Come Ti Chiami?

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


             / Tên cậu là gì? /
______
Lại là cảm giác tức ngực đến khó thở. Tôi ho khan một tiếng, lặng lẽ liếc nhìn ra bên ngoài nhà. Người phụ nữ đã lớn tuổi đang thả mình trên chiếc ghế lười, khẽ lắc lư theo giai điệu du dương cùng với điếu thuốc trên tay. Như thể cả mình đang chìm đắm vào những cảm xúc riêng tư nào đó.

- Boulevard.

Chợt nghe một giọng nói vang lên, tôi đưa mắt nhìn theo. Bắt gặp bờ vai gầy gò, gương mặt non nớt bám đầy bụi, cả những vết bầm tím tưởng chừng sẽ chẳng bao giờ biến mất được. Cậu ta không hề để ý ánh mắt lạnh lùng, còn có chút thương hại của tôi, khóe môi nứt nẻ vểnh lên.

- Là bài hát ấy. Nó nổi lắm, tôi vẫn thường nghe cùng dì Laura trước đây.

Tôi im lặng nhìn gương mặt lạ lẫm sau những vết bẩn xấu xí ấy, ánh mắt đen ngòm như mực, chẳng thể nhìn thấy ánh sáng ở đâu vẫn long lanh một cách lạ thường. Tôi nhíu mày, ngay cả ở trong hoàn cảnh này, nó lại có thể sáng lên chẳng vướng chút muộn phiền nào như thế.

- Cậu tên là gì?

Từng cử chỉ của cậu ta dường như nhanh nhạy hơn, bàn tay dính đầy đất và nhơ nhuốc đưa tay lên trước ngực, như thể một thói quen đã có từ lâu.

- Otis.

Otis nói với tôi, gương mặt vẫn lộ ra những nét vô hại, như một con cừu ngây thơ trước một con sói hoang dã. Chú ta chẳng hề sợ hãi hay tuyệt vọng dù cuộc đời của chú ta chỉ còn một màu tối tăm. Đôi mắt đen giữ được nguyên vẹn tia sáng ấy như vẫn còn ôm lấy hi vọng về những điểu tốt đẹp.

Tôi không nói gì, đứng dậy và bước ra ngoài. Có lẽ chưa phải bây giờ, nhưng sẽ có lúc cừu ta nhận ra thế giới mà cậu ta đang sống vốn chẳng còn chút ánh sáng nào, tất cả đều bị màn đêm thăm thẳm bao lấy. Otis chắc đã nhận ra sự lạnh lùng, sự trái chiều về quan điểm của cả hai như đang kéo dài khoảng cách, tạo nên một bức tường vô tận, ngăn giữa tôi và cậu.
   
Thế là cậu ta chẳng nói thêm lời nào nữa, từ từ lui về, ẩn mình trong góc tường tối tăm, lẩn vào sắc màu u ám của những người xung quanh.

Tôi tới bên Rayan. Gã cũng là một kẻ canh gác giống như tôi. Nhưng thân hình gã lại vạm vỡ, bắp tay cuồn cuộn cơ bắp, gương mặt lúc nào cũng hằn học như thể một con thú dữ luôn chực cắn bất cứ thứ gì dám lại gần nó. So với một kẻ cao và gầy nhẳng như tôi thì quả là khác một trời một vực.

Có lẽ gã cảm nhận được có người đến gần, đôi ngươi khẽ chuyển động trong khóe mắt như mở như không. Nhìn thấy tôi, gã liền chuyển dịch cái thân hình quá khổ của mình sang một bên, chừa lại ít khoảng trống. Tôi ngồi xuống phần đầu chiếc ghế mà gã đã chừa lại.

- Sao không ngồi trông đống hàng bên kia, chạy tới đây làm gì?

Gã hỏi. Cái giọng hằn học, khó nghe của gã muôn đời không thay đổi, dù là đang nói với ai đi chăng nữa..

Tôi rút một cây thuốc từ trong bao của gã, châm lửa. Khói thuốc xông thẳng vào miệng, lên mũi, cảm tưởng như nó còn leo lên cả não bộ, khống chế hệ thần kinh của tôi. Ban đầu thì hơi có cảm giác cay cay và nghẹt thở, nhưng đối với một người đã quen hút thuốc như tôi thì điều đó chẳng là gì so với cảm giác dễ chịu và gây nghiện mà nó mang lại. Dường như các giác quan của tôi đã quen với sự có mặt của vị khách ngoại lai, rồi lại lưu luyến chỉ muốn mời họ sang chơi mãi.

- Thỉnh thoảng cũng phải có vài phút thư giãn chứ, đúng không?

Tôi thả làn khói vẫn đọng lại trong miệng ra, cười với Rayan:

- Khi nào thì bắt đầu giao dịch?

- Không biết.

Gã nói.

- Bà chủ nói tới một thời điểm nào đó sẽ đưa chúng tới Benevento.

Benevento, một thành phố khá sung túc nằm ở phía đông bắc Napoli. Vậy là chúng tôi sẽ tiến hành các cuộc giao dịch ở đó.

Tôi thở dài.

- Mong là càng nhanh càng tốt. Tôi đã phải thức trắng để trông đám người đang chìm trong nỗi tuyệt vọng kia, nó nặng nề lắm.

Không biết là Rayan có đang nghe những lời lải nhải của tôi hay không, đôi mắt gã hướng về chỗ xa xăm nào đó rồi khẽ “hừ” một tiếng. Tôi cũng mặc kệ gã đang nghĩ gì và cứ nói về những chuyện lặt vặt thường ngày, không có đầu đuôi, hay thậm chí là chẳng mang nội dung gì, cho đã cái miệng của mình. Đôi khi người ta làm một việc rỗng tuếch và vô nghĩa nào đó chỉ để đêm dài bớt tẻ nhạt. Tôi đâu có ý tâm sự với gã.

Vậy là phía sau khu vườn giáp cạnh căn nhà cũ kĩ, xuất hiện một khung cảnh khá kì lạ. Một kẻ lầm lì cứ ngồi nguyên một tư thế và nhìn về đâu đó rất lâu, bên cạnh là một kẻ rảnh rỗi cứ nói và nói không ngừng, bất kể đối phương có đang nghe hay không.

Một hồi, tôi thấy mỏi, lại đứng dậy và trở về căn phòng căn phòng tối tăm, không có lấy một ánh đèn với đám người u ám kia. Mà, cũng không hẳn là tất cả. Tôi lại nhớ đến tên nhóc mặt mày dính đầy bụi bẩn, và cả đôi mắt đen láy như một đêm nhiều mây, chẳng có ánh sao nào, thế nhưng nó vẫn sáng lên lạ kì.

Cậu ta tên là gì ấy nhỉ? Tôi tự hỏi, lần mò đống kí ức mơ hồ của mình.

Otis, phải rồi, cái tên như có hàm ý thắp lên ngọn lửa của niềm hi vọng, ở đây lại là tên của một kẻ đi lạc vào thế giới đã bị Chúa lãng quên.

Tôi bước vào căn nhà cũ kĩ đầy bụi, cánh cửa sổ và cửa sắt đã han gỉ. Những bức tường bằng đá xếp chồng lên nhau lởm chởm, cách một bức tường là phòng bếp, tôi đoán vậy. Căn nhà này đã bị bỏ hoang từ lâu, nhưng điều đáng ngạc nhiên ở đây là nhưng đồ vật nội thất trong này được giữ nguyên cả, chỉ là tất cả đã dính một tầng bụi rất dày đến mức chẳng thể nhìn ra màu sắc ban đầu vốn có của chúng nữa.

Tôi mở cánh cửa phòng bên trái, thắp một ngọn đèn và đi theo mấy bậc tam cấp lát đá xuống tầng hầm. Nơi này, khoảng vài chục năm trước có lẽ đã được làm nơi trú cho gia đình để lánh khỏi những cơn bão lớn. Cũng giống như chỗ ở của những nô lệ khi xưa, phòng này nằm áp sát dưới cầu thang, sâu dưới mặt đất và rất ẩm thấp. Một nơi rất thích hợp để cất giữ một lô hàng mới thu được.

Tất nhiên, lô hàng tôi nói đến ở đây là người, món hàng hóa quý giá rất được yêu thích của những kẻ có tiền. Dù biết việc này là phạm pháp, nhưng ở cái thời đại mà thế giới, bao gồm cả chính phủ nước Ý vẫn tập trung đưa đất nước trở thành một cường quốc mà chẳng hề quan tâm cái xã hội không có ấm no, bình yên, đang mục ruỗng và thối nát thậm tệ. Kinh tế khủng hoảng, phạm pháp để tìm con đường sống cũng là điều dĩ nhiên thôi.

Tôi không nhìn thấy bà Kim đâu nữa, có lẽ bà ta đã đứng dậy và đi nơi khác khi tôi đang ngồi với Rayan. Bà ta chắc là đã chán phải ngồi một chỗ và đi đâu đó khuây khỏa rồi. Làm bà chủ nhàn nhã thật đấy.

Tôi suy nghĩ vu vơ rồi lại quay trở lại chỗ cũ, nơi căn hầm tối tăm và lạnh lẽo. Những kẻ ở đây có lẽ vừa phát giác ra sự hiện diện của tôi, bầu không khí trở nên căng thẳng hơn bình thường. Tôi đảo mắt một vòng, tìm kiếm cái kẻ tên Otis, nhưng rồi nhận lại chỉ là một màu tối thăm thẳm. Tôi tới bên cạnh chiếc máy phát nhạc đã cũ, bật bừa một bài hát hát và ngả lưng lên chiếc ghế tựa.

- Boulevard. Xem ra anh cũng thật sự thích bài hát này rồi nhỉ?

Otis không biết từ đâu xuất hiện bất chợt lên tiếng. Phản ứng đầu tiên của tôi là ngồi thẳng dậy rồi nhìn cậu ta với vẻ nghi hoặc. Bởi mới vừa nãy khi tôi tìm cậu thì chẳng thấy bóng dáng đâu, thế mà một lúc sau cậu ta lại xuất hiện ở ngay trước mắt tôi được.

- Cậu từ đâu tới?

- Corniglia. Đó là một làng chài nằm ở vùng Địa Trung Hải.

Địa Trung Hải. Tôi thầm nhắc lại. Từ nơi đó tới chỗ của chúng tôi là hàng ngàn ki lô mét. Nếu tôi nhớ không nhầm thì đoàn của chúng tôi chưa từng lui tới nơi đó, vì xa, và vì đó là địa phận an ninh vô cùng nghiêm ngặt.

- Vậy tại sao cậu lại bị bắt tới đây được nhỉ?

Ánh mắt Otis trở nên mơ hồ, con ngươi đen láy di chuyển không ngừng, là biểu hiện của trạng thái mà người ta gọi là lúng túng.

- Tôi không nhớ.

- Cậu không nhớ?

Tôi nhíu mày, quan sát cậu ta. Khuôn mặt khoảng chừng mười bốn, mười lăm tuổi cúi gằm xuống, đôi tay đan vào rồi lại rời ra, không nói gì. Nhìn cậu ta có vẻ là không nhớ gì thật.

Chứng mất trí nhớ sao?

Tôi trầm ngâm. Để ý thì có lẽ tôi cũng giống cậu. Những kí ức của tôi về ngày bé, gia đình, quê hương và cả tên thật của tôi đều đã biến mất. Tôi chẳng thể nhớ lại bất cứ thứ gì trước đó. Nếu phải diễn giải ra thì nó giống như trò chơi xếp hình. Trí nhớ là những mảnh ghép, nhưng người chơi lại không biết phải bắt đầu từ đâu, sắp xếp thế nào. Kết quả, nó trở thành một mớ hỗn độn không thể nào hiểu được.

Còn nhớ cái giây phút đầu tiên khi tôi tỉnh lại ấy, căn phòng, con người, những lời nói, và cả chính bản thân tôi, mọi thứ đều lạ lẫm. Tôi đã phải tự đặt một câu hỏi cho mình rằng: Tôi là ai?

Thế nhưng dù có hỏi ai hay tự lục lọi kí ức trong đầu, tôi vẫn chẳng nhận được thông tin nào. Những gương mặt đầu tiên tôi nhìn thấy khi tỉnh lại chính là những người đã phát hiện ra tôi và đưa tôi về - gia đình Albanese. Nhà Albanese là một gia đình nông thôn khá đầy đủ ở nơi ấy. Họ có hai người con, một căn nhà thoáng mát, một thửa ruộng và một khu vườn nhỏ. Ông bà Albanese nói với tôi rằng họ có thú vui điền viên nên đã tìm một nơi có đồng và núi để sống. Tôi đã ở đó, sống cùng nhà Albanese, cùng thiên nhiên, cùng những con dê vẫn luôn được chăn béo tốt. Thỉnh thoảng, tôi sẽ xuống làng mua một vài món đồ. Có những lúc tôi lại đi chăn dê cùng Matteo, cậu con trai cả của nhà Albanese. Tôi có thể thỏa thích ngắm nhìn bầu trời trong xanh hay đàn dê chậm rãi gặm cỏ, hay Matteo ngồi trên tảng đá và nghịch những ngọn cỏ lau không biết chán. Tôi nghĩ, đây hẳn là một cuộc sống tuyệt vời.

Nhưng rồi mọi thứ chẳng thể nào cứ yên bình mãi được. Một chiều chủ nhật tháng 11, năm 1980, cơn động đất khủng khiếp ở phía Nam nước Ý đã trở thành một tiếng sét hãi hùng đánh ngang tai khi tôi đang ở Luân Đôn như gợi ý của ông Albanese, để phụ giúp công việc cho một người bạn của ông.

Hôm ấy, bầu trời hơi âm u. Tôi trở về căn nhà nhỏ nằm bên sườn đồi, ngôi nhà vốn luôn vang lên tiếng nói chuyện và tiếng cười của ông bà Albanese thì nay lại chỉ còn là một đống gạch đá đổ nát. Còn nhà Albanese đã biến mất. Tôi dường như càng cảm nhận được rõ ràng hơn cái cảm giác chẳng mấy tốt lành. Tôi vào làng, cái khung cảnh nhộn nhịp ồn ã của người dân, các gian hàng đủ các loại từ thịt, bánh, phô mai cho tới mấy món đồ chơi cho bọn trẻ con đều chẳng còn nữa. Thay vào đó là một cảnh tượng hỗn loạn trong làn khói đen mù mịt. Vẫn còn những con người vẫn ngồi trên vỉa hè, hay lề đường, trong một trạng thái mà tinh thần gần như mất hết. Tôi có thể nhận ra một vài gương mặt tôi biết trước đó, nhưng không có nhà Albanese.

Tôi vào một căn hầm rộng và sâu dưới lòng đất, có lẽ đây là nơi được dùng để lánh nạn tạm thời cho người dân. Trong này đã có rất nhiều người, từ trẻ con, thanh niên, trung niên và cả những ông bà cụ đã già khụ. Trên mặt họ đều biểu hiện chung một cảm xúc: Sợ hãi. Tôi đảo mắt nhìn quanh nhưng không thấy bóng dáng ai của nhà Albanese, lại bước vào sâu trong góc tường và ngồi xuống, lặng lẽ nhìn ngọn lửa đang cháy phập phùng nhưng chẳng thể sưởi ấm cho tất cả mọi người ở đây.

- Cậu là Finn sống cùng nhà Albanese trên đồi phải không?

Chợt có ai đó bắt chuyện khiến tôi bừng tỉnh, quay sang nhìn. Là một người đàn ông ngưỡng bốn mươi, đôi mắt xanh đục và đôi lông mày rậm đang nhìn tôi với vẻ nghi hoặc. Lời nói của gã vang lên khiến tất cả mọi người đều chú ý tới, nhìn tôi bằng đôi mắt dò xét. Có người hô lên.

- Tôi nhận ra cậu ấy, đúng là Finn vẫn luôn sống cùng nhà Albanese rồi.

- Có chuyện gì vậy, thưa các vị?

Tôi hỏi, dùng ánh mắt bình tĩnh để nhìn những đôi mắt chất chứa sự hỗn loạn, và cả cái gì đó xấu xa đang từ từ nhen nhói.

- Albanese, cái nhà khốn nạn ấy! Bọn chúng đã chạy trốn ngay khi trận động đất sắp đến. Lũ người hèn hạ đó đáng lẽ ra sẽ phải chi trả một số tiền để đảm bảo cuộc sống cho những người dân ở đây cùng với những gia đình giàu có khác.

- Nhưng giờ nhìn xem! Bọn chúng đã ôm hết tiền chạy đi thay vì giúp đỡ những người khác, thật là một lũ khốn nạn mà!

Trước những lời nói đầy cay nghiệt và giận dữ ấy, tôi vô cùng hoang mang. Nào là khốn nạn, rồi hèn hạ, Nhà Albanese sao? Dù tôi không mấy tin tưởng rằng họ sẽ thật sự nhẫn tâm như vậy.

- Tôi rất lấy làm tiếc, thưa các vị.

Những người ở đó nhìn tôi, ánh mắt nghi ngờ.

- Chỉ vậy thôi sao?

- Vâng? - Tôi trả lời.

- Ra vậy, cậu sống cùng một gia đình như nhà Albanese nhưng có vẻ như cậu chẳng nhận được một đồng tiền nào cả nhỉ?

Những lời lẽ đã dần lạnh lùng hơn.

- Nếu vậy thì rời khỏi đây đi. Nếu cậu biến đi, có lẽ những người thân đã mất của chúng tôi sẽ phần nào thanh thản hơn. Nhưng trước khi đi, hãy để tiền của cậu lại.

- Sao cơ?

Tôi còn cho rằng mình nghe nhầm, những người dân này sao có thể nói ra những lời như thế. Nhưng không, tôi đã đúng.

- Để ví tiền lại, rồi cút!

Thiên tai và loạn lạc có lẽ đã làm cho tâm địa con người ta trở nên xấu xa hơn. Kể cả những người nông dân bình thường tốt bụng như họ cũng thế.

Sau khi giành được túi tiền, tài sản duy nhất trên người tôi,  những người đàn ông nọ liền ném tôi ra khỏi căn hầm.

Bên ngoài, chỉ có lửa và khói mù mịt, cùng với những căn nhà đã đổ nát, khói bụi và những tiếng than khóc khiến mắt tôi cay xè lại, làn khói đen bốc lên gần tới đỉnh đồi, che lấp gian nhà nhỏ với mảnh vườn và trang trại nơi tôi đã từng sinh sống, chỉ còn lại một màu đen thăm thẳm bi ai. 

Rốt cuộc thì vì sao, vì lí do gì khiến cho lòng dạ con người thay đổi như vậy?

Chỉ mới vài tháng trước đây thôi, những người trong căn hầm kia vẫn còn nói cười niềm nở với tôi, và cả nhà Albanese đã mất tích kia cũng đã đối xử với tôi rất tốt.

Giờ thì tôi bị bỏ rơi.

Mọi thứ trong mắt tôi dần trở nên âm u hơn trong màn sương đen dày đặc, bên tai vẫn còn nghe thấy tiếng hỗn loạn, và cả tiếng khóc thương cho những con người đã thiệt mạng trong trận động đất.

Phải rồi, là do xã hội này, thời đại này. Một thế giới tàn bạo và dửng dưng với những tệ nạn và thiên tai, chẳng có nơi nào có thể dung túng cho một kẻ lòng dạ lương thiện cả. Trong thời đại đen tối này, cuộc sống tốt đẹp sẽ chẳng bao giờ tồn tại. Làm một kẻ lương thiện sẽ chỉ bị ruồng bỏ rồi đón nhận một cái chết thảm thương mà thôi.

Vậy nên tôi muốn làm một kẻ khốn nạn trong mắt lũ người kia, đổi lại, sẽ không còn bị ai bỏ rơi nữa.

Tháng Ba năm 1981, tôi gặp được đoàn buôn nô lệ của bà Kim rồi trở thành một kẻ làm việc cho bọn chúng. Nhưng đối với tôi, nó không phải là việc xấu, chỉ là một công việc làm ăn có hời mà thôi.

- Anh dậy rồi à?

Tiếng của Otis vang lên trong căn phòng yên ắng khiến tôi bừng tỉnh và quay lại thực tại. Có vẻ như tôi vừa thiếp đi và mơ thấy những kí ức xa xôi trong quá khứ, về cái ngày mà tôi vẫn còn là môt kẻ thật thà, tốt bụng giống như tên nhóc đang ở trước mặt tôi đây.

Bài Boulevard ban đầu đã được thay bằng một bài hát khác từ bao giờ. Tôi nhìn ra ngoài, ánh sáng mặt trời đã chói chang hơn so với trước đó.

- Đã quá trưa rồi à?

Tôi hỏi. Otis gật gật đầu. Hình như từ lúc tôi thiếp đi đến giờ cậu ta vẫn ngồi nguyên vị trí đó, vẫn tư thế đó. Nếu là bình thường, hẳn là sẽ nhân cơ hội này mà bỏ đi, hoặc là nhân cơ hội này chạy trốn chứ nhỉ? Dù tôi nghĩ cậu ta không có cái gan ăn cắp chìa khóa trên người tôi đâu.

- Cậu không thấy sợ tôi à?

Cậu ta lắc đầu.

- Không hẳn, tôi chỉ cảm thấy anh cứ như đang cố gồng mình thể hiện rằng mình rất đáng sợ ra cho người khác xem vậy.

Tôi nhíu mày, như thể phát hiện ra một điều gì đó mới mẻ lắm. Otis hẳn là người đầu tiên nói những điều như vậy với tôi, như vừa phá bỏ lớp tự vệ của một con vật bị thương đang cố bảo vệ mình.

- Nói vậy tức là cậu không sợ tôi sao? Cho dù tôi là đồng lõa của lũ người đã bắt cóc cậu?

Tôi hỏi bằng giọng giễu cợt. Otis nhìn tôi, như đang suy nghĩ, rồi lắc đầu.

- So với cái thế giới xấu xa này thì cậu tốt bụng lắm đấy, tôi rất quý điều đó. Nhưng thôi nói chuyện với tôi bằng cái giọng thương hại đó đi.

- Tôi đâu có thương hại anh. Tôi chỉ muốn nói những gì mà mình thấy thôi.

- Vậy cậu thấy tôi là kẻ cố tình làm mình trở nên đáng sợ sao?

Otis gật đầu.

- Chết tiệt thật!

Những lời Otis nói dường như đã đâm trúng vào tim đen tôi, như nói rằng lớp vỏ bọc vô tâm bất cần mà tôi đã tạo dựng bấy lâu nay trông thật giả tạo trong mắt của một kẻ lương thiện như cậu ta. Thế nhưng tôi lại thích thú điều đó một cách kì lạ, với cả người thiếu niên có tâm hồn lương thiện nhưng lại có những suy nghĩ sâu sắc mà tôi chẳng thể ngờ tới.

- Tôi đi tìm chút gì lót bụng đã.

Tôi nói rồi đứng dậy, phủi phủi cái quần ống rộng đang bám đầy bụi, căn hầm này bẩn thật đấy. Đột nhiên tôi bắt gặp ánh mắt đen láy kia, chậm rãi di chuyển như đang lặng lẽ đấu tranh điều gì đó trong lòng. Khóe miệng cậu ta cứ chuyển động lên xuống, như muốn nói lại thôi.

- Có muốn ăn chút gì đó không?

Bước vào căn bếp đã bám một mảng bụi dày, xung quanh là những bức tường đá đã xuống cấp, lạnh lẽo. Dù đang là buổi chiều nhưng lại có cảm giác tối tăm ảm đạm như đã chuyển từ ngày sang đêm.

Lương thực cho cả đoàn vốn đã được cất sẵn ở đây. Tôi đến bên góc tường có chiếc bàn nắp cuộn, lấy chiếc chìa bằng đồng cũ ra, vặn khóa và mở nắp bàn lên. Phía bên trong là một chiếc tải rất to, với một ổ bánh mì và mấy chai nước suối. Tôi lấy bánh mì và nước, lén rót thêm ít sữa - thứ mà chỉ có bà chủ mới được dùng vì nó quá ít ỏi - sau đó đóng nắp bàn lại rồi quay trở lại căn hầm.

Tôi đã phải tự hỏi mình rằng tại sao lúc đó lại ngỏ ý lấy thức ăn cho cả cậu ta, dù phần thức ăn của mỗi người chúng tôi vốn đã rất ít. Nhưng đó chỉ là một tình huống ngẫu nhiên và tôi chỉ muốn lấy đồ ăn cho một kẻ gầy guộc yếu đuối như cậu, chỉ đơn giản vậy thôi.

- Anh lấy cho tôi như thế có sao không? Không sợ bị quở trách à?

Otis với lấy chiếc bánh mì tôi đưa, cắm cúi gặm nhưng vẫn không quên tôi đang ngồi bên cạnh.

- Chắc là anh cũng đói rồi nhỉ, anh ngủ cả một ngày rồi mà. Đây, tôi không ăn hết đâu.

Otis nói và bẻ đôi cái bánh mì trên tay rồi đưa một nửa cho tôi. Câu nói nghe thật tốt bụng, dù tôi mới là người đã trích phần ăn của mình chia cho cậu ta. Nhưng tôi vẫn thản nhiên nhận lấy và cắn một miếng. Mùi vị dở tệ, có vẻ đã được để ở đó lâu rồi nên chiếc bánh cứng đơ lại, gãy vụn ra ngay trong miệng tôi. Vậy mà Otis lại ăn ngon lành, tôi bỗng có phần đồng cảm với cậu trai này. Cậu ta hẳn đã bị bỏ đói rất lâu rồi.

- Ô, sao anh không ăn đi chứ nhỉ?

Otis bắt đầu để ý đến việc tôi chỉ trân trân cầm miếng bánh mì trên tay, có lẽ bây giờ cậu ta mới để ý được vì vừa ăn hết nửa bánh mì kia.

- Tôi thấy không đói nữa.

Tôi đáp. Tôi không thể nào tiêu hóa chiếc bánh cứng như vậy được dù cũng đang đói, nếu không đêm nay tôi sẽ chết mất. Otis nghe vậy, không nói gì nữa. Cậu ta ngồi xuống, đưa tay nhặt mấy mẩu bánh mì rơi vãi với vẻ tiếc nuối. Không hiểu sao tôi lại có cảm giác không nỡ nhìn như vậy, trông cậu ta thật đáng thương khi nhặt những mẩu bánh mì rơi vãi. Dường như cơn đói đã làm cho cậu ta trở nên ngu ngốc hơn.

- Ăn cái của tôi đi.

Tôi đưa nửa phần còn lại cho Otis. Gương mặt cậu ta lập tức bừng sáng, gật gật đầu và với ngay lấy miếng bánh mì tôi đưa. Nhìn thái độ của cậu ta, tôi lại thấy hài lòng. Có lẽ ấn tượng về Otis trong tôi đã phần nào tốt hơn.

Tôi lấy chai nước bên cạnh dốc một hồi để làm tan đi cơn đói trong bụng.

Đã ba tuần trôi qua. Dưới căn hầm tối, tôi đã có một vài sự thay đổi khó có thể tin được. Chẳng hạn như tôi đã bớt hút thuốc hơn một chút, không đến chỗ Rayan làm phiền gã để giết thời gian nữa. Tôi nghĩ chắc là vì bên cạnh tôi đã có một mối quan tâm khác, đó là Otis. Dường như tôi đã bắt đầu hứng thú những câu chuyện mà cậu ta kể về ngày bé, cái hồi mà cậu vẫn còn nô đùa bên những con sóng xô nhau vào bờ, cùng với đàn chim hải âu phía xa xa, và cả những người dân chài chất phác tốt bụng. Cả những câu chuyện của cậu về gia đình, cha cậu luôn ra biển vào sáng sớm và trở về lúc chiều muộn, với một lưới đầy những con cá vảy bạc lấp lánh quẫy đuôi tung tóe. Mẹ cậu rất hiền hậu, bà ở nhà làm tròn trách nhiệm của một nội trợ, rồi thỉnh thoảng trong lúc đan chiếc áo hay chiếc khăn len bên lò sưởi, bà sẽ kể cho cậu nghe về những câu chuyện thần thoại thiêng liêng về biển cả. Dì Laura là một người giúp việc trong nhà cậu, dì là một người có đầu óc mơ mộng, thích những thứ lấp lánh, và cả câu chuyện bạch mã hoàng tử. Có những khi, dì bật những bài hát nhẹ nhàng lên và nhảy trong phòng khách của nhà cậu. Cậu còn kể về căn phòng của cậu, nơi cậu tự tin khoe mấy nắp chai in những hình thù kì lại mà cậu cho rằng chúng rất quý giá dạo ấy. Căn phòng cậu lúc nào cũng thoang thoảng mùi hương của hoa Begonia, loài hoa ưa thích của mẹ cậu. Otis vẫn còn nhớ rất rõ những kí ức ấy, giống như đó là những điều mà cậu ta luôn nâng niu trân trọng vậy. Duy nhất chỉ có việc vì sao bị bắt đi là cậu ta không nhớ.

Tôi đã bắt đầu hiểu tại sao Otis lại chẳng hề cảm thấy tuyệt vọng ở thực tại như thế, bởi vì cậu ta đã từng có một khoảng kí ức tươi đẹp nên cậu ta chẳng còn gì để hận Chúa đã bỏ rơi cậu ta nữa. Điều đó giống như một loại chấp nhận mọi thứ vậy.

- Chúng ta sẽ bắt đầu lên đường tới Benevento tối mai.

Bà Kim nói rành rọt với chúng tôi, giọng không to không nhỏ, không có cảm xúc, không có lên giọng, đó là một mệnh lệnh rõ ràng không thể khước từ.

Mọi thứ đã bắt đầu chuyển động rồi, một mối làm ăn lãi hời đang chờ tôi phía trước, tôi lại sắp được nghỉ ngơi và chìm đắm vào những điếu thuốc, những chai Chivas, những bản nhạc và cả những vũ nữ nóng bỏng điên loạn trên sàn nhảy.

Nhưng không hiểu sao, lần này tôi thấy khác quá!

Tôi không thể hình dung nó ra sao, một cảm giác kì lạ cứ nhen nhói trong lòng tôi, và bao quanh nó là cái tên: Otis. Tôi nghĩ, hẳn tôi đã phần nào đồng cảm hơn với Otis, về một cuộc sống tốt đẹp hơn mà đáng lẽ cậu ta nên có. Otis có lẽ đã gieo thêm một mầm giống hi vọng vào tâm trí tôi, về một nơi nào đó trên thế giới này vẫn còn tồn tại những niềm vui và hạnh phúc.

Nhưng không, tôi sẽ không thể bản thân dễ dàng lay động như thế. Tôi biết rõ rằng mình không nỡ để Otis, một kẻ có tâm địa thật sự tốt bụng, phải hứng chịu sự tàn nhẫn dửng dưng của thế giới. Nhưng nó chỉ nên là một suy nghĩ trong đầu tôi mà thôi.

- Ở Benevento có ổn không? Bà tìm được mối làm ăn nào đáng tin cậy à?

- Không chỉ đáng tin cậy, mà còn cực kì đáng tiền.

Cuộc hội thoại của bà chủ Kim và một tên tên khác trong đoàn vang lên ngay khi tôi vừa định vào bếp lấy thêm nước uống. Chần chừ một lúc, tôi quyết định nán lại để nghe.

- Ồ, lí do gì mà bà lại chắc nịch như vậy?

- Đó là một tên điên khùng lắm tiền, Demis ạ.

Kim đưa điếu thuốc đang cháy dở lên miệng, một đoạn, bà ta nói tiếp.

- Hắn hứa sẽ trả một cái giá hời cho ta nếu như ta bán toàn bộ lô hàng thu được đợt này cho hắn.

- Toàn bộ sao?

Demis nói với giọng khó tin. Tôi cũng vậy. Trên đời này có một kẻ lắm tiền đến thế ư? Toàn bộ lô hàng này cũng đáng giá cả gia tài của một điền chủ. Cho dù hắn ta có là kẻ cực kì giàu có đi nữa thì đời nào lại cần nhiều nô lệ tới vậy chứ?

- Nghe nói hắn là một nhà khoa học điên với sở thích giải phẫu cơ thể người. Cần nhiều vật thí nghiệm là phải rồi.

Bà Kim nhả làn khói xám xịt từ điếu thuốc trong miệng ra, giọng khàn khàn.

Giải phẫu cơ thể người? Thú vui? Thật quá khủng khiếp, tôi thậm chí còn không dám hình dung ra hắn sẽ làm gì với Otis nữa. Không thể để cậu ta rơi vào tay một kẻ như hắn được.

- Bà Kim, tại sao chúng ta lại giao dịch với một kẻ bệnh hoạn như vậy?

Bà ta nhìn tôi, không biết đang suy nghĩ gì đó. Vài giây sau, bà ta thản nhiên trả lời.

- Đừng phản ứng thái quá như thế, Finn.

Tôi định nói tiếp, nhưng rồi rùng mình vì ánh mắt bà ta nhìn tôi như thể nhìn thấu những suy nghĩ của tôi bây giờ vậy. Tôi đang làm gì vậy chứ?

- Được rồi.

Tôi rời đi. Đúng vậy, tôi cần phải minh mẫn lên. Đây chỉ là một công việc làm ăn mà thôi.

Nhưng. . .tôi vẫn muốn tiếp tục nghe những câu chuyện Otis kể về thời thơ ấu với biển cả, những người xung quanh và sở thích lạ lùng của cậu. Không hiểu sao tôi lại thấy thật hứng thú với điều đó, dường như sâu trong con người tôi cũng cảm nhận được cảm giác bình yên.

12 giờ đêm.

Thời điểm kết thúc một ngày, với ngày mới chẳng thể biết trước. Thời điểm định mệnh thay đổi số phận của nàng Cinderella trong truyện cổ tích. Dù thế nào cũng có thể nhận ra, đó là giờ báo hiệu cho sự thay đổi của mọi thứ.

- Otis, cậu đâu rồi?

Tiếng thì thầm của tôi vang lên trong căn hầm tối nhưng rất rõ ràng. Đôi mắt tôi đảo quanh căn phòng rồi chợt dừng lại khi phát hiện ra Otis. Cậu ta ngáp một cái dài rồi ngẩng mặt lên nhìn tôi.

- Có chuyện gì thế?

- Đi, tôi đưa cậu rời khỏi đây.

Có lẽ cái sự tò mò lẫn hứng thú trước những câu chuyện mà Otis kể, những điều mà tôi thấy đồng cảm một cách kì lạ kia đã chiến thắng những suy nghĩ vô cảm của tôi. Trở thành một mầm mống hi vọng gieo rắc trong lòng, rằng đâu đó trên thế giới tăm tối này vẫn còn tồn tại những điều tốt đẹp.

Otis dường như không tin được vào những gì mình vừa nghe. Cậu mở to mắt, lắp bắp hỏi lại.

- Anh nói gì cơ? Anh không mê ngủ đó chứ?

- Tôi nghiêm túc.

Giọng điệu tôi bắt đầu trở nên khẩn trương.

- Nhanh lên trước khi quá muộn.

Mùa đông thật lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tôi lấy chiếc khăn len quấn lên cổ và đưa cho Otis một cái. Cậu ta đứng lặng chừng vài giây rồi mới nhận lấy chiếc khăn.

Tôi đoán cậu ta chỉ tin tôi có một nửa mà thôi.

Chúng tôi rời khỏi căn nhà cũ, bước trên mặt đất đông cứng lại vì sương tuyết, gió lạnh thổi vào khiến lông tóc tôi dựng đứng.

Tôi đã quyết định bỏ trốn. Thật khó tin làm sao. Dường như đến bây giờ tôi vẫn còn bất ngờ trước quyết định của mình lại được thực hiện mau đến vậy. Chắc là vì đêm nay chẳng thấy Rayan canh gác ở ngoài, một cơ hội lí tưởng để chạy trốn.

- Đi về phía trước, khoảng nửa tiếng nữa sẽ có một đoàn xe cứu hộ đi ngang qua. Chỉ cần lên chiếc xe đó, chúng ta sẽ trốn thoát thành công.

Tôi nói với Otis về kế hoạch của mình. Đúng vậy, chúng tôi đã sắp thoát được rồi.

Tôi đã nghĩ vậy.

Đột nhiên bên tai tôi nổ ầm với tiếng súng vang trời. Tôi lập tức quay đầu lại và bắt gặp bóng dáng của bà chủ đang nhìn tôi với sát ý lạnh lẽo.

- Bắt bằng được, còn không thì giết.

Lời bà Kim vang lên cùng với tiết trời lạnh lẽo lúc nửa đêm làm tôi bất giác run bật. Đằng sau là vô số những ánh đèn đang ngày càng tiến gần hơn. Tôi bắt đầu hoảng loạn vì chẳng thể ngờ bà ta lại phát hiện nhanh đến như vậy. Tôi kéo Otis phía sau và bỏ chạy.

Cho tới khi tạm thời cắt đuôi được bọn chúng, tôi thở dốc. Otis chợt hỏi.

- Hướng ra con đường là hướng Đông?

- Đúng vậy.

Tôi trả lời. Otis suy nghĩ gì đó rồi vẽ ra một tấm bản đồ, có lẽ là phương hướng. Một lát sau, cậu ta nói với tôi.

- Nếu bây giờ chúng ta một người chạy theo hướng Đông Bắc, một người chạy theo hướng Đông Nam, có lẽ sẽ chạy thoát an toàn mà không phải đụng mặt với đám người kia.

- Vậy là tách nhau ra ư?

Tôi không vừa ý. Nếu như một trong hai bị bắt thì sao?

- Hai người cùng đi quá nổi bật. Anh tin tôi đi, tôi sẽ chạy thoát.

Nhìn ánh mắt đen láy không hề dao động nửa giây của Otis, tôi vô thức gật đầu. Có lẽ tôi sẽ thử tin, vì nếu thất bại ở đây thì chỉ có cái chết, hoặc là đau đớn hơn cái chết mà thôi.

Tôi chạy theo hướng Đông Bắc, Otis đã nói đúng. Nếu chạy theo hướng này thì sẽ an toàn hơn nhiều. Tôi thuận lợi chạy đến đường cái. Nhưng khi chỉ còn cách con đường một đoạn ngắn, bên tai tôi lại nghe thấy tiếng súng nổ lần nữa sau lưng. Nó vang lên ngay đằng sau tôi, về phía mà Otis đã chạy.

Ôi chúa ơi, cậu ta đã nói sẽ chạy thoát an toàn, không phải sao?

Tôi toan chạy lại muốn xem thử, nhưng ngay lập tức nhớ lại đôi mắt đen và sâu thăm thẳm của như thể nói rằng hãy tin tưởng cậu, tôi không quay lại nữa. Hoặc có lẽ là do con người tôi không đủ can đảm để quay đầu, vì con đường sống đã ở ngay phía trước.

Vậy mà khi đã ra đến nơi, tôi không nhìn thấy bóng dáng ai cả.

Otis đâu rồi? Cậu ta đã nói là sẽ chạy thoát cơ mà? Người đâu?

Tôi đứng chần chừ, cuối cùng, tôi lại quyết định làm một kẻ khốn nạn lần nữa.

Chiếc xe cứu hộ đã đến ngay khi tôi vừa ra tới đường cái.

- Cậu trai trẻ, cậu muốn tới đâu?

Tôi hồi tưởng lại những câu chuyện mà Otis kể, lẳng lặng một hồi, tôi chầm chậm nói.

- Corniglia.

Mùi tanh nồng ngập tràn trong không khí, xộc vào mũi của tôi. Mùi của biển. Ngôi làng Corniglia nhỏ bé và yên tĩnh nằm trên một ngọn đồi cao hơn mực nước biển khoảng chừng trăm mét. Một ngôi làng xinh đẹp với những bức tường cổ kính màu sắc, những con người thì vẫn làm những công việc của họ, nhưng ai nấy đều hiện hữu một nụ cười trên môi. Khung cảnh bình yên thật sự.

Tôi đi lang thang trên con đường lát gạch đá xám xịt.

- Ô kìa! Cậu trai kia!

Tôi quay đầu lại và bắt gặp một người phụ nữ vận lên một bộ váy mang cảm giác hoài cổ, có lẽ là kiểu dáng đã có từ thời xưa. Bà ta bước đến, đôi ngươi di chuyển lên xuống như dò xét, rồi như phát hiện ra gì đó, bà ta thốt lên.

- Otis! Cậu là Otis ư? Thật không thể tin nổi!

Otis? Tôi khó hiểu. Tôi hình dung lại hình hài của Otis mà tôi đã thấy, một khuôn mặt lấm lem và luôn lẩn trong bóng tối. Dường như tôi chưa có dịp được xem khuôn mặt cậu ta một cách đàng hoàng. Nhưng nhìn chúng tôi giống nhau đến thế ư?

- Bà nhầm rồi. Tôi không phải Otis.

- Cậu không nhận ra tôi ư? Là bác Bettie vẫn luôn cho cậu kẹo hồi nhỏ đây! Dù cậu có phủ nhận thì trí nhớ tôi vẫn đủ tốt để nhận ra cậu đấy.

Nghe vậy, những lời tôi định nói ra liền nghẹn lại trong cổ họng. Bettie ư? Otis chưa từng kể cho tôi nghe về người này, nhưng đâu đó sau trong tâm tôi lại cảm thấy quen thuộc đến lạ.

- Bà nhầm rồi, tên tôi là Finn. Otis là bạn của tôi.

Bà ta có vẻ không thể tin được. Nhưng rồi lại nói.

- Vì lí do gì mà cậu lại không chịu nhận mình là Otis vậy? Cậu nên đi gặp cha mẹ cậu, những người đã luôn tìm kiếm cậu từng ngày, ngay bây giờ!
Theo tôi!

Nói rồi người phụ nữ tên Bettie kéo tay tôi đi. Tôi đã định chống cự, nhưng trong lòng lại muốn nhìn thấy nhà của Otis, nhìn cha mẹ Otis xem xem tất cả có giống như những gì cậu kể.

- Ông bà Romagna, cậu Otis đã trở về rồi đây. Chúa đã nghe thấy lời cầu nguyện của hai người rồi.

Tôi nhìn thấy một căn nhà cổ được thiết kế với những hình ảnh được chạm khắc tinh xảo, với giàn hoa được trồng ở hiên nhà, mang lại cảm giác thật ấm cúng. Tôi cảm thấy trong đầu hơi hơi choáng.

- Otis! Con trai tôi, Chúa ơi!

Một giọng nói run run, như xúc động, như bất ngờ vang lên khiến tôi quay đầu nhìn. Một người phụ nữ mặc một bộ đồ thiết kế đơn giản với chút u sầu. Gương mặt bà như vỡ òa trong vô vàn cảm xúc, chạy đến ôm chầm lấy tôi. Giọt lệ của bà rơi xuống vai tôi ấm nóng. Tôi bất giác đưa tay lên vỗ về bờ vai run rẩy của bà. Phía sau còn có một người đàn ông trung niên, mái tóc đã bạc và lưng hơi gù nhưng hai bàn tay vẫn chắc khỏe cùng khóe mắt đen thăm thẳm nhưng vẫn rực sáng như đôi mắt tôi đã thấy khi lần đầu nhìn Otis.

Dường như trong tôi đã dấy lên một tình cảm đặc biệt như một tình thương sâu sắc. Nếu biết gia đình vẫn lo cho Otis như thế, hẳn là cậu ta vui lắm.

Nhưng tôi tự hỏi: Còn tôi thì sao? Tại sao tôi lại trở thành Otis trong mắt bọn họ như một điều hiển nhiên thế? Có gì đó bỗng nhen nhói trong đầu tôi như một manh mối.

Tôi vẫn chưa từng thắc mắc về quá khứ trước đây của mình.

- Otis, con trai ngoan, hãy biết rằng mẹ thương con nhiều lắm. Giờ thì hãy ra ngoài và đi chơi với những người bạn của con đi.

- Otis, con lại sưu tập mấy thứ nắp chai đó ư? Thôi nào, ra biển cùng với cha chứ?

- Otis, . . .

Tôi bừng tỉnh. Trước mắt không phải là góc tường u ám của căn nhà cũ kĩ trong rừng nữa, mà là một căn phòng với gam màu vải bạc làm chủ đạo.

Từng đồ vật trong căn phòng như mô hình, những cuốn sách, ... đều thể hiện rằng chủ nhân căn phòng này chỉ là một cậu nhóc mười lăm tuổi. Tôi bước xuống giường, bước đến bên hộc tủ, dùng sức kéo một chiếc hộp được cất kín trong đó ra, là rất nhiều những vỏ nắp chai với đủ mọi hình thù.

Bên cạnh còn có một bảng tên.

- Otis Romagna - Bộ sưu tập nắp chai.

Otis Romagna. Tôi nhớ ra rồi. Về một vài phần nào đó, tôi cũng đã hiểu vì sao những người ở đây lại cư xử với tôi như vậy. Otis Romagna sống một cuộc sống hạnh phúc trong căn nhà này tới năm mười lăm tuổi. Cậu ta bị bắt cóc và trở thành một tên nô lệ trong một lần đi tìm những nắp chai mới ở ngôi làng bên cạnh. Cậu ta đã phải sống một cuộc sống khổ sở khi bị chủ nhân tra tấn. Cuối cùng thì cậu ta cũng thoát được, nhưng cậu ta lại bị truy đuổi. Tới đường cùng, cậu ta nhảy xuống con sông và bất tỉnh. Kí ức của Otis Romagna đã dừng lại ở đó. Khi cậu ta tỉnh lại trong một trang trại trên vùng đồi nọ, cậu ta đã không còn nhớ gì nữa. Những người cứu cậu ta cho cậu ta một cái tên là Finn, và một con người mới của cậu ta được hình thành. Không có lương thiện, không có tốt bụng, chỉ còn cô độc và bất cần.

Otis chính là tôi. Tôi chính là Otis. Một sự thật khó tin lại đang hiện ra ngay trước mắt tôi. Tôi đã tự nói chuyện với chính hình dáng con người tôi khi trước, được tạo ra bởi chính sự tưởng tượng theo bản năng. Thật điên rồ! Mọi chuyện cứ như thể chỉ là một giấc mơ nhưng nó chân thật quá đỗi! Bên tai tôi vẫn còn nghe thấy tiếng súng vang ầm và đôi mắt lạnh lẽo của người đàn bà mà tôi đã theo chân suốt mấy năm trời.

Nghe như thể rất vô lý, nhưng dường như chính con người thật trước kia của tôi đã đưa tôi thoát khỏi chốn đen tối kia, để trở lại với nơi thật sự thuộc về.

Ngày 13 tháng 8 năm 1984.

Khủng hoảng kinh tế nước Ý được khắc phục, khủng bố và các loại tệ nạn được dẹp yên. Nước Ý đã bình ổn sau trận thiên tai và khủng hoảng năm 1980.

Cuộc sống của người dân trên mảnh đất Corniglia dần trở lại thanh bình, hạnh phúc.

- Hết -

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro