Đề cương chuyên ngành báo in- Tùng Anh đại ca.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐỀ CƯƠNG CHUYÊN NGÀNH BÁO IN 2012

Câu I. Bản chất xã hội của truyền thông

.

1

Câu II. Điều kiện ra đời và phát triển của báo chí

2

Câu III. Đặc diểm của báo chí hiện đại

2

Câu IV. Bản chất của hđ báo chí

5

Câu 5: Các chức năng cơ bản của báo chí ?

.

6

Câu 6: Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động báo chí ?

.

11

Câu 7. Vấn đề tự do báo chí

12

Câu 11: Các phương pháp thu thập, xử lý thông tin dữ liệu của nhà báo ?

15

Câu 12: Tác phẩm báo chí – các yếu tố nội dung và hình thức; tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí:

19

Các yếu tố nội dung của tác phẩm báo chí

20

Các yếu tố hình thức của tác phẩm báo chí

24

2. Tiêu chí đánh giá chất lượng tác phẩm báo chí

29

13. Đặc điểm, quy trình và phương thức làm tin

.

29

Phương thức làm tin

.

33

Quy trình làm phỏng vấn; các yếu tố quyết định chất lượng bài phỏng vấn ?

35

1. Phỏng vấn là gì ?

.

35

2. Đặc điểm của thể loại phỏng vấn

.

36

3. Các dạng phỏng vấn

.

37

Quy trình làm phỏng vấn:

38

1. Đáp ứng nhu cầu  thông tin thời sự

.

39

2.  Nhân vật trả lời phỏng vấn đúng, trúng

.

39

3.  Đảm bảo chiều sâu và tính “độc quyền” trong thông tin

.

40

4.  Thể hiện tính đối thoại, phản biện

.

40

5.  Thể hiện được dấu ấn của người hỏi và trả lời

40

Câu 4: Đặc điểm nhận diện, phân tích quy trình làm Phóng sự?

.

40

CâuI. Bản chất xã hội của truyền thông

1. Truyền thông là hoạt động thông tin – giao tiếp

- Thông tin trong truyền thông chủ yếu là cung cấp sự kiện và vấn đề, kỹ năng và kinh nghiệm mà chủ thể và khách thể quan tâm hoặc liên quan đến mục đích truyền thông, thông qua dó làm cơ sở cho việc mở mang hiểu biết, thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi cho công chúng tiếp nhận và cho chủ thể truyền thông theo chủ định của nhà truyền thông và đáp ứng nhu cầu người tiếp nhận, công chúng.

- Giao tiếp xã hội: Cần có diễn đàn và môi trường tương tác. Giao tiếp trong truyền thông thể hiện ở các cấp độ khác nhau: Liên cá nhân, gđ, nhóm và đại chúng. Điều kiện: Cần và đủ

+ Cần: Năng lực, trình độ và phương tiện giao tiếp (phụ thuộc vào trình độ phát triển xh về con người, văn  hóa, kỹ thuật và công nghệ truyền thông).

+ Đủ: Môi trường chính trị - vh – xh của giao tiếp. Nền chính trị dân chủ, công khai minh bạch sẽ tạo điều kiện và kích thích giao tiếp thông tin truyền thông, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân chia sẻ thông tin, tư tưởng, tình cảm,  nguyện vọng, phát huy năng lực tư duy sáng tạo và tham gia góp phần vào công việc chung liên quan đến lợi ích của họ. Nền chính trị chuyên quyền độc đoán, bưng bít thông tin để trục lợi theo nhóm sẽ hạn chế năng lực sáng tạo cá nhân của con người. Thực tiễn chứng minh xh nào có chế độ chính trị ưu việt, đề cao con người và sức sáng tạo của con người thì sẽ nhanh chóng phát triển và bền vững ngược lại sẽ phát triển chậm và tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ.

2. Truyền thông là phương tiện và phương thức liên kết xã hội

- Thông qua thông tin, giao tiếp xã hội thì truyền thông là phương tiên và phương thức liên kết xh hiệu quả nhất. Ví dụ: Đơn thuần truyền thông nội cá nhân cũng có thể biểu hiện tính liên kết của truyền thông: Cá nhân thực hiện truyền thông nội cá nhân phụ thuộc vào điều kiện giao tiếp, trình độ, tư chất, năng lực tư duy, nhưng nhân tố này phần nhiều do môi trường giáo dục- xh tạo ra. Tính liên kết được thể hiện rõ hơn ở truyền thông liên cá nhân, nhóm, đại chúng.

- Liên kết xh là phương thức khơi nguồn và khai thác, phát huy nguồn lực sức mạnh mềm của cộng đồng, quốc gia hay khu vực, quốc tế nói chung. Dư luận xh, niêm tin của công chúng, nhân dân là sức mạnh mềm; nhận thức, năng lực sáng tạo, thái độ, cảm xúc của con người và nhân dân nói chung là sức mạnh mềm của mỗi quốc gia. Khác với tài nguyên cứng, tài nguyên mềm càng biết khai thác càng sinh sôi nảy nở. Hai loại tài nguyên này khó có thể thay thế cho nhau.

3. Truyền thông là phương tiện và phương thức can thiệp xã hội

- Mọi vấn đề xh đều do con người tạo ra và giải quyết. Thông qua phương tiện và dạng thức truyền thông, thông điệp truyền thông tác động vào nhận thức, thái độ, hành vi xh của đông đảo công chúng, giúp công chúng có thêm thông tin và giải quyết vđ hiệu quả hơn.

- Ngay cả những vấn đề phòng chống tội phạm, ngăn ngừa chiến tranh, giải quyết xung đột trên mọi phạm vi đều có thể can thiệp hiệu quả bằng truyền thông.

- Mặt khác, báo chí -  truyền thông có khả năng dự báo, cảnh báo rủi ro, khủng hoảng giúp hoạch định chính sách và tiên liêu phương pháp giải quyết vđ.

- Truyền thông đại chúng là phương tiện hữu hiệu trong giám sát và phản biện xh, phản ánh tâm tư, nguyện vọng và thể hiện xh của cộng đồng, từ đó tạo nên sức ép xh bằng dư luận trong quá trình tìm kiếm giải pháp cho các vđ kt, ct, vh, xh.

Câu II. Điều kiện ra đời và phát triển của báo chí

1.

Nhu cầu thông tin, giao tiếp của con người, xh

2.

Sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ truyền thông

3.

Cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng trên thế giới-> sự ra đời của báo chí

4.

Điều kiện kinh tế: trình độ phát triển kinh tế, mức sống, giao lưu thương mại.

Câu III. Đặc diểm của báo chí hiện đại

1. Thông tin thời sự

Báo chí thông tin sự kiện và vấn đề đã và đang xảy ra, có ý nghĩa xh và được nhiều người quan tâm. Là những sự kiện công chúng muốn biết, cần biết nhưng chưa biết, hoặc những sự kiện lãnh đạo cần thông tin cho công chúng để thực hiện mục đích chính trị. Sự kiện đã xảy ra từ lâu, nhưng nay mới biết hoặc xảy ra lâu nhưng mang ý nghĩa thời sự, thời cuộc.

2. Tính công khai của thông tin báo chí

- Trong thời đại truyền thông số và toàn cầu hóa, thông tin bao chí không chỉ tác động đến mọi tầng lớp dân cư trong xh, mọi vùng miền trong cả nước và thế giới. Báo chí tác động đến quảng đại nhân dân, tác động vào số đông đó là tính công khai của báo chí. Công khai, minh bạch là nhu cầu bức thiết ủa nhân dân, cộng đồng, là tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ hóa của đời sống xh.

- Công khai trên báo chí là báo chí thông tin sự kiện, xh hóa sự kiện, vđ từ một góc phố, làng quê… làm cho nó trở thành sự kiện và vđ xh, thậm chí toàn cầu.

- Tính công khai là sức mạnh tiềm ẩn của báo chí, vì đây là căn nguyên tạo nên dư luận xh cũng như khả năng huy động nguồn lực xh. Đối với phát thanh, truyền hình, với đặc thù loại hình, sự tác động đồng thời, tỏa khắp, sức mạnh xh này nhân lên gấp bội. Báo mạng vươn tới khắp mọi nơi trên thế giới, giúp công chúng mở rộng tầm mắt.

- Tính công khai của báo chí phụ thuộc vào nhiều yếu tố:

+ Thông tin sự kiện có xác thực, đúng bản chất ko. Thông tin sự kiện xác thực, đúng bản chất sẽ giúp công chúng hiểu được bản chất của sự việc và vđ thông tin.

+ Thông tin có công khai nhiều chiều không? Thông tin công khai nhiều chiều giúp công chúng nhìn nhận rõ bản chất, sự kiện và vđ thông tin, từ đó tỏ thái độ và hành vi ủng hộ hay phản đối.

+ Thông tin, sự kiện phân tích vấn đề thời sự cần được tập hợp và phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau

3. Tính mục đích của thông tin báo chí

- Bất cứ hoạt động nào cũng đều có mục đích. Hoạt động thông tin của nhà báo và báo chí nói chung càng thể hiện rõ tính mục đích của mình.

- Thông tin báo chí tác động đến đông đảo công chúng thường xuyên và liên tục. Do đó, mục đích đầu tiên của thông tin báo chí là mục đích chính trị(lôi kéo, tập hợp, thuyết phục…). (Pháp đưa quân xâm lược thì cùng với súng đạn là máy in báo, giấy báo).

- Bên cạnh đó hoạt động báo chí k chỉ nhằm mục đích chính trị mà còn nhằm các mục đích khác như văn hóa, dân sinh…vì nó lôi kéo, tập hợp, giáo dục để và thuyết phục, tổ chức nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế, vh, xh. Báo chí là công cụ lôi kéo, tập hợp lực lượng chính trị có hiệu quả nhất, phương pháp:

+ Tuyên truyền thông qua sự kiện và vấn đề thời sự: Lưa chọn những thông tin sự kiện, vấn đề thời sự, qua đó tác động đến nhận thức của công chúng theo định hướng tư tưởng đã được hoạch định và lôi kéo họ vào tầm ảnh hưởng của mình.

+ Tham gia tổ chức hội thảo xh, hoạt động xh, kinh tế, cổ vũ các văn kiện chính trị, biến khẩu hiệu chính trị thành quyết tâm của nhân dân.

+ Phân tích bình luận các sự kiện vấn đề đã và đang diễn ra nhằm thể hiện tư tưởng, quan điểm của mình, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, từ đó thuyết phục công chúng xh.

+ Trực tiếp tuyên truyền quan điểm tư tưởng mà cơ quan báo chí đại diện.(bc vn tuyên truyền đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng)

+ Biểu dương nhưng nơi  làm đúng, làm tốt, phê phán những sự việc, con người sai trái.

4. Thông tin báo chí định kỳ, đều đặn

- Tính định kỳ của báo chí là giao ước cộng đồng, là hợp đồng trách nhiệm xh của cơ quan báo chí với công chúng trong việc cung cấp, tiếp nhận thông tin.

- Tính định kỳ tiềm ẩn sức mạnh của báo chí, bởi giao ước giữa cơ quan báo chí sẽ tạo ra phản xạ có điều kiện trong tâm lý và thói quen tiếp nhận của công chúng.

- Tính định kỳ chi phối tư duy và phong cách làm báo của nhà báo. Cách tư duy, tiếp cận của người làm nhật báo, chương trình thời sự khác với người làm báo tuần hoặc chuyên đề.

5. Tính phong phú, đa dạng và nhiều chiều của thông tin báo chí

- Trong các loại hình truyền thông đại chúng, thông tin báo chí phong phú và đa dạng nhất. Thể hiện trên các bình diện sau:

+ Đối tượng phản ánh là những vấn đề, sự kiện diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xh.

+ Đối tượng tác động của báo chí hết sức phong phú, đa dạng, là công chúng nói chung, ko phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, giai cấp, giới tính, địa bàn, mức sống. Chính nhu cầu, sở thích của nhóm công chúng -  nhóm đối tượng tác động này mà quy định tính phong phú, đang dạng của thông tin báo chí.

+ Đồng thời tính phong phú, đa dạng, nhiều chiều đòi hỏi sự phù hợp với công chúng-nhóm đối tượng. Chính sự phù hợp này lại tạo cho báo chí nét riêng, tránh sự trùng lặp, nhàm chán.

+ Tâm ly, nhu cầu, sở thích, thị hiếu của công chúng – nhóm đối tượng rất đa dạng. Cùng một vấn đề nhưng làm cho chương trình thời sự buổi sáng, cách trình bày, diễn đạt…cũng khác với làm chương trình thời sự buổi tối.

+ Kênh chuyển tải thông tin báo chí cũng rất phong phú, từ báo in, phát thanh…

+ Phương tiện và phương thức thông tin nhiều dạng vẻ khác nhau (ss đặc điểm của các loại hình báo chí).

+ Phương thức thông tin của báo chí cũng rất phong phú, linh hoạt, từ đưa tin sự kiện, giải thích và phân tích, bình luận, chuyên luận đến tiểu phẩm, bút ký, tranh biếm họa…

6. Tính dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo

- Đối tương tác động của báo chí là công chúng xh, đông đảo dân cư nói chung. Sự kiện và vđ mà báo chí thông tin hướng và phục vụ số đông và nhằm giải quyết những vấn đề và nhiệm vụ xh đang đặt ra hôm nay, hoặc là vđ có liên quan đến các nhóm đối tượng, cần cho số đông hiểu ngay, có thể thống nhất nhận thức ứng xử và xử lý ngay. Cho nên, ngoài những vđ tranh luận, thảo luận thì thông tin báo chí đảm bảo cho hàng triệu người cùng hiểu ngay lập tức và hiểu như nhau.

- Do đó, thông tin báo chí dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo là do yêu cầu đòi hỏi từ cuộc sống, từ công chúng xh mà báo chí cần phải đáp ứng. Cách nói, viết dễ hiểu nhất. Tính dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo trong mô hình thông tin-chỉ dẫn trên truyền hình có ý nghĩa thiết dụng nhất.

- Dễ hiểu tức là báo chí đem đến cho công chúng những bài viết mà trình độ chung của nhân dân có thể hiểu một cách dễ dàng và hiểu ngay.

7. Tính tương tác

 - Trong truyền thông, tương tác có nghĩa là sự tác động, giao tiếp hai chiều qua lại giữa chủ thể và khách thể truyền thông, giữa nhà truyền thông và công chúng trong những điều kiện và vấn đề cụ thể nào đó.

- Tương tác xh trong báo chí là đặc điểm thông tin của báo chí hiện đại. Trong thông tin báo chí, tương tác  bình đẳng nhưng cần kỹ năng định hướng thông tin, hướng dẫn dư luận xh. Cơ sở đánh giá hiệu quả tương tác thông tin báo chí là tạo ra sự đồng thuận xh, bảo đảm sự phát triển bền vững, phòng tránh những nguy cơ bất ổn trong cộng đồng.

8. Tính đa phương tiện

- Đa phương tiện cho phép kết hợp nhiều loại hình truyền thông trong việc truyền tải thông điệm nhằm gây chú ý, hấp dẫn và gia tăng khả năng thuyết phục công chúng

- Đây là đặc trưng và là thế mạnh của báo mạng điện tử bao gồm cả tính tương tác.

Câu IV. Bản chất của hđ báo chí

1.

Là hoạt động truyền thông đại chúng

Báo chí và truyền thông đại chúng là những loại hình của truyền thông, bản chất của hoạt động báo chí và truyền thông đại chúng cũng bao gồm bản chất của hoạt động truyền thông nói chung: Phương tiện và phương thức thông tin giao tiếp xh; phương tiện và phương thức liên kết xh; phương tiện và phương thức can thiệp xh.

- Báo chí là nhữn kênh, những loại hình rõ nét nhất, đặc trưng nhất của truyền thông đại chúng.

2. Là hoạt động chính trị-xh

Chính trị: Bản chất này xuất phát từ đặc điểm và mục đích chính trị của thông tin báo chí

-

Bản chất chính trị của báo chí được thể hiện trên những bình diện khác nhau, như tuyên truyền tư tưởng chính trị, quan điểm, đường lối chính trị; tập hợp và thanh thủ lực lượng đồng minh chính trị; cổ vũ hành động và phong trào chính trị…

-

Trong cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng hiện nay, báo chí là công cụ thể hiện quyền lực chính trị; đồng thời thể hiện văn hóa chính trị của quyền lực chính trị.

Xã hội: báo chí ra đời một phần là do bổn phận, nghĩa vụ của nó đối với cộng đồng. do đòi hỏi khách quan từ cuộc sống.

- Một số hình thức thể hiện bản chất hđ xh của báo chí:

-

Mục đích thông tin báo chí là vì sự phát triển bền vững của xh, vì lợi ích cộng đồng và chất lượng đời sống vật chất của nhân dân.

-

Tổ chức các hoạt động từ thiện xh, hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn, éo le…khơi dậy phong trào xh rộng khắp, giúp đỡ những người, nhóm người có hoàn cảnh khó khăn, khắc phục hậu quả thiên tai. Trong nhiều năm qua, nhiều cơ quan báo chí nước ta đã làm tốt hoạt động này.

-

Tổ chức các hội thảo xh thông qua các sự kiện, vấn đề cộng đồng đang quan tâm nhằm tập hợp nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của các chuyên gia và nhân dân nói chung để tìm cách tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc tổng kết thực tiễn, cùng tạo sự đồng thuận xh.

-

Giáo dục ý thức xh, ý thức cộng đồng cho các thành viên, tạo sự liên kết xh rộng rãi.

3. Là hoạt động kinh tế - dịch vụ

- Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thực tiễn báo chí đòi hỏi tư duy làm báo cũng dần được thay đổi. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động báo chí không chỉ được coi là hđ truyền thông đại chúng và họa động chính trị xh mà còn là hoạt động kinh tế dịch vụ, là vđ có ý nghĩa quan trọng trên nhiều khía cạnh, cả về nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn.

- Trong các nước tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường phát triển, cơ quan báo chí được coi như một doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Sản phẩm báo chí là hàng hóa, dịch vụ báo chí là dịch vụ xh, bao gồm dịch vụ công ích và dịch vụ thương mại, bán các sp báo chí, tạo thị trường quảng cáo, dịch vụ.

- Cần chống thương mại hóa báo chí

Câu V. Các chức năng cơ bản của báo chí

Câu 5: Các chức năng cơ bản của báo chí ?

5.1.

Chức năng là gì?

- Chức năng là vai trò, bổn phận nghĩa vụ của yếu tố đối với hệ thống. Hay nói cách khác, theo quan điểm của cn mác – lên nin, chức năng của một sản phẩm hàng hóa nào đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển càng cao, chức năng hay giá trị của hàng hóa càng phong phú. Do vậy, báo chí là một loại hàng hóa đặc biệt, giá trị của nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển càng cao – giá trị sử dụng của hàng hóa báo chí càng phong phú

Do đó:

-

Nghiên cứu chức năng xã hội của báo chí là nghiên cứu sự tồn tại của báo chí đối với xã hội.

-

Nghiên cứu chức năng xã hội của báo chí cũng là nghiên cứu tính mục đích hoạt động của báo chí.

-

Theo luận điểm của Mác: Xã hội phát triển càng cao, con người càng văn minh, chức năng báo chí càng đa dạng vì giá trị sử dụng hàng hoá phụ thuộc vào sự văn minh của con người.

Báo chí có 5 chức năng:

-

Chức năng thông tin

-

Chức năng giáo dục tư tưởng, cổ vũ hành động

-

Chức năng khai sáng và giải trí

-

Chức năng giám sát và phản biện xã hội

-

Chức năng quảng cáo và dịch vụ kinh tế báo chí.

a.

Chức năng thông tin – giao tiếp:

Vai trò vị trí của chức năng thông tin giao tiếp:

-

Thông tin là chức năng

khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của truyền thông đại chúng

. Truyền thông đại chúng ra đời và phát triển trước hết là nhằm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu thông tin của con người và xã hội.

Thông tin là nhu cầu sống còn, nhu cầu phát triển của con người, đồng thời là động lực kích thích sự phát triển

. Xã hội càng phát triển, thì nhu cầu thông tin càng cao.

-     Thông tin và tuyên truyền là hai mặt của 1 vấn đề bởi mục đích của thông tin chính là tuyên truyền.

-

Thông tin trên các kênh truyền thông đại chúng đã không chỉ trở thành sức mạnh chính trị trong cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng, sức mạnh đột phá của sự phát triển kinh tế, khoa học mà còn góp phần hình thành diện mạo văn hoá quốc gia cũng như nhân cách mỗi con người.

-

Từ thực tiến xã hội Việt Nam (Kinh tế thị trường), nền kinh tế thị trường phát triển thì khối lượng và chất lượng thông tin càng cao.

-

Về thông tin, báo chí phải đạt được yêu cầu gì? (5 yêu cầu)

+ Thông tin nhanh chóng, hợp thời: “hot” , hiểu được tính hợp thời, phù hợp với lợi ích của công chúng. Nếu khái niệm nhanh chóng được hiểu là khoảng thời gian từ khi sự kiện, vấn đề nảy sinh đến khi đông đảo công chúng biết được qua các phương tiện truyền thông, thì hợp thời là việc công bố, việc xã hội hoá sự kiện, vấn đề ấy vào thời điểm nào có lợi nhất cho chủ thể truyền thông cũng như cho công chúng xã hội.  Một yếu tố nữa là tính gần gũi, tin tức gần gũi về ko gian địa lý, gần gũi về lợi ích…

+ Thông tin phải trung thực, đúng bản chất của sự kiện, đảm bảo lợi ích chính trị, dân tộc và quan trọng với bản thân mình. Tính trung thực có thể biểu hiện ở các cấp độ sau:

·

sự kiện phải được thông báo xác thực, đúng bản chất , quy mô của nó, không “có bé xé ra to”, không thêm thắt các chi tiết làm cho sự kiện bị sai lệch.

·

sự kiện thông tin được đặt trong tình hình, bối cảnh và tác động tích cực tới các mối quan hệ hiện tại.

·

Những sự kiện và vấn đề thông tin trên truyền thông đại chúng có ảnh hưởng tích cực đến lợi ích của nhóm công chúng nào, có mang lại lợi ích cho đông đảo nhân dân, hay chỉ một vài cá nhân, nhóm nhỏ. Mọi thông tin, thông điệp luôn luôn vì sự phồn thịnh của đất nước, sự chấn hưng dân tộc.

+ Thông tin phong phú, đa dạng, tránh một chiều. Nhu cầu thông tin cũng như đời sống tinh thần của con người, không chấp nhận sự đơn điệu, nghèo nàn. Một thông điệp dù hấp dẫn đến mấy cũng có lúc trở nên nhàm chán. Một ấn phẩm truyền thông cần phải thường xuyên được cải tiến, thường xuyên phải “làm tươi” để kích thích nhu cầu tiếp nhận của công chúng.

+ Thông tin phải định hướng, hướng dẫn dư luận xã hội. Đây cũng chính là nhiệm vụ hàng đầu của truyền thông đại chúng nhằm phục vụ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Bởi nó có khả năng vận động nhân dân tham gia thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kêu gọi tập hợp nhân dân giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích cộng đồng, của đất nước, từ đó, bảo đảm sự phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.

+ Thông tin báo chí phải phù hợp với văn hoá và phát triển, đảm báo tính nhân văn. Yêu cầu này càng trở trên cấp thiết trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hóa đã và đang diễn ra nhanh chóng trên mọi lĩnh vực.

-

Trước những yêu cầu về thông tin đề cập trên, nhà báo - người cung cấp thông tin cần đảm bảo các yêu cầu: (5 yêu cầu)

+ phong cách chuyên nghiệp

+ có nền tảng kiến thức

+ có đạo đức nghề nghiệp và nắm rõ pháp luật

+ thiết lập được mối quan hệ và mạng lưới săn tin

+ có khả năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

b.

Chức năng tư tưởng:

Vai trò vị trí của chức năng tư tưởng:

Chức năng tư tưởng của báo chí là khả năng báo chí tham gia vào quá trình tuyên truyền, quảng bá hệ tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng này có thể lan truyền rộng rãi và chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần của nhân dân.

-

Đây là chức năng xuyên suốt của báo chí.

-

Báo chí đi đầu trong việc giáo dục tư tưởng, lý tưởng xã hội và con người.

-

Đặc thù chức năng tư tưởng của báo chí là tác động đối với mỗi con người.

-

Báo chí làm tư tưởng qua thông tin sự kiện. Nó không chỉ thông tin sự kiện mà nó còn bình luận sự kiện đang diễn ra. ( hay cụ thể qua việc cung cấp thông tin, việc bình luận, đánh giá…)

-

Báo chí tuyên truyền lý luận Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng (Tư tưởng tốt làm tiền đề cho đường lối chính sách tốt).

Nhờ đó mà kịp thời đấu tranh chống mọi thế lực thù đich, tư tưởng bảo thủ, lạc hậu. Nó cũng chú trọng kích thích tích cực, đấu tranh chống hành động tiêu cực.

·

Yêu cầu đối với nhà báo: Nhà báo phải sâu sát, nhạy bén, phải có linh cảm nghề nghiệp và có lòng nhiệt thành.

c.

Chức năng khai sáng, giải trí:

Vị trí và vai trò của chức năng văn hóa giải trí:

- Các sản  phẩm truyền thông góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc cũng như giao lưu, tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc. 

-

Quá trình phát triển văn hoá Việt Nam: Việt Nam có nền văn minh phát triển từ rất sớm, khoảng 10.000 năm văn minh thôn dã kéo dài. Nó có nhiều mặt tích cực và hạn chế.

-

Phương thức báo chí tham gia phát triển văn hoá:

+ Đại chúng hoá các giá trị văn hoá

+ Kích thích năng lực sáng tạo, giá trị mới của cộng đồng

+ Tiếp thu và biến đổi

+ báo chí phải trở thành bộ …., nhà báo trở thành nhà văn hoá. (?)

+ báo chí tham gia, giới thiệu, tổng kết kinh nghiệm.

+ Nhà báo cố gắng là nhà văn hoá, có phông văn hoá.

-

Giải trí đối với báo chí: giúp công chúng, tạo điều kiện cho công chúng sử dụng thời gian rỗi, cân bằng tâm sinh lý.

+ thông tin mới, hay …(văn nghệ)

+ trong bối cảnh kinh tế thị trường, nhu cầu giải trí càng lớn

+ truyền hình là kênh giải trí

d.

Chức năng quản lý,  giám sát và phản biện xã hội:

-

Với khả năng tổ chức, tập hợp lực lượng, báo chí tham gia quản lý để đảm bảo luồng thông tin hai chiều. Từ Đảng và Nhà nước đến dân và từ dân đến Đảng và Nhà nước. Nhờ đó, Nhà nước có thể nắm bắt hiệu quả của những chính sách và từ đó chỉnh sửa, bổ sung và hiểu được tâm tư của người dân.

-

Phản biện xã hội là một phương thức mới trong xã hội ta, thể hiện 1 tư duy mới. Phản biện xã hội là nêu ra cái tiêu cực, không tốt để hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung. Phản biện xã hội là phản biện chủ trương, chính sách, pháp luật, nêu ra cái tốt, cái hay, chỉ ra sự bất cập. Việc giám sát là độc lập bởi nếu giám sát không độc lập thành đồng loã.

-

Yêu cầu:

Điều kiện để tăng cường chức năng giám sát, phản biện xã hội của báo chí nói chung:

+ đặc thù phản biện, giám sát xã hội của báo chí: đây là giám sát phản biện của nhân dân, là tai mắt hay chính là sự giám sát của nhân dân. Do đó, tăng cường phản biện, giám sát là phát huy quyền làm chủ của người dân. Muốn giám sát và phản biện tốt, phải nâng cao dân trí, bởi dân trí là tiền đề của dân chủ.

+ bộ máy công quyền mạnh, thể chế nhà nước mạnh, hệ thống pháp luật phải minh bạch, rõ ràng. Phải có thể chế quyền lực minh bạch dân chủ. Cán bộ công quyền trong bộ máy phải có năng lực.

-

Yêu cầu đối với nhà báo:

+ chất lượng đối với nhà báo: phẩm chất, năng lực và điều kiện làm việc

+ Mọi thông tin báo chí phải phục vụ bảo vệ đất nước.

e.

Chức năng quảng cáo và dịch vụ kinh tế báo chí:

-

Quảng cáo là gì? Quảng cáo tập trung nói về thuộc tính của hàng hóa. Nó rất mạnh mẽ.

-

Cần chuyên nghiệp hoá lao động. Quảng cáo tự thân vận động không tốt, sống như tầm gửi. Quảng cáo sống nhờ truyền thông đại chúng nhưng nó cũng nuôi lại truyền thông.

-

Thông điệp quảng cáo phải chú ý tới khía cạnh ảnh hưởng, đặc biệt là chính trị

è

hình thành kinh tế báo chí truyền thông.

-

Không vì lợi ích kinh tế mà hạ thấp lợi ích chính trị

-

Đây là một loạt sản phẩm hàng hoá càng nhiều người dùng, gía trị trị sử dụng của nó càng cao (khác với các loại sản phẩm khác). Đặc điểm này phản ánh nó gắn liền với quần chúng, gắn liền với xã hội.

-

Yêu cầu:

+ Phải nhận thức được hoạt động kinh doanh vì công chúng

+ quan hệ công chúng sinh ra trong hoạt động báo chí truyền thông

-

Cac loại dịch vụ đều tính đến chiến lược phát triển.

Những chức năng của báo chí có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành những mắt xích của một hệ thống hoàn chỉnh, chặt chẽ. Nằm trong sự tác động qua lại thường xuyên, các chức năng này được thực hiện bằng những hình thức khác nhau. Do đó, vai trò thực tế của báo chí trong xã hội chỉ được hình dung đầy đủ khi hoạt động của nó được xem xét như một quá trình tập thể, hệ thống tổng hợp, khi các kết luận và những kết quả hoạt động của nó là kết luận và hoạt động của các loại hình và phương thức củ hệ thống báo chí thống nhất. Việc tách ra và phân tích các chức năng báo chí về mặt lý luận chỉ có ý nghĩa khi người ta hiểu đầy đủ hơn về mối quan hệ thống nhất giữa chúng và từ đó sử dụng có hiệu quả hơn mối quan hệ đó vào hoạt động thực tiễn báo chí.

Câu 6: Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động báo chí ?

6.1.

 Tại sao báo chí cần nguyên tắc?

-

Trình độ nhà báo và dân trí ngày càng cao. Do vậy yêu cầu báo chí ngày càng khắt khe và hoạt động chuyên nghiệp hơn.

-

Nguyên tắc hoạt động báo chí là yêu cầu khách quan, có tính phổ biến. Trong xã hội, hoạt động của mọi con người đều có mục đích: mưu sinh, nghệ thuật, chính trị. Mỗi mục đích lại yêu cầu mọi người tuân thủ cách thức hoạt động, bị chi phối bởi những yếu tố khách quan và do con người đặt ra. Nguyên tắc sinh ra để đảm bảo lợi ích của con người và chủ thể. Nguyên tắc đặt ra là để đảm bảo thực hiện tốt chức năng của báo chí.

Nguyên tắc cơ bản: (5 nguyên tắc)

1. Tính khách quan, chân thật

. Đây là nguyên tắc gốc của hoạt động báo chí. Uy tín và hiệu quả của báo chí phụ thuộc vào tinh chất khách quan, chân thật của những thông tin mà nó đem đến cho công chúng. Một tờ báo đưa tin sai, dù sau đó đính chính, sẽ tự hạ thấo vị trí của mình trong lòng độc giả. Một nhà báo viết sai sự thật, chẳng những vi phạm đạo đức nghề nghiệp mà còn gây tổn hại rất nhiều cho xã hội, do đó, sẽ bị xã hội tẩy chay, lên án.

2. Nguyên tắc tính khuynh hướng

Đỉnh cao của tính khuynh hướng là tính Đảng

+ Về khía cạnh xã hội, tính Đảng quy định các mặt hoạt động của báo chí trong toàn bộ quá trình thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Nhà báo nhìn nhận, đánh giá các sự kiện theo quan điểm đường lối của Đảng. Điều đó không hạn chế khả năng hoạt động sáng tạo và phát triển chính kiến của người làm báo. Trái lại, đường lối quan điểm của Đảng là căn cứ xuất phát để nhà báo phát huy trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân to lớn của mình trong quá trình thông tin và lý giải những vấn đề do cuộc sống đặt ra.

+ Về mặt tổ chức, báo chí là một ngành hoạt động chính trị - tư tưởng trong toàn bộ hệ thống xã hội. Xã hội đó được quản lý bằng một nhà nước pháp quyền, mọi ngành, mọi người đều phải sống và hoạt động tuân theo pháp luật. Tính Đảng đòi hỏi báo chí phải hoạt động theo đúng pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật.

+ Về mặt tư tưởng tinh thần, tính Đảng đòi hỏi báo chí tham gia tích cực vào việc tuyên truyền, phổ biến và hình thành dòng tư tưởng chủ lưu tích cực và tiến bộ trong xã hội. Nền tảng khoa học của dòng tư tưởng đó là học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tư cách là một vũ khí tư tưởng sắc bén, bằng những lợi thế và đặc trưng nghề nghiệp của mình, báo chí là một kênh hết sức quan trọng trong toàn bộ các kênh của công tác tư tưởng. Báo chí phải bảo vệ Đảng, chế độ, bảo vệ nhà nước XHCN Việt Nam.

3. Tính nhân văn

+ Bản chất nhân đoạ của báo chí cách mạng được thể hiện ngay trong nguyên tắc cao nhất của nó là nguyên tắc tính Đảng.

+ Nguyên tắc nhân đạo thể hiện ở chỗ nhiệt tình phản ánh và tham gia cuộc đấu tranh nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho người về kinh tế - xã hội và văn hoá-tinh thần, đấu tranh bảo vệ quyền con người, quyền dân chủ của con người, bảo vệ những giá trị nhân đạo chân chính.

+ Báo chí thể hiện tính nhân đạo của mình ở chỗ đấu tranh chống lại các hành vi làm tổ hại đến quyền con người, quyền dân chủ, quyền được sống độc lập tự do của con người. Báo chí tham gia tích cực vào việc xây dựng một chế độ xã hội tất cả vì con người, cho con người, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong cộng đồng cũng như mối quan hệ cá nhân với cộng đồng và ngược lại.

4. Tính nhân dân và dân chủ của báo chí

Tính nhân dân là sự phản ánh tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân thông qua nội dung, hình thức của tác phẩm báo chí truyền thôn

5. Tính dân tộc và quốc tế:

+ Baó chí phải tham gia phản ánh và giải quyết toàn bộ, nhất là những vấn đề trọng đại, bức xúc của dân tộc.

+ Báo chí góp phần đắc lực vào việc gìn giữu và phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá dân tộc và các giá trị cao quý khác của dân tộc.

+ Tinh thần đoàn kết và hợp tác quốc tế trong hoạt động báo chí còn được quy định bởi nhu cầu mở rộng thông tin của công chúng, bởi phạm vi và tính chất nghề nghiệp của bản thân nhà báo, và đặc việt xu thế quốc tế hoá mọi mặt hoạt động của đời sống nhân loại, do trình độ phát triển của xã hội, sự biến động của tình hình và tác động của cách mạng khoa học và công nghệ. Tinh thân quốc tế chân chính thể hiện ở chỗ, báo chí bày tỏ thái độ ủng hộ các phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân các dân tộc trên thế giới, trực tiếp tham gia các phong trào có quy mô toàn cầu bảo vệ môi trường, đấu tranh vì một trật tự thế giới bình đẳng

Câu 7. Vấn đề tự do báo chí

1.

Hiểu thế nào là tự do báo chí

Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do báo chí là những khái niệm chỉ các trạng thái và cấp độ khác nhau của cùng một vấn đề - trạng thái tinh thần, tư tưởng không bị rang buộc hay cưỡng bức, không bị gò bó hay hạn chế… để mỗi người trong xã hội có thể bày tỏ, chia sẻ, tìm kiếm, truyền đạt và tiếp nhận những thông tin mà mình có nhu cầu. Trong đó tự do báo chí là vấn đề được quan tâm thường xuyên nhất; vì nó là phương tiện thể hiện và kênh truyền dẫn quan trọng nhất của tự do ngôn luận và tự do tư tưởng.

Trong thực tế cuộc sống và trong khoa học, có những khái niệm mà muốn hiểu bản chất của nó, phải đặt trong sự so sánh, đối lập với khái niệm khác. Muốn hiểu khái niệm “tự do” cần tìm hiểu trong sự đối lập với khái niệm “tất yếu”.

+ Trong quan niệm của Loke, tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào. Đó có thể là định nghĩa nguyên thủy về tự do và biểu hiện chủ quan ý chí. Vì trong thực tế, không có hành vi nào của con người mà không bị cản trở bởi những điều kiện khách quan và chủ quan, kể cả bản than nhận thức của con người cũng bị rào cản từ sự hạn chế của nhận thức.

+ Hegel đã bắt nguồn từ việc nhận thức để đưa ra khái niệm nhận thức cái tất yếu. Ông cho rằng, tự do là “cái tất yếu được nhận thức”. Cái tất yếu theo quan niệm của Hegel chính là những quy luật của tự nhiên. Nhận thức cái tất yếu – những quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy là tiền đề cơ bản, quan trọng để đạt được tự do. Bởi vì muốn chinh phục cái tất yếu, ngoài nhận thức ra cần phải có năng lực và điều kiện để chinh phục nó.

Như vậy, muốn đạt được tự do, con người phải nhận thức được “cái tất yếu” (điều kiện cần), đồng thời phải có năng lực và điều kiện (điều kiện đủ) để chinh phục “cái tất yếu” ấy.  Nói cách khác, tất yếu là giới hạn, là đường ranh giới của tự do. Nhận thức, năng lực và điều kiện của con người chinh phục được đến đâu, đường ranh giới nới rộng ra đến đấy. Trong đời sống xã hội, cái tất yếu đó chính là pháp luật, điều kiện kinh tế và môi trường văn hóa, đạo đức do cộng đồng xây dựng nên.

Trong cuốn Tinh thần pháp luật, Montesquyeu đã định nghĩa “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà luật cho phép”. Như vậy, đối với mỗi cá nhân, tự do là sự nhận thức được quy luật và thực hiện theo quy luật ấy. Không thể và không bao giờ con người có tự do tuyệt đối bởi lẽ, con người không thể sống không phụ thuộc vào tự nhiên, xã hội và không có mối lien hệ nào với cá nhân hay nhóm xã hội khác; con người cũng không ai có khả năng nhận thức được tất cả. Trong triết học Mac-Lenin, nhận thức của con người là vô hạn, nhưng đấy là nhận thức của con người triết học, khả năng ấy tồn tại trong mỗi thế hệ, trong mỗi con người cụ thể lại luôn luôn có hạn.

Như vậy, vấn đề đặt ra là, trong xã hội, tự do chỉ được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, do pháp luật quy định. Mà pháp luật , trong xã hội dân chủ là do cộng đồng cư dân cùng nhà nước bàn thảo, thống nhất; do nhà nước ban hành và nhà nước có bộ máy công cụ bạo lực bảo đảm cho pháp luật được thực thi. Mỗi nước có pháp luật riêng của  mình, do hoàn cảnh lịch sử, địa lý, trình độ phát triển và nền văn hóa của nước đó quy định.

Do đó, không có tự do chung chung trừu tượng, mà nó tồn tại hiện hữu trong môi trường cụ thể, mỗi xã hội cụ thể. Tự do, dân chủ hay nhân quyền đều cần xem xét trong bối cảnh lịch sử, văn hóa và điều kiện cụ thể của trình độ phát triển.

Tự do báo chí là một trong những vấn đề nóng hiện nay, đã và đang được nhiều người quan tâm và quan tâm từ nhiều bình diện khác nhau. Đến nay, người ta đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về tự do báo chí. Trên ý nghĩa chung nhất có thể hiểu: Tự do báo chí là trạng thái không bị ràng buộc hay cưỡng bức, không bị hạn chế hay cấm đoán trong quá trình trao đổi, giao tiếp, chia sẻ, tìm kiếm, phổ biến và truyền bá thông tin, thể hiện ý chí và nguyện vọng của con người một cách công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Đó là quyền lợi chính đáng, thiêng liêng và cao cả của con người, mỗi người cần được hưởng và vì mục đích chung.

2.

Quan niệm khác nhau về tự do báo chí

a. Cách thứ nhất

Xem xét tự do báo chí theo mô hình truyền thông.

Nguồn=>thông điệp=>Kênh=>Người tiếp nhận

b. Cách thứ 2

Tự do báo chí được xem xét trên bốn bình diện là : Điều kiện kinh tế; môi trường pháp lý; năng lực sáng tạo và môi trường văn hóa.

3.

Hai cách tiếp cận tự do báo chí

Tự do báo chí ở vn:

+ Thực tế đã chứng minh rằng tự do báo chí ở nước ta có được là kết quả của cuộc đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc trong cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch HCM và đảng , như vậy trước năm 1945 khi chưa giành được độc lập dân tộc, nhân dân ta ko có tự do và tự do báo chí

+ Từ hiến pháp 1946 của nước vn dân chủ cộng hòa đến các văn kiện chính trị của đảng cộng sản vn đều khẳng định quyền tự do hoạt động báo chí và quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; các văn bản quy phạm pháp luật và văn kiện chính trị đều bảo đảm thự thi quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí. Đó là quan điểm nhất quán của Đảng và nhà nước vn.

+ trên thực tế, dù còn nhiều khó khăn về kinh tế, nhà nước ta đã thực thi những chính sách hỗ trợ, tài trợ đồng bào các dân tộc vùng sâu vùng xa, nhất là vùng dân tộc thiểu số các điều kiện ần thiết để bà con tiếp nhận sản phẩm báo chí, truyền thông nhằm từng bước cải thiện đời sống văn hóa và chất lượng cuộc sống cho nhân dân.

+ Nhờ quan điểm và chính sách phát triển đúng đắn, hệ thống báo chí vn ko ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng, chủng loại, về đội ngũ nhà báo, về kỹ thuật và công nghệ. Bảo đảm quyền tự do hoạt động báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và tự do tiếp nhận sản phẩm báo chí cho công dân.

+ Phát triển đi đôi với quản lý tốt là quan điểm thực tiễn của đảng và nhà nước phù hợp với tình hình hiện nay đã tạo cơ hội cho nền báo chí phát triển mạnh mẽ và chuyên nghiệp, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ko ngừng được cải thiện

-

Khuynh hướng thực hiện tự do báo chí ở Việt  Nam hiện nay:

+ Chống lại sự lợi dụng tự do ngôn luận trên báo chí để chống phá xây dựng phát triển đất nước, gây mất an ninh trật tự xã hội.

+ Chống lợi dụng tự do báo chí gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

+ Chống hiện tượng lợi dụng tự do báo chí để xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân và lợi ích của tổ chức.

+ Chống việc nhân danh Đảng, tổ chức, quyền lực để hạn chế tự do báo chí mà việc hạn chế ấy không vì lợi ích Đảng, nhân dân, đất nước mà vì lợi ích của nhóm, cá nhân.

1.

Do đó, trách nhiệm chính trị của nhà báo

-

Lý tưởng hành nghề của nhà báo?

-

Thông tin báo chí phục vụ ai, bảo vệ ai?

-

Từ thực  tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệc, xây dựng đất nước trong nhiều năm qua, đối với mỗi người dân cũng như các nhà báo Việt Nam yêu nước chân chính đều tâm niệm một điều rằng, tự do báo chí có nghĩa là cái gì có lợi cho dân tộc, có lợi cho nhân dân và có lợi cho Đảng là cứ nói, cứ viết; cái gì bất lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước là không viết, không nói.

-

Thực hiện điều đó đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu vươn lên không ngừng, đồng thời tích cực đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, bóp méo hoặc cố tình không hiểu thực tế vấn đề này ở nước ta vì mục đích vụ lợi chính trị.

-

Mặt khác, sử dụng quyền tự do báo chí như thế nào để báo chí phát huy tối đa sức mạnh của báo chí và sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước còn đòi hỏi ở năng lực, trình độ, phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp cũng như trách nhiệm xã hội, ý thức công dân của đội ngũ nhà báo.

Câu 11: Các phương pháp thu thập, xử lý thông tin dữ liệu của nhà báo ?

1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu văn bản

Nghiên cứu tài liệu văn bản là dùng lối tư duy logic, tư duy khoa học để tiếp nhận thông tin qua văn bản.

Đối với người làm báo, nghiên cứu tài liệu văn bản khác với đọc sách văn học, thơ, truyện. Vì trong quá trình đọc, nhà báo luôn phải kết hợp nhiều thao tác về tư duy để chắt lọc thông tin. Vừa đọc, vừa phân tích, đánh giá, ghi bút ký.

Các dạng tài liệu mà nhà báo cần nghiên cứu khai thác là: Các văn bản chính thức và không chính thức, các bản báo cáo tổng kết, những bài phát biểu của lãnh đạo, các sách chuyên ngành, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, các sản phẩm báo chí…

Cách thức làm tư liệu và xử lý thông tin qua nghiên cứu văn bản:

Xét trên bình diện rộng, tức là trong quá trình lao động nghiêm túc thì phương thức này được tiến hành như sau:

- Bước một: thu thập tất cả những tài liệu văn bản có liên quan từ nhiều kênh, từ nhiều tuyến, nhiều lĩnh vực và bằng nhiều con đường khác nhau, tập hợp thành “kho tư liệu” cá nhân. Mỗi nhà báo nên coi việc làm trên như một nguyên tắc.

- Bước hai: Thống kê, phân loại, phân định tư liệu theo tuyến, ký hiệu riêng để tiện theo dõi, sử dụng khi cần. Yêu cầu phải cẩn trọng và khoa học.

- Bước ba: đọc phân tích dữ liệu

- Bước bốn: ghi chép, biên tập lại thành tài liệu của cá nhân những nội dung quan trọng. Làm theo thứ tự để tiện sử dụng và tra cứu.

2. Phương pháp quan sát

Quan sát là quá trình tri giác của con người nói chung vì người làm báo nói riêng để phản ánh thế giới khách quan nhằm tái hiện hình ảnh của thế giới khách quan đó.

Quan sát là phải có chủ định, có ý thức không dừng lại ở bản năng của con người, bản năng bẩm sinh.

Quan sát không giống như nhìn một sự kiện bất kỳ mà là việc xem xét kỹ thông qua tư duy để vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vật.

Theo cấp độ, thì quá trình quan sát thường qua các bước: trông – nhìn – xem – ngắm – quan sát.

+ Trông – nhìn: thường chỉ thoáng qua, thuộc giai đoạn cảm tính thụ động

+ Xem: Có độ dừng lại ở các thao tác bên ngoài nhưng chưa thực sự chú tâm

+ Ngắm: đã có ý thức, có chủ định, nảy sinh tính tò mò muốn tìm hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về đối tượng. Ngắm là giai đoạn phát triển lý tính đã có sự phân biệt giống nhau và khác nhau giữa sự vật này với sự vật khác.

+ Quan sát:  thường được ứng dụng đối với nhà báo, quá trình quan sát chính là quá trình phân tích tổng hợp có những liên hệ so sánh để phát hiện ra bản chất vấn đề.

Trên thực tế, 5 thao tác này khó tách rời, nó liên kết chặt chẽ với nhau trong một chu trình khép kín. Hai thao tác đầu chỉ là sự sao chụp máy móc hình ảnh của hiện thực nên không để lại hình ảnh trong tư duy. Hai cấp độ sau có sự tham gia rất tích cực của tu duy. Chủ thể quan sát đã sử dụng tổng hợp các thao tác: phân tích, tổng hợp, so sánh… Để đi đến một kết luận đúng đắn.

Phương thức quan sát:

- Yêu cầu PV nên tạo cho mình thói quen quan sát. Nói chuyện với ai cũng cần tập trung quan sát, đi đến đâu quan sát đến đó.

- Trong khi quan sát cần làm rõ tính mục đích dù đó là mục đích gì.

+ Quan sát tổng thể: bao quát toàn bộ đối tượng, giúp mô tả không khí, không gian xảy ra cuộc trò chuyện với đối tượng.

+ Quan sát tập trung cục bộ: Đi sâu vào các chi tiết nội tại, những mâu thuẫn nảy sinh, kiếm tìm chi tiết đắt, mô tả chi tiết.

+ Quan sát từ cục bộ đến tổng thể, từ tổng thể đến cục bộ: giúp việc liên hệ, so sánh liên tưởng hình ảnh đẹp.

+ Vừa quan sát, vừa phân tích so sánh, quan sát trong sự so sánh (thời gian và không gian)

+ Quan sát trong sự liên tưởng: viễn cảnh cách điệu hóa, trừu tượng hóa.

+ Quan sát từ nhiều góc độ: đặt đối tượng trong các hoàn cảnh cụ thể.

+ Quan sát hiện tượng kết hợp các hiện tượng để tìm đến bản chất của sự vật

3. Phương pháp phỏng vấn

Phỏng vấn theo nghĩa thông thường là hỏi và trả lời. Nhà báo đặt câu hỏi đối tác trả lời. Như vậy trong hoạt động báo chí, phỏng vấn là một cuộc gặp gỡ, hỏi chuyện giữa một bên là nhà báo và một bên là người được phỏng vấn nhằm mục đích trao đổi tìm hiểu, thu thập thông tin để đăng báo.

Phỏng vấn bao giờ cũng bị cho phối bởi rất nhiều các yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan nên sự tác động về tâm lý thường rất lớn, dễ mang lại kết quả không đồng nhất trong thông tin.

Phỏng vấn tức là hỏi những vấn đề nhà báo nắm chưa rõ, hoặc chưa chắc chắn. Nhà báo là trung gian giữa đối tác và công chúng. Vì vậy đòi hỏi nhà báo phải có khả năng ứng tác nhanh, tính năng động và linh hoạt rất cao.

Xét về mục đích thì thông qua cuộc gặp gỡ, nhà báo cần khai thác thông tin đến mức tối đa nên dễ bị cuốn hút, dễ bị đối tác chi phối, nếu nhà báo không tỉnh dễ bị sa đà hoặc chỉ thu được thông tin mang tính độc quyền.

Nghiệp vụ làm phỏng vấn của nhà báo:

Công tác chuẩn bị trước khi phỏng vấn

+ Tuyệt đối không được đánh giá thấp công tác chuẩn bị. Trước khi phỏng vấn cần xác định lý do của cuộc phỏng vấn, phạm vi cần khai thác, địa điểm, đối tượng…

+ Xác định mình cần gì qua phỏng vấn

+ Dự tính tiến trình diễn ra cuộc phỏng vấn (thời gian thực hiện, những phương tiện kỹ thuật cần thiết, nên đến trước 10,15 phút để làm quen, gây thiện cảm)

+ Có thể tìm hiểu trước về lễ nghi, sở thích của người được phỏng vấn để chuẩn bị trước về mặt tâm lý.

Nghệ thuật phỏng vấn

+ Nhà báo luôn xác định mình là một bên của cuộc đối thoại, không thể là người tiếp lời, không phải là một quan tòa, người hỏi cung mà cần tạo sự đồng cảm cần thiết.

+ Luôn giữ mục tiêu của cuộc phỏng vấn từ đầu đến cuối

+ Để nắm bắt thông tin một cách tốt nhất, nhà báo hãy tỏ ra là người am hiểu, thông thạo, phải có thao tác ngoại giao khôn khéo, biết cảm ơn đúng lúc, đúng chỗ những người đã cung cấp thông tin cho mình. Những vấn đề gì không biết thì nên lờ đi.

+ Biết cách gợi mở thông qua những câu chuyện sinh động.

+ Luôn theo dõi, nắm bắt tâm lý đối tượng trong lúc giao tiếp để có cách ứng xử hợp lý. Khi cần nhà báo cũng cần sử dụng biện pháp nhà nghề để gây hưng phấn, kích thích đối tác bộc bạch hết những suy nghĩ của mình.

+ Gặp đối tượng là người chưa quen biết, mới gặp lần đầu tiên nên tìm hiểu các nhân viên, đồng sự khác. Trong những trường hợp đặc biệt, nhà báo cần có thái độ rõ ràng, dứt khoát.

+ Trong lúc phỏng vấn luôn xác định rõ tính mục đích của câu hỏi, tránh tùy tiện, ngẫu hứng, hỏi không có nghĩa, hỏi ngớ ngẩn…

+ Câu hỏi tập trung vào những vấn đề trọng tâm, những chi tiết mà bài báo cần.

+ Đặt câu hỏi phù hợp đối tượng, tránh chung chung, khuôn sáo

+ Nên đặt nhiều dạng câu hỏi nhằm khai thác thông tin một cách triệt để nhất định. Tránh lối hỏi dài dòng, vòng vo, kiểu cách. Hãy tôn trọng, chăm chú lắng nghe đối tác trả lời, tránh phản ứng tức thời. Nếu đối tác đi quá xa mục đích, xa trọng tâm vấn đề cần khéo léo đưa họ lại đúng chủ đề mà nhà báo cần.

+ Nên ghi chép khi đối tác trình bày vấn đề phức tạp.

+Thông thường những câu hỏi đầu bao giờ cũng lịch sự, nhẹ nhàng. Câu hỏi sau mang nhiều yếu tố thông tin hơn, tính phức tạp của vấn đề cũng được nhà báo quan tâm theo dõi.

+ Nhà báo cần chủ động các câu hỏi bổ sung, không nên quá nhiều người cùng đặt câu hỏi.

4. Phương pháp thông tin qua hội nghị

- Thông tin từ hội nghị là thông tin đã chuẩn hóa nên đáng tin cậy. Nhà báo nắm thông tin tổng  quát nhất, hệ thống nhất. Nhà báo nắm được nhiều nguồn tin, đa dạng, phong phú, có cả những ý kiến trái ngược. Qua hội nghị giúp nhà báo phát hiện đề rài, chủ đề, những điển hình mới. Nhà báo có điều kiện tiếp xúc, làm quen nhiều đối tượng, giúp mở rộng quan hệ ngoại giao.

- Dự hội nghị, nhà báo tranh thủ được nhiều ý kiến bổ ích, đón nhận nhiều bất ngờ

- Nhà báo nắm được những vấn đề mang tính lý luận sâu sắc, những đối chứng qua thực tiễn cũng như những kinh nghiệm quý trong nghiệp vụ. Ngoài ra nhà báo cũng có điều kiện nắm bắt các quan điểm lớn, những tư tưởng chỉ đạo mang tầm chiến lược.

Những nội dung, vấn đề mà nhà báo cần nắm khi tham dự hội nghị

- Nắm được ban tổ chức, nắm chương trình nghị sự các đại biểu đến tham dự và diễn biến có liên quan

- Chủ động tìm kiếm, sưu tập các loại văn bản, báo cáo…

- Chủ động gặp gỡ, trao đổi, khai thác thông tin từ các dữ liệu.

- Biết cách gây ảnh hưởng, tranh thủ sự giúp đỡ của của lãnh đạo các ngành, các cấp, các đại biểu đối với cơ quan báo.

- Tích cực ghi chép

- Có kế hoạch xử lý thông tin, chủ động hoạt động nghiệp vụ nhằm khai thác triệt để thông tin.

-Nắm những hoạt động ngoài hội nghị, bên lề hội nghị.

Phóng viên họp báo

- Họp báo là cuộc họp do các nhà lãnh đạo chính trị, hoạt động xã hội tổ chức trước đông đảo các nhà báo nhằm công khai, công bố quan điểm, lập trường thái độ của mình về một vấn đề nào đó.

- Mục đích của họp báo:

+ Về phía các nhà lãnh đạo, có thể thông qua đó để tranh thủ thêm ý kiến của giới báo chí, hoặc thông qua báo chí để làm rõ hơn các quan điểm của mình. Ngoài ra còn có mục đích sử dụng báo chí để sử dụng báo chí để phổ cập quan điểm của mình.

+ Đối với nhà báo: hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn những quan điểm, những ý kiến của các nhà lãnh đạo. Nắm bắt những quan điểm, chủ trương, phục vụ công tác tuyên truyền.

(*) Em có thấy hôm giải đáp thầy Dững còn nói tới phương pháp Điều tra Xã hội học. Anh chị bổ sung cho đầy đủ nhé!

+ Phương  pháp phân tích sản phẩm truyền thông là một trong những  phương pháp thu thập dữ liệu-thông tin quan trọng giúp nhà báo tổng hợp tình hình và nắm bắt dư luận.

+ Phương pháp điều tra trên mạng internet là một trong những phương pháp khai thác dữ liệu-thông tin hiện đại, tiện lợi, hữu ích.

+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi anket, chủ yếu được dùng để thu thập thông tin định lượng, trên diện rộng, hướng vào nhóm đối tượng xác định. Độ tin cậy của phương pháp này phụ thuộc vào phương pháp chọn mẫu, thiết kế bảng hỏi, cách thức tiến hành và phương pháp xử lý dữ liệu.

+ Phương pháp phỏng vấn sâu, có người gọi là phỏng vấn chuyên gia, chủ yếu được dùng thu thập thôn tin định tính, đối tượng được hỏi có thể à chuyên gia, nhà lãnh đạo, quảy lý, người chứng kiến hoặc người trong cuộc.

+ Phương pháp phỏng vấn nhanh qua điện thoại hoặc nơi công cộng…

+ Phương pháp thảo luận nhóm sẽ rấy hiệu quả nếu được sử dụng đúng, thích hợp cho một số vấn đề và nhóm đối tượng.

Thực tế hoạt động, nhà báo sử dụng linh hoạt nhiều  phương thức khác nhau.

Câu 12: Tác phẩm báo chí – các yếu tố nội dung và hình thức; tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí:

1.Tác phẩm báo chí:

Tác phẩm báo chí là một chỉnh thể, trong đó  mối quan hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức là quan hệ bên trong cơ bản của nó. Tính chất chỉnh thể của tác phẩm báo chí mang ý nghĩa tương đối trong mối quan hệ với sản phẩm báo chí hoàn chỉnh. Trong thông tin báo chí, sản phẩm báo chí hoàn chỉnh ( tờ báo, bản tin, chương trình phát thanh truyền hình) giữ vai trò phương tiện giao tiếp giữa chủ thể và khách thể thông tin. Một tác phẩm báo chí dù hay đến đâu, chất lượng thông tin cao thế nào cũng không có ý nghĩa nếu nó không được chuyển tải đến công chúng qua sản phẩm báo chí hoàn chỉnh. Tuy nhiên, trong các sản phẩm báo chí hoàn chỉnh, tác phẩm báo chí lại mang tính đối lập tương đối. Công chúng tiếp nhận, đánh giá nó như một chỉnh thể tương đối độc lập và tác phẩm báo chí sẽ tác động vào xã hôi tùy theo tính chất, ý nghĩa của những thông điệp được chuyển tải trong đó. Chính mối quan hệ giữa tác phẩm và sản phẩm báo chí là một trong những yếu tố chi phối tính chất mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong hoạt động báo chí.

Khi xem xét một tác phẩm báo chí, người ta thường quan tâm đến hai phương diện chủ yếu của nó là nội dung và hình thức. Hai phương diện này gắn bó hữu cơ, chi phối lẫn nhau để tạo nên chất lượng chung của tác phẩm báo chí.

Nội dung tác phẩm báo chí là một phạm vi, một bộ phận cuộc sống hiện thực được phản ánh qua sự lựa chọn, nhận thức sáng tạo của nhà báo. Những tiêu chí về nội dung có ý nghĩa quyết định trong việc đánh giá chất lượng tác phẩm báo chí. Trong tác phẩm báo chí có thể phân biệt các yếu tố nội dung chính sau đây: Sự kiện, chi tiết, chính kiến, vấn đề, đề tài và tư tưởng.

Hình thức bao gồm: Kết cấu, thể loại, ngôn ngữ, các biện pháp sáng tạo tác phẩm báo chí.

  Các yếu tố nội dung của tác phẩm báo chí

a. Sự kiện

Sự kiện (event)có vị trí quan trọng nhất trong các yếu tố nội dung. Nó là chất liệu cơ bản nhất để sáng tạo nên tác phẩm báo chí, là tiêu chí đầu tiên, quan trọng nhất để đánh giá chất lượng thông tin; là trạng thái tồn tại khác thường của hiện thực trong một giới hạn không gian và thời gian nhất định được nhà báo quan tâm, phản ánh trong tác phẩm.

Giới nghiên cứu báo chí và truyền thông phân định làm 2 loại sự kiện: sự kiện bản thể và sự kiện nhận thức

Sự kiện bản thể: là sự kiện khách quan tồn tại độc lập ngoài ý thức của con người. Nó là đề tài chung cho mọi phóng viên khai thác

Sự kiện nhận thức: là sự kiện đã được tái hiện trong đầu óc của phóng viên và được trình bày, lý giải trong tác phẩm báo chí.

 Nói một cách khác sự kiện bản thể là đối tượng của tác phẩm báo chí còn sự kiện nhận thức là nội dung của tác phẩm báo chí.

Sự kiện bản thể chỉ có một nhưng sự kiện nhận thức có thể khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Sở dĩ xảy ra hiện tượng này là do có sự khác nhau về lập trường xã hội, nhãn quan chính trị, phương pháp, phương tiện và kỹ năng tiếp cận, đánh giá sự kiện khách quan của từng tòa báo, từng nhà báo.

Công chúng, Luật báo chí cũng như Quy ước đạo đức nghề nghiệp của nhà báo luôn đặt ra yêu cầu hàng đầu đối với các tòa báo và nhà báo là phải phản ánh chính xác, trung thực về các sự kiện trong cuộc sống. Còn các nhà lý luận truyền thông thì đòi hỏi trong tác phẩm báo chí phải có sự thống nhất giữa sự kiện bản thể và sự kiện nhận thức; sự kiện nhận thức càng tiệm cận với sự kiện bản thể bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Và đó được coi là dấu hiệu tiên quyết để đánh giá chất lượng, hiệu quả thông tin của tác phẩm báo chí.

Chi tiết

Chi tiết còn được gọi là tình tiết. Đó là bộ phận nhỏ nhất của sự kiện. Đó có thể là một hành vi, cử chỉ, lời nói, điệu bộ của con người hoặc màu sắc, đáng vẻ, trạng thái, hoàn cảnh của sự kiện.

Chi tiết có vai trò rất quan trọng trong tác phẩm báo chí, đặc biệt là các tác phẩm thuộc thể loại phóng sự, điều tra, ký sự, ký chân dung, tiểu phẩm… bởi chi tiết vừa làm cho sự kiện trở nên cụ thể, trực quan vừa khắc họa được nét chân dung, tính cách con người đồng thời nó cũng góp phần bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

Tài năng, bản lĩnh của nhà báo không chỉ thể hiện ở chỗ biết ngửi thấy và nắm bắt nhiều chi tiết về sự kiện mà còn là ở chỗ biết chọn lọc những chi tiết điển hình, giàu tính biểu hiện nhất để đưa vào. Một tác phẩm báo chí hay không hẳn là tác phẩm có nhiều chi tiết mà là tác phẩm có những chi tiết được chọn lọc một cách đặc địa nhất.

Chính kiến

Chính kiến là những ý kiến, quan điểm, thái độ lớn hơn là lập trường, tư tưởng của nhà báo được thể hiện trong tác phẩm. Nó còn thể hiện ở sự đánh giá, kiến nghị của một nhà báo trước một sự kiện, vấn đề nào đó đặt ra trong tác phẩm.

Chính kiến có vai trò quan trọng trong tác phẩm báo chí nói riêng và hoạt động báo chí nói chung. Bởi vì thể hiện chính kiến tức là bộc lộ quan điểm chủ quan của nhà báo ( người viết). Có thể nói chính kiến là sự chi phối của nhà báo trước sự kiện. Thể hiện chính kiến, nhà báo làm được nhiệm vụ quan trọng của báo chí của sứ mệnh người làm báo, là định hướng cho dư luận. Nếu nói hoạt động báo chí là hoạt động chính trị- xã hội thì chính kiến là nơi thể hiện đặc điểm này rõ rệt nhất.

Chính kiến là yếu tố quan trọng của nội dung nhưng thể hiện nó trong tác phẩm tùy thuộc vào nhiều mối quan hệ khác nhau.

 Sự kiện bao giờ cũng chiếm vị trí thứ nhất trong mối quan hệ với chính kiến của tác giả; sự kiện là điều kiện cơ sở, tiên quyết để nhà báo dựa vào đó thể hiện chính kiến của mình. Ngược lại, thể hiện được chính kiến, tác phẩm báo chí được đặt trong mối liên hệ sự kiện này với sự kiện khác. Hơn nữa chính kiến được thể hiện tăng cường khả năng định hướng, tăng cường khả năng tác động của báo chí với xã hội. Điều quan trọng khi thể hiện chính kiến là tùy thuộc khả năng từng nhà báo, tùy thuộc vào từng thể loại báo chí ( chẳng hạn như các thể loại thông tấn thì sự thể hiện chính kiến của nhà báo không trực tiếp như các tác phẩm chính luận. Bởi vì các tác phẩm thông tấn mục đích của chúng là thông tin sự kiện cho nên cái tôi của nhà báo nhiều khi lùi laị hoặc ẩn đi nhường cho sự kiện được thể hiện khách quan hơn. Chính kiến là loại thông tin thuộc lĩnh vực chủ quan nhà báo. Trong lúc đó thì sự kiện tiềm tàng trong bản thân nó là khách quan. Vì thế, sự kiện có nhiều ưu thế hơn về mặt tâm lý khi công chúng tiếp nhận thông tin. Ngược lại, công chúng có tâm lý cảnh giác khi tiếp nhận những thông tin về chính kiến của nhà báo. Bởi vì, thông tin đó bị chi phối bởi những quan điểm, thái độ và khả năng nhận thức của một cá nhân. Chính vì thế, những chính kiến trong các tác phẩm báo chí phải có tính thuyết phục. Tính thuyết phục ấy dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn đúng đắn, khách quan. Toàn bộ sự lý giải, phân tích để đi đến những nhận định, đánh giá, kiến nghị phải dựa trên những tài liệu, chứng cứ hợp lý.     

Vấn đề

Vấn đề là một trong những thành tố nội dung trong tác phẩm báo chí nhằm phản ánh hiện thực đời sống xã hội một cách khái quát. Vấn đề được hình thành từ tình huống có vấn đề. Có thể hiểu, tình huống có vấn đề là tình huống trong đó xuất hiện mâu thuẫn giữa thực trạng và yêu cầu, giữa những chiều hướng vận động khác nhau của các tiến trình xã hội hoặc mâu thuẫn giữa qui mô, tính chất khách quan của sự kiện, hiện tượng với nhận thức hiện thời về chúng. Vần đề là kết quả của tình huống có vấn đề và biểu hiện dưới hình thức lô gích là một câu hỏi.  Việc tìm ra câu hỏi cho vấn đề đặt ra là yêu cầu của xã hội.Ví dụ người ta nói vấn đề môi trường ở địa phương A được đặt ra bức xúc bởi nó chính là kết quả của quá trình vận động của địa phương đó, sự vận động dẫn đến vấn đề, người ta gọi là vấn đề hôm nay.

So với sự kiện, vấn đề có kết cấu nội dung phức tạp hơn. Vấn đề không phản ánh một mối quan hệ  mà là tổng hợp nhiều mối quan hệ, mâu thuẫn giữa các đối tượng. Việc phát hiện và phản ánh vào tác phẩm những vấn đề có ý nghĩa đối với đời sống xã hội là một biểu hiện về chất lượng của tác phẩm báo chí. Để có thể phát hiện vấn đề, yêu cầu đặt ra đối với nhà báo là phải có những tri thức đầy đủ về lĩnh vực mình quan tâm, bám sát thực tiễn, hiểu biết rõ những mối quan hệ khác nhau giữa các yếu tố, các bộ phận trong lĩnh vực đó.

Mặt khác, nhà báo phải nhanh nhạy nắm bắt kịp thời các chiều hướng vận động cũng như những yêu cầu, đòi hỏi đang đặt ra.

Phạm vi của một vấn đề trong báo chí có thể chỉ được hạn chế bởi quan niệm về đề tài. Đó là những vấn đề trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, chính trị, an ninh- quốc phòng, văn hóa, khoa học… Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, vấn đề phản ánh mối quan hệ giữa một số lĩnh vực khác nhau, là biểu hiện tập trung, khái quát của một cụm các vấn đề liên quan với nhau. Đó thường là những vấn đề lớn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống xã hội. Việc phản ánh và giải quyết chúng đòi hỏi có sự tập trung đầu tư thích đáng của nhiều nhà báo, nhiều cơ quan báo chí. Về tâm lý, việc phản ánh những vấn đề cụ thể, đưa ra câu trả lời xác đáng và kịp thời thường thu hút sự tập trung chú ý của công chúng khi tiếp nhận thông tin.

Đề tài

Là phạm vi hiện thực đời sống được nhà báo phản ánh trực tiếp trong tác phẩm.

Đề tài là một khái niệm rất rộng và thường co giãn tùy theo góc độ nhìn nhận và phương pháp của người nghiên cứu.

Xét trên mối quan hệ con người với khách thể thì có thể nói đến hai đề tài bao quát, đó là đề tài tự nhiên và đề tài xã hội.( Trong báo giới thường gọi là các vấn đề tư nhiên và vấn đề xã hội.)

Xét trên mối quan hệ giữa dân tộc với quốc tế, có thể nói đến đề tài quốc nội (trong nước) và đề tài thế giới. (Trong báo giới thường gọi là thông tin trong nước và thông tin quốc tế, hoặc vấn đề quốc nội và vấn đề quốc ngoại).

Xét ở phạm vi xã hội, đề tài được hiểu là các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người. Trong đời sống có bao nhiêu lĩnh vực hoạt động thì cũng có bấy nhiêu đề tài tương ứng cho báo chí. Chẳng hạn các đề tài: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, giải trí, khoa học, công nghệ, nông nghiệp, công nghiệp…

Xét trên bình diện con người có thể chia đề tài theo giới tính và độ tuổi hoặc nghề nghiệp như: phụ nữ, thanh niên, sinh viên, học sinh, nhi đồng, người cao tuổi, giới trẻ…

Đề tài vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Đề tào do đời sống cung cấp nhưng việc chọn đề tài nào lại phụ thuộc vào lập trường, quan điểm, mục đích, tôn chỉ của tòa báo và của phóng viên. Do vậy, mức độ quan tâm khai thác về cùng một đề tài giữa các tờ báo và các phóng viên thường rất khác nhau.

Từ góc độ đề tài, người nghiên cứu có thể đưa ra những phán đoán về vị trí, vai trò cũng như đóng góp của một tờ báo, một nhà báo thậm chí là cả một giai đoạn phát triển báo chí cụ thể. Thông thường, một tờ báo lớn, một nhà báo tài năng, một giai đoạn báo chí sôi động luôn chiếm lĩnh và thể hiện được nhiều loại đề tài khác nhau, bao quát được các sự kiện và tiến trình cơ bản của đời sống xã hội và lịch sử.

Ngày nay, cuộc sống xã hội đang mở rộng về mọi phía, khoảng cách không gian, thời gian đều rút ngắn tối đa nhờ các phương tiện kỹ thuật hiện đại đã cung cấp cho báo chí biết bao nhiêu đề tài phong phú. Vì vậy, xu hướng chung của các tờ báo, đặc biệt là các nhật báo, các đài phát thanh truyền hình đều phân chia đề tài nhỏ hơn hoặc chuyên sâu hơn cho độ ngũ phóng viên của mình với tham vọng không bỏ sót điều gì mới lạ đã và đang xảy ra trong cuộc sống. Chẳng hạn, đề tài văn hóa nghệ thuật có thể phân chia ra làm mấy đề tài cụ thể hơn: văn học, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, lễ hội… Đề tài giáo dục có thể chia làm các đề tài nhỏ hơn như: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học….

Đề tài có vị trí đầu tiên, có vai trò tiền tố trong mối quan hệ với các yếu tố khác trong tác phẩm. Nó có thể là yếu tố đầu tiên nhà báo tiếp cận hiện thực cuộc sống. Đến với đời sống xã hội nhà báo đến với một đề tài nhất định. Vì thế, về một mặt nào đó đề tài gần với khái niệm đối tượng phản ánh. Việc phân chia đề tài được coi như là cơ sở để tổ chức hoạt động của cơ quan báo chí, đội ngũ phóng viên nhằm khai thác được thế mạnh của từng người trong vốn học vấn, vốn tri thức nghề nghiệp và vốn sống của họ. Từ đó, định hướng nghề nghiệp có tính chất chuyên sâu để tích lũy lâu dài.

Tất nhiên hạn chế của việc phân chia đề tài theo kiểu chuyên môn cũng sẽ làm cho phóng viên lúng túng khi tiếp cận đề tài mới. Tính trơ mòn khi chỉ vẫy vùng trong một vương quốc của mình sẽ làm ảnh hưởng đến đề tài rộng mà cuộc sống đặt ra.

Tư tưởng

Tư tưởng là nhận thức, lý giải và thái độ của nhà báo đối với toàn bộ nội dung cụ thể của tác phẩm cũng như những vấn đề triết lý, nhân sinh đặt ra trong đó. Tư tưởng là phần nội dung trừu tượng khái quát của tác phẩm.

Tư tưởng trong tác phẩm báo chí nói lên ý đồ, mục đích, chính kiến của tòa báo và nhà báo bày tỏ thái độ khen hay chê, ủng hộ hay đả phá, đồng cảm hay phản đối, khẳng định hay phủ định mặt nào đó của đời sống xã hội. Hơn thế, nhiều bài báo còn hướng người  đọc đến một tư tưởng khoa học, triết học hay tôn giáo nào đó mà mình đang theo đuổi và muốn nó trở nên đại chúng hóa.

Tư tưởng là linh hồn làm nên sức sống và giá trị nội dung của tác phẩm, nó thường biểu hiện ở các động từ, tính từ trong nhan đề; ở sự kiện và chi tiết của tác phẩm. Xác định tư tưởng của tác phẩm báo chí là việc tương đối khó. Bởi vì tư tưởng trong tác phẩm báo chí là một phức hợp, nó vừa có phần chủ quan vừa có phần khách quan.

Tư tưởng chủ quan là điều nhà báo muốn thông điệp đến công chúng qua việc chọn lựa, sắp xếp, trình bày, thể hiện các sự kiện và chi tiết trong tác phẩm. Còn tư tưởng khách quan là tư tưởng của công chúng có được sau khi đọc và lĩnh hội nội dung cụ thể của tác phẩm. Tư tưởng khách quan thường phong phú và rộng lớn hơn tư tưởng chủ quan. Bởi vì, thực tế có những điều công chúng thu hoạch được hoàn toàn không nằm trong dự kiến của tác giả và tòa báo.

Tuy nhiên, cũng cần phân biệt tư tưởng chủ quan và tư tưởng khách quan của tác phẩm báo chí. Vì công chúng là số đông người thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi có lập trường, quan điểm và thị hiếu khác nhau. Hơn nữa, trong quá trình chuyển tải nội dung thông tin từ tờ báo đến công chúng thường xảy ra hiện tượng nhiễu (noise) nên tư tưởng khách quan không chỉ khác mà đôi khi còn đối lập với tư tưởng chủ quan. Đó là trường hợp tác phẩm gây ra những tư tưởng và hiệu ứng ngược, chống lại tác giả và tòa báo của nó.

Tóm lại, nội dung tác phẩm báo chí tuy phân định thành nhiều yếu tố, nhưng ranh giới giữa chúng chỉ có tính ước lệ và tương đối. Các yếu tố cũng không tồn tại một cách biệt lập mà chúng gắn kết hữu cơ cùng tạo nên năng lượng và giá trị của nội dung nói riêng và cả chỉnh thể tác phẩm báo chí nói chung.

Các yếu tố hình thức của tác phẩm báo chí

Khái niệm hình thức của tác phẩm báo chí

Hình thức là biểu hiện của nội dung, là cách thể hiện nội dung. Không có hình thức thì nội dung không có cơ sở tồn tại. Trong tác phẩm báo chí, hình thức chính là tác động hợp thành của nhiều yếu tố gồm nghệ thuật sử dụng ngôn từ, các quy định của thể loại, những biện pháp kết cấu và kỹ thuật trình bày. Tất cả nhằm để biểu hiện nội dung của tác phẩm, tạo nên dạng tồn tại mang tính chỉnh thể, tính thống nhất của tác phẩm.

 Nói ngắn gọn, hình thức của tác phẩm báo chí là toàn bộ các yếu tố chứa đựng, biểu hiện và chuyển tải nội dung của tác phẩm báo chí.

Các yếu tố hình thức của tác phẩm báo chí

Hình thức của tác phẩm báo chí thường được xem xét trên 3 yếu tố chính là kết cấu, ngôn ngữ và thể loại.

Kết cấu

Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu làm nên nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định.

Nói dung dị là cách sắp xếp các yếu tố bên trong tác phẩm như sự kiện, tình tiết, quan hệ và sự tổ chức các yếu tố bên ngoài tác phẩm như phân đoạn, phân chia kỳ, bố trí ảnh theo một trật tự nào đó được gọi là kết cấu.

Kết cấu vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan. Khách quan vì khi miêu tả, tái hiện các sự kiện, hiện tượng trong đời sống nhà báo phải tuân thủ trật tự các chi tiết và kết cấu của đối tượng. Chẳng hạn tường thuật một trận bóng đá, một kỳ họp Quốc hội, một phiên tòa…

Còn chủ quan là vì việc chọn lựa và sử dụng lối kết cấu nào trong tác phẩm còn phụ thuộc vào tư tưởng, ý đồ nghệ thuật, sở trường và phong cách của nhà báo.

Ngoài nhiệm vụ nối kết các yếu tố, chi tiết thành một chỉnh thể thống nhất, kết cấu còn giúp tác giả thể hiện mâu thuẫn, xung đột trong tác phẩm. Nhưng quan trọng hơn là nó góp phần làm sâu sắc chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Kết cấu rất đa dạng, có thể nói có bao nhiêu tác phẩm thì có bấy nhiêu kết cấu. Tuy nhiên bằng khả năng trừu tượng và sự tổng kết lịch sử báo chí, người ta đã khái quát thành 6 kiểu kết cấu phổ biến.

 Kiểu kết cấu theo trình tự thời gian

Tác phẩm có kết cấu này sẽ tái hiện sự kiện, hiện tượng theo trật tự thời gian tuyến tính. Chi tiết nào xảy ra trước trình bày trước, chi tiết nào xảy ra sau thì trình bày sau. Kiểu kết cấu này thường được sử dụng trong thể loại tường thuật, ghi nhanh, đặc biệt là trong thể loại tường thuật trực tiếp trên sóng PTTH, báo trực tuyến.

 Kiểu kết cấu theo quan hệ trực tiếp

Tác phẩm có kết cấu này sẽ tái hiện sự kiện, hiện tượng theo thứ tự quan hệ giữa các chi tiết vốn có trong hiện thực khách quan. Đó là các trật tự: trước – sau, trên – dưới, xa – gần, trong – ngoài, khách – chủ… Kiểu kết cấu này thường được sử dụng trong các thể loại ký chân dung, phóng sự, điều tra, tường thuật…

 Kiểu kết cấu theo logic hình thức tư duy

Tác phẩm có kết cấu này sẽ trình bày sự kiện, hiện tượng, vấn đề quy luật tư duy, nhận thức của con người, theo phương pháp tam đoạn, quy nạp hoặc diễn dịch. Kiểu kết cấu này thường được dùng trong các thể loại bình luận, xã luận, chuyên luận, sổ tay phóng viên…

 Kiểu kết cấu đối lập so sánh

Tác phẩm có kết cấu này sẽ trình bày các sự kiện, chi tiết theo hai hướng đối lập nhau như: ta – địch, tốt – xấu, thiện – ác, tích cực – tiêu cực,  giàu – nghèo, cũ – mới, già – trẻ… Kiểu kết cấu này thường được sử dụng trong các thể loại phóng sự, bình luận, tiểu phẩm…

Kiểu kết cấu hình tháp ngược

Tác phẩm có kết cấu này sẽ trình bày các chi tiết, thông tin theo thứ giảm dần tính chất quan trọng và trực tiếp. Kiểu kết cấu này thường dùng trong các tác phẩm thông tấn (tin, phỏng vấn, tường thuật…)

Kiểu kết cấu liên tưởng

Tác phẩm có kết cấu này nhà báo thường trình bày các sự kiện, vấn đề, chi tiết xung quanh một “trục” trung tâm- một quan niệm, một nhận định nào đó. Những sự kiện, vấn đề liên quan gắn bó với “ trục” trung tâm thông qua những mối quan hệ phong phú mà đôi khi đó chỉ là một liên tưởng bất ngờ. Mỗi một chi tiết trong kiểu kết cấu này góp phần khẳng định, làm tôn giá trị của quan điểm, nhận định trung tâm từ một bình diện rộng. Người ta thường gặp kiểu kết cấu này trong một số bài ghi nhanh, chuyên luận hay ký báo chí.

Thực ra, kết cấu có vai trò rất quan trọng trong việc chuyển tải nội dung thông tin cũng như bố cục hình thức của tác phẩm.

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm báo chí. Ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải toàn bộ nội dung tác phẩm báo chí. Vì thế tài năng hay hiệu quả của báo chí không thể tách rời khả năng sử dụng ngôn ngữ.

Các nhà ngôn ngữ học hiện đại, bắt đầu từ Ferdinand De Saussure, đã phân biệt khá rõ 3 khái niệm: ngôn ngữ, lời nói và ngôn từ.

Ngôn ngữ:là tổng thể các đơn vị, các phương tiện, các kết hợp mà lời nói sử dụng gồm các phần ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và các biện pháp tu từ. Nó là phần khái quát và trừu tượng nhất của lời nói.

Lời nói: Là hình thức tồn tại thực tế của ngôn ngữ. Nó phong phú, đa dạng và sinh động hơn ngôn ngữ. cái mà người ta sử dụng trong giao tiếp hằng ngày là lời nói chứ không phải là ngôn ngữ.

Ngôn từ: là lời nói viết mà người ta dùng làm chất liệu để sáng tác văn học. Ngôn từ chính là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm chất thẩm mỹ và khả năng nghệ thuật của nó vào mục đích sáng tác văn học.

Ngôn ngữ báo chí là một khái niệm tương đối rộng dùng để chỉ tất cả các chất liệu làm nên tác phẩm báo chí, gồm lời nói, viết, âm thanh, hình ảnh, màu sắc… Trong đó, lời nói viết là yếu tố quan trọng nhất, có vai trò quyết định các yếu tố khác. Do vậy, khi nói đến ngôn ngữ báo chí, các nhà ngôn ngữ học và các nhà nghiên cứu truyền thông chủ yếu xem xét lời nói viết được sử dụng trong tác phẩm báo chí như thế nào và khu biệt với lời nói viết trong tác phẩm thuộc các hình thái ý thức xã hội khác (văn chương, triết học, chính trị, tôn giáo, pháp luật…)

Thực ra ngôn ngữ báo chí là ngôn từ được sử dụng trong tác phẩm báo chí là một cách hiểu hạn hẹp và thiếu chặt chẽ về mặt khoa học. Nhưng đây là một tập quán khó thay đổi. Theo cách hiểu ấy, ngôn ngữ báo chí có 3 đặc trưng nổi bật sau:

Ngôn ngữ báo chí có tính chính xác, khách quan

Đặc trưng này được quy định bởi chức năng quan yếu của báo chí là chức năng thông tin – giao tiếp. Nhà báo có nhiệm vụ phản ánh trung thực từ những sự kiện, hiện tượng vốn có như chúng đã và đang diễn ra trong hiện thực đời sống.

Ngôn ngữ báo chí phải tái hiện được sự kiện hiện tượng với những chi tiết cụ thể, chính xác. Trong tác phẩm báo chí, các câu hỏi cơ bản 5W + 1H được trả lời rõ ràng, khúc chiết bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nói một cách khác, ngôn ngữ báo chí trước hết là ngôn ngữ của sự kiện, nhằm tái hiện sự kiện khách quan.

Tính chính xác, khách quan của ngôn ngữ báo chí đặt ra yêu cầu tối quan trọng ở nhà báo là phải luôn hết sức thận trọng khi lấy tư liệu, đồng thời cũng phải cân nhắc, chọn lựa trong việc sử dụng từ ngữ, chi tiết, cách diễn đạt nhằm mang lại nội dung rõ ràng, xác định cho tác phẩm. Về nguyên tắc những từ ngữ nước đôi, không rõ nghĩa đều bị loại bỏ không thương tiếc trong tác phẩm báo chí.

Tuy nhiên, tính chính xác và khách quan của ngôn ngữ báo chí không có nghĩa phóng viên đưa tất cả sự thật nghe thấy và ghi chép được vào tác phẩm. Chỉ những sự thật có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tư tưởng mới được ưu tiên chọn lựa. Hơn nữa, có nhiều chi tiết có thật nhưng vì lý do kiểm duyệt, hoặc vì lý do bảo vệ người cung cấp thông tin, hoặc vì lý do nhân đạo mà không thể đưa ra một cách “chính xác, khách quan” trên mặt báo. Nhưng phóng viên cần có những sự thật ấy và nên lưu giữ cẩn thận để đối chứng trong các trường hợp cần thiết. Một nguyên tắc căn bản của hoạt động báo chí là phải xuất phát từ sự kiện bản thể và ngôn ngữ báo chí phải là ngôn ngữ sự kiện khách quan.

Ngôn ngữ báo chí có tính chất tiết kiệm, ngắn gọn và hàm súc

Đặc trưng này được quy định bởi tính thời sự của thông tin báo chí, bởi giới hạn về diện tích trên mặt báo, thời lượng trên sóng phát thanh, truyền hình và điều kiện tiếp nhận thông tin của công chúng. Một sự kiện nóng sốt mới xảy ra hoặc sự kiện đang diễn tiến, chưa có nhiều chi tiết nhưng nhà báo không thể bỏ qua cơ hội thông tin đến công chúng thì cách tốt nhất là anh ta viết thành một tin ngắn. Báo chí luôn cần sự đa dạng thông tin do vậy một tác phẩm báo chí không thể quá dài. Các chương trình trên sóng PTTH đều bị khống chế ngặt nghèo về thời gian cho nên tác phẩm báo chí  cần ngắn gọn để có thể chuyển tải được nhiều tác phẩm, nhiều chương trình trong một thời lượng nhất định. Tính chất tiết kiệm, ngắn gọn và hàm súc thể hiện ở chỗ trong một dung lượng, thời lượng nhỏ nhất nhưng tác phẩm báo chí phải chuyển tải được một nội dung chính xác, rõ ràng và dễ hiểu nhất.

Ngôn ngữ báo chí có tính phổ cập và đại chúng

Đặc trưng này bắt nguồn từ mục đích và đối tượng phục vụ của báo chí. Mục đích của báo chí là phổ biến thông tin rộng rãi cho mọi người. Đối tượng phục vụ của báo chí là đối tượng công chúng đông đảo, bao gồm nhiều thành phần, lứa tuổi, giới tính và nghề nghiệp khác nhau. Cho nên, ngôn ngữ báo chí phải phù hợp với trình độ chung của công chúng, đảm bảo khả năng tiếp nhận của công chúng.

Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của đời sống, gần gũi với lời nói và cách nghĩ của số đông công chúng. Nó không cầu kỳ, ước lệ, hoa mỹ như ngôn ngữ văn chương. Nó cũng không nôm na, thô vụng như khẩu ngữ. Ngôn ngữ báo chí nằm giữa ngôn ngữ văn chương, khoa học và khẩu ngữ.

Tính phổ cập và đại chúng của ngôn ngữ báo chí thể hiện ở cách dùng từ, cách sử dụng các quy tắc ngữ pháp, cách diễn đạt dung dị, dễ hiểu để giúp người đọc lĩnh hội trọn vẹn nội dung thông tin của tác phẩm. Do vậy, trong ngôn ngữ báo chí người ta hạn chế sử dụng các từ ngữ chuyên môn, các thuật ngữ khoa học, các từ Hán Việt. Đồng thời, trong tác phẩm báo chí cũng nên hạn chế sử dụng câu bị động, câu phức hợp, nhiều mệnh đề hoặc nhiều thành phần cùng loại. Tuy nhiên, phổ cập và đại chúng không có nghĩa là dung tục hóa, thô thiển hóa ngôn ngữ báo chí, là hạ thấp yêu cầu về mặt văn hóa giao tiếp, là chạy theo thị hiếu của công chúng bình dân. Phổ cập và đại chúng nhưng phải gắn với các chuẩn mực ngữ pháp, với yêu cầu nâng cao trình độ sử dụng tiếng nói của dân tộc. Ngôn ngữ báo chí hướng đến đại chúng nhưng phải góp phần cải thiện trình độ văn hóa, năng lực diễn đạt ngôn từ của công chúng.

Thực ra tính phổ cập và đại chúng trong ngôn ngữ báo chí luôn đặt ra yêu cầu cho cả hai phía: nhà báo và công chúng. Nhà báo phải hướng đến công chúng đồng thời công chúng cũng phải tự nâng tầm tiếp nhận của mình lên. Có như vậy, báo chí mới ngày càng hiện đại và phát triển.

Thể loại

Thể loại là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm báo chí, tương ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể. Mỗi thể loại tác phẩm báo chí có yêu cầu, đặc trưng riêng về phương pháp, dung lượng, góc độ phản ánh hiện thực đời sống.

Thể loại là một yếu tố quan trọng của hình thức tác phẩm báo chí. Tùy theo thể loại mà việc chọn lựa, sắp xếp các chi tiết, sự kiện cũng như sử dụng kết cấu, ngôn ngữ khác nhau.

Chẳng hạn, tác phẩm thuộc loại thông tấn như: tin, phỏng vấn, tường thuật tập trung tái hiện sự kiện, hiện tượng, thường sử dụng kết cấu theo thời gian và thành phần chủ yếu là câu miêu tả. Còn tác phẩm thuộc loại chính luận như bình luận, xã luận, chuyên luận thiên về ý tưởng, thường sử dụng kết cấu theo lôgich hình thức và thành phần chủ yếu là câu phân tích, đánh giá, suy luận, khái quát…

Nhà báo ý thức được thể loại mình viết sẽ chủ động trong việc thu thập, xử lý thông tin cũng như lựa chọn kết cấu, giọng điệu, lối viết để vừa đáp ứng yêu cầu về mặt thể loại, vừa thỏa mãn được lượng thông tin và cảm xúc mà người đọc chờ đợi.

2. Tiêu chí đánh giá chất lượng tác phẩm báo chí

Đánh giá chất lượng một tác phẩm báo chí cần tuân thủ nguyên tắc hệ thống chỉnh thể của nó. Tức là phải xem xét toàn diện tất cả các yếu tố thuộc nội dung, các yếu tố thuộc hình thức và mức độ thống nhất, hài hòa giữa các yếu tố ấy. Đặc biệt phải thỏa mãn ít nhất  ba tiêu chí cơ bản sau:

Thứ nhất, sự kiện phải nóng hổi (thời sự)

Thứ hai, tác phẩm phải được cấu thành những chi tiết, tình tiết, số liệu xác thực, sinh động đầy sức thuyết phục.

Thứ ba, cách trình bày, diễn đạt, kết cấu chặt chẽ, lô gích với ngôn ngữ, giọng điệu trong sang, dễ hiểu, phù hợp và có sức lôi cuốn đối với nhóm công chúng- đối tượng.

 Tóm lại phải đáp ứng một số tiêu chí cụ thể, có tính chất gợi ý:

1.Trúng:

Đề tài, chủ đề phải đánh trúng vào những điểm nóng của đời sống xã hội, vào sự quan tâm và tầm hiểu biết của công chúng. Tác phẩm phải thể hiện được góc nhìn, quan điểm mới mẻ về các sự vật, hiện tượng và luôn hướng người tiếp nhận đến bến bờ Chân – Thiện – Mỹ.

2. Đúng: Tác phẩm phải phản ánh chính xác, trung thực, công bằng hiện thực khách quan; đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, cũng phải đúng chính tả, ngữ pháp và đặc trưng thể loại.

3. Rõ:

Tác phẩm vừa phải rõ về bố cục, hình ảnh và cách diễn đạt vừa phải rõ về lập trường, quan điểm và tư tưởng chính trị, xã hội, thẩm mỹ.

4.Nhất quán:

Các yếu tố của tác phẩm như: tựa, chapeau, hình ảnh, box, thông tin đều hướng đến một nội dung, chủ đề duy nhất. Các chi tiết, luận điểm, luận cứ, luận chứng và giọng điệu trong tác phẩm phải nhất quán và hô ứng với nhau.

5. Ngắn gọn:

Lượng câu chữ trong tác phẩm phải được tinh giản tối đa nhưng đảm bảo thông tin đầy đủ, rõ ràng.

Một nhà báo giỏi không chỉ biết ngửi tin, săn tin – tức là tìm ra đề tài, sự kiện, chi tiết – mà còn phải biết phát hiện ra vấn đề, biết nêu ra những chủ đề mới mẻ, bất ngờ, thú vị từ các đề tài, sự kiện, chi tiết đó. Muốn vậy, nhà báo – bên cạnh các kỹ năng nghề nghiệp bắt buộc  đòi hỏi phải có kiến văn rộng, kinh nghiệm dày dặn, tư duy sắc sảo, tâm hồn nhạy cảm, và nhất là phải có một nhãn quan toàn diện về lịch sử, đời sống, xã hội, con người.

13. Đặc điểm, quy trình và phương thức làm tin

A. Đặc điểm:

a.

Tin là gì?

Tin là một thể loại thông dụng nhất trong báo chí. Nó phản ánh nhanh những sự kiện thời sự có ý nghĩa trong đời sống xã hội với ngôn ngữ cô đọng, trực tiếp và dễ hiểu.

b.

Đặc điểm hình thức của tin

Để thoả mãn yêu cầu cung cấp những thông điệp nhanh nhất, mới nhất về các sự kiện thời sự cấp bách, đặc điểm chung về hình thức của tác phẩm tin báo chí là đơn giản, cụ thể, dễ hiểu và ngắn gọn.

Kết cấu của tác phẩm tin báo chí mang tính chất thực dụng,

phù hợp với yêu cầu, mục đích là cung cấp cho người đọc những thông tin mới nhất, nhanh nhất về các sự kiện thời sự cấp bách. Quan hệ giữa các câu, các đoạn trong tin thường bị chi phối bởi mức độ tầm quan trọng của chi tiết. Logic vận động giữa các chi tiết không nhất thiết chi phối tự sắp xếp giữa chúng với nhau như kiểu “nhân-quả”, “tam đoạn luân”.

Ngôn ngữ trong các tác phẩm tin là ngôn ngữ sự kiện đặc trưng.

Các từ và đơn vị mệnh đề, câu đều tập trung cố gắng để phán đoán trực tiếp về sự kiện, chỉ ra quy mô, tính chất, ý nghĩa của sự kiện. Trong tin, người ta ít sử dụng các mỹ từ, hình dung từ, cũng như kiểu câu phức hợp có kết cấu nhiều từ.

·

Tin vắn: Là một tin rất ngắn, cấu tạo bằng một vài câu trong đó phản ánh những thông điệp cô đọng nhất của sự kiện thời sự.

-

Mục đích của tin vắn là chuyển tải những thông điệp ngắn gọn, cô đọng về một số chi tiết, bình diện quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất của sự kiện thời sự.

-

Kết cấu tin vắn đơn giản, thường chỉ gồm một vài câu văn. Một tin vắn có thể là một đoạn hoặc hai đoạn có liên kết lỏng lẻo.

-

Tin vắn có thể có hoặc không có đầu đề (tuỳ mục đích sử dụng hoặc việc bố trí sắp xếp trên trang báo)

·

Tin ngắn: Là một thể tin có các thành phần kết cấu tương đối đầy đủ trong đó chủ yếu phản ánh những thông điệp đặc trưng về nội dung, hình thức của bản thân sự kiện thời sự.

-

Nội dung của tin ngắn là những thông điệp quan trọng về quy mô, tính chất, nguyên nhân và ý nghĩa của sự kiện thời sự. Tin ngắn nhằm mục đích giúp công chúng có những hình dung tương đối đầy đủ về diện mạo của sự kiện thời sự.

-

Trong tin ngắn không có sự phán đoán về các mối quan hệ phức tạp hay ý nghĩa hậu quả của sự kiện. Những chi tiết, hình ảnh mang tính chất “bình” trong tin ngắn không phổ biến,

-

Kết cấu đầy đủ từ đầu đề, đến các thành phần cụ thể.

-

Tin ngắn cũng có thể được dùng để thông tin về một sự kiện không thuộc dòng thời sự chủ lưu, để đáp ứng nhu cầu của công chúng là nhận biết về sự kiện đó. Tin ngắn được viết với kết cấu chặt chẽ, khối lượng chữ bị không chế, tiết kiệm.

·

Tin sâu: Tin có chiều sâu, là một thể tin có dung lượng lớn (so với tin ngắn và tin vắn), phản ánh trình độ nhận thức sâu về sự kiện thời sự. Nói cách khác, tin sâu không chỉ phản ánh diện mạo của sự kiện mà nó còn khám phá các bình diện khác nhau, phân tích đánh giá tính chất, đặc điểm, nhận định về xu thế vận động, ý nghĩa và hậu quả của sự kiện đối với xã hội.

-

Nội dung của tin sâu phản ánh các bình diện, quan hệ của sự kiện một cách phong phú, phát hiện và lý giải những tầng sâu nội dung, các mặt khuất lấp của sự kiên, phán đoán những khả năng, khuynh hướng vận động của sự kiện.

-

Tin sâu giải đáp hầu hết các câu hỏi: ai, ở đâu, khi nào, bị ảnh hưởng bởi yếu tố nào, tác động đến cái gì, kết quả, hậu quả ra sao, sẽ đi tới đâu.

-

Ngôn ngữ trong tin sâu vẫn là ngôn ngữ sự kiện đặc trưng với tính chất khách quan trực tiếp, câu văn ngắn gọn, chặt chẽ.

-

Cho dù được hình thành dưới mô thức gì thì kết cấu tin sâu vẫn là đầy đủ nhất, hoàn chỉnh nhất.

·

Tin tường thuật:

Là thể tin thuật lại sự kiện theo quá trình diễn biến của nó.

-

Tin tường thuật phản ánh các sự kiện thời sự quan trọng, song nó tập trung chú ý khai thác logic vận động của mỗi sự kiện. Mỗi chi tiết trong tin tường thuật là một biểu hiện cụ thể hay một phán đoán, nhận định về đặc điểm, ý nghĩa của một giai đoạn vận động của sự kiện. Quan hệ giữa các chi tiết trong tin bị chi phối bởi trật tự xảy ra và vận hành trong thực tế của các sự kiện.

-

Cac chi tiết của sự kiện lần lượt xuất hiện theo thứ tự khách quan. Thông thường, tin tường thuật được kết cấu theo hình trụ.

-

Phương pháp thể hiện: kể + mô tả. Nhà báo có thể bộc lộ thái độ, quan điểm của mình thông qua việc lựa chọn các chi tiết, qua những nhận định, đánh giá trực tiếp.

Yêu cầu đối với nhà báo:

Nhà báo bắt buộc phải trực tiếp quan sát, theo dõi diễn biến của sự kiện.

·

Tin công báo

là thể tin thông báo chính thức về hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan nhà nước, quốc hội, chính phủ, toà án, v.v…

-

nội dung tin xác định chính thức, kết cấu hoàn chỉnh theo những mô hình cụ thể, ngôn ngữ chân phương, nghiêm túc. Tin công báo phần lớn do cơ quan có trách nhiệm soạn thảo hoàn chỉnh rồi trao cho các cơ quan báo chí đăng tải. Việc sử dụng tin công báo trên các trang báo ra sao  tuỳ thuộc vào trách nhiệm, tính chất của các cơ quan báo chí và có những quy định, niêm luật chặt chẽ.

a.

Quy trình làm tin:

Tin g

ồm các bộ phận sau:

1. Đầu đề: là tên gọi của một tác phẩm, cái đầu tiên tiếp xúc với công chúng, là đoạn văn ngắn nhất, chuẩn xác nhất, thể hiện nội dung cô đọng hoặc tư tưởng chủ đạo của tác phẩm.

“Một đầu đề đơn giản, rõ ràng, thể hiện tư tưởng chủ đạo của tác phẩm không có nghi ngờ gì nữa là một đầu đề hay”, Mác-Ănghen.

Đầu đề tác phẩm là thông tin sáng chói nhất về tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm.

Đầu đề tin: đảm bảo tính thời sự, định hướng, hấp dẫn và cụ thể

* Nội dung: thông tin cụ thể có khả năng khái quát

- Thông tin quan trọng nhất

- Mới lạ.

- Tránh tư tưởng chủ đạo

* Hình thức: tránh từ khó hiểu, lặp lại

Tít chính, tít phụ

2. Sapô: lời giới thiệu, quảng cáo cho tác phẩm

Là vũ khí năng động nhất, sắc bén nhất sau đầu đề trong cuộc chiến giành độc giả

Chức năng: bắt mắt, thông tin quan trọng, định hướng cho tin

Ngắn, dưới 50 từ, hấp dẫn

Mô thức: tính tóat yếu, nét đặc biệt 3-5 W, kích động, tương phản, trực thuật, trích dẫn

3. Thân tin là phần phụ, chứa thông tin dẫn giải minh họa làm sáng tỏ những thông tin chính đã được đề cập ở đầu đề và sapô. Cung cấp thêm, và trả lời những câu hỏi còn lại mà phần chính chưa trả lời được.

Phải được chia làm nhiều đoạn ngắn (trên dưới 50 từ), mỗi đoạn là một thông tin trả lời một câu hỏi, và có thể hoán vị.

Chi tiết: vừa đủ, hiện tại/so sánh/bối cảnh, đảm bảo chính xác (về số liệu nên làm tròn để dễ nhớ), dễ hiểu, logic giữa các chi tiết.

Quy trình săn tin:

1. Xác định đề tài, chủ đề, thông tin chủ đề

- Đề tài: là phạm vi, lĩnh vực cụ thể của tin. (đề tài chung, đề tài riêng – mỗi tin là một đề tài) viết cái gì?

- Chủ đề: đề tài chính của tác phẩm (trong tin, đề tài và chủ đề trùng nhau)

- Nội dung - thông tin chính:

- Tư tưởng chủ đạo: viết cho ai? làm gì?

Cơ sở xác định:

-

Công chúng

-

Tôn chỉ mục đích của tờ báo

-

Thời tiết chính trị

-

Dòng chủ lưu (phụ lưu)

-

Thực tế

-

Khả năng tiếp cận của người làm báo

2. Săn tin:

Phát hiện, theo dõi, nắm bắt, chọn lọc, phản ánh

à

thu thập thông tin phản hồi

-

Phát hiện ở đâu có tin: đầu nguồn thông tin

-

Phát hiện khi nào có tin: khi có chủ trương, chính sách mới

-

Săn bằng cách nào: 5 phương thức hoạt động của phóng viên (đọc, )

3. Công tác chuẩn bị trước:

-

Phương tiện: máy ảnh, máy ghi âm, laptop

-

Chuẩn bị những thông tin có liên quan đến sự kiện, vấn đề, lĩnh vực mà mình tiếp cận

4. Tiếp cận sự kiện: nhanh, kịp thời, theo dõi, nắm bắt cái mới (thu thập nhiều nhất, đông đủ…)

5. Xử lí tư liệu:

6. Hoàn thành tác phẩm

Phương thức làm tin

Các mô thức kết cấu của tin:

a.

Mô thức kết cấu hình tháp lộn ngược:

-

Đây là mô thức kết cấu cổ điển, cổ xưa nhất và rất phổ biến trong báo chí. Trong mô thức này, các chi tiết của sự kiện được phân biệt theo trật tự giảm dần về tầm quan trọng. Thông tin quan trọng nhất trong mô thức này được đưa ra đầu tiên, có thể ở vị trí của đầu đề hay câu mở đầu của tin. Đây là bộ phận thu hút sự chú ý tối đa của người đọc.

-

Có thể thể hiện mô thức kết cấu tin hình tháp lộn ngược theo mô hình:

Mở đầu

Chi tiết 1

Chi tiết 2

Chi tiết 3

-

Kết cấu này có ưu thế trong các nội dung cần thông tin rất nhanh. Mô thức này chỉ thích hợp với những sự kiện mà việc thông tin về chúng không đòi hỏi bắt buộc phải đảm bảo trình tự vận động tự nhiên. Việc làm dụng mô thức này sẽ dẫn đến sự đơn điệu, hạn chế hiệu quả thông tin.

b.

Mô thức kết cấu lưỡng phân:

-

Là kết cấu có hai phần: phần mở đầu và phần thân tin. Phần mở đầu trong tin kết cấu lưỡng phân cũng đưa ra những chi tiết thông tin quan trọng nhất về sự kiện. Trong phần thân tin trình bày, những chi tiết có chức năng giải thích, minh chứng cho từng chi tiết thông tin ở phần mở đầu. Logic của phần mở đầu quyết định việc sắp xếp, liên kết các chi tiết trong phần thân tin.

-

Mô thức kết cấu lưỡng phân:

Mở đầu               Chi tiết thông tin 1

                           CTTT                            2

                           CTTT                             n

Thân tin              Giải thích CTTT   1

                           Giải thích CTTT   2

                           Giải thích CTTT   n

- Mô thức này chủ yếu thích ứng với thể tin ngắn và sự kiện ithời sự không phức tạp lắm về logic vận động.

c.

Mô thức kết cấu hình xoáy ốc:

-

Thực chất là một biến thể của kết cấu hình tháp lộn ngược. Sau phần mở đầu gồm những chi tiết thông tin quan trọng nhất về sự kiện, tin kết cấu xoay ốc cũng được tiếp tục bằng những chi tiết thông tin kém quan trọng hơn.

-

Trong kết cấu này, các chi tiết có quan hệ móc xích trực tiếp với nhau. Thông thường một bộ phận của chi tiết thông tin trước được giải thích, làm rõ bởi chi tiết thông tin sau.

-

Mô thức kết cấu:

Mở đầu                         A

Thân tin                        a + B

                                     b + C

                                     c + D

(A là phần mở đầu, a là một bộ phận của A được giải thích bởi B. Đến lượt mình, một bộ phân của B là b lại được giải thích bằng C)

d.

Mô thức kết cấu hình bậc thang

-

Là kết cấu trong đó các chi tiết được sắp xếp phù hợp với tiến trình vận động, phát triển của sự kiện khách quan. Phần mở đầu trong mô thức này kết cấu này chỉ giới thiệu chung về sự kiện. Nó chưa đưa ra phán đoán về kết quả, tính chất, chiều hướng tiến triển của sự kiện. Các phần tiếp theo trong tin kết cấu bậc thang sẽ thông báo từng giai đoạn diễn biến của sự kiện và đưa ra những phán đoán về tính chất, ý nghĩa chúng.

-

Mô thức kết cấu hình bậc thang

Mở đầu                        

Thân tin              A       a

                                     B       b

                                               C       c

(A: thông tin mô tả, thông báo về giai đoạn thứ nhất của sự kiện; a: phán đoán về tính chất, chiều hướng tiến triển của giai đoạn đó. Tương tư, B: giai đoạn hai của sự kiện và b là phán đoán, đánh giá về giai đoạn này).

- Mô thức này thường được sử dụng phổ biến trong các tin tường thuật về những sự kiện có ý nghĩa xã hội trọng đại như Đại hội Đảng…

Mô thức kết cấu nhân - quả:

-

Là sự bố trí các chi tiết thông tin trong tác phẩm tin theo logic quan hệ nguyên nhân và kết quả

·

Mô hình 1:

Mở đầu                         Kết quả

Thân tin                        Nguyên nhân 1

                                     Nguyên nhân 2    

                                     Nguyên nhân n

Kết                      Xu hướng, ý nghĩa của sự kiện

·

Mô hình 2:

Mở đầu                         Giới thiệu sự kiện

Thần tin                        Nguyên nhân 1

                                     Nguyên nhân 2    

                                     Nguyên nhân n

Kết                      Kết quả của sự kiện

- Kết cấu này thường được sử dụng nhiều để thông tin về các hoạt động lao động sản xuất, phát triển kinh tế,v.v… Việc viết tin theo mô thức này có thể nhanh, dễ diễn đạt, song khó đạt hiệu quả cao bởi hạn chế trong khả năng tạo ra sự chú ý của người đọc.

e.

Mô thức kết cấu kể chuyện:

-

Thường được dùng trong các tác phẩm tin có dung lượng tương đối lớn. Trật tự của các chi tiết trong tin được sắp xếp theo logic vận động của câu chuyện về sự kiện, hiện tượng. Có nghĩa là, trật tự đó không hoàn toàn bắt buộc phải theo đúng trật tự trong thực tế. Nhà báo có thể tự mình hình thành trật tự đó theo ý đồ kể chuyện để tạo ra kịch tính, lôi kéo sự chú ý của người đọc, tăng hiệu quả thông tin và tác động.

-

Có thể biểu diễn mô thức kết cấu kể chuyện:

Mở đầu               Giới thiệu sự kiện

Thân tin                Chi tiết thông tin     1

                            CTTT                      2

                             CTTT                     n

Kết               Các chi tiết thông tin về bối cảnh của sự kiện.

-

Kết cấu này được sử dụng trong các sự kiện có cốt truyện, có “vụ việc” cụ thể như vụ án, chuyến viếng thăm, cuộc thi đấu thể thao

Đầu đề tin, mở đầu tin, thân tin và phần kết của tin

Quy trình làm phỏng vấn; các yếu tố quyết định chất lượng bài phỏng vấn ?

1. Phỏng vấn là gì ?

+ Định nghĩa:

Hiện tại trên thế giới có khá nhiều cách định nghĩa thể loại phỏng vấn, cách hiểu về phỏng vấn thường được đánh giá dưới góc nhìn của chính những nhà báo.

Theo “Từ điển Bách khoa toàn thư mở”: “Phỏng vấn là một cuộc đối thoại có chủ đích giữa hai hoặc nhiều người, trong đó câu hỏi được đưa ra nhằm thu thập thông tin từ người trả lời”.

Trong cuốn “ Cẩm nang phóng viên”, nhafb áo Pháp Alain Masson đưa ra khái niệm: “Phỏng vấn là hành động của một nhà báo, đi hỏi một người nổi tiếng hoặc tiêu biểu để người này nói ra những thông tin, giải thích, nêu ý kiến, chỉ có giá trị nếu dó chính người này nói ra và kể lại cho một nhóm công chúng được xác đinh, thường bằng lời nói trực tiếp”

Một cuộc phỏng vấn thể hiện rõ năng lực tư duy, kiến thức hiểu biết, thái độ trách nhiệm và văn hóa giao tiếp của người nói và người trả lời. Do đó, người ta cho rằng: “Phỏng vấn là một “cuộc đấu trí” giữa nhà báo với một hoặc một nhóm công chúng am hiểu, có thẩm quyền về một vấn đề nào đó để cung cấp thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng”.

(Tác phẩm báo chí tập II)

Điều này cho thấy rõ ràng, phỏng ấn không phải là một cuộc trò truyện thông thường, mà là một cuộc trò chuyện có mục đích và mang tính xã hội sâu sắc. Phỏng vấn đề cập đến những vấn đề mà công chúng quan tâm, và phóng viên chỉ đóng vai trò trung gian nhưng rất quan trọng trong quá trình truyền tải đó. Và thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào năng lực của mỗi nhà báo.

2. Đặc điểm của thể loại phỏng vấn

a, Thể hiện trực tiếp quyền được thông tin của nhân dân, tính dân chủ của báo chí:

Những sự kiện nóng hổi, những vấn đề bức xúc nhân dân muốn biết, có quyền được biết, nhà chức trách phải có trách nhiệm trả lời, giải thích và giải đáp trước công luận. Đây là điều mà thể loại phỏng vấn làm tốt nhất.

b, Thể hiện tính trực tiếp, khách quan, ch

ân thực trong việc giải thích và giải đáp các sự kiện và vấn đề thời sự nóng hổi, bức xúc trong dư luận.:

Với thể loại phỏng vấn, người cung cấp thông tin tham gia trực tiếp hơn: báo chí đưa ra câu trả lời bằng văn bản, phát thanh đưa ra lời nói, tiếng động, âm nhạc, truyền hình đưa ra hình ảnh sống động và lời nói cùng với thái độ biểu cảm của người trả lời.

c, Có thể thực hiện nhanh:

  Với phát thanh, truyền hình, người ta có thể tiến hành phỏng vấn qua điện thoại hoặc trực tiếp, công chúng tiếp nhận thông tin cùng lúc với cuộc phỏng vấn.

d, Thể hiện tính sinh động, hấp dẫn:

Với hình thức đối thoại, bản thân cuộc phỏng vấn đã tạo sự sinh động nhất định. Tuy nhiên, tính hấp dẫn còn thể hiện ở những câu hỏi bất ngờ, có tính chất ngẫu hứng… của phỏng viên.

e, Thông tin trong thể loại phỏng vấn do người trả lời hoàn toàn chịu trách nhiệm:

Đây là đặc điểm quan trọng mà nhà báo cần chú ý khi thực hiện phỏng vấn. Do đặc điểm này, nhà báo ko được thêm thắt thông tin, tư liệu mà người trả lời không nói tới.

3. Các dạng phỏng vấn

Một số dạng phỏng vấn thường gặp trên báo in

+ Phỏng vấn chính thức:

Đây là dạng phỏng vấn nhằm công bố những thông tin bày tỏ quan điểm, nhận định, đánh giá của người trả lời phỏng vấn về một vấn đề, sự kiện chính trị…

+  Phỏng vấn thông tin (thời sự):

  Nhằm khai thác thông tin về một sự kiện, một vấn đề cấp bách. Người trả lời có thể là người có thẩm quyền, hoặc người trong cuộc, người chứng kiến sự kiện.

+  Phỏng vấn điều tra:

Nhằm thu nhận ý kiến, sự đánh giá chủ quan của cá nhân người trả lời về một vấn đề nào đó. Phóng viên hoặc công chúng cơ bản đã biết về vấn đề đó nhưng vẫn muốn biết nhứng ý kiến đánh giá riêng của người trả lời phỏng vấn do vị trí, uy tín trong công việc mang lại.

+ Phỏng vấn chân dung:

Mục đích là để người phỏng vấn tự khắc họa chân dung của mình thông qua những câu hỏi của nhà báo, qua đó bộc lộ nhân cách, tâm tư tình cảm.

+ Phỏng vấn anket:

  Thực chất đây là hình thức phỏng vấn bằng bảng hỏi, được sử dụng trong phương pháp điều tra xã hội học. Trong báo chí, phỏng vấn Anket là cách thức phóng viên đưa ra cùng một bộ câu hỏi cho nhiều người với mục đích thăm dò ý kiến của một nhóm người hay dư luận.

Quy trình làm phỏng vấn:

1. Chuẩn bị:

a. Xác định vấn đề, góc độ phỏng vấn

Xác định vấn đề phỏng vấn tức là xác định nội dung cần giải thích và giải đáp cho công luận và mục đích phỏng vấn. Xác định chủ đề và góc độ phỏng vấn từ trước, phóng viên sẽ dễ dàng định lượng được những câu hỏi để có thể khai thác lượng thông tin cần thiết phục vụ cho bài viết. Thực tế cho thấy, vấn đề càng được xác định cụ thể, rõ ràng thì càng dễ báo quát, càng dễ làm phỏng vấn sâu và hay.

b. Lập đề cương câu hỏi dự kiến

Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu liên quan cũng như nắm bắt nhu cầu công chúng và dư luận xã hội, sau khi xác định vấn đề cần giải thích và giải đáp thông qua bài phỏng vấn, phóng viên nên chuẩn bị trước từ 3-5 câu hỏi chính, những câu hỏi đáng có nhất trong cuộc phỏng vấn.

c. Chọn và tìm hiểu người trả lời phỏng vấn

Người được chọn trả lời phỏng vấn phải là người có thẩm quyền và trách nhiệm, là chuyên gia trong lĩnh vực đề cập tới, hoặc ít nhất cũng là người nắm rõ sự kiện, sự việc, nếu không thì bài phỏng vấn sẽ trở nên không cần thiết. Chọn đúng người trả lời là yếu tố quan trọng, tạo tiền đề cho bài phỏng vấn hấp dẫn

d. Thu xếp phỏng vấn

- Thông báo trước về chủ đề, mục đích cuộc phỏng vấn để người trả lời chuẩn bị, khi phỏng vấn mới thu nhận được lượng thông tin phong phú.

- Hẹn  trước thời gian và địa điểm tiến hành phỏng vấn. Thời gian và địa điểm, tốt nhất do người trả lời lựa chọn, phù hợp với đề nghị của cơ quan báo chí.

e. Chuẩn bị phương tiện:

sổ tay, bút, máy ghi âm, camera… tuỳ theo từng hình thức phỏng vấn cụ thể, đảm bảo mọi thứ đã được chuẩn bị hoàn hảo cho việc thu thập thông tin, dữ liệu.

Giai đoạn chuẩn bị

:

- Nắm vững mục đích và bản chất của cuộc phỏng vấn

- Chuẩn bị các câu hỏi

- Đưa ra một cuộc hẹn trước

- Lựa chọn vị trí thuận tiện (thường do người trả lời lựa chọn)

- Chuẩn bị mọi phương tiện

- Nên tìm hiểu trước các thông tin về người được phỏng vấn

- Phóng viên cần chuẩn bị tiếp cận nhân vật, như cách xưng hô, thái độ, cử chỉ, tư trang cá nhân phù hợp.

2. Tiến hành phỏng vấn:

- Cuộc phỏng vấn diễn ra trong thời gian ngắn nhưng là kết quả của cả quá trình chuẩn bị công phu. Chuẩn bị tốt thì tiến hành phỏng vấn sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.

- Các hình thức phỏng vấn: Đối thoại trực tiếp, phỏng vấn gián tiếp, phỏng vấn qua điện thoại, qua email, hoặc chat.

a. Phỏng vấn trực tiếp:

* Giới thiệu:

+ Chào hỏi người được phỏng vấn

+ Giới thiệu bản thân, cơ quan báo chí hay chuyên mục của bạn

+ Giải thích về mục đích của phỏng vấn

+ Hỏi tên, chức danh, cơ quan người trả lời

+ Giúp người được phỏng vấn bình tĩnh, tư tin, cởi mở chia sẻ thông tin với bạn.

+ Những câu hỏi và trả lời trong giai đoạn này có thể tạo không khí thoải mái, gần gũi, thân thiện, hợp tác giữa người hỏi và người trả lời.

* Giai đoạn triển khai :

+ Nên mở đầu cuộc phỏng vấn cởi mở, thoải mái, gần gũi.

+ Hướng cuộc phỏng vấn vào việc thực hiện mục đích chính, nhưng không phải lúc nào cũng bắt đầu bằng một cách trực tiếp

+ Khảo sát tỉ mỉ mọi điều liên quan đến vấn đề phỏng vấn, như ghi chép những chỗ quan trọng, những động thái đáng chú ý.

+ Tạo cơ hội cho người phỏng vấn đặt câu hỏi, trao đổi và chia sẻ.

* Giai đoạn kết thúc:

+ Người phỏng vấn có thể ra hiệu về sự chuẩn bị kết thúc cuộc phỏng vấn.

+ Xem lại hoặc tóm tắt lại những thông tin thi được từ cuộc phỏng vấn, đặc biệt là nhấn mạnh những thông tin quan trọng trong phần trả lời như một sự khẳng định lại.

+ Nếu hết thời gian mà vẫn còn những điều cần tìm hiểu, có thể hẹn một cuộc phỏng vấn khác.

+ Nói cho người được phỏng vấn biết điều gì sẽ xảy ra tiếp sau cuộc phỏng vấn, ví như ngày dự kiến công bố trên báo, phát sóng trên đài.

+ Cảm ơn người được phỏng vấn và nhớ khẳng định lại tên, địa chỉ, chức vụ… ghi lại điện thoại liên lạc để tránh nhầm lẫn tên, chức vụ, địa chỉ người trả lời.

c. Phóng viên cần chú ý rèn luyện các kỹ năng sau:

- Chủ động lắng nghe, hoàn toàn tập trung vào người nói

- Kỹ năng quan sát

- Nói chuyện với người phỏng vấn

- Kỹ năng điều khiển cuộc phỏng vấn.

B. Yếu tố quyết định chất lượng bài phỏng vấn:

1. Đáp ứng nhu cầu  thông tin thời sự

Đề cập tới vấn đề mới mẻ, nóng hổi đang được công chúng quan tâm hoặc có vấn đề đã thông tin nhưng vẫn còn những khía cạnh chưa rõ, chưa làm công chúng thoả mãn.  

2.  Nhân vật trả lời phỏng vấn đúng, trúng

Chọn lựa người trả lời cần xem xét: Tư cách của nhân vật có phù hợp không? tiếng nói của họ có trọng lượng? có đủ tầm để giải quyết vấn đề bạn đọc quan tâm không?...

3.  Đảm bảo chiều sâu và tính “độc quyền” trong thông tin

     Thoả mãn nhu cầu muốn biết, muốn hiểu sâu về một sự kiện, vấn đề hay một nhân vật mà độc giả đang quan tâm. Phỏng vấn là sự khám phá nguồn tin, phát hiện được những điều ẩn tàng, chưa phát lộ ở nguồn tin. 

4.  Thể hiện tính đối thoại, phản biện

Các câu hỏi và câu trả lời đưa đẩy nhau, xuất hiện yếu tố bất ngờ, ngẫu hứng tạo sinh khí trong bài phỏng vấn.

5.  Thể hiện được dấu ấn của người hỏi và trả lời

Qua bài phỏng vấn, bạn đọc có thể được chứng kiến tinh thần, thái độ, bản lĩnh và tri thức của các đối tượng tham gia phỏng vấn.

6.  Đảm bảo tính trung thực, văn hoá 

Bài phỏng vấn trước hết phải là kết quả của một cuộc đối thoại có thật và xuất phát từ nhu cầu của công chúng, xã hội chứ không phải vì lợi ích cá nhân. Khi thực hiện phỏng vấn cũng như viết bài, nhà báo phải có cách ứng xử văn hóa và nhân văn với người trả lời.

Câu 4: Đặc điểm nhận diện, phân tích quy trình làm Phóng sự?

1. Khái niệm:

Phóng sự là một thể loại báo chí quan trọng, thông tin cụ thể và sinh động về con người, sự việc có thật, có ý nghĩa xã hội theo một quá trình phát sinh, phát triển, thông qua cái tôi - tác giả và bút pháp linh hoạt: miêu tả, tường thuật kết hợp với nghị luận.

2. Đặc điểm nhận diện của Phóng sự báo chí

a. Đối tượng phản ánh là người thật, việc thật, có ý nghĩa xã hội

hiện tượng, vấn đề xã hội) như các thể loại báo chí khác, mà còn có khả năng đi sâu khám phá số phận một con người, một tập thể người có tính chất điển hình trong những bối cảnh điển hình hoặc khắc họa những biến cố lịch sử một cách sống động.

- Không chỉ dừng lại ở việc thông báo sự kiện thông qua con số, dữ liệu… mà còn làm rõ những tình tiết, bản chất bên trong của sự kiện, giúp công chúng không những biết nó xảy ra, xảy ra như thế nào mà còn hiểu tại sao nó lại xảy ra như vậy. Để làm rõ việc thật, phóng sự đã khắc họa những con người - nhân chứng của một thời điểm hoặc một giai đoạn lịch sử nhất định; nhân chứng như một “chìa khóa thông tin” làm sáng tỏ một sự thật, một chân lý - điều mà nhiều thể lọai khác (nhất là tin) không làm được.

b. Phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình vận động biện chứng: phát sinh - phát triển, nguyên nhân - kết quả, lượng - chất.

- Sắp xếp, ngăn ô các dữ kiện, dồn nén thông tin của cả quá trình biến đổi từ lượng sang chất, vận động theo nhiều chiều, nhiều tầng, diễn ra trong khoảng thời gian có thể là khoảnh khắc, có thể tính bằng ngày giờ, có thể là vô tận vào trong một chỉnh thể trọn vẹn của một bài phóng sự hoặc một chùm phóng sự kế tiếp nhau.

c. Phóng sự sử dụng kết cấu, ngôn ngữ  và bút pháp linh hoạt

* Kết cấu:

- Phong phú, đa dạng: đan xen, đẳng lập, bậc thang, trật tự thời gian tuyến tính diễn biến của các biến các biến cố thường được sử dụng để phản ánh số phận một con người hoặc khốn khó, trôi nổi, hoặc bất hạnh; hoặc thành đạt, may mắn…

*Ngôn ngữ:

- Chính xác và hàm súc (biểu đạt nội dung): Ngôn ngữ phóng sự phải đạt đúng bản chất sự vật, hiện tượng trong từng thời khắc nhất định, trong từng bối cảnh cụ thể nhằm tạo ra một văn bản sinh động, dễ hiểu.Mặt khác, phóng sự phải miêu tả, kể lại câu chuyện một cách cô đọng, logic và hoàm súc. Tuy nhiên, tính hàm súc của ngôn ngữ phóng sự nảy sinh từ yêu cầu cung cấp một lượng thông tin cao về con người và sự kiện, cho nên phải dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu đạt cao nhất.

- Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm: Trong phóng sự, ngôn ngữ còn có thể biểu đạt chân thực những trạng thái tình cảm (cảm xúc, thái độ, chính kiến) của đối tượng miêu tả, có thể tác động đến nhận thức, tình cảm của đối tượng tiếp nhận thông tin, khiến cho đối tượng tiếp nhận thông tin cũng có thể đồng cảm và chia sẻ.

- Các thành phần ngôn ngữ trong phóng sự: Ngôn ngữ sự kiện, ngôn ngữ tác giả (trực tiếp và gián tiếp), ngôn ngữ nhân vật.

* Bút pháp

- Miêu tả: diễn đạt bằng ngôn ngữ cho người khác có thể hình dung được một cách rõ nét.

- Thuật (kể): nói, viết lại câu chuyện, sự việc nào đó một cách tỉ mỉ, tường tận theo đúng như trình tự xảy ra.

- Nghị luận: dùng lý lẽ phân tích, bình giá tìm lời giải cho vấn đề mà quần chúng quan tâm.

d. Cái tôi - tác giả xuất hiện trong thể loại phóng sự

Cái tôi tác giả xuất hiện trong bài với 3 tư cách: nhân chứng khách quan; thẩm định khách quan; khâu nối dữ liệu, tình tiết, chi tiết và sử dụng ngôn ngữ phù hợp.

Vai trò của cái tôi tác giả: là người dẫn truyện, là chủ thể truyền thông.

3. Quy trình làm phóng sự

a. Xác định chủ đề

- Muốn có chủ đề cho bài phóng sự, nhà báo phải nghiên cứu thực tế mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xác định được những vấn đề công chúng quan tâm, những mối quan hệ chính của nó để thể hiện được ý nghĩa xã hội của hiện thực đang nghiên cứu.

- Chủ đề chính là ý đồ, ý định, ý tưởng của tác giả muốn phát biểu với công chúng xã hội thông qua những sự kiện và chi tiết trong tác phẩm.

- Chủ đề có thể được hiểu ở góc độ nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Với nghĩa rộng, chủ đề thường xuyên lặp lại theo quy luật: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng…; nghĩa hẹp: có tính thời sự nóng hổi và có ý nghĩa phổ biến trên một phạm vi nhất định.

b. Chọn đề tài

- Xác định đề tài trong phóng sự chính là việc trả lời câu hỏi: Phóng sự viết cho ai? Về cái gì? Về phạm vi hiện thực nào của cuộc sống?

- Những sự kiện, vấn đề, biến cố… thích hợp để viết phóng sự là: Mới mẻ, mang tính thời sự nóng hổi, điển hình, mang tính phổ biến hoặc có ý nghĩa khái quát; chứa đựng kịch tính; xét về thời gian (mới xảy ra hoặc kéo dài); xét về dung lượng (bề rộng và chiều sâu).

- Để xác định đề tài đúng, trúng theo mục đích đã đặt ra, cần sử dụng các kỹ năng: phân tích, tư duy logic.

c. Khai thác, xử lý tư liệu

- Khai thác tư liệu qua 2 nguồn chính: tư liệu tĩnh (tư liệu văn bản) và tư liệu động (quan sát, hỏi chuyện, điều tra, nghiên cứu dấu vết hiện trường về bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh tự nhiên xã hội…

- Đối tượng khai thác (nhân chứng trong sự kiện) là quần chúng nhân dân, cá nhân có thẩm quyền, nhà chuyên môn, người có ý kiến độc đáo; đối tượng cần khai thác tư liệu là nhân vật chính trong phóng sự chân dung (hình dáng bề ngoài, tính cách…).

- Hệ thống lại tư liệu: lựa chọn tư liệu, xử lý tư liệu.

d. Xây dựng kết cấu

- Kết cấu đẳng lập: đầu đề, sapo, tít phụ được in đậm và các đoạn văn.

- Kết cấu đan xen: đầu đề, nêu vấn đề, giải quyết vấn đề.

- Kết cấu theo trật tự thời gian tuyến tính: Trình bày sự việc có đầu đuôi, từ quá khứ đến tương lai.

- Kết cấu theo phương pháp quy nạp: đưa các chứng cứ rồi rút ra kết luận, vấn đề.

- Kết cấu theo phương pháp diễn dịch: đưa ra một luận đề hoặc lời khẳng định rồi lấy chứng cứ để chứng minh cho luận đề hoặc lời khẳng định đó là đúng hay sai.

e. Thể hiện tác phẩm

- Xếp đặt chữ, câu theo một thứ tự nào đó để chữ và câu diễn ra được đúng với ý mình định miêu tả.

d. Biên tập và theo dõi bài phóng sự sau khi phát hành

- Biên tập: đọc lại toàn bộ bài phóng sự, rút gọn sao cho cô đọng nhất.

- Việc theo dõi phản ứng của dư luận xã hội sau khi phóng sự được phát hành là việc làm cần thiết để biết được năng lực tác động, hiệu ứng xã hội của tác phẩm. Bởi vì, chất lượng của ẩn phẩm báo chí phải được công chúng kiểm nghiệm, đánh giá.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro