COn nhà giàu 4-10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thượng Tứ chạy trở về nhà mẹ mà ngủ. Mây đứa ở mở cửa giăng mùng lộp cộp làm cho bà Kế Hiền giựt mình thức dậy. Bà thấy con sửa soạn ngủ thì bà hỏi rằng: "Sao bữa nay không về bển, mà lại về đây?" Thượng Tứ không trả lời, cứ cổi áo cổi giày mà đi ngủ.

Thượng Tứ nằm lim dim, nhớ cô Hai Hẩu mặt sáng rỡ, má miếng bầu, mắt láo liên, tóc láng mướt, tướng đi yểu điệu, miệng nói như cười, gò má trắng đỏ tợ hoa sen, nước da mịn mà coi mát rượi, thì trong lòng cậu khoan khoái, ước thầm chớ chi có người đó nằm một bên mình, chắc là mình vui vẻ chẳng có chi bằng. Cậu nhớ cô Hai Hẩu rồi cậu nhớ tới vợ nhà; cậu so sánh hai người, thì cậu chê vợ nhà đủ thứ, chê nước da không trắng, chê cặp mắt không lanh, chê giọng nói không có duyên, chê tánh ý hay hà tiện. Cậu nhớ chuyện gây gổ với vợ hồi chiều, nhớ chuyện không tiền mà trả nhà hàng hồi nãy thì cậu lấy làm tức giận, quyết thế nào cũng phải vay cho được một ngàn đồng bạc đặng chơi bời với anh em; mà xài hết số đó rồi không biết chừng kiếm thêm nữa. Mình tiếng con rể nhà giàu, người ta kêu mình là "Cậu Tư Mỹ Hội", mình là người có học thức, mình chơi với thầy ký thầy thông, mà trong bóp phơi không có năm ba tấm giấy xăn(#1), thì còn gì là danh giá. Phải có tiền, làm sao cũng phải có tiền mới được. Còn có vợ thì thây kệ vợ, làm sao cũng phải trai gái với cô Hai Hẩu, như cô nài phải cưới thì mình cưới, làm hôn thú bực nhì, vợ nói sao được mà sợ, mà như vợ muốn sanh điều thì mình đạp đít, không tiếc gì. Cậu suy nghĩ riết mệt trí nên mơ màng rồi ngủ quên.

Sáng bữa sau, Thượng Tứ thức dậy đi ra đi vô, vì cậu có việc lo tính riêng trong trí, nên cậu không muốn nói chuyện với mẹ, mà cũng không tính trở về bên vợ. Chừng ăn cơm rồi, bà Kế hiền mới nói với con rằng:

- Cơm nước rồi, thôi con sửa soạn đi về bển đi. Con đi từ hồi hôm cho đến bây giờ, anh chị không biết con đi đâu, chắc là anh chị trông lắm.

- Trông thì trông, có hại gì mà lo.

- Vậy chớ hồi hôm con đi, con có nói con về bên nây hay không?

- Không.

- Con không nói cho người ta hay, con đi biệt như vầy, người ta lo chớ.

- Họ lo giữ tiền, chớ có biết lo giống gì.

- Con nói sao vậy! Dầu mà họ có lo giữ tiền đi nữa, ấy là cái phước của con, chớ sao con lại trách người ta. Cầu cho họ giữ đặng ngày sau có mà để lại cho vợ chồng con chớ.

- Má cứ ham tiền hoài! Tại má ham tiền, nên tôi mới mắc một con vợ như vậy đó!

- Vợ sao? Cha chả! Vợ như vậy, con còn chê nỗi gì! Phải, nó đen đúa thiệt, nhưng mà coi mặn mòi, chớ không phải xấu xa gì đó!

- Tốt với má chớ tốt với ai. Đi ra thấy người rồi dòm lại nó mà mắc cở.

- Sao mà mắc cở? Tuy nó không có bóng sắc, song nó hiền đức, nó giỏi việc nhà, nó có tiền nhiều, nó có chỗ gì mà chê được đâu. Con đừng có nói bậy. Ở đời vợ xấu mới chắc là vợ của mình đa con, chớ đồ bóng láng có ra gì đâu.

Thượng Tứ nghe mẹ khuyên lơn đã không cám ơn, mà lại rùn vai rồi bỏ đi ra phía trước, coi bộ vô lễ hết sức. Bà Kế Hiền vì thương con nên không thấy cái quấy của con, con ngỗ nghịch mà bà không giận, lại cứ theo khuyên dỗ biểu con về hoài. Thượng Tứ thấy vậy bèn làm núng, xin bà phải cho năm trăm cậu mới chịu về. Bà nghe nói tiền thì bà la ó; cậu làm giận, cậu thề không thèm về vợ nữa. Bà cùng thế, tuy bà rầy om sòm, song rốt cuộc rồi bà cũng phải lòi cho cậu hết một trăm đồng bạc.

Thượng Tứ lấy tấm giấy xăn bỏ vào bóp phơi rồi cậu mới thay áo mang giày lên xe mà đi. Bà tưởng con biết nghe lời nên thấy con đi trong bụng mừng thầm, chẳng dè ra khỏi cửa ngõ rồi, cậu không chạy về chợ Ông Văn, mà cậu lại quẹo lên Mỹ Tho.

Lúc ấy đã ba giờ chiều, Thượng Tứ biết thầy thông Hàng mắc làm việc, nên cậu không ghé nhà mà kiếm. Cậu ngừng xe đổ dầu xăng đầy thùng mà đổi tấm giấy bạc, rồi chạy theo đường mé sông cầu quây. Chạy ngang nhà ông Giáo Chuột, cậu cho xe chạy chậm chậm đặng có liếc mắt ngó vô nhà mà kiếm cô Hai Hẩu. Bận chạy qua thì không thấy tâm dạng, mà chừng trở lại thì cậu thấy cô nọ đứng trước cửa. Cậu dở nón chào cô; cô cũng cúi đầu đáp lễ, mà cô lại chúm chím cười, làm cho cậu hân hoan, quên bóp kèn, gần cán con xẩm ghánh nước. Cậu xuống nhà hàng trả tiền rượu hồi hôm, rồi ngồi đó uống sữa đá mà đợi 5 giờ sẽ đi đón thầy thông Hàng.

Thầy thông Hàng chơi với anh em, hễ thầy hứa giùm giúp việc gì, thì thầy hết lòng lo lắng. Hồi hôm thầy hứa với cậu Thượng Tứ mấy điều, thì sáng ra thầy lo làm liền, chớ không dám để trễ. Buổi sớm mơi thầy lên sở bằng khoán mà xin sao lục tờ chúc ngôn tương phân của ông Kế hiền Toại. Trưa về ăn cơm rồi thầy không thèm nghỉ, thầy kêu xé kéo tuốt lên nhà ông Giáo chuột mà đưa tờ tương phân cho ông coi.

Ông Giáo chuột đã mười mấy năm chuyên nghề cho vay đặt nợ, ông lành nghề của ông lắm; ông cầm tờ chúc ngôn tương phân coi từ đầu chí cuối rồi nói rằng: "Cậu Thượng Tứ bây giờ đứng bộ 100 mẫu ruộng thực, 50 mẫu hương hỏa, rồi ngày sau cậu được 50 mẫu trong phần dưỡng lão nữa. Cậu có 200 mẫu điền mà cậu vay có một ngàn, thì cho vay không phải sợ gì. Ngặc vì, theo lời chúc ngôn, chừng nào bà Lý Thị Nho qua đời rồi thì cậu mới được hưởng huê lợi. Cậu có ruộng mà không có huê lợi, cho cậu vay rồi cậu lấy gì cậu trả? Năm ngoái tôi thấy thầy Ban biện Chí là con nhà giàu, tôi làm bướng cho thầy vay năm ngàn. Hôm tháng giêng thẩy trả tiền lời, còn vốn thẩy trả không nổi. Kế tôi nghe ông già thẩy chúc ngôn chia ruộng đất mà không cho ăn huê lợi, tôi chết điếng xưa rày, không biết làm sao mà đòi vốn lại. Tôi bị người anh mà mắc kẹt hết năm ngàn đồng bạc, tôi rầu quá, giúp cho người em nữa sao được".

Thầy thông Hàng cười mà đáp rằng: "Tôi nghe nói ông thạo nghề cho vay lắm, mà sao ông lại sợ như vậy. Ông cầu mà cho anh em thầy Ban biện Chí vay chớ. Phàm cho vay thì cốt lấy tiền lời. Cho mấy chủ chắc chắn mình cầu họ đừng trả vốn, để cho mình lấy tiền nhiều năm. Ví như ông cho một ngàn, ông lấy tiền lời trong 3 năm thì đủ số vốn rồi, mà số một ngàn cũng còn đó, coi không phải là lợi nhiều hay sao. Đã biết thầy Ban biện Chí với cậu Thượng Tứ tuy đứng bộ làm chủ ruộng đất, song chưa ăn huê lợi. Ruộng đất như vậy mới chắc chớ, bởi vì có đem bán cho ai được, mà mình sợ mất nợ. Còn như ông có muốn cho chắc nữa thì ông cho vay nhiều nhiều rồi ông buộc phải làm tờ treo cho ông. Ông với tôi là anh em quen biết nhau lâu rồi, tôi tỏ thiệt với ông: cậu Thượng Tứ còn nhỏ mà tôi coi cậu ham phá nhà quá. Ông thử nhử mà đưa cho cậu chừng mười ngàn đồng bạc thì ông lấy ruộng đất của cậu hết. Tôi hứa tôi sẽ làm mối giùm cho ông. Cậu tin cậy tôi lắm, tôi nói giống gì cậu cũng nghe hết thảy. Ông cho lần một ngàn mà nhử cậu đi. Ông cứ tính tiền lời theo bạc mười bốn. Nếu ra giêng cậu không trả, thì ông bắt chồng vốn lời mà thay giấy. Ông chồng như vậy trong năm ba năm và nếu cậu hỏi thêm thì ông đưa thêm nữa, thì ông sẽ lấy ruộng của cậu".

Ông Giáo Chuột nằm xuống làm thuốc mà hút ít điếu; ông suy hại tính lợi đã cạn rồi, song ông còn làm bộ dục dặc mà nói rằng:

- Cậu Thượng Tứ còn con nít, tôi không nỡ toan mưu kế mà giựt sự nghiệp của cậu. Thà là cậu vay của ai cậu vay, chớ thiệt trong bụng tôi không muốn giúp cho cậu đồng nào hết. Mình lớn, cậu nhỏ, mình dính dấp với cậu sợ e mình phải mang tiếng chớ. Ngặt vì cậu là anh em của thầy, thầy nói giúp giùm mà tôi không chịu, thì thất thể diện thầy chăng?

- Thôi đi bác. Bác đừng có đánh đạo.

- Không phải đánh đạo. Thiệt tình như vậy chớ.

- Thôi, chiều nay như cậu qua, thì tôi dắt cậu lên làm giấy lấy bạc đa.

- Cũng được. Mà thầy phải nói trước với cậu, tiền lời tính bạc 14 đa, nghe hôn. Chịu như vậy tôi mới cho.

- Chịu mà. Ông cứ đòi lời theo bạc 14 đi. Để tôi nói vô cho. Nè, mà ông phải nói tôi đứng bảo lãnh nữa, nghé.

- Bảo lãnh làm chi?

- Ậy! Ông cứ nài bảo lãnh đặng cho cậu tin, rồi sau làm công chuyện mới được chớ. Ông hiểu hôn?

- Hiểu, tôi hiểu rồi.

- Ông trả tờ tương phân lại cho tôi, đặng chừng cậu qua tôi trao cho cậu rồi tôi dắt lên đây. Thôi, để tôi về cho ông nghỉ.

Thầy thông Hàng xếp tờ tương phân mà bỏ vào túi rồi lấy nón đội lên đầu. Lúc thầy nắm tay ông Giáo mà từ giã, thì thầy vừa nheo mắt vừa cười mà nói rằng: "Ông đừng có đòi một trăm đồng bạc của tôi nữa. Nếu ông biết xử phải, thì tôi sẽ làm cho ông có lợi năm bảy ngàn cho ông coi".

Ông Giáo Chuột gặc đầu mà đáp rằng: "Biết, biết, tôi biết xử phải mà".

Tội nghiệp cho "cậu Tư Mỹ Hội", người ta sắp đặt như vậy mà cậu không dè, cậu ngồi nhà hàng uống sữa, khí sắc hân hoan, khi thì nhớ gương mặt của cô Hai Hẩu tròn trịa bảnh bao, khi thì ngó chừng đồng hồ đặng đi đón thầy thông Hàng mà hỏi thăm chuyện vay bạc.

Đồng hồ gõ 5 giờ. Thượng Tứ lên xe mà đi. Xe chạy vừa khỏi nhà ga xe lửa thì gặp thầy thông Hàng ở trên đường hàng gáo đương lơn tơn đi xuống. Thượng Tứ ngừng xe, anh em mừng rỡ, rồi rủ nhau chạy một vòng chơi.

Thầy thông Hàng vừa bước lên xe thì Thượng Tứ nói rằng:

- Tôi khoái quá, thầy. Tôi mới gặp mặt cô Hai hồi nãy.

- Cô Hai nào?

- Cô Hai Hẩu.

- Ờ, ờ. Ở đâu mà cậu gặp?

- Tôi chạy ngang nhà. Cô đứng trước cửa cô chào tôi, mà cô lại cười nữa chớ, khoái quá!

- Cậu nầy đa tình thiệt mà! Cậu dám quá!

- Tôi chạy ngoài lộ, có động tới ai mà không dám.

- Ông Giáo khó lắm, nói cho cậu biết.

- Con ổng khó thì tôi mới lo, chớ ổng khó hay là dễ, nhắm cũng không hại gì.

- Cậu muốn vay bạc của ổng, mà cậu làm lộn xộn đây ổng ghét, ổng không giúp bạc cho cậu chớ.

- À! Thầy xin sao lục giùm tờ đó rồi chưa?

- Rồi, nội buổi sớm mơi. Mà rồi cũng không ích gì, bởi vì hồi trưa tôi gặp ông Giáo, tôi đưa cho ổng coi thử. Ổng coi rồi ổng nói ruộng cậu làm chủ mà cậu không được ăn huê lợi; cậu lấy bạc rồi cậu lấy gì mà trả. Ông già thiệt là khó chịu. Tôi năn nỉ trọn một buổi trưa. Tôi nói riết rồi ổng muốn xiêu lòng, song ổng đòi tiền lời tới mười bốn mười lăm. Gắt gớm quá!

- Mười bốn mười lăm là sao?

- Nghĩa là cậu vay một ngàn, ra ngoài ngày cậu phải trả vốn lời một ngàn tư hoặc một ngàn rưỡi.

- Trời ơi! Ăn lời gì mà nhiều quá vậy?

- Thì họ cho vay họ ăn lời như vậy chớ sao. Nhơn nghĩa lắm thì ít nữa cũng là bốn trăm đồng bạc lời. Vì lúc nầy muộn rồi, không ai còn bạc mà cho, nên ổng mới làm ngặt.

- Năn nỉ với ổng ăn chừng bốn trăm đồng bạc lời được hôn? Bây giờ tháng mười rồi, từ đây cho tới tháng giêng tháng hai, có ba bốn tháng mà gì.

- Để tôi nói lại với ổng coi. Ổng còn buộc tôi phải bảo lãnh nữa đa cậu.

- Không hại gì, thầy làm ơn bảo lãnh giùm cho tôi.

- Tôi với cậu không ngại gì. Lãnh thì lãnh chớ sao. Không lẽ cậu bỏ nợ cho tôi trả.

- Đâu có như vậy. Chừng nào làm giấy lấy bạc được?

- Để mình ăn cơm rồi dắt lên nhà ổng nói lại coi. Như ổng chịu thì làm giấy lấy bạc liền.

- Chắc ổng chịu mà. Ổng là cha vợ tôi, ổng muốn ăn lời bao nhiêu ổng ăn, tôi không cần.

Thầy thông Hàng nghe nói như vậy thì thầy cười, Thượng Tứ tưởng thầy cười về mấy lời nói chơi của mình có duyên, chớ nào dè thầy cười là cười miếng mồi thầy thả ra mà cá đã táp nuốt.

Hai người chạy xe chơi ít vòng rồi ghé lại nhà hàng ăn cơm. Thượng Tứ bữa nay có sẵn gần một trăm đồng bạc trong túi, đã mới thấy mặt cô Hai Hẩu, mà lại chắc sẽ có thêm một ngàn nữa, bởi vậy cậu hân hoan, nói nói cười cười không ngớt. Thầy thông Hàng cũng vui về việc của thầy, nên cũng nói cũng cười, mà thầy chẳng nói việc chi khác hơn là việc ông Giáo Chuột cho vay, thầy chẳng cười việc chi hơn là cười cậu Tư mê Hai Hẩu.

Ăn cơm xong rồi, thầy thông Hàng mới kêu bồi biểu đem cái bông thiếu tiền rượu hồi hôm đặng thầy trả luôn thể. Cậu Tư nói cậu đã trả tiền rượu rồi, mà cậu lại giành cậu trả tiền cơm, cậu không cho thầy thông hao tốn với cậu. Thầy thông làm giận làm hờn, ngoe ngoảy bỏ đi trước ra xe mà ngồi, chừng cậu Tư ra theo thầy mới nói rằng: "Mỏa giận toa quá, mỏa muốn không thèm dắt toa lên ông Giáo, để toa nhớ cô Hai đêm nay toa khóc cho biết chừng ...". Cậu Tư cười mà đáp rằng: "Tội nghiệp tôi mà, thầy thông. Thầy muốn tôi chết hay sao? Nếu đêm nay mà tôi không ngó thấy mặt cô Hai được, chắc là tôi phải tự vận quá". Thầy thông cười ngất rồi biểu chạy xe vô nhà thầy mà lấy tờ sao lục tương phân đặng có lên ông Giáo cho sớm.

Chẳng hiểu cô Hai Hẩu có biết trước bữa nay sẽ có khách tới nhà hay không, mà gần đỏ đèn cô gỡ đầu bới láng nhuốt, cô dồi phấn mặt trắng đỏ, cô mặc áo màu trứng gà, cô bận quần lụa trắng bông hường, cô đi dép quai nhung đen, sắc cô đã đẹp mà cô còn tô điểm thêm nữa, nên bợm háo sắc ai thấy cũng phải mê mẩn.

Khi thầy thông Hàng với cậu Thượng Tứ bước vô nhà, cô Hai Hẩu mắc ở dưới nhà sau. Ông Giáo tiếp khách mời ngồi, rồi kêu đứa ở mà biểu đem nước uống. Vì ông phân cử, ban đêm thường tám giờ ông mới hút, bởi vậy bên cái giường chưa thấy nổi đèn. Ông ngồi tại bộ ghế giữa mà nói chuyện với khách. Con nhỏ ở bưng nước trà vừa để trên ghế, thì cô Hai Hẩu ở trong cửa buồng bước ra, cô cúi đầu chào hai người khách rồi cô vói tay để một gói thuốc với cái hộp quẹt trên dĩa, dựa hai tách nước đó.

Thượng Tứ phần thì khớp về hương trời sắc nước, phần thì sợ ông Giáo thấu đáo bụng của mình, bởi vậy cậu ngồi trân trân, cậu không dám ngó mặt cô Hai Hẩu khi cô để gói thuốc trên dĩa, cậu liếc thấy bàn tay của cô trắng nõn, ngón tay nhỏ xíu, phao tay ửng hồng, thì cậu hồi hộp trong ngực, lộn xộn trong trí, nếu ai cắc cớ hồi đó hỏi cậu tại sao mà vậy, thì chắc cậu cũng không biết sao mà nói được.

Cô Hai Hẩu lại ghế xít đu mà nằm, và nói chuyện nho nhỏ với con ở. Cái ghế xít đu ở nhằm phía sau lưng cậu Thượng Tứ, cậu không dám day đầu lại mà ngó cô, cậu lấy làm tức vì sự vô ý của cậu, chớ chi hồi mới vô cậu ngồi phía bên kia thì bây giờ liếc ngó dễ biết chừng nào. Cậu mắc tiếc về sự đó, nên cậu quên tưởng chuyện vay bạc. May nhờ có thầy thông Hàng lanh lợi, thầy khởi đầu mà nói với ông Giáo giùm cho cậu.

Ban đầu ông Giáo làm khó, không chịu cho, ông nói rằng ông có coi tờ chúc ngôn tương phân rồi, ruộng đất lộn xộn lắm, làm chủ mà không ăn huê lợi, vay bạc rồi lấy gì mà trả, nếu ông kiện ông lấy ruộng, ông cũng không cho mướn được. Thầy thông theo năn nỉ trót nửa giờ đồng hồ, ông mới chịu cho, song ông buộc nội tháng giêng phải trả vốn trả lời, tiền lời tính bốn trăm, mà phải có thầy thông đứng bảo lãnh mới được. Thượng Tứ nghe nói ổng đòi tiền lời theo bạc mười lăm, tẻ ra bây giờ ổng tính theo bạc mười bốn, thì cậu mừng nên cậu chịu liền.

Ông Giáo biểu làm giấy phải biên nói vay một ngàn bốn trăm đồng, giao qua tháng giêng An Nam năm sau thì trả, nếu tới kỳ mà không trả đủ số, thì chủ nợ kiện đòi số ấy và đòi tiền lời theo phép kể từ ngày làm giấy. Lại cũng phải khai trong giấy rằng người vay có giao cho chủ nợ một bổn sao lục chúc ngôn tương phân cầm làm bằng, nếu chưa trả đủ số nợ mà lén bán ruộng đất cho người khác thì chủ nợ được phép kiện đến tòa Hình mà buộc tội sang đoạt.

Thượng Tứ quyết lấy cho được một ngàn đồng bạc, nên buộc thế nào cậu cũng chịu hết. Ông Giáo bèn kêu con lấy giấy mực rồi ông xin lỗi với khách đặng ông nằm hút ít điếu.

Ông Giáo qua bên giường nổi đèn nằm chinh chòng. Thầy thông ngồi viết cái não giấy nợ. Cậu Thượng Tứ ở không, cậu đứng dậy làm bộ coi thầy Thông viết, mà kỳ thiệt cậu qua đứng phía bên nây đặng liếc ngó cô Hai Hẩu chơi. Cô Hai Hẩu nằm trên ghế xích đu, cô tự nhiên, không ái ngại chi hết, cậu ngó cô thì ngó, cô cứ lúc lắc cái ghế, hoặc nói cười với con nhỏ ở như thường.

Thầy thông làm não tờ xong rồi mới đem đưa cho ông Giáo coi. Ông bắt bẻ thêm bớt một hai câu cho rành, rồi ông đưa cho Thượng Tứ chép lại và ký tên. Thầy thông cũng đứng bảo lãnh một bên đó, thầy và ký và nói(#2) rằng: "Từ nhỏ tới bây giờ tôi mới lãnh nợ lần nầy là lần thứ nhứt. Vợ tôi nó hay đây chắc nó cằn nhằn dữ lắm. Cô có gặp ở nhà tôi, cô đừng có học đi học lại, nghe hôn cô Hai". Cô Hai Hẩu cười và đáp rằng: "Bẩm thầy, thầy làm ơn cho anh em, em tưởng dầu cô thông có hay, cô cũng vui lòng, chớ sao mà thầy lo. Tuy vậy mà thầy dặn trước, thì em đâu dám học." Thượng Tứ nghe tiếng nói mềm mỏng, khôn ngoan, trong ngần, lảnh lót, thì cậu ngẩn ngơ trong lòng, nên cậu đứng ngó cô mà miệng chúm chím cười. Ông Giáo đọc cái giấy rồi ông đi mở tủ sắt lấy một ngàn đồng bạc mà trao cho Thượng Tứ.

Thầy thông Hàng biết ý Thượng Tứ muốn chà lết ở mà ngó cô Hai Hẩu chơi, nên thầy leo lên giường nằm đợi ông Giáo làm thuốc cho thầy hút vài điếu rồi mới chịu từ giã mà đi. Thượng Tứ ra về, cậu chào cô Hai Hẩu mà cậu cười đưa tình. Cô cũng đáp lễ và cũng cười, song không hiểu cô có rõ thấu ý tứ của cậu Thượng Tứ hay không.

Thượng Tứ lên xe mà đi, cứ trầm trồ cô Hai Hẩu hoài, ước mong làm sao phải nói chuyện được với cô một lần mới phỉ dạ. Thầy thông Hàng khuyên cậu chậm chậm rồi thầy sẽ liệu giùm. Thầy ép cậu ở chơi một đêm, rồi thầy bày đặt mướn một cái phòng, kêu hai cô ca nhi, dọn mâm á phiện, mua rượu sâm banh sắp đặt đủ các cuộc vui cho Thượng Tứ. Cậu Thượng Tứ vui thì vui, mà một lát cậu nhắc cô Hai một lần, dường như cái hình của cô đã chạm vào trí cậu rồi, chẳng có giây phút nào mà cậu quên được.

Chơi đến sáng bét rồi, Thượng Tứ mới cho tiền sắp ca nhi, trả tiền phòng, tiền rượu và từ giã thầy thông Hàng mà về.

Chú thích: (1-) (cent) giấy bạc một trăm đồng (2-) vừa ký vừa nói

Đêm rằm, cậu Thượng Tứ leo lên xe mà đi, thiệt cậu giận vợ cành hông, song giận là giận vợ không mở tủ đưa bạc cho cậu xài, chớ cậu không có trách vợ về chuyện gì khác nữa. Cậu tính về nhà xin tiền mẹ, rồi trở qua thị nhục vợ chơi, nào dè xin tiền bà Kế hiền không cho, cậu thất vọng, cậu phiền luôn mẹ, nên mới tính đi vay bạc mà xài cho mẹ và cho vợ biết chừng.

Khi tới nhà ông Giáo Chuột, thì tâm sự của cậu chỉ có bao nhiêu đó mà thôi; trời khiến cậu lại gặp cô Hai Hẩu, mà gặp rồi cậu lại phát ái tình trong lòng, làm cho cậu ngờ ngẩn ngẩn ngơ, rồi cậu so sánh cô nọ với vợ nhà; hồi tối cậu mới hờn vợ mà thôi, mà tới khuya cái hờn ấy nó sâu thêm rồi hóa thành cái ghét.

Có được một ngàn đồng bạc trong bóp phơi rồi, cậu chưa tính để dùng mà xài cách nào, cậu quyết trở về nhà quăng trên mặt vợ mà nhục nó chơi đã, bởi vậy từ giã thầy thông Hàng tại khách sạn rồi thì cậu lên xe chạy thẳng qua chợ Ông Văn, đi ngang Mỹ Hội cậu không thèm ghé nhà.

Buổi sớm mới, cô Ba Mạnh tay bưng quảu(#1) lúa ra đứng giữa sân mà rải cho bầy gà ăn. Gà trống, gà mái, gà mẹ, gà con đều chạy vù lại mà bao chung quanh cô, gà cồ vừa lượm lúa vừa vè đạp mái, gà mẹ vừa lo ăn vừa túc túc kêu con. Mấy con chim dòng dọc ở trên cây cũng đáp xuống rồi chen lộn với gà mà ăn lúa, vì mỗi bữa được ăn như vậy đã quen rồi, nên cô Ba Mạnh đứng đó, mà gà với chim không sợ chút nào hết.

Có lẽ cô Ba Mạnh cũng vui mà đãi cái tiệc sớm mơi ấy, nên cô đứng vãi lúa cho gà chim ăn mà miệng cô chúm chím cười. Thình lình cô nghe tiếng xe hơi chạy ồ ồ phía ngoài lộ, chắc là cô đã có ý trông xe chồng về, nên cô ngừng tay, không vãi lúa nữa, mặt lại day ra ngoài cửa mà ngó chừng. Cách chẳng bao lâu, thiệt quả xe của chồng quẹo vô cửa ngõ rồi chạy thẳng vô nhà xe. Cô Ba Mạnh lật đật vãi cho mau hết quảu lúa đặng có vô nhà.

Cậu Thượng Tứ cất xe rồi, cậu đi xăn xớm vô cửa, cậu thấy vợ đứng đó mà cậu không thèm ngó. Cô Ba Mạnh không hờn về sự lạt lẽo ấy, mà cô lại ngó chồng mà cười, rồi trút hết quảu lúa trên lưng mấy con gà đứng gần và xây lưng đi vô cửa nhà sau. Cô móc cái quảu trên vách, cô dặn mấy đứa ở sửa soạn nhúm lửa nấu cơm, cô biểu gọt trái bầu mà nấu canh, hái trái đu đủ mà làm gỏi, rồi cô thủng thẳng bước lên nhà trên. Cô thấy cha mẹ đương ngồi uống nước trà, không nói chuyện chi hết, mà cũng không có chồng cô ở đó, thì cô đi tuốt vô buồng.

Thượng Tứ đã thay đồ mát rồi, cậu đương nằm ngửa trên giường. Cô Ba Mạnh vừa ngó thấy chồng thì cô hỏi rằng:

- Hổm nay mình về bên nhà hay là đi đâu?

- Tôi muốn đi đâu tôi đi, mình không được phép tra hỏi.

- Tôi hỏi coi có phải mình về bên nhà thăm má hay không, chớ tôi tra làm chi.

Thượng Tứ muốn gây, mà bị vợ nói xuôi quá, cậu không có cớ gây được, bởi vậy cậu nín thinh mà mặt coi quạu lắm. Cô Ba Mạnh muốn dã lã cho chồng hết giận, nên cô cười và hỏi rằng: "Chắc bữa hổm mình biểu tôi đưa bạc, tôi không đưa, mình giận nên mình đi đó chớ gì, phải hôn?".

Thượng Tứ vùng ngồi dậy mà nói rằng: "Còn nhắc tới chuyện đó nữa à! Tôi nói cho mà biết, đừng có tưởng tôi mạt, nên bòn tiền của vợ mà ăn. Cái giàu của mình đó tôi xài một vài bữa là hết, không giàu bao nhiêu đâu, đừng có làm phách. Muốn xin tiền đặng để thêm vô tủ hôn? Như muốn tôi cho". Cậu và nói và mở bóp phơi lấy xấp giấy xăn liệng trên giường nghe một cái xạch.

Cô Ba bị chồng nhiếc mà cô cũng cười và đáp rằng: "Tôi có khoe với mình tôi giàu hồi nào đâu mà mình mắng tôi ... Mình có tiền nhiều thì mình xài, mình cho tôi làm chi. Thuở nay tôi có biết xài việc gì đâu".

Thượng Tứ trợn mắt nạt rằng: "Nín. Tù mặt thấy phát ghét".

Cô Ba mạnh nghe tới mấy lời đó, cô mới hết cười nữa được, cô đứng ngó ngay mặt chồng, rồi cô bước ra ngoài.

Bà Hội đồng thấy con thì bà hỏi rằng:

- Thằng Ba nó về nãy giờ, sao nó đi đâu mất vậy kìa?

- Thưa, nằm trong buồng.

- Kêu nó ra cho má hỏi thăm chút coi nào.

Cô Ba Mạnh không dám không vưng lời mẹ, nên cực chẳng đã cô phải trở vô buồng, song truyền lịnh mẹ cho chồng rồi thì cô ra liền và đi thẳng xuống nhà dưới.

Thượng Tứ thức cả đêm nên mệt, phần đương gây gổ với vợ nữa, bởi vậy cậu bước ra, tóc chôm bôm, mặt bí sị, coi không có vẻ thanh tao nho nhã chút nào hết.

Bà Hội đồng tay xĩa thuốc sống, mắt liếc ngó rể mà hỏi rằng:

- Hai bữa rày con về bên nhà hay là đi đâu?

- Thưa, về bên nhà.

- Chị ở nhà mạnh há?

- Thưa, mạnh.

Bà ngồi nín thinh ngó ra ngoài sân một hồi rồi bà hỏi nữa rằng: "Con giận vợ con nên con đi hổm nay đó phải hôn? Con đừng có dại như vậy. Con có cần dùng tiền mà mua sắm vật chi, sao con không hỏi thầy của con, hoặc hỏi má, con lại biểu vợ con mở tủ lấy mà đưa cho con? Vợ của con nó thiệt thà lắm. Thuở nay má cho tiền nó nhiều khi nó cũng không lấy nữa; tuy là nó giữ chìa khóa, chớ chẳng bao giờ nó dám lấy một đồng xu trong tủ. Con biểu như vậy, nó đâu có dám nghe lời con. Con đừng có dại như vậy nữa. Con ở bên nhà thì có chị; về bên nây thì có thầy má. Con muốn làm việc gì, con phải thưa cho cha mẹ biết, Con biểu nó đưa tiền cho con chi vậy?".

Thượng Tứ nghẹn cổ, không có sẵn lời mà đáp, cậu đứng suy nghĩ một chút rồi mới nói rằng:

- Thưa, tôi muốn thử bụng vợ tôi, nên tôi biểu chơi coi nó nghe lời hay không, chớ có phải là tôi thèm đồng tiền của nó đâu.

- Con thử bụng nó, mà nó không chịu đưa tiền, sao con lại mắng nhiếc giận hờn nó rồi bỏ mà đi về bển?

- Tại tôi thử bụng nó mà nó trở lại khinh khi tôi quá. Nó trọng đồng tiền, coi đồng bạc lớn bằng bánh xe, nó không biết nhơn nghĩa gì hết. Nó tưởng tôi cưới nó đặng đoạt gia tài của nó hay sao không biết. Tôi có phải mạt ở đâu, mà nó khinh khi tôi quá.

- Con đừng có nói như vậy. Con của má đẻ, má nuôi nó nhỏ lớn, má không biết tánh ý nó hay sao. Con Mạnh có bao giờ mà nó khi dễ ai. Rất đổi là đứa ở trong nhà hoặc là tá điền tá thổ, mà nó cũng chẳng hề khinh thị ai, có lý nào chồng nó mà nó khinh khi... Vợ chồng còn nhỏ, nói chơi với nhau, một đứa hơn một tiếng tự nhiên sanh xích mích. Thôi, bỏ chuyện đó đi, đừng có giận hờn chi nữa hết. Con có muốn xin tiền làm chi, thì nói với má đây; nếu nên cho thì má cho, bằng không nên thì thôi, chớ con đừng có hỏi vợ con nữa, nó không có tiền riêng tư gì đâu mà hỏi.

- Tôi hỏi nó chơi, chớ tôi thiếu gì tiền đây.

Thượng Tứ và nói và phành bóp phơi đưa xấp giấy xăn cho mẹ vợ coi.

Ông Hội đồng Thưởng nãy giờ ngồi lặng thinh để nghe vợ nói chuyện với rể, đến nỗi rể kiếm lời nói gay gắt con gái của ông, ông cũng không thèm can dự đến. Chừng ông thấy rể phành bốp khoe bạc, phát biểu cái thái độ vô lễ với cha mẹ ông không thế dằn lòng nữa được, ông mới nói rằng: "Con giàu, thầy với má cũng vẫn biết, con phải khoe làm chi. Ở đời lễ nghĩa mới quí, chớ giàu hay là nghèo cũng không có nghĩa gì. Con về ở bên nây hơn một tháng nay, thầy coi con còn thiếu xót đạo làm người nhiều lắm. Con có vợ rồi, nay mai đây con sẽ có con, chớ không phải còn con nít, mà con không tính làm ăn chi hết, bữa nào cũng leo lên xe đi chơi hoài. Đời nầy chơi thì hư thân, chớ chơi mà có ích gì. Đi chơi tự nhiên phải cập bè cập bạn, người tốt thì ít, người xấu thì nhiều, họ rủ bài bạc, rượu chè, đĩ thả, hễ sa mê vô thứ nào cũng phải chết hết thảy. Con là con rể, bây giờ con ở với thầy nên thầy phải chỉ chỗ quấy của con cho con chừa. Con đừng có đi chơi nữa; thầy nói chắc, hễ con đi chơi hoài thì con phải hư ... Bữa nay sẵn dịp, thầy cũng chỉ luôn cái tánh xấu của con cho con biết mà sửa mình. Thầy dòm coi con ở trong nhà đối với vợ con, thì con lỗ mãng, còn đối với cha mẹ thì con ngang tàng lắm. Con là con nhà tử tế, con phải giữ lễ phép, con phải ăn nói cho đúng đắn, đừng có vút vắt nghinh ngang người ta cười. Con phải coi cách ăn ở của thiên hạ mà bắt chước. Dầu con giàu, con cũng phải giữ lễ nghĩa, chớ không nên ỷ giàu mà nghinh ngang. Thầy ít hay nói, mà vì thầy thấy con làm quá, nên thầy phải nói cho con biết".

Thượng Tứ gục mặt mà nghe, nhưng vì ông Hội đồng nói phải mà ông nói nặng lời, bởi vậy cậu chừ bự, coi bộ không vui nghe chút nào hết.

Bà Hội đồng thấy vậy bà bèn nói rằng: "Từ nhỏ chí lớn nó mắc đi học, nó chưa hiểu việc làm ăn, nó chưa thạo cách ở đời, nên nó mới như vậy đó. Để thủng thẳng tập lần nó ... Con phải ráng mà nghe lời thầy con dạy. Con phải coi cách ăn ở của anh Hai con đó mà bắt chước. Dầu con học chữ Tây, chớ con cũng là người An nam, phải ăn ở theo An nam coi mới được. Cha mẹ thương con nên mới dạy con. Nếu con biết thương cha mẹ thì con phải nghe lời, đừng có ham chơi bời, rủi sa bước vào đường không phải rồi chị bên nhà phiền trách cha mẹ. Thôi, con coi nhựt trình hay là làm việc gì thì làm đi".

Thượng Tứ bỏ đi vô buồng, mà sắc mặt coi quạu lắm. Cậu đi qua đi lại mà bộ cậu hầm hầm, cậu giận vợ, giận cha vợ, giận mẹ vợ, giận mẹ ruột, giận hết thảy. Cậu trách vợ sao học chuyện mình biểu đưa bạc cho cha mẹ nó hay chi vậy? Cha vợ có quyền gì mà được rầy mình? Mẹ vợ không biết dạy con mà còn nói hơi binh con chớ! Tại mẹ mình ép uổng nên mình mới vướng cái bọn khốn nạn nầy! Cậu đi vòng một hồi mỏi chơn, rồi cậu lên giường mà nằm, cậu đạp gối hất mền nghe đùng đùng. May lúc ấy bà Hội đồng mắc đi ra sau vườn, nên không hay cách cùng quằn của cậu đó. Vì cậu thức chơi một đêm đã mệt rồi, nên tuy cậu giận, song cậu nằm một lát rồi cậu ngủ quên.

Cơm dọn xong rồi, bà Hội đồng biểu con vô buồng kêu rể ra mà ăn. Cô Ba Mạnh bước vô thấy chồng nằm nghinh ngang trên giường mà ngủ khò, cô lại gần nắm tay mà lúc lắc! Thượng Tứ mở mắt thấy vợ thì hỏi rằng: "Muốn cái gì". Cô Ba Mạnh cười mà đáp rằng: "Dậy ăn cơm. Cơm dọn rồi, thầy má chờ ở ngoải".

Thượng Tứ day mặt vô vách. Cô Ba Mạnh sợ cha mẹ chờ đợi cực lòng, nên cô kêu nữa, khuyên chồng dậy ăn cơm một chút rồi sẽ ngủ lại. Tiếng cô khuyên chồng thiệt là dịu ngọt, tiếc vì tiếng ấy nói với Thượng Tứ chẳng khác nào nước cam lộ mà rót trên cục đá, rót thì uổng nước, chớ đá có biết mùi ngon ngọt chút nào đâu.

Cô Ba Mạnh khuyên vừa dứt tiếng, thì Thượng Tứ nạt rằng: "Ăn uống gì thì ăn đi. Không ai thèm ăn đâu: Kêu nữa đánh thấy cha đa!" Phận làm phụ nữ, may gặp chồng tử tế thì nhờ, rủi gặp chồng lổ mãng thì chịu, song lổ mãng thì nhiếc mắng rầy rà chẳng nói làm chi, chớ lổ mãng mà tới chửi cha thì phàm nhơn còn nịch lục căn lục trần, có thế nào mà nín cho được. Cô Ba Mạnh giận run, cô đứng ngó chồng mà nói rằng:

- Tôi có quấy, hay là mình có giận, thì mình mắng nhiếc tôi, chớ cha tôi có can phạm gì mà mình nói động tới cha tôi!

- Ừ! Tao nói vậy a. Làm sao tao?

- Té ra mình là quân du côn mà!

- Du côn hả? ... Thượng Tứ vừa nói vừa ngồi dậy, vói tay đánh một thoi, trúng ngay con mắt bên tả của vợ. Ba Mạnh ôm mặt kêu trời và chạy ra. Hai vợ chồng ông Hội đồng nghe con la, không biết chuyện gì, nên bỏ mâm cơm, lật đật chạy lên nhà trên: Ông thấy con đậy con mắt mà khóc, thì ông biết con đã bị chồng đánh, nên ông bước vô cửa buồng mà hỏi rằng: "Mầy lầm cái gì vậy hử? Vợ chồng dầu phải dầu quấy cũng lấy tiếng nói mà nói với nhau, chớ sao mầy lại đánh nó? Mầy thiệt vô phép quá! Cha chả! Rất đổi ở bên nây mà mầy còn như vậy, nếu cưới mà đem về bển thì mầy giết nó còn gì".

Bà Hội đồng gỡ tay con mà coi, thì thấy con mắt bên tả đỏ lòm, mà phía trên chơn mày lại u một cục nữa. Bà chắt lưỡi than rằng : "Trời đất ơi! Nó đánh như vầy, may hôn lọt tròng còn gì!". Ông nghe nói "lọt tròng", ông lật đật trở ra mà coi. Ông thấy thương tích, ông càng thêm đau lòng, nên ông la lớn rằng : "Bà đi Mỹ Hội, bà mời chị sui qua đây. Nghinh ngang quá như vầy không ai chịu nổi! Tôi coi mòi tôi đã biết trước. Tại bà gấp lắm, bà sợ con Mạnh ế chồng, nên bà giục giả. Đó, bà thấy hay chưa, hử?".

Bà huỡn đãi đáp rằng :

- Vợ chồng con nít, sao cho khỏi rầy rà với nhau. Ông nóng quá. Chuyện gì cũng thủng thẳng mà nói, chớ làm om sòm chi vậy.

- Nó ăn ở như vậy, bây giờ tôi phải năn nỉ nó hay sao? Hứ! Còn binh nữa chớ!

- Không phải binh. Nó là con rể, nó có quấy thì thủng thẳng mà nói cho nó biết. La ó làm chi?

- Bà đi ăn cơm đi. Thôi, đừng thèm nói gì nữa hết. Có thằng Tiều hay đứa nào đó, bây lại chợ mướn một cỗ xe ngựa qua Mỹ Hội mời chị Kế hiền qua đây. Đi đi cho mau.

- Thôi mà! Chuyện chút đỉnh, mình nói với nó, mời thỉnh chị sui làm gì?

- Mời chỉ qua đây, coi chỉ xử làm sao chỉ xử đi cho xong.

- Làm như vậy vỡ lỡ cùng hết. Xin ông đừng có nóng nảy mà mích lòng sui gia. Chỉ có xúi con như vậy hay sao mà mình mời qua đặng trách móc chỉ. Để bữa nào gặp chỉ rồi tôi sẽ nói chuyện cho chỉ nghe cũng được mà ... Bầy trẻ, đừng có đi Mỹ Hội đa bây.

Ông Hội đồng cưng con, ông thấy con bị đánh thì ông nổi nóng, nên ông rầy quá. Mà người nóng mau thì nguội cũng mau, bởi vậy bà nói một hồi thì ông bớt giận, ông không biểu đi mời chị sui nữa, ông hỏi con chớ tại sao mà chồng đánh. Cô Ba Mạnh và khóc và nói rằng : "Tôi kêu ra ăn cơm, chớ tôi có làm sao đâu. Khi không rồi đòi đánh thấy cha tôi. Tôi giận tôi cự, rồi nhảy thoi tôi".

Ông nghe nói ông nổi giận hơn nữa; ông trợn mắt nói rằng : "Đó, bà nghe hay không?".

Bà nói : "Thôi, thôi" rồi bà hối con rửa mặt. Hai vợ chồng ông Hội đồng cũng đi xuống nhà dưới rồi ngồi lại bàn ăn cơm, ông còn giận rể, thương con, bà mắc lo tính giải hòa, nên hai ông bà không nói chuyện chi nữa hết. Cách chẳng bao lâu, bỗng nghe ngoài nhà xe có tiếng xe hơi lên máy rồi chạy ra cửa. Bà Hội đồng kêu thằng Tiền là, đứa ở, mà hỏi rằng :

- Thằng Ba nó đi xe phải hôn?

- Thưa phải. Dượng Ba kêu tôi biểu tôi vác rương để lên xe cho dưởng, rồi dưởng quây máy dưởng đi.

Bà Hội đồng chống đũa ngồi thở ra.

Ông Hội đồng châu mày nói rằng : "Ối! Thứ đồ như vậy, nó đi đâu nó đi cho khuất con mắt; nuôi nó ở trong nhà như nuôi ong tay áo, nó làm mình nhọc lòng chớ có ích gì".

Bà ngó ông mà đáp rằng :

- Ông nói kỳ cục quá! Tay lỡ dính chàm, mình nỡ chặt tay hay sao? Tuy tánh nó ngang tàng, song nó còn con nít, cũng như mụt măng, để thủng thẳng mình uốn mình sửa nó, chớ ông nóng quá, ông bẻ gãy còn gì.

- Tôi coi rồi, thằng đó hoặc may ông trời sửa nó, chớ ai mà sửa nó được. Bà nghĩ đó coi, tôi mới nói phải quấy cho nó nghe đó, nó vô buồng nó đánh vợ nó rồi nó chưởi tôi. Tôi hiểu mà, nó đánh vợ nó đó là nó đánh gởi cho tôi đa. Chứa nó trong nhà đây mai một nó đánh tới tôi nữa.

- Hồi gả con, ông giao bắt rể. Bây giờ không chứa nó trong nhà sao được.

- Rể tử tế thì mình nuôi nó, chớ thứ rể như vậy mà nuôi làm gì!

- Nếu ông không chịu nuôi nó nữa, ông trả nó về bển, thì ông phải cho con Mạnh đi theo.

- Ý! Được đâu! Rất đỗi ở bên nây mà nó còn dám làm như vậy, cho theo về bển nó giết con nhỏ còn gì.

- Chớ vợ chồng con nít, mà ông biểu một đứa ở một nơi vậy sao được.

Ông ngồi lặng thinh mà ăn hết chén cơm rồi ông quăng đũa đứng dậy mà nói rằng : "Tại bà đa! Tại bà giục gả lắm, bây giờ như vậy đó cho sáng con mắt bà".

Mới 9 giờ sớm mai mà con Mang đã bưng mâm cơm lên để trên ván, rồi chạy ra vườn kiếm chủ mà mời vô ăn.

Bà Kế hiền đương coi cho thằng Ngộ bẻ dừa, bà nghe mời ăn cơm thì bà nói rằng : "Tao mới nhai miếng trầu chưa dập mà ăn cơm giống gì. Vô lấy lồng bàn (#2) mà đậy lại, để tao coi cho nó bẻ hết liếp nầy rồi tao vô". Thằng Ngộ bẻ dừa quăng dưới đất thùi thụi. Bà Kế hiền mặc áo bà ba xuyến đen, quần lụa trắng, chơn đi guốc sơn đỏ, đầu đội khăn hột mè, bà đứng một tay chống nạnh, một tay xỉa thuốc, bộ tướng mạnh mẽ lắm, coi thế các con chưa dẽ hưởng gắp huê lợi ruộng đất được.

Bà ngước mặt mà đếm coi còn mấy quày dừa sẽ bẻ được, thình lình bà nghe tiếng xe hơi chạy ngoài lộ, tới nay cửa ngõ rồi lại bóp kèn mà quẹo vô nhà. Bà chắc là Thượng Tứ về nên trong trí bà nghĩ thầm rằng : "Thằng hay đi quá! Mới về bển hồi xế hôm qua, bữa nay lại trở qua nữa!". Ban đầu bà tính không thèm vô, mà một lát bà nghĩ không biết chừng con chưa ăn cơm, nên bà vô đặng cho nó ăn với bà, kẻo đồ ăn nguội hết. Bà vô tới sân, thiệt thấy xe nhà, song Thượng Tứ đã vô nhà rồi nên bà không gặp. Bà vô tới trong nhà mới thấy Thượng Tứ mặc một bộ đồ lụa trắng, đương đứng rửa mặt. Bà vừa cười vừa nói rằng :

- Thằng quỉ này nó có cái xe nó đi mãi. Ăn cơm rồi chưa?

- Chưa.

- Thôi, rửa mặt rồi đi ăn cơm luôn thể. Mang a, lấy thêm chén đũa, con.

Bà bước lại dở lồng bàn lên mà dẹp một bên, rồi bà bưng tô nước mà súc miệng. Con Mang bới cơm và đem thêm một cái chén một đôi đũa. Mẹ con ngồi ăn cơm. Bà nói chuyện dong dài, song bà không dè nên bà không nói tới con dâu. Cậu còn giận mà lại mệt, nên cậu ừ hữ cầm chừng với mẹ, và riết hết chén cơm rồi cậu đi uống nước.

Cậu đương đứng tại cửa sau, cậu thấy thằng Ngộ ngoài vườn đi vô, cậu kêu mà nói nhỏ ít tiếng rồi cậu bỏ vô buồng mà nằm.

Bà Kế hiền ăn cơm rồi, bà thấy vắng con, bà bước vô buồng con, thì thấy con đã ngủ khò. Ba quay trở ra, lại gặp thằng Ngộ vác rương đi vô. Bà hỏi rằng:

- Rương ở đâu vậy?

- Thưa, rương ở đâu không biết, cậu Tư chở trên xe. Hồi nãy cậu có biểu tôi chừng ăn cơm rồi ra vác đem vô buồng cho cậu.

- Rương nầy là rương của nó mà. Nó đem về bên nây làm gì.

Thằng Ngô vác thẳng cái rương vô buồng mà để. Bà Kế hiền bước vô dở nhớm nấp rương bà thấy rương khóa chặt, nên bà trở ra bộ ván gõ giữa mà nắm. Cái rương ấy nó làm cho bà phải suy nghĩ hoài, nên bà nằm không yên, một lát ngồi dậy ăn trầu rồi nằm xuống, bà không đi ra ngoài vườn nữa.

Đến nửa chiều, Thượng Tứ mới thức dậy. Bà Kế hiền đợi cậu rửa mặt chải đầu xong rồi bà mới hỏi rằng:

- Sao con đen rương con về bên nây?

- Chớ để bển làm giống gì?

- Sao vậy?

- Tôi không thèm ở bển nữa.

- Thằng quỉ nầy, khéo nói nhiều chuyện hôn! Giao ở bển, thì phải ở chớ nói chúng chứng với ai vậy?

- Má muốn ở thì má qua đó má ở. Tôi không thèm ở nữa đâu. Đồ khốn nạn quá, ai ở cho được.

- Cha chả! Con gì mà ngang tàng quá như vầy không biết! Ai khốn nạn? Khốn nạn làm sao đâu nói nghe thử coi?

- Một lũ khốn nạn hết thảy. Con đó cũng vậy, mà cha mẹ nó cũng vậy.

- Trời ơi! Nó nói hơi dộng đầu xuống đất, trở cẳng lên trời, ai chịu nổi thì chịu thử coi nè! Ai đời cha mẹ vợ nó mà nó dám kêu là một lũ khốn nạn chớ! Khốn nạn làm sao đâu, tao biểu mầy nói cho tao nghe sao mầy không nói?

- Đồ gì mà hễ mở miệng ra thì binh con. Tại má a, tại má cho tôi ở bển, họ tưởng đâu tôi mạt rồi, theo ăn chực cơm của họ, nên họ mới làm phách như vậy đó.

- Trời đất ơi! Người ta hiền lành hết sức, vợ chồng cắn cơm không bể, mà nó dám nói nhiều chuyện như vậy chớ. Ý hị! Vô phước quá ... Tao biểu mầy phải trở qua bển mà ở. Cưới vợ giao ở bên vợ thì phải ở, tao không chứa mầy đâu.

- Ủa! Mà không chứa sao được. Nhà của tôi thì tôi ở, má có phép gì má đuổi?

- Ừ, tao đuổi mầy qua bên vợ mà ở, tao không cho ở trong nhà tao.

- Nhà gì mà nhà của má? Má dở tờ di chúc của cha ra mà coi. Cha trí nhà nầy làm nhà thờ, cha giao cho tôi ở mà phụng tự ông bà, má đuổi tôi cái gì?

Bà Kế hiền nghe nói tới câu đó thì bà giận muốn ói mật. Bà nghẹn cổ, ứa nước mắt, bà nói không được nữa, nên bà vói tay kéo ô trầu lại gần têm mà ăn. Thượng Tứ bỏ đi vô buồng. Bà Kế hiền leo lên võng năm đưa lúc lắc, tay gát qua trán, miệng nhóc nhách nhai trầu, một lát nghe bà thở dài một cái, thì đủ biết bà lo rầu lung lắm.

Cách một hồi lâu, Thượng Tứ ở trong buồng bước ra, mình mặc một bộ đồ tây tút xo, đầu đội một cái nón nỉ xám sậm, mùi dầu thơm bay bát ngát. Bà Kế hiền ngồi dây hỏi rằng:

- Bây giờ tính đi đâu mà thay đồ tây đó hử?

- Đi lên chợ chơi.

- Chơi hoài! Chơi làm chi không biết! Nầy con, con ngồi đó, để má nói cho con nghe. Con đừng có dại như vậy. Vợ chồng có giận nhau, con nói vợ con làm sao con nói, con đừng có hỗn với cha mẹ vợ chớ. Con nói bậy nói bạ, sui gia người ta phiền tới má, biết hôn? Thôi, con đi với má về bển, đặng má giáp mặt con Tư, má hỏi coi tại sao mà rầy rà với nhau như vậy. Con ngồi đó chờ má gỡ đầu rồi má đi với con.

- Má đi đâu má đi. Tôi lên chợ tôi chơi. Tôi nhứt định không thèm bước chưn tới nhà đó nữa đâu; tôi thề nếu tôi trở về đó nữa thì lịnh ông Quan Đế vặn họng tôi đi.

- Ê! Đừng có nói bậy nà! Chuyện gì mà thề. Nhà cha vợ con mà con không tới, vậy chớ con tới nhà ai?

- Tôi không thèm vợ con gì nữa hết.

- Ủa! Không thèm sao được? Vậy chớ vợ của con đó, con bỏ cho ai?

- Nó lấy ai nó lấy, tôi bỏ, tôi không thèm nữa.

- Con nói cái gì vậy?

- Đồ như chúa ôn, mà cha mẹ nó nói hơi cầu cao; tôi ghét lắm; tôi nhứt định bỏ, để kiếm vợ khác coi có hơn nó hay không mà.

- Ý hị! Có vợ như vậy mà còn chê người ta tệ mạng, thiệt má không biết nói sao nữa được. Má nghĩ má vô phước quá! Mà sanh có một mình con, mọi việc má đều lo cho con hết thảy, đến nỗi đầu nầy oán, đầu kia thù cũng vì con, mà bây giờ con không biết thương má, thiệt má tiếc lắm.

- Tôi có nói má giống gì đâu, mà má nói tôi không thương má?

- Con thương má sao má nói con không chịu nghe lời.

- Má biểu giống gì bây giờ tôi cũng chịu hết thảy, duy có trở về bên vợ, thiệt là không được. Họ kỳ quá mà; họ nói tôi nghe tôi ghét quá, ở chịu sao nổi.

- Má biểu con có một việc đó... - Không được, tôi có thề rồi.

Thượng Tứ nói dứt tiếng liền bước ra cửa leo lên xe mà đi.

Bà Kế hiền lắc đầu, thấy con như vậy bà buồn quá, nên nằm chèo queo trên võng, ăn một đợt năm sáu miếng trầu, mà bà không nói với mấy đứa ở một tiếng chi hết.

Đêm đó Thượng Tứ không về ngủ, mà sáng bữa sau đến chín mười giờ cũng không thấy cậu về. Bà Kế hiền chờ hết hơi mà không được, cùng thế bà biểu dọn cơm cho bà ăn, rồi bà mướn một cỗ xe ngựa mà đi qua chợ Ông Văn, bà tính qua trước thăm chị sui, sau hỏi coi tại làm sao mà con dâu bất hòa với nhau như vậy.

Trời nắng chang chang, gió thổi phay pháy. Xe chạy cục kịch trên bờ lộ, một lát người xa phu phải giựt cương, tróc lưỡi, hoặc phải lấy roi mà quất nhẹ nhẹ một cái trên đít, con ngựa mới nhớm chạy mau mau, mà mau đó là mau theo sức ngựa dở mà thôi, bởi vì bà Kế hiền ngồi trên xe bà buồn, nên bà trông chừng hoài, mà không thấy tới. Chớ chi đi đường có ai nói chuyện, hoặc có cảnh chi lạ mà ngó chơi, thì có lẽ cũng giải khuây được; ngặt vì bà ngồi một mình với tên xa phu, hai bên ruộng lúa, trước mặt cũng ruộng, sau lưng cũng ruộng, đám lúa đương trổ thì coi màu xám xám, đám lúa gần chín thì coi màu vàng vàng, trên lộ không thấy kẻ đi đường, ngó chừng mấy xóm xa xa chỗ nào cũng dừa với cau chớ chẳng có chi lạ mắt. Bà buồn chừng nào, bà càng nhớ tới chuyện con, mà nhớ tới chuyện con bà còn lo rầu hơn nữa.

Xe ngừng ngoài cửa ngõ, bà Kế hiền thủng thẳng che dù đi vô. Mấy con gà đương rảo trước sân kiếm ăn, chúng nó thấy bà thì vụt chạy. Con chó mực nằm ngủ trước thềm, nghe động đất nó cũng thức dậy mà sủa.

Bà Hội đồng đương nằm trên ván, bà ngó thấy chị sui, bà lật đật bước ra la chó rồi mời chị sui vào. Bà kêu mấy đứa ở biểu chến nước lấy trầu; bà lấy dao bửa cau, bà kêu đem ống nhổ. Bà Kế hiền ngó chừng mấy cửa buồng rồi ngó xuống phía nhà dưới, có ý kiếm con dâu. Cô Ba Mạnh mình mặc một cái áo xuyến cũ, một cái quần lãnh đen nhục nhục, chơn không có giày guốc chi hết, cô ở dưới nhà dưới đi lên chào mẹ chồng, bộ vui vẻ như thường. Cô xin với mẹ trao con dao với trái cau lại cho cô bửa. Bửa cau rồi cô đứng cắt cuống trầu; bà Kế hiền liếc dòm cô, bà chẳng thấy có vẻ chi lạ.

Ông Hội đồng ăn cơm rồi ông nghỉ trưa trong buồng. Ông nghe nói có khách chộn rộn, ông bước ra chào hỏi chị sui, rồi ông ngồi bên bộ ghế giữa, vấn thuốc mà hút.

Hai bà sui, bà nào cũng muốn đem chuyện con mà nói, song không bà nào dám khởi đầu, bởi vậy ngồi uống nước ăn trầu nói chuyện với nhau rất lâu, mà chẳng nghe nói chuyện chi khác hơn là hỏi thăm mùa màng, hỏi ruộng trúng hay thất, hỏi lúa chín hay chưa.

Ông Hội đồng tánh chơn chất, ít nói mà nóng nảy, ông ngồi chờ hoài ông lấy làm khó chịu, nên vùng hỏi chị sui rằng:

- Thằng Ba nó có về bên chị hay không?

- Thưa, nó về bển.

- Hôm qua nó đánh vợ nó rồi nó chở đồ đi, nó không thèm nói với vợ chồng tôi một tiếng gì hết.

- Bất nhơn dữ hôn! Sao mà tới đánh vợ nó lận? Hèn chi nó về bển bộ nó buồn hiu. Tôi hỏi nó về chi mà về hoài vậy: nó nói về chơi. Tôi tưởng thuở nay nó ở nhà nó quen, qua ở bên nây nhà lạ nó nhớ nhà nên nó buồn, chớ tôi có dè chuyện gì đâu.

- Thằng quá quắc lằm mà. Tôi nói trước cho chị biết, nó phải hư. Tôi coi rồi, thằng bất trị lắm, làm thế nào nó cũng không nên được.

Ông Hội đồng nói vắn tắt mà châm hẩm lắm, làm cho bà Kế hiền ngồi ngẩn ngơ, không biết sao mà trả lời.

Bà Hội đồng thấy vậy, bà muốn sửa câu chuyện nghe cho dịu ngọt, nên bà nói rằng: "Thằng Ba nó về bên nây hơn một tháng nay, tôi coi ý nó còn ham chơi quá. Bữa nào nó cũng xách xe đi chơi hoài, không nghe nó tính làm ăn chi hết. Đời nầy thiên hạ họ ma quỷ lung lắm. Đi chơi làm giống gì. Mình có ăn, mình đi chơi rồi kẻ không phải nó rù quến bậy bạ, có phải hại cho mình hay không ...".

Bà Kế hiền không đợi cho chị sui nói hết câu chuyện, bà chận mà đáp rằng:

- Chị nói phải lắm. Đi chơi thì hại chớ có ích lợi gì. Tôi thưa thiệt với anh chị, tôi có một mình nó, tôi cưng nó quá, nên từ hồi nhỏ cho tới bây giờ nó chúng chứng muốn ngang nào được ngang nấy. Nay nó về bên nây với anh chị, tôi xin anh chị răn dạy nó giùm cho tôi. Nó sợ anh chị có lẽ nó sửa tánh được.

- Vợ chồng tôi thấy nó mới về ở, nếu dạy dỗ nó gấp quá e nó buồn.

- Có hại gì! Chị thấy nó làm sái chỗ nào, chị rầy liền nó đi mà. Nó là con rể trong nhà. Ngại giống gì.

- Chớ chi nó đi chơi, mà về nhà nó ăn ở cho có lễ nghĩa chẳng nói làm gì. Cái nầy nó đi riết hết tiền, rồi bữa hổm nó biểu vợ nó phải mở tủ sắt lấy bạc đưa cho nó. Vợ nó không dám, nó mắng chưởi rồi leo lên xe mà đi, nó không thèm nói một tiếng gì với vợ chồng tôi hết.

- Thằng bất nhơn quá! Vậy mà tôi có hay đâu! Nó về ở bển mấy bữa, nó có nói giống gì đâu mà biết. Tôi có cho nó mấy trăm đồng bạc, sao nó không lấy bạc đó mà xài, lại hỏi vợ nó chi vậy kia. Có lẽ nó muốn thử bụng con Tư hay sao chớ?

- Thưa phải. Sớm mới hôm qua nó về. Thầy nó có nói chuyện phải quấy cho nó nghe. Nó nói nó muốn thử bụng vợ nó, chớ không phải nó muốn xài đồng tiền của vợ chồng tôi. Nó phành bốp, chưng giấy xăn với vợ chồng tôi, coi ngộ lắm ... - Thằng dại quá!

- Thưa, nó dại thiệt. Bởi thấy nó dại, nên vợ chồng tôi cũng không chấp gì.

- Thưa, phải. Nớ là con rể trong nhà, nó khờ dại thì anh chị trong nhà rầy la nó, chớ có lẽ nào mà chấp nhứt.

- Chưa có rầy la. Thầy nó mới giảng chỗ phải chỗ quấy cho nó nghe mà thôi. Tưởng là nó biết nghe, té ra mới nói với nó đó, rồi nó vô buồng nó chưởi vợ nó nát tan hết. Con nhỏ tôi nó không biết chưởi, mà thẳng cứ theo chưởi cha nó hoài. Nó giận nên nói đi nói lại, rồi thẳng nhảy nắm đầu thoi đạp nó gần chết. Đó, bữa nay mà con mắt còn đỏ, trán còn u một cục đó ... Con Mạnh mới đây bỏ đi đâu mất rồi? Lên biểu đây con.

Cô Ba Mạnh ở dưới nhà dưới đi lên, cặp mắt cô ướt rượt. Bà Kế hiền ngó mặt dâu và nói rằng : "Thằng bất nhơn ác nghiệt quá! Thiệt nó là du côn rồi! Để tôi về tôi biểu bầy trẻ căng dùi nọc, tôi đánh nó cho nó tởn. Dầu quấy, dầu phải, cũng thủng thẳng lấy tiếng nói mà nói, chớ sao lại đánh người ta".

Bà Kế hiền vẫn biết tánh nết con; bà nghe như vậy thì bà chắc là có, nên bà buồn lung lắm. Bà lấy trầu têm mà ăn, mà ba suy nghĩ coi phải dùng lời nào mà chữa lỗi cho con. Bà ngồi một hồi lâu rồi nói rằng : "Con tôi nó ở bên nây, mà nó không kiêng nể anh chị, nó đánh vợ nó như vậy, thiệt nó lỗi lắm. Tuy vậy mà tôi xin anh chị nghĩ nó còn dại khờ mà tha lỗi cho nó; vợ chồng nó còn con nít, sao cho khỏi xích mích với nhau. Nếu anh chị không thương, anh chị chấp trách, thì tội nghiệp cho nó. Để tôi về tôi rầy nó, rồi tôi biểu nó qua lạy anh chị mà xin lỗi. Hèn chi hồi sớm mới tôi biểu nó đi qua bên nây với tôi, nó rút cổ không dám".

Ông Hội đồng châu mày nói rằng : "Nó ghét vợ chồng tôi, nó tính không thèm ở bên nây nữa. Hôm qua nó đi, nó chở đồ đạt đi hết. Nó không chịu trở qua nữa đâu mà chị biểu nó cho thất công".

Bà Kế hiền gượng cười mà đáp rằng :

- Thưa anh, anh giận anh nói như vậy, chớ có lẽ nào mà nó không chịu trở qua bên nây. Nó dại nó đánh vợ nó, rồi nó sợ anh chị rầy, nên nó trốn chạy về bển đó chớ.

- Ờ, tôi nói vậy, nếu chị không tin thì chị biểu thử coi rồi biết mà.

- Thiệt thằng nhỏ tôi có tánh cang cương nhưng mà áo mặc sao qua khỏi đầu. Tôi xin anh chị thương, anh chị hỉ xả cho nó thì mới được. Xưa rày lần nào về bển nó cũng nói nó sợ anh chị quá, nó không dám nói chuyện gì với anh chị hết. Nó muốn xin với anh chị cho vợ chồng nó về bên tôi mà ở. Tôi rầy nó, tôi nói anh chị có một mình con Tư, nếu dắt nhau về bên tôi thì anh chị buồn.

- Về bển sao được. Hồi tôi gả con Mạnh, vợ chồng tôi có giao nó phải ở với tôi. Bây giờ tôi có chịu cho đi đâu.

- Bở vậy tôi mới rầy nó.

Bà Kế hiền vẫn đã biết ý con bà rồi, song nói chuyện với sui gia bà phải môi miếng chút đỉnh. Bà dọ ý, thấy anh sui quyết không cho con dâu của bà đi về bển thì bà lấy làm buồn. Chàng rể không chịu ở với bên vợ, anh sui gái không chịu cho con theo chồng, bây giờ phải làm sao? Bà Kế hiền lo liệu trong trí lung lắm, song bà phải gắng gượng làm vui mà nói chuyện với sui gia cho người ta khỏi thấy cái buồn cái lo của mình.

Cô Ba Mạnh lo cơm nước dưới bếp lăng xăng, đến xế mới dọn một mâm cơm bưng lên đãi mẹ chồng : Bà Kế hiền ăn cơm rồi mới từ giã sui gia mà về. Cô Ba Mạnh đưa bà ra xe. Lúc sửa soạn bước lên xe, bà nói với dâu rằng : "Chồng con nó ngỗ nghịch lắm, nhưng mà má khuyên con đừng có phiền. Má sợ e nó làm bậy rồi, nên nó không dám léo hánh qua bên nây nữa. Như nó không qua, thì vài bữa con về bển mà thăm má, nghe hôn con".

Cô Ba Mạnh cúi đầu, mà cô ứa nước mắt. Bà Kế hiền lên xe rồi ngựa rút chạy, lục lạc khua lổn rổn ...

Chú thích:

(1-) thúng nhỏ, quảu gạo: thúng nhỏ đựng gạo, quảu may: thúng đựng dụng cụ may vá (2-) dụng cụ bằng tre, dùng đậy đồ ăn trên bàn

Cậu Tư Thượng Tứ trong lưng có bạc ngàn mà biểu cậu ở nhà sao được. Đã vậy mà trên Mỹ Tho có cô Hai Hẩu, thì cậu có vui gì mà trở qua chợ Ông Văn.

Cậu mướn tháng một cái phòng thượng hạng tại Tam Hòa Khách Lầu, rồi cậu ăn dầm nằm dề tại đó. Thầy thông Hàng hễ tới giờ thì đi làm việc, còn mãn giờ hầu thì về ở đó với cậu, bày rượu trà, kêu mèo chó, ăn no rồi hút, hút đã rồi cười, làm cho cậu Thượng Tứ mê mẩn mẩn mê, quên vợ, quên mẹ, quên luôn tới việc tương lai, cậu cứ vui chơi, cậu không sợ mẹ buồn, không sợ hư thân, không sợ chơi riết rồi phải tiêu điều sự nghiệp.

Có một bữa thầy thông Hàng nói với cậu rằng : "Hồi trưa có cô Hai Hẩu xuống thăm vợ tôi. Tôi pha lửng rồi tôi nói đại với cô rằng cậu muốn cô lắm. Tôi tưởng cô giận, té ra cô cười, cô mắng tôi là đồ quỉ, mà coi bộ cô vui lắm. Tôi chắc cô chịu rồi. Để thủng thẳng tôi gò".

Thượng Tứ nghe như vậy thì hân hoan, nên nói rằng :

- Hy vọng của tôi bây giờ thì chỉ có bao nhiêu đó mà thôi. Nếu tôi được gần cô Hai Hẩu, dầu hết nhà tôi cũng mát ruột. Tôi nói thiệt với thầy, tôi tương tư cô Hai, nếu thầy làm mai không được, chắc tôi phải chết.

- Được mà, sao lại không được, song phải chậm chậm đặng tôi gò chớ. Nầy, cậu Tư, tôi tính như vầy, cậu nghĩ thử coi có được hay không. Để mai tôi biểu ở nhà tôi lên thăm cô Hai Hẩu, rồi kiếm thế mời cô xuống nhà tôi chơi nữa. Ở nhà tôi nó hẹn giờ trước, rồi nó cho cậu hay, đặng cậu vô cho hai đàng gặp nhau.

- Ờ, được a. Cha chả, mà tôi gặp rồi tôi nói làm sao?

- Thì cậu chọc ghẹo làm sao cậu làm, chớ tôi biết đâu.

- Không quen chọc gái, nên không biết làm sao đây chớ.

- Khó gì thứ chọc gái. Ta gặp ta kiếm chuyện nầy chuyện kia ta hỏi, nói bậy nói bạ nó ra chuyện lần lần rồi ta xốc tới. Cái đó có sách vở gì nên biết mà dạy trước cậu cho được.

- Thầy nói giùm cho tôi.

- Hai đàng phải giáp mặt nhau một lần, rồi sau tôi nói ra nói vô mới được chớ.

- Ừ, thôi được. Thầy mượn cô thông đi mời đi. Hẹn chắc giờ nào cô xuông rồi tôi sẽ vô.

Chiều bữa sau, thầy thông Hàng cho Thượng Tứ hay rằng cô Hai Hẩu hẹn 9 giờ sớm mơi cô sẽ xuống đặng hiệp với vợ thầy mà đi mua nhung mua cườm về thêu mặt giày. Thượng Tứ lấy làm mừng, đêm đó cậu ngủ sớm, không thèm chơi bời chi hết. Sáng ngày sau cậu uống cà phê lót lòng rồi cậu chải đầu, bận áo sơ mi lụa, thay bộ đồ tút xo mới, mang giày da màu ma rông. Cậu bước lại đứng ngay tủ kiếng mà nhắm. Cậu thấy cổ gắn nơ đen coi không được đẹp, cậu mới gở bỏ rồi lấy một cái rề gách rằn mà thắt. Cậu dòm chừng cái đồng hồ vàng đeo nơi cườm tay, cậu thấy 8 giờ rưỡi rồi, cậu mới ra xe cầm bánh mà lên nhà thầy thông Hàng.

Cậu nghi cô Hai đã xuống rồi, nên lúc bước vô cửa trong bụng cậu hồi hộp lắm. Cô thông Hàng bước ra chào cậu, cô vừa cười và nói rằng : "Cậu vô sớm dữ?".

Cậu cũng cười mà đáp rằng :

- Vậy mà tôi tưởng trễ nữa chớ.

- Cô Hai hẹn 9 giờ cổ xuống. Bây giờ mới 8 giờ rưỡi. Ở nhà tôi nói một lát đây rồi cũng chạy về một chút.

- Thầy thông có nói về hay sao?

- Thưa, có. Nè, cô Hai Hẩu hẳn hòi lắm, chớ không phải như gái tầm thường vậy đâu. Cậu muốn nói chơi với cổ, cậu phải lựa lời mà nói, chớ đừng có nói lôi thôi cổ khinh khi.

Thượng Tứ đã hồi hộp rồi, mà cậu nghe cô thông hâm dọa như vậy, thì cậu lại càng bối rối hơn nữa. Cậu ngồi trong nhà mà cậu nghe tiếng ai nói, hoặc thấy bóng ai đi ngoài đường, cậu cũng day mặt mà ngó chừng. Cậu lo tính trong trí coi lát nữa cô Hai Hẩu xuống tới, cậu phải chọc ghẹo làm sao cho khỏi quê mùa. Cậu ngồi cậu lo, mà hai đứa con của thầy thông Hàng, một đứa 8 tuổi, một đứa 5 tuổi, chạy giởn ngã ghế đụng bàn, làm cho cậu rối trí, nên cậu giận lung lắm, nếu chúng nó là con cháu của cậu, chắc cậu xách tai dắt đem bỏ dưới nhà sau liền.

Trong lúc cậu đương cực lòng với hai đứa nhỏ ấy, cô Hai Hẩu ngừng xe kéo ngoài cửa cậu không hay. Bữa ấy cô cắc cớ mặc áo hàng Thượng Hải màu da trời, bông bình bác, bận quần cẩm nhung trắng may lưng màu đọt chuối, đầu đội khăn màu trứng gà, chưn mang giày cườm thêu bông đỏ, cổ đeo một sợi dây chuyền nhỏ mà mề đay dông nhận hột xoàn lớn, bàn tay trái đeo một bộ cà rá, cườm tay mặt đeo một chiếc vòng nhận hột xoàn, một tay xách bóp, một tay cầm khăn mu soa bước xuống xe rồi xâm xâm đi vô nhà.

Thượng Tứ mắc vói đỡ cái ghế của sắp nhỏ làm ngã nữa, bởi vậy tới chừng cô Hai Hẩu vô tận cửa cậu mới ngó thấy. Cậu lật đật buông cái ghế mà đứng dậy làm cho cái ghế ngã trúng chưn đứa nhỏ 5 tuổi, nó ré khóc om sòm. Cậu không thèm kể đứa nhỏ, cậu cúi đầu chào cô mà miệng chúm chím cười. Cô huỡn đãi cúi đầu đáp lễ, mà cặp mắt cô nhìn cậu rất nghiêm chỉnh, làm cho cậu không dám đởm đương, phải day mặt chỗ khác.

Cô thông Hàng ở đàng sau chạy ra, chào sơ cô Hai, rồi xớt bồng đứa con nhỏ mà giao cho con ở bồng đi dỗ, và biểu thằng con lớn đi ra ngoài trước chơi. Cô thông mời cô Hai ngồi bên ván, Thượng Tứ đợi khách ngồi rồi, cậu mới kéo ghế mà ngồi dựa cái bàn.

Cô thông hỏi cô Hai Hẩu rằng :

- Cô biết cậu Tư đây hay không?

- Thưa, biết. Thầy đây hôm trước có đi với thầy thông lên nhà nói chuyện với ba em.

Người ta nhắc chuyện như vậy, lẽ thì mình hổ thẹn lắm mới phải. Nhưng vì Thượng Tứ không hiểu sự người ta biết mình là tại mình đến nhà vay bạc đó là sự xấu, cậu nghe người ta nói biết thì cậu hân hoan, nên cười mà nói rằng :

- Cô nhớ tôi, thiệt tôi cảm tình cô lắm.

- Thầy mới lên nhà mấy bữa rày, có lâu lắc gì đâu mà tôi quên.

- Mới gặp nhau mà cô nhớ như vậy, cái tình mới là nặng chớ.

Cô Hai Hẩu nghe tới câu nầy, cô mới chắc Thượng Tứ chọc ghẹo cô. Ban đầu cô muốn làm lơ để tỏ dáng khinh thị cậu bột nầy chơi, mà rồi cô nghĩ người ta chọc mình, nếu mình không đối đáp thì mình chưa phải là người lịch sự, bởi vậy cô cưới mà nói rằng :

- Tôi nghe hôm trước thầy nói thầy cưới vợ rồi. Hễ có vợ thì phải biết thương vợ, phải lo làm mà nuôi vợ, chớ sao thầy gặp tôi thầy cứ dùng tiếng "tình" hoài vậy?

- Xin lỗi cô. Nếu theo ý cô, thì người có vợ không được nói tiếng "tình" hay sao?

- Không có luật nào cấm người có vợ không được nói tiếng "tình". Nhưng mà theo phong hóa, người có vợ mà đi đâu hay gặp ai cứ nói "tình" thì tôi sợ e thiên hạ chê người ấy không đứng đắn.

- Xin cô đừng có tưởng tôi gặp ai cũng nói "tình" hết thảy. Tôi trọng tiếng "tình", tôi coi chữ "tình" cao thượng lắm. Từ nhỏ cho tới bây giờ, tôi mới đem chữ "tình" ra mà nói với cô hồi nãy đó là lần đầu hết.

- Cám ơn thầy. Thầy trọng chữ "tình", nhỏ lớn thầy chưa dùng chữ ấy mà nói với ai hết, bữa nay gặp tôi thầy nói với tôi, tức thị thầy trọng tôi lung lắm. Tôi được thầy trọng, thiệt tôi lấy làm vinh hạnh không biết chừng nào. Mà tôi được vinh hạnh, tôi lấy làm tội nghiệp cho cô ở nhà. Cái vinh hạnh nầy là của cô ở nhà, mà thầy không cho cô hưởng, thầy đem bỏ rơi rớt dọc đường dọc sá, há không đáng xó thương cho phận cô ở nhà hay sao? Thầy về, xin thầy cho phép tôi nhắn với cô rằng tôi nhường cái vinh hạnh ấy cho cô, và tôi xin cô ráng mà giữ gìn, chớ đừng có để hơ hỏng người ta giựt rồi trong gia đình phải xào xáo.

Thượng Tứ muốn đối đáp, nhưng vì lời của cô Hai Hẩu nói nghe thanh nhã quá, cậu nghĩ chưa ra ý mà trả lời, thì kế thầy thông Hàng về. Thầy bước vô chào cô Hai Hẩu, rồi nắm tay Thượng Tứ mà hỏi chơi rằng : "Hai người có hẹn với nhau hay sao mà tới nhà tôi một lượt như vầy?". Thượng Tứ cười chớ không biết lấy lời chi mà đáp. Cô Hai Hẩu bèn nói rằng : "Thưa thầy, em xin lỗi thầy cho em nói ít tiếng : thầy dùng chữ "hẹn" không được trúng. Chớ chi thầy hỏi : "Cậu nghe cô Hai xuống nhà tôi, nên cậu ngồi chực ở đây đặng chọc ghẹo cô chơi phải hôn?". Hỏi như vậy mới đúng chớ".

Vợ chồng thầy thông cười ngất. Thượng Tứ cũng cười và nói rằng : "Cô Hai nói đúng lắm. Cô nói như vậy thì tôi phục ngay, tôi không dám cãi".

Mấy người áp nói pha lững với nhau một hồi rồi cô Hai Hẩu mời vợ thầy thông Hàng đi chợ mua đồ thêu. Thầy thông Hàng đòi đi theo và đốc vợ với cô Hai Hẩu mượn xe hơi của cậu Thượng Tứ mà đi cho mau. Cậu Thượng Tứ sẵn lòng, nên đứng dậy mời hai cô đi. Cô Hai Hẩu dụ dự, cô nói cô còn neo xe kéo. Vợ chồng thầy thông Hàng ép riết, biểu trả tiền xe kéo cho nó đi, cực chẳng đã cô Hai Hẩu phải nghe lời, nên móc bóp lấy bạc cắc mà trả tiền xe kéo rồi theo cô thông mà lên xe hơi. Hai cô ngồi sau, thầy thông ngồi dựa bên Thượng Tứ ở phía trước. Thượng Tứ cầm tay bánh thủng thẳng chạy xuống đường mé sông Cầu Quây, tới nhà hàng cô thông mới biểu ngừng xe lại. Hai cô vô nhà hàng mua đồ. Thầy thông ngồi ngoài xe mới hỏi thăm Thượng Tứ coi ở nhà có chọc ghẹo cô Hai Hẩu hay không. Thượng Tứ đem các lời mình chọc cô và những lời cô đối đáp mà thuật lại cho thầy thông nghe. Thầy thông liền vỗ vai Thượng Tứ và kê miệng nói nhỏ rằng : "Chịu rồi a. Toa chọc mà cô không rầy, cô nói như vậy đó, nghĩa là cô chịu rồi. Mỏa biết ý con gái lắm : Ban đầu mại hơi vậy mà. Mỏa tưởng cổ còn dục dặc đó là tại toa có vợ. Cổ nói hơi đó, toa không hiểu hay sao?".

Thượng Tứ châu mày đáp rằng :

- Tôi bỏ vợ tôi rồi.

- Ủa! Bỏ hồi nào?

- Hổm nay. Tôi chở đồ về bên tôi hết rồi. Tôi không qua bển nữa.

- Cha chả! Toa làm cái đó bậy lắm, vợ kiếm thêm không có, vợ đâu mà bỏ?

- Tôi không cần. Đồ kỳ cục quá, tôi chịu không được.

- Hồi nãy toa có nói chuyện đó với cô Hai Hẩu hay không?

- Không.

- Vậy để bữa nào mỏa biểu vợ mỏa nói với cổ coi cổ nói làm sao. Mỏa chắc cổ nghe chuyện ấy cổ hết dục dặc nữa. Mà bây giờ đây mỏa chắc cổ cũng chịu rồi. Nếu cổ không có tình ý gì với toa sao cổ lên xe toa cổ đi, phải hôn?

Thượng Tứ gặc đầu và cười, coi bộ đắc ý lắm.

Hai cô mua đồ rồi, một người ôm một gói trong nhà hàng đi ra. Cô Hai Hẩu từ giã hai thầy với cô thông, tính lên xe kéo mà về. Thầy thông mời trở lại mà chơi một chút nữa. Cô nói trưa rồi, cô phải về. Cô thông biểu thôi lên xe hơi đặng đưa về nhà. Cô Hai không chịu, cứ kêu xe kéo rồi từ giã mà đi.

Thượng Tứ ngồi ngó theo cô cho đến xe cô đi khuất rồi, cậu mới chịu đạp máy cho xe chạy mà đưa vợ chồng thầy thông về. Đi dọc đường thầy thông hỏi Thượng Tứ rằng :

- Toa biết tại sao mà cô Hai không chịu lên xe hơi cho toa đưa về nhà hôn?

- Không.

- Cổ sợ ông Giáo thấy rồi ổng nghi, biết hôn? Con gái hễ có tình thì có ý như vậy đó. Mấy cái cử chỉ đó đủ chứng rằng cô Hai khoái toa lắm rồi đó.

Thượng Tứ nghe như vậy lại còn đắc ý hơn nữa, bởi vậy về tới nhà thầy thông Hàng, cậu vô uống nước, cậu thấy hai đứa nhỏ cậu không ghét như hồi nãy nữa, cậu lại móc bóp phơi ra lấy một tấm giấy bạc mà cho chúng nó. Cô thông biểu hai đứa con cúi đầu xá cậu mà cám ơn. Thượng Tứ vỗ đầu hai đứa nhỏ mà cười, rồi biểu thầy thông lên xe đặng cậu đưa trở lại sở mà làm việc.

Theo lời của thầy thông Hàng nói, thì sở nguyện của cậu Thượng Tứ đã phỉ rồi, hy vọng của cậu đã gần thành rồi, cậu còn kể gì là nhà, cậu còn kể gì là vợ nữa.

Bà Kế hiền đi thăm sui gia về, bà buồn cho nỗi con hết sức, bà trông con về đặng có nói phải quấy cho con nghe, rồi biểu trở qua Ông Văn xin lỗi cha mẹ vợ mà ở với vợ lại. Bà trông hơn một tuần lễ, ăn không được, ngủ không yên, mà không thấy tăm dạng thi hết. Bà bứt rứt trong lòng chịu không được nên bữa nọ bà phải bỏ nhà đi lên Mỹ Tho kiếm người hỏi thăm. Bà ghé mấy nhà quen, hỏi lần lần mới hay Thượng Tứ ở tại Tam Hòa khách lầu. Bà đi thẳng lại đó, nhằm lúc 9 giờ sớm mai. Bà hỏi thăm ông chủ khách lầu và cậy ông biểu bồi lên lầu kêu giùm Thượng Tứ xuống cho bà nói chuyện. Thằng bồi đi lên một hồi lâu rồi trở xuống thưa rằng cậu Tư ngủ mê, kêu cậu không chịu dậy, cậu biểu ai muốn thăm thì để chiều sẽ lại. Bà Kế hiều trở lên nói rằng có bà già ruột của cậu lại kiếm cậu, nên cậu phải xuống nói chuyện một chút : Bà ngồi đợi gần một giờ đồng hồ, Thượng Tứ mới chịu xuống. Cậu bận một bộ đồ Pyjama bằng lụa trắng có sọc xanh, tóc chôm bôm, mặt sật sừ.

Bà Kế hiền thấy mặt con thì bà nổi giận, nên bà hỏi cụt ngủn rằng :

- Mầy đi đâu dữ vậy hử?

- Tôi đi thăm anh em chơi chớ có đi đâu.

- Về nhà đặng tao nói chuyện cho mà nghe.

- Chuyện gì?

- Ậy, thì về nhà rồi sẽ biết mà.

- Má về trước đi.

- Mầy không chịu về hay sao?

- Chiều tối rồi tôi sẽ về.

- Vậy chớ mầy về liền bây giờ không được hay sao?

- Không được. Tôi còn mắc công chuyện một chút nữa.

- Ứ hự! Con thiệt là quá quắc lắm.

- Có gì đâu quá quắc. Má về đi. Tôi nói chiều tôi về mà.

- Chắc hôn?

- Sao không chắc.

- Ờ, thôi tao về : Mà chiều mầy phải về nghe hôn.

Bà đứng dậy cáo từ ông chủ khách lầu rồi lấy dù mà đi về.

Bà Kế hiền vô tới sân, bà thấy có một cái xe hai bánh để đó, chổng gộng lên trời, bà không biết xe của ai. Chừng bà bước lên thềm bà thấy cô Mạnh ở trong nhà chạy ra xá bà thì bà mừng quýnh nên bà hỏi rằng :

- Con qua hồi nào đó?

- Thưa, con mới qua. Hổm nay con muốn đi mà mắc công việc lặn dặn hoài, nên bữa nay con mới đi được. Thưa, má ở bên nây mạnh?

- Ờ, mạnh. Anh chị bên nhà cũng mạnh, con há?

- Dạ, thưa mạnh. Thầy má con có gởi lời thăm má.

- Sao con không đi sớm sớm, để đi trưa nắng quá?

- Thưa, con qua hồi nãy cũng còn sớm.

Bà đi rửa mặt và hối trẻ dọn cơm. Cô Ba Mạnh lật đật đi xuống nhà bếp mà coi cơm nước cho mẹ chồng. Bà Kế hiền kêu dâu mà nói rằng:

- Con để đó cho con Mang nó dọn, con. Con lại đây cho má hỏi thăm một chút ... Hổm nay anh chị bên nhà hết giận thằng Tư hay chưa?

- Thưa, con có thấy giận hờn chi đâu. Má con có hỏi không biết tại sao anh Tư về ở biệt bên nây, không thấy ảnh qua nữa.

- Ờ, bữa hổm má về má rầy nó, má biểu nó phải qua lạy anh chị mà xin lỗi. Nó nói sợ quá, để ít bữa nguôi ngoai rồi nó mới dám đi. Rồi kế có một thầy, anh em bạn học của nó hồi trước, tới rủ nó đi Vũng Tàu hứng gió. Nó đi với thẩy hổm nay. Nó nói chiều bữa nay nó về. Con đi qua đây, con có thưa trước cho anh chị biết chừng nào con về hay không?

- Thưa, má con dặn qua thăm má bên nây rồi xế phải về.

- È! Về chi gắp vậy nào! Ở chơi vài bữa rồi sẽ về, con.

- Thưa con hứa xế về, nếu con ở, sợ e thầy má con ở nhà trông.

- Không hại gì. Xe để đàng trước đó là xe ở bển con mướn co qua, phải hôn?

- Thưa phải.

- Nếu vậy thì tiện lắm. Để một lát kêu thằng đánh xe cho nó ăn cơm, rồi biểu nó về bển nó thưa giùm với anh chị hay, con ở bên nây chơi vài bữa rồi sẽ về.

- Thưa, sợ ở lại bên nây, thầy má con trông lắm!

- Không có sao đâu. Về bên nây, chớ phải đi đâu hay sao mà sợ. Còn mình có cho xe về nói mà trông giống gì.

Cô Ba Mạnh không muốn ở, mà bị mẹ chồng ép quá cô phải vưng lời, song cô không vui chút nào hết.

Bà Kế hiền, một là vì con dâu có tiền, hai là vì con mình không nên thân, bởi vậy bà vui vẻ ngon ngọt với dâu bà lung lắm. Bà thấy dâu không có tỏ một lời nào phiền chồng thì bà mừng thầm, chắc sao Thượng Tứ về gặp vợ, hai vợ chồng sẽ dã lã với nhau, rồi dắt nhau trở về bển.

Đến nửa chiều, bà trông Thượng Tứ đến nỗi ngồi không yên chỗ được. Bà đi ra đi vô, lóng tai, dòm chừng hoài, nghe xe ai chạy ngoài lộ bà cũng tưởng xe của con về, nên bước ra mà ngóng. ợi đến đỏ đèn mà không thấy tăm dạng chi hết, bà mới biểu dọn cơm lên ăn. Bà ngồi ăn cơm với dâu mà trí bà lo ra, bà cứ nói: "Thằng kỳ cục quá. Nó nói chiều nay về, mà sao đến chừng nầy nó chưa về kìa".

Ăn cơm rồi, bà Kế hiền đương ngồi trên ván ăn trầu mà nói chuyện với dâu, thình lình nghe tiếng xe chạy rồi quẹo vô cửa. Bà chắc Thượng Tứ về, nên trong bụng mừng, song bà làm tỉnh mà nói rằng: "Thằng quỉ đó bây giờ nó mới về a".

Thượng Tứ bước vô, bị đèn chấp chóa, cậu thấy trong nhà không rõ, chỉ thấy mẹ ngồi dựa cái đèn mà ăn trầu, cậu bèn hỏi rằng: "Má biểu tôi về nói chuyện gì?".

Câu hỏi ấy làm cho lòi mấy lời xảo trá của bà nói với dâu hồi trưa, bởi vậy bà giận bà đáp rằng: "Cái tật lý lắc lý lưởi không chịu bỏ! Đi sao mà quá chừng, con nó trông không được, nó qua nó kiếm đây, chớ nói chuyện gì!".

Thượng Tứ day qua thấy vợ bận quần đen áo đen, đương đứng gần cây cột, cậu châu mày rồi nói rằng: "Ai cầu kiếm? Kiếm làm giống gì? Đi về bển đi! Quân bây khinh khi tao lắm, còn đeo theo làm chi? Muốn báo tao phải không?".

Cô Ba Mạnh là gái ăn nói nhỏ nhoi, cô nghe những tiếng thô tục như vậy thì chát chúa lỗ tai cô, bởi vậy cô đứng mà khóc, chớ không biết lời chi mà đối đáp.

Bà Kế hiền la lớn lên rằng: "Thằng quỉ! Nói hơi du côn với ai vậy? Vợ mầy nó có lỗi gì mà mầy dám mắng nó? Tao đạp đầu đuổi mầy đi đây mầy không lo, lại lo đuổi nó. Bữa nay tao mới thấy cái tài của mầy rồi đa. Hèn chi anh chị ở bển chịu mầy không nổi phải lắm mà".

Thượng Tứ quậm mặt nói rằng:

- Tôi biết mà. Má thấy họ giàu má mê, nên chuyện gì má cũng binh họ hết thảy. Họ coi tôi như rơm như rác, má cũng không kể.

- Ai coi mầy như rơm như rác đâu? Khéo kiếm cớ mà chữa mình! Giá mạng mầy mà cưới được con vợ như vậy thì đáng lạy nó nữa chớ, khéo làm bộ.

- Hứ! Quý với má, chớ quý với ai đó mà má chưng.

- Hơi nó nói, ai chịu được thì chịu đi coi nè!

- Má nói nó quí lắm; má để rồi coi tôi có vợ bằng mười nó hay không mà.

Bà Kế hiền thấy con nghinh ngang quá, nếu nói nữa thì là chọc cho nó nói bậy thêm chớ không ích gì, bởi vậy bà lắc đầu ngồi lặng thinh.

Thượng Tứ bỏ mẹ, trở qua hỏi vợ rằng:

- Bộ khi thằng cha với con gái mẹ mầy sai mầy qua đây chọc cho tao đánh đặng làm cớ mà lên tòa xin để, phải hôn? Không cần gì để. Tao cho phép mầy về lấy chồng khác làm ăn. Cái giàu của mầy đó không đủ cho tao xài một lát, đừng có chộn rộn.

- Cha mẹ tôi có quấy với mình chỗ nào đâu, mà hễ mở miệng thì mình cứ mắng nhiếc cha mẹ tôi. Còn tôi cũng không có khoe giàu với mình hồi nào, sao mình cứ câu mâu sự đó hoài. Đạo vợ chồng, dầu mình không thương tôi mình nói một tiếng rồi mình bỏ cũng được, cần gì mà phải nặng nhẹ nhiều lời. Hôm trước mình đánh chưởi tôi rồi mình chở đồ về bên nây, tôi đã nghi cái duyên nợ của tôi với mình chỉ có mấy ngày mà thôi! Nãy giờ tôi nghe những lời mình nói đó nữa, thì tôi chắc, chớ tôi hết nghi rồi. Không sao, phần số tôi vô duyên, nên bị chồng bỉ bạc thì tôi chịu, tôi chẳng dám phiền trách ai. Tôi cầu chúc cho mình kiếm vợ khác cho hơn tôi, đặng mình vừa lòng... Cô Ba Mạnh nói tới đó thì cô khóc ròng, nói không được nữa.

Bà Kế hiền thấy dâu như vậy, còn con như vậy, thì bà tức tửi nên bà cũng khóc.

Thượng Tứ đã không biết động lòng mà cậu lại đứng dậy, khoát tay, nói rằng: "Tao với mầy thiệt hết duyên nợ rồi. Thôi rày sắp lên đừng có qua lại bên nây nữa. Mầy về nói với cha mẹ mầy ráng kiếm thằng rể khác biết cày bừa, biết tiện tặn, cho xứng với nhau, chớ tao là quân chơi bời, cha mẹ mầy không ưa được".

Bà Kế hiền đã nhất định không thèm nói với con nữa, mà thấy nó hỗn hào ngang ngược quá, bà nín không được, nên bà giựt cây chổi lông bà rượt đánh và chưởi om sòm. Thượng Tứ không sợ mẹ rầy, nhưng mà sợ cây chổi trúng, nên cậu bỏ chạy ra sân rồi leo lên xe hơi đi mất.

Bà Kế hiền trở vô và khóc và nói với dâu rằng: "Má vô phước quá! Má có một mình nó, má thương, nên má lo cho nó hết sức, lo cho nó có ruộng đất cho nhiều, rồi lại lo cho nó có vợ chỗ tử tế. Nó lại không biết ơn, lại sanh tâm ngỗ nghịch. Thôi, nó muốn hư, thôi thây kệ nó, con chẳng nên buồn. Con về con cũng đừng có thuật những lời nó nói bậy đó cho anh chị nghe làm anh chị buồn. Để coi chừng nào nó ăn năn cho biết".

Mẹ chồng nàng dâu khóc với nhau, người vô phước, kẻ vô duyên, tuy sự đau đớn khác nhau, song cũng buồn thảm như nhau cả. Bà Kế hiền buồn nhưng mà bà kiếm lời khuyên giải dâu luôn luôn. Bà không dám nói chuyện Thượng Tứ qua xin lỗi cha mẹ vợ mà ở lại, mà bà cũng không dám tính chuyện xin rước dâu về ở bên nây nữa; bà cứ khuyên dâu đừng buồn, bà nói có lẽ tại hai tuổi xung khắc, nên vợ chồng phải xào xáo như vậy trong một đôi tháng rồi mới thuận hòa.

Đến sáng, cô Ba Mạnh xin phép mẹ chồng mà về kẻo cha mẹ trông. Bà Kế hiền nghĩ phận dâu bà thương hết sức, song vợ chồng nó như vậy, bà cầm ở lại sao được, bởi vậy bà phải mướn xe cho dâu về. Khi cô Ba Mạnh từ giã mẹ chồng mà lên xe, cô nói rằng: "Thôi, má ở đây mạnh giỏi. Chắc là từ rày sắp lên con ít gặp má, bởi vì chồng con cấm không cho con qua đây nữa, con làm sao mà thăm viếng má được..." Cô nói tới đó thì cô khóc vùi. Bà động lòng bà cũng khóc. Mẹ con khóc với nhau một hiệp như hồi hôm vậy nữa rồi mới từ biệt nhau.

Bà Kế hiền tính để cho dâu về ít bữa rồi bà sẽ qua mà nói thiệt việc nhà cho anh sui chị sui nghe, và hỏi anh sui chị sui coi bây giờ phải liệu lẽ nào, chớ hư nên gì nó cũng là con rể trong nhà, nếu giận lẫy buông xụi thì cũng tội nghiệp phận con, mà thiên hạ người ta cũng đàm tiếu. Bà tính như vậy mà hễ bà nhớ tới việc con thì bà buồn, bà lo, bà giận, bà tức, ăn không ngon, ngủ không được, trong vài ngày bà nhúm bịnh.

Bà trẻ tuổi, mà lại mạnh mẽ nữa; thuở nay bà ít hay nhức đầu, nóng lạnh, sổ mũi, mỏi tay như mấy bà có tiền khác. Hổm nay vì bà rầu rĩ nỗi con, ăn ngủ không được, thân thể bải oải, dún mình ớn lạnh, ho khúc khắt ít tiếng rồi khạc ra có vài cục máu bằng ngón tay út vướng theo đàm. Bà thấy vậy bà kinh tâm thất sắc, biết bịnh hiểm nghèo. Bà lật đật hối thằng Ngộ xuống xóm dưới rước thầy thuốc Kham lên coi mạch hốt thuốc cho bà uống.

Bà Kế hiền nhứt định lo dưỡng bịnh, không thèm lo việc chi khác nữa hết. Tuy bụng bà muốn như vậy, song bà nằm một mình, trí bà bắt nhớ chuyện nầy, chuyện nọ hoài, nhớ thằng con ngỗ nghịch đã ló mòi hư rồi, nhớ chứng bịnh hiểm nghèo sợ không sống lâu được, mà hễ nhắm mắt rồi thì còn gì sự nghiệp, công phu lòn cúi, tráo trở, bày mưu, lập kế gần 20 năm trường, trong một phút sẽ tan như khói bay, sẽ tiêu như bọt nước.

Người ở trong cái địa vị của bà mà không lo sao được, mà mắc chứng bịnh thổ huyết hễ lo thì làm sao mà mạnh. Bà uống năm sáu thang thuốc, khạc không có ra huyết nữa, nhưng mà tâm thần mờ mệt, nước da mét xanh, thân thể gầy mòn, tay chơn rũ riệt. Bà ráng hết sức thì trong buồng xê ra ngoài ván mà thôi, chớ bà không dám tính bước ra khỏi cửa.

Hôm trước bà Hội đồng Thưởng cho phép con đi thăm mẹ chồng nó. Chừng cô Ba Mạnh về, bà hỏi thăm thằng rể ở bển làm việc gì, thấy vợ nó qua nó có mừng hay không. Tuy cô Ba Mạnh không quên lời mẹ chồng dặn, nhưng mà việc nhà, cô giấu ai chớ có lẽ nào dấu mẹ ruột, huống chi duyên phận lỡ làng, cô ấm ức khó nỗi ôm ấp trong lòng được, bởi vậy cô ngồi khỉ khầm thuật chuyện chồng mắng nhiếc xô đuổi lại cho mẹ nghe.

Bà Hội đồng giận lắm, song bà không muốn lộ cái nét giận của bà cho con thấy, nên bà cắn răng ngồi làm thinh. Bà có ý trông coi như chị sui có qua hoặc xin lỗi cho con, hoặc xin đem dâu về, thì bà sẽ nói phải quấy cho chị sui nghe. Bà trông đến tháng chạp mà không thấy sui hay là rể qua nói chuyện chi hết. Bà lấy làm phiền, nên bữa nọ bà tính đi qua Mỹ Hội thăm chị sui coi tại sao mà bặt tin cho biết. Ông Hội đồng can rằng: "Bà đi đâu cho thất công. Khéo làm cho họ khinh dễ. Đã biết mình có con gái, nên hư gì mình gả một lần mà thôi, dầu mắc rể hư, mình cũng không lẽ bắt con lại mà gả chỗ khác. Mà thằng Tứ là đồ khốn nạn quá, nó hân hủi đuổi xô con Mạnh, tôi nghe nó qua Mỹ Tho mướn nhà ngủ ở với con đĩ nào đó hơn một tháng nay rồi, bây giờ bà còn qua năn nỉ cho nó về ở với con mình hay sao? Không được. Đồ bất hiếu như vậy, tôi nhất định không cho nó bước chơn tới nhà tôi, mà tôi cũng không cho con Mạnh qua bển nữa. Con tôi thì nó ở nhà tôi, có giỏi nói tiếng gì nữa thì tới đây mà nói".

Bà Hội đồng cười mà đáp rằng: "Ông đừng có binh con mà nói như vậy, chị sui chỉ nghe chỉ phiền. Con chỉ quấy, chớ chỉ ở với mình có mích lòng chỗ nào đâu. Huống chi con Mạnh đã có thai nghén rồi bây giờ mình bắt chặt bắt lỏng, té ra mình muốn phân rẻ vợ chồng nó hay sao. Mình vô phước gặp thằng rể hoang đàng, thì để thủng thẳng coi nó làm sao, chớ nếu mình nóng nảy quá thì cái lỗi trở về mình. Để tôi qua thăm chị sui thử coi chỉ nói làm sao mà. Con của mình thì nó ở nhà mình đó, ai bắt đi đâu được mà ông sợ".

Bà Kế hiền đau nằm chèo queo ở nhà một mình với hai đứa ở; Thượng Tứ đi biệt không thấy trở về. Bà buồn việc nhà, bà muốn qua than thở với sui gia mà đi không được; bà trông cho thầy Ban biện Chí hoặc cô Ba Ngọc đến thăm mà cũng không thấy đến.

Bà mới ăn một chén cháo rồi nằm ngoài ván mà nghỉ cho khoản khoát. Thình lình bà nghe có tiếng xe ngựa chạy vô sân. Bà biểu con Mang ra cửa coi có khách nào đó. Con Mang bước ra rồi liền chạy vô thưa rrằng: "Thưa, có bà Hội đồng qua".

Bà Kế hiền ráng ngồi dậy mà bộ bà mệt lắm. Bà Hội đồng bước vô trong, sui gia chào hỏi nhau. Bà Hội đồng vừa ngồi xong kế bà hỏi rằng:

- Chị đau sao đó mà chị ốm dữ vậy?

- Hổm nay tôi bịnh dữ quá. Hôm con Tư ở bên nây nó trở về bển thì tôi có nói để vài bữa rồi tôi qua thăm anh chị. Té ra nó về rồi thì kế tôi xáng bịnh, đi đâu không được hết.

- Bất nhơn dữ hôn! Vậy mà ở bển có hay đâu. Chị rước thầy nào mà uống thuốc, thầy có nói đau chứng bịnh chi hay không?

Theo thói thường, những người đau bịnh hiểm nghèo cũng như những người đau bịnh kín, họ hay giấu giếm, không muốn nói chứng bịnh cho người ta biết. Bà Kế hiền cũng vậy, bà sợ nói thiệt rồi chị sui ở bển đồn ra, thiên hạ dị nghị, bởi vậy bà nói trớ rằng:

- Tôi đau cũng không có chi lắm; nhức đầu, nóng lạnh, rồi bải hoải tay chơn, ăn ngủ không được, tại vậy mà ốm. Tôi uống thuốc của ông thầy Kham coi có mòi khá khá, mà sao cũng còn hơi mệt hoài.

- Chị nằm xuống mà nghỉ. Đau mà ngồi làm chi.

- Thưa được. Mời chị uống nước.

Bà Kế hiền biểu con Mang bắt vịt làm thịt đặng nấu cơm. Bà Hội đồng không cho, bà nói bà mới ăn cơm rồi đi đây, nên không đói. Hai sui gia nói chuyện với nhau một hồi lâu, bà Hội đồng không thấy chàng rể, bà mới hỏi rằng:

- Thằng Ba nó đi đâu vắng?

- Nó đi hoài có biết đâu mà nói.

Bà Kế hiền trả lời mà hơi bà mệt, sắc bà buồn lung lắm.

Bà Hội đồng thấy vậy, bà không dám hỏi nữa và bà khuyên chị sui hãy nằm xuống mà nghỉ. Bà Kế hiền liệu sức ngồi ráng nữa không nổi, nên bà cáo lỗi rồi kéo gối mà nằm. Vì con nó làm cho bà phiền não nhiều, nên bà nằm mà nước mắt chảy ròng ròng. Bà Hội đồng biết chị sui đau đớn nỗi con, nên bà day qua têm trầu mà ăn, để cho chị sui nghỉ.

Cách một hồi, bà Kế hiền lấy khăn hột mè lau nước mắt rồi nói rằng: "Tôi không dè tôi vô phước đến đỗi nầy! Tôi giấu ai chớ giấu chị làm chi. Tôi sanh có một chút con, tôi muốn cho nó được tử tế với người ta. Hồi nó còn nhỏ, tôi lo cho nó ăn học, tốn hao bao nhiêu tôi không kể. Nó đi học thì tôi ở nhà lao tâm tiêu tứ, lập thế kiếm tiền sắm ruộng mà để cho con. Tè ra nó học, báng đồ nhi phế, không ra gì hết. Tôi nghĩ thôi con học không được, thì cưới vợ cho nó, đặng nó có đôi bạn lo làm ăn với người ta. Cưới vợ rồi, nó lại sanh chứng hoang đàng cứ đi chơi hoài, không lo việc chi hết mà lại hân hủi vợ nữa. Tôi mắc thằng con, thiệt tôi buồn rầu hết sức. Hổm nay tôi tính để qua nói chuyện nhà cho anh chị nghe, mà rồi kế đau nên đi không được. Tôi biết tôi vô phước mà anh chị cũng vô phước lắm. Phải tôi dè nó như vậy thì tôi có cưới vợ cho nó làm chi. Mà thôi, việc đã lỡ rồi, tôi xin anh chị thương, hỉ xả giùm cho nó. Không biết chừng tại tuổi hai đứa nó xung khắc nên mới sanh chuyện trắc trở như vậy. Để tôi uống thuốc ít ngày tôi mạnh rồi tôi kiếm thầy giỏi mà coi tuổi lại coi. Tôi thấy họ như vậy cũng hiếm, vợ chồng trắc trở, họ làm đám cưới, xây phòng lại rồi hòa thuận ăn ở với nhau như thường.

Bà Hội đồng thấy chị sui thiệt tình mà lại biết phải, bà không nỡ nói nặng nhẹ, nên bà suy nghĩ một hồi rồi đáp lại rằng:

- Chị đai thì cứ lo uống thuốc cho mau mạnh. Chuyện sắp nhỏ để sau rồi sẽ tính.

- Chị qua sao chị không dắt con Tư qua chơi?

- Nó cũng muốn đi qua thăm chị lắm, ngặc gì hôm trước thằng Tư cấm không cho nó qua bên nây nữa, nên nó không dám đi.

- Thằng quỉ đó nói bậy, hơi nào mà giận nó.

- Thầy nó hờn nó lung lắm. Ổng ít hay nói mà tánh ổng gắt. Ổng nghe nó đuổi xô đánh chưởi con nhỏ ổng giận nên ổng cấm con nhỏ không cho qua lại nữa.

- Tôi coi bộ con Tư nó còn thương thẳng lắm.

- Thì nó thương chớ sao, tại thẳng kỳ cục quá, chớ có phải tại nó đâu... À, chị có hay việc gì không?

- Việc gì?

- Con nhỏ nó có nghén.

- Vậy hay sao?

- Á, tại vậy đó, nên tôi không muốn cho nó đi xe đi cộ, sợ dằn.

- Nếu nó có nghén thì nó phải tiếp dưỡng không nên đi xe.

- Nó dã dượi tối ngày, chớ phải nó mạnh mẽ như hồi trước, thì tôi biểu nó qua ở nuôi chị ít bữa.

- Thôi, tưởng là nó mạnh thì qua chơi, chớ nó như vậy thì qua làm chi.

Bà Hội đồng ở nói chuyện chơi tới xế mát bà mới về.

Chị sui về rồi, bà Kế hiền càng buồn hơn nữa. Lúc nói chuyện với chị sui, bà giấu, vì không nỡ khai hết cái tội của con ra, chớ từ bữa Thượng Tứ rầy vợ rồi cậu bỏ lên xe mà đi, thì cậu đi biệt mất, không có léo về nhà nữa, bà Kế hiền đau mà cậu không hay, mà bà giận, bà cũng không thèm sai ai đi kiếm.

Cậu Thượng Tứ đi đâu dữ vậy?

Cậu có đi đâu. Cậu lên Mỹ Tho, cậu ở Tam Hòa khách lầu mà chơi; cậu có thèm đi đâu xa làm chi, mà cậu không muốn về nhà chớ.

Cậu mê mẩn cô Hai Hẩu, nên đeo đuổi theo vợ chồng thầy thông Hàng mà cậy làm mai. Ban đầu thầy thông Hàng nói rằng cô Hai Hẩu đã đành cậu rồi, nhưng vì cậu có vợ, nên cô không dám gần. Cậu nói cậu đã bỏ vợ rồi, và cậu cậy thầy thông trao lời lại rằng, nếu cô ưng cậu thì cậu thề chắc cậu sẽ làm cho cô được hạnh phước trọn đời. Cách ít bữa, thầy thông đưa cho cậu một phong thơ mà nói rằng: "Bữa nay ở nhà tôi lên thăm cô Hai Hẩu và luôn dịp nói giùm chuyện cho cậu. Cô có gởi một cái thơ mà trả lời cho cậu đây. Thơ nói chuyện gì không biết. Cậu mở ra mà coi.

Thượng Tứ nghe nói cô Hai Hẩu gởi thơ thì cậu mừng quá, lật đật mở ra mà đọc. Thơ như vầy:

"Thầy Tư rất yêu dấu ơi!

"Em không dè phận hèn mọn vụng về nầy mà có phước được thầy chiếu cố. Em rất cảm cái tình tri ngộ ấy, chẳng biết chi mà đền bồi, chỉ nguyện ôm khối tình mà chờ chừng nào thầy thiếu người nội trợ thì em sẽ xin với thầy cho em theo hầu hạ, đặng sớm dưng chén cơm, chiều rót tách nước, cho phỉ tình kính trọng bực văn nhơn".

Em thề quyết dầu phải chờ đến bạc đầu em cũng ráng chờ, song nếu thầy có lòng thương thì xin cho chút vật mọn làm tin, đặng khi nhớ nhau thì dở ra mà nhìn, cho nguôi bớt đoạn sầu phân cách. Vài hàng sơ lược, cuối xin quân tử dung tình". H.H.

Thượng Tứ cầm bức thơ coi đi coi lại hai ba lần. Thầy thông Hàng ngồi liếc mắt dòm cậu thì thấy sắc diện cậu tươi rói mà miệng lại chúm chím cười. Thầy biết cá đã nhấp mồi rồi, nên thầy hỏi rằng: "Thơ nói sao đó cậu?". Thượng Tứ liền trao cái thơ cho thầy thông coi. Thầy coi xong rồi thầy trả lại và cười nói rằng: "Tôi đoán hay hôn? Tôi thấy bộ thì tôi biết cô đã chịu rồi mà. Cậu cám ơn tôi hay không, hử?". Thượng Tứ gặt đầu lia lịa mà đáp rằng:

- Mang ơn lắm. Chỗ ký tên mà viết 2 chữ H.H. là nghĩa gì vậy?

- Cậu dốt quá! Hai chữ H đó là Hai Hẩu chớ gì.

- À phải. Mà không biết thơ nầy chữ cổ viết hay là cổ mượn ai?

- Cổ biết chữ, có lẽ cổ viết, chớ chuyện kín mà cổ mượn ai.

- Chữ con gái mà viết hay quá.

- Theo thơ đó thì cổ nói chừng nào cậu rảnh rang, không có vợ, thì cổ sẽ ưng cậu, dầu phải chờ đến già cổ cũng chờ, song bây giờ cổ xin cậu đưa cho cổ một vài vật gì để làm kỷ niệm. Cổ nói nghe có tình quá. Vậy cậu tính sao đây?

Thượng Tứ ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng :

- Dầu cô Hai không có buộc như vậy, tôi cũng không thể ở với vợ tôi được. Đồ kỳ quá, chịu không nổi. Để thủng thẳng rồi tôi sẽ làm đơn đến Tòa mà xin phá hôn thú. Bây giờ cho cổ một vật gì để làm kỷ niệm, không biết mua giống gì mà cho đây".

Cậu nói tới đó rồi cậu châu mày mà suy nghĩ nữa. Thầy thông Hàng nói rằng :

- Mua giống gì thì cậu liệu, tôi có biết đâu. Nhưng mà cô Hai Hẩu là người đúng đắn, nếu muốn kỷ niệm thì phải mua đồ cho xứng đáng chớ cho đồ bậy bạ cổ khinh dễ.

- Theo ý thầy, bây giờ phải mua vật gì?

- Kỷ niệm cho đàn bà con gái thì phải mua đồ nữ trang, như bông tai, hoặc cà rá, hoặc dây chuyền, hoặc vòng, mà thứ nào cũng phải nhận hột xoàn coi mới được... Cha chả! Mà làm như vậy coi đúng, song phải tốn tới năm bảy trăm.

- Ối! Có hại gì việc đó; tốn bao nhiêu cũng được mà. Thầy xin phép đi Sài Gòn một bữa với tôi đặng mua đồ chơi.

- Được. Mà mua thứ hột xoàn đồ đó tôi không hiểu. Ở nhà tôi nó thạo lắm, để tôi mượn nó đi với mình.

- Nếu được vậy thì tốt lắm ... Bữa nay thứ 5 rồi; thôi thầy xin phép trước, sớm mơi mốt, nhằm thứ 7, mình đi.

Hẹn hò xong rồi, Thượng Tứ nghĩ trong bóp phơi còn có 700 đồng bạc, sợ e mua đồ không đủ, nên cậu tính về nhà o bế mẹ mà xin tiền thêm.

Vì cậu bỏ nhà đi trót tháng, cậu sợ mẹ giận mà không cho tiền, nên trở về cậu êm ái lắm, xe vô sân cậu không dám bóp kèn, lúc vô nhà cậu đi giày không dám bước mạnh. Phía trước cửa đóng bì bịt, cậu phải đi vòng ra phía sau. Mà phía sau cũng vắng hoe, cậu ngó quanh quất thấy có một mình con Mang đương lui cui nấu cơm dưới nhà bếp, cậu bèn bước xuống hỏi rằng: "Má tao đi đâu, Mang?" Con Mang đáp rằng :

- Bà không có nằm trên ván hay sao?

- Không.

- Nếu vậy thì chắc bà vô nằm trong buồng.

- Mới chừng nầy mà nằm trong buồng nỗi gì?

- Từ hôm cậu đi đến nay, bà rầu bà đau, nên bà nằm trong buồng hoài.

- Đau giống gì?

- Bà ho, rồi nhức đầu nóng lạnh.

Thượng Tứ nghe nói đau, mà cậu không tỏ dấu lo sợ chi hết, cậu lại chúm chím cười rồi đi riết vô buồng mà kiếm mẹ. Cậu khoát mùng thấy mẹ nằm chèo queo, cậu hỏi rằng : "Má đau sao đó má?".

Bà Kế hiền mở mắt thấy con, bà ráng chống tay ngồi dậy mà nói rằng :

- Mầy đi đâu sao không đi luôn đi, còn trở về làm gì? Mầy tính về mà chọc cho tao giận, đặng tao chết cho mau phải hôn?

- Đi chơi mà.

- Thì đi chơi, chớ ai nói mầy đi đâu. Thôi, tao không biết mẹ con gì nữa. Đi đâu thì đi cho khuất con mắt tao, chết bờ chết bụi gì thì chết phứt cho rồi. Đồ khốn nạn lắm!

- Giống gì mà khốn nạn!

Thượng Tứ tính về xin tiền, chẳng dè mới đút đầu vô nhà thì bị mẹ rầy rà. Cậu đã nghe con Mang nói tại cậu đi nên bà rầu bà đau, mà cậu không thèm để ý đến câu nói ấy; cậu cứ nghĩ trong trí rằng mẹ ể mình nên mẹ quạu, không biết làm sao mà xin bây giờ.

Cậu bỏ ra ngoài trước, đi ngang qua bàn thờ cha, cậu không thèm ngó; cậu đi tới hàng ba rồi chấp tay sau đít qua lại lại qua mà suy nghĩ : còn có 700 đồng bạc, nếu mua đồ hết rồi lấy gì mà xài? Mà bây giờ mẹ đương giận, làm sao mà xin tiền cho được? Cậu đi một hồi rồi cậu trở vô nhà trong; cậu thấy mẹ đã ra nằm trên ván, cậu lại ngồi một bên mà hỏi rằng :

- Má đau sao đó vậy má?

- Tao đau sao mặc kệ tao; mầy hỏi làm gì? Mầy có kể đến ai đâu mà mầy hỏi?

- Má giận thiệt hay sao?

- Tao thù, tao oán mầy, chớ không phải giận mà thôi đâu!

- Mẹ mà thù oán con cái gì!

- Tao đẻ mầy đó là đẻ yêu, đẻ quỉ, chớ không phải là đẻ con. Bởi yêu quỉ nên mới theo mà báo đời tao như vậy đó.

- Mà chưởi rủa hay là má đánh tôi tự ý má. Má làm cho đã nư giận của má đi. Má muốn làm sao tôi cũng chịu hết thảy.

- Khéo nói liều mạng.

- Thiệt chớ liều mạng.

Bà Kề hiền day qua chỗ khác, không thèm nói nữa. Thượng Tứ thấy mẹ đã dịu rồi, cậu tính để thủng thẳng rồi sẽ òn ỹ, nên cậu thay đồ mát rồi đi ra vườn mà chơi. Đến tối cậu theo dã lã, kiếm chuyện mà nói với mẹ. Tình mẹ con đương hồi giận thì nói cho hung, chớ không thế nào mà dứt được, bởi vậy bà êm lần lần, tính thừa lúc con biết lỗi mà khuyên dỗ nó.

Thượng Tứ nhơn dịp ấy mới xin tiền, cậu xin mẹ đưa số bạc trước cho cậu, rồi ra giêng mẹ góp lúa ruộng hương hỏa mà lấy lại. Bà Kế hiền nghe nói tới bạc tiền ruộng đất thì bà phát giận lên lại, nên bà hỏi rằng: "Tè ra mầy về đây là về khảo tiền hay sao? Đồ khốn nạn! Một đồng xu cũng không được, đừng có mong xin tiền tao nữa. Thà là của nầy tao để cho chó ăn".

Thương Tứ xin tiền không được, nên cậu ngủ một đêm rồi sáng bữa sau cậu trở lên Mỹ Tho.

Đến thứ bảy, cậu rước vợ chồng thầy thông Hàng đi Sài Gòn. Cô thông bày mua một miếng mề đai dông với một chiếc cà rá nhận hột xoàn, hai món giá năm trăm rưỡi. Chiều trở về Mỹ Tho, cậu trao đồ ấy cho cô thông và viết một cái thơ rồi cậy cô đem đưa giùm cho cô Hai Hẩu, cô thông đi một hồi rồi trở về nói rằng cô Hai Hẩu được thơ và đồ kỷ niệm thì cô mừng lắm, cô lại có gởi một cái khăn mu soa lụa của cô thêu để cho cậu làm tin. Thượng Tứ lấy khăn dở ra coi rồi cậu xếp bỏ túi, bộ trân trọng hân hoan vô cùng.

Đêm đó Thượng Tứ than với thầy thông rằng cậu hết tiền, không biết làm sao cho có vài ngàn đồng bạc mà xài. Thầy thông nói rằng bây giờ cậu có tư tình với cô Hai Hẩu, không lẽ đến ông Giáo Chuột mà vay nữa, vậy để thầy kiếm Chà-và mà vay giùm cho cậu. Thầy thông là người lo lắng giỏi, bởi vậy thầy lo trong vài ngày, xin giùm sao lục chúc ngôn, địa bộ, rồi Thương Tứ đem thế cho Chà mà lấy hai ngàn đồng bạc dễ như chơi. Thượng Tứ có tiền rồi, cậu có cần gì mà về nhà nữa, bở vậy mẹ rầu, mẹ đau, thì mẹ chịu, cậu xài, cậu chơi, thì cậu vui!

Xin để vợ phải trưng đủ bằng cớ như luật định, thì tòa mới lên án mà hủy hôn thú. Theo như lời của thầy thông Hàng cắt nghĩa luật Hộ thuộc về người Annam ban hành năm 1883, thì tòa cho để vợ là khi nào người đàn bà có phạm một lỗi trong mấy lỗi nầy:

1) Lấy trai chồng bắt được có đủ bằng cớ; 2) Bỏ nhà chồng mà trốn; 3) Đánh đập cha mẹ chồng hoặc các người trưởng thượng khác bên chồng; 4) Phạm tội bị tòa hình kếu án làm mất danh giá.

Ví như người đàn bà không có phạm một lỗi nào trong mấy lỗi ấy, mà chồng cũng muốn xin để(#1), thì ít nữa phải kiếm bằng cớ chỉ rõ ràng vợ mình hoặc bất kỉnh với công cô, hoặc hay ngồi lê đôi mách, hoặc có tánh gian giảo trộm cắp, hoặc ghen tương làm náo động trong gia đình, hoặc có tật bịnh không thể sanh con nối dòng cho chồng được. Mà phải nhớ hễ vợ chồng hồi mới cưới nghèo nàn, bây giờ trở nên giàu có, hoặc người vợ đã có chịu tang cho cha mẹ ông bà bên chồng 3 năm, hoặc người vợ không còn cha mẹ bà con mà trở về nương dựa được, thì Tòa không chịu cho để bỏ.

Thượng Tứ suy xét ra thì vợ mình không có phạm một cái lỗi nhỏ nào trong mấy cái lỗi của thầy thông Hàng kể đó. Bây giờ phải làm sao? Thầy thông Hàng nói ví như vợ chồng đồng tình dắt nhau đến Tòa xin để thì được, song làm như vậy là khi nào cưới về ăn ở cho được ít nữa là 2 năm sắp lên, và người chồng phải trên 25 tuổi, còn người vợ phải tròn 21 tuổi thì mới được. Làm thế nầy cũng không được nữa, bởi vì vợ chồng cậu mới cưới có mấy tháng, chồng mới có 19 tuổi, vợ mới có 18 tuổi mà thôi.

Thượng Tứ còn đương lo liệu về sự để vợ, thì ngày Tết đã gần tới, đường nào thiên hạ đi chợ cũng dập dều, nhà nào người ta cũng dọn dẹp loa ăn Tết. Những bạn chơi bời có lẽ họ cũng nghỉ để sửa soạn ăn Tết, nên mấy khách sạn tửu lầu coi vắng hoe. Thượng Tứ buồn, nên sớm mới ba mươi Tết, cậu trở về nhà.

Bà Kế hiền hổm nay không thổ huyết nữa, nhưng mà ăn chưa biết ngon, nằm không muốn ngủ, nên hình dạng ốm nhách, nước da mét xanh.

Bữa 30 Tết, thầy Ban biện Chí lên coi biểu tá điền tá thổ quét tước nhà cửa, chùi lau bàn thờ. Thượnng Tứ về thấy trong nhà lăng xăng thì cười mà nói rằng: "Anh Hai, ảnh làm coi được quá! Tôi nói tôi về đặng coi dọn nhà ăn Tết, té ra ảnh làm trước tôi chớ!". Cậu mơn trớn với anh rồi đi thẳng vô nhà trong mà hỏi mẹ rằng: "Má có đi chợ Tết hay không má? Hồng, cam năm nay nhiều quá. Dưa hấu cũng nhiều nữa, mà tôi nghe nói họ bán mắc hơn mọi năm". Bà Kế hiền nghĩ con vô tình vô nghĩa, mình đau nó không ở nhà mà nuôi, đi đã thèm rồi về nó cũng không thèm hỏi thăm coi mình mạnh hay chưa, bởi vậy bà giận bà không thèm nói đi nói lại một tiếng chi hết.

Thượng Tứ thay đồ mát xong rồi trở ra ngoài trước ngồi nói chuyện với anh. Thầy Ban biện Chí thấy nhà dọn dẹp đã gần rồi, mà lại có em về nữa, nên thầy đội nón tính đi về, để chiều rồi sẽ lên cúng rước ông bà. Thượng Tứ đi theo anh ra cửa rồi hỏi anh rằng:

- Anh Hai, lúc nầy anh khá hay không, anh?

- Làm giống gì mà khá?

- Tôi nghe nói anh có mắc nợ phải hôn?

- Em hỏi chi vậy?

- Hỏi cho biết vậy mà.

- Có mắc chút đỉnh, chớ sao cho khỏi được.

- Anh mắc nợ anh làm sao anh trả?

- Thì thủng thẳng lần hồi trả cho người ta chớ biết làm sao?

- Anh muốn có tiền trả nợ hôn?

- Làm sao mà muốn được?

- Tôi muốn hai anh em mình nói với má mùa nầy phải để cho anh em mình góp huê lợi hương hỏa và phần thực luôn hết thảy. Má đã có phần dưỡng lão rồi, còn hưởng huê lợi tới phần thực của mình là nghĩa gì.

- Thì em nói với dì đi.

- Tôi nói mấy lần má cứ rầy tôi hoài. Đâu bây giờ anh nói thử coi.

Thầy Ban biện đứng suy nghĩ một hồi rồi nói rằng: "Thôi, để mai có con Ba nó về rồi em xúi nó nói". Thượng Tứ gặt đầu đáp rằng: "Ờ được, để mai chị Ba về mừng tuổi, tôi sẽ xúi chỉ nói. Miễn là chỉ khởi đầu, rồi tôi tiếp cho".

Thiệt quả sớm mới mùng một Tết có cô Ba Trần Thị Nga với chồng là Hương chủ Hà Trung Hậu ở dưới Chợ Gạo lên mừng tuổi. Hai vợ chồng ghé nhà thầy Ban biện Chí trước. Thầy Ban biện đem mấy lời của Thượng Tứ nói hôm qua mà thuật lại cho em gái nghe. Cô Ba Ngọc nói rằng: "Dầu nó không xúi tôi cũng nói. Không phải tôi ham ăn, ngặt vì chuyện ức quá, nhịn làm sao cho được. Anh nghĩ đó mà coi, cha mẹ mình làm đổ mồ hôi xót con mắt mới có sự nghiệp đó. Bây giờ anh em mình không được hưởng, để cho người dưng họ giành họ ăn hết như vậy, mình nín được hay sao? Cái người mà bày mưu thiết kế đặng giựt gia tài của người ta như vậy, ông trời nào mà cho hưởng lâu dài. Vậy chớ anh không có nghe chuyện bà Cả nào ở dưới Gò Công đó, bả cũng đoạt hết gia tài của con cháu bên chồng mà để cho con rể bả, tè ra ông trời có con mắt, thằng rể bả ăn được có ít năm rồi đau họng cụt lưỡi mà chết, ăn không được, bỏ ruộng đất lại cho thiên hạ hưởng, mà lại còn mang tiếng xấu với đời nữa đó sao".

Hương chủ Hậu nghe vợ nói như vậy thì can rằng: "Ý cha đã định như vậy, thì mình phải vưng, chớ nói làm chi cho mích lòng. Ở đời nhơn nghĩa mới quí, chớ bạc tiền ruộng đất mà quí gì. Đã biết mình ức nên mình phải nói, nhưng mà nói ra thì chi cho khỏi động tới vong hồn của cha. Thôi, nín thinh để làm ra lớp khác mà ăn tốt hơn.

Cô Ba Ngọc cười gằn rồi đáp rằng: "Mình làm Phật được thì mình làm, chớ tôi còn vướng hồng trần, tôi từ bi không được".

Nói chuyện chơi một lát rồi vợ chồng Ban biện Chí với vợ chồng Hương chủ Hậu dắt nhau lên nhà thờ mà mừng tuổi ông bà. Đến Xuân nhựt bà Kế hiền cũng phải ráng rử mặt gỡ đầu thay quần đổi áo, nhưng mà đạo nhà không yên, nên bà chẳng có chút chi vui vẻ.

Mừng tuổi ông bà xong rồi, cô Ba Ngọc hỏi bà Kế hiền rằng:

- Độ nầy sao co dì ốm dữ vậy dì?

- Dì đau gần 2 tháng nay không ốm sao được.

- Dì đau sao đó?

- Bị cái thằng tiểu quỷ trong nhà nó làm cho dì buồn rầu, nên mới mang bịnh. Cưới vợ chỗ tử tế cho nó, nó lại làm phách, nó đánh người ta rồi bỏ trở về bến nây. Người ta theo qua, nó lại xô đuổi người ta nữa. Xưa rày nó lên ăn dầm nằm dề mấy nhà ngủ trên Mỹ Tho đặng theo đĩ theo điếm; nó mới trồi về hồi hôm qua đó đa. Dì nghĩ thiệt ổng vô phước lắm, nên vừa mới nhắm mắt là con đã hư rồi!

- Nếu vậy thì Tết nầy con Tư không có về bên nầy.

- Nó đã đánh đuổi con nọ rồi nó có thèm qua bển nữa đâu mà con nọ dám qua. Xưa rày dì mắc có bịnh, dì cũng không đi qua bển được mà nói phải trái.

- Thằng Tư nó còn khờ dại, ham chơi bời, dì ở trong nhà dì phải dạy nó, chớ dì nói tại cha tôi vô phước, rồi dì bỏ phế cho nó hư sao được.

- Nó có đếm xỉa gì đến ai đâu mà răn dạy. Dì nói nó gạt ngang luôn luôn. Thôi, dì lo thân dì; dì không kể con cái gì nữa hết. Đồ khốn nạn, nó muốn xách bị thây kệ nó.

- Không biết chừng tại nó không ưng con bác Hội đồng Thưởng, mà dì ép nó, nên bây giờ vợ chồng nó mới trắc trở. Dì phải tính làm sao, chớ dì giận lẩy dì nói vậy sao được. Nó ở với dì mà dì không dạy dỗ kềm chế, dì để nó hư, thì dì có lỗi với cha nhiều lắm.

Bà Kế hiền đã buồn rồi, mà bà nghe mấy tiếng gay gắt của con ghẻ như vậy, thì bà lại càng buồn hơn nữa, nên bà ngồi lặng thinh.

Cô Ba Ngọc bước lại têm trầu mà ăn và nói rằng: "Bữa nay có anh em tôi về đủ mặt, vậy xin phép dì để cho tôi nói chuyện nhà một chút; cha mất mà cha đã có chia ruộng đất cho các con, đứa nào có phần đứa nấy. Dì thì cũng có phần dưỡng lão như mấy anh em tôi. Nay lúa họ gặt gần rồi, vậy xin dì soạn tờ tá coi phần của ai thì giao cho nấy đặng có góp lúa ruộng, kẻo tá điền họ làm hao hớt hết".

Bà Kế hiền châu mày ngẫm nghĩ một lát rồi bà đáp rằng:

- Theo tờ chúc ngôn tương phân, thì dì ăn huê lợi hết thảy ruộng đất cho tới chừng nào dì chết, các con mới hưởng được. Chúc ngôn như vậy, mà con Ba biểu giao tờ tá, giao làm sao được.

- Của là của cha mẹ tôi làm ra. Lúc cha tôi ươn yếu dì òn ỹ âm mưu đặng cha tôi làm chú ngôn như vậy. Bây giờ thiệt dì nhứt định đoạt hết gia tài của cha mẹ tôi mà ăn một mình hay sao?

- Tại ý ổng định như vậy, chớ dì muốn sao được. Sao hồi ổng lập tương phân, con Ba không biểu ổng sửa lại, để ký tên đủ hết, rồi bây giờ nói cái gì?

- Hứ! Dì nói xốc họng tôi làm chi! Tại tôi thương cha tôi lắm nên mới ký tên, chớ không phải tôi dại đâu. Xin dì hãy suy nghĩ lại: của cha mẹ người ta làm đổ mồ hôi xót con mắt, mà người ta không được hưởng; còn mình là người dưng không có công lao chi hết, mà mình âm mưu đoạt hết mà ăn, thì ăn sao cho bền. Tôi đã có thấy nhiều cái gương rồi, ăn không được đâu dì.

- Bây giờ con Ba nó rủa tôi chớ.

- Không phải rủa. Tôi nói chuyện cho dì nghe vậy, chớ ai mà dám rủa dì. Dì cũng biết tôi không phải nghèo cực gì nên về đây mà đòi gia tài. Tôi nói là vì việc chung, vì lẽ ngay. Dì nghĩ đó mà coi, anh Hai tôi là trưởng nam, mà dì âm mưu làm cho phần ăn của ảnh thua phần của thằng Tư, cái nhà thờ ảnh không được ở. Dì làm như vậy không ức ảnh hay sao? Đã vậy mà dì không cho ảnh lãnh huê lợi phần ăn của ảnh nữa, thì ảnh lấy chi mà trả nợ trả nần cho người ta. Dì phải xét lại, không nên ở ác quá như vậy.

Bà Kế hiền ngồi lặng thinh.

Thượng Tứ nãy giờ ngồi nghe chớ không nói chi hết. Chừng thấy mẹ dịu rồi cậu mới xen vô mà nói rằng: "Chị Ba nói đó phải lắm. Ví như má có gắt gao, má không cho huê lợi phần thực, thì má cũng phải cho ăn huê lợi hương hỏa, chớ má giành hết sao được. Má ôm tới huê lợi hương hỏa nữa thì anh Hai lấy gì mà cúng quảy ông bà?".

Bà Kế hiền trợn mắt ngó Thượng Tứ mà mắng rằng: "Thứ đồ hư cũng xen vô nói chót chét. Khôn dữ à! Tao cho, để tao cho thằng Hai ăn huê lợi hương hỏa. Tao cho một mình nó mà thôi, chớ tao không cho mầy đâu mà nói chộn rộn. Giao huê lợi hương hỏa cho mầy đặng mầy cúng mấy con đĩ mấy thằng điếm, chớ mầy cúng ai".

Thượng Tứ quạu mặt đáp rằng:

- Má không giao cho tôi sao được.

- Ừ, tao không giao, mầy có giỏi thì đi kiện tao đi.

- Kỳ xưa má hứa má giao, bây giờ má chối hay sao?

- Tưởng mầy tử tế kìa, chớ mầy theo đàng điếm bây giờ một hột lúa tao cũng không cho.

Thượng Tứ rùn vai đứng dậy bỏ đi ra phía trước. Cô Ba Ngọc bèn tiếp mà nói với với mẹ ghẻ rằng:

- Tôi có cần gì xin huê lợi hương hỏa cho anh Hai tôi đâu, bởi vì huê lợi ấy tự nhiên dì phải giao, chớ không lẽ dì giành mà giỗ mẹ tôi được. Tôi nói nãy giờ đó là nói huê lợi về phần thực kia.

- Tôi muốn cho ai ăn phần nào tôi cho, bằng tôi không muốn thì thôi, không ai ép tôi được. Ai có nói ức thì lên Tòa mà kiện.

- Dì đừng có thách đố mà. Nếu đi kiện ra giữa Tòa, tôi nói dì càng thêm xấu hổ, chớ tốt gì đó mà muốn cho tôi kiện.

- Tôi xấu thì họ cũng không tốt gì.

- Họ là ai?

- Biết đâu.

Thầy Ban biện Chí với Hương chủ Hậu thấy cô Ba Ngọc muốn nói hỗn, sợ ngồi nói dần lân rồi sanh rầy, nên ra dấu cô về. Thượng Tứ thay đồ rồi lấy xe chạy theo xuống nhà thầy Ban biện. Mấy anh em ngồi nói chuyện với nhau om sòm, mà chẳng nghe chuyện gì khác hơn là chuyện gia tài. Thượng Tứ nói rằng: "Tôi cũng biết má tôi thâu huê lợi thì có ích cho tôi, bởi vì thâu mà tích trữ đó, thì ngày sau tôi hưởng, chớ ai mà vô đó. Nhưng mà tôi không tham bậy như vậy. Ruộng đất là ruộng đất của cha, ba anh em mình là con hết thảy, thì phải hưởng đồng với nhau, có lẽ nào tôi giành giựt mà ăn tới phần của anh Hai và của chị Ba nữa. Tôi có nói với má tôi hoài, tôi biểu cho ăn hết thảy đi. Tại bụng má tôi tham quá nên mới dục dặc đó. Hồi cưới vợ cho tôi cũng vậy đa. Thấy người ta giàu, nên muốn đem nhét tôi vô đó đặng ăn của. Làm chi vậy không biết. Phải thì thôi, chớ giàu nghèo là nghĩa gì".

Cô Ba Ngọc nghe em nói hành mẹ, nhưng mà câu nói nào cũng có ý nghĩa, bởi vậy cô khuyên rằng: "Chuyện gì em cãi với dì thì em cãi chớ còn việc vợ chồng thì chị khuyên em đừng có cãi bởi vì chị biết hai vợ chồng bác hội đồng hiền đức lắm, mà tánh nết con Tư cũng dễ thương nữa. Em có vợ như vậy, thì là có phước lắm rồi, em không nên tháo trúc".

Thượng Tứ lắc đầu đáp rằng:

- Không có được chị Ba à. Tôi biết vợ tôi thương tôi lắm, nhưng mà tôi thương nó không vô.

- Tại sao vậy?

- Tại không phải duyên nợ, hay là tại sao không biết.

- Sao em biết không phải duyên nợ? Em đừng có nói như vậy. Thôi sẵn đây em chạy xe qua mừng tuổi cha mẹ vợ em đi.

- Ai đi đâu vậy cho được. Mắc cỡ lắm nà. Tôi đuổi nó rồi, bây giờ còn lết qua thì coi sao được. Tôi tính để ăn Tết rồi, tôi cậy người ta nói với nó vô đơn xin Tòa phá hôn thú cho rồi. Tôi muốn cho nó vô đơn dễ hơn, chớ tôi vô đơn sợ Tòa bắt bẻ khó lắm.

- È! Đừng có nói bậy nà. Giống gì mà phá hôn thú!

- Thì vợ chồng không hòa thuận, tốt hơn là phá hôn thú phứt cho rồi, đặng nó lấy chồng khác, tôi cưới vợ khác mà làm ăn chớ sao.

- Em đừng có nói như vậy. Vợ chồng còn nhỏ, sao khỏi cắn đắn chút đỉnh. Nếu mỗi người hễ rầy lộn với vợ đều xin để hết thảy, thì chị tưởng chẳng còn cặp vợ chồng nào hết.

- Chị không hiểu chuyện của tôi, để sau rồi chị sẽ biết.

- Chị không cần hiểu chuyện của em làm gì. Chị muốn vợ chồng em thuận hòa với nhau mà ở đời thì tốt hơn.

- Tôi coi thế không được.

Thầy Ban biện với Hương chủ cũng tiếp với cô Ba Ngọc mà khuyên Thượng Tứ phải đi mừng tuổi bên vợ, Thượng Tứ nhứt định không chịu đi, cứ ở đó ăn uống, nói chuyện chơi hoài. Đến xế vợ chồng Hương chủ Hậu từ mà về. Thượng Tứ không cho đi xe ngựa, theo ép phải lên xe hơi cho cậu đưa về Chợ Gạo.

Chú thích: (1-) Ly dị

Ăn Tết rồi, Thượng Tứ cũng lẩn quẩn trên chợ Mỹ Tho, chớ không chịu về bên vợ, không chịu ở nhà, mà cũng không muốn đi chơi đến xứ nào khác. Chẳng phải Mỹ Tho có thắng cảnh hay là có cuộc vui gì đến nỗi cậu mê mết không thể nới chưn ra khỏi được. Cậu đến Mỹ Tho là tại Mỹ Tho có cô Hai Hẩu, cũng như cây kim địa bàn cứ xây (xoay) về hướng bắc là tại tánh chất cục đá nam châm gắn nơi đầu cây kim phải ngó hướng bắc mà thôi. Ví như trong lúc nầy mà ông Giáo Chuột dời nhà xuống ở Mỹ Hội, thì có lẽ cậu trở về Mỹ Hội chớ không lên Mỹ Tho làm gì.

Một buổu chiều, Thượng Tứ chạy xe đi chơi một vòng ngang nhà cô Hai Hẩu, rồi cậu trở về nhà hàng ngồi uống rượu cầm chừng mà chờ thầy thông Hàng. Có một đứa nhỏ ôm nhựt trình đi bán, nó ghé lại bàn cậu ngồi mà mời: "Mua nhựt trình, thầy. Nhựt trình bữa nay hay lắm!". Cậu vì cái tiếng "thầy" nên móc túi quăng ra một cắc bạc mà lấy một tờ nhựt trình. Cậu mở nhựt trình ra, lật qua lật lại, thấy có hai chữ lớn "Hỉ tín", cậu bèn đọc như vầy:

"Bổn báo lấy làm vui mừng mà nghe tin M. Ngô Thừa Kế, phó lục sự Tòa sơ Sài Gòn là anh em bạn học của bổn báo Tổng lý, ngày 25 tháng giêng nầy sẽ làm lễ giao duyên cùng cô Trương Thị Hẩu, là ái nữ của ông Trương Văn Chuột, cựu giáo sư ở Mỹ Tho.

Bổn báo cầu chúc cho Ngô-Trương hai họ sắc cầm hảo hiệp, nối tóc trăm năm".

Thượng Tứ đọc bài ấy rồi thì mặt mày tái lét, cặp mắt chóa lòa, mồ hôi dầm dề, tay chơn bủn rủn. Cậu ngồi không được nên buông tờ nhựt trình trên bàn mà đứng dậy, đụng bàn ngã ly rượu, ly bể, rượu chảy ướt gạch. Thằng bồi lật đật chạy lại, một tay lấy tờ nhựt trình, một tay lượm miểng ly bể. Thượng Tứ châu mày, chống nạnh đứng mà ngó.

Thầy thông Hàng ở ngoài bước vô, miệng cười ngỏn ngoản, vỗ vai Thượng Tứ mà hỏi rằng: "Giận ai mà đổ rượu đập ly đó?" Thượng Tứ xụ mặt, bước lại giựt tờ nhự trình trên tay thằng bồi và đưa cho thầy thông Hằng và chỉ bài "Hỉ tín" mà nói rằng: "Thầy đọc thì biết cái gì vậy hử?".

Thầy thông Hằng đứng đọc dứt bài rồi thầy kéo ghế mà ngồi, tay xếp tờ nhựt trình lại rất kỹ lưỡng, miệng thầy nói chẩm rãi rằng: "Cái gì mà kỳ vậy kìa! Cổ đã hứa với cậu chắc chắn quá, mà sao bây giờ lại lấy chồng. Bụng đàn bà con gái thiệt khó do!".

Thượng Tứ châu mày xụ mặt, đi qua đi lại, giày khua cồm cộp trên gạch, rồi cậu giựt tờ nhựt trình xếp bỏ túi và nói rằng: "Đồ khốn nạn, đồ vô hậu, nó muốn như vậy để rồi nó coi".

Thầy thông ngó cậu lom lom mà hỏi rằng:

- Cậu tính sao bây giờ?

- Tôi lên Sài Gòn tôi mướn nhựt trình ấn hành bức thơ nó gởi cho tôi đó, làm nó mang xấu cho biết chừng.

- Cậu chẳng nên nóng nảy lắm. Nó có tiền, mà bây giờ nó lấy chồng thông thạo luật nữa; thủng thẳng mà tính, chớ làm bất tử nó kiện thể diện mình mang khốn.

- Tôi nói bông lông, chớ tôi nói chỉ danh nó làm chi mà sợ nó kiện.

- Nếu cậu nói bông lông thì làm sao cho nó mang xấu được?

- Vậy bây giờ làm sao?

- Tôi biểu để thủng thẳng rồi sẽ tính.

- Còn bốn năm bữa nữa chồng cưới nó, thủng thẳng cái gì ...Nầy tôi tính như vầy: tôi đem cái thơ tôi mướn thợ chụp hình họ chụp lại rồi tôi gởi theo kiểu thơ phạt cho thằng chồng nó một cái đọc chơi. Hễ chồng nó đọc thơ, mà thấy trong nhựt trình nói nữa, thì tự nhiên nó hiểu. Làm như vậy được hay không?

- Không được. Cậu làm vậy thì cậu bị kiện thể diện liền.

- Nó có biết tôi đâu mà kiện.

- Nó kiện nhà nhựt trình thì lòi cậu ra chớ gì.

- Tôi dặn trước nhà nhựt trình đừng chỉ tôi.

- Trời ơi! Cậu nói chuyện nghe dễ như chơi. Cậu ấn hành một bức thơ quan hệ như vậy, làm phạm danh giá một con người gái nhà giàu mà lại là vợ một ông phó lục sự, nếu cậu không lãnh trách nhậm thì nhà nhựt trình nào dám in.

- Tôi chịu tiền cho họ.

- Giỏi lắm cậu chịu một vài trăm đồng bạc, rồi người ta bị kiện thường thể diện một đôi muôn, chết người ta còn gì.

- Thì nó viết thơ cho tôi, nó thề thốt sẽ làm vợ chồng với tôi, bây giờ nó lấy chồng khác, tôi in thơ cho thiên hạ biết cái thói vô hậu của nó chơi, nó kiện tôi sao được.

- Nó viết thơ riêng cho cậu, chớ nó có cho phép cậu ấn hành vào nhựt trình đâu. Đã vậy mà nó không có ký tên thiệt, chừng cậu ấn hành vào nhựt trình và cậu nói nó, rồi nó chối cậu mới làm sao?

- Chữ nó viết, bây giờ nó chối sao được.

- Sao cậu biết chắc chữ trong thơ đó là chữ nó viết? Ví như nó mượn ai viết, rồi cậu làm sao? Con Hai Hẩu khôn ngoan lắm, chớ không phải như con gái khác đâu. Nếu nó mới viết thơ cho cậu không đầy một tháng nay, mà nó trở lòng ưng chỗ khác, thì tôi chắc thơ đó không phải chữ nó viết đâu.

- Vậy chớ bây giờ làm sao? Tôi cho nó năm sáu trăm đồng bạc nữ trang để làm kỷ niệm, bây giờ nó đeo đặng cho chồng nó ngắm thì tức tôi quá mà! Tôi giận là giận cái đó, chớ một con đàn bà bội ước bạc tình như nó, tôi không sá gì.

- Thôi, có người ta vô uống rượu nữa kìa, đừng có nói người ta nghe. Để một lát nữa vô nhà tôi, rồi tôi sẽ tính cho cậu.

Thầy thông kêu bồi đem rượu lăng xăng, Thượng Tứ chừ bự, cứ ngó sững ra ngoài đường, không uống rượu, mà cũng không nói chi hết. Thầy thông uống đã rồi mới dắt nhau đi ăn cơm Tây.

Đến 8 giờ tối, thầy thông mới dắt Thượng Tứ về nhà. Thầy lấy bài nhựt trình mà đọc cho vợ nghe, rồi hỏi tại sao cô Hai Hẩu nói như vậy mà bây giờ làm như vậy, và rầy vợ biểu phải lên đòi đồ kỷ niệm lại cho đủ.

Cô thông Hằng nghe rõ đầu đuôi, cô cũng giận lắm, lật đật vô buồng lấy áo đen dài mà bận, lấy khăn lụa trắng vắt vai, tay gài nút áo, chân bước lên xe kéo, miệng nói láp dáp rằng: "Để tôi lên tôi mắng cho nó biết mặt tôi. Nó gạt ai chớ gạt tôi sao được".

Thượng Tứ với thầy thông Hàng ra đường đi lên đi xuống mà hứng mát đặng đợi cô thông. Gần 10 giờ cô thông mới trở về. Cô ngó thấy chồng thì cô ngừng xe nhảy xuống và móc bạc cắc trả tiền xe và nói rằng: "Tôi nhiếc nó đã đời. Nó khóc dữ. Vô đây, vô nhà tôi nói cho mà nghe".

Ba người đều đi riết vô nhà. Cô thông bèn thuật rằng: Cô lên nhà ông Giáo Chuột, thấy có một ít người đang lau chùi bàn ghế sửa soạn đám cưới. Cô ngồi chơi một hồi rồi ngắt nhỏ cô Hai Hẩu ra sân, cô hỏi tại sao đã gởi thơ, nhắn miệng, thề thốt giao duyên kết tóc với cậu Tư mà bây giờ lại lấy chồng. Cô Hai Hẩu khóc tấm tức tấm tửi mà nói rằng cô bị ông Giáo gả ép, cô không ưng, ông đòi thắt họng thắt hầu, cực chẳng đã cô phải thuận tùng, nhưng mà cô thề thốt cái tình cô đối với cậu Tư dầu cô chết cũng không phai lạt, nếu kiếp nầy cô không làm vợ cậu Tư được, thì cô nguyện kiếp sau cô sẽ làm thân trâu ngựa mà đền bồi. Cô thông giận nên cô nhiếc một hồi, trách cô bạc tình bội ước. Cô Hai Hẩu khóc lóc năn nỉ xin thương giùm phận cô, nếu được tình thì mất hiếu, nếu được hiếu thì mất tình, bây giờ cô như người không hồn, bởi vậy cô xin cậu Tư đừng phiền cô tôi nghiệp. Cô thông lại nói cô có đòi đồ kỷ niệm lại, thì Hai Hẩu nhắn lời xin cậu Tư để cho cô giữ mà làm dấu tích, bữa nào cô buồn cô lấy đồ đó ra xem cũng như thấy cấu Tư vậy.

Cô thông thuật lại, mà lúc cô mắng nhiếc thì cô lên tay trợn mắt, lúc Hai Hẩu khóc than thì cô rỉ rả đau thương, cô làm cho Thượng Tứ tưởng tượng cái cuộc hai cô nói chuyện như thấy trước mắt, bởi vậy cậu động lòng, cậu lấy khăn lau nước mắt, và cậu nói rằng: "Không phải tôi tiếc mấy món đồ. Đồ tôi cho rồi có lẽ nào tôi đòi lại. Tôi tức là tức cô Hai Hẩu lấy chồng mà cổ không cho tôi biết trước ... Tôi sợ tôi phải chết. Tôi buồn quá, bây giờ tôi có biết cái gì là vui nữa đâu ...".

Cô thông thấy Thượng Tứ đau đớn vì tình cô bắt động lòng, nên cô nói rằng: "Không phải con Hai Hẩu nó không thương cậu. Tôi biết nó thương lắm chớ, ngặt vì ông Giáp ép quá, phận nó là con, nó cãi cha sao được. Cậu phải nghĩ cái đó mà dung chế cho nó. Ối! Mà con Hai Hẩu cũng không quí gì đó mà tiếc. Để tôi kiếm làm mai cho cậu một chỗ còn lịch sự, còn khôn ngoan bằng mười nó nữa. Chị em bạn của tôi không thiếu gì. Cậu đừng buồn gì hết. Nó vị cha nó, nó không nghĩ đến mình, thứ đồ như vậy mà buồn giống gì".

Thượng Tứ thở ra mà nói rằng: "Nếu cô Hai Hẩu xa tôi, thì từ rày sấp lên tôi không thèm ngó đàn bà con gái nào nữa hết". Cậu nói dứt lời rồi đứng dậy cáo từ mà về. Thầy thông Hàng tỏ ý muốn đi chơi với cậu, Cậu lắc đầu nói rằng cậu về Mỹ Hội, cậu không muốn đi chơi nữa.

Thượng Tứ lên xe đi rồi, thầy thông Hàng ngó vợ và cười và nói rằng:

- Năm ngoái cậu Tư có nói với tôi rằng cậu là con nhà giàu, nên phải chơi bời đặng học khôn. Mấy tháng nay tôi cho cậu học được vài bài rồi, không biết cậu có hiểu đặng ghi vào trí hay không.

- Tôi sợ cậu nóng giận, cậu lên nhà ông Giáo cậu làm rầy rồi bể chuyện quá. Té ra êm được cũng khá.

- Dám làm rầy đâu. Nầy, mà mình đừng có đeo đồ đó, rủi cậu ngó thấy thì kỳ lắm đa. Thủng thẳng nguôi ngoai cho cậu quên rồi sẽ đem ra cũng chẳng muộn gì.

- Mình tưởng tôi dại hay sao?

- Không, tôi dặn hờ vậy mà! Cậu hảo mèo lắm. Để ít bữa cậu ngui ngoai, cậu hết nhớ con Hai Hẩu, rồi mình kiếm đứa nào bảnh bảnh mình cột cho cậu. Cái bộ tướng đó hễ rớ chỗ nào thì mê chỗ nấy, dễ cột va(#1) lắm.

- Mình để đó cho tôi. Tôi có tính rồi. Để tôi cột con Ba Vĩnh Tường cho cậu chơi.

- Con Ba nào?

- Ậy! Mình không biết đâu. Đừng có hỏi thăm.

- Mình sợ tôi tò mò hay sao mà giấu tôi?

- Biết chừng đâu.

Thầy thông cười rồi đóng cửa đi ngủ.

Người ta móc túi một lần rồi, bây giờ người ta tính lột da nữa, mà tội nghiệp cho Thượng Tứ quá, cậu không hay không biết chi hết. Cậu thất tình vì cô Hai Hẩu, cậu trở về nhà nằm dàu dàu không muốn nói chuyện, mà cũng hết muốn đi chơi nữa. Chớ chi bà Kế hiền biết tâm lý, bà thừa lúc con đương thất chí thất tình, bà khuyên giải mà dắt con trở vào đường phải, thì có lẽ Thượng Tứ ăn năn thương lại vợ nhà, rồi từ biệt mấy cuộc hoang đàng, mà vui thú đầm ấm nhà giàu như thiên hạ. Ngặt vì bà có tiền chớ không có học, bà biết cưng con mà không biết dạy con; đã vậy mà con nó làm quá bụng bà rồi, mấy tháng nay bà giận lẫy tính bỏ phế, bà lo dưỡng bịnh, chớ không muốn nói tới con nữa, bởi vậy con đi bà không cản, con về bà không hỏi, con buồn mặc con, bà không thèm biết tới.

Thượng Tứ nằm nhà buồn bực, cậu mới nhớ tới số nợ cậu vay của ông Giáo Chuột, tháng giêng nầy phải trả vốn và lời một ngàn bốn trăm đồng. Cậu vay 2 ngàn của Xã tri(#2) , phần thì bị nó chận lời trước, phần thì bị thầy thông Hàng mượn hết ba trăm, phần thì cậu xài bậy bạ, bây giờ còn tám trăm mấy. Số ấy đem mà trả cho ông Giáo Chuột thì không đủ; mà trả rồi còn tiền đâu mà xài.

Cậu lo tính vài bữa rồi cậu năn nỉ với mẹ xin số lúa ruộng hương hỏa đặng bán mà trả nợ. Lúc ấy tá điền đương chở lúa ruộng tới đong nườm nượp. Bà Kế hiền không thiếu gì lúa, nhưng mà bà nghe con nói hai tiếng "trả nợ" thì bà giận quá, bà dằn không được, bà la rầy om sòm. Bà nói: "Mầy ta rập(#3) theo phe thằng Chí với con Ngọc thì xuống nhà hai đứa nó mà xin tiền. Lại còn nói xin lúa đặng bán mà trả nợ! Mầy mắc nợ để họ bỏ tù mầy cho mầy biết chừng. Lúa của tao, tao không cho ai hột nào hết".

Thượng Tứ xụ mặt rùn vai, không thèm nói đi nói lại.

Bà Kế hiền đau vừa mới khá khá, mà bà giận con nữa, bởi vậy đêm ấy bà ngủ không được, phát thổ huyết lại rồi nằm mệt.

Con Mang lật đật chạy rước thầy thuốc cầm huyết được, nhưng mà chứng mệt cũng còn hoài. Lần nầy Thượng Tứ ở nhà, thấy mẹ đau rõ ràng, biết chứng bịnh hiểm nghèo, nên có sắc lo sợ chút đỉnh. Cậu xớ rớ lối cửa buồng với ông thầy thuốc và mấy đứa ở, mà cậu không biết nói một tiếng chi cho mẹ vui lòng. Hễ bà Kế hiền thấy mặt cậu thì bà nói: "Mầy giết tao. Tao biết mà, mầy muốn giết tao cho chết đặng mầy phá sự nghiệp nầy. Tao nghĩ thiệt tao tiếc công tao đẻ mầy quá".

Thượng Tứ bỏ đi ra ngoài không dám trả lời.

Bà Kế hiền mệt luôn tới ba bữa, thầy thuốc làm hết sức mà không biết phương chi làm cho bà khỏe được.

Thượng Tứ sai thằng Ngộ xuống nhà báo tin cho thầy Ban biện Chí hay. Thầy Ban biện chạy lên thấy mẹ ghẻ bịnh nặng, mới sai người đi cho em rể hay. Cô Ngọc vẫn hờn mẹ ghẻ hoài nên được tin cô không chịu đi thăm. Hương chủ Hậu rầy vợ, nói rằng ai quấy mặc ai, mình không nên lấy quấy mà trả quấy, bởi vậy cô Ba Ngọc mới chịu đi với chồng lên Mỹ Hội.

Cô Ba Ngọc tuy giận, mà lên tới nhà thấy bịnh mẹ ghẻ như vậy thì cô động lòng, nên khuyên anh với chồng đi rước thầy thuốc Tây, hoặc may có cứu được hay không. Bà Kế hiền biết trong mình bịnh nhiều, không thế khỏi chết, bởi vậy bà cản không cho rước thầy thuốc Tây. Bà thấy con ghẻ, con ruột có đủ mặt thì bà khóc mà nói rằng: "Cũng vì thằng Tứ mà tao phải mang bịnh đây; mà cũng tại tao thương nó quá nên mới ra cớ đỗi như vầy. Thằng Hai với con Ba, bước lại gần đây cho dì nói chuyện: Dì gởi thằng Tư lại cho hai con. Hai con ráng thương giùm em; nếu hai con phiền dì, sợ ngày sau nó không có cơm ăn. Tuy nó khác mẹ, song nó cũng một máu một thịt với hai con: Vậy xin hai con dìu dắt giùm nó, chớ nó ngang tàng mà khờ dại lắm ..." Bà Kế hiền nói tới đó rồi bà mệt ngất, không nói được nữa. Cô Ba Ngọc với Thượng Tứ động lòng nên hai người khóc dầm dề.

Thầy Ban biện khuyên rằng: "Xin dì an tâm. Em của tôi, nếu tôi không thương nó thì thương ai. Dì còn thì tôi phải để cho dì dạy dỗ nó. Nếu rủi dì theo ông theo bà, thì tôi là lớn, tôi phải bảo bọc nó chớ sao. Dì uống thuốc cho mau mạnh, đừng lo việc chi hết".

Bà Kế hiền tỏ ý muốn thấy mặc con dâu. Cô Ba Ngọc lật đật sai người ngồi xe qua chợ Ông Văn cho vợ chồng ông Hội đồng Thưởng hay và xin rước cô Ba Mạnh.

Bà Hội đồng Thưởng đi với con gái qua liền. Bà Kế hiền thấy mặt dâu thì bà khóc. Bà kêu Thượng Tứ lại gần mà nói rằng: "Vợ con đáng lắm. Con phải thương nó. Lời má khuyên con đây là lời chót. Con phải nghe má, đừng có cãi".

Hai vợ chồng Thượng Tứ khóc hết.

Bà Kế hiền tắt hơi!...

Chú thích:

(1-)(giọng Triều Châu: i-a) nó, anh ấy.

(2-) (Chetty) là tên một giòng họ lớn mà cũng là tên một hiệp hội lớn của Ấn độ. Chà Chetty hay Chà Xã tri ở Việt Nam là những người Ấn độ nổi tiếng cho vay ăn lời cắt cổ.

(3-) toa rập

Công việc làm nhiều khi nên hư là tại may rủi, chớ không phải giỏi dở. Cách ở đời cũng vậy, nhiều khi đi đường phải hay là đi đường quấy là tại vận hội khiến xuôi, chớ không phải tại ý người quyết định.

Trần Thượng Tứ là người từ nhỏ được mẹ cưng, nên quen thói đỏng đảnh, chừng đúng tuổi đi học, mẹ đút nhét tiền nhiều nên quen tánh ăn chơi; mà lúc nào cũng vậy, cha thì mắc chăm lo làm cho sự nghiệp càng lớn thêm, mẹ thì mắc thiết kế giựt gia tài của con, bởi vậy cậu chẳng hề được nghe tiếng dạy dỗ về đạo làm người. Khi cậu để bước thứ nhứt vào đường đời, là khi cậu cưới vợ, khi cái óc của cậu trống lỏng, cái lòng của cậu trong veo, cậu không hiểu thế nào là phải, thế nào là quấy, cậu không dè người sao là nên, người sao là hư, cậu chỉ biết cậu là con nhà giàu, cậu có vài trăm mẫu điền, cậu có sẵn một tòa nhà ngói, rồi cậu tưởng cậu hơn thiên hạ hết thảy, ai làm trái ý cậu thì cậu giận, ai không chìu lòng cậu thì cậu hờn. Vì tại tâm tánh cậu như vậy đó, nên cậu không biết thương yêu vợ, mà rồi cậu lại thất kỉnh thất hiếu luôn với mẹ nữa.

Tuy vậy mà chơn tánh của cậu cũng có chỗ tốt: 1. Cậu biết thương nhà nghèo, nên năm trước cậu chia tiền cho trò Khá; 2. Cậu không tham tiền, nên lúc nói vợ, mẹ khoe ông Hội đồng Thưởng giàu, cậu không tỏ ý vui mừng; 3. Cậu ở công bình, nên mỗi lần xin hưởng huê lợi ruộng đất thì cậu nói luôn cho anh, chớ không phải cậu không kể tình cốt nhục: Con nhà giàu đếm thử coi được bao nhiêu người có những tánh tốt ấy.

Thế mà cậu Thượng Tứ vừa mới bước chơn vào đường đời, cậu liền đi lạc nẻo. Theo thói thường người ta cho cậu là "hư", thì cái hư nầy rõ ràng là tại vận hội; mà có muốn bắt chặt nữa, thì nói tại gia đình giáo dục gây ra, chớ nào phải cậu sẵn có cái óc hư từ hồi mới lọt lòng hay là lúc cưới vợ rồi thì cậu quyết hư mà chơi. Cậu có nói với thầy thông Hàng rằng: Phải xài tiền chút đỉnh đặng học khôn; mấy lời ấy đủ chỉ rõ cậu sợ cái hư ngày sau lắm.

Vì vợ không đủ khôn lanh mà kềm sửa tánh cậu được, mà cũng vì mẹ không có học thức mà dìu dắt bước đường cho cậu, bởi vậy cậu buông lung chơi bời mấy tháng tốn hao hết mấy ngàn. Đã biết tốn hao như vậy thì uổng tiền thiệt, nhưng mà nhờ có sự tốn ấy cậu mới gặp được cái cảnh làm cho cậu chán ngán nhơn tình; cậu bươn bả trở về nằm co, rồi nhớ nợ nần mà giựt mình, nên lo phương kiếm chước mà trả.

Bà Kế hiền nhắm mắt nhằm lúc cậu Thượng Tứ đương ảo não cuộc đời, hết muốn đi chơi nữa. Cậu suy xét cái cử chỉ của cậu đối với mẹ, bây giờ cậu mới hiểu tại cậu mà mẹ rầu buồn mang bịnh đến nỗi bỏ mình. Cậu nhớ mấy lời mẹ trối trong lúc gần tắt hơi, bây giờ cậu mới nghĩ tại cậu mà phân rẽ vợ chồng, chớ vợ của cậu chẳng có lỗi chi hết. Cậu lấy làm ăn năn về sự cậu ngỗ nghịch với mẹ, mà cậu cũng lấy làm hổ thẹn về sự cậu tính để vợ đặng cưới cô Hai Hẩu.

Đương lúc cậu quay đầu dợm trở bước vào cái đường mà thế tục kêu là phải, nếu cậu gặp vận hội xuôi thuận, thì có lẽ cậu cũng vui hưởng thú gia đình, cậu cũng an hưởng của phụ ấm như các con nhà giàu khác. Tiếc vì khi tống táng bà Kế hiền xong rồi, thầy Ban biện Chí ra lễ trầu rượu đứng nói cho Thượng Tứ lạy xin vợ chồng ông Hội đồng Thưởng cho cô Ba Mạnh ở luôn bên nây mà quản suất việc nhà, thì ông Hội đồng không chịu quên việc cũ, ông không chịu nhận lời, ông cứ nói ông gả con, ông có giao, nên không thế cho con về ở bên chồng được. Ban biện Chí với ông chủ Hậu hiệp nhau nói hết sức ông mới xiêu lòng chút đỉnh, song xiêu lòng là ông chịu cho con qua lại mà thôi, chớ ở luôn bên nây thì ông nhứt định không cho ngay.

Khách khứa về hết rồi, mấy anh em thầy ban biện Chí mới suy tính tiền bạc. Từ hôm bà Kế hiền tắt hơi thì cô Ba Ngọc kiếm lấy xâu chìa khóa mà bỏ túi. Cuộc tống chung tốn hao mấy bữa một tay cô xuất phát hết thảy, Thượng Tứ chẳng hề biết tới. Nay cô mở tủ sắt tủ cây soạn hết vàng bạc mà đếm trước mặt anh em thì số bạc trong tủ sắt được 18 ngàn đồng, còn số bạc trong tủ cây hơn bảy trăm. Cô xin lãnh số 700 lẻ mà trả tiền tốn hao đám tang, còn số lớn 18 ngàn, thì cô xin anh cả liệu định.

Ban biện Chí ngồi suy nghĩ một chút rồi hỏi Thượng Tứ rằng:

- Số bạc 18 ngàn đây là số bạc trong nhà nầy, mà nhà nầy là nhà của em, vậy em liệu làm sao?

- Số bạc đó, hôm má đau nặng má có nói nhỏ với tôi, má biểu đem mà giấu chớ đừng để cho anh với chị Ba ngó thấy. Tôi không chịu giấu nên mới còn đó. Tôi cũng biết bạc nầy là bạc của cha để lại, chớ má làm giống gì mà có bạc riêng nhiều dữ vậy. Con thảy đồng con, vậy thì ba anh em mình chia đồng với nhau mà xài, chớ liệu giống gì mà anh biểu tôi liệu.

- Em nói như vậy thì công bình lắm. Nhưng vì qua sợ em không vui lòng cho qua phân đoán, nên qua mới để cho em liệu.

- Anh cứ chia ba đi... Nè, anh Hai, anh làm giống gì mà anh quen với ông Giáo Chuột? Chắc anh có vay bạc của ổng chớ gi, phải hôn?

- Sao em biết qua quen với ông Giáo Chuột?

- Ổng có nói với tôi.

- Năm qua ra tranh chức Ban biện, qua có vay của ổng 5 ngàn. Mấy năm nay trả lời hoài, chớ trả vốn không nổi.

- Tôi cũng vướng của ổng hết một ngàn. Ổng ăn lời tới 400, mắc thất kinh.

Cô Ba Ngọc nghe em nói như vậy thì hỏi rằng:

- Em làm giống gì mà đi vay bạc?

- Hôm thánh 10 tôi xin tiền má không được, tôi giận tôi vay đặng xài chơi.

- Trời ơi! Xài nghiệp gì mà tới bạc ngàn lận! Bộ em cho ai hay sao chớ?

- Chuyện tôi xài mà chị biết sao được. Tôi còn thiếu Chà và hai ngàn nữa, chớ phải có một mình ông Giáo Chuột đâu. Bây giờ tôi lãnh 6 ngàn đây, tôi phải trả nợ hết ba ngàn tư, còn có hai ngàn sáu.

Thầy ban biện châu mày nói rằng: "Em còn hai ngàn sáu vậy cũng khá, cho bằng qua trả vốn với lời rồi thì tất tay. Mà qua mắc nợ có cớ. Còn em làm việc gì đâu mà vay tới ba ngàn đồng bạc?".

Thượng Tứ cười mà đáp rằng: "Chuyện của tôi làm, nói ra không được. Xin anh biết giùm rằng tôi giận lẩy một chút nên mới mang nợ nần đó".

Cô Ba Ngọc thở ra mà nói rằng: "May nó giận lẩy mà hết ba ngàn tư, chớ nó giận thiệt không biết hết mấy muôn! Thôi! Hai người chia rồi đem đi trả nợ phứt cho rồi đi. Tôi nghe nói nợ nần tôi ghét quá".

Hương chủ Hậu là người hòa huỡn, thuở nay không ưa can thiệp đến việc gia tài bên vợ, mà chừng nghe anh em vợ bàn chuyện nợ nần như vậy, thì anh ta bước lại nói rằng: "Anh Hai với cậu Tư mắc nợ, thì trả cho người ta, có cái gì đâu mà ghét. Tôi muốn cho mình làm như vầy: anh Hai với cậu Tư mắc nợ hết thảy là 9 ngàn tư. Tôi muốn mình lấy số bạc ấy để riêng ra mà trả nợ trước cho người ta, rồi còn lại bao nhiêu sẽ chia đồng nhau. Làm như vậy ai cũng có tiền hết thảy, chớ mình chia trước một người 6 ngàn, anh Hai mắc trả nợ hết, rồi ảnh lấy gì mà xài.

Cô Ba Ngọc ngó chồng mà nói rằng:

- Anh Hai với thằng Tư mắc nợ, thì làm sao tự ý, chớ lấy bạc nầy trả nợ thì thiệt hại cho mình lắm, ai mà chịu vậy.

- Anh em mà tính lợi tính hâi cái gì kìa - Không được đâu. Anh em cũng phải làm cho công bình chớ; hai người làm nợ làm nần bây giờ tội gì mà mình phải chung mà trả.

- Anh em mà đi hơn thua với nhau chút đỉnh làm gì. May mà cha mẹ để tiền bạc lại cho mình chia nhau mà còn nói nhiều nói ít, ví như để nợ lại cho mình mới làm sao. Ở đời anh em thương nhau mới quí chớ mấy ngàn đồng bạc nầy không có quí đâu. Mình phải nghe lời tôi, đừng có cãi nữa.

Thầy Ban biện nghe nói mấy lời hữu tình hữu nghĩa ấy thầy lấy làm cảm động nên thầy nói rằng: "Ngày nay tôi mới thấy bụng(#1) của dượng Ba nó thiệt là tốt. Người bụng dạ như vậy không đời nào nghèo bao giờ. Thằng Tư, em phải coi cái gương đó mà bắt chước. Từ rày sắp lên, anh em chúng ta phải thương nhau, anh lớn nói, em nhỏ phải nghe lời, chúng ta nưng đỡ dìu dắt nhau mà giữ sự nghiệp của cha mẹ. Mấy tháng nay em chơi bời quá không kể vợ, không về nhà nên dì rầu mà mang bịnh mà bỏ mình đó, em có thấy hay không. Em phải ăn năn mà sửa mình. Bây giờ em làm chủ một cái gia tài lớn, em phải lo. Để ít bữa rồi qua đi qua bên Ông Văn qua nói với bác Hội đồng một lần nữa đặng xin cho con Tư về bên nây mà coi nhà coi cửa. Vợ em tử tế lắm, mà nghe nói nó lại có nghén rồi nữa. Em đừng có hân hủi nó như hồi trước nữa. Còn lúa ruộng mùa nầy, phần của ai nấy lãnh, song phần dưỡng lão của dì, qua muốn để cho em ăn luôn huê lợi mà làm tuần cho dì, chừng nào mãng tang rồi chúng ta sẽ chia như ý cha định. Dượng Ba nó chịu như vậy hay không?".

Hương chủ Hậu vui lòng mà chịu liền. Thượng Tứ thuở nay ít gần hai anh, nay thấy anh ruột với anh rể đều thương mình, chớ không phải thù nghịch như lời mẹ nói, thì cậu rất cảm tình. Tuy cậu không có lời tạ ơn, song cậu ngồi ứa nước mắt, trong trí thầm tính sẽ nghe lời anh, sẽ ăn ở tử tế với vợ, không thèm chơi bời nữa.

Số bạc 18 ngàn trức ra để trả nợ hết chín ngàn tư, còn lại tám ngàn sáu, chia làm ba phần, mỗi phần hơn 2860 đồng. Vì Thượng Tứ không bước chưn tới nhà ông Giáo Chuột nữa, nên cậu giao 1400 đồng cho thầy Ban biện Chí đi trả giùm.

Hương chủ Hậu biểu vợ ở lại hủ hỉ coi sóc giùm cho em ít bữa, chừng nào Thượng Tứ rước vợ qua rồi sẽ về.

Lý Thị Nho gắng công làm cho các con của ông Kế hiền Toại chia ra dòng chánh dòng thứ, rồi dòng ăn nhiều, dòng ăn ít mà gây thù gây oán với nhau, nào dè bà vừa nhắm mắt thì các con đều nhớ cái gốc ngày xưa, bởi vậy chẳng những là thuận hòa với nhau trong sự chia gia tài, mà lại còn lo giúp đỡ dìu dắt nhau trong đường đời nữa.

Cô Ba Ngọc ở lại với em, ngày đêm lo dùng lời êm ái mà chỉ chỗ hư nên cho em thấy, nói việc phải quấy cho em nghe, cô hỏi việc nầy, cô khuyên việc nọ, tình chị em coi thân thiết lắm. Trong thân tộc thuở nay Thượng Tứ gần có một mình mẹ mà thôi, mà mẹ thì mắc lo giấu tiền giựt ruộng để cho con, chớ chẳng bao giờ biết do tâm để(#2) hay soi trí não của con. Nay cậu mới được gần chị, mà thấy chị muốn biết tâm sự của cậu, là việc cậu còn đương ấm ức, bởi vậy cậu mới đem cuộc gặp gỡ cô Hai hẩu mà thuật lại cho chị nghe từ đầu tới đuôi không giấu một chút nào hết. Cô Ba Ngọc nghe hết rồi cô cười ngất mà nói rằng: "Em khờ quá! Vợ chồng thầy thông Hàng thấy em muốn con Hai Hẩu, nên bày mưu gạt em mà ăn tiền đó đa. Chị dám chắc cái thơ đó là thơ của thầy thông Hàng bày ra, chớ không có con Hai Hẩu nào hết. Còn đồ nữ trang em cho đó thì bây giờ ở trong tay nhà thầy thông Hàng, chớ con Hai Hẩu cũng không hay".

Thượng Tứ chưng hửng, ngồi ngó chị trân trân mà đáp rằng:

- Có lý nào thầy thông Hàng là anh em với tôi, mà trở mặt xấu như vậy?

- Sao lại không có lý. Vậy chớ Hai Hẩu có giáp mặt mà tỏ tình thương em hay không mà em dám tin? Còn như thiệt cái thơ đó của con Hai hẩu viết và thiệt nó có lãnh đồ kỷ niệm của em thì sao thầy thông lại cản, không cho em in vào nhựt trình chơi? Chuyện đó chị chắt cứng như vậy. Em đừng có phiền con Hai hẩu, vì nó có thương em, có hứa với em việc gì đâu mà em giận nó. Chị hỏi em một điều nầy: Từ hồi đó tới bây giờ, thầy thông Hàng có mượn tiền em hay không?

- Có mượn ba trăm.

- Đó, thấy hôn, chắc rồi còn nghi gì nữa.

Thượng Tứ châu mày, ngồi suy nghĩ một hồi rồi đứng dậy bỏ đi và nói rằng: "Thiên hạ mọi rợ quá!".

Hổm nay Thượng Tứ thất vọng về ái tình mà thôi, nay nhờ chị vạch mắt cho cậu thấy thói đời chút đỉnh, thì cậu lại thêm chán ngán về nhân tình nữa. Cậu đương buồn bực, kế thầy Ban biện Chí lên biểu cậu sửa soạn đi qua Ông Văn đặng thầy nói mà rước cô Ba Mạnh. Cậu vui lòng nghe lời anh, nên lật đật thay đổi áo quần rồi đem xe hơi ra đi với anh.

Vợ chồng ông Hội đồng Thưởng thấy rể qua thì vui vẻ như thường. Cô Ba Mạnh cũng ra chào anh chồng và lăng xăng lo lấy trầu chế nước.

Thầy Ban biện Chí mở lời nói với ông Hội đồng rằng Thượng Tứ còn khờ dại, mà bây giờ mẹ mất để nhà cửa minh mông, không ai coi trong coi ngoài, nên xin cho rước em dâu về đặng quản suất việc nhà, chớ nếu bỏ Thượng Tứ ở một mình thì sợ e cậu buồn, cậu đi chơi rồi hư hết sự nghiệp.

Ông Hội đồng cười mà đáp rằng:

- Hôm trước tôi đã có nói với thầy rồi. Tôi nói hồi tôi gả con, tôi có giao bắt rể. Bây giờ tôi cho con nhỏ về ở bển sao được.

- Thưa bác, xin bác xét lại. Hồi trước dì tôi chịu cho em tôi ở bên nây, là vì tưởng mạnh giỏi lâu dài. Nay rủi dì tôi mất rồi, em tôi phải ở nhà thờ, bây giờ không lẽ nó bỏ hết mà về bên nây cho được.

- Nếu không được, thì làm sao nó làm, tôi có biết đâu. Tôi cho con nhỏ tôi về bển, thì bên nây tôi làm sao?

- Bên nây còn có hai bác; ở bển không có ai hết, mới khổ cho chớ.

- Không được, việc gì cũng vậy, tôi nói một lần mà thôi, tôi không chịu nói đi nói lại.

- Bắc định như vậy thì tội nghiệp cho hai vợ chồng nó lắm. Em tôi không thế bỏ mà qua ở bên nây được. Con Tư thì bác không chịu cho nó về bển. Làm như vậy thì phân rẽ vợ chồng nó còn gì.

- Thẳng mà thương yêu gì vợ nó nên thầy sợ phân rẽ. Nó đem về bển đặng nó đánh con nọ nữa, chớ làm giống gì.

- Thưa bác, việc đó tôi xin bảo lãnh. Nếu thằng Tư mà nó còn ngang tàng đánh khảo vợ nó nữa, thì tôi chịu lỗi với bác. Về bển có tôi ở gần, tôi coi chừng coi đỗi, không có sao đâu mà bác sợ.

- Thầy có nhà riêng, chớ phải thầy ở chung hay sao mà coi chừng. Mà dầu ở chung cũng không được. Ở bên nây có vợ chồng tôi sờ sờ đây, mà nó còn hà hiếp con nọ thay, huống chi là về bển.

Thượng Tứ thấy cha vợ cố chấp quá, cậu bèn bước lại nói rằng: "Thưa thầy, năm ngoái con khờ dại, nên hay rầy rà với vợ, làm cho buồn lòng thầy má. Bây giờ con nghĩ lại con ăn năn lắm. Vậy con xin thầy má quên cái lỗi của con mà cho vợ con về bển ở đặng xem sóc việc trong nhà cho con. Con hứa chắc từ rày sắp lên con chẳng dám ở quấy với vợ con nữa".

Ông Hội đồng cười gằn mà đáp rằng: "Tánh tao gắt lắm. Bất luận là việc gì, hễ tao thấy một lần thì nó khắn trong trí tao, rồi chẳng bao giờ tao quên được. Bây giờ mầy nói mầy tử tế, ai mà tin mầy nữa".

Thượng Tứ mấy bữa rày đã quyết chí muốn bước chưn vào cái đường mà thiên hạ kêu là cái đường phải, song vừa mới xốc tới, thì bị người ta ngăn cản, bởi vậy cậu bối rối, không biết liệu lẽ nào, nên cậu ứa nước mắt.

Bà Hội đồng nãy giờ ngồi lóng tai mà nghe nói chuyện, cố ý để coi chồng định lẽ nào. Chừng bà thấy tình cảnh như vậy bà mới nói rằng: "Cha nó chấp con rể quá như vậy thì tội nghiệp cho nó lắm. Đã biết hồi trước có lời giao, nhưng mà bây giờ nhà cửa nó như vậy, mình ép nó ở bên nây, rồi nó biết bỏ ở bển cho ai. Như cha nó không chịu cho con Mạnh về luôn ở bển, thôi thì phải cho nó qua lại, như ở bên nây ít ngày rồi phải cho nó về bển ít bữa, chớ nhà mà không có đàn bà thì như nhà hoang, còn giống gì mà kể".

Ông Hội đồng gặt đầu nói rằng: "Nói vậy thì hay vậy, thôi để thủng thẳng tôi tính lại coi. Mà tôi nhứt định, dầu thế nào tôi cũng không cho con Mạnh về ở luôn bên Mỹ Hội đâu".

Thượng Tứ bước xuống nhà dưới, thấy vợ đương ngồi may, cậu lại gần mà nói rằng: "Nói hết sức mà thầy cũng không cho mình về ở bển. Nhà cửa như vậy, bây giờ tôi biết làm sao!" Ba Mạnh cúi mặt mà đáp rằng:

- Chớ thầy không cho, tôi biết làm sao.

- Tôi khổ lắm. Hổm nay nhờ có chị Ba ở coi sóc giùm. Mà chỉ có gia thế chỉ, chỉ ở hoài sao được. Mình phải thưa lại thầy má coi chớ.

- Thôi, để chừng cúng thất sau rồi tôi sẽ qua.

- Được! Mà mình đừng có đi xe ngựa. Để bữa đó tôi đem xe hơi qua tôi rước.

Hai anh em Thượng Tứ ở chơi tới xế rồi mới về.

Chú thích:

(1-) tấm lòng (2-) đáy lòng

****

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro