắn răng, bất tỉnh nhân sự. Anh em hoảng hốt lật đật nhảy xuống ngựa bế xốc Vương Quới lên kêu gọi ầm ĩ.

Nhạc Phi cầm tay xoa bóp cho Vương Quới, nước mắt chảy ròng ròng, mếu máo nói:

- Vương đệ ơi! Vương đệ hãy tỉnh lại. Chữ công danh chưa đạt được nên phải trở về, mà về chưa đến nhà đã xảy ra cơ sự như vậy, nếu Vương đệ có bề gì thì ta biết nói thế nào với lệnh tôn đây?

Nhạc Phi than khóc chẳng cùng, anh em ai nấy đều kinh hãi.

Ngưu Cao nói:

- Chư huynh đệ đừng khóc chỉ tổ hoang mang vô ích, để đệ tìm cách cứu chữa xem sao. Theo đệ biết thì hôm qua Vương huynh đói bụng lắm nên hôm nay ăn nhiều quá, lại uống nước lạnh nữa thì bảo sao không mang bệnh?

Vừa nói, Ngưu Cao vừa sờ vào bụng Vương Quới, chàng cào qua cào lại nghe rột rột rồi nói:

- Đúng rồi, bụng Vương ca thế này thì bị thương thực rồi chứ gì nữa.

Ngưu Cao bèn lấy tay xoa tròn một hồi cho nóng rồi đặt trọn bàn tay nhận xuống bụng Vương Quới làm xổ ra nhiều nước tanh hôi. Tức thì Vương Quới tỉnh lại, nhưng vẫn còn ôm bụng rên xiết.

Nhạc Phi nói:

- Bây giờ anh em mình ở đây nghỉ đỡ, còn Thang đệ thì phải đi đến Chiêu Phong trấn tìm mướn một cái quán để đem Vương đệ đến đó thuốc thang.

Thang Hoài vâng lệnh lên ngựa thẳng đến Chiêu Phong trấn tìm vào một chiếc quán khá rộng rãi.

Người chủ quán ra tiếp đón niềm nở, Thang Hoài nói:

- Chúng tôi có năm anh em đều xuống võ trường ứng thí, khi về dọc đường rủi có một người lâm bệnh nên phải tìm chỗ tá túc, thuốc thang.

Người chủ quán vui vẻ đáp:

- Được lắm, không hề gì đâu, các vị cứ việc đem người bệnh đến đây nghỉ và lo chạy thuốc men, quán tôi rộng rãi mát mẻ có đủ điều kiện cho người bệnh tĩnh dưỡng.

Thang Hoài trở lại nói cho anh em hay rồi cùng nhau đến quán nghỉ ngơi và nhờ chủ quán đi đón thầy lang đến chẩn mạch bốc thuốc.

Chẩn mạch xong, ông thầy thuốc bảo:

- Bệnh này thuộc loại ẩm thực thương tỳ lại them ngộ cảm hàn khí, bây giờ phải đầu thang "thập thần" để tiêu trì hàn khí, đồng thời kiện tỳ tiêu thực rồi mới dám phục thuốc "quy tỳ" để bổ dưỡng tỳ trong ba thang. Làm thầy như tôi đã ba đời nối nghiệp kinh nghiệm có dư nên tuy bệnh trọng cũng chỉ vài thang thuốc là khỏi bệnh ngay.

Nhạc Phi nghe nói mừng rỡ trao tiền cho thầy bốc thuốc, anh em đều ở lại quán chăm sóc Vương Quới.

Lại nhắc đến Vương Thiện ở tại núi Thái Hành, sai người xuống kinh kỳ dò la tin tức, nên chỉ hai ngày sau có tin phi báo:

- Nguy tai! Sài Quế đã bị Nhạc Phi đâm chết tại võ trường, triều đình đã cắt chức Tông Trạch.

Vương Thiện vội nhóm họp các tướng sĩ cùng quân sư bàn bạc. Vương Thiện nói:

Nay triều đình trọng dụng kẻ gian thần nên các tướng sĩ đều ngã long. Vì vậy tuy Sài Vương bị giết song Tông Trạch bị cách chức thì triều đình không còn người giỏi nữa. Chúng ta thừa cơ hội này khởi binh vào Biện Kinh đoạt lấy giang sơn nhà Tống các ngươi nghĩ sao?

Quân sư Điền Kỳ nói:

- Nay nhà vua đã làm cho dân tình ta than, bỏ kẻ hiền trọng dụng tôi gian, trong triều văn võ bá quan chẳng hoà nhau, cơ hội này không khởi binh thì còn đợi cơ hội nào nữa?

Vương Thiện bèn sai Mã Bảo làm tiên phong và Hà Lục, Hà Thất làm phó tướng, dẫn ba nghìn tinh binh chia làm ba đạo kéo thẳng xuống Biện Kinh.

Khi binh kéo đến cửa Nam Huân còn cách xa thành chừng năm mươi dặm thì an binh hạ trại.

Tướng giữ thành này hay tin có giặc đến liền đóng kín các cửa thành phòng thủ rồi vào tâu cho Hoàng thượng hay.

Vua Huy Tông lập tức khai triều, nhóm họp đủ mặt văn võ bá quan rồi phán hỏi:

- Nay bọn cường khấu ở Thái Hành sơn kéo quân xuống đây, ai dám đem binh ra trừ khử?

Các quan chỉ nhìn nhau không ai lên tiếng. Vua cả giận nhìn thẳng vào mặt Trương Bang Xương quát mắng:

- Nuôi quân ngàn ngày chỉ nhờ một thuở. Các khanh ăn lộc nước đã lâu, nay giặc đến thành rồi mà chẳng ai biết bày một mưu chước, hay ra tay đẩy lui giặc, thế thì chẳng phải là uổng cơm của triều đình lắm sao?

Bỗng có quan Giám Nghị quỳ xuống tâu:

- Thần là Lý Can muốn tâu cùng thánh thượng điều này: Vương Thiện cso ý cướp ngôi thiên tử đã lâu, tuy hắn có binh hùng tướng mạnh song chẳng dám hành động là vì hắn sợ một mình ông Tông Trạch mà thôi, nay thánh thượng muốn đẩy lui giặc, chỉ còn cách là triệu ông ấy về cầm binh mới có thể xong việc được.

Vua Huy Tông nghe lời hạ chỉ sai Lý Can đến triệu ông Tông Trạch vào triều, lãnh binh diệt giặc.

Lý Can tuân mệnh thẳng đến dinh Tông lão thì thấy chỉ có con là Tông Phương ra nghênh tiếp. Lý Can hỏi:

- Sao không thấy đại nhân ra tiếp chỉ?

Tông Phương đáp:

- Phụ thân tôi lâm bệnh nằm liệt trên giường không thể ra tiếp được, tội đáng chết, xin được rộng lượng.

Lý Can vặn hỏi:

- Tông đại nhân đau hồi nào và đau bệnh gì?

- Thưa, phụ thân tôi lâm bệnh từ lúc võ trường bị phá đến nay.

Lý Can liền đặt thánh chỉ giữa trung đường đi thẳng vào chỗ Tông Trạch nằm thì thấy Tông Trạch ngủ ngáy khò khò.

Lý Can nhìn Tông Phương bảo:

- May mà ta đến đây chứ nếu kẻ khác đến thấy vậy thì ắt mang tội khi quân rồi!

Tông Phương vẫn một mực đáp:

- Thật tình phụ thân tôi mang bệnh chứ không giả dối đâu, xin thượng quan chớ nghi ngờ.

Bỗng Tông Trạch trở mình rồi lẩm bẩm nói:

- "Phải giết hết lũ gian thần kia cho ta!"

Nói rồi lăn qua ngủ nữa. Lý Can xem xét hồi lâu rồi nói với Tông Phương:

- Lệnh tôn đau thật, để lão phu vào triều tâu lại.

Lý Can trở về phục chỉ và tâu:

- Tông Trạch lâm bệnh nên không thể lãnh binh được.

Vua Huy Tông đang trông đợi, bỗng hay tin vậy thì lo sợ vô cùng, vội hỏi:

- Đau bệnh gì? Để ta sai thái y đến chữa chạy.

Lý Can tâu:

- Hạ thần tin chắc thái y không thể nào chữa bệnh cho Tông Trạch được đâu.

- Tại sao vậy?

- Chỉ vì từ ngày Tông Trạch chứng kiến sự việc tại giáo trường trong lòng hoang mang, lại bị tước chức, nên càng căm phẫn sinh bệnh ngày ngày la lối mắng nhiếc bọn gian thần. Vì vậy bệ hạ chỉ cần bắt gian thần hạ ngục thì tự nhiên Tông Trạch hết bệnh chứ không phải thuốc men gì cả.

Vua hỏi:

- Gian thần là ai?

Lý Can chưa kịp tâu thì Bang Xương đã quỳ tâu trước:

- Gian thần chính là Binh Bộ thượng thư Vương Đạt vậy.

Vua y theo lời, liền hạ chỉ bắt Vương Đạt giao cho Hình bộ giam lại.

Vương Đạt và Trương Bang Xương vốn là bạn tâm giao, là phường gian nịnh cả, thế sao Bang Xương lại đổ tội cho Vương Đạt.

Đó chính là xảo kế cảu kẻ gian nịnh. Nếu Bang Xương không nhanh miệng thì tất nhiên Lý Can chỉ đích danh cả thì khó gỡ, chi bằng y tâu đổ tội cho một mình Vương Đạt rồi thủng thẳng y kiếm kế gỡ ra.

Sau khi Lý Can về, Tông Trạch sai người đến triều đình thám thính, mới hay triều đình đã bắt Vương Đạt cầm tù.

Hôm sau Lý Can đến, Tông Trạch mới chịu ra tiếp chỉ.

Lý Can nói:

- Tôi biết ngài vì giận kẻ gian thần mà đau, nên tôi muốn tâu vua diệt trừ cả ba, thế mà Bang Xương đã nhanh miệng tâu trước thành thử chỉ có một mình Vương Đạt bị bắt mà thôi.

Thế rồi hai người vào cung triều kiến, vua phục chức lại cho Tông Trạch để được lãnh binh ra trừ giặc.

Trương Bang Xương thấy vậy quỳ tâu:

- Vương Thiện là quân cướp đường, bọn lâu la ô hợp, Tông đại nhân đây là người binh pháp thần thông, xin bệ hạ phát cho Tông Trạch chừng năm ngàn binh cũng đủ thắng quân giặc rồi.

Vua nghe theo, hạ chỉ phát cho Tông Trạch năm nghìn binh mà thôi. Tông Trạch nói với Lý Can:

- Ông đánh cọp chẳng xong, nên để cho cọp cắn lại tôi.

Lý Can nói:

- Việc đã lỡ rồi, xin Nguyên Nhung cứ việc ra binh, rồi sáng mai tôi sẽ tâu cùng Thánh thượng thêm binh tiếp ứng.

Hai người từ giã về dinh.

Hôm sau, Tông Trạch đến chỗ giáo trường kiểm binh mã có dẫn công tử Tông Phương theo, rồi kéo binh đến Mâu Đà Cang giáp chiến.

Tông Trạch thấy binh giặc đông đến bốn năm vạn, nghĩ thầm:

- Địch thì quân lính hằng hà sa số còn ta chỉ có vỏn vẹn năm nghìn thì đánh sao cho lại?

Rồi ra lệnh cho quân sĩ đi thẳng lên đỉnh Mâu Đà Cang hạ trại.

Công tử Tông Phương lấy làm lạ hỏi:

- Sao phụ thân lại đem binh đóng trên đỉnh núi thế này? Nếu quân giặc đến bao vây thì làm sao giải cứu?

Tông Trạch thở dài đáp:

- Ta há lại không biết thiên thời địa lợi sao? Nhưng chỉ giận gian thần ghen ghét cố hại ta, nên trong tay ta chỉ có năm nghìn người ngựa làm sao phá nổi bốn năm vạn lâu la? Cho nên cha quyết sẽ đơn thân độc mã vào sào huyệt giặc, nếu như không phá nổi chúng thì cha chịu chết để đền nợ nước. Lúc ấy con sẽ đem binh về bảo hộ gia quyến đưa về quê quán, chẳng nên ở chốn kinh thành mà mang hại. Nếu như ta làm cho binh tướng chúng rối loạn, dinh trại chúng hoang mang, thì con hãy đem ngay quân tiếp ứng thừa thế phá tan sào huyệt chúng.

Nhạc Phi phá giặc đền ân trọng

Thi Toàn ăn cướp gặp bạn hiền

Các tướng sĩ thấy Tông Lưu Thú liều thân như vậy vội chạy theo núi lại bẩm:

- Lão gia chớ nên đi một mình như vậy, thế giặc quá hung hăng lại đông như kiến. Anh em chúng tôi quyết liều chết theo lão gia chứ nhất định không chịu để cho lão gia đi một mình vào chốn miệng hùm, hang rắn.

Tông Trạch nói:

- Không phải ta không thấy giặc mạnh, nhưng có đem các ngươi theo cũng chẳng làm gì, chi bằng một mình ta đi cho khỏi mang hại đến các ngươi.

Quân sĩ nghe nói càng cảm động hơn nữa, nhưng can gián hết lời ông vẫn không nghe cứ việc giục ngựa thẳng đến trại địch lớn tiếng gọi.

- Ta, Tông Lưu Thú đến phá hang ổ chúng bay đây!

Vừa hét vừa xông vào chém địch như chém chuối, như đến chỗ không người, bọn lâu la không tài nào ngăn nổi lật đật chạy vào báo với Vương Thiện:

- Có Tông Trạch đơn thương độc mã xông vào dinh trại hung hăng quá, chúng tôi không cản nổi.

Vương Thiện suy nghĩ:

- Tông Trạch là danh tướng của nhà Tống mà một mình một ngựa vào đây liều chết thì chắc là gian thần mưu hại y rồi, nếu ta mà được người ấy thì lo gì giang sơn nhà Tống chẳng vào tay ta?

Nghĩ vậy nên vội ra lệnh cho binh tướng phải vây bắt cho kỳ được Tông Trạch, nhưng không được gây thương vong. Binh tướng được lệnh ào đến bao vây trùng trùng điệp điệp và gọi Tông Trạch bảo:

- Sao không xuống ngựa quy hàng cho sớm còn đợi chừng nào?

Nhưng Tông Lưu Thú không thèm đếm xỉa gì đến lời kêu gọi, ráng đem hết sức bình sinh ra đánh thốc vào đám giặc chẳng khác Triệu Tử Long vào trận Đương Dương.

Nhưng dù Tông Lưu Thú có tài giỏi đến đâu cũng khó mà thắng nổi số đông kia, nếu như quân địch dùng cung tên bắn loạn vào thì chắc chắn ông cũng khó mà bảo toàn tính mạng. Bởi vì Vương Thiện ra lệnh bắt sống nên quân sĩ chỉ bao vây chờ cho đối phương đuối sức mới ra tay thôi.

Trận này xin tạm gác lại sau sẽ tiếp, bây giờ lại nói đến mấy anh em Nhạc Phi đang ở Chiêu Phong trấn, ngày đêm săn sóc bệnh tình của Vương Quới, bệnh chàng hôm nay đã gần khỏi, Thang Hoài đang nấu nước trà cho Vương Quới uống, đột nhiên cánh cửa mở, người chủ tiệm cùng tên tiểu nhị hớt hải chạy vào nói:

- Nguy tai lắm chư vị tướng công ôi! Nay có đám ăn cướp trên Thái Hành sơn xuống muốn chiếm đoạt kinh thành. Như chúng chiếm được thì chẳng nói chi, bằng chúng bị thua quay trở lại đây sẽ phá làng xóm cướp bóc giết người ghê gớm lắm. Vì vậy bây giờ phải đi dò la tin tức, nếu liệu bề không xong thì phải dọn nhà trốn đi cho sớm kẻo hoạ đến nơi không chạy kịp. Còn mấy ông cũng phải lo thu xếp đi kẻo nguy đấy.

Thang Hoài nói:

- Không hề gì đâu, nếu chúng biết anh em ta ở đây thì dù cho chúng có ba đầu sáu tay cũng không dám bén mảng đến vì chúng đến đây lại phải nạp tiền mãi lộ cho chúng ta thì đến để làm gì?

Nói đến đây Thang Hoài cười ha hả. Người chủ tiệm đang kinh hãi chợt thấy thái độ ngạo mạn của Thang Hoài, hắn đứng nhìn sửng sốt đầy vẻ nghi ngờ rồi nói:

- Việc nguy biến sắp đến nơi sao tướng công lại đùa bỡn như vậy? Tôi nói thiệt đấy, xin tướng công hãy lo liệu gấp kẻo không kịp nữa.

Thang Hoài lại càng tức cười thêm, rồi không thèm đếm xỉa gì đến người chủ tiệm nữa, cứ thản nhiên bưng trà lên cho Vương Quới uống.

Nhạc Phi hỏi:

- Sao Thang đệ pha trà lâu thế?

Thang Hoài đem câu chuyện người chủ quán thuật lại đầu đuôi, Nhạc Phi vội kêu hắn vào hỏi lại:

- Câu chuyện người vừa mới nói ấy có thật không hay là nghe lời đồn huyễn hoặc?

- Quả thật như vậy tướng công ạ, bọn lâu la Thái Hành sơn kéo đến kinh thành đông không biết bao nhiêu mà kể, Triều đình đã sai quan quân đi dẹp rồi.

Nhạc Phi nói:

- Thế thì người làm ơn dọn cơm cho chúng ta ăn sớm đi.

Người chủ quán tưởng chàng thúc cơm ăn để anh em chạy cho mau, nên hắn lật đật đi sửa soạn.

Chủ quán đi rồi, Nhạc Phi nói với anh em:

- Ta đoán chắc triều đình sai người mang quân đi dẹp giặc, ngoài Tông ân sư ra thì không có ai khác đâu.

Thang Hoài hỏi:

- Tại sao đại huynh biết?

Nhạc Phi nói vẻ tự tin:

- Trong triều đều là những kẻ gian thần tham sống, sợ chết chẳng ai dám ra nơi trận mạc. Chỉ có Tông đại nhân là người thật tâm vì nước mà thôi, vậy Ngưu đệ hãy ở lại với Vương đệ cho có bạn để ba anh em ta đi thám thính xem, nếu quả có ân sư ta lãnh binh, bọn ta phải ra sức trợ giúp người.

Thang Hoài và Trương Hiển được đi rất vui mừng, còn Ngưu Cao không được đi, tức mình la lớn:

- Vương huynh đã khỏi rồi, để đệ lại làm gì?

Nhạc Phi đáp:

- Tuy Vương đệ khỏi bệnh rồi nhưng còn yếu chưa thể đi được, chẳng lẽ để Vương đệ ở lại một mình sao? Thôi Ngưu đệ hãy ở lại để ta đi cứu ân sư thì cũng như đệ cứu vậy.

Ngưu Cao vừa muốn phản đối thì Vương Quới liền giơ tay cào cào lưng Ngưu Cao ra hiệu bảo im. Ngưu Cao biết ý, liền dịu giọng bảo:

- Đại huynh không cho đi thì đệ ở lại thôi!

Cơm nước xong ba người nai nịt chỉnh tề, tung mình lên ngựa phóng đi như bay.

Ba người đi rồi, Ngưu Cao hỏi Vương Quới:

- Vương huynh lúc nãy cào lưng đệ là ý chi vậy?

Vương Quới mỉm cười nói:

- Đại huynh đã không muốn cho đệ đi thì dù có nài nỉ lắm cũng vô ích, vậy đệ có biết lý do gì mà ta đau đây không?

Ngưu Cao nói:

- Thì tại huynh ăn nhiều quá nên sinh bệnh chứ gì?

Vương Quới lắc đầu đáp:

- Không phải thế đâu, bởi vì nơi giáo trường ta chưa giết được người nào nên mới sinh bệnh, nay bọn cường đạo Thái Hành sơn xuống đánh phá kinh thành, thì chắc là bọn nó đông lắm cho nên ta cào đệ là có ý để cho ba người họ đi trước, rồi anh em mình lập tức theo sau, giết chúng một trận cho sướng tay thì mọi bệnh tiêu tan mất hết đó là uống thang "thập toàn đại bổ" vậy, chẳng biết đệ nghĩ sao?

Ngưu Cao vỗ tay đắc ý nói:

- Vương huynh nói chí lý, đáng đi lắm.

Rồi hai người dọn dẹp đóng cửa lại bảo với chủ quán:

- Phiền ông ở nhà coi sóc cho tử tế, để anh em ta đi giết hết quân giặc rồi sẽ trở về nhé.

Người chủ quán vâng dạ. Hai người thương giáp chỉnh tề lên ngựa nhắm cửa Nam Huân thẳng tới.

Lại nói, khi ba anh em Nhạc Phi đến Mâu Đà Cang, nhìn lên đỉnh núi cao trông thấy cờ hiệu tung bay phất phới, nhìn kỹ thì quả là cờ hiệu của Tông Trạch, Nhạc Phi ngạc nhiên tự hỏi:

Lạ thật ân sư là người tinh thông binh pháp, sao lại đóng quân trên đỉnh núi như vậy? Quả là hiện tượng bất thường, chúng ta hãy gấp rút lên đó thử xem nào.

Nói rồi ba người giục ngựa chạy lên, Quân canh vào phi báo, Tông công tử lập tức xuống đón lên.

Vừa vào đến trại, Nhạc Phi hỏi Tông Phương:

- Tông đại nhân là người thuần thục binh thư, tinh thông trận pháp, sao lại đóng binh nơi hiểm địa như vậy? Ngộ như quân giặc đến đây vây khốn, triệt đường tiếp tế và chận mạch nước thì biết liệu sao?

Tông Phương buồn bã đáp:

- Chỉ vì gian thần manh tâm hãm hại nên tâu với hoàng thượng phát binh quá ít chẳng đủ dùng, buộc lòng cha tôi cho đóng binh tại đây, rồi một mình một ngựa xông vào dinh trại địch quyết liều chết để đền nợ nước.

Nói đến đây, hai hàng nước mắt Tông Phương chảy xuống ròng ròng, khiến Nhạc Phi cảm động vô cùng, chàng nói:

- Bây giờ công tử hãy sửa soạn đi tiếp ứng, còn anh em tôi phải lập tức xông vào dinh trại địch cứu ngay ân sư ra mới được.

Rồi Nhạc Phi quay lại bảo:

- Thang đệ hãy đánh thẳng vào phía tả, còn Trương đệ thì xông vào phía hữu, riêng ta sẽ đánh vào giữa. Ai gặp ân sư trước thì người đó sẽ lập công đầu.

Thang Hoài nói:

- Binh giặc nhiều quá làm sao giết cho hết?

Nhạc Phi đáp:

- Ta cứ nhằm những đứa đầu đảng mà giết thì tự nhiên hàng ngũ địch tan rã ngay, miễn là làm sao vào được giữa trận, cứu được ân sư là tốt rồi.

Hai người khen phải rồi chia làm ba mặt cùng hét lên một tiếng, xông vào dinh trại địch một lượt.

Thang Hoài vung cây Lãng ngân thương xông vào phía tả chém giết địch như chẻ tre, Trương Hiển vung cây Câu liêm thương nhảy vào phía hữu, gặp người ngựa cũng đều giết sạch, lâu la kinh hồn hoảng vía. Còn Nhạc Phi thì xông vào cửa giữa, cây Lịch Tuyền thương trên tay chàng vung kêu vun vút, đầu giặc rơi như sung rụng. Chàng lớn tiếng hét:

- Có Nhạc Phi đến đây, hãy dãn ra cho ta cứu ân sư ta, bằng không ta sẽ giết không chừa một đứa nào!

Lúc ấy Tông Lưu Thú đang bị vây khốn, ráng hết sức bình sinh chống đỡ, hai tay đã rã rời mà vòng vây ngày một siết chạy. Quân địch gọi lớn:

- Tông Trạch! Đại vương ta bảo, hễ ngươi đầu hàng thì dung cho ngươi khỏi chết. Vậy ngươi hãy xuống ngựa cho mau để bảo toàn tính mạng.

Tông Trạch còn đang phân vân chưa biết nên hành động bằng cách nào, bỗng nghe bên ngoài có tiếng la ó:

- Có Nhạc Phi là người đâm chết Tiểu Lương Vương đang đánh vào trại ta dữ dội quá.

Tông Trạch nghe vậy nghĩ thầm:

- "Nhạc Phi đã về quê rồi lẽ nào lại có mặt nơi đây?"

Còn đang nghi ngại, bỗng nghe tiếng thét vang như sấm nổ, vòng vây đang siết chặt, lại loạn lên rồi một khoảng trống được mở ra. Quả nhiên Nhạc Phi đã lướt tới trước mặt, Tông Trạch cả mừng vừa thở vừa gọi:

- Hiền khiết ôi! Hãy mau đến đây trợ lực, ta đuối sức lắm rồi.

Nhạc Phi nghe gọi vội phóng mình vào, lễ phép đáp:

- Tiểu sinh đến trễ, xin ân sư tha tội.

Nói vừa dứt lời đã thấy Thang Hoài từ phía tả xông tới, rồi Trương Hiển cũng tiếp đến ngay. Nhạc Phi thấy thế kêu lớn:

- Này chư đệ, ân sư ở đây này, chúng ta hãy ráng sức phá dinh địch đưa ân sư ra cho kỳ được nhé.

Tông Trạch mừng rỡ hiệp bốn người cùng một chỗ đánh tháo ra, gặp binh giết binh, gặp tướng chém tướng, đánh theo lối mũi dùi, thế mạnh vô song.

Nhắc lại hai chàng Ngưu Cao và Vương Quới sợ ba người kia đến trước giết hết quân giặc nên quất ngựa chạy như bay. Đến nơi thấy quân giặc đông đảo thì mừng lắm, Vương Quới bảo Ngưu Cao:

- Địch còn nhiều lắm, ta tha hồ mà đánh.

Ngưu Cao quất ngựa lướt tới. Vương Quới cản lại nói:

- Ngưu đệ, hãy khoan đã để cho ta vào trước uống vài "hoàn thuốc bổ" cho nó sảng khoái tinh thần, chớ có vô lễ.

Ngưu Cao nói:

- Vương huynh đau vừa mới khỏi, để đệ vào trước cho.

Vừa nói, Ngưu Cao vừa giục ngựa ô truy tay múa thiết côn, tướng mạo như Nguyên Đan giáng thế. Vương Quới cũgn vung cây đại đao vùng vẫy trên lưng con hồng mã, xem như Quan Công tái sinh!

Hai người áp vào một lượt đánh phá tơi bời, máu thịt văng tứ tung, bọn lâu la hoảng kinh chạy vào báo với Vương Thiện:

- Phía trước dinh có ba người đánh vào rất lợi hại, còn phía sau lại có một người mặt đỏ, một người mặt đen đánh tới rất hung ác, không ai ngăn cản nổi, xin đại vương liệu định.

Vương Thiện nghe báo cả giận câầ đao xông ra. Lâu la thấy thế reo hò:

- Đại Vương đã ra kìa.

Vương Quới mừng rỡ nói:

- Hay lắm, đại huynh ta thường bảo đánh rắn phải đánh dập đầu, đánh giặc phải bắt chủ tướng, hắn ra đây tức nạp mạng cho anh em ta đấy.

Vừa nói, vừa xốc tới vung đao chém Vương Thiện. Ngưu Cao lướt tới kêu lớn:

- Vương huynh hãy nhượng "hoàn thuốc bổ" ấy cho đệ.

Tiếng hét của Ngưu Cao chấn động cả không gian khiến Vương Thiện giật mình bị Vương Quới chém sả một đao từ đầu xuống lưng phân làm hai mảnh.

Vương Quới lập tức nhảy xuống chặt lấy thủ cấp treo sau yên ngựa, đồng thời vứt cây đao của mình, lấy cây đao thật tốt của Vương Thiện rồi nhảy lên lưng ngựa tiếp tục tấn công.

Ngưu Cao thấy thế thèm quá lẩm bẩm:

- "Ta cũng tìm một đứa như vậy giết cho ngon tay".

Vừa nói, vừa vung song giản đánh sâu vào trận địa.

Nhạc Phi thoáng thấy Ngưu Cao hùng hổ đánh vào, nghĩ thầm:

- "Chẳng lẽ nó bỏ Vương Quới ở nhà một mình lén đến đây đánh giặc sao?".

Nhạc Phi vừa muốn lên tiếng hỏi, chợt thấy Vương Quới cũng xông đến bên lưng có đeo lủng lẳng một chiếc thủ cấp và đang vung đao rượt theo tướng Đặng Thành.

Đặng Thành vừa chạy vừa đỡ đao của Vương Quới, bị Nhạc Phi đâm một thương té nhào xuống ngựa chết tươi. Điền Kỳ nổi giận múa kích đánh tới, bị Ngưu Cao đánh cho một giản, cây kích rời khỏi tay văng ra xa lắc; thừa thế Ngưu Cao giáng xuống một giản trúng ngay giữa sọ, óc huyết văng tứ tung, ngã nhào xuống ngựa chết không kịp ngáp.

Quân giặc trông thấy chúa tướng và quân sư đều bị giết chết, liệu khó bề chống cự, không ai bảo ai, ùa nhau bỏ chạy tán loạn.

Lúc ấy Tông Phương cũng vừa đem binh đến thấy quân giặc chạy loạn, chàng ra lệnh áp tới chém giết, quân giặc chết không biết bao nhiêu mà kể, một số bị bắt sống, một số đầu hàng.

Tông Trạch liền sai quân đánh trống thu quân, truyền thu dọn đồ binh khí và tịch thu lương thực của địch quân rất nhiều.

Sau khi thắng trận, Tông Trạch cho bọn giặc bị bắt nhốt giữ riêng ra một chỗ, còn quân mình cho hạ trại nghỉ ngơi. Nhạc Phi bèn vào từ biệt ân sư để trở về Thang Âm huyện.

Tông Trạch nói:

- Hôm nay mấy anh em có công lớn với triều đình sao lại bỏ về như vậy? Để ngày mai lão phu vào tâu với thiên tử xem sao.

Nhạc Phi vâng mệnh ở lại dinh trại đợi chờ.

Hôm sau Tông Trạch dẫn hết binh mã cùng mấy anh em về đồn trú tại Ngọ môn, một mình vào trước Kim giai quỳ tâu:

- Hạ thần là Tông Trạch phụng mệnh lãnh binh dẹp giặc nhưng vì binh quá ít nên bị giặc vây khốn không thể thoát nổi, hạ thần tưởng thế nào cũng bỏ thây giữa trận tiền, may thay nhờ anh em Nhạc Phi xông vào đánh phá, cứu hạ thần ra khỏi trùng vây lại giết được tên đầu đảng Vương Thiện và quân sư của hắn là Đặng Thành và Điền Kỳ, hiện thần có mang thủ cấp chúng về đây trình chúa thượng. Quân giặc đầu hàng ta hơn một vạn tên, lại thu được ngựa voi lương thảo chẳng biết là bao nhiêu, xin thánh thượng cho phát tin mừng.

Vua Huy Tông nghe tâu vui mừng khôn xiết, vội cho phép Tông Trạch bình thân và cho vời năm anh em Nhạc Phi vào điện kiến giá.

Năm người quỳ lạy tung hô, vua Huy Tông quay qua hỏi Trương Bang Xương:

- Năm anh em Nhạc Phi có công lớn như vậy thì đánh phong làm chức gì?

Trương Bang Xương tâu:

- Như luận công phá giặc thì đánh phong làm quan lớn, ngặt vì chúng nó có tội nơi võ trường nên công ấy chỉ có thể chuộc tội mà thôi. Hay nếu có thương tình lắm cũng chỉ có thể cho tên Nhạc Phi cái chức Thừa tin lang là cùng, chờ ngày sau có công mới sẽ thăng thưởng thêm.

Vua Huy Tông gật đầu y theo. Nhạc Phi rất buồn tủi, nhưng vẫn tạ ơn rồi lui ra. Vua lại truyền cho quan Bộ Hộ coi việc thu điểm lương thảo, quan Bộ Binh thì điểm lại tù hàng binh, còn bao nhiêu khí giới đều cho nhập kho.

Đâu đó xong xuôi, các quan lui trào. Tông Trạch ra về trong lòng giận như lửa đốt nghĩ thầm:

- "Quan gian tặc nó ganh ghét người tài như vậy thì làm sao thiên hạ được thái bình?"

Nguyên cái chức Thừa tin lang chỉ cầm đầu có bảy tên quân mà thôi thì bảo ai mà không giận? Nhưng ngặt vì thánh thượng đã nghe đứa gian thần truyền chỉ rồi nên không dám tâu nữa, ông Tông Trạch trở về phủ mang một mối hận vô biên.

Ông ta về đến nơi trông thấy anh em Nhạc Phi đang đứng tại viên môn chờ đợi, Tông Trạch vội xuống ngựa dắt vào đại đường mời ngồi và nói:

- Lão phu cũng muốn tiến cử anh em vào triều đình trọng dụng ngờ đâu lại bị bọn gian thần cản trở, lão phu nhắm lúc này chưa phải là lúc lập công danh, vậy anh em hãy tạm lui về chờ cơ hội khác. Lão cũng muốn lưu anh em ở lại đây chơi ít ngày cho thoả lòng ái mộ, song lão cảm thấy hổ thẹn lắm.

Nhạc Phi thưa:

- Ơn nghĩa của ân sư đối với chúng sinh rất cao dày, ngàn đời không quên được, nagn vâng lời ân sư, chúng sinh xin từ biệt trở về quê quán.

Sau khi dặn dò điều hơn lẽ thiệt, Tông Trạch tiễn anh em Nhạc Phi ra khỏi viên môn rồi mới trở vào.

Bọn Nhạc Phi cho ngựa rảo bước trở về Chiêu Phong trấn sắp xếp hành lý, tính tiền cơm rồi đi thẳng về Thang Âm.

Dọc đường anh em Nhạc Phi chuyện vãn. Nhắc lại việc gian thần ngăn trở khó lập công danh, Ngưu Cao nói:

- Tuy công danh chẳng được song đệ giết bọn chúng một trận sướng tay quá, ước gì bắt bọn gian thần giết một trận như vậy nữa thì khoái biết mấy.

Nhạc Phi lườm Ngưu Cao và nạt:

- Ngưu đệ đừng nói bậy.

Vương Quới xen vào:

- Nếu không có đại huynh chắc lúc ở trong triều anh em tôi nắm đầu thằng Trương Bang Xương kéo xuống cho hắn một thoi cho hắn rồi đời, bất quá mạng đổi mạng chứ gì?

Thang Hoài nói:

- Ngươi đừng nói liều lĩnh như vậy, như việc ở ngoài đường thì chẳng nói chi, chứ ở giữa triều đình mà ỷ mạnh hành động như vậy ắt mang tội khi quân có thể tru di tam tộc nữa là khác chứ đâu có dễ dàng như vậy!

Câu chuyện giữa năm người vừa đến đây thì gặp một toán người vừa chạy vừa nói: "Nguy hiểm lắm mau mau trở lại đi đường khác mới xong!".

Chúng vừa nói vừa chạy bán sống bán chết. Trương Hiển vội nhảy xuống ngựa chạy theo nắm một người đứng lại bảo:

- Ngươi bảo phía trước có chuyện nguy hiểm hãy nói lại cho ta nghe thử nào?

Người ấy đáp:

- Tại chân núi Hồng La phía trước đây có bọn cướp đón đường, chúng ta vừa bị chúng cướp hết hành lý, may mà chạy thoát được mới khỏi chết. Ta thương các người nên bảo cho biết để lánh nạn, sao lại kéo ta lậi làm gì? Hãy thả ta ra mau.

Trương Hiển buông người ấy ra rồi quay lại nói với Nhạc Phi:

- Họ cho biết rằng phía trước đây có bọn cướp.

Ngưu Cao nghe nói cười khanh khách:

- Cha chả là khoái, thế là gặp miếng mồi ngon nữa rồi.

Nhạc Phi quát mắng:

- Ngưu đệ chớ nên tự cao tự đại, phải đề phòng trước mới được. Bây giờ Thang đệ hãy đi trước thám thính xem tình hình thế nào rồi anh em hãy đến sau.

Năm anh em đứng lại sửa lại thương giáp, để chuẩn bị giao chiến. Còn Thang Hoài thì giục ngựa đi trước.

Đến chân núi kia bỗng có một người cưỡi con ngựa hồng sa, tay cầm đại đao xông ra chặn đường Thang Hoài, nạt lớn:

- Tiểu tử, hãy nạp tiền mãi lộ rồi mới được đi qua.

Thang Hoài cười khẩy rồi giơ cây thương lên đáp:

- Ngươi muốn thu tiền mãi lộ thì hãy hỏi người bạn của tay đây mà thu chớ ta không có tiền.

Tên cướp ngạc nhiên hỏi:

- Bạn của ngươi ở đâu?

Thang Hoài cười ha hả rồi chỉ cây Lang Ngân thương trên tay mình bảo:

- Bạn của ta đây này.

Tên cướp cả giận vung đao chém Thang Hoài. Thang Hoài đề thương đón đánh. Thương đâm đao đỡ, kẻ tràn qua người né lại, đánh vùi hơn hai mươi hiệp mà không ai chịu nhường ai, quả là lưỡng hổ tương phùng.

Vài phút sau bốn anh em Nhạc Phi vừa đến, thấy Thang Hoài không thắng nổi đối phương, Trương Hiển múa Câu Liêm thương xốc tới quát lớn:

- Có ta đến đây, hãy mau mau xuống ngựa quy hàng, bằng chống cự chứo trách anh em ta độc ác.

Vừa dứt lời bỗng thấy một người từ trên núi chạy xuống, tay cầm cây Điểm Cang thương xông vào đánh với Trương Hiển.

Vương Quới thấy vậy liền xông vào trợ lực, lại thấy một người mặt vàng như nghệ từ trên núi chạy bổ xuống cầm cây Tam Cổ thái thiên cản Vương Quới lại giao chiến.

Ngưu Cao lòng nóng như lửa đốt vội tung người nhảy vào thì từ trên núi lại phóng xuống một người nữa, người này mặt xanh như chàm tay cầm Lang nha Bổng chặn Ngưu Cao lại. Nhạc Phi thấy vậy nghĩ thầm:

- "Không biết trên núi này có bao nhiêu cường đạo nữa? Bọn cường đạo này xét ra võ thuật cũng khá cao cường, nếu ta không nhảy vào vòng chiến thì e không thắng nổi".

Nghĩ rồi giục ngựa xông tới, chợt nghe trên núi có tiếng lạc ngựa vang lên. Một người đầu đội ngân khôi, mình mang bạch giáp, cỡi con bạch mã cầm cây ngân kích chạy xuống chỉ vào mặt Nhạc Phi nạt lớn:

- Hãy coi chừng có ta đây.

Vừa nói vừa phóng kích nhắm ngay mặt Nhạc Phi đâm tới. Nhạc Phi đưa thương ra đỡ rồi đánh trả. Đánh được bảy tám hiệp người ấy thình lình thoái lui ra ngoài vòng chiến kêu lớn:

- Hãy khoan, ta có chuyện muốn hỏi ngươi.

Nhạc Phi dừng thương lại hỏi:

- Chuyện gì vậy?

- Ta thấy ngươi hơi quen quen hình như có gặp đâu đấy một lần thì phải, nhưng ta nghĩ mãi chẳng ra, vậy ngươi hãy nói rõ danh tính cho ta biết thử nào.

Nhạc Phi đáp:

- Chúng ta từ Thang Âm huyện đi thi tại võ trường không đậu trở về đây, còn chúng bay là quân ăn cướp có can hệ chi mà nhìn nhận là quen?

Người ấy nhìn Nhạc Phi hồi lâu rồi nói:

- Ta nhớ ra rồi, ngươi có phải là Nhạc Phi đã đâm chết Tiểu Lương Vương tại giáo trường đó không?

Nhạc Phi gật đầu đáp:

- Phải đấy, sao ngươi biết?

Người ấy nghe nói vội nhảy xuống ngựa chắp tay thi lễ và nói:

- Tôi có mắt như mù nên không nhìn ra để đến nỗi phải thất lễ với Nhạc huynh thật đáng tội.

Nhạc Phi cũng ngạc nhiên bảo:

- Chẳng hay vì sao hảo hán lại biết rõ tôi như vậy?

Người ấy nói:

- Tôi sẽ phân tỏ sau, thôi để tôi gọi mấy đứa em tôi dừng tay đã kẻo xảy ra chuyện gì thì ân hận. Nói rồi lớn tiếng gọi "Mấy anh em đừng đánh nhau nữa, hãy lại ta bảo đây!".

Kim Ngột Truật đem quân đánh Tống

Lục Đăng lập kế giữ An Châu

Thấy bốn người đang đánh quyết liệt với mình đều dừng tay, anh em của Nhạc Phi cũng tạm ngưng chiến.

- Chúng em sắp thắng đối thủ, tại sao đại huynh lại không cho chúng em ra tay nữa ? Bốn người hỏi.

Người ấy không trả lời mà chỉ Nhạc Phi nói:

- Người này chính là Nhạc Phi đã đâm chết Tiểu Lương Vương tại giáo trường đó.

Bốn người nghe nói vội xuống ngựa thi lễ với Nhạc Phi. Nhạc Phi cũng gọi bốn người em lại làm lễ ra mắt nhau, rồi hỏi:

- Chẳng hay quý vị hảo hán tên họ là chi?

Người cầm kích lễ phép đáp:

- Tôi họ Thi tên Toàn, người cầm dao là Triệu Vân, người cầm thương là Châu Thanh, người cầm xoa là Lương Hưng, người cầm lang bổng là Khiết Thanh, năm anh em tôi đều kết nghĩa với nhau quyết ra đoạt chức Võ trạng, chẳng dè bị đại huynh đâm chết Lương Vương, làm tan rã võ trường, nên bọn tôi tính trở về nhà, ngặt vì trong túi không còn một xu lấy làm hổ thẹn. Chúng tôi lại nghĩ ở nhà cũng không có vợ con chi, chi bằng đi tìm đại huynh để kết nghĩa anh em mà nương dựa.

Khi đi ngang qua núi này chúng tôi lại gặp một lũ ăn cướp đón đường, tôi giết hết mấy tên đầu đảng, bọn lâu la tung hô anh em tôi làm chức Đại Vương. Chỉ vì túng quá, chúng tôi tạm ở đây ít ngày kiếm ít vàng bạc để khi tìm gặp được đại huynh dùng làm lễ tấn kiến. Ngờ đâu gặp đại huynh lại không biết nên xúc phạm, xin đại huynh miễn chấp.

Nhạc Phi mừng rỡ tỏ thái độ hoan hỉ, Thi Toàn vội mời hết mấy anh em lên núi, dọn bàn hương án kết nghĩa anh em rồi thâu góp đồ hành lý theo Nhạc Phi về Thang Âm huyện cùng ở chung luyện tập văn võ hàng ngày. Anh em khăng khít nhau như ruột thịt.

Bây giờ xin nói về phương Bắc, vua nước Đại Kim là Ô Cốt Đạt có năm người con. Thái từ là Hồ Hàn, bốn hoàng tử là Lạc Hàn, Đáp Võ, Ngột Truật và Trạch Lợi, lại có thừa tướng là Hấp Lý Cường, quân sư là Hấp Mê Xi, Nốt Mê Tây; đại nguyên soái là Khô Kịch Hốt, nhị nguyên soái là Giảo Ma Hốt, tam nguyên soái là Kỳ Ôn Xoa Trực Chơn, tứ nguyên soái là Ô Ly Đố, ngũ nguyên soái là Ngoa Ly Ba. Ô Cốt Đạt cai quản cả lục quốc tam xuyên, đất đai quá rộng mà lại còn vọng tưởng Trung Nguyên, quyết thâu đoạt giang sơn nhà Tống.

Một hôm vua Kim đang ngự triều, bỗng có quan trị điện vào báo:

- Quân sư đã về.

Kim Vương cho triệu vào. Hấp Mê Xi vào triều bái tung hô rồi tâu:

Hạ thần qua Trung Nguyên thăm dò tin tức, được nghe lão Nam Man hoàng đế (chỉ Huy Tông) đã nhường ngôi cho con là Khâm Tông. Vị tiểu hoàng đế này lên ngôi, chỉ ham mê tửu sắc không ngó ngàng đến việc tiều chính cho nên bọn gian thần lộng hành, mưu hại kẻ trung lương. Vì thế hiện nay các ải đều không có tướng tài trấn giữ. Thừa lúc này Thánh thượng tung binh hùng, tướng mạnh qua đó thì chắc chắn chiếm cứ đất Trung Nguyên và lật đổ triều Tống dễ như trở bàn tay.

Ô Cốt Đạt nghe tâu mừng rỡ chọn ngày lành tháng tốt ra chốn giáo trường tuyển lựa một vị Đoạt Tống đại nguyên soái.

Để tuyển chọn một vị nguyên soái có thể thảo phạt cả miền Nam, đoạt cả triều Tống. Kim Vương treo bảng khắp cả trong ngoài kêu gọi kẻ có tài đến giáo trường tỉ võ. Bọn võ sĩ đổ xô đến giáo trường đông không biết bao nhiêu mà kể.

Kim Vương ngự ra giáo trường, ngồi chễm trệ trên đài cao, các quan văn võ triều kiến xong bước ra sắp hàng đứng hai bên trông rất nghiêm chỉnh.

Kim Vương giơ tay chỉ con thiết long để giữa giáo trường phán:

- Con thiết long này của tiên vương ta để lại, nó nặng hơn ngàn cân, hễ ai cử nổi thì được phong chức Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái.

Lệnh vua vừa ban ra mọi người đổ xô vào lần lượt kẻ trước người sau quyết tranh cho kỳ được chức ấy. Nhưng ai nấy đã ráng hết hơi mà con thiết long vẫn không thấy nhúc nhích , chẳng khác nào thằn lằn xô cột đá.

Kim Vương thấy vậy nói:

- Xưa Hạng Võ bạt núi, Tử Tư cử đình. Nay nội nước ta chẳng có người nào cử nổi cái vật ngàn cân này sao?

Đang khi thất vọng bỗng thấy một người bước ra xin được cử. Người này mặt như than lửa, tóc tựa mây đen, mày rậm râu dài, miệng rộng mắt lồi, mình cao một trượng, lưng lớn ba vầng. Chẳng phải ai xa lạ mà chính là hoàng tử thứ tư của Kim Vương tên là Ngột Truật (cũng chính là Xích Tù Long ở thượng giới xuống phàm đầu thai vào vương gia Ô Cốt Đạt để nhiễu hại giang sơn nhà Tống)

Ngột Truật tâu lớn:

- Con có thể cử nổi con thiết long kia.

Kim Vương nghe tâu vùng nạt lớn:

- Quân đao phủ đâu? Hãy bắt nó đem chém đi cho ta.

Đao phủ tả hữu hai bên lập tức vâng lệnh bắt trói Ngột Truật lại.

Kim Vương đang cần tuyển kẻ tài ba mà con mình đứng ra xin cử nổi con thiết long đã không mừng lại còn truyền đem chém đi là tại làm sao? Ấy chì vì Ngột Truật là con vua Phiên mà hằng ngày cứ mơ tưởng bên Trung Nguyên, thậm chí khi vào trong cung cũng mặc y phục của người Trung Nguyên nên Kim Vương ghét cay ghét đắng, đang tức giận vì không thấy ai cử nổi thiết long lại thấy Ngột Truật ló mặt ra làm cho Kim Vương càng giận thêm nên mới truyền chém đi cho khuất mắt.

Quân sư Hấp Mê Xi thấy thế vội quỳ tâu:

- Hôm nay là ngày chọn tướng mà hoàng tử Ngột Truật đã xin được cử, sao chúa thượng không để cho hoàng tử trổ tài lại muốn chém đi là sao? Mong chúa thượng hãy nghĩ lại kẻo oan cho hoàng tử lắm.

Kim Vương dịu giọng nói:

- Quân sư chưa rõ chứ nội trong triều có bao nhiêu võ tướng cùng anh hùng khắp nơi mà không ai cử nổi, huống chi sức lựa của nó bao nhiêu mà dám cả gan đứng ra huênh hoang. Quân láo xược như vậy không chém đi để làm gì?

Hấp Mê Xi lại tâu:

- Phàm dùng người chớ nên xem tướng, chúa thượng cứ để cho hoàng tử cử thử xem. Như quả cử nổi thì phong làm Tảo Nam đại nguyên soái, sai đi chinh phạt Trung Nguyên. Nếu thu phục được nhà Tống thì phúc lớn của chúa thượng, bằng cử không nổi thì sẽ xử trảm cũng chẳng muộn.

Kim Vương gật đầu phán:

- Được rồi, trẫm sẽ vì khanh mà tạm tha cho nó nhưng nếu cử không nổi thì phải chém tức khắc để trị tội cuồng vọng ấy.

Phán rồi truyền quân mở trói cho Ngột Truật, sai đi cử thiết long.

Ngột Truật bước ra tạ ơn rồi ngước mặt lên trời vái thầm:

- "Nếu xét ra tôi không vào được Trung Nguyên và đoạt được giang sơn nhà Tống thì đừng cho tôi cử nổi thiết long và để cho tôi chịu chết chém".

Vái rồi tay phải vén cao, tay trái nắm cẳng con thiết long giơ lên nói lớn:

- Phụ vương, con giơ nổi thiết long đây này.

Kim Vương xem thấy cả mừng, các quan văn võ đều vỗ tay reo lên:

- Đệ tứ hoàng tử quả là thiên thần.

Ngột Truật nâng lên hạ xuống ba bốn lần rồi để con thiết long lại chỗ cũ, bước lên điện đợi lệnh.

Kim Vương liền phong Ngột Truật làm Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái. Sau đó chọn thêm mấy phó nguyên soái để yểm trợ cho Ngột Truật rồi chọn ngày lành tháng tốt phát năm mươi vạn quân, làm lễ tế cờ, rầm rộ kéo xuống Trung Nguyên.

Đoàn quân Ngột Truật kéo đi, cờ xí đỏ rực trời, trống chiêng vang dậy đất. Đi bộ một tháng trời mới đến bờ cõi Trung Nguyên.

Ải thứ nhất của Trung Nguyên là Lộ An Châu, tướng giữ ải này là Lộ An Châu Tiết Đạt Sứ Lục Đăng, tự là Tử Kiến, biệt hiệu là Tiểu Gia Cát, phu nhận là Tạ Thị mới sinh được một con lên ba tuổi, binh sĩ trong thành ước hơn năm ngàn.

Lục Đăng là danh tướng của nhà Tống. Hôm ấy đang ngồi trong công đường bỗng có quân thám tử vào báo:

- Nay Đại Kim Quốc sai hoàng tử thứ tư là Hoàn Nhan Ngột Truật đem năm mươi vạn quân đến xâm phạm Lộ An Châu ta. Chúng còn cách thành chừng trăm dặm.

Lục Đăng nghe báo giật nẩy người lập tức thưởng cho tên thám tử một tấm ngân bài, sai hắn tiếp tục đi thám thính rồi sai quan kỳ bài ra ngoài thành truyền rao cho bá tánh phải lập tức đem hết gia quyến vào thành mà ở, còn nhà cửa thì phá sạch, hứa khi thái bình sẽ xuất tiền cất lại cho.

Lục Đăng tập trung hết các tướng sĩ leo lên bờ thành kiên trì cố thủ. Lại sai mua một ngàn cái chảo lớn và một ngàn cái thùng chứa đầy phân người, đoạn xây lò xung quanh bờ thành để nấu sôi nước phân ấy chờ cho quân địch đến dưới thành thì đổ phân sôi ấy xuống cho quân giặc tuột da mà chết.

Lục Đăng còn sai chặt hơn một nghìn cây tre để làm bẫy phòng khi địch có hãm thành ban đêm sẽ bị mắc bẫy. Ngoài ra Lục Đăng còn đem lưới có buộc vô số mắc câu thả xuống nước để đề phòng quân địch dùng đường thủy xông vào thành.

Sắp đặt đâu đó xong xuôi Lục Đăng thảo một đạo bổn chương, sai người mang về triều đình xin cầu cứu.

Khi người mang bổn chương đi rồi Lục Đăng lại nghĩ thầm:

- "Theo địa thế Lộ An Châu này quả là chỗ yết hầu, nếu viện binh đến trễ để cho thất thủ thì chắc chắn Biện Lương cũng khó giữ nổi".

Lục Đăng suy tới nghĩ lui ngồi đứng chẳng yên, bèn viết hai bức văn thư sai người mang một bức qua trao cho quan tổng binh là Hàn Thế Trung và một bức trao cho thái thú hà giang phủ là Trương Thúc Dạ để yêu cầu hai người này phát binh đến giúp. Rồi Lục Đăng thống lãnh quân đội ngày đêm canh phòng nghiêm ngặt.

Nói về ngột Truật dẫn binh kéo đến cuồn cuộn như sóng trào. Khi còn cách thành Lộ An Châu chừng năm chục dặm, truyền quân an dinh hạ trại.

Lục Đăng đứng trên thành xem thấy quân Phiên trùng trùng điệp điệp cờ xí ngợp trời, gươm giáo sáng lòa, tướng mạo đứa nào đứa nấy mặt mũi dữ dằn trông dễ khiếp. Thật quả là đoàn quân vô cùng lợi hại.

Các tướng đứng trên thành thấy thế cũng lấy làm lo ngại bèn đề nghị với chủ tướng:

- Quân Phiên vừa mới đến chưa kịp đề phòng, ta thừa dịp đánh phủ đầu một trận may ra phá được.

Lục Đăng lắc đầu bảo:

- Không được đâu giờ phút này quân Phiên đang rất mạnh lại rất hiếu chiến, chúng ta cần phải cố thủ chờ viện binh đến sẽ hay.

Tướng sĩ tuân lệnh lo cố thủ thành trì chờ quân cứu viện.

Ngột Truật an dinh hạ trại xong bèn gọi quân sư hỏi:

- Chẳng hay thành Lộ An Châu này do tướng nào trấn thủ?

Hấp Mê Xi đáp:

- Ải này do quan tiết đạt sứ Lục Đăng trấn giữ. Người này có biệt hiệu là tiểu Gia Cát, có tài dụng binh giỏi lắm.

Ngột Truật lại hỏi:

- Người này trung hay nịnh? Quân sư có biết rõ không?

Hấp Mê Xi đáp:

- Người này là tôi trung bậc nhất của nhà Tống.

Suy nghĩ hồi lâu Ngột Truận hỏi:

- Thế thì hay lắm, để ta kéo quân đến hội diện với y một phen xem sao.

Nói rồi kiểm điểm năm ngàn binh mã và dẫn quân ra trận, thổi kèn gióng trống kéo thẳng đến thành.

Lục Đăng xem thấy quân Phiên kéo đến liền dặn dò tướng sĩ gìn giữ thành trì rồi nai nịt chỉnh tề, mang thương lên ngựa phát pháo khai thành, thả cầu xuống dẫn binh ra trước trận xem xét.

Trông thấy Ngột Truật đầu đội kim khôi sáng ngời, trên đỉnh giắt hai chiếc lông trĩ rã ra hai bên, mình mặc áo bào cẩm tú, mang giáp long lân khảm vàng cưỡi con ngựa "Tiết hỏa long cu", tay cầm cây kim tước phủ, đường đường chẳng khác khai sơn lực sĩ.

Vừa trông thấy Lục Đăng, Ngột Truật lớn tiếng hỏi:

- Ngươi có phải là Lục Đăng không?

Lục Đăng đáp:

- Phải đấy, ngươi cũng biết ta sao?

Ngột Truật đứng nhìn sững đối phương, thấy Lục Đăng đầu đội đại hồng kiết đảnh xích hồng khôi, mình mang liên hồng tỏa tử hùng kim giáp, bên trái mang cung bên phải mang tên. Quả là anh hùng khí trượng, cái thế vô song bèn nghĩ thầm:

- "Nhân vật Trung Nguyên này quả là một trang tuấn kiệt ít ai bì".

Nghĩ rồi kêu Lục Đăng ôn tồn nói:

- Lục tướng công, nay ta cử năm mươi vạn quân quyết đánh Trung Nguyên thâu tóm thiên hạ. Lộ An Châu này là chốn tiền đồn của Trung Nguyên. Ta nghe danh tướng công là một tay hảo hán nên phải đến đây để tỏ đôi lời hơn thiệt. Nếu như tướng quân thuận qui hàng thì sẽ được phong vương vị, chẳng biết tướng quân nghĩ sao?

Lục Đăng "hứ" một tiếng rồi gằn giọng:

- Ngươi là kẻ nào mà dám nói với ta lời lẽ láo xược ấy?

Ngột Truật đáp:

- Ta là Đại Kim Quốc Tông Lãnh Điện Tiền, Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái tên là Ngột Truật đây.

Lục Đăng quát lớn:

- Đừng nói bậy, từ xưa đến nay Bắc Nam có ranh giới rõ ràng, ai lo giữ bờ cõi nấy. Chúa ta nhân đức rải khắp xa gần, thấy chúng bay là loài mọi rợ chẳng nỡ ra binh, sao chúng bay không giữ đạo làm tôi lại vô cớ mang binh đến xâm phạm cõi bờ là nghĩa gì vậy?

Ngột Truật cười khẩy đáp:

- Tướng quân nghĩ như vậy là sai rồi. Đất đai, thiên hạ trên thế gian này không phải của riêng một ai cả, hễ ai có đức thì được. Nay hoàng đế nhà Tống vô đạo ghét bỏ người hiền, tin dùng đứa gian nịnh khiến cho trời hờn dân oán. Vì vậy Chúa ta dấy binh để cứu bá tánh trong lúc đảo điên thì quả là làm một điều nhân nghĩa. Tướng quân phải thức thời theo ý trời, thuận lòng dân mới khỏi mất chức lại được phong hầu, bằng chấp né không chịu thì cái thành nhỏ này giữ sao cho được? Nếu ta phá rồi thì vàng đá chẳng phân, lúc ấy ăn năn sao kịp?

Lục Đăng mặt đỏ phừng phừng chỉ vào mặt Ngột Truật nạt lớn:

- Quân mọi rợ kia đừng huênh hoang khoác lác, hãy xem cây thương của ta đây.

Vừa nói vừa vung thương đâm Ngột Truật, Ngột Truật cũng giơ búa ra đỡ , rồi hai người đánh vùi với nhau đến năm sáu hiệp. Lục Đăng ngăn đỡ không nổi, quay ngựa bỏ chạy vào thành gọi quân lính trên thành lấy súng bắn xuống. Ngột Truật không dám rượt theo. Trên thành thả cầu xuống đón Lục Đăng lên thành.

Vào thành Lục Đăng nói với chư tướng:

- Tên Ngột Truật ấy lợi hại thật, các ngươi phải hết lòng gìn giữ, chớ nên thờ ơ mà mang hại.

Ngột Truật vừa thu binh về dinh, Hấp Mê Xi hỏi:

- Lục Đăng thua chạy sao nguyên soái không đuổi theo bắt nó?

Ngột Truật đáp:

- Lục Đăng chạy ắt có mai phục, hơn nữa trên thành súng bắn xuống như mưa thì đuổi theo làm gì?

Quân sư Hấp Mê Xi gật đầu khen là có lý.

Hôm sau Ngột Truật nai nịt chỉnh tề đến bên thành khiêu chiến nhưng trên thành treo miễn chiến bài. Ngột Truật lớn tiếng nhục mạ vua tôi nhà Tống mà cửa thành vẫn đóng kín mít.

Cứ như thế cầm cự suốt nửa tháng trời, Ngột Truật trong lòng nóng như lửa đốt bèn sai Ô Quốc Long, Ô Quốc Hổ đốc thúc quân sĩ đóng nhiều thang rồi giao cho đệ tam nguyên soái là Kỳ Ôn Thiết Mộc Chơn dẫn năm ngàn quân tinh nhuệ đi tiên phong, còn Ngột Truật thì tự lãnh binh đi hậu tập kéo đến bên hào bắc cầu tràn qua, đoạn bắc thang lên vách thành thôi thúc quân sĩ leo lên hãm thành.

Nhưng lạ thay trên thành vẫn lặng im không có một tiếng động. Ngột Truật đoán chắc Lục Đăng đã bỏ thành trốn thoát mất rồi.

Còn đang suy nghĩ bỗng nghe tiếng súng nổ vang, nước phân sôi sùng sục đổ xuống ào ào. Bao nhiêu quân Phiên ngã lăn ra chết sạch, số thang ấy bị kéo hết lên thành.

Ngột Truật thấy thế biến sắc mặt hỏi quân sư Hấp Mê Xi:

- Tại sao quân sĩ ta đang rầm rộ leo lên thành lại ngã nhào xuống chết hết như vậy?

Hấp Mê Xi đáp:

- Lục Đăng nó dùng nước phân nấu sôi đổ xuống. Phương pháp này gọi là lạp chấp thiêm, hễ trúng nhằm một giọt cũng đủ chết.

Ngột Truật nghe nói thất kinh, vội đánh chiêng thu quân trở về dinh trại. Còn Lục Đăng thì sai cắt hết thủ cấp quân Phiên treo xung quanh thành để uy hiếp kẻ địch, đồng thời cho chặt hết thang của địch ra để làm củi đun nước phân.

Ngột Truật về dinh bàn bạc với quân sư:

- Ta hãm thành ban ngày, chúng dùng nước phân đổ, ta tấn công ban đêm xem hắn làm gì nào?

Đêm hôm ấy quân Ngột Truật lại lặng lẽ kéo đi phá thành. Trời tối như mực, đoàn quân bắc cầu vượt qua hào rồi bắc thang leo lên thành như trước. Ngột Truật không thấy trên thành có đèn đuốc chi hết, quân Phiên đẽ leo tuốt vào thành, Ngột Truật mừng lắm bảo quân sư:

- Phen này chắc lấy được Lộ An Châu rồi.

Vừa nói dứt lời, trên thành bỗng có tiếng súng nổ vang, đèn đuốc sáng trưng như ban ngày. Bao nhiêu quân Phiên tràn vào thành đều bị chém đầu quăng xuống thành.

Ngột Truật thấy vậy kinh hãi hỏi quân sư:

- Nó làm cách nào lại giết hết quân ta như vậy?

Hấp Mê Xi ngơ ngác:

- Thiệt tôi cũng không rõ như thế nào cả.

Nguyên trên thành có nhiều tre gài bẫy vụt, lại có đóng lưới cột đầy móc câu thành thử quân Phiên vì trời tối không thấy rõ bị tre gạt hết sa vào lưới nên quân trong thành bắt giết hết.

Ngột Truật nhìn số đầu người lăn lông lốc liền khóc rống lên đau đớn vô cùng, các tướng phải khuyên giải hồi lâu Ngột Truật mới trở về dinh.

Ngồi trong dinh trại, Ngột Truật chống cằm suy nghĩ:

- Chỉ có một cái thành nhỏ này mà đánh phá bốn mươi ngày không được, lại hao binh tổn thương rất nhiều thì biết bao giờ thôn tính được Trung Nguyên?

Ngột Truật buồn rầu khôn xiết, Hấp Mê Xi thấy vậy khuyên Ngột Truật đi săn bắn giải buồn. Ngột Truật nghe lời đem một số quân sĩ vào rừng đuổi hươu nai, bỗng thấy xa xa có một người đang hớt hải chui vào rừng trốn.

Hấp Mê Xi nói với Ngột Truật:

- Trong rừng này có gian tế.

Ngột Truật vội sai quân đi bắt, chỉ mấy phút sau quân đã bắt đến một người. Ngột Truật quát hỏi:

- Ngươi là gian tế ở đâu hãy khai mau, bằng cố tình giấu giếm ta sẽ giết chết.

Người ấy phủ phục xuống van lạy:

- Tôi quả thiệt là một thương nhân hôm qua ra ngoài thành mua hàng hóa, lúc về thấy binh của đại vương đóng tại đây nên sợ hãi đem hàng hóa gửi nơi khác rồi trốn ở ngoại thành. Nay nghe được tin đại vương nghiêm ngặt cấm không cho binh lính động đến của dân một mảy may nên tôi đánh bạo đi lấy hàng hóa về, qua đây sợ hãi trốn tránh mà không kịp nên bị bắt, xin đại vương tha tội.

Giả gian tế, quân sư bị xẻo mũi

An Châu thất thủ, Lục Đăng liều thân.

Nghe thương nhân nói một cách chân thành, lại có ý ca tụng quân giáp nghiêm ngặt của quân Kim, Ngột Truật nhìn hắn từ đầu chân rồi dịu giọng:

- Nếu ngươi quả thật là lương dân thì ta tha ngay.

Hấp Mê Xi thấy vậy bước tới nói:

- Chúa công chớ nên tha hắn, tôi đoán chắc hắn là gian tế không sai vì nếu hắn là lương dân thì thấy chúa công phải biến đổi sắc mặt, giọng nói run rẩy, có đâu trả lời xuôi chảy như vậy? Trên thế gian này không có một tên lương dân nào mà lớn gan vậy cả, để tôi đem hắn về dinh tra hỏi mới được.

Ngột Truật nghe theo, truyền quân dẫn tên ấy về dinh trước rồi tiếp tục săn bắn vui chơi.

Chiều về cơm nước xong, Ngột Truật cho đòi tên ấy ra hỏi thì hắn vẫn nói y như trước chẳng sai lệch một tiếng. Ngột Truật nói với quân sư:

- Quả nhiên hắn là người lương thiện, hãy thả hắn đi cho rồi.

Quân sư nói:

- Muốn thả thì phải xét trong mình hắn đã.

Vừa nói Hấp Mê Xi vừa bước tới lục lọi khắp mình nhưng không tìm thấy vật gì lạ cả. Hấp Mê Xi co chân đá vào mông hắn một đá nói:

- Hãy đi đi cho khuất mắt.

Chẳng dè hắn lại đánh rơi ra một vật lạ, xem lại thì vật ấy là một phong thư. Quân sư reo lên:

- Có thư của gian tế đây rồi!

Ngột Truật hỏi:

- Thư gì vậy?

- Đây chính là lạp hoàn thư dùng để mang các mật thư để cho người ta đừng để ý.

Dứt lời lấy dao rạch chiếc bao lấy ra một mảnh giấy gấp làm tư mở ra xem thì ra thư này của quan tổng binh Hàn Thế Trung gửi cho tiểu Gia Cát Lục Đăng.

Trong thư nói:

- Nay có tiết đạt sứ Tôn Hạo ở Biện Kinh phụng chỉ lãnh binh ra tiếp ứng. Nếu Tôn Hạo có ra trận thì xin đừng giúp y vì y chính là kẻ tâm phúc của Trương Bang Xương nên hãy coi chừng y phản phúc. Nếu y có chết vì tay giặc cũng không đáng tiếc. Nay tôi sai Triệu Đắc Thắng mang thư này đến cho ngài biết rõ!

Ngột Truật xem thư xong nói với quân sư:

- Bức thư này cũng chẳng có điều chi quan trọng.

Quân sư nghiêm sắc mặt nói:

- Chúa công chưa rõ chứ bức thư này lọt vào tay chúng ta thì quan trọng lắm đấy chứ. Vì hễ Tôn Hạo đem quân đến đây đánh với chúa công mà Lục Đăng dẫn binh ra trợ chiến thì ta thừa dịp ấy phát binh đoạt thành. Còn bức thư này lọt vào tay Lục Đăng hắn sẽ kiên trì cố thủ thành trì, biết đời nào ta đoạt thành cho được?

Ngột Truật gật đầu cho là phải rồi hỏi Hấp Mê Xi:

- Thế bây giờ chúng ta liệu sao đây?

Quân sư nói:

- Để tôi xem, ta hãy theo thư này giả khắc ấn cho giống rồi nhái theo kiểu chữ này viết ra một bức thư khác bảo Lục Đăng hãy ra trợ chiến. Chúng ta chờ cho Lục Đăng ra khỏi thành thì vây chặt lại rồi truyền chư tướng thúc quân công hãm thành trì thì chắc chắn là nắm phần thắng lợi trong tay.

Ngột Truật mừng rỡ nói:

- Vậy thì quân sư hãy tính việc ấy gấp đi, còn tên gian tế này hãy giết quách đi cho rồi.

Quân sư đáp:

- Chẳng nên giết nó, chúa công hãy giao nó cho tôi, tôi sẽ có chuyện dùng.

Hấp Mê Xi làm một phong thư lạp hoàn giả xong rồi đến ra mắt Ngột Truật. Ngột Truật gọi chư tướng hỏi:

- Có ai dám đem thư này đến gặp Lục Đăng?

Hỏi mấy lần vẫn không thấy ai lên tiếng, quân sư Hấp Mê Xi nói:

- Giả dạng làm kẻ gian tế phải biết tùy cơ ứng biến và đầy đủ mưu chước mới được, hình như việc này tôi cần phải đi mới xong, nếu như có bề nào thì chúa công hãy chăm lo săn sóc đến vợ con tôi.

Ngột Truật đáp:

- Quân sư cứ an tâm ra đi, miễn là được việc thì công lao chẳng nhỏ.

Hấp Mê Xi bèn thay đổi y phục giả làm Triệu Đắc Thắng, giấu chiếc bao lạp hoàn trong mình rồi từ biệt Ngột Truật đi thẳng đến bên hào thành kêu lớn:

- Hãy thả cầu xuống cho tôi lên thành có việc cơ mật.

Lục Đăng đứng trên thành thấy thế truyền quân thả cầu xuống. Khi qua khỏi hào, Hấp Mê Xi lại gọi mở cửa thành nhưng cửa thành không mở. Trên thành lại thòng xuống một cái giỏ, quân sĩ gọi vọng xuống bảo y ngồi trong giỏ để chúng kéo lên.

Hấp Mê Xi không biết làm sao đành phải vào trong giỏ ngồi. Chiếc giỏ từ từ được kéo lên nhưng khi gần đến biên thành thì dừng lại treo lơ lửng ở đó.

Lục Đăng cúi xuống hỏi:

- Ngươi tên họ là chi, vâng lệnh ai đến đây? Có thư chi không?

Tuy Hấp Mê Xi nói tiếng Trung Quốc rất thạo và đã làm gian tế vào Trung Nguyên rất nhiều lần song chưa lần nào gặp hoàn cảnh kỳ dị như hôm nay.

Hấp Mê Xi gượng đáp:

- Tôi là Triệu Đắc Thắng vâng lệnh Lưỡng Lang quan tổng binh đến đây đem thư cho lão gia.

Lục Đăng nghe nói nghĩ thầm:

- "Ta cũng có nghe Hàn nguyên soái dùng một tên Triệu Đắc Thắng song ta chưa hề biết mặt, không biết tên này thật hay giả để ta hỏi hắn thử cho biết".

Nghĩ vậy Lục Đăng cất tiếng hỏi:

- Ngươi bảo là ngươi ở với Hàn nguyên soái, vậy ngươi có biết Hàn nguyên soái lập công trạng gì ở đâu mà được phong đến chức ấy không?

Hấp Mê Xi đáp:

- Nguyên soái của tôi với Trương Thúc Dạ đã chiêu an được bọn hảo hán nơi trại Thủy Hử nên mới được phong chức lãnh nhiệm vụ trấn thủ tại Lưỡng Lang quan.

Lục Đăng lại hỏi:

- Còn phu nhân của Hàn nguyên soái họ chi?

- Bà phu nhân ấy chẳng ai bì kịp, nghĩa là đang chấp chưởng cái ấn ngũ quân đô đốc, ai lại không biết người là Lương Thị phu nhân?

- Người xuất thân thế nào?

- Dạ điều ấy tôi không dám nói.

- Người có con cái chi không? Tên gì, mấy tuổi?

- Người có hai vị công tử, đại công tử tên là Hàn Thượng Đức năm nay mười lăm tuổi còn nhị công tử là Hàn Ngạn Trực.

Lục Đăng vui vẻ:

- Thế thì đúng rồi, hãy đưa thư cho ta xem nào.

Hấp Mê Xi đáp:

- Xin kéo tôi lên tới thành rồi tôi sẽ trao thư.

Lục Đăng nói:

- Để ta xem thư xong rồi sẽ cho ngươi lên cũng chẳng muộn.

Hấp Mê Xi chẳng biết tính sao đành phải dâng thư lên.

Sở dĩ Hấp Mê Xi biết hết việc nhà của Hàn Thế Trung là vì y bắt được Triệu Đắc Thắng đem về nhà hỏi cặn kẽ suốt một đêm nên việc gì cũng biết rõ và lĩnh mệnh đi làm gian tế.

Khi Lục Đăng bóc lạp hoàn thư ra xem rồi thầm nghĩ:

- "Lạ thật Tôn Hạo là phe đảng của gian thần sao lại bảo ta giúp hắn? Nếu ta ra thành tiếp chiến, Ngột Truật thừa cơ cướp phá thành trì thì chống sao lại?".

Còn đang nghi hoặc, Lục Đăng bỗng ngửi thấy mùi thịt dê phảng phất liền hỏi gia tướng:

- Hôm nay chúng bay có ăn thịt dê phải không?

Gia tướng bẩm:

- Chúng tôi chẳng hề ăn thịt dê bao giờ.

Lục Đăng lấy làm lạ nhưng rồi cuối cùng đưa lá thư lên mũi ngửi, ông ta gật đầu cười lẩm bẩm:

- "Nếu chẳng có cái mùi dê thoảng qua đây thì đã bị chúng nó lừa rồi!".

Lục Đăng lại cúi xuống nói với Hấp Mê Xi:

- Loài Phiên nô dám cả gan lập kế lừa gạt ta. Bây giờ mi làm cách nào thoát khỏi tay ta được? Hãy nói tất cả sự thật ra cho mau. Như mi có địa vị gì bên Phiên thì ta thả về còn như mi là một tên vô danh tiểu tốt thì ta giết quách cho rồi.

Hấp Mê Xi kinh hãi mồ hôi toát ra ướt mình, thầm nghĩ:

- Người này cao kiến thật, hèn chi tiếng đồn chẳng sai.

Rồi Hấp Mê Xi gượng cười đáp:

- Đã biết trên rừng có cọp nhưng vẫn phải làm liều, xét ra không còn cách nào hơn nữa vì ngươi cứ ở trong thành cố thủ hoài thì khó mà đánh phá được, buộc lòng phải làm mưu ấy thôi. Ta đây chẳng ai khác hơn là đại kim quốc quân sư Hấp Mê Xi.

Lục Đăng nói:

- Ta cũng thường nghe bên Kim Phiên có một tên hay giả dạng qua Trung Nguyên do thám những bí mật quốc gia đại sự, khi biết rõ nội tình mới sinh việc can qua này, mãi đến nay mới tận mắt thấy ngươi. Nếu ta giết ngươi theo tội kẻ gian tế thì người ta sẽ chê ta nhát gan không dám để cho ngươi sống trù mưu lập kế thu đoạt Trung Nguyên. Còn nếu thả ngươi về ngươi sẽ cho ta là dại, ngươi sẽ qua do thám nữa thì làm sao truy ra được. Thôi để ta làm dấu cho người trong nước ta dễ phân biệt.

Đoạn truyền lệnh cho quân sĩ cắt chiếc mũi Hấp Mê Xi rồi thòng xuống thả về.

Hấp Mê Xi đau đớn vô cùng nhưng chẳng dám tỏ vẻ sợ sệt. Đợi cho giỏ thòng xuống tới đất mới hối hả bước ra, lấy tay che mũi chạy thẳng về dinh Phiên.

Ngột Truật trông thấy Hấp Mê Xi hớt hải chạy vào, mình mẩy đầy những máu kinh hãi hỏi:

- Sao quân sư lại đến nỗi này?

Hấp Mê Xi kể lại câu chuyện đem thư giả bị bại lộ và giơ cái mặt bị cắt mất mũi cho Ngột Truật xem. Ngột Truật vừa căm giận Lục Đăng vừa thương hại quân sư vội kiếm lời an ủi:

- Xin quân sư hãy về dinh dưỡng bệnh chờ khi nào vết thương kia lành hẳn tôi sẽ bắt Lục Đăng đem về cho quân sư trả thù cho hả dạ.

Hấp Mê Xi lạy tạ ơn rồi lui về dinh lo băng bó thuốc men đến hai tuần mới lành nhưng đã trở thành một người sứt mũi suốt đời.

Quân sư bèn đến dinh Ngột Truật hiến kế:

- Đánh theo đường bộ đã mấy phen bị thất bại, nay ta phải dùng đường thủy tấn công địch mới được.

Ngột Truật cho là phải, nội trong đêm ấy kiểm điểm binh mã chọn một ngàn người biết bơi lội giỏi cho sung vào tiền đội kéo thẳng xuống thành nhảy xuống nước để phá thủy quan.

Ngờ đâu dưới nước đã có giăng lưới cột đầy móc câu, lại đeo đầy lục lạc nên khi quân Ngột Truật nhảy xuống nước bị sa lưới, lục lạc reo vang quân trên thành cứ việc kéo lên chém đầu từng đứa bêu trên thành làm lệnh.

Ngột Truật xem thấy cả kinh, tặc lưỡi lắc đầu giậm chân rồi thu quân về trại nói với quân sư:

- Tên Lục Đăng này có lắm mưu thần chước quỷ, chúng ta khó bề thắng nổi. Ta quyết chuyến này đích thân đi phá cho bằng được thuỷ quan mới nghe. Chư tướng ở ngoài chờ sẵn, khi nào ta phá được thuỷ quan sẽ mở cửa thành cho tràn vào, bằng ta có thác chư tướng hãy lui về nước cho xong.

Ai nấy đều khuyên chủ soái không nên mạo hiểm nhưng Ngột Truật vẫn không nghe, cứ việc chọn sẵn một ngàn quân tinh nhuệ chờ canh ba kéo đến thủy quan cho binh đứng chực trên bờ , một mình Ngột Truật lặn xuống đáy sông, lần đến thủy quan chui vào. Bị lưới cản lại, lục lạc kêu vang, quân lính trong thành vừa thò móc xuống giật lên thì Ngột Truật đã lấy dao nhỏ bén cắt đứt hết lưới ở dưới đáy rồi trồi lên mặt nước, nhảy phóc lên bờ.

Quân canh bất ngờ bị Ngột Truật vung búa chém sạch không kịp kêu lên tiếng nào.

Ngột Truật thừa thế chạy riết đến cửa thành chém quân canh cửa rồi mở toang cửa ra và hạ cầu xuống cho quân bên ngoài ùa vào.

Lúc ấy Lục Đăng đang ở trong dinh ngồi bấm óc tìm mưu kế bỗng thấy bọn tùy tướng sợ hãi chạy vào báo:

- Quân Phiên hãm được thành đã kéo vào vô số, xin lão gia liệu định.

Lục Đăng nghe vậy vội vào hậu đường gọi phu nhân nói:

- Thành này đã thất thủ tôi còn sống làm chi nữa? Phải hy sinh cho trọn nghĩa quân vương.

Lục phu nhân đáp một cách tỉnh táo:

- Nếu tướng công quyết tận trung vì nước, thiếp đây cũng quyết tận tiết cùng chồng vậy.

Dứt lời bà quay lại nói với người vú:

- Hôm nay ta với lão gia tử tiết, dòng họ Lục chỉ còn một giọt máu này thôi, xin người vì tình ráng nuôi dưỡng cho cháu thành người để mai sau có người thờ phụng tổ tiên thì ngươi là đại ân nhân của dòng họ Lục, hai ta ở chốn tuyền đài vẫn đội ơn ngươi đấy.

Bà dặn dò đôi ba phen rồi vào trong phòng thắt cổ chết.

Lục Đăng thấy vợ chết trước mình liền than thở:

- "Thôi đã đến bước đường cùng rồi, ta nên tự xử là hơn".

Rồi bước ra đại đường rút dao đâm xuyên qua cuống họng. Chết rồi mà thây vẫn trơ như tượng đồng nên có thơ điếu Lục Đăng như sau:

Thành vỡ, anh hùng đã hết mong

Âu đành tử tiết, thế là xong

Gương trung muôn thuở không phai nhạt

Tiết nghĩa nêu danh khách má hồng.

Tướng sĩ thấy Lục Tiết Đạt sứ và phu nhân đã vì nước quyên sinh nên không chống cự, chỉ lo chạy trốn hết. Bà vú còn đang lo gom góp vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn đã nghe lạc ngựa đến gần, túng thế phải bế Lục công tử chạy trốn sau cánh cửa.

Ngột Truật vừa xông đến vội xuống ngựa cắp búa bước vào chợt trông thấy một người cầm gươm đứng sững giữa đại đường liền quất lớn:

- Ngươi là ai, hãy xem cây búa của ta đây.

Vừa hét vừa chém tới nhưng chẳng thấy người ấy động đậy và nói năng gì hết. Ngột Truật lấy làm lạ dừng tay bước đến nhìn kỹ xem, thì ra người ấy là Lục Đăng nhưng đã tự vẫn chết rồi.

Ngột Truật nghĩ thầm:

- "Lạ thật, lý nào người đã chết sao chưa chịu ngã?".

Ngột Truật tiến sâu vào hậu đường nhưng vẫn im phăng phắc không một tiếng động, chỉ có một cái thây đàn bà nằm chết dưới đất, lục soát khắp nơi chẳng thấy một ai bèn trở ra đại đường thì thấy Lục Đăng hãy còn đứng trơ trơ.

Ngột Truật lại nghĩ thầm:

- "Hay là Lục Đăng đã chết rồi mà còn sợ ta vào thành nhiễu hại đến bá tính nên chưa an tâm chết chăng?".

Còn đang ngạc nhiên, bỗng Hấp Mê Xi đến vui vẻ nói:

- Tôi nghe chúa công ở đây nên đến trợ giúp.

Ngột Truật nói:

- Có quân sư đến thì hay lắm, vậy thì quân sư hãy ra truyền lệnh cho quân sĩ hãy tìm chỗ trống mà an dinh hạ trại, chớ có động chạm đến của dân. Ai vi lệnh thì chém đầu lập tức.

Hấp Mê Xi lĩnh mệnh ra truyền lệnh cho quân sĩ. Ngột Truật đến trước thây xác Lục Đăng nói:

- Lục tiên sinh ơi! Tôi chẳng hề hại đến bá tính của ngài xin ngài hãy nằm xuống cho yên thân.

Dứt lời Ngột Truật vẫn thấy xác Lục Đăng đứng trơ trơ không nhúc nhích lại tiếp:

- Có phải người đàn bà chết nơi hậu đường là phu nhân của ngài đã vì chồng mà tận tiết chăng? Nếu quả vậy thì tôi xin đem thây hai vợ chồng chôn chung một chỗ và chôn ngoài đại lộ để thiên hạ qua lại biết danh hai vợ chồng tiên sinh là trung thần và tiết phụ, như vậy ngài có bằng lòng không?

Nhưng vẫn không thấy Lục Đăng ngã, Ngột Truật lại nói:

- Tôi nghe xưa Sở bá vương Hạng Võ tự vẫn cũng đứng sừng sững như vậy, đến khi Hán vương Lưu Bang vái lạy mới chịu ngã. Nay Lục tiên sinh là kẻ trung thần, tôi có lạy ngài vài lạy cũng chẳng hại chi.

Nói rồi liền sụp lạy nhưng cũng vẫn không thấy xác của Lục Đăng ngã xuống. Ngột Truật lấy làm lạ không biết tính sao bỗng thấy quân sĩ bắt được một người đàn bà trong tay có bồng đứa con nít dắt đến bẩm:

- Người đàn bà này đang bồng đứa con nít cho bú sau cánh cửa, chúng tôi bắt được xin trình chúa công.

Ngột Truật bèn hỏi người đàn bà ấy:

- Ngươi là ai lại bồng đứa bé nấp sau cửa cho bú?

Mụ vú sa nước mắt đáp:

- Đứa bé này là công tử của Lục lão gia, còn tôi đây là người vú nuôi công tử. Cảm thương cho lão gia và phu nhân đã vì nước quyên sinh, chỉ còn một chút huyết mạch đây thôi, xin lão gia dung thứ.

Ngột Truật nghe nói cảm động sa nước mắt liền quay lại nhìn Lục Đăng và nói:

- Lục tiên sinh ơi, tôi không khi nào tuyệt hậu tự của ngài đâu và nguyện nhận con của ngài làm con, đưa về bổn quốc để cho vú này nuôi dưỡng cho khôn lớn nên người, rồi cũng để theo họ ngài thừa tiếp hương hỏa ngày sau, chẳng biết ngài có vui lòng không?

Nói vừa dứt lời thì thấy xác Lục Đăng ngã xuống đất, Ngột Truật cả mừng bèn bồng Lục công tử vào lòng.

Lúc ấy Hấp Mê Xi bước vào thấy thế vội hỏi:

- Chúa công bồng con ai vậy?

Ngột Truật bèn thuật lại mọi việc cho quân sư nghe, Hấp Mê Xi nói:

- Nếu quả đứa bé này là con của Lục Đăng thì xin chúa công hãy cho tôi, để tôi giết nó mà báo thù về việc bị bố nó xẻo mũi.

Ngột Truật nghiêm sắc mặt hét:

- Đừng làm như vậy, đứa bé này có tội tình gì? Vả lại làm tôi thì ai vì chúa nấy, phỏng như quân sư có bắt được kẻ gian tế có bao giờ tha cho hắn không? Tuy Lục Đăng là kẻ địch nhưng ta kính người là một đấng trung thần, chớ nên làm càn. Phải cắt năm trăm quân hộ tống công tử với nhũ mẫu đem về bổn quốc mà nuôi dưỡng, đồng thời phải khâm liệm Lục tiên sinh và phu nhân đem đến chỗ cao ráo chôn cất tử tế.

Sau đó Ngột Truật để Hấp Lợi Tô trấn thủ Lộ An Châu, còn bao nhiêu thì kéo qua đánh Lưỡng Lang quan.

Lưỡng Lang quan có tổng binh Hàn Thế Trung trấn giữ. Hôm ấy người đang thao luyện quân sĩ, bỗng có quân thám tử vào phi báo:

- Lộ An Châu đã bị thất thủ, vợ chồng Lục lão gia đều tử tiết, nay Ngột Truật lại dẫn quân đến đây còn cách thành chừng trăm dặm xin nguyên soái định liệu.

Nghe tin phi báo Hàn Thế Trung lập tức truyền lệnh cho các tướng sĩ ra nơi tam khẩu là nơi yếu địa để ngăn chặn rồi cho phục binh ở đó và đặt súng ống rất nhiều, một mặt làm biểu văn sai người về Biện Kinh cấp báo.

Hàn Nguyên soái còn đang lo liệu toan tính bỗng có quân vào phi báo:

- Nay có tiết đạt sứ là Tôn Hạo đem năm vạn quân đi vòng qua thành lướt tới dinh Phiên rồi.

Hàn Thế Trung lấy làm lạ nghĩ thầm:

- Lạ thật tên gian tặc ấy mãi đến bây giờ nó mới tới sao? Nhưng sao nó lại không đến hợp với ta lại đến thẳng dinh Phiên? Phải chăng binh của Ngột Truật hơn năm mươi vạn còn binh của nó tài cán gì mà dám đương đầu như vậy?

Hàn Thế Trung lại nghĩ:

- Nếu không phát binh tiếp ứng thì đạo binh của Tôn Hạo sẽ bị tiêu diệt hết, bằng ra tiếp ứng thì ải chẳng ai giữ.

Còn đang do dự có kẻ chạy vào báo:

- Có phu nhân đến hội kiến.

Nguyên soái bèn ra mắt phu nhân, vợ chồng ngồi đối diện, nguyên soái lên tiếng hỏi:

- Phu nhân có mưu chước chi hay không?

Phu nhân nói:

- Thiếp nghe Tôn Hạo dẫn quân đến dinh Phiên, thiết tưởng hắn tài cán bao nhiêu mà dám chống chọi với năm mươi vạn quân của Ngột Truật, nhưng nếu tướng công chẳng phát binh tiếp ứng thì ắt gian thần sẽ dâng bổn về triều báo buộc tướng công rằng ngồi yên chẳng tiếp cứu. Vì theo ngu ý của thiếp thì tướng công phải phát binh đi tiếp cứu mới được.

Hàn nguyên soái nói:

- Lời phu nhân nói rất phải.

Rồi quay qua hỏi chư tướng:

- Có ai dám lãnh binh đi cứu ứng Tôn Hạo không?

Bỗng có một tiểu tướng bước ra bẩm:

- Con xin lãnh mạng.

Nguyên soái xem lại thì tiểu tướng ấy không ai khác hơn là đại công tử Hàn Thượng Đức.

Nguyên soái nói:

- Thế thì hay lắm, con hãy đem một ngàn quân tinh nhuệ đi cứu Tôn Hạo.

Công tử điểm binh mã ra đi, bỗng nghe phu nhân kêu lại bảo nhỏ:

- Phàm đạo làm tướng thì cần phải nghe cho đủ tám hướng và thấy cho đủ bốn phương. Gặp lúc nên đánh thì chớ có chần chừ, gặp lúc không nên đánh thì chớ có cưỡng. Con không thấy mặt Tôn Hạo thì không nên xông vào chỗ nguy hiểm nghe chưa?

Công tử lĩnh mệnh dẫn quân ra khỏi thành đến gần dinh Phiên chàng quay đầu ngó qua thấy một vùng đất khá rộng đều là quân Phiên đồn trú.

Thượng Đức nghĩ thầm:

- Quân Phiên đông như vậy nếu ta đánh tới thì một ngàn binh này chết hết, bằng chẳng đánh tới thì không biết Tôn Hạo ở đâu, bây giờ biết liệu sao đây?

Nghĩ vậy, vội quay qua dặn quân sĩ:

- Chúng bay hãy đóng tại đây để một mình ta xông vào dinh Phiên tìm Tôn Hạo. Như tìm được thì hiệp nhau đánh phá, bằng không gặp Tôn Hạo ta có chết tại dinh Phiên, chúng bay hãy chạy về báo cho lão gia hay.

Quân sĩ vâng lệnh đóng binh tại đó rồi một mình Thượng Đức vỗ ngựa vung đao xông đến dinh Phiên hét lớn:

- Có lưỡng lang quan Hàn Thượng Đức đến phá dinh bay đây.

Vừa hét vừa múa đao xông tới chém quân Phiên rụng đầu như sung những tưởng đâu vào tìm cho được Tôn Hạo có ngờ đâu cả đạo quân của y đã chết hết rồi.

Quân Phiên chạy vào báo với Ngột Truật:

- Nay có một tên tiểu nam man xưng là Hàn Thượng Đức xông vào đánh phá dinh ta vô cùng lợi hại, xin chúa công định liệu.

Ngột Truật quay hỏi quân sư:

- Hàn Thượng Đức là người thế nào?

Hấp Mê Xi đáp:

- Tên ấy là con trai lớn của Hàn Thế Trung, tôi đã nói với chúa công trước rồi đó. Vì cha mẹ nó võ nghệ cao cường nên mới sinh con dũng mãnh như vậy.

Ngột Truật mỉm cười:

- Dẫu sao nó cũng chỉ có một mình xông vào dinh trại ta, há lại có thề chống nổi năm mươi vạn quân của ta sao? Thôi để ta đi bắt sống dụ nó đầu hàng.

Nói rồi truyền lệnh các tướng sĩ cần phải bắt sống Hàn Thượng Đức cho kỳ được nhưng chớ gây thương tích. Quân Phiên ào ra một lượt bao vây Thượng Đức nhưng Thượng Đức không chút sợ hãi, chàng tả xông hữu đột tung hoành trong đám quân Phiên giết chúng vô số nhưng lớp này ngã lớp kia ùa vào, công tử không tài nào thoát ra nổi.

Binh tướng của Hàn Thượng Đức đóng ngoài xa trông ngóng hơn nửa ngày vẫn không thấy tin tức công tử đâu cả, chúng đoán chắc công tử đã chết trong dinh Phiên rồi, bèn đem nhau trở về thành báo với nguyên soái Hàn Thế Trung:

- Công tử bảo chúng tôi đóng binh ở ngoài rồi một người một ngựa xông pha trong dinh Phiên đã hơn nửa ngày mà không thấy ra, chúng tôi đoán chắc tính mạng người khó bảo toàn.

Nguyên soái nghe báo vội vào chốn hậu đường nói lại cho phu nhân hay.

Bà phu nhân nghe xong liền khóc rống lên nói:

- Đành rằng đã làm tướng thì phải liều mình vì nước, ngặt vì con tôi tuổi còn trẻ chưa từng thụ hưởng tước lộc của triều đình mà lại bỏ mình chốn sa trường, thật tội nghiệp.

Nguyên soái nói:

- Thôi phu nhân chớ nên bi thương làm gì, tôi quyết đem quân ra đó để nghe tin tức quân Phiên và báo thù cho con.

Nói rồi kiểm điểm binh mã kéo ra thành nhắm dinh Phiên thẳng tới.

Đi được nửa đường binh sĩ đều dừng ngựa, nguyên soái lấy làm lạ hỏi:

- Tại sao đến đây chúng bay lại không đi nữa?

Quân sĩ bẩm:

- Lần trước cũng đến tại đây, công tử truyền lệnh rằng trong dinh Phiên binh mã đông lắm, dù cho chúng ta có đôi ba nghìn quân đi nữa đến đó cũng chỉ nạp mạng mà thôi, nên để chúng tôi đồn trú tại đây chờ đợi.

Nghe vậy nguyên soái rơi nước mắt nói:

- Trước đây đã có lệnh của con ta như vậy thì đến lượt ta, các người cũng đóng binh tại đây mà đợi ta.

Dứt lời nguyên soái một mình một ngựa xông vào dinh Phiên hét lớn:

- Có Đại Tống Hàn nguyên soái đến đây!

Vừa hô hét vang rền vừa vung dao xông vào dinh Phiên chém giết mở đường qua khỏi mấy lớp dinh của giặc, không ai ngăn cản nổi.

Ngột Truật nghe quân phi báo khen nức nở:

- Hàn Thế Trung quả thật là anh hùng.

Rồi quay lại bàn việc cơ mật với quân sư, đoạn truyền quân sĩ hãy bao vây Hàn Thế Trung cho chặt, cố bắt sống không được giết.

Ngột Truật điểmmấy mươi vạn binh mã đi vòng sang phía hữu quyết chiếm lấy Lưỡng Lang quan.

Quan tổng binh Hàn Thế Trung tuy võ nghệ tinh thông song quân Phiên đông như kiến khó bề thoát khỏi vòng vây, vì thế đành chịu mắc kẹt trong đám quân giặc.

Một ngàn quân của Hàn Thế Trung đang đóng giữa đường bỗng thấy Ngột Truật rầm rộ kéo quân tới, hoảng hốt chạy về thành phi báo:

- Nguy tai! Nguy tai! Nguyên soái cũng đã bỏ mạng bên dinh Phiên rồi.

Phu nhân đang đứng trên ải nghe quân về phi báo tin dữ, lòng đau như cắt nhưng không dám khóc than vì sợ rối lòng quân khó bề phòng thủ.

Phu nhân tỏ ra bình tĩnh, không một chút nao núng truyền lệnh:

- Chúng bay phải cố sức canh giữ ải quan cho nghiêm ngặt, nếu ai trái lệnh ta chém đầu lập tức.

Quân sĩ dạ ran rồi bà cho gọi hai vợ chồng người vú giữ nhị công tử vào phòng dặn nhỏ:

- Việc đã khẩn cấp không biết rồi đây ta sống chết ra sao chưa có thể đoán trước được. Hai ngươi hãy thu góp hết vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn , bồng con ta lên ngựa chạy ra khỏi ải, lựa chỗ rừng rậm ẩn nấp để nghe ngóng tin tức. Nếu như ta thắng được giặc thì hai ngươi sẽ trở về thành, bằng ta có thất thủ bỏ thây giữa trận tiền thì hai ngươi phải bồng con ta đi cho thật xa, dùng tiền của đó buôn bán làm ăn, nuôi con ta ăn học nên người. Khi khôn lớn hãy đưa về triều để nối chức của lão gia. Hai ngươi cũng được chung hưởng phú quý với nó.

Nói đến đây phu nhân thò vào túi lấy cái ấn trao cho vợ chồng người vú nói:

- Ngươi hãy giữ kỹ hai cái tướng ấn đây, phòng ngày sau dâng cho Thiên triều để làm tín vật. Ta phó thác chút huyết thống ấy cho hai ngươi, xin hai ngươi vì tình mà tận tâm với ta chớ nên sơ suất, linh hồn ta dưới suối vàng sẽ theo phù hộ hai ngươi.

Hai người động lòng rơi lụy, lo thu nhặt vàng bạc rồi bồng công tử lên ngựa chạy thẳng ra khỏi thành.

Chỉ mấy khắc sau quân lại vào phi báo:

- Quân Phiên đã đến bên thành rồi.

- Tướng Phiên đang đứng trước thành khiêu chiến.

Quân vào cáo cấp dồn dập, Lương phu nhân vội nai nịt gọn gàng rồi cầm thương lên ngựa ra quan ải.

Khi bà đến nơi, các tướng tá nghênh tiếp lên ải và thưa:

- Thưa Ngũ quân đề đốc, quân Phiên tràn đến thế mạnh như nước vỡ bờ, xin phu nhân chớ nên xuất trận, hãy kiên trì phòng thủ thành chờ binh tiếp cứu đến rồi sẽ hay. Nhưng Lương phu nhân lúc ấy tưởng chồng mình đã bỏ mạng trong dinh trại địch nên quyết sống chết với chúng một phen, làm sao có thể ngồi chờ quân tiếp viện cho đành?!

Nữ anh hùng trấn giũ Lưỡng Lang quan

Thúc Dạ trá hàng, dâng Hà Giang Phủ

Ngũ quân Đề Đốc nghe chư tướng nói như vậy đáp:

- Chư tướng đề nghị như vậy cũng phải, song chồng con ta đã chết về tay Phiên nô, thù ấy không đội trời chung, ta đã có cách phá tan bọn Phiên quân tàn bạo.

Mọi người im lặng, phu nhân lại truyền lệnh:

- Chư vị hãy tuân lệnh ta thi hành cho nghiêm cách mới được. Nơi Tam Sơn khẩu đã có bố trí sẵn súng thần công. Bây giờ phải đem hết thiết hỏa xa ra đó để làm chướng ngại vật cản đường tiến của quân địch. Khi chặn được địch rồi thì phải nhả đạn trước sau cho đều chớ để một tên nào tẩu thoát, nhớ chưa?

Chư tướng đồng thanh tuân lệnh đi bày trí đâu đó xong xuôi thì phu nhân cũng kiểm điểm binh mã, đội ngũ chỉnh tề kéo binh ra ngoài thành lập trận thế.

Ngột Truật xem thấy phu nhân oanh oanh liệt liệt, chép miệng khen thầm:

- "Hèn chi thiên hạ đồn chẳng sai, rõ ràng là trang nữ trung hào kiệt".

Lương phu nhân thấy Ngột Truật nhìn sững liền quát lớn:

- Tên mọi kia, ra trận sao không xưng tên còn đứng đó sao?

Ngột Truật đáp:

- Đại Kim Quốc, tứ điện hạ Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái, Hoàn Nhan Ngột Truật chính là ta, còn ngươi là ai hãy xưng tên ra trước đây cho thiên hạ biết.

Ngột Truật lại nói:

- Ta hằng nghe ngươi là một tay võ nghệ cao cường tinh thông thao lược nhưng nay ta cử đại binh thi hành theo thiên mạng chiếm đoạt giang san nhà Tống, chẳng khác đá kia đem đi chọi trứng, nội nay mai Biện Kinh sẽ thuộc về tay ta. Nếu ngươi thức thời hãy tuân theo mạng trời quy hàng cho sớm thì mạng ngươi được bảo toàn mà chức Ngũ Quân đô đốc của ngươi cũng không mất. Ngươi hãy chọn một đường mà đi kẻo ăn năn không kịp đấy.

Lương phu nhân nghe mấy lời ngạo mạn nổi giận mắng:

- Loài mọi Phiên, chồng con ta đã vì mi bỏ thây trong Phiên trại, ta hận vì chưa bắt được mi để ăn gan cho hả giận nên quyết đến đây liều sinh tử một phen. Mi đừng uốn ba tấc lưỡi đối với ta vô ích.

Ngột Truật cười gằn:

- Ai giết chồng ngươi để làm gì? Ta chỉ truyền lệnh vây chặt trong dinh ta đó thôi, nếu ngươi bằng lòng quy hàng ta sẽ trả chồng con ngươi ngay tức khắc.

Lương phu nhân không tin hết lớn:

- Đừng nói dối, hãy xem ngọn thương của ta đây.

Vừa nói phu nhân vừa vung thương đâm thẳng. Ngột Truật đưa búa ra đỡ rồi tiếp đánh.

Hai người đánh nhau chừng năm hiệp vẫn chưa phân thắng bại nhưng xét thấy nữ nhi chống với anh hùng được sao? Lương phu nhân liệu bề đánh không nổi nên quay ngựa chạy lui vào ải.

Ngột Truật vỗ ngựa rượt theo. Khi quân Phiên đến gần trước ải, Lương phu nhân truyền lệnh nổ súng thần công và xô thiết hỏa xa ra cản đường.

Chư tướng vâng lệnh cho nổ súng vào đám quân Phiên. Đột nhiên một tiếng sét nổ vang lên long trời lở đất, khói bốc lên chín tầng mây loang ra ngoài mấy dặm.

Trước cảnh tượng ấy ai nấy đều kinh hồn táng đỏm. Khi bình tĩnh lại thì thấy mấy khẩu thần công đều toác miệng ra làm đôi, cửa ải bị vỡ toang, tạo thành một con đường lớn chạy thẳng tắp vào ải.

Cho nên đời sau thiên hạ thường có câu: "Lôi chấn Tam Sơn khẩu, pháo toạc Lưỡng Lang quan" nghĩa là trời đã giúp quân Phiên phá súng, mở đường cho Ngột Truật xua quân theo đại lộ tràn vào ải.

Lương phu nhân thấy lòng trời giúp cho Ngột Truật nên chép miệng thở dài than:

- Thôi thế này thì khí số nhà Tống đã hết rồi.

Bà không chần chừ vội quất ngựa chạy thẳng vào rừng. Thật từ khi bà biết cầm thương lên ngựa đến giờ chưa khi nào thảm bại một cách kinh khủng như chuyến này.

Bà chạy một đỗi xa xa đến một lùm cây rậm rạp muốn tìm chỗ nghỉ ngơi đôi chút, bỗng nghe có tiếng gọi văng vẳng:

- Phu nhân ôi, công tử ở đây này, xin phu nhân hãy xuống ngựa vào đây.

Phu nhân nghe vậy vội gò cương nhìn vào lùm cây rậm kia thì rõ ràng hai vợ chồng người vú con đang bồng công từ. Bà vội xuống ngựa chạy đến bồng con hôn và khóc một hồi.

Vợ chồng người vú hỏi:

- Chẳng hay phu nhân ra trận thắng bại thế nào?

Phu nhân lắc đầu đáp:

- Trời đã giúp cho kẻ địch chiếm cứ thành trì rồi. Ta chắc lão gia và con ta khó toàn mạng được. Bây giờ chưa biết chúng ta phải nên ẩn trú nơi nào?

Nói đến đây phu nhân tủi lòng rơi lụy, than thở cùng vợ chồng người vú trong rừng rậm rất bi thảm.

Trong lúc ấy Hàn Thế Trung còn đang mắc trong vòng vây đánh phá tứ tung mà không sao thoát ra được.

Trong cơn lúng túng, thoạt trông thấy vòng vây địch quân nới lỏng dần, quân vây trở nên thưa thớt. Hàn Thế Trung lấy làm mừng rỡ nhưng nguyên soái có biết đâu Ngột Truật đã cầm chân nguyên soái để tràn vào chiếm cứ ải quan. Trong lúc ấy ải quan đã thất thủ rồi mà Hàn Thế Trung lại mừng rỡ, nỗ lực phá vòng vây tẩu thoát.

Nguyên soái chạy được một quãng xa chợt thấy một viên tướng Phiên đang cố rượt bắt một tên tiểu tướng, Hàn Thế Trung nhìn kỹ thì viên tiểu tướng kia chính là Đại công tử con mình.

Nguyên soái mừng rỡ reo lên:

- Hãy chạy đến đây, có cha đây này.

Công tử cứ việc chạy và la to:

- Cha ôi, tướng Phiên ấy võ nghệ cao cường quá, con đánh không lại hắn.

Hàn nguyên soái vội thúc ngựa chạy đến rồi dồn thần lực chém xuống một dao vang lên tiếng kêu, tưởng đối phương đã phải rụng đầu, ngờ đâu lưỡi đao lại tỏa ra một luồng bạch quang dội ngược lại suýt nữa bị rời khỏi tay.

Nguyên soái Hàn Thế Trung thấy thế thất kinh quất ngựa cùng con chạy dài. Vừa chạy vừa nghĩ:

- "Thế thì thần thánh đã yểm hộ cho tướng Phiên này rồi".

Thật vậy, tướng ấy chính là Kỳ Ốc Ôn Thiết Mộc, ngày sau sinh hạ ra Hốt Tất Liệt danh vang trong hoàn vũ, đánh chiếm gần hết nước Nga, Ba Tư, Ấn Độ, thâu Kim, diệt Tống, đoạt Trung Nguyên, sáng lập nhà Nguyên.

Tướng Phiên ấy bị Hàn nguyên soái chém xuống đầu một dao thình lình, lấy làm kinh khủng nên hắn quay ngựa trở về dinh chứ không rượt theo nữa.

Còn Hàn nguyên soái và công tử hiệp lực giải phá vòng vây chạy thẳng về ải, bỗng thấy trên ải toàn là cờ đề hiệu Kim Phiên bay phất phới. Hai cha con lại thất kinh chạy tuốt vào rừng.

Vừa ngang qua lùm cây rậm chợt nghe có tiếng phu nhân gọi:

- Tướng công, tuớng công, thiếp ở đây này.

Hàn Thế Trung nửa mừng nửa tủi vội xuống ngựa bước tới nắm tay phu nhân mừng rỡ. Công tử cũng lật đật xuống ngựa mừng mẹ. Nguyên soái hỏi:

- Vì cớ gì ải quan bị thất thủ?

Phu nhân đáp:

- Tôi nghe quân chạy về báo rằng tướng công đã tử trận nên quyết ra binh báo thù, ngờ đâu trời xui cho sét đánh họng súng thần công toác làm đôi trên Tam Sơn khẩu, khai đường tại Lưỡng Lang quan nên mới ra nông nỗi này.

Nguyên soái nghe nói thở dài đáp:

- Lòng trời đã vậy thì dù cữong cũng không được.

Phu nhân hỏi:

- Nay quan ải đã thất thủ rồi chúng ta đi đâu bây giờ?

Hàn nguyên soái đáp:

- Chúng ta phải trở về Biện Lương vào yết kiến thánh thượng xem thánh thượng chỉ dạy thế nào.

Thế rồi vợ chồng nguyên soái cùng hai con và hai vợ chồng người vú ra đi nhắm hướng Biện Kinh thẳng tới.

Đi vừa đến sông Hoàng Hà bỗng gặp quan khâm sai đệ thánh chỉ ra. Vợ chồng nguyên soái cùng quì lạy tiếp thánh chỉ. Quan khâm sai giở chiếu ra đọc:

- Hàn Thế Trung thất thủ Lưỡng Lang quan thật đáng tội, song bởi xét công trạng trước đây nên tha khỏi tội chết, phải cất chức trở về làm dân.

Vợ chồng cùng lạy tạ ơn thánh thượng rồi giao hai cái tướng ấn lại cho quan khâm sai, dẫn nhau nhắm hướng Hiệp Tây trở về quê cũ.

Nói về Ngột Truật, khi vào Lưỡong Lang quan an dinh hạ trại xong lập tức kiểm điểm lương thảo cùng khí cụ trong kho lại thấy thiết hỏa xa chẳng biết dùng để làm gì nên vội hỏi quân sư:

- Ai chế ra loại xe này và dùng để làm chi vậy?

Quân sư tâu:

- Những xe ấy là của Hàn Tín từ đời Tây Hán chế ra dùng để vây Sở Bá Vương, nay chúa công lấy được ải này mà không bị nó cản trở thật là hồng phúc của chúa công lớn lắm đấy.

Ngừng một lát quân sư tiếp:

- Nay trời giúp ta lấy được ải này, vậy chúa công hãy thừa thế tiến quân lấy luôn Hà Giang phủ. Được như vậy thì chúng ta chỉ còn qua con sông Hoàng Hà là thẳng đường đến Biện Lương, chẳng còn quan ải nào ngăn cản nữa cả.

Ngột Truật cả mừng cho người ở lại trấn giữ thành Lưỡng Lang rồi truyền lệnh kiểm điểm lương thảo, chỉnh đốn binh mã nhắm Hà Giang rầm rộ kéo đến.

Tướng giữ Hà Giang phủ là tiết đạt sứ Trương Thúc Dạ thình lình nghe quân báo Lưỡng Lang quan đã thất thủ, lại nghe Ngột Truật sắp kéo binh đến trong lòng vô cùng bối rối nghĩ thầm:

- "Mưu lược như Lục Đăng mà giữ không nổi lộ An Châu, tài trí có thừa như vợ chồng Hàn Thế Trung lại thêm có súng thần công, thiết hỏa xa mà vẫn bị thất thủ Lưỡng Lang quan, huống hồ ta đây tài cán bao nhiêu làm sao giữ nổi Hà Giang phủ này?

Nghĩ đoạn triệu tập chư tướng đến bàn bạc, Trương Thúc Dạ nói:

- Quân Phiên quá hùng mạnh và đông ngót năm mươi vạn lại thêm nhiều tướng kiêu dũng như thiên thần, nếu ta cố tình kiên trì cố thủ thành này chắc chắn khác nào lấy trứng chọi đá, đem số binh sĩ ta hy sinh một cách vô ích. Chi bằng hễ ngộ biến thì phải tòng quyền, ta nên tạm đều Kim Phiên để bảo toàn bá tính. Rồi đợi chúng nó kéo quân qua sông Hoàng Hà ta thừa thế chặn chỗ yếu địa phản công kịch liệt, Ngột Truật ắt phải thua. Lúc ấy chúng muốn rút lui lại phải chạy ngang qua đây chứ không còn đường nào khác nữa. Ta sẽ đem quân chặn đánh một trận tơi bời thế nào cũng bắt được Ngột Truật. Vậy chư tướng hãy nghe theo lời ta cắm cờ hàng trên thành cho sẵn, đợi quân Phiên đến đây giả kế quy hàng.

Chư tướng vâng lệnh sắp đặt việc đầu hàng Kim Phiên.

Tướng Trương Thúc Dạ giữ ải này có hai người con trai: đại công tử tên là Trương Lập vóc dáng to lớn, mình cao hơn trượng, mặt vuông tai lớn, nhị công tử tên Trương Dụng thân hình cũng to lớn, mắt đen láy. Cả hai sức mạnh phi thường đều dùng côn sắt làm binh khí.

Hôm ấy hai anh em đang ở trong phòng học tập thấy đã quá giờ ngọ mà không thấy thư đồng mang cơm vào. Trương Dụng nói với anh:

- Tại sao hôm nay cơm nước lại trễ như thế? Lẽ nào tên đầu bếp lại quên chúng ta sao?

Trương Lập đáp:

- Chính anh cũng lấy làm thắc mắc.

Hai anh em đang nói chuyện bỗng thấy thư đồng bưng cơm vào, Trương Lập hỏi:

- Tại sao hôm nay cơm nước lại trễ như vậy?

Trương Dụng xen vào:

- Chắc ngươi mải lo chơi bời nên quên mang cơm cho anh em ta chứ gì? Thật tội ngươi đáng đánh đòn lắm.

Thư đồng thưa:

- Thưa hai cậu, tuy bữa nay trễ mà còn có cơm, sợ vài hôm nữa không có mà ăn mới khổ cho chứ.

Nghe lời nói trái tai Trương Lập mắng:

- Hôm nay ngươi điên rồi sao lại nói bậy quá vậy? Việc gì đến nỗi không có cơm ăn?

Thư đồng thưa:

- Hai cậu mải lo học tập trong phòng làm sao biết được mọi việc xảy ra ở bên ngoài? Tôi cho hai cậu biết, Kim Phiên đã cử đại binh xâm lấn bờ cõi ta. Chúng hạ xong lộ An Châu và Lưỡng Lang quan, nay mai sẽ kéo binh đến đây. Lão gia lấy làm kinh sợ nên bàn với chư tướng lo việc dâng phủ Hà Giang này mà đầu hàng quân giặc. Thiên hạ cả phủ này đều xôn xao hoảng loạn tới lui rộn rịp, không làm chi được nên mới trễ cơm như vậy. Nếu Ngột Truật cho quy hàng thì may phúc cho bá tính bằng không cho quy hàng cử việc đập phá thành trì tàn hại sinh linh thì lúc ấy lấy ai nấu cơm?

Trương Dụng nói:

- Đừng nói bậy. Lẽ nào cha ta lại chịu nhục đi đầu hàng quân giặc sao?

Thư đồng đáp:

- Nếu cậu không tin thì cứ việc ra ngoài hỏi thử thì biết. Việc ai ai đều biết cả chỉ có hai cậu là không.

Dứt lời thư đồng từ tạ lui ra, đại công tử rất buồn bã nói với em:

- Cha chúng ta có công lớn với triều đình, có lẽ nào hôm nay lại hành động bất trung như thế sao?

Nhị công tử Trương Dụng nói:

- Anh em ta cứ việc ăn cơm no rồi ra hỏi mẹ ta xem có đúng vậy không? Nếu đúng vậy chúng ta đừng nói chi cả, cứ giả đò xin ra ngoài có việc. Lúc ra đi ta nhớ mang theo bạc vàng để tuỳ thân. Anh em ta sẽ chặn tên tướng Phiên Ngột Truật đánh cho một trận, nếu thắng được thì chẳng nói làm chi bằng thua thì bỏ chạy sang xứ khác, ở đây làm gì cho mang nhục.

Trương Lập gật đầu đáp:

- Em tính như vậy thật hợp với ý anh.

Cơm nước xong hai anh em lật đật chạy đến trung đường chào mẹ và hỏi:

- Thưa mẹ vì sao cha chúng con lại chịu làm kẻ gian thần thính đi đầu hàng giặc phiên như vậy?

Trương phu nhân đáp:

- Chúng con thơ ngây làm sao biết được việc đại sự của nước nhà? Cha chúng con có đủ toàn quyền định đoạt, dù dạy thế nào mẹ cũng nghe theo.

Hai anh em cùng thưa:

- Xin mẹ hãy vui lòng cho chúng con vài trăm lượng bạc.

Phu nhân hỏi:

- Lúc này đang lộn xộn , thiên hạ không yên, các con xin bạc làm gì?

- Thưa mẹ chúng con tính mua sách và vài món đồ chi dụng cho sớm, kẻo quân Phiên kéo vào thành rồi không thể đi mua được.

Phu nhân nghe nói có lý vội vào lấy ba trăm lượng bạc trao cho con.

Hai anh em tạ ơn rồi đem chia đôi số bạc, đoạn trở về phòng nai nịt khôi giáp chỉnh tề, tay cầm côn sắt lén ra phía sau vườn nhảy qua bờ tường trốn đi mất.

Đi được ba mươi dặm, bỗng thấy đằng xa có uân Phiên kéo đi rầm rộ.

Hai anh em bước qua bên mé núi, leo tuốt lên đỉnh đứng xem thế giặc. Thấy quân Phiên tiến quân cuồn cuộn như nước chảy, lô nhô lúc nhúc tràn đồng nội, Trương Dụng nói với anh:

- Chúng ta thừa cơ địch bất ngờ không đề phòng xông xuống đánh chơi một chặp cho thỏa chí.

Hai anh em chờ cho quân Phiên đến sát, chạy bổ xuống vung côn sắt đánh như sấm sét, làm cho đứa thì bể đầu phọt óc, đứa què tay gãy chân. Càng đánh hai anh em càng hăng máu không một sức nào kháng cự nổi. Quân Phiên hoảng loạn chạy lùi lại báo với Ngột Truật.

Ngột Truật nghe báo liền truyền lệnh quân sĩ cố bao vây bắt sống cho kỳ được.

Quân Phiên lập tức bua vây tứ phía. Hai anh em họ Trương nỗ lực mang hết sức bình sinh đánh phá quyết liệt mãi đến trời tối lúc nào không hay biết.

Bỗng Trương Lập ngoái lại kiếm em thì chẳng thấy đâu hế, nghĩ thầm:

- "Thôi để ta đánh tháo chạy ra cho xong kẻo trời đã tối rồi".

Nghĩ vậy chàng ra sức đánh thủng một phía, cố mở đường thoát ra.

Bấy giờ trời đã tối mà quân Phiện chưa kịp nổi đèn đuốc nên hàng ngũ có phần lộn xộn. Trương Lập thừa cơ phá được vòng vây chạy thoát.

(Vì vậy hai anh em chạy lạc mỗi người một nơi, mãi đến sau này khi Nhạc Phi ba phen thu phục Hà Nguyên Khánh, anh em mới gặp lại nhau)

Binh Phiên bị anh em Trương Lập phá rối nên phải đình trệ. Bây giờ trời đã tối Ngột Truật đành phải truyền quân an dinh hạ trại, đợi sáng ngày sẽ tiến binh.

Hôm sau Ngột Truật đốc thúc binh sĩ thẳng đến bên thành, bỗng thấy một tướng quỳ cách thành chừng vài trăm dặm, trong tay có cầm cây cờ hàng, sau lưng có vài tên bộ hạ không cầm binh khí chi cả.

Quân Phiên tiếp tục kéo đến thì người ấy cúi đầu sát đất và nói:

- Hà Giang Phủ tiết đạt sứ Trương Thúc Dạ là tôi, đợi xin đầu hàng và nghênh tiếp chúa công nhập thành.

Quân Phiên thấy thế vội dừng bước, chạy trở lại báo cho Ngột Truật hay.

Ngột Truật vỗ ngựa chạy đến trước xem thì quả thấy người ấy còn đang quỳ mọp, đầu cúi xuống sát đất.

Ngột Truật vẫn ngồi yên trên ngựa quay qua hỏi quân sư:

- Tôi nghe Trương Thúc Dạ vốn là một trung thần phải không?

Hấp Mê Xi đáp:

- Cũng có thể lắm nhưng nếu quả hắn là trung thần thì chúng ta sẽ biệt đãi, để tôi hỏi hắn vài câu xem thế nào?

Hấp Mê Xi lên tiếng hỏi:

- Ngươi có phải là Trương Thúc Dạ không?

- Vâng chính là hạ thần đây.

Hấp Mê Xi cười khẩy:

- Lâu nay ta có nghe danh ngươi là bậc trung thần nghĩa sĩ, sao nay ngươi lại làm theo lối gian manh đi đầu hàng địch quân vậy? Hay là ngươi trá hàng?

Trương Thúc Dạ vẫn quỳ mọp thưa:

- Muôn tâu chúa công, tôi đâu có dám cả gan làm điều ấy? Song chỉ vì trong Tống triều lũ gian nịnh đã chuyên quyền, manh tâm sát hại kẻ tôi trung nên tôi chẳng biết trông cậy vào đâu nữa. Nay lộ An Châu và Lưỡng Lang quan là những nơi hiểm yếu còn bị thất thủ huống hồ thành này cũng không chắc chắn gì, binh tướng của tôi lại ít ỏi đánh sao cho lại? Nếu miễn cưỡng chống trả ắ tàn hại sinh linh nên tôi quyết định ra quy hàng để cứu sinh linh khỏi vòng binh lửa chứ không mong quan tước chi cả, mong chúa công thẩm xét và mở lượng bao dung.

Ngột Truật nghe thế cả mừng nói:

- Thế thì tướng công là kẻ trung thần song đã thấu lòng trời và biết thương xót sinh linh nên mới chịu quy hàng, quả thật tướng quân là người nhân đức vậy. Bây giờ ta phong cho tướng quân chức Lỗ Vương để trấn thủ thành này. Chỉ vì ta muốn bá tính nơi Hà Giang phủ được bình yên nên ta chẳng cần vào thành làm gì. Ta sẽ dẫn binh đi vòng ngoài thành để tiến quân đến Biện Kinh, nếu binh sĩ ta có kẻ nào lén vào thành phá phách ta cho phép tướng quân chém đầu làm lệnh.

Trương Thúc Dạ nghe mấy lời khoan nhân của Ngột Truật lấy làm mừng rỡ vội giập đầu xuống đất lạy đôi ba phen mới trở về thành. Đoạn hối thúc quân sĩ mang rất nhiều rượu thịt đến dinh Phiên khao thưởng binh sĩ.

Quân Phiên ăn uống no say rồi, vâng lệnh chúa soái đi vòng qua thành thẳng đến bờ sông Hoàng Hà, lựa một chỗ đất trống rộng an dinh hạ trại.

Dinh trại quân Phiên liên tiếp kéo dài theo bờ sông, hàng ngũ nghiêm chỉnh kỷ luật đường hoàng khiến bá tính phủ Hà Giang bình yên như chẳng có giặc vậy. Binh sĩ Phiên chẳng có tên nào dám bén mảng đến thành.

Dinh trại quân Phiên sắp đặt xong liền lo đóng thuyền bè để vượt qua sông.

Quan địa phương nơi ấy phi ngựa đi ngày đêm về Biện Lương cấp báo. Khi đến Biện Lương thì gặp buổi lâm triều.

Quan địa phương vào trước điện Kim giai tâu:

- Muôn tâu thánh thượng, Kim Phiên Ngột Truật kéo binh năm mươi vạn đến đóng bên bờ sông Hoàng Hà, cúi xin Thánh thượng điều binh khiển tướng lập tức đẩy lui quân giặc kẻo nhân dân đang vô cùng khiếp đảm.

Vua Khâm Tông nghe tin ấy lấy làm kinh hãi phán hỏi bá quan:

- Binh thế của Ngột Truật quá hùng cường, chẳng hay chư khanh có kế chi đánh lui được quân giặc không?

Trương Bang Xương vội quỳ tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, vợ chồng Lục Đăng thất thủ lộ An Châu đã tử tiết, vợ chồng Hàn Thế Trung đã bỏ ải Lưỡng Lang chạy trốn còn Trương Thúc Dạ thì dâng Hà Giang phủ đầu hàng, tất cả cũng chỉ cản trở bước tiến của quân giặc đôi chút mà thôi. Đến khi Ngột Truật vượt khỏi sông rồi thì thành Biện Lương này nhất định sẽ vào tay hắn.

- Trong cơn nguy cấp này tôi xét các quan văn võ không ai đủ tài ba cho bằng Lý Can, Tông Trạch. Nếu thánh thượng muốn sớm trừ giặc Kim Phiên thì phải phong Lý Can làm đại nguyên soái, Tông Trạch làm tiên phong, phát cho năm vạn quân ra Hoàng Hà phá giặc ắt là xong.

Vua Khâm Tôn y tấu lập tức hạ chỉ phong Lý Can làm Bính Bắc đại nguyên soái, Tông Trạch làm tiên phong thống lãnh binh nhung đi dẹp giặc.

Hai người tạ ơn rồi lãnh chỉ lui ra.

Lý Can vốn là một quan văn nhưng nhờ tài bác học túctrí đa mưu nên làm được đến chức Gián nghị. Nếu dùng văn chương thì giỏi thật song qua việc võ điều binh khiển tướng thì thật chưa từng. Nay bọn Kim Phiên binh hùng tướng mạnh đã xâm nhập vào địa phận chỉ còn cách có con sông Hoàng Hà mà loài gian nịnh tâu vua cho Lý Can ra điều binh khiển tướng, đủ thấy gian thần xem sơn hà xã tắc có ra chi? Miễn chúng hại được người trung là hả dạ. Thế mà vua cũng nhắm mắt nghe theo.

Lý Can về đến phủ vào hậu đường, giã biệt phu nhân để sửa soạn lên đường, bỗng thấy một hảo hán đang đứng dưới thềm ngó lên, tướng mạo cao lớn vạm vỡ khác thường. Lý Can vội hỏi:

- Ngươi tên họ là chi?

Người ấy đáp:

- Bẩm lão gia tôi là Trương Bảo.

Lý Can lại hỏi:

- Lâu nay ngươi ở đâu, làm nghề gì?

Trương Bảo đáp:

- Lâu nay tôi ra hải ngoại chuyên nghề buôn bán.

- Ngươi tự xét ngươi có tài cán gì không?

Trương Bảo đáp không nghĩ:

- Tôi có thể vác năm sáu trăm cân chạy cả ngày không biết mệt.

Phu nhân nghe vậy đề nghị:

- Tướng công nên đem nó theo làm kẻ hầu hạ tâm phúc thì tốt lắm.

Lý Can nghe lời cho Trương Bảo sửa soạn đi theo.

Sáng hôm sau Tông Trạch đến rất sớm mời chủ soái ra giáo trường để lo việc khiển binh. Lý Can vội vã ra tận ngoài thềm nghênh tiếp Tông Trạch vào trong đãi đằng trà nước rồi nói:

- Thưa ngài xin ngài xét thử xem có phải là gian thần nó quyết làm hại tôi không. Tôi đây là quan văn biết gì đến việc điều binh khiển tướng thế mà nó bảo tấu cho ra cầm quân đánh giặc. Tôi chỉ còn cách trông mong nơi ngài và xin gửi cả tính mệnh cho ngài, nếu ngài thể tình tôi lấy làm đội ơn.

Tông Trạch thưa:

- Nguyên soái chớ lo điều ấy, trời nào lại bỏ người ngay đâu mà nguyên soái sợ.

Hai người chuyện vấn hồi lâu rồi lên ngựa ra ngoài giáo trường kiểm điểm binh mã, phát pháp, làm lệnh nhắm sông Hoàng Hà tiến quân.

Để ngăn ngừa giặc, nguyên soái truyền cho quân sĩ kéo hết thuyền ở dưới sông lên bờ rồi bài binh bố trận theo dọc tuyến sông. Sắp đặt đâu đó an bài, Tông Trạch liền sai người tâm phúc mang một bức thư chạy thẳng đến Thang Âm huyện, triệu thỉnh mấy anh em Nhạc Phi đến. Trong thư Tông Trạch tha thiết mời anh em Nhạc Phi hãy đem tài sức ra cứu nước.

Một mình, Trương Bảo đốt thuyền địch

Ngột Truật vượt sông nhờ nước băng

Mấy ngày sau tên gia nhân mang thư trở về bẩm với Tông Trạch.

- Con đi suốt ngày đêm không nghỉ nhưng khi đến Thang Âm huyện trao thư thì được biết Nhạc Phi đang cơn bệnh nặng, anh em xúm xít bên giường săn sóc thuốc men chẳng ai chịu xa Nhạc Phi nên cùng từ chối cả, bất đắc dĩ con phải về đây phục lệnh.

Tông Trạch nghe qua than vắn thở dài hồi lâu và nói:

- Sao Nhạc Phi lâm bệnh trong lúc này? Thế thì trời kia muốn dứt nhà Tống rồi.

Khi Ngột Truật kéo quân đến sông Hoàng Hà an dinh hạ trại xong bèn phi ngựa chạy men theo mé sông để xem địa thế.

Ngột Truật thấy nước sông chảy quá mạnh không thể nào đưa quân qua sông được, cần phải đóng thuyền bè gấp mới có thể tiến quân như ý muốn.

Nghĩ rồi Ngột Truật trở về dinh cho đòi hai nguyên soái là Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ đến bảo:

- Hai ngươi phải lập tức truyền lệnh cho quân sĩ mang tiền qua phủ Hà Giang mua gỗ ván và mọi vật liệu về thuê thợ mộc đến đóng thuyền cho thật nhiều để đưa quân sĩ qua sông, sớm ngày nào hay ngày nấy.

Còn bên dinh Tống hàng ngày Lý Can đều cho binh sĩ đi do thám tình hình bên dinh Phiên xem địch quân động tĩnh thế nào để kịp thời ứng phó. Lý Can được tin quân Phiên canh phòng rất nghiêm ngặt nên sộ quân Phiên dùng thuyền nhỏ sang do thám bèn sai Trương Bảo lãnh vài mươi chiếc thuyền nhỏ chèo dọc theo ven sông để tuần phòng.

Trương Bão tuần tiễu ven sông Hoàng Hà vẫn nghe nói binh Phiên đông lắm, có đến năm sáu mươi vạn nhưng trong lòng nghi hoặc không tin, ngặt vì cứ đi lại bên này sông không thấy tận mắt, Trương Bảo nghĩ thầm:

- Để bữa nào ta lén qua sông đột nhập vào dinh Phiên xem có phải binh lính của chúng đông đảo như lời người ta đồn đại không?

Rồi một hôm trời tối ngửa bàn tay không thấy Trương Bảo dẫn mười mấy đứa thủy thủ xuống một chiếc thuyền con bí mật vượt sông.

Qua đến bờ bên kia Trương Bảo tìm chỗ cây rậm rạp giấu thuyền vào đó rồi nhẹ nhàng nhảy phóc lên bờ.

Thường thường Trương Bảo chỉ dắt trong lưng một cây đoản đao, hôm nay chàng lại xách theo một cây côn sắt to tướng, men theo bờ sông thẳng đến dinh quân Phiên.

Đến nơi vào khoảng canh năm, quân Phiên đang ngủ mê man. Trương Bảo rón rén đến gần nắm cổ một đứa, bụm miệng, cặp nách chạy dông đến chỗ rừng rậm mới vứt xuống để hỏi tin tức. Ngờ đâu sức Trương Bảo quá mạnh, chỉ kẹp sơ một chút mà tên lính Phiên ấy hộc máu chết tự lúc nào rồi!

Trương Bảo lấy làm tức giận, vội chạy trở lại bắt một đứa khác. Tên này bị chộp thình lình hoảng vía toan la lên nhưng chợt thấy đoản đao đã kề bên cổ, hắn cứng lưỡi lại toàn thân run lẩy bẩy.

Trương Bảo khẽ nói:

- Mi hãy đi cùng ta ra ngoài kia ta hỏi chút việc, bằng la lên ta giết chết ngay.

Dứt lời Trương Bảo ôm ngang eo tên lính chạy thẳng ra bên rừng vắng vẻ để xuống hỏi:

- Mi hãy cho ta biết trong dinh quân Phiên có bao nhiêu binh mã?

Tên lính Phiên đáp:

- Thưa lão gia, nghe nói độ năm sáu chục vạn.

Trương Bảo lại hỏi:

- Dinh Ngột Truật ở phía nào?

- Thưa lão gia, chúa công tôi an dinh cách đây hơn ba mươi dặm.

- Chỗ mi ở đó là dinh của ai?

- Thưa đó là dinh của một tướng tiên phong tên Hắc Phong Cao.

- Còn dinh của ai ở kế bên?

- Thưa đó là dinh của hai nguyên soái Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ. Hai người này vâng lệnh chúa công đến đó đốc thúc thợ mộc đóng thuyền cho chóng.

Thế là Trương Bảo biết cả những điều muốn biết nên cười gằn nói:

- Ta cám ơn ngươi.

Dứt lời Trương Bảo giáng cho hắn một côn trúng ngay đỉnh đầu bể não chết tươi.

Trương Bảo vung côn sắt chạy xông vào dinh Hắc Phong Cao la hét om sòm, vung côn đánh đập tơi bời khiến quân Phiên đang ngủ không biết đầu đuôi ra sao cả, vừa bàng hoàng đứng dậy đã bị đoản côn vụt chết ngay.

Quân Phiên hoảng hốt bỏ chạy ra ngoài hết. Trương Bảo rút đoản đao cắt một số đầu quân Phiên cột xung quanh mình rồi chạy thẳng đến mấy trại đóng thuyền gần đó.

Đến đây Trương Bảo thấy thầy thợ đông đảo, kẻ nấu cơm người nấu nước lăng xăng ăn uống để khởi công cho sớm. Chàng nhảy bổ vào, đoàn thợ hoảng kinh đạp nhào trên lò bếp chạy bán sống bán chết. Đứa nhanh chân thoát khỏi, đứa quýnh cẳng phải bỏ mạng.

Trương Bảo đánh giết một số thầy thợ, còn bao nhiêu chạy trốn hết. Sẵn có lửa trong bếp chàng nổi lửa đốt hết mấy trại đóng thuyền, ngọn lửa bốc lên cao đỏ rực một vòm trời. Bấy giờ Trương Bảo mới chịu chạy đến chỗ giấu thuyền hối thúc quân lính chèo nhanh sang bên kia sông.

Tướng tiên phong Hắc Phong Cao đang ngon giấc trong trướng bỗng nghe quân sĩ cấp báo, bèn giật mình chỗi dậy nai nịt chỉnh tề cầm binh khí xông ra. Nhưng chẳng thấy giặc đâu cả chỉ thấy quân mình nhớn nhác và một số tử thi nằm ngổn ngang dưới đất.

Hắc Phong Cao giận lắm nhưng không biết làm sao, phải truyền lệnh đem chôn các tử thi ấy.

Nguyên soái Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ vẫn còn đang mê man trong giấc nồng, bỗng nghe quân canh trại đóng thuyền chạy vào phi báo:

- Bẩm soái gia, có một thằng Nam man rất hung tợn, nửa đêm xông vào trại đánh chết thợ mộc rất nhiều, lại phóng hỏa đốt mấy trại đóng thuyền cháy rụi rả rồi, lại nghe nói hắn cũng xông vào dinh tiên phong giết rất nhiều quân sĩ, cắt lấy một mớ thủ cấp cột vào lưng dông xuống thuyền chạy qua sông rồi!

Hai tên nguyên soái Long, Hổ vừa nai nịt binh khí vừa hỏi tên quân báo:

- Hắn dẫn quân theo nhiều hay ít? Hắn đi được bao lâu rồi?

Tên quân bẩm:

- Bẩm soái gia, nó qua chỉ có một mình, nó cũng vừa xuống thuyền sang sông chưa lâu lắm đâu.

Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ vội điểm quân kỵ mã chạy bay đến mé sông Hoàng Hà nhưng chẳng thấy tăm hơi gì cả, trời còn tối chỉ thấy sương tỏa mịt mờ, nước chảy như cắt. Hai Phiên soái đứng nhìn ngơ ngác, trong lòng căm giận sục sôi lên nhưng không biết làm sao phải dằn lòng trở về dinh.

Sáng sớm hai tướng Phiên chạy đến chỗ Ngột Truật báo lại những điều xảy ra trong đêm hôm. Ngột Truật lập tức truyền quân sĩ cất lại trại, một mặt sai người qua phủ Hà Giang mộ thêm thợ mộc, mua gỗ ván đem về đóng thuyền gấp.

Trương Bảo làm náo loạn quân Phiên trong đêm hôm nên rất khoái chí. Sáng sớm chàng đem thủ cấp quân Phiên đến báo công với nguyên soái Lý Can.

Lý Can trông thấy giật nẩy người, nạt lớn:

- Sao ngươi dám cả gan trái quân lệnh, một mình qua sông mạo hiểm như vậy? Rủi sơ sẩy bị bắt, ngươi chết đã uổng mạng mà lại mất oai khí của quân ta nữa. Ấy chính là tội vi phạm quân lệnh chớ không phải công cán chi đâu. Nếu lần sau để xảy ra chuyện tương tự ta sẽ không dung đấy.

Trương Bảo cúi đầu làm thinh rồi đi ra ngoài nói lẩm bẩm:

- Không công cán cũng được miễn là giết lũ Phiên nô một đêm cũng đủ sướng tay rồi. Thôi bây giờ lo đi làm nhiệm vụ tuần thủ sông Hoàng Hà.

Thời gian trôi qua, nếu chẳng có việc chi khác thường xảy đến thì với tài phòng thủ của Lý Can và Tông Trạch tại bờ sông Hoàng Hà, Ngột Truật không thể nào đưa quân qua sông nổi. Nhưng lòng trời đã định cho giang san nhà Tống phải nghiêng ngửa, sinh linh Trung Nguyên phải chịu một phen binh lửa, khốn khổ tiêu điều nên trong lúc xuân sang mà gió bấc đột nhiên thổi lên cuồn cuộn suốt ngày đêm không ngớt, lạnh lẽo thấu xương.

Quân Phiên là dân miền Bắc nên quen khí lạnh, thế mà đã mặc khôi giáp bằng lông cừu còn run rẩy huống hồ quân Trung Nguyên sống trong xứ ôn đới nay lại gặp phải thời tiết lạnh lẽo lạ thường như vậy làm sao chịu nổi? Vì vậy quân Trung Nguyên bị nứt da, chết cóng rất nhiều.

Suốt ngày đêm gió bấc vẫn thổi vi vu, mưa phùn lắc rắc mây che vần vũ,lạnh đến teo gan héo ruột làm cho nước sông Hoàng Hà đóng băng lại dày trên hai thước.

Ngột Truật ngồi trong ngưu bì trướng thấy khí trời lạnh lẽo khác thường, ước chừng lạnh hơn giữa mùa đông bên Phiên quốc bèn hỏi quân sư:

- Nghe nói khí trời Trung Nguyên ôn hòa lắm, sao nay lại lạnh dữ vậy?

Quân sư Hấp Mê Xi nói:

- Lẽ thường thì phía bắc lạnh lẽo, phía nam ấm áp, hơn nữa từ khi tôi được biết đến giờ chưa từng nghe Trung Nguyên lạnh dữ như thế này. Hay là trời giúp cho chúa côgng đây cũng nên.

Ngột Truật nghe nói lấy làm lạ:

- Trời lạnh thấu xương tại sao quân sư lại bảo là trời giúp? Hấp Mê Xi nói:

- Trong lúc này trời lạnh chừng nào thì tốt chừng ấy. Tôi đã từng xem sử Trung Nguyên có đoạn chép về sự tích Quách Ngạn Oai dấy binh muốn thâu đoạt thiên hạ của Lưu Trí Viên. Khi đại binh kéo đến sông Hoàng Hà không thể qua sông được đột nhiên khí trời lạnh lẽo một cách lạ thường đến nỗi nước sông đóng băng lại. Quách Ngạn Oai nhờ đó xua binh qua sông đánh lấy kinh thành. Biết đâu hôm nay lòng trời chẳng giúp chúa công? Xin chúa công hãy sai quân thăm dò nước sông xem thử thế nào, nếu quả nước đã đóng băng thì phải lập tức xua quân qua, được như vậy thì lấy Biện Lương dễ như trở bàn tay.

Ngột Truật nghe nói lập tức sai quân cưỡi ngựa chạy thẳng ra sông xem thì chỉ một khắc sau quân về báo là nước đã đặc cứng rồi.

Ngột Truật cả mừng vội hạ lệnh cho tướng sĩ lập tức đạp băng vượt qua sông Hoàng Hà, nếu ai trễ nải thì chém đầu.

Năm mươi vạn quân Phiên, tướng nào binh nấy rầm rộ ké nhau vượt sông rất dễ dàng. Lúc ấy quân Tống đang lạnh cóng run lẩy bẩy xúm xít cho ấm, bỗng thấy quân Phiên kéo đến đông như kiến thì kinh hồn hoảng vía, mạnh ai nấy chạy.

Trương Bảo thấy vậy xông vào dinh kề vai cõng Lý Can chạy như bay nhắm Biện Lương thẳng tiến, còn Tông Trạch thấy quân mình đã rã rời nên cũng bỏ dinh chạy thẳng về Biện Kinh.

Dọc đường Tông Trạch gặp Trương Bảo đang cõng Lý Can bèn hợp đoàn cùng về triều bảo tấu.

Ngờ đâu trong lúc lộn xộn, có kẻ đã phi ngựa thẳng về Biện Lương cấp báo rồi, nên khi Lý Can và Tông Trạch mới về đến ngoài thành đã thấy khâm sai đệ chiếu chỉ ra tuyên bố:

- Lý Can và Tông Trạch bỏ Hoàng Hà mà chạy giặc, tội đáng chết, song vì nghĩ công bảo giá nên chỉ cách chức cho trở về quê làm dân, các ấn triện phải nạp cho khâm sai đem về triều phục chỉ.

Hai người cúi đầu lạy tạ thánh chỉ rồi giao ấn triện cho khâm sai đem về triều.

Tông Trạch nói với Lý Can:

- Dầu sao cũng là ơn sâu của thiên tử.

Lý Can cắt ngang nói:

- Ơn huệ gì mà bảo rằng sâu với nông? Ấy chẳng qua là quỷ kế của bọn gian thần, quyết chặt bớt vây cánh của nhà vua. Hôm nay chúng ta nỡ lòng nào ở lại chốn Biện Lương này để chứng kiến cái cảnh bán nước cầu vinh của chúng, nỡ lòng nào nhìn giang san gấm vóc này lọt vào tay rợ Phiên? Thôi chúng ta hãy về quê cho chóng để khỏi chướng tai gai mắt.

Tông Trạch đáp:

- Lời ngài nói chí lý lắm.

Rồi Tông Trạch sai công tử Tông Phương vào thành đem hết gia quyến trở về quê. Lý Can cũng sai Trương Bảo vào thành đem gia quyến ra.

Tông Trạch và Lý Can chia tay rồi ai nấy trở về cố hương.

Lúc ấy vua Khâm Tông nghe tin quân Phiên kéo gần đến thành Biện Lương bèn hạ chỉ cho chư tướng cố thủ thành trì chờ cho kẻ hào kiệt bốn phương dấy binh cần vương đánh lui giặc.

Khi ấy Ngột Truật xua binh qua khỏi sông Hoàng Hà chém giết quân Tống không chừa một tên, thây nằm chật đất, máu chảy thành sông.

Đến lúc quân nhà Tống bị đánh tan tác thì gió bấc cũng vừa im bặt, bầu trời quang đãng như thường, nước sông Hoàng Hà lại chảy cuồn cuộn như xưa. Thật quả nhiên là trời giúp Ngột Truật vậy.

Ngột Truật quay nhìn sang bên kia sông thấy còn mấy đạo quân chưa kịp qua sông, liền sai lấy hết thuyền bè sang chở qua hết. Đoạn truyền lệnh cho Mã Đề Đốc, nguyên soái Hắc Phong Cao lãnh năm ngàn binh đi tiên phong, nguyên soái Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ cũng lãnh năm ngàn quân kéo xốc tới Biện Kinh, cách thành chừng hai mươi dặm mới an dinh hạ trại.

Quân thám tử thấy thế chạy về phi báo, vua Khâm Tông liền triệu hết văn võ bá quan phán hỏi:

- Nay binh Ngột Truật đã qua khỏi Hoàng Hà kéo đến kinh thành, các khanh có cach gì làm cho chúng lui binh?

Trương Bang Xương quỳ tâu:

- Hạ thần đã truyền hịch khắp các nẻo cần vương để mang binh đến đánh với Ngột Truật, chẳng ngờ Lý Can bất tài để cho Ngột Truật qua sông quá gấp. Bây giờ chúng đã đến kinh thành rồi xin chúa thượng phải sắm lễ vật cho nhiều để cầu hòa. Chờ cho chúng rút binh qua khỏi Hoàng Hà, chúa thượng sẽ điều động binh mã các nẻo về chận đánh cho một trận tơi bời. Chúa thượng sẽ khôi phục lại Trung Nguyên chẳng khó chi.

Khâm Tông nói:

- Từ xưa đến nay đã có ông vua nào cầu hòa như vậy không?

Bang Xương đáp:

- Ngày xưa Hán gả Chiêu Quân, Đường dâng công chúa, nay chẳng qua bệ hạ chỉ ngộ biến tòng quyền, cứu cấp cho qua thời gian ngắn thế thôi. Vậy bệ hạ hãy nghe theo hạ thần dâng cho chúng vàng ròng một xe, gấm vóc ngàn cây, mỹ nữ năm chục ả, ca đồng năm chục đứa, trâu, heo, dê, rượu các loại đừng thiếu sót. Nhưng ngặt một nỗi chẳng biết có vị trung thần nào chịu đi cầu hòa cho bệ hạ không?

Khâm Tông vội nhìn hai bên văn võ bá quan hỏi:

- Có ai dám mang lễ vật sang dinh Phiên không?

Vua hỏi luôn mấy lần vẫn không thấy ai lên tiếng, Trương Bang Xương lại tâu:

- Hạ thần tuy bất tài song cũng xin đi thử một phen xem sao.

Khâm Tông mừng rỡ nói:

- Thái sư đã hết lòng với triều đình thật xứng đáng bậc trung thần.

Nói rồi truyền chỉ sắm lễ vật giao cho Trương Bang Xương.

Trương Bang Xương mang lễ vật đến dinh Phiên quân, thấy lính vào báo, nguyên soái Hắc Phong Cao vội truyền lệnh cho vào.

Sau khi Trương Bang Xương giập đầu bái kiến, Hắc nguyên soái hỏi:

- Tên Nam man kia, có phải hoàng đế của ngươi sai ngươi đến đây dâng lễ vật không?

Truơng Bang Xương đáp:

- Vâng chính chúa thượng sai tôi mang lễ vật sang đây để cống hiến, vậy xin nguyên soái cho tôi được ra mắt chúa công để dâng nạp.

Hắc nguyên soái nghe nói vùng nạt lớn:

- Hãy đem hắn ra chém quách cho ta.

Kẻ tả hữu vâng lệnh áp tới, Trương Bang Xương năn nỉ:

- Xin nguyên soái bớt cơn nóng giận để tôi dâng nạp ngay.

Nói rồi mang tờ ghi lễ vật hai tay dâng lên cho Hắc nguyên soái.

Hắc nguyên soái xem xong đổi giận làm vui nói:

- Trương Bang Xương, ngươi hãy bình thân, giao lễ vật lại đây cho ta về đi để ta tâu giùm lại với chúa công ta cho.

Trương Bang Xương lại nói:

- Tôi còn một việc cần bẩm với chúa công.

- Có việc gì ngươi cứ nói ra, ta sẽ tâu giùm cho ngươi cũng được.

Bang Xương trịnh trọng nói:

- Xin nguyên soái tâu cho chúa công biết rằng có tôi là Trương Bang Xương đến đây để dâng giang san nhà Tống cho người, trước tiên tôi làm cho hao tài tốn của nhà Tống trước đã.

Hắc nguyên soái cười ha hả nói:

- Ồ tưởng việc gì chứ việc ấy ta biết cả rồi, ngươi hãy về đi để ta tâu lại với chúa công ta cho.

Trương Bang Xương từ tạ ra khỏi dinh Phiên đi thẳng về triều phục chỉ.

Nói về Hắc Phong Cao xem thấy lễ vật rất nhiều lại thêm mỹ nữ ca đồng, vàng ròng gấm vóc, động lòng tham nghĩ rằng:

- Ta giúp Ngột Truật thâu đoạt giang san nhà Tống, công ấy to lớn biết bao nhiêu, nay ta có lấy của hắn bấy nhiêu lễ vật cũng chưa đáng công.

Nói rồi thu hết lễ vật, truyền tướng sĩ nhổ trại kéo rốc qua phía Tây Sơn trở về nước.

Quân sĩ phi báo cho Ngột Truật hay, Ngột Truật nghĩ thầm:

- "H8ác Phong Cao theo ta thâu đoạt Trung Nguyên, chỉ nay mai này là chiếm đoạt thiên hạ của nhà Tống, ta sẽ hậu thưởng cho y xứng đáng. Hôm nay chẳng biết duyên cớ gì y lại bỏ về như vậy?".

Nghĩ xong liền truyền lệnh cho binh mã tiến thêm trăm dặm nữa mới hạ trại.

Quân Tống vội chạy vào triều phi báo:

- Nay quân Phiên chẳng biết vì sao đã áp gần chỉ cách thành độ năm dặm nữa, hay là chúng muốn công thành chăng?

Khâm Tông nghe báo kinh hãi hỏi Trương Bang Xương:

- Hôm qua đã đem lễ vật cầu hòa, tại sao hôm nay địch quân lại xáp tới thành ta làm chi vậy?

Trương Bang Xương nói:

- Hạ thần thiết tưởng tướng Phiên quá đông mà lễ vật ta quá ít nên chúng chia nhau không đủ, thành thử chưa chịu hòa đó. Vậy xin bệ hạ hãy dâng thêm lễ vật nữa thì chúng sẽ lui khỏi Hoàng Hà.

Khâm Tông không biết làm sao đành phải sắm sửa lễ vật như trước rồi sai Trương Bang Xương đi một lần nữa.

Tên gian thần ấy lãnh lễ vật lui ra khỏi ngọ môn liền đi thẳng sang dinh quân Phiên.

Quân Phiên vào phi báo, Ô Quốc Long nguyên soái lập tức cho vào. Trương Bang Xương quỳ mọp dưới đất thưa:

- Hôm nay tôi đến xin dâng lễ vật lên chúa công, đồng thời có việc cơ mật muốn tâu với người.

Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ xem qua lễ vật rồi bảo:

- Ta chẳng phải là chúa công. Hôm trước những lễ vật ngươi đem đến, Hắc nguyên soái đã thu hết và đi về nước rồi, nguyên soái ấy có dâng một tí gì cho chúa công đâu? Nay những lễ vật này chúng ta sẽ dâng giùm cho ngươi, ngươi hãy về thành mà đợi tin lành.

Trương Bang xương vui vẻ lạy tạ về triều phục chỉ.

Trương Bang Xương ra khỏi dinh, Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ bàn nhau. Ô Quốc Long nói:

- Hèn chi Hắc nguyên soái về nước cũng phải, bọn ta từ ngày dấy binh đến nay công lao không ít. Nay những lễ vật này có thu riêng cũng xứng đáng. Vậy chúng ta cũng thu hết rồi về nước cho sớm.

Ô Quốc Hổ nói:

- Tính như vậy thì gọn biết bao nhiêu.

Rồi truyền lệnh ba quân nhổ trại kéo vòng sang phía đông đi thẳng về đại Kim quốc.

Quân sĩ chạy vào báo với Ngột Truật:

- Không biết vì lý do gì hai ông nguyên soái họ Ô nhổ trại đi về hết rồi.

Ngột Truật cau mày:

- Lạ thật! Thôi để ta tự thân kéo binh đến tra xét xem sao?

Quân Tống lại hớt hải chạy vào triều phi báo:

- Bây giờ quân của Ngột Truật lại xông đến sát thành đóng trại.

Vua Khâm Tông lại hỏi Trương Bang Xương:

- Nay chúng nó còn đến nữa là sao vậy?

Trương Bang Xương tâu:

- Thần đến dâng lễ hai phen, nhưng chưa hề giáp mặt Ngột Truật. Vậy nay bệ hạ phải sắm sửa lễ vật cho thần đi một phen nữa may ra có giáp mặt Ngột Truật mới có thể cầu hòa được.

Khâm Tông sa nước mắt nói:

- Thái sư đã mang đi hai lần lễ vật quá nhiều, nay bảo trẫm phải dâng nữa thì biết lấy gì dâng đây?

Trương Bang Xương nói:

- Nếu bệ hạ chẳng nghe lời kẻ hạ thần thì ngày sau có bề gì xin chớ quở trách.

Khâm Tông nói:

- Vậy thì phải sai người ra ngoài mua thêm ca đồng và mỹ nữ mới đủ.

Trương Bang Xương lắc đầu:

- Nếu đi mua ngoài dân gian thì thần e không vừa ý Ngột Truật, chi bằng cứ việc chọn lựa trong cung mới xong.

Khâm Tông không biết làm sao nên phải tự mình đi điểm tra cung nữ, sắm lễ vật cho đầy đủ như hai lần trước để rồi cũng sai Trương Bang Xương đi nữa.

Chuyến này Trương Bang Xương đi thẳng đến dinh Phiên, quân canh gác rất nghiêm ngặt. Bang Xương thưa với viên quan Bình Chương tỏ việc muốn vào ra mắt Ngột Truật để dâng lễ vật cầu hòa.

Viên quan Bình Chương chạy vào báo:

- Có một tên Nam man xưng là thừa tướng nhà Tống đến xin ra mắt chúa công để dâng lễ vật cầu hòa.

Ngột Truật vội hỏi quân sư:

- Tên thừa tướng Trương Bang Xương ấy là trung thần hay kẻ gian nịnh?

Hấp Mê Xi đáp:

- Hắn là đứa gian thần đệ nhất của triều đình nhà Tống. Ngột Truật nói:

- Thế thì bắt nó xé thịt cho rồi.

Hấp Mê Xi can:

- Không nên đâu chúa công ạ, vì lúc này là lúc ta đang cần dùng đứa gian thần ấy nên phải nuôi dưỡng nó, lúc nào được thiên hạ rồi sẽ giết nó cũng chẳng muộn.

Ngột Truật khen phải liền cho vào.

Trương Bang Xương vào đến Ngưu bì trướng quỳ mọp dưới đất tâu:

- Tôi là Trương Bang Xương xin vào yết kiến chúa công.

Ngột Truật hỏi:

- Trương lão nhi đến đây có việc gì không?

Trương Bang Xương nói:

- Lúc tôi chưa gặp được chúa công tôi đã dự định làm một kế làm cho nhà Tống hao tài tổn sức. Đã hai phen tôi đem lễ vật đến đây đều bị mấy vị thu hết, nay đem lễ vật đến nữa tính đã ba phen rồi.

Ngột Truật vội lấy tờ ghi các lễ vật xem qua rồi nói:

- Lễ vật quý giá như vậy hèn chi binh mã của hai tướng ấy kéo về nước hết cũng phải.

Hấp Mê Xi kề tai nói nhỏ với Ngột Truật:

- Chúa công nên phong cho hắn một chức vương để làm vừa lòng hắn thì có lo chi chẳng lấy được giang san nhà Tống.

Ngột Truật gật đầu rồi gọi Trương Bang Xương bảo:

- Ta phong cho ngươi làm chức Sở Vương, ngươi hãy đầu hàng ta gấp đi.

Trương Bang Xương cúi đầu tạ ơn. Ngột Truật lại nói:

- Hiền khanh, nay ngươi đã làm bề tôi cho ta rồi, vậy ngươi hãy lập một kế chi để ta thâu tóm thiên hạ của nhà Tống?

Trương Bang Xương nói:

- Nếu như chúa công muốn thâu tóm hết thiên hạ nhà Tống thì phải làm cho chúa Tống tuyệt hậu đi mới được.

Ngột Truật hỏi:

- Khanh nói thế nghĩa là gì?

Trương Bang Xương tâu:

- Nay chúa công hãy sai một viên quan đi với hạ thần đến ra mắt Tống chúa để đòi một vị thân vương làm con tin. Nếu bằng lòng như vậy chúa công mới chịu lui binh. Trong lúc ấy hạ thần sẽ lấy lời lợi hại gạt vua Tống, chắc chắn vua Tống phải đem thái tử dâng cho chúa công. Chừng ấy chúa công muốn gì mà không được?

Ngột Truật nghe nói trong lòng giận dữ, nghiến răng nghĩ: "Tên gian thần này quả hiểm độc thật".

Nhưng bề ngoài Ngột Truật giả vờ khen:

- Kế ấy hay lắm, thôi để ta sai tả thừa tướng Hấp Mê Cang và hữu thừa tướng Hấp Mê Cường đi với ngươi, còn những ca đồng kỹ nữ ta chẳng dùng, ngươi hãy đem về đi.

Trương Bang Xương cùng tả hữu thừa tướng Kim Phiên đem ca đồng kỹ nữ vào triều Tống. Hấp Mê Cang và Hấp Mê Cường còn đứng ngoài ngọ môn, Trương Bang Xương đã vào quỳ tâu:

- Ngột Truật chẳng dùng ca đồng và kỹ nữ, chỉ nài cho được một vị thân vương làm con tin mới chịu lui binh. Nay bệ hạ muốn thi hành kế ấy tất nhiên phải đưa điện hạ đến Kim Phiên làm con tin, rồi âm thầm điều động binh mã các xứ đến cho mau giết sạch quân Phiên cứu điện hạ về triều. Bằng không thì thiết tưởng quân Phiên đông lắm chúng sẽ đánh phá kinh thành, lúc đó vàng đá cũng tiêu tan không còn ăn năn kịp nữa.

Vua Khâm Tông còn đang suy nghĩ, Bang Xương lại tiếp:

- Việc đã gấp rút xin bệ hạ hãy liệu định cho mau.

Khâm Tông nói:

- Thế thì Trương tiên sinh hãy mời Phiên sứ ra nơi Kim Đình quán dịch chờ đợi, để trẫm hỏi ý phụ vương đã rồi sẽ quyết định dứt khoát.

Trương Bang Xương dịu giọng khẽ tâu:

- Việc này rất hệ trọng, có thể nói là việc mất còn của giang sơn nhà Tống, thế mà bệ hạ còn đi hỏi ý Thái Thượng Hoàng. Thế nào Thái Thượng Hoàng lại chẳng thương con xót cháu. Nếu người không bằng lòng thì việc lớn của bệ hạ hỏng mất, bệ hạ hãy liệu lấy, đừng vì chút tình cảm nhỏ nhen mà làm hỏng cả việc đại sự.

Vua Khâm Tông hứa chịu nhưng cũng vào cung tỏ cùng phụ vương:

- Nay Ngột Truật nó nài cho được một thân vương ở làm con tin mới chịu lui binh.

Huy Tông nghe tâu, sa nước mắt nói:

- Như vậy chắc là kế của gian thần rồi, song đã đến nước này con có cưỡng cũng chẳng được! Vậy con hãy sai em con là Triệu Vương đi mới được.

Huy Tông cho đòi Triệu Vương vào An Lạc cung vừa khóc vừa nói:

- Vương nhi, con có hay việc gì không? Nay Phiên quân nó hung hăng đến thế, Vương huynh con đã ba phen dâng lễ cầu hòa nhưng Ngột Truật vẫn nài cho được một vị thân vương ở làm con tin mới chịu lui binh. Nay cha muốn sai con đi mà lòng không nỡ nên chưa biết nên liệu sao đây?

Vị điện hạ này chính tên là Hoàn mới mười lăm tuổi, một người hiếu thảo ít ai bì, nên thấy cha mình rầu rĩ vội thưa:

- Phụ Vương chớ nên thương tiếc con. Đây chỉ vì việc đại sự của quốc gia, chớ nên vì tình cảm mà làm hỏng cả việc lớn, vả lại tổ tông ta khai sáng giang san chẳng phải là dễ. Chi bằng để con qua bên dinh Phiên giả làm con tin, chờ binh mã các tỉnh kéo đến giết hết giặc Phiên cứu con về cũng không sao.

Huy Tông nghe nói vậy cực chẳng đã phải ra ngự triều, nhìn hai bên văn võ phán hỏi:

- Nay Triệu Vương muốn qua dinh Phiên làm con tin, không biết trong các khanh có ai dám theo bảo hộ Điện hạ không?

Vừa dứt lời, tân khoa trạng nguyên Tần Cối bước ra tâu:

Thần xin theo bảo hộ Điện hạ.

Huy Tông vui vẻ đáp:

- Nếu được khanh đi theo thì hay biết chừng nào,. Lúc nào về triều trẫm sẽ phong quan chức cho.

Thượng hoàng lui giá về cung, các quan cũng bãi triều.

Sau đó Trương Bang Xương, Tần Cối cùng hai tên Phiên sứ dắt Triệu Vương qua bên dinh Phiên.

Trong lúc chia tay, Triệu Vương chẳng nỡ xa cha vùng khóc rống lên, hồi lâu mới cắn răng nuốt lệ ra khỏi ngọ môn lên ngựa thẳng đến dinh Phiên.

Trương Bang Xương, Hấp Mê Cang và Hấp Mê Cường vào trước còn Tần Cối thì bảo hộ Triệu Vương đứng ngoài cửa dinh chờ đợi.

Trương Bang Xương vào dinh ra mắt. Ngột Truật hỏi:

- Việc ấy ra sao?

Bang Xương chưa mở miệng, Hấp Mê Cang đã nói:

- Quả thật Sở Vương tài cán ít ai bì, đã làm Nam man hoàng đế phải nghe lời đưa em trai đến làm con tin, lại có một tên trạng nguyên tên là Trần Cối theo đến nữa, cả hai còn đang đứng ngoài dinh đợi chỉ.

Ngột Truật nói:

- Thế thì hãy bảo chúng vào đây.

Ngờ đâu dưới trướng có một tướng Phiên tên là Bồ Lư Ôn mặt mày dữ tợn nghe bảo ra gọi vào, hắn tưởng bảo ra bắt đem vào vội chạy ra ngoài dinh trợn mắt hỏi:

- Ai là tiểu điện hạ?

Tần Cối trỏ Triệu Vương bảo:

- Vị này là điện hạ đấy.

Bồ Lư Ôn liền xap lại bắt Triệu Vương kẹp nách chạy vào dinh. Tần Cối thấy thế chạy theo gọi lớn:

- Chớ nên làm dữ điện hạ ta sợ.

Bồ Lư Ôn vào đến trước trướng buông Triệu Vương xuống ngờ đâu Triệu Vương sợ quá tắt thở rồi.

Tần Cối bước vào thấy thế hỏi:

- Tại sao lại làm cho điện hạ ta chết như vậy?

Ngột Truật quay sang hỏi Hấp Mê Xi:

- Người này là ai? Hấp Mê Xi tâu:

- Người này là tân khoa trạng nguyên Tần Cối. Xin chúa công cho giữ nó lại không cho nó về Trung Nguyên.

Ngột Truật nói: Phải đấy, có lúc ta sẽ dùng đến nó!

Nhược Thủy khảng khái mắng Phiên Vương

Thôi Hiếu dâng huyết thư truyền hịch.

Ngột Truật bảo Tần Cối đem thây Triệu Vương đi chôn cất rồi sau đó cho đi làm gia nhân cho một tướng Phiên.

Ngột Truật hỏi Trương Bang Xương:

- Triệu Vương chết, con cái Tống Vương còn đứa nào không?

Trương Bang Xương đáp:

- Triều Tống còn một vị điện hạ thứ chín là Khương Vương Triệu Cấu, để thần lừa hắn đến cho chúa công!

Nói xong từ tạ Ngột Truật trở về triều ra mắt Thái thượng hoàng Huy Tông , giả vờ khóc lóc nói:

- Triệu Vương điện hạ đã rủi ro bị ngã ngựa hết bên dinh Phiên rồi. Nay Ngột Truật lại muốn một vị thân vương khác ở làm con tin thì hắn mới lui binh. Nếu không y theo lời hắn thì hắn sẽ đánh thẳng vào cung.

Thái thượng hoàng nghe nói lòng đau xót vô cùng, cực chẳng đã phải gọi Khương Vương vào rồi thuật hết mọi việc cho nghe. Khương Vương tâu:

- Xã tắc là trọng, con đâu dám tiếc thân. Vậy con cần phải qua đó mới xong.

Huy Tông lại hỏi:

- Có ai dám theo điện hạ không?

Bỗng có quan Lại bộ Thị Lang tên là Lý Nhược Thủy bước ra tâu:

- Hạ thần xin lĩnh mệnh theo bảo hộ điện hạ cho.

Rồi cùng Khương Vương ra khỏi thành theo Trương Bang Xương thẳng qua dinh Phiên.

Trương Bang Xương vào trước ra mắt Ngột Truật tâu:

- Điện hạ Khương Vương Triệu Cấu đã bị hần lừa đến đây rồi. Bây giờ trong triều nhà Tống không còn một điện hạ nào nữa cả.

Ngột Truật nghe nói sợ Khương Vương lại bị chết nữa thì nguy, vội sai quân sư ra nghênh tiếp.

Lý Ngược Thủy lén căn dặn Khương Vương:

- Điện hạ nên nhớ câu: "Năng nhược năng cường thiên niên kế, hữu dũng vô mưu nhứt dán vong". Nghĩa là có lúc yếu có lúc phải mạnh là kế hay ngàn đời, bằng ỷ mạnh không mưu thì nguy. Khi điện hạ vào ra mắt Ngột Truật tùy cơ ứng biến, chớ nên làm mất nhuệ khí của mình mà cũng chớ nên cứng cỏi quá mà mang hại.

Khương Vương nói:

- Việc ấy ta biết rồi.

Rồi theo Hấp Mê Xi vào dinh ra mắt Ngột Truật. Ngột Truật trông thấy Khương Vương tuổi còn nhỏ mà tướng mạo khôi ngô, mặt ngọc mắt sáng như sao. Thật là một vị điện hạ hiếm có trên đời.

Ngột Truật nói:

- Nếu ngươi bằng lòng xem ta như cha thì ta lấy được giang san nhà Tống sẽ giao lại cho ngươi làm hoàng đế, ngươi có bằng lòng không?

Khương Vương nghe nói sẽ giao giang sơn lại cho mình thì ráng bước ba bước tới nói:

- Con xin bằng lòng!

Ngột Truật mừng rỡ bảo Khương Vương ra sau dinh lập riêng phòng trướng để ở. Bỗng thấy Lý Nhược Thủy theo vào, Ngột Truật bèn gọi lại hỏi:

- Ngươi là ai?

Lý Nhược Thủy trợn mắt đáp:

- Ta là ai mặc kệ, can chi ngươi hỏi?

Nói rồi đi theo Khương Vương. Ngột Truật lấy làm lạ hỏi quân sư:

- Người ấy là ai mà cứng cỏi quá vậy?

Hấp Mê Xi đáp:

- Người ấy là đại trung thần của nhà Tống, đang làm chức Lại bộ Thị Lang tên là Lý Nhược Thủy.

Ngột Truật nói:

- Nếu vậy ông ta là một lão tiên sinh mà ta không biết nên thất lễ.

Nói rồi cho mời Lý Nhược Thủy ở lại dinh quân sư khoản đãi, mặc dầu lúc ấy trời đã tối.

Hôm sau Ngột Truật ra trướng cho gọi Trương Bang Xương đến hỏi:

- Nay còn phải làm gì nữa?

Trương Bang Xương nói:

- Thần đã hứa với chúa công, lẽ đâu dám chẳng hết lòng. Thần còn muốn đem cả nhị đế dâng cho chúa công nữa cơ.

Ngột Truật nói:

- Được như vậy thì gay lắm nhưng phải làm thế nào?

Trương Bang Xương kề tai Ngột Truật nói nhỏ:

- Bây giờ phải làm như vậy...như vậy!

Ngột Truật gật đầu lia lịa rồi y kế Trương Bang Xương mà làm.

Bang Xương trở về thành ra mắt Khâm Tông và nói:

- Hôm qua thần qua bên dinh Xương Bình Vương Ngột Truật vì trời tối nên nghị việc không kịp phải nghỉ lại đó. Nay Ngột Truật lại bảo rằng Khương Vương tuy là một vị thân vương song cũng chưa đủ, chúng còn muốn giữ cái bài vị của Tiên Vương năm đời chúng mới chịu. Thần thiết nghĩ, giữ lại cái bài vị đó cũng chẳng làm cho quân giặc lùi bước được, chi bằng ta cứ tạm giao cho chúng rồi chờ viện binh Cần Vương các tỉnh đến, lúc ấy sẽ tiêu diệt chúng rồi rước bài vị về cũng chẳng hại chi.

Khâm Tông chẳng dám phản đối nhưng rất đau lòng, vừa khóc vừa nói:

- Con cháu quá bất hiếu nên mới để lụy đến Tiên Vương.

Rồi đếnThái Miếu khóc rống lên một hồi, mới trao cho Bang Xương bưng bài vị đi, Bang Xương nói:

- Để tỏ lòng hiếu đạo, Nhị Đế phải thân hành đưa đi vài dặm mới phải lẽ.

Thái thượng hoàng Huy Tông và Khâm Tông đành nghe theo, đưa bài vị ra ngoài thành. Vừa ra khỏi đếu cầu bị quân Phiên áp lại bắt đem về dinh của Ngột Truật, còn Trương Bang Xương thì trở lại giữ thành.

Bắt được Nhị Đế, Ngột Truật vội sai Hấp Mê Xi điểm một trăm binh mã hộ tống Nhị Đế về Đại Kim quốc ở phía bắc.

Lý Nhược Thủy ở trong hay được tin ấy liền gọi Tần Cối dặn dò bảo hộ điện hạ rồi chạu thẳng ra dinh chửi mắng Ngột Truật một hồi rồi quyết đi theo hộ giá nhị đế Huy Tông và Khâm Tông.

Ngột Truật nghĩ thầm: "Lý Nhược Thủy này tính khí quá cương cường, thế nào qua đất bắc cũng bị phụ vương ta sát hại"

Nghĩ đoạn, gọi quân sư Hấp Mê Xi bảo:

- Người này tính cứng cỏi, quân sư phải coi chừng chớ nên giết hắn ta.

Hấp Mê Xi gật đầu đáp:

- Vâng, việc ấy tôi hiểu rồi nhưng còn chúa công cũng nên mau mau lui binh chớ nên vào thành vì e binh mã của Cần Vương chín tỉnh kéo đến chặn đứt đường về thì nguy tai. Chi bằng tạm lui về nước rồi qua mùa xuân sẽ dấy đại binh sang quét sạch nhà Tống, chừng ấy sẽ lên ngôi hoàng đế thống lĩnh cả Trung Nguyên. Chúa công nghĩ thế nào?

Ngột Truật khen phải vội sai Trương Bang Xương giữ thành Biện Kinh rồi đem hết gia thuộc của Tần Cối về Kim Phiên mới truyền lệnh lui binh.

Quân sư Hấp Mê Xi đẫn đoàn quân đi hộ tống Nhị Đế có Lý Nhược Thủy đi theo bảo hộ. Khi đi đến phủ Hà Giang bỗng thấy trước mặt có một tướng quỳ mọp xuống đất tiếp giá, xem kỹ lại thì người ấy chính là Trương Thúc Dạ. Vua tôi nhà Tống trông thấy nhau đều khóc rống lên.Lý Nhược Thủy gằn giọng hỏi:

- Ngươi là đứa gian thần còn đến đây khóc lóc làm gì?

Trương Thúc Dạ phân trần:

- Lý đại nhân chưa rõ đó thôi, việc tôi đầu hàng Phiên Vương chỉ là kế trá hàng. Vì thấy Lục Đăng thủ tiết, Thế Trung bỏ chạy. Trong thế cùng ấy ngoài kế trá hàng tưởng không còn cách nào khác hơn nữa. Tôi cũng tưởng phải dùng hạ sách đó để cứu bá tính khỏi vòng binh lửa để chờ bệ hạ triệu tập binh sĩ Cần Vương ở các tỉnh về tiêu diệt bọn Kim Phiên, tôi sẽ thừa cơ hội ấy chận đường về đánh cho chúng không còn manh giáp. Ngờ đâu sông Hoàng Hà nước bỗng đóng băng, triều đình lại cất chức Lý Can, Tông Trạch, nghe lời đứa gian thần để đến nỗi phải chịu tù đày thế này.

Nói đến đây Trương Thúc Dạ rút gươm giơ lên nói lớn:

- Nay tôi đã bất tài không giúp gì được cho triều đình thì sống cũng chẳng ích gì.

Nói rồi đâm vào cổ tự vẫn. Nhị đế thấy thế khóc rống lên, Khâm Tông nói:

- Bởi trẫm nghe lời đứa nịnh mới ra nông nỗi này.

Lý Nhược Thủy nói với Hấp Mê Xi:

- Ngươi phải chôn Trương Thúc Dạ cho tử tế nhé.

Hấp Mê Xi liền truyền lệnh quân sĩ chôn cất Trương Thúc Dạ rồi áp giải Nhị đế về Phiên.

Đi dọc đường Lý Nhược Thủy lại hỏi Hấp Mê Xi

- Đường đi còn xa lắm không?

Hấp Mê Xi đáp:

- Chẳng còn bao xa nữa, xong Lý tiên sinh qua đó phải ăn nói cho cẩn thận vì mấy vị Vương gia ở bên đó không phải có tính chất thương người như điện hạ Ngột Truật đâu.

Lý Nhược Thủy bĩu môi:

- Ta đi đây đã quyết liều một chết, thì mọi việc có nghĩa gì đối với ta đâu?

Ngày hôm sau Huy Tông và Khâm Tông bị áp giải về đến Hoàng Long phủ, đế đô của Đại Kim quốc. Dân trong nước đua nhau đến xem hai Hoàng đế nhà Tống rất đông. Khi vào đến Ngọ môn, Hấp Mê Xi đứng lại đợi chỉ. Một tên Phiên quan bước vào tâu với Kim Vương Ô Cốt Đạt.

- Nay có Hấp Mê Xi giải hai Hoàng đế nhà Tống là Khâm Tông và Huy Tông về hiện còn đang đứng ngoài Ngọ môn đợi lệnh.

Kim Vương nghe tâu cả mừng liền truyền lệnh cho vào.

Hấp Mê Xi vào triều kiến xong xuôi, đem hết việc hoàng tử Ngột Truật đi đánh Trung Nguyên kể lại rõ ràng và nói:

- Nay hoàng tử sai thần giải Nhị đế Tống Triều về nước để hầu chỉ.

Kim Vương hỏi:

- Vậy nay hoàng tử Ngột Truật còn ở tại đâu?

Hấp Mê Xi tâu:

- Hiện giờ bên Trung Quốc tuy không có Hoàng đế song binh mã chín tỉnh chưa phục nên điện hạ phải tạm lui về nước, người còn đang đi sau, chờ đến mùa xuân tới đây sẽ đem quân tảo thanh nhà Tống và rước chúa công qua đó lên ngôi hoàng đế.

Kim Vương mừng rỡ vội truyền bày yến tiệc ăn mừng, lại sai dẫn Nhị đế nhà Tống vào.

Quân Phiên vâng lệnh ra dẫn nhị đế vào trước Kim giai. Nhị đế vân đứng sừng sững không chịu quỳ. Kim Vương trợn mắt hét:

- Đã bao phen Tống triều sát hại binh tướng của ta, nay bị bắt rồi sao không chịu quỳ còn ương ngạnh sao?

Nhị đế vẫn thản nhiên không chịu khuất phục, Kim Vương bèn truyền quân đem lửa đến đốt chỗ đất trước Ngân An Điện cho thật nóng đồng thời lột hết áo mũ của Nhị đế, cho đội một chiếc mũ da chó, mình mặc áo xanh, phía sau lại bắt mang một cái đuôi chó, trên lưng mang cái trống thiếc, lại buộc thêm sáu cái lục lạc, hai tay cột hai nhành liễu nhỏ. Giày, tất đều lột hết chỉ để chân không.

Giây phút sau lửa nung chỗ đất trước Ngân An Điện đỏ ngầu. Kim Vương sai lính xô Nhị đế vào chỗ đất đốt đỏ ấy. Nhị đế bị nóng bỏng hai chân chịu không nổi phải nhảy lên nhảy xuống, trống cùng lục lạc kêu lên leng keng. Văn võ bá quan triều đình nhà Kim ăn uống vui cười khoái chí như xem một trò chơi.

Thương hại thay cho hai vị Tống trào Hoàng đế bị Kim Phiên bắt ra làm trò cười nhục nhã ấy cũng bởi nghe lời gian nịnh phế bỏ kẻ trung thần nên phải chịu báo ứng.

Lý Nhược Thủy đứng ngoài thấy thế lửa giận bốc lên tận đỉnh đầu, bèn nhảy bổ vào ôm Nhị đế chạy ra ngoài.

Kim Vương thấy vậy hỏi Hấp Mê Xi:

- Người ấy là ai vậy?

Hấp Mê Xi quỳ tâu:

- Tên ấy là Lý Nhược Thủy, một kẻ đại trung thần của nhà Tống đấy. Thái tử Ngột Truật yêu chuộng hắn lắm, sợ chúa công giết chết nên dặn thần phải gìn giữ,nếu hắn bị giết thì kẻ hạ thần phải đền mạng, xin chúa công ban ơn rộng tha cho hắn.

Kim Vương cười ha hả nói:

- Nếu vậy đừng đếm xỉa gì đến hắn.

Hấp Mê Xi tạ ơn, vừa đứng dậy bỗng Lý Nhược Thủy chạy đến trỏ vào mặt Kim Vương mắng lớn:

- Mi là tên chúa mọi tì nô chẳng biết lẽ trời, dám bắt Hoàng đế Trung Nguyên lăng nhục. Cũng có ngày chúng ta đem thiên binh vạn mã đến Huỳnh Long phủ này bắt hết bọn mọi chúng bay và đạp thành bình địa để rửa cái nhục hôm nay.

Lý Nhược Thủy lớn tiếng chửi rủa không ngớt khiến Ô Cốt Đạt nổi giận cho chặt đứt ngón tay Lý Nhược Thủy đi để cho khỏi chỉ trỏ nữa.

Bị đứt mất một ngón tay vẫn không thấy Lý NhượcThủy tỏ vẻ đau đớn gì cả mà lại càng giận dữ hơn nữa. Nhược Thủy lại lấy ngón tay khác chỉ vào mặt Lang chúa mắng tiếp:

- Tên dã man mọi rợ kia, ta tưởng trên đời này không ai ngu hơn mi nữa, mi chỉ cắt đứt được ngón tay của ta chứ làm sao mi cắt được sự giận dữ của ta? Làm sao mi cấm không cho ta chửi mi được.

Kim Vương nổi giận truyền chặt một ngón tay nữa nhưng Lý Nhược Thủy lại càng mắng chửi thậm tệ hơn. Đến nỗi đã chặt đứt hết mười ngón tay mà Lý Nhược Thủy lại lấy cùi tay chỉ vào mặt Kim chúa la lối nhiếc mắng om sòm.

Giận quá, Kim Vương truyền cắt lưỡi, máu tuôn lai láng mà Lý Nhược Thủy ú ớ mãi, tuy không nghe rõ tiếng gì nhưng người ta cũng hiểu rõ ông ta không chịu im.

Tuy không nói được nữa, Lý Nhược Thủy nổi giận xung thiên, múa tay múa chân nhảy qua nhảy lại trước điện la ó giận dữ. Phiên tướng thấy vậy đều cười rộ lên cho đó cũng là trò vui nhộn, cứ việc ăn uống vui say không thèm đếm xỉa gì đến Nhược Thủy nữa.

Lý Nhược Thủy liền nhảy phóc lên điện môn ôm lấy Kim Vương cắn mạnh vào tai không nhả. Ô Cốt Đạt đau đớn vùng vẫy không nổi. Lúc ấy văn võ bá quan áp đến một lượt ôm Lý Nhược Thủy kéo ra nhưng than ôi, tai Kim Vương đã đứt nằm gọn trong miệng Lý Nhược Thủy rồi. Bọn Phiên tướng liền đemLý Nhược Thủy ra bằm nát như tương.

Người sau có thơ rằng:

Vì vua mắng giặc giữa Phiên triều.

Tay đứt mà lòng chẳng chút xiêu

Cắn tai Lang chúa cho hả giận

Chí khí anh hùng thật đáng nêu.

Bọn Phiên quan tề tựu đến hỏi thăm sức khỏe của Kim Vương còn Hấp Mê Xi thì lo lượm thây Lý Nhược Thủy đựng vào trong cái hộp sơn vàng giấu riêng để đó. Thái y lập tức được gọi đến vào cho thuốc băng bó chiếc tai Kim Vương bị cắn đứt. Kim Vương truyền đem Nhị đế ra nhốt dưới giếng cạn.

Chẳng bao lâu Ngột Truật dẫn đại binh khải hoàn vào triều bái kiến phụ vương và tâu:

- Nhờ hồng phúc và oai vũ của phụ vương nên con đánh thốc vào kinh đô Trung Nguyên dễ dàng như chẻ tre.

Kim Vương khen ngợi Ngột Truật không ngớt vội truyền mở đại yến đãi hoàng tử Ngột Truật cùng chư tướng rồi đem chuyện Lý Nhược Thủy thóa mạ và cắn đứt tai mình cùng việc giết chết Nhược Thủy kể hết cho Ngột Truật nghe. Ngột Truật ra vẻ tiếc rẻ nhân tài cứ hỏi đi hỏi lại việc ấy đôi ba lần.

Khi đại yến đã mãn, Phiên Vương hạ chiếu đến các nước Phiên nhỏ mượn quân, hẹn mùa xuân năm tới sẽ họp tại Huỳnh Long phủ khởi binh vào Trung Nguyên lần thứ hai.

Từ khi nhị vị Tống đế bị cầm tù dưới đáy giếng tại Ngũ Cốc thành đến nay, tai chẳng được nghe tiếng nói của loài người, mắt không trông thấy mọi vật trên đời nữa, lúc nào cũng chỉ thấy một khoảng trời tròn bằng chiếc nia, trong lòng vẫn nuôi hy vọng thoát khỏi chốn tù hãm này nhưng rồi ngày tháng trôi qua, lòng hy vọng mỗi ngày một nhạt đi chỉ còn nỗi thất vọng tràn trề.

Bị cầm tù như vậy còn khổ sở hơn mọi cách cầm tù khác. Hơn nữa những vị đế vương từ nhỏ sống sung sướng đã quen, nay sa vào cảnh này còn khổ sở hơn người dân gấp bội.

Đang lúc thất vọng, bỗng nghe đâu đây có tiếng gọi:

- Bệ hạ! bệ hạ ơi!

Ôi! tiếng gọi ấy bị biến mất đã lâu, nay bỗng dưng lọt vào tai nó êm ái biết dường nào. Lòng hai vị vua thất thế lại bùng lên bao nhiêu hy vọng, vội vàng đáp:

- Ai gọi đó? Có ta đây!

Lại nghe một giọng nói đặc sệt tiếng Trung Nguyên đáp lại một cách vui mừng và quyến luyến lạ thường.

Người đứng trên miệng giếng, chõ miệng gọi xuống ấy chính là Thôi Hiếu, tổng binh Đại Châu Nhạn Môn quan ngày xưa. Nhưng sao người ấy lại ở bên Kim Phiên mà lại được hân hạnh vào chốn giam cầm hai vua Tống?

Nguyên mười tám năm về trước cũng thuộc đời Tống, quân Phiên đến hãm thành Nhạn Môn quan, bắt tổng binh Thôi Hiếu về nước. Bởi Thôi Hiếu có nghề cho thuốc ngựa rất hay nên binh tướng Phiên tin dùng.

Mười tám năm chuyên nghề làm thuốc cho ngựa trong các dinh quân Phiên nên bọn tướng sĩ Phiên ai nấy đều biết mặt.

Một hôm Thôi Hiếu đang trị bệnh ngựa trong dinh, nghe lỏm được tin Kim Vương bắt nhị vị Tống đế đem giam cầm dưới giếng cạn tại Ngũ Cốc thành. Thôi Hiếu vội về lấy hai cái áo da cừu, nướng ít chục cân khô bò gói lại tử tế, lại cầm theo vài sợi dây da đi thẳng đến Ngũ Cốc thành cười nói với quân canh:

- Tôi mới nghe chúa cũ của tôi bị giam cầm nơi đây, nên muốn vào thăm giây lát để tỏ lòng ngay cùng chúa cũ, xin chư vị hãy vui lòng cho phép tôi vào một tí nhé.

Quân canh nghe Thôi Hiếu nói vậy mỉm cười đáp:

- Cũng được nhưng vào một lát rồi trở ra ngay chớ có ở lâu đấy. Ngươi thường cho thuốc chữa ngựa giùm cho chúng ta mới được vậy, chớ người khác thì không được đâu.

Vừa nói vừa mở cửa thành cho Thôi Hiếu vào. Thôi Hiếu quay lại nói:

- Tôi chẳng dám ở lâu đâu, xin cảm ơn liệt vị.

Vào được Ngũ Cốc thành, Thôi Hiếu chạy khắp các miệng giếng kêu gọi chúa om sòm. Ở đây giếng cạn nhiều quá kêu gọi muốn đứt hơi, chạy đã mỏi gối mà vẫn chưa tìm ra cái giếng giam nhốt Nhị đế. Ông lão trung thần này chạy kiếm suốt nửa ngày chưa ra, mệt quá lăn ra đất nằm nghỉ. Trong lúc đang thiu thiu bỗng nghe đâu đây có tiếng nói rất khẽ:

- "Này Vươnt tử"

Thôi Hiếu chỗi dậy lắng tai nghe kỹ thì tiếng ấy phát ra gần lắm, lão ta lầm bầm:

- "Thôi đích là Nhị đế ở dưới giếng kia rồi".

Rồi Thôi Hiếu lật đật chạy lại kề miệng xuống gọi:

- "Bệ hạ ôi! bệ hạ ôi!".

Vừa nghe tiếng vua đáp, Thôi Hiếu mừng quá không đợi vua hỏi đã nói:

- Muôn tâu bệ hạ, thần đây chính là Đại Châu Nhạn Môn quan tổng binh ngày xưa tên là Thôi Hiếu đây.

Ngừng một lát, Thôi Hiếu tiếp:

- Nghe Nhị đế bị giam cầm nơi đây lòng thần lấy làm đau đớn nhưng vì ở đất khách quê người nên chẳng có chi đem dâng cho thánh thượng, chỉ có ít chục cân khô bò nướng vàng và hai cái áo lông cừu để thánh thượng ngự hàn. Hạ thần cầu xin cho thánh thượng được giữ yên quý thể.

Nói xong buộc áo và khô bò vào chiết dây da dòng xuống giếng.

Hai vị Tống đế mở dây nhận lấy và phán khen:

- Đã mười mấy năm mà lòng không quên vua cũ, thật ít ai có tấm lòng chung thủy như khanh vậy.

Thôi Hiếu lại hỏi:

- Chăng hay bây giờ bên nước còn ai lên ngôi kế vị cho thánh thượng không?

Hai vị Tống đế đáp:

- Bởi quá tin đứa gian thần Trương Bang Xương nên bị nó thi hành quỷ kế mãi quốc cầu vinh, lừa Triệu Vương đến dinh Phiên cho bỏ mạng. Trong triều chỉ còn có Cửu điện hạ Khương Vương cũng bị nó bày mưu dâng cho Ngột Truật làm con tin. Cuối cùng nó gạt bắt cả hai ta qua đây. Bây giờ trong nước không còn ai kế vị cả.

Thôi Hiếu nghe nói tỏ ý mừng thầm nói:

- Nếu có Cửu điện hạ ở theo dinh Ngột Truật thì cúi xin chúa thượng thảo cho một bức thư để hạ thần đi tìm Cửu điện hạ. Nếu như lòng trời còn thương nhà Tống thì chắc có thể gặp người. Lúc ấy hạ thần sẽ lập kế cho người trốn về nước lên ngôi, sau đó sẽ điều binh chín tỉnh đến đây ra sức cứu chúa thượng trở về nước.

Hai vị Tống đế than:

- Bị giam cầm dưới đáy giếng như vậy thì giấy bút đâu mà bảo có gia thảo chiếu?

Thôi Hiếu nói:

- Thần cam chịu tội muôn chết, xin Nhị chúa công cho thần vô lễ tấu một điều.

- Điều gì ngươi cứ việc tâu ra xem nào?

- Xin chúa công phải thảo huyết chiếu mới được.

Nhị vị Tống đế nghe nói tủi lòng khóc tức tưởi một hồi rồi xé vạt áo trải lên gối, cắn đầu ngón tay cho chảy máu viết ra một bức huyết chiếu như sau:

- "Ta sai Khương Vương phải tìm cách trốn về nước lên ngôi đế, chỉnh tu sơn hà xã tắc cho khỏi dứt nghiệp đế do tiên vương để lại".

Huyết chiếu thảo xong, vội cuốn buộc vào dây da bảo Thôi Hiếu rút lên.

Thôi Hiếu xem xong huyết chiếu liền giấu kín vào vạt áo trong, đoạn khóc than một cách thảm thiết. Lão trung thần Thôi Hiếu trước khi đi không quên cúi lạy mấy lạy giã biệt. Nhị vị Tống đế dòm lên thấy thế cũng mủi lòng khóc rống lên nói:

- Hôm nay cha con cô gia phải sa vào chốn này chẳng thấy được một ai, may khanh có lòng trung nghĩa tìm đến đây, cha con cô gia xem như thể ruột rà chí thích. Nhưng gặp nhau than thở chưa được bao lâu, lẽ nào khanh đành dời gót vội thế? Để cho cha con trẫm ngày đêm vò võ thế này, thật quá đỗi đoạn trường chịu sao cho thấu?

Thôi Hiếu cũng sụt sùi tâu:

- Cúi xin nhị vị chúa công giảm bớt cơn phiền lụy, phải dằn lòng sầu não để bảo trọng mình rồng chờ cơ hội. Kẻ hạ thần này còn sống ở đây được ngày nào thì nhất định tìm cách đến thăm viếng chúa thượng luôn luôn. Xin chúa thượng chớ quá lo lắng.

Nói xong bái biệt hai vua ra đi.

Thôi Hiếu đi được ít bước đã thấy bọn quân canh chạy đi tìm la ó om sòm. Vừa gặp Thôi Hiếu chúng nắm áo gằn giọng nói:

- Kìa Thôi Hiếu, ngươi làm gì ở trong này đến nửa ngày, làm chúng ta đi tìm kiếm ngươi khổ muốn chết.

Nói đến đây, tên đầu sỏ ra lệnh:

- Quân sĩ, hãy bắt nó chém quách cho rồi!

Thôi Hiếu hoảng kinh hồn vía, nghĩ bụng: "Mình chết thì cũng chẳng sao nhưng còn huyết chiếu thư của Nhị đế? Biết lấy ai giúp đỡ cho Khương Vương về nước lên ngôi?

Rồi Thôi Hiếu sụp lạy, nức nở:

- Thân già này làm chi nên tội mà các vị đem chém!

Thôi Hiếu dẫn Khương Vương chạy trốn

Ngựa đất chở vua qua Hiệp Giang

Nghe vậy, tên tướng Phiên nạt nộ:

- Ta chỉ cho ngươi vào một lát thôi, sao ngươi ở trong ấy hơn nửa ngày còn chưa chịu ra làm khổ chúng ta đi tìm ngươi khắp nơi. Nếu chuyện này đến tai chúa công thì không chỉ đầu ngươi mà cả đầu bọn ta cũng lìa khỏi cổ.

Thôi Hiếu làm ra vẻ lễ phép vái lia vái lịa rồi chắp tay thưa:

- Xin liệt vị hãy xem thử, giếng cạn ở đây nhiều như thế này thì tôi tài nào tìm ra được chúa cũ tôi bị giam trong giếng nào? Vì vậy tôi phải đi tìm khắp nơi nên mới lâu như vậy. Vả lại tôi già cả lụm cụm như vầy làm sao đi cho mau được? Xin liệt vị cũng nên xét kỹ dung thứ cho già này một phen. Nếu giết chết tôi đi thì còn ai chữa ngựa cho liệt vị?

Thôi Hiếu nói một hồi lại xá lia lịa nên chúng không nỡ giết và nói:

- Chúng ta nghĩ tình tha cho ngươi lần này. Thôi từ nay trở đi không cho ngươi bén mảng đến đây nữa, nếu trái lệnh chúng ta sẽ giết chết không tha nữa đâu.

Thôi Hiếu cảm tạ lia lịa và lui ra khỏi thành chạy riết về nhà.

Rồi bắt đầu từ hôm ấy, mỗi lần vào dinh cho thuốc ngựa,Thôi Hiếu lại cố ý tìm cho ra tung tích Khương Vương.

Lại nhắc đến Ngột Truật ngày đêm thao luyện binh mã thì thấy tiết xuân đã đến rồi. Vào lúc tháng hai, Ngột Truật kiểm điểm năm mươi vạn binh mã hiệp cùng các nước tiểu Phiên rầm rộ kéo qua đánh Tống.

Lần đi đánh Trung Nguyên này là lần thứ hai, quân kéo đi đến trung tuần tháng tư mới đến Lộ An Châu.

Sở dĩ chuyến này đi lâu là vì dọc đường còn săn bắn chơi bời cho thỏa thích.

Khi đến Lộ An Châu, Ngột Truật bèn thuật lại việc Lục Tiết Đạt hy sinh vì nước cho mấy vị điện hạ nghe. Ai nấy đều thương tiếc cho vị anh hùng chẳng cùng.

Khi đến Lưỡng Lang quan, Ngột Truật lại nhắc việc sét đánh Tam Sơn khẩu vẹt đường cho quân Phiên kéo vào một cách bình yên vô sự. Mấy vị điện hạ đều nói:

- Ấy là chúa ta phúc lớn nên trời mới khiến như vậy.

Khi đến phủ Hà Giang, Ngột Truật bèn truyền lệnh đóng quân ngoài thành không cho nhiễu nhương bá tính vì sợ phụ lòng Trương Thúc Dạ.

Qua mấy ngày sau đã đến sông Hoàng Hà nhằm lúc trung tuần tháng sáu, khí trời nóng bức. Ngột Truật truyền cho binh sĩ đóng binh dọc theo sông tạm nghỉ, chờ cho khí trời mát mẻ rồi mới qua sông.

Thời gian qua nhanh, chẳng bao lâu đã đến rằm tháng bảy, Ngột Truật truyền quân xây một tòa Lư Bồng, làm thịt heo, dê, gà, vịt quay qua phía Bắc tế tự tổ tiên.

Lễ vật sắm sửa sẵn sàng, các vị vương gia đều họp nhau chờ đợi, bỗng thấy Ngột Ttuật cưỡi ngựa Hỏa Long Cu, phía sau có mấy vị Vương tử, thảy đều mặc áo đại hồng, bêntả mang cung, bên hữu đeo tên, mình cưỡi sa mã, đầu đội thúc phát tử kim quang có giắt hai cây lông trĩ rẽ làm hai còn Thôi Hiếu thì cũng lúc nhúc chạy theo sau lẫn lộn trong đám quân hầu.

Sở dĩ có mặt Thôi Hiếu ở đây là vì từ khi Thôi Hiếu dò được tin tức Khương Vương nên cố theo sát không rời, chờ cơ hội để hành động.

Con tuấn mã của Khương Vương đang chạy bỗng vấp quỵ hai chân trước ngã nhào xuống. Khương Vương vội siết chặt cương lại. Nhờ vậy mà con ngựa nương thế đứng dậy được, Ngột Truật nhìn lại thấy thế lên tiếng khen:

- Vương nhi cưỡi ngựa giỏi thật.

Ngờ đâu khi con ngựa vấp ngã đã làm cho cung tên của Khương Vương đều rơi xuống đất, Thôi Hiếu ở sau vội chạy đến nhặt rồi hai tay dâng lên nói:

- Xin điện hạ thu lấy.

Ngột Truật nghe Thôi Hiếu nói tiếng Trung Nguyên rành rõi liền hỏi:

- Ngươi là ai vậy?

Thôi Hiếu quỳ xuống trước đầu ngựa bẩm:

- Thần là Thôi Hiếu chính là người Trung Nguyên, nhân qua làm thuốc ngựa cho chúa công đã mười chín năm trời rồi.

Ngột Truật gật đầu ra vẻ hài lòng:

- Ngươi già cả mà ăn ở trung hậu, vậy ta cho ngươi đi theo phục dịch điện hạ, lúc nào ta lấy được giang san nhà Tống, ta sẽ phong cho người làm quan lớn.

Thôi Hiếu cúi đầu tạ ơn.

Khi ra đến chỗ Lư Bồng, Khương Vương xuống ngựa làm lễ ra mắt mấy vị Vương bá, Vương thúc, sau đó Ngột Truật hướng về phía bắc làm lễ tế tự tổ tiên.

Tế rồi đem nhau về dinh ăn uống. Mấy vị Vương tử cùng các vị Bình Chương ăn uống chuyện trò vui vẻ, duy có Khương Vương cứ cúi đầu thầm nghĩ:

- "Bọn Phiên nô dã man mà chúng còn biết phụng thờ tổ tiên, còn ta đây, Nhị đế bị giam cầm còn tôn miếu thì hư nát. Hoàng thiên ôi: nếu chẳng giúp tôi hàn gắn lại thì đau đớn biết chừng nào".

Ngột Truật đang ăn uống vui vầy chợt thấy Khương Vương sa nước mắt và không muốn ăn bèn hỏi:

- Sao Vương nhi không ăn uống gì cả vậy?

Thôi Hiếu nghe hỏi liền quỳ xuống tâu:

- Lúc nãy điện hạ bị ngã ngựa giật mình, bây giờ lại đau bụng, trong mình không yên nên không muốn ăn uống gì cả.

Ngột Truật bảo Thôi Hiếu:

- Thế thì ngươi hãy mau mau phò điện hạ ngươi vào dinh dưỡng bệnh.

Thôi Hiếu lĩnh mệnh phò Khương Vương về dinh, Khương Vương vào trướng than khóc thảm thiết. Thôi Hiếu vội ra sau trướng nói với bọn lính Phiên:

- Hôm nay trong mình Điện hạ chẳng yên, các ngươi khỏi cần hầu hạ, hãy đi ra ngoài chơi cho điện hạ nghỉ.

Bọn lính Phiên mừng rỡ chạy ra ngoài chơi hết. Thôi Hiếu nhìn trước sau thấy không còn ai nữa liền đến gần nói:

- Có chiếu chỉ của Nhị đế, điện hạ hãy quỳ xuống mà nghênh tiếp.

Khương Vương nghe nói có chiếu chỉ vội vàng quỳ xuống. Thôi Hiếu vội lấy bức huyết chiếu ra dâng cho Khương Vương, Khương Vương tiếp lấy giở ra xem.

Xem xong, Khương Vương lại còn bi thảm hơn nữa. Còn đang khóc lóc bỗng nghe tiểu Phiên vào phi báo:

- Có chúa công đến.

Khương Vương vội vã giấu bức huyết chiếu vào mình rồi bước ra nghênh tiếp. Ngột Truật vào trướng ngồi xong cất tiếng hỏi:

- Trong mình Vương nhi thấy đã đỡ chưa?

Khương Vương đáp:

- Cám ơn Vương phụ đã có lòng đoái tưởng, hiện giờ trong mình con đã khá rồi.

Trong lúc đang chuyện vãn, bỗng thấy trên không có một con chim vóc lớn bằng con gà mái , lông năm sắc đỗ xuống trước dinh kêu the thé:

- "Triệu Cấu, Triệu Cấu! Lúc này chưa chạy còn đợi lúc nào?"

Thôi Hiếu nghe thất kinh còn Ngột Truật không hiểu chi hết, vội hỏi:

Con chim ấy nó nói chi vậy? Từ trước đến nay ta chưa từng thấy con chim nào biết nói và lại nói tiếng Trung Nguyên nữa chứ.

Khương Vương đáp:

- Ấy là quái điểu bên Trung Quốc thường có, nó tên là ? nha, hễ thấy nó thì là điềm không tốt, nay nó lại đến đây chửi phụ vương thật là vô lễ.

Ngột Truật lại hỏi:

- Nó chửi thế nào?

Khương Vương lắc đầu:

- Dạ con không dám nói.

Ngột Truật giải thích:

- Ấy đâu phải là lỗi của Vương Nhi? Con cứ việc nói có việc gì mà ngại?

Khương Vương đáp:

- Nó chửi phụ vương rằng: loài nghiệt súc, loài nghiệt cẩu, cắt họng, chém đầu cũng đáng lắm.

Ngột Truật nổi giận nói:

- Để ta cho nó một mũi tên chết phắt cho rồi.

Khương Vương nói:

- Xin phụ vương để cho con bắn cho.

- Được lắm, vậy thì con hãy bắn đi, để cha xem tài thiện xạ của con đến mức nào.

Khương Vương đứng dậy lầm rầm khấn vái:

- "Quả như trời đất chưa dứt nhà Tống, đã khiến con chim đến dắt tôi đi thì hãy cho tôi bắn trúng con chim này."

Vái rồi giương cung bắn một mũi, con chim há miệng ngậm phứt mũi tên bay đi. Thôi Hiếu liền dắt ngựa đến bẩm:

- Điện hạ hãy theo nó cho mau.

Khương Vương không còn nghĩ ngợi gì nữa, vội tung mình nhảy lên lưng ngựa chạy theo thần điểu. Thôi Hiếu cầm roi chạy theo sau, gặp phải bụi bờ cũng sải bước nhảy qua. Còn Ngột Truật ngồi trong trướng thấy Khương Vương rượt theo con chim chạy như bay, bèn lẩm bẩm một mình:

- Con ta dại quá, đáng giá gì một mũi tên mà chạy theo chi cho mệt.

Dứt lời liền trở về dinh ngồi ăn uống vui chơi với mấy vị vương tử. Bỗng có quan Bình Chương vào báo:

- Điện hạ cưỡi ngựa phi nhanh quá làm ngã hết mấy cái trướng phòng.

Ngột Truật nạt lớn:

- Việc như vậy mà cũng đến cấp báo làm rộn lên làm gì.

Bình Chương nghe quở mắng chẳng dám nói thêm, cúi đầu lui ra lập tức. Mấy vị Vương tử thấy Ngột Truật thương yêu Khương Vương như vậy trong lòng không phục. Xương Bình Vương bèn lên tiếng nói:

- Trướng phòng hư hại chẳng nói làm chi, ngặt vì Vương nhi tuổi còn thơ ấu cưỡi ngựa chưa quen, nếu rủi ro té ngã thì biết làm sao.

Ngột Truật cười đáp:

- Vương huynh nói rất phải, vậy để đệ ra coi thế nào.

Ngột Truật vội vàng nhảy lên lưng Hỏa Long Cu phóng như bay ra ngoài hỏi bọn lính Phiên:

- Chúng bay thấy Vương nhi chạy đi ngả nào?

Bọn lính Phiên bẩm:

- Chúng tôi thấy điện hạ ra khỏi dinh rồi chạy đi thẳng không biết đi đâu.

Ngột Truật nghe nói vội giục ngựa chạy theo. Con Hỏa Long Cu của Ngột Truật chạy nhanh lắm. Chỉ trong chốc lát Ngột Truật đã thấy xa xa có bóng người phi ngựa và Thôi Hiếu chạy sau không kịp mệt thở hổn hển.

Ngột Truật nghĩ thầm:

- "Chắc lão già này nói to nói nhỏ gì với nó rồi nên nó mới đi như vậy. Nhưng sao nó lại dại khờ đến thế? Nay thiên hạ đã thuộc về của ta rồi, chạy đi đâu cho khỏi?"

Ngột Truật giục ngựa sải tới gọi:

- Vương nhi, vương nhi! Sao không trở về, còn chạy đi đâu?

Khương Vương đang chạy bỗng nghe Ngột Truật chạy theo gọi lại kinh hồn hoảng vía, ráng sức thúc ngựa chạy nhanh hơn nữa.

Ngột Truật nghĩ thầm:

- "Con ta nó dại quá, thôi để ta bắn chết con ngựa hắn cưỡi xem hắn chạy đi đâu cho được".

Nghĩ đoạn giương cung nhắm phía sau ngựa bắn tới một mũi. Con ngựa bị tên ngã lăn ném Khương Vương nhào xuống đất. Khương Vương liền lồm cồm đứng dậy chạy bộ.

Ngột Truật thấy thế cười thầm:

- "Ta đã làm cho con ta sợ hết hồn".

Đang cơn nguy cấp Khương Vương bỗng thấy trong rừng có một ông già bịt khăn vuông, mình mặc áo đạo sĩ, một tay dắt ngựa một tay cầm roi chạy ra kêu lớn:

- Chúa công, chúa công! Hãy lên ngựa cho mau.

Khương Vương tiếp lấy roi ngựa rồi tung mình nhảy lên lưng ngựa ra roi chạy như bay.Ngột Truật thấy thế chỉ vào mặt ông già mắng:

- Lão súc sinh kia, chốc nữa ta trở lại đây ta sẽ giết chết ngươi đấy.

Khương Vương chạy miết đến Hiệp Giang thì trước mặt là con sông rộng mênh mông và sâu thăm thẳm. Nhìn lại phía sau lại thấy Ngột Truật rượt theo cũng đã gần kịp.

Khương Vương cất tiếng than:

- Thế là trời đã hại ta rồi.

Nói chưa dứt lời, con ngựa Khương Vương cưỡi liền giậm chân nhảy ùm xuống sông. Ngột Truật thấy vậy thất kinh chạy riết tới mé sông kiếm tìm không thấy hình bóng Khương Vương đâu cả.

Ngột Truật đinh ninh rằng Khương Vương đã bị chìm chết dưới đáy sông kia rồi, liền khóc rống lên rồi quay lại tìm lão già khi nãy thì không thấy tung tích đâu cả. Đi mấy bước nữa lại thấy Thôi Hiếu tự vẫn chết bên vệ đường, Ngột Truật lại càng thê thảm hơn nữa.

Trở về dinh, mấy vị vương tử đến hỏi thăm, Ngột Truật sa nước mắt thuật lại việc Vương Khương bị rơi xuống nước chết đuối rồi.

Mấy vị Vương tử khuyên giải:

- Nó vô phận bạc phúc nên rủi ro như vậy xin vương huynh chớ có ưu sầu mà hao mòn quý thể.

Nhắc lại Khương Vương, khi con ngựa nhảy ùm xuống sông thì nổi lều phều trên mặt nước mà Ngột Truật không thấy là nhờ có thánh thần bảo hộ lấp che.

Khương Vương ngồi trên lưng ngựa cũng như ngồi trong đám sa mù không dám mở mắt ra chỉ nghe bên tai gió lướt qua ào ào.

Độ một canh giờ sau con ngựa đã vượt khỏi sông nhảy phóc lên bờ cất vó chạy riết một hồi nữa. Khi tới chỗ đám rừng rậm, bỗng con ngựa nghiêng mình trút Khương Vương xuống đất rồi chạy biến vào rừng mất dạng.

Khương Vương nhìn theo ngựa cất tiếng than:

- Thần mã ôi! Ngươi đã có lòng độ ta đến đây, sao ngươi chẳng ráng sức thêm một vài dặm nữa, lại bỏ ta giữa chốn rừng sâu như vậy?

Khương Vương than thở hồi lâu rồi thả bộ đi lần tới mé rừng, bỗng thấy có một tòa cổ miếu phía trước có tấm biển đề năm chữ lớn bằng vàng. Khương Vương lẩm nhẩm đọc:

- "Thôi Phù Quân thần miếu".

Khương Vương bước vào miếu lại thấy một con ngựa bằng đất hình dạng giống hệt con ngựa chở mình đi khi nãy, mình mẩy lông lá đều ướt đẫm. Khương Vương nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ con ngựa này đã đưa ta qua sông được sao? Nghĩ đoạn liền cất tiếng nói:

- Con ngựa này bằng đất mà xuống nước lại không rã hay sao?

Vừa nói dứt lời, bỗng thấy con ngựa rã rời sụm xuống đất nát tan. Thấy thế Khương Vương than thở chẳng cùng rồi bước tới giữa bàn thờ giơ tay lên nói:

- Đội ơn thần hộ mạng đã độ ta qua sông Hiệp Giang. Ta là Triệu Cấu Cửu điện hạ của Tống triều, nếu ta khôi phục được giang sơn nhà Tống, ta sẽ cho người đến đây sửa sang ngôi miếu và tạc tượng bằng vàng thờ phụng để tạ ơn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro