chuong 8 -15

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG 8

Lưu Giác trở về vương phủ, hầm hầm tức giận, triệu tập đám thuộc hạ tỉ thí với mình, chàng ra đòn mạnh như gió lốc, không chút nương tay, đến khi đám thuộc hạ bị đánh ngã gục, nằm ngổn ngang trên đất, tay chàng đã tê cứng mới dừng lại, không thèm nhìn họ một cái, lập tức bỏ về phòng, tức giận, trợn mắt nhìn bức họa trên tường.

Lưu Anh nơm nớp liếc nhìn khuôn mặt tái xanh, sắt lại của chủ nhân, không hiểu tại sao chúa thượng xưa nay vốn dĩ vui buồn ít bộc lộ, vậy mà hôm nay lại nổi giận đùng đùng như thế, bèn nói nịnh một câu: “Chúa thượng, tìm được cô nương đó rồi định báo thù thế nào?”.

Lưu Giác nghe vậy, hỏa khí lại bốc ngùn ngụt, liếc xéo Lưu Anh cười khẩy: “Tam tiểu thư của Lý tướng, em gái thứ phi tương lai của thái tử, có mối quan hệ không bình thường với tứ hoàng tử, nhà ngươi thấy tiểu gia ta nên báo thù thế nào?”.

Lưu Anh càng nghe càng thấy nóng tai, tiểu a đầu đó thân phận quả không nhỏ, chẳng trách to gan dám đánh ngất tiểu vương gia. Chuyện này không thể công khai ra tay, xem ra tiểu vương gia đang điên đầu vì thế. Nghe nói nàng ta có mối quan hệ không bình thường với tứ hoàng tử, tự dưng trở nên lắm lời, hỏi: “Tứ điện hạ chẳng phải được hoàng thượng ban hôn, sắp cưới Cố tướng thiên kim hay sao?”.

Trong Đào hoa yến, Lưu Giác sau khi nghe Cố Thiên Lâm chơi đàn, rất có cảm tình với cô nương lan tâm tuệ trí này, lại thêm trong dạ tiệc thưởng trăng đêm trung thu nhìn thấy Cố Thiên Lâm múa rất đẹp, đã âm thầm sinh lòng mến mộ. Lúc đó, do có việc phải đi, chàng không kịp nghe tiếng đàn của Lý Thanh Lôi, sau đó nghe tin thái tử động lòng sâu sắc bởi khúc “Thu thủy” của Lý Thanh Lôi, chàng có phần không tin! Trong dạ tiệc trung thu, chàng một mình đi tìm Cố Thiên Lâm, loanh quanh thế nào lại gặp nha đầu đã đánh ngất mình. Hàng ngày chàng trầm ngâm rất lâu trước bức họa, nhìn ngắm Cố Thiên Lâm, nhưng lại không nhận ra đôi mắt đẹp lóng lánh như thủy tinh kia đã in sâu vào tâm trí mình tự lúc nào. Hôm nay Cố Thiên Lâm được ban hôn cho tứ hoàng tử, Lý Thanh La cũng bám lấy chàng ta, Lưu Giác sao không tức giận?

Lưu Anh thấy tiểu vương gia đang nhìn ngắm bức họa trên tường, người trong tranh chính là Cố Thiên Lâm, bất giác lấy tay tát vào mặt mình, hối hận cáo tội: “Thuộc hạ nói bậy, tội đáng muôn chết!”.

Lưu Giác nghĩ một hồi mới nảy ra chủ ý: “Thôi được, chuẩn bị ngựa, ta muốn đến thăm Lý tướng”.

Lý tướng thấy Lưu Giác xuất hiện, trong đầu lập tức nảy sinh bao suy đoán. An Thanh vương chiến công hiển hách, bao năm lãnh binh đồn trấn biên thành phía tây, vương phủ trên dưới đều do tiểu vương gia này sắp đặt, cai quản đâu ra đấy, có thể thấy người này năng lực không tầm thường.

Thanh Lôi sắp được gả cho thái tử, bản thân mình đương nhiên dốc lòng ủng hộ Đông cung. Bây giờ triều đình đa phần hướng về thái tử, nhưng có một bộ phận quần thần lại ủng hộ tứ hoàng tử. Thái tử là đích tử do đương kim hoàng hậu sinh ra, tứ hoàng tử là đích tử của hoàng hậu quá cố Trần thị. Ninh vương vẫn tình sâu nghĩa nặng đối với cố hoàng hậu Trần thị, do tổ chế quy định lập con trưởng kế vị và thế lực bên ngoại của đương kim hoàng hậu nên tuy đã lập Lưu Giám làm thái tử, nhưng vẫn âm thầm yêu thương tứ hoàng tử. Ái nữ của Vương thái úy trở thành thái tử phi, tứ hoàng tử rõ ràng ở vào thế bất lợi. Ninh vương lập tức ban ái nữ của Cố tướng cho tứ hoàng tử. Đế tâm khó dò, nếu Ninh vương có ý sau đại hôn lễ sẽ cho tứ hoàng tử kế vị, thì ý kiến của An Thanh vương hết sức quan trọng. Chỉ cần An Thanh Vương ủng hộ tứ hoàng tử, thế lực hai vị hoàng tử tương đương, nhưng nếu ông ta ủng hộ thái tử, tứ hoàng tử trong tay không nắm binh quyền, đương nhiên không có cơ hội. Lúc này tiểu vương gia của An Thanh vương lại đến thăm, không biết có dụng ý gì?

A La vừa từ bên ngoài về, nghe gia nhân truyền báo đến đại sảnh Lý lão gia muốn gặp nàng. Không biết xảy ra chuyện gì, A La đi vào đại sảnh trang nghiêm hành lễ. Vừa nhìn thấy Lưu Giác ngồi một bên cười như một con hồ ly, liền biết chàng ta đến tìm mình, nàng giả bộ lần đầu nhìn thấy, cúi đầu cụp mắt đứng yên.

Lý tướng cười khà khà: “A La, tiểu vương gia trong đêm hội yến trung thu nghe con thổi sáo, rất tán thưởng tiếng sáo bay bổng tuyệt tác của con, vô cùng ngưỡng mộ. Tiểu vương gia cũng tinh thông âm luật, muốn mời con tham gia dạ yến tối nay, cùng thổi sáo ngắm trăng, tâm sự hàn huyên, con đi đi”.

Nói dối! A La thầm mắng, nhưng miệng lại lễ phép, ngọt ngào đáp lời: “Cho phép A La trở về sửa sang y phục”. Cúi chào xong, vội lui gót. Ra khỏi phòng lớn, A La thầm thở than, tiểu vương gia này tâm địa hẹp hòi, đúng là tiểu nhân! Chỉ có tiểu nhân mới dùng thủ đoạn bỉ ổi như vậy. Hắn ta, hắn ta và Lý tướng là rắn, chuột cùng một ổ, đều xấu bụng! Phí hoài cái diện mạo đẹp đẽ! Nhìn thấy hắn ta là thấy buồn lòng.

Lý tướng và Lưu Giác nhìn nhau cười, thâm tâm mỗi người đều có toan tính riêng.

Vừa ra khỏi tướng phủ, A La vén rèm kiệu lạnh lùng hỏi Lưu Giác: “Tiểu vương gia định đưa tiểu nữ đi đâu?”.

Lưu Giác cưỡi ngựa đi bên cạnh, thấy nàng hỏi như vậy, tỏ vẻ lạ lùng: “Đi dự tiệc, thổi sáo, nói chuyện hàn huyên”.

A La nghiến răng, sao có chuyện đơn giản thế. Quả nhiên kiệu bỗng dưng bị rung lắc dữ dội, A La bị lắc đến tức ngực, lồng ngực thúc từng cơn, miệng buồn nôn, hít sâu một hơi mới từ từ dịu xuống, nhắm mắt tưởng tượng ra các món ăn, lẩu, cá nướng cay, đậu phụ, bột chua cay... tất cả những thứ có mùi có vị. Lại bắt đầu tưởng tượng tửu lầu mình với Tử Ly hợp tác mỗi tháng thực khách tấp nập, ngân lượng chảy vào túi như nước. Hình dung cảnh tượng đưa thất phu nhân và Tiểu Ngọc đi chu du những miền đất lạ từng đọc trong sách, cố gắng di chuyển sự chú ý. Tuy nhiên, kiệu lại như dốc ngược, đầu lộn xuống dưới. Nàng biết đó là Lưu Giác giở trò, cố nín nhịn, nhưng cuối cùng vẫn phải kêu lên: “Dừng kiệu, dừng kiệu, ta muốn nôn!”.

Kiệu dừng, A La xông ra ngoài, chạy đến một góc nôn thốc nôn tháo. Lưu Giác trên lưng ngựa tỏ vẻ phẫn nộ: “Còn đi hơn nửa canh giờ nữa mới đến nơi, các người khiêng thế nào vậy?”. Chàng cố ý bảo phu kiệu khiêng kiểu đó, để A La bị rung lắc, khốn khổ phải cầu xin chàng tha tội.

A La nôn xong, cảm thấy dễ chịu hơn nhiều. Ngẩng nhìn thấy Lưu Giác bề ngoài tỏ ra tức giận mắng phu khiêng kiệu, nhưng trong mắt đầy vẻ đắc ý, biết chàng cố tình, lại nghe nói còn nửa canh giờ nữa. Một tiếng đồng hồ! A La nổi cáu, ngươi đã muốn thấy ta khốn đốn, vậy sẽ để cho ngươi nhìn đã mắt, ta sẽ nôn suốt đường cho ngươi xem, ta quyết không tỏ ra yếu thế! Nàng bình tĩnh ngồi vào kiệu: “Đi thôi, kẻo lỡ mất bữa tiệc tối của tiểu vương gia lại đắc tội”.

Lưu Giác ngớ người, liếc thấy các phu kiệu tỏ ra áy náy, không nỡ, bực mình quất ngựa phóng thẳng: “Gặp nhau ở ven sông Đô Ninh, trên thuyền Lưu Hương”.

Chàng vừa đi khỏi, kiệu lại bình thường, không đến hai khắc đã ra khỏi cổng phía nam đến ven sông Đô Ninh.

Sông Đô Ninh rộng mười ba trượng có dư, nước cuồn cuộn chảy về đông, gió muộn từ mặt sông thổi lên mát rượi, phía chân trời ẩn hiện khói mây màu tím sẫm, A La bất giác nghĩ đến câu thơ “Yên quang ngưng nhi mộ sơn tử, lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”(*). Bây giờ chỉ có vùng núi hẻo lánh mới có thể nhìn thấy sông xanh gợn sóng, không bị ô nhiễm, cảnh sắc này khiến khát khao được đi du ngoạn khắp thế giới kỳ lạ này của nàng càng thêm mãnh liệt. Nếu không phải đi ăn với Lưu Giác, con người đáng ghét này thì nàng đã không cầm lòng muốn hát vang trước một cảnh sắc huyền diệu như vậy! A La nghĩ đến Quyên Nhi, lòng lại nặng trĩu nỗi buồn, tự nhắc mình phải cố nhẫn nhịn, không thể đối đầu với Lưu Giác, chỉ có thể tỏ ra ngốc nghếch khiến chàng ta không nắm được đằng chuôi. Hít một hơi thật sâu không khí trong lành, A La ngẩng cao đầu đi về phía thuyền Lưu Hương.

Ven sông có khoảng chục chiếc thuyền hoa đỗ rải rác, trong ánh hoàng hôn, thuyền nào cũng đã lên đèn ngũ sắc sáng rực. Thuyền Lưu Hương có ba tầng, xà và cột đều chạm trổ hoa văn, thiết kế tinh tế, sang trọng. Nữ tỳ dẫn A La lên tầng cao nhất, Lưu Giác đang đứng tựa cửa sổ trong một gian hậu thất rủ rèm châu.

A La nhìn vào, bên ngoài có mấy chiếc tràng kỷ bọc gấm và mấy cái án chạm trổ hoa văn, trên tường treo mấy bức thư họa của những nhà thư pháp nổi tiếng, xung quanh bày rất nhiều hoa. Không gian phía sau bức rèm rộng rãi, khoáng đạt, những chiếc đèn màu tỏa sáng, mấy cái bàn tròn, bên cạnh là ghế bành và giường ngủ. Cửa sổ mở toang, gió sông lồng lộng, trong phòng mát rượi. Tà áo Lưu Giác bay bay, mấy sợi tóc chờn vờn trước trán, nửa khuôn mặt nhìn nghiêng đường nét như tạc, tuấn tú tuyệt vời. A La nghĩ, tốt nhất vẫn nên giải thích mọi chuyện, đổi gươm đao lấy ngọc bội, giải quyết bằng hòa bình để trừ hậu họa. Cách bức rèm châu, nàng lên tiếng: “Hôm đó Ninh vương ban chỉ đến tướng phủ, tiểu nữ thực tình rất muốn giữ lời, rất muốn nói lời xin lỗi, đã để cho tiểu vương gia đợi lâu”.

Lưu Giác quay đầu cầm lên chén trà, nhưng không uống, lơ đãng ngắm nhìn, đột nhiên bật cười: “Có biết hôm nay ta đến quý phủ là vì chuyện gì không?”.

(*) Trích trong "Đằng Vương các tự" của Vương Bột (đời Đường).

Dịch thơ: "Ánh khói đọng, núi chiều tía", "Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cô đơn chiếc diều bay, làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc" (bản dịch của Trần Trọng San) (BTV).

A La không trả lời câu hỏi của chàng, trong đầu chỉ nghĩ nhất thiết phải xin lỗi đã rồi hãy tính: “Thực ra hôm nay tiểu nữ vốn định đến quý phủ tìm tiểu vương gia giải thích rõ. Lần trước ở Đào hoa yến tiểu nữ đã sai, không nên đánh ngất tiểu vương gia. Bởi vì lần đầu xuất phủ, khó khăn lắm mới được ngắm cảnh đẹp vậy mà lại bị tiểu vương gia quấy rầy, trong lòng không vui. Tiểu nữ xin lỗi người lần nữa”.

Lưu Giác thấy A La thái độ thành khẩn, bật cười: “Chuyện lần trước không nói nữa, có điều, nàng đã cướp bạc của ta...”.

A La đỏ bừng mặt, cúi đầu trả lời: “Tiểu nữ sẽ trả lại vương gia”. Hành động này quả là vô đạo đức, lúc đó nàng cũng chỉ nhất thời hồ đồ.

Lưu Giác thầm nghĩ, chút bạc đó ta không bận tâm. Nàng ta đã xin lỗi lần nữa, mình vốn không có ý định tính toán với nàng ta về chuyện đó, nhưng vẫn cảm thấy có gì không ổn, “Nói một lời xin lỗi là xong ư?”.

A La nghĩ, đã xin lỗi rồi còn phải làm gì đây? Bèn hỏi Lưu Giác: “Vậy tiểu vương gia nghĩ thế nào?”.

Lưu Giác ớ người, đúng vậy, mình nghĩ thế nào? Nàng ta vẫn chỉ là một tiểu cô nương, cũng đã xin lỗi, tính toán nữa hóa ra mình quá hẹp hòi. Nhưng nếu vậy sẽ không còn cớ để đến tìm nàng ta nữa? Nghĩ đến cảnh A La thân thiết với Lưu Phi, không biết từ đâu nỗi giận vô cớ bùng lên, chàng nói: “Nàng và tứ hoàng tử thân thiết như vậy, ta có thể làm gì?”.

A La sững người: “Tứ hoàng tử nào?”. Đột nhiên vở lẽ, người Lưu Giác nói là Tử Ly, bèn hỏi: “Tử Ly? Trần Tử Ly? Là Lưu Phi sao?”.

“Nàng không biết thật hay giả bộ không biết?Trông điệu bộ hai người không phải mới quen ngày một ngày hai, ở Thiên phong lầu nàng còn đích thân xuống bếp nấu ăn cho người ta, thân thiết như thế!”.

Tử Ly chính là tứ hoàng tử? A La không tin, nôn nóng hỏi: “Đại ca ấy bảo cứ gọi là Trần Tử Ly, tứ hoàng tử chẳng phải là Lưu Phi sao?”.

Lưu Giác cười gằn: “Hoàng hậu quá cố họ Trần, Tử Ly là tên tự của huynh ấy, Trần Tử Ly chính là Lưu Phi, Lưu Phi chính là Trần Tử Ly, nàng gọi huynh ấy Tử Ly, gọi cái tên thân thiết như vậy, rõ ràng là quan hệ không bình thường”.

A La há miệng không biết nói sao. Lần đầu gặp Tử Ly, nàng cũng dùng tên giả, còn Tử Ly không muốn người khác biết thân thế của mình đã mượn họ mẹ, và dùng tên chữ, cuối cùng vẫn là dùng tên thật, chẳng có gì giả dối! Nhưng Tử Ly chẳng phải chính là tứ hoàng tử sắp cưới Cố Thiên Lâm sao? Mình đã nhận tứ hoàng tử làm đại ca? Trời ơi! Vốn đã không muốn dính líu với vương thất, chuyện này... A La đột nhiên hoảng hốt, nhưng lại nghĩ khác, chuyện này cũng chẳng sao, giống như trong mắt người khác mình là thiên kim tướng phủ thân phận cao quý vậy, kỳ thực... nàng lắc đầu, những thân phận đó đối với mình chẳng là gì hết. Tử Ly tốt với mình, tình nguyện làm đại ca của mình, vậy huynh ấy chỉ là đại ca của mình mà thôi.

Lưu Giác chuyển chủ đề, không nhắc đến Tử Ly nữa, cười nói: “Nghe đồn tiếng sáo của tam tiểu thư rất siêu phàm, liệu có thể tấu một khúc?”.

A La dẹp bỏ ngạc nhiên của mình khi biết thân phận Tử Ly, vén rèm châu bước vào, đến bên án rót trà uống: “Đói rồi, ăn đã, tiểu vương gia thực lòng muốn nghe thổi sáo hay là hẹn đến để chấn chỉnh ta?”.

Lưu Giác châm biếm: “Ta thấy nàng có vẻ không hiểu phép tắc, không giống thiên kim của tướng phủ, khuê nữ chốn danh gia?”.

Trước mặt ngươi việc gì ta phải làm bộ làm điệu? A La nhìn chàng nói tiếp: “Tiểu vương gia lắc kiệu khiến ta khổ sở suốt hơn canh giờ, thức ăn trong bụng nôn hết rồi, vừa đói vừa khát. Làm sao còn sức lực, hứng thú thổi sáo?”.

Lưu Giác nghĩ vậy lấy làm thú vị, cười ha hả, vỗ tay ra hiệu. Nữ tỳ đi vào. Lát sau bưng ra một bàn đồ ăn.

A La rất muốn biết món ăn ở đây hương vị thế nào. “Bắt đầu!”, nói xong lập tức vào cuộc. Đa số các món đều rất ngon, nhưng mấy món chay mùi vị không ổn. Nàng chợt hiểu, món mặn ở Phong thành sắc hương vị đều đậm đà, nhưng món chay làm không tinh, chẳng trách canh đậu phụ ở Thiên phong lầu cũng được coi là món ngon. Thầm nghĩ, ở Phong thành e rằng chỉ có thể dùng món chay làm chiêu câu khách. Nàng gắp cá thịt lia lịa, khiến Lưu Giác cau mày: “Ở tướng phủ nàng không được ăn thịt hay sao?”.

A La đang vui, buột miệng nói: “Bình thường, bữa ăn ở bếp Đường viên đều đạm bạc, mấy năm rồi tiểu nữ không được ăn những món ngon thế này”.

Lòng Lưu Giác không hiểu: “Lý tướng thanh liêm như vậy ư?”.

A La cười: “Mẹ xinh đẹp của ta tuy rất đẹp nhưng lại không được sủng ái, Đường viên chúng ta cuộc sống có thể nói là rất bình thường”.

“Vậy mà nàng lại ngang tàng đến thế? Con gái một thứ thiếp không được sủng ái, nhìn thấy những bậc công tử như tiểu vương gia đây càng nên chủ động ân cần mới phải! Ô, đúng rồi, như nhiệt tình của nàng đối với tứ hoàng tử!”. Lưu Giác không hiểu sao lòng bỗng thấy có gì tựa như thương xót đối với nàng, vội dùng ánh mắt nghiêm lạnh và những lời châm biếm để xua đi cảm giác đó.

A La tức giận, hắn ta coi mình là loại người gì chứ? Nhưng nàng không muốn đối đáp với chàng ta nữa, mới miễn cưỡng chuyển nỗi tức giận vào đôi đũa trong tay: “Cơm đã ăn xong, không biết tiểu vương gia nghe thổi sáo xong có đưa tiểu nữ về nhà không?”.

Lưu Giác thấy A La tư thái điềm tĩnh, đôi mắt trong như ngọc long lanh dưới ánh đèn, khuôn mặt nhỏ nhắn một phần bị mái bờm che khuất trở nên vô cùng sinh động. Những lời nói lúc trước vừa nói ra, chàng đã muôn phần hối hận, nhưng thấy vẻ láu lỉnh trên mặt A La, nỗi bực lại bùng lên, chàng nghịch ly rượu trong tay nói: “Gian ngoài là nơi mua vui”. Dường như ý muốn nói, chàng coi A La chỉ là trò mua vui.

A La nghĩ, nếu một tiểu thư khuê các thời cổ đại, nghe Lưu Giác nói vậy, chưa biết chừng cảm thấy bị sỉ nhục đến nỗi nhảy xuống sông tự vẫn! Dù không tự vẫn cũng sẽ phẫn nộ quở trách! Nàng điềm nhiên rời bàn ra phòng ngoài, tìm một cái ghế băng ngồi xuống, thầm nghĩ, ngươi càng tức, ta càng vui, bèn thổi ngay khúc “Hỷ dương dương”.

Ánh trăng lãng đãng trên sông, hoa trên thuyền lặng lẽ tỏa hương, gió hiu hiu, cảnh tuyệt diệu như vậy làm nền cho tiếng sáo trầm bổng, khúc “Hỷ dương dương” của A La tiết tấu vui nhộn, nhưng Lưu Giác nghe không thấy vui. Chàng liếc nhìn đôi mắt A La cười như hai vành trăng khuyết, cái đầu nhỏ nhắn đung đưa theo tiếng sáo, cảm giác trong lòng chàng không biết là khóc hay cười, thầm nghĩ, a đầu này bề ngoài hình như không tỏ ra tức giận, nhưng trong lòng rất lắm tiểu chiêu. Nghe xong, không đợi A La mở miệng, nói luôn: “Nghe nói đại tỷ nàng chỉ đàn khúc “Thu thủy” mà được lòng thái tử, Lý gia dòng dõi thư hương, liệu có thể chơi một khúc? Ta thưởng nguyệt trên sông, hãy chơi khúc “Thu nguyệt” đi!”.

A La nghĩ đến chuyện đánh đàn thay Thanh Lôi, bèn nói: “Tiểu nữ không biết chơi đàn, con gái Lý gia mỗi người học một ngón khác nhau, tiểu nữ chỉ biết thổi sáo”.

Nàng càng nói không biết, Lưu Giác càng làm khó, chàng đảo mắt nói: “Tiểu vương chỉ muốn nghe đàn. Vốn tâm trạng đã rất tốt, chỉ đợi nàng đánh đàn xong là thanh toán nợ nần, không đến làm phiền nàng nữa, nàng lại nói không biết chơi, như vậy được sao?”.

Mặc chàng nói thế nào, A La vẫn nhớ kỹ, nếu để lộ mình biết chơi đàn tất sẽ gieo mầm họa, chỉ một mực lắc đầu. Lưu Giác không thuyết phục được nàng, nói với hầu nữ bên ngoài: “Mang đàn ra đây!”.

Lưu Giác ngồi xuống một chiếc ghế thấp, hai tay vuốt nhẹ, một chuỗi âm thanh vút lên, chàng đánh khúc “Bội Ian”. A La nhận thấy Lưu Giác cũng là người hay đàn, chàng chơi khá thành thục. Lại nhớ ra khúc nhạc mà Cố Thiên Lâm đã đàn trong Đào hoa yến, thấy Lưu Giác đàn rất chuyên chú, say mê, thầm nghĩ, thì ra Lưu Giác đang hận vì Tử Ly sắp cưới ý trung nhân của chàng ta, bèn không nén nổi ý nghĩ chọc tức chàng: “Hoàng đế đã ban hôn, chưa biết chừng Tử Ly đã để ý tới Cố gia tiểu thư từ lâu, ai bảo tiểu vương gia ra tay muộn!”.

Lưu Giác đặt tay lên phím đàn, “phầng" một tiếng, tiếng đàn đột ngột dừng lại: “Lưu Phi và Cố gia tiểu thư là một đôi trời định, rất xứng đôi!”.

A La nghĩ, chẳng lẽ ngươi định khích ta? Nàng vênh cằm cười: “Đúng vậy, tiểu nữ cũng thấy họ rất xứng đôi, một người chơi đàn, một người thổi tiêu, phu xướng phụ tùy, chắc chắn mạnh hơn một số người cô độc thở than”.

Lựu Giác lại không thấy bực, chỉ nói: “E rằng ngay tiếng đàn của Cố tiểu thư, Lưu Phi cũng chưa nghe, Đào hoa yến huynh ấy không dự”.

A La bê lên một cốc trà, thong thả uống: "Bây giờ chưa nghe cũng không sao, sau này nghe càng thú vị! Hai người trai tài gái sắc, như tiểu vương gia nói đấy, rất xứng đôi!”. Không biết tại sao, nàng rất muốn chọc cho Lưu Giác tức khí, nổi máu ghen.

Lưu Giác nói: “Sau này Lưu Phi đã có Cố Thiên Lâm, còn tâm trạng để ý đến nàng không? Muốn huynh ấy suốt ngày đưa nàng xuất phủ du ngoạn e khó rồi”.

A La ngớ người, lại trấn tĩnh, Tử Ly muốn cưới Cố Thiên Lâm cũng phải đợi sau đại hôn lễ của thái tử, đều là chuyện của mùa xuân năm sau, nàng chỉ cần thời gian nửa năm kiếm đủ bạc là chuồn.

Lưu Giác thấy A La ngẩn người, tưởng đã nói trúng tâm tư của nàng, vốn định châm chọc nàng, nhưng thấy nàng quan tâm đến Lưu Phi như vậy, lại không thể nào đắc ý: “Nàng chơi được khúc "Bội lan”, ta sẽ không làm khó nàng nữa”.

A La chớp mắt: “Thực ra nếu tiểu vương gia muốn nghe khúc đó, tin rằng trên thuyền hoa này tất sẽ có người biết chơi, hà tất nhất định phải là tiểu nữ? Huống hồ tiểu nữ lại không biết đàn, khúc này quá khó, tiểu nữ học không được”.

Lưu Giác nói: “Không biết thì học. Hôm nay không biết, ngày mai ta đến phủ đón nàng, khi nào nàng biết, khi ấy chúng ta hết nợ nần”.

A La nhìn chàng: “Sao tiểu vương gia lại không biết điều như vậy? Người ta không biết sao lại ép người ta? Cố học khúc nhạc mà người trong lòng chàng đã chơi, coi như nàng ta đàn cho chàng nghe sao?”.

“Cố tiểu thư chơi đàn, ta tự khắc rửa tai cung kính lắng nghe. Nàng ấy không đàn, ta đã nghe một lần, như nghe tiếng đất trời thiên nhiên, sau này có nghe nữa hay không, cũng không quan trọng. Nếu không muốn ta đến quấy rầy, thì hãy đàn cho ta nghe”.

A La đột nhiên nghĩ, xấu tốt gì mình cũng là thiên kim tướng phủ, cũng không phải là con nhà thường dân, Lưu Giác có thật dám làm bừa thế không? Nàng nheo mắt cười, nhấp ngụm trà, binh phẩm: “Trà này hương thanh, dư vị lâu dài, màu sắc đẹp mắt, trà ngon!” mà không nhắc đến chuyện đánh đàn. A La nhấp hai ngụm nữa, cau mày như nghĩ ra điều gì, nói: “Nhìn bóng trăng, không còn sớm nũa, nếu có người nhìn thấy tam tiểu thư Lý tướng phủ đêm khuya còn lang thang bên ngoài, tiểu vương gia nói xem, cha ta sẽ tức đến thổ huyết, sẽ đi tìm vương thượng nói lý trị tội người cho xem”.

Lưu Giác thấy a đầu này rất có mưu kế, lại nghĩ ra chiêu này, thật hết sức thú vị, bèn cười khe khẽ: “Đúng vậy, cha nàng thân là Tả thừa tướng, nếu nghe phường dân gian đồn đại, khuê nữ nhà mình ngồi với đàn ông đến lúc trăng lên đỉnh trời, ông ta liệu có tức đến thổ huyết? Dòng dõi thư hương, danh gia vọng tộc, vậy là gia phong bại hoại trong tay nàng? Chà chà, ông ta sẽ làm thế nào? Đương nhiên sẽ đi tìm vương thượng”.

Chàng cười gian giảo, vòng ra sau lưng A La, cúi người ghé sát tai nàng: “Đi tìm vương thượng nói: Vương thượng, mau ban hôn đi! Mau chóng gả đứa con gái ngỗ nghịch này. Đương nhiên tiểu vương là người rất có trách nhiệm, sao dám làm mất thanh danh tam tiểu thư? Tam tiểu thư vẫn còn thưa đến tuổi cập kê mà, chuyện đại sự sai lầm này tiểu vương quả thật không làm nổi”.

A La nghe tiếng cười thấy cổ nổi da gà, lấy hắn ta? Đừng hòng! Cố kìm nén nỗi bực đối với Lưu Giác, nàng nói: “Đàn thì đàn, nhưng ta đâu có học nhanh như vậy, ít nhất phải cho ta thời gian chứ?”.

Lưu Giác thấy nàng đã ưng thuận, rất vui, cười ha hả: “Không sao, tiểu vương có rất nhiều thời gian, khi xuất phủ lệnh tôn còn ân cần dặn dò, nhất định phải tận vui hết mực mới về. Bây giờ ít nhất còn ba canh giờ trăng mới tới giữa trời, với ngộ tính của tam tiểu thư, không cần biết học thế nào, chơi được cả khúc e không có gì là khó”.

A La lẩm bẩm: “Tiểu nữ không biết đàn, ngay âm vị ở đâu cũng không biết. Tiểu vương gia đưa tiểu nữ về, hôm khác tiểu nữ học xong đến đàn cho tiểu vương gia nghe”.

Lưu Giác thấy nàng môi cong lên, lòng vui ngất trời, đi đến bên cây đàn: “Nào, tiểu vương đích thân dạy nàng”.

A La nghiêm chỉnh chống cằm nhìn chàng, lúc hỏi về âm, luc hỏi về điệu, thấy Lưu Giác vô cùng kiên nhẫn, lại càng hỏi nhiều. Thoắt cái đã một canh giờ, A La hỏi mãi thấy mệt, Lưu Giác nói nhiều cũng mệt. Lưu Giác hỏi: “Biết chưa?”.

A La cười thầm, mắt nheo nheo lắc đầu. Lưu Giác tức quá ném cây đàn: “Sao nàng ngốc thế!”.

Nàng tủi thân nhìn chàng: “Tiểu vương gia, tiểu vương gia dạy tiểu nữ lại lần nữa đi!”.

Lưu Giác kiên nhẫn nói lại lần nữa, nào là các chuẩn như cung, thương, giốc, chủy, vũ, thế tay, cách sử dụng ngón tay. A La cười thầm, chỉ thấy buồn ngủ, chỉ có thể cố gắng lấy tinh thần nghe chàng thao thao. Cuối cùng Lưu Giác hỏi: “Lần này biết chưa?”.

A La lắc đầu, há miệng ngáp, vội lấy tay che, ánh mắt di chuyển trên mặt chàng. Lưu Giác lạnh mặt: “Gây rối suốt nửa ngày định bỡn tiểu vương hay sao?”.

A La ngạc nhiên, không còn buồn ngủ nữa, xua tay nói: “Tiểu vương gia, tiểu nữ quả thực không có cảm giác nào về đàn. Tiểu nữ có thể nhớ được mấy âm, tiểu nữ sẽ chơi cho tiểu vương gia nghe, nhưng ý nghĩa thế nào tiểu nữ cũng không biết”.

Lưu Giác nửa tin nửa ngờ. Nàng biết thổi sáo, sao lại không biết đánh đàn? Mười thanh nữ Phong thành thì có đến chín cô biết chơi đàn, đều chơi rất hay, nàng là ngoại lệ?

A La bắt đầu bịa chuyện: “Nghe nói lúc nhỏ chơi trò đoán sở trường sau này, đại tỷ cầm ngay cây đàn, nhị tỷ vớ ngay cây bút, còn tiểu nữ thì nhấc ngay cây sáo. Về sau nhị tỷ học xong thư pháp cũng đi học đàn, nhưng không tài nào bằng đại tỷ, tiểu nữ thì khỏi nói, chẳng biết tý gì về đàn!”.

“Thôi được, mất hứng quá”. Nói đoạn, Lưu Giác đẩy cây đàn đứng lên.

A La cố nén niềm vui, nhìn Lưu Giác: “Có thể về được chưa? Tiểu nữ buồn ngủ rồi”.

Lưu Giác mất hứng nói: “Đi đi, về đi”.

A La lại nhắc: “Nhớ là chúng ta thanh toán xong, không hận thù gì nữa, tiểu nữ cũng không nợ nần tiểu vương gia”.

Lưu Giác nở nụ cười gian tà: “Ta sao có thể thù hận với nàng? Ta hẹp hòi vậy ư?”.

A La vội nói nịnh: “Tiểu vương gia phong lưu rất mực, hào hoa vô cùng, tài học uyên thâm, gia thế nề nếp, sao có thể là người hẹp hòi”.

Lưu Giác “hừ”một tiếng, lại hỏi: “Ta và tứ hoàng tử ai phong độ hơn, ai hào hoa hơn, ai tài học hơn?”.

A La ngạc nhiên lập tức trả lời: “Mỗi người một vẻ, hi hi. Cá nhân tiểu nữ cho rằng, tiểu vương gia hơn một bậc”. Bụng nghĩ, nịnh thế đủ chưa?

Lưu Giác lại cười: “Được tam tiểu thư khen ngợi, ta sẽ không phụ tam tiểu thư”.

A La cảm thấy câu nói của chàng có vẻ kỳ quặc, dường như có ngầm ý sâu xa, nhưng lại không nhận ra là ý gì, đành đi xuống lầu, lòng băn khoăn.

Đi đến cầu thang lầu hai, bên trong có tiếng đàn vọng ra, Lưu Giác dừng bước lắng nghe, A La cũng dừng lại theo. Lưu Giác đột nhiên liếc thấy A La khẽ nhíu mày, rồi sắc mặt lại trở nên bình thường, bất giác thấy kỳ lạ, khi nàng ta nhíu mày là lúc tiếng đàn nhỡ nhịp. Lưu Giác thầm nghĩ, khéo vậy sao? Không biết thế nào, tam tiểu thư của Lý phủ ngoài câu xin lỗi, những lời nói sau đó của nàng ta, chàng không tin câu nào, nhưng lại không tìm ra khẽ hở, rút cục chỗ nào không đúng?

A La trở về tướng phủ, lập tức đi gặp Lý tướng báo cáo. Lý tướng hớn hở nhìn nàng, dáng điệu rất hiền từ: “A La hôm nay đi chơi với tiểu vương gia vui chứ?”.

A La ngoan ngoãn trả lời: “Dùng bữa ở thuyền Lưu Hương, sau đó thổi một khúc sáo, tiểu vương gia không nói gì”.

Lý tướng cười ha hả: “Tiểu vương gia phong lưu hào hoa, gia thế hiển hách, đúng là một đám tốt. A La, con nên năng đi lại với tiểu vương gia”.

A La đột nhiên nghĩ, có nên nhân cơ hội này để được đường hoàng xuất phủ? Liền thăm dò: “Tiểu vương gia hẹn ngày mai gặp, A La có thể đi không?”.

Lý tướng phấn khởi: “Đi chứ, sao lại không, trang điểm thật đẹp mà đi”.

A La mỉm cười: “Con biết rồi, A La về Đường viên đây”.

Có thể đàng hoàng xuất phủ, tránh phải lén lút vượt tường, để lộ điểm yếu của mình. Có được cơ hội này còn phải cảm ơn tiểu vương gia. A La vừa đi vừa cười khe khẽ.

Lưu Giác về tới vương phủ, ngơ ngẩn nhìn bức họa trên tường. Chàng muốn A La học khúc “Bội lan” có thật là do không thể quên Cố Thiên Lâm? Đôi mắt lóng lánh của A La trên khuôn mặt Cố Thiên Làm cơ hồ ngày càng sinh động, ngày càng có sinh khí. Lưu Giác nằm trên trường kỷ, ngắm nhìn đôi mắt đó, ngón tay gõ nhẹ, rút cục chỗ nào không đúng? Chàng gọi Lưu Anh: “Mau đi tra tình hình Lý tướng phủ, ta muốn biết mọi động tĩnh của tam tiểu thư đó. Còn nữa, từ ngày mai, cho người bám theo nàng ta. Nàng ta biết võ công, cẩn thận một chút”.

“Xin vâng!”.

CHƯƠNG 9

A La mang theo Tiểu Ngọc sải bước dài, nghênh ngang rời khỏi tướng phủ. Đã có lần đầu tiên, sẽ có lần tiếp theo. Nàng đã dạy đầu bếp làm mấy món chay, cùng Tử Ly khai trương tửu lầu một cách suôn sẻ. Tửu lầu lấy tên là “Tố tâm trai”, chỉ có mấy gian phòng riêng, khách muốn ăn phải đặt chỗ trước cả hai tuần.

Trong phủ bắt đầu bận tíu tít chuẩn bị cho hôn lễ của Thanh Lôi và thái tử, hồi đầu khi A La mới xuất phủ, Lý tướng còn hỏi han tiến triển quan hệ giữa nàng và tiểu vương gia, A La ứng phó rất thận trọng, không dám sơ suất, về sau Lý tướng bận chuyện chính sự, lại lo liệu hôn lễ cho Thanh Lôi, dần dần lơ là A La không hỏi nhiều.

Lưu Giác cơ hồ mất hút, không thấy lộ diện. A La cả ngày say sưa trong niềm phấn khởi kiếm được bạc, mải mê tính toán cần bao nhiêu thời gian có thể thu xếp cuộc đào tẩu. Không bị Lưu Giác quấy rầy, A La và Tử Ly có thời gian học cưỡi ngựa, cuộc sống ngày càng thoải mái vi vu.

Tử Ly không biết A La đã biết thân phận của mình, không hề đả động chuyện đó, A La cũng không hỏi. Chàng nhìn A La rời phủ vui như con chim sổ lồng, bỗng thấy càng thương mến nàng hơn. Ở bên A La, tâm trạng chàng rất thoải mái, dù lòng phiền muộn đến mấy, hễ nhìn thấy nàng là tiêu tan hết.

Một hôm, lần đầu tiên A La có thể cưỡi ngựa phóng như bay, mặt đỏ hồng, hớn hở nhìn chàng, nói: “Đại ca, cảm giác bay lên thật là tự do!”.

Tử Ly cười: “Cảm giác bay lên như thế nào? Muội đã từng bay chưa?”.

Đột nhiên A La nghĩ đến cảm giác lúc ngồi trong khinh khí cầu, bèn nói: “Là cảm giác từ trên không nhìn xuống mặt đất, thấy tâm hồn khoáng đạt bao la”.

“Con người sao có thể bay lên không?”.

A La suy nghĩ rồi bảo tùy tùng của Tử Ly làm một con diều giấy thật to, nói với chàng: “Đại ca, chúng ta làm con diều lớn cho bay lên, đại ca dùng khinh công đứng lên đó thử xem”.

Đến khi Tử Ly vọt lên hai chân đậu vào trong con diều hạ thấp dần, được ngựa kéo chạy như bay, lực gió kết hợp với khinh công của Tử Ly, lúc này chàng đã cảm nhận được cảm giác bay lên như A La nói. Mặc dù, chỉ được một lúc, nhưng chàng nhớ mãi.

A La thuộc rất nhiều câu chuyện, nàng kể với Tử Ly: “Có một người phàn nàn với một vị thần rằng, gánh nặng trên vai anh ta quá lớn, anh ta đã quá mệt, quá khổ. Vị thần hứa, nếu anh ta không ngoái đầu lại, vị thần sẽ luôn theo sát anh ta. Chỉ cần đi một chặng, sau này sẽ không khổ, không mệt nữa. Người này vâng lời, mải miết đi không hề ngoái lại. Bao núi cao, đồng rộng, biển sâu, đều vượt qua dễ dàng, càng đi càng phấn chấn, liền hỏi vị thần, sao ngài sao không đi với tôi suốt đời? Có ngài đi cùng, tôi có thể đi xa như vậy, càng đi càng phấn chấn”.

Tử ly cười: “Đó là do vị thần dùng phép thuật, giúp cơ thể anh ta nhẹ đi, để anh ta không mệt”.

A La cười, nheo mắt nhìn Tử Ly nói: “Vị thần cho anh ta ngoái lại nhìn, lúc đó anh ta đang đứng trước bãi biển, quay đầu lại, chỉ thấy dấu chân của chính mình. Vị thần nói, thực ra ta hoàn toàn không đi cùng ngươi, vị thần của ngươi ở ngay trong lòng ngươi. Ý nói mỗi người nếu có trách nhiệm với việc làm của mình, chiến thắng được bản thân sẽ chiến thắng tất cả”.

Tử Ly nhìn nàng đăm đăm, rất lâu sau mới nói nhỏ một câu khiến A La phát hoảng: “Muội chính là vị thần đó trong lòng ta”.

Thoắt cái đã nửa năm trôi qua. Thanh Lôi mặc dù chỉ là thứ phi của thái tử, do được thái tử sủng ái, tuy cùng xuất giá một ngày với Vương Yến Hồi, nhưng cũng được hoàng cung nghênh đón hết sức long trọng linh đình. Hôm diễn ra đại hôn lễ, A La lần đầu tiên nhìn thấy quang cảnh hôn lễ của thái tử thời cổ đại, đương nhiên thái tử phi không phải là Thanh Lôi mà là Vương Yến Hồi. A La chậc lưỡi, sao mà đông người đến thế. Đoàn người đứng dài đến mấy dặm, có phải đây chính là đội nghi lễ quốc gia thời cổ đại?

Khi nàng đang cùng Tiểu Ngọc chơi trên lầu hai của Tô tâm trai thì Lưu Giác đột nhiên xuất hiện: “Đã lâu không gặp. Nghe nói tiểu thư đã học cưỡi ngựa, sống rất vui vẻ?”.

A La thầm mắng hắn ta bám dai như đỉa, cố nặn ra nụ cười thật tươi: “Vâng, nếu tiểu vương gia không xuất hiện tiểu nữ sẽ còn vui hơn”.

Lưu Giác nói nhỏ: “Sau đại hôn lễ của thái tử là đến hôn lễ của tứ hoàng tử”.

A La “ồ” một tiếng, cũng nói nhỏ: “Sau hôn lễ của thái tử, Cố tiểu thư cũng xuất giá”.

Lưu Giác ngẩn người, mỉm cười: “Chẳng phải cả hai ta đều đau lòng hay sao? Cùng đi uống rượu cho vui nhé?”.

A La không thèm: “Tiểu vương gia sẽ không mượn rượu giả điên, khiến người khác mất mặt chứ?”.

Lưu Giác cười: “Nếu rượu vào mà lòng nàng vẫn phiền muộn, nàng có thể ôm ta mà khóc”.

A La mắng: “Đãng Đồ Tử(*)...”.

Lưu Giác không hiểu: “Nghĩa là gì?”.

“Đồng nghĩa với mất mặt!”.

“Sao ta có thể mất mặt? Nhiều nhất là khi ở bên nàng, ta sẽ giấu mặt vào lòng”. Nói đoạn cười ngất bỏ đi.

Một tháng sau hôn lễ của thái tử, Tử Ly thổi tiêu hẹn A La ra ngoài, hai người cưỡi ngựa phi thẳng qua cổng tây thành, được một lát thì dừng lại. A La nhảy xuống ngựa thở gấp: “Không ngờ thảo nguyên tháng tư lại nhiều hoa thế. Tại sao hoa ở đây toàn màu tím?”.

Tử Ly mỉm cười: “Loài hoa này tên là Bắc tinh lan, nở rộ vào tháng tư, mùa hoa có thể kéo dài đến cuối tháng sáu”.

A La nhìn thảo nguyên bát ngát tít tắp tận chân trời, hoa cũng phủ rợp tận chân trời, bỗng thốt lên: “Nếu có lều trướng, buổi tối dựng trướng trên thảo nguyên, vừa nướng thịt ăn vừa ngắm sao thì hay biết mấy”.

Tử Ly cười: “Chuyện này có gì khó, bảo người chuẩn bị là được".

Nét mặt chàng tràn đầy vẻ âu yếm, cưng chiều, A La bỗng cảm động, lại tần ngần: “Buổi tối muội không thể ra ngoài. Bị cha phát hiện thì không ổn!”.

Tử Ly chớp mắt: “Muội ngủ sớm đi, rồi trốn ra ngoài, ta sẽ đến đón muội”.

“Đại ca, huynh vĩ đại quá!”. A La nhảy lên sung sướng. Tử Ly nhìn nàng, nói: “A La, mùa thu này muội đã mười bốn tuổi, đúng không? Ta thấy muội đã cao hơn một cái đầu rồi đấy”.

A La dùng tay đo, đúng là đầu nàng vừa tới vai Tử Ly, có thể vẫn còn cao nữa. Cao lên thì tốt, có thể rời khỏi tướng phủ! Nàng hớn hở nói với chàng những thứ cần chuẩn bị, và các loại gia vị dùng cho món thịt nướng. Tử ly mỉm cười nhất nhất tán đồng, tựa hồ chàng sẵn sàng hái cả sao trời cho nàng.

Tối hôm đó, đợi mọi người ngủ cả, A La khóa trái cửa, lẳng lặng nhảy qua cửa sổ, đi qua sân thật khẽ. Tử Ly đã đứng đợi trong rừng trúc, hai người bịt miệng cười.

Tử Ly cùng nàng vượt tường, cổng thành đã khóa, chàng dẫn nàng loanh quanh qua mấy khúc quành, không biết cuối cùng chui ra bằng lối nào. Chàng cười nói: “Ninh quốc quá cổ kính luôn ẩn giấu những bí mật không ai biết, may mà ta biết con đường bí mật này”. A La cũng cười, thầm nghĩ, chàng là tứ hoàng tử của Ninh quốc, bí mật này chàng không biết mới lạ.

Hai người phi ngựa trên thảo nguyên, trên đầu sao dày đặc, nhấp nhánh, ánh trăng rất sáng, bầu trời không một gợn mây. Phi một hồi đã nhìn thấy ánh lửa.

Tùy tùng của Tử Ly đã chuẩn bị xong xuôi, thấy hai người đến, họ lẳng lặng rút vào màn đêm.

A La nướng thịt trên đống lửa, vùi khoai trong tro. Hai người vừa gặm thịt xiên vừa nói chuyện. Tử Ly hỏi A La: “Nếu biết ta là hoàng tử của Ninh quốc, muội có còn đi lại với ta?”.

A La nói: “Chẳng phải muội đã qua lại với huynh từ lâu rồi sao, đại ca? Hay là muội nên gọi huynh là Lưu Phi?”.

“Muội đã biết rồi ư?”.

“Phải, Lưu Giác cho muội biết”.

“Sao không hỏi ta?”.

A La cúi người bới khoai: “Nóng quá, cầm lấy này!”. Nàng cầm củ khoai đảo qua đảo lại trên tay cho bớt nóng, rồi ném cho Tử Ly: “Muội đã nói rồi mà, nếu huynh muốn sẽ tự nói ra, không muốn nói, muội hỏi làm gì?”.

Tử Ly thong thả bóc vỏ khoai, đưa cho A La, đón lấy củ khác bóc tiếp: “Vậy muội cũng biết hôn sự giữa ta và Cố Thiên Lâm?”.

A La vừa ăn vừa nói: “Đúng, muội đã biết”.

Tử Ly nói: “Muội thấy Cố Thiên Lâm thế nào?”.

“Rất đẹp, kiêu ngạo, thông minh. Ấn tượng của muội về nàng ấy rất tốt”.

“Muội quen nàng ấy thế nào?”.

A La ăn rất hào hứng, rồi nằm xuống ngắm sao: “Trong Đào hoa yến Thiên Lâm chơi khúc “Bội lan", lựa khúc và chơi đàn đều thượng hạng, dùng tiếng đàn bộc lộ tâm tư, làm say lòng bao người, đến bây giờ nàng ấy vẫn còn fans. À là những người hâm mộ đó”.

“Nhưng tại sao thái tử lại chọn lệnh tỷ mà không chọn nàng ấy?".

A La không biết nói sao, Tử Ly tiếp tục: “Nghe nói, khúc “Thu thủy” của lệnh tỷ khí thế áp đảo, tiếng đàn tiêu diêu, tấm lòng rộng mở, chí ngút cao xanh, khí độ phi phàm”.

Tử Ly lại nói: “Tuy nhiên, vừa rồi ta có việc đến Đông cung, nhìn thấy lệnh tỷ, thái tử phấn khởi, bảo nàng ấy dạo thử một khúc, ngón đàn tuy phi phàm, nhưng cũng không được như lời đồn”.

A La đành giải thích: “Nhưng sau khi tỷ tỷ được gả cho thái tử, một lòng chỉ muốn giữ bổn phận một hiền thiếp, không như thời còn là khuê nữ”.

Tử Ly nói nhỏ: “A La, muội thích Cố tiểu thư đúng không?”.

“Phải, lúc đó muội còn gọi nàng ấy là Thiên Lâm tỷ tỷ”.

Tử Ly cười:“Vậy thì, A La, muội muốn cưới một phu quân thế nào?”.

A La nghĩ đến câu nói vui về các bà vợ, như “sư tử Hà Đông” , lại nghĩ đến tâm nguyện của các bà “mong chồng vinh hiển, áo gấm xông hương” nghĩ đến nhiều chuyện tình đã xem, cười nói: “Không biết. Muội chưa yêu bao giờ. Nhưng...”. Nàng dừng lại cười cười không nói. Nhìn sao trên trời, A La lại tiếp: “Được quen biết đại ca thật là may mắn, muội đã tưởng ở đây muội sẽ không quen được đấng trượng phu nghĩa hiệp nào”.

Mắt Tử Ly dần dần sáng lên, A La nói: “Mắt huynh rất sáng, như sao trên trời vậy, đại ca, huynh rất tuấn tú. Đúng thế, rất tuấn tú!”.

Tử ly nhìn trời: “Thuở nhỏ mẫu hậu thường bế ta ngắm sao trời, nói mắt Tử Ly sáng như sao. Thuở nhỏ ta rất nghịch ngợm...”.

A La nghe Tử Ly kể chuyện những ngày thơ ấu của chàng, nghe mãi, dần ngủ thiếp lúc nào không biết. Tử Ly ngây người nhìn nàng, kéo mền đắp cho nàng, gối đầu nàng lên đùi mình, ngẩng nhìn sao chi chít trên đầu. Thầm nghĩ, nếu không phải bận tâm tới việc triều chính, cứ như thế này thì tốt biết bao.

(*) Đãng Đồ Tử có nghĩa bóng là "kẻ háo sắc", Thanh La mắng Lưu Giác nhưng chàng ta lại không hiểu hàm nghĩa này (BTV)

Khi A La và Tử Ly vượt tường ra khỏi phủ trốn ra ngoại thành, Lưu Giác trong vương phủ cũng được bẩm báo. Hôm nay không giống mọi lần, Lưu Giác cảm thấy bất an, phiền não. Cứ nghĩ đến cảnh A La và tứ hoàng tử qua đêm trên thảo nguyên, chàng thấy buồn vô hạn. Ngơ ngẩn đi lại trong Tùng phong đường, lặng ngắm nhìn bức tranh trên tường, cuối cùng gọi Lưu Anh nói: “Cho triệu Huyền tổ và Xích tổ, ta muốn ra ngoại thành”.

Lưu Anh nghe Lưu Giác nói muốn triệu Huyền tổ và Xích tổ, lòng lấy làm kinh ngạc. Lén liếc nhìn sát khí ngấm ngầm trên mặt chủ nhân. Đang đêm khuya chúa thượng muốn ra ngoài thành là bởi vì tam tiếu thư của tướng phú hẹn hò với tứ hoàng tử trên thảo nguyên?

An Thanh vương thân nắm trọng binh, đội Ô y kỵ trong vương phủ được lập ra do tiên đế ban chỉ, gồm những binh sĩ quyết tử chỉ nghe mệnh lệnh của vương phủ, ngoài An Thanh vương, chỉ có tiểu vương gia có quyền điều động, bình thường không ai biết đội quân này trú ở đâu. Ô y kỵ có năm tổ, năm xưa ngay cả khi hộ vệ Ninh vương đăng cơ cũng chỉ điều động bốn tổ, hôm nay lại điều động tới hai tổ kỵ binh. Lưu Anh tự dưng thấy căng thẳng bội phần.

Sau nửa canh giờ, tại Tùng phong đường của vương phủ đã có hơn trăm bóng người lặng lẽ tập hợp. Đội quân vận binh phục màu xanh sẫm, bịt mặt màu đen, áo giáp mềm màu xanh tía là Huyền tổ; Xích tổ vận binh phục màu tiết dê, họ lẫn vào màn đêm, nếu không nhìn kỹ không thể nhận ra.

Lưu Giác lạnh lùng ra lệnh: “Tối nay ta đi săn trên thảo nguyên, Huyền tổ theo hầu, Xích tổ tiếp ứng”.

Hơn trăm bóng đen trước mặt nhất loạt quỳ sụp xuống, khẽ đáp: “Tuân lệnh!”.

Từ lúc tập hợp đến lúc xuất phủ, đội quân hơn trăm người hầu như không phát ra một tiếng động, vó ngựa đã được bọc vải, phi như những cơn lốc đến cửa thành phía nam. Lính gác bị Lưu Giác đánh thức, mắt vừa liếc nhìn, chân đã mềm nhũn, quỳ sụp trên đất, hoàn toàn không biết đám người này xuất hiện từ lúc nào.

Lưu Giác không nhiều lời, tay vừa vung, lệnh bài Xích Long lóe sáng. Đây là lệnh bài chạm rồng màu đỏ, do tiên đế ngự ban cho An Thanh vương trước lúc băng hà, khi triều đình có biến, người cầm lệnh này có quyền sinh quyền sát, có thể trực tiếp cai quản, trấn thủ Phong thành. Không ngờ hôm nay Lưu Giác chỉ vì muốn ra khỏi Phong thành đã dùng đến lệnh bài này.

Lính gác vừa nhìn thấy lệnh bài Xích long, liền lập tức mở cổng thành. Đoàn người quất ngựa lao về hướng thảo nguyên, giống như những đám mây đen bay vun vút dưới ánh trăng. Lính gác hoa mắt nhìn theo, nghe thấy người cưỡi ngựa đi sau cùng lạnh lùng ra lệnh: “Các ngươi cứ việc ngủ đến sáng, hãy coi bây giờ đang mộng du! Hiểu chưa?”. Lính gác ngơ ngẩn gật đầu. Thấy đám mây đen đã bay xa lẫn vào màn đèm, họ mới vội vàng đóng cổng thành, chạy vào hậu thất, đắp chăn ngủ tiếp.

Khi đội quân rời khỏi Phong thành năm dặm, Lưu Giác vẫy tay, Xích tổ chia nhóm, rời khỏi đội hình mất hút trong thảo nguyên. Binh sĩ của Huyền tổ theo sau Lưu Giác tiếp tục phóng về phía trước. Không lâu sau đã nhìn thấy những đốm lửa phía xa, Lưu Giác càng thúc ngựa phóng nhanh. Chỉ nghe thấy “vút” một tiếng, có vật gì vòng qua yên ngựa của Lưu Anh, đó là một mũi tên không đầu. Đám cỏ phía trước lay động, mấy chục bóng người chui ra, dưới ánh trăng nhìn rất rõ, chính là đội thị vệ của phủ tứ hoàng tử.

Một người bước lên nói nhỏ: “Có phải Ô y kỵ của phủ An Thanh vương?”.

Lưu Anh hét: “To gan, dám cản đường tiểu vương gia!”.

Người đó cúi chào Lưu Giác, nhưng không nhượng bộ: “Kính chào tiểu tương gia, chúa công chúng tôi đang nghỉ ngơi ngắm cảnh, phiền tiểu vương gia đi đường vòng”.

Lưu Anh tức giận hét: “Làm gì có chuyện đó, tiểu vương gia chúng ra muốn đi săn trong đêm, các ngươi dám ngăn cản?”.

Thị vệ của vương phủ rút đoản đao soàn soạt, khí thế bừng bừng, hàm ý nếu thương lượng không thành sẽ phải động thủ.

Lưu Giác đột nhiên cười lớn: “Thì ra tứ điện hạ đang ở đây, vốn không nên quấy rầy, đã may mắn gặp nhau như vậy, chi bằng cùng ngắm trăng với tứ điện hạ”. Nói đoạn ngẩng nhìn trời, “Sao hôm nay đẹp quá! Các ngươi ở lại đây, người đông làm hỏng cảnh quan”.

Lưu Anh vội nói: “Chúa thượng!”.

Lưu Giác liếc chàng ta một cái. Lưu Anh đành lùi xuống, nói: “Thuộc hạ sẽ đợi ở đây”.

Lưu Giác cưỡi ngựa thong thả đi về phía trước, thị vệ của phủ tứ hoàng tử nhìn nhau. Một người nói: “Tiểu vương gia, xin chậm bước, để bỉ chức lên trước bẩm báo”. Bóng người vụt chạy về phía đốm lửa.

Tử Ly đang ngắm nhìn A La say giấc, chàng đã sớm cảm nhận những rung chấn nhè nhẹ của tiếng vó ngựa từ xa, đoán là có người đến, suy nghĩ một lát, chàng liền giơ tay điểm huyệt ngủ của A La, bế nàng vào trong trướng. Sau đó chàng trở ra đứng trước cửa lều, lặng lẽ nghe thị vệ bẩm báo Lưu Giác dẫn Ô y kỵ đi vào thảo nguyên, đang một mình cưỡi ngựa đến đây.

Tử Ly thong thả bước đến ngồi bên đống lửa, chất thêm củi vào lửa. Tiếng chân ngựa đã dừng ngay bên cạnh, Lưu Giác cười sang sảng: “Điện hạ thật có nhã hứng, rất biết hưởng thụ”. Vừa nói vừa đi đến ngồi xuống cạnh đống lửa, lấy ra bầu rượu, nói: “Rượu phụ thân gửi từ Biên Thành về, vị mạnh như lửa, vừa sảng khoái vừa mê ly”.

Nụ cười nhạt vẫn trên môi Tử Ly, chàng đón bầu rượu nhấp một ngụm lớn, đoạn ném trả Lưu Giác: “Tiểu vương gia sao lại có sở thích khác thường vậy, thích đi săn trong đêm?”.

Lưu Giác ngẩng đầu, cũng tợp một ngụm lớn, cười nói: “Đó là do tứ điện hạ chưa được hưởng cái thú đi săn trong đêm. Nên biết, trong đêm chỉ nhìn mắt con mồi mà săn, quả thực kích thích hơn nhiều so với săn ban ngày!”.

Tử Ly lơ đãng hỏi: “Đêm nay tiểu vương gia đã nhìn thấy mắt con mồi chưa?”.

Mắt Lưu Giác liếc nhanh vào trong trướng, cười lớn: “Con mồi sợ mũi tên của ta, nhắm mắt ngủ rồi”.

Tử Ly cười nhạt, vươn vai: “Con mồi đã ngủ, xem ra đêm nay tiểu vương gia trắng tay ra về rồi”.

Lưu Giác đứng dậy, cũng vươn vai cười: “Xưa nay ta chưa bao giờ trắng tay ra về, chỉ cần đánh thức con mồi là xong”.

Nói đoạn nhón chân định đi về phía lều. Thoắt cái, Tử Ly đã đứng chắn cửa lều: “Tiểu vương gia hãy ra thảo nguyên mà săn, bản vương không tiễn”.

Lưu Giác lạnh mặt, nói: “Ta nhìn thấy đôi mắt lóng lánh trong trướng, chạy lung tung trong tẩm trướng của điện hạ là không hay, để ta tóm ra đây!”. Giơ tay định vén rèm.

Bàn tay Tử Ly đã chặn lại, cười: “Chuyện trong trướng của bản vương khỏi phiền tiểu vương gia phí sức!”.

Lưu Giác cười gằn: “Điện hạ có thể thỏa mãn một chút tính hiếu kỳ của ta không?”. Bóng hai người vụt lay động, cánh tay vung lên. Đột nhiên “vù vù” hai tiếng gió phát ra từ những cánh tay đập vào nhau, chỉ nghe “ầm” một tiếng, chiếc trướng sụp đổ. Tử Ly kinh ngạc, lao vào trong bế A La đang nằm cuộn trong tấm mền.

Lưu Giác dừng tay: “Thật là có lỗi, thì ra tứ điện hạ đã tìm thấy tri kỷ trong đêm thảo nguyên, ta lỗ mãng rồi”.

Sắc mặt Tử Ly rất xấu, chàng lạnh lùng nói: “Đâu có, tiểu vương gia nếu vẫn còn nhã hứng, chi bằng ta uống thêm chén rượu. A La đang ngủ say, chúng ta không nên quấy rầy nàng ấy”.

Lưu Giác liếc nhìn mặt A La, biết nàng đã bị điểm huyệt, vẫn đang say ngủ. Chàng lùi lại hai bước, ngồi xuống bên đống lửa và uống rượu.

Mấy tùy tùng của phủ tứ hoàng tử không biết từ đâu xuất hiện, nhanh nhẹn thu dọn chiếc trướng vừa đổ, xong xuôi lại biến mất. Trên thảo nguyên yên tĩnh chỉ có tiếng củi nổ lép bép trong đống lửa lớn đang cháy rừng rực. Tử Ly đặt A La xuống thảm thật khẽ.

Lưu Giác đột nhiên nói: “Tứ điện hạ thật là có phúc, hai tháng nữa nghênh đón thiên kim tiểu thư của Cố tướng, một trong hai tuyệt sắc Phong thành”.

Tử Ly vẫn cười nhạt: “Đúng là có phúc, đến lúc đó xin mời tiểu vương gia đến chia vui”.

Lưu Giác cười ha hả, mắt nhìn A La: “Tứ điện hạ lẽ nào không muốn hưởng hết phúc ở đời?”.

Tử Ly mỉm cười: “Công, phượng đều đẹp. Thế nào? Tiểu vương gia dạo này cũng có ý định thành gia thất ư?”.

Lưu Giác cười khanh khách: “Tứ điện hạ chắc chưa biết chuyện năm trước tôi đã có lời cầu thân với Lý tướng, Lý tướng vui vẻ nhận lời, chỉ đợi ái nữ đến tuổi cập kê là đến rước về”.

Nụ cười ngưng lại trên môi Tử Ly, chàng trầm ngâm giây lát, lại mỉm cười, nói: “Xem ra không chỉ một mình bản vương muốn cầu thân với Lý tướng, một nữ nhi không thể gả hai chồng, lẽ nào Lý tướng định cùng lúc giẫm lên hai con thuyền?”.

Lưu Giác nhìn mặt Tử Ly, thấy chàng thản nhiên nhìn lại, không có vẻ đang nói dối, đột nhiên không hiểu thực hư chế nào. Nghe đồn Lý tướng bản tính xảo quyệt, mưu tính rất sâu, lẽ nào ông ta đã gả một cô con gái cho thái tử lại còn muốn gả một cô cho tứ hoàng tử, sau này bất luận ai nối ngôi, ông ta cũng ung dung hưởng lời. Lưu Giác trong đầu suy nghĩ rất lung nhưng nét mặt vẫn tươi cười: “Chuyện này phải làm thế nào đây, tứ điện hạ? Lẽ nào hai chúng ra phải tỉ thí phân cao thấp? Chuyện mà đồn ra ngoài chẳng phải khó xử lắm sao”.

Tử Ly đã hiểu ý Lưu Giác, người khó xử đương nhiên là Cố tướng, ái nữ còn chưa gả đi, chàng rể quý đã cầu thân với Lý tướng, cái mặt già của Cố tướng biết để vào đâu? Hơn nữa, Cố Thiên Lâm là phi tử đã được Ninh vương ban hôn, nếu chàng làm vậy há chẳng phải không nể mặt phụ hoàng! Tử Ly cười nhạt: “A La còn hơn một năm nữa mới đến tuổi cập kê, hãy để nàng tự quyết định”.

Nói đoạn mắt đột nhiên trở nên sắc lạnh, ánh mắt quét qua mặt Lưu Giác: “Bản vương không muốn có chuyện cưỡng ép xảy ra”.

Lưu Giác thấy hay, lập tức tán đồng, cười lớn: “Doãn Chi đâu phải người không biết thưởng thức, dưa chín ép không ngọt. Đương nhiên nếu tứ điện hạ và Cố tiểu thư phu phụ tình thâm, thay đổi chủ ý đừng quên nói với ta một tiếng”.

Lưu Giác đứng dậy nhảy lên ngựa, nhìn thấy những quầng sáng le lói phía chân trời, thốt lên: “Phong cảnh nơi này quả rất đẹp”. Nói đoạn, chàng ra roi thúc ngựa.

Tử Ly đột nhiên nói: “Nghe đồn Tùng phong đường của tiểu vương gia vẫn treo bức họa, có phải muốn tranh với bản vương?”.

Lưu Giác sững người. Tử Ly nói tiếp: “Nếu đúng vậy, bản vương khuyên ngươi, không nên có chủ ý với A La nữa”.

Lưu Giác cười lạnh lùng: “Tứ điện hạ tốt với A La như thế, điện hạ đã thương nàng ấy như vậy, lẽ nào để A La chịu tủi phận thứ thiếp?”. Dứt lời, không đợi hồi âm, chàng liền quất roi, ngựa hý một tiếng vút đi.

Tử Ly ngẩn người, buông tay nhìn những vệt sáng phía chân trời, một ánh hồng dần dần lan ra khắp chân trời, bất giác thở dài. Chàng vẫy tay, tùy tùng dắt ngựa đến. Chàng ôm A La lên lưng ngựa phi về thành. Gió ù ù bên tai, thảo nguyên sáng sớm tháng tư vẫn còn se lạnh, hai má A La phớt hồng, mắt vẫn nhắm nghiền. Tử Ly ôm riết vào người, hơi ấm truyền ra từ cơ thể mềm mại của A La, khiến lòng chàng không còn trống trải.

Đi vào trong tướng phủ, chàng đánh thức A La: “Đến phủ rồi, dậy thôi”.

A La dụi mắt: “Đại ca, muội ngủ say quá, không thức với đại ca, lại phiền đại ca đưa về tận phủ”.

Tử Ly cười dịu dàng: “Sau này đại ca sẽ đưa muội đi ngắm cảnh đẹp hơn nữa. Muộn rồi, mau về đi”.

A La nhìn Tử Ly, lòng vui lâng lâng, Tử Ly tốt với nàng quá. Nàng vẫy tay với chàng: “Đại ca, tạm biệt!”. Dứt lời, quay đầu chạy khỏi rừng trúc.

Tiểu Ngọc đã dậy, thấy A La chạy từ bên ngoài vào, bèn nói: “Tiểu Ngọc đẩy cửa, thấy đóng chặt, tưởng là tiểu thư chưa dậy”.

A La giơ hai tay, cười: “Ta đến rừng trúc luyện công”. Rồi véo má Tiểu Ngọc, nói: “Lấy hộ ít nước nóng, ta vẫn chưa rửa mặt”.

Sau khi Tiểu Ngọc đi khỏi, A La nhìn trước nhìn sau, lại nhảy qua cửa sổ vào phòng, mở cửa. Ngồi trước gương, nàng nghĩ lại cảnh thảo nguyên trong đêm và tâm trạng đầy phấn kích của mình trước cảnh tượng mênh mang huyền ảo đó, bất giác mỉm cười, lòng thầm nhủ, nếu không bị Lý tướng bắt ép lấy người có chức có quyền, không có những quy tắc lễ nghi ngặt nghèo, được sống tự do trên mảnh đất tươi đẹp này cũng thực dễ chịu. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng như ý, vả lại đây đâu phải thời hiện đại, mình muốn làm gì thì làm. A La lại thở dài, cuộc sống thoải mái tự do này, được ngày nào hay ngày đó. Ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, việc cần làm gấp bây giờ là nhanh chóng rời khỏi tướng phủ.

A La dùng xong bữa sáng, đợi thất phu nhân đi thỉnh an trở về, nàng nói với bà: “Mẹ à, bây giờ bạc đã đủ rồi, chúng ta trốn được chưa?”.

Thất phu nhân tươi cười: “Tam Nhi, chúng ta trốn thế nào? Hiện vẫn chưa có kế sách vẹn toàn, không thể khinh suất manh động, nếu không chúng ra chạy được bao xa?”.

A La cũng cười: “Con biết, chỉ là con quá nóng ruột muốn đi. Mẹ yên tâm, sẽ không có sơ suất gì đâu”.

Bây giờ có ngân lượng rồi, ít nhất cũng còn thời gian một năm nữa, đủ để chúng ta vạch định kế hoạch chu đáo, chuẩn bị tốt mọi thứ.

Thất phu nhân mỉm cười, hài lòng

CHƯƠNG 10

Hôm đó, Tử Ly và A La hẹn nhau ở Tố tâm trai, vừa ngồi xuống gọi món, Lưu Giác đã xuất hiện. Chàng điềm nhiên ngồi xuống cạnh họ, mỉm cười với Tử Ly: “Có thêm ta không thấy phiền chứ? Nghe nói đây là sản nghiệp dưới tên tứ điện hạ, chặn đứt đường làm ăn của Thiên phong lầu, được coi là Phong thành đệ nhất chay yến. Lần đầu ta đến đây, xin chớ đuổi đi”.

Tử Ly cười, nói: “Lần trước uống rượu của tiểu vương gia, lần này đương nhiên phải mời đáp lễ”.

Tử Ly không nói gì, A La cũng không tiện đuổi Lưu Giác, chỉ có điều nhìn thấy chàng, lòng nàng không vui, luôn muốn chỉnh chàng một trận. Nàng rất hoài nghi, thường xuyên chạm trán Lưu Giác, chàng ta có nghìn mắt hay sao? A La tiếc là mình không thể biến thành con gián, con muỗi hay côn trùng, để chàng ta nhìn thấy là tự tránh xa.

Nàng cúi đầu uống trà, đột nhiên nghĩ, tại sao bây giờ mình lại trở nên mềm yếu như thế. Trước đây, ở thời hiện đại, nếu gặp tình huống tương tự, nếu bị gã trai nào quấy rầy, nàng đã thẳng thừng mời gã đi không chút khách khí, ở đây lại phải cân nhắc nhiều như vậy. Càng nghĩ càng bức xúc, giá có thể không cần quan tâm gì hết, thích cáu thì cáu, thích giận thì giận, cứ kìm chế thế này đến phát điên mất. A La nhìn Tử Ly, khuôn mặt chàng vẫn phảng phất nụ cười, lại nhìn Lưu Giác vẫn vẻ phớt đời thường lệ. A La thầm nghĩ, hai vị cứ ngồi nhìn nhau ăn nhé, bản cô nương không muốn tiếp. Nàng đứng dậy, mỉm cười nói: “Muội ra đằng sau một lát, sẽ quay lại ngay”.

A La vừa đi, thức ăn đã bê lên, Lưu Giác cười: “Không khách khí nữa!”. Cầm đũa nếm thử, Tử Ly buồn cười nhìn vẻ ngạc nhiên, tán thưởng dần dần lộ ra trên nét mặt chàng ta.

Lưu Giác “chà” một tiếng, hỏi: “Tứ điện hạ thần thông quảng đại, tìm đâu ra đầu bếp cao tay như vậy?”.

Tử ly cười: “Là do A La dạy đầu bếp làm”.

Thần sắc Lưu Giác hơi biến đổi: “Nàng ấy giúp điện hạ dạy đầu bếp nấu ăn?”.

Tử ly cười, gật đầu: “Nàng ấy chỉ dạy bốn năm món, nói là chỉ biết bằng ấy thứ. Có điều, thực khách đến Tố tâm trai vẫn rất đông. Ở đây cũng còn nhiều món khác nhưng mấy món này vẫn là những món chủ lực hút khách nhất”.

Lưu Giác cười: “Đã đến đây, ắt phải nếm hết các món”.

Hai người ăn được một lát, thấy A La vẫn chưa trở lại, quay ra chuyện phiếm với nhau, hai bên dường như cũng tâm đầu ý hợp. Lưu Giác cảm thấy, càng tiếp xúc với tứ hoàng tử càng phát hiện Lưu Phi có vẻ thân thiện bẩm sinh. Tử Ly cũng thấy Lưu Giác không ngang tàng như vẻ bề ngoài, nói năng rất có chủ kiến. Hai người nhìn nhau, đều nghĩ, người này có thể cùng với mình được mệnh danh đại công tử Phong thành, ắt có chỗ hơn người.

Tử Ly nâng chén rượu mời Lưu Giác: “Tiểu vương gia, chén này bản vương mời đệ, nếu sớm biết đệ ái mộ Cố tiểu thư, bản vương nhất định ngăn cản phụ hoàng ban hôn”.

Lưu Giác sửng sốt, mỉm cười: “Điện hạ hiểu nhầm rồi. Tiểu vương chỉ là cảm thấy tiếng đàn của Cố tiểu thư rất phi phàm, nhân tài xuất chúng, đâu có chuyện ái mộ, muốn trở thành tri kỷ”.

Tử Ly cười: “Vậy tại sao Tùng phong đường lại treo bức họa Cố tiểu thư, ngày ngày nhìn ngắm?”.

Lưu Giác giật mình. Tùng phong đường gần như được coi là cấm địa của vương phủ, không được chàng cho phép, không ai được tự tiện ra vào. Hơn nữa, lại được Thanh tổ bảo vệ, chim bay còn khó lọt, Lưu Phi làm thế nào biết được những chuyện vụn vặt đó? Lần trước ở trên thảo nguyên hình như chàng ta cũng nhắc chuyện này. Lưu Giác mặt vẫn không biến sắc, đáp: “Ta thích vẽ mỹ nhân, phàm các thanh nữ đã gặp, xứng là tuyệt sắc ta đều vẽ và lưu giữ. Rượu này nên là ta mời điện hạ, lưu giữ chân dung Cố tiểu thư quả là bất kính với vương phi của tứ hoàng tử. Tối nay sẽ sai người đưa đến quý phủ, xin người thu nhận, chớ cười nhạo”.

Tử Ly mỉm cười: “Ái mộ mỹ nhân, lòng ai chả có, tiểu vương gia biết lễ như vậy, lại khiến bản vương thấy mình quá hẹp hòi”.

Hai người cười ha hả cùng cạn chén.

Một người hầu đi đến, nói với Tử Ly: “Tam tiểu thư có lời nhắn, là bỗng thấy người khó chịu, đã về phủ trước, xin hai ngài cứ vui khỏi cần bận tâm”.

Tử Ly mỉm cười, bụng nghĩ, A La ghét Lưu Giác không ở mức bình thường, nhìn thấy chàng ta là không muốn ăn.

Lưu Giác vẻ ngoài vẫn thản nhiên, nhưng lòng nổi sóng, Lý Thanh La! Nàng giỏi lắm, bao mỹ nhân trong thiên hạ mong được ta liếc mắc, còn nàng thấy mặt ta là không còn hứng ăn uống?

Hai người trong lòng đều theo đuổi ý riêng, sắc mặt vẫn không thay đổi, tiếp tục uống rượu. Chén cạn lại rót, thầm khâm phục tửu lượng của nhau. Những nậm rượu trống không trên bàn mỗi lúc một nhiều, bên ngoài trời tối dần. Tử Ly say trước, nói năng có phần thoải mái: “Tiểu vương gia, tửu lượng của tiểu vương gia đáng khâm phục, tốt quá!”.

Lưu Giác cười ha hả, ánh mắt lơ mơ nhìn Tử Ly: “Tiểu vương gia cái gì, nếu không chê, cứ gọi ta là Doãn Chi”.

“Được, Doãn Chi, đừng có điện hạ điện hạ mãi thế, cứ gọi ta là Tử Ly!”. Tử Ly cũng cười ha hả, khuôn mặt vốn dĩ như cười như không giờ đã say khướt.

Lưu Giác lảo đảo đến ngồi xuống bên Tử Ly, dang tay ôm vai chàng, nói to: “Hầu đâu, mang rượu lên!”. Vẻ mặt lơ mơ, miệng cười ngốc nghếch: “Điện hạ... Tử Ly, nói xem, Lý Thanh La có, có điểm nào... hay? Nàng ta kém xa đại tỷ, nhị tỷ, bất kỳ khuê nữ nào ở Phong thành này cũng hơn nàng ta, sao nàng ta không có mắt thế?”.

Nói đoạn đứng lên, tay chắp eo, lảo đảo suýt ngã, miệng líu ríu: “Nàng ta đã nghe danh ngũ đại công tử Phong thành này chưa? Đầu óc Lý tướng để đâu? Nàng ta chẳng qua là con gái một tỳ thiếp bị thất sủng?”. Nói đoạn loạng choạng trở về chỗ ngồi, lại cầm nậm rượu rót tiếp.

Tử Ly cười khì khì: “Doãn Chi, đệ đâu biết A La quả là báu vật, quen nhau đã lâu như vậy mà ta vẫn không nhìn ra nàng ấy, nàng ấy rất khác, rất khác biệt. Hoàn toàn không giống một thiếu nữ mười ba, nhưng lòng dạ rất tốt. Nếu cưới được A La làm vợ ta đây mãn nguyện lắm thay”.

Lưu Giác cười khì khì: “Vậy Cố gia thiên kim thì sao?”.

Tử Ly cười tự đắc: “Ta đương nhiên nâng niu A La trên lòng bàn taỵ. Nếu lòng nàng có ta, thì nàng sẽ hiểu ta chỉ là bất đắc dĩ mà thôi”.

Lưu Giác lại uống hết một nậm rượu, chỉ biết lắc đầu cười. Cuối cùng Tử Ly giơ tay lắc người chàng ta: “Doãn Chi, Doãn Chi, hì hì, ngươi còn say hơn ta”. Nói xong gục đầu xuống bàn.

Lưu Giác cười ha hả đẩy Tử Ly: “Tử Ly, điện hạ, lại còn nói ta say hơn, ha ha!”. Cười mãi, lát sau há mồm nôn thốc nôn tháo, người cũng đổ gục xuống bàn.

Đúng nửa canh giờ sau, bên ngoài cửa sổ một bóng người nhảy vào, đi đến bên Lưu Giác, lặng lẽ nhìn một hồi lâu, tay cầm đao vung lên. Lưỡi dao xé gió nhanh như chớp, bay đến bên Lưu Giác thì dừng đột ngột, Lưu Giác vẫn không động đậy. Người này nói khẽ: “Điện hạ, chàng ta say rồi”.

Tử Ly ngóc đầu khỏi mặt bàn, sắc mặt đã trở lại bình thường, mắt băn khoăn nhìn Lưu Giác hồi lâu, nói với người kia: “Gọi xe ngựa đưa về vương phủ, dọc đường chăm sóc chu đáo”.

Lưu Giác đã say khướt, người mềm nhũn được khiêng vào phủ. Hai tỳ nữ của Tùng phong đường là Tư Thi và Tư Họa bận rộn cuống quýt mới thu dọn sạch sẽ, Lưu Giác lại há miệng nôn tiếp, vật vã hồi lâu mới ngủ thiếp đi.

Hai tỳ nữ nhẹ nhàng khép cửa đi ra. Trong phòng chỉ còn một mình Lưu Giác nằm trên giường. Chàng lắng nghe động tĩnh, biết xung quanh không có ai, mới từ từ mở mắt, hai mắt hoàn toàn tỉnh táo, trong sáng, không một vết tích của say rượu.

Từ khi Tử Ly vô tình nói ra bức họa của Cố Thiên Lâm ở Tùng phong đường, Lưu Giác bỗng lưu tâm. Chàng vốn không nên nghi ngờ Tử Ly, nhưng mấy hôm trước trên thảo nguyên bình rượu từ Biên Thành mang về mà chàng ném cho Tử Ly không phải là rượu thường, dù người có tửu lượng cực lớn, chỉ cần uống một ngụm sẽ lập tức bị sặc bởi tửu tính bỏng rát như lửa của nó, nhưng lúc đó Tử Ly lại ngửa cổ tu một ngụm lớn, theo phán đoán của Lưu Giác, tửu lượng của chàng và Tử Ly cũng tương đương, Tử Ly không lý nào lại say trước chàng.

Lưu Giác nghi ngờ nên cũng giả bộ say. Chàng còn cố tình uống thêm hai nậm nữa, rồi vận công ép bụng nôn ra. Chàng gục xuống bàn, khi đã gần hết kiên nhẫn thì nghe thấy tiếng thở từ ngoài cửa sổ, ngay sau đó có bóng người nhảy vào. Người này rút dao vung lên, chàng vẫn không động đậy, lúc đó càng khẳng định Lưu Phi giả say. Trên thảo nguyên chàng biết thị vệ tùy tùng của Tử Ly luôn ẩn nấp đâu đó quanh chàng ta, người vừa nhảy vào nếu không phải là thân tín của Tử Ly, thị vệ của chàng ta sao có thể cho mang dao xông vào, huống hồ trong lúc Lưu Phi đang say.

Quả nhiên sau khi người đó thử ra tay, Tử Ly đã tỉnh ngay, chỉ sai thuộc hạ chăm sóc chàng đưa về phủ. Lưu Giác thâm tâm biết rõ, phụ thân chàng rất quan trọng đối với tứ hoàng tử, nếu hôm nay mình nhân lúc chàng ta say, trở mặt hoặc nói điều gì sơ suất, hậu quả sẽ khôn lường.

Hành động này của tứ hoàng tử là có ý đồ thăm dò gì đây? Thăm dò mình có phải là người của thái tử hay không ư? Bởi vì mình nói dối là đã cầu thân với Lý tướng, mà Lý tướng rõ ràng là người của phe thái tử? Tứ hoàng tử lại thăm dò thái độ của mình đối với Cố gia thiên kim, có phải chàng ta nghi ngờ do bị cướp mất người trong mộng nên mình hận chàng ta?

Lưu Giác nằm trên giường âm thầm suy nghĩ. Tứ hoàng tử có thể biết được những chuyện trong Tùng phong đường, tất đã có nội ứng bên cạnh mình. Nội ứng này thân cận bên mình, lại hiểu rõ Tùng phong đường có thể là ai? Những người có thể ra vào Tùng phong đường đa số là những binh sĩ quyết tử, vốn là trẻ mồ côi được nuôi dưỡng từ nhỏ, rút cuộc chàng ta đã mua chuộc được ai? Người đó do tứ hoàng tử bố trí hay là do Ninh vương bố trí?

Lời của tứ hoàng tử nửa thật, nửa giả. Lưu Giác nhận ra những khi Tử Ly nói năng sơ hở là những lúc có mặt A La, nàng ta là điểm yếu của tứ hoàng tử ư?

Lưu Giác nhớ lại, khi say Tử Ly nói A La rất khác thường, chàng ta nhìn không thấu. Chàng đã sai người theo dõi A La, tin tức báo về cho biết, A La từ nhỏ văn tài bình thường, sáo cũng mới học sau khi từ Đào hoa yến trở về. Nàng ta có chỗ nào khác thường? Lưu Giác vắt óc suy nghĩ mỗi câu nói của Tử Ly, một ý nghĩ như ánh chớp vừa lóe trong đầu, chàng ngồi bật dậy.

Tử Ly nói: “Nàng ấy hoàn toàn không giống một thiếu nữ mười ba”, Lưu Giác thở phào, chính câu này. Trong Đào hoa yến, A La mới mười hai tuổi, còn suýt thì bị té xuống suối, thấy đôi chân trần bị người khác nhìn đã đỏ mặt mắng là dâm tặc. Khi gặp lại, thấy nàng ta nằm thản nhiên trên thảm cỏ, không chút e dè, nàng ta còn biết võ công, quyền cước kỳ lạ của nàng ta không biết học được từ đâu, chàng mãi vẫn không điều tra ra. Nàng ta có khuôn mặt trẻ con, nhưng thần sắc và thái độ khi nói lúc đó tuyệt đối không giống một tiểu thư danh giá lần đầu xuất phủ. Theo tin nắm được, Tử Ly bên bờ sông vô tình nghe được tiếng sáo của nàng ta, mấy tháng liền ngày nào cũng đến thổi tiêu, hòa tấu với nhau.

Tứ hoàng tử có tài thổi tiêu, điều này triều đình ai cũng biết, tiếng tiêu là do Trần hoàng hậu dạy cho, sau khi Trần hoàng hậu qua đời, tứ hoàng tử càng say mê thổi tiêu. Có thể họa tiêu với anh ta, tiếng sáo của A La chắc chắn không kém bao nhiêu. Nhưng trong bữa tiệc thưởng trăng đêm đó, tại sao nàng ta lại cố ý giấu tài, bỏ qua cơ hội thể hiện trước mọi người.

Lưu Giác nghĩ, lời của Tử Ly ba phần thật, ba phần say, A La này tuyệt đối không bình thường. Chàng lại nằm xuống, càng bội phần hứng thú đối với A La. Nhưng chàng không vộỉ, nhất định có ngày chàng sẽ tìm ra nguyên cớ của mọi nghi ngờ hôm nay.

Sáng sớm vừa tỉnh dậy, Tư Thi đã mang chậu bạc đựng nước nóng cho chàng rửa mặt, nói: “Tối qua vương gia say quá, nô tỳ đã nấu canh giã rượu, sáng sớm uống một bát sẽ ấm dạ”.

Lưu Giác nghĩ một lát, đột nhiên hỏi: “Ta trở về như thế nào?”.

Tư Thi bụm môi cười: “Tiểu vương gia bị người ta khiêng về, hình như là người của phủ tứ hoàng tử”.

Lưu Giác “ồ” một tiếng. Rửa mặt, uống canh xong, lại nhìn bức họa trên tường, nói với Tư Thi: “Bảo người phong bao cẩn thận đưa đến phủ tứ hoàng tử”.

Tư Thi đi gỡ bức họa xuống, Lưu Giác giơ tay ngăn lại: “Gọi Lưu Anh đến đây”.

Tư Thi đi khỏi, Lưu Giác lại ngắm kỹ bức họa, trầm ngâm một lát, lập tức đến bên án thư, vẽ một bức họa khác của Cố Thiên Lâm, dung mạo xiêm y giống hệt bức cũ, chỉ khác có đôi mắt.

Khi Lưu Anh bước vào, Lưu Giác trao cho anh ta bức vẽ mới, nói: “Mang bức này đi hồ lại giống như bức cũ, đưa đến phủ tứ hoàng tử. Nếu có ai hỏi thì nói là vật quay về nguyên chủ”. Lại cầm lên bức họa cũ, nhìn đôi mắt trong đó lần nữa, giao cho Lưu Anh: “Bức này đem đốt đi, nhớ làm cho kín đáo”.

Lưu Anh cầm bức họa đi ra.

Lưu Giác tính ngày giờ, chỉ còn một tháng nữa là đến hôn lễ của Tử Ly với Cố Thiên Lâm. Chàng rất muốn biết Tử Ly sẽ ăn nói thế nào với A La.

Lý tướng triệu tập cuộc họp toàn gia, A La và thất phu nhân vẫn ngồi ở cuối hàng ghế bên phải. Lý tướng nói: “A Lôi được gả vào Đông cung đã được ba tháng, đại hôn lễ của tứ hoàng tử cử hành vào tháng bảy, vẫn còn nửa tháng nữa. Người của A Lôi từ cung nhắn ra, Đông cung mở tiệc chúc mừng hôn lễ của tứ hoàng tử, để A Lôi đỡ nhớ nhà, đã đặc biệt gửi thiệp mời chúng ta. Lần này đại phu nhân và Ngọc Mai cùng A Phỉ, A La vào cung trước. A Phỉ à, Thành thị lang đã được thăng làm Binh bộ thị lang, đợi hôn lễ của tứ hoàng tử hoàn tất, cha sẽ lo liệu hôn sự cho con”.

Thanh Phỉ đỏ mặt thẹn thùng, khẽ nói: “Cha đứng ra lo liệu là phải lắm”.

Lý tướng cười ha hả: “Hai con gái của Lý gia đã có nơi có chốn, cha quả thật rất vui, may vẫn còn A La ở bên cha”.

A La lập tức ngoan ngoãn trả lời: “Vâng, thưa cha, A La muốn ở bên cha mãi mãi có được không?”.

Lý tướng cười: “Con gái lớn phải gả chồng. A La cũng sắp tròn mười bốn, đến tuổi cập kê, người tìm đến cầu thân e là giẫm nát bậc cửa tướng phủ mất”. Nghe thấy thế, mấy phu nhân cũng cười theo.

A La cười nhạt, nếu không nhìn thấu tâm địa bán con cầu vinh của Lý tướng, bầu không khí này có lẽ là cảnh đại gia đình hòa thuận hiếm hoi đẹp đẽ nhất trong phủ đường.

CHƯƠNG 11

Đây là lần thứ hai Thanh La vào cung, vương cung đối với nàng đã không còn hấp dẫn nữa. Thanh Phỉ lại không nén nổi vui mừng, lâu lắm rồi nàng chưa được gặp chàng trạng nguyên hào hoa tuấn kiệt đó.

Đông cung của thái tử tọa lạc ở sơn cốc sườn phía đông của đại điện, các hoàng tử trước khi lập gia thất đều ở trong những cung điện trên sơn cốc này, đối xứng với cung hoàng hậu và phi tần phía xa. Phủ mới đã xây xong, sau hôn lễ, tứ hoàng tử sẽ chuyển đến vương cung, cặp tân hôn sẽ lưu lại nửa tháng trong vương cung sau đó sẽ chuyển về nơi ở mới, thái tử mở tiệc lúc này theo thông lệ chủ yếu là để thể hiện tình huynh đệ keo sơn.

A La không biết tình cảm của thái tử và Tử ly như thế nào, không ai nói với nàng về điều đó cả. Nhưng qua đọc sách và những câu chuyện nghe được, nàng đoán là quan hệ giữa họ cũng không mấy thân tình. Không cùng mẹ sinh ra, chỉ vì ngôi báu đó, từ khi sinh ra, sự nghi kỵ đề phòng lẫn nhau giữa các hoàng tử đã lớn hơn cả tình thân. Nàng đã nhìn thấy thái tử, đích thực là dòng dõi long phượng, Tử Ly cũng không thua kém, đều là bậc tài mạo phi phàm. Nếu Tử Ly tầm thường một chút có lẽ lại tốt, thái tử sẽ không nghi ngờ. A La chỉ hy vọng hai người đó có thể chung sống thuận hòa, ít nhất cũng không có hận thù.

Vương Yến Hồi đoan trang ngồi bên thái tử, ngắm mãi nàng ta cũng không đẹp bằng Thanh Lôi. Nhưng cũng khí chất cao quý như vậy, Vương Yến Hồi vừa ngồi xuống bên thái tử, đã thấy ngay sự khác biệt về thân phận so với Thanh lôi. A La nghĩ đến các quan chức thời hiện đại cũng thế, vị trí của chánh, phó hết sức rõ ràng, tuyệt đối không thể nhầm lẫn, Thanh Lôi dù được sủng ái đến mấy, chỉ cần có mặt Vương Yến Hồi, là phải ngồi lui phía sau, tâm thái của con người tự nhiên cũng thay đổi.

Hôm nay là lần đầu tiên nàng nhìn thấy Tử Ly và Lưu Giác trong trang phục hoàng tộc chính thức. Vừa ngắm vừa thầm xuýt xoa, cả hai người đều vận mãng bào thắt đai ngọc, ngoài hoa văn và màu sắc thêu trên y phục hơi khác một chút, ngoài ra không có gì khác biệt. Người đẹp vì lụa, đổi trang phục khác thì ai biết được ngươi là đồ khốn? Nàng cười thầm, không hiểu tại sao lại nghĩ tới câu đó.

Cố Thiên Lâm không đến, chắc là nghĩ sắp đến hôn lễ, nên ở nhà cho đúng gia phong. Thanh Phỉ ngây ngất nhìn vị trạng nguyên của mình, thỉnh thoảng ánh mắt tươi cười của Thành thị lang cũng đáp lại, Thanh Phỉ xúc động run run, tay nắm chặt khăn tay. A La thầm nghĩ, mệnh của Thanh Phỉ vẫn tốt hơn Thanh Lôi.

Thái tử nói: “Hôm nay mở tiệc chủ yếu là chúc mừng đại hôn của tứ đệ. Đại ca này mãi lưu luyến”. Nói đoạn, mắt đã đỏ hoe.

Tử Ly vội rời chỗ, đứng dậy, dáng điệu hốt hoảng e sợ. A La nhìn rất rõ, lòng nàng băn khoăn, đây không phải là hình ảnh tứ hoàng tử mà nàng đã biết. Ấn tượng mà Tử ly đem đến cho nàng là dù núi Thái Sơn sụp đổ, chàng vẫn không thay đổi sắc mặt, nụ cười thường trực hầu như chưa bao giờ tắt trên môi. Đã mấy lần nàng được chứng kiến điều ấy! Lẽ nào, Tử Ly đang diễn kịch trước mặt thái tử, chỉ có hai khả năng, một là tỏ ra yếu thế để bảo toàn tính mạng, hai là để mê hoặc đối phương. Tử Ly... A La thở dài, không muốn nghĩ tiếp.

Thái tử nói: “Sau này đại ca khó lòng được nghe tiếng tiêu trứ danh của tứ đệ, bây giờ trong sơn cung này chỉ có mình ta, muốn tìm người uống rượu thưởng đàn cũng khó”.

Tử Ly tựa hồ cảm kích rưng rưng, giọng nói có phần nghèn nghẹn: “Đại ca, Tử Ly sẽ thường xuyên vào cung thăm đại ca”.

Lát sau thái tử cười, lại tiếp: “Hôm nay phải vui hết mình, nói những chuyện đó làm gì. Tân khách đều là thân bằng cố hữu, mọi người cứ thoải mái tự nhiên. Buổi sớm trời đẹp thế này, ta cùng thưởng thức rượu ngon, nghe múa hát mới phải”. Nói xong vỗ tay ra hiệu, nhạc tấu lên, vũ nữ uyển chuyển bước ra. Thái tử lại nói: “Tứ đệ, trước đây vương phi tương lai cửa tứ đệ cùng với Lôi Nhi của ta được mệnh danh là song tuyệt Phong thành. Ông trời quả khéo se duyên, huynh đệ ta có diễm phúc cưới được hai trang tuyệt sắc”.

Tử Ly khiêm tốn: “Thiên Lâm sao sánh được hiền phi của đại ca, chỉ một khúc “Thu thủy” đã danh chấn Phong thành”.

Thái tử cười ha hả, ánh mắt đằm thắm nhìn Thanh Lôi: “Hôm đó tứ đệ không có mặt, khúc “Bội lan” của Cố tiểu thư mới thực lay động lòng quan khách, tâm như lan mà khí chất thông tuệ, đại ca thực lòng rất bối rối. Tiếng đàn của Lôi Nhi đâu sánh bằng, nhưng ca ngưỡng mộ tâm hồn Lôi Nhi”.

Thanh Lôi e lệ cúi đầu. A La nghe vậy thấy buồn cười. Cổ nhân dùng tiếng đàn nói thay tiếng lòng, một khúc cầm đã có thể nhìn nhận đánh giá một con người, thực không phù hợp với quan niệm của người hiện đại. Nếu đúng lời nói là tiếng lòng, thì người ta chỉ cần mấy cái mặt nạ thay đổi, chẳng phải có thể thoải mái lừa gạt hay sao?

Thái tử phi Vương Yến Hồi xen lời: “Nếu tứ đệ hôm đó chưa được thưởng thức khúc “Thu thủy” của Thanh Lôi, vậy tiểu muội có vui lòng gảy lại khúc đó không. Nói thực, ta cũng muốn nghe lại lần nữa”.

Thái tử rất vui: “Phải đấy, Lôi Nhi, sau khi nghe nàng gảy ở Đào hoa yến, ta chưa thấy nàng chơi lại khúc này. Hôm nay gảy lại, để tứ đệ được thưởng thức một phen”.

Lời đã nói đến thế, Thanh Lôi đứng lên thưa: “Cho phép thiếp vào trong chuẩn bị một chút”. Sau khi thi lễ, Thanh Lôi đứng lên, có cung nữ dìu nàng đi về phía tẩm cung. Lúc đi qua bàn A La đột nhiên nói: “A Phỉ, A La hai muội đi cùng tỷ được không?”.

Đại phu nhân, tam phu nhân sắc mặt đã hơi biến đổi, tài đàn của Thanh Lôi không có gì đáng sợ, điều đáng sợ là có thể khiến người nghe nhận ra. Khách dự tiệc hôm nay rất nhiều người giỏi đàn, chỉ cần đàn ý hơi thay đổi họ sẽ lập tức nhận ra. Đại phu nhân, tam phu nhân ra hiệu cho Thanh Phỉ, Thanh La ra theo.

A La hiểu, Thanh Lôi gọi cả Thanh Phỉ là để che mắt mọi người, chủ yếu là muốn gọi nàng. Qua khóe mắt nàng liếc nhìn khuôn mặt mủm mỉm cười của Vương Yến Hồi, thấy nàng ta cũng đang nhìn về phía này, chợt lạnh người, lẽ nào tiếng đàn hàng ngày của Thanh Lôi khiến Vương Yến Hồi nghi ngờ? Nghe đồn nàng ta mưu lược hơn người, hôm nay nhân có tiệc nàng ta yêu cầu Thanh Lôi chơi lại khúc “Thu thủy” liệu có dụng ý gì khác không?

Thanh Phỉ và Thanh La đứng lên, đưa Thanh Lôi vào cung thất. Sau khi cho tả hữu lui ra, Thanh Lôi đột nhiên vung tay tát A La. Theo phản xạ nàng lùi xuống để tránh, nhưng cổ vẫn bị móng tay Thanh Lôi cào xước, đau nhoi nhói.

A La cười gằn: “Thanh Lôi, trước khi đánh muội, tỷ phải hiểu, nếu muội ra ngoài với cái mặt hằn dấu tay, quan khách nhìn thấy, tỷ định giải thích thế nào? Dạy dỗ em gái ư? May mà muội tránh kịp”.

Thanh Lôi sắc mặt thoắt biến đổi, đột nhiên ống tay áo vung lên chiếc bình hoa rơi xuống vỡ tan, nàng nhanh tay ấn bàn tay trái lên một mảnh bình vỡ, máu tươi trào ra.

Thanh Phỉ và Thanh La thấy vậy sững người, Thanh Lôi bước đến xô mạnh Thanh La, A La không đề phòng suýt ngã, loạng choạng mấy cái mới đứng vững: “Lý Thanh Lôi tỷ định làm gì?”.

Thanh Lôi nhìn nàng trân trối, ánh mắt vừa phẫn nộ vừa thê lương: “Muội muội của ta, muội muội thích giấu tài của ta, muội giống hệt mẹ mình, bản tính của gái lầu xanh không đổi, cố tìm cách để một lần xuất hiện đã thành danh! Nếu muội không thay ta đàn khúc đó, thì ta đã không khốn khổ thế này, ngày ngày sống trong sợ hãi! Thái tử nghe là khúc đàn của muội, khiến chàng xiêu lòng cũng là tâm hồn muội, là muội! Muội có biết cái vẻ mặt mủm mỉm như cười như không của Vương Yến Hồi khi nghe ta đàn khiến ta tim đập chân run thế nào không? Muội có biết, thái tử càng sủng ái ta, ta càng lo sợ mất chàng hay không? Cứ coi như lúc đó ta không đàn được, ta bị bẽ mặt, ít nhất ta còn chưa yêu chàng! Còn bây giờ thì sao?”. Giọng Thanh Lôi cố nén xuống thấp nhưng vẫn rít lên, nghe như hận đến xương tủy.

A La nghe vậy, lòng buồn não nề. Bàn tay đầy máu của Thanh Lôi thật đáng sợ, A La quay mặt đi nói: “Lúc đó không ai nghĩ đến tâm trạng hôm nay của tỷ, Thanh Lôi, tỷ trách muội cũng chẳng ích gì. Tỷ đã được gả cho thái tử, dẫu lúc đó thái tử do nghe tiếng đàn mà lựa chọn tỷ. Nhưng với cái tài và cái tình của tỷ, dẫu sau này tỷ không bao giờ đàn lại khúc “Thu thủy” kia nữa, thái tử cũng vẫn sủng ái tỷ. Kỳ thực tỷ không cần phải làm tổn thương bàn tay để trốn tránh. Tâm tư lúc tỷ đàn khúc “Thu thủy” hồi ấy khác với tâm tư của người con gái đã được gả cho người mình yêu. Thiếu nữ thuở thiếu thời ngước nhìn bầu trời cao rộng, say mê bầu trời bao la, say mê làn nước mùa thu, mơ ước bay cao bay xa, nay xuất giá đi làm vợ người, tâm hồn trở nên êm dịu thanh bình cũng chẳng có gì không ổn. Tỷ có thể giải thích, tỷ chỉ muốn làm con chim nhỏ dựa vào đấng phu quân, thu lại ước mơ bay bổng trên bầu trời. Tự làm tổn thương thế này, tỷ không thấy càng khiến Vương Yến Hồi nghi ngờ hay sao”.

Thanh Lôi đứng sững hồi lâu, ngón tay trái bị rách rất sâu, máu vẫn chảy ròng ròng, Thanh Phỉ ra sức dùng khăn lụa bịt lại, nước mắt từng giọt, từng giọt lớn rơi xuống.

Thanh Lôi đột nhiên hét: “Người đâu, truyền thái y! Ta đau quá!”. Bên ngoài có tiếng chân bước vội, Thanh Lôi nhìn A La cười gian giảo: “Mọi chuyện bắt đầu từ muội, cũng kết thúc ở muội! Thanh Phỉ cũng chứng kiến rồi đấy!”. Nói đến câu cuối ánh mắt dữ tợn nhìn Thanh Phỉ.

A La nổi da gà bởi tiếng cười đó. Thấy Thanh Phỉ người run lên, cúi đầu, A La không kìm được bèn hỏi: “Tỷ định làm gì? Định đổ vạ cho muội làm hiền phi của thái tử bị thương ư? Đại tỷ?”.

Thanh Lôi mặt trắng nhợt, cười lạnh lùng: “Muội thông minh lắm!”.

Lúc đó cung nữ bước vào cuống quýt hỏi: “Nương nương sao thế?”. Sau đó nhìn thấy bàn tay đầy máu của Thanh La và những giọt máu rơi be bét xuống nền liền kinh ngạc kêu lên. Trong cung bỗng chốc trở nên rối loạn .

Có cung nhân vội chạy đi nói nhỏ vào tai thái tử. Mặt thái tử liền biến sắc. Đại phu nhân vốn đã thấp thỏm lo âu, nhìn thấy thái tử tỏ vẻ giận dữ, nóng nảy, lại không nhìn thấy ba cô gái đi ra, càng thêm lo lắng. Nhưng vốn xuất thân chốn danh gia vọng tộc, bà cố trấn tĩnh ngồi yên, hai bàn tay để trên bàn đã nắm chặt run run.

Lúc đó thái tử mỉm cười: “Tứ đệ, các vị cứ việc vui ta đi xem tại sao chị em Lôi Nhi lại chậm trễ như thế”. Thái tử vừa đứng lên đã thấy Thanh Lôi, Thanh Phỉ, Thanh La đi ra. Thanh Lôi mặt vẫn còn ngấn nước, một bàn tay giấu trong ống tay áo, thái tử nhẹ nhàng vén lên, thấy bên trong bó vải trắng, loáng thoáng vết máu, liền hỏi: “Chuyện gì thế này?”.

Thanh Lôi nét mặt hoảng loạn, tỏ vẻ đau đớn, cố nở nụ cười: “Điện hạ, Lôi Nhi đi thay trang phục, không cẩn thận làm vỡ bình hoa, chẳng may bị mảnh vỡ cứa rách ngón tay”.

Thái tử không kìm được trách móc: “Sao lại không cẩn thận như thế? Có đau không?”.

Thanh Lôi nặn ra nụ cười, dịu dàng nói: “Không đau, nhưng thiếp không chơi đàn được, làm cho tứ điện hạ mất hứng”. Nói đoạn cúi đầu, vẻ vô cùng đau buồn tội nghiệp khiến người ta phải mủi lòng.

Vương Yến Hồi nhẹ nhàng: “Yến Hồi đã quên mất khúc “Thu thủy”, hôm nay nhờ phúc của tứ đệ tưởng được nghe lại, thật không may”.

Thanh Lôi cúi đầu nhận tội: “Làm mất hứng của tỷ tỷ, Thanh Lôi có tội”. Nước mắt tuôn như mưa trên khuôn mặt yêu kiều khiến thái tử lòng đau như cắt, bất chấp trước mặt mọi người, dịu dàng dỗ dành: “Không sao, sau này có cơ hội đàn cho tứ đệ nghe là được”.

Thanh Lôi nước mắt tuôn càng mau, đột nhiên nói giọng bi thương: “Tay thiếp đã tàn phế, điện hạ!”.

Mọi người nghe vậy thất kinh. Thái tử không tin là thật: “Nàng nói gì? Thái y”.

Thái y run run bước ra, quỳ xuống bẩm: “Vết thương của nương nương không sâu, nhưng đúng vào kinh mạch của ngón tay, làm việc không ảnh hưởng, chỉ e không đủ linh hoạt để chơi đàn”. Lời vừa dứt, Thanh Lôi bật khóc thành tiếng: “Thanh Lôi sao có thể hầu hạ thái tử được nữa, để thiếp chết đi cho xong!”.

Thái tử nghe thái y nói vậy, mặt càng biến sắc: “Sao lại không thận trọng làm vỡ bình hoa để bị thương nặng đến thế?”.

Thanh Lôi cúi đầu khóc, không nói. Mọi người trong phòng dỏng tai nghe ngóng, xem ra có ẩn tình chi đây.

Thái tử thấy không ai trả lời, to tiếng quát đám cung nữ đang run cầm cập: “Các ngươi hầu hạ nương nương thế nào! Mang ra đánh, đến khi chịu nói ra mới thôi!”.

Mấy cung nữ quỳ sụp xuống khóc lóc: “Điện hạ tha tội! Là nương nương không cho chúng nô tỳ vào hầu, nô tỷ oan uổng quá!”.

Thanh Lôi vừa khóc vừa cầu xin: “Điện hạ, Thanh lôi và hai tiểu muội mải nói chuyện để xảy ra sơ suất, thực tình không liên quan đến bọn họ”.

A La lạnh lùng chứng kiến, cảm thấy Thanh Lôi lúc này một phần là muốn đổ vạ cho mình, một phần có lẽ thật sự đau lòng: Thái tử coi trọng tiếng đàn của nàng ta như vậy, vốn chỉ định gây vết thương nhỏ, không ngờ lại động vào mạch máu làm cho tay tàn phế không thể chơi đàn được nữa.

Thái tử buồn phiền, với Thanh Lôi chàng vừa yêu vừa xót thương, nghĩ đến không được nghe nàng đánh đàn nữa liền nổi giận bừng bừng, nhưng không thể bộc lộ trước mọi người, đành ôm Thanh Lôi vào lòng an ủi.

A La nãy giờ vẫn đợi xem Thanh Lôi rút cục giá họa cho nàng thế nào, đến lúc này không thấy động tĩnh gì, cảm thấy rất lạ, đột nhiên nghe tiếng Thanh Phỉ, giọng nói tựa hồ không thể nào nhẫn nhịn được nữa: “Chỉ tại A La quá nghịch ngợm”

Lời vừa dứt, Thanh Lôi đang ngồi trong lòng thái tử, trừng mắt nhìn Thanh Phỉ: “Muội im đi, nói lung tung gì thế!”.

A La vẫn không nói gì, thầm cười khẩy, Lý Thanh Lôi, cô muốn Thanh Phỉ đứng ra tố cáo ta, để xem rút cục các người nói gì!

Lúc đó Tử Ly rời chỗ đứng lên, nói: “Đại ca, hôm nay mở tiệc vui, tỷ muội họ vui đùa, chẳng may sơ suất. Lương đệ nương nương hiền đức cưng chiều muội muội, không nỡ trách phạt, coi như cho qua”.

A La thầm cảm kích, Tử Ly tốt quá, chịu đứng ra giải nguy cho mình. Nàng liền nhân cơ nhận tội: “Tỷ tỷ bị thương là do A La, A La trong lòng cũng buồn lắm, tỷ tỷ không trách phạt mà lại yêu chiều biểu muội. Quả thực muội rất xấu hổ”. Nàng tưởng mình nói như vậy chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, nhận lỗi là được.

Không ngờ Thanh Phỉ có vẻ nhanh mồm nhanh miệng, nói: “Hừ, vừa rồi chẳng phải muội làm vỡ bình hoa, cố tình đẩy đại tỷ ngã, nếu không đại tỷ sao đến nỗi bị đứt kinh mạch! Chẳng qua đố kỵ đại tỷ mà thôi! Đại tỷ hiền lương, lại còn cưng chiều như thế!”.

Lời Thanh Phỉ vừa buông ra, không khí trong đại điện vốn đã thoải mái đi nhiều bỗng dưng trở nên căng thẳng hẳn lên. Thái tử trợn mắt nhìn Thanh La, lạnh lùng nói với đại phu nhân: “Tam tiểu thư của Lý phủ thì ra lại ác độc như thế!”.

Thanh Lôi thấy thái tử nổi cơn thịnh nộ, vội vàng kéo áo thái tử khẩn cầu: “Điện hạ, A La còn nhỏ, Thanh Lôi chẳng qua không thể chơi đàn được thôi. Lẽ nào điện hạ sủng ái Thanh Lôi chỉ vì tiếng đàn?”. Nói đoạn nước mắt lại trào ra như suối.

Thái tử buồn bực, an ủi: “Lôi Nhi hiền lương đức thục, không đánh đàn được nữa thì có sao”. Nói đoạn, giọng trở nên nghiêm khắc, “Nhưng tuổi còn nhỏ đã rắp tâm mưu hại người thân, tuyệt đối không tha!”.

Vương Yến Hồi tiếp lời: “Quả là không nên có lòng tham như thế! Nếu không làm tàn phế bàn tay cô ta, cũng phải khiến cô ta cả đời không thể động đến cây đàn, được không?”.

Thái tử gật đầu: “Ái phi nói chí phải, xem cô ta đố kỵ Lôi Nhi thế nào! Chỉ chặt ngón vô danh bàn tay phải, giao cho thân mẫu đưa về phủ dạy bảo!”.

A La nghe vậy, thầm kêu mẹ, sợ hãi tái mặt, ánh mắt khẩn cầu vô thức hướng về Tử Ly. Mắt Tử Ly hơi hoảng hốt, khẽ cau mày, nhưng không nói gì. A La đột nhiên vỡ lẽ, trước mặt thái tử, Tử ly một mực khúm núm, muốn chàng giúp mình đúng lúc thái tử nổi giận, Tử Ly chắc là trăm mối tơ vò, không biết giúp thế nào? Nàng bất lực, kinh sợ thầm nghĩ, Lý Thanh Lôi cô ác quá, lại còn giả bộ hiền lành tội nghiệp. Lại còn Lý Thanh Phỉ kia nữa, vì tiền đồ của Thành Tư Duyệt mà dám ra tay hãm hại mình.

Ánh mắt A La quét qua mặt những người trong đại điện, thấy Lưu Giác cũng trầm mặt không nói gì, nụ cười lạnh châm biếm hiện trên mặt nàng. Lần này tốt rồi, ngươi đã được như sở nguyện, mọi tư thù sẽ được thanh toán.

Lúc đó hai cung nữ cao to đi vào đại điện, kéo tay A La định ra tay, Tử Ly giơ tay nói: “Hãy khoan!”.

Thái tử nhìn Tử Ly: “Tứ đệ muốn xin cho cô ta?”.

Tử Ly cười lạnh lùng: “Vừa rồi cứ tưởng tỷ muội chơi đùa không cẩn thận xảy ra sơ suất, không ngờ cô ta lại ác tâm như vậy! Bữa tiệc này lại bị cô ta làm hỏng, quả thật không thể tha! Chặt một ngón tay bõ bèn gì, bản vương sẽ đích thân động thủ!”. Chàng chắc chắn sẽ không làm tàn phế tay A La, để người khác động thủ chàng không yên tâm.

A La kinh sợ nghĩ đến ngón tay bằng xương bằng thịt của mình bị chặt phăng, mình sẽ đau đến chết! Nghe Tử Ly nói muốn đích thân ra tay, nàng kinh hoàng nhìn chàng, thầm kêu, đừng, đừng, không nên là chàng! Tử Ly từng bước đến gần, nỗi phẫn nộ trong lòng A La đã đến tột đỉnh. Vốn muốn sống một cách bình yên, có cơ hội sẽ rời tướng phủ tìm nơi an toàn để sống, không ngờ, thế này không được, thế kia cũng không xong! Nỗi uất hận tích tụ bao năm cuối cùng đã lên tới đỉnh điểm, cuộc sống tra tấn ngày trước nàng phải nhẫn nhịn, bây giờ quả thực không thể nhẫn nhịn được nữa! Nàng hét to: “Hãy khoan!”.

Tất cả giật mình bởi tiếng hét của nàng. Thấy A La đứng giữa đại điện, mặt hiên ngang thách thức, thái tử cũng sững người. Vương Yến Hồi lạnh lùng mở miệng: “Ngươi còn muốn nói gì?”.

A La liếc nhìn Vương Yến Hồi, ánh mắt chuyển sang nhìn thẳng vào mắt Tử Ly, nói từng từ: “Tứ điện hạ muốn đích thân động thủ phải không?”.

Tử ly nhếch mép cười: “Làm hỏng nhã hứng của bản vương, bản vương đích thân tìm lại, có gì sai?”.

Mắt A La thoáng ướt: “Được, ta sẽ làm tăng nhã hứng của điện hạ! Điện hạ không muốn nghe ta đàn một khúc sao?”.

Ánh mắt nàng vượt qua Tử Ly, dừng lại ở khoảng không phía sau chàng: “Thực ra A La rất thích chơi đàn, từ nhỏ tiếng đàn đã không bằng đại tỷ, hừ, cho nên không chơi nữa”. Nụ cười trên môi nàng như giễu cợt, dừng giây lát, lại tiếp: “Bây giờ nhận thấy từ nay không thể chơi đàn được nữa, có thể cho phép A La chơi một khúc chăng?”.

Vương Yến Hồi lạnh lùng: “Không cho ngươi toại nguyện, trở về tướng phủ chịu quản giáo e là ngươi cũng không cam tâm! Người đâu, mang đàn lại cho tam tiểu thư!”. Khóe mép ẩn hiện nụ cười.

Thanh Lôi cả người run lẩy bẩy, nhìn đại điện không thấy ai có phản ứng, muốn mở miệng ngăn cản, lại sợ vội vàng, ngộ nhỡ lộ ra điều gì, hoảng hốt nhìn đại phu nhân.

Đại phu nhân quỳ xuống nói: “Trong nhà đã sớm nhận ra tâm địa của tiểu nha đầu kia, đã lệnh cấm không cho động đến cây đàn. Hôm nay Thanh Lôi như vậy, sao có thể để Thanh Lôi nghe tiếng đàn thêm đau lòng!”.

A La không đợi ai lên tiếng, cười nói: “Tiểu nữ đã sắp bị chặt ngón tay, không thể đoái thương tiểu nữ một chút sao? Dù gì tiểu nữ tuổi cũng mới mười ba”.

Thái tử sa sầm mặt: “Không cho ngươi đánh đàn, chuyện đồn ra ngoài, lại bảo Đông cung ta bắt nạt trẻ ranh!”.

A La nhẹ nhàng ngồi xuống. Cây đàn tốt thật, đàn của Đông cung sao có thể không phải là loại thượng hạng! Ngón tay lướt trên dây đàn để thử âm, ánh mắt chậm chầm lướt qua mặt những người trong đại điện, lạnh như nước băng chích vào xương, nụ cười mơ hồ trên khóe miệng, dịu dàng yếu ớt như đóa hoa mùa thu bé nhỏ cuối cùng sắp lụi tàn, vừng trán bừng lên vẻ ngạo nghễ hiên ngang như cây tùng trên đỉnh núi, đơn độc đón nhận những trận cuồng phong.

Tử Ly cũng thấy lòng thắt lại, chàng thực sự rất muốn đưa A La ra khỏi chốn này.

Lưu Giác lặng lẽ nhìn A La, nâng chén rượu lên môi. Khuôn mặt muôn hình sắc thái của nàng khiến chàng kinh ngạc, hôm trước, trên thuyền hoa nàng một mực không chịu chơi đàn, trong chuyện này... Chàng nhìn hai rèm mi của A La rủ xuống, hai tay khoan thai lướt trên dây đàn, hai mắt khép lại.

Lát sau một thanh âm trầm thấp bay lên, A La bắt đầu chơi đàn. Tiếng đàn lúc như âm thầm rên rỉ, lúc lặng lẽ thở dài, lúc mong manh thâm trầm như không nghe thấy. Đột nhiên âm thanh vút lên, hào sảng, dồn dập, triền miên, tràn ngập mặt đất, tràn ngập không gian, xông thẳng vào lòng người, lay động tâm can! Cả đại điện dường như chìm trong nỗi bi thương khôn cùng, đau buốt đến tim gan, rồi thoắt cái như đã ở giữa sa trường, tiếng gươm đao rợp đất. Khúc đàn lúc trầm lúc bổng, lúc tan lúc hợp, từ thống thiết bi thương đến phẫn nộ gào thét.

Khúc “Quảng lăng tán” được A La chơi lâm ly thống thiết. Đại điện im phăng phắc, chỉ có tiếng đàn, chỉ có tiếng lòng A La vang lên. Kê Khang đã đánh khúc này trước khi bước lên đoạn đầu đài mà trở nên nổi tiếng. A La thầm nghĩ, bản thân nàng có phải cũng có tinh thần ung dung đón chờ cái chết như Kê Khang? Chắn chắn là không. Nhưng lay động lòng người nghe thì có.

Nghĩ đến bản thân do biến thiên kỳ lạ nào đó đến thế giới này, nghĩ đến những người thân ở thế giới kia, thời không cách biệt khó lòng tương ngộ. Nghĩ đến những ngày âm thầm chịu đựng nơi tướng phủ, nghĩ đến Lưu Giác không chịu lên tiếng, nghĩ đến những người mang tiếng là thân thích ruột thịt của nàng, lại nhẫn tâm hãm hại nàng. Nỗi bi thương uất hận không thể kìm nén trong lòng dồn cả vào tiếng đàn.

Nghĩ đến đánh xong khúc này, Tử Ly sẽ tự tay chặt đứt ngón tay mình, nàng bỗng liếc nhìn chàng, sự phẫn kích oán trách người bội bạc chất chứa trong tiếng đàn, tựa hồ giông bão cuồn cuộn, tựa hồ sấm rền chớp giật, phá tan đất trời, gầm thét sục sôi, cuốn phăng thần trí chàng. Tử Ly bất giác lùi về sau một bước. A La đang hận chàng ư? Đang hận chàng ư? Chàng muốn tự tay động thủ chẳng qua là chàng sẽ nương tay, sẽ có chừng mực mà thôi.

A La nghĩ, đúng vậy, sẽ đau, mất một ngón tay, sẽ không bao giờ, không bao giờ đánh đàn được nữa cũng có gì ghê gớm đâu. Xem trọng tiếng đàn như vậy, chẳng qua là các vị chẳng có gì tiêu khiển mà thôi. Người hiện đại sống rất hay, không vì xa tiếng đàn mà như ngày tận thế! Khúc nhạc hào sảng vút lên những hợp âm cuối cùng, A La từ từ đứng dậy, ngẩng cao đầu, đi đến trước mặt Tử Ly, giơ bàn tay phải ra: “Huynh chặt đi!”.

Tử Ly mím môi, trấn tĩnh nhìn A La. Khuôn mặt nhỏ nhắn của A La dường như phát sáng, vẻ bất cần, giơ tay cho chàng, thoái mái và tinh nghịch như những lúc nàng nũng nịu cười chìa tay đòi chàng cho ngân lượng.

Đại điện lặng ngắt. Thái tử ngồi ngây, Thanh Lôi sắc mặt tái xanh, mắt Vương Yến Hồi lóe ra những tia đắc ý.

Tử Ly từ từ giơ tay, ngón tay hơi run, để người khác chặt tay nàng chi bằng để chàng tự chặt. Chủ ý đã định, chàng nén lòng, quyết ra tay, A La mắt đỏ hoe, mặt hơi nghiêng sang một bên .Trong lúc ngón tay A La chìa ra, lòng Tử Ly trống rỗng, cảm thấy chàng sắp vĩnh viễn không còn được nắm tay nàng nữa.

Lưu Giác lên tiếng, giọng sang sảng: “Một tiếng đàn hay như thế, nếu không còn được nghe nữa, thần lấy làm tiếc, xin thái tử nể tình, miễn cho tội cực hình!”. Nói là cầu xin thái tử, nhưng sắc mặt chàng rắn đanh, kiên định như không gì lay chuyển nổi.

Thái tử lúc đó mới sực tỉnh. Vương Yến Hồi dịu dàng nói: “Tiếng đàn lay động lòng người, niệm tình cô ta còn thơ trẻ, miễn tội đi!”.

Đôi mắt thái tử lóng lánh vẻ suy tư, chàng buông tay đi đến trước mặt A La. Nàng nhìn thẳng vào mắt chàng, không chút sợ hãi.

Thái tử ngoái đầu nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi rơi nước mắt, thái tử thấy vậy quả thực không nỡ, cuối cùng nói: “Làm hại hiền thiếp của ta, không phạt không xong...”. Lời chưa dứt, Lưu Giác đã lên tiếng: “Tiếng đàn của A La có thật không bằng Lý lương đệ?”.

Thái tử sững người. Lưu Giác lại tiếp: “Không biết nhị tiểu thư phán đoán thế nào? Có đúng A La cố tình đẩy Lý lương đệ?”. Ánh mắt lạnh như mắt rắn độc lập tức bám lấy Lý Thanh Phỉ, nỗi phẫn uất đầy sát khí từ người chàng tỏa ra, dồn ép khiến Thanh Phỉ không thể thở nổi.

Thành Tư Duyệt cau mày nói: “Nương nương ngã, bị thương cũng là chuyện xảy ra trong chớp mắt, Thanh Phỉ trong lúc hoảng loạn nhìn không rõ cũng là chuyện thường tình”.

Thái tử hỏi: “Thật không?”.

Thanh Phỉ đâu còn sức lực nói nhiều, lòng đã hoảng loạn đến mức suýt nói ra chân tướng. Nghe Thành Tư Duyệt giải vây cho mình, bèn gật đầu nói phải.

Thanh Lôi thở nhẹ đi đến trước mặt Thanh Phỉ, giơ tay tát một cái: “Chính do muội nói bừa, suýt hại A La bị chặt ngón tay, tổn thương tình tỷ muội!”.

Thanh Phỉ ôm mặt rơi nước mắt, nói khẽ: “A Phỉ trong lòng sợ đại tỷ bị đau, ngày thường thấy A La hiếu động, cứ tưởng là do muội ấy”.

Thái tử hừ một tiếng: ““Cứ tưởng” ư? Vậy cũng dám nói bừa trước đại điện? Không nhìn kỹ mà đã dám nói liều!”.

Đại phu nhân gật đầu khen phải. Thái tử nói: “Tứ đệ, không biết đệ đã tận hứng chưa?”.

Tử Ly nhìn Lưu Giác và A La sánh vai bên nhau. Từ lúc Lưu Giác kéo A La khỏi tay mình, A La không hề nhìn chàng một lần, lòng chàng đã đầy day dứt, đâu còn hứng thú tiếp tục uống rượu. Nghe ý thái tử muốn kết thúc cuộc vui, vội cười: “Người đời có câu khúc tàn thì tiệc tan, được nghe tiếng đàn như vậy đã vui hết mực rồi. Tạ an thịnh tình của đại ca, Tử ly đang muốn cáo từ về nhà tĩnh tâm hồi tưởng dư vị”.

Mọi người cười ầm, cùng nhau đứng dậy cúi chào bái biệt.

Tân khách ra về hết, Vương Yến Hồi thản nhiên nói: “Thiên hạ đồn thiên kim Lý tướng phủ tài sắc vẹn toàn, chỉ có tam tiểu thư tư chất tầm thường, ai ngờ rằng tam tiểu thư lại là người có chí khí đến thế, lúc nhỏ ngón đàn không bằng người, âm thầm ôn luyện. Tiếng đàn hôm nay quả thật có thể sánh với khúc “Thu thủy” hôm xưa của tiểu muội. Kỳ tài hiếm có, chính là thế”.

Thanh Lôi cố nặn ra nụ cười, vừa rồi mất máu khiến mặt nàng càng tái xanh: “Tỷ tỷ nói chí phải, tiểu muội Thanh La có được tiếng đàn như hôm nay, lòng thiếp được an ủi rất nhiều. Bàn tay thiếp tàn phế thật đúng lúc, nếu không sao có thể được nghe tiếng đàn giữ kín bấy lâu của tiểu muội”.

Vương Yến Hồi mỉm cười: “Đúng vậy, trong họa có phúc, cứ xem tình hình hôm nay, có lẽ phải chúc mừng tiểu muội rồi, biết đâu sắp có em rể là tiểu vương gia”.

Thanh Lôi gượng cười. Nụ cười cũng dần hiện trên môi thái tử, ánh mắt chàng nhìn Thanh Lôi đầy yêu thương: “Lôi Nhi, hôm nay tay bị thương, mệt rồi, ta đưa nàng hồi cung. Nhất định tiểu muội Thanh La cũng bị kinh động không ít, ngày mai sai người mang ít quà đến. Nếu không, ngày sau muội ấy sợ người anh rể này, Lôi Nhi sẽ oán trách ta”.

Khi thái tử nói vậy, ánh mắt lại nhìn sang Vương Yến Hồi. Yến Hồi cười hồ hởi, trả lời: “Có lẽ nên thế! Ngày mai thiếp sẽ đích thân chọn quà”.

Thái tử thong thả dìu Thanh Lôi đi khỏi, chàng còn lưu lại tẩm cung dịu dàng vỗ về đến khi Thanh Lôi ngủ mới rời đi. Nghe tiếng bước chân thái tử khuất dần trên hành lang dài, Thanh Lôi khoác áo choàng nhiễu xuống giường. Đông cung rộng thênh thang, nhưng trong điện lại chỉ có một ngọn nến nhả ra chút ánh sáng đỏ quạch, dưới ánh nến lập lòe khuôn mặt nàng càng thêm diễm lệ tà mị. Ngọn nến đã cháy hết, vụt tắt trong yên tĩnh, chỉ thấy “phù” một tiếng, giống như tiếng cá đớp bọt nước. Cá à? Thanh Lôi bắt chước chúm miệng thổi một cái, rồi lại thổi tiếp cái nữa, cứ thổi như vậy đến khi cảm giác nặng trĩu bức bối và đau buồn từ trong ngực theo đó ra ngoài.

Cuối cùng nàng thở một hơi dài, ngồi trước bàn trang điểm, nhìn vào gương, vẫn vẻ diễm kiều kiêu sa như hoa mai ngày nào. Nhìn bàn tay trái, nàng cười thầm, thiên hạ đều tưởng Thanh Lôi này chỉ giỏi đàn, nhưng họ đâu biết, cầm kỳ thi họa, nữ công nàng đều tinh thông, không ngón nào nàng không chuyên cần tập luyện. Từ nhỏ tam phu nhân đã dạy nàng, muốn hơn người, phải bỏ nhiều công sức, phải biết chịu khổ. Nàng xuất thân từ tướng phủ, tuy là con của vợ lẽ, nhưng cũng là thiên kim của tả tướng. Dung mạo giống mẫu thân, có vẻ diễm kiều thanh cao, lại thêm tư chất thông minh, hiếu học, biết cách lấy lòng Lý tướng, Lý tướng không có con trai nhưng nàng vẫn được nuôi dưỡng cưng chiều như báu vật.

Thanh Lôi nghĩ, cha à, con biết cha muốn dùng con gái để giữ chặt vinh hoa phú quý, con gái lẽ nào không muốn vươn tới cành cao? Nhưng... thái tử... nghĩ đến lúc trong Đào hoa yến nàng vén rèm trướng nhìn thấy chàng, khuôn mặt khôi ngô, mắt sáng, nụ cười ẩn dưới vẻ nho nhã tôn quý. Từ lúc đó nàng đã thích chàng. Nghĩ đến chuyện đánh đàn, nghĩ lại mọi chuyện trước kia, miệng khe khẽ ngâm: “Núi có cây, cây có cành, lòng thiếp thương chàng, chàng có hay”. Hai dòng lệ cứ thế tuôn lã chã.

Lấy tay lau nước mắt, nàng thì thầm: “A La, muội lại giúp ta lần nữa. Mong là muội có thể thuận buồm xuôi gió lấy tiểu vương gia. Nếu không...”, miệng hé mở, lộ ra nụ cười thê lương,”... thái tử đâu có ân cần với ta đến thế”.

Suốt dọc đường A La không nói gì, nàng để mặc Lưu Giác dìu đi, ra khỏi Đông cung, ra khỏi vương cung. Lưu Giác ôm nàng, cưỡi ngựa trở về tướng phủ. Chàng không phóng nhanh mà cho ngựa đi chầm chậm. A La không nói không rằng, dựa người vào ngực chàng, nhắm mắt cảm nhận làn gió đêm lướt nhẹ qua mặt.

Lưu Giác bế nàng lên ngựa, ôm nàng vào lòng, A La không giãy giụa cũng không cự tuyệt. Nàng quá cảm kích, không muốn phá vỡ phút yên tĩnh này. Lúc này nàng cần lồng ngực chàng. Lồng ngực ấm áp an toàn mà nàng khao khát lại do tiểu vương gia, chàng công tử khinh bạc mà nàng vẫn ghét trao cho. A La cảm thấy mệt mỏi, một lần nữa nàng hạ quyết tâm, bằng mọi giá phải rời tướng phủ.

Lưu Giác chỉ mong con đường dài mãi, chàng cũng không nói gì. Khi thái tử hạ lệnh chặt ngón tay A La, nỗi phẫn nộ trào lên khiến chàng tức thở. Chàng biết A La hiếu động, nhưng tuyệt đối tấm lòng không độc ác như thế, vốn định khi cung nữ động thủ, chàng sẽ ra tay. Chính trong lúc đó chàng nghe thấy tiếng gào thét bi thương động trời của A La trong tiếng đàn. Khi tiếng đàn cất lên, chàng sửng sốt ngẩn ngơ, A La đã mang đến cho chàng những rung động, kinh ngạc khôn cùng, trong lồng ngực chàng có ngàn vạn tiếng hô, ứa trào muôn cảm xúc không thể gọi tên. Chính vào lúc Lưu Phi động thủ, không kịp nghĩ, chàng lao đến kéo giật nàng ra. Bản thân chàng cũng không biết tại sao chàng lại không đành lòng đến thế, dám bất chấp lệnh của thái tử, cứu nàng.

Chàng cúi đầu nhìn A La hai mắt đang nhắm nghiền, yếu ớt trong lòng mình, trong đầu chỉ có một ý nghĩ duy nhất, phải bảo vệ nàng, nhất định phải bảo vệ nàng. Chàng bỗng ra roi, tuấn mã tung vó nhằm hướng tướng phủ lao đi.

“Đến rồi".

A La mở mắt, nhìn cánh cổng tướng phủ sừng sững trước mặt, khẽ nói: “Hôm nay đa tạ tiểu vương gia”.

Lưu Giác cười, bế nàng xuống ngựa. A La cúi chào, đi vào phủ. Lưu Giác không nói gì, chỉ đứng nhìn theo.

Thất phu nhân thấy A La một mình lẳng lặng trở về Đường viên, không nén nổi đi đến hỏi mấy câu. A La bỗng bật cười: “Mẹ à, chúng ta nhất định phải rời khỏi đây, nhất định”. Giọng nàng kiệt sức nhưng đầy kiên nghị.

Nàng không trở về phòng, nàng đi thẳng vào rừng trúc ngồi suy nghĩ. A La không muốn phân tích suy nghĩ của Tử Ly, nhưng tâm tư của chàng như bị vạch trần. Nàng có thể thông cảm với chàng, chỉ có thể thông cảm với chàng. Còn Lưu Giác, chàng đã cho nàng một điều bất ngờ lớn. Chẳng cô gái nào không muốn được yêu chiều che chở, nghĩ lại hành động của chàng, sự ấm áp từng chút, từng chút lớn dần, rồi tràn ngập lòng nàng. A La lắc lắc đầu, chuyển hướng suy nghĩ, phải tính xem rời khỏi tướng phủ sẽ đi đâu, đến đâu tốt nhất, đi như thế nào. Đi về phía tây là nước Khởi, toàn bình nguyên khó tránh truy binh. Đi về đông là rừng rậm Hắc sơn, nguy hiểm nhất, cũng dễ xảy ra bất trắc nhất, mẹ con nàng lại không có kinh nghiệm đi rừng, thất phu nhân và Tiểu Ngọc không biết võ công, thật quá nguy hiểm. Chỉ có đi về nam, qua Hán Thủy, đến nước Trần. Nghe nói ở đó phong cảnh từa tựa như vùng Giang Nam, cũng là con đường dễ đi nhất. A La nghĩ, đợi đến sau hôn lễ của Tử Ly, khi Thanh Phỉ được gả cho Thành Tư Duyệt, mọi người trong phủ bận rộn, không ai để mắt đến họ, đó chính là thời cơ tốt nhất.

Đột nhiên trước mắt hoa lên, Tử Ly nhảy từ bên ngoài vào. Ánh trăng trải trên rừng trúc, những bóng cây đen sì đổ dài. Chàng vốn định dùng tiếng tiêu gọi nàng ra, nhưng vào rừng trúc lại nhìn thấy nàng đang ngồi trầm tư bên hòn giả sơn.

Tử Ly bước tới: “A La, muội đang giận ta phải không?”.

A La ngẩng đầu, nét mặt Tử Ly căng thẳng, nụ cười thường trực trên môi đã biến mất, ánh mắt chàng u uẩn khôn cùng. Nàng cười: “Đại ca, sao muội có thể giận huynh. Đại ca ra tay, trong lòng ắt đã có kế sách vẹn toàn. Muội biết, cùng lắm cũng chỉ đau một chút, không đến nỗi phế ngón tay muội thật đâu”.

Hình như Tử ly thở phào, cơ thể cứng đờ của chàng mềm ra chút ít. Chàng đi đến quỳ một chân trước mặt A La, cầm tay nàng nắm chặt trong tay mình, khẽ nói: “Hôm nay, ta chưa bao giờ hoảng loạn như thế. A La, ta đã hứa sẽ bảo vệ muội”.

A La dịu dàng nhìn chàng, từ từ rút tay về, đứng lên, nét mặt lại trở nên tinh nghịch: “Đại ca, huynh không sai, muội thực tế hơn huynh nhiều, nếu là muội, muội còn không dám lên tiếng nữa kia. Đại ca đã rất tốt với muội rồi, Tử Ly, muội không trách huynh nửa câu. Chỉ có điều, trước mặt thái tử, trông huynh không giống ngày thường”.

Nàng nén thở dài, nhẹ nhàng nói tiếp: “Đại ca, mẫu hậu huynh không còn, một mình huynh ắt là sống rất khó khăn”.

Tử Ly thấy lòng ấm áp: “A La, muội có thể hiểu lòng ta, ta đã mãn nguyện rồi. Muội chờ ta được không?”

A La ngây người: “Chờ huynh làm gì?”.

Tử Ly bước đến quàng tay ôm nàng vào lòng: “A La, muội chờ ta một năm, khi muội đến tuổi cập kê, ta sẽ đón muội vào phủ, suốt đời suốt kiếp không để ai làm muội tổn thương!”.

A La kinh ngạc, ngẩng đầu nhìn Tử Ly, trong mắt chàng chỉ một khối tình thâm, môi chàng mím chặt, tựa hồ chủ ý đã định, A La cười đau khổ, rời khỏi lòng chàng: “Đại ca, bản thân huynh đã khó khăn rồi, không nên phụ lòng tốt của phụ hoàng đã ban hôn cho huynh”.

Tử Ly nhìn nàng: “Ngày mai ta sẽ nhận tội với phụ hoàng, cầu xin phụ hoàng thu hồi thánh lệnh”. Khi nói những lời này, khuôn mặt chàng vụt biến đổi, rạng ngời như ánh trăng.

A La mỉm cười: “Đại ca, muội chỉ coi huynh như đại ca, không có ý gì khác, Bây giờ lòng huynh đang bất ổn, không nên vì muội mà từ bỏ tất cả. Chúng ta là người của hai thế giới khác nhau, muội không thuộc về thế giới này”.

Bóng A La kéo dài dưới ánh trăng, thân hình mảnh mai, nhưng có một vẻ kiên nghị, dẻo dai như những thân trúc bên cạnh. Tử Ly ngây người ngắm nhìn, giọng khàn đặc hỏi: “Tại sao? A La, lẽ nào trong lòng muội thật sự không có ta?”.

A La ngẩng đầu nhìn, sao trời sáng lấp lánh vẫn thế, ánh trăng trong vắt như nước. Nhớ lại ngày đầu quen biết Tử ly, giao đấu với đám người áo đen vì chàng, nghĩ đến khi mở Tố tâm trai kiếm tiền, nghĩ đến lúc hòa tấu với chàng, cùng chàng cưỡi ngựa trong đêm thảo nguyên. Dòng suy tưởng dồn về như sóng nước. Tử Ly đối với nàng tình sâu như thế, vậy mà cũng có lúc bất lực không thể bảo vệ nàng. Nỗi căm ghét đối với cuộc tranh giành quyền lực trong cung lại trỗi dậy, cộng thêm tâm trạng mệt mỏi, chán chường đến tột độ do bị nhốt trong tướng phủ, thâm tâm quả thực không muốn ở lại chốn này thêm nữa. Nàng nói nhỏ: “Đại ca, mỗi người đều có cuộc sống riêng của mình, thân trong tướng phủ, muội đã không thể lựa chọn, nhưng cuộc đời còn dài, muội không thể, không thể”.

Lồng ngực Tử Ly như tắc nghẹn, hồi lâu sau chàng mới lên tiếng: “Muội muốn ta từ bỏ vương vị, từ bỏ tất cả, theo muội đến chân trời góc bể ư?”.

Đồng tử trong mắt A La nhấp nhánh trong đêm tối: “Ở chỗ muội có người nói, sinh mệnh rất đáng quý, tình yêu rất đáng quý, nhưng vì tự do, sẵn sàng từ bỏ cả hai. Trước đây muội không hiểu lắm, sinh mệnh quý hơn tất cả, không còn sinh mệnh nữa thì còn gì? Vậy là muội nhút nhát, một lòng muốn bảo toàn tính mệnh, từ nhỏ đã tự nhủ phải nhẫn nhịn. Nhưng bây giờ khác rồi. Thực ra trước đây muội cũng chưa yêu ai, có được chút tình của huynh, muội thật muôn phần cảm kích. Đại ca, lần trước muội đã nói, không ngờ gặp được đại ca, một người tốt với muội như thế, ở bên huynh muội rất vui vẻ. Nhưng, bây giờ muội cần tự do hơn”.

Tử Ly cướp lời: “Ta sẽ cho muội tự do, dưới đôi cánh che chở của ta, muội có thể an toàn và tự do”.

A La cười khanh khách: “Đại ca, muội không muốn đại ca từ bỏ gì hết, huynh cũng không từ bỏ nổi. Huynh có thể không?”.

Tử Ly trầm ngâm hồi lâu mới nói: “A La, cuối cùng vẫn là muội muốn ta từ bỏ tất cả cùng đi với muội. Muội nói không sai, ta quả thực không làm được. Nhưng muội đi đến đâu cũng thế thôi, cũng là cường quyền bạo ngược, đều bị người ta ức hiếp, so với phiêu bạt bên ngoài, an toàn ở bên ta không tốt hơn sao? Muội có thể làm những gì muội thích. Chỉ cần ta làm được, ta sẽ cho muội tự do nhiều nhất có thể”.

Nhưng cái nàng muốn không chỉ có vậy. A La nói: “Còn nửa tháng nữa là đã đến đại hôn của huynh rồi, đại ca!”.

Ngữ khí của Tử Ly đã nhuốm màu bi thương: “Ta đi cầu xin phụ hoàng, ta sẽ đến Cố tướng phủ nhận tội. A La, muội còn muốn ta làm gì nữa?”.

A La chợt se lòng: “Huynh biết rõ đó là điều không thể. Huynh chỉ vì một mình muội mà đắc tội với phụ hoàng, đắc tội với trọng thần của triều đinh, để cho Hữu tướng trở mặt, cứ coi như thế, lẽ nào huynh không lường trước hậu quả?”.

Tử Ly đột ngột ôm chầm lấy A La: “Muội đã nhìn rất rõ! Chuyện gì muội cũng biết! Tại sao, muội không thể mập mờ một chút, nói với ta một câu trong lòng muội có ta?”.

A La nói khẽ: “Muội không thể lừa dối huynh, đại ca, muội rất mệt, mệt đến mức không còn sức để nghĩ những thứ khác”.

Tử Ly nhẹ nhàng đẩy nàng ra, A La đã rơi nước mắt, Tử ly giơ tay đón, từng giọt rơi xuống lòng bàn tay, nóng bỏng, đau như chích vào da thịt. Sao chàng không biết rằng, trừ phi A La chịu vào phủ làm thiếp, nếu không chàng vĩnh viễn không thể có nàng? Nghĩ đến những lời của Lưu Giác: “Điện hạ đã tốt với A La đến thế, điện hạ đã thương nàng ấy như vậy, lẽ nào để A La chịu tủi phận làm thiếp?”.

Tử ly ngẩng đầu nhìn mặt A La, lau nước mắt cho nàng: “A La, để muội vào phủ làm thiếp thì tủi cho muội quá, nhưng chúng ta có thể bên nhau, không phải sao? Có thể sống bên nhau tốt biết bao, lẽ nào muội câu nệ chuyện thân phận?”.

A La lắc đầu: “Huynh không hiểu đâu, chồng và bàn chải đánh răng là không thể dùng chung. Suy nghĩ của huynh không sai. Cha muội cũng lấy tới bảy bà vợ”.

Tử Ly hơi giận: “A La, nói đi nói lại, rút cục trong lòng muội có ta không?”.

A La cúi đầu không đáp.

Tử Ly thở dài: “A La, thì ra đối với ta muội chỉ có nghĩa huynh muội, không có tình của một nữ nhi”.

Tử Ly nhìn nàng vô vàn lưu luyến. Chần chừ mãi, cuối cùng chàng vẫn bay qua tường ra ngoài.

A La nhìn bóng Tử Ly vụt biến mất, lòng ngổn ngang trăm mối, muốn cười muốn khóc. Tử ly yêu nàng. Chàng yêu nàng thật lòng. Lòng nàng lúc ngọt ngào, lúc se thắt. Lẽ nào đối với chàng, nàng thật sự chỉ có tình huynh muội? A La chợt nghĩ đến một bài thơ rất hợp cảnh ngộ đêm nay. Miệng khẽ đọc:

“Búi tóc buông lơi mới kết,

Phấn thơm man mác tân trang.

Khói hồng sương biếc nhẹ chèo bay,

Tơ liễu bay đi vô định.

Gặp gỡ thà rằng chẳng gặp,

Hữu tình rồi cũng vô tình,

Người say tỉnh bặt ca sênh,

Viện thẳm bên trăng u tịch”(*).

CHƯƠNG 12

Suối Toái Ngọc từ khe núi chảy ra, hội tụ giữa lưng chừng núi rồi đổ xuống vực sâu, tràn qua những khe đá nhân tạo, từng bậc dốc rồi chầm chậm chảy vào vương cung. Trong thung lũng phía đông vương cung có rất nhiều cánh rừng rải rác, bao quanh cung điện của các hoàng tử. Ngọc Ly cung tọa lạc ở góc trong cùng phía đông sơn cốc, đứng ở rìa cung điện có thể nhìn thấy những đỉnh núi lờ mờ của dãy Ngọc Tượng trùng điệp phía xa. Thác Toái Ngọc chảy vào Ngọc Ly cung, tụ thành hồ nước nhỏ, rồi lại tiếp tục chảy ra ngoài.

Hồ nước dưới trăng lăn tăn gợn ánh vàng lấp lánh, Tử Ly dáng cao thanh tú, ngây người ngắm mặt hồ trong giây lát. Đoạn chàng rút cây ngọc tiêu bên người thổi khúc “Tiêu tương tử”. Tiếng tiêu lạnh, sầu thảm, triền miên thổn thức. Tiếng tiêu nghẹn ngào, bóng người đơn độc, mấy cung nhân nấp ở chỗ khuất từ xa nhìn lại, thấy hoàng tử điện hạ buồn như vậy, tự dưng mủi lòng, rưng lệ, không biết làm cách nào mới có thể khiến cho tứ hoàng tử tuấn lãm phong lưu này vui lên.

Tiếng tiêu chợt thay đổi, vút lên như ngàn con sóng ào ạt xô bờ, âm thanh bùng phát dồn ép cơ hồ làm ánh trăng òa vỡ, lao xao, mặt hồ lóng lánh như gương bỗng như vỡ vụn ra muôn ngàn mảnh, dâng trào dữ dội, vừa như mâu thuẫn giằng xé vừa như quyết chí đoạn tuyệt, không sao nói hết nỗi niềm.

Tử Ly từ từ dừng lại ngắm nhìn chiếc tiêu ngọc trong tay, trong màu xanh trong của ngọc bích có những vết rạn đỏ như màu huyết. Mẫu hậu lúc lâm chung còn muốn thổi khúc tiêu cuối cùng, nhưng giữa chừng thổ ra máu tươi, tắt thở mà chết. Tử Ly cầm cây tiêu đưa lên mũi hít nhẹ, cơ hồ vẫn còn cảm thấy hơi thở ấm áp của mẫu hậu. Mãi đến một lần, khi chàng giở xem những khúc nhạc mẫu hậu để lại, mới kinh ngạc nhận ra, đoạn sau của khúc tiêu mẫu hậu thổi lúc lâm chung không phải là nhạc dành cho tiêu, chàng khe khẽ hát theo, những âm phát ra thành hàng chữ nghĩa là “Độc đã vào tim”. Lúc đó chàng mới mười một tuổi.

Hai năm sau, Vương quý phi vào cung, làm chủ hậu cung, năm sau, triều thần dâng biểu, phụ hoàng bèn lập đại ca làm thái tử. Chàng còn nhớ lúc nhỏ, phụ hoàng thường cùng mẫu hậu chơi đùa với chàng, nói: “Tử Ly lớn lên sẽ làm vua nhé?”. Chàng nũng nịu: “Nhi thần chỉ muốn ở bên phụ hoàng và mẫu hậu thôi”.

Sau khi phụ hoàng lập đại ca làm thái tử liền xa lánh chàng, nhưng ánh mắt phụ hoàng vẫn ấm áp như xưa. Chàng là vị hoàng tử từ nhỏ luôn được Ninh vương sủng ái, chứ không phải là thái tử do Ninh vương lựa chọn. Trong lòng chàng rất hiểu, phụ hoàng đang bảo vệ chàng theo cách riêng của người, cho nên chàng càng tỏ ra cung kính thái tử, bắt đầu từ đó, chàng không bao giờ làm trái ý thái tử.

Ánh mắt chàng u uẩn bi ai. A La, khi ta nói sẽ tự tay chặt ngón tay muội, muội đã muốn đi tìm tự do phải không? Khi Lưu Giác kháng lệnh thái tử, giật A La khỏi tay chàng, kể từ lúc đó bàn tay hai ta không thể nắm vào nhau nữa phải không?

Tự do là gì? Tự do mà A La cần là gì? Tự do mà chàng cần là gì? Chàng cảm thấy A La chưa hiểu, trong thế giới này, ngoài đứng trên ngôi quyền lực cao nhất, nắm quyền sinh quyền sát, chỉ khi đó mới có thể tùy ý làm tất cả, đó mới là tự do!

Nỗi đau đớn trong mắt chàng nhạt dần, sự kiên định hiện dần trên vầng trán, thân người thả lỏng hòa vào ánh trăng. Nỗi u uẩn riêng tư sục sôi như trăm ngàn con sóng ào ạt tràn qua những vực đá, khi gầm réo cuồn cuộn xô ghềnh, khi êm đềm uốn lượn, lúc này cuối cùng đã đi ra biển cả, bình yên không có sóng, những con sóng lớn chìm sâu dưới lòng biển, đợi gió lên sẽ trỗi dậy gầm thét, cuốn phăng và đập tan tất cả.

Thị vệ thân tín đứng hầu cách đó không xa, dây thần kinh cuối cùng đã chùng lại. Chúa công của họ không còn thảng thốt, đắn đo, toàn thân chàng tràn căng khí lực, tự tin và dũng mãnh, mang lại cảm giác an toàn rất mực. Dưới ánh mắt uy lực của chàng vạn vật đều thuần phục.

Tử Ly buông tay, nheo mắt dõi nhìn những bóng núi lờ mờ dưới trăng của dãy Ngọc Tượng xa xa, toàn thân chàng vững chãi như trái núi.

Trên đỉnh núi bừng lên màu xanh nhạt, lát sau vầng mặt trời hồng nhô lên. Chàng cất giọng điềm tĩnh: “Đại hôn sắp đến rồi, bản vương phải đến thăm phủ hữu tướng”.

Thi vệ nói nhỏ: “Lễ vật đã chuẩn bị xong, chúa công có muốn duyệt lại?”.

Tử ly mỉm cười: “Không cần”.

A La đang định rời phủ mua sắm ít đồ cho ngôi nhà mới, bỗng nghe tin thái tử cho người mang quà đến, đành phải cùng thất phu nhân đi ra đại sảnh. Lý tướng và các bà phu nhân tươi cười nhìn họ, Lý tướng cười rất tươi: “Không ngờ thái tử và thái tử phi lại thích A La như vậy, nghe nói lễ vật đều do đích thân thái tử phi lựa chọn. A La, có thời gian con nên đến Đông cung chơi với đại tỷ”.

A La cũng tươi cười, trả lời: “A La hiểu rồi, con và đại tỷ trước sau vẫn là người một nhà”.

Tứ phu nhân kéo Thanh Phỉ lúc này đang bối rối: “A La, nhị tỷ con nhanh mồm nhanh miệng, lúc đó do nóng vội, con đừng giận chị”.

A Lạ cười: “Cha đã nói, vinh cùng vinh, nhục cùng nhục, đều là người một nhà, nhị tỷ có nỗi khổ riêng, đại tỷ cũng có nỗi niềm, A La sao dám trách giận”.

Thanh Phỉ rơi nước mắt: “A La, muội không giận tỷ thì tốt, nếu không, tỷ khó tránh được cái chết. Tỷ... muội biết đấy, tỷ...”.

“Muội hiểu, muội không trách tỷ!”. A La ngắt lời Thanh Phỉ. Sao lại trách nàng ta? Nàng ta một lòng vì tiền đồ của tình lang, vì hạnh phúc tương lai của bản thân, sao có thể nói nàng ta sai. Nàng ta ích kỷ, nhưng A La biết trong thế giới ở đây muốn bảo toàn tính mạng khó thế nào, ngay bản thân nàng cũng thấy khó khăn, huống hồ là Thanh Phỉ được nuôi dưỡng trong chốn thâm khuê. Gặp được trạng nguyên Thành Tư Duyệt phong lưu, như đã gặp phải hạnh phúc tuyệt đỉnh, Thành Tư Duyệt có vạn sự hanh thông thì nàng ta mới được yên thân. Thanh Phỉ suy cho cùng cũng chỉ là cô gái đáng thương.

Lý tướng cười ha hả: “Hay lắm, hay lắm, tỷ muội các con bỏ qua tỵ hiềm như vậy, người làm cha này vui lắm, gần đây triều đình và gia đình đều có nhiều hỷ sự, tứ hoàng tử sắp cưới ái nữ của Cố tướng, Thanh Phỉ tháng sau cũng được gả vào Thành gia, chỉ có A La...”. Lý tướng chuyển sang chuyện khác, nét mặt thoáng vẻ đắc ý. A La hoảng hốt, chỉ sợ Tử ly đã đặt vấn đề muốn cưới nàng làm thiếp. Lý tướng nói tiếp: “Tiểu vương gia của An Thanh vương đã có lời muốn cầu thân”.

Lời nói ra như tiếng sét ngang tai, A La suýt đứng không vững, lắp bắp nói: “Còn hai tháng nữa A La mới tròn mười bốn, chuyện này... Đại tỷ mới xuất giá, nhị tỷ cũng sắp lấy chồng, trong phủ vắng vẻ, A La không nỡ”.

Thất phu nhân đứng cạnh A La, lấy tay ấn vai nàng, nói: “Đúng vậy, nếu A La cũng đi, thì trong phủ sẽ lạnh lẽo lắm. Lão gia, hãy để A La ở nhà vài năm nữa”.

Lý tướng cười: “Sao có thể nói như vậy? Thân làm phụ mẫu đương nhiên phải nghĩ cho các con, tiểu vương gia là người trong mộng của bao nhiêu thiếu nữ danh môn đất Phong thành này, gia thế tài mạo đều hạng nhất, lần này cầu thân là thật ý thật lòng, không chê A La là con thứ thiếp, một lòng muốn cưới về làm chính thê. Ta đã nhận lời, trước hết cứ định rõ danh phận, đợi A La đến tuổi cập kê mới gả”.

Thất phu nhân tỏ vẻ không chịu, đang định bàn thêm, sắc mặt Lý tướng đã sắt lại: “Ý ta đã quyết, khỏi cần nhiều lời”.

Trong mắt ông ta lóe lên cái nhìn cơ mưu và quyết liệt: “Nên biết Ninh vương ngọc thể sa sút, thái tử đăng cơ chỉ là chuyện hai, ba năm tới. Vương thái úy thống lãnh binh mã Ninh quốc, nhưng cánh quân tinh nhuệ nhất lại nằm trong tay An Thanh vương. A La nếu được gả vào phủ An Thanh vương làm thiếu vương phi là đại phúc của nó, cũng là hậu thuẫn cho cuộc ganh đua giữa Vương gia và Lý gia sau này. Tiểu vương gia cầu thân là đã coi trọng Lý tộc chúng ta, từ nay ba tỷ muội các con phải liên kết thành sợi chão vững chắc mới có thể đảm bảo quyền lực và phú quý của Lý gia”.

A La miễn cưỡng nặn ra nụ cười. Giọng nói của Lý tướng nhẹ nhàng nhưng không ai được phép cự tuyệt: “A La, con nay danh phận đã định, tiểu vương gia đã thân chinh đến phủ, tốt nhất con nên ít ra ngoài tránh để thiên hạ chê cười, nên theo các phu nhân học may vá thêu thùa, thời gian một năm sẽ qua đi nhanh lắm”.

Mấy phu nhân tươi cười ưng thuận: “Lão gia yên tâm, sau này bọn thiếp sẽ hàng ngày thay nhau ở bên A La, trước tiên phải chuẩn bị tư trang cho A Phỉ, rồi sẽ làm cho A La, sắp tới cũng nhiều việc lắm đây”.

A La thầm kêu khổ, cúi đầu giả bộ thẹn thùng.

Trở về Đường viên, không đợi A La mở miệng, thất phu nhân đã nói: “Tam Nhi, tiểu vương gia phủ An Thanh vương là người thế nào?”.

A La trầm ngâm hồi lâu mới nói: “Thực ra, đúng như cha nói, gia thế hiển hách, bản thân anh tuấn hơn người, là một trong ngũ đại công tử Phong thành, được bao nhiêu thanh nữ gia thế say mê. Có vẻ kiêu ngạo ngang tàng của con nhà gia thế, nhưng tâm địa rất tốt. Con ngưòi ấy cũng nghĩa khí, dám trái lệnh thái tử cứu con, con rất cảm kích ”.

Thất phu nhân hỏi: “Nếu tiểu vương gia thật lòng với con, lấy người ta chẳng phải rất tốt hay sao? Hơn nữa, người ta lại chịu cưới con làm chính thê”.

Đúng, từ lúc quen nhau đến giờ, nàng cảm thấy Lưu Giác thực ra là người rất tốt, chỉ là thỉnh thoảng quậy phá tý chút mà thôi. Nghĩ lại mọi chuyện từ khi quen biết chàng ta mùa xuân năm ngoái đến nay, A La không nén nổi bật cười. Nếu ở bên Tử Ly nàng cảm thấy vô cùng ấm áp, thì ở bên Lưu Giác nàng thấy rất thoải mái vui vẻ.

A La ôm chầm thất phu nhân, nàng rất muốn hít mùi hương thoang thoảng từ cơ thể bà, ôm lấy cơ thể mềm mềm âm ấm. Nhoáng cái đã tám năm, mùi hương này vẫn không thay đổi, thất phu nhân vẫn rất đẹp. A La so mình với thất phu nhân, cười nói: “Con đã cao thêm một cái đầu, nhìn này, sắp lớn bằng mẹ xinh đẹp rồi, đi bên nhau sẽ như hai bông hoa cùng cành”.

Thất phu nhân giận dỗi: “Mẹ đang nói chuyên nghiêm túc với con”.

“Con người tiểu vương gia rất tốt, nhưng con nghĩ mãi vẫn không biết tâm tư của mình. Chỉ nghĩ mười lăm tuổi đã lấy chồng, đầu óc suy nghĩ dù có chín chắn cũng thấy không ổn. Huống hồ con thật lòng muốn trốn. Cứ nghĩ đến bộ mặt của cha con đã khó chịu rồi, nên càng không muốn để ông ấy được toại nguyện”.

Thất phu nhân thở dài: “Xem ra cùng lắm con cũng chỉ đưa được Tiểu Ngọc đi cùng. Mẹ có tuổi rồi, sẽ làm vướng chân con, đến lúc đó ngay cả con cũng khó trốn nổi”.

A La trả lời dứt khoát: “Con không yên tâm để mẹ ở lại. Con đi rồi, ông ấy sẽ trút giận lên đầu mẹ, không biết sẽ bắt mẹ chịu bao nhiêu tội. Trong thế giới này, mẹ là người con thương nhất, nếu đi nhất định cùng đi. Con đã nghĩ hết rồi, chúng ta sẽ đi đúng vào dịp lễ cưới của Thanh Phỉ, tướng phủ lúc đó bận khách khứa tiệc tùng, sẽ ít người chú ý đến chúng ta”.

Thất phu nhân nhìn A La: “Liệu ta chạy được bao xa?”.

A La cười rạng rỡ: “Con sẽ nghĩ ra cách”.

Thất phu nhân lại thở dài: “Ba người cùng đi, liệu có dễ bị để ý không?”.

A La cười: “Mẹ quên là chúng ta biết vượt tường? Con đã thăm dò xong lộ trình, ít nhất cũng có thể lẳng lặng rời phủ mà không ai biết”.

Ngày mùng tám tháng bảy, tứ hoàng tử Ly Thân vương Lưu Phi nạp phi, đội nghi lễ đứng dài suốt mười dặm nghênh đón Cố Thiên Lâm - ái nữ của hữu tướng Ninh quốc Cố Thừa Khiêm vào cung. Đây là đại sự chấn động Phong thành sau đại hôn lễ linh đình của thái tử hồi đầu xuân. Các thiếu nữ Phong thành nghe tin, tháng tám này trạng nguyên Thành Tư Duyệt nức tiếng phong lưu sẽ thành hôn với thứ nữ của tả tướng, nghĩ đến ngũ đại công tử Phong thành đã có ba chàng lập gia thất, không biết bao nhiêu thiếu nữ lòng tan nát, Phong thành cũng trở nên ảm đạm.

Ngọc Ly cung tọa lạc ở phía trong cùng quần thể cung điện được chăng đèn kết hoa, từ xa nhìn lại tựa như một đóa hoa hồng diễm lệ nở bên núi. Tử Ly mình vận áo choàng gấm màu hồng thêu chỉ vàng lặng lẽ ngồi bên hồ, ven hồ xưa nay chỉ trồng mấy khóm lau mấy cụm sen, người trong phủ biết hoàng phi thích hoa lan, liền đặt đầy những chậu hạ lan trong cung, Ngọc Ly cung dường như được bao bọc trong hương lan.

Tử Ly nghĩ lại lúc đến thăm phủ Cố tướng, bên tai vẫn còn văng vẳng tiếng đàn, du dương uyển chuyển, thanh lạnh trầm lắng như nước. Chàng bất giác nghĩ đến bức họa Cố Thiên Lâm mà Lưu Giác đưa đến. Chỉ liếc qua một cái, chàng đã giật mình, thầm nghĩ có lẽ chàng có thể sống tốt với Cố Thiên Lâm, bởi vì đôi mắt trong bức họa đó rất giống A La.

Lòng chàng run lên, Lưu Giác đã nói, một năm nữa A La sẽ không còn là của chàng. Tử Ly nhắm mắt, bàn tay từ từ mở ra, bên trong còn hằn sâu mấy dấu ngón tay.

Tiếng trống phách đang đến gần, gần hơn nữa. Nội thị quỳ trước mặt chàng, không dám giục, nhưng nóng lòng sốt ruột, thầm kêu khe khẽ: “Điện hạ”.

Tử Ly đi đến ven hồ, bẻ một cành lau tím, những cánh hoa li ti tím ngát, nhìn mãi vẫn không sao xua được nỗi buồn thấm trong lòng. Ngón tay bóp nhẹ, hoa bay lả tả từng cánh nhỏ xuống mặt hồ, mặt nước chỉ hơi dợn sóng, lát sau đã tan biến vô hình vô ảnh vào trong nước. Tử Ly nói: “Chuyển hết những khóm lau này đi, trồng lại toàn bộ bằng hoa sen, không trồng sen trắng, sao cho vui tươi một chút”. Nói xong quay người đi về phía cung điện.

Thị vệ đồng thanh đáp, lau mồ hôi chạy theo sau thở phào, hòn đá trong lòng đã được hất đi. Đúng là hoàng đế không lo, thái giám lo sốt vó.

Cố tướng làm quan đã ba mươi năm, môn sinh vô số. Quan viên ngũ phẩm trở lên đều được vào cung dự tiệc, lại thêm Ninh vương hạ chỉ, cho phép gia quyến Cố tướng được vào cung chung vui, cho nên Ngọc Ly cung hôm nay thật là tưng bừng náo nhiệt. Tử ly tươi cười nhận lời chúc tụng của quan khách, ánh mắt lướt đến Lý tướng và đại phu nhân, đồng tử hơi co lại, nhưng ánh mắt lập tức dần dần hòa dịu.

Lý tướng nâng ly chúc: “Cung chúc Cố tướng kén được rể hiền, Ly Thân vương văn thao võ lược, tài mạo song toàn, với quý tiểu thư thật là tài tử giai nhân, cơ duyên trời định”.

Cố tướng phấn khởi cả cười: “Vẫn là Lý tướng có phúc, tam nữ xuất giá đều như sở nguyện!”

Lý tướng cười đáp: “Cũng tàm tạm thôi”.

Lưu Giác miệng cười rất tươi, chàng vận áo choàng màu đỏ, liên tục chào khách, chàng đi đến trước mặt Tử Ly: “Tử Ly, quả là con người ta khi có chuyện vui thì tinh thần sảng khoái, sắc diện đổi thay, xưa nay đệ luôn muốn biết trong ngũ đại công tử Phong thành nếu xếp thứ tự không biết ai sẽ đứng đầu. Hôm nay, xem chừng người đó đích thực là tứ điện hạ!”.

Tử Ly mỉm cười: “Sao lại nói thế, Doãn Chi?”.

Lưu Giác lùi sau hai bước, ngắm nghía Tử Ly một hồi, miệng tươi như hoa: “Trong ngũ đại công tử Phong thành, người người đều biết thái tử tuấn tú cao quý, tứ hoàng tử tuấn tú an nhiên, Cố Thiên Tường tuấn tú lạnh lùng, Thành Tư Duyệt phong lưu, còn đệ, đệ lấy hết tinh túy của cả năm người. Lúc đó đệ còn đắc ý, lấy hết tinh túy của cả năm người thật là thú vị, nếu các nàng tú nữ muốn thưởng thức mặt nào của năm công tử, đệ đều có thể khiến các nàng toại nguyện. Có điều, hôm nay nhìn thấy tứ điện hạ, vẫn tuấn tú an nhiên như xưa, nhưng sắc xuân rờ rỡ, lại lịch lãm phong lưu, tứ điện hạ mới đích thực là hội tụ tinh túy của cả năm người!”.

Tử Ly mắt nhìn xung quanh không có ai, lạnh mặt nói: “Doãn Chi, đệ vui như vậy, là bởi vì A La đồng ý theo đệ?”.

Lưu Giác cũng thôi cười: “Tử Ly, đệ đã nói rồi, dưa chín ép không ngọt, nếu A La đồng ý theo huynh, đệ tuyệt đối không làm phiền. Huynh đã nói với A La chưa?”.

Tử Ly phiền muộn: “Như đệ nói, nàng ấy sao có thể chịu tủi phận thứ thiếp. A La cần tự do của nàng ấy! Đừng trách ta không nhắc nhở, A La chưa chắc sẽ lấy đệ”.

Lưu Giác thản nhiên nói: “Tử Ly, nếu A La lấy đệ, chúng ta vẫn là bạn chứ?”.

Môi Tử Ly khẽ nhếch, nụ cười hiện ra: “Đương nhiên. Lấy đệ, ta còn yên tâm. Chỉ có điều, đệ đừng nhận nhầm đôi mắt”.

Lưu Giác sững người, nói thế là có ý gì? Nhưng Tử Ly đã cười ngất bỏ đi.

Làm xong tất cả các nghi lễ rườm rà, Tử Ly cảm thấy chàng đã thực sự say, say đến mức qua làn khăn trùm màu đỏ của tân nương chàng có thể nhìn thấy đôi mắt trong veo, long lanh đó. Chàng cười thầm. Lưu Giác, ngươi coi A La là Cố Thiên Lâm sao? Định dùng A La thay thế Cố Thiên Lâm? Lòng chàng thầm mong, mong đôi mắt Cố Thiên Lâm thật sự có thể truyền cảm như trong bức họa kia. Chàng lệnh cho tả hữu lui ra hết, muốn một mình thưởng thức một trong hai tuyệt sắc Phong thành, kỳ nữ tự ví mình như lan.

Cố Thiên Lâm nghe thấy tiếng bước chân lại gần. Sau khi con gái được Ninh vương ban hôn, Cố tướng cha nàng vui ra mặt, thái tử không chọn nàng làm phi, nghe nói cũng là chủ ý của Ninh vương và Cố tướng. Nàng thở dài, đây đâu phải là chuyện phận nữ nhi như nàng có thể can dự. Nghe đồn, cây tiêu ngọc của tứ hoàng tử có thể cất lên những tiếng giãi bày, như khóc như than, phiêu nhiên oán thoán, lòng nàng đã âm thầm ngưỡng mộ. Nghe thấy tiếng chân chàng lại gần, tim nàng đột nhiên đập mạnh. Nàng e lệ đỏ mặt, cúi đầu, khép hai hàng mi.

Tử Ly hai lần giơ tay rồi đều dừng lại. Chàng nhìn Cố Thiên Lâm ngồi đó, lòng hồi hộp, cố thở thật nhẹ, lật một góc khăn trùm, có vẻ hơi mạnh tay. Tấm lụa đỏ trơn mượt đã tuột xuống như làn nước, chiếc mũ phượng che nửa mặt nàng, chỉ lộ ra chiếc cằm nhỏ nhắn và khoảng gáy thon trắng ngần. Tử Ly nói nhỏ: “Ngẩng đầu Iên”.

Cố Thiên Lâm vẫn nhắm mắt cúi đầu, mặt càng đỏ lựng.

Tử Ly hơi nôn nóng, giơ tay nâng mặt nàng. Hàng mi nàng lay động, lòng chàng cũng lay theo. Cuối cùng khi nàng mở mắt, tay Tử Ly run bắn, bất giác lùi một bước về sau.

Trên khuôn mặt thanh xuân của Cố Thiên Lâm đôi mắt trong veo như nước mùa thu dịu dàng nhìn chàng, ánh mắt như hốt hoảng, như e lệ, như né tránh, vô cùng lay động. Còn Tử Ly khi nhìn vào đôi mắt nước mùa thu ấy, toàn thân lại như chìm trong thác nước lạnh ngắt của dòng Toái Ngọc trên đỉnh núi, đôi mắt ấy mỗi lần nhìn chàng, hơi lạnh càng thấm vào cơ thể chàng. Thất vọng, phẫn nộ, đau đớn, bi thương chồng chéo. Trong lòng chàng như có tiếng nói, không phải, không phải nàng! Thì ra người mà Lưu Giác thích không phải là nàng!

Tử ly vẫn tưởng rằng, người Lưu Giác thích là Cố Thiên Lâm, nhìn thấy bức họa trên tường rất giống mắt A La, lại tưởng Lưu Giác bởi thích đôi mắt Cố Thiên Lâm mà muốn cưới A La, cho nên chàng cả mừng. Theo hiểu biết của chàng về A La, A La tuyệt đối không lấy một người không yêu nàng. Nhưng, chàng đã lầm. Tử Ly bật cười to, đúng là đã lầm, Lưu Giác cũng như chàng đều yêu chính A La.

Cố Thiên Lâm nhìn thần sắc Tử Ly, nụ cười dần chuyển thành nỗi băn khoăn, từ căng thẳng trở nên kinh ngạc, cuối cùng nàng bật cười, nhẹ nhàng cất tiếng: “Điện hạ, chàng sao thế?”.

Lời Cố Thiên Lâm làm Tử Ly sực tỉnh. Chàng nghiêng đầu nhìn nàng, thật không hổ danh tuyệt sắc Phong thành, thanh nhã nhu mì. Đây là vương phi của chàng, là thê tử của chàng, đây là người vợ chàng không được phép xem nhẹ, không được phép buông tay bỏ đi. Chỉ có thể cho nàng sự dịu dàng không được làm nàng tủi thân.

Nàng là người vợ cùng chàng đi suốt cuộc đời, chàng nhất định phải đối xử tốt. Một nỗi đau khổ bùng lên giằng xé trong lòng, đẩy chàng chầm chậm đi đến, nhẹ nhàng bỏ chiếc mũ phượng trên đầu Thiên Lâm, rút những chiếc trâm vàng cài trên tóc, giơ tay vuốt, mái tóc đen như gỗ mun xổ tung ra. Tử Ly vén một lọn tóc nàng, cảm giác như chạm vào tơ lụa. Chàng chạm vào mặt nàng lại, từ từ lấy tay khép mắt nàng, thấy mí mắt nàng run run. Chàng thở dài, cúi đầu đặt một nụ hôn lên má nàng, từ từ cởi xiêm y nàng.

Sau khi Cố Thiên Lâm hỏi một câu, thấy Tử Ly đối xử dịu dàng như vậy, tim nàng đập thình thịch xốn xang, sung sướng vô chừng. Nỗi nghi ngờ ban đầu đã quẳng hết phía sau, nhắm mắt chỉ thấy hơi thở của chàng. Khi xiêm y đã cởi hết, nàng nghe tiếng Tử Ly nói nhỏ: “Cơ thể nàng quả thật được đúc bằng ngọc băng”. Lòng ấm áp, êm dịu, nàng nép vào lòng chàng, cùng chàng nếm trải cay đắng, chua chát, lưu luyến, hoan lạc.

Tử Ly cảm thấy Thiên Lâm đã mệt mỏi ngủ thiếp, liền nhẹ nhàng điểm vào huyệt ngủ của nàng, khoác áo trở dậy, vận khinh công rồi lặng lẽ rời cung. Chàng muốn gặp A La.

Khi tiếng tiêu của Tử Ly vẳng đến, A La bỗng giật mình. Hôm nay chẳng phải là đêm động phòng của chàng sao? Nghĩ một lát, nàng vẫn lén đi ra, vào rừng trúc. Tử Ly toàn thân vận áo bào đỏ, dưới ánh trăng trông càng tà mị quyến rũ. A La giật mình: “Đại ca, sao huynh lại đến đây?”.

Tử Ly không đến gần, nhưng giọng khẽ khàng như dụ dỗ: “Lại gần đây, A La, muội hãy lại gần đây một chút”.

A La cảm thấy có gì không ổn, nhưng chân vẫn theo lời chàng bước tới: “Đại ca, huynh buồn lắm sao?”.

Tử ly cười rất dịu dàng: “Vui chứ, Cố Thiên Lâm rất đẹp, đúng là rất đẹp!”.

“Vậy huynh ra ngoài thế này...”. A La chưa yêu bao giờ, nhưng khi còn ở thế giới hiện đại nàng đã hai mươi hai tuổi, nàng rất hiểu, cảm thấy lúc này mà tân lang bỏ chạy, tân nương nhất định sẽ buồn biết mấy.

“Muội câu nệ sao? A La? Muội hãy nói với ta, nói thật với ta một lần!”.

“Huynh muốn nghe lời nói thật nhất ư? Vậy muội sẽ nói! Muội thích những anh chàng dung mạo khôi ngô, muốn các chàng dung mạo khôi ngô đối xử tốt với muội, huynh đương nhiên là người như vậy. Nhưng muội cũng có lòng ham hư vinh. Nghe huynh nói huynh thích muội, lại còn chạy đến đây tìm muội, thói hư vinh của muội được thỏa mãn cực độ. Muội thầm vui sướng, nếu trong lòng huynh từ nay thực sự không có muội, có lẽ muội sẽ rất buồn, muội vẫn còn muốn huynh thích muội như trước. Nhưng đó chỉ thuần túy là thói hư vinh. Mọi nỗi xúc động, mềm lòng kỳ thực đều do tâm lý này mà ra, đó là thói thường của con người”. A La lạnh lùng nói.

“Nhưng thấy huynh đến, muội vừa vui mừng vừa bất an. Vui mừng là bởi vì huynh lại coi trọng muội đến thế, bất an là bởi vì muội đã phụ huynh. Đại ca, muội nghĩ là muội rất câu nệ, nhưng không phải là sự câu nệ như huynh nghĩ”. A La đã nghĩ rất nhiều, Tử Ly đối với nàng tình sâu như biển, nàng thực sự không yêu chàng sao? Nhưng nghĩ suốt mấy ngày, câu trả lời chỉ có một.

Tử Ly mặt thâm trầm như nước: “Muội nói hay lắm, A La. Nếu muội nói dối ta một lần, ta sẽ rất vui, nhưng vui xong, ta sẽ đau lòng. Muội đã nói thật, ta cũng rất vui, nhưng ta lại càng đau lòng hơn. Bởi vì muộn quả thật đã làm ta càng thêm si mê. Nếu muội nói dối ta, có lẽ ta còn có thể đi gặp phụ hoàng cầu xin người cứu tấm tình si của ta. A La muội không hề cho ta một cơ hội nào, muội còn không cho ta cơ hội tự cứu mình... Ta nhìn Cố Thiên Lâm, nàng dịu dàng e lệ, như mọi tân nương khác hồi hộp sung sướng đợi chờ phu quân âu yếm. Vì sức mạnh và hậu thuẫn mà nàng có thể cho, ta cũng sẽ phải thương nàng. Ta đã cưới nàng, ta sẽ để nàng dưới đôi cánh của ta . Sao ta có thể phụ lòng tốt của phụ hoàng, sao ta có thể làm tổn thương người con gái đã giao phó cho ta cả tấm lòng lẫn tấm thân?”.

A La chậm rãi nhìn Tử ly đưa tay vuốt mặt mình, nỗi buồn trong mắt chàng thăm thẳm, ánh mắt run run, nỗi đau tê dại như bị trúng độc, vậy mà nàng vẫn phải coi như không thấy. Tim nàng bỗng thắt lại, đau đớn tột cùng như muôn ngàn mũi kim đâm vào da thịt, từng cơn, từng cơn, không dứt. Sao lại thế này? Mắt A La đẫm lệ. Đau đớn, thực quá đau đớn.

Tử Ly nhẹ nhàng hôn vào mắt nàng: “Đừng khóc, đừng khóc, ta biết, chẳng qua muội đã mềm lòng, muội thậm chí có thể mềm lòng đến mức có thể hứa sẽ đi theo ta. Nhưng khi tỉnh lại, muội sẽ hối hận, A La ta không trách muội, chẳng qua muội không nỡ nhìn thấy ta buồn mà thôi”. Nỗi bất lực, sầu bi khôn tả toát ra từ người Tử Ly.

A La nghẹn ngào: “Đại ca, muội thích huynh sống vui vẻ. Huynh đừng như thế này, khiến muội áy náy vô cùng”.

Một tràng cười khe khẽ từ cổ họng chàng phát ra: “A La, ta vốn có thể lợi dụng sự mềm yếu của muội để khiến muội động lòng, ta vốn có thể cầu xin phụ hoàng hủy bỏ hôn ước này, ta vốn có thể đưa muội đi chu du khắp thiên hạ... Nhưng cuối cùng ta vẫn không thể dứt tình với muội, cuối cùng ta vẫn không từ bỏ được những lợi ích khi liên hôn với Cố Thiên Lâm, cuối cùng ta không thể từ bỏ chí lớn của ta! Ta vẫn chưa tra ra mẫu hậu ta trúng độc qua đời thế nào, ta vẫn chưa thoát khỏi tâm thế hèn nhát thần phục dưới chân thái tử bấy lâu, ta vẫn chưa thể đầu đội trời chân đạp đất, ta vẫn chưa thể tranh bá thiên hạ!”.

“A La, muội đã biết ta không thể từ bỏ, muội đã biết, chỉ có điều muội chưa nghĩ đến, bản thân ta không thể chứ không phải do tình thế dồn ép. Ở Ninh quốc, chưa có chuyện gì ta không làm được. Cho nên muội đừng thương xót ta, đó là điều ta đáng phải chịu”.

Tử Ly từ từ đẩy A La ra: “A La, muội thực sự chưa đủ trưởng thành đến mức có thể nhìn thấu ta. Có lẽ, muội sẽ là niềm đáng tiếc mãi mãi của ta”.

A La nhìn Tử ly, ánh mắt quyết dứt tình: “Huynh quên muội đi! Như vậy huynh sẽ sống tốt hơn!”.

“Không quên được, A La. Muội vẫn chưa thật lòng yêu ai, khi nào yêu, muội sẽ hiểu là không thể nào quên được”. Tử Ly ngẩng đầu thở dài: “Có lẽ, do ta không biết muội yêu ai cho nên vẫn không cảm thấy. Khi nào muội thực sự yêu một người, nỗi đau khổ của ta mới thực sự bắt đầu, sự đố kỵ mới như con nhện độc ngày ngày gặm nhấm tim ta. Cũng có lẽ, đau khổ như vậy mới là sự trừng phạt đích đáng, trừng phạt ta đã không đưa muội đi khi có thể”.

Chàng thẫn thờ nhìn A La giây lát: “A La, muội chưa bao giờ trang điểm mà ta đã thấy muội đẹp mê hồn. Sau này nếu muội trang điểm, nhất định không được để ta nhìn thấy. Ta e là mình sẽ hủy hoại muội”.

Tử Ly lùi dần từng bước, đột nhiên bật cười: “Sao ta lại thành thực như vậy. A La ta chỉ thành thực với muội, chỉ một lần này. Nhớ kỹ, sau này nhất định không được tin ta”. Tử ly nói xong liền vươn người, gió thổi phồng áo chàng. Giây phút này, A La cảm thấy chàng như màn khói, lẩn vào lòng biển đen sâu hút, lập tức bị sóng nước nhấn chìm, đem tất cả nhiệt tình của chàng hóa thành tro bụi. Nàng bất lực ngồi sụp xuống, lòng cũng chìm vào màn đêm mênh mông.

CHƯƠNG 13

Sáng sớm, Lưu Giác vừa tỉnh dậy, mắt đã vô tình liếc nhìn lên tường, thấy bức tường trống không, chàng chợt mỉm cười, bức tranh đó đã đưa đến phủ của tứ hoàng tử từ lâu. Lòng chàng đột nhiên xao động, trong bữa tiệc cưới Tử Ly bảo chàng rằng chớ nhận lầm đôi mắt. Ngay đêm đó, thuộc hạ báo về, đêm khuya Tử Ly đã nhảy tường vào hậu viên của tướng phủ, lẽ nào? Lưu Giác bắt đầu trầm ngâm suy nghĩ.

Chàng lấy bút viết một bức thư rồi dán kín, bỏ vào một ngăn bí mật trên án thư, lại đặt một sợi tóc ở mép ngăn đánh dấu. Xong xuôi, chàng ngắm nghía mấy lần, mỉm cười hài lòng.

Tỳ nữ Tư Thi đi vào giúp chàng mặc y phục, Lưu Giác liếc nhìn, cười khe khẽ: “Đột nhiên phát hiện, Tư Thi cũng trở thành thiếu nữ rồi, đã có ý trung nhân chưa, tiểu vương gia sẽ làm chủ cho”.

Tư Thi đỏ mặt, hai tay vẫn chỉnh sửa trang phục cho chàng, cúi đầu nói: “Tiểu vương gia trêu đùa nô tỳ, Tư Thi sẽ ở trong Tùng phong đường suốt đời”.

Lưu Giác lại trêu: “Không phủ định là đúng rồi, phải không? Là ai thế?”.

Tư Thi đỏ mặt, chỉnh lại vạt áo cho chàng, không nói gì mà cúi đầu chạy vụt ra ngoài.

Lưu Giác trầm tư nhìn theo bóng nàng ta, khi Tư Thi vừa ra khỏi cửa cười, chàng nói với theo: “Bảo bọn họ chuẩn bị hai con ngựa, hôm nay ta sẽ đi dạo với tiểu vương phi tương lai của ta”.

Hôn lễ của Thành Tư Duyệt và Thanh Phỉ đã định sẽ diễn ra vào ngày mồng năm tháng tám, trong tướng phủ kẻ trên người dưới bận rộn tíu tít. Các phu nhân đứng đầu là đại phu nhân, cùng với Thanh Phỉ, Thanh La suốt ngày tụ tập ở lầu hóng mát trong hoa viên, khẩn trương chuẩn bị các loại đồ thêu.

Môn nữ công duy nhất mà A La không học là thêu. Nàng cũng không phải là không biết làm, nhưng không thêu được những kiểu hoa văn cầu kỳ tinh xảo. Ngồi với mọi người, nàng chỉ làm những việc vụn vặt như khâu, đính gút cài. Phụ nữ thời đại này thật là thiệt thòi, chẳng có trò tiêu khiển nào, chỉ biết thêu thùa khâu vá giết thời gian. A La ngồi làm dưới ánh mắt giám sát chặt chẽ của các phu nhân, lòng nóng như lửa đốt, cứ thế này làm sao kịp chuẩn bị chạy trốn? Lúc đó có gia nhân bẩm báo, tiểu vương gia của An Thanh vương phủ cầu kiến.

Lý tướng vào cung nghị sự, vậy là đại phu nhân làm chủ: “A La, đối xử tốt với tiểu vương gia nhé, nhớ kỹ lời cha dặn”.

A La nhìn thất phu nhân, tươi cười bỏ đồ khâu xuống, chạy như bay ra khỏi hoa viên buồn tẻ. Nàng nghĩ, nếu ra khỏi phủ mà bỏ rơi Lưu Giác, có phải có nhiều thời gian chuẩn bị không? Nàng quyết định sẽ năng mời Lưu Giác tới phủ, nếu có điện thoại di động thì tốt, nhắn tin một cái là xong, nếu không vì chuyện khác, đi với chàng ta còn dễ chịu hơn ngồi với mấy bà vợ của Lý tướng.

Vì vậy, khi Lưu Giác nhìn thấy A La, sắc mặt tươi cười hớn hở, thắm hồng như cánh hoa, chàng không nén được cười: “Kỳ lạ thật, từ lúc nào tam tiểu thư nhìn thấy ta lại vui như thế?”.

A La có rất nhiều việc phải làm bên ngoài, nghe vậy cũng không thấy bực, hớn hả nói: “Thế nào? Vậy mặt ta phải sa sầm ủ rũ chàng mới vui sao?” .

Lưu Giác mỉm cười: “Đã vui như vậy thì cùng ra ngoài dạo chơi đi?” .

“Chàng định làm gì?” .

“Cưỡi ngựa!” .

A La động lòng: “Ta chưa đến bờ sông Đô Ninh. Nơi đó thế nào? Hay là hôm nay chúng ta đến đó chơi?” .

Lưu Giác cười đồng ý. Ra khỏi phủ, tùy tùng dắt ngựa đến, Lưu Giác bảo họ: “Hôm nay ta đưa tam tiểu thư đi dạo ven sông. Các ngươi không cần đi theo”.

Hai người cưỡi ngựa ra khỏi cổng thành phía nam, không lâu sau đã tới bờ sông Đô Ninh. A La nhìn thấy một chiếc cầu phao được ghép bởi những con thuyền gỗ buộc giằng với nhau, nàng hỏi vẻ nghi ngờ: “Cưỡi ngựa có qua được không?” .

Lưu Giác dùng hành động thay lời giải thích, vung roi thúc ngựa xông lên cầu, A La chầm chậm cho ngựa đi men theo bờ sông. Nàng quan sát kỹ chiếc cầu phao, bên dưới là những chiếc thuyền gỗ nhỏ dài hơn chục mét, buộc giằng với nhau bằng những sợi dây xích sắt, bên trên trải ván gỗ, cách mấy cái thuyền lại có một ổ khóa, có thể linh hoạt tháo rời. Sau khi tháo ra mấy chiếc thuyền nhỏ lại ghép thành một chiếc mảng lớn có thế vượt sông, vào mùa nước lũ có thể tháo bớt thuyền để thông dòng chảy. Cả chiếc cầu phao dài chừng sáu bảy chục thước, A La quan sát một lúc, rồi cũng ra roi cho ngựa đi xuống cầu, khi sang bờ bên kia, nàng hỏi Lưu Giác: “Nếu cầu phao bị hỏng, đi lại chắc sẽ bị gián đoạn?”.

“Phía ngoài cổng thành phía nam có hai phường chuyên làm thuyền, có cả binh sĩ hướng dẫn. Dù cả cầu bị phá, hai canh giờ sau là đã có thể làm lại, rất tiện lợi. Nhưng ngộ nhỡ, nếu có binh biến, chỗ này sẽ trở thành cửa ải tự nhiên ngăn cản quân địch”.

A La quan sát kỹ tình hình khu vực xung quanh cổng thành phía nam, nhưng tuyệt nhiên không thể hiện gì mà im lặng theo Lưu Giác phi về phía trước. Ngựa chạy một lúc, lòng nàng dần dần trở nên náo nức, đất trời bao la như vậy ở mãi trong thành, thực buồn muốn chết, mặc dù đã là giữa hè nóng nực, ngồi trên lưng ngựa phi như bay, gió ù ù bên tai, quả rất dễ chịu.

Lưu Giác dừng lại, xuống ngựa, nói với A La: “Ở đây yên tĩnh, phong cảnh lại đẹp, ngồi nghỉ một lát, để cho ngựa đi uống nước, chỗ kia có bóng cây râm mát”.

A La nhìn chàng mà lòng không chút hứng thú, chậm rãi nói: “Phong cảnh ở đây rất đẹp, cũng là một chốn hữu tình để hò hẹn yêu đương. Chỉ có điều, tiểu vương gia, ta không có ý định lấy chàng. Rất cảm ơn chàng đã đưa ta đến đây, cũng cám ơn con ngựa của chàng, ta mượn tạm một lát, mình chàng ở đây cứ thong thả nghỉ ngơi, thưởng ngoạn phong cảnh đi!”.

Lưu Giác nói: “Nếu nàng tỏ ra ngoan ngoãn lấy ta, ta mới thấy lạ. Không vội, vẫn còn một năm nữa, ta có thể đợi, vương phi tương lai của ta”.

A La cười, quất ngựa bỏ đi. Ngựa vừa quay đầu, cảm thấy phía sau nặng trĩu, đã thấy Lưu Giác nhảy lên lưng ngựa, áp sát người nàng, nói nhỏ vào tai nàng: “Dùng xong vứt bỏ, nàng thật trắng trợn. Bỏ mặc ta định đi đâu?”.

A La tức lắm, dùng khuỷu tay huých ra sau, Lưu Giác nhẹ nhàng nắm lấy, tay chàng đã vòng lên, ôm chặt nàng như móng vuốt đại bàng, cười ha hả: “Nếu còn không nghe lời, ta sẽ điểm huyệt, có muốn thử lại cảm giác không thể cựa quậy, không nói được không?”.

A La lập tức dừng ngựa, nói giọng châm biếm: “Cưới một người không muốn lấy chàng, có gì thú vị?”.

Lưu Giác vẫn cười: “Đương nhiên rất thú vị, lấy một người ngoan ngoãn vâng lời, ngược lại ta mới thấy vô vị”.

Hai người ép sát vào nhau, trông thân mật vô chừng. Lưu Giác cơ hồ say trong mùi hương dịu nhẹ thoảng ra từ cơ thể A La, cảm thấy ôm nàng thế này cảm giác mới tuyệt làm sao. Hơi thở nóng hổi bên cổ, A La quả thật chịu không nổi, hét lên: “Nóng nực thế này lại còn nướng bánh, chàng có bị bệnh không? Để ta xuống!”.

Lưu Giác cười ha hả: “Không nóng tí nào, rất dễ chịu!”.

A La đảo mắt, nói: “Chàng chiến thắng một người tay không vũ khí! Có dám xuống ngựa đấu với ta? Đừng quên ở Đào hoa yến ta đã xử lý dâm tặc thế nào!”.

Lời vừa dứt, nàng thấy người nhẹ bẫng, Lưu Giác ôm nàng nhảy xuống đất. Khuôn mặt với những đường nét như tạc của chàng đẹp rờ rỡ, ánh mắt vui cười, nhướn mày: “Nàng không nói ta suýt quên, nàng còn có một công phu quyền cước rất lạ kỳ, học ở đâu thế?”.

A La vênh cằm, cũng nhướn mày: “Học sư phụ ta, nói ra chàng cũng không biết. Có điều, ta không biết khinh công, không biết điểm huyệt, nếu chàng dùng những chiêu đó thì không cần tỷ thí, đằng nào ta cũng không biết, chàng thắng ta cũng không phục”.

Lưu Giác ý tứ sâu xa nhìn nàng thầm nghĩ, nếu không thuần phục a đầu này, ngày sau cưới về, không chừng nàng ta trèo lên cổ mình. Vậy là chàng cười hớn hở tán thành: “Được, ta chỉ dùng quyền cước, không khinh công, không điểm huyệt, nếu thua, nàng hãy ngoan ngoãn lấy ta”.

A La cười hớn hở: “Cũng được, nhưng nếu làm chàng bị thương thì sao?”.

Lưu Giác tỏ vẻ coi thường nói: “Cho dù ta đứng yên không động đậy, nàng đấm tám quả, mười quả cũng không thể làm ta bị thương. Chỉ như gãi ngứa mà thôi”.

“Vậy hả? Thế lần trước ta chỉ thúc chàng một nhát, chém chàng hai nhát, sao chàng đã đổ gục như con lợn chết thế?”.

Không nhắc thì thôi, nhắc đến thì Lưu Giác lại tức nổ bụng: “Lúc đó ta không đề phòng, bị nàng thúc một nhát suýt thì tuyệt hậu, vậy mà vẫn nói được! Hừ, hôm nay thử lại xem để biết tiểu vương gia ta xử nàng thế nào!”.

A La có vẻ sợ hãi: “Nghiêm trọng vậy ư? Ta không dám đâu, nếu làm lại, khiến An Thanh vương tuyệt hậu, cái mạng nhỏ của ta khó giữ lắm”.

“Nàng tưởng vẫn còn cơ hội sao? Lần trước, thấy nàng còn là đứa trẻ, không đề phòng, lần này hả, ha ha đừng mơ!”.

“Vậy thì thôi, chúng ta đấu văn được không?”.

“Đấu văn?”.

A La nghĩ đến đoạn Hoàng Dung xử lý Âu Dương Khắc trong truyện Thần điêu đại hiệpcủa Kim Dung, nàng nhìn xung quanh, nhặt lên một cành cây vẽ một vòng tròn lớn trên mặt đất: “Bây giờ chàng đứng vào trong này, để cho ta dùng cách nào đó, đánh bật chàng ra khỏi vòng này coi như chàng thua! Đương nhiên, nếu chàng tự ra khỏi cũng coi là thua, thế nào?”.

“Được!”.

“Liệu chàng có nuốt lời?”.

“Lưu Giác ta đã nói là làm, tuyệt đối không nuốt lời!”.

“Vậy thì tốt, nếu thua là không được làm khó ta nữa”.

“Nhất định là thế!”.

Lưu Giác mỉm cười đứng vào vòng, dáng vẻ chểnh mảng: “Coi như tiểu vương gia ta đứng im không động thủ, nàng cũng đẩy không được, đạp không nổi, đá không xong”.

A La đi vòng quanh một lượt, mặt tươi cười: “Vậy chàng cứ đứng trong đó mà đợi, bản cô nương phải đi đây, nhớ đấy, chàng ra khỏi vòng coi như thua, thua là không được đến quấy rầy ta. Bye bye! Tiểu vương gia!”.

Lưu Giác nghe vậy giật mình: “A La, sao nàng lại nuốt lời như vậy?”.

A La nhảy lên ngựa, đi vòng quanh mấy bước, nói: “Như thế mà gọi là nuốt lời ư? Hình như có vẻ như vậy. Nhưng mà vừa rồi ta không hứa là ta sẽ không nuốt lời, nhưng chàng đã hứa rồi”. Nói đến đây, nàng nghiêm mặt, bắt chước giọng Lưu Giác: “Lưu Giác ta đã nói là làm, quyết không nuốt lời!”. Nói xong cười ngất, quất ngựa phóng đi.

Lưu Giác đứng giữa vòng tròn dở khóc dở cười, nhìn bóng A La cười ngặt nghẽo phóng ngựa đi, chàng bất giác bật cười, lòng hân hoan vui sướng. Chàng thong thả bước khỏi vòng tròn trên đất, nhìn mặt trời, A La đi đúng lúc, nếu không, chàng cũng đưa nàng quay về thành.

Lưu Giác phi ngựa về vương phủ, không đi cổng chính mà lẻn nhảy vào từ phía hậu viên. Chàng thuộc đường, nhẹ chân nhẹ tay tránh được lính gác của Thanh tổ, lặng lẽ lẻn vào Tùng phong đường. Đi đến ngăn kéo bí mật, sợi tóc vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng cũng có xê dịch chút ít, Lưu Giác không nén được cười, mở ô kéo bí mật, bức thư vẫn y nguyên, kẻ giấu mặt thật nhanh chân nhanh tay!

Lưu Anh nhón chân đi vào không một tiếng động, quỳ sụp xuống: “Chúa thượng”.

Lưu Giác lạnh lùng liếc anh ta: “Lưu Anh, ngươi theo ta bao năm rồi?”.

“Bẩm chúa thượng, thuộc hạ sáu tuổi tứ cố vô thân, lão vương gia đã đưa thuộc hạ về phủ, đến giờ được mười bốn năm!”.

“Bức họa lần trước ta dặn ngươi thế nào?”.

“Đốt bức cũ, hồ lại bức mới đưa đến phủ của tứ hoàng tử!”. Lưu Anh trả lời lưu loát, nhưng người toát mồ hôi: “Thuộc hạ đáng chết. Đúng lúc chuẩn bị đốt thì Tư Thi đi vào, bảo là muốn ngắm vương phi của tứ hoàng tử, thuộc hạ nhất thời mềm lòng nên đồng ý, bảo nàng ấy xem xong thì đốt đi. Nàng ấy ngắm nhìn đến dựng cả mắt lên, thế là nước mắt lã chã, nói người phong hoa tuyệt thế như vậy chẳng trách chúa thượng ngày đêm ngưỡng vọng. Tư Thi một lòng si mê tiểu vương gia, khóc không thành tiếng, thuộc hạ không đành lòng, không dám nhìn, lát sau đợi Tư Thi thôi khóc mới quay người lại. Nàng ấy cầm bức họa bảo là sẽ tự tay đốt. Thuộc hạ đứng chờ xem nàng ấy đốt”.

“Sau đó thì sao?”.

“Thuộc hạ phong bao bức mới đưa đến phủ của tứ hoàng tử!”.

Lưu Giác hừ một tiếng: “Thuộc hạ của ta trở nên mềm lòng từ lúc nào vậy?”.

Lưu Anh dập đầu: “Chúa thượng trách tội”.

Lưu Giác mãi không nói gì, Lưu Anh chỉ cảm thấy một luồng khí lạnh buốt đáng sợ tỏa ra từ người chủ nhân. Bình thường tiểu vương gia này cũng không khác gì công tử các nhà quyền quý, Lưu Anh từ nhỏ lớn lên cùng Lưu Giác, nhưng đến bây giờ vẫn không hiểu nổi chủ nhân. Nhưng lúc này anh ta biết, chủ nhân đang phẫn nộ tột cùng. Lưu Anh cảm thấy cơ thể mình như bị trái núi đè lên, khí lạnh trào dâng như thủy triều, dồn ép đến không thở được, lạnh buốt như đâm vào da thịt, sát khí như rắn độc quấn quanh người.

Lưu Giác nhắm mắt, trong chốc lát trở lại trạng thái bình thường: “Tự phạt hai chục roi, cho người theo dõi Tư Thi và người khác trong phủ. Tùng phong đường từ bao giờ trở thành hoa viên để người ta tự tiện ra vào!”.

Lưu Anh vừa thấy dễ chịu đôi chút, lại kinh sợ: “Thuộc hạ đáng chết! Toàn bộ Thanh tổ bị phạt mười roi, thuộc hạ tự phạt thêm mười roi nữa!”. Lưu Anh dập mạnh đầu rồi quay người đi ra.

“Khoan! Thuốc này trị vết thương roi đánh rất hiệu nghiệm!”.

Lưu Anh đón vật Lưu Giác quẳng cho, mắt lộ vẻ cảm kích: “Đa tạ chúa thượng quan tâm!’’.

“Được rồi, sĩ tốt bị thương sao có thể canh gác được?”.

Lưu Giác hình như nghiện đến gặp A La, vài ngày lại tìm đến tướng phủ hẹn nàng đi cưỡi ngựa. A La nghĩ thầm, sao hắn ta giống như loài cỏ không sao nhổ được rễ thế chứ? Hôm nay làm thế nào để cắt đuôi đây?

Cưỡi ngựa qua thảo nguyên, Lưu Giác đưa nàng vượt qua cổng thành phía đông phi về hướng dãy núi Ngọc Thủy. A La còn nhớ, biệt uyển của Hộ quốc công chúa cũng ở phía này. Qua bình nguyên là dải đồi nhấp nhô trùng điệp, quất ngựa băng qua cảm thấy quả đồi giống như người con gái nằm ngủ trên đất, hơi thở đều đều. Phi ngựa một lát nữa, A La ngáp một cái, phàn nàn: “Trời nóng quá, ta buồn ngủ, không muốn đi nữa, ta về phủ đây”.

Lưu Giác quay đầu nhìn nàng: “Nàng về phủ hay là một mình đi dạo phố?”.

A La giật thót người, suýt thì ngã ngựa, nàng quay mặt sang một bên: “Sao chàng lại vô sỉ đến thế, lại còn cho người theo dõi ta?” Lòng hoảng hốt, lúc này không được để cho hắn ta phát hiện ra mình đang chuẩn bị chạy trốn.

Lưu Giác cười: “Thực ra ta chỉ muốn biết, a đầu đã dạy Ly Thân vương món ăn hạng nhất, lại được huynh ấy luôn mồm ca ngợi là báu vật rút cuộc có những bí mật gì, theo dõi mãi lâu dần thành nghiện, suốt ngày nhìn nàng và Tử Ly hẹn hò ở hậu viên, thú vị lắm”.

Nếu tiếp tục bị hắn ta cho người theo dõi, đúng là chạy không nổi. A La nhìn thẳng Lưu Giác, nói khích: “Nếu còn cho người đi theo ta chết cũng không lấy chàng! Ta ghét nhất làm gì cũng bị người ta nhìn thấy, đó là vi phạm riêng tư! Ta sẽ coi thường chàng!”.

Lưa Giác không tỏ vẻ bất cần nữa, nhìn A La, nói: “Được, ta sẽ không cho người theo dõi nàng nữa. A La, không phải ta muốn theo dõi nàng, lúc đầu là do hiếu kỳ, bây giờ không cần thiết”. Nói đoạn, chàng lại cười xòa: “Ai bị như thế cũng thấy khó chịu”.

A La thở phào: “Ta tin chàng, chàng đừng làm ta thất vọng”.

Lưu Giác nhảy xuống ngựa, chìa tay cho nàng: “Xuống đi! Chúng ta ra bờ suối ngồi một lát”.

A La đang định xuống ngựa, Lưu Giác cau mày nói: “Thôi, sắp trưa rồi, nắng trưa rất độc, nàng về phủ đi”. Chàng đột nhiên đổi ý.

A La không hiểu, nghi hoặc nhìn chàng. Lưu Giác trầm mặt “Mau đi đi!”. Nói rồi đập vào mông ngựa, ngựa hí một tiếng lao đi. Vừa được mấy bước thì hai vó trước bỗng mềm oặt, khuỵu xuống, A La kêu một tiếng, từ lưng ngựa ngã xuống, nàng nhắm mắt, thầm nghĩ, “Hỏng rồi, hỏng rồi”. Liền ngay đó cơ thể bỗng nhẹ bẫng, đôi cánh tay chắc khỏe đã đỡ lấy cơ thể nàng. Chỉ thấy Lưu Giác hét một tiếng “Đứng dậy”, cơ thể nàng vút lên như cưỡi mây cưỡi gió, rồi tiếng gió vun vút liên hồi bên tai như tiếng kiếm khua, khi chân chạm đất, nàng nhìn thấy khoảng chục người vận áo xanh bịt mặt vung kiếm lao đến, tình hình nguy hiểm gấp bội so với lần Tử Ly bị tập kích dạo trước. Bóng đao, bóng kiếm loang loáng, A La nhìn hoa cả mắt, karate so với trận này chỉ như trò trẻ con.

Lưu Giác đứng trước nàng, vung kiếm che trái chắn phải. A La ngây người, nghe đằng sau có tiếng gió thốc lại, nàng né người theo bản năng, thấy có người tấn công từ phía sau, Lưu Giác vung tay hất tung thanh đao trong tay đối thủ, tay kia nắm chặt tay A La. Miệng chàng chợt huýt một tiếng sáo dài, Ô y kỵ của phủ An Thanh vương đột nhiên xuất hiện, đám người áo xanh bị chém lia lịa, không kịp trở tay. Tình thế đã đảo ngược, trận chiến kết thúc chóng vánh. Ba người áo xanh bị bắt, không một ai chạy thoát.

Lưu Giác tra kiếm vào bao, đứng thẳng người, cười khẩy: “Nói, kẻ nào sai khiến các ngươi? Đương nhiên chắc là các ngươi sẽ không chịu nói nhưng phải nếm cực hình mới chịu khai ra là thiếu sáng suốt. Thế này vậy, nói đi, tiểu vương gia sẽ cho các người chết nhẹ nhàng, nếu không các ngươi muốn chết cũng không chết được. Giày vò các ngươi tám năm, mười năm, ta cũng có gan chờ”.

Ba người áo xanh nhìn nhau đồng thanh: “Nói hay không đằng nào cũng thế, tiểu vương gia cứ việc ra tay”.

Lưu Giác cười: “Ra tay à? Không được làm tiểu vương phi của ta kinh sợ!”.

A La đỏ mặt, quay đi thầm nghĩ, Lưu Giác thẩm tra người ta sao cũng diễn bộ mặt tươi cười như thế? Chính trong lúc nàng định ngoái đầu, chợt nghe thấy một âm thanh trầm buồn, đang định ngoái lại bàn tay Lưu Giác đã bịt chặt mắt nàng: “Ngoan nào, đừng nhìn, hãy nhìn phong cảnh phía xa”. A La giật mình, hắn ta đang dỗ mình sao? Dịu dàng thế ư?

Lưu Giác buông tay. Nghe thấy những âm thanh trầm buồn từ phía sau lưng vẳng lại, nàng không muốn nhìn nhưng thầm tưởng tượng ra khung cảnh phía sau liền bất giác bịt chặt tai. Hai, ba khắc sau, Lưu Giác kéo tay nàng ra, A La ngoảnh lại, sườn núi trống không như chưa có chuyện gì xảy ra. Lưu Giác cũng như Tử Ly trừng trị kẻ dưới thẳng tay như vậy sao? Hắn, hắn ta cũng không đơn giản như vẻ ngoài thoải mái hay sao? A La lại thấy đau đầu, Lưu Giác cũng như Tử Ly đều là thủ lĩnh giấu mặt.

Lưu Giác ngửa mặt tươi cười, nhìn A La đang mở to mắt đầy sợ hãi băn khoăn, bỗng chàng thở dài tay nâng mặt nàng, nói: “A La đừng sợ, nào lại đây nhìn vào mắt ta, nhìn ta. Nhớ kỹ, chỉ cần có ta, nàng sẽ an toàn. Trừ phi, trừ phi ta chết trước mặt nàng”.

Ánh mắt chàng vừa chân thành vừa kiên định. A La thảng thốt vài giây, tự nhiên gật đầu, Lưu Giác phấn khởi ôm nàng vào lòng. Chỉ nghe tiếng chàng khẽ khàng: “Hãy tin ta, A La, ta sẽ đối tốt với nàng, sẽ bảo vệ nàng, suốt đời suốt kiếp”.

Lồng ngực chàng ấm áp và rắn chắc, khiến nàng thấy an toàn biết bao. Giờ khắc này A La đã muốn từ bỏ ý định chạy trốn. Nhưng lại chợt nghĩ, Tử Ly từng nói sẽ bảo vệ mình, nhưng thực tế luôn có lúc lực bất tòng tâm. Nàng tựa vào ngực chàng, tự nói với mình, chỉ cần giây phút này, chỉ cần giây phút này thôi.

Một lúc lâu sau, nàng mới chậm rãi hỏi: “Ai muốn giết chàng, hình như chàng đã có chuẩn bị?”.

Lưu Giác nói thản nhiên: “Không phải thái tử thì là Ly Thân vương”.

A La kinh ngạc đẩy chàng ra: “Sao có thể? Đắc tội với chàng phỏng có ích gì?”. Người định ám sát Lưu Giác có thể là Tử Ly ư? Nàng không muốn nghe điều đó.

Lưu Giác nói: “Vấn đề là ở chỗ đó. Hai người kia bất luận là ai đắc tội với ta đều không có lợi, cho nên họ đều mong cho đối thủ đắc tội với ta, chỉ cần An Thanh vương nghiêng về bên nào, khả năng chiến thắng lớn nhất trong cuộc chiến tranh đoạt vương vị sau này sẽ nghiêng về bên đó. Những kẻ áo xanh vừa rồi mặc dù không chịu nổi cực hình, mới khai là do thái tử sai khiến, nhưng ta không tin, nhiều khả năng là Ly Thân vương. Huynh ấy quản thuộc hạ rất nghiêm, hoàn toàn có khả năng dùng lời khai của những thuộc hạ liều chết để giá họa cho thái tử. Nhưng cũng không loại trừ khả năng thái tử ra tay. Có lẽ thái tử cố ý dẫn lửa vào thân, lại càng tỏ ra trong sạch. Phải biết, ta là đồng minh tương lai của huynh ấy, với thế lực hiện nay của thái tử, phủ An Thanh vương chỉ cần giữ thái độ trung lập là đã giúp huynh ấy nhiều rồi. Nhìn bề ngoài, thái tử không cần thiết phải đối kháng với ta, tuy nhiên, huynh ấy lại sợ vương phủ ủng hộ Ly Thân vương, cho nên cũng không loại trừ khả năng đó. Lời của mấy tên áo xanh vừa rồi ta không tin một câu nào, điều duy nhất có thể xác nhận là một khi Ninh vương băng hà triều đình nhất định sẽ đại loạn”.

A La càng nghe càng kinh hãi, từ thời cổ, tranh giành vương quyền đều là cuộc chiến đẫm máu. Nàng nghĩ, vẫn còn nửa tháng nữa, nửa tháng sau mình sẽ cao chạy xa bay, thoát khỏi cảnh gươm đao rùng rợn đó.

Lưu Giác dịu dàng nhìn A La: “Nàng có đồng ý ở bên ta không? A La, chúng ta sẽ cùng chung hoạn nạn sinh tử?”.

A La nói ngay không suy nghĩ: “Không!”.

Lưu Giác sắc mặt sa sầm, trợn mắt lườm nàng: “Không biết tim nàng bằng gì! Chẳng khác gì một con sói mắt trắng không thể thuần phục!”.

A La nhìn chàng: “Ta không thích tranh giành quyền lực, những chuyện đó không can hệ đến ta. Tại sao ta phải cùng chàng chung hoạn nạn sinh tử?”.

Lưu Giác thở dài: “A La, đến đâu cũng thế thôi, không thể có sóng yên biển lặng”.

A La cúi đầu, một hồi lâu mới ngẩng lên: “Ta nghĩ thế giới này sẽ luôn có một nơi bình yên, để ta có thể sống cuộc đời giản đơn”.

Lưu Giác nhìn ra phía xa, lúc quay lại, ánh mắt đã trở lại dịu dàng: “Mong là có, gần đây Ly Thân vương cho xây phủ trong sơn cung, Phong thành sắp dậy sóng rồi. Hôm nay đã làm nàng kinh sợ, quay về thôi, không có việc gì thì nên ở trong phủ, không nên ra ngoài chạy lung tung”.

A La nói: “Phải, gần đây trong tướng phủ rất bận, mọi người bận giúp Thanh Phỉ chuẩn bị tư trang”.

Lưu Giác nghĩ đến bữa tiệc trong Đông cung dạo trước, đột nhiên hỏi: “Cuộc sống của nàng trong tướng phủ chắc rất khó chịu? Bởi vì mẹ nàng xuất thân từ thanh lâu”.

“Phải, chàng đã biết thế, sao còn muốn cưới ta làm chính thê?”.

Nỗi xót thương trào lên, Lưu Giác cười: “Thân mẫu ta còn là tù binh cha ta thắng trận bắt được, chẳng phải cũng như nhau hay sao? Chỉ tiếc người qua đời quá sớm. Người rất đẹp, phụ thân ta trong lòng thương tiếc khôn nguôi, từ đó không lấy vợ nữa”.

“Vậy phụ thân chàng chẳng phải sẽ bị các đại thần trong triều chế nhạo hay sao? Phụ thân ta luôn tự hào vì có đến bảy bà vợ, có lẽ phong tục Ninh quốc là thế, lấy càng nhiều vợ thì càng thấy hãnh diện?”.

“Ai dám? Ngay cả Ninh vương cũng phải kính nể phụ thân ta mấy phần”. Giọng Lưu Giác đầy tự hào, “Huống hồ, phụ thân ta đã gặp được tri kỷ, vậy là đủ rồi! A La, ta đã nhận nàng, nàng đừng phụ ta”.

“Nếu ta phụ chàng, nghĩa là không lấy chàng, chàng sẽ làm gì?”.

“Đến lúc đó nàng khắc biết”. Lưu Giác nói thản nhiên.

A La bất giác rùng mình.

CHƯƠNG 14

Sau chuyến đi đó, Lưu Giác không đến tìm A La nữa. Ban ngày các phu nhân cần làm gì cũng gọi nàng, A La đành phải đợi đêm đến mới vượt tường ra ngoài, chuẩn bị cho công cuộc chạy trốn.

Trong Đường viên, thất phu nhân, A La và Tiểu Ngọc đều hồi hộp, căng thẳng chờ đợi ngày Thanh Phỉ xuất giá. Một năm trước vú Trương đã viện lý do già yếu xin xuất phủ về quê, rời khỏi Phong thành. Theo sắp đặt của A La, vú đã đến thành Lâm Nam ở biên giới nướcTrần.

Mọi người đếm từng ngày. A La nhắc thất phu nhân và Tiểu Ngọc không được lo lắng, cứ coi như cuộc dạo chơi ra khỏi phủ bình thường. Nàng nói: “Tuyệt đối không được để cho ai biết mình đang nghĩ gì. Cho dù họ đoán đúng cũng chỉ là dự đoán, chỉ cần mình không nhận, là không có chuyện gì”.

Cuối cùng cũng đến hôm trước ngày Thanh Phỉ xuất giá, A La và thất phu nhân mặt mày hớn hở mang quà cưới đến tặng Thanh Phỉ, nói một loạt những lời chúc tụng hay ho, rồi trở về Đường viên như mọi ngày. Tiểu Ngọc khóa cửa ngoài, ba người khẩn trương cải trang thành nam nhân, chỉ mang theo ngân lượng và những đồ châu báu, đi tắt qua hậu viên vào rừng trúc rồi vượt tường bao một cách thuận lợi. A La dẫn đường đưa họ đi thẳng đến ven sông, ở đó nàng đã thuê sẵn cỗ xe ngựa đứng chờ, sau khi trao bạc, cỗ xe vòng lại đi về phía cổng thành phía đông.

Ra khỏi phủ, thất phu nhân thở một hơi dài, thấy A La điều khiển xe ngựa vẻ thành thạo bèn hỏi: “Tam Nhi, con học đánh xe ngựa từ bao giờ vậy?”.

A La cười: “Sau khi biết cưỡi ngựa, con bảo Tử Ly kiếm cỗ xe dạy con đánh chơi, còn bảo huynh ấy lên xe đi dạo, bên trong để sẵn đồ đùng, đồ ăn, có thể đi đến đâu nghỉ đến đó, cứ như vậy, dần dần con biết đánh xe thôi”.

Thất phu nhân nói: “Kỳ thực Ly Thân vương cũng rất thật lòng với con”.

“Mẹ à, con chỉ coi huynh ấy là đại ca thôi. Buổi tối hôm đó, Tử Ly bảo con sau này không nên tin huynh ấy. Con cũng không biết phải làm thế nào, có lẽ từ nay chẳng còn gặp lại huynh ấy nữa”. A La thở dài, không muốn nhắc đến Tử Ly. Bây giờ chàng đang xây phủ trong sơn cung, bắt đầu vạch mưu tranh đoạt vương vị với thái tử. Lại còn Lưu Giác, chàng đã nói thật, nếu biết nàng chạy trốn, với tính cách của Lưu Giác, nếu để bị bắt lại, mình không chết cũng bị lột da. “Vút!”, A La vung roi, dẹp bỏ những suy nghĩ lan man, chuyên tâm đánh xe.

Đến khu dân cư phía đông nam Phong thành, A La nhảy xuống dùng vải dày bọc móng ngụa, lặng lẽ len lỏi trên đường ngõ. Đi lòng vòng suốt một canh giờ, họ mới đến được ngôi nhà đã mua từ trước.

Tiểu Ngọc đỡ phu nhân xuống xe, A La dẫn họ vào sân, nàng vào nhà lấy ra những thứ đã chuẩn bị sẵn, nói với thất phu nhân: “Mẹ à, con và Tiểu Ngọc đã chuẩn bị lương thực và đồ dùng đủ sống trong nửa năm, quản gia đã cho nghỉ rồi. Mẹ và Tiểu Ngọc cứ đóng chặt cổng nghỉ ngơi, Tiểu Ngọc đã đến đây cũng biết tình hình, bây giờ con phải đi làm nốt một số việc”.

Thất phu nhân nghẹn ngào: “Tam Nhi, con phải cẩn thận đấy!”.

A La nhìn trời, còn một canh giờ nữa cổng thành sẽ mở. Nàng gật đầu: “Con sẽ bình an trở về”. Nói đoạn, nhảy lên xe ngựa đi về phía cổng thành phía nam.

Nàng thận trọng đứng chờ trong một con ngõ cách cổng thành phía nam nửa dặm. Giờ Mão ba khắc bắt đầu mở cổng, đó là quy định của Phong thành, không có chiến sự, lính gác sẽ không tra xét người qua lại. A La thay một chiếc áo choàng màu bạc rất nổi bật, thầm nghĩ, như vậy mọi người đều sẽ nhìn rõ.

Bình thường vào giờ Thìn, thất phu nhân đều đến vấn an lão gia và đại phu nhân. Giờ Thìn hôm nay bà phải đến trang điểm cho Thanh Phỉ. Nếu thất phu nhân không đến, gia nhân phát hiện sẽ bẩm báo Lý tướng. Lúc đó mọi người còn mải lo hôn lễ của Thanh Phỉ, phải mở tiệc mời bá quan bằng hữu, tướng phủ sợ sẽ to chuyện, đến khi ông ta quyết định đi tìm cũng sẽ không làm ầm ĩ, cho nên không đáng sợ. Điều duy nhất khiến A La sợ đó là Lưu Giác và Tử Ly. Nhưng Tử Ly do đã cưới Cố tướng thiên kim, sợ bị mang tiếng nên sẽ không truy đuổi. Còn Lưu Giác khi được tin, sớm nhất cũng là giờ Tỵ, trong thời gian này nàng có hai canh giờ để sắp đặt mọi thứ.

A La tính thời gian, nhìn những đồ mang theo trên xe, tự tin cười. Nhìn trời đã rạng, nền trời phía đông đã rạn hình vảy cá, nàng ra roi quất ngựa nhằm hướng cổng thành phía nam.

Lúc đó lính gác đang vừa ngáp vừa mở cổng thành, trước cổng chỉ có lác đác vài nông phu chở rau quả đi qua. Chợt có tiếng vó ngựa dồn dập, một vị công tử khôi ngô vận áo choàng màu trắng bạc đánh một cỗ xe ngựa lao đến, miệng la lớn: “Nhà có người ốm, phải về quê gấp, mau tránh đường!”.

Phong tục của Phong thành, khi có người nhà bệnh nặng thấy khó qua khỏi, đều cố gắng đưa về quê trước khi tắt thở. Lính gác thông cảm nhìn theo chiếc xe ngựa lao qua cổng thành, thầm cảm kích tấm lòng hiếu thuận của vị tiểu công tử kia, cầu mong cho chàng sớm đưa người thân bình an về nhà.

A La đánh xe ngựa ra khỏi cổng thành, giảm tốc độ cho xe đi xuống cầu phao, quay đầu lấy chai dầu hỏa mang theo, tưới lên mép cầu. Vượt qua cầu, lại phóng như bay, men theo đường cái đi tiếp một canh giờ, khi đường đi dốc dần, núi hai bên càng sừng sững hiểm trở, nàng mới đánh xe đi sâu vào trong một khu rừng ven đường. Xuống xe, tháo dây cương, quất roi vào mông ngựa, thả nó đi, con ngựa đau lồng lên, chạy thẳng.

Không kịp nghỉ lấy sức, nàng lấy trong xe một cái bọc nhỏ bằng giấy dầu buộc vào người, hất quần áo và mấy thứ lặt vặt bừa bãi trên xe, dùng chai tiết lợn mang theo vẩy lên đó, vẩy cả trên mặt đất, ngụy trang thành một vụ cướp đường. Không giống cũng không sao, chỉ cần có hiện trường ít nhiều cũng có manh mối để người ta suy đoán tưởng tượng, chỉ cần có thể đánh lạc hướng để kéo dài thời gian. A La thận trọng bọc chai dầu hỏa và chai tiết lợn buộc vào con ngựa còn lại, nhảy lên ngựa phi thục mạng về phía Phong thành. Đoán là cách chỗ vứt xe ngựa chừng khá xa nàng mới đập nát mấy cái chai đó giấu đi, lại nhìn mặt trời, tính thời gian, đoán là khoảng giờ Thìn sáu khắc, nàng liền thúc ngựa phi về phía Phong thành.

Giờ Thìn một khắc, được tin người của Đường viên đã biến mất, Lý tướng tức tối, đem theo gia nhân xông đến Đường viên, khóm hải đường trong sân cành lá đung đưa, thân thẳng tắp, Đường viên vắng lặng không một bóng người. Lý tướng đạp tung cửa phòng thất phu nhân, chăn gối gọn gàng, trong rương quần áo vẫn nguyên Vẹn. Lý tướng ngẩn người nhìn gian nhà trống rỗng, miệng lẩm bẩm: “Giỏi lắm, Ngọc Đường! Mi dạy dỗ con gái thế đấy! A La, mày giỏi lắm! Không những cố tình giấu tài, còn dám lén mưu tính thoái hôn! Bọn chúng trốn khỏi phủ thế nào?”.

Gia nhân giật nảy mình bởi tiếng hét của Lý tướng, sợ hãi liếc nhìn đại phu nhân.

Đại phu nhân cất giọng nanh nọc: “Gia nhân lục tìm mới phát hiện, sâu trong rừng trúc sau hậu viên có một đống đá, có thể trèo lên vượt tường ra ngoài! Nhìn đám rêu phong, hẳn chúng đã chuẩn bị từ lâu! Đồ gái thanh lâu mạt hạng, dám học thói hạ tiện trốn ra khỏi phủ”.

Nếu bây giờ ba người kia xuất hiện trước mặt, không chừng Lý tướng sẽ bất chấp lời hứa hôn với phủ An Thanh vương giết chết bọn họ.

Mặt Lý tướng xám đen, ngồi trên ghế, ngực phập phồng, bộ râu rung rung, chứng tỏ ông ta tức giận đến mức nào.

Trong phủ trang hoàng rực rỡ, đèn lồng gấm đỏ chăng khắp nơi, chỗ nào cũng hoa tươi, tất cả đều nói lên hôm nay là ngày đại hỷ, ngày thứ nữ của Lý gia xuất giá. Nhưng không ai tỏ ra vui mừng, Thanh Phỉ sắc mặt nhợt nhạt, không biết liệu Lý tướng có vì quá phẫn nộ mà hủy bỏ hôn lễ hay không. Đại phu nhân dè dặt phá vỡ bầu không khí yên lặng: “Lão gia, mau sai người đuổi theo!”.

“Đuổi theo cái gì!”. Lý tướng đập bàn thét: “Lẽ nào định để dân chúng Phong thành đều biết thất phu nhân và tam tiểu thư của tướng phủ bỏ trốn? Lẽ nào để thiên hạ cười vào mặt bản phủ!”.

“Nhưng, chẳng lẽ để cho bọn chúng tẩu thoát? Chuyện này biết ăn nói thế nào với phủ An Thanh vương?”. Đại phu nhân than thở.

Lục phu nhân nói: “Lão gia, sớm muộn phủ An Thanh vương cũng biết, thiếp nghĩ việc này không thể chậm trễ, nên sớm báo tin cho tiểu vương gia, biết đâu người của vương phủ có thể đuổi bắt về. Nếu chậm trễ, để người đi xa mất, vương phủ e sẽ trách tội!”.

Lý tướng thở dài: “Cũng phải, mau sai người đến vương phủ báo tin! Nói là mới sáng sớm đã phát hiện thất phu nhân và tam tiểu thư bỗng dưng mất tích. A La đã hứa gả cho vương phủ, không tìm được người về, vương phủ cũng thấy mất mặt. Hai phủ hợp lực truy đuổi, bọn chúng chạy được bao xa?”.

Cả nhà nhìn nhau. Tứ phu nhân cười gượng: “Lão gia, vậy hôm nay...”.

Lý tướng dần dần bình tĩnh lại, biết là dù thế nào cũng không thể để lộ cho quan khách biết, danh tiếng của tướng phủ và mặt lão tướng không thể mất: “Hôm nay vẫn mở tiệc như thường, phải làm thật rầm rộ! Thanh Phỉ, con trang điểm cho thật đẹp, con cứ yên tâm làm tân nương. Đợi mấy ngày nữa, lão phu báo quan phủ, nói là thất phu nhân và tam tiểu thư tướng phủ đột nhiên mất tích, trong phòng có dấu vết ẩu đả, nếu giấu không được thì nói thẳng là sẽ treo giải thưởng cao. Kẻ nào lộ ra, đừng trách lão phu nhẫn tâm! Phu nhân, gọi thị vệ đến thư phòng, ta có việc sai bảo”.

Lý tướng lập tức trở về thư phòng, cẩn thận viết liền mười bức thư, đưa cho thị vệ: “Giao tận tay các vị phủ doãn đại nhân, không được sơ suất! Cầm thủ lệnh của ta, lấy ngựa đi mau’’. Lý tướng nghĩ, A La chỉ có thể đi về hai hướng tây và nam, nếu đi về tây phải qua bình nguyên, không thể chạy xa. Các phủ doãn nhận lệnh đều là môn sinh thân tín của ông, thư đã nói rõ là treo thưởng cao cho ai bí mật tìm kiếm, như vậy ba kẻ đó có thể chạy đi đâu? Điều ông ta suy nghĩ bây giờ là ăn nói ra sao với phủ An Thanh vương và trừng phạt thế nào khi bắt được bọn họ?

Lưu Giác nhận được tin cấp báo của tướng phủ, chàng giận run người. Thế nào là bỗng dưng mất tích, trong phòng có dấu vết ẩu đả? Nghĩ lại lời nói hành động của A La, chàng khẳng định mười mươi tiểu nha đầu này đã chuẩn bị từ lâu, chắc chắn là bỏ trốn!

Chàng thành tâm thành ý với A La, không ngờ nàng lại âm thầm mưu tính, nhân ngày hôn lễ của nhị tỷ dẫn mẫu thân bỏ trốn, thoái hôn! Hổ thẹn thay cho chàng còn tưởng mình đang ngày càng gần gũi với nàng, càng hiểu nàng, đang làm cho nàng dần dần yêu mình. A La thoái hôn! Nàng không cần chàng! Lòng Lưu Giác đau thắt từng cơn. Phẫn nộ, không đành, thất vọng, đau đớn, muôn nỗi quay cuồng trong đầu. Lúc này chàng vô cùng hối hận, đã rút lại người theo dõi nàng, còn một lòng muốn chiều chuộng nàng, tôn trọng nàng!

Nụ cười tươi hớn hở trước mặt chàng chỉ là đối phó! Ngoan ngoãn dựa vào lòng chàng chỉ là giả tạo! Lưu Giác nhớ lại những lời A La đã hỏi chàng, nếu có ngày nàng phụ chàng thì sẽ thế nào, chàng nghiến răng nghĩ, đợi ta bắt được, nàng khắc biết! Nàng sẽ phải hối hận vì việc làm hôm nay! Hai bàn tay đấm mạnh vào bàn, chiếc bàn rung lên, một góc bàn bị nứt toác.

Lưu Anh nhìn chủ nhân, mặt cũng nghiêm trọng: “Chúa thượng, ba tổ Ô y kỵ sẵn sàng đợi lệnh”.

Lưu Giác sầm mặt nói: “Xích tổ đi về hướng tây, Minh tổ về hướng đông, Huyền tổ theo ta về phía nam. Lưu Anh, ngươi cầm thủ lệnh của ta đến gặp đốc phủ Phong thành, bảo phái lính trấn thủ tất cả ba cổng thành, lục soát kỹ Phong thành cho ta! Cáp tổ(*) truyền báo đến đội quân ngầm ém ở tất cả các thành trì của Ninh quốc bí mật tìm kiếm”.

Cánh cổng lớn của vương phủ mở ra, đội kỵ mã áo đen tức tốc truy đuổi về hướng nam. Lưu Giác đi đến cổng thành phía nam, mặt sa sầm nghe lính gác lắp bắp trình báo, sáng sớm vừa mở cổng thành đã thấy một tiểu công tử dáng vẻ thư sinh đánh xe ngựa ra khỏi thành. Lưu Giác hét: “Đuổi theo!”.

Lúc đó A La vừa đến cầu phao châm lửa. Dầu hỏa rưới trên mặt ván gỗ gặp lửa bùng cháy, lửa gặp gió bốc cao dữ dội, cầu phao trên mặt sông biến thành con rồng lửa khổng lồ.

Từ xa Lưu Giác nhìn thấy bóng dáng A La bên bờ kia, rồi thoáng thấy bóng ngựa đi về phía nam, lòng xúc động, bất chấp ngọn lửa lao xuống cầu phao, chưa được mấy bước đã bị lửa tạc buộc phải quay lại, chàng tức tối đấm vào thành cầu, mối cầu hình đầu sư tử bị đấm nát.

Binh sĩ của Huyền tổ soàn soạt xuống ngựa, tim đập chân run, đây là lần đầu tiên họ thấy chủ nhân của mình ra tay mạnh như vậy, chỉ thấy từng luồng khí từ người chàng bốc ra, gặp không khí như ngưng kết lại. Luồng khí từ cơ thể Lưu Giác bốc mạnh khiến y phục trên người chàng phồng lên, mặt chàng xám ngắt đáng sợ.

Các binh sĩ quỳ sụp trước mặt Lưu Giác: “Tiểu vương gia, biết Lý tiểu thư đi về hướng nam, chắc chắn không thể chạy thoát, ta ngăn cản dọc đường cũng thế”.

Lưu Giác chỉ thấy lòng đau thắt, bức bối, ngón tay run run, phẫn nộ cực điểm nhưng cổ họng lại phát ra tiếng cười. Binh sĩ nhìn nhau, thầm nghĩ, tam tiểu thư kia phen này xong rồi.

Chàng ngồi trên mình ngựa nhìn sang bờ bên kia, đáy mắt đã ngưng thành lớp băng lạnh, miệng lẩm bẩm: “A La, tốt nhất đừng để bị ta tóm được!”.

Tiếp đó chàng quay người nói nhỏ: “Lập tức điều thuyền, dựng lại cầu phao!”.

(*) Cáp tổ: Đội truyền tín bằng chim bồ câu

Trước cổng thành phía nam, người dồn lại đông nghẹt, tất cả ngơ ngác nhìn con rồng lửa trên mặt sông.

A La nhân lúc khói bụi mịt mù che lấp, lẳng lặng xuống nước, để lợi dụng lúc mọi người bận dập lửa, bắc lại cầu, tiến gần cầu phao, nàng ngậm một ống trúc dài để thở, từ từ bơi đến đoàn thuyền neo đậu phía bờ bên kia. A La mừng là mình bơi giỏi, có thể lặn dưới nước lặng lẽ chờ thuyền trong phường bơi ra. Sau khi chiếc thuyền đầu tiên chèo ra, nàng lặn dưới đáy thuyền bơi theo hướng ngược lại về phía đoàn thuyền. Khi chiếc thuyền thứ mười chèo ra, nàng đã vào bên trong đoàn thuyền, từ chỗ hở trên mặt nước giữa các thuyền neo đậu, nhô đầu ra.

Quả nhiên, người ta đã nhanh chóng lắp xong cầu mới. A La lập tức vọt lên mặt nước, cởi cái bọc bằng vải dầu trên lưng xuống, lấy quần áo mặc vào, vò rối mái tóc, bôi đen tay và mặt cho giống kẻ ăn mày, sau đó đường hoàng đi qua đoàn thuyền, lặng lẽ lọt vào trong thành.

Khi đội Ô y kỵ rầm rập xuất quân cũng là lúc Tử Ly nhận được tin báo. Tỳ nữ Tư Thi nhân lúc trong phủ rỗi việc đã đích thân chạy đến báo với chàng. Tử Ly mỉm cười, chàng cũng không tin có ai đó bí mật lẻn vào tướng phủ bắt ba người đi.

A La đâu có ngoan ngoãn bị gả đi như vậy, quả nhiên nàng có suy tính và dự định. Lúc này dường như Tử Ly mới hiểu ra, tại sao A La thích bạc như vậy. Chàng từ từ mở bức họa trong tay, nhìn đôi mắt đó, nhếch môi cười: “Tư Thi, ngươi làm rất tốt, bản vương không biết đôi mắt của vương phi lại không như thế này”.

Tư Thi quỳ phục trước chàng: “Tư Thi chỉ không hiểu vì sao tiểu vương gia phải vẽ bức khác, cho là bức cũ có ẩn ý, cho nên trong lúc mang đồ vào phủ mới bí mật đánh tráo bức họa”.

Tử Ly nói: “Chắc là tiểu vương gia lưu luyến đôi mắt này. Bức mới đâu?”.

“Nô tỳ thấy tiểu vương gia vẽ rất giống vương phi, nên nghĩ là chẳng có ích gì. Trong lúc mang đồ không tiện nên đã đốt rồi”.

“Ngươi làm rất tốt, bản vương nên hậu thưởng cho ngươi mới được”.

“Tư Thi không cầu ban thưởng, chỉ muốn được ở bên vương gia”.

“Ồ, ngươi vì ta thật lòng tình nguyện ở lại?”.

“Phải, dẫu có phải chết vì vương gia nô tì cũng cam lòng”.

Tử Ly ngoái đầu nhìn Tư Thi, quả đúng là thiếu nữ xinh đẹp trẻ trung. Chàng thở dài, nhẹ nhàng vung tay xỉa lên ngực nàng, cắt đứt huyết mạch tim. Tư Thi kinh hoàng gục xuống, môi còn mấp máy run run, như đang hỏi tại sao.

Tử Ly nói khẽ: “Ngươi tự cho là thông minh, đánh tráo bức tranh, nhưng lại không cho ta biết, đó là thứ nhất. Vô tình cảnh báo Lưu Giác ta đã bố trí tai mắt trong phủ của y, ngươi đã để lộ ý đồ của bản vương, đó là thứ hai”.

Mắt Tử Ly lộ vẻ đau đớn: “Ngươi mang bức cũ đến, lại khiến bản vương ngày đêm đau đớn phát điên, đó là thứ ba. Ngươi đi đi, ta sẽ hậu táng cho ngươi”.

Tử Ly giơ tay vuốt mắt cho nàng ta. Chàng ngơ ngẩn nhìn bức họa một lát, cuộn lại cất đi, rồi sai gia nhân: “An táng tử tế, mật báo cho cánh quân ngầm các nơi, nhất định phải tìm được tam tiểu thư trước Lưu Giác. Cẩn thận, không được làm nàng ấy bị thương”.

A La lén trở về nhà, lấy sáo thổi ám hiệu. Tiểu Ngọc vội vàng mở cửa, nàng mệt mỏi rã rời, mặt mũi nhem nhuốc, nhưng miệng cười tươi roi rói: “Xong rồi, thành công rồi, yên trí trốn ở đây, qua nửa năm sẽ dễ đi hơn”.

Ánh mặt trời gay gắt như loãng ra khi có luồng gió sông thổi đến, mồ hôi vừa vã trên người đám thủy binh lập tức bị gió thổi khô. Có binh sĩ vừa làm việc vừa tranh thủ liếc về phía mấy ngôi lều mới dựng vội bên cạnh cổng thành, lại bắt gặp đôi mắt lạnh như băng. Bất giác rùng mình, người nổi da gà. Phía trên một giọng cũng khẽ như thế hỏi: “Thế nào?”, binh sĩ cúi đầu khóa những sợi dây xích với nhau, nói nhỏ: “Làm đi! Tiểu vương gia của phủ An Thanh vương, hôm nay xem chừng muốn giết người”.

Khi dập tắt đám cháy, dựng xong cầu phao đã gần tới giờ Mùi, phía bờ kia vẫn còn hai chiếc thuyền chưa ghép hết, Lưu Giác đứng bật dậy, không nói không rằng, ra khỏi lều nhảy lên ngựa. Hai tổ khác của Ô y kỵ đã trở về phủ, Huyền tổ luôn ở bên Lưu Giác, thấy chủ nhân hành động đều nhất loạt nhảy lên ngựa đi theo. Lưu Giác một mình một ngựa dẫn đầu đi về phía bờ bên kia.

Qua cầu phao, chỉ có duy nhất một đường cái thông đến các trấn phía nam. Cách Phong thành gần nhất là trấn Thuận Hà, tiếp theo là Cốc thành. Ô y kỵ đi sát sau Lưu Giác, trên con đường cái buổi chiều vắng tanh chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa nện gấp trên mặt đường. Vừa gặp con đường nhỏ, Ô y kỵ cử một người rẽ vào tìm kiếm.

Trên đường cái cách thành mười dặm có một quán trà, chủ quán là một cặp vợ chồng già tóc bạc trắng, nắng chiếu xiên, ông lão ngủ gật trên ghế. Đột nhiên nghe tiếng tiếng vó ngựa dồn dập, ông lão mở choàng mắt, một toán kỵ sĩ mình vận áo giáp mềm màu xanh sẫm, bịt mặt lao qua như con lốc, tiếng động vọng lại ầm ầm như sấm. Ông lão sợ hãi, người mềm nhũn, từ trên ghế trượt xuống đất. Phủi bụi trên người, ông chầm chậm đứng dậy, ngoảnh đầu lại loạng choạng quỳ sụp xuống. Một kỵ sĩ bịt mặt cố nén giọng nhẹ nhàng hỏi: “Ông lão, có nhìn thấy một tiểu công tử khôi ngô đánh xe ngựa qua đây không?”.

Ông lão há mồm, nhưng không nói ra được. Kỵ sĩ có vẻ sốt ruột, giọng nói đã có phần lạnh lùng hơn lúc trước: “Lúc sáng sớm, có một công tử khôi ngô đánh xe ngựa đi qua, lão có nhìn thấy không?”.

Ông lão lúc đó mới hoàn hồn, miệng lắp bắp: “Quán của tiểu... tiểu nhân giờ Thìn mới mở, không... không nhìn thấy”.

Kỵ sĩ không hỏi thêm, ném lại chuỗi tiền, vung roi, phi ngựa về hướng trấn Thuận Hà. Khi kỵ sĩ đã đi rất xa, ông lão mới run run hai tay nhặt những đồng tiền vung vãi trên mặt đất, thầm kêu lên: “Ôi chao! Hào phóng quá!”.

Lưu Giác phi thẳng một mạch đến cổng trấn Thuận Hà. Trấn này không lớn, chỉ có hai con đường. Chàng giơ tay ra hiệu, Ô y kỵ tản ra, chia nhau đi vào trong trấn, Lưu Giác cưỡi ngựa đứng ở cổng trấn, lia mắt quan sát xung quanh. Không lâu sau, Huyền tổ bẩm báo: “Người trong trấn không ai nhìn thấy tam tiểu thư, cũng không thấy cỗ xe ngựa nào đi qua”.

Con tuấn mã dường như cảm nhận được sự nóng ruột của chủ, liên tục giậm móng xuống mặt đường một cách bất an. Lưu Giác tính thời gian, có lẽ A La đã đến trấn Thuận Hà từ sáng sớm. Trấn này kẹp giữa hai ngọn núi cao, một con đường cái từ trấn thượng xuyên qua, không còn đường nào có thể đi vòng, ít có khả năng A La đưa mọi người vượt núi. Nếu bọn họ đi về phía nam, nhất định phải qua trấn Thuận Hà. Nhưng, bây giờ họ đi đâu?

Đột nhiên phía sau chàng vang lên một tiếng nổ đanh gọn, trên bầu trời xuất hiện một đám khói màu xanh, tím đang dần tản ra. Đó là tín hiệu báo tin của các toán lính tìm kiếm. Mắt Lưu Giác lóe sáng, quay ngựa lao về phía đó.

Tiến vào khu rừng rậm, chàng nhìn thấy ngay cỗ xe ngựa. Các binh sĩ Huyền tổ quỳ sụp định bẩm báo, Lưu Giác đã đi xuyên qua bọn họ đi đến bên cỗ xe. Trong xe có mấy bộ quần áo vứt lung tung, chàng tiện tay cầm lên một chiếc, bỗng thấy có vết máu, lại nhìn xuống đất, trên đám cỏ cũng có vết máu. Chàng giật mình, đồng tử trong mắt co lại, cảm thấy có bàn tay nào đó lén bóp chặt trái tim. Mặt trắng bệch, người toát mồ hôi lạnh, y phục dính vào cơ thể.

Kỵ sĩ đầu tiên phát hiện ra cỗ xe nói: “Thật là thủ pháp cao minh, xung quanh không hề có dấu tích, tựa hồ người và ngựa biến mất từ chỗ này”.

“Quanh đây có thấy kẻ nào hành tung bất thường không?”.

“Trong ngọn núi to phía tây Thuận Hà có một ổ sơn tặc, nhưng rất ít khi cướp xe ngựa thông thường, thương nhân qua lại chỉ cần cho ít bạc, bọn họ tuyệt đối không làm hại ai”.

Lưu Giác cười gằn: “Ngay gần Phong thành như vậy mà lại có bọn sơn tặc quấy nhiễu? Chuyện này không thể được!”. Chàng linh cảm thấy toán cướp này không đơn giản.

“Đám sơn tặc này rất lạ lùng, hình như có dây dưa với thái tử, cánh quân ngầm trong trấn của Cáp tổ báo tin, chúng thỉnh thoảng mới xuống núi cướp bóc, hầu như chỉ ẩn náu trong núi. Mà những đồ cướp được hoàn toàn không đủ nuôi một toán binh mã đông như vậy, có vẻ như cướp bóc chỉ là để ngụy trang”.

Lưu Giác nhìn ra hai hướng đông tây xa xa của trấn Thuận Hà, bụng nghĩ, trấn Thuận Hà này là cửa ngõ vào Phong thành, nếu chặn đứng con đường yết hầu này, có nghĩa là bóp nghẽn huyết mạch của Phong thành và các thành trì phía nam. Nếu thái tử bố trí điểm chốt này, thật là một nước cờ hay, “Toán sơn tặc này xuất hiện từ bao giờ”.

“Sau tiết Trung thu năm ngoái”.

Sau tiết trung thu, có nghĩa là vào lúc thái tử kết thân với Vương gia. Nghe đồn thái tử phi mưu lược hơn người, lẽ nào nước cờ này là do Vương Yến Hồi sắp đặt? Chàng càng nghĩ càng kinh sợ, đột nhiên nhớ lại tiếng đàn của A La trong buổi đại yến ở Đông cung. Lẽ nào thái tử đã sớm bố trí tai mắt trong tướng phủ, bắt cóc A La? Lòng chàng như lửa đốt. Nếu phá sơn trại có nghĩa là gián tiếp giúp Tử Ly một việc lớn, đồng thời cũng phá vỡ bố trí của Đông cung, nếu không ra tay, sao chàng có thể yên tâm? Ánh mắt của Lưu Giác càng kiên định, môi hơi nhếch, nụ cười hiện ra, bọn chúng đã xưng là sơn tặc, thì ta sẽ coi bọn chúng là sơn tặc để xử lý. Nếu là ván cờ của Tử Ly, hôm nay ta cũng vẫn phá.

“Trước giờ Tý tối nay, ta muốn sơn trại biến mất. Trừ hại cho dân, chia sẻ nỗi lo với vương thượng là bổn phận của thần tử chúng ta”.

“Chúa thượng yên tâm!”.

Đám mây dần dần che lấp vầng trăng, trên ngọn núi to có những bóng đen lố nhố. Dựa vào tin của Cáp tổ thu thập, Huyền tổ đã vạch xong phương án tấn công. Vào giờ Dậu, họ im lìm như những đám mây lặng lẽ lẻn vào bao vây sơn trại.

Lưu Giác quan sát kỹ sơn trại, quả như Cáp tổ báo cáo, hoàn toàn không giống sơn trại bình thường, mà giống một quân doanh nhỏ. Chàng cười khẩy, đây có lẽ là kế hoạch của một người thông thạo binh thư, hiểu rõ cách bài binh bố trận. Đợi đến giờ Hợi, những tiếng hú vang lên giống như tiếng cú trong đêm, tất cả bắt đầu hành động.

Những bóng đen từ trong bóng tối vọt ra, Lưu Giác dẫn đầu đội quân vọt vào trước, binh sĩ Huyền tổ chia nhau vào theo. Bên trong mặc dù có bố trí thế trận, nhưng gặp phải Ô y kỵ thông thạo binh pháp, cả đội đột nhập dễ dàng. Lưu Giác lặng lẽ áp sát đại sảnh, khi chàng thản nhiên bước vào, đám người bên trong thất kinh đến mức làm rơi bát rượu trong tay.

Tên thủ lĩnh kinh hoàng đưa tay dụi mắt nhưng chỉ thấy Lưu Giác cười, nói: “Ta không phải là ma quỷ, ngươi xem, có bóng đây này”.

Lúc đó hắn mới định thần: “Ngươi là ai, lọt vào trại thế nào?”.

“Chuyện đó ngươi không cần biết, ta chỉ hỏi một câu, hôm nay có phải các ngươi đã cướp một cỗ xe ngựa?” .

“Cướp thì sao? Không cướp thì sao?”.

Lưu Giác đứng tại chỗ vung lưỡi kiếm lên như múa, lóe lên những ánh bạc dịu dàng như ánh trăng, chạm vào cơ thể đám lính trong nhà. Mọi người chỉ cảm thấy một luồng khí lạnh ập đến, trong vòm nhà những bông hoa tuyết lạnh lùng, lặng lẽ bay như mưa. Đến khi hoa tuyết chuyển thành màu đỏ, những tấm thân đổ gục, đầu vẫn đang nghĩ, vị Tu La(*) giữa đêm đen mang nụ cười này là ai?

Khi giọt máu cuối cùng từ từ chảy xuống mũi kiếm, đông đặc lại, Lưu Giác cười hỏi: “Trả lời ta!”.

Thủ lĩnh đột nhiên thét lên như xé giọng: “Không! Không có! Chúng ta chỉ phụng mệnh lập trại, không làm hại tính mệnh con người”.

Ô y kỵ âm thầm lọt vào như những con cá, đếm xong các thi thể báo cáo: “Tất cả có một trăm bảy mươi ba tên, chết một trăm bảy mươi hai tên. Không tìm thấy ba người bọn họ”.

Tên thủ lĩnh thét lên: “Ô y kỵ các ngươi là Ô y kỵ của An Thanh vương! Tiểu vương gia, ngươi là Lưu Giác! Ngươi, ngươi đã giết sạch tinh binh của thái úy phủ, giết sạch rồi, ngươi, ngươi định làm phản sao?”.

Lưu Giác cười ha hả đến đau cả bụng: “Tiểu vương truy quét sơn tặc sao lại nói là làm phản? Ha ha!”. Lưỡi kiếm vung lên, chiếc đầu đang kêu đứt phăng, chàng thôi cười ra lệnh: “Thu dọn xong, phóng hỏa, đốt!”.

Quay người ra khỏi phòng lớn, Lưu Giác nhắm mắt, nỗi đau trong lòng không hề giảm nhẹ do trận huyết chiến vừa rồi. Chàng mở mắt, ánh nhìn thâm u như bóng đêm, A La chạy đi đâu? Hay là theo con đường nhỏ đi về phía nam?

“Truyền lệnh, bắt đầu từ trấn Thuận Hà phía nam, vẽ chân dung dán cáo thị, lục soát chặt chẽ, thông báo các châu huyện, nói có người bắt cóc tiểu vương phi của phủ An Thanh vương. Người báo tin được thưởng hai ngàn lạng bạc, cứu được tiểu vương phi thưởng một vạn lạng vàng”.

(*) Tu La bắt nguồn từ tiếng Phạn, Tu La nghĩa là thiên thần. Ngoài ra còn có A Tu La là để chỉ các ác thần 

Sáng sớm bầu trời trong xanh, quang đãng. Buổi chầu sớm trong vương cung, Ninh vương mặt gầy gò, đỏ gay do phẫn nộ: “Kẻ nào dám to gan như thế, dám đốt cầu phao?”.

Lý tướng bước ra quỳ phục xuống đất, nước mắt như mưa: “Vương thượng! Không biết kẻ nào đêm qua đã lẻn vảo phủ bắt đi thê tử của thần, phủ An Thanh vương được tin tuy đuổi đến cửa thành phía nam, tặc tử lại đốt cầu phao. Lão phu làm quan nhiều năm, tu nhân tích đức, sao lại gây nên đại họa này!”. Lý tướng làm quan nhiều năm, nhưng cư xử ôn hòa, lễ độ, ngoài việc có người sau lưng gọi ông là cáo già, dĩ hòa vi quý, trong triều ông vẫn được tiếng nhân đức. Nay Lý tướng sầu thảm rơi lệ trước điện rồng, văn võ bá quan ai nấy đều thương cảm, xuýt xoa.

Lưu Giác đứng ra, vén áo choàng quỳ xuống: “Vương thượng, tam tiểu thư của Lý tướng đã hứa gả cho hạ thần. Đêm qua thần lục soát ở ngọn núi lớn phía tây trấn Thuận Hà, phát hiện một toán sơn tặc ẩn náu, cách Phong thành chưa đầy mấy chục dặm mà sơn tặc dám ngang nhiên lập trại. Thần đã đốt sơn trại, nhưng nghe tặc tử nói thất phu nhân và tam tiểu thư bị áp giải về phía nam, xin vương thượng định liệu!”.

Mắt Ninh vương lóe sáng, nụ cười nở trên khóe môi: “Tốt, khanh làm rất tốt! Doãn Chi, bọn sơn tặc này sao có thể dung thứ, để chúng ngang nhiên trước mắt hoàng thành. Quả nhân phong khanh là Bình Nam tướng quân, truy soát các trấn phía nam, vùng phía nam núi nhiều đường sá hiểm trở, gặp sơn tặc quả nhân cho phép khanh tiền trảm hậu tấu! Lý ái khanh chớ phiền lòng, Bình Nam vương nam tiến chuyến này, tất sẽ mang ái nữ bình an trở về”.

Ninh vương nói liền một tràng xong thì hơi thở dốc. Ánh mắt lướt đến Cố tướng và Tử Ly, thấy hai người tỏ vẻ quan tâm, khẽ gật đầu. Dừng một lát, Ninh vương tiếp: “Vương thái úy, Bình Nam tướng quân nam tiến chuyến này, khanh trao cho tướng quân hổ phù lục quân của cánh quân phía nam, từ nay Nam quân sẽ do Bình Nam tướng quân chỉ huy”.

Vương thái úy sững người, lòng còn đang xót xa tiếc đội tinh binh cắm trên núi trá hình sơn tặc bỗng dưng bị giết sạch, giờ Ninh vương lại thẳng thừng tước mất quyền thống lĩnh Nam quân. Nhưng giữa triều, trước bá quan, ông ta sao dám kháng chỉ, đành trình bẩm: “Năm ngoái có tin mật báo nói, Trần quốc ngu xuẩn muốn dấy binh, nay tướng quân Thiên Tường trưởng nam của Cố tướng đang thống lãnh thủy quân Nam quân, tướng quân Vương Liệt thuộc hạ của thần đang cùng Thiên Tường tướng quân vạch định kế sách toàn cục, lúc này thay đổi thống lãnh, sẽ bất lợi cho chiến sự, xin vương thượng xem xét”.

Ninh vương cười ngất: “Ta vẫn nhớ Doãn Chi và Thiên Tường từ nhỏ lớn lên bên nhau, là bằng hữu thân thiết, hai người hợp tác tất không có kẽ hở. Thái úy không cần lo lắng, cứ định như vậy đi. Doãn Chi, ngày mai ngươi khởi hành, lập tức liên hệ với Vương tướng quân. Giám sát chặt chẽ động tĩnh của Trần quốc, đừng quên nhân tiện loại bỏ bọn khấu tặc to gan làm càn”.

Lưu Giác không giấu nổi vui mừng, lớn tiếng đáp: “Thần tuân chỉ, vương thượng anh minh!”.

Ánh mắt của Tử Ly và Cố tướng gặp nhau, cùng lóe cười.

Thái tử mím môi, mặt không biểu cảm.

Sau khi thoái triều, thái tử trở về Đông cung, ngao ngán thở dài: “Phụ hoàng đã bắt đầu bố trí”.

Vương Yến Hồi đang thong thả đọc cuốn sách trong tay, liếc nhìn thái tử: “Binh lực của Ninh quốc, Hữu quân nằm trong tay An Thanh vương, Tả quân lấy Nam quân làm chủ lực. Hôm nay, nửa binh lực đã thuộc về phủ An Thanh vương, nếu cha con Lưu Giác muốn ngôi báu này, e là dễ nhất. An Thanh vương tuổi đã cao, chàng chỉ cần phái Ly Thân vương đến Biên thành phía nam thay thế ông ta, phụ hoàng nhất định chuẩn y”.

“Nhưng nếu vậy chẳng phải đem Hữu quân trao vào tay Tử Ly hay sao?”.

“Binh pháp hiểm chiêu, dùng binh quyền buộc y rời hoàng thành. Chàng là thái tử danh chính ngôn thuận, sau khi phụ hoàng băng hà, thuận theo lẽ chàng sẽ đăng cơ. An Thanh vương bao năm lao tâm khổ tứ thống lãnh Hữu quân. Lúc này để ông ta nghỉ tại gia an hưởng tuổi già, ông ta cũng đâu dễ trao Hữu quân cho Ly Thân vương. Cho dù sau này Ly Thân vương không phục, khởi binh cần vương, cũng còn phải xem ý tứ của An Thanh vương, An Thanh vương cơ mưu vô cùng, sớm đi Biên thành, thái độ mềm mỏng không rõ ràng, Long lệnh trong tay ông ta, ngay phụ hoàng cũng phải kính nể vài phần, không dễ đối phó. Hơn nữa, Cố Thiên Tường cũng chỉ là chỉ huy thủy quân của Nam quân. Nam quân đa phần là người của cha thiếp, Bình Nam tướng quân e cũng không dễ thu phục. Huống hồ, trong tay cha thiếp còn có Đông quân, tuy không bằng Nam quân, nhưng đều là quân tinh nhuệ thực sự. Mà Bắc quân lại ẩn náu trong rừng rậm Hắc sơn, điều này e là ngay cả phụ hoàng cũng không biết”.

Thái tử vừa mừng vừa kinh ngạc: “Ái phi quả nhiên là diệu kế. Ninh quốc có Bắc quân từ khi nào?”.

Vương Yến Hồi cười: “Đó là thân binh của thiếp. Từ nhỏ thiếp đã thích quân sự, cho nên hàng năm xin cha thiếp cấp cho những tinh binh lặt vặt trong quân làm đội quân riêng, lập trại trong rừng rậm Hắc sơn. Bắc quân có hai vạn binh mã, dưới sự điều khiển của thiếp, có thể một địch mười”.

Vương Yến Hồi nghiêm trang nhìn thái tử: “Nghĩa phu thê, hôm nay thiếp nói thật với chàng, từ nay phúc họa cùng chịu, điện hạ chớ phụ lòng Yến Hồi”.

Thái tử thở phào, bao nhiêu phiền não tiêu tan. Đột nhiên hỏi: “Ái phi có thích Lôi Nhi không?”.

Vương Yến Hồi cười thản nhiên: “Tả tướng thiên kim, thiếp đâu dám không thích. Thiếp chẳng qua không thích Lôi Nhi chơi đàn. Nhưng, thiếp rất thích tiểu muội Thanh La, nếu A La là tiểu muội của thiếp thì tốt, nhìn nàng ấy là thiếp thấy vui lòng. Rất muốn sớm tác thành A La với Bình Nam tướng quân, thiếp có thêm tiểu muội, điện hạ cũng có thêm đồng minh”.

A La hoàn toàn không biết triều đình đã có những thay đổi lớn như vậy. Bây giờ nàng là con ốc sên chui trong vỏ, sống thoải mái ung dung trong nhà cùng với thất phu nhân và Tiểu Ngọc. Đồ ăn, đồ dùng trong vòng nửa năm đã chuẩn bị đầy đủ, không cần phải ra khỏi cửa.

Những ngày đầu còn có lính đến gõ cửa, Tiểu Ngọc ra mở, tóc vấn cao kiểu phụ nữ có chồng, váy áo bằng vải thô màu thẫm, mặt vẽ nếp nhăn, già hơn đến chục tuổi. Lính tuần không hỏi nhiều, chỉ giở bức chân dung đối chiếu rồi bỏ đi. A La kéo thất phu nhân vào cửa ngách bí mật đi sang ngôi nhà lớn bên kia, nấp sau hòn giả sơn, đợi lính đi khỏi mới dò dẫm đi ra. Căn nhà lớn chỉ giữ lại bốn người hầu và một quản gia, từ trước A La đã nghiêm cấm những người này không được vào hậu viên. Ngôi nhà lớn không có chủ nhân, hậu viên cũng không ai quét dọn, cửa ngách ngụy trang khéo léo, rất khó nhận ra. Họ đã qua được đợt lục soát ban đầu, về sau cũng không ai đến quấy rầy nữa.

Vậy là A La làm quân bài giấy dạy thất phu nhân và Tiểu Ngọc đánh bài, hàng ngày ăn cơm xong là chơi bài, chơi xong lại ăn, ngủ dậy lại tiếp tục, ba người cứ thế sống rất thoải mái. Chơi chán thì đọc sách. A La thích đọc sách nói về phong tục tập quán các nước, cuốn dư địa chí của Ninh quốc nàng đọc đến nhàu nát. Có lúc thở dài, hồi học đại học chưa bao giờ nàng chăm chỉ như vậy.

Mỗi buổi tối không có việc gì thất phu nhân chong đèn dạy nàng thêu thùa, A La bắt đầu kể chuyện, cổ kim đông tây, phim, tiểu thuyết kịch, truyện cười, chỉ cần còn nhớ, nàng đều kể hết. Thất phu nhân và Tiểu Ngọc say sưa lắng nghe, thường hỏi nàng biết những chuyện đó từ đâu, A La nghĩ đến thế giới hiện đại của mình. Lúc này nàng chẳng có gì cần giữ gìn đối với thất phu nhân và Tiểu Ngọc, nàng hoa chân múa tay thao thao bất tuyệt, hai người tròn mắt nghe, tưởng là đang nghe kể chuyện thần thoại.

Khi ngồi một mình trong sân, A La bất giác nghĩ đến Lưu Giác, không kìm nổi thở dài, không biết chàng ta tức đến thế nào. Nghĩ đến những hồi ức thú vị mỗi khi ở bên chàng ta, lại bật cười. Nàng cũng nghĩ tới Tử Ly, cảm thấy bây giờ ở trong cung có lẽ chàng đang bắt đầu cuộc đấu lâu dài với thái tử. Nhớ đến hai người đó, lòng không khỏi bâng khuâng. Cả hai đều tài mạo xuất chúng, nếu kết hợp làm một, lại không phải là hoàng thân quốc thích, nàng có lẽ cũng thật sự động lòng. Bây giờ, nàng chỉ nghĩ đến cuộc sống tự do sau này, cuộc sống tự mình làm chủ, nên tạm để hai người sang một bên.

Cứ như vậy, năm tháng bình yên trôi qua. A La nói với thất phu nhân và Tiểu Ngọc: “Chúng ta đang ngồi trong nhà ngục do chúng ta dựng nên”.

Thất phu nhân và Tiểu Ngọc không biết có phải do sống âm thầm trong hậu thất tướng phủ đã quen nên không hề thấy buồn chán. Cuối cùng A La nôn nóng không yên, quyết định đi ra ngoài nghe ngóng.

Hôm đó nàng vẫn giả trai, nhưng mặt bôi đen hơn, sải từng bước dài đường hoàng bước vào nhà lớn. Lão quản gia ngây người, vui mừng reo lên: “Thiếu gia đã về”.

Mấy gia nhân lật đật chạy lại, dán mắt nhìn nàng với vẻ vừa lạ lẫm vừa phấn khởi. Nàng thầm nghĩ, thế giới ở đây người dân là tốt nhất, rất thật thà, không so đo tính toán. Nàng cười nói: “Chú Phúc, ta từ miền tây bán xong chuyến hàng trở về. Lâu lắm không đến, chú vất vả rồi”.

Chú Phúc phấn khởi, cười rung râu: “Thiếu gia nói gì vậy. Thiếu gia đi vắng, để cho lão nhiều ngân lượng như vậy, lại còn cho tôi đón cả gia quyến đến chung sống. Chủ nhà như vậy tìm đâu ra”.

A La vừa nói vừa cùng chú Phúc đi vào phòng lớn, khắp nơi gọn gàng sạch sẽ, xem ra ngày nào cũng quét dọn tươm tất, A La rất cảm động. Chú Phúc và người nhà vẫn rất chỉn chu, không vì chủ vắng nhà mà lơ là công việc. A La ngồi vào ghế bành, lập tức có gia nhân mang trà, thái độ cung kính. A La chợt nói: “Ta quên tên các ngươi rồi”.

Cậu bé xấu hổ nói: “Tiểu nhân là Trình Vĩnh, thiếu gia quên rồi sao?”.

Hồi đó A La mua bốn đứa trẻ ở chợ người, chúng đều không cửa không nhà, bị bắt đem bán. Nàng đặt tên cho bốn đứa là “Nhất Lao Vĩnh Dật”(*) đứa nhỏ này tuổi đứng thứ ba tên là Trình Vĩnh, nhìn dán mắt vào nàng. Chú Phúc vỗ đầu nó: “Hư nào, sao lại nhìn thiếu gia chằm chằm như vậy, đi làm đi!”.

A La ngăn chú Phúc, cười: “Nó cũng ít hơn ta hai tuổi, ta mới mười bốn tuổi rưỡi".

Chú Phúc cười híp mắt nhìn A La: “Thiếu gia có ở lại dùng bữa trưa không?”. 

“Được, lâu rồi không đến, hôm nay ở lại đây ăn cơm”. A La muốn nghe chú Phúc và gia nhân kể chuyện Phong thành.

Lúc sau, vợ chú Phúc vào bếp làm một mâm cơm thịnh soạn. Chú Phúc tươi cười nhìn A La ăn rất ngon miệng. Nàng vừa ăn vừa hỏi chú Phúc: “Gần đây Phong thành có chuyện lớn gì không?”.

“Nghe nói An Thanh vương từ Biên thành trở về. Chúa thượng hạ chiếu cho ngài về nhà hưởng hậu phúc, lệnh cho Ly Thân vương đi Biên thành thay thế”.

A La gật đầu, cuối cùng Tử Ly đã nắm binh quyền. Nàng làm bộ vô tình hỏi: “Nghe đồn tam tiểu thư của Lý tướng đã hứa gả cho phủ An Thanh vương bị người ta bắt cóc, đã tìm được chưa?”.

“Ôi dào, thiếu gia, cậu không biết chứ, dạo ấy Phong thành căng thẳng lắm. Người ra vào chỉ cần là con gái hoặc tiểu công tử đều bị tra xét, chân dung, cáo thị dán khắp nơi, treo thưởng một vạn lạng vàng cho ai tìm được. Nghe nói bao nhiêu người dẫn con gái đến tướng phủ nói đó là tam tiểu thư, tất cả đều bị đuổi ra. Nghe nói tiểu vương gia của vương phủ trong cơn thịnh nộ đã lục soát hơn ba trăm ngọn núi dọc con đường cái đi về phía nam, quét sạch mấy chục toán sơn tặc lớn nhỏ”.

“Ô, xem ra tiểu vương gia này rất nặng tình với tam tiểu thư tướng phủ”. A La nghe vậy không nén nổi cảm động. Quan tâm đến nàng như vậy, trên đời được mấy người?

Ở đây chú Phúc đúng là trung tâm chuyện phiếm, những chuyện trà dư tửu hậu nghe được rất nhiều, càng nói càng hào hứng: “Nghe đồn, An Thanh vương gia cũng là người trọng tình, ngài chỉ lấy một vương phi. Tiểu vương gia này thề rằng chừng nào chưa tìm thấy tam tiểu thư, chàng quyết không lấy vợ, sống phải thấy người, chết phải thấy xác! Nghe đâu bây giờ công tử ấy đã được phong Bình Nam tướng quân, chính là bình dẹp khấu tặc phương nam, báo thù cho tam tiểu thư!”.

A La cười khanh khách, thầm nghĩ, e là vì một lý do khác, chàng ta mới làm Bình Nam tướng quân, vậy mà còn viện ra cái cớ mùi mẫn như thế. Nếu mình xuất hiện trước mặt, chưa biết chừng chàng ta xẻ thịt lột da mình cũng chưa hả hết giận. Nàng hỏi chú Phúc: “Vậy bây giờ người ta còn tìm tam tiểu thư nữa không?”.

Chú Phúc lắc đầu: “Đã nửa năm rồi, chắc chắn không cứu được rồi. Lý tướng truyền thống thư hương, tam tiểu thư rơi vào tay bọn khấu tặc, không bị giết chắc cũng tự tận”.

A La động lòng. Ăn xong nói với chú Phúc: “Ta đi loanh quanh trong thành, chú bảo Trĩnh Vĩnh đi với ta”.

Thuê một cỗ xe ngựa, A La cùng Trình Vĩnh ra khỏi nhà, đi thẳng đến cổng thành phía nam. Khi qua cổng thành, nàng vén rèm nhìn ra, thấy người qua lại bình thường, lính tuần đứng phân tán, không tra hỏi ai. Nàng bụm môi cười, lòng nở hoa, bảo Trình Vĩnh, “Ta rất tò mò đối với tam tiểu thư Lý phủ, ngươi chạy đi nhìn xem còn có bức hình nào của cô nương ấy không, để ta ngắm một chút”.

Trình Vĩnh cười: “Không còn từ lâu rồi. Nắng mưa đã làm hỏng hết, chẳng có tin tức gì, cũng không thay cái mới. Chắc tại người đến quấy rầy tướng phủ quá nhiều, làm họ chán nản”.

Trở về nhà, A La đưa cho chú Phúc một tờ ngân phiếu, nói: “Chú Phúc à, lần này ta đi phía nam một chuyến, có lẽ sẽ rất lâu, chỗ này biếu chú để chú chi tiêu trong nhà”.

Chú Phúc liếc nhìn: “Thiếu gia, đây là năm ngàn lượng. Đâu có cần nhiều như vậy”.

A La thở dài: “Chú Phúc à, chú cũng có tuổi rồi, nói thật với chú, ta đi chuyến này có lẽ sẽ không quay lại. Nếu hai năm sau không thấy ta quay về, chú cứ bán ngôi nhà đi, ngân lượng coi như ta biếu chú an dưỡng tuổi già”.

Chú Phúc đỏ mắt: “Thiếu gia, cậu tốt quá. Vợ chồng lão không con cái, ở đây cũng chẳng làm được gì cho cậu. Ngôi nhà lão giữ lại, sau này cậu trở về Phong thành thì còn có chỗ dừng chân. Chỗ ngân lượng này lão chi tiêu tằn tiện là đủ rồi. Chỉ hiềm nỗi, A Nhất, A Lao, A Vĩnh, A Dật chúng nó không có nhà, cậu đừng bán chúng đi”.

A La lại cười: “Chú Phúc à, sao ta lại bán chúng. Giữ chúng ở lại đây, nếu ta không quay lại, chú cưới vợ cho chúng, dạy chúng buôn bán làm ăn. Có lẽ sau này, ta sẽ còn trở lại thăm chúng”.

Chú Phúc nói dứt khoát: “Thiếu gia, chúng tôi chờ thiếu gia trở về. Mặc dù cậu không về nhiều, cũng không ở đây bao giờ, nhưng đây vẫn là nhà của cậu”.

A La cảm thấy chú Phúc và mấy gia nhân thực ra là người tốt, nếu Phong thành không nguy hiểm, nàng đã ở lại đây. Nàng cười nhận lời, lúc đi còn biếu chú Phúc một tờ ngân phiếu lớn, tính tiền mang theo người, vẫn còn hơn hai vạn lạng bạc. Bây giờ phải nhanh chóng đến thành Lâm Nam tìm vú Trương, sau này có cơ hội sẽ rời Ninh quốc, nấn ná ở đây cũng đủ rồi.

Ngày hôm sau, A La, thất phu nhân, Tiểu Ngọc thuê một cỗ xe ngựa rời khỏi Phong thành. Nàng biết Lưu Giác đang ở miền nam, nhưng không ngờ lúc này chàng đang ở thành Lâm Nam nơi nàng sắp đến.

Ra khỏi Phong thành, ba người thở phào nhẹ nhõm, men theo đường cái đi về phía trước. A La vẫn giả trai, ba người vận quần áo vải bố bình thường, giống một gia đình ba nhân khẩu. A La nói đùa Tiểu Ngọc: “Từ nay gọi ta là tướng công! Ngươi là tiểu nương tử của ta”.

Tiểu Ngọc ngoan ngoãn đáp: “Vâng, tiểu tướng công”. A La nghe vậy cười khanh khách.

Giữa Phong thành và Lâm Nam thành có mười đô thành, do nhiều năm không có chiến loạn, lại thêm Lưu Giác dẹp hết khấu tặc trên đường, dân chúng chất phác, trên đường không xảy ra chuyện gì.

Ba người cũng không đến thẳng thành Lâm Nam, đến mỗi thành phố đều dừng lại nghỉ mười ngày, nửa tháng, có lúc ở hẳn mấy tháng, thưởng thức phong cảnh, món ngon, vào đình chùa thắp hương, xem bơi thuyền, chưa kịp đến Lâm Nam thời gian đã mất tới hai năm.

A La đã cao hơn hẳn một cái đầu, vẫn chuyên cần luyện võ karate, do thường xuyên luyện tập, ngoài đầu óc minh mẫn, cơ thể cũng rất săn chắc dẻo dai. Nàng còn dạy thất phu nhân và Tiểu Ngọc tập Yoga, khiến họ thích ăn chay, không thích thịt cá, A La cười: “May quá, tiết kiệm khối tiền!”.

Bây giờ A La đã mười bảy tuổi, hết vẻ vụng về con trẻ. Hai năm du ngoạn bên ngoài, nước da nàng vốn trắng xanh, bây giờ trở nên khỏe mạnh sáng bóng như ngọc. Khi vận nam trang trông nàng tuấn tú khôi ngô, hào hoa khác thường, luôn khiến Tiểu Ngọc ngây người, lao đến ôm chầm kêu lên: “Tiểu tướng công của thiếp”.

A La hỏi thất phu nhân: “Mẹ à, bây giờ trông con có giống tam tiểu thư của tướng phủ không?”.

Thất phu nhân cười: “Giống, mắt không thay đổi, nhưng cao hơn nhiều, trở thành người lớn rồi”.

A La vui lắm, dự định sau khi đến thành Lâm Nam sẽ bắt đầu thể hiện các ngón võ dưới cái tên Trình công tử.

(*) “Nhất Lao Vĩnh Dật”: Thành ngữ, có nghĩa là một lần vất vả an nhàn mãi mãi 

CHƯƠNG 15

Từ đại lục này đi thẳng phía tây, tận cùng là những dãy núi băng tuyết trùng điệp mênh mông. Không ai biết bên kia núi tuyết là gì, cũng chưa ai đến đó. Tuyết tan thành những dòng chảy lớn, dần dần hội tụ thành sông, từ Khởi quốc phía tây, qua Hạ quốc phía tây nam, đến Trần quốc và Ninh quốc, tại vùng giáp ranh giữa Ninh quốc và Trần quốc, dòng sông trở thành biên giới tự nhiên của hai nước, lưu vực rất rộng, đến hai trăm trượng có dư. Thành Lâm Nam lưng dựa vào núi, tường thành quanh co uốn lượn trên núi, bên trên có những chốt hiểm yếu, trông giống như con rồng khổng lồ ôm ấp bảo vệ vững chắc thành trì bên dưới.

Mười lăm đô thành phía đông của thành Lâm Nam xuôi theo hướng Phong thành đều là bình nguyên, vẫn là kho lương thực của Ninh quốc, các nhánh của sông Hán Thủy chảy vào bình nguyên, bồi đắp phù sa cho nơi này trở nên màu mỡ, lại thêm khí hậu ôn hòa, sản vật phong phú, tám phần mười lương thực rau xanh của Ninh quốc đều từ nơi này mà ra. Nếu phá được thành Lâm Nam, có thể tiến thẳng đến mười lăm thành trì kia, tổn thương nghiêm trọng nguyên khí của Ninh quốc. Cho nên tầm quan trọng của thành Lâm Nam không thua kém Biên thành phía tây.

Thành Lâm Nam phía nam, Biên thành phía tây, hai thành trì này là cửa ngõ trấn giữ phía tây và nam của Ninh quốc, giữ vững hai thành này mới đảm bảo an ninh của Ninh quốc. Những vách núi phía đông của thành Lâm Nam tạo nên vịnh cảng tự nhiên, doanh trại thủy quân của Nam quân đồn trú tại đây, cách cổng thành Lâm Nam năm dặm đường thủy, tiến có thể công, lui có thể thủ, lại thêm vị trí hiểm yếu của thành Lâm Nam, đây cũng là nguyên nhân khiến ba nước dọc sông Hán Thủy xưa nay chưa bao giờ dám mạo hiểm vuốt râu hùm Ninh quốc.

Trăng non mới nhú, sao thưa thớt, mây quang đãng, dòng Hán Thủy lặng lẽ chảy về đông. Một đội lính gác bước chân đều tăm tắp, trao đổi khẩu lệnh tiến hành đổi gác. Tại trạm gác trên tường phía tây cổng thành phía nam, có một vị tướng quân trẻ tuổi đang đứng, quân phục màu đen, áo giáp mềm bó sát thân hình cao lớn thanh tú của chàng, ngũ quan như tạc, đôi mắt lạnh, sáng như sao, cặp môi rõ nét mím lại thành nụ cười nhạt. Chàng đưa mắt nhìn về phía nam sông Hán Thủy, ánh mắt như vượt qua mặt sông rộng, dừng lại ở bờ bên kia. Dưới ánh trăng, phía bờ nam có những bóng thuyền sừng sững. Tay chàng vịn vào bờ tường, gõ nhẹ, sóng ào ạt vỗ dưới chân tường, vỗ vào tâm trí chàng.

Ba năm nay Ninh vương ngày càng già yếu, tin báo cho biết người đã nghỉ triều một tháng, việc triều chính do thái tử lo liệu, cục diện Phong thành trở nên căng thẳng. Mà Trần quốc nhiều năm khổ luyện thủy binh, có lẽ là đã chờ đợi thời cơ rất lâu. Khi Ly Thân vương và thái tử bắt đầu cuộc chiến tranh giành vương vị, Ninh quốc có thể phải đối điện với nguy cơ ngoại xâm và nội chiến triền miên.

Không xa, phía sau chàng có mấy người lính hộ vệ vận áo giáp, bịt mặt khẽ bẩm: “Chúa thượng, đêm đã khuya, mời chúa thượng đi nghỉ”.

Nếu là trước đây, chàng sẽ lạnh lùng liếc mắt không thèm để ý, nhưng hai năm nay... chàng khẽ cau mày, với chàng hỉ nộ đã sớm tiêu tan không còn dấu vết, lại nhìn vì sao sáng nhất bên cạnh vầng trăng, trong đầu lại hiện lên hình ảnh một đôi mắt, ánh mắt chàng lại trở nên dịu dàng. Ba năm rồi, A La, nàng sống thế nào?

Hồi đó trong cơn thịnh nộ chàng đã ra lệnh đốt sạch sơn trại ở vùng núi phía tây của họ Vương, lại được chỉ lệnh bình dẹp phương nam, chàng nhất lộ thẳng tiến, truy lùng khắp mọi ngả đường phía nam, nhưng không hề tìm ra dấu vết A La. Tiếp đó, Ly Thân vương Lưu Phi tiếp quản Hữu quân ở Biên thành, thay thế An Thanh vương được lệnh trở về Phong thành dưỡng lão. An Thanh vương mật lệnh cho Lưu Giác, tiếp quản Nam quân, khi Ninh vương chưa băng hà tuyệt đối không được trở về Phong thành.

Lưu Giác bất lực trong tìm kiếm A La, lại không phụ kỳ vọng của phụ thân. Ba năm nay, càng kiên định, quyết đoán mạnh tay chỉnh đốn Nam quân, nửa thu phục nửa thanh trừng, dần dần loại bỏ thế lực của Vương thái úy, nắm chắc Nam quân trong tay, khiến trên dưới một lòng, vững như thép.

Nam quân lúc đầu không phục vị hoàng thân tiểu vương gia này, thoạt nhìn chàng ngoại hình tuấn lãm, vẻ chơi bời phong lưu, nghe đồn do hôn thê bị bắt cóc mới được giao quyền Bình Nam tướng quân, lòng bội phần không phục, thầm rủa xả, một đại quân tinh binh là thế nay lại trở thành sĩ tốt để báo tư thù. Đến khi Lưu Giác truy quét ba trăm ngọn núi giữa mười lăm thành trì từ trấn Thuận Hà đến Cốc thành phía nam, quét sạch mười mấy sơn trại, khiến cho miền nam Ninh quốc sạch bóng khấu tặc, kế sách chu toàn tỉ mỉ, thủ pháp quyết liệt mau lẹ, kiếm thuật tàn khốc vô tình mới khiến cho binh sĩ thần phục. Tiếp theo, thực hiện quân kỷ nghiêm minh, từ đó Nam quân mới trên dưới thuận lòng.

Lưu Giác vẫn đứng ở chốt canh, mặc cho gió sông thổi. Dạo đó, truy tìm các ngả phía nam, không tìm thấy dấu vết của A La, chàng suy đi nghĩ lại, cuối cùng khẳng định A La đã trở về Phong thành. Cáp tổ báo tin, Tử Ly phụng mệnh tây tiến, không thấy A La đi theo, phủ Ly Thân vương và phủ thái tử cũng không thấy tăm tích. Lưu Giác cười, thầm nghĩ, A La nhất định đang ẩn náu nơi nào đó ở Phong thành. Cục thế chưa rõ, tìm thấy cũng không phải là chuyện hay, nếu cưới A La, để nàng lại trong vương phủ ở Phong thành chàng sẽ rất nhớ nhung. Bèn lệnh cho Cáp tổ, khi phát hiện được A La, chỉ cần sai cao thủ bí mật bảo vệ, không cần tiếp cận, tránh khiến nàng kinh động.

Lưu Giác kỳ thực rất khâm phục A La, tuổi nhỏ như vậy mà có thể đưa mẫu thân và nữ tỳ bỏ trốn, lại còn dám phóng hỏa đốt cầu phao, kế hoạch chu toàn, che mắt được bao nhiêu người.

Nhưng ba năm nay không thấy tin tức của nàng, Lưu Giác hơi giận, Phong thành lớn đến đâu? Mỗi khi Cáp tổ bẩm báo không có tin gì, chàng lại sầu muộn vô chừng, rồi lại đắc ý A La có thế trốn lâu như vậy mà không để lộ dấu vết, chàng bỗng càng thêm yêu thích nàng. Mãi đến ba tháng trước, Cáp tổ báo về, có một đôi vợ chồng trẻ cùng bà mẹ đang đi về phía thành Lâm Nam, bà mẹ có ngoại hình rất giống thất phu nhân của tướng phủ, nghi là A La, lúc đó chàng mới cả mừng.

Lưu Anh nhớ rõ, hôm đó chúa thượng nhận được tin báo của Cáp tổ lại uống rất say, một mình uống rượu, múa kiếm trong hậu viên, cười ngất, nói to: “Tử Ly, huynh nói đúng lắm, A La đúng là bảo ngọc. Nàng ấy đến rồi, đến Lâm Nam rồi!”. Đây là lần đầu tiên trong đời, Lưu Anh thấy chủ nhân uống say. Y cố cõng chàng về, Lưu Giác nằm trên giường vẫn còn cười, nhắm mắt, kéo áo Lưu Anh, luôn miệng hỏi: “Lưu Anh, ngươi nói xem, A La gặp ta liệu có bỏ chạy không?”.

Lưu Anh mắt đỏ hoe. Lúc sáu tuổi, rét cóng suýt chết ở ngoài đường, một bát canh thịt đã khiến y tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy Lưu Giác, khuôn mặt đẹp như tạc, tươi hồng như thoa phấn chớp mắt nhìn, tươi cười: “Ngươi tỉnh rồi à? Sau này đi theo ta nhé, nhất định không để ngươi bị đói”.

Lúc đó Lưu Giác mới năm tuổi. Từ đó Lưu Anh luôn ở bên chàng như hình với bóng, lớn lên cai quản Thanh tổ của Ô y kỵ.

Lưu Giác say dường như lại trở về thuở nhỏ, lúc đó, khi bị ốm chàng cũng thường kéo áo Lưu Anh miệng hỏi không ngừng: “Ta nằm mơ thấy mẫu thân, bao giờ phụ thân mới về?”. Lưu Anh nhìn thấy nụ cười buồn ẩn trên khuôn mặt thanh tú của chủ nhân, thầm thề với chính mình, tam tiểu thư kia nếu đã đến thì đừng nghĩ có thể bỏ chạy, mình sẽ tìm mọi cách giữ nàng ta bên cạnh chúa thượng. Lưu Anh ngẩng đầu nhìn tấm lưng thẳng tắp như thanh gươm trong gió lạnh, thử khuyên lần nữa: “Chúa thượng, gió đông rất lạnh, cẩn thận bị cảm, quay về thôi”.

Lưu Giác quay người: “Đi thôi, về uống chén rượu nóng, trời đúng là lạnh quá”.

Từ xa đã nhìn thấy mái cổng cao vút của thành Lâm Nam, Tiểu Ngọc vui sướng reo lên: “Đến rồi, đến Lâm Nam rồi, không biết vú Trương có khỏe không? Gặp thất phu nhân không biết vú sẽ mừng đến mức nào nhỉ?”.

Thất phu nhân cười dịu dàng. Từ khi rời tướng phủ, lòng bà cũng dần trở nên vui vẻ. Hai năm du ngoạn vừa rồi, được ngắm nhìn thế giới bên ngoài muôn màu như vậy, coi như bà đã sống không uổng.

“Tiểu nương tử à, nàng càng ngày càng hoạt bát đấy, ngó nghiêng như thế còn ra thể thống gì, hãy để tướng công nàng tận mắt nhìn nào!”. Rèm xe vừa vén lên, khuôn mặt như tạc bằng ngọc của A La hiện ra. Cử chỉ nàng phóng khoáng đĩnh đạc, chỉ có đôi mắt vẫn lóng lánh như thủy tinh, linh lợi khác thường.

Nhìn thấy thành Lâm Nam sừng sững nguy nga giữa lưng chừng núi, nàng buột miệng nói: “Dựa núi cận sông, địa linh nhân kiệt, thành phố du lịch hạng nhất”.

Thất phu nhân nhìn nàng vẻ trách móc: “Suốt dọc đường ăn ăn uống uống, vung tay quá trán, bây giờ chỉ còn mấy ngàn lạng bạc, còn không mau đi kiếm tiền nuôi nhà, lại chỉ mải chơi”.

A La cười, giơ tay đón bắt những bông hoa tuyết bay lất phất, kéo dài giọng than thở: “Gió ơi, tuyết ơi, Tam Nhi số khổ, phải còng lưng kiếm tiền nuôi cả nhà”.

Tiểu Ngọc và thất phu nhân đã nghe A La kể chuyện Hỷ Nhi và Dương Bạch Lao, lúc đầu chịu bao nhiêu khổ cực, về sau khổ tận cam lai, được hưởng hạnh phúc sung sướng. Khi kể chuyện đó A La bắt chước Dương Bạch Lao vừa nhảy múa vừa lấy sợi dây thừng màu hồng định quấn đầu cho Tiểu Ngọc. Bây giờ nghe nàng uốn giọng như vậy thất phu nhân lại thấy buồn cười mắng yêu A La, trong xe tiếng cười nói đùa vui ồn ào.

Xe đến gần cổng thành thì bị chặn lại, A La thoạt đầu cũng thấy kỳ lạ, nhưng nghĩ đây đã là Lâm Nam gần biên giới Trần quốc, kiểm soát người ra vào thành là đương nhiên, nên cũng thấy bình thường. Nàng đường hoàng nhảy xuống xe, chắp tay nói với lính gác: “Tướng gia, tại hạ là Trình Tinh ở Phong thành cùng hiền nội và gia mẫu về nam thăm người thân, xin cho phép”.

Lính gác vốn mặt sắt, nhưng nhìn thấy vị công tử khôi ngô, nhã nhặn lại hiểu lễ nghĩa, sắc mặt cũng dịu đi nhiều, liền đáp: “Thượng quan có lệnh, phàm là khách vào thành đều phải lưu bút vào sổ, công tử cứ làm theo quan lệ là được”.

A La vung bút, ghi quê quán danh tính, sau đó ba người thuận lợi vào thành. Lòng cười thầm, Phong thành Trình phủ, cho dù đi tra xét cũng không phải là giả mạo.

Có rất đông khách thập phương và thương nhân đi đường thủy đến thành Lâm Nam, trong thành đường sá bằng phẳng, hàng quán san sát, cư dân đông đúc, phồn thịnh náo nhiệt. A La ngồi trong xe trầm tư quan sát. Mấy năm trước nàng đã giao cho vú Trương món tiền lớn, để vú cùng người con trai đến thành Lâm Nam mua nhà, mở quán rượu nhỏ làm kế sinh nhai. Không biết ba người cùng đến thế này, quán rượu ấy liệu có đủ nuôi sống cả nhà hay không.

Rồi nàng lại cười, chuyện đó để đến nơi hẵng hay, bây giờ phải tìm được Thường Lạc tửu quán đã. Theo địa chỉ của vú Trương, xe ngựa rẽ vào một con đường nhỏ, men theo con dốc đi lên, không lâu sau đã nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, một lá phướn màu xanh cắm trên cành cây, trên có hàng chữ Thường Lạc tửu quán. Phu ngựa dừng xe, A La nhảy xuống gọi: “Vú Trương, vú Trương, chúng ta đến rồi!”.

Vú Trương ngồi sau quầy rượu, tóc đã điểm bạc, nhưng đầu óc vẫn tinh nhanh. Vú hồ nghi vểnh tai nghe, sau khi xác định, mặt vụt tươi cười mừng rỡ, từ trong quầy chạy ra. Vừa tới cửa đã thấy một vị công tử khôi ngô, dáng cao ráo đĩnh đạc, ánh mắt tinh nghịch nhìn mình mỉm cười, thất phu nhân được Tiểu Ngọc dìu xuống xe. Ngơ ngác định thần, vú Trương xúc động, mắt đỏ hoe nghẹn ngào: “Phu nhân!”.

Thường Lạc tửu quán tọa lạc giữa lưng chừng núi, lúc này trời vẫn còn sớm, trong quán chưa có khách. Vú Trương vội vàng buông mành, đóng cửa quán, lên tiếng gọi con trai và con dâu.

A La thấy con trai, con dâu vú Trương mặt mũi đều thật thà chất phác, cô con dâu tay dắt một đứa bé trai ba tuổi, mặt mũi có vẻ bướng bỉnh, nàng không nén nổi nói đùa: “Hổ Tử phải không? Sao lớn lên trông như tiểu hổ thế này?”.

Hổ Tử ba tuổi, sợ người lạ, trốn sau lưng mẹ, thò cái đầu bé nhỏ ra, nói: “Thiếu gia là tam tiểu thư thông minh mưu mẹo mà bà nội hay kể phải không? Sao chẳng giống tẹo nào?".

Mọi người cười ồ, A La cũng cười, giơ tay rút cái trâm trong búi tóc, mái tóc dài xổ tung, vẻ con gái lồ lộ. Hổ Tử mắt sáng lên: “A, tiên nữ tỷ tỷ!”.

Mọi người lại ồ lên cười, vú Trương vội đưa ba người vào hậu đường. Ngôi nhà này có ba đình viện riêng rẽ, phía trước là tửu quán, ở giữa là chỗ ở của gia đình vú Trương, xuyên qua vòm cổng hình bán nguyệt lại là một tiểu viện xinh xắn. Vú Trương cười: “Ngày đêm mong mỏi, phu nhân và tiểu thư có hài lòng không?”.

Thất phu nhân chắp tay vái vú Trương: “Mấy năm nay vất vả cho vú quá, đã chuẩn bị chu toàn cho mẹ con Ngọc Đường”.

Vú Trương hốt hoảng đỡ thất phu nhân: “Không dám, phu nhân đã cứu già. Năm xưa nếu không có phu nhân bỏ tiền cứu giúp, già đâu có con cháu nhà cửa đề huề như bây giờ...”.

A La xem xét tỉ mỉ xung quanh, nghĩ đến thằng bé Hổ Tử đáng yêu, trầm tư hồi lâu mới nói: “Vú Trương à, hôm nay chúng ta ở lại đây, ngày mai sẽ tìm chỗ khác. Vú thông thạo Lâm Nam, ngày mai đi tìm giúp ta chỗ mới”.

Vú Trương ngạc nhiên: “Tiểu thư, sao không ở cùng chúng tôi? Tiểu thư chê chỗ này hay sao?”.

A La cười: “Tìm một chỗ khác, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, sẽ không liên lụy cả nhà, ở riêng rẽ mới dễ ứng phó. Ta có rỗi đến tửu quán uống rượu cũng không gây nghi ngờ. Vú nhớ nhé, lần sau chúng tôi đến chỉ là khách bình thường”.

Tối hôm đó, thất phu nhân và vú Trương mấy năm không gặp, giờ được dịp dốc bầu tâm sự. Vú Trương nghe kể, ngậm ngùi, thở dài, lại rơi bao nhiêu nước mắt.

Lưu Giác được tin báo A La đã đến thành Lâm Nam, bề ngoài chàng tỏ ra bình thường, nhưng trong lòng dậy sóng. Lưu Anh không nén nổi, hỏi: “Có cần thuộc hạ đi bắt về không?”.

Bắt về có nghĩa lý gì? Lưu Giác nén nỗi khao khát được gặp mặt nàng, bình thản dặn dò: “Lệnh cho Minh tổ lựa ra mấy cao thủ đi theo bảo vệ nàng ấy, báo cho đội quân ngầm ở cổng thành, nếu thấy nàng ấy một mình ra khỏi thành, chỉ cần bí mật đi theo là được, nhưng không được để nàng ấy đưa cả mẹ cùng đi. Vào thành Lâm Nam nàng ấy còn có thể chạy đi đâu?”.

Lưu Giác thầm nghĩ, ta rất muốn xem rút cục nàng sẽ làm gì ở đây? Nghĩ đến sự mưu trí của A La, lòng chàng lại xao xuyến, môi thoáng nụ cười.

Đã vào giữa đông. Những bông tuyết bay lả tả trên bầu trời thành Lâm Nam, tuyết tan trên mặt đường ẩm ướt, những tầng khí lạnh ngắt trong trẻo bao phủ thành phố, hít thở một hơi, khí lạnh đã xuyên thấu phủ tạng. A La vận chiếc áo bông màu xanh nhạt, mỉm cười tự tin, chậm rãi bước từng bậc đi xuống, dạo chơi trong thành. Những hàng quán lớn nhỏ san sát, chất đầy sản vật phong phú, đồ da của Khởi quốc phía tây, đặc sản của Hạ quốc phía tây nam, đồ tơ lụa của Trần quốc phía nam đều có thể tìm được ở đây, những tửu lầu mái cong sang trọng rải rác xen lẫn những quán rượu nhỏ bình thường. A La thầm đánh giá, du lịch và giao thương đã khiến nơi đây phát triển thịnh vượng, hôm nay ra phố xem lại mới nhận thấy thành Lâm Nam chính là một thương cảng và thành phố du lịch lớn nhất của Ninh quốc.

Sự náo nhiệt của Lâm Nam có một phong vị khác so với Phong thành. Trong thành khắp nơi đều có thể gặp những thương khách và phu bốc vác nói đủ các kiểu khẩu âm. Do đây là thương cảng lớn, mặc dù đang giữa tiết đông hàn, thuyền buôn vẫn qua lại tấp nập. Chỉ có những lính tuần khoác kiếm đi lại khắp nơi mới nhắc người ta nhớ ra đây là một trấn biên ải trọng yếu.

Nàng thong thả đi dạo đến tận cổng thành phía nam, đứng trên bến cảng nhìn ngắm thuyền buôn đang neo trên bến. Thuyền lớn có hai tầng lầu, dài tới hơn hai chục trượng, đã hạ buồm, những cột buồm sừng sững như cây rừng. A La thú vị nghĩ thầm, một chiếc chuyền lớn như thế, phải bao nhiêu người mới chèo được, đi đến gần quan sát, nhìn vào khoang đáy qua những ô cửa hình vuông. Hình dung ra cảnh tượng tráng lệ khi thuyền khởi động, hàng trăm mái chèo nhất tề vung lên đều tăm tắp, bỗng bật cười khoái trá. Từ quán rượu của vú Trương đi ra phố, dạo chơi trên bến cảng cả nửa ngày, ngắm nghía phong cảnh xem chừng rất hay, nhưng kiếm tiền như thế nào nàng vẫn chưa nghĩ ra. Đây là thương cảng sầm uất, mấy nước giao thương trên sông Hán Thủy, nhưng buôn bán A La nghĩ bây giờ mình chưa làm được. Nàng không muốn mở quán ăn kiểu Tố tâm trai làm bà chủ, thực khách qua lại phức tạp, không cẩn thận có khi lại xảy ra chuyện, thậm chí mở phường ca hát vui chơi cũng không khả quan. Nàng còn nhớ, những vũ trường hiện đại đều phải có chỗ dựa, những chốn phong nguyệt của Ninh quốc đều phải lập hồ sơ đi báo quan phủ lập sổ thuế, nàng đương nhiên không thể lập hồ sơ. Huống hồ nhân khẩu ở Lâm Nam phức tạp, nhiều binh lính, có câu “tú tài gặp lính, có lý cũng bằng không”, binh lính làm gì vào những ngày nghỉ? Đương nhiên sẽ đến những tụ điểm giải trí tiêu khiển, nàng không muốn mình phục vụ chẳng may có gì sơ suất, làm phật lòng vị khách nào đó mà bị đập tiệm.

Thong thả trở về nội thành, A La chầm chậm thả bước vừa đi vừa suy nghĩ, suy tính mọi khả năng. Chợt ngẩng đầu nhìn thấy trên ngọn cây đa phía trước cắm một lá cờ phướn, trên viết “Ỷ La tửu quán”, bụng nghĩ cái tên thật là hay, nhìn thấy hai chữ tửu quán, lại thấy bụng đói cồn cào. Nàng nuốt nước bọt, thầm nghĩ mình chưa thưởng thức món ăn ngoài phố của thành Lâm Nam, vậy là rảo bước đến đó.

Tửu quán dựng bên một cây đa to, một dòng thác nhỏ từ sườn núi phía sau chảy xuống, quán dựng theo kiểu nhà sàn, tầng trệt bỏ không, chỉ gồm những cây cột chèn chắc vào vách núi, là kiểu kiến trúc nhà sàn bằng gỗ điển hình ở miền núi. Bên ngoài có hành lang, cửa sổ chạm trổ hoa văn có rèm che bằng giấy lụa, cổ kính giản dị mà trang nhã. Nơi sườn núi có ngọn thác trút xuống cây cối xanh um, lá đa non bóng như được tưới nước, che khuất một nửa quán, vừa kín đáo mà ngồi bên trong lại có thể nhìn thấy cảnh phố phường bên ngoài. A La vừa nhìn đã thấy thích chỗ này.

Những tia nước nhỏ bắn vào áo bông của nàng, nụ cười nở trên môi, A La bước vào. Vừa vén bức rèm vải chắn gió nặng trịch, một làn hơi ấm sực phả ra. Bên trong có lò sưởi, chủ nhà còn cẩn thận ném vào lửa mấy miếng vỏ quýt khô, hương thoang thoảng rất dễ chịu. Trên tường treo mấy bức tranh chữ rải rác, ở một góc lại còn đặt cây đàn, bố trí rất trang nhã, A La hơi hiếu kỳ, không biết chủ quán là người thế nào.

Có lẽ đã quá ngọ, trong quán chỉ có hai, ba bàn có khách. Nàng đi thẳng đến góc quán có cửa sổ ngồi xuống, lát sau một giọng nói thanh thanh nhẹ nhàng vang lên: “Công tử dùng trà hay dùng rượu?”.

A La ngây người ngẩng đầu, một tú nữ tuổi chừng đôi mươi đang tươi cười nhìn nàng.

“Quán này là của cô nương ư?”. 

“Vâng, chính là của Doanh Tú”.

Doanh Tú? A La cười: “Quả là một cái tên đẹp”. Lòng đã thầm có cảm tình với nàng chủ quán, nụ cười tự dưng cũng mặn mà hơn: “Tại hạ lần đầu đến Lâm Nam, có thể phiền Doanh Tú cô nương giới thiệu các món ở đây? Cho vài món đặc sắc nhất, có hoàng tửu chứ? Có thể hâm nóng giúp không?”.

Tim Doanh Tú xốn xang, vị công tử ngồi đây, tuy nói năng nhỏ nhẹ nhưng ngữ khí có gì khiến người khác không thể chối từ, từ lúc nào thành Lâm Nam xuất hiện một vị công tử hào hoa như vậy? So với tảng băng bên cạnh, nụ cười của vị công tử này quả là như hoa mùa xuân, nàng bất giác liếc nhìn sang bên cạnh.

Thấy Doanh Tú thoáng ngây người, A La cũng liếc sang bên cạnh, thầm reo, sao kỳ lạ thế. Người ta nói, long phượng hội tụ hết ở năm vị công tử Phong thành, thành Lâm Nam cũng không kém, đi loanh quanh mấy tửu quán, đã gặp ngay một chàng phong lưu không kém công tử Phong thành.

Dường như cảm nhận được ánh mắt phía bên này, người đó hơi nghiêng đầu, liếc nhìn Doanh Tú, Doanh Tú hơi đỏ mặt, lại khẽ lắc đầu. Người đó lại nhìn A La, cũng hơi ngây người, một công tử có khuôn mặt như tạc bằng ngọc!

Ánh mắt A La và người đó gặp nhau, cảm thấy như có làn khí lạnh phả ra. Nàng khẽ cau mày, tươi cười nói với Doanh Tú: “Bà chủ chắc nghe chưa rõ? Cho xin ba món và một bầu rượu hâm nóng”.

Doanh Tú lại đỏ mặt, vội nói: “Xin công tử đợi chút, Doanh Tú đi chuẩn bị”.

Nàng rảo bước đi về phía quầy, miệng nhanh nhẹn sai bảo người làm. A La bất giác cảm thấy đắc ý, người đẹp kể cũng tốt thật, vừa vào quán ăn đã khiến chủ quán đích thân phục vụ, về nhà mình phải khoe với Tiểu Ngọc mới được.

Lát sau Doanh Tú đón chiếc khay từ tay người phụ việc, đích thân bê ra, nhẹ nhàng nhấc từng đĩa đặt xuống bàn, kèm một bầu rượu hâm nóng, khẽ nói: “Đây là măng đông xào, thịt thỏ hầm, cá sông rán. Đều là đặc sản địa phương, rượu do nhà hàng tự ủ, gọi là Ly nhân túy, mùa đông mới có, sau khi hâm nóng vị càng đậm, dư vị ngấm lâu, công tử chớ tham uống nhiều”.

A La rất đỗi kinh ngạc, Ỷ La tửu quán này, xem ra mình đã không vào nhầm quán, nàng bỗng càng thêm hứng thú đối với Doanh Tú, hỏi: “Bà chủ nếu không bận có thể giới thiệu với tại hạ cái hay của đặc sản bản địa không?”.

Mắt Doanh Tú ánh lên nụ cười, ánh mắt Lại vô tình đánh sang bàn bên cạnh, nàng mỉm cười: “Chỉ e quấy rầy nhã hứng của công tử”.

“Quý công tử đây đã mời, lại lần đầu tới thành Lâm Nam, nếu không chê, xin cho phép tại hạ hầu chuyện công tử”.

A La liếc nhìn, anh chàng đẹp trai lạnh như băng xen lời. Lại lướt nhìn khuôn mặt ửng hồng của Doanh Tú, thầm nghĩ, xem ra bà chủ này có tình ý với vị công tử mặt lạnh như băng kia, chỉ có điều không biết người này xen vào là có ý gi, liền cười nói: “Tốt quá, tại hạ lần đầu đến Lâm Nam, không biết, thì ra người ở đây đều nhiệt tình như vậy”.

Lời nàng vừa dứt, Doanh Tú mặt càng đỏ tợn, vội vàng nói: “Xin hai vị tự nhiên, Doanh Tú còn bận chút việc”. Nói đoạn rảo bước quay ra.

Chàng công tử có khuôn mặt lạnh như băng ngồi xuống, nói: “Tại hạ là Cố Thiên Tường, không biết đại danh của công tử là gì?”.

A La giật mình, thì ra chàng ta chính là một trong ngũ đại công tử Phong thành, con trai của tả tướng đương triều Cố Thiên Tường! A La chưa bao giờ gặp, thì ra chàng ta đã đến Lâm Nam. Nàng chuyển hướng suy nghĩ, nói: “Tại hạ là Trình Tinh, người Phong thành, đến Lâm Nam thăm người thân, lần đầu đến đây. Mấy món ăn này không biết có gì đặc sắc, xin công tử chỉ giáo”. Nói xong cầm đũa gắp ăn, lại rót rượu uống. Vị cay lan tỏa, hương thơm nồng nàn, bụng càng thêm đói, nàng ăn liền mấy miếng. Đột nhiên thấy không ổn, vội ngẩng đầu nhìn anh chàng tảng băng, cười: “Dạo chơi Lâm Nam cả ngày, đói quá, công tử cũng dùng đi? Ta vừa ăn vừa nói chuyện”.

Cố Thiên Tường cũng không từ chối, tự rót rượu cho mình, nói chậm rãi: “Loại măng đông này không dễ hái, măng mùa đông không trồi lên mặt đất, phải là người miền núi có kinh nghiệm mới tìm được, người không biết đào cả ngày cũng không được một cây. Nghe nói có một cách, đó là nhìn bóng tre, cứ từ ngọn tre chiếu thẳng xuống đất sẽ có măng, nhưng không phải ngọn nào cũng có măng. Măng mùa đông ăn vừa giòn vừa thơm, xào chay là hạng nhất”.

A La liên tục gật đầu, lại ăn thêm mấy miếng măng, quả thực vừa giòn vừa ngọt, nghe chuyện thấy thú vị quá, lòng càng hưng phấn, mời Cố Thiên Tường một chén rượu, lại tiếp cục tròn mắt nghe chàng ta nói.

Ánh mắt Cố Thiên Tường chạm mắt A La, bỗng ngẩn người, cảm thấy đôi mắt có phần quen quen, nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Chàng quay trở lại câu chuyện, nguyên do, thứ nhất là chàng thầm khen sự phong lưu của nhân vật A La này, hai là gần đây hai nước Ninh Trần cục diện căng thẳng, nghe người này nói lần đầu tới Lâm Nam, trong lòng có phần cảnh giác. Chàng uống một ngụm rượu lại tiếp: “Thịt thỏ chỗ nào cũng có, nhưng món thịt thỏ ở Lâm Nam đặc sắc vô cùng. Muốn bắt được thỏ hoang trên núi quả không dễ, chúng nhỏ hơn thỏ thường, tìm thấy hang của chúng cũng không dễ bắt, trước tiên phải đánh dấu rồi đốt lửa xung quanh, giăng lưới ở cửa hang trong cùng, mới bắt được. Nếu lúc bủa vây hang mà làm nó kinh động, lưới còn chưa kịp chăng, nó đã phi như tên bắn ra ngoài chạy thoát. Cho nên nhìn chung phải hai, ba người phối hợp mới được”.

A La cười: “Thì ra, con thỏ xảo quyệt có đến ba cái hang, không biết người quen luyện võ như công tử đây, liệu có dễ dàng bắt được thỏ hoang?”.

Cố Thiên Tường giật mình, thầm nghĩ, lẽ nào chàng ta nhận ra mình, biết mình luyện võ công. Chàng sinh nghi, thầm nhủ, nói năng phải cân nhắc kỹ mới được. Chàng thản nhiên nói: “Nếu Thiên Tường đi bắt thỏ, dù chúng có xảo quyệt đến mấy, cũng không thể chạy thoát”.

A La cảm thấy lời chàng ta có ẩn ý, nhưng lúc này chưa nghĩ ra, cười nói: “Cố công tử đi bắt thỏ quả thật là dùng dao mổ trâu đi giết gà rồi. Còn món cá sông rán này có gì đặc sắc?”.

Thấy lời thăm dò của mình bị A La nhẹ nhàng hóa giải, Cố Thiên Tường lại càng sinh nghi, vị công tử có khuôn mặt như ngọc tạc, phong độ hào hoa mã thượng này rút cục là người thế nào? Chàng nhiều năm sống trong quân doanh, tự thân toát ra vẻ lạnh lùng, sát khí, người bình thường bị ánh mắt lạnh băng của chàng liếc một cái đã sợ run, nói không ra lời. Vị công tử này có đôi mắt sắc long lanh, rất có hồn nhưng rõ ràng không có nội lực, chàng ta từ đâu đến, lại cơ hồ không sợ uy vũ áp chế của mình.

Cố Thiên Tường rắp tâm tìm cho ra bí mật, nói tiếp: “Loại cá sông nhỏ này còn gọi là cá trong khe đá, không thể đánh bằng lưới, phải đợi đến tối, tìm chỗ nước nông, soi đèn, nhân lúc cá chui vào khe đá nghỉ, nhanh tay chộp từng con. Thân nó rất trơn, ban ngày rất linh hoạt, lại chỉ bé bằng ngón tay, nên rất khó bắt”.

A La “ồ” một tiếng, đầy ngạc nhiên. Cố Thiên Tường này rất am hiểu thành Lâm Nam, cũng là người rất tinh tế, nếu không sao lại chú ý cả những chi tiết vụn vặt như vậy. Thấy chàng ta đã nói xong, thức ăn cũng đã ăn kha khá, nhưng Cố Thiên Tường dường như chưa có ý định đứng lên. Chàng ta nhận ra mình rồi sao? Rõ ràng không thể, trước đây hai người chưa từng gặp, hơn nữa, bức họa cũ lại không phải là ảnh, liệu có giống không? A La không biết động cơ nào khiến chàng ta muốn kéo dài câu chuyện với mình, nhưng chàng ta chỉ huy lực lượng thủy quân của Nam quân, ắt có lòng kiên nhẫn. A La cũng cảnh giác, thấy chàng ta chưa có ý muốn ra về, cũng bắt đầu kể những món ngon, toàn là tiệc măng, các cách chế biến thịt thỏ, những bữa tiệc cá, các cách chế biến phối với ba món này, nàng nói say sưa hào hứng thao thao bất tuyệt.

Cố Thiên Tường càng nghe càng kinh ngạc. Trình Tinh này tuổi chưa quá mười bảy, nhưng hình như lại hiểu biết rất rộng, nghe những yến tiệc và món ăn vừa kể, dường như không phải ai cũng được ăn. Chàng thận trọng hỏi: “Tiểu huynh đệ hình như đã đi rất nhiều nơi, hiểu biết sâu rộng, thật khiến tại hạ khâm phục!”.

A La thầm nghĩ, nếu ta kể những món ăn của “Mãn Hán toàn tịch” cho chàng ta nghe, từ đồ ăn, bát đĩa, đến nguyên liệu chế biến, chắc chàng ta sẽ nảy con ngươi ra ngoài mất. Ta chẳng phải hiểu biết sâu rộng gì, ta chỉ sống hơn anh hai mươi năm thôi. Nàng khẽ cười, nói tiếp: “Tại hạ tính có phần háu ăn, một số món cũng chỉ nghe nói, chưa được nếm, nói với huynh cho vui thế thôi”.

“Tại hạ rất thích nghe công tử kể những chuyện thú vị như vậy, không biết công tử có vui lòng ngồi thêm với tại hạ lúc nữa không? Trong khung cảnh ấm cúng thế này, được gặp công tử tài mạo tót vời, lời lời châu ngọc quả là thú vị”.

A La nghĩ, nếu không biết thân phận của anh, tôi đã bỏ đi rồi, bây giờ thì không dám. Đằng nào cũng chỉ là kể chuyện, chuyện kể ấy à, tôi có vô khối, ngàn lẻ một đêm cũng không kể hết, chưa biết chừng chuyện trò vui vẻ, lại biết thêm tình hình của Lâm Nam. Lúc này A La và Cố Thiên Tường bắt đầu thi nhau kể, trên trời dưới bể, phong tục, đặc sản các nước, không thiếu chuyện gì.

Cố Thiên Tường càng nghe mắt càng mở to, vẻ lạnh lùng trong mắt đã bớt vài phần, thay vào đó là sự hiếu kỳ và khâm phục. Bất luận chàng nói ẩn ý thế nào, A La cũng thản nhiên nhìn thẳng vào mắt chàng, chàng thầm nghĩ, Trình Tinh này hiểu rõ phong tục tập quán của Phong thành như lòng bàn tay, tiếng Phong thành nói rất thạo, Cố Thiên Tường cuối cùng tin Trình Tinh không phải là gian tế của địch quốc, cười sảng khoái: “Tiểu huynh đệ, thật là có duyên với nhau, không biết tiểu huynh đệ còn lưu lại Lâm Nam bao lâu, ta sẽ thường xuyên đến đây nói chuyện uống rượu với đệ”.

A La uống Ly nhân túy vào cũng có phần chếnh choáng, cười thầm, tùy anh thôi, từ công tử biến thành tiểu đệ. Cố Thiên Tường vừa nói vài câu đã hỏi ngay tình hình Phong thành, rõ ràng muốn thăm dò có đúng nàng là người Phong thành. A La nghĩ đến địa chỉ đã ghi sổ đăng ký lúc vào thành Lâm Nam, bụng nghĩ, chắc chàng ta không thể coi mình là gian tế . Lúc này Cố Thiên Tường đã hết nghi ngờ, hai người nói chuyện càng thoải mái tự nhiên.

Khi Cố Thiên Tường lòng đã hết nghi ngờ, ngoài chuyện quân sự tuyệt đối không đả động, càng nói lại càng thích những kiến giải mới mẻ cởi mở của A La. Nhìn trời, thấy đã hơi muộn, chàng chắp tay, nói: “Thiên Tường đang có việc, cáo từ trước, nếu có thời gian sẽ lại cùng tiểu huynh đệ uống rượu nói chuyện cho vui”.

ALa cười đáp lễ, cũng đứng lên ra về.

Trong phủ tướng quân, thành Lâm Nam, Lưu Anh khẽ bẩm báo: “Tam tiểu thư đi dạo cả ngày trong thành, lại đứng ở bến cảng phía nam nhìn ngắm rất lâu”.

Lưu Giác trầm ngâm một lát, nói: “Định đi đường thủy hay sao?”.

“Nhìn rất lâu nhưng không thấy hỏi thăm ai”.

“Sau đó?”.

Lưu Anh có vẻ chần chừ, Lưu Giác quay đầu khẽ hỏi: “Có cần ta hỏi lần thứ hai không?”.

Lưu Anh vội đáp: “Giờ Ngọ ba khắc đi vào Ỷ La tửu quán gặp Cố Thiên Tường tướng quân, ngồi cùng bàn uống rượu, nói chuyện rất vui. Giờ Dậu mới về, tướng quân Thiên Tường trở về quân doanh, tam tiểu thư trở về Thường Lạc tửu quán”.

A La quen Cố Thiên Tường từ lúc nào? Tùy tiện nói chuyện với đàn ông như thế đâu có giống khuê nữ danh gia! Lưu Giác hơi ghen, mỉm cười hỏi: "Với nhãn lực của Thiên Tường, mà lại không nhận ra nàng ấy là gái?”.

“Chuyện này...”. Lưu Anh lúng túng.

Lưu Giác hỏi: “Nàng ấy thay đổi nhiều lắm sao? Cáp tổ đã vẽ lại chân dung, thấy mặt mũi đầy đặn hơn, mắt vẫn như trước, nếu không đã không nhận ra”.

“Chúa thượng, nghe Minh tổ báo, dáng diệu của tam tiểu thư không khác đàn ông bao nhiêu, mùa đông mặc áo rộng, không để lộ cổ, lại thêm tuổi còn trẻ, người không biết cũng không dễ nhận ra”.

Lưu Giác thở dài: “Biết rồi, cứ bí mật đi theo. Nếu nàng lại gặp Cố Thiên Tường nữa, lệnh cho Minh tổ đứng xa một chút, nhớ đừng để Thiên Tường phát hiện”. Chàng đăm đăm nhìn ra cửa sổ, một cây mai đang nở hoa, bên cạnh là khóm thủy tiên đung đưa, còn có cả mấy cây hải đường rất to, do được sưởi ấm hoa nở rộ, hương thơm sực nức. Chàng nhớ năm xưa A La đang ngắm cảnh, bị chàng quấy rầy nàng đã nổi giận, có lẽ nàng rất yêu hoa. Trước khi rời Phong thành chàng đã đến thăm Đường viên, nhìn thấy khóm hải đường trước sân. Lý tướng nước mắt lã chã nói với chàng, A La sáu tuổi đã biết đọc câu thơ “Hải đường bất tích yên chi sắc, độc lập mông mông tế vũ trung”. Nàng chắc cũng yêu hoa hải đường. Chàng thẫn thờ một lát rồi sai Lưu Anh: “Ngươi đến doanh trại thủy quân tìm Thiên Tường tướng quân, nói là ta mời tướng quân xong việc đến phủ uống rượu”.

Khi Cố Thiên Tường đi vào sân, thấy trước mặt sáng rực. Trong sân treo rất nhiều đèn lồng, lại còn đốt mấy lò sưởi, những cây hoa hải đường được sưởi ấm càng thêm thắm sắc, trong ánh sáng màu hồng huyền ảo lung linh, những cánh hoa thắm rực như cháy, Lưu Giác lơ đãng đứng dựa vào thành ghế uống rượu.

Chàng bước nhanh vào, ngồi xuống bên khóm hoa, tự rót rượu cho mình. Rượu vừa vào miệng, chàng cau mày, bật hỏi: “Ly nhân túy ư? .

Lưu Giác ngạc nhiên nhướn mày: “Hiếm có! Cố công tử đến chơi, lần đầu tiên thấy công tử chủ động cất lời!”.

Cố Thiên Tường lạnh lùng liếc Lưu Giác: “Tưởng ta không biết ư? Thì ra là thuộc hạ của huynh, ta còn tưởng là người của Trình Tinh kia”.

Lưu Giác cười nhạt: “Đã biết là không giấu nổi đệ, bọn thuộc hạ này đến là ngu, nhìn thấy đệ cũng không tránh đi”. Cố Thiên Tường không nói gì, thầm nghĩ, Lưu Giác cho người theo dõi Trình Tinh là vì lẽ gì?

“Cho người tiếp cận cũng có cái hay. Bọn chúng hồi báo, chiều nay Thiên Tường tướng quân cười sáu lần cả thảy!”. Lưu Giác bỗng ngồi thẳng lưng, trợn mắt một cách khoa trương, huơ huơ tay trước mặt Cố Thiên Tường, “Thiên Tường, một năm nay chưa thấy đệ cười, một buổi chiều đã cười hết phần của cả năm. Sao ta không thể mua Ly nhân túy về thưởng thức, xem rượu ngon đến đâu? Chà chà, sáu lần! Đệ đã cười tới sáu lần”.

Cố Thiên Tường nghiêm mặt, đôi mắt nghiêm lạnh thoáng cười, Lưu Giác là thế, khoa chân múa tay khiến chàng phì cười. Chàng không trả lời, uống một hơi cạn ly. Rượu này thú vị thật, sau khi hâm nóng càng thơm phức, chàng bất giác hâm mộ Lưu Giác rất biết hưởng thụ, giữa tháng đông hàn mà vẫn ươm được hoa nở đẹp thế này.

“Giữa tiết đại hàn muốn có được những bông hoa này phải mất chút công sức. May mà nó nở, rút cục là được sưởi ấm nên nó đã nở”. Lưu Giác nheo mắt nhìn những đóa hoa nở rực, khẽ nói.

Cố Thiên Tường cũng không nói gì, lặng lẽ nhấp từng ngụm Ly nhân túy. Hồi nhỏ chàng và Lưu Giác được học hai năm cùng với các hoàng tứ, Lưu Giác hoạt bát hiếu động, chàng trầm lặng ít nói. Do thân phận khác nhau, chàng vẫn nhớ lời dặn của cha, nhưng lòng thầm ngưỡng mộ tính cách quyết liệt, muốn làm là làm của Lưu Giác, lại thêm Lưu Giác nhiệt tình, chàng tình nguyện làm bạn với chàng ta, hai người quan hệ rất tốt. Bây giờ lại cùng đồn trú ở thành Lâm Nam, thỉnh thoảng lại cùng nhau uống rượu chuyện phiếm, cũng tiêu diêu thoải mái. Thiên Tường vốn ít nói, Lưu Giác nói nói cười cười, không có ai ngồi cùng, cũng tự thấy vui. Hai người thường ngồi với nhau, cũng đã quen cảnh một người nói luôn miệng, một người lầm lì không nói.

“Chà, Ly nhân túy này quả nhiên là rượu ngon, tên cũng hay! Huynh đã hơi chếnh choáng rồi. Thiên Tường, hôm nay đệ gặp người đó, nói những chuyện gì, sao lại cười tới sáu lần?”.

Lưu Giác cuối cùng không nhịn nổi, mở miệng.

Lưu Anh đứng hầu một bên, nghe vậy thầm thở dài, chỉ cần liên quan đến tam tiểu thư là chúa thượng cơ hồ khó kìm chế, bề ngoài vẫn bình thường, trong lòng lại nôn nóng đến vậy. Quả nhiên, Cố Thiên Tường không trả lời, vẫn thong thả uống rượu, lúc lâu sau mới chậm rãi cất lời: “Huynh thích đàn ông?”.

Lưu Giác bị sặc rượu, khuôn mặt tuấn tú đỏ hồng. Chàng phải vận nội khí mới hết sặc, liếc xéo Cố Thiên Tường: “Phải, đôi mắt ấy rất giống A La”.

Cố Thiên Tường cau mày. Ba năm trước, nghe nói tiểu vương phi tương lai, tam tiểu thư tướng phủ bị bắt đến phương nam, Lưu Giác phẫn nộ đã quét sạch sơn tặc dọc đường, lại còn âm thầm ở trong quân doanh, không chịu trở về Phong thành, nơi gây ra vết thương lòng. Bây giờ xem ra tình hình càng thêm nghiêm trọng, ngay đến chàng trai có đôi mắt giống cô nương đó cũng không bỏ qua. Thảo nào, lúc chiều chàng luôn cảm thấy Trình Tinh rất quen, thì ra đôi mắt hơi giống người trong tranh. Chàng trầm ngâm một lát, cuối cùng mở miệng: “Trình Tinh đó không phải là gian tế, lại có vẻ xuất thân danh gia, nói chuyện rất hay, e là huynh chẳng làm gì người ta được đâu”.

“Đúng thế, đi theo mãi, cũng không nghĩ ra có nên ra tay không”. Lưu Giác nhìn những đóa hải đường nở rộ, rung rinh trong gió, thản nhiên nói.

Cố thiên Tường lại nghĩ tới Trình Tinh, tự dưng cảm thấy tiếc, sao vị công tử đó lại xúi quẩy có đôi mắt giống A La. Chàng bất giác khẽ thở dài.

“Đệ cũng biết thở dài ư? Đệ chịu cười với người ấy, thở dài vì ngươi ấy, mới quen đã như vậy, đệ sẽ không tranh giành với huynh chứ?”. Lưu Giác nói đùa.

Lưu Giác lại có thể quan tâm đến thế sao? Cố Thiên Tường không tin vào tai mình. Đằng nào thì chàng cũng cười rồi, thở dài rồi, sao không thể khiến Lưu Giác ngạc nhiên? Chàng lạnh mặt: “Tranh giành cũng chẳng sao, đằng nào lâu lắm chúng ta không đánh nhau”.

Lưu Giác ngớ người, bàn tay nắm lại, ly rượu trong tay sóng sánh, chàng uống một hơi cạn ly. Cố Thiên Tường cảm thấy buồn cười, lại có vài phần rầu lòng, Lưu Giác mặc dù hơn chàng một tuổi, nhưng từ nhỏ chính chàng lại chăm sóc chàng ta nhiều hơn. “Trình Tinh kia có ngũ quan như tạc bằng ngọc, thần thái tự nhiên, nói chuyện rất thoải mái, khó mà gặp một nhân vật như vậy. Người này có vẻ biết rất nhiều những chuyện ly kỳ mà đệ chưa biết, thật khiến người ta kinh ngạc”.

“Đây là lần đầu tiên huynh thấy đệ đánh giá người khác nhiều như thế, hơn nữa lại chỉ thấy khen ngợi”. Lưu Giác có vẻ khó chịu, chàng không biết vì sao, rất muốn nghe tin tức về A La từ Cố Thiên Tường, nhưng nghe xong lại thấy khó chịu.

“Đang định đi thăm cậu ta, uống rượu chuyện phiếm”. Cố Thiên Tường lạnh lùng đổ thêm dầu vào lửa.

Lưu Giác thầm “hừ” một tiếng, cười ranh mãnh: “Ồ, nhân tiện báo với đệ, người ta trú ở Thường Lạc tửu quán phía tây thành”. 

Cố Thiên Tường cảm thấy có gì rất kỳ khôi, lúc này Lưu Giác bực mình mới phải, tại sao lại tựa hồ khuyến khích chàng đến gặp người đó. Chàng lẳng lặng uống nốt rượu trong ly, đứng lên nói: “Cũng muộn rồi, đệ về quân doanh đây”.

Lúc Cố Thiên Tường quay lưng trở ra, Lưu Giác mỉm cười nói nhỏ với chàng: “Giai nhân của rượu Ly nhân túy lúc này có lẽ lại đang chơi đàn. A, tuyết rơi rồi, Lưu Anh nhớ mang ô cho Thiên Tường tướng quân”.

Lưu Anh không nhịn được cười: “Cố tướng quân, xin mời!”. Cố Thiên Tường lưng chợt cứng lại, mặt thoáng sa sầm.

Lưu Giác lại cười: “Tướng quân mặt lạnh tim nóng ơi, thích thì thích, có gì mà ngại không nói”.

Thiên Tường giậm chân, tức giận lườm Lưu Giác, nghiêm mặt rời Lưu phủ.

Lưu Giác cười ngất, cảm thấy trong lòng dễ chịu đôi chút. Những bông hoa tuyết li ti mỗi lúc một dày, chàng ngồi lặng hồi lâu rồi lẩm bẩm một mình: “Ngày mai trời lạnh, không biết Thường Lạc tửu quán có rượu ngon hâm nóng hay không?”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#leehom