Chương 9 - Những vị Trưởng lão

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Con quái vật đó quả thật xấu xí quá chừng, với lớp da sần sùi màu xám xanh rêu, đôi mắt trắng dã với đồng tử đỏ quạnh và cái mõm dài quá khổ. Con quái vật thấp hơn mẹ tôi nửa cái đầu và mặc áo trùm màu tím phủ kín toàn thân, không rõ nó đang bước đi hay lướt đi nữa, chỉ thấy phần thừa của chiếc áo đang bị kéo lê trên mặt đất. Tôi quá sợ hãi khi nhìn thấy nó càng lúc càng tiến lại gần mình. Tôi chỉ muốn chạy đi khỏi đây hoặc hét thật to lên mà thôi. Nhưng chẳng hiểu sao Emily lại tỏ ra vô cùng bình tĩnh khi con quái vật tiến dần về phía chúng tôi. Thực ra nét mặt của mẹ trở nên kính cẩn và sùng bái thì đúng hơn. Tôi vội chạy ra đằng sau mẹ mà núp. Cả người tôi căng cứng, chờ đợi và kinh hãi.

- Xin chào ngài, Amuk. - Mẹ tôi lên tiếng thái độ cực kỳ nghiêm túc.

- Chào con, Emily. - Một âm thanh ấm áp hiền dịu vang lên.

Con quái vật này có tên sao? Mẹ gọi nó là Amuk. Vừa rồi là nó nói đó sao? Nhưng mà, sao giọng nói của nó dễ nghe thế, như một người cha dịu dàng thân ái vậy. Nó có vai trò gì trong toàn bộ chuyện này?

- Và con là... - Âm thanh dịu dàng đó lại vang lên lần nữa.

Tôi giật mình. Hình như con quái vật đang hỏi tới tôi. Nhưng chẳng hiểu sao nỗi kinh sợ của tôi lại giảm bớt, thay vào đó là sự tò mò về con quái vật tên Amuk với giọng nói ấm áp này. Nhưng sự tò mò đó chưa đủ lớn để tôi đủ dũng cảm ra đối mặt với nó. Mẹ phải xoay người, vừa đẩy tôi ra đằng trước vừa nói:

- Đây là con trai út của con, Evan.

- Chào con, Evan. - Giọng nói ấm áp lại vang lên.

Sự tò mò ép cái đầu của tôi từ từ ngước lên để nhìn thẳng vào con quái vật đó. Amuk đang chăm chú nhìn tôi bằng đôi mắt đỏ quạch của ông ta. Giờ đây khi buộc mình phải đối mặt với ông ta, tôi mới để ý là đồng tử của ông ấy cũng tròn trịa và trong trẻo như của con người chứ không kẻ vạch nham hiểm như loài bò sát, chỉ khác là nó màu đỏ. Điều đó không khiến tôi bớt sợ hãi khi nhìn trực diện ông ấy hơn. Tôi ấp úng trả lời:

- Dạ, con... con... chào... ngài... Amuk.

Cái mõm dài của Amuk nhẹ đung đưa lên xuống như đang gật đầu. Giọng nói hiền dịu lại vang lên:

- Ta khiến con không thoải mái sao, Evan?

- Dạ, không. Chỉ là... chỉ là... trước giờ con chưa từng gặp ai... giống như ngài. Thế nên là...

- Tự nhiên thôi, tự nhiên thôi. - Amuk ôn tồn nói, trong giọng nói phảng phất có chút khích lệ.

- Ngài Amuk đây là Người Crok. Lần trước mẹ đã nói với con về Người Crok rồi còn gì, Evan. - Emily nói, giọng có vẻ khiển trách.

- Dạ, con quên mất rồi ạ. - Tôi đáp với vẻ hối lỗi.

- Thế con vẫn còn nhớ ngài Amuk là một trong các Trưởng lão trông coi Đền chứ?

- Dạ, vâng. Con nhớ rồi ạ. - Tôi đáp xuôi theo ý mẹ mặc dù trong lòng đang thắc mắc Trưởng lão là gì.

Emily thở dài và lắc đầu. Có lẽ đối với một người sùng đạo như mẹ, việc có một người con như tôi là một sự xấu hổ. Mẹ nói với ngài Amuk:

- Rất mong ngài thứ lỗi. Evan nhà con đang bị bệnh trong người. Y Sư Chris chiều nay sẽ sang coi cho nó.

- Không sao, không sao đâu. Bọn trẻ thường hay nhạy cảm với những thứ mà chúng không quen thuộc. Con nên dẫn chúng tới đây thường xuyên hơn, Emily ạ. - Amuk nói.

- Dạ, con sẽ chú ý. - Mẹ tôi trả lời.

- Sau sự ra đi của Marjorie, ta chắc hẳn con đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Bà ấy luôn là một người thành kính và ngoan đạo. Mất mát này là quá lớn, không chỉ với riêng mình con. Chúng ta đều cầu chúc cho bà ấy được yên nghỉ.

- Dạ, đó là lý do tại sao ngày hôm nay con ở đây. Con muốn xin được ban phước. - Mẹ tôi nói với một chút ưu tư.

- Chắc chắn rồi. Mời con. - Amuk nói rất tự nhiên, như thể ông đã biết trước mục đích của chuyến viếng thăm đột ngột này vậy.

Liền sau đó, tiếng áo choàng quét lê trên nền đá lại vang lên. Amuk đã nhẹ nhàng lướt đi phía trước, mẹ tôi nối bước theo sau, tôi lẽo đẽo theo hai người, trong lòng lúc này chỉ có sự tò mò và hồi hộp ngự trị. Tôi hiểu rằng tôn giáo là một trong những điều tôi phải học nếu muốn trở thành một người dân ở đây. Ngài Amuk quả là có khiến tôi kinh hãi một chút khi đối mặt. Tôi suýt quên mất đây không phải là thế giới cũ của tôi, mọi điều mà tôi suy nghĩ, mọi thứ mà tôi cảm nhận ko nên từ quan điểm của người ở thế giới đó nữa. Ngoài chúng tôi ra, còn có những giống loài khác cùng chung sống, có khi còn xấu xí và khủng khiếp hơn cả ngài Amuk. Những người ở đây, họ coi việc gặp gỡ, tiếp xúc những giống loài như ngài Amuk là một chuyện hết sức bình thường. Thật ra, sự sợ hãi của tôi đến từ việc thiếu hiểu biết. Con người ta thường hay khiếp sợ những gì người ta không rõ, không hiểu. Có lẽ đối với tôi thì mọi thứ của thế giới này đều đáng sợ như vậy, cho dù nó xấu hay đẹp. Tôi còn quá nông cạn với những thứ hiển nhiên của thế giới này. Hiểu được điều này, tôi ý thức được rằng mình phải cố gắng nhiều hơn trong tương lai, bắt đầu từ việc thay đổi cảm nhận của bản thân về tất cả mọi thứ tôi sẽ gặp kể từ giờ phút này. Mẹ nói gì về chủng loài của ngài Amuk ấy nhỉ? Crok à? Tôi sẽ ghi nhớ cái tên này.

Qua vào một hành lang bằng đá đầy những cái đèn đá treo trên những bức tường, xuyên qua một cánh cửa nặng nề với hoa văn kiểu cách, sảnh đường chính hiện ra thật ngoài sức tưởng tượng. Khi mẹ nói về Baddu - vị Chúa của tôn giáo này - tôi đã hình dung ra một người đàn ông cao lớn, khôi ngô với bộ râu dài và mái tóc xoăn, có vầng hào quang chói lọi và quấn một mảnh vải quá khổ quanh người; hoặc cũng có thể là một người có khuôn mặt hiền từ, phúc hậu với đôi mắt nhắm lại đầy ưu tư, đang ngồi xếp bằng trên một tòa tháp cao lớn. Nhưng khi nhìn thấy ngài Amuk, tôi hơi có chút thất vọng và ngay lập tức đã nghĩ tới hình ảnh một con cá sấu với cái mõm dài quá khổ và một đám đông đang điên cuồng vái lạy như tế sao. Cuối cùng, tất cả đều không phải.

Trung tâm của sảnh đường là một bức tượng khổng lồ nằm ở vị trí chính giữa điện thờ phía cuối phòng, cao vọt lên gần tới mái vòm trần nhà, mà trần nhà ở đây vốn dĩ đã rất cao rồi. Bức tượng này không rõ là nam hay nữ, cũng không có mặt mũi chi hết, chỉ là rất cao rất lớn mà thôi. Tôi có cảm tưởng nó chỉ là một cái cột đá được dựng lên và đục đẽo cho giống với hình một người đang mặc áo choàng. Thậm chí tôi còn chẳng rõ đó có phải là người không bởi vì ngay cả những cánh tay cũng rất mơ hồ. Chúng được giấu trong ống tay áo. Tư thế của bức tượng đang hơi cúi xuống và giang tay ra như muốn ôm trọn cả khoảng không gian trước mặt.

Tôi và mẹ đi theo ngài Amuk tới khu vực điện thờ. Hai bên lối đi là những hàng dài những nệm màu vàng nâu hình tròn được xếp ngay ngắn trên một bệ đỡ hình elip bằng gỗ, có lẽ là khu vực dành cho những người tới cầu nguyện. Ngay sát điện thờ cũng có những bệ đỡ như vậy nhưng cao hơn nhiều những bệ đỡ ở đây. Điện thờ đặt ngay dưới chân của bức tượng cao lớn, được sơn màu trắng và viền xung quanh màu đen và được trang trí bằng các cây đèn đá to nhỏ đủ kiểu đặt cân xứng cùng với hai bồn hoa lớn màu trắng ở hai bên và hai bức tượng khổ lớn hai vị Trưởng lão đầu cá sấu mặc áo choàng. Chính giữa điện thờ đặt một cái đỉnh bằng đồng lớn, xung quanh khắc những họa tiết hết sức sinh động.

Ngài Amuk tới cạnh cái đỉnh đồng, ngay sau đó có ánh sáng xanh lá cây phát ra, rồi cái đỉnh bắt đầu bốc khói nghi ngút. Trong không khí phảng phất có mùi của dược liệu và tinh dầu, khiến đầu óc người ta trở nên mơ hồ. Tôi không thực sự nhìn thấy được ngài ấy đã làm cái gì vì bị khuất lưng nhưng tôi đoán ngài vừa đốt cái gì đó để bỏ vào. Khi làn khói lãng đãng bốc lên cao dần lên cao, mẹ tôi cởi giày và leo lên bệ đỡ, sau đó quỳ xuống vào tấm nệm tròn, hai tay lại làm tư thế lúc cầu nguyện trước bữa ăn rồi bắt đầu lầm rầm đọc. Giọng của mẹ nhanh và nhỏ tới nỗi tôi không nghe thấy được bất kỳ từ nào, hoặc cũng có khi mẹ đang nói một ngôn ngữ khác mà tôi không biết. Không khí bỗng trở nên trang nghiêm một cách ngột ngạt.

Tôi đang phân vân không biết có nên leo lên một trong những cái bệ đỡ khác mà giả vờ bắt chước bà không thì Emily bỗng nhiên quay lại và vẫy tôi. Tôi từ từ tiến lại gần bà nhưng bà lại chỉ tôi đi tới trước mặt ngài Amuk. Vị Trưởng lão cũng đang nhìn tôi bằng đôi mắt đỏ của ông, lúc này trông đã bớt ghê sợ hơn đi rất nhiều mà có phần "người" hơn, trìu mến và khích lệ như một người ông trông thấy thằng cháu lần đầu tiên. Một góc của tấm áo choàng ông đang mặc cũng đang đưa lên như một cánh tay để chờ đợi tôi. Cho dù đã chấp nhận việc sẽ cùng phải chung sống với những sinh vật khác trong thế giới này một cách bình thường, nhưng ý nghĩ phải lại gần ngài Amuk vẫn khiến tôi lo lắng. Thu hết can đảm, tôi tiến tới trước mặt ngài. Tôi có thể trông rõ những nếp nhăn nhúm gần tay áo và những vết sờn cũ nằm rải rác khắp nơi trên chiếc áo, phảng phất bên dưới có ánh sáng xanh dịu nhẹ. Không rõ bên dưới tấm áo choàng nặng nề này có cái gì, mà tại sao ngài ấy không thò tay ra khỏi cái áo choàng nhỉ?

Thế rồi rất đột ngột, khi phần tay áo của ngài Amuk di chuyển đến trước mặt tôi, ánh sáng xanh lóe lên, một cái gì đó ấm nóng được vạch ngang trán tôi, những hạt bụi li ti màu đen rơi xuống trước mắt tôi. Cái mùi hương tôi ngửi được lúc trước càng trở nên nồng nàn hơn tới mức tôi có thể nếm được trên đầu lưỡi. Tôi gần như không cảm nhận được sự tiếp xúc của phần da đầu với cánh tay của ngài Amuk, ngài ấy thao tác quá nhanh.

Ngay khi tay áo của ngài Amuk trở về vị trí như ban đầu, một giọng rất khẽ của ngài vang lên:

- Con hướng về tượng Baddu mà hành lễ đi con.

Hành lễ ư? Tôi liếc nhanh sang mẹ mình và thấy bà đang đặt tay trái dưới tay phải và ngửa lên, đang cúi người thật thấp xuống dưới. Tôi cũng bắt chước giống bà, cố gắng để cùng nhịp với bà. Sau khi cúi chào đến lần thứ 5 thì tôi lại nghe thấy tiếng ngài Amuk:

- Đủ rồi con. Việc ban phước đã xong rồi đấy. Con vào Nhà nguyện nhỏ ngồi chờ trong lúc mẹ con hầu Kinh nhé, Evan.

- Ơ, dạ. Thưa ngài, Nhà nguyện nhỏ ở đâu ạ?

- Con theo lối đi phía bên trái giúp ta.

Tôi nhìn theo chỉ dẫn của ngài Amuk. Ở bức tường bên trái của sau điện thờ quả là có một hành lang khác không có cửa, được thắp sáng nhờ nhờ bởi những ánh đèn đá vàng vọt. Emily đang hoàn toàn tập trung vào việc đọc kinh và dường như không để ý gì tới tôi. Tôi khẽ gật đầu chào ngài Amuk và lẳng lặng đi vào đó, trong lòng cảm thấy như được giải thoát.

***

Tôi men theo lối đi đầy những cái đèn đá dẫn cho tới khi đến một hành lang khá rộng với rất nhiều những cánh cửa khác nhau. Tôi đứng nhìn một lướt suốt chiều dài của hành lang đó, chẳng có chút khái niệm nào về cái gọi là Nhà nguyện nhỏ cả. Là cái nào trong số những cánh cửa này đây? Những cánh cửa có màu nâu gụ, những thiết kế hoa văn trên cửa, tay cầm và kích thước đều xêm xêm nhau. Nhà nguyện nhỏ, nếu là nơi để cầu nguyện chắc hẳn nó sẽ là một phiên bản bé hơn của Sảnh đường chính. Cứ mở từng cái ra xem cái nào giống nhất là được. Quyết định như vậy, tôi tiến lại cánh cửa gần mình nhất. Nhưng khi đến gần tôi mới phát hiện ra tay nắm cửa quá cao so với thân hình bé tí của tôi, tôi không thể nào với tới được. Những cánh cửa khác đều như vậy. Thất vọng, tôi đang định quay lại khu vực điện thờ thì có chợt tiếng cửa mở ra, một vị Trưởng lão khoác áo choàng màu xanh đi ra từ một cánh cửa. Tôi vội nép vào một góc khuất trước khi ông ấy kịp nhìn thấy tôi. Tôi không muốn ông ấy bắt gặp tôi đang lang thang ở đây mà ko có người lớn bên cạnh để tránh những hiểu nhầm. Hơn nữa, tôi vẫn chưa thấy thoải mái lắm nếu phải đối diện với một trong số họ một mình.

Cánh cửa đóng lại, tiếng áo choàng kéo lê trên đất quen thuộc của các vị Trưởng lão càng lúc càng xa vị trí hiện tại của tôi, cho đến nghe thấy tiếng một cánh cửa khác ở vị trí khác mở ra, tiếng áo choàng đi vào và rồi cánh cửa đóng rầm một cái, tôi mới dám chạy ra khỏi chỗ núp, rón rén đi về phía lối đi dẫn ra Sánh chính. Khi đi ngang qua cánh cửa mà vị Trưởng lão kia vừa đi ra, tôi phát hiện ra ông ấy chưa khép chặt cửa. Qua khe hở hẹp, tôi phát hiện ra một thứ khiến tâm trạng tôi trở nên hứng thú. Là sách, rất nhiều những quyển sách với bìa gáy đủ màu đủ kiểu được xếp ngay ngắn trên kệ. Thế giới này cũng có sách sao? Từ lúc tới thế giới tới giờ, tôi mới lần đầu tiên gặp một hình ảnh quen thuộc đến thế. Nỗi tò mò và khao khát khiến tôi không thể ngăn mình tiến vào bên trong và khám phá cho kỳ được. Tôi mở hé cửa, cố gắng không gây ra quá nhiều tiếng động khiến bản lề kêu lên cho tới khi tạo được một khoảng trống đủ để lách qua.

Căn phòng rộng dài và nhiều ánh sáng với những cửa sổ được buông rèm, các kệ sách bày la liệt khắp từ đầu phòng tới cuối phòng, có những kệ cao vọt lên tận trần nhà và phải có cầu thang để đi lên những vị trí cao nhất. Ngoài những quyển sách to nhỏ đủ màu sắc xếp dầy khít các kệ ra, còn có những bức tượng, tranh tường, những mô hình kim loại và những chậu cây cảnh ở đặt khắp nơi, hoặc được treo trên trần nhà, hoặc được gắn trên tường. Nơi này chẳng khác gì một thư viện kiểu mẫu. Chính tôi trong cuộc đời trước đây cũng chưa từng tới nơi nào như thế này. Tôi háo hức tới cái kệ sách gần nhất, lôi ra một quyển sách có độ dày tương đối. Sách bìa cứng cầm rất chắc tay, đôi chỗ bị sờn, phần giấy bên trong đã hơi ngả màu vàng nhưng được bảo quản khá tốt. Trên bìa sách và gáy có những hoa văn trang trí màu vàng tương tự như ngoài cổng chào và trên các tác phẩm điêu khắc. Mở trang đầu tiên ra xem, tôi ngay lập tức cảm thấy hụt hẫng.

Những hình vẽ hoa văn tôi thấy trước đó xuất hiện chi chít khắp các mặt giấy. Hóa ra chúng không phải là những hoa văn trang trí mà là chữ viết của thế giới này. Sự tinh xảo, mềm mại và cách điệu của chữ viết đã khiến tôi nhầm lẫn. Trông chúng đẹp quá, cứ như là được vẽ chứ không phải được viết ra vậy. Nhưng cho dù chúng là gì thì tôi cũng chẳng đọc được. Như vậy là tôi thành kẻ mù chữ sao? Một người ham đọc sách như tôi khi tới đây lại biến thành một kẻ mù chữ, đúng là nực cười. Tôi không cam tâm, cố giở thêm vài trang nữa để tìm xem có điều gì khác nữa không. Tôi dừng lại trước một trang giấy có hình minh họa. Đó là khuôn mặt của một người đàn ông để râu và hói đầu, nhưng hai mắt trắng dã và trên da mặt có những chấm lốm đốm, bên dưới có hàng chú thích nhỏ. Không đọc được.

Chán nản, tôi gập cuốn sách lại định để lại vị trí cũ. Nhưng khi liếc vào gáy sách, tôi bắt gặp một điều quen thuộc. Một hình vẽ giống như bông hoa được cách điệu mà tôi đã bắt gặp rất nhiều lần từ lúc vào Đền. Nghĩ thế nào, tôi lấy nó xuống và mở sách. Lần này tôi chủ tâm chỉ tìm những hình vẽ giống bông hoa cách điệu ấy. Một, hai, ba... nhiều quá, trong một dòng phải có đến hai đến ba lần hình vẽ đó lặp lại và luôn nằm ở chính giữa một cụm các ký tự và các cụm ký tự này được ngăn cách với nhau bởi những khoảng trắng. Đôi khi nó cũng đứng một mình. Rất có thể đó là một nguyên âm. Những hiểu biết về ngôn ngữ cho tôi biết được nguyên âm là ký tự chính cấu thành nên một từ vựng. Vậy ra ở đây họ có thể dùng hệ thống bảng chữ cái, phụ âm và nguyên âm rồi ghép lại với nhau thành từ có nghĩa. Mặc dù biết được điều này cũng chẳng khiến tôi đọc được chữ, nhưng ít ra tôi cũng không tới mức mù mờ như lúc đầu. Cũng chỉ là học ngoại ngữ thôi mà. Nghĩ vậy, tôi liền có hứng thú trở lại.

Tôi bắt đầu xem tới những ký tự khác trong một từ có chứa ký tự tôi đã thuộc kia. Ký tự thứ hai bên trái là hình vẽ giống như một con cá bơi ngửa, và cũng được lặp lại ở một vài chỗ trong trang sách, tôi nhớ được nó rồi, cái tiếp theo thì lại giống như một cái cây bị cắt một nửa, cái bên phải thì lại là một hình tròn bên trong có ba dấu chấm. Loạn hết cả lên, giá như có ai đó dạy mình thì tốt. Khi nghĩ tới điều đó bỗng có một giọng nói vang lên:

- Hiếm khi thấy con ở đây đấy, Evan.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro