CHƯƠNG I: THAM VẤN TÂM LÝ LÀ MỘT KHOA HỌC ỨNG DỤNG

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Các Khái Niệm

Cuộc sống luôn luôn đặt ra những khó khăn, thách thức buộc con người phải đương đầu. Với nhiều người, họ có thể dễ dàng hoặc vất vả tự vượt qua những khó khăn mà không cần tới sự trợ giúp của người khác. Nhưng có không ít người đã không tự làm được điều này, họ cần một sự trợ giúp mang tính khoa học và chuyên nghiệp để có thể vượt qua được những khó khăn của mình. Trong trường hợp không quan tâm đến sự giúp đỡ bên ngoài, cá nhân có thể tự hủy hoại bản thân và người khác để có được một cuộc sống hạnh phúc hơn. Tham vấn tâm lí ra đời chính là để giúp đỡ các cá nhân, nhóm người theo cách này hay cách khác, có được một cuộc sống hạnh phúc hơn. Trước khi bàn về tham vấn với tư cách là một khoa học, có một số thuật ngữ thường dùng gần với khái niệm tham vấn cần được làm sáng tỏ.

1.1. Trợ giúp tâm lý

Một số người có những tư chất “bẩm sinh” để làm tham vấn. Một số khác không thể trở thành nhà tham vấn tốt dù đã qua nhiều khóa đào tạo. Hầu hết chúng ta đang ở đâu đó giữa những người này. Chúng ta bắt đầu tham vấn với vô số thói quen tốt và xấu. Vì vậy chúng ta phải được đào tạo và thường xuyên nghiên cứu các nguyên tắc chung mà một nhà tham vấn cần phải làm và có lẽ quan trọng hơn là những gì không nên làm trong tham vấn. (Jill Taylor và Sheerlag Stewart)

Trợ giúp là một khái niệm chung nhất, được dùng trong các mối quan hệ giao tiếp đời thường, theo cách “giúp nhau” – ai đó giúp ai đó. Đặc biệt, khái niệm được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực hoạt động thực hành như tâm lí học, công tác xã hội, tham vấn, tâm thần học. Khái niệm “trợ giúp” tồn tại từ khi xuất hiện xã hội loài người và hoạt động trợ giúp này có trước khi các ngành khoa học trợ giúp ra đời. Những hiện tượng liên kết giữa con người với nhau như: “Lá lành đùm lá lách”, “Cưu mang”, “Hỗ trợ”… không đơn thuần chỉ nói đến khía cạnh giúp đỡ vật chất, mà đằng sau chúng còn chứa đựng ý nghĩa “nâng đỡ tinh thần”. Trong khi đó, những khái niệm như “Cho lời khuyên”, “Chia sẻ tâm tình”, “Cảm thông”… hoàn toàn phản ánh sự giúp đỡ tâm lí cho người có nhu cầu được trợ giúp. Phần này tập trung nói về sự trợ giúp tâm lí (Help Pchychology), vì vậy có nhiều chỗ chúng tôi chỉ dùng thuật ngữ “Trợ giúp” nhưng nó được hiểu theo khía cạnh là trợ giúp tinh thần, mà không đề cập đến khía cạnh trợ giúp vật chất.

Trợ giúp tâm lí, có thể hiểu một cách đơn giản, là một hoạt động (một công việc) giúp đỡ cho người đang có khó khăn tâm lí để họ thực hiện được điều họ mong muốn trong cuộc sống. Khái niệm trợ giúp tâm lí bao hàm những công việc của người giúp đỡ không chuyên – tất cả mọi người, và công việc giúp đỡ của những người chuyên nghiệp – công việc của các nhà tâm lí học, nhà tham vấn, nhân viên công tác xã hội, bác sĩ tâm thần, nhà giáo dục…

Như vậy, từ việc người nhiều tuổi bảo người ít tuổi, người có kinh nghiệm bảo người chưa có kinh nghiệm, cha mẹ bảo ban con cái, đặc biệt, những già làng, trưởng bản, thầy lang, thầy thuốc, thầy cúng, thầy tu, thầy giáo đến các nhà tâm lí học, các chuyên viên tư vấn hành nghề tại các cơ sở đều là những người làm công việc trợ giúp người khác, bằng các cách khác nhau như cho lời khuyên, răn dạy, tư vấn, tham vấn và trị liệu. Với cách hiểu như vậy, trong xã hội có rất nhiều kiểu người đang làm công tác trợ giúp và mức độ hiệu quả giúp được của họ là không giống nhau. Trong xã hội có ba loại trợ giúp tương ứng với ba kiểu người trợ giúp:

– Người trợ giúp chuyên nghiệp (professional helper): Đó là những người được đào tạo sâu và chuyên biệt về những kiến thức, kĩ năng tâm lí, hành vi con người, kỹ năng giao tiếp và giải quyết các vấn đề theo chuyên ngành của họ để có thể đáp ứng với đối tượng mà họ giúp đỡ, như người làm nghề tâm lí học, tham vấn, công tác xã hội, tâm thần học… Các ngành trợ giúp chuyên nghiệp này phản ánh những mối quan hệ trợ giúp khác nhau, như mối quan hệ giữa thầy thuốc – bệnh nhân, nhà tham vấn – thân chủ/khách hàng, cán sự xã hội – đối tượng/thân chủ, nhà trị liệu tâm lí – thân chủ/bệnh nhân. Hầu hết những người trợ giúp chuyên nghiệp đều có mối quan hệ trợ giúp chính thức. Đó là mối quan hệ công việc với hợp đồng thỏa thuận rõ ràng về nhu cầu và hiệu quả của sự giúp đỡ, trong đó xác định rõ vai trò và vị trí của người trợ giúp và của thân chủ. Nhìn chung người trợ giúp chuyên nghiệp thường có chức danh cụ thể, như nhà tâm lí, nhà tham vấn hay nhân viên công tác xã hội.

– Người trợ giúp bán chuyên nghiệp (paraprofessional helper): Đó là những người có công việc liên quan đến lĩnh vực trợ giúp. Họ có thể được đào tạo, tập huấn ngắn hạn về các lĩnh vực trợ giúp, hoặc có kinh nghiệm từ mối quan hệ trợ giúp. Ví dụ, quan hệ giữa cán bộ hòa giải xã – người dân; giáo viên – học sinh, hiệu trưởng – giáo viên; giám đốc – nhân viên; cha mẹ – con cái; cha linh mục – con chiên. Đây là những nhóm đối tượng giúp đỡ thường xuyên của họ.

– Người trợ giúp không chuyên nghiệp (non–professional helper): Đó là những người không qua đào tạo, huấn luyện chính thức về các kĩ năng trợ giúp chuyên biệt. Sự trợ giúp của họ có thể chỉ xảy ra nhất thời trong mối quan hệ tạm thời với đối tượng của họ. Ví dụ, nhân viên bán hàng, tiếp tân, tiếp viên hàng không với khách hàng, các tình nguyện viên cộng đồng giúp đỡ các đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, nghiện ma túy; sinh viên đến các Trung tâm bảo trợ xã hội dạy văn hóa cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí cho các cháu; hay bất cứ ai có nhu cầu giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn. Nhìn chung, người trợ giúp không chuyên nghiệp thường có mối quan hệ trợ giúp không chính thức, kết cấu trợ giúp lỏng lẻo, thời gian ngắn và hiệu quả giúp đỡ có giới hạn.

Robert Carkhuff phát hiện thấy trong xã hội nhìn chung các cá nhân nhận được sự giúp đỡ của những người tham vấn không chuyên (người giúp đỡ nghiệp dư) rất nhiều so với sự giúp đỡ của người chuyên nghiệp. Với những người nghiệp dư, sự giúp đỡ của họ thường xuất phát từ tấm lòng nhân ái, sự chân thành, tính thiện và kinh nghiệm sống, họ có nhu cầu giúp đỡ cho những người có khó khăn, có tổn thương tâm lí sống quanh họ. Ngay cả khi sự giúp đỡ có tính vụ lợi cá nhân, như giúp đỡ để được nổi tiếng, được mang ơn, giúp đỡ để con cháu mình sau này được phúc lộc, thì nhìn chung, hiệu quả giúp đỡ của những người không chuyên trong xã hội là rất lớn và có ý nghĩa nhân văn, đáng được khích lệ.

Cùng với sự phát triển của xã hội và sự phân hoá nghề nghiệp ở mức độ cao, hình thức giúp đỡ về tinh thần được phát triển lên một bước mới: xã hội cần có những chuyên gia tham vấn, trị liệu chuyên nghiệp. Khoa học tâm lí ra đời làm xuất hiện các loại hình tham vấn khác nhau và làm hoàn thiện hệ thống lí thuyết giúp đỡ căn bản. Ngày nay, khái niệm trợ giúp còn được hiểu là sự giúp đỡ một cách có hệ thống và có phương pháp. Người giúp đỡ chuyên nghiệp cần có kĩ năng và phẩm cách làm cho người có nhu cầu giúp đỡ tự giải quyết vấn đề của mình bằng cách tìm hiểu, khám phá và hành động. Như vậy, chuyên gia trợ giúp có thể là nhà tâm lí, nhà tham vấn, nhân viên công tác xã hội, bác sĩ tâm thần, các linh mục… Người/nhóm người được trợ giúp thường được gọi là thân chủ, khách hàng hoặc bệnh nhân, hoặc có thể là bất cứ đối tượng nào trong xã hội từ trẻ nhỏ đến người già.

1.2. Tư vấn

Ở Việt Nam, việc cung cấp thông tin, cho lời khuyên, trợ giúp những khó khăn tâm lí, chỉ bảo hay hướng dẫn… cho một cá nhân, hoặc một tổ chức, khi họ có nhu cầu thường gọi là tư vấn. Thuật ngữ Tư vấn (Consultation) hay Tham vấn (Counseling) trong từ điển tiếng Việt hiện nay đều được dịch là Tư vấn. Đó là sự “Đóng góp ý kiến, về những vấn đề được hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định”.

Theo tài liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế I.L.O, tư vấn là một dịch vụ cho lời khuyên theo hợp đồng và phục vụ cho các tổ chức bởi những người có đủ trình độ chuyên môn và được đào tạo đặc biệt để giúp đỡ một cách khách quan và độc lập với tổ chức khách hàng. Hoặc, bạn sẽ làm tư vấn khi nào bạn đang cố gắng thay đổi hoặc cải tiến một tình huống, nhưng không trực tiếp điều khiển việc thực hiện: Phần lớn những người trong vai trò phụ tá ở các tổ chức đã thực sự là những nhà tư vấn, dù cho họ không chính thức được gọi là những nhà tư vấn.

Trên thế giới khái niệm tư vấn không đơn thuần chỉ hiểu theo nghĩa cho lời khuyên (như công việc của một chuyên gia, hay cố vấn), là sự khuyên bảo từ một tổ chức hay những người có trình độ chuyên môn về một lĩnh vực cụ thể, như một hình thức góp ý kiến. Trong đó, người xin tư vấn thường là người chủ động, tích cực, còn người được tư vấn thì có thể là người thụ động trong việc giải quyết vấn đề của họ.

Hiệp hội Tham vấn Hoa Kì (1998) đã định nghĩa tư vấn là: mối quan hệ giữa một người trợ giúp chuyên nghiệp và người, nhóm người hoặc một chỉnh thể xã hội cần được giúp đỡ trong đó nhà tư vấn cung cấp sự giúp đỡ cho thân chủ trong việc xác định và giải quyết một vấn đề liên quan đến công việc hoặc người khác.

Ví dụ: Một giáo viên chủ nhiệm mời một nhà tư vấn đến để giải quyết những vấn đề mâu thuẫn trong sinh hoạt chung của nhóm sinh viên do cô giáo phụ trách (chứ không phải vấn đề tâm lí của cô giáo phụ trách). Hay, một người cần được tư vấn (là một người lãnh đạo, hay quản lí của một tổ chức) mời nhà tư vấn đến môi trường của họ với kì vọng rằng nhà tư vấn này – một chuyên gia, sẽ giải quyết vấn đề đang tồn tại trong cơ quan của người quản lí đó. Nhà tư vấn được thuê như một người huấn luyện, người cố vấn “có tri thức và các kĩ năng chuyên môn để giải quyết vấn đề cho người khác”.

Thảo luận trường hợp

Nhà trường đề nghị bạn giúp đỡ cho một học sinh lớp 71. Học sinh này đã mấy lần gây gỗ đánh bạn, trong lớp phá bĩnh, cãi hỗn với giáo viên, đến lớp không chuẩn bị bài…

Bạn sẽ gặp ai và làm như thế nào trong vai trò là:

1. Nhà tư vấn

2. Nhà tham ván

Có thể giải nghĩa hoạt động tư vấn như sau: Nhà tư vấn được một người đề nghị cung cấp dịch vụ giúp đỡ trực tiếp cho một người, nhóm, tổ chức hoặc cộng đồng với nỗ lực trợ giúp cho cá nhân (nhóm hoặc hệ thống đó) vượt qua những khó khăn của họ. Hay, có thể định nghĩa đơn giản hơn: Tôi (nhà tư vấn – người thứ nhất) và bạn (một người, một nhóm người, hoặc có thể là nhà tham vấn chưa được hành nghề độc lập – người thứ hai) nói chuyện về anh/chị ấy (hay hệ thống tổ chức ấy – người hoặc vấn đề thứ ba) với mục đích tạo nên một số sự thay đổi.

Như vậy, tư vấn liên quan đến một mối quan hệ tay ba trong đó trọng tâm là người xin tư vấn và bên thứ ba (có thể là một người hoặc một tổ chức). Tư vấn với một người về người khác không chỉ liên quan đến ba cá nhân chính (nhà tư vấn, người được tư vấn và “người khác”) mà còn liên quan đến môi trường mà “người khác” đang tồn tại trong đó (E.D. Neukrug, 1999).

Hoạt động tư vấn có thể diễn ra trong các cơ quan, trường học, doanh nghiệp và bất cứ nơi nào tồn tại người được tư vấn, người muốn cải thiện tình hình có vấn đề hoặc muốn xem xét những cách thức mới cho việc tạo nên sự thay đổi tích cực trong công việc của mình.

Trên thế giới, nhà tư vấn thường có gốc đào tạo từ một nhà tham vấn chuyên sâu. Đối với một số nhà tham vấn, việc làm tư vấn lại là vai trò chính của họ. Dù là một nhà tham vấn trong một tổ chức cộng đồng, hay tại các trường đại học, cao đẳng thì công việc tư vấn luôn trở thành một phần được mong đợi và cần thiết trong trách nhiệm chuyên môn của nhà tham vấn. Nhà tham vấn có thể tư vấn cho những nhà tham vấn khác, hoặc tư vấn cho những người quản lý các đơn vị trong các trường học; các giám đốc của các cơ sở thăm khám và tất cả các cơ quan bao gồm bộ y tế, chính quyền, hội đồng mục sư…

Có thể nói, khái niệm tư vấn đôi khi đồng nghĩa với khái niệm cố vấn, chuyên gia. Trong tiếng Việt, cố vấn được hiểu là người thường xuyên được hỏi ý kiến để tham khảo giải quyết công việc. Sự khác nhau giữa tham vấn và cố vấn được thể hiện rất rõ trong bảng so sánh dưới đây:

Phân biệt tham vấn và cố vấn

Tham vấn Cố vấn

– Là cuộc nói chuyện mang tính cá nhân giữa nhà tham vấn với một hoặc vài người đang cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó khăn hoặc thách thức trong cuộc sống. Trọng tâm của cuộc tham vấn nhằm vào người được tham vấn. – Là cuộc nói chuyện giữa một “chuyên gia” về một lĩnh vực nào đó với một hoặc nhiều người đang cần lời khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh vực ấy. Trọng tâm thường tập trung vào nhà cố vấn.

– Nhà tham vấn giúp thân chủ sáng tỏ vấn đề, xem xét các giải pháp khả thi và giúp thân chủ đưa ra lựa chọn tối ưu nhất. – Nhà cố vấn giúp thân chủ ra quyết định bằng cách đưa ra những lời khuyên về “mặt chuyên môn” cho thân chủ.

– Mối quan hệ tham vấn quyết định kết quả tham vấn. Vì vậy nhà tham vấn phải xây dựng lòng tin nơi thân chủ và có thái độ chấp nhận, thấu cảm và không phán xét. – Mối quan hệ giữa người cố vấn và thân chủ không quyết định kết quả cố vấn, mà tri thức, sự hiểu biết của người cố vấn về lĩnh vực thân chủ đang cần cố vấn mới là yếu tố quyết định.

– Tham vấn là một quá trình gồm nhiều cuộc nói chuyện liên tiếp để thân chủ nhận biết và đương đầu được vấn đề của mình. – Quá trình cố vấn có thể chỉ diễn ra trong một lần gặp gỡ giữa thân chủ và người cố vấn.

– Nhà tham vấn thể hiện sự tin tưởng vào khả năng tự giải quyết vấn đề của thân chủ, vai trò của nhà tham vấn chỉ là “hướng đạo” cho thân chủ. – Người cố vấn nói với thân chủ về những quyết định mà họ cho là phù hợp nhất đối với tình huống của thân chủ.

– Nhà tham vấn có kiến thức về cách cư xử và phát triển của con người. Họ có các kĩ năng nghe và giao tiếp, có khả năng khai thác vấn đề và cảm xúc của thân chủ. – Người cố vấn có kiến thức về những lĩnh vực nhất định và có khả năng truyền đi những kiến thức đó đến người cần hỗ trợ hay hướng dẫn trong lĩnh vực đó.

– Nhà tham vấn giúp thân chủ nhận ra và sử dụng những khả năng và thế mạnh của riêng họ. – Tập trung vào thế mạnh của thân chủ không phải là xu hướng chung của người cố vấn.

– Nhà tham vấn phải thấu cảm với những cảm giác và cảm xúc của thân chủ bằng thái độ chấp nhận tuyệt đối – Người cố vấn đưa ra những lời khuyên tốt nhất cho thân chủ nhưng không quan tâm đến việc chuyển tải sự thấu cảm, chấp nhận tới thân chủ.

– Thân chủ làm chủ cuộc nói chuyện; nhà tham vấn lắng nghe, phản hồi, tổng kết và đặt câu hỏi. – Sau khi thân chủ trình bày vấn đề của mình, người cố vấn làm chủ cuộc nói chuyện và đưa ra lời khuyên.

Khi nhà tư vấn sử dụng kiến thức của mình để đưa ra những gợi ý và lời khuyên, hay chịu trách nhiệm tìm ra một “cách điều trị” hướng đến sự thay đổi của tổ chức, nhà tư vấn có thể trở thành chuyên gia, cố vấn, người hướng dẫn, người huấn luyện hoặc người giáo dục. Ngược lại, khi nhà tư vấn trợ giúp thân chủ sử dụng những nguồn lực của chính họ trong tổ chức để thay đổi, thì nhà tư vấn là người điều đình hoặc là người tạo điều kiện thuận lợi, người cộng tác. Trong trường hợp này, nhà tư vấn hoạt động như một người tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thay đổi bằng cách làm việc cùng với các cá nhân liên quan, cung cấp các tài liệu và các giải pháp.

Ở Việt Nam, do hoạt động tham vấn còn khá mới mẻ và tự phát, việc dùng khái niệm chưa được thống nhất trong xã hội nên thuật ngữ Tham vấn được chúng tôi sử dụng trong cuốn tài liệu này có nghĩa tiếng Anh là Counseling và thuật ngữ Tư vấn là Consultation. Hai khái niệm này đã được thống nhất cách gọi trong Hội thảo về Công tác tham vấn trẻ em, do Unicef kết hợp với Ủy ban Dân số–gia đình Việt Nam (tên cũ) tổ chức, tháng 4/2002.

1.3. Tham vấn tâm lí

Hoạt động tham vấn bao gồm việc lắng nghe đối tượng trình bày vấn đề của họ, làm cho họ cảm thấy dễ chịu, giúp họ nhận biết vấn đề và tìm ra các giải pháp cho vấn đề đó.

Tham vấn (Counseling Psychology) là một thuật ngữ không còn xa lạ ở Việt Nam trong khoảng 10 – 15 năm lại đây. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau liên quan tới thuật ngữ này. Không riêng gì ở Việt Nam mà tại các nước phương Tây và Bắc Mỹ, thuật ngữ tham vấn cũng được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi, nó chỉ những hoạt động của người giúp đỡ thông thường, hoặc của tình nguyện viên, họ được xem như là người làm công tác trợ giúp. Hay nó nói đến những người làm tham vấn chuyên nghiệp tại các bệnh viện, trung tâm, dịch vụ – xã hội, hoặc các trường học với nền tảng kiến thức về tâm lí học, công tác xã hội hoặc các ngành khác.

Trong chương này, chúng tôi muốn đề cập đến tham vấn với tư cách là một hoạt động trợ giúp mang tính chuyên nghiệp, trong đó đòi hỏi nhà tham vấn có kiến thức sâu về tâm lí và hành vi con người nhằm giải quyết những vấn đề của cuộc sống xã hội được coi là nguyên nhân nảy sinh những rối loạn tâm lí cần được giúp đỡ ở các cá nhân. Theo Mielke J. (1999), yếu tố tâm lí là động cơ rõ rệt thúc đẩy con người tìm đến tham vấn. Do đó khái niệm tham vấn nói đến sự trợ giúp tâm lí, chứ không đơn thuần là sự hỏi đáp về thông tin, kiến thức. Vì vậy, khái niệm tham vấn trong giáo trình này được hiểu là tham vấn tâm lí.

Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kì (ACA, 1997) cho rằng: Tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc tâm lí, sức khỏe tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý.

Định nghĩa của Hiệp hội Tham vấn Hoa Kì cũng xác định rằng quá trình tham vấn được hiểu như là một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và khách hàng. Trong mối quan hệ này nhà tham vấn giúp khách hàng tự xác định và tự giải quyết vấn đề của mình.

P.K. Onner cho rằng tham vấn là quá trình, vì vậy nó đòi hỏi các nhà tham vấn phải dành thời gian nhất định và sử dụng các kĩ năng một cách thuần thục để giúp đỡ đối tượng/thân chủ tìm hiểu, xác định vấn đề và triển khai các giải pháp trong điều kiện cho phép. Tham vấn là một khoa học thực hành nhằm giúp con người vượt qua được những khó khăn của mình, giúp họ có khả năng hoạt động độc lập trong xã hội bằng chính kĩ năng sống và năng lực của mình.

Theo chúng tôi, trong điều kiện hoạt động tham vấn ở Việt Nam còn tự phát và ai cũng có thể tự cho mình là nhà tham vấn khi họ muốn làm công việc giúp người khác, thì một định nghĩa về tham vấn đầy đủ hơn có thể phát biểu là: Tham vấn là một quá trình tương tác giữa nhà tham vấn (người có chuyên môn và kĩ năng tham vấn, có các phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận) với thân chủ (còn gọi là khách hàng – người đang có vấn đề khó khăn về tâm lí muốn được giúp đỡ). Thông qua các kĩ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính nghề nghiệp), thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình. Thuật ngữ tham vấn mô tả chính xác bản chất của nghề trợ giúp là giúp người khác đang có khó khăn tâm lí mà không hướng họ theo ý mình.

Triết lí của sự giúp đỡ

– Giúp thân chủ nhìn vấn đề như nó vốn có.

– Giúp thân chủ tự giải quyết vấn đề của mình.

– Một nghề giúp người khác giúp đỡ chính họ.

Khái niệm tham vấn mô tả chính xác các kỹ năng, kiến thức, thái độ và các phương pháp tiếp cận đối với các đối tượng khó khăn về tâm lí có nhu cầu được giúp đỡ. Bằng cách tập trung vào những trải nghiệm, cảm xúc, suy nghĩ, hành vi của thân chủ với những đáp ứng một cách có chủ định, nhà tham vấn tạo ra sự khám phá, chấp nhận hoặc thách thức ở thân chủ, giúp họ tự đạt tới một mức độ thích hợp về khả năng hoạt động độc lập trong xã hội. Như vậy, tham vấn với tư cách là một nghề, một dịch vụ trợ giúp tinh thần, đòi hỏi nhà tham vấn phải trải qua một quá trình đào tạo lí thuyết và thực hành có giám sát, vì tham vấn không phải là giải đáp, cho lời khuyên, hướng con người đến các chuẩn mực xã hội chung chung mà ai, lúc này lúc khác, cũng có thể làm được.

Richard Nelsson (1997) cũng cho rằng mục tiêu của tham vấn là hướng tới thay đổi cách thức cảm nhận, suy nghĩ và hành động của con người để giúp họ tạo nên một cuộc sống tốt đẹp hơn. Do vậy, theo ông, tham vấn là một quá trình can thiệp giải quyết vấn đề với một mối quan hệ, một quá trình tương tác đặc biệt giữa người làm tham vấn và thân chủ. Ông cho rằng tham vấn có thể được sử dụng ở những cấp độ khác nhau. Nó có thể là dạng hoạt động mang tính chuyên sâu của các nhà tâm lí học, cán sự xã hội, nhưng nó cũng có thể là một phần công việc của giáo viên, y tá, hay điều dưỡng, các nhà tình nguyện viên.

Có thể nói hoạt động tham vấn phản ánh nhu cầu của những người tìm kiếm sự giúp đỡ tâm lí. Tham vấn trở thành một nghề chuyên nghiệp xuất phát từ nhu cầu này của xã hội. Nó tập trung vào giúp đỡ người khác giải quyết các khó khăn tâm lí của họ. Với cách hiểu này, khái niệm “Tham vấn tâm lí” thường được gọi ngắn gọn là “Tham vấn”.

Bản chất của tham vấn là hoạt động hay phương pháp trợ giúp người có vấn đề tự giải quyết vấn đề của chính mình chứ không phải là hoạt động đưa ra lời khuyên mà chúng ta thường hiểu. Sự trợ giúp ở đây được thể hiện qua việc giúp người có vấn đề hiểu được chính họ, hoàn cảnh của họ, phát huy được tiềm năng, năng lực vốn có của chính mình. Với ý nghĩa này, tham vấn còn có tác dụng giúp đối tượng nâng cao khả năng đối phó với vấn đề trong cuộc sống.

Toàn bộ quá trình tham vấn thể hiện ở các giai đoạn hợp tác khác nhau đòi hỏi việc sử dụng các kĩ năng khác nhau của nhà tham vấn. Nhà tham vấn cần có thời gian để hiểu vấn đề của thân chủ và con người thân chủ. Cũng như vậy, thân chủ cần có thời gian để kiểm nghiệm khách quan vấn đề của mình.. Quá trình tham vấn hướng tới những kiến thức và nhân cách làm người, gắn với sự trưởng thành của thân chủ và cả nhà tham vấn. Điều này khác hẳn với việc cho lời khuyên, ra quyết định thay cho thân chủ.

Vì vậy nhà tham vấn không thể đưa ra những phán xét, những giải đáp, hay lời khuyên chỉ sau 15 – 20 phút trò chuyện với thân chủ. Quá trình chia sẻ trong tham vấn đòi hỏi sự tích cực hợp tác giữa nhà tham vấn và thân chủ. Trong đó, nhà tham vấn bày tỏ sự lắng nghe, thấu hiểu còn thân chủ nói ra được tâm sự của mình. Nhà tham vấn giúp cho thân chủ thấy được sự xáo trộn nội tâm của họ. Thân chủ không chỉ hiểu rõ sự kiện, hoàn cảnh gây ra vấn đề mà quan trọng hơn ý thức được con người mình trong tình huống có vấn đề. Đâu đó giúp cho thân chủ vượt qua được những trở ngại tâm lí để nhìn vấn đề của mình như nó đang có. Việc này cũng đồng hành với quá trình tìm tiềm năng của thân chủ để đưa ra được các phương án giải quyết vấn đề của mình.

Mục đích của quá trình tham vấn là phải khơi gợi được những tiềm năng, mặt mạnh của thân chủ. Điều này đồng nghĩa với việc nhà tham vấn chấp nhận thân chủ, động viên, khích lệ, củng cố những giá trị của thân chủ. Rõ ràng rằng, khi thân chủ tự tìm đến nhà tham vấn để được giúp đỡ, chia sẻ, có nghĩa là về thực chất họ có tiềm năng đương đầu với vấn đề và muốn giải quyết vấn đề của mình. Điều quan trọng là nhà tham vấn có khả năng như thế nào để giúp thân chủ đương đầu được vấn đề của họ. Vì thế nhà tham vấn có thể cần chỉ ra những tiềm năng của thân chủ để giúp họ tin vào bản thân và khả năng của mình. Nhà tham vấn có thể chỉ ra nhiều hơn, cụ thể hơn tiềm năng của thân chủ khi hiểu nhiều hơn về thân chủ của mình. Với những thân chủ tự ti, ít trông cậy vào bản thân, nhà tham vấn có thể nói:

– Tôi biết chị là người có trách nhiệm với bản thân và gia đình mình (hoặc chị là người biết hy sinh bản thân…; chị là người dám đương đầu với khó khăn…; chị là người biết cân nhắc trước khi đi đến một quyết định…; chị là người phụ nữ có lòng bao dung…; người có lòng tự trọng cao…), vì vậy chúng ta sẽ xem xét các giải pháp, chị sẽ cân nhắc xem cách giải quyết nào là tốt nhất cho vấn đề của chị.

Nói tóm lại, quá trình tham vấn nhằm giúp cho thân chủ tự chịu trách nhiệm với cuộc đời của mình, tự tìm cách giải quyết các vấn đề của mình, và nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ, chứ không đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ. Tham vấn là tiến trình giúp đỡ chứ không làm hộ cho thân chủ. Quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, dám nghĩ và đương đầu với vấn đề khó khăn của chính mình.

Phân tích đoạn đối thoại

Thân chủ: Em rất buồn vì con em không nghe lời em, hôm nào nó cũng đi học về muộn, điều này làm em rất cáu…

Nhà tham vấn: Chị cần dành nhiều thời gian chia sẻ với con hơn. Chị không nên cáu với cháu vì làm thế chỉ khoét sâu thêm sự ngăn cách giữa chị và cháu.

2. Mối Liên Hệ Nghề Nghiệp Trong Các Công Việc Trợ Giúp

Các hình thức đào tạo người trợ giúp chuyên nghiệp thường được nhắc đến tương ứng với công việc họ làm trong xã hội là trị liệu tâm lí, tham vấn, trợ giúp xã hội, tư vấn sức khỏe tâm thần v.v.. Tuy nhiên, những công việc này đan xen nhau, có sự giao thoa và đôi khi khó có thể làm rạch ròi. Ví dụ, ngành Tâm lí học (đặc biệt là chuyên ngành Tâm lí học Lâm sàng) đào tạo những người làm nghề trị liệu tâm lí, cả người làm tham vấn tâm lí và ngành Tham vấn đào tạo người làm công việc tham vấn, và cũng đào tạo người làm trị liệu tâm lí. Tương tự như vậy, trong ngành Công tác xã hội, những chuyên gia công tác xã hội có bằng thạc sĩ thực hành cũng làm công tác tham vấn hay trị liệu tâm lí. Các bác sĩ tâm thần cũng có chức năng trị liệu tâm lí hay tham vấn. Các nhà tâm thần học là người được đào tạo tốt trong việc phát hiện và điều trị tâm bệnh, và được đào tạo tối thiểu về kĩ thuật tham vấn cá nhân, nhóm, kĩ thuật trị liệu tâm lí, kĩ thuật định lượng tâm lí, sự phát triển con người và tham vấn nghề nghiệp.

2.1. Tâm lí học và tham vấn tâm lí

Theo Raymond Lloyd Richmond, hầu hết những người được gọi là nhà tâm lí học (đặc biệt ở Hoa Kỳ) đều có trình độ tiến sĩ, được đào tạo chuyên sâu về thực hành trị liệu tâm lí. Họ có khả năng phát hiện và chữa trị các loại vấn đề về cảm xúc có khả năng nghiên cứu và lượng giá trong tham vấn cá nhân và nhóm. Cũng như có kiến thức về tâm bệnh học. Trong thực hành trợ giúp con người, các nhà tâm lí học có những chức danh được cấp bằng/chứng chỉ nghề: nhà tâm lí lâm sàng, nhà tâm lí học tham vấn, nhà tâm lí học đường và nhà phân tâm học. Tất cả những người có một trong các chức danh này đều có thể làm công việc trị liệu tâm lí.

Thảo luận

Bằng sự hiểu biết của mình, hãy chỉ ra sự tương đồng và khác biệt trong công việc được gọi là Tham vấn tâm lí và Trị liệu tâm lí.

Khi nói về sự khác nhau giữa nhà tham vấn và nhà tâm lí học lâm sàng (người làm trị liệu tâm lí), TS. San Francisco đặt câu hỏi: “Khác nhau giữa tâm lí lâm sàng và tham vấn tâm lí là gì?”. Theo ông, câu trả lời không hề đơn giản bởi vì ngành tâm lí học có thể được ứng dụng theo nhiều cách khác nhau. Vì vậy, việc chỉ ra sự khác nhau giữa tâm lí lâm sàng và tâm lí tham vấn là không đơn giản..Một số người học tâm lí học nhưng làm việc như một nhà tham vấn, một số làm việc như một nhà trị liệu và số khác là nhà tâm lí học. Và theo San Francisco, mặc dù các chương trình đào tạo tham vấn thường dạy các lí thuyết trị liệu tâm lí khác nhau. Nhưng đào tạo và giám sát về thực hành trị liệu tâm lí thường không được bao hàm trong đào tạo tham vấn. Nói chung, trong khi trị liệu tâm lí hướng đến những thay đổi phức tạp trong tính cách và thường làm việc với các xung đột vô thức, thì tham vấn hướng đến những tình huống tức thời và bị giới hạn. Hiện nay các chương trình đào tạo trên thế giới chuyên về tham vấn thường dạy các lí thuyết trị liệu tâm lí khác nhau. Nhiều nhà tham vấn phủ nhận sự phân biệt giữa tham vấn và trị liệu tâm lí do một số chương trình đào tạo tham vấn đã rất chú trọng vào trị liệu tâm lí.

Ở Mỹ, một người có bằng tiến sĩ tham vấn có thể được chứng nhận là một Nhà tâm lí học. Một người với bằng thạc sĩ tham vấn, ở một số bang, có thể trở thành Nhà tham vấn chuyên nghiệp được công nhận (Licensed Professional Counselor). Trên thực tế, để phân biệt sự khác nhau rạch ròi giữa nhà tham vấn, nhà trị liệu tốt nghiệp ngành tâm lí học lâm sàng) là rất phức tạp.

Tham vấn tâm lí là một nghề chuyên nghiệp. Nó xuất phát không phải từ phòng khám bệnh, mà từ môi trường xã hội với các vấn đề xã hội. Tham vấn tập trung vào giúp đỡ người khác giải quyết các khó khăn hay các vấn đề liên quan đến trường học hoặc gia đình. Trong khung cảnh này, nhà tham vấn là “người giải quyết vấn đề” thông qua những lời khuyên trực tiếp hay những hướng dẫn gián tiếp nhằm giúp thân chủ có những quyết định hợp lý. Tham vấn có nguồn gốc liên quan đến lĩnh vực giáo dục, mặc dù các nhà tham vấn có bằng tâm lí học. Nhiều chương trình tâm lí học thường chỉ đào tạo tiến sĩ Tâm lí học tham vấn, một nhánh của tâm lí học, tập trung vào việc thực hành tham vấn. Bên cạnh đó, nhiều nhà tâm lí học tham vấn được đào tạo về hướng nghiệp, một khía cạnh của tâm lí học giúp cá nhân khám phá ra xu hướng nghề nghiệp của cuộc đời mình.

Raymond Lloyd Richmond cho rằng tham vấn thường liên quan đến những vấn đề “thông thường” hơn là các vấn đề rối loạn tâm thần. Nó gắn với việc ra quyết định và những hành động cụ thể nên làm. Vấn đề của thân chủ tập trung vào những sự kiện hiện tại – những vấn đề nằm trong bình diện ý thức, suy nghĩ lí trí, hơn là vào những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ với những vấn đề thuộc về vô thức (mặc dù khi xem xét các sự kiện gây ra tổn thương cho thân chủ, nhà tham vấn vẫn trở lại nguồn gốc quá khứ của vấn đề). Trị liệu tâm lí nhằm mục đích thay đổi suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của thân chủ từ kém thích nghi sang thích nghi hơn. Khái niệm “Nhà” trị liệu tâm lí là thuật ngữ gọi theo thói quen nhằm chỉ công việc của người trợ giúp. Trị liệu tâm lí chỉ là cách thức, phương pháp tác động, mà một nhà tâm lí học, nhà tâm thần học hay một nhân viên công tác xã hội được chứng nhận đều có thể hành nghề trị liệu tâm lí. Mặc dù thuốc có thể được dùng kết hợp trong trị liệu tâm lí và là thành phần quan trọng nếu thân chủ “bị bệnh thực thể”, nhưng thuốc không thể được coi là thành phần của trị liệu tâm lí, bởi trị liệu tâm lí thực sự phụ thuộc vào việc thân chủ sử dụng những trải nghiệm tâm lí của mình để mang lại những thay đổi như mong đợi, chứ không phải là thuốc.

Trong công tác đào tạo nhà tham vấn hiện nay trên thế giới, thuật ngữ tham vấn và trị liệu tâm lí được trình bày một cách gần như tương đồng trong đa số các sách giáo khoa ở Hoa Kỳ. Hầu hết những giáo trình này đều sử dụng các trường phái lí thuyết của tâm lí học dành cho nghiên cứu và thực hành tham vấn hoặc trị liệu tâm lí. Theo E.D. Neukrug, chúng ta có thể thấy những quyển sách giáo khoa về lí thuyết tham vấn và trị liệu tâm lí, trong đó có những lí thuyết giống nhau, không thể phân biệt được. Ví dụ, C.H. Patterson, người viết giáo trình nổi tiếng “Lý thuyết tham vấn và trị liệu đã tuyên bố rằng tham vấn và trị liệu cùng được sử dụng trong sách của ông vì dường như không thể có bất cứ sự phân biệt rõ rệt nào giữa chúng (Patterson, 1993). Tương tự, Baruth và Huber (1985) đã nói rằng họ sử dụng thuật ngữ tham vấn và trị liệu tâm lí một cách ngang bằng xuyên suốt các sách của họ. Corey (1996), trong tác phẩm nổi tiếng: “Lý thuyết và thực hành tham vấn và trị liệu tâm lí” đã không nói về vấn đề này mà chọn việc sử dụng các thuật ngữ tham vấn và trị liệu tâm lí hoán đổi cho nhau. Còn C. Rogers trong các sách về tham vấn của mình cũng cho rằng sự khác biệt giữa hai thuật ngữ này là không đáng kể đối với những người có chứng chỉ hành nghề trợ giúp. Đối với lĩnh vực tham vấn và trị liệu tâm lí, hiện nay trên thế giới vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng. Thậm chí có nhiều chuyên gia trợ giúp hàng đầu trên thế giới cho rằng tham vấn và trị liệu tâm lí được sử dụng như nhau hoặc thay thế cho nhau trong 70% trường hợp (R. Richmon). Khi thân chủ có nan đề cần trợ giúp, Neukrug cho rằng ranh giới giữa tham vấn và trị liệu thường thể hiện một cách tương đối như sau:

Công tác hướng dẫn, tham vấn và trị liệu tâm lí

trong một chuỗi trợ giúp liên tiếp

Hướng dẫn <---> (Guidance) Tham vấn (Counseling) <---> Trị liệu Tâm lí (Psychotherapy)

– Vấn đề ngắn hạn

– Thay đổi hành vi

– Vấn đề bên ngoài

– Ngay bây giờ, tại đây

– Mang tính ngăn ngừa

– Có ý thức

– Tập trung vào sự gợi ý của người trợ giúp <--->

<--->

<--->

<--->

<--->

<--->

<---> – Vấn đề dài hạn

– Cấu trúc lại nhân cách – Vấn đề bên trong

– Bây giờ và sau đó

– Mang tính hồi phục

– Vô thức

– Tập trung phát hiện khả năng thay đổi của thân chủ

Xét trong một chuỗi hoạt động trợ giúp liên tiếp trên, khái niệm hướng dẫn liên quan đến sự lựa chọn giải pháp thích hợp cho một vấn đề, như chọn nghề, chọn trường, chọn môn học và thường gắn với môi trường học đường, gắn với giáo dục, hướng nghiệp. Công tác hướng dẫn thường cho lời khuyên theo kiểu người lớn tuổi bảo người nhỏ tuổi, người thiếu kinh nghiệm nghe lời người có kinh nghiệm, hơn là giúp thân chủ tạo ra một sự thay đổi bằng chính khả năng của họ. Ở Hoa Kì, công tác hướng dẫn thường được các nhà tâm lí học học đường thực hiện (họ tối thiểu phải có trình độ thạc sĩ). Với chức năng đánh giá và tư vấn cho việc giáo dục những học sinh đặc biệt, nên họ không phải lúc nào họ cũng được cấp phép để làm tham vấn và trị liệu tâm lí (Todd & Borhart, 1994).

Trong phạm vi của công tác thực hành trị liệu tâm lí, việc cấp phép hành nghề độc lập là có giới hạn. Về trình độ thực hành, một nhà trị liệu tâm lí phải có trình độ cao về tâm lí học lâm sàng, công tác xã hội, hoặc tham vấn tâm lí, vì công việc của họ liên quan đến việc đánh giá, chẩn đoán và điều chỉnh những hành vi sai lệch, sự bất lực và nỗi lo lắng cũng như làm tăng sự thích nghi của con người và sự phát triển nhân cách. Theo Neukrug, nếu so sánh về phương diện xuất phát điểm của nghề tham vấn, các nhà tham vấn tâm lí làm việc nhiều hơn với bộ phận dân cư tương đối mạnh khoẻ, còn những nhà tâm lí học lâm sàng thì làm việc với bộ phận nhỏ dân số có khó khăn về tâm lí. Vì vậy, công việc của nhà trị liệu tâm lí thường ở bệnh viện, làm việc cùng với các y tá, bác sĩ tâm thần. Còn nhà tham vấn làm việc ngoại trú tại các trung tâm, dịch vụ trợ giúp con người trong cộng đồng, xã hội. Ngày nay, sự khác biệt giữa nhà tâm lí học tham vấn và tâm lí lâm sàng là rất nhỏ. Ở Hoa Kì, một nhà tâm lí lâm sàng muốn trở thành một nhà tham vấn tâm lí thì phải đạt được trình độ tiến sĩ từ một chương trình do Hiệp hội Tâm lí Hoa Kì chuẩn hóa và hoàn thành những điều kiện bổ sung do một ủy ban cấp phép quy định.

Trên thế giới, thuật ngữ “nhà trị liệu tâm lí” không kết hợp với bất cứ lĩnh vực cụ thể nào của công tác đào tạo thực hành sức khỏe tâm thần. Do đó, hầu như các bang ở Hoa Kì không cấp giấy phép cho chức danh “nhà trị liệu tâm lí” và kết quả là bất cứ cá nhân nào cũng có thể tự cho mình là “nhà tâm lí trị liệu”. Về trình độ thực hành, một người làm trị liệu tâm lí phải tốt nghiệp ở trình độ cao về ngành Tâm lí học, Công tác xã hội, Tham vấn hoặc Tâm thần học và làm việc trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần hoặc thực hành ở các cơ sở tư nhân về tham vấn hôn nhân và gia đình với các cá nhân và nhóm.

Theo chúng tôi, đánh giá sự khác nhau trong công việc của nhà tham vấn và nhà trị liệu ở Việt Nam phải nhìn từ bối cảnh đào tạo và công việc thực tế mà họ đang làm. Ví dụ như ở Việt Nam hiện nay, việc một người đang làm tham vấn hay trị liệu tại các cơ sở là không có tiêu chí kiểm soát. Họ có thể tốt nghiệp từ Văn, Báo chí, Lịch sử, Xã hội học… Khi trong xã hội vẫn còn nhiều người đang làm tham vấn nhưng không tốt nghiệp từ ngành Tâm lí học, thì việc một người tốt nghiệp ngành Tâm lí học, bất kể từ Trường Đại học Sư phạm hay Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đều đáng trân trọng, và đều cho là có trình độ đồng đẳng trong công việc trợ giúp tâm lí người khác. Tuy nhiên, nếu phân tích cụ thể từng kiến thức, kĩ năng mà sinh viên tâm lí học đã học, thì rõ ràng sinh viên Khoa Tâm lí, Trường Đại học Sư phạm sẽ làm việc như một giáo viên dạy tâm lí tốt hơn là làm nhà tham vấn. Cũng như vậy nếu xem xét các môn học của sinh viên Bộ môn Lâm sàng và Bộ môn Tham vấn thuộc Khoa Tâm lí học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, thì có thể nói là công việc trị liệu hay tham vấn của họ gần như là ngang nhau. Trong trường hợp này, 70% công việc của họ là giống nhau, và sinh viên hai bộ môn này có trình độ tham vấn và trị liệu gần như nhau. Sự khác nhau chút ít ở đây là sinh viên bộ môn Lâm sàng học nặng hơn về các phương pháp trị liệu và sinh viên chủ yếu đến các bệnh viện tâm thần thực tập. Còn sinh viên bộ môn tham vấn, họ học nặng hơn về các kĩ năng Tham vấn và họ chủ yếu đến các cơ sở tham vấn trong cộng đồng thực tập, và làm quen với nhiều loại hình tham vấn khác nhau (tham vấn trực tiếp, tham vấn qua thư, điện thoại, chat). Tuy nhiên, vẫn cái bằng cử nhân hay thạc sĩ tâm lí học, tốt nghiệp tại Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, xét về lâu dài, sinh viên thuộc Bộ môn Lâm sàng hay tham vấn không thể làm việc ở lĩnh vực nghiên cứu hay kinh doanh tốt như sinh viên Bộ môn Xã hội hay Quản trị kinh doanh, và điều này cũng phải nhìn ngược lại. Mặc dù sự phân hóa chuyên ngành của sinh viên mới ở dạng ban đầu, khác nhau khoảng 360 giờ học (24 tín chỉ cho mỗi bộ môn). Có thể nói, ngay đối với sinh viên trong cùng một khoa, người học chuyên ngành tham vấn và lâm sàng có thể làm cùng một công việc “như nhau” – thực hành trợ giúp những rối loạn tâm lí. Còn sinh viên các bộ môn khác trong khoa, xét theo các môn học được dạy hiện nay, thì hiệu quả công việc có thể không bằng, nếu như các sinh viên này muốn làm công việc chăm chữa tâm lí cho người có rối loạn.

2.2. Tham vấn và công tác xã hội

Mặc dù các nhân viên công tác xã hội (cán sự xã hội) truyền thống làm việc như những người bênh vực cho người nghèo và túng quẫn, nhưng ngay từ năm 1900 cách thức tiếp cận trao đổi tâm tình với người nghèo đã được Mary Richmon xem như là hình thức trợ giúp có hiệu quả và tổng kết thành phương pháp trợ giúp cá nhân. Phương pháp này đã được đưa vào chương trình đào tạo nhân viên trợ giúp làm việc với cá nhân. Tuy nhiên vẫn tồn tại sự phân biệt về lí thuyết chủ yếu giữa thạc sĩ công tác xã hội và thạc sĩ tham vấn, nhưng theo E.Neukrug (1999), hai vị trí này tương đồng nhau hơn là khác biệt nhau. Với những khoá đào tạo thêm về công tác giám sát thực hành, các nhân viên công tác xã hội có thể hoạt động như một nhà tham vấn hoặc trở thành nhân viên công tác xã hội lâm sàng được cấp phép. Tuy nhiên, vì kết quả đạt được của công tác xã hội truyền thống là mang lại sự trợ giúp cho những người bị thiệt thòi và làm việc với gia đình và hệ thống xã hội nên các nhân viên công tác xã hội thường được thuê bởi các dịch vụ cứu trợ trẻ em, các cơ quan bao cấp của chính phủ, hay trong các tổ chức cộng đồng, các dịch vụ dành cho gia đình, thực hành trong các bệnh viện, các trung tâm sức khoẻ tâm thần hay các nhà tạm cho những người vô gia cư; những người khác có thể làm việc trong vai trò của người quản lí các tổ chức dịch vụ xã hội. Nhiều nhân viên công tác xã hội làm công việc trị liệu tâm lí cá nhân và các liệu pháp gia đình trong tổ chức, mà ít làm việc như chức danh của một nhà tham vấn hay nhà trị liệu độc lập trên các đối tượng có tổn thương tâm lí. Và cho dù các nhân viên công tác xã hội được đào tạo khái quát về các kĩ thuật tham vấn nhưng họ thường không đi sâu vào lĩnh vực tham vấn nghề – lĩnh vực đòi hỏi sử dụng thông thạo nhiều hơn về các trắc nghiệm tâm lí.

3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và hiệu quả của tham vấn

3.1. Đối tượng của tham vấn

Với tư cách là một khoa học, đối tượng của tham vấn là nghiên cứu các biểu hiện “không bình thường” trong nhận thức hành vi và các nguyên nhân gây ra chúng ở các cá nhân và nhóm người có khó khăn tâm lí nhằm trợ giúp cho họ sống tốt hơn. Có thể nói, thân chủ và nan đề của thân chủ chính là đối tượng nghiên cứu và thực hành giúp đỡ của tham vấn.

Đối với lĩnh vực thực hành tham vấn, khi cá nhân hoặc một nhóm người cảm thấy có vấn đề mà không tự giải quyết được, nhưng họ lại có nhu cầu được giúp đỡ một cách chuyên nghiệp, thì họ cần đến nhà tham vấn.

Thông thường một người nói rằng họ đang có vấn đề, điều này có nghĩa là người đó đang không biết phải cảm nhận như thế nào, phải làm gì trước một sự kiện xảy ra với họ. Những kinh nghiệm, hiểu biết trước đây của họ về vấn đề đang xảy ra có thể không giúp gì được cho họ. Vì vậy họ cần đến sự giúp đỡ (có thể là nhà tham vấn chuyên nghiệp hoặc không). Trước một sự việc người này có thể cảm nhận rằng vấn đề là quá lớn, người khác thì cho rằng chẳng có vấn đề gì cả, rằng đó là chuyện vớ vẩn. Vì vậy, khi giúp đỡ thân chủ, nhà tham vấn cần tách bạch sự cảm nhận “có vấn đề” của thân chủ và sự cảm nhận “không có vấn đề” của nhà tham vấn (Vấn đề này sẽ được xem kĩ trong phần nan đề của thân chủ ở chương 3).

Cuộc tham vấn được gọi là thành công khi thân chủ cảm thấy có thể đương đầu với vấn đề của mình mà không cần đến sự trợ giúp tiếp theo của' nhà tham vấn hay lệ thuộc vào người khác.

3.2. Mục đích của tham vấn

– Mục đích chung của tham vấn

Cải tiến, củng cố (về mặt sức khỏe tinh thần) giúp thân chủ sống tốt hơn.

Ngăn ngừa, tránh không để vấn đề xảy ra tồi tệ hơn.

Giúp giải quyết vấn đề cụ thể.

Giúp thay đổi hành vi, nhân cách (làm giảm hoặc biến mất triệu chứng và phát triển các kĩ năng ứng phó, giải quyết vấn đề nhằm tạo khả năng thích nghi tốt nhất trong môi trường thân chủ đang sống). Điều này liên quan đến trị liệu tâm lí.

– Các mục tiêu cụ thể

Giúp thân chủ giảm bớt các cảm xúc tiêu cực trong hoàn cảnh khó khăn và cảm thấy thoải mái khi trò chuyện về nan đề của mình.

Giúp thân chủ tăng thêm hiểu biết về bản thân và hoàn cảnh của họ; Giúp thân chủ biết chấp nhận nan đề của mình như là đang có.

Giúp thân chủ đưa ra các quyết định lành mạnh và có khả năng xử lí được nan đề.

Hướng dẫn thân chủ thi hành các quyết định của họ và có khả năng dự phòng các tình huống tương tự xảy ra trong tương lai.

Các cá nhân khi có nhu cầu trợ giúp tùy vào các mục đích họ đặt ra mà nhà tham vấn tiến hành hoạt động và xác định thời gian công việc giúp đỡ. Mục tiêu tham vấn luôn luôn được xác định từ thân chủ và nhà tham vấn cần nắm rõ nhu cầu tham vấn của thân chủ. Với một số thân chủ, sự trợ giúp đơn thuần chỉ là giải toả cảm xúc (đạt mục đích I). Vì vậy, việc lắng nghe thân chủ giải tỏa và sử dụng kĩ năng thấu cảm để thân chủ thấy được tôn trọng, được chấp nhận là đủ. Nhưng với một số thân chủ khác, mục tiêu tham vấn không đơn thuần chỉ là giải tỏa cảm xúc, nhận biết vấn đề của mình, hay biết cách đưa ra các biện pháp đối phó, mà hơn thế nữa họ cần thay đổi hành vi. Do đó, nhà tham vấn phải dành nhiều thời gian và cân nhắc các phương pháp tiếp cận để giúp thân chủ đạt được cả bốn mục tiêu tham vấn của họ.

Thảo luận các tình huống

1. Về vấn đề ai là người xác định mục đích của cuộc tham vấn, tôi cho rằng:

a. Đó chính là trách nhiệm của khách hàng.

b. Đó chính là trách nhiệm của nhà tham vấn.

c. Đó là sự hợp tác giữa khách hàng và nhà tham vấn.

d. Cơ sở tham vấn phải quyết định mục đích tham vấn cho khách hàng.

e. ………………………………………………………………………

2. Tham vấn và trị liệu nên tập trung vào:

a. Những điều mà khách hàng đã trải nghiệm trong quá khứ.

b. Những điều khách hàng đang trải nghiệm.

c. Nhưng nỗ lực, phấn đấu của khách hàng để hướng về tương lai.

d. Bất cứ vấn đề gì mà khách hàng muốn.

e.………………………………………………………………………

3. Tôi cho rằng nhà tham vấn nên:

a. Chủ động và có định hướng.

b. Chỉ mang tính định hướng tương đối, để giúp khách hàng định hướng

c. Là người mà khách hàng muốn họ như vậy.

d. Định hướng hay không định hướng, là phụ thuộc vào khả năng tự định hướng của khách hàng.

e. ………………………………………………………………………

4. Tôi đặt mục tiêu tham vấn cho các khách hàng của tôi trước khi tiến hành việc tham vấn cho họ:

Đúng + Sai + Vừa đúng, vừa sai

Lời giải thích:……………………………………………………………

5. Những tiêu chuẩn của tôi được đặt ra ngoài quá trình trị liệu cho khách hàng:

Đúng + Sai + Vừa đúng, vừa sai

Lời giải thích:………………………………………………………………

3.3. Nhiệm vụ của tham vấn

– Nhiệm vụ chung nhất của tham vấn

Xác định vấn đề và nguyên nhân gây ra

Chẩn đoán, đánh giá, phân loại vấn đề:

– Nhiệm vụ cụ thể

Làm thư giãn cám xúc của thân chủ: Khi thân chủ bị căng thẳng bởi nan đề, nhà tham vấn làm thư giãn cảm xúc của thân chủ bằng cách lắng nghe tích cực, có sự ủng hộ và chấp nhận thái độ của thân chủ, hỗ trợ và giúp đỡ để làm yên lòng thân chủ, để họ được giải tỏa cảm xúc. Khi cần thiết, nhà tham vấn thực hiện một hệ thống giúp đỡ qua việc hướng dẫn thân chủ tìm đến các dịch vụ hỗ trợ về luật pháp, chính sách xã hội, y tế, giáo dục hoặc cung cấp thông tin liên quan đến sự hưởng lợi của thân chủ để họ được hưởng các dịch vụ hỗ trợ trong phạm vi giúp đỡ của nhà tham vấn.

Khó khăn khi thực hành tham vấn

– Không biết cách dừng cuộc tham vấn như thế nào để hiệu quả.

– Cảm thấy thất bại và khó xử khi thân chủ im lặng.

Giúp thân chủ nhận diện được vấn đề, cải thiện những suy nghĩ tiêu cực không hợp lí. Thông qua việc trò chuyện với thân chủ và những người có liên quan (nếu cần), nhà tham vấn thu thập thông tin, sàng lọc các nguyện vọng, nhu cầu của thân chủ; cung cấp thông tin để giảm thiểu những quan niệm lệch lạc, những suy nghĩ không đúng; giúp thân chủ xác định vấn đề quan trọng, phân mảng và hoạch định vấn đề; giúp thân chủ chịu trách nhiệm trước vấn đề của mình và nhận biết tiềm năng cũng như hạn chế của mình.

Giúp thân chủ đưa ra các quyết định ưu tiên: Trước một nan đề, thân chủ có thể khó xác định việc lựa chọn các giải pháp, vì vậy, nhà tham vấn có thể cùng thân chủ phân tích những khó khăn, tìm ra các giải pháp hành động và các giải pháp thay thế; giúp sàng lọc hậu quả của mỗi quyết định được đưa ra và sự thay thế các giải pháp; cuối cùng, tìm ra được các giải pháp hiệu quả. Nhà tham vấn hướng dẫn thân chủ đưa ra các quyết định hành động cụ thể và biết cách quản lí vấn đề.

Giúp thân chủ có kế hoạch thay đối hành vi: Khi các giải pháp đã được lựa chọn, nhà tham vấn khuyến khích họ thực hiện các kế hoạch họ đề ra. Giúp họ đánh giá được những thay đổi trong nhận thức, hành vi và trang bị cho thân chủ các kỹ năng sống phù hợp để có thể thích nghi với hành vi hay điều kiện mới.

3.4. Hiệu quả của tham vấn

Lợi ích mà thân chủ có được khi đi làm tham vấn hiện nay không còn là chủ đề tranh cãi ở các nước có nghề tham vấn phát triển. Các nghiên cứu của Hoa Kì trong hơn 40 năm qua về vai trò của tham vấn cho thấy, hiệu quả của tham vấn được xem xét từ việc xác định số lượng các thân chủ được cải thiện sau tham vấn. Theo Sexton (1993), kết quả nghiên cứu trên thân chủ và nhà tham vấn đã thu được những con số gần tương đương nhau ở các nghiên cứu khác nhau. Hiệu quả tham vấn cho thấy xấp xỉ 22% thân chủ có được lợi ích đáng kể, 43% có sự thay đổi vừa phải, và 27% đạt được một số cải thiện nhất định.

Đối với các quốc gia có dịch vụ tham vấn phát triển, chỉ cần thân chủ ý thức rõ nhu cầu cần được tham vấn và sẵn sàng muốn thay đổi, thì nhà tham vấn giỏi có thể đồng hành cùng thân chủ trong việc tìm kiếm nguồn năng lực từ chính bên trong con người thân chủ. Thay vì đưa ra lời khuyên hay giải quyết vấn đề cho thân chủ, nhà tham vấn sẽ hướng dẫn thân chủ tự tìm ra cách giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất trong điều kiện và khả năng của thân chủ, vì mục tiêu của tham vấn là giúp cho thân chủ trở thành người tự “điều trị” cho chính mình.

Đối với C. Rogers, hay A. Ellis, nhà tham vấn không thay đổi niềm tin của thân chủ bằng cách “tẩy não” họ, mà giúp thân chủ nhận thấy cách suy nghĩ, cảm nhận tiêu cực của thân chủ ảnh hưởng như thế nào đến hành vi của họ; nhà tham vấn giúp thân chủ nhận ra hoàn cảnh của mình và khuyến khích thân chủ đương đầu một cách chủ động với hoàn cảnh để đạt đến sự mới mẻ trong suy nghĩ và trong cuộc sống. Các nhà tham vấn tin rằng chỉ khi nào thân chủ nhận ra được việc mình là nạn nhân trong hoàn cảnh của chính mình; khi thân chủ học được cách phê phán những niềm tin, giá trị, ý nghĩ và cả sự thừa nhận của mình, trở thành người có thể kiểm soát được cuộc sống của bản thân, thì khi đó sẽ tạo nên sự thay đổi tích cực trong nhận thức và hành vi của chính thân chủ.

Có thể nói, thông qua tham vấn, nhà tham vấn có thể hướng dẫn thân chủ hoặc cách thay thế suy nghĩ không có lợi bằng suy nghĩ mang tính xây dựng, tích cực hơn. Nếu thân chủ trước đây cảm thấy khó khăn trong việc xác định và bại lộ những cảm xúc vui, giận dữ, sợ, tội lỗi…, thì việc tham vấn có thể giúp thân chủ học cách làm thế nào để bộc lộ cảm xúc tiêu cực và tự chủ hành vi. Nếu thân chủ cảm thấy khó khăn khi cần đề đạt những như cầu chính đáng của mình, thông qua tham vấn, thân chủ khám phá ra những cách hành xử mới thay thế và tự tin trong việc bày tỏ nhu cầu của mình… đó chính là hiệu quả của tham vấn.

Tuy nhiên, người ta vẫn cảnh báo rằng nếu các nhà tham vấn không thường xuyên trau dồi phẩm chất và năng lực chuyên môn thì họ có thể làm ảnh hưởng tiêu cực tới thân chủ. Mặt khác, có không ít vấn đề nhạy cảm, tinh tế mà ngay cả pháp luật cũng khó có thể chạm tới. Ví dụ: khi nhà tham vấn sử dụng một phương pháp tham vấn, hoặc một trắc nghiệm tâm lí nào đó với thân chủ, nếu nó không phù hợp, gây hại cho thân chủ thì không phải lúc nào người ta cũng chỉ ra được lỗi của nhà tham vấn.

Khám phá bản thân và thay đổi niềm tin, thói quen hành động đòi hỏi sự kiên nhẫn có kỉ luật. Tiến trình tham vấn đôi khi chỉ cần vài buổi, đôi khi cần nhiều thời gian như vài tháng, vài năm, vì vậy có một số thời điểm thân chủ sẽ cảm thấy vấn đề có vẻ “sáng sủa” hơn, tốt hơn, nhưng có những lúc có thể thân chủ còn thấy tồi tệ hơn trước khi tham vấn và đôi khi cuộc tham vấn không hề có sự tiến bộ nào.

Tham vấn bản thân nó chỉ là một công cụ mà nhà tham vấn sử dụng nhằm giúp cho thân chủ có được những kĩ năng để đương đầu với những rắc rối và thử thách, những trở ngại mà họ gặp phải trong thực tế. Nếu quá trình tham vấn thành công, thân chủ sẽ thu nhận được nhiều hơn là việc giải quyết đơn thuần một nan đề cụ thể.

Xét từ năng lực của nhà tham vấn, hiệu quả tham vấn dành cho thân chủ sẽ khó có được (nếu không nói là thất bại) khi nhà tham vấn nhìn vấn đề của thân chủ xuất phát từ kinh nghiệm bản thân để đưa ra lời khuyên; chất vấn thân chủ; thuyết phục, áp đặt ý kiến lên thân chủ hay nhà tham vấn chỉ tập trung vào nan đề của thân chủ, mà không nhìn vấn đề của họ một cách bao quát hơn, đó là con người thân chủ với những niềm tin, hành vi cố hữu trong việc giải quyết những khó khăn của họ. Những quan điểm trợ giúp sau đây sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của quá trình tham vấn.

– Đưa ra lời khuyên

Lời khuyên là sự gợi ý nên làm gì, làm như thế nào để xác định phương hướng hành động. Bất cứ ai cũng có thể đưa ra lời khuyên mà không cần học hỏi qua trường lớp. Trong khi đó, tham vấn là một nghề nghiệp, nó đòi hỏi một quá trình đào tạo căn bản có chọn lọc ở người học nhằm giúp giải quyết các nguyên nhân “gốc rễ” của vấn đề mà con người gặp phải.

Tuy nhiên, nhiều người có nan đề cần trợ giúp và ngay cả những người bình thường trong xã hội họ dễ có quan niệm rằng tham vấn là cho lời khuyên, cho hướng giải quyết. Vì vậy, nhà tham vấn thường bị hiểu nhầm như một người đưa ra những lời khuyên hoặc các gợi ý cho thân chủ đề giải quyết các vấn đề của họ (giống như cố vấn).

Quy điều đạo đức nghề trợ giúp cho rằng thân chủ là người ra quyết định và chịu trách nhiệm về kết quả hành động của họ. Vì vậy nhà tham vấn không nên bảo thân chủ làm gì và làm như thế nào.

Khi nhà tham vấn đưa ra lời khuyên hay bảo cho thân chủ cách giải quyết vấn đề, họ có thể giúp thân chủ giải thoát được sự đối mặt với những căng thẳng tạm thời. Tuy nhiên, cách này sẽ khiến thân chủ lệ thuộc vào nhà tham vấn, thân chủ sẽ không thấy được vấn đề của mình một cách thấu đáo. Về lâu dài, thân chủ khó có khả năng đương đầu với vấn đề của mình. Và quan trọng hơn, thân chủ trở nên không chịu trách nhiệm về bản thân và hành động của mình.

Việc đưa ra lời khuyên chuyển tải tới thân chủ một thông điệp rằng: “Tôi hiểu vấn đề của anh/chị và biết cách phải xử lí nó như thế nào. Anh/chị làm sao có thể giải quyết được vấn đề đó”. Khi nhà tham vấn nói thân chủ nên làm gì và làm như thế nào đã gây cho thân chủ sự thất vọng, chán nản, và thể hiện sự thiếu tôn trọng khả năng tự giải quyết vấn đề của thân chủ.

Ví dụ về một mẩu đối thoại giữa nhà tham vấn và thân chủ:

– Thân chủ: Cứ vào bữa ăn, nhìn thấy nó là tôi không sao có thể nuốt được. Tôi chỉ muốn về quê…

– Nhà tham vấn: Dù thế nào thì bác cũng phải ăn, bỏ ăn là không tốt. Bác không nên chỉ vì giận con mà hủy hoại sức khỏe của mình. Ở tuổi của bác bỏ ăn sẽ bị suy sụp sức khỏe. Bác sẽ bị ốm!

Đoạn đối thoại trên cho thấy nhà tham vấn không hiểu thân chủ, anh ta chỉ tập trung đưa ra lời khuyên, khi nghĩ rằng thân chủ không hiểu bỏ ăn ảnh hưởng thế náo đến sức khỏe con người.

Về phía nhà tham vấn, cho thân chủ lời khuyên nói lên sự chủ quan và nóng vội trong việc giúp thân chủ giải quyết vấn đề. Mặt khác, nó cho thấy nhà tham vấn không thực sự hiểu thân chủ và không tin tưởng vào khả năng của thân chủ. Các nhà tham vấn không được đào tạo thường đưa ra những lời khuyên với mục đích trấn an thân chủ. Thực chất đó chính sự tự trấn an của nhà tham vấn.

Hơn ai hết, thân chủ là người biết rõ nhất vấn đề của mình. Vì vậy, nhà tham vấn không nên đưa lời khuyên hay định hướng vấn đề của thân chủ. Tuy nhiên, trong quá trình tham vấn, việc đưa ra lời khuyên đôi khi cũng cần thiết, đặc biệt khi thân chủ không có khả năng xem xét vấn đề của mình do có rối loạn tâm lí, hay thân chủ là trẻ em… Trong tình huống này, nhà tham vấn có thể sử dụng kĩ thuật cho lời khuyên. Cần lưu ý rằng, việc nhà tham vấn cung cấp thông tin mang tính khách quan khác với việc cho lời khuyên hay bảo thân chủ làm gì. Có thể đưa ra ví dụ về cách nhà tham vấn từ chối cho lời khuyên khi thân chủ có biểu hiện lệ thuộc vào nhà tham vấn:

– Nhà tham vấn: Tôi biết chị đang cảm thấy khó khăn trong việc đưa ra một quyết định đúng đắn vào lúc này. Tuy nhiên, không ai có thể cho chị lời khuyên hay quyết định thay chị được. Chỉ có chị mới là người hiểu rõ mình thực sự mong muốn gì. Tôi sẽ cùng chị phân tích những mặt mạnh, mặt yếu của từng vấn đề. Còn lựa chọn giải pháp và thực hiện nó như thế nào là quyết định của chị. Tôi sẽ đồng hành cùng chị trong suốt quá trình tháo gỡ khó khăn để vấn đề của chị được giải quyết tốt nhất. Tôi tin tưởng vào khả năng của chị.

– Chất vấn thân chủ

Chất vấn là hỏi cặn kẽ và yêu cầu trả lời đầy đủ những điều cần tìm hiểu. Trong tham vấn, một nguyên tắc quan trọng là tôn trọng thân chủ vô điều kiện, tôn trọng thân chủ như một con người có giá trị. Thái độ chấp nhận thân chủ phải được thể hiện qua các kĩ năng trò chuyện, trong đó kỹ năng hỏi nhằm giúp thân chủ sáng tỏ vấn đề của mình, thông qua đó thân chủ ý thức và chấp nhận thực trạng mình đang có. Điều này khác với việc nhà tham vấn chất vấn để khai thác thông tin theo cách mà nhà tham vấn cho là cần phải thế để giúp thân chủ. Kĩ năng hỏi không đơn thuần chỉ là vấn đề đặt câu hỏi sao cho thu thập được nhiều thông tin, mà quan trọng hơn là không gây thêm tổn thương và không làm xáo trộn tâm can của thân chủ. Đặc biệt là không thể khai thác thông tin với giọng của một luật sư hay quan tòa.

Khi nhà tham vấn chất vấn thân chủ để có thông tin, cố gắng làm cho vấn đề của thân chủ được sáng tỏ, thì có nghĩa là về vô thức nhà tham vấn đã bộc lộ sự không chấp nhận, không hài lòng về vấn đề và con người của thân chủ. Sự chất vấn có thể còn gây ra thái độ đe doạ làm tăng lo lắng, sợ hãi cho thân chủ. Điều này làm cho thân chủ cảm thấy không được lắng nghe, không được cảm thông và như vậy sẽ dẫn đến sự phòng vệ, co mình của thân chủ trước nhà tham vấn và có thể tiến trình tham vấn sẽ khép lại!

– Chỉ tập trung vào nan đề của thân chủ

Nan đề (vấn đề nan giải) luôn xuất hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên, không phải cá nhân nào cũng giải quyết tốt nan đề của mình. Vì vậy họ có nhu cầu tìm kiếm sự trợ giúp từ nhà tham vấn. Với nhà tham vấn không được đào tạo chuyên nghiệp hoặc không có kinh nghiệm, họ sẽ chỉ tập trung vào nan đề của thân chủ mà không để ý nhiều đến con người tạo ra nan đề đó. Khi nhà tham vấn chỉ tập trung vào nan đề, điều này giống như chỉ tập trung vào một triệu chứng cụ thể. Bằng một số tác động, triệu chứng có thể tạm thời lắng xuống nhưng mầm mống của nó vẫn còn đó và khi có điều kiện nó lại tái phát. Như vậy nhà tham vấn sẽ không giúp cho thân chủ có cơ hội tự khám phá được bản thân mình, thân chủ không ý thức được con người mình có liên quan như thế nào đến nan đề. Và như vậy, lần sau anh ta lại tiếp tục lệ thuộc vào sự giúp đỡ.

Theo quan điểm của Anthony Yeo (2005), tham vấn cần tập trung vào con người thân chủ chứ không chỉ tập trung vào nan đề của thân chủ. Việc tập trung vào nan đề dễ khiến nhà tham vấn có khuynh hướng xử lí vấn đề cho thân chủ: nếu nan đề của thân chủ có nguyên nhân từ tài chính, chúng ta dễ có xu hướng giúp đỡ liên quan đến giải pháp tìm việc làm, hay hướng dẫn tìm một nguồn tài chính. Điều này có thể giúp ích cho anh ta một thời gian ngắn, nhưng chúng ta đã không quan tâm đủ để hiểu tại sao anh ta lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn về tài chính. Như vậy chúng ta sẽ không có cơ hội giúp anh ta tránh lặp lại khó khăn trong tương lai”.

– Thuyết phục, áp đặt ý kiến lên thân chủ

Thuyết phục là việc làm khiến người khác phải thay đổi theo ý của họ. Đứng trước một vấn đề, người thuyết phục nhìn vấn đề của đối tượng bằng con mắt của họ, nghĩ bằng ý nghĩ của họ và cho nó là đúng theo quan điểm của mình. Trong tham vấn, thuyết phục không đem lại hiệu quả vì nhà tham vấn đã không nhìn vấn đề của thân chủ như chính cách thân chủ nhìn, không quan tâm xem thân chủ cảm thấy gì. Nhà tham vấn khi có xu hướng thuyết phục thân chủ sẽ tin tưởng vào quan điểm và kinh nghiệm của bản thân, nên dễ phủ nhận hay bỏ qua quyết định của thân chủ. Trong khi nguyên tắc đạo đức nghề tham vấn yêu cầu nhà tham vấn không được đưa ra lời thuyết phục để thân chủ làm theo ý muốn, theo quan điểm chủ quan của mình.

Vấn đề nan giải của thân chủ chỉ duy nhất thuộc về thân chủ. Sự việc xảy ra ở thân chủ này sẽ không giống với những điều xảy ra ở thân chủ khác. Do đó, cách tiếp cận của nhà tham vấn đối với mỗi thân chủ cũng phải là cách duy nhất. Giải quyết vấn đề của thân chủ theo quan điểm của nhà tham vấn, thực chất là cách làm thoả mãn nhu cầu của nhà tham vấn. Cách lí giải một vấn đề riêng theo quan điểm của người ngoài cuộc thường dựa trên những chuẩn mực xã hội – đó là một chuẩn mực nhằm giải quyết vấn đề cho nhiều người. Trong khi tham vấn cá nhân là một quá trình linh hoạt, mềm dẻo, đòi hỏi nhà tham vấn đi cùng với thân chủ, tịnh tiến theo cảm xúc của thân chủ, chứ không phải là áp đặt ý chí, tư tưởng từ bên ngoài. Các ca tham vấn thành công chưa bao giờ được thực hiện từ sự thuyết phục, áp đặt quan điểm từ bên ngoài.

Các nhà tham vấn trên thế giới cũng đặt ra nhiều câu hỏi khác nhau liên quan đến hiệu quả tham vấn. Ví dụ như: Liệu có phải mọi vấn đề của thân chủ đều được giải quyết bằng tham vấn? Liệu dịch vụ tham vấn có được bình đẳng đối với tất cả các nhóm xã hội có lối sống và văn hóa khác nhau? Các phẩm chất đạo đức và năng lực cá nhân của nhà tham vấn thực tế ảnh hưởng như thế nào đến quá trình tham vấn? Xét trong hoàn cảnh tham vấn ở Việt Nam, khi hoạt động tham vấn chưa được quản lí chặt chẽ bởi pháp luật thì ai/tổ chức nào sẽ đứng ra bảo vệ thân chủ (người mất tiền, mất thời gian và có thể còn bị tổn thương tâm lí do làm tham vấn) và bảo vệ nhà tham vấn khi có tranh chấp? Đây là câu hỏi đáng để các ngành trợ giúp cùng quan tâm.

4. Các Hình Thức Tham Vấn

Dựa vào đối tượng, khách thể và tính chất của dịch vụ tham vấn, người ta có thể nhận diện các hình thức tham vấn khác nhau. Ví dụ, căn cứ vào đối tượng của sự trợ giúp, chúng ta có thể thấy người làm tham vấn được phân hóa về chuyên môn khá sâu, như tham vấn học đường (Các vấn đề của học sinh, liên quan đến trường học và sự trưởng thành của cá nhân); tham vấn về HIV/AIDS; tham vấn về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục; tham vấn bạo hành, tham vấn các vấn đề về lạm dụng các chất gây nghiện (như ma túy, rượu); tham vấn về hôn nhân gia đình; tham vấn tuổi già; tham vấn sức khoẻ tâm thần v.v… (Một số chủ đề trong nhóm này sẽ được trình bày sâu trong chương II – Phần nói về hoạt động tham vấn ở Việt Nam).

Các hình thức tham vấn có thể được phân loại dựa trên tính chất của hoạt động tham vấn. Với cách nhìn này, có thể chia tham vấn theo hình thức trực tiếp – Hình thức tương tác trực tiếp mặt đối mặt giữa nhà tham vấn và thân chủ. Đây là hình thức tham vấn phổ biến khi thân chủ và nhà tham vấn ngồi trong cùng một phòng. Do có thể được trực tiếp nghe và nhìn nhau (với điều kiện thân chủ không bị khuyết tật về nhìn hoặc nghe) nên hiệu quả tham vấn thu được là khá cao, không tốn thời gian và nó tạo cơ hội cho những phản hồi tức thì và hai bên nhận biết được những biểu hiện phi ngôn ngữ của cơ thể. Thân chủ trong tham vấn trực tiếp có thể là một cá nhân, một nhóm người, hay một gia đình. Hình thức tham vấn gián tiếp – tham vấn thông qua các phương tiện trung gian, như qua điện thoại, viết thư hay tham vấn trực tuyến (sử dụng mạng internet). Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một cách sơ lược nhất những hình thức tham vấn thường được sử dụng rộng rãi ở các xã hội có dịch vụ tham vấn phát triển. Ví dụ như trong các hình thức tham vấn gián tiếp thì tham vấn qua mạng internet được sử dụng khá phổ biến ở các nước có hệ thống dịch vụ intemet phát triển. Còn trong các dịch vụ tham vấn trực tiếp cả ba hình thức như tham vấn cá nhân, tham vấn nhóm và gia đình đều phát triển trên thế giới.

4.1. Tham vấn qua mạng

Tham vấn qua mạng (Online counseling) là một hình thức tham vấn gián tiếp. Nó được định nghĩa là việc thực hành nghề tham vấn và cung cấp thông tin được diễn ra thông qua mạng internet giữa nhà tham vấn và thân chủ ở hai nơi khác nhau và thân chủ tự xác định địa điểm và thời gian bộc lộ vấn đề của họ. Ngay từ khi mới xuất hiện, tham vấn mạng đã gây ra nhiều tranh cãi về tính hiệu quả cũng như tính đạo đức của loại hình trợ giúp này. Tham vấn mạng không phù hợp với những vấn đề về lạm dụng tình dục, bạo hành, rối loạn ăn uống, rối loạn tâm thần, những người có ý tưởng tự sát, giết người hay lạm dụng trẻ em (Ping field, 1999). Dù bị phản đối rất nhiều nhưng tham vấn mạng vẫn tồn tại và ngày càng phát triển hơn cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin.

Trên thế giới, dịch vụ được biết đến sớm nhất trong việc cung cấp lời khuyên về tâm thần trực tuyến là “Hãy hỏi Bác Ezra “, một dịch vụ miễn phí dành cho các sinh viên ở Đại học Cornell ở Ithaca, New York. “Hãy hỏi Bác Ezra” (đặt tên theo Ezra Cornell, người sáng lập ra Đại học Cornell) được thành lập bởi Jeny Feist, lúc đó là Giám đốc các Dịch vụ Tâm lí, và Steve Worona, dịch vụ này đã được tiếp tục thực hiện từ tháng 9 năm 1986.

Hoạt động tham vấn qua intemet với những hình thức kết nối đặc trưng bao gồm thư điện tử, nói chuyện trực tuyến, diễn đàn và loại hình khác. Từ những năm 1990, với sự xuất hiện phổ biến của intemet, trị liệu đã chuyển từ ranh giới mặt đối mặt hay qua điện thoại tới một lãnh địa mới đầu được đặt tên là “trị liệu máy tính” bởi Lago (1996), hay sau đó được biết đến nhiều hơn là tham vấn e–mail (thư điện tử), tham vấn trực tuyến, tham vấn trên web hay tham vấn internet. Cách thức giao tiếp này cũng có những ưu điểm của viết thư, ngoài ra nó còn điểm mạnh điển hình là tốc độ truyền tin, phản hồi nhanh (Goss và cộng sự, 2001). Những ưu điểm khác là khả năng gửi những tư liệu một cách nhanh chóng hay những văn bản tự viết hay điền theo mẫu, đường dẫn tới những trang web hữu ích, khả năng tiếp cận với những chuyên gia sống ở xa, duy trì liên lạc với nhà trị liệu khi đi xa khỏi nhà hay cơ quan, thời gian tùy thuộc vào nhà tham vấn và thân chủ, và có thể sử dụng biểu tượng các khuôn mặt cảm xúc để thể hiện cảm xúc của mình. Ở Hoa Kì, năm 2000 đã có tới 250 trang web tham vấn, trị liệu có tới 400 nhà tham vấn mạng.

Theo Wallbank (1997), tham vấn qua thư có những ưu điểm sau:

– Có cơ hội để bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc và giải tỏa những vấn đề tâm lí khi chúng đang lên cao trào.

– Viết thư có thể được thực hiện vào bất cứ lúc nào, như vào buổi đêm khi bọn trẻ đã đi ngủ và vợ/chồng không ở bên cạnh.

– Thư có thể viết tiếp tục sau khi đã ngừng nhiều ngày, tuần hay tháng.

– Thân chủ chủ động được thời gian.

– Giảm những cảm xúc bị kìm nén bằng cách viết ra trên giấy những suy nghĩ, ý tưởng, cảm xúc và những mối quan tâm.

– Biết rằng nhà tham vấn sẽ trả lời có thể giúp cho quá trình tiến triển của thân chủ và được bí mật.

Tham vấn trực tuyến là hình thức tham vấn mà ở đó nhà tham vấn và thân chủ thực hiện quá trình tham vấn qua các hình thức kết nối trực tuyến của mạng internet. Có thể là phòng chat (chat room), nói chuyện qua hệ thống truyền tải âm thanh (voice chat), hình ảnh (webcam), hoặc có thể kết hợp cả ba hình thức trên. Chat là một sự phát triển xa hơn của tham vấn mạng. Nó cho phép truyền cả văn bản, lời nói và hình ảnh giữa những người sử dụng máy tính. Để duy trì mức độ an toàn tương đối nhằm tránh người khác vào chat room trong suốt quá trình trị liệu, chỉ những người trong một danh sách riêng những thành viên được mời bởi Yahoo Group mới có thể tham gia như là nhà trị liệu hay thân chủ duy nhất. Điểm lợi của hệ thống này là nhà trị liệu và thân chủ có thể nói chuyện như khi gọi điện. Dịch vụ này có phí hoặc miễn phí và cho phép khách hàng nói chuyện,với nhà trị liệu từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Thực chất tham vấn qua điện thoại hay qua internet chỉ khác với tham vấn trực tiếp về phương tiện truyền tin và cách thức truyền tải thông tin. Thân chủ có thể kết nối được với nhà tham vấn mạng khi họ có kết nối internet và có thể truy cập được vào hệ thống tham vấn mạng (Ross, 2000).

Ưu điểm của hình thức tham vấn trực tuyến nói riêng và tham vấn qua mạng internet nói chung là tính khuyết danh của thân chủ. Để tham gia tham vấn trực tuyến, thân chủ chỉ cần đăng nhập một tài khoản với một bí danh mà không cần phải khai báo danh tính thực của mình. Vì vậy, thân chủ có thể tự bộc bạch được những điều mình muốn chia sẻ mà ít có sự phòng vệ hơn. Tính vô danh giúp khách hàng giảm cảm giác xấu hổ khi phải bộc lộ bản thân. Mặt khác, sự tiện lợi còn thể hiện ở chỗ khách hàng có thể gặp nhà tham vấn bất cứ lúc nào họ đăng nhập vào trang web mà không cần hẹn trước. Những thông tin trao đổi trực tuyến có thể được lưu giữ lại một cách dễ dàng. Điều này có thể giúp ích cho quá trình theo dõi ca của nhà tham vấn và quá trình giám sát.

Tuy nhiên, đây cũng là một mặt hạn chế. Thân chủ có thể lưu thông tin về ca tham vấn và bị lộ. Khi đó, tính bảo mật thông tin cũng không được đảm bảo và nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà tham vấn.

Tuy nhiên, tham vấn trực tuyến cũng có những điểm hạn chế. Mặt hạn chế dễ thấy nhất của tham vấn trực tuyến là không nhìn thấy được nhau. Nhà tham vấn chỉ có thể dựa vào các từ được viết ra của khách hàng mà không thể đọc được ngôn ngữ cơ thể, không thể xem khách hàng thể hiện cảm xúc như thế nào. Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ intemet thì người ta có thể sử dụng webcam (phương tiện truyền hình ảnh qua internet) để hỗ trợ cho quá trình trao đôi thông tin giữa nhà tham vấn và thân chủ. Ngoài ra, việc viết thông tin có khả năng gây ra sự rò rỉ, phát tán thông tin một cách không chủ định. Các nhà tham vấn mạng có thể không có nhạy cảm về văn hóa của khách hàng (Frame, 1997).

Hình thức tham vấn trực tuyến cần rất nhiều thời gian để có thể hiểu được vấn đề thực sự của khách hàng. Do nhà tham vấn không thể quan sát được những cử chi phi ngôn ngữ của thân chủ, nên lời nói của nhà tham vấn và thân chủ đôi khi khập khiễng, hỏi một đằng trả lời một nẻo. Mặt khác, nhà tham vấn không kiểm soát được trạng thái tâm lí của người được giúp đỡ – họ đang cảm thấy gì, đang còn muốn viết tiếp hay đã dừng lại rồi. Tham vấn mạng ít có sự ràng buộc, thân chủ dễ dàng dừng hoặc ngắt quá trình làm việc trong khi tiến trình giúp đỡ có thể cần nhiêu thời gian hơn nữa.

Hình thức tham vấn trực tuyến khó sử dụng những kĩ thuật trong tham vấn, trị liệu. Ví dụ như các bài tập thư giãn, bài tập tưởng tượng… Nếu sử dụng voice chat hay webcam có thể hỗ trợ nhà tham vấn trong quá trình hướng dẫn thân chủ nhưng nó vẫn có những cản trở về mặt giao tiếp. Tính bảo mật của internet cũng là nhược điểm cần nhắc tới. Nó có thể được cải thiện bằng cách sử dụng mật mã, nhưng người ta không thể mở tài liệu nếu không được cung cấp mật mã. Tuy nhiên, những người sử dụng dịch vụ tham vấn qua mạng cũng cần được cảnh bảo về nguy cơ bị đánh cắp thông tin bởi các hacker cho dù đã được bảo mật.

Năm 2003, nhóm các nhà nghiên cứu Heinlen, Welfel, Richmond & Rak đã tìm hiểu về mức độ tuân thủ hướng dẫn thực hành nghề nghiệp mà Hội đồng Bảo đảm Trách nhiệm về Tham vấn (NBCC) đã đưa ra 138 trang web có cung cấp dịch vụ tham vấn trực tuyến và qua thư điện tử. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ tuân thủ hướng dẫn nghề nghiệp là rất thấp và không có trang web nào tuân thủ một cách đầy đủ toàn bộ các hướng dẫn đã đề ra. Tám tháng sau, nghiên cứu này tiếp tục được tiến hành, thì trong đó có 37 trang web không còn tồn tại.

4.2. Tham vấn nhóm

Giáo trình này được viết theo quan điểm của tham vấn cá nhân. Vì vậy chúng tôi không giới thiệu tham vấn cá nhân là gì, các kĩ năng và quy định triển khai thế nào? Hình thức tham vấn cho thân chủ là các cá nhân, như tham vấn nhóm – thân chủ là một nhóm người và tham vấn gia đình – thân chủ là cả gia đình sẽ được chúng tôi giới thiệu vài nét sơ qua để sinh viên có cái nhìn tổng thể về các hình thức tham vấn khác nhau đang được ứng dụng trong thực hành trợ giúp tâm lí hiện nay.

Tham vấn nhóm là một hình thức tham vấn trực tiếp, theo đó, các vấn đề của các cá nhân sẽ được thể hiện trong phạm vi một nhóm gồm nhiều người có cùng vấn đề giống nhau được giúp đỡ. Tham vấn nhóm hướng tới một số mục đích sau:

– Giúp các thành viên giải quyết các vấn đề và các mâu thuẫn trong cuộc sống của họ.

– Giúp các thành viên phát triển sự tự nhận thức và có những thay đổi về nhận thức, cảm xúc.

– Phát triển mối quan hệ hài hòa (trao, nhận những vấn đề tốt xấu) giữa các thành viên trong nhóm hoặc giữa các thành viên với nhà tham vấn nhằm mục đích tăng cường sự tham gia của họ trong nhóm.

– Giáo dục các thành viên của nhóm để hoàn thiện bản thân.

Tham vấn nhóm có một số ưu điểm nổi trội là:
1/ Tạo điều kiện để thân chủ có những tình cảm gắn bó, sự chấp nhận, có những cơ hội để hiểu người khác; cơ hội để quan sát, bắt chước và được cổ vũ về mặt xã hội, cơ hội cho việc trải nghiệm những vấn đề chung của mọi người. Những điều này cho phép mỗi thân chủ trong bối cảnh nhóm sống lại những quan hệ, những cảm xúc tiêu cực, nhận diện lại nó và điều chỉnh.
2/ Bồi dưỡng được ý thức hợp tác trong cộng đồng, tập thể ở thân chủ. 
3/ Tạo ra những thay đổi về nhận thức, cách cư xử và sự phát triển tính cách của mỗi thân chủ
4/ Hỗ trợ thân chủ trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề.

Cũng như các phương pháp tham vấn khác, tham vấn nhóm cũng có những nhược điểm riêng của nó, như: không thích hợp với một số người nhút nhát, tự ti; những người không có khả năng diễn đạt ngôn ngữ, sợ hãi khi giao tiếp: Tham vấn nhóm đòi hỏi nhà tham vấn phải có trình độ cao trong việc tổ chức hoạt động nhóm thì việc tham vấn mới có hiệu quả. Mặt khác, phương hướng đặt ra cho nhóm và tác động của tham vấn tùy thuộc nhiều vào triết lí của nhà tham vấn, vào nhân cách của nhà tham vấn. Nhìn chung, tham vấn nhóm thích hợp cho những thân chủ có vấn đề tâm lí do nghiện các chất kích thích, do béo phì, những thân chủ có khủng hoảng lứa tuổi và khủng hoảng khác hoặc có stress và những chấn thương tâm thần.

Một trong những yêu cầu cho sự thành công của tham vấn nhóm là nhà tham vấn phải biết cách điều hành nhóm. Cụ thể những thao tác dưới đây cần được thực hiện đối với một nhà tham vấn nhóm:

– Nhà tham vấn phải nắm vững các giai đoạn phát triển của nhóm để có thể đưa ra những cách thức tác động phù hợp, hiệu quả với từng giai đoạn đó.

– Nhà tham vấn cần lên kế hoạch trước cho mỗi buổi sinh hoạt nhóm, như phải tự trả lời được câu hỏi: Hôm nay nhóm sẽ làm gì? Làm như thế nào? Và hiệu quả sẽ đạt được là gì?

– Nhà tham vấn còn ghi lại bầu không khí tham vấn để đánh giá mức độ vấn đề và lựa chọn cách thức tác động. Ví dụ: không khí nhóm đang vui nhưng khi bắt đầu nói về lạm dụng thì mọi người trong nhóm trầm xuống không ai nói gì nữa. Nếu không khí trầm quá thì có thể tạm thay đổi chủ đề và cho họ chơi trò chơi.

– Trước khi vào tham vấn nhóm, nhà tham vấn bắt buộc phải thảo luận những quy định sinh hoạt dựa trên ý kiến số đông để giúp họ cảm thấy họ thuộc về nhóm.

– Cần phải duy trì kỉ luật, quy tắc chặt chẽ ngay từ đầu như đến đúng giờ, để đồ đạc đúng nơi quy định… đế tiến hành tham vấn nghiêm túc và thuận lợi hơn.

– Trong tham vấn nhóm, sinh hoạt vui chơi cũng là một hình thức trị liệu. Vui chơi trong sinh hoạt nhóm nhằm giải toả cảm xúc tiêu cực, tăng cảm xúc tích cực, tạo mối quan hệ gắn bó, đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm. Nhóm tham vấn thường có kí hiệu riêng khi bắt đầu sinh hoạt nhóm (tham vấn nhóm), những trò chơi hay những kí hiệu khác như tiếng vỗ tay, gõ bàn, hay một tiếng động nào đó cần được khởi động để các thành viên trong nhóm nhằm hiểu là buổi tham vấn bắt đầu.

Tham vấn nhóm được thực hiện theo một tiến trình nhất định, thường trải qua ba giai đoạn: thành lập nhóm, sinh hoạt nhóm (hay còn gọi là tham vấn nhóm) và giai đoạn cuối cùng là kết thúc tham vấn nhóm. Quá trình tham vấn nhóm đòi hỏi nhà tham vấn thành thục một số kỹ năng như sau:

– Kĩ năng điều hành nhóm: Nhà tham vấn yêu cầu nhóm ngồi quây lại để các cá nhân có cơ hội giao tiếp, mặt đối mặt và chịu trách nhiệm với nhau nhiều hơn. Nhà tham vấn cần ghi lại biểu đồ chỗ ngồi để có thể thấy được một quy luật nào đó: hai người nào hay ngồi với nhau, người nào ngồi chỗ nào thì thấy an toàn… Khi điều hành, nhà tham vấn chú ý tính năng động của nhóm, tức là mối quan hệ không chính thức trong nhóm. Người ta có thể không ngồi với nhau nhưng lại ủng hộ, nâng đỡ nhau. Trong quá trình điều hành nhóm, nhà tham vấn không được bày tỏ thái độ, ý kiến của cá nhân dù thân chủ đúng hay sai, không giải thích mà chỉ nói lại những điều khách quan. Ví dụ: “Chị D đã có ý kiến như thế này… bây giờ thì chúng ta sẽ nghe ý kiến của một bạn nữa”. Nhà tham vấn cần phải làm cho các thân chủ hài lòng, an tâm về sự công bằng của mình.

– Kĩ năng lắng nghe tích cực: Nhà tham vấn là người nhạy cảm với ngôn ngữ, giọng điệu và những điệu bộ không thể hiện thành lời quanh những thông điệp của các thành viên trong nhóm. Nhà tham vấn lắng nghe tích cực bao gồm cả việc bày tỏ sự phản hồi khách quan và tóm lược vấn đề của thân chủ.

– Kỹ năng kết nối: Nhà tham vấn giúp các thành viên nhận ra những nét tương đồng hay cách biệt giữa các thành viên trong nhóm. Khi muốn một người dừng lời nói lại thì phải nhắc lại ý của họ để họ được thoả mãn cảm giác người khác đã hiểu ý của mình. Trước khi muốn một người ít nói đưa ra ý kiến của mình, nhà tham vấn phải chuẩn bị cho họ: “Sau khi nghe anh A nói thì ta sẽ nghe chị B nói”.

– Kĩ năng ngăn cản: Với kĩ năng này, nhà tham vấn không cho phép các thành viên không tập trung, phá phách hoạt động của nhóm bằng cách tiếp tục hướng vào họ hoặc ngăn cản họ độc quyền trong đàm thoại.

– Kĩ năng đặt câu hỏi xoay vần: Khi đặt câu hỏi, nhà tham vấn cần giữ cho nhiều người cùng trả lời một vấn đề để duy trì vấn đề đang xem xét. Sau khi đã có 2 đến 3 người cùng nói thì nhà tham vấn có thể tóm lại các ý kiến, chọn ra 3 đến 4 nhóm vấn đề rồi thảo luận, lựa chọn nguyên nhân, đặt ra cách giải quyết.

– Kĩ năng trấn áp và khích lệ: Trong một nhóm có thể có những người rất tự tin, nói rất nhiều, muốn chứng tỏ cái tôi của mình, cũng có thể có những người tự ti, chỉ gật, lắc đầu, ít nói. Nhiệm vụ của nhà tham vấn là phải làm cho người nói nhiều ít nói lại và người nói ít nói nhiều lên. Khi có một người nói công kích mà không ai để ý, nhà tham vấn có thể bỏ qua nhưng nếu mọi người đều chú ý thì trong nhóm đang có vấn đề và cần phải giải quyết vấn đề ấy. Lúc đó, nhà tham vấn phải dừng mục tiêu định làm, sau đó để mọi người nói và thảo luận về vấn đề vừa xảy ra của nhóm.

– Kĩ năng tóm lược và tổng hợp: Kĩ năng tóm lược có thể được tiến hành sau khi kết thúc ý kiến của từng thành viên để giúp nhóm tập trung vào vấn đề trọng tâm hoặc nhà tham vấn sử dụng khi các cá nhân chuyển chủ đề của cuộc thảo luận. Kĩ năng tóm lược và tổng hợp giúp nhóm nhận thức về những gì xảy ra, nhận thức việc nhóm và các thành viên nhóm đã thay đổi như thế nào trong quá trình tham vấn khi kết thúc mỗi buổi tham vấn hoặc kết thúc quá trinh tham vấn nhóm.

Những phẩm chất mà một nhà tham vấn nhóm cần có là khả năng thấu cảm tốt, cởi mở, nhanh nhạy và có khả năng đối mặt. Những phẩm chất này giúp hỗ trợ thành viên của nhóm tự đương đầu và chia sẻ vấn đề của mình trước các thành viên khác và giúp nhà tham vấn làm chủ quá trình tham vấn nhóm. Để thực hiện tham vấn nhóm hiệu quả, nhà tham vấn cần phải đáp ứng những yêu cầu như: Chú ý tới những biểu hiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của các thành viên nhóm và có phản hồi kịp thời. Lắng nghe một cách tích cực và sử dụng các kĩ năng giao tiếp nhầm rút ra các cảm nhận, suy nghĩ của các thành viên nhóm. Có khả năng can thiệp kịp thời khi có vấn đề bất ngờ phát sinh trong sinh hoạt nhóm. Nhà tham vấn khuyến khích sự tham gia tích cực của các thành viên nhóm nhưng không “cưỡng ép” họ và biết cách lựa chọn thành viên một cách phù hợp vào trong các nhóm. Một số chỉ dẫn khi làm việc trong nhóm:

– Cần thiết lập nội quy sinh hoạt của nhóm.

– Số người khoảng từ 6 đến 12 và cán bộ tham vấn.

– Thời gian khoảng từ 1,5 giờ đến 2 giờ/một tuần, tham vấn nhóm khoảng từ 12 đến 16 lần cho một vấn đề.

– Có thể chia nhóm theo giới tính.

– Phòng tham vấn yên tĩnh, rộng để có thể tổ chức trò chơi hoặc di chuyển dễ dàng. Sử dụng các sinh hoạt tập thể, trò chơi, hoạt động nghệ thuật để các thành viên cảm thấy thư giãn và thoải mái khi tham gia vào tham vấn nhóm. Khi tham vấn, các thành viên ngồi vòng tròn để tăng cường giao tiếp với nhau.

– Khi các thành viên chia sẻ vấn đề của mình, có thể tạo nên không khí tâm lí nặng nề trong nhóm. Do đó, nhà tham vấn giúp các thành viên giữ bình tĩnh và tôn trọng ý kiến, xúc cảm của nhau. Nhà tham vấn tôn trọng ý kiến của từng người, tránh bình luận, phê bình ý kiến của ai đó. Nhà tham vấn tăng cường bầu không khí bạn bè và tạo sự cởi mở giữa các thành viên qua việc chấp nhận và không phán xét thái độ của các thành viên.

– Công nhận các xúc cảm và kinh nghiệm mà các thân chủ đang trải nghiệm.

– Cán bộ tham vấn cần có những “thủ thuật” để đối phó với những tình huống gây gỗ, không tôn trọng người khác; dỗi, bỏ họp giữa chừng; làm việc riêng của một số thành viên. Không được ngắt quãng khi có người đang nói hoặc chia sẻ thông tin và không ép buộc ai đó phải nói khi họ chưa sẵn sàng.

– Cán bộ tham vấn phải nhận thức được các giai đoạn khác nhau của sự phát triển nhóm trong quá trình tham vấn (giai đoạn hình thành, xung đột, hoà giải, và kết thúc).

– Nhắc các thành viên giữ kín những thông tin được chia sẻ trong nhóm của mình.

– Lồng ghép các trò chơi trong quá trình tham vấn nhóm.

– Cần ghi chép lưu giữ hồ sơ các cuộc tham vấn: ghi các hoạt động, sự tham gia, cảm xúc của từng trẻ.

Tham vấn theo quan điểm nhân văn – hiện sinh thường sử dụng bối cảnh nhóm để tạo điều kiện cho thân chủ có khả năng nhập vai, cảm nhận được sự ủng hộ của nhóm để họ thấy không đơn độc (vì nhiều người cùng hoàn cảnh như họ). Việc mỗi cá nhân cảm nhận được sự nâng đỡ của nhóm hình như làm họ dễ dàng trình bày những tình cảm hoặc những khó khăn của mình. Tham vấn nhóm có thể tạo nên giai đoạn đầu tiên để thân chủ tái hoà nhập vào cuộc sống thực tế, nó cho phép thân chủ đương đầu với những người khác và đòi hỏi các thân chủ phải có sự hiểu biết và kính trọng lẫn nhau. Chính vì vậy, tham vấn nhóm đã hỗ trợ rất đắc lực cho tham vấn cá nhân trong thực tiễn tham vấn trên thế giới.

4.3. Tham vấn gia đình

Mọi cá nhân đều tồn tại trong một môi trường gia đình và văn hoá gia đình. Hoạt động của gia đình ảnh hưởng sâu sắc tới từng cá nhân, vì thế, nhà tham vấn khó có thể tham vấn riêng biệt cho từng cá nhân để giải quyết vấn đề của cá nhân, mà không có sự kết hợp tham vấn với các thành viên trong gia đình và nhìn nhận vấn đề của thân chủ trong mối quan hệ với những người khác, vấn đề khác trong gia đình họ.

Tham vấn gia đình là một hoạt động nhằm giúp các gia đình cơ cấu hài hoà những mối quan hệ để các thành viên gia đình phát huy vai trò mới của họ và tạo nên sức mạnh của cả gia đình.

Một cá nhân tự nhận ra rối nhiễu của mình và đi làm tham vấn là một chỉ định cho tham vấn cá nhân. Nhưng, tham vấn gia đình là một phương pháp tiếp cận khác với tham vấn cá nhân. Tham vấn gia đình là quan trọng khi vấn đề của cá nhân không còn là của riêng họ. Cá nhân có rối loạn tâm lí thường liên quan đến các thành viên khác trong gia đình, chủ yếu liên quan đến cha mẹ trẻ. Vì vậy tham vấn trẻ em có thể liên quan đến tham vấn gia đình (trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em bi bạo hành gia đình…), hay tham vấn về mâu thuẫn gia đình.

Mục tiêu cụ thể của tham vấn gia đình tập trung vào một số điểm sau:

– Giúp cơ cấu lại hệ thống tương tác trong gia đình nhằm tăng cường khả năng thích ứng của gia đình trước tác động của môi trường.

– Giúp các thành viên trong gia đình thay đổi những cách ứng xử cố hữu của các thành viên để cải thiện bầu không khí bế tắc trong gia đình.

– Giúp các thành viên trong gia đình sử dụng những tiềm năng mới và tăng cường khả năng đối mặt với căng thẳng, xung đột.

Các vấn đề của gia đình thường có nguyên nhân từ chính gia đình. Bản chất của tham vấn gia đình là giúp cho các thành viên trong gia đình hiểu và chấp nhận thực tế đang xảy ra trong gia đình họ, giúp họ tự giải quyết các vấn đề của chính họ.

Khi tham vấn gia đình, nhà tham vấn cần biết về tình trạng bầu không khí tâm lí của gia đình thân chủ thông qua một số chỉ báo sau: Các thành viên trong gia đình có sự tin tưởng tuyệt đối với nhau? Không lên án hay đối lập nhau ở mức độ nào? Các thành viên trong gia đình có làm bận tâm lẫn nhau vì những vấn đề không chính đáng không? Mức độ duy trì sự bền vững nhưng mềm dẻo và có những ranh giới nhất định giữa các thành viên trong gia đình như thế nào? Tất cả những mối quan hệ trên có thể được phân tích qua sơ đồ Cây gia đình (còn gọi là Cây phả hệ).

Sau khi trò chuyện với các thành viên trong gia đình, nhà tham vấn sơ đồ hóa các mối quan hệ gia đình qua Cây gia đình để có thể nhìn nhận vấn đề của gia đình một cách bao quát hơn, như Ai thân với ai? Ai ghét ai? Ai mất? Ai còn? Tình trạng hôn nhân?…

Mục đích của việc giải thích Cây gia đình là nhấn mạnh đến quan điểm coi các mối quan hệ trong gia đình thường ảnh hưởng tới cách nhận thức và hành vi ứng xử của mỗi cá nhân. Trong đó nguồn gốc gia đình cỏ ảnh hưởng lớn đến sự trưởng thành của mỗi con người.

Trong tham vấn gia đình, nhà tham vấn hành động như một “người trung gian” để tạo ra bầu không khí mà tất cả các thành viên trong gia đình, đặc biệt là trẻ em, đều muốn bày tỏ suy nghĩ của mình về hoàn cảnh hiện tại của gia đình, và nêu lên mong muốn mà không cảm thấy bị đe dọa hay sợ lộ bí mật của gia đình. Ngoài những kĩ năng chung thường sử dụng trong tham vấn, như quan sát, lắng nghe, thấu cảm, đặt câu hỏi khuyến khích, thách thức đối đầu, điều phối sự tham gia của các thành viên và kĩ năng giao nhiệm vụ cho các thành viên…, nhà tham vấn có thể sử dụng một số chiến lược cho sự tái cấu trúc gia đình:

– Cơ cấu lại vai trò của các thành viên: Nhà tham vấn giúp các thành viên nhìn nhận lại hành vi theo vai trò của các cá nhân trong gia đình để giúp các thành viên thích ứng với các hành vi mới. Kỹ năng này xuất phát từ quan điểm là hiểu biết của gia đình về hành vi cá nhân cần được thay đổi cho thích ứng với hoàn cảnh của gia đình. Bằng cách đặt câu hỏi xoay vần về vai trò của từng thành viên, nhà tham vấn có thể giúp các thành viên tự do suy nghĩ và hướng đến những hành động khác trước. Cách hiểu mới này tạo ra những khả năng có thể đi đến giải pháp thích hợp hơn cho vấn đề “cũ” của gia đình.

– Định hướng rõ ràng và giao nhiệm vụ: Định hướng vào nhiệm vụ là những yêu cầu tường minh để gia đình có những hành vi cụ thể. Một số định hướng bao gồm việc yêu cầu các thành viên trong gia đình thảo luận về vướng mắc hoặc chỉ ra mặt tiêu cực của sự thay đổi. Nhiệm vụ có thể là yêu cầu cha mẹ không ra bất cứ quyết định về vấn đề nào cho con cái trước khi vấn đề được đưa ra thảo luận.

– Kĩ thuật làm mất cân bằng: Kĩ thuật này được sử dụng nhằm tạo ra sự mất cân bằng trong gia đình khiến cho các mô hình triệu chứng bị đảo lộn. Điều này đòi hỏi nhà tham vấn có những giả định khi đặt mình về phía một thành viên hoặc đứng về phía một thế hệ để gia đình đi đến cách hiểu mới về vấn đề của gia đình thân chủ.

– Sử dụng thuật ngữ “Tôi”. Nhà tham vấn yêu câu các thành viên bắt đầu trò chuyện bằng mệnh đề “Tôi”, thay vì nói “Chúng ta”, hay “người ta”. Câu nói với chủ ngữ “Tôi” thành công nhất là không đưa ra những yêu sách cụ thể hay đổ lỗi, nó mở ra các tình huống thảo luận khiến người khác tiếp tục bộc lộ: nó giúp cho việc tách biệt cái cảm giác với cái thực tế để làm rõ vấn đề. Mệnh đề tôi là một phương pháp đặc biệt có hiệu quả để giáo dục các thành viên trong gia đình trong suốt quá trình tham vấn. Chỉ sử dụng theo mẫu và do vậy khiến người dùng có thể lúng túng khi mới sử dụng.

Dưới đây là những việc nhà tham vấn cần làm trong tham vấn gia đình đó là:

– Làm sáng tỏ mục tiêu tham vấn gia đình và vai trò của nhà tham vấn gia đình trong buổi đầu tiên; nắm được nhu cầu của mỗi người trong gia đình.

– Gặp gỡ với từng thành viên trong gia đình để làm sáng tỏ vấn đề của họ. Khi gặp thành viên nào đó, cần thông báo cho các thành viên khác biết.

– Không đưa ra các giải pháp nên làm gì và làm như thế nào và không phán xét về những trải nghiệm cảm xúc của các thành viên.

– Sử dụng kĩ năng thấu cảm và các kĩ năng giao tiếp để nắm được suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của các thành viên trong gia đình.

– Làm việc như một người đồng minh hoà giải và tập trung vào điều thân chủ nói, chứ không làm việc theo kiểu chuyên gia chỉ tập trung vào những hiểu biết của mình.

– Tạo điều kiện cho các thành viên bày tỏ sự giận dữ và tránh chỉ trích phán xét họ.

– Là người lắng nghe, khởi xưởng, gợi ý và không tự suy diễn về động cơ bên trong của mọi người.

– Lôi kéo mọi người cùng trò chuyện, mời những người ít nói phát biểu, hạn chế người nói nhiều, người gây áp lực. Không đứng về phía ai đó trong gia đình.

Tham vấn gia đình có một số ưu điểm sau: Giúp cho mỗi thành viên trong gia đình hiểu biết hơn về bản thân, về các thành viên khác và về những hành vi ứng xử trong mối tương quan với người khác từ đó tạo ra sự thay đổi, cải thiện về môi trường trở nên lành mạnh, giảm nguy cơ duy trì và phát hiện hành vi rối nhiễu. Tham vấn gia đình đặc biệt hữu dụng trong trị liệu cho trẻ em hay vợ/chồng mà nguyên nhân phát sinh và duy trì rối nhiễu là từ gia đình. Ngoài ra, tham vấn gia đình hiệu quả sẽ tạo được môi trường thuận lợi hơn cho thân chủ có thể nhanh chóng bình ổn và “lớn lên”.

Tuy nhiên, có một số nhược điểm của tham vấn gia đình thường nhận thấy như: Không dễ thực hiện do trong thực tế không phải thành viên nào trong gia đình nào cũng nhận thức đúng đắn về yêu cầu của tham vấn gia đình. Vì vậy, muốn tham vấn gia đình đạt hiệu quả cao, nhà tham vấn cần phải nắm vững những đặc trưng cho các giai đoạn phát triển của đời sống giạ đình, và cần có nhận định về gia đình thân chủ đang ở trong giai đoạn nào, như giai đoạn gia đình với những người độc thân trẻ tuổi (giai đoạn tiền hôn nhân); giai đoạn cặp vợ chồng mới cưới; giai đoạn sinh và nuôi dạy con cái; giai đoạn giữa hôn nhân; giai đoạn các thành viên rời bỏ gia đình (con cái lần lượt dựng vợ gả chồng) và giai đoạn cuối của gia đình (sự ra đi của cha mẹ). Ở mỗi giai đoạn này, nhà tham vấn cần nắm rõ các sắc thái chuyển đổi tình cảm của các thành viên và các mối quan hệ trong gia đình.

Các bước của một buổi tham vấn gia đình được thực hiện như sau:

– Hoan nghênh tất cả mọi người đã đến, đã có mặt đông đủ ở nhà (lưu ý sự vắng mặt của ai đó, nếu sự vắng mặt cứ “ngẫu nhiên” xảy ra thì phải có cuộc gặp riêng để biết vấn đề có liên quan với họ là gì).

– Giải thích cho các gia đình mục tiêu của tham vấn, vai trò của mình (với tư cách là nhà tham vấn gia đình) và gia đình có thể trông đợi gì ở mình. Hỏi xem họ cảm thấy thế nào khi tham gia vào buổi gặp gỡ này. Đưa ra những mong muốn của buổi tham vấn và nói với họ về tính bí mật của buổi tham vấn.

– Bày tỏ sự quan tâm đến từng người (hỏi họ làm nghề gì, trẻ em học trường nào bằng thái độ bình dị…), làm chủ các cử chỉ phi ngôn ngữ của mình.

– Tôn trọng mọi người bằng cách cho phép họ trình bày mà không “sốt ruột”, cho phép mọi người bộc lộ xúc cảm giận dữ, thận trọng trong đặt câu hỏi với trẻ em.

– Sáng tạo khi đặt câu hỏi trong các tình huống im lặng ban đầu khi câu chuyên đã trôi chảy, không nên đặt câu hỏi làm cắt mạch thông tin của họ.

– Dành nhiều thời gian để kết thúc cuộc tham vấn đầu tiên (hỏi xem họ có muốn nói gì thêm trước khi kết thúc).

– Sử dụng kĩ năng tóm lược trước khi kết thúc xâu chuỗi các vấn đề. Cố gắng diễn đạt vấn đề theo hướng tích cực, ít bi quan, nhấn mạnh đến sự thành công của buổi gặp mặt này để mang lại hy vọng rằng sẽ có những thay đổi theo hướng tích cực trong gia đình.

Trong tham vấn gia đình, nhà tham vấn cần làm cho các thành viên nhận thức rõ rằng bất kì kĩ thuật giao tiếp nào cũng phải mất một thời gian nhất định để có thể thích nghi với những lối ứng xử và trách nhiệm mới của các thành viên trong gia đình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro