Eragon 4 p1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TÓM TẮT: Eragon, Eldest và Brisingr

Đây là bản dịch toàn bộ phần 4 bộ truyện Eragon. Trong số này,đa phần là bản dịch của bạn Ly, còn lại 1 số chương không do Ly dịch ( khoảng 30 chương ) do mình và 1 bạn khác trên e-thuvien.com dịch.

Cảm ơn vì các bạn đã quan tâm tới ebook này.

Từ thuở xa xưa, loài rồng đã ngự trị trên trái đất. Đó là những sinh vật kiêu hãnh, hung dữ và đơn độc. Vảy trên mình chúng như những viên đá quý. Những ai nhìn thấy chúng đều thấy sợ hãi vì vẻ đẹp tuyệt vời và nguy hiểm của chúng.

Mình loài rồng sống trên mảnh đất Alagaësia không biết bao nhiêu thế kỷ.

Rồi thần Helzvog tạo ra giống người lùn rắn chắc và to béo từ những tảng đá của Sa mạc Hadarac.

Hai loài không biết đã xung đột bao nhiêu lần.

Tiếp theo đó, loài tiên vượt qua biển bạc cập bến Alagaësia. Đã có những trận chiến giữa giống tiên và giống rồng. Nhưng tiên mạnh hơn người lùn và họ có thể hủy diệt rồng cũng như rồng có thể tiêu diệt các tiên nhân.

Chính vì thế, giữa hai loài đã thỏa hiệp ngừng chiến tranh. Trong thỏa hiệp lần đó, họ đã cùng nhau tạo ra những Kỵ sĩ rồng, những người mang trọng trách bảo vệ hòa bình cho Alagaësia trong hàng ngàn năm.

Cuối cùng tới loài người đặt chân lên Alagaësia. Rồi tới những Urgal có sừng. Sau đó là Ra’zac – những kẻ săn đêm và sống nhờ ăn thịt người.

Loài người cũng ký thỏa ước với rồng.

Tới một ngày nọ, một kỵ sĩ rồng trẻ tuổi tên Galbatorix đã quay giáo chống lại chính giống nòi của hắn. Hắn biến con rồng đen Shruikan làm nô lệ và lôi kép mười ba Hiệp sĩ khác đi theo. Mười ba kẻ đó được gọi là Thập tam phản đồ

Galbatorix và Thập tam phản đồ này đã giết các Kỵ sĩ khác và thiệu rụi thành phố quê hương ở đảo Vroengard và loại bỏ tất cả những con rồng không phải của họ, chỉ để lại ba quả trứng rồng: một đỏ, một xanh lơ và một xanh lam. Bọn chúng cướp đi trái tim những con rồng còn sống sót – Eldunari – tách đi ý chí và trí tuệ của con rồng ra khỏi thể xác.

Trong vòng tám mươi hai năm, Galbatorix đã thống trị loài người. Thập Tam Phản Đồ chết, nhưng hắn thì không vì sức mạnh của hắn là sức mạnh của tất cả những con rồng và không ai có thể hạ bệ hắn.

Vào năm cầm quyền thứ tám mươi ba của Galbatorix, một người đã trộm lấy quả trứng xanh từ lâu đài của hắn. Quả trứng được truyền tay không biết bao nhiêu người vẫn nung nấu ý định lật đổ Galbatorix – những Varden.

Tiên nhân Arya mang quả trứng truyền từ Varden tới các tiên nhân nhằm tìm ra người hay tiên có thể làm quả trứng nở. Cứ thế, hai mươi lăm năm trôi qua.

Trong một cuộc hành trình tới thành phố của giống tiên Osilon, nàng đã đụng độ một nhóm Urgal. Đi cùng nhóm Urgal đó có Tà thần Durza: một pháp sư bị những linh hồn hắn triệu hồi khống chế. Sau khi Thập Tam Phản Đồ chết đi, hắn trở thành trợ thủ đắc lực nhất của Galbatorix. Lũ Urgal giết chết những vệ sĩ của Arya và bắt được cô. Arya dùng pháp thuật chuyển quả trứng đi tới một người cô mong sẽ bảo vệ được nó.

Nhưng câu thần chú lại không làm đúng điều cô mong đợi.

Quả trứng rơi vào tay Eragon, một câu bé mồ côi mới mười lăm tuổi. Nó nhóc tìm thấy quả trứng trong dãy núi Spine. Nó mang quả trứng về trang trại nơi nó sống cùng ông cậu Garrow và người anh họ duy nhất, Roran. Quả trứng nở vì Eragon và như vậy nó là chủ nhân của con rồng. Tên cô rồng đó là Saphira.

Galbatorix cho hai tên Ra’zac đi tìm kiếm quả trứng và chúng đã giết Garrow và thiêu rụi ngôi nhà của Eragon. Galbatorix đã phù chú bắt Ra’zac phục vụ hắn và giờ giống này cũng không còn nhiều.

Eragon và Saphira lên đường tìm lũ Ra’zac rửa hận. Đi cùng họ còn có người kể chuyện, ông già Brom và từng là Kỵ sĩ rồng. Và tiên nữ Arya chủ định gửi quả trứng tới cho ông Brom.

Ông Brom đã dạy Eragon nhiều điều về kiếm thuật, phép thuật cũng như danh dự của một con người. Ông đưa cho Eragon thanh Zar’roc, một thanh kiếm đã có thời thuộc về Morzan – Phản đồ đầu tiên và mạnh nhất trong Thập Tam Phản đồ. Nhưng trong lần đụng độ tiếp theo vỡi lũ Za’rac, ông Brom hy sinh. Eragon và Saphira chật vật lắm mới trốn thoát nhờ sự trợ giúp của cậu thanh niên Murtagh, con trai của Morzan.

Trong cuộc hành trình, Tà thần Durza đã bắt được Eragon khi nó đặt chân tới thành phố Gil’ead. Eragon cố tự trốn thoát và trong lúc đó nó cứu được Arya. Arya bị trúng độc và bị thương nặng. Vì thế, Eragon, Saphira và Murtagh đã đưa cô tới gặp các Varden hiện đang sống cùng những người lùn tại dãy núi Beor.

Tại nơi đây Arya được trị thương, Eragon đã chúc phúc cho đứa trẻ sơ sinh tên Elva, mong cho cô bé tránh khỏi những vận rủi. Nhưng vì Eragon nói không rõ và cũng nhận ra rằng nó đã nguyền rủa cô bé, buộc cô bé phải che chắn cho những người gặp nạn.

Sau đó không lâu, Bạo chúa Galbatorix đã gửi một đội quân Urgal hùng hậu tới tấn công người lùn và Varden. Trong trận chiến Eragon đã giết chết Tà thần Durza. Nhưng Durza cũng kịp tặng cho Eragon một vết thương nặng chạy trên lưng khiến nó đau đớn mặc dù các thầy lang Varden đã làm phép.

Trong cơn đau, nó nghe thấy một giọng nói. Giọng đó bảo Tới với ta, Eragon. Tới với ta và ta sẽ cho con câu trả lời.

Ba ngày sau, thủ lĩnh Varden, Ajihad bị Urgal phục kích và giết chết nhờ vào sự trợ giúp của cặp pháp sư song sinh đã phản bội Varden và chạy về bên Galbatorix. Chúng cũng bắt Murtagh nộp cho bạo chúa Galbatorix. Nhưng Eragon và những Varden khác lại nghĩ Murtagh đã chết và đau buồn vô cùng.

Con gái của Ajihad, Nasuada trở thành thủ lĩnh của Varden.

Từ Tronjheim, thủ phủ của người lùn, Eragon, Saphira và Arya đi tới khu rừng phía bắc của Du Weldenvarden – nơi ở của các tiên nhân. Đi cùng với họ còn có người lùn Orik, cháu họ của Vua người lùn Hrothgar.

Ở Du Weldenvarden, Eragon và Saphira đã gặp Oromis và Glaedr: Kỵ sĩ và con rồng tự do cuối cùng, đã sống ẩn cư tại đây trong cả mộ thế kỷ, chờ đợi để hướng dẫn cho thế hệ Kỵ sĩ Rồng Tiếp theo. Eragon và Saphira cũng được diện kiến Nữ Hoàng Islanzadi của giống tiên và là mẹ của Arya.

Trong khi Oromis và Glaedr huấn luyện Eragon và Saphira, Galbatorix cho Ra’zac và một đội lính tới quê nhà của Eragon tại Carvahall, bắt anh họ Roran. Nhưng Roran trốn và chúng sẽ không thể tìm thấy anh nếu như lão đồ tể Sloan không hận thù anh dữ như vậy. Lão Sloan giết chết người canh gác làng mở đường cho lũ Ra’zac vào để tóm sống Roran

Roran thoát được nhưng Ra’zac đã bắt mất Katrina mà anh yêu thương. Roran thuyết phục dân làng cùng anh rời đi, đi qua dãy nũi Spine tới bờ biển Alagaësia và đến thành phố phía nam Surda, hiện vẫn chưa chịu sự thống trị của bạo chúa Galbatorix.

Vết thương trên lưng Eragon tiếp tục hành hạ nó. Nhưng trong Lễ hội Huyết thệ của giống tiên, một buổi lễ nhằm tôn vinh bản hòa ước giữa các Kỵ sĩ và giống rồng, vết thương đó đã được chữa lành nhờ vào một con rồng ma được các tiên nhân triệu hồi cuối buổi lễ. Hơn cả thế, rồng ma đã cho Eragon sức mạnh và tốc độ ngang với một tiên nhân.

Eragon và Saphira bay tới Surda, nơi Nasuada đã đưa Varden tới bắt đầu cuộc tấn công vào Đế chế Galbatorix. Ở đó các Urgal đã trở thành đồng minh của Varden vì lúc trước Galbatorix đã tẩy não họ và giờ họ muốn báo thù. Eragon gặp lại cô bé Elva giờ đã lớn như thổi vì lời phù chú của nó. Từ một bé gái sơ sinh cô trở thành một cô bé ba bốn tuổi với ánh mắt đáng sợ vì cô hiểu nỗi đau những người xung quanh gánh chịu.

Không xa biên giới Surda, trong màn đen của Thung Lũng Cháy, Eragon, Saphira và Varden đã tham dự một cuộc chiến huy hoàng nhưng đẫm máu chống lại quân đội của Galbatorix.

Giữa trận chiến, Roran và dân làng hợp sức với Varden. Sau đó là viện quân từ người lùn tới từ Rặng núi Beor.

Nhưng ở phía đông thấp thoáng một bóng hình mặc giáp trụ sáng lóa. Hắn ta cưỡi trên lưng một con rồng đỏ lấp lánh. Hắn dùng phép thuật giết chết Vua Hrothgar.

Eragon và Saphira chiến đấu với Kỵ sĩ và con rồng đỏ. Họ phát hiện ra kỵ sĩ đó là Murtagh, giờ đã ràng buộc với Galbatorix bởi lời thề không thề không thể phá vỡ. Con rồng đỏ mang tên Thorn, quả trứng thứ hai trong ba quả trứng.

Murtagh đánh bại Eragon và Saphira bằng sức mạnh của Eldunari mà Galbatorix đã đưa cho hắn. Nhưng Murtage thả Eragon và Saphira đi vì Murtagh vẫn nhớ tới tình bạn giữa hắn và Eragon. Và vì, theo lời hắn, họ là anh em, cùng là con của người thiếp yêu của Morzan, Selena.

Murtage cướp thanh Zar’rpc, thanh kiếm của cha họ, khỏi tay Eragon. Hắn và Thorn rút khỏi Thung Lũng cháy cùng với tàn quân của Galbatorix.

Cuối trận chiến, Eragon, Saphira, Roran bay tới tòa tháp đá đen tối Helgrind, là hang ổ bí mật của Ra’zac. Họ giết một Ra’rac và bố mẹ chúng – Lethrblaka và cứu thoát Katrina. Và cũng trong một trong những xà lim, Eragon phát hiện thấy bố Katrina, giờ đã mù và đang sống dở chết dở.

Eragon định giết lão Sloan vì lão đã phản bội dân làng nhưng lại thôi. Thay vào đó, nó phù phép Sloan ngủ một giấc sâu và nói với Roran và Katrina rằng lão đã chết. Nó nhờ Saphira đưa Roran và Katrina trở về với Varden trong khi nó tìm giết con Ra’zac cuối cùng

Eragon một mình giết chết tên cuối cùng của giống loài Ra’zac, rồi đưa Sloan ra khỏi Helgrind. Sau khi đi sâu vào tiềm thức Sloan, Eragon biết được tên thật của Sloan trong ngôn ngữ cổ xưa – thứ ngôn ngữ của sức mạnh và pháp thuật. Eragon buộc Sloan phải thề rằng không bao giờ gặp lại con gái. Sau đó, Eragon đưa lão tới sống cùng loài tiên. Nhưng Eragon không nói với lão đồ tể rằng các tiên nhân sẽ chữa trị đôi mắt cho lão nếu lão hối lỗi vì đã giết người và thói tham lam.

Arya gặp lại Eragon trên đường về gặp Varden, và họ cùng nhau cùng về, đi bộ xuyên qua vùng địch.

Tại Varden, Eragon biết Nữ Hoàng Islanzadi gửi mười hai thầy bùa tới. Chỉ huy mười hai tiên nhân này là một vị tiên tên Blodgarm để bảo vệ nó và Saphira. Eragon thực hiện lời hứa giải lời nguyền trên Elva, nhưng cô vẫn cảm nhận được nỗi đau. Chỉ có điều cô bé không cảm thấy sự thúc giục cứu sống họ.

Roran lấy Katrina, lúc này đang mang thai và đây là lần đầu tiên sau một quãng thời gian dài, Eragon thấy hạnh phúc.

Murtage, Thorn và một nhóm lính của Galbatorix tấn công Varden. Nhờ sự trợ giúp của các tiên, Eragon và Saphira đã đánh lui chúng nhưng Eragon và Murtage duy trì thế cân bằng. Đó là một trận chiến gian nan vì Galbatorix đã phù phép khiến những người lính không biết đau và Varden chịu tổn thất rất lớn.

Sau đó, Nasuada cử Eragon làm đại diện cho Varden tới gặp các người lùn khi họ chọn vua mới. Eragon cảm thấy không muốn đi vì Saphira phải ở lại để bảo vệ lều trại của Varden. Nhưng cuối cùng nó cũng đi.

Roran phục vụ quân đội Varden, chiếm được cảm tình của họ vì anh đã chứng tỏ mình là một chiến binh thiện chiến và một người có tài lãnh đạo.

Khi Eragon tơi gặp người lùn, bảy người lùn định ám sát nó. Sau khi điều tra, họ phát hiện ra bộ lạc Az Sweldn rak Anhuin đứng sau vụ tấn công. Buổi họp tiếp tục và Orik được chọn vào vị vua kế tiếp. Trong lễ đăng quang, Saphira tới gặp lại Eragon. Cô rồng đã hoàn thành lời hứa phục hồi viên đá saphire hình ngôi sao may mắn của người lun mà cô đã làm vỡ trong trận chiến giữa Eragon và tà thần Durza.

Sau đó, Eragon và Saphira trở về Du Weldenvarden. Ở đây, Oromis đã tiết lộ sự thật về thân nhân của Eragon: nó không phải con của Morzan mà là con của ông Brom, nhưng Murtage và nó cùng một mẹ sinh ra. Oromis và Glaeder cũng giải thích cho nó hiểu Eldunari là gì. Một con rồng có thể bỏ nó ra ngoài mà vẫn sống. Nhưng làm thế buộc người thực hiện phải hết sức cẩn thận và ai nắm giữ Eldurani có thể dùng nó để kiểm soát con rồng.

Trong khu rừng, Eragon quyết định nó cần một thanh kiếm mới thay cho thanh Zar’roc. NHớ lại lời khuyên của mèo ma Solembum hồi còn đi cùng Brom, Eragon tới chỗ cây thần Menoa ở Du Weldenvarden. Nó nói chuyện với cây và cây thần đồng ý cho nó mảnh thiên thạch dưới rễ cây đổi lại nó sẽ làm cho cây bất cứ điều gì.

Sau đó, vị tiên thợ rèn Rhunon – người đã từng rèn kiếm cho các Kỵ sĩ – đã làm cho Eragon một thanh kiếm mới. Một thanh kiếm màu xanh mà Eragon đặt tên là Brisingr – “Hỏa kiếm”. Thanh kiếm bỗng bốc lửa mỗi khi nó gọi tên thanh kiếm.

Ông rồng Glaedr đã đưa trái tim mình cho Eragon và Saphira. Họ trở về Varden còn Glaedr và Oromis tham chiến cùng tiên nhân tấn công phần phía nam Vương quốc.

Khi Varden bị vây hãm ở Feinster, Eragon và Arya đụng độ với ba đoàn quân pháp thuật, một trong số đó đã biến thành Tà thần Varaug. Nhờ có sự giúp đỡ của Eragon, Arya giết chết Varaug.

Cùng lúc đó, Oromis và Glaedr chiến đầu với Murtagee và Thorn. Galbatorix đã can thiệp và kiểm soát đầu có Murtage. Dưới bàn tay của Murtage, Galbatorix đã hạ gục Oromis còn Thorn giết chết Glaedr.

Dù Varden chiến thắng ở Feinster, Eragon và Saphira khóc thương cho sự hy sinh của sự phụ Oromis. Nhưng Varden vẫn tiếp tục, dù lúc này họ đang tiến sâu vào Đế chế hơn, tiến thẳng tới thủ đô Urubaen, nơi ở của Galbatorix kiêu ngạo, xấu xa, khinh người vì hắn có sức mạnh của loài rồng.

TIẾN VÀO THÀNH PHỐ

Tiếng gầm của Saphira khiến các binh sĩ đằng sau hoảng sợ.

“Đi theo tôi!” Eragon hét. Nó giơ cao thanh Brisingr để ai ai cũng nhìn thấy. Thanh kiếm xanh phát ra ánh ngũ sắc rực rỡ phản chiếu lên đám mây đen dây đặc ở đằng tây. “Vì Varden!”

Mũi tên xé gió lao qua nó nhưng nó nào để ý.

Các chiến binh tụ họp tại chân dốc đầy đá cuội bên dưới Eragon và Saphira. Tất cả muôn người như một trả lời nó: “Vì Varden!”. Họ khua vũ khí gõ xuống nền đá sỏi.

Eragon quay lưng với những người lính. Ở phía bên kia rặng núi ngọn đồi là một trảng đất trống rộng lớn. Khoảng gần hai trăm người lính của Bạo chúa Galbatorix đang tụ tập trong đó. Đằng sau họ là một pháo đài tôi tắm với những cửa sổ nhỏ xíu và một vài ngọn tháp vuông vươn lên trên bầu trời. Trên ngọn tháp cao nhất là ánh lửa chiếu sáng căn phòng trên cùng. Eragon biết, ở đâu đó bên trong pháo đài là nơi ở của Lãnh chúa Bradburn vùng Belatona – thành phố mà đã nhiều giờ nay Varden chật vật đánh chiếm.

Hét một tiếng lớn, Eragon bay lên khỏi mặt đất tiến về phía những quân lính triều đình. Chúng lùi lại nhưng vẫn chĩa giáo về phía cái lỗ hổng Saphira để lại trên tường thành.

Eragon hơi nghiêng chân đi khi Saphira hạ cánh. Nó nhảy xuống, quỳ trên đầu gối với thanh kiếm trong tay.

Một trong những tên lính lợi dụng cơ hội phóng giáo vào họng Eragon.

Một ánh sáng lóe lên, Eragon đảo cổ tay, xoay thanh Brisingr nhanh hơn bất cứ một con người hay một tiên nhân nào gạt cây giáo đi. Mặt tên lính xám ngoét khi nhận ra sai lầm. Hắn muốn chạy nhưng nào có được. Trước khi hắn kịp nhúc nhích, Eragon đã lao lên và đâm thanh kiếm vào bụng hắn.

Từ cổ họng, Saphira phun ra một ngọn lửa xanh vàng và nhảy vào trảng trống sau Eragon. Nó dang chân đứng vững khi cô rồng hạ cánh. Cả chiến trường rung chuyển. Cỏ bên ngoài pháo đài rung lên như thể những đồng tiền đặt trên mặt trống. Phía bên trên, cánh cửa sổ đang mở bị đóng sập lại.

Tiên nữ Arya đi cùng Saphira. Mái tóc đen dài của nàng tung bay quanh khuôn mặt góc cạnh khi nàng nhảy xuống. Máu khô dính trên tay, cổ và trên lưỡi gươm nàng cầm. Trên nền đá sỏi, bóng dáng nàng sáng bừng lên trong trang phục da.

Sự xuất hiện của cô khiến Eragon yên lòng. Nó thích cô kề vai sát càng cùng nó và Saphira. Đôi với nó, nàng là một bạn chiến đấu hoàn hảo.

Nó cười với nàng và nàng cười hiền với nó, sau đó biểu hiện trên mặt nàng trở nên dữ dội và sung sướng. Trong chiến trận, sự kín đáo của nàng biến mất, thay vào đó là sự phóng khoáng nàng hiếm khi thể hiện trong đời thường.

Eragon dùng khiên che người khỏi ngọn lửa xanh đang xẹt qua xẹt lại giữa họ. Nó quan sát Saphira qua vành khiên. Ngọn lửa bao vây những tên lính đang run sợ, nhưng chưa làm hại chúng.

Một hàng những cung thủ trên pháo đài liên tục bắn tên vào Saphira. Nhiệt độ bên trên cô rồng quá cao khiến nhiều mũi tên cháy thành than giữa trời. Eragon phù phép bảo vệ xung quanh Saphira khiến những mũi tên còn lại không chạm nổi vào một cái vảy. Một mũi tên lạc bay ngược lại cắm thắng vào khiên của Eragon, tạo nên một vết lõm nhỏ.

Ngọn lửa đột nhiên cuốn lấy ba người lính, kết liễu chúng nhanh chóng khiến chúng không kịp kêu lên một tiếng. Những tên lính khác co cụm ở trung tâm vòng tròn lửa, ánh xanh sáng phản chiếu từ giáo mác.

Nhưng dù cố gắng đến mấy cô rồng cũng không thể làm tổn hại tới những kẻ còn lại. Cuối cùng cô nàng bỏ cuộc và khép hàm lại. Ngọn lửa biến mất khiến cả chiến trường yên lặng đến giật mình.

Eragon lần này và không biết bao nhiều lần đã nghĩ rằng kẻ lập lá chắn bảo vệ những bĩnh sĩ này phải là một pháp sư quyền năng lão luyện. Có phải Murtagh không? Nó phân vân.Nếu đúng như vậy, vì sao hắn và Thorn không ở đây để bảo vệ Belatona? Không phải Galbatorix muốn kiểm soát những thành phố của lão ư?

Eragon chạy lên phía trước, chỉ với một nhát kiếm đã chém bay đầu hàng tá binh sĩ, dễ dàng thể thu hoạch lúa mạch vậy. Nó xả kiếm ngang ngực tên lính gần nhất, xuyên qua lớp áo giáp như thể nó chỉ là một thứ vải cực mỏng. Máu phun lên. Rồi nó đâm tên tiếp theo và dùng khiên đánh vào tên lính phía bên trái, đánh bay hắn về phía ba tên lính khác, khiến bọn chúng ngã chỏng gọng.

Đối với Eragon, phản ứng của bọn lính có vẻ chậm chạp và vụng về. Còn nó như thể đang khiêu vũ, hạ gục chúng mà trên mình không có lấy một vết trầy. Saphira đang tả hữu xung đột bên trái nó, dùng móng vuốt to lớn của cô bé ném tung những tên lính lên trời, dùng đuôi đập vào chúng và chỉ bằng một cú lắc đầu để giết chúng. Bên phải nó, Arya di chuyển nhanh như chớp, nhân hình cô mờ mờ ảo ảo và mỗi lần kiếm vung lên lại báo hiệu cái chết của một tên nô bộc của Đế chế. Khi Eragon đang quay tròn chống trả lại hai mũi giáo đang nhắm về phía mình, nó thấy tiên nhân Blodhgarm người đầy lông đang đứng gần đó cùng với mười một tiên nhân khác – những người có nhiệm vụ bảo vệ nó và Saphira.

Từ đằng xa, các Varden xông vào chiến trường từ những lỗ hổng trên tường thành nhưng họ chưa dám tấn công vì ở gần Saphira rất nguy hiểm. Vả lại,Saphira, Eragon và các tiên nhân đâu cần trợ giúp để giết những binh sĩ này.

Trận chiến chia cắt Eragon và Saphira, đưa họ tới hai đầu chiến trường. Eragon không lo. Dù không có lá chắn, Saphira vẫn có thể một mình hạ gục hai mươi ba mươi tên một lúc.

Một mũi giáo phóng thẳng vào khiên của Eragon, làm bầm vai nó. Nó quay mặt đối diện với kẻ vừa phóng lao – một kẻ mang vết sẹo lớn và thiếu hai răng cửa dưới – và lao về phía hắn. Gã cố gắng rút thanh đoản kiếm đeo ở thắt lưng. Vào thời khắc cuối, Eragon quay người, đảo vai đập vào xương ức của gã.

Lực tác động khiến tên lĩnh thối lui vào bước, ngã xuống, ngất lịm.

Sau đó, một cơn mưa tên bay xuống, giết hoặc làm bị thương vô khối binh sĩ. Eragon né và dùng khiên che người dù nó biết phép thuật sẽ bảo vệ nó. Cẩn thận vẫn hơn, vì nó không bao giờ biết liệu trong quân địch có kẻ nào có khả năng phù phép cho mũi tên bay xuyên qua lá chắn phép thuật của nó hay không.

Eragon cong môi nở một nụ cười cay đắng. Những cung thủ bên trên kia đã nhận ra hy vọng chiến thắng duy nhất của chúng là giết chết Eragon và các tiên nhân, không cần biết chúng phải hy sinh bao nhiêu nhân mạng.

Muộn rồi, Eragon nghĩ và trong lòng dâng lên một cảm giác hài lòng mơ hồ¬. Các người đáng ra phải rời khỏi Đế chế ngay khi có cơ hội.

Trận mưa tên đã cho nó thời gian nghỉ ngơi. Tốt thôi. Họ tấn công thành phố từ lúc bình minh còn nó và Saphira luôn ở hàng tiên phong.

Ngay khi các mũi tên dừng lại, Eragon chuyển thanh Brisingr sang tay trái, nắm lấy thanh giáo của một tay lính và ném thẳng về phía những cung thủ cách 13 mét. Eragon biết, nếu không luyện tập lâu dài thì khó có thể phi giáo chuẩn. Nó không ngạc nhiên khi ném hụt mục tiêu nhưng nó bị ngạc nhiên khi không phi trúng bất cứ tay cung nào. Ngọn giáo bay vượt qua đầu họ và vỡ vụn khi đập vào tường thành phía trên.

Một chuyển động sượt qua khiến Eragon chú ý. Nó kịp nhìn thấy Arya phi giáo về phía những cung thủ; xuyên qua hai tên đứng gần nhau. Sau đó, Arya dùng thanh kiếm chỉ vào những tên cung thủ và hét: “Brisingr” (Lửa!) và ngọn giáo biến bùng lên một ngọn lửa xanh ngọc.

Những tên cung thủ thối lui, tránh xa những cái xác cháy. Chúng chạy trối chết qua cửa thành và lên tầng thành cao hơn.

“Chẳng công bằng chút nào,” Eragon nói. “Tôi không sử dụng được câu chú đó, nếu không thanh kiếm của tôi sẽ cháy như đốt lửa trại mất.”

Arya hứng thú nhìn nó.

Trận chiến kéo dài thêm vài phút, sau đó những kẻ còn sống sót hoặc đầu hàng hoặc tháo chạy.

Eragon để cho năm tên lính phía trước nó bỏ chạy; nó biết chúng cũng chẳng đi xa nổi. Sau khi kiểm tra nhanh xem những kẻ nằm ngổn ngang xung quanh nó thực sự đã chết, nó nhìn về phía bên kia chiến trường. Một vài Varden đã mở cổng thành ngoài và đang vác thanh gỗ đi qua con đường dẫn tới lâu đài. Một số người khác đã đứng sẵn ở cổng lâu đài, sẵn sàng đối đầu với quân lính bên trong. Trong số họ có cậu anh họ của Eragon, Roran, đang lăm lăm cây búa trong khi chỉ huy đội quân dưới quyền. Xa xa, Saphira bước qua những xác chết và xung quanh cô nàng là những xác chết như ngả rạ. Máu bết lên những chiếc vảy như ngọc, những chấm đỏ đó đối lập gay gắt với màu xanh trên cơ thể cô nàng. Cô nàng quay đầu gầm chiến thắng, nhân chìm tiếng la hét của tất cả những người trong thành phố.

Sau đó, từ trong lâu đài, Eragon nghe thấy tiếng xích và tiếng bánh răng, tiếp theo là kèn kẹt của cánh cửa gỗ. m thanh đó thu hút ánh nhìn của mọi người về phía cánh cửa.

Bum! Cánh cửa bật tung ra. Một làn khói bốc lên từ đuốc xộc ra, khiến những Varden đứng gần nhất ho hắng và che mặt. Từ trong cảnh mịt mờ đó vang lên tiếng móng ngựa gõ lên đá trải đường; tiếp theo là ngựa và người xong ra từ giữa đám khói. Ở tay trái hắn cầm một thứ mà lúc đầu Eragon nghĩ là một cây thương, nhưng sau nó để ý thấy nó làm bằng một vật liệu màu xanh lơ đến khác thường, lưỡi thương có ngạnh và hình dáng bất thường. Đầu ngọn thương tỏa ra thứ ánh sáng mờ mờ không bình thường chứng tỏ sự hiện hữu của pháp thuật.

Tên kỵ sĩ giật cương ngựa, nhắm về phía Saphira mà nhắm tới. Cô nàng đứng lên hai chân sau, giơ bộ vuốt phải kinh hoàng định giết chết đối thủ.

Eragon thấy lo. Tên kỵ sĩ quá tự tin, ngọn thương quá khác thường, quá kỳ quái. Dù cho lá chắn của cô rồng sẽ bảo vệ nó, nhưng Eragon vẫn chắc chắn Saphira đang bị đe dọa tính mạng.

Mình sẽ không tới kịp mất, nó nhận ra. Nó xâm nhập vào đầu óc gã kỵ sĩ, nhưng hắn quá tập trung vào nhiệm vụ mà chẳng biết đến sự hiện diện của Eragon và chính vì vậy Eragon không thể xâm nhập sâu vào suy nghĩ của hắn. Eragon rút khỏi đầu gã, nhớ lại hàng tá những từ ngữ của ngôn ngữ cổ xưa, ghép chúng lại thành một câu thần chú đơn giản để chặn đứng con ngựa chiến đang phi nước đại kia. Eragon biết đây là một hành động ngu ngốc – Eragon biết nếu như gã kỵ sĩ kia không phải là một pháp sư thì hắn hay nó sẽ chịu hậu quả ra sao nếu bị tấn công bằng phép thuật – nhưng Eragon không định đứng yên trong khi Saphira đang bị đe dọa tính mạng.

Eragon hít một hơi thật sâu. Nó nhắc mình phải phát âm những từ ngữ khó thật chuẩn. Sau đó nó mở miệng đọc thần chú.

Nhưng các tiên nhân còn nhanh hơn nó. Trước khi nó kịp nói ra một từ, những tiếng lẩm nhập cắt đứt suy nghĩ của nó. Những tiếng nói rì rầm rì rầm tạo nên một âm điệu không hợp âm, không giai điệu.

“Mëa –” nó định nói thì phép thuật của những tiên nhân đã có hiệu quả.

Khung cảnh phía trước con ngựa xoay tròn và biến đổi, thảm cỏ trôi như nước, mặt đất nứt dài, sâu thăm thẳm. Con ngựa hí vang, dừng sững lại trước hố nứt, gẫy chân trước và ngã xuống.

Khi người và ngựa đổ xuống, gã kỵ sĩ kéo tay về phía sau, lấy đà nhắm cây thương và phóng về phía Saphira.

Saphira không thể chạy. Cô nàng không thể lẩn trốn. Vì thế, nó vẫy tay mong gạt cây thương đi. Nhưng nó đã đỡ hụt – chỉ vài cm – và Eragon kinh hoàng nhìn cây thương cắm ngập độ một mét vào ngực cô rồng, ngay bên dưới xương đòn.

Eragon chỉ còn cảm thấy tức giận. Nó rút hết tất cả năng lượng trong người – trong cơ thể nó, trong chuôi gươm xanh ngọc bích, trong mười hai viên kim cương trên Đai lưng của Beloth khôn ngoan đang đeo quanh eo, trong chiếc nhẫn Aren đeo trên bàn tay phải – chuẩn bị tiêu diệt gã kỵ sĩ.

Nhưng Eragon đã dừng lại khi thấy Blodhgarm xuất hiện bên phải Saphira. Tiên nhân hạ gục tên kỵ sĩ. Như thể một con báo tấn công một con nai, Blodhgarm xé toang cổ họng gã bằng những chiếc răng trắng dài.

Những tiếng rên tuyệt vọng phát ra từ phía cửa sổ cao cao trên pháo đài, tiếp theo là một trận nổ lớn làm bắn tung những gạch đá trong lâu đài, rơi trúng các Varden, đập vào tay chân và thân mình họ như thể đập vào những cành củi khô.

Eragon không quan tâm tới trận mưa đá đang trút xuống chiến trường mà chạy về phía Saphira, cũng chẳng để ý tới Arya và những hộ vệ của nó đang sát cánh bên canh. Những tiên nhân khác ở gần cô rồng hơn, đã bao quanh nó, xem xét cây thương đang cắm trên ngực nó.

“vết thương tệ quá – Liệu em ấy có – ” Eragon nói. Nó quá buồn không thể nói hết câu. Nó nóng lòng được trò chuyện với Saphira nhưng ai biết có thầy phép trong vùng này không. Nó không dám vì lo hắn sẽ xâm nhập vào suy nghĩ của nó hoặc giả kiểm soát cơ thể nó.

Sau những giây phút chờ đợi như kéo dài vô tận, tiên nhân Wydren nói, “Ngài nên cảm ơn số phận, thưa Khắc tinh của tà thần. Mũi thương không đâm vào tĩnh mạch và động mạch cổ. Nó chỉ làm bị thương phần mềm và chúng tôi có thể trị thương được.”

“Các ngài rút mũi thương ra được không? Liệu nó có bị phù phép để...”

“Chúng tôi sẽ quan tâm tới việc này, thưa Khắc tinh của tà thần.”

Tất cả các tiên nhân, trừ Blodhgarm đều đứng trang nghiêm như thể những thày tu đứng trước bàn thờ Chúa. Họ đặt bàn tay lên ức Saphira và hát. Tiếng hát của họ như thể lời thì thầm của gió thổi qua rặng liễu. Họ hát về sự ấm áp và sinh trưởng, họ hát về những cơ bắp, gân và mạch máu và hát về nhiều vấn đề bí ẩn khác. Saphira phải cực kỳ cố gắng để duy trì tư thế trong suốt quá trình niệm chú mặc dù nó cơ thể cô nàng run lên từng giây một. Một dòng máu rỉ xuống từ nơi ngọn thương cắm vào.

Khi Blodhgarm tiến về chỗ Eragon, nó nhìn vị tiên. Máu khô dính trên lớp lông trên cằm và cổ ông. Dưới ánh sáng xanh đen lúc nửa đêm, màu máu trở nên đen thẫm.

“Cái gì kia?” Eragon hỏi, chỉ vào ngọn lửa đang nhảy múa trên cửa sổ trên pháo đài.

Blodhgarm liếm môi, xòe bộ vuốt như vuốt mèo trước khi trả lời. “Trước khi hắn chết, tôi đã xâm nhập vào đầu óc hắn, thông qua đó, tôi xâm nhập vào đầu óc tên thuật sĩ giúp đỡ hắn.”

“Ông đã giết tên thuật sĩ đó?”

“Nói đúng ra là tôi buộc hắn tự vẫn. Tôi không thường hành động quá khích như vậy nhưng tôi... giận quá.”

Eragon tiến lên phía trước, tự mình xem xét khi Saphira trầm giọng rên rỉ một tiếng dài. Không ai động vài ngọn thương, nó tự động từ từ rời khỏi ngực cô rồng. Mắt cô nàng hấp háy, cô rồng thở dốc khi đoạn thương chỉ còn đâm sâu 15 phân. Đầu thương gai tỏa ra quầng sáng xanh ngọc rơi xuống mặt đất và nẩy lên trên nền đá lát, tiếng rơi như thể ngọn thương làm bằng gốm hơn là bằng kim loại.

Khi các tiên nhân ngừng hát và rời tay khỏi ngực Saphira, Eragon vội chạy đến và sờ vào cổ cô nàng. Nó muốn an ủi cô bé, muốn cô bé hiếu nó sợ như thế nào, muốn nói chuyện với cô. Thay vào đó, nó chỉ nhìn vào đôi mắt sáng xanh kia và hỏi, “Em ổn không?” Những từ ngữ đó không thể nào so sánh nổi với những cảm xúc trong lòng nó lúc này.

Saphire trả lời bằng một cái chớp mắt, rồi cúi đầu xuống và nhẹ nhàng thở một hơi thở ấm áp vào mặt nó.

Eragon mỉm cười. Sau đó nó quay lại nhìn các tiên nhân và nói, “Eka elrun ono, älfya, wiol förn thornessa,” – cám ơn sự giúp đỡ của họ bằng ngôn ngữ cổ. Các tiên nhân chữa trị cho cô rồng cái, kể cả Arya, cúi xuống, đặt tay lên ngực phải thể hiện sự tôn trọng. Eragon để ý hơn nửa số tiên nhân bảo vệ nó và Saphira giờ trở nên trắng bệch, yếu ớt, đứng không vững.

“Lùi về nghỉ ngơi đi,” nó nói với họ. “Nếu các ngài sẽ giết chết mình mất nếu còn ở lại. Đi đi, đây là mệnh lệnh!”

Dù Eragon biết chắc họ không muốn đi, nhưng bảy tiên nhân đã trả lời nó, “Vâng lệnh, thưa Khắc tinh của Tà thần,” sau đó rời khỏi chiến trường, sải chân bước qua những xác chết và đống gạch vụn. Họ luôn luôn thể hiện vẻ cao quý, thanh thoát, kể cả khi sức cùng lực kiệt.

Eragon tiến lại gần Arya và Blödhgarm đang nghiên cứu cây thương. Trên gương mặt họ biểu hiện nét khác lạ như thể họ không biết nên phản ứng ra sao. Eragon ngồi xuống cạnh họ, cố không để cơ thể động chạm vào ngọn thương. Ông nhìn chằm chằm vào đường khắc tinh tế ở dưới ngọn thương. Những đường khắc này trông khá quen mắt nhưng nó không biết vì sao; nửa màu xanh của ngọn thương không phải được làm từ gỗ hay kim loại; một lần nữa ánh sáng nhè n hẹ của nó lại nhắc nó nhớ tới chiếc đèn không cần nến mà thần tiên và người lùn sử dụng để thắp sáng các hành lang.

“Hai người có nghĩ đây là chế tác của Galbatorix không?” Eragon hỏi. “Có thể lão quyết định nên giết thay vì bắt tôi và Saphira. Có lẽ lão tin rằng chúng tôi thực sự là mối đe dọa với hắn.”

Blödhgarm cười không hề thoải mái. “Tôi không nghĩ là vậy, thưa Khắc tinh của tà thần. Chúng ta chẳng là một mối bận tâm nhỏ đối với Galbatorix. Nếu lão thật sự muốn hai người hoặc bất kỳ ai trong chúng ta chết, hắn chỉ cần bay tới từ Urȗ’baen và trực tiếp đối đầu với chúng ta và chúng ta sẽ rụng như lá khô trong trước cơn bão mùa đông. Lão kiểm soát sức mạnh của rồng và không ai có thể đứng vững trước lão. Ngoài ra, Galbatorix không thể dễ dàng lơi là việc triều chính. Có thể lão ta điên, cũng có thể xảo quyệt nhưng trên nhất, lão là một kẻ tham vọng. Nếu lão ta muốn nô dịch nó, lão sẽ làm bằng được, không gì có thể chống nổi lão.”

“Trong bất cứ trường hợp nào,” Arya lên tiếng, “thì thứ này cũng không phải chế tác của Galbatorix. Nó là của chúng ta.”

Eragon nhíu mày. “Chúng ta? Varden không làm ra thứ này.”

“Không phải Varden mà là tạo tác của giống tiên.”

“Nhưng...” nó ngừng nói, cố gắng tìm ra từ đúng. “Nhưng tiên nhân không hợp tác với Galbatorix. Họ thà chết còn hơn...”

“Galbatorix không làm ra nó, mà kể cả có, lão cũng không bao giờ giao một thứ vũ khí quyền năng và hiếm có như thế này vào tay một người không thể giữ nó. Đây là thứ Galbatorix không muốn rơi vào tay chúng ta nhất trong tất cả thứ vũ khí của Alagaësia.”

“Vì sao?”

Blödhgarm rên nhỏ trong họng và nói, “Vì thưa Eragon Khắc tinh của tà thân, đây là Dauthdaert.”

“tên của nó là Niernen, Đóa hoa lan,” Arya nói. Cô chỉ vào những đường khắc dọc lưỡi thương, những đường khắc mà Eragon đã nhận ra thực ra là những con chữ tượng hình của giống tiên – những con chữ cong cong, bện vào nhau kết thúc bằng những đường nét như sợi gai.

“Dauthdaert?” Khi Arya và Blödhgarm ngờ vực nhìn Eragon, nó nhún vai, xấu hổ vì kiến thức của mình. Nó xấu hổ vì trong quá trình trưởng thành, các tiên nhân dành hàng thập kỷ để học hỏi kiến thức từ những học giả bậc thầy của nòi giống họ trong khi ông cậu Garrow của nó thậm chí không dạy cho nó viết nổi tên mình vì ông cho nó chẳng có gì quan trọng. “Tôi chỉ nghiên cứu cuốn Ellesméra thôi. Cái đó là gì? Có phải nó được rèn trong giai đoạn thoái trào của các Kỵ sĩ, được dùng để chống lại Galbatorix và THập tam phản đồ?”

Blödhgarm lắc đầu. “Niernen còn có từ lâu hơn trước đó nhiều?”

“Dauthdaertya,” Arya nói. “được sinh ra từ nỗi sợ hãi và hận trong những trận chiến cuối cùng của chúng tôi và loài rồng. Những thợ rèn và những thầy phép tài giỏi nhất đã tạo ra chúng từ những nguyên liệu mà giờ chúng tôi không biết được, niệm vào đó những câu thần chú chúng tôi đã không còn biết nhớ, và đặt tên cho tất cả mười hai thanh theo tên những loài hoa đẹp nhất – nhưng chúng được sinh ra để làm những nhiệm vụ xấu xa nhất – giết chết những con rồng.”

Sự sợ hãi chiếm giữ lấy Eragon khi nó nhìn vào thanh thương đang phát sáng. “Chúng có làm được việc đó không?”

“Những tiền bối nói rằng máu rồng từ trên trời trút xuống như trút nước.”

Saphira rít lên những tiếng chói lói và sắc lạnh.

Eragon nhìn cô em trong chốc lát và nhận ra những Varden vẫn đang đứng trước tòa tháp, đợi nó và Saphira tiếp tục trận đánh.

“Tất cả các thanh Dauthdaertya đều đã bị hủy hoặc hỏng hóc,” Blödhgarm nói. “Rõ ràng là chúng tôi đã lầm. Niernan đáng ra phải được giao tới tay gia đình Waldgrave và họ phải chôn giấu nó tại Belatona. Tôi đoán có thể khi chúng ta vượt qua tường thành, Lãnh chúa Bradburn không còn đủ can đảm nữa, vì thế hắn đã ra lệnh dùng thanh Niernan để chặn đứng nó và Saphira. Chắc chắn Galbatorix sẽ vô cùng tức giận nếu biết Bradburn đã định giết hai người.”

Dù hiểu cuộc chiến đang gấp rút thế nào nhưng sự tò mò của Eragon không để nó rời đi. “Dù cho ngọn thương này có phải thanh Dauthdaetya không thì hai người vẫn chưa giải thích cho tôi vì sao Galbatorix không muốn chúng ta có thứ này.” Nó chỉ vào ngọn thương. “Vì sao Niernen lại nguy hiểm hơn bất kỳ một thứ giáo mác nào ở đây, hoặc giả còn hơn cả Bris...” nó ngậm miệng kịp thời trước khi thốt ra toàn bộ cái tên. “hoặc giả thanh kiếm của tôi?”

Arya trả lời nó. “Cậu thấy đấy, Niernen không thể bị bẻ gẫy, không thể bị lửa xâm phạm, hầu như hoàn toàn miễn dịch với phép thuật. Những thanh Dauthdaetya không bị ảnh hưởng bởi phép thuật của loài rồng đồng thời bảo vệ người sử dụng nó khỏi thứ ma thuật phức tạp, không đoán trước được của loài rồng. Galbatorix có thể tạo kết giới bảo vệ lão và Shruikan mạnh hơn bất cứ ai ở Alagaësia, nhưng Niernen vẫn có thể xuyên thủng phòng tuyến đó như thể nó không tồn tại.”

Eragon hiểu và nó thấy phấn chấn hẳn. “Chúng ta phải...”

Một tiếng rít ngắt lời nó.

m thanh đó đột ngột, sắc ngọt, run rẩy như thể kim loại va chạm vào đá. Nó cảm thấy quai hàm rung lên và nó bịt tai, nhăn nhó quay người lại xem âm thanh đó phát ra từ đâu. Saphira ngửng đầu, và trong chuỗi âm thanh đó nó vẫn nghe thấy tiếng cô nàng rên rỉ đau đớn.

Eragon lướt nhìn chiến trường hai lần trước khi nhìn thấy một cột bụi bốc lên từ bức tường chòi canh qua một lỗ hổng rộng khoảng 30 phân bên dưới phần cửa sổ tối đen đã bị hủy hoại khi Blöhgarm giết tên thuật sĩ. Tiếng rít càng lúc càng lớn, Eragon liều lĩnh bỏ một tay che tai, chỉ về phía lỗ hổng.

“Nhìn kìa!” nó hét lên với Arya, nàng gật đầu ra chừng đã hiểu. Nó áp tay lên tai.

Không hề báo trước, âm thanh đột ngột ngừng lại.

Eragon đợi trong một lúc, sau đó từ từ hạ tay xuống. Lần đầu tiên nó mong sao thính giác của nó không mẫn cảm đến thế.

Đúng lúc đó, lỗ hổng mở rộng ra – kéo dài vài feet – bổ dọc chòi canh. Tựa như một tia chớp, lỗ hổng mở rộng xuống tận chân tường đá. Cả lâu đài rung chuyển, nghiêng về phía trước.

“Chạy!” Eragon hét lớn chỉ huy Varden, mặc dù những người lính đã bỏ chạy khỏi chiến trường, cố gắng trong tuyệt vọng nhằm thoát khỏi bức tường thành đang nghiêng ngả kia. Eragon bước lên một bước, mọi cơ bắp trên người nó căng cứng khi tìm kiếm bóng dáng Roran trong dòng người đang tháo lui.

Cuối cùng Eragon cũng nhìn thấy anh, nằm trong nhóm những người cuối cùng rời khỏi cánh cổng, đang điên cuồng ra lệnh cho những người trong đội, tiếng nói của anh bị nhấn chìm trong trận hỗn loạn. Bức tường nghiêng đi và đổ sụp mất vài mét – xa khỏi những tòa nhà khác – trút đá xuống Roran, khiến anh lảo đảo, khiến anh ngã ngược về phía cánh cửa đang mở toang.

Khi Roran đứng thẳng dậy, anh nhìn thẳng vào Eragon. Eragon nhìn thấy trong đôi mắt đó sự sợ hãi, vô vọng, tiếp theo đó là sự đầu hàng, như thể Roran biết rằng, dù anh có chạy nhanh thế nào, anh cũng không thể đến được nơi an toàn.

Roran nở một nụ cười chế giễu.

Và bức tường sập xuống.

CY BÚA DŨNG MÃNH NGÃ XUỐNG

“Không!” Eragon hét lên khi bức tường tháp canh sụp xuống, chôn Roran và năm người chiến binh khác dưới đống gạch đá cao 6m, và phủ bụi lên toàn bộ chiến trường.

Tiếng hét của Eragon quá lớn, giọng nó vỡ ra, mùi máu tanh dâng lên cổ nó. Nó hít một hơi, rồi một hơi nữa, ho hắng.

“Vaetna,” nó hổn hển nói và vẫy tay. Màn bụi xám dày đặc tản ra với một tiếng động như tiếng lụa sột soạt, để lại khoảng giữa chiến trường sạch sẽ. Eragon đang quá chú ý tới Roran mà không quan tâm xem câu thần chú đã lấy đi của nó bao nhiêu sức mạnh.

“Không, không, không, không,” Eragon lẩm bẩm. Anh ấy không thể chết. Anh ấy không thể, không thể, không thể... Như thể nó nghĩ khi nó nhắc lại cụm từ đó nó sẽ biến thành sự thật. Nhưng có càng lúc hy vọng càng ít đi và những lời nói của nó chỉ là một lời cầu xin nhỏ nhoi trong vô số những lời nguyện cầu trên toàn thế giới.

Đằng sau nó, Arya và các chiến binh Varden đứng đó ho hắng và dùng tay chùi mắt. Nhiều người cúi người xuống chờ đợi vụ nổ. Những viên đá tảng từ các tòa nhà rơi xuống chiến trường, làm cảnh vật tan hoang. Hai căn phòng rưỡi ở tầng hai tháp canh và một căn phòng ở tầng ba – căn phòng nơi tên thuật sĩ chết tức tưởi – lộ ra hoàn toàn. Căn phòng và đồ đạc bên trong nom bẩm thỉu và có vẻ tồi tàn hơn dưới ánh sáng rực rỡ của mặt trời. Sáu tên cung thủ bên trong đó bỏ chạy toán loạn khi thấy sàn nhà dưới chân chúng đang lở ra. Chúng xô đẩy nhau chạy ra cửa ở phía bên kia căn phòng và biến mất trong phần khuất của tháp canh.

Eragon cố ước tính khối lượng đống đá đang đè lên Roran; chắc khoảng mấy trăm cân. Nếu nó, Saphira và các tiên nhân cùng hợp tác, nó chắc chắn họ có thể dùng pháp thuật dịch chuyển tảng đá, nhưng sau đó họ sẽ rất yếu ớt. Hơn nữa, để làm được điều đó họ cần có thời gian. Trong chốc lát, Eragon nghĩ tới Glaedr – ông rồng vàng có thể nâng toàn bộ đống đá một lúc – nhưng hoàn cảnh thì quá gấp rút và Eldunari của ông Glaedr sau đó cần một khoảng thời gian rất dài để khôi phục sức mạnh. Eragon biết, trong bất kỳ trường hợp nào nó cũng không nên thuyết phục ông Glaedr nói chuyện với nó và lại càng không vì chuyện cứu Roran và những chiến binh khác.

Bỗng Eragon thấy bóng dáng Roran xuất hiện đằng sau đống đá bụi che khuất anh. Anh đang đứng ngay dưới cổng thành. Ngay lập tức, Eragon nhận ra nó phải làm gì.

“Saphira, giúp họ!” Eragon hét lên khi nó liệng khiên đi và nhảy bổ về phía trước.

Đằng sau, nó nghe thấy tiếng Arya lẩm bẩm gì đó bằng ngôn ngữ cổ - hình như là “Ẩn hình!”. Đoạn, cô bắt kịp nó, tay lăm lăm thanh kiếm, chuẩn bị cho một cuộc vật lộn.

Khi nó tới chân đống đổ nát, Eragon nhảy lên cao hết mức có thể. Nó đặt một chân xuống bề mặt đá rồi lại nhảy lên từ chỗ này sang chỗ khác, như thể một con dê núi di chuyển trên vách núi. Nó ghét làm xê dịch đống đá, nhưng trèo lên đó là cách nhanh nhất.

Với một cú nhảy cuối cùng, Eragon đáp xuống rìa tầng hai, sau đó chạy về phía bên kia phòng. Nó đẩy cảnh cửa với một lực mạnh tới nổi làm tung then cửa và bản lề, và khiến cảnh cửa gỗ sồi bay đập vào bức tường hành lang phía trước, vỡ tan tành.

Eragon gấp gáp chạy trong hành lang. Nó không còn nghe thấy tiếng bước chân và hơi thở cửa mình, như thể tai nó chứa toàn nước.

Bước chân của nó chậm lại khi tới gần cánh cửa mở. Nó nhìn thấy một nhóm năm người trang bị vũ khí đang chỉ trỏ tấm bản đồ và cãi vã. Không ai để ý tới Eragon.

Nó tiếp tục chạy.

Nó quẹo ở một khúc ngoặt và va vào một tên lính đang đi theo hướng ngược lại. Eragon nảy đom đóm mắt khi đập trán vào rìa khiên của tay lính nọ. Nó lao vào tên lính, hai người quần thảo một hồi trên hành lang như thể hai vũ công say rượu.

Tên lính buông lời nguyền rủa. “Mày làm sao thế, thằng trời đánh thánh vật kia...” hắn nói và sau đó khi nhìn thấy khuôn mắt Eragon, đôi mắt hắn mở to. “Mày!”

Eragon nắm bàn tay phải và đấm vào phần bụng ngay dưới xương sườn hắn. Cú đấm khiến hắn bật ngửa người, ngã bổ chửng xuống nền nhà. “Là tao,” Eragon hưởng ứng khi hắn nằm bất động dưới sàn nhà.

Eragon tiếp tục chạy dọc hành lang. Tốc độ của nó nhanh gấp đôi khi mới nhảy vào tháp canh; nó cảm thấy như thể trái tim nó sắp chồi ra khỏi lồng ngực.

Nó là đâu? Nó thầm nghĩ, phát cuồng lên khi nhìn qua một cảnh cửa khác và vẫn chỉ thấy một căn phòng trống.

Cuối cùng, tại cuối một hành lang phụ bẩn thỉu, nó nhìn thấy một cầu thang uốn lượn. Nó bước năm bước một, không quan tâm tới sự an toàn của bản thân mà cứ thế phóng xuống tầng một. Nó chỉ dừng lại để xô ngã một cung thủ bị giật mình vì sự xuất hiện của nó sang một bên.

Những bậc thang kết thúc còn nó bước vào một căn phòng mái vòm cao gợi cho nó nhớ tới nhà thờ ở Dras-Leona. Nó quay người nhìn xung quanh và bị ấn thượng ngay tức khắc: khiên, vũ khí và cờ xí đỏ treo trên tường; những cửa sổ hẹp nằm sát trần nhà; những ngọn đuốc được đặt trên giá đỡ sắt; những lò sưởi nguội ngắt, những chiếc bàn dài màu sẫm để dọc hai bên hội trường; một chiếc bục được đặt phía trên căn phòng, tại đó một người đàn ông râu dài đang đứng trước một chiếc ghế tựa. Phía bên phải, giữa cánh cửa dẫn xuống cổng tháp canh và ông ta là một đội quân khoảng năm mươi tên lính. Sợi chỉ vàng trên quân phục chúng tỏa ra ánh sáng lấp lánh khi chúng quay người nhìn nó với vẻ ngạc nhiên.

“Giết hắn!” người đàn ông mặc áo choàng ra lệnh, giọng có vẻ run sợ hơn là kiêu ngạo. “Ai giết được hắn sẽ được một phần ba tài sản của ta! Ta hứa đó!”

Eragon lại một lần nữa đè nén cảm xúc thất vọng đang dâng lên trong nó. Nó rút thanh kiếm khỏi vỏ, giơ cao lên đầu và hết:

“Brisingr!”

Một trận gió thổi tới, ngọn lửa xanh ma mị hiện hữu quanh lưỡi kiếm, chạy dọc lên mũi kiếm. Nhiệt lượng phát ra từ ngọn lửa làm ấm bàn tay, cánh tay và một bên mặt Eragon.

Sau đó Eragon hạ mắt nhìn những tên lính. “TRánh ra,” nó lồng lộn hét.

Những tên lính chần chừ trong thoáng chốc rồi quay người bỏ chạy.

Eragon lao về phía trước, không quan tâm tới những kẻ phía sau đang hoảng loạn và vung kiếm. Một kẻ trượt châ ngã trước mặt nó, Eragon nhảy qua, không hề chạm tới chóp mũ hắn.

Cơn gió thổi trong hành lang làm ngọn lửa kéo dài về phía sau như hình ảnh một con ngựa đang phi nước đại.

Eragon dùng vai đẩy cánh cửa đôi dẫn tới hành lang chính. Nó chạy qua một căn phòng dài và rộng lớn đầy những tên lính – cũng như bánh răng, ròng rọc, và những thứ khí cụ khác dùng để nâng hạ cổng tháp canh – sau đó chạy hết tốc lực tới cánh cổng sắt đan chặn đường tới nơi Roran đang đứng khi bức tường tháp canh sụp đổ.

Những thanh sắt oằn lại khi Eragon đâm vào nó nhưng chưa đủ để phá tan cánh cổng sắt

Nó lùi lại một bước.

Một lần nửa nó chuyển năng lượng từ những viên kim cương trên thắt lưng – thắt lưng của Beloth khôn ngoan – vào thanh Brisingr, lấy đi toàn bộ năng lượng trự trong viên đá ở chuôi kiếm để khiến ngọn lửa mạnh kinh người. Nó hét lên và chém kiếm xuống cánh cổng sắt. Những tia lửa đỏ vàng nhảy nhót xung quanh nó, làm cháy găng tay và áo ngoài, làm cho phần da thịt lộ ra của nó buốt nhói. Sắt nóng chảy cuống đầu mũi giày nó. Nó nhích mũi chân, đẩy giày ra.

Ba nhát chém và một phần cổng sắt đủ cho một người chui quá rơi xuống. Những thanh sắt nóng tỏa ra ánh sáng trắng nóng chiếu sáng một khoảng không gian.

Eragon kệ cho ngọn lửa của thanh Brisingr lụi dần khi bước qua lỗ hổng vừa tạo.

Đầu tiên nó rẽ trái, rẽ phải rồi rẽ trái vào một lối đi nhỏ - một con đường mòn ngoằn ngoèo được dùng để làm chậm bước tiến của quân xâm lược khi chúng muốn tiến vào pháo đài.

Khi quặt vào góc cuối cùng, Eragon nhìn thấy mục tiêu của mình: tiền sảnh chất đầy đá tảng. Kể cả khi nó có đôi mắt như thần tiên, nó chỉ có thể nhìn thấy được những hình dạng lớn nhất trong màn đen vì những viên đá rơi xuống đã làm tắt hết đuốc trên tường. Nó nghe tiếng cãi vã và ẩu đả như thể có một con quái vật vụng về đang chồi lên từ dưới đống gạch vụn.

“Naina,” Eragon nói.

Một ánh sáng xanh không biết từ đâu xuất hiện chiếu sáng toàn bộ khoảng không. Ngay trước nó là Roran, người bê bết đất bụi, máu và mồ hôi, răng nhe ra đáng sợ, đang vật lộn với một tên lính bên cạnh xác chết của hai tên khác.

Tên lính nheo mắt vì chói và Roran nhân cơ hội đó ấn hắn xuống, cướp lấy con dao ở thắt lưng hắn và cắt cổ hắn.

Tên lính giãy lên hai nhát sau đó nằm im.

Roran thở hổn hển, đứng dậy, máu nhỏ tong tong từ những ngón tay anh. Anh quay qua nhìn Eragon với vẻ ngạc nhiên.

“Đến lúc em...” anh nói rồi anh nhắm mắt ngất đi.

NHỮNG BÓNG ĐEN ĐẰNG CHN TRỜI

Để kịp đỡ Roran, Eragon phải thả thanh Brisingr dù không muốn. Nhưng cuối cùng, cậu thả tay và thanh kiếm rơi khô khốc xuống mặt đá cùng đỡ lấy toàn bộ trọng lượng của Roran trong lòng.

“Anh ấy bị thương nặng lắm không?” Arya hỏi.

Eragon giật mình ngạc nhiên khi nhận ra nàng và Blödhgarm đang đứng cạnh. “Tôi không nghĩ vậy.” Nó sờ lên má Roran vài lần để lau đi bụi bẩn trên mặt anh. Dưới ánh sáng phép thuật màu xanh lạnh lẽo trông Roran hốc hác, mắt quầng thâm và môi tím tái, như thể bị nhuộm bằng nước quả việt quất. “Thôi nào, tỉnh lại đi.”

Sau đó vài giây, mí mắt Roran động đậy; sau đó anh mở mắt và nhìn Eragon tỏ vẻ bối rối. Eragon chưa bao giờ cảm thấy nhẹ nhõm tới thế. “Anh ngất đi một lúc,” nó giải thích.

“À.”

Anh ấy còn sống! Eragon nói với Saphira, dù gì nó cũng phải nói chuyện với cô em của nó.

Rõ ràng cô rồng cũng vui vẻ. Tốt. Em sẽ ở đây và giúp các tiên nhân dịch chuyển đá chắn đường. Nếu anh cần em, cứ hét lên và em sẽ tìm đường tới chỗ anh.

Áo giáp của Roran kêu rổn roảng khi Eragon giúp anh đứng dậy. “Những người còn lại sao rồi?” Eragon hỏi và chỉ về phía đống gạch vụn.

Roran lắc đầu.

“Anh chắc không?”

“Không ai sống nổi đâu. Anh thoát vì... vì được mái hiên đỡ hộ một phần.

“Còn anh thế nào? Anh ổn không?” Eragon hỏi.

“Cái gì?” Roran nhíu mày, có vẻ không chú ý, như thể anh chưa từng nghĩ anh có chuyện gì. “Anh ổn cả... Hình như anh bị gẫy cổ tay. Nhưng không tệ lắm.”

Eragon liếc nhìn Blödhgarm. Những biểu hiện trên khuôn mặt vị tiên căng lên và dù có vẻ không thích thú lắm nhưng ông vẫn đến bên Roran và nhẹ nhàng lên tiếng, “Có thể tôi...” Ông xòe tay về phía cánh tay bị thương của Roran.

Trong khi Blödhgarm chữa trị cho Roran, Eragon nhặt thanh Brisingr lên sau đó cùng Arya đứng canh chừng lối vào phòng khi tên lính nào đó ngu ngốc xông vào tấn công.

“Đây, xong rồi đó,” Blödhgarm nói. Ông đi ra chỗ khác để lại Roran đang xoay cổ tay kiểm tra khớp xương.

Roran hài lòng cảm ơn Blödhgarm, sau đó hạ tay xuống, cúi xuống nhìn đống gạch vụn tới khi tìm thấy cây búa. Anh chỉnh lại áo giáp và nhìn về phía lối vào thành. “Anh đã sắp sửa giết được Lãnh chúa Bradburn,” anh nói bằng giọng bình tĩnh một cách giả tạo. “Lão đã tại vị quá lâu và đã đến lúc lão về vườn rồi. Cô đồng ý không, Arya?”

“Đồng ý,” nàng đáp.

“Vậy thì chúng ta hãy tìm lão già ngu ngốc bụng bự đó. Sau đó tôi sẽ đập cho lão vài búa vì những người đã ngã xuống ngày hôm nay.”

“Vài phút trước lão ở trong hội trường lớn,” Eragon nói, “nhưng em không nghĩ lão còn ở đó đợi chúng ta quay lại đâu.”

Roran gật đầu. “Vậy thì chúng ta sẽ truy tìm hắn.” Nói đoạn anh bước đi.

Eragon xóa bỏ câu thần chú và vội vàng chạy theo ông anh họ, tay cầm chắc thanh Brisingr sẵn sàng chiến đấu. Arya và Blödhgarm bám sát cậu hết mức có thể khi đi trong hành lang ngoằn ngoèo.

Căn phòng hành lang dẫn tới giờ trống không, cũng như đại sảnh của lâu đài, bằng chứng cho thấy vài phút trước hàng chục tên lính đứng đó là những mũ trụ nằm lăn lóc trên nền nhà.

Eragon và Roran chạy qua bệ đá hoa cương. Nó phải kiềm chế tốc độ để không bỏ rơi Roran phía sau. Họ đá tung cánh cửa bên trái và chạy lên cầu thang.

Khi đi qua từng tầng họ lại dừng lại để Blödhgarm dùng trí óc tìm kiếm Lãnh chúa Bradburn và những kẻ tùy tùng, nhưng không thấy đâu.

Khi họ bước lên tầng ba, Eragon nghe thấy có tiếng bước chân chạy toán loạn và thấy những ngọn giáo chĩa ra ngay phía trước Roran. Ngọn giáo rạch một vệt lên má và bắp đùi phải Roran, khiến cho đầu gối anh chảy máu. Anh rống lên như một con gấu bị thương và dùng khiên đẩy những tên lính lùi lại và bước và ngã xuống cầu thang. Chúng kêu gào điên cuồng.

Đằng sau Roran, Eragon chuyển thanh Brisingr sang tay trái sau đó đi vòng qua người anh họ, nắm lấy một cây giáo và giật mạnh khỏi tay tên lính. Nó quay ngọn giáo và phóng thẳng vào giữa đám người phía trươc. Vài tên kêu gào, và trong bức tường người đã xuất hiện một lỗ hổng. Eragon làm lại động tác vừa rồi, và cú ném của nó đã nhanh chóng giảm bớt lượng lính. Cùng lúc, Roran từng bước đẩy lùi đám lính về sau.

Ngay khi Roran dọn sạch cầu thang, mười hai tên lính còn lại cúi xuống sàn nhà vớ bất cứ thứ vũ khí gì phòng vệ. Roran gầm lên một tiếng nữa và nhào vào tên lính gần nhất. Anh né mũi giáo rồi đấm mạnh vào mũ trụ hắn, tiếng kêu vang lên như thể đập vào một chiếc bình sắt.

Ergon nhíu mày nhìn khắp xung quanh và nhắm vào hai tên lính đang đứng cạnh nhau. Nó đốn ngã chúng rồi kết liễu chúng bằng một nhát chém. Một lưỡi rìu bay thẳng về phía nó, xoay tròn trong không trung. Nó lùi lại đẩy ngã một tên lính trước khi kết liễu hai tên khác đang định dùng lao mổ bụng nó.

Sau đó Arya và Blödhgarm di chuyển giữa những tên lính một cách im lặng chết người. Sự thanh thoát vốn có ở thần tiên khiến cuộc ẩu đả giống như một màn biểu diễn đầy tính nghệ thuật hơn là một cuộc chạm trán một sống một còn.

Trong sự hỗn độn của âm thanh kim loại loảng xoảng, tiếng xương gẫy, và tiếng đánh đấm túi bụi,bốn người họ đã giết chết những tên lính còn lại. Như thường lệ, cuộc đụng đầu khiến Eragon phấn chấn; như thể nó vừa được dội một xô nước lạnh vào người, khiến nó cảm thấy mát mẻ hơn bất kỳ chuyện gì khác.

Roran cúi người xuống đặt tay lên đầu gối, thở hổn hển như thể vừa chạy nước rút.

“Em giúp nhé?” Eragon hỏi và chỉ về vết cắt trên mặt và bắp đùi Roran.

Roran thử đi lại một vài lần. “Không cần đâu. Chúng ta tìm Bradburn đã.”

Eragon dẫn đầu đoàn người chạy lên cầu thang. Cuối cùng, sau năm phút tìm kiếm, họ thấy lão Bradburn trốn trong căn phòng cao nhất ở tòa tháp phía tây. Với một vài câu thần chú, Eragon, Arya và Blödhgarm mở cửa và làm bay toàn bộ đống đồ đạc ra sau. Khi họ và Roran bước vào phòng, những kẻ tùy tùng và quân lính bao quanh Lãnh chúa Bradburn, vài tên bắt đầu run rẩy. Eragon nhẹ nhõm khi nó chỉ phải giết ba tên trước khi những tên còn lại hạ vũ khí xuống sàn nhà đầu hàng.

Arya tiến tới trước mặt lãnh chúa Bradburn, từ nãy giờ vẫn im lặng, và nói. “Giờ ông sẽ hạ lệnh bãi quân chứ? Chỉ còn lại một vài người nhưng ít nhất ông cũng cứu mạng họ.”

“Ta sẽ không làm thế kể cả khi có thể,” Bradburn hận thù và nhạo báng nói. Eragon chỉ muốn đấm cho hắn một phát. “Ta sẽ không nhương bộ đâu. Ta sẽ không để ngời của ta rơi vào tay những sinh vật không bình thường, bẩn thỉu như các người. Thà chết còn hơn. Và người đừng hòng thuyết phục ta bằng những lời đường mật. Ta biết các người là đồng minh với Urgal. Ta thà tin một con rắn hơn là tin một kẻ chia sẻ bánh mỳ với quái vật.”

Arya gật đầu và đặt tay lên mặt Bradburn. Nàng nhắm mắt lại và trong một lúc cả nàng và Bradburn đều không cử động. Eragon dùng thần giao cách cảm và nhận thấy một trận chiến suy nghĩ giữa hai người khi Arya vượt qua hàng phòng thủ của Bradburn và tiến vào trong tư duy lão. Mất cả một phút Arya mới kiểm soát được đầu óc hắn, sau đó nàng kiểm tra trí nhớ hắn cho tới khi tìm thấy thứ hắn cố bảo vệ.

Nàng lẩm nhẩm bằng ngôn ngữ cổ và niệm một câu thần chú phức tạp nhằm hạ màn chắn bảo vệ và khiến Bradburn ngủ mất. Khi nàng làm xong, Bradburn nhắm mắt và cùng một tiếng thở dài, lão ngã vào cánh tay nàng.

“Ả ta giết ngài rồi!” một tên cận vệ hô lớn, và tiếng hét sợ hãi và tức giận vang lên giữa những tên lính.

Trong khi cố thuyết phục họ, Eragon nghe thấy tiếng kèn của Varden vang lên từ đằng xa. Tiếp theo đó lại một tiếng kèn khác, gần hơn, rồi một tiếng nữa, và những tiếng hồ mừng chiến thắng vang dội trong chiến trường.

Nó hoang mang nhìn Arya, sau đó họ quay người lại nhìn ra cửa sổ ở bên kia tường.

Từ hai cửa sổ phía tây và phía nam, họ ngắm nhìn thành phố Belatona. NÓ là một thành phố lớn, thịnh vượng, một trong những thành phố lớn nhất của Đế chế. Gần lâu đài, những tòa nhà được làm bằng đá tảng, với những mái nhà dốc và cửa sổ vòng cung. Đằng xa xa là những ngôi nhà gỗ và vữa. Một vài ngôi nhà làm bằng gỗ xẻ đang bốc cháy trong trận chiến. Khói bay mù trời khiến người ta cay mắt và khàn cổ.

Ở phía tây bắc, một dặm tính từ thành phố là trại dã chiến của Varden bao gồm một dãy những lều bạt màu xám, một vài trướng treo cờ hiệu và cờ xí màu sắc, và hàng trăm người bị thương đang nằm trên khu đất trống. Lều trị thương không đủ sức chứa hết tất cả.

Ở phía bắc, qua bến cảng và kho hàng là Hồ Leona, mặt hồ rồng mênh mông với những con sóng bạc đầu đang ì oạp vỗ bờ.

Bên trên đầu họ là những đám mây đen che khuấn thành phố, báo hiệu một trận mưa lớn. Những ánh chớp xanh lóe lên ở nơi này nơi khác bên trong cơn bão, những tiếng sấm vang lên như thể tiếng một con thú tức giận.

Nhưng Eragon không thể tìm ra tiếng động thu hút sự chú ý của nó phát ra từ đâu.

Nó và Arya nhanh chóng chạy về phía cửa sổ đối diện với chiến trường. Saphira, các chiến binh và tiên nhân đang cùng nhau dọn dẹp đống đổ nát trước tháp canh. Eragon huýt sáo và khi Saphira nguengr lên, nó vẫy tay. Hàm rộng của cô nàng hơi mở ra khoe một nụ cười toàn răng, và cô bé xì khói về phía nó.

“Này! Chuyện gì thế ?” Eragon nói lớn.

Một trong những đứng trên tường thành giơ tay chỉ về khu phía đông. “Thưa Khắc tinh của tà thần! Ngài nhìn xem! Mèo ma đang tới! Mèo ma đang tới!”

Eragon cảm thấy lạnh sống lưng. Nó nhìn về phía bắc và lần này nó nhìn thấy những bóng đen nhỏ đang tiếng tới cách đó vài dặm, ở bờ kia sông Jiet. Một vài sinh vật đi bằng bốn chân, một vài chạy trên hai chân nhưng chúng đều quá xa khiến nó không chắc đó có phải mèo ma không.

“Có thể không?” Arya hỏi, có vẻ ngạc nhiên.

“Tôi không biết nữa... nhưng dù là gì thì chúng ta cũng sớm biết thôi.”

VUA MÈO

Eragon đứng trên bục ở sảnh chính của tháp canh, ngay phía bên phải ngai vàng của Lãnh chúa Bradburn, tay trái nó đặt ở chuôi kiếm Brisingr. Phía bên kia ngai vàng là Jörmundur – tổng chỉ huy quân Varden – đang cầm mũ trụ trong tay. Phần tóc mai của ông đã điểm bạc, phần còn lại màu nâu, được bện ra sau. Khuôn mặt góc cạnh của ông không biểu cảm như thể đang chờ đợi một ai đó. Eragon để ý thấy những đường chỉ mảnh màu đỏ chạy dọc mặt trong găng tay phải của Jörmundur, nhưng Jörmundur không hề tỏ ra đau đớn.

Giữa họ là thủ lĩnh quân Varden, Nasuada trong bộ váy màu xanh vàng mà cô vừa thay trước đó. Cô cũng là mục tiêu bị quân triều dình nhắm vào trong trận chiến, vì hiện tại tay trái của cô đang bị băng bó.

Nasuada hạ giọng để chỉ Eragon và Jörmundur có thể nghe thấy. “Nếu chúng ta có được sự trợ giúp từ phía họ...”

“Nhưng họ sẽ muốn đổi lấy cái gì?” Jörmundur hỏi. “Ngân sách của chúng ta sắp cạn kiệt còn tương lại lại chưa chắc chắn.”

Môi cô hơi cong lên và nói. “Có thể họ không muốn gì hơn ngoài cơ hội trả thù Galbatorix.” Cô dừng lại. “Nhưng nếu không, chúng ta sẽ phải tìm thứ khác chứ không phải vàng để thuyết phục họ đầu quân.”

“Tiểu thư có thể cho họ vài thùng kem,” Eragon nói, khiến Jörmundur cười nắc nẻ và Nasuada cười nhẹ.

Cuộc nói chuyện thì thầm của họ kết thúc khi tiếng kèn từ bên ngoài sảnh chính vang lên. Một tiêu đồng tóc vàng mặc áo choàng dài đeo phù hiệu của Varden – hình một con rồng trăng ôm một bông hoa bồng với một thanh kiếm đang chỉ xuống phía bên trên – đi vào phòng, cúi chào và thánh thót nói, “Đấng tối cao, Grimrr Nửa vuốt, Vua của mèo ma, Chúa tể vùng đất trống, Kẻ thống lãnh màn đêm, Độc cô xin cầu kiến.”

Danh hiệu Độc cô lạ nhỉ, Eragon nhận xét với Saphira.

Nhưng em nghĩ nó cũng hay đấy chứ, cô nàng trả lời và nó có thể cảm nhận được sự hứng khởi của cô nàng, ngay cả khi nó không nhìn thấy vì cô bé đang nằm bên dưới lâu đài.

Tiểu đồng bước sang một bên và Grimrr Nửa chân trong hình người bước vào cùng bốn mèo ma hộ tống. Trong bốn kẻ hộ tống đó có Solembum, con mèo ma Eragon tuwngfg ặp trong hình dáng mèo: dáng người nặng nề, có một lớp lông màu đen ngắn ngay dưới cổ, lông phất phơ trên tai, đuôi điểm đen quật từ bên này sang bên khác.

Nhưng Grimrr Nửa vuốt lại không giống bất cứ người hay sinh vật nào Eragon từng gặp. Ngài cao mét ba, bằng một người lùn nhưng lại không thể lẫn với người lùn hay một con người. Ngài có một chiếc cằm nhọn, xương má rộng, và bên dưới hàng lông mày rậm rạp là một đôi mắt xanh sáng và hàng mi cong vút. Mái tóc đen che trán trong khi phần tóc ở đằng sau và hai tên thả dài trên vai, khá giống với những tùy tùng. Eragon không thể đoán nổi tuổi của vị vua mèo này.

Grimrr chỉ mặc độc một chiếc áo da thô và đóng khố da thỏ. Xương sọ của rất nhiều loài vật – chim, chuột và những sinh vật nhỏ khác – treo đầy trên áo, va vào nhau mỗi khi ngài chuyển động. Ngài ta giắt một thanh đoản dao ở khố. Vô số những vết sẹo trắng, mảnh trên làn da màu nâu hạt dẻ trông giống những vết cào xước trên mặt bàn gỗ. Và, đúng như tên gọi, ông ta thiếu mất hai móng ở chân phải, trông như thể bị gặm mất.

Dù các đường nét thanh tú nhưng chắc chắn Grimrr là giống đực dựa vào những cơ bắp rắn chắc ở ngực và cánh tay, hông hẹp và cách di chuyển tới trước Nasuada.

Dường như các ma mèo không để ý tới những người đứng hai bên sảnh đường đang quan sát họ cho tới khi Grimrr đi ngang qua bà lang Angela đứng cạnh Roran đang dùng sáu que đan đan một chiếc tất sọc.

Grimrr nheo mắt nhìn bà lang, lông dựng ngược lên như bốn kẻ tùy tùng. Ngài nhe răng và Eragon ngạc nhiên khi thấy ngài phun xì xì vào mặt bà lang.

Angela ngước lên, biểu hiện lười nhác và chế giễu. “Chiếp chiếp,” bà nói.

Trong một thoáng Eragon nghĩ mèo ma sẽ tấn công bà. Lông cổ và mặt Grimrr dựng ngược, cánh mũi mở rộng và ngài im lặng gầm gừ với bà. NHững mèo ma khác cúi thấp người, chuẩn bị lao xổ vào, tai ép sát đầu.

Từ phía bên kia sảnh đường, Eragon nghe thấy những tiếng lưỡi kiếm rút ra khỏi bao.

Grimrr phun phì phì một lần nữa rồi quay người đi tiếp. Con mèo ma cuối cùng khi lướt qua Angela giơ móng vuốt vờn lấy đoạn len rơi ra từ que đan như thể một chú mèo nhà đang chơi với cuộn lên vậy.

Cả Saphira và Eragon đều bối rối. Chiếp chiếp á? Cô nàng hỏi.

Nó nhún vai, quên mất là cô em không nhìn thấy nó. Ai mà biết vì sao Angela lại làm gì hay nói gì?

Cuối cùng Grimrr đến trước mặt Nasuada. Ông ta hơi cúi đầu, thể hiện lòng kiêu hãnh ngút trời, thậm chí có phần ngạo mạn, trước sự hiện diện của mèo, rồng và một người phụ nữ thân phận cao quý.

“Thưa tiểu thư Nasuada,” ông ta nói. Ngạc nhiên là giọng nói của ông ta lại trầm, khá giống tiếng gào của mèo hoan hơn là giọng nói the thé đáng ra một đứa nhỏ ông ta mang hình dạng phải có.

Nasuada cũng cúi đầu đáp lễ. “Chào vua Nửa vuốt. Varden hoan nghênh ngài và những chiến hữu của ngài. Tôi rất xin lỗi vì sự vắng mặt của Vua Surda Orrin, đồng minh của chúng tôi; ngài ấy không thể có mặt ở đây tiếp đãi ngài, vì hiện giờ ngài và binh lính đang chiến đấu bảo vệ vùng biên giới phía bắc trước sự xâm lăng của quân Galbatorix.”

“Tất nhiên rồi, thưa tiểu thư Nasuada,” Grimrr nói. Những chiếc răng sắc nhọn lóe sáng khi ông ta cất tiếng. “Chúng ta không có quyền lơ là với kẻ thù.”

“Dù vậy...và vì sao ngài lại đột ngột tới gặp chúng tôi vậy, thưa Đức vua? Mèo ma thường sống trong bí mật và đơn độc, luôn đứng ngoài cuộc chiến trong nhiều năm, đặc biệt sau Ngày tàn của các Kỵ sĩ. Có người còn cho rằng giống loài của người chỉ tồn tại trong truyền thuyết hơn là hiện hữu ngoài đời. Vậy thì vì sao ngài lại chọn thời điểm này để xuất hiện?”

Grimrr giơ tay phải chỉ vào Eragon .

“Vì người này,” mèo ma hét lớn. “Chúng tôi không tấn công thợ săn khi hắn chưa để lộ điểm yếu, và giờ Galbatorix đã để lộ điểm yếu của hắn: hắn không muốn giết Eragon Khắc tinh của tà thần và Saphira Bjartskular. Chúng tôi đã đợi cơ hội này rất lâu và giờ là lúc chúng tôi nắm lấy cơ hội. Galbatorix sẽ biết rằng hắn phải sợ và thù ghét chúng tôi, và cuối cùng hắn sẽ nhận ra sai lầm của hắn và biết rằng chúng tôi là những kẻ kết liễu đời hắn. Hương vị trả thù cũng ngọt ngào như nhâm nhi miếng thịt lợn vậy.”

“Loài người à, thời gian đã tới cho tất cả mọi loài, kể cả mèo ma, để sát cánh và chứng tỏ cho Galbatorix thấy hắn không thể ngăn chặn chúng ta. Chúng tôi sẽ tham chiến cùng cô, thưa Tiểu thư Nasuada mà không đòi quyền lợi.”

Eragon không biết Nasuada nghĩ gì nhưng nó và Saphira bị ấn tượng mạnh với bài phát biểu của mèo ma.

Sau một phút im lặng, Nasuada nói. “Ngài nói nghe rất lọt tai, thưa Đức vua. Nhưng trước khi tôi đồng ý, tôi phải hỏi ngài vài câu, nếu như ngài đồng ý.”

Grimmr vẫy tay. “Tôi đồng ý.”

“Loài của ngài quá khép kín và quá khó hiểu, và tôi phải công nhận rằng tôi chưa bao giờ nghe thấy tên Đức ngài cho tới ngày hôm nay. Đúng ra là tôi không biết rằng loài các ngài có vua trị vì.”

“Tôi không phải vua giống như vua của các người,” Grimrr nói. “Ma mèo thích sống một mình, nhưng chúng tôi cũng chọn ra một thủ lĩnh khi có chiến tranh.”

“Tôi hiểu. Ngài đại diện cho cả giống nòi, hay chỉ cho những người đi cùng ngài?”

Gò ma Grimrr nhô lên, biểu hiện có thể là khá hài lòng. “Tôi đại diện cho toàn bộ loài, thưa Tiểu thư Nasuada,” ông ta rên rừ rừ. “Tất cả những mèo ma hiện diện trên Alagaësia, trừ những mèo mới sinh, sẽ tới đây chiến đấu. Chúng tôi không đông, nhưng không ai có thể so sánh về sự thiện chiến bằng chúng tôi. Và tôi có thể kêu gọi những kẻ mang duy chỉ một hình dáng, dù tôi không đại diện cho chúng, vì chúng ngu ngốc như những động vật khác. Nhưng chúng sẽ nghe theo những gì chúng tôi yêu cầu.”

“Một dạng?” Nasuada thắc mắc.

“NHững kẻ tiểu thư biết là mèo đó. Những kẻ không thể biến đổi hình dạng như chúng tôi.”

“Chúng trung thành với ông?”

“Đúng. Chúng ngưỡng mộ chúng tôi... cũng tự nhiên thôi.”

Nếu như ông ta nói thật, Eragon nhận xét với Saphira, mèo ma sẽ vô cùng hữu ích với chúng ta đó.

Nasuada nói. “Vậy chúng tôi cần làm gì để đổi lấy sự trợ giúp của các ngài, thưa Vua Nửa vuốt?” Cô liếc nhìn Eragon cười và nói thêm. “Chúng tôi có thể cho các ngài bao nhiêu kem cũng được, nhưng ngân khố lại có hạn. Vì thế nếu các chiến binh của ngài mong được trả công, thì tôi e là họ sẽ thất vọng.”

“Kem chỉ dành cho mèo con và chúng tôi không có hứng thú với vàng,” Grimrr nói. Khi ông ta nói, ông ta giơ tay ngắm nhìn bộ vuốt. “Chúng tôi chỉ cần một con dao. MỖi người trong chúng tôi cần có hai bộ áo giáp, một cho lúc chúng tôi đứng trên hai chân và một cho khi đi bằng bốn chân. Chúng tôi không cần gì hơn – không cần lều trại, không chăn, không đĩa đựng thức ăn, không cần thìa. Khẩu phần ăn mỗi ngày của chúng tôi là một con vịt, gà gô, gà, hoặc bất cứ giống chim chóc gì và cứ hai ngày một bát gan tươi. Chúng tôi không nói cũng mong các ngài đặt món đó cho chúng tôi. Ngoài ra, nếu như các người chiến thắng, dù ai trở thành vua hoặc nữ hoàng kế tiếp – ai tiếp tục nối ngôi – cũng phải đặt một chiếc nệm bông cạnh ngai vàng thể hiện sự tôn vinh, giành cho một người trong chúng tôi. Chúng tôi rất cám ơn.”

“Yêu cầu của các ngài khá giống với người lùn,” Nasuada nói bằng giọng khô khốc. Cô nghiêng người về phía Jörmundur và Eragon nghe thấy tiếng cô nói nhỏ, “Chúng ta có đủ gan cho họ không?”

“Thần nghĩ là đủ,” Jörmundur trả lời bằng giọng khô khốc tương tự. “Nhưng còn phải phụ thuộc vào cỡ bát.”

Nasuada ngồi thẳng lưng. “Hai bộ giáp là quá nhiều, thưa Đức vua Nửa vuốt. các chiến binh của ngài buộc phải quyết dịnh họ muốn tham chiến trong hình dạng nào, người hay mèo. Chúng tôi không đủ tiền để rèn hai bộ.”

Nếu Grimmr có đuôi, Eragon cá chắc nó sẽ quẫy liên tục. “Được rồi, thưa Tiểu thư Nasuada.”

“Còn một điều nữa. Galbatorix có cài cắm sát thủ và tình báo ở mọi nơi. VÌ thế, để gia nhập Varden, các người phải chấp nhận cho thầy phép của chúng tôi kiểm tra tư tưởng, để chắc chắn Galbatorix không kiểm soát các ngài.”

Grimrr khụt khịt. “Không làm thế thì quả là không khôn ngoan. Ai đủ dũng cảm để kiểm tra cũng được. Nhưng không phải bà ta” – và ông ta chỉ vào Angela. “Không bao giờ để bà ta làm điều đó.”

Nasuada chần chừ và Eragon có thể thấy cô muốn hỏi nhưng lại thôi. “Cũng được. Tôi sẽ gửi các pháp sư tới ngay lập tức. Dựa vào tình hình – và nếu không có gì thay đổi – chúng tôi rất vinh hạnh được làm đồng minh với các ngài cũng như giữa quân Varden và ma mèo.”

Cô vừa nói xong, tất cả con người trong đại sảnh hô vang sung sướng và vỗ tay, kể cả Angela. Ngay các tiên nhân cũng tỏ ý hài lòng.

Nhưng các ma mèo không phản ứng gì, từ việc ép tai xuống vì những tiếng động.

LẤY SỨC

Eragon rên rỉ và tựa lưng lên Saphira. Nó vòng tay quanh đầu gối, trườn qua lớp vảy rắn chắc của cô rồng cho tới khi ngồi sụp xuống, duỗi thẳng chân về phía trước.

“Anh đói quá!” Nó rên rỉ.

Nó và Saphira đang ngồi ở trảng trống cách xa những người đang dọn dẹp chiến trường – dẹp đá vụn sang một bên và đặt những xác chết vào trong xe ngưa – và cách xa dòng người đang đi đi vào vào lâu đài. Họ hiện diện trong buổi gặp mặt giữa Nasuada và Vua Nửa vuốt và giờ họ phải về làm những nhiệm vụ khác. Blödhgarm và bốn tiên khác đứng gần họ, quan sát xem có nguy hiểm gì không.

“Ối!” một ai đó kêu lên.

Eragon nhìn lên và thấy Roran đang từ lâu đài biết về phía nó. Angela đi sau đó vài bước, những sợi tua áo bay phấp phơi khi bà cố đuổi kịp theo những sải chân dài hơn của anh.

“Anh định đi đâu đây?” Eragon hỏi khi Roran dừng trước mặt nó.

“Đi giúp bảo vệ thành phố và sắp xếp tù nhân.”

“À...” ánh mắt Eragon lang thang trên trảng trống bận rộn trước khi nhìn vào khuôn mặt bầm tím của Roran. “Anh chiến đấu cừ lắm.”

“Em cũng thế.”

Eragon nhìn Angela, lại đang đan đan móc móc, ngón tay di chuyển rất nhanh khiến cậu không thể nhìn kịp. “Chiếp chiếp?” cậu hỏi.

Trên mặt bà thể hiện sự tinh quái, bà lắc đầu, những sợi tóc xoăn tít mù nhảy lên. “Một câu chuyện lâu rồi.”

Eragon chấp nhận sự trốn tránh mà không phàn nàn gì; nó không hy vọng bà tự mình giải thích. Thường bà ta ít khi làm thế.

“Còn em,” Roran nói. “Em định đi đâu?”

Bọn em định đi kiếm ăn Saphira nói, và dùng mũi đẩy nhẹ Eragon, hơi thở của cô nàng làm nóng nóng mặt nó.

Roran gật đầu. “Tốt nhất hai em nên làm thế. Tối nay anh sẽ gặp lại em vậy.” Trước khi quay người bỏ đi, anh nói thêm. “Nói với Katrina là anh yêu cô ấy nhé.”

Angela bỏ tác phẩm của mình vào chiếc túi mềm đeo trên thắt lưng. “Tôi nghĩ mình cũng nên đi. Tôi đang nấu thuốc trong lều và cần phải để ý, tôi cũng cần theo dấu một con mèo ma.”

“Grimrr à?”

“Không, không – một người bạn già thôi. Mẹ của Solembum. Nếu bà ấy vẫn còn sống. Tôi mong là vậy.” Bà đưa tay lên ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau thành một hình tròn, vui vẻ nói. “Gặp lại cậu sau!” Sau đó bỏ đi mất.

Lên lưng em đi, Saphira nói và đứng dậy, kệ Eragon tự xoay xở.

Nó trèo lên yên ở cổ cô nàng, và Saphira sải rộng đôi cánh. Cử động đó tạo ra một cơn gió lốc tỏa ra như sóng trên mặt hồ. Mọi người trên chiến trường ngừng lại ngắm nhìn cô nàng.

Saphira nâng cao đôi cánh khiên Eragon có thể thấy những đường gân tím đang đập truyền máu khắp cơ thể từ từng nhịp đập của trái tim.

Cùng một cú xóc, cả thế giới quay cuồng điên đảo quanh Eragon khi Saphira nhảy khỏi trảng trống lên bức tường thành cao nhất, đứng đó lấy thăng bằng. Vài tảng đá nứt ra dưới móng vuốt của cô nàng. Nó nắm chắc dây cương để ngồi cho vững.

Thế giới lại một lần nữa nghieng đi khi Saphira phóng mình khỏi bức tường thành. Mùi vị cay sè tấn công Eragon, mắt nó nhức nhối khi Saphira bay xuyên quá đám khói dày trên bầu trời Belatona như một tấm chăn chứa đầy nỗi đau, giận dữ và buồn thương.

Saphira vỗ cánh hai nhịp mạnh rồi bọn họ bay lên trên đám khói tắm mình trong ánh mặt trời và bay liệng phía trên những con đường thi thoảng lại có một đám cháy. Saphira mở rộng cánh chao một vòng trên trời, để cho những cơn gió nóng nâng cô nàng lên cao hơn bao giờ hết.

Dù mệt mỏi nhưng Eragon vẫn ngắm nhìn cảnh vật hùng vĩ trước mắt: cơn bão như chuẩn bị trút một trận mưa trắng xóa xuống Belatona trong khi ở đằng xa, những tiếng sấm vang rền trong bầu trời tối đen như mực khỗng để lộ bất cứ điều gì chỉ trừ những tia sét xét qua xẹt lại. Ở đằng kia hồ nước sáng như gương và những trang trại nhỏ xíu trải ngút tầm mắt khiến nó nhìn không dứ, nhưng không cái gì có thể so sánh nổi với những núi mây.

Eragon luôn cảm thấy như mình đươc hưởng một đặc ân khi có cơ hội chiêm ngưỡng thế giới từ độ cao này, đó là chưa kể đâu có nhiều người có cơ hội được bay trên lưng một con rồng.

Saphira chao cánh nhắm về phía lều bạt của Varden mà lao xuống.

Một cơn gió mạnh thổi tới từ phía tây báo hiệu cơn bão đang tới. Eragon rạp mình và bám chặt hơn vào dây cương trên cổ cô em. Nó nhìn thấy những gợn sóng lúa trên đồng ruộng. Những ngọn cỏ phất phơ làm cậu liên tưởng tới lông trên mình một con quái vật xanh to lớn.

Ngựa hí lên khi Saphira lượt sát nóc lều tới một khu đất trống dành riêng cho nó. Eragon nửa đứng trên yên khi Saphira xòe cánh giảm tốc trước khi chạm mặt đất. Cú hạ cánh khiến Eragon nhào lên phía trước.

Xin lỗi, cô nàng nói. Em cố hạ cánh nhẹ nhàng nhất rồi

Anh biết.

Khi ngã xuống, nó nhìn thấy bóng dáng Katrina đang hớt hải chạy về phía nó. Mái tóc màu nâu vàng ôm lấy khuôn mặt chị khi chị chạy qua khu đất trống và sức ép của gió làm lộ bụng đang lớn lên từng ngày sau lớp váy áo.

“Có gì mới không?” chị gọi lớn vẻ lo lắng hiện lên trên từng thớ thịt.

“CHị đã nghe tới ma mèo chưa...?”

Chị gật đầu.

“Thế thì không còn gì mới hơn đâu. Roran vẫn ổn; anh ấy nói anh ấy yêu chị.”

Trông chị đã nhẹ nhõm hơn nhưng nét lo lắng vẫn chưa hoàn toàn biến mất. “Anh ấy ổn chứ?” Chị vân vê chiếc nhẫn trên bàn tay trái, một trong hai chiếc nhẫn đã được Eragon phù phép để chị và Roran biết người kia liệu có gặp nguy hiểm. “Chị nghĩ chị đã cảm nhận thấy gì đó, cách đây khoảng một tiếng, và chị sợ rằng...”

Eragon lắc đầu. “Roran có thể nói chuyện đó với chị. Anh ấy bị trầy xước và bầm tím đôi chỗ nhưng nói chung là ổn. Anh ấy làm em sợ suýt chết.”

Katrina càng lo lắng hơn. Sau đó, cô cố lắm mới nở được một nụ cười. “Ít nhất là hai người vẫn an toàn.”

Họ chia tay, Eragon và Saphira đi tới một trong những cái lều gần khu nấu ăn của Varden. HỌ tự phục vụ đồ ăn thịt thà vho mình tỏng khi những cơn gió điên cuồng thổi qua và những mưa bắt đầu rơi xuống lều.

Eragon đang ngoạm một miếng thịt lợn lớn thì Saphira nói Ngon không? Ngon tuyệt cú mèo nhỉ?

“Ừmm,” Nước thịt chạy xuống cằm nó.

KÝ ỨC CỦA NGƯỜI CHẾT

Galbatorix điên cuồng nên khó đoán, nhưng cách tư duy của lão ta có những lỗ hổng mà người bình thường không thể có. Nếu con tìm ra, Eragon, có thể con và Saphira sẽ đánh bại được lão.

Brom hạ cây tẩu, khuôn mặt trang nghiêm. “Ta mong là con có thể. Ước muốn lớn nhất đời ta là con và Saphira sẽ sống lâu và sống tốt, không bị Galbatorix và Đế chế đe dọa. Ta ước ta có thể bảo vệ con khỏi tất cả những nguy hiểm đe dọa con, nhưng than ôi, chuyện đó nằm ngoài khả năng của ta. Tất cả những gì ta có thể là cho con lời khuyên và dạy dỗ con cái ta có thể khi ta còn ở đây... Con trai của ta. Dù cho chuyện gì xảy ra, con phải biết ta yêu con và mẹ con cũng vậy. Những ngôi sao trên trời sẽ bảo vệ con, Eragon Bromsson ạ.”

Eragon mở mắt khi những ký ức phai nhòa. Phía bên trên nó, nóc lều lún vào trong như bị nước đổ đầy bên trên. NHững giọt nước mưa qua mái dột rơi xuống đùi nó, chảy dọc chân khiến nó có cảm giac lạnh buốt. Nó biết nó phải cố định lại lều nhưng lại không muốn rời khỏi võng.

Ông Brom không bao giờ nói cho em nghe về Murtagh? Không bao giờ nói anh và Murtage là anh em cùng mẹ khác cha à?

Saphira đang nằm cuộn tròn bên ngoài lều nói, Hỏi lại cũng không thay đổi câu trả lời của em được.

Nhưng sao ông ấy lại không nói chứ? Vì sao lại không nói? Ông ấy phải biết về Murtagh. Ông ấy không thể nào không biết.

Saphira lười nhác đáp. Brom có lý do của ông ấy, nhưng nếu phải đoán, em nghĩ ông ấy quan trọng hơn là phải nói cho anh biết ông ấy quan tâm tới anh và muốn cho anh những lời khuyên hơn là dành thì giờ tán dóc về Murtagh.

Nhưng ông ấy có thể cảnh báo cho anh biết! Chỉ vài từ cũng đủ rồi.

Em không thể biết chắc vì sao ông ấy không nói, Eragon ạ. Anh phải đồng ý rằng có vài câu hỏi anh sẽ không bao giờ có cơ hội nghe ông Brom trả lời. Hãy tin tình yêu ông ấy dành cho anh, và đừng để mấy chuyện linh tinh làm anh xao nhãng.

Eragon nhìn xuống bàn tay đang đặt trên ngực. Cậu buông tay xuống hai bên. Ngón tay cái bên trái của cậu có nhiều nếp nhăn ở đốt thứ hai hơn bên tay phải, trong khi tay phải lại có một vết sẹo dài, xấu xí mà nó không nhớ nổi vì sao có. Nhưng có thể là từ Agaetí Blödhren, Lễ hội Huyết thệ.

Cám ơn, nó nói với Saphira. Nó đã qua em rồng quan sát và nghe bức thư của ông Brom những ba lần kể từ sau Finster sụp đổ, và cứ mỗi lần nó lại thấy thêm một vài điểm trong lời nói và cử động của ông Brom mà trước đó nó không thấy. Điều đó khiến nó thấy được an ủi và hài lòng, vì nó đã xóa bỏ được điều canh cánh cả đời: biết tên cha đẻ của nó và biết cha nó quan tâm tới nó.

Saphira đáp lại lời cám ơn của nó bằng một luồng gió nóng.

Dù Eragon đã ăn uống ngủ nghỉ trong khoảng một tiếng nhưng nó vẫn còn cảm thấy yếu ớt. Không phải nó không biết cơ thể sẽ phản ứng ra sao. Nó đã thừa hiểu sẽ phải mất hàng tuần để phục hồi sức khỏe hoàn toàn sau một trận đánh dài hơi và tốn nhiều sức lực như thế. Khi Varden tới Urȗ’baen, nó cũng như những người khác trong quân đội của Nasuada sẽ càng lúc càng có ít thời gian để hồi sức trước khi bước vào một trận chiến mới. Chiến tranh sẽ bòn rút hết sức lực cho tới khi họ bê bết máu, tơi tả, không còn khả năng chiến đấu và đến lúc đó họ vẫn phải đối đầu với Galbatorix, lão an nhàn thảnh thơi đợi họ.

Nó cố không nghĩ quá nhiều về chuyện đó.

Một giọt nước mưa nữa lại rơi vào chân nó, thật lạnh lẽo. Cáu tiết, nó vắt chân sang bên kia võng, ngồi thẳng dậy và đi bằng chân trần ra chỗ đất bẩn ở góc lều và quỳ xuống.

“Deloi sharjalvi!” nó nói kèm theo vài cụm từ ngôn ngữ cổ khác cần để giải kết giới cậu đặt.

Chỗ đất bẩn bắt đầu xùi bọt lên như nước sôi, sau đó chui ra khỏi “ngọn núi lửa” đó là đá, sâu bọ và sau cùng là một chiếc hộp viền sắt nỏ dài khoảng 50 phân. Eragon vươn tay nắm lấy chiếc hộp và ngừng niệm chú. Mắt đất lại bình lặng trở lại.

Nó đặt cái hộp xuống mặt đất lúc này đã rắn lại như cũ. “Ládrin,” nó thì thầm và vẫy tay qua chiếc khoa không có lỗ khóa. Chiếc hộp mở ra với một tiếng kịch.

Màu vàng nhàn nhạt tỏa sáng trong căn lều.

Nằm bên trong chiếc hộp là Eldunarí của Glaedr – trái tim của loài rồng. Một hòn đá lớn trong như đá quý lấp lánh như một viên than hồng sắp tàn. Eragon dùng hai tay nâng Eldunarí lên và nhìn chăm chú. Một dải ngân hàng những ngôi sao nhỏ xíu xoay lượn bên trong viên đá, dù di chuyển của chúng rất chậm và dwongf như xa xôi hơn khi lần đầu tiên Eragon cầm viên đá ở Ellesméra, khi Glaedr đưa nó ra khỏi cơ thể và tặng cho Eragon và Saphira.

Eragon luôn thích ngắm nhìn cảnh tượng đó; cậu có thể ngồi hàng ngày để ngắm nhìn những hình dạng luôn thay đổi bên trong đó.

Có lẽ chúng ta nên thử lại, Saphira nói và nó đồng ý.

Họ cùng nhau phóng tư tưởng tới những ánh sáng ở đằng xa, vào trong biển sao đại diện cho tâm tưởng Glaedr. Họ đi qua sự lạnh lẽo và bóng tối, qua sự ấm áp và tuyệt vọng mênh mông vĩ đại, khiến họ muốn dừng lại và than khóc.

Glaedr...Elda, họ gọi đi gọi lại, nhưng không có tiếng trả lời, không có một sự thay đổi nào hết.

Cuối cùng họ thu hồi tư tưởng vì không thể chịu nổi nỗi đau khổ của Glaedr lâu hơn nữa.

Khi bừng tỉnh, Eragon nhận thức thấy có ai đó gõ lên tấm bạt lều, và nó nghe thấy giọng Arya, “Eragon, tôi vào được không?”

Nó khịt mũi và chớp mắt. “Tất nhiên là được.”

Bầu trời đêm tỏa ra ánh sáng xám lên nó khi Arya đẩy bạt lều bước vào. Nó chợt thấy buốt nhói khi gặp ánh mắt nàng – xanh, thông thái và khó dò – và nó cảm nhận thấy nỗi đau của sự thèm khát dâng tràn.

“Có gì thay đổi không?” nàng hỏi và quỳ xuống bên cạnh nó. GIờ nàng không còn mặc áo giáp mà khoác trên mình một bộ đồ da đen và một đôi bốt bó sát như khi nó cứu sống cô ở Gil’ead. Máu tóc nàng ẩm ướt vì mới gội và chảy dài trên lưng nàng. Quanh nàng tỏa ra mùi gỗ thông khiến Eragon băn khoăn có phải nàng dùng phép thuật để tạo ra mùi hương hay đó là mùi hương tự nhiên của cơ thể. Nó muốn hỏi nhưng lại không dám.

Eragon lắc đầu trả lời câu hỏi của nàng.

“Để tôi thử được không?” nàng chỉ vào trái tim của Glaedr.

Nó lùi sang một bên. “Xin mời.”

Arya đặt hai tay lên Eldunarí và nhắm mắt. Trong khi nàng ngồi, nó nhân cơ hội ngắm nhìn nàng với vẻ cởi mở trái ngược hẳn với vẻ khép kín thường ngày. Đối với nó, nàng dường như là biểu tượng của sắc đẹp, dù có người nói mũi nàng quá dài, khuôn mặt quá góc cạnh hay tai quá nhọn hoặc tay quá cơ bắp.

Arya hít một hơi thật sâu và rút tay khỏi trái tim rồng, như thể nó thiêu cháy nàng. Sau đó nàng cúi đầu và Eragon thấy cằm nàng đang run lên. “Ông ấy là sinh vật bất hạnh nhất tôi từng gặp... tôi nghĩ chúng ta có thể giúp ông ấy. Tôi không nghĩ ông ấy có thể tự thoát khỏi bóng tối của chính mình.”

“Nàng có nghĩ...” Eragon chần chừ, không muốn giọng nói tố cáo sự nghi ngờ của bản thân và tiếp tục: “Nàng có nghĩ ông ấy bị điên không?”

“Có thể ông ấy đã điên rồi. Nếu không, ông ấy cũng đang lúc điên lúc tỉnh.”

Eragon thấy buồn khi chăm chú nhìn vào tảng đá vàng.

Tới khi nó có thể mở lời, nó hỏi, “thanh Dauthdaert đâu rồi?”

“Tôi giấu nó trong lều như chàng giấu Eldunarí của Glaedr vậy. Tôi có thể mang nó sang đây nếu chàng muốn, hoặc tiếp tục canh giữ nó cho tới khi chàng cần.”

“Giữ nó đi. Tôi không thể mang nó bên mình, nếu không Galbatorix sẽ biết tới sự tồn tại của nó. Ngoài ra giấu quá nhiều kho báu ở một chỗ là không khôn ngoan.”

Nàng gật đầu.

Nỗi đau bên trong Eragon càng lớn. “Arya, tôi...” Nó ngừng lại khi Saphira nhìn thấy anh thợ rèn con trai của Horst – Albriech, nó đoán thế vì thực sự khó phân biết anh ta với người anh Baldor, do tầm nhìn méo mó của Saphira – đang chạy về phía lều. Việc này khiến Eragon nhẹ nhõm, vì nó không biết nó định nói gì nữa.

“Có người tới,” nó tuyên bố và đóng chiếc hộp lại.

Tiếng bước chân lớn và lẹp nhẹp ở bên ngoài. Sau đó Albriech, đúng là Albriech hét lên, “Eragon! Eragon!”

“Cái gì!”

“Mẹ tôi sắp sinh em bé! Bố tôi nhờ tôi tới nói và nhờ anh tới đó, đề phòng có chuyện gì xảy ra và khả năng phép thuật của anh có thể giúp. Làm ơn, nếu anh đi được...”

Dù cậu ta nói cái gì thì Eragon cũng không nghe thấy vì nó đang vỗi vã khóa và chôn chiếm hộp. Sau đó nó khoác áo choàng lên vai và lần mò cài khuy thì Arya chạm vào tay nó và nói, “Tôi đi cùng được không. Tôi có kinh nghiệm trong chuyện này. Nếu người của chàng đồng ý, tôi sẽ giúp chuyện sinh nở dễ dàng hơn.”

Eragon không thèm cân nhắc. Cậu chỉ về phía cửa lều và nói. “Nàng đi trước đi.”

THẾ NÀO MỚI LÀ ĐÀN ÔNG ?

Bùn đất dính lên đôi ủng của Roran mỗi lần anh nâng chân, khiến anh đi chậm lại và khiến đôi chân vốn đã rệu rã của anh càng thêm mệt mỏi. Anh cảm giác như đất đang cố kéo tuột giày của anh. Bùn vừa dầy vừa trơn. Bùn làm gót giày anh lún sâu xuống, khiến anh đi lại khó khăn. Lớp bùn còn khá sâu nữa. Dòng người, súc vật và động vật đi lại thường cuyên đã biến một lớp đất dày mười lăm phân thành một bãi lầy khó qua lại. Một vài cụm cỏ vẫn mọc được ven đoạn đường xấu – dẫn thẳng tới khu lều bạt của quân Varden – nhưng Roran nghĩ cỏ cũng sẽ chẳng còn vì họ luôn có tránh đi vào chính giữa đường mòn.

Roran không thèm tránh giẫm phân nữa, anh còn không thèm quan tâm xem liệu quần áo anh còn sạch không. Hơn nữa, anh đã quá kiệt sức, tốt nhất là cứ thẳng đường mà tiến hơn là vượt quá đống cỏ dại ở hai bên.

Khi Roran nghiêng ngả tiến về phía trước, anh nghĩ tới Belatona. Từ sau cuộc thỏa hiệp giữa Nasuada và ma mèo, anh đã nắm vị trí chỉ huy khu phía tây bắc thành phố và làm những điều tốt nhất để lập sự kiểm soát bằng cách phía quân lính đi dập lửa, lập rào chắn trên đường, tìm nhà ở cho binh sĩ và tịch thu vũ khí. Đó là một nhiệm vụ nặng nề và anh làm hết sức có thể vì anh sợ thành phố có thể sẽ sinh ra một trận chiến mới. Mình hy vọng những tên ngu kia sẽ không giết chóc gì trong hết đêm.

Cả nửa người trái của anh đau đớn, khiến anh phải mở miệng hít thở.

Tên hèn nhát trời đánh.

Một tên nào đó đã bắn tên vào anh từ một mái nhà. Đúng là anh đã gặp may; một trong những binh sĩ của anh, Mortenson, đã bước lên trước anh đúng giây phút tên kia bắn tên. Mũi tên xuyên từ lưng qua bụng Mortenson và vẫn còn đủ lực để gây cho Roran một vết bầm lớn. Mortenson chết tại chỗ và dù ai bắn tên thì hắn cũng đã trốn thoát.

Năm phút sau, phép thuật đã giết chết hai người lính nữa khi họ bước vào chuồng ngựa kiểm tra xem tiếng ồn phát ra từ đâu.

Theo như những gì Roran biết, những vụ tấn công như vậy xảy ra khắp thành phố. Không nghi ngờ gì nữa, những kẻ nằm vùng của Galbatorix đã theo dấu rất nhiều người trong số họ, nhưng dân cư của Belatona cũng phải chịu trách nhiệm – đàn ông và phụ nữ đã không chịu đứng im khi quân đội kiểm soát quê nhà và không thèm quan tâm tới sứ mạng cao cả của quân Varden. Roran đồng cảm với những người cảm thấy họ có trách nhiệm với gia đinh nhưng đồng thời anh cũng nguyền rủa họ vì quá cứng đầu không chịu nhân ra quân Varden đang giúp họ, chứ không phải làm tổn thương họ.

Anh gãi gãi cằm khi đợi một người lùn đẩy một con ngựa chất đầy hàng hóa đi ra và sau đó tiếp tục bước thấp bước cao đi .

Khi về tới gần lều, anh nhìn thấy Katrian đang đứng cạnh một chậu nước nóng, đầy xà phòng, giặt giũ những chiếc băng gạc dính đầy máu khô. Cô xắn tay áo tới tận khuỷu tay, tóc búi rối ra su và má đỏ hồng lên vì làm nặng, nhưng đối với anh chưa bao giờ cô đẹp như thế. Cô là niềm an ủi của anh – niềm an ủi và nơi trú ẩn của anh – và chỉ cần nhìn thấy cô là anh đã thấy tan đi bao nhiêu đớn đau mệt nhọc.

Cô để ý thấy anh và ngay lập tức bỏ việc giặt giũ lại và chạy về phía anh, lau đôi mắt hồng lên của cô vào váy. Roran vòng tay ôm cô, cô ôm trọn lồng ngực anh. Nửa người anh đau buốt, và anh kêu lên một tiếng.

Katrina nới lòng vòng tay và nghiêng người ra sau, nhíu mày. “ÔI! Em làm anh đau à?”

“Không... không. Anh hơi buốt thôi.”

Cô không hỏi gì và lại ôm anh, nhẹ nhàng hơn và nhìn anh với đôi mắt đẫm nước. Anh ôm eo cô, cúi xuống hôn cô, cám ơn chúa trời vì sự hiện diện của cô.

Katrina đặt tay trái của anh lên vai cô, và anh để cô giúp mình đi về lều. Roran thở dài, ngồi xuống gốc cây họ dùng làm ghế, bên cạnh đó Katrina đốt một đống lửa nhỏ để đun nước và nấu súp.

Katrina đưa cho anh một bát súp. Sau đó cô vào trong lều mang ra cho anh một vại bia và một nửa ổ bánh mỳ cùng một góc pho mát. “Anh còn cần thềm gì không?” cô hỏi, giọng khàn không bình thường.

Roran không trả lời mà ôm lấy má cô và xoa xoa. Cô cười và đặt tay lên tay anh, sau đó quay lại giặt đồ.

Roran nhìn đồ ăn một lúc lâu rồi mới ăn: anh vẫn còn quá căng thẳng và anh nghĩ ạnh chưa thể tiêu hóa nổi. Sau khi nhai đầy một mồm bánh mỳ, vị giác của anh cũng quay trở lạ, anh bắt đầu vui vẻ húp bát súp.

Sau khi anh xong, anh đặt đống bát đĩa xuống đất và ngồi sưởi tay trên ngọn lửa trong khi uống vài hớp bia.

“Bọn em nghe thấy tiếng đổ vỡ khi cánh cổng rời ra,” Katrina vừa vắt quần áo vừa nói. “Họ không trụ được lâu nhỉ.”

“Không.. Bên chúng ta có một con rồng giúp sức mà.”

Roran nhìn bụng cô khi cô ném đống băng gạc sang đống quần áo đã giặt xong . Mỗi lần anh nghĩ tới con, đứa bé hai người sẽ sinh ra, anh lại cảm thấy tự hào vô cùng nhưng xen lẫn chút lo lắng vì anh không biết có thể cho nó một mái ấm an toàn không. Hơn nữa, nếu trận chiến còn kéo dài, có lẽ cô sẽ phải rời xa anh và tới Surda để an toàn nuôi con.

Mình không thể mất cô ấy, không một lần nào nữa.

Katrina lại nhúng một tấm vải gạc khác vào thau nước. “Còn trận chiến trong thành phố thế nào?” cô hỏi. “Diễn ra thế nào?”

“Bọn anh phải tranh giành từng mét đất. Ngay cả Eragon cũng phải trầy trật lắm.”

“Những bệnh binh nói chúng có máy bắn đá.”

“Ừ. Roran nhấp một ngụm bia sau đó tả ngắn gọn về cách quân Varden tiến quân trong lòng thành phố và những trướng ngại họ gặp phải. “Hôm nay bọn anh mất nhiều người lắm, nhưng mọi chuyện đáng lẽ có thể tệ hơn. Tệ hơn rất nhiều. Jörmundur và tướng Martland đã vạch kế hoạch tác chiến rất tốt.”

“Kế hoạch của họ không thành công nếu như không có anh và Eragon. Hai người rất dũng cảm.”

Roran cười khan một tiếng. “Ha! Và em biết vì sao không? Anh sẽ nói cho em nghe. Không ai trong mười người đàn ông thực sự muốn tấn công quân thù. Eragon không thấy điều đó; thằng bé luôn luôn ở đầu chiến tuyến, kéo những binh sĩ theo cậu ta xông lên. Nhưng anh lại thấy. Hầu hết những binh sĩ đều đứng xa ra và không chiến đấu trừ khi kẻ thù động tới mình. Hoặc không họ chỉ vẫy tay và hò hét nhựng lại thực sự không làm gì.”

Katrina có vẻ xanh xao. “Sao lại thế? Họ hèn thế?”

“Anh không biết nữa. Anh nghĩ, anh nghĩ có thể họ không thể nhìn vào mặt một người rồi giết người đó, đối với họ, việc giết một tên lính quay lưng với họ dễ hơn rất nhiều. Vì thế họ đợi những người khác làm việc họ không thể làm nổi. Họ đợi những người như bọn anh.”

“Anh có nghĩ binh sĩ của Galbatorix cũng có cùng suy nghĩ không?”

Roran nhún vai. “Có thể có. Nhưng sau đó, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài phục tùng Galbatorix. Nếu lão ra lệnh cho họ chiến đấu, họ sẽ chiến đấu.”

“Nasuada cũng có thể làm thế. Tiểu thư có thể dùng phép thuật để buộc họ không đào ngũ.”

“Vậy cô ta và Galbatorix khác gì nhau? Trong bất kỳ trường hợp nào, quân Varden cũng không chấp nhận chuyện đó.”

Katrina dừng giặt quần áo và hôn lên trán anh. “Em mừng vì anh có thể làm điều anh đã làm,” cô thì thầm. Cô quay lại giặt đồ. “Hồi chiều em có cảm giác gì đó, do chiếc nhẫn... em nghĩ có thể anh có chuyện.”

“Anh đang trong chiến trận. Anh không ngạc nhiên nếu như em cảm thấy bứt rứt từng phút.

Cô dừng lại vẫn đặt tay trong chậu nước. “Trước kia em chưa bao giờ có cảm giác đó.”

Anh uống cạn vại bia và tìm cách thoái thác. Anh đã từng mong kể cho cô từng chi tiết chuyến phiêu lưu của anh trong lâu đài, nhưng chẳng có ý nghĩa gì nếu như vì chuyện này mà cô không nghỉ ngơi nổi. Nhưng nếu anh thuyết phục cô rằng không có chuyện gì chỉ khiến cô nghĩ ngợi ra những chuyện kinh khủng hơn. Hơn nữa, anh cũng thừa biết sớm muộn những tin tức cũng lan truyền trong toàn quân Varden thôi.

Nghĩ đoan anh kể với cô. Anh kể ngắn gọn và cố biến vụ sụp tường thành một trở ngại nho nhỏ hơn là một vụ tai nạn suýt giết chết anh. Nhưng anh vẫn thấy khó mà miêu tả nên nói nhát gừng, để tìm từ diễn đạt cho đúng. Khi anh nói xong, anh im lặng vì chìm trong ký ức.

“Ít ra anh cũng không bị thương,” Katrina nói.

“Không.”

“Trước đây anh đã từng đối diện với nhiều chuyện hiểm nguy hơn nhiều.”

“Ừ, anh đoán thế.”

Giọng cô nhỏ nhẹ. “Vậy thì làm sao nào?” Khi thấy anh không trả lời, cô nói. “Không có chuyện gì là anh không thể nói với em, Roran. Anh biết mà.”

Anh cậy rìa móng tay ngón trỏ khi chạm vào cái cốc. “Anh nghĩ rằng anh sẽ chết khi bức tường sụp xuống.”

“Ai cũng sẽ nghĩ thế.”

“Đúng. Nhưng vấn đề là, anh không quan tâm tới.” Roran đau khổ nhìn cô. “Em không hiểu sao? Anh đã buông tay. Khi anh nhận ra mình không thể thoát, anh đã chấp nhận nó như thể con cừu chấp nhận rơi vào tay gã đồ tể, và anh...” Roran không thể nói tiếp, anh hạ cốc bia xuống và úp mặt vào tay. Cảm giác dâng lên cổ họng khiến anh không thở nổi. Sau đó anh cảm nhận những ngón tay Katrina đang đặt nhẹ trên vai anh. “Anh đã buông tay,” anh gầm lên, vừa tức giận vừa kinh tởm bản thân. “Anh đã ngừng chiến đấu... Vì em... Vì con chúng ta...” Anh gằn ra từng chữ.

“Suỵt,” cô lẩm bẩm.

“Trước đây anh chưa bao giờ từ bỏ. Chưa một lần... Kể cả khi tụi Ra’zac bắt em đi.”

“Em biết là anh không mà.”

“Cuộc chiến này phải kết thúc. Mọi chuyện không thể tiếp tục thế này... Anh không thể... Anh ...” Anh ngửng đầu lên và sợ hãi khi thấy mắt cô đong đầy nước mắt. Anh đứng dậy, ôm cô vào lòng. “Anh xin lỗi,” anh thì thầm. “Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Anh xin lỗi... Anh sẽ không bao giờ nghĩ như thế nữa. Không bao giờ. Anh hứa đó.”

“Em không quan tâm tới chuyện đó,” cô nói, giọng ủ trên vai anh.

Câu trả lời của cô khiến anh kinh ngạc. “Em biết em yếu đuối nhưng những gì em nói phải có chút ý nghĩa gì với anh chứ.”

“Em không có ý đó!” cô kêu lên và lùi lại nhìn anh vẻ buộc tội. “Đôi lúc anh rất ngốc, Roran ạ.”

Anh cười sáng lạng. “Anh biết.”

Cô vòng tay qua cổ anh. “Em không bao giờ nghĩ xấu về anh, dù cho anh đã cảm thấy thế nào khi bức tường sụp xuống. Chỉ cần anh còn sống... Anh không thể làm gì khi bức tường sụp, đúng không?”

Anh lắc đầu.

“Vậy thì anh không cần phải xấu hổ. Nếu anh có thể ngăn nó, hoặc nếu anh có thể chạy trốn nhưng anh không làm, như vậy mới khiến em không tôn trong anh. Nhưng anh đã làm mọi việc có thể, và khi anh không thể làm gì hơn, anh mới buông xuôi. Đó là khôn ngoan chứ không phải yếu đuối.”

Anh cúi xuống và hôn lên lông mày cô. “Cám ơn em.”

“Và theo như em biết, anh là người đàn ông tốt bụng nhất, dũng mãnh nhất và can đảm nhất Alagaësia.”

Lần nay anh hôn lên môi cô. Sau đó, cô cười lớn, và đứng đó xoay vòng, như thể đang khiêu vũ theo một điệu nhạc chỉ mình họ nghe thấy.

Sau cùng Katrina đùa đùa đẩy anh ra và tiếp tục giặt giũ, còn anh ngồi xuống gốc cây, cảm giác thư thái dù trên mình đầy những vết thâm đau.

Roran quan sát người, ngựa và một vài người lùn hoặc Urgal đi qua lều họ, để ý những vết thương và vũ khí họ mang trên người. Anh cố đánh giá mọi người theo cách của Varden; cuối cùng anh chỉ có thể kết luận rằng mọi người trừ Urgal đều cần ngủ ngon và ăn uống đầy đủ, và mọi người, kể cả Urgal – đặc biệt là Urgal – cần tắm rửa sạch sẽ từ đầu đến chân.

Anh ngắm nhìn Katrina và anh thấy được khi cô làm việc, sự vui sướng trên mặt cô nhạt dần đi và cô trở nên giận dữ hơn bao giờ hết. Cô cứ vò đi vò lại vài vết bẩn nhưng chẳng ăn thua gì. Cơn giận dữ khiến mặt cô đen lại, và cô bắt đầu cáu gắt quát nhỏ vài tiếng.

Cuối cùng, khi cô ném đống vải vào thùng giặt, làm bắn bọt xà phòng lên cao vài foot trong không khí, cúi người về phía thùng giặt, môi mím chặt, Roran đứng dậy là đến bên cô.

“Để anh hộ,” anh nói.

“Thế không hay đâu,” cô lẩm bẩm.

“Vớ vẩn. Em ngồi xuống đi để anh làm cho. Đi đi.”

Cô lắc đầu. “Không. Anh mới cần nghỉ chứ không phải em. Hơn nữa đây không phải việc của đàn ông.”

Anh khịt mũi đùa cợt. “Ai phân ra thế? Việc của đàn ông hay đàn bà đều phải làm. GIờ em ngồi xuống đi; em sẽ cảm thấy khả hơn sau khi nghỉ ngơi.”

“Roran, em vẫn ổn mà.”

“Đứng ngốc thế.” Anh nhẹ nhàng đẩy cô đi nhưng cô không chịu.

“Thế này không đúng,” cô cự nự. “Mọi người sẽ nghĩ sao đây?” Cô chỉ về phía những người đàn ông đang đi đi lại lại trên con đường bùn đất bên cạnh lều của họ.

“Họ nghĩ gì kệ họ. Anh cưới em chỉ có cưới họ đâu. Nếu họ nghĩ rằng giúp đỡ em khiến anh bớt nam tính, thì họ là đồ ngu.”

“Nhưng...”

“Không nhưng nhị gì hết. Đi đi. Xùy. Đi khỏi đây đi.”

“Nhưng...”

“Anh không thích nói nhiều. Nếu em không ngồi, anh sẽ bế em ra đằng kia và trói em vào gốc cây đó.”

Sự sửng sốt thay vào sự giận dữ trên gương mặt cô lúc trước. “Được chứ?”

“Được. Giờ em đi đi.” Khi cô lưỡng lự đi ra, anh khích cô. “Em cứng đầu quá nhỉ?”

“Anh ấy. Anh có thể dạy lừa biết làm một vài thứ đó.”

“Không, anh không cứng đầu.” Anh cởi áo giáp, treo lên nóc lều rồi cởi găng tay và sắn tay áo. Anh cảm thấy lành lạnh và đống vải băng gạc còn lạnh hơn – do đặt ngoài trời quá lâu – nhưng anh không quan tâm, vì nước còn ấm và vải cũng nhanh ấm thôi. Những bong bóng xà phòng dính trên cổ tay anh khi anh chà quần áo trên bàn giặt.

Anh liếc qua và vui lòng vì Katrina đã chịu ngồi nghỉ.

“Anh muốn uống trà hoa cúc không?” cô hỏi. “Gertrude cho em nhiều bông lắm. Em có thể pha cho chúng ta một ấm.”

“Được đó.”

Một sự im lặng dễ chịu giữa hai người họ diễn ra khi Roran tiếp tục giặt đống quàn áo còn lại. Công việc này khiến anh thấy thoải mái: anh thích làm việc bằng tay hơn bằng búa, và được ở gần Katrina khiến anh cảm thấy hài lòng vô cùng.

Anhh đang giặt những quần áo vải vóc cuối cùng, còn ấm trà mới pha đang nằm kia chờ anh thì ai đó hô to tên họ từ phía bên kia con đường tấp nập. Mất một lúc Roran mới nhận ra đó là Baldor đang chạy về phía họ, giữa dòng người và ngựa đi lại như mắc cửi. Cậu ta đẹo một chiếc tạp dề da thủng lỗ chỗ, một đôi găng tay da dài tới khuỷu tay dính đầy bồ hóng, dùng lâu tới mức phần da đầu ngón tay sáng bóng lên. Cậu ta dùng một sợi dây da rách túm gonj mái tóc đen, bóng dầu ra đằng sau và trên trán cậu ta hằn thêm nhiều nếp nhăn. Baldor nhỏ con hơn cha cậu, ông Horst, và anh trai cậu, Albriech, nhưng về mặt khác, cậu ta đô con hơn, đó là kết quả của thời niên thiếu làm việc trong xưởng rèn cùng ông Horst. Cả ba cha con họ đều không tham gia trận chiến ngày hôm nay – những thờ rèn có tay nghề không nên để hy sinh vô ích – dù Roran ước gì Nasuada cho phép họ, vì họ là những chiến binh có khả năng và Roran biết anh có thể tin tưởng vào họ trong những hoàn cảnh đáng sợ nhất.

Roran đặt đống quần áo đang giặt xuống và lau tay, phân vân không hiểu có chuyện gì. Katrina đứng dậy, tiến lại gần anh.

Khi Baldor tới nơi, họ phải đợi vào giây để cậu ta thở lại bình thường. Sau đó, cậu ta liến thoắng nói, “Đi nhanh nào. Mẹ em đang lâm bồn, và...”

“Dì ấy đâu?” Katrina sắc lạnh hỏi.

“Trong lều của nhà em.”

Cô gật đầu. “Vậy chúng ta đi nhanh thôi.”

Baldor biết ơn và quay người rảo bước đi.

Khi Katrina chui vào lều, Roran dội chậu nước vào đống lửa. Những thanh củi đang cháy kêu xèo xèo và vỡ vụn, một cuộn khói bay lên từ đống lửa, khiến không khí tỏa ra mùi dễ chịu.

Roran vừa thấy phấn khích vừa thấy sợ. Mình hy vọng cô ấy không sao, anh thầm nghĩ khi nhớ lại cuộc trò chuyện của mấy người phụ nữ với nhau về tuổi tác của dì và chuyện dì chửa hơn tháng. Elain luôn luôn đối tốt với anh và Eragon, và anh cũng rất thích dì.

“Anh sẵn sàng chưa?” Katrina hỏi khi cô bước ra khỏi lều, quấn thêm một chiếc khăn quàng màu xanh quanh đầu và cổ.

Anh với lấy thắt lưng và búa. “Rồi. CHúng ta đi thôi.”

CÁI GIÁ CỦA QUYỀN LỰC

“Thôi nào tiểu thư. Tiểu thư không cần những thứ này nữa đâu. Vứt nó đi thôi.”

Cô hầu gái của Nasuada, Farica nhẹ nhàng tháo lớp vải lanh băng quanh cánh tay cô. Nasuada đã phải băng bó như thế từ hồi cô và thủ lĩnh Fadawar so độ dũng cảm trong Thách đấu Trường Đao.

Nasuada đứng nhìn chằm chằm vào tấm thảm dài rách tả tơi trong khi Farica chăm sóc cô. Sau đó cô cố gắng nhìn xuống. Từ khối chiến thắng trong Thách đấu Trường đao tới giờ, cô vẫn không dám nhìn những vết thương, lúc mới đầu trông chúng đã rất xấu xí nên cô không thể nhìn lại cho tới khi chúng sắp lành.

Những vết sẹo nằm rải rác trên cánh tay cô: sáu vết nằm ở dọc bụng cánh tay trái và ba vết khác ở tay phải. Mỗi vết sẹo dài khoảng 7 tới 10cm trừ vết cuối cùng ở bên tay phải. Lúc đó đầu óc cô đã không còn kiểm soát nổi và con dao trượt đi tạo nên vết sẹo dài gấp đôi những cái khác. Lớp da quanh vết sẹo ửng hồng và dúm lại trong khi vết sẹo chỉ hơi trắng hơn phần da còn lại của cô một chút. Cô đã sợ rằng trông chúng trắng bệch đập vào mắt người khác. Vết sẹo lồi lên khoảng 0,5cm, trông như thể có ai đó ấn một cái roi sắt nhỏ dưới làn da cô.

Tư tưởng của Nasuada mâu thuẫn khi quan sát chúng. Khi cô lớn, cha cô đã dạy cho cô những tập tục của dân tộc cô, nhưng cả cuộc đời cô lại sống cùng Varden và những người lùn. Cô chỉ được đi xem những buổi lễ của dân du mục và hiếm lắm mới tham gia vào buổi cầu nguyện của họ. Cô chưa bao giờ Nhảy Trống giỏi và cũng chưa bao giờ tham gia buổi Cầu Hồn, hay – cái này là đặc biệt nhất – đánh bại ai trong Thách đấu trường Đao. Thế mà giờ đây khi cô vẫn còn trẻ đẹp lại mang trên mình chín vết sẹo lớn trên cánh tay. Cô có thể ra lệnh cho một trong những pháp sư của Varden xóa mờ chúng nhưng sau đó có thể cô sẽ mất đi chiến thắng của mình ở Thách Đấu Trường Đao, và những bộ lạc du mục sẽ lại bảo cô chỉ là kẻ nô bộc của họ.

Trong khi cô tiếc nuối nhìn cánh tay không còn mềm mượt của mình và không bao giờ còn thu hút ánh nhìn của cánh nam giới nữa, cô cũng tự hào về những vết sẹo. Chúng là vật chứng cho sự dũng cảm và là bằng chứng hữu hình cho những gì cô cống hiến cho Varden. Bất cứ ai đối diện với cô sẽ biết được con người cô và cô thấy điều đó còn quý giá hơn nhiều so với vẻ bề ngoài.

“Chàng nghĩ sao?” cô hỏi và giơ cánh tay về trước mặt Vua Orrin đang đứng bên cửa sổ thư phòng ngắm nhìn thành phố.

Orrin quay lại, nhíu mày, mắt tối lại bên dưới hàng lông mày rậm rạp. Lúc trước ông đã thay bộ giáp chiến đáu bằng bộ áo vải đỏ dày và áo choàng gắn lông chồn trắng.

“Trẫm thấy hài lòng khi nhìn thấy những vết sẹo,” ông nói và quay lại nhìn thành phố. “Băng lại đi. Để như thế không hợp với xã hội lịch sự.”

Nasuada quan sát cánh tay thêm một lúc. “Không, tôi không nghĩ thế.” Cô giật dải dây buộc ở cánh tay và đưa cho Farica. Cô bước qua tấm thảm của người lùn đặt ở giữa phòng tới gần Orrin ngắm nhìn thành phố tan tác sau chiến tranh.Cô thấy hài lòng khi hai trong số các đám cháy ở phóa thành tây đã bị dập tắt. Sau đó cô quay sang nhìn nhà vua.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn từ khi Varden và Surdan bắt đầu chống lại đế chế, Orrin đã già đi rất nhiều, vẻ nhiệt tình và tính cách kỳ cục vốn cố có ông đã biến mất dưới vẻ ngoài sắt đá. Lúc đầu, cô thích những thay đổi đó vì cô cảm thấy ông người lớn hơn, nhưng khi chiến tranh kéo faif, cô bắt đầu nhớ cách ông hào hứng thảo luận như thể một nhà hùng biện cũng như nhớ tính cách thất thường của ông. Cô nhớ ông đã từng làm cô thấy nhẹ nhõm dù cho lắm lúc cuộc sống với cô quá là nặng nề. Hơn nữa những thay đổi đã biến ông nguy hiểm hơn; nếu xét như tâm trạng hiện tai của ông, cô nghĩ ông đang có ý định tiếm quyền thủ lĩnh Varden của cô.

Liệu mình có hạnh phúc khi lấy ngài? Cô phân vân. Orrin không đẹp mã. Mũi ông quá cao và nhỏ nhưng hàm lại bạnh mà môi lại quá mỏng. Sau hàng năm trời luyện tập đã cho ông một thân hình cơ bắp. Trí tuệ của ông không ai có thể nghi ngờ và tính cách của ông cũng dễ chịu. Nhưng nếu như ông không phải vua của Surda và nếu như ông không quá đe dọa tới vị trí của cô và tới quyền tự chủ của Varden, cô biết cô sẽ không bao giờ để mắt tới ông ta. Liệu ngài có thể làm một người cha tốt không?

Orrin tì tay lên bậu cửa đá. Ông nói và không thèm nhìn cô. “Nàng phải chấm dứt thỏa thuận liên minh với Urgal.”

Câu nói của ông khiến cô lùi lại mấy bước. “Vì sao?”

“Vì chúng làm tổn thương chúng ta. Những người muốn làm đồng minh với chúng ta giờ lại quay sang nguyền rủa chúng ta vì liên minh với quỷ dữ và không chịu hạ vũ khí khi chúng ta tới quê hương họ. Đối với họ sự tại vị của Galbatorix có vẻ công bằng và có lý vì chúng ta liên quân với Urgal. Những người bình thường sẽ không thể hiểu vì sao chúng ta chấp nhận chúng. Họ sẽ không biết rằng chính Galbatorix đã lợi dụng Urgal hay Galbatorix lừa Urgal tấn công Tronjheim dưới sự chỉ huy của Tà thần. Nàng sẽ không thể giải thích những chuyện tế nhị như vậy cho những người nông dân đang sợ hãi. Tất cả những gì họ hiểu là những sinh vật họ sợ và thù ghét cả đời đang tiến tới quê hương họ, cùng với một con rồng và một kỵ sĩ giống tiên hơn là người.”

“Chúng ta cần sự giúp đỡ của Urgal,” Nasuada nói. “Chúng ta còn quá ít binh sĩ.”

“Chúng ta không cần chúng tới vậy. Nàng biết những gì trẫm đang nói là sự thật; thế còn vì lý do gì mà nàng không để Urgal tham chiến ở Belatona? Vì sao nàng ra lệnh cho chúng không được đặt chân vào thành phố? Không cho chúng tham chiến là chưa đủ đâu Nasuada. Tiếng xấu về chúng đã đồn đải khắp nơi rồi. Điều duy nhất nàng có thể làm để cải thiện tình hình là chấm dứt sự phối hợp kinh tởm này trước khi nó gây cho chúng ta nhiều thiệt hại hơn.”

“Thiếp không thể.”

Orrin quay lại nhin cô với vẻ tức giận. “Những binh sĩ đang chết dần vì nàng chấp nhận sự trợ giúp của Garzhvog. Những binh sĩ của ta, của nàng, những người dân của đế chế... chết và bị chôn. Vụ liên minh này không đáng để họ phải bỏ mạng. Còn trẫm, trẫm không thể hiểu vì sao nàng lại bảo vệ chúng.”

Cô không thể chịu nổi cái nhìn của ông ta, nó khiến cô nhớ tới cái cảm giác tội lỗi mỗi khi cô cố gắng ngủ. Cô quay mặt nhìn chăm chăm vào đám khói bốc từ ngọn tháp ở góc khuất của thành phố. Cô từ từ nói. “Thiếp bảo vệ họ vì thiếp hy vọng bảo trì sự liên minh giữa chúng ta và Urgal sẽ cứu sống nhiều người hơn cái giá chúng ta phải trả... Nếu chúng ta có thể đánh bại Galbatorix...”

Orrin lẩm rẩm tỏ ra không tin.

“Thiếp biết chúng ta không nắm chắc phần thắng,” cô nói. “Nhưng chúng ta phải vạch ra tất cả các khả năng. Nếu chúng ta đánh bại được lão ta thì chúng ta sẽ bước vào quá trình phục hồi nền văn minh từ đống tro tàn của Đế chế. Chúng ta phải chắc chắn chúng ta có được hòa bình sau cả trăm năm đấu tranh. Thiếp không thể nào hạ bệ Galbatorix để rồi Urgal sẽ đánh bại chúng ta vào thời điểm chúng ta yếu nhất.”

“Lúc nào chúng cũng có thể làm thế. Chúng luôn là thế.”

“Vậy thì chúng ta có thể làm gì nữa?” cô giận giữ nói. “CHúng ta phải cố gắng thuần phục chúng. Chúng ta càng khiến chúng không biết được mục đích chúng ta liên minh với chúng là gì thì nguy cơ chúng quay lưng với chúng ta càng thấp.”

“Trẫm sẽ nói cho nàng biết phải làm gì,” ông ta hét lên. “Đuổi chúng đi. Chấm dứt hòa ước với Nar Garzhvog và đuổi chúng đi. Nếu chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến này, chúng ta có thể đưa ra bản hiệp định mới với chúng trong một tư cách cao hơn. Hoặc tốt hơn, cho Eragon và Saphira và một tiểu đoàn tiến vào dãy Spine giết sạch lũ Urgal như các Kỵ sĩ Rồng đã từng làm.”

Nasuada nhìn ông ta với vẻ khó tin. “Nếu thiếp chấm dứt hiệp ước với Urgal, có thể họ sẽ tức giận, họ sẽ ngay lập tức tấn công chúng ta, và chúng ta không thể cùng lúc đương đầu với chúng và quân đội triều đình. Chỉ có đồ ngu mới làm thế. Nếu như thần tiên, rồng và các Kỵ sĩ có thể chấp nhận sự tồn tại của Urgal – kể cả khi họ thừa sức tiêu diệt chúng – thì vì sao chúng ta không thể. Họ biết giết tất cả Urgal là sai, vậy thì chàng cũng phải thấy được điều đó.”

“Cứ theo gương họ đi. Họ bị sao rồi đó! Tốt thôi, cứ để một vài Urgal sống sót nhưng hay giết một lượng đủ để chúng không dám trả thù chúng ta trong một trăm năm nữa!”

Sự đau đớn hiện lên rõ ràng trong giọng nói của cô và trên mặt ông hiện rõ những gân xanh đỏ. Nasuada thấy choáng váng. Cô quan sát ông kỹ hơn để hiểu vì sao ông lại kích động tới vậy. Sau một lúc, cô đã hiểu.

“Chàng đã mất ai?” cô hỏi.

Orrin nắm chặt bàn tay, rồi từ từ mở bàn tay tựa vào bậu cửa sổ như thể ông muốn dồn toàn bộ sức mạnh ra nhưng lại không dám. Ông đấm lên cửa sổ hai lần rồi nói. “Một người bạn thời niên thiếu cùng ta lớn lên ở lâu đài Borromeo. Ta không nghĩ nàng đã có dịp gặp cậu ta. Cậu ta là trung úy trong quân kỵ binh.”

“Sao anh ấy chết?”

“Đúng như nàng đoán đó. CHúng ta tới khu chuồng ngựa phía tây xem xét để sử dụng thì một người giữ ngựa chạy ra dùng cây xỉa đập vào anh ta. Khi chúng ta tóm được hắn, hắn cứ la hét về Urgal và rằng hắn không bao giờ đầu hàng... Nếu hắn không làm thì cũng có kẻ khác làm. Sau đó ta tự mình giết chết hắn.”

“Thiếp rất tiếc,” Nasuada nói.

Những viên đá gắn trên vương miện của Orrin lấp lánh khi ông gật đầu vẻ thấu hiểu.

“Dù chàng có đau thương thế nào cũng không thể để nó tác động tới quyết định của chàng... Em biết nó không hề dễ dàng – nhưng chàng phải mạnh mẽ hơn con người thật của mình, vì lợi ích của con dân của chàng.”

“Phải mạnh mẽ hơn à,” ông nói bằng giọng chua chát và chế nhạo.

“Đúng. Chúng ta phải mạnh mẽ hơn những người khác, chúng ta phải chứng tỏ chúng ta có thể đứng ra chịu trách nhiệm... Urgal giết cha thiếp, chàng có nhớ không, nhưng chuyện đó không ngăn thiếp quyết định liên quân cùng Urgal để giúp Varden. Thiếp sẽ không để bất cứ chuyện gì khiến thiếp từ bỏ cái gì thiếp cho là tốt cho quân đội của chúng ta và cho cục diện chung, dù chúng ta sẽ phải trải qua đau đớn thế nào.” Cô giơ tay cho ông ta xem những vết sẹo.

“Vậy đây là câu trả lời của nàng? Nàng sẽ không phá vỡ hiệp ước với Urgal?”

“Không.”

Orrin quá bình thản chấp nhận khiến Nasuada không yên tâm. Sau đó ông đặt cả hai tay lên bậu cửa sổ rồi quay người bỏ vào thư phòng. Trên tay ông đeo bốn chiếc nhẫn lớn; một trong số đó có khắc quốc huy Surda lên mặt đá thạch anh: hình một con hươu sừng tấm chân quấn tầm gửi đứng trên một chiếc đàn hạc, đối diện là một ngọn tháp cao sừng sững.

“Ít nhất,” Nasuada nói. “Chúng ta không phải đụng độ những binh sĩ không biết đau.”

“Những thây ma biết cười ấy hả,” Orrin lầm bẩm, sử dụng cụm từ mà cô biết đã phổ biến trong quân Varden. “Đúng, và may là không có Murtagh lẫn Thorn, nếu không thì phiền lắm.”

Cả hai người không nói gì trong một lúc. Sau cùng cô cất tiếng, “Thí nghiệm tối qua thế nào? Thành công không?”

“Ta mệt quá nên đi ngủ.”

“Ờ.”

Sau đó cả hai cùng ngầm đồng ý đi về bàn làm việc đặt ở cạnh một bức tường. Trên bàn là hàng núi công văn, giấy tờ, báo cáo. Thế mà chỉ cách đây nửa tiếng, trên bàn làm gì có gì đâu.

Cô tập trung vào bản báo cáo quan trọng nhất, ước tính số lượng tù nhân quân Varden bắt giữ sau trận chiến ở Belatona, những tên quan trong đã được đánh dấu bằng mực đỏ. Cô và Orrin đang bàn về những con số thì Ferica bước vào tháo gạc cho cô.

“Thiếp không nghĩ mình có thể thoát được khỏi đống rắc rối này,” cô thừa nhận.

“Chúng ta có thể tuyển quân hộ thành từ những người này. Như vậy chúng ta không phải bỏ lại quá nhiều chiến binh.”

Cô cầm bản báo cáo lên. “Có thể, nhưng những người chúng ta cần lại hiếm mà thầy phép của chúng ta đang làm việc quá tải rồi...”

Khi thấy cô trả lời tiêu cực, nhà vua hỏi lại. “Vậy Du Vrangr Gata đã tìm ra cách phá bỏ lời thề bằng ngôn ngữ cổ chưa? Đã có chút tiến triển nào chưa?”

“Chưa. Thiếp đã hỏi ý kiến thần tiên nhưng họ cũng không hơn chúng ta.”

“Nếu chúng ta không giải quyết được vấn đề này, chúng ta sẽ thua trận,” Orrin nói. “Đây chính là vấn đề mấu chốt.”

Cô day day thái dương. “Thiếp biết.” Trước khi để lại người lùn bảo vệ Farthen Dȗr và Tronjheim, cô đã thử tính tới những thách thức quân Varden phải đối mặt khi ở thế phòng thủ. Nhưng vấn đề họ đang vấp phải lúc này lại khiến cô quá ngạc nhiên.

Mọi người đã thấy được rắc rối đó lần đầu tiên sau Trận chiến trên Đồng bằng cháy. Rõ ràng là những binh sĩ của Galbatorix đã phải thề trung thành với lão và đế chế bằng ngôn ngữ cổ. Cô và Orrin không thể tin tưởng họ, ít nhất là tới khi tiêu diệt đế chế và Galbatorix hoặc có thể là không bao giờ. Vì vậy họ không thể để tàn quân gia nhập quân đội Varden vì sợ lời thề sẽ khiến họ hành động khác thường.

Nasuada không quan tâm nhiều tới vấn đề này cho tới thời điểm hiện tại. Có chiến tranh tất có tù nhân và cô đã thỏa hiệp với Vua Orrin rằng sẽ đưa tù binh về Surda, đưa họ tới công trường xây dựng đường xá, đập đá, kè mương và làm những công việc nặng nhọc khác.

Nhưng tới khi Varden tiếp quản Feinster cô mới thấy hết được mức nghiêm trọng của vấn đề. Galbatorix không chỉ buộc binh lính, mà cả quý tộc và tùy tùng, thậm chí vài người dân thề trung thành với lão – một con số quá lớn khiến Varden không thể xác định nổi. Nhưng những ai họ xác định được, họ giam vào ngục thất, ít nhất là tới khi tìm cách phá giải lời thề. Sau đó việc tìm những người họ có thể tin tưởng và những người họ muốn đầu quân cho Varden còn khó hơn rất nhiều.

Để canh chừng những người đó, Nasuada phải để lại Feinster gấp đôi số lượng quan sĩ cô dự liệu lúc đầu. Và, vì có nhiều tù nhân nên số lượng lương thực cung cấp tới các thành phố lại tăng lên. Họ không thể duy trì tình thế này lâu hơn, và giờ mọi chuyện đang chuyển biến xấu khi họ đã có Belatona.

“Tiếc là người lùn không tới,” Orrin nói. “Chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ của họ.”

Nasuada đồng tình. Tại thời điểm này trong quân Varden chỉ có vài trăm người lùn; phần còn lại đã về Farthen Dȗr chôn cất tiên hoàng Hrothgar và để đợi các tộc trưởng chọn ra người kế nhiệm Hrothgar. Cô đã nguyền rủa việc này không biết bao nhiêu lần. Cô đã thuyết phục người lùn hãy chon ra quan nhiếp chính cho thời gian này, nhưng họ cứng đầu như đá và cứ khăng khăng làm theo nghi lễ đã có từ ngàn đời của mình, dù việc đó đồng nghĩa với việc bỏ rơi Varden. May là, cuối cùng họ đã chọn ra nhà vua mới – cháu họ của Hrothgar, Orik và hiện giờ đang đi từ rặng núi Beor xa xôi tới tiếp viện cho Varden. Tại thời điểm này, họ đã qua vùng đồng bằng rộng lớn ở bắc Surda, ở khu vực giữa hồ Tudosten và sông Jiet.

Nasuada không biết họ có thể tham chiến ngay khi tới không. Những người lùn dai sức hơn con người nhưng gì thì gì họ cũng đã đi bộ hành quân suốt hai tháng ròng, thế cũng đủ làm rệu rã những con người khỏe nhất. Chắc họ chán lắm khi cứ phải nhìn đi nhìn lại những cảnh giống nhau, cô nghĩ bụng.

“Chúng ta đã có quá nhiều tù binh rồi. Và một khi chúng ta chiếm được Dras Leona...” cô lắc đầu.

Đột nhiên biểu hiện trên khuôn mặt Orrin sáng lạng hẳn: “Nếu chúng ta bỏ qua Dras – Leona thì sao?” Ông lật tung đống giấy tờ cho tới khi tìm thấy tấm bản đồ Alagaësia do người lùn vẽ, mà ông đã cho sao làm nhiều bản. Trên bản đồ những ụ đất nhấp nhô khiến địa thế của vùng đất không bình thường: những đỉnh núi nằm ở phía tây Du Weldenvarden. Đồng bàng trũng nơi có dãy núi Beor; những khe núi và hẻm núi chạy dọc Sa mạc Hadarac; và hệ thống núi Sphine xếp như dẻ quạt ở phần chính bắc. “Nhìn đi.” Ông dùng ngón giữa chỉ theo đường nối giữa Belatona tới thủ phủ của Đế chế, thành phố Urȗ’baen. “Nếu chúng ta hành quân thẳng tới đây, chúng ta sẽ không phải đi qua Dras – Leona. Đi xa như thế rất có khăn nhưng chúng ta có làm được.”

Nasuada không cần phải cân nhắc về gợi ý này; cô đã nghĩ tới khả năng này rồi. “Nguy hiểm rất lớn. Galbatorix có thể vừa tấn công chúng ta bằng cánh quân ở Dras – Leona – với một số lượng không nhỏ, nếu như tình báo của chúng ta đáng tin – và như vậy chúng ta sẽ bị tấn công từ hai hướng. Cách đó là cách thua trận nhanh nhất. Không, chúng ta phải chiếm được Dras – Leona.”

Orrin thừa nhận cùng một cái gật đầu khe khẽ. “Vậy thì chúng ta cần quân sĩ từ Aroughs quay lại. Chúng ta cần huy động tổng lực nếu chúng ta muốn tiếp tục cuộc chiến.”

“Thiếp biết. Thiếp định kết thúc cuộc chiến ở đó trong tuần này.”

“Ta hy vọng không phải bằng cách cho Eragon tới đó.”

“Không, thiếp có kế hoạch khác.”

“Tốt. Và nhanh lên nhé. Vậy chúng ta làm gì với tù nhân đây?”

“Như chúng ta đã làm trước đây: canh giữ, đề phòng, cùm xích. Có thể chúng ta cần dùng phép thuật để hạn chế cử động của họ, như vậy chúng ta có thể trông chừng chúng kỹ lưỡng hơn. Ngoài ra, thiếp không nghĩ ra giải pháp khác, trừ việc giết hết họ. Thiếp thà...” Cô cố tưởng tượng ra viễn cảnh cô không hạ bệ được Galbatorix. “Thiếp thà không dùng... biện pháp kinh khủng này.”

“Ừ.” Orrin nói và quan sát vết mực đã mờ đánh dấu tam giác Belatona, Dras- Leona và Urȗ’baen.

Ông vẫn cứ nhìn thế cho tới khi nasuada nói, “Chúng ta còn cần làm gì không? Jörmundur đang đợi lệnh còn Hội Đồng Trưởng lão muốn gặp thiếp.”

“Ta thấy lo.”

“Vì chuyện gì?”

Orrin đặt tay lên tấm bản đồ. “Kế hoach này từ đầu đã khó khăn rồi... Lực lương của chúng ta, quân đồng minh đang tản mát quá nhiều, và nếu Galbatorix nghĩ tới việc tham chiến, lão có thể tự mình giết chết chúng ta dễ như Saphira chén một bầy dê vậy. Toàn bộ kế hoạch của chúng ta phải phụ thuộc vào khi nào Galbatorix sẽ đối đầu với Eragon và Saphira cũng như chúng ta sẽ chiêu gọi được bao nhiêu thầy phép. Giờ số lượng thầy phép của chúng ta quá ít và chúng ta sẽ không thể triệu tập những người còn lại cho tới khi tới Urȗ’baen và hợp quân cùng Nữ hoàng Islandzandí và quân đội của bà ta. Tới lúc đó, quân chúng ta vẫn còn yếu. Chúng ta chỉ mong sao Galbatorix vẫn cứng đầu không chịu tham chiến cho tới khi chúng ta răng bẫy quanh hắn.”

Nasuada cũng nghĩ như vậy. Nhưng hiện giừ cô cần nâng cao sự tự tin của Orrin hơn là khiến ông suy nghĩ càng tiêu cực, vì nếu sự quyết tâm của ông yếu đi, nhiệm vụ và ảnh hưởng tới quyết tâm của nhà vua cũng như làm nản lòng binh lính. “Chúng ta không phải hoàn toàn không có sức phòng vệ,” cô nói. “Không còn như thế. Chúng ta đã có thanh Dauthdaert, và với nó thiếp nghĩ chúng ta có thể giết chết Galbatorix và Shruikan khi bọn họ xuất hiện ở Urȗ’baen.”

“Có lẽ.”

“Ngoài ra, lo lắng chẳng ích gì. Chúng ta không thể khiến người lùn đi nhanh hơn, hay khiến tốc độ hành quân tới Urȗ’baen của chúng ta nhanh hơn hay quay đuôi bỏ chạy. Vì thế tốt hơn chàng đừng lo lắng thái quá. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là bình thản chấp nhận số phận cho dù chuyện gì sắp đến. Thiếp không để những suy nghĩ về hành động của Galbatorix làm ảnh hưởng tới chúng ta. Thiếp không cho mình vì hắn mà yếu đuối.”

VƯỢT CẠN

Tiếng hét vang lên: cao, the thé và chói tai hầu như không hề giống của con người.

Eragon căng thăng như ai đó dùng kim đâm vào nó. Nó đã giành cả ngày để chứng kiến mọi người chiến đấu và tử trận – chính nó cũng giết vô khối kẻ địch – nhưng nó không thể chịu nổi khi nghe thấy tiếng thét thống khổ của dì Elain. Những âm thanh đó quá kinh khủng khiến nó phân vân liệu dì vượt cạn nổi không.

Bên cạnh nó, Abriech và Baldor ngồi phệt xuống và dựt cỏ. Những ngón tay to bè của họ xé những lá cỏ tan tành trước khi bứt cây cỏ tiếp theo. Mồ hôi rịn ra trên trán họ và mắt họ mở to với vẻ tức giận và tuyệt vọng. Thi thoảng họ nhìn nhau hoặc nhìn vào trong lều, nhưng hầu hết thời gian họ cắm mặt xuống đất và không để ý tới mọi chuyện xung quanh.

Cách đó vài mét, Roran đang ngồi trên một cái thùng. Ở bên góc con đường lầy lội là một toán người dân Carvahall đang tụ tập, hầu hết là bạn của chú Horst và những cậu con trai cùng vợ của họ tới giúp bà Gertrude đỡ đẻ cho dì Elain. Saphira đứng sau họ. Cổ của cô nàng cong xuống như một chiếc cung, đuôi nó vẫy qua vẫy lại như thể đi săn, và nó cứ hết thò thụt cái lưới đỏ như đá ruby ra khỏi miệng, nếm lấy vị không khí có thể báo cho nó biết vài thông tin về Elain và đứa nhỏ sắp sinh.

Eragon xoa xoa bắp tay trái bị đau. Họ đã chờ đợi hàng giờ và cũng đã chạng vạng tối. Bóng tối phủ lên mọi cảnh vật, tiến về phía đông như thể muốn tiến tới đường chân trời. Trời trở lạnh và muỗi cùng những con chuồn chuồn kim từ sông Jiet bay vo ve xung quanh họ.

Một tiếng gào nữa phá tan sự im lặng.

Những người đàn ông thì thầm với vẻ lo lắng, rồi ra dấu không tốt và thì thầm nhỏ chỉ để người gần họ nhất có thể nghe thấy nhưng Eragon lại nghe rất rõ. Họ thì thầm về ca đẻ khó của dì Elain; một vài người còn nói nếu dì không sớm sinh em bé thì sẽ khó cứu được mẹ lẫn con. Một số người khác lại nói “Kể cả lúc sung sướng mất vợ đã khổ chứ đừng nói là trong hoàn cảnh này” hoặc “Tiếc thay, tiếc thay...” Vài người đổ chuyện của Elain cho lũ Ra’zac hoặc những chuyện dân làng đã gặp phải trong hành trình tới với quân Varden. Thậm chí có người còn bảo họ không tin Arya biết đỡ đẻ.” “Cô ta là tiên chứ đâu phải người,” bác thợ mộc Fisk nói. “Cô ấy nên sống cùng những người như cô ấy chứ không phải tới những nơi không chào mừng cô ta. Ai mà biết được co ta thực sự muốn gì?”

Eragon nghe thấy tất cả và còn nhiều điều khác nhưng nó vẫn giấu cảm xúc và vẫn giữ vẻ mặt bình thản, vì cậu biết dân làng sẽ không vui khi biết cậu nghe tốt thế nào.

Chiếc thùng gỗ dưới Roran kêu cọt kẹt khi anh ngoài người về phía trước. “Mọi người có nghĩ chúng ta nên...”

“Không,” Albriech nói.

Eragon cuốn chặt áo choàng vào người hơn. Cơn ớn lạnh đã lan vào tận xương. Nhưng cậu sẽ không đi cho tới khi nào dì Elain sinh xong.

“Nhìn kìa,” Roran đột nhiên hào hứng nói.

Albriech và Baldor ngay đầu lại nhìn.

Katrina xuất hiện trước lều cầm theo một đống giẻ bẩn. Trước khi tấm bạt lều khép lại, Eragon chợt nhìn thấy mờ mờ hình ảnh của chú Horst và một người phụ nữ Carvahall – nó không chắc là ai – đứng ở đầu võng dì Elain nằm.

Katrina không thèm liếc lấy một cái mà chạy thẳng tới chỗ vợ của chú Fisk, Isold và cô Nolla đang đun lại đống vải để dùng lại.

Cái thùng lại cọt kẹt kêu khi Roran đổi tư thế ngồi. Eragon nửa mong anh đi tới hỏi chuyện Katrina nửa không, nhưng anh vẫn đó như Albriech và Baldor. Họ và những dân làng khác nhìn theo chuyển động của cô không hề chớp mắt.

Eragon nhăn nhó khi nghe tiếng thét của dì Elain vang lên, không hề bớt đau khổ hơn những lần khác.

Tấm bạt lại được kéo ra lần thứ hai và lần này Arya chạy vụt ra, đầu tóc rối bù và tay áo sắn cao. Những sóng tóc dợn quanh mặt nàng khi nàng lướt qua ba trong số mười một hộ vệ của Eragon đang đứng trong bóng râm của cái lều gần đó. Nàng vội nói gì đó với một người trong số họ, một tiên nữ mặt xương xương tên Invidia, rồi khẩn trương quay lại lều.

Eragon đuổi kịp nàng sau khi nàng bước được mấy bước. “Chuyện sao rồi?” nó hỏi.

“Tệ lắm.”

“Sao lại lâu đến vậy? Nàng không giúp cho dì sinh nhanh được à?”

Nét mặt của Arya từ căng thẳng trở nên trầm trọng. “Có thể. Ngay từ nửa tiếng đầu tiên tôi có thể giúp đứa bé chui ra nhưng Gertrude và những người phụ nữ khác chỉ cho tôi làm một vài phép thuật đơn giản nhất.”

“Vô lý! Sao vậy?”

“Vì phép thuật làm họ sợ - và tôi làm họ sợ.”

“Vậy thì nói với họ là nàng không muốn làm họ sợ. Nói bằng ngôn ngữ cổ và họ sẽ phải tin nàng.”

Nàng lắc đầu. “Làm vậy chỉ khiến tình hình tệ hơn. Họ sẽ nghĩ tôi đang cố phù phép họ chống lại ý chí của họ, và họ sẽ đuổi tôi đi.”

“Chắc chắn Katrina...”

“Nhờ có chị ấy tôi mới làm phép được.”

Elain lại la lớn.

“Họ không cho nàng giảm đau cho dì à?”

“Họ không cho tôi làm gì thêm.”

Eragon quay người nhìn lều nhà chú Horsr. “Hóa ra vậy,” nó rít lên qua kẽ răng.

Nó phải giữ chặt cánh tay trái để đứng im. Nó choáng vàng nhìn Arya mong một lời giải thích. Cô lắc đầu. “Đừng,” nàng nói. “Có những tục lệ quá lâu đời. Nếu chàng can thiệp, chàng sẽ khiến bà Gertrude giận dữ và xấu hổ và khiến nhiều phụ nữ khác trong làng ác cảm với chàng.”

“Tôi không quan tâm!”

“Tôi biết, nhưng tin tôi đi: ngay lúc này tốt nhất là chàng nên ngồi đợi cùng những người khác.” Như để nhấn mạnh, nàng kéo tay nó xuống.

“Tôi không thể ngồi đó mà mặc cho dì đau đớn!”

“Nghe tôi đi. Tốt hơn là chàng nên ở lại. Tôi sẽ cố gắng hết sức để giúp Elain, tôi hứa đó, nhưng chàng đừng có bước vào. Chàng chỉ khiến mọi người giận dữ thôi... Làm ơn nha.”

Eragon đắn đó rồi tức giận hạ tay xuống khi Elain lại kêu váng lên. “Tốt thôi,” nó nói và nhoài lại gần Arya, “nhưng dù có chuyện gì cũng đừng để dì hay đứa bé ra đi. Tôi không cần biết nàng phải làm gì, nhưng đừng để họ chết.”

Arya nghiêm túc quan sát nó. “Tôi sẽ không bao giờ để đứa bé gặp tổn thương,” cô nói rồi tiếp tục bước đi.

Khi nàng vừa biến mất trong lều của chú Horst, Eragon quay lại chỗ Roran, Albriech và Baldor đang tập trung và ngồi xuống cái thùng của nó.

“Thế nào?”

Eragon nhún vai. “Họ làm tất cả những gì có thể. Chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi... Thế thôi.”

“Chẳng có gì mới,” Baldor nói. “Vẫn thế.”

Mặt trời chuyển sang vàng cam rồi đỏ thẫm khi lặn ở đường chân trời. Vài đám mây lang thang ở phía tây, còn sót lại sau cơn bão, không khí ẩm ướt. Nhặng và ruồi cùng một số loài côn trung khác bay vo ve.

Sau một lúc, tiếng thét của dì Elain yếu dần, nhỏ dần thành những tiếng rên rỉ đứt quãng khiến Eragon dựng tóc gáy. Nó muốn giải thoát dì khỏi đau đớn, nhưng nó không thể bỏ qua lời khuyên của Arya, thế là nói ngồi lại và cắn móng tay, miễn cưỡng nói chuyện với Saphira.

Khi mặt trời đi tới đường chân trời, nó lan rộng như một lòng trứng gà khi đập vỡ vỏ trứng. Dơi bắt đầu bay lẫn với bầy chim nhạn, tiếng vỗ cánh của chúng nghe sao mà mờ nhạt và hoảng loạn, tiếng kêu the thé của chúng khiến Eragon đau tai vô cùng.

Sau đó Elain hét một tiếng inh tai làm tất cả những âm thanh trong vùng câm lặng, Eragon không mong trong đời nghe thêm lần nữa.

Sau đó là một khoảng lăng ngắn ngủi nhưng kinh người.

Cuối cùng mọi người nghe thấy tiếng khóc lớn và đứt quãng của đứa nhỏ từ trong lều – tiếng kèn lệnh từ xa xưa tuyên bố một sinh linh mới tới với thế giới này. Albriech và Baldor cười lớn, Roran và Eragon cũng vậy, vài người khác ăn mừng.

Sự vui sướng của họ chẳn bao lâu. Ngay khi tiếng ăn mừng cuối cùng kết thúc, những người phụ nữ trong lều bắt đầu la hét không thôi khiến Eragon sợ lạnh người. Nó biết tiếng than vãn đó có ý nghĩa gì: tình thế tệ nhất đã tới.

“Không,” nó nói, không thể nào tin nổi và đứng bật dậy khỏi cái thùng gỗ. Dì ấy không thể chết... Không thể nào... Arya đã hứa rồi...

Như thể trả lời ý nghĩ của nó, Arya chạy về phía nó với những sải chân dài không tưởng.

“Chuyện gì?” Baldor hỏi khi nàng đi chậm lại rồi dừng hẳn.

Arya lờ cậu ta đi và nói. “Eragon, tới đây.”

“Chuyện gì thế?” Baldor tức tối hét lên và nắm lấy vai Arya. Cô nàng cử động nhanh như một ánh chớp, chộp lấy cổ tay cậu ta vặn ra sau lưng, buộc cậu ta phải cúi người về phía trước như một thằng què. Mặt cậu ta nhăn lại vì đau.

“Nếu cậu muốn em gái mình sống, vậy đứng sang một bên và đừng có can dự vào!” Nàng thả tay và đẩy cậu ta ra, khiến cậu ta nhào vào cánh tay Albriech rồi quay người rảo bước về lều nhà Horst.

“Chuyện gì đang diễn ra?” Eragon hỏi khi đi cùng nàng.

Arya quay qua nhìn nó, ánh mắt cháy bỏng. “Đứa nhỏ khỏe mạnh nhưng bị hở hàm ếch.”

Eragon hiểu vì sao những người phụ nữ lại la hét như vậy. Những đứa nhỏ bị hở hàm ếch thường không được phép sống; chúng rất khó nuốt thức ăn và nếu bố mẹ chúng cho chúng ăn được, chúng vẫn gặp rất nhiều trở ngại khác: bị xa lánh, nhạo báng và khó có ai chịu lấy chúng. Trong hầu hết các trường hợp, đứa trẻ chết non còn tốt hơn.

“Chàng có thể giúp nó, Eragon,” Arya nói.

“Tôi à? Nhưng tôi chưa bao giờ... sao lại không phải nàng? Nàng biết nhiều về chữa trị hơn tôi.”

“Nếu tôi sửa lại hình dạng đứa bé, mọi người sẽ nói tôi đã cướp đứa nhỏ đi và thay nó bằng đứa khác. Tôi biế mọi người nói gì về loài của tôi, Eron – biết rất rõ là đằng khác. Nếu phải làm tôi sẽ làm nhưng đứa trẻ sẽ phải chịu đựng nhiều đau khổ về sau. Chàng là ngwofi duy nhất có thể cứu nó khỏi số mệnh đó.”

Nó thấy hoảng sợ. Nó không muốn chịu trách nhiệm về cuộc đời một người khác; nó đã phải chịu trách nhiệm cho quá nhiều người rồi.

“Chàng phải cứu đứa bé,” Arya nói với giọng bắt buộc. Eragon tự nhắc mình nhớ xem tiên nhân luôn yêu thương con mình và trẻ con những giống loài khác như thế nào.

“Nàng sẽ trợ giúp tôi nếu cần chứ?”

“Tất nhiên.”

Em cũng thế, Saphira nói. Anh có phải hỏi không?

“Được rồi”, Eragon nói và nắm lấy chuôi gươm Brisingr quả quyết. “Tôi sẽ làm.”

Với Arya sóng bước đi cạnh, nó đi về phía lều và đẩy tấm bạt nặng nề bước vào. Khói nến làm cay mắt nó. Năm người phụ nữ làng Carvahall đứng túm tụm lại canh bạt lều. Tiếng than khói của họ như thụi cho nó một cú. Họ lắc lư như thể bị hôn mê, xé quần áo và dứt tóc than vãn. Chú Horst đứng cuối võng cãi vã với bà Gertrude, mặt đỏ lựng, sưng lên và hằn nếp nhăn vì kiệt sức. Dì đang giữ một bọc vai vào ngực, Eragon đoán đó là đứa nhỏ - dù cậu không nhìn thấy mặt nó – đang cựa quậy. Đôi má bánh đúc của bà Gertrude bóng nhờn và tóc bết vào mặt. Mồ hôi chạy dọc cánh tay trần của bà. Katrina đứng đầu võng, chị đang quỳ trên một tấm thảm tròn, dùng khăn ướt lau trán cho dì Elain.

Eragon không còn nhận ra dì Elain; mặt dì hốc hác, dưới đôi mắt lạc thần của dì là quầng đen. Nước mắt đang chảy ra từ hai hốc mắt, tràn ra thái dương rồi biến mất trong búi tóc rối tung. Dì mở miệng và ngậm lại, rên rỉ những từ không ai hiểu nổi. Một tấm chăn bết máu khô che phần người còn lại.

Cả Horst lẫn Gertrude đều không để ý tới Eragon cho tới khi nó tiến gần tới họ. Eragon đã lớn lên nhiều từ hồi rời làng Carvahall nhưng chú Horst vẫn cao hơn nó cả cái đầu. Khi họ nhìn nhau, chút ánh sáng hy vọng bừng lên trên khuôn mặt ảm đạm của người thợ rèn.

“Eragon!” chú vỗ vai Eragon và ôm lấy nó khiến nó khó lòng trụ vững. “Cháu nghe thấy rồi à?” Đấy không thực sự là một câu hỏi nhưng Eragon vẫn gật đầu. Chú Horst liếc nhìn bà Gertrude – nhanh như tên bắn – rồi ông liếm môi. “Cháu có thể... có thể làm gì cho con bé không?”

“Có thể,” Eragon nói. “Cháu sẽ thử.”

Nó giơ tay ra. Sau một hồi ngần ngừ, Gertrude đưa bọc vải ấm áp cho nó rồi lùi lại, thái độ không bình thường.

Bên trong đống vải là khuôn mặt nhăn nheo nhỏ bé của một bé gái. Da con bé đỏ sậm, mắt nhắm tịt nhưng nhăn nhó như thể nó giận vì bị ngược đãi – Eragon nghĩ nó phản ứng vậy cũng hợp lý thôi. Nhưng điểm khiến nó chú ý nhất chính là vết hở xẻ từ cánh mũi trái tới giữa môi trên. Chiếc lưỡi hồng hồng nho nhỏ của nó lộ rõ ra ngoài.

“Làm ơn,” chú Horst nói. “Cháu có thể làm gì...”

Eragon cau mày vì tiếng thổn thức của những người phụ nữ. “Cháu không thể làm gì ở đây,” nó nói.

Khi nó quay người định đi, Gertrude đứng sau lưng nó nói. “Bà sẽ đi với cháu. Một trong số những người biết chăm sóc trẻ con phải ở cạnh con bé.”

Eragon không cần Gertrude lượn lờ xung quanh khi nó cố sửa lại khuôn mặt cô bé con, và nó định nói thì nó nhớ ra Arya đã nói gì đó về những khổ sở sau này của cô bé. Một người dân làng Carvahall, một người được tín nhiệm, phải chứng kiến sự thay đổi của con bé, làm nhân chứng đảm bảo con bé chính là đứa nhỏ được sinh ra.

“Vâng,” nói nói, che giấu ý định của mình.

Đứa nhỏ cựa quậy trong cánh tay nó và khóc khe khẽ khi nó bước ra khỏi lều. Bên kia con đường, những người dân lang đứng chỉ trỏ còn Abriech và Baldor dợm bước về phía nó. Eragon lắc đầu bảo họ đứng lại đó và họ nhìn nó với vẻ vô vọng.

Arya và Gertrude đi hai bên Eragon khi nó bước về lều của mình, mặt đất rung lên sau mỗi bước đi của Saphira đằng sau. Những chiến minh nhanh chóng nhường đường cho họ.

Eragon cố gắng đi nhẹ nhàng để tránh làm đứa nhỏ bị động. Mùi ẩm mốc bay lên từ người đứa bé như mùi đất rừng trong những ngày hè ấm áp.

Họ gần bước tới lều thì Eragon nhìn thấy đứa bé phù thủy, Elva đang đứng ở gần hai cái lều cạnh đường đi. Con bé nhìn nó với vẻ mặt nghiêm trọng. Nó mặc một chiếc váy màu đen tím có mũ kéo ra sau, để lộ ra hình ngôi sao trên trán.

Con bé không nói một lời cũng không dừng Eragon lại. Nhưng Eragon vẫn hiểu con bé muốn cảnh báo nó, vì sự xuất hiện của nó luôn là sự quở trách đối với nó. Trước đây nó đã làm ảnh hưởng tới vận mệnh của một đứa trẻ sơ sinh. Nó không thể để mình mắc cùng một sai lầm không chỉ vì nó có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà còn vì nếu nó làm như vậy, Elva sẽ trở thành kẻ thù không đội trời chung với nó. Dù Eragon có sức mạnh nhưng nó vẫn e ngại Elva. Khả năng của con bé là nhìn vào linh hồn một con người, tìm ra trong đó những điều khiến họ đau đớn hoặc phiền lòng – và nhìn thấy trước những gì có thể làm tổn thương họ - chính vì thế con bé là một trong những sinh vật nguy hiểm nhất Alagaësia.

Dù chuyện gì xảy ra, Eragon thầm nghĩ khi bước vào trong căn lều tối om, mình cũng không muốn làm tổn thương đứa nhỏ này. Và nó cảm thấy có một động lực mới giúp cho con bé có một cuộc đời mới.

HÁT RU

Ánh sáng mờ mờ từ mặt trời sắp lặn len lỏi vào căn lều của Eragon. Mọi thứ chỉ mang màu nâu như thể được tạc từ đá hoa cương. Với tầm nhìn của thần tiên, Eragon có thể thấy các đồ vật một cách dễ dàng nhưng nó biết bà Gertrude sẽ gặp khó khăn vì thế nó nói. “Naina hvitr un böllr,” và tạo ra một quả cầu ánh sáng nhỏ trôi lập lờ trong không khí. Ánh sáng trắng dìu dịu không làm ấm phòng nhưng cũng tạo ra được thứ ánh sáng tương tự đèn dầu. Nó không dám dùng câu thần chú brisingr vì lo thanh kiếm bốc cháy rừng rực.

Nó nghe thấy tiếng bước chân Gertrude dừng lại sau lưng nó và nó quay lại thấy bà ta đang nhìn chằm chằm vào quần sáng và nắm chặt lấy cái túi bà mang theo. Khuôn mặt quen thuộc của bà khiến nó nhớ nhà và làng Carvahall.

Bà từ từ cúi xuống nhìn nó. “Cháu đã thay đổi nhiều rồi,” bà nói. “Ta nghĩ đứa bé trai ta từng ngồi cả đêm trông nó bị sốt đã không còn.”

“Bà biết là cháu vẫn ở đây mà,” nó trả lời.

“Không, ta không tin.”

Câu nói của bà ta khiến nó khó chịu nhưng nó không thể nghĩ mãi về chuyện đó, nên cố đẩy nó ra khỏi ý nghĩ và đi tới võng. Nó nhẹ nhàng đặt đứa nhỏ mới sinh lên cái chăn, như thể con bé được làm bằng thủy tinh. Đứa bé vẫy nắm tay trước mặt nó. Nó cười và dùng ngón trỏ chạm vào, con bé lẩm bẩm nho nhỏ

‘Cháu định làm gì?” bà Gertrude hỏi khi ngồi xuống chiếc ghế độc nhất trong lều. “Làm sao cháu chữa cho nó được?”

“Cháu không chắc.”

Đúng lúc đó, Eragon phát hiện ra Arya không đi cùng họ vào lều. Cậu gọi nàng và một lát sau nàng từ ngoài trả lời vọng vào, giọng bị lớp vải bố dày làm có biến dạng. “Tôi ở đây,” nàng nói. “Tôi sẽ đợi ngoài này. Nếu chàng cần tôi, cứ phóng tư tưởng về phía tôi và tôi sẽ vào.”

Eragon hơi nhíu mày. Cậu cứ nghĩ cô sẽ ở bên cậu trong suốt quá trình, giúp cậu ở những điểm cậu không biết và sửa sai nếu cậu phạm lỗi. Ừm, không sao. Mình vẫn có thể hỏi nàng nếu cần. Chỉ có cách này bà Gertrude mới không nghi ngờ Arya làm gì đứa nhỏ. Nó bị ám ảnh vì những điều Arya cảnh báo, và nó phân vân liệu cô đã từng bị buộc tội trộm đứa trẻ nào chưa.

Chiếc võng kêu kẽo kẹt khi nó từ từ hạ người xuống nhìn đứa nhỏ. Trán nó nhăn tợn. Nó cảm thấy Saphira đang qua nó quang sát đứa nhỏ lơ mở ngủ trong chăn.

Em nghĩ sao? Nó hỏi.

Từ từ thôi, để anh không vô tình cắn phải đuôi.

Nó đồng ý với cô rồng, sau đó nó tinh quái hỏi lại, Thế em đã làm thế bao giờ chưa? Cắn đuôi ấy?

Cô nàng im lặng nhưng nó cũng thấy được một chút cảm giác: một mớ hỗn độn những hình ảnh – cây cối, cỏ hoa, ánh mặt trời, dãy nũi Spine – cũng như mùi hương ngọt ngào của lan đỏ và một cảm giác đau đớn bất chợt như thể cánh cửa đóng sầm một nhát vào đuôi cô nàng.

Eragon cười thầm, rồi tập trung tạo ra câu thần chú nó nghĩ là cần. Nó mất khoảng nửa tiếng. Nó và Saphira dành gần hết khoảng thời gian đó để soát lại câu thần chú, kiểm tra và tranh luận xem có nên dùng từ hay cụm từ đó không – và thậm chí là cả cách phát âm của Eragon – để chắc chắn câu thần chú đi đúng chủ đích.

Khi hai người đang thảo luận trong im lặng, Gertrude động đậy và nói. “Con bé vẫn thế. Không phải chuyện chuyển biến xấu chứ? Đừng giấu bà, Eragon; hôm nay bà đã phải xử lý nhiều tình huống tệ hơn.”

Eragon nhướn mày và nhẹ nhàng nói. “Công việc chưa bắt đầu.”

Thế là bà Gertrude ngồi lại. Bà lôi trong túi ra một cuộn len vàng, một cái áo len đan được một nửa và một đôi que đan bằng gỗ bạch dương sáng bóng. Những ngón tay bà đan nhanh vì đã quen tay. Tiếng lách cách đều đặn khiến Eragon yên lòng; nó giống âm thanh từ thời niên thiếu khi nó ngồi cạnh bếp lửa trong những tối mùa thu hiu hiu lạnh, nghe người lớn kể chuyện, hút thuốc hoặc uống bia nâu sau bữa tối tập thể.

Cuối cùng, khi nó và Saphira hài lòng vì câu thần chú đã an toàn, Eragon tự tin vì nó không ngọng nghịu phát âm ngôn ngữ cổ. Eragon rút lấy sức mạnh từ cả hai cơ thẻ và chuẩn bị niệm thần chú.

RỒi nó chần chừ.

Khi các tiên dùng phép thuật thuyết phục cây và hoa sinh trưởng theo hình dáng họ muốn, hoặc để thay hình đổi dạng thành sinh vật khác, theo như cậu biết, họ luôn luôn biến câu thần chú thành một bài hát. Nó cũng nên làm thế. Nhưng nó chỉ biết vài bài hát của thần tiên và không bài nào trong số đó chính xác – hoặc có thể - tái tạo vẻ đẹp.

Vì vậy, nó chọn một bài hát từ sâu thẳm trong ký ức của nó, một bài hát dì Marian đã hát cho nó nghe từ khi còn bé tí, trước khi dì bị bạo bệnh, một bài hát mà những người phụ nữ Carvahall ru con đi vào giấc ngủ say: lullaby – bài hát ru. Giai điệu của nó rất đơn giản, dễ nhớ và nhẹ nhàng để đứa nhỏ an an tĩnh tĩnh mà ngủ.

Nó bắt đầu hát, nhẹ nhàng và trầm ấm lan tỏa trong lều như hơi ấm của lửa. Trước khi sử dụng phép thuật, nó nói với cô bé bằng ngôn ngữ cổ rằng nó là bạn cô, nó muốn cô có những điều tốt đẹp nhất và rằng cô bé cần tin tưởng nó.

Con bé hơi nhúc nhích trong giấc ngủ, như thể trả lời nó, và nét mặt rất bình thản.

Sau đó Eragon niệm đoạn thần chú đầu tiên: một câu thần chú đơn giản gồm hai câu ngắn mà nó niệm đi niệm lại như thể cầu nguyện. Khe chia đôi môi cô bé rung lên và sáng mờ mờ như một sinh vật ngủ đông cựa quậy bên dưới.

Điều nó muốn làm không hề dễ. Xương của đứa nhỏ, giống như những đứa bé sơ sinh khác, rất mềm và còn là sụn, không giống xương người lớn và vì thế rất khác với việc cậu chỉnh xương cho những binh sĩ Varden. Nó phải cẩn thận để lấp khe trên môi cô bằng xương thịt và xa của người lớn và phần đó sẽ không hợp với phần cơ thể còn lại. Ngoài ra, trong khi chữa lành vết hở ở phần lợi và hàm trên, nó phải làm cho chân răng cửa di chuyển, thẳng ra và đối xứng. Cậu chưa bao giờ làm điều này. Hơn nữa, nó không biết nếu không có khuyết tật này trông cô bé sẽ ra sao nên không chắc môi và miệng cô bé nên thế nào cho đúng. Trông cô nhóc y như những đứa nhỏ khác nó từng thấy: tròn, bầu bĩnh. Nó lo lắng rằng nó sẽ tạo ra một khuôn mặt có thể bây giờ thì ưa nhìn nhưng sau này khi con bé lớn lại trở nên kỳ dị và thiếu sức hút.

Thế nên nó tiến hành công việc vô cùng cẩn trọng, chỉ tạo ra một vài thay đổi nhỏ một lúc, sau đó dừng lại chiêm ngưỡng kết quả. Nó bắt đầu với lớp tế bào sâu nhất trên gương mặt, với xương và sụn rồi từ từ sửa chữa lớp ngoài trong khi hát.

Ở trong những thời điểm nhất định, Saphira từ ngoài lều ngâm nga theo, giọng trầm của cô nàng khiến không khí rung động. Ánh đèn ma sáng lên và mờ đi theo âm điệu của cô nàng khiến Eragon vô cùng hiếu kỳ. Nó sẽ hỏi Saphira về chuyện này sau.

Đêm xuống, hàng giờ trôi qua, từng từ tuôn ra, từng câu thần chú được niệm nhưng Eragon không chú ý tới thời gian. Khi cô nhóc khóc vì đói nó cho con bé một lượng năng lượng nhỏ. Nó và Saphira cố gắng không chạm tới đầu óc nó – vì không biết sự giao cảm giữa họ sẽ ảnh hưởng tới đầu óc còn non nớt của nó ra sao – nhưng thi thoảng vẫn có những va chạm. Đối với Eragon, nhận thức của nó còn quá mơ hồi, chỉ là một biển những cảm xúc không rõ ràng, không nhận biết về thế giới bên ngoài.

Bên cạnh nó, bà Gertrude vẫn lách cách đan lát. m thanh duy nhất pha tạp vào giai điệu là khi bà ấy đánh rơi que đan hoặc tháo vài mũi đan để sửa lỗi.

Từ từ, rất chậm, vết hở trên hàm và lợi cô bé liều lại, hai bên hàm ếch đẩy lại gần nhau – da cô chảy như một dòng chất lỏng – và môi trên từ từ liền lại không còn lấy một khe nứt.

Eragon mất một thời gian dài ngắm nghĩa và lo lắng về hình dạng đôi môi cho cô bé cho tới khi Saphira nói Xong rồi, nó đành thừa nhận rằng nó không thể làm gì hơn.

Sau đó nó nhỏ giọng dần và im lặng. Nó cảm thấy lưỡi dày và khô, cổ họng rát. Nó chống tay vào võng, hơi cúi người vì mỏi nên không thể đứng thẳng hoàn toàn.

Ngoài ánh sáng chiếu ra từ ngọn đèn ma còn có một thứ ánh sáng khác len lỏi vào trong phòng giống như khi nó bắt đầu công việc. – chắc chắn là mặt trời đã lặn rồi! – nhưng rồi nó nhận ra ánh sáng từ đằng đông, không phải đằng tây. Thế là nó hiểu. Chẳng trách anh thấy đau thế. Anh đã ngồi cả đêm!

Còn em thì sao? Saphira nói. Xương cốt em cũng đau nhừ tử như anh vậy. Thừa nhận của cô nàng khiến nó ngạc nhiên, hiếm khi cô em nó thấy mình không thoải mái, dù cho cô bé đau thế nào. Trận chiến đã bòn rút của cô em nó nhiều hơn vẻ bề ngoài. Khi nó hiểu ra và Saphira cũng đã ý thức được điều đó, cô bé nói, Mệt hay không thì Galbatorix cho bao nhiêu quân em cũng đập được bây nhiêu.

Anh biết.

Bà Gertrude bỏ que đan vào túi, đứng dậy và tiến tới võng. “Bà không bao giờ nghĩ mình được chứng kiến chuyện gì tương tự,” bà nói. “Ít nhất là từ cháu, Eragon Bromsson.” Bà nheo mắt nhìn nó. “Brom là cha cháu, đúng không?”

Eragon gật đầu rồi càu nhàu. “Đúng ạ.”

“Thể nào hai người giống nhau vậy.”

Eragon không muốn thảo luận xa hơn về chủ đề đó nên nó lầm bầm dập tắt ánh đèn ma bằng một cái liếc mắt và suy tưởng. Đột nhiên, lều tôi om, trừ phần được ánh bình minh chiếu rọi. Mắt nó thích nghi với sự thay đổi nhanh hơn bà Gertrude; bà chớp mắt và nhíu mày rồi lắc đầu, như thể không biết nó đứng đâu.

Nó bế con bé lên. Cậu không chắc liệu cậu yếu đi vì phép thuật đã tiêu hao năng lượng hay vì nó phải ngồi bên con bé lâu quá.

Nó cúi xuống nhìn con bé và đột ngột cảm thấy cần bảo vệ sinh linh bé bỏng này. Nó lẩm nhẩm, “Sé ono waíse ilia.” Chúc con hạnh phúc. Đó không phải một câu thần chú mà chỉ là nó hy vọng con bé sẽ tránh được những nỗi đau khổ mà những người khác đang phải chịu đựng. Nó mong con bé sẽ mãi mỉm cười.

Quả thực vậy. Con bé nở một nụ cười rất tươi và nhiệt tình hét, “Gahh!”

Eragon cũng cười rồi quay người bước ra ngoài.

Nó nhìn thấy một nhóm nhỏ tụ tập thành một vòng bán nguyệt quanh lều, vài người đứng, vài người ngồi. Nó nhận ra hầu hết đây là dân làng Carvahall nhưng Arya và các tiên nhân khác cũng ở đó – tách xa những người còn lại – cũng như vài chiến binh Varden mà nó không biết tên. Nó nhìn thấy Elva lấp ló ở căn lều bên cạnh, mũ trùm hạ thấp xuống, che đi khuôn mặt.

Eragon nhận ra nhóm người này đã chờ đợi hàng giờ và nó lại không hề cảm nhận được sự hiện hữu của họ. Có tiên nhân và Saphira bảo vệ nó sẽ được an toàn, nhưng không được phép coi thường.

Mình phải giỏi hơn, nó tự nhủ.

Đứng trước đám đông là Horst và những người con trai, trông đầy lo lắng. Lông mày chú Horst nhíu chặt lại khi nhìn đống vải Eragon đang ôm trong tay. Chú mở miệng định nói nhưng không một âm thanh nào phát ra.

Không hề phô trương hay ăn mừng, Eragon bế đứa nhỏ tới chỗ người thợ rèn và cho chú nhìn mặt con. Trong một lúc, chú Horst không hề cử động; sau đó mắt ông ầng ậng nước và niềm vui và nhẹ nhõm hiển hiện quá thâm thúy, khiến người khác nhìn vào có thể tương ông đang buồn.

Khi nó đưa đứa nhỏ cho chú Horst, nó nói, “Bàn tay cháu đã nhuốm quá nhiều máu, nhưng cháu mừng vì cháu có thể giúp.”

Chú Horst chạm vào môi trên của cô bé bằng ngón giữa rồi lắc đầu. “Chú không tin nổi.. Chú không thể nào tin.” Chú nhìn Eragon. “Elain và chú nợ cháu. Nếu...”

“Không có nợ nần gì hết,” Eragon nhẹ nhàng nói. “Cháu chỉ làm điều ai cũng sẽ làm nếu họ có khả năng.”

“Nhưng cháu là người chữa trị cho con chú, chú biết ơn cháu.”

Eragon ngần ngừ rồi chúi đầu chấp nhận lời cảm ơn của chú Horst. “Em bé tên gì hả chú?”

Người thợ rèn nhìn chăm chăm vào con gái. “Nếu Elain đồng ý, chú sẽ đặt tên cho con bé là Hope.”

“Hope... một cái tên hay.” Và chẳng phải chúng ta luôn cần có hy vọng để sống sao? “Còn dì Elain sao rồi ạ?”

“Mệt, nhưng không sao.”

Sau đó Albriech và Baldor chạy tới cạnh cha họ, nhìn vào cô em gái cùng với bà Gertrude – bà ra khỏi lều ngay sau Eragon – và sau đó dân làng cũng tiến tới. Kể cả những chiến binh tò mò cũng tới gần hơn, ngó đầu nhìn đứa bé một chú.

Sau một lúc, các tiên nhân cũng tiến tới. Khi thấy họ, mọi người tránh đường, để họ tiến tới chỗ chú Horst. Quai hàm chú Horst cứng lại và đưa về phía trước như hàm chó bun. Từng tiên nhân cúi xuống xem xét, thi thoảng thì thầm một hai từ bằng ngôn ngữ cổ với cô bé. Họ không để ý hay phiền lòng vì những ánh nhìn nghi ngờ của dân làng.

Khi chỉ còn lại ba tiên nhân cuối cùng, Elva chạy ra đã đứng vào sau họ. Cô bé không phải chờ lâu để tới lượt đứng trước chú Horst. Dù chú có chút miễn cưỡng, nhưng chú vẫn hạ thấp tay xuống và khuỵu gối, nhưng vì chú cao hơn Elva quá nhiều nên con bé phải nhón chân để nhìn đứa nhỏ sơ sinh. Eragon nín thở khi con bé nhìn đứa trẻ sơ sinh từng bị dị tật, không thể đoán nổi phản ứng của con bé sẽ thế nào.

Sau vài giây, Elva hạ chân xuống. Nó từ từ đi về phía Eragon.

Nó nghiêng đầu và nhướn mày,

Con bé gật đầu, dừng lại một chút rồi tiếp tục đi.

Khi Eragon quan sát con bé bước đi, Arya bước tới gần nó. “Chàng nên tự hào vì những gì đã làm,” nàng nói nhỏ. “Đứa trẻ ngủ ngon và rất xinh. Những thầy phép giỏi nhất trong loài tiên cũng không thể làm được hơn. Chàng đã cho cô bé một món quà rất lớn – một khuôn mặt và một tương lai – và cô bé sẽ không quên, tôi chắc chắn đó... Và chúng tôi cũng sẽ không quên.”

Eragon thấy nàng và những tiên nhân khác nhìn nó với vẻ kính trọng theo một cách khác – nhưng sự ngưỡng mộ của Arya mới là thứ có ý nghĩa với nó nhất. “Danh sư xuất cao đồ,” nó nhỏ giọng trả lời. Arya không bàn cãi. Họ cùng nhau quan sát dân làng bao quanh Horst và cô con gái nói chuyện hào hứng. Eragon không rời mắt khỏi họ và nghiêng người về phía Arya mà nói. “Cám ơn nàng đã giúp Elain.”

“Không có gì. Không làm tôi thấy cắn rứt lương tâm.”

Chú Horst quay lại và bế đứa bé vào lều cho Elain ngắm nhìn cô con gái, nhưng dân làng vẫn không hề có dấu hiệu sẽ tản đi. Sau khi nó chán bắt tay rồi trả lời câu hỏi, nó tạm biệt Arya rồi đi vào trong lều và buộc bạt cửa lều lại.

Trừ khi chúng ta bị đánh úp, anh sẽ không muốn gặp ai trong mười tiếng tới, kể cả Nasuada, nó nói với Saphira khi nằm xuống võng. Em chuyển lời tới Blödhgarm giùm anh nhé?

Tất nhiên là được, cô nàng đáp. Nghỉ ngơi đi, em cũng thế.

Eragon thở dài và lấy tay che mắt. Hơi thở của nó chậm lại, đầu óc lang thang rồi những âm thanh và hình ảnh kỳ lạ trong mơ chiếm lĩnh lấy nó – những tưởng tượng nhưng chân thật; chói lóa nhưng không màu như thể cậu nhìn thấy toàn cỏ xanh – và trong một lúc, cậu có thể quên hết những trách nhiệm gánh vác trên vai và những sự kiện kinh hoàng trong ngày. Kể cả trong mơ, cậu cũng nghe thấy tiếng hát ru như lời thì thầm của gió, nửa nghe, nửa quên, đưa cậu về với những ký ức thời thơ ấu nơi quê nhà.

KHÔNG NGƠI NGHỈ

Hai người lùn, hai người đàn ông và hai Urgal – thành viên đội cận vệ của Nasuada, Chim Ưng Đêm, - đứng canh ngoài phòng trong lâu đài được Nasuada trưng dụng làm trụ sở họp mặt.

Họ nhìn Roran không biểu cảm. Anh cũng giữ khuôn mặt tương tự khi nhìn lại họ.

Họ đã từng chơi trò này rồi.

Dù đội Chim Ưng Đêm ít khi biểu lộ cảm xúc nhưng Roran biết họ đang tính xem cách nào giết chết anh nhanh nhất và hiệu quả nhất. Anh biết vì anh cũng làm điều tương tự.

Mình sẽ luồn ra sau lưng họ nhanh nhất có thể...làm họ tản ra một chút, anh quyết định. Con người sẽ phản ứng đầu tiên; họ nhanh hơn người lùn, và họ sẽ cản bước Urgal đằng sau...Phải tước được cây kích từ tay họ. Có thể khó nhưng mình nghĩ mình có thể làm được – ít nhất là tước vũ khí của một người. Có thể sẽ phải ném cây búa của mình đi. Một khi nắm kích trong tay, mình sẽ khiến họ cách xa mình một khoảng. Người lùn sẽ không dám liều nhưng Urgal khó chơi hơn. Lũ súc vật xấu xí đó... Nếu ẩn sau cái cột này, mình có thể...”

Cánh cửa viền sắt cọt kẹt mở. Một tiểu đồng mặc bộ đồ sáng mà khoảng mười hoặc mười hai tuổi bước ra tuyên bố, “Tiểu thư Nasuada cho triệu kiến ngài!”

Vài người cận vệ giật mình xao lãng và ánh mắt hơi xao động trong một giây. Roran cười lướt qua họ bước vào căn phòng đằng sau. Anh biết sơ hở đó của họ sẽ tạo cơ hội cho anh giết chết ít nhất hai người trước khi họ kịp trở tay. Lần sau đấu tiếp, anh nghĩ bụng.

Căn phòng rộng, hình chữ nhật và được trang trí khá đơn sơ: một chiếc thảm quá nhỏ nhắn so với căn phòng, một bức tranh thêu hẹp bị mối ăn treo trên bức tường bên trái; trên tường bên phái chỉ có duy nhất một cửa sổ vòm. Ngoài ra, trong phòng không có thêm một vật trang trí nào. Ở một góc phòng có đặt một chiếc bàn gỗ dài chất đầy sách, cuộn giấy da và giấy tờ. Một vài chiếc ghế để lộn xộn quanh bàn, nhưng Nasuada và những người quanh cô không ai sử dụng chúng. Jörmundur không ở đây nhưng Roran lại nhận ra vài người khác: những người là chỉ huy của anh, vài người là chiến hữu trong trận chiến và cũng có vài người anh đã được nghe danh.

“...và tôi không quan tâm xem chuyện đó có khiến hắn bị ‘bướu cổ’ không!” Cô hét hên, và đập tay xuống bàn đánh rầm. “Nếu chúng ta không có móng ngựa, và hơn nữa, nếu chúng ta phải ăn thịt cả ngựa chiến thì chúng cũng sẵn sàng làm thế với chúng ta. Các người hiểu chưa?”

Họ đồng thanh quả quyết trả lời cô. Họ như thể bị dọa dẫm nhưng trong đó còn có cả sự bối rối. Roran vừa lạ vừa ấn tượng vì Nasuada chỉ là một người phụ nữ lại có thể được các chiến binh của mình và kể cả anh, tôn trọng tới vậy. Cô là một trong những người thông minh và kiên định nhất anh từng biết. Lắm khi anh cứ nghĩ dù cô sống trong thời đại nào cô cũng sẽ thành công.

“Giờ đi đi,” Nasuada nói và tám người đàn ông đi khuất, cô ra hiệu cho Roran tiến ra chỗ bàn làm việc. Anh kiên nhẫn đợi cô viết vài dòng lên cuộn giấy da nhỏ rồi đưa nó cho một tiểu rồng và nói. “Đưa cho người lùn Narheim. Và lần này, em đợi cho ông ấy trả lời luôn, nếu không chị sẽ cho em tới chỗ Urgal phục vụ thức ăn và lau dọn đấy.”

“Vâng, thưa Tiểu thư!” cậu bé nói và chạy biến đi, có chút sợ hãi.

Nasuada bắt đầu đọc lướt qua đống giấy tờ trước mặt. Cô nói với Roran mà không ngửng đầu lên, “Anh lấy lại sức rồi chứ Roran?”

Anh phân vân không hiểu cô nói chuyện không có tý hứng thú nào. “Cũng chưa hẳn.”

“Thế thì không may rồi. Anh thức trắng đêm qua à?”

“Gần hết đêm thôi. Cô Elain, vợ của chú thợ rèn làng tôi, tối qua sinh em bé, nhưng...”

“Ừm, tôi được thông báo rồi. Tôi đoán là anh không thể thức nổi cả đêm đợi Eragon chữa lành cho đứa nhỏ?”

“Không, tôi quá mệt rồi.”

“Ít nhất anh còn cảm thấy mệt.” Cô vươn tay qua bàn với lấy một tệp giấy nữa và nhìn chăm chú trước khi đặt lên đống công văn trước mặt. Cô vẫn dùng giọng như cũ nói với Roran, “Tôi có một việc cần tới anh, Cây búa Dũng Mãnh. Quân đội ở Aroughs gặp sự chống trả quyết liệt – hơn chúng ta dự tính Tướng Brigman không thể giải quyết nổi tình hình và chúng ta cần họ quay về. Vì thế, tôi gửi anh tới Aroughs thay cho Brigman. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho anh một con ngựa ở cổng nam. Anh phải phi hết tốc lực tới Feinster, rồi từ Feinster tới Aroughs. Cứ mười dặm từ đây về Feinster anh sẽ thay ngựa một lần. Sau đó anh phải tự mình xoay xở. Tôi mong là anh sẽ tới Aroughs trong vòng bốn ngày tới. Một khi đã tới nơi, anh sẽ có... ba ngày để kết thúc trận chiến.” Cô ngước lên nhìn anh. “Sau một tuần nữa, tôi muốn nhìn thấy cờ hiệu của quân ta bay trên bầu trời Aroughs. Nếu anh không thể, tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài đưa Eragon và Saphira tới Aroughs. Làm như vậy chúng ta sẽ không thể nào chống lại Murtagh và Galbatorix.”

Và như thế Katrina sẽ gặp nguy hiểm, Roran nghĩ. Bụng dạ Roran cảm thấy không yên. Đi tới Aroughs trong bốn ngày đã là không tưởng rồi, đặc biệt khi cơ thể anh đang đau đớn và bầm dập. Chiếm thành phố trong một khoảng thời gian quá ngắn lại càng điên rồ. Nhiệm vụ này như kiểu bắt anh thi vật với gấu trong khi trói hai tay ra sau.

Anh gãi gãi má xồm xoàm rôi ria. “Tôi không có kinh nghiệm vây thành,” anh nói. “Ít nhất là không phải theo cách đó. Phải có ai đó trong Varden phù hợp với nhiệm vụ này hơn tôi chứ. Ông Martland Râu Đỏ thì sao?”

Nasuada hiện một nét khinh thường trên mặt. “Ông ấy không thể dùng một tay mà phi nước đại được. Anh phải tự tin hơn với bản thân chứ Cây Búa Dũng Mãnh. Nhiều người trong Varden biết về binh pháp, tôi công nhận – đó là những người có thời gian chiến đấu lâu hơn anh, những người được chỉ dạy từ những chiến binh giỏi nhất thời cha tôi – nhưng khi nhập trận, không phải kinh nghiệm hay kiến thức binh pháp là cái quan trọng nhất, mà là anh biết cách nào để chiến thắng đối phương, kể cả anh dùng bất cứ thủ đoạn gì. Và quan trọng hơn, đó là anh may mắn.”

Cô đặt công văn xuống và chống tay lên bàn. “Anh đã chứng minh cho chúng tôi thấy khả năng chiến đấu của anh. Anh đã chứng minh anh là người biết tuân theo quân luật... khi cần thiết.” Anh bỗng nhớ lại cảm giác đau, bỏng giẫy khi roi quất vào lưng anh hồi anh chống lại lệnh của Tướng Edric. “Anh đã chứng tỏ anh có thể dẫn dắt mọi người. Vì thế, Roran Cây Búa Dũng Mãnh, anh hãy thể hiện cho chúng tôi xem anh còn những khả năng gì, được không?”

Anh nuốt nước bọt. “Được, thưa Tiểu Thư.”

“Tốt. Tôi sẽ đề xuất anh làm tướng tạm thời. Nếu anh thành công ở Aroughs, anh sẽ có thể giữ danh hiệu này, ít nhất tới khi anh thể hiện rằng anh đáng được vinh danh nhiều hơn hay ít hơn.” Cô lại nhìn xuống bàn và đọc qua những cuộn giấy da, rõ ràng là đang tìm kiếm một thông tin gì đó.

“Cám ơn.”

Nasuada đáp lại bằng một âm thanh nhỏ, không biểu lộ cảm xúc.

“Tôi sẽ chỉ huy bao nhiêu người ở Aroughs?” anh hỏi.

“Tôi đã gửi cho tướng Brigman một nghìn lính để chiếm thành phố. Nhưng giờ chỉ còn lại không đến tám trăm người vẫn có khả năng chiến đấu.”

Roran suýt nữa bật ra tiếng chửi thề. Quá ít.

Như thể nghe được, Nasuada khô khốc nói, “Chúng ta đã tưởng rằng hàng phòng thủ của Aroughs yếu hơn.”

“Tôi hiểu. Tôi có thể mang theo hai ba người từ Carvahall đi cùng không. Tiểu thư từng nói rằng cô cho phép chúng tôi đồng hành nếu chúng tôi...”

“Được, được,” cô vẫy tay – “tôi biết tôi nói gì.” Cô cắn môi, cân nhắc. “Được, anh cứ mang theo bất kỳ ai anh muốn, miễn là anh đi trong vòng một tiếng nữa. Anh hãy cho tôi biết anh muốn bao nhiêu người đi cùng để tôi sắp xếp ngựa trên đường.”

“Tôi đưa Carn đi được không?” anh hỏi, nói ra tên pháp sư anh từng có dịp chiến đấu cùng.

Cô ngừng lại và nhìn lên tường một lúc, ánh mắt lung lạc. Sau đó, cô gật đầu và lại tiếp tục đào bới đống công văn. “À, đây rồi.” Cô lôi ra một ống tròn được buộc lại bằng một sợi dây da. “BẢn đồ Aroughs cũng như là bản đồ chi tiết của tỉnh Fenmark. Tôi nghĩ anh nên nghiên cứu kỹ cả hai bản đồ này.”

Cô đưa cho anh ống giấy và anh đặt nó vào trong áo. “Và đây,” cô nói và đưa cho anh một lá thư niêm phong dấu đỏ. “là nhiệm vụ của anh, và” – một lá thư thứ hai, dày hơn lá đầu tiên – “đây là thư cho Brigman. Đưa cho ông ấy đọc thôi, nhưng đừng đưa cho ông ta giữ. Nếu tôi nhớ không nhầm, anh không biết đọc, đúng không?”

Anh nhún vai. “Đọc làm gì chứ? Tôi có thể tính toán cộng trừ như nhiều người khác. Cha tôi nói dạy chúng tôi học chẳng hơn gì dạy cho đi trên chân sau: thú vị, nhưng không đáng.”

“Tôi sẽ đồng ý với cha anh, nếu như anh chỉ là một người nông dân. Nhưng trong địa vị hiện giờ của anh, tôi không thể đồng ý.” Cô chỉ về mấy lá thư anh đang cầm. “Anh chỉ biết một trong hai bức thư này có thông báo bổ nhiệm của anh. Vì anh không biết đọc nên tôi khó trọng dụng anh. Tôi không thể gửi thư cho anh mà không có người khác đọc thư cho anh, anh không còn lựa chọn nào khác ngoài tin rằng người kia thực sự đọc đúng cho anh nghe. Anh sẽ dễ bị thao túng. Tôi không thể tín nhiệm anh. Nếu anh hy vọng thăng tiến hơn ở Varden, anh cần tìm một người dạy anh học. Giờ đi đi, tôi còn nhiều việc khác phải làm.”

Cô bật ngón tay và một tiểu đồng chạy tới cạnh. Cô đặt tay lên vai thằng bé, cúi xuống và nói, “Tôi muốn em đưa Jörmundur tới đây. Em sẽ tìm thấy ông ấy ở chợ, chỗ ba cái nhà...” Đang nói dở, cô dừng lại nhướn mày khi thấy Roran chưa đi. “Còn gì nữa không, Cây Búa Dũng Mãnh?” cô hỏi.

“Có, trước khi tôi đi, tôi muốn gặp Eragon.”

“Vì sao?”

“Kết giới cậu ấy phủ lên người tôi trước trận chiến đã không còn.”

Nasuada nhíu mày rồi nói với tiểu đồng, “Trong chợ, chỗ ba cái nhà cháy. Em biết chỗ đó chứ. Rồi, giờ đi đi.” Cô vỗ lưng thằng nhỏ và đứng thẳng dậy khi thằng bé chạy ra khỏi phòng. “Tốt hơn là anh đừng gặp.”

Roran thấy khó hiểu nhưng anh vẫn im lặng, chờ đợi lời giải thích từ cô. Cô nói vòng vo, “Anh có thấy Eragon đã mệt thế nào trong buổi gặp mặt của tôi với mèo ma chưa?”

“Gần như không đứng vững.”

“Chính xác. Càng ngày cậu ấy càng gầy, Roran. Cậu ấy không thể bảo vệ anh, tôi, Saphira, Arya và ai mà biết cậu ấy còn muốn bảo vệ ai mà vẫn phải làm những gì cậu ta phải làm. Cậu ta phải tích trữ năng lượng cho lần đụng độ sắp tới với Murtagh và Galbatorix. Và chúng ta càng tới gần Urȗ’baen, chuyện cậu ấy sẵn sàng đụng độ với chúng càng quan trọng. Chúng ta không thể để những lo lắng và phiền phức khiến cậu ta suy yếu. Việc cậu ây chữa hở hàm ếch cho đứa nhỏ mang tới cho cậu ấy sự tín nhiệm, nhưng việc làm đó có thể khiến chúng ta thua trận!

“Anh đã chiến đấu chống lại Za’rac trên rặng Spine mà không cần tới kết giới bảo vệ. Nếu ha quan tâm tới em họ anh, nếu anh muốn đánh bại Galbatorix, anh phải học cách chiến đấu không cần tới chúng.”

Khi cô nói xong, Roran cúi đầu. Cô nói đúng. “Tôi sẽ đi ngay.”

“Tôi đánh giá cao điều này.”

“Tạm biệt...”

Rora quay lại, sải bước đi về phía cửa. Khi anh vừa bước qua bậc thềm, Nasuada gọi lớn, “Và, Cây Búa Dũng Mãnh này?”

Anh tò mò nhìn lại.

“Cố đừng thiêu rụi Aroughs nha? Phục hồi vất vả lắm.”

KHIÊU VŨ CÙNG GƯƠM KIẾM

Eragon gõ gót giày lên hai bên tảng đá nó đang ngồi lên vì thấy chán và mất kiên nhẫn.

Nó, Saphira và Arya – cùng Blödhgarm và những thần tiên khác – đang thơ thẩn bên vệ đường chạy dọc khu bờ đông thành phố Belatona: chạy qua những cánh đồng xanh mượt; qua cây cầu đá lớn cong cong bắc qua sông Jiet; vòng quanh bờ nam hồ Leona. Tới đây con đường phân nhánh, một tới Cánh Đồng Cháy và Surda, một đi về phía bắc, tới Dras – Leona và Urȗ’baen.

Hàng ngàn binh lính, người lùn và Urgal đi lang thang trước cửa thành phía Đông Belatona cũng như trong thành phố, cãi cọ và la hét trong khi quân Varden đang sắp xếp họ vào từng đội. Ngoài ra còn có đoàn kỵ binh của vua Orrin – không thể kể hết số ngựa đang hí, đang nhảy dựng lên. Đằng sau quân tiền tuyến là quân đội hậucần: một đoàn dài xe do thú có sừng của Varden mang tới từ Surda và của nông dân trong vùng kéo. Từ đó phát lên tiếng lừa la kêu be be, tiếng bò rồng, tiếng ngỗng kêu, tiếng ngựa và tiếng ngựa hí.

Thế là quá đủ để Eragon muốn bít lỗ tai lại.

Em sẽ nghĩ là chúng ta sẽ chịu đựng giỏi hơn sau bao nhiêu lần chứ nhỉ, nó nói với Saphira khi nó nhảy xuống khỏi tảng đá.

Cô nàng khịt mũi. Đáng ra họ nên để em lo việc này; em có thể dọa cho bọn chúng về đúng vị trí chỉ trong một tiếng đồng hồ và sau đó chúng ta sẽ không phải mất thì giờ chờ đợi.

Ý nghĩ đó khiến cậu hứng thú. Đúng, anh chắc chắn là em có thể...Nhưng cẩn thận với những gì em nói, hoặc không Nasuada sẽ bắt em làm thật đấy.

Sau đó Eragon nghĩ tới Roran, nó đã không gặp anh từ sau đêm nó trị bệnh cho đứa nhỏ nhà Horst và Elain, và nó phân vân không biết anh nó đang làm gì và lo lắng vì anh ở quá xa nó.

“Ngốc thế không biết,” Eragon lầm bầm khi nhớ lại chuyện Roran đã đi mà không để cậu tạo kết giới mới.

Anh ấy là một thợ săn có kinh nghiệm, Saphira nói. Anh ấy sẽ không ngu ngốc tới nỗi để con mồi làm mình bị thương đâu.

Anh biết, nhưng đôi khi nghĩ thế cũng không thể giúp anh an tâm... Anh ấy cần phải cực kỳ cẩn trọng. Anh không muốn anh ấy bị què, hay tệ hơn, bị phủ khăn trắng.

Một cảm giác buồn bã dâng lên trong Eragon, sau đó nó cố quên đi và nhún nhảy trên chân, muốn thư giãn gân cốt trước khi dành vài giờ tiếp theo ngồi trên lưng Saphira. Nó thích được bay cùng cô em nhưng nó không thích phải ngồi cứng đờ trong mười hai dặm hoặc hơn trong cả ngày, là là liệng như chim kền kền. Nếu chỉ có nó và Saphira, tụi nó chỉ chiều muộn là tới Dras – Leona.

Nó bước từ đường cái sang trảng cỏ. Đứng đó, không quan tâm tới cái nhìn của Arya và những tiên nhân khác, nó rút thanh Brisingr ra và luyện lại vài đường kiếm ông Brom đã dạy nó rất lâu trước đây. Nó đi kiếm từ từ và cảm nhận mặt đất mịn dưới chân.

Nó đưa thanh kiếm lên cao quá đầu, chém xuống với một nhát chém có thể chẻ một người làm đôi, dù đó là người, tiên hay Urgal, dù họ mặc áo giáp gì. Nó dừng kiếm khi cách mặt đất chừng vài centimet. Lưỡi kiếm truyền rung động lên cổ tay nó. Trên màn xanh của cỏ, màu xanh lơ của kim loại trở nên chói mắt, hầu như không thật.

Eragon hít một hơi nữa và nhảy về phía trước, đâm vào không khí như thể trước mặt nó là một kẻ thù không đội trời chung. Nó luyện tập từng đường kiếm cơ bản, không chú trọng vào tốc độ hay sức lực mà vào độ chính xác.

Khi nó đã ấm người, nó nhìn quanh những người hộ vệ đang đứng thành một vòng bán nguyệt cách nó một đoạn. “Có ai luyện tập với tôi một vài phút không?” nó lớn tiếng hỏi.

Những tiên nhân nhìn nhau, không biểu lộ cảm xúc. Sau đó, tiên nhân Wydren tiến lên phía trước, “Để tôi, thưa KHắc tinh của Tà Thần, nếu ngài đồng ý. Tuy nhiên, tôi đề nghị ngài nên đội mũ trụ lên.”

“Đồng ý.”

Eragon tra thanh Brisingr vào bao rồi chạy tới chỗ Saphira và trèo lên một bên mình cô nàng, thò tay vào phía trong vảy. Nó mặc áo giáp, quấn xà cạp, bao tay nhưng lại cất mũ trụ trong túi yên để nó không rơi khỏi Saphira hay lẫn trong cỏ.

Khi đã lấy được mũ, nó nhìn thấy cái tráp đựng trái tim của Glaedr được bọc trong một mảnh vải và đặt ở đáy túi. Nó với tay xuống và chạm vào cái tráp thầm cầu nguyện cho con rồng vàng, rồi đóng túi lại và nhảy khỏi lưng Saphira.

Eragon vừa đội mũ vừa bước lại trảng cỏ. Nó cắn chảy máu đầu ngón tay cái, sau đó đeo găng tay và hy vọng máu không chảy ra nhiều quá. Wydren và nó sử dụng vài câu thần chú tương tự đặt ra một kết giới mỏng – không thể nhìn thấy, trừ việc họ làm cho không gian xung quanh vặn vẹo – xung quanh thanh kiếm để họ không bị làm người kia bị thương. Họ cũng hạ vòng bảo vệ xuống.

Sau đó nó và Wydren đứng đối diện nhau, cúi đầu và nâng cao thanh kiếm. Eragon nhìn vào đôi mắt đen, không chớp của tiên nhân và Wydren cũng vậy. Eragon nhìn đối thủ và tính tấn công bên trái tiên nhân vì nếu tấn công phía bên kia chính nó cũng khó tự vệ.

Vị tiên nhân chậm rãi quay người, cỏ dưới gót giày anh ta bị nghiền nát khi anh tiến về phía Eragon. Sau khi bước vài bước,Eragon dừng lại. Wydren là một chiến binh cảnh giác và lão luyện khiến Eragon phải dè chừng; có thể nó không bao giờ có thể ngang cơ với tiên nhân kia. Tất nhiên, trừ khi mình lừa được anh ta.

Nhưng trước khi nó quyết định bước tiếp theo nên làm gì, Wydren giả vờ tấn công chân phải Eragon như thể định chém vào mắt cá chân nó, rồi đổi hướng, vặn cổ tay và chém ngang ngực và cổ Eragon.

Dù Wydren rất nhanh nhưng Eragon còn nhanh hơn. Khi nhận ra Wydren chuyển hướng tấn công, Eragon lùi lại nửa bước, gập khuỷu tay và đưa kiếm lên trước mặt.

“Ha!” Eragon hét vang khi nó dùng thanh Brisingr chặn lưỡi kiếm của Wydren. Hai thanh va vào nhau kêu “keng”.

Eragon dùng lực đẩy Wydren lạ rồi chuồn ra sau anh ta, chém liên tiếp.

Họ đấu kiếm trên bãi cỏ trong vài phút. Eragon là người ra đòn đầu tiên – một đường rạch nông trên hông Wydren – và chém cú thứ hai, nhưng sau đó, họ trở nên cân sức hơn, vì vị tiên nhân đã hiểu được cách đánh của nó và bắt đầu lựa theo đó mà tấn công và phản công. Eragon ít có cơ hội được chiến đấu với một người giỏi và mạnh như Wydren để tự lượng sức mình. Vì vậy, nó thích thú đấu kiếm với vị thần tiên này.

Tuy nhiên, bao nhiêu hứng thú của nó đều tiêu tan khi Wydren chém liên tiếp bốn nhát vào nó: một nhát vào vai phải, hai nhát trên lồng ngực, và một đường kiếm hiểm trên bụng. Những cú đánh khiến nó đâu nhưng lòng tự trọng của nó còn bị tổn thương nhiều hơn. Nó lo rằng rằng tiên nhân dễ dàng vượt qua được thế phòng thủ của nó. Nếu họ đối đầu ngoài chiến trường kia, Eragon biết nó có thể đánh bại anh ta sau vài cú giao đấu nhưng ý nghĩ đó không khiến nó dễ chịu hơn là mấy.

Anh không nên để anh ta có nhiều cơ hội thế chứ, Saphira nhận xét.

Ừ, anh biết, nó gào lên.

Anh có muốn em giúp hạ gục anh ta không?

Không... không phải hôm nay.

Nó tức tối hạ kiếm và cám ơn Wydren. Tiên nhân cúi đầu và nói, “Không có gì, thưa Khắc tinh của Tà thần,” rồi trở về chỗ các tiên nhân khác.

Eragon cắm thanh Brisingr xuống khoảng đất giữa hai chân – điều nó không thể nào làm với những thanh kiếm làm từ thép bình thường – và đặt tay lên chuôi kiếm khi quan sát những người đàn ông và lũ gia súc chen lấn trong con đường đẫn tới thành phố rộng lớn. Sự hỗn loạn đã giảm bớt và nó đoán chẳng bao lâu nữa tiếng kèn sẽ vang lên báo hiệu cho quân Varden lên đường.

Trong lúc đó, nó cũng chẳng nghi ngơi gì.

Nó nhìn Arya đang đứng cạnh Saphira và nụ cười từ từ giãn ra trên mặt nó. Nó vác thanh Brisingr lên vai và thong thả tiến tới chỉ về phía thanh kiếm của nàng. “Arya, nàng thì sao? Chúng ta chỉ mới giao đấu có một lần hồi ở Farthen Dȗr.” Nó cười ngoác miệng và vuốt lưỡi kiếm Brisingr. “Từ hồi đó tới giờ tôi cũng khá hơn chút chút rồi.”

“Ừ.”

“Vậy nàng tính sao đây?”

Cô nhìn về phía quân Varden và nhún vai. “sao lại không nhỉ?”

Thế là họ bước tới bãi cỏ. Nó nói. “Lần này nàng không thể hạ ta dễ dang như lần trước đâu.”

“Chắc là thế.”

Arya xem xét thanh kiếm sau đó họ đối diện nhau, cách nhau khoảng ba mươi foot. Eragon cảm thấy tự tin và nhanh chóng tấn công trước vì nó biết nó nên tấn công vào đâu: vai trái của nàng.

Arya đứng nguyên vị trí và không hề có ý tránh né. Khi nó còn cách nàng độ bốn mét, cô nở một nụ cười ấm áp, rạng rỡ với nó khiến nó hết cả ý chí chiến đấu.

Một ánh thép lóe về phía nó.

Nó đưa thanh Brisingr lên chậm một nhịp. Tay nó tê rần vì mũi kiếm sượt qua một thứ gì đó cứng – nó không chắc là chuôi kiếm, lưỡi kiếm hoặc da thịt, nhưng dù là gì đi nữa nó cũng biết nó đã tính toán sai khoảng cách và phản ứng của nó đã khiến nó lĩnh đòn.

Trước khi nó có thể hãm đà lao tới, một lực tác động khiến lưỡi kiếm của nó nghiêng sang một bên; sau đó là một cú đau nhói giữa người khi Arya áp sát, đánh ngã nó.

Eragon rên lên khi lưng hạ cánh xuống đất. Nó cố hít một ngụm không khí nhưng bụng nó căng cứng như đá và nó không thể nào hít khí vào lồng ngực. Sao nhảy múa trước mắt nó, sau vài giây không dễ chịu đầu tiên nó nghĩ nó sẽ ngất. Nhưng rồi các bắp thịt của nó dãn ra và cuối cùng nó cũng hít thở được.

Khi đầu óc đã trở lại bình thường, nó từ từ chống thanh Brisingr để đứng dậy. Nó dựa vào thanh kiếm như thể một ông già đợi cơn đau bụng qua đi.

“Nàng chơi xấu,” nó nghiến răng nói.

“Không, tôi chỉ khai thác điểm yếu của đối phương thôi. Đấy là điểm khác biệt.”

“Nàng nghĩ... đó là...điểm yếu?”

“Khi chúng ta chiến đấu thì đúng. Chàng muốn tiếp tục không?”

Nó trả lời bằng cách rút thanh Brisingr ra khỏi mặt đất và bước về chỗ nó vừa đứng và giơ kiếm lên.

“Tốt,” Arya nói. Cô đứng cùng tư thế với nó.

Lần này Eragon đã thận trọng hơn khi nó áp sát nàng và Arya cũng không đứng nguyên tại chỗ. Nàng cẩn trọng tiến lên và đôi mắt xanh trong của nàng không bao giờ rời nó.

Nàng co tay khiên Eragon giật mình.

Nó nhận ra nó đang nín thở và buộc mình phải thư giãn.

Nó tiến thêm bước nữa và lao về phía trước hết tốc lực.

Cô chặn đường kiếm của nó nhắm vào lồng ngực và trả lại bằng một đâm vào phần nách. Mặt kiếm của nàng chạy dọc mặt trong cánh tay kia của nó, chém lên áo giáp khi nó gạt kiếm đi. Trong lúc đó, thân nàng lộ sơ hở nhưng vì họ quá gần nhau nên Eragon không thể ra đòn hiệu quả.

Thay vào đó nó nhào về phía trước, dùng chuôi kiếm đập vào xương quai xanh của nàng hòng đánh gục nàng như nàng đã làm với nó.

Nàng vặn mình và chuôi kiếm đánh vào khoảng không.

Eragon chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra và đứng như trời trồng khi một cách tay của Arya vòng qua cổ nó và lưỡi kiếm được bọc phép bảo vệ gí sát quai hàm nó.

Từ đằng sau, Arya thì thầm vào tai nó, “Tôi có thể cắt đầu chàng dễ như hái táo trên cây vậy.”

Sau đó nàng thả tay và đẩy nó đi. Nó tức giận, quay người lại và thấy nàng đã đợi sẵn nó, kiếm đã sẵn sàng và biểu hiện quyết liệt.

Nó quên đi nỗi tức giận và lao về phía trước.

Hó đánh qua đánh lại bốn đường kiếm, đòn sau mạnh hơn đòn trước. Arya chém được đối phương đầu tiên bằng một nhát trên chân Eragon. Nó cũng rạch một đường dài trên eo nàng nhưng nàng đã kịp lùi ra khỏi vùng nguy hiểm của thanh Brisingr. Nó không cho nàng một cơ hội trân tĩnh, nó tiến lên định chém xuống tay nàng nhưng nàng dễ dàng chặn đứng. Sau đó nàng tiến lên và với một cú chạm nhẹ nhưng cánh chim ruồi, để lại một đường kiếm ngang bụng nó.

Arya giữ nguyên tư thể sau cú đánh, mặt chỉ cách nó vài cm. Trán cô lấp lánh mồ hôi và má ửng đỏ.

Eragon kéo thẳng áo trấn thủ rồi bước tới gần Arya. Sự tức giận trong trận đánh đã biến đâu mất và khiến nó tập trung trở lại.

“Tôi không hiểu,” nó bình tĩnh nói.

“Chàng đã quen dần với việc chiến đấu với binh lính của Galbatorix. Họ không thể nào ngang cơ với chàng, vì vậy chàng có thể chiến thắng họ. Những đòn tấn công của chàng quá lộ liễu – chàng không nên chỉ dựa vào lợi thế về sức mạnh – và chàng phòng thủ không chặt.”

“Nàng giúp tôi chứ?” nó hỏi. “Nếu có thời gian nàng đấu kiếm với tôi nhé?”

Nàng gật đầu. “Tất nhiên. Nhưng nếu tôi không thể chàng nên tìm Blödhgarm; anh ấy cũng có kinh nghiệm chiến đấu như tôi vậy. Chàng phải thực chiến nhiều, đó là bạn đồng hành tốt nhất của chàng.”

Eragon định cảm ơn nàng thì nó cảm thấy xúc cảm của một ai đó không phải Saphira đang đè lên đầu óc nó, sợ hãi và buồn rầu: nỗi buồn rất lớn, cổ họng Eragon cứng lại và thế giới dường như không còn màu sắc. Và một giọng nói trầm trầm của rồng vàng Glaedr vang lên:

Trò phải học...phải thấy được cái mình đang nhìn.

Sau đó sự hiện diện đó biến mất, chỉ để lại sự trống rỗng mênh mang.

Eragon nhìn Arya. Nàng cũng đang đứng như trời trồng; nàng đã nghe thấy tiếng nói của Glaedr. Đằng sau nàng, Blödhgarm và các tiên nhân khác đang xì xào bàn tán trong khi ở phía kia con đường, Saphira ngoái đầu lại cố nhìn vào túi yên cương trên lưng.

Eragon nhận ra rằng tất cả bọn họ đều nghe thấy.

Nó và Arya cùng nhau đứng dậy và tiến tới chỗ Saphira đang nói, Ông ấy không trả lời em; dù ông ấy ở đâu, ông ấy cũng đã trở lại, nhưng ông ấy không nghe thấy cái gì ngoài chính nỗi buồn của mình. Đây, nhìn đi...

Eragon liên kết tư tưởng với cô rồng và với Arya. Cả ba người phóng tư tưởng tới trái tim Glaedr đang nằm trong túi yên cương. Phần còn lại của con rồng đã có sức sống hơn nhưng tư tưởng của ông rồng vẫn đóng kín, những suy nghĩ hỗn loạn như từ hồi Galbatorix giết chết Kỵ sĩ của ông, Oromis.

Eragon, Saphira và Arya cố gắng đánh thức con rồng vàng. Nhưng Glaedr vẫn phớt lờ họ, ông rồng như một con gấu ngủ đông chẳng để ý gì tới lũ ruồi nhặng vo ve quanh đầu.

Eragon không thể nào không nghĩ Glaedr không hề tỉnh.

Cuối cùng ba người phải đành chấp nhận thất bại và để tư tưởng trở về cơ thể. Khi Eragon khôi phục được ý thức, Arya nói, “Có lẽ nếu chúng ta chạm vào Eldunari của ông ấy thì...”

Eragon cho thanh Brisingr vào bao, trèo lên chân phải trước của Saphira và nhảy lên yên. Nó cúi xuống và bắt đầu lục lọi túi yên.

Đúng lúc đó tiếng kèn đồng của quân Varden vang lên báo hiệu xuất phát. Hàng dài người và gia súc chen lấn về phía trước, lúc đầu hơi chậm chạp, nhưng dần uyển chuyển và tự tin hơn.

Eragon liếc nhìn xuống Arya không biết nên làm gì. Cô vẫy tay và nói, “Tối nay chúng ta sẽ nói chuyện với ông ấy. Đi đi! Bay theo những cơn gió đi!”

Nó nhanh chóng đóng túi lại, rồi chỉnh lại yên cương vì nó không muốn ngã khỏi lưng Saphira khi đang bay.

Sau đó Saphira cúi mình và cùng một tiếng gầm vui sướng, nó bay lên khỏi mặt đất. Những người đàn ông đứng dưới cô nàng lùi lại vì hoảng sợ, lũ ngựa lồng lên khi cô nàng mở rộng đôi cánh to lớn, tung mình lên khỏi mặt đất cứng, không phải môi trường yêu thích của cô nàng lên trên khoảng không rộng lớn êm ái.

Eragon nhắm mắt ngửa mặt lên trời, vui mừng vì cuối cùng cũng rời khỏi Belatona. Sau cả một tuần ru rú trong thành phổ chỉ ăn rồi ngủ - vì Nasuada bắt buộc – nó hạnh phúc được tới Urȗ’baen.

Khi Saphira bay cách những ngọn tháp hàng trăm foot, nó nói, Em nghĩ ông Glaedr có phục hồi được không?

Ông ấy sẽ không bao giờ như trước nữa.

Không, nhưng anh hy vọng ông ấy sẽ có thể vượt qua nỗi đau. Anh cần sự giúp đỡ của ông ấy mà, Saphira. Có rất nhiều điều anh không biết. Không có ông ấy, anh không biết hỏi ai.

Cô nàng im lặng trong chốc lát. Trong không gian chỉ vang lên tiếng đập cánh đều đều. Chúng ta không thể vội, cô nàng nói. Ông ấy bị tổn thương nặng nề nhất theo cách mà một Rồng hay một Kỵ sĩ phải chịu. Trước khi ông ấy có thể giúp anh, em, hay bất cứ ai khác, ông ấy phải quyết định ông ấy có muốn sống nữa không. Cho tới lúc đó, chúng ta không thể nói gì với ông ấy đâu.

KHÔNG VINH QUANG, KHÔNG DANH DỰ, CHỈ CÓ NHỮNG TIẾNG QUÁT THÁO TẠI VÙNG ĐẤT XUI XẺO

Tiếng chuông đeo cổ của lũ chó săn sau họ vang lên càng lúc càng lớn, và chúng đang tru lên vì khát máu.

Roran nắm chặt dây cương và cúi rạp người trên con ngựa đang phi nước đại khiến bụng xóc lên từng hồi.

Anh và năm người đàn ông khác – Carn, Mandel, Baldor, Delwin và Hamund – đã trộm những con ngựa tốt từ chuồng ngựa một trang viên cách đây nửa dặm. Những người giữ ngựa nào có thể tử tế với trộm. Họ có thể dùng vài nhát kiếm để cướp ngựa nhưng những người giữ ngựa đã báo với những người gác cửa ngay khi Roran và những người bạn đồng hành trốn khỏi. Thế là mười tên gác cửa đuổi theo họ cùng với bầy chó săn.

“Đây rồi!” anh hét lên và chỉ vào một rặng cây phong chạy chạy dọc hai ngọn đồi gần đó, dẫn tới con suối.

Những người đàn ông thúc ngựa ra khỏi con đường đẹp và hướng về phía những rặng cây. Con đường dù có gồ ghề nhưng chỉ khiến họ châm lại chút đỉnh. Họ không thèm quan tâm tới nguy cơ lũ ngựa có thể bước vào các hố và gẫy chân hoặc họ bị ngã ngựa. Nguy hiểm chính là lũ chó săn đang đuổi sát sườn họ.

Roran thúc chân vào hai bên sườn ngựa và hét “Ya!”. Con ngựa lồng lên phía trước và từng bước đuổi kịp Carn.

Roran biết rằng sức lực của con ngựa sắp tới giới hạn, sau đó dù anh quất roi hay thúc ngựa thế nào nó cũng không đi nổi nữa. Anh ghét phải là người ngược đãi súc vật, anh không muốn bắt con vật chạy tới chết nhưng nếu không anh sẽ không hoàn thành nổi nhiệm vụ.

Khi đi song song với Carn, Roran hét lên, “Anh dùng phép thuật che giấu vết được không?”

“Tôi không biết cách!” Carn đáp, giọng nói bị tiếng gió rít và tiếng ngựa phi át mất. “Câu thần chú đó quá phức tạp!”

Roran chửi thề và liếc nhìn ra sau. Những con chó săn đã quặt ở khúc cua cuối cùng. Chúng chạy như bay với tốc độ quỷ khốc thần sầu. Thậm chí từ khoảng cách này, Roran có thể nhìn thấy màu lưỡi đỏ và những chiếc răng nanh trắng ởn của chúng.

Khi họ tới được rặng cây, Roran quay lại và đi ngược lên đồi, đi gần những cây phong nhất có thể. Những người còn lại làm tương tự, họ ngựa lại khi chúng chạy lên dốc.

Bên phải Roran, Mandel đang phi tới, trên mặt biểu hiện nét cau có. Chàng thanh niên này gây ấn tượng với Roran bởi sức chịu đựng và sự kiên cường trong ba ngày qua. Kể từ khi cha Katrina, lão Sloan phản bội dân làng, giết chết cha Mandel, ông Byrd, Mandel đã cực kỳ nỗ lực chưng minh cho mọi người thấy cậu ngang hàng với bất cứ thanh niên nào trong làng: cậu đã chứng minh được sự dũng cảm của mình trong hai trận giao tranh giữa quân Varden và quân Triều đình.

Một cành cây to vụt qua đầu Roran. Anh lùi lại, nghe ngón và cảm thấy những cành cây con va quệt trên mũ trụ. Một chiếc lá khô rơi xuống che mắt phải anh trong giây lát; sau đó cơn gió thổi nó đi mất.

Tiếng thở của con ngựa càng lúc càng nặng nề khi họ đi sâu hơn vào ngọn đồi. Roran che mắt nhìn thấy đàn chó săn chỉ còn cách bọn họ chưa đầy một phần tư dặm. Chắc chắn chỉ vài phút nữa chúng sẽ đuổi kịp bọn họ.

Quỷ tha ma bắt, anh nghĩ thầm. Anh đảo mắt nhìn những rặng cây rậm rạp bên trái và ngọn đồi mọc đầy cỏ dại bên phải như tìm kiếm một cái gì – bất kỳ thứ gì – có thể giúp họ cắt đuôi những kẻ đang bám đuôi.

Đầu óc anh ong ong vì kiệt sức khiến anh suýt bỏ qua nó.

Trước anh hai mươi mét và một con đường nai đi thành lối chạy xuống một bên sườn đồi, cắt ngang con đường họ đang đi sau đó biến mất trong rừng cây.

“Họ!...Họ!...” Roran hét, thúc ngựa và kéo dây cương. Con ngựa dừng lại đi nước kiệu, dù nó có phì phò phản đối và hơi lắc đầu, cố gắng cắn sợi dây cương trong miệng. “Ôi, đừng làm thế,” Roran gầm lên và giật mạnh dây cương hơn.

“Nhanh lên!” anh nói với những người còn lại và quay ngựa tiến vào khu rừng rậm. Không khí bên dưới những rặng cây mát mẻ, có khi lành lạnh khiến bọn họ nhẹ nhõm, bớt đi cơn nóng vì mệt nhọc. Nhưng khoảnh khắc tận hưởng cảm giác khoan khoái chỉ kéo dài trong chốc lát trước khi con ngựa lồng lên và trượt xuống con suối bên dưới. Những chiếc lá khô kêu xào xác dưới móng ngựa. Để không ngã ngựa, Roran gần như cúi rạp trên lưng nó, chân duỗi thẳng về phía trước.

Khi anh trượt xuống hẻm núi, con ngựa gõ móng lên lạch sông sỏi đá, làm nước bắn lên đầu gối Roran. Roran dừng ngựa quan sát xem có ai còn theo anh không. Có, và họ đang nối đuôi nhau trượt xuống khỏi rặng cây.

Phía trêm họ, đầu khu rừng rậm, anh có thể nghe thấy tiếng chó sủa ăng ẳng.

Chúng ta sẽ phải quay lại và đánh nhau thôi, anh nhận ra.

Anh chửi thề và thúc ngựa leo lên khỏi con suối, lên bờ suối mềm, đầy rêu, đi theo con đường anh mòn mờ mờ dấu chân người ngựa.

Không xa dòng suối mấy là bức tường dương xỉ và xa xa là một thung lũng lòng chảo. Roran để ý tới một thân cây đổ có thể làm một vật cản đường nếu anh kéo nó vào đúng vị trí.

Hy vọng họ không có cung, anh nghĩ.

Anh vẫy mấy người bạn, “Ở đây!”

Anh giật cương, buộc con ngựa vượt qua bãi dương xỉ và phi vào thung lũng. Anh trượt khỏi yên ngựa nhưng vẫn bám chắc tay vào đó. Khi chân chạm mặt đất, anh nhăn mặt và ấn trán lên vai ngựa, thở hổn hển đợi cho chân hết run.

NHững người còn lại cho ngựa chạy quanh anh. Không khí ngập tràn mùi mồ hôi và tiếng yên cương kêu lọc cọc. Những con ngựa run rẩy, ngực phập phồng và sùi bọt mép.

“Giúp tôi với,” anh nói với Baldor và chỉ về phía thân cây đổ. Họ đặt tay dưới hai đầu thân gỗ dày và lăn nó xuống đất. Roran nghiến răng vì đau hông và lưng. Phi ngựa hết tốc lực trong ba ngày – cùng với việc ngủ chưa tới ba tiếng sau mười hai tiếng ngồi trên lưng ngựa – đã khiến anh suy kiệt.

Đằng nào thì vào trận chiến mình cũng ốm đau rồi bị đánh thừa sống thiếu chết thôi mà, Roran nghĩ vậy khi thả thân gỗ xuống. Ý nghĩ đó dù sao cũng làm anh bớt căng thẳng.

Sáu người đứng trước bầy ngựa, đối diện với bức tường phủ bức tường dương xỉ và rút vũ khí. Bên ngoài thung lũng, những con chó săn tru lên càng lúc càng lớn, những chiếc sủa giận dữ kích động của chúng vang lên hỗn loạn.

Roran căng người và giơ cây búa cao hơn. Sau đó trong tiếng chó sủa anh nghe thấy một giai điệu kỳ lạ, du dương bằng ngôn ngữ cổ xưa từ Carn và khiến anh dựng tóc gáy. Thầy pháp lẩm nhẩm vài từ ngắn, nhanh khiến từ ngữ quện vào nhau. Ngay khi anh ta đọcx ong, anh ra hiệu với Roran và những người khác, căng thẳng nói nhỏ, “Nằm xuống!”

Không hỏi thêm, Roran nằm sạp xuống. Đây không phải lần đầu tiên anh nguyền rủa bản thân không biết dùng phép thuật. Giờ đây tất cả những kỹ năng của một chiến binh đều vô dụng; không có nó buộc anh phải trông cậy vào những người có thể định hình lại thế giới bằng ý trí và vài từ.

Bức tường dương xỉ trước mặt họ rung lên; rồi một con chó thọc cái mõm đen của nó qua tán lá đánh hơi. Delwin rít lên và giơ cao thanh kiếm như thể chặt đầu con chó nhưng Carn húng hắng cảnh cáo và xua tay cho tới khi anh hạ thanh kiếm xuống.

Con chó nhăn trán bối rối. Nó đánh hơi thêm lần nữa rồi dùng cái lưỡi tím, dày bự liếm mép và đi mất.

Khi tán lá về đúng vị trí cũ, Roran từ từ thở hắt ra. Anh nhìn Carn nhướn mày hy vọng một lời giải thích nhưng Carn chỉ lắc đầu và đặt ngón tay lên môi.

Vài giây sau, thêm hai con chó nữa chúi mõm xuống đánh hơi thung lũng, rồi, cũng như con đầu tiên, chúng quay đi. Một lúc sau, đàn chó bắt đầu sủa ăng ẳng, chạy vào rặng cây tìm kiếm con mồi.

Khi ngồi chờ, Roran để ý thấy trên chân có vài vết tím chạy dọc lên hông. Anh chạm vào vùng bầm tím đó và ngón tay anh dính máu. Ở mỗi vết thâm đều có một chỗ rộp da. Anh không chỉ bị thâm ở đó, còn ở tay – nơi anh siết chặt cương đặt biệt là giữa ngón cái và ngón trỏ - và ở gót chân và một số chỗ không thoải mái hơn.

Anh chán ghét chùi những ngón tay xuống đất. Anh nhìn những người bạn đồng hành, nhìn cách họ đang ngồi và quỳ, nhìn thấy vẻ khó chịu trên nét mặt mỗi khi di chuyển và thấy họ đang nắm chắc vũ khí. Sức khỏe của họ đâu có hơn gì anh.

Roran quyết đinh lần tới khi dừng lại nghỉ ngơi anh sẽ nhờ Carn trị thương hộ. Nếu nhưng pháp sư đã quá mệt, Roran sẽ ráng nhịn đau; anh thà chịu đau còn hơn để Carn cạn kiệt sức lực trước khi tới Aroughs, vì Roran đoán khả năng của Carn sẽ rất hữu dụng trong lần vây thành này.

Nghĩ tới Aroughs, trận chiến và làm cách nào để chiến thắng khiến Roran đặt tay lên ngực kiểm tra xem những phong thư mà anh không thể đọc có còn không. Chúng vẫn ở đó.

Sau vài phút dài đằng đẵng căng thẳng, một trong những con chó săn bắt đầu sủa nhặng xị ở trong rặng cây phía trên bờ suối. Những con chó khác phóng nhanh về hướng đó và tiếng tru rú ầm ý đã có nghĩa là chúng đã đuổi rất sát con mồi.

Khi bầy chó đã bỏ đi hết, Roran từ từ đứng dậy và nhìn qua kẽ lá, “Chúng đi hết ròi,” anh nói bằng giọng khe khẽ.

Khi những người khác đứng lên, Hamund – một người đàn ông cao, tóc bóng dầu và có vết nhăn hằn sâu trên khóe miệng dù anh chỉ hơn Roran có một tuổi – quay lại phía Carn, rủa xả, “Sao anh không làm thế từ trước, thay vì để cho chúng tôi chạy như điên như dại qua khu nông thông và suýt gẫy chổ khi trượt xuống đồi hả?” Anh chỉ về phía rạch sông.

Carn đáp lại bằng giọng cáu giận tương tự, “Vì lúc trước tôi không nghĩ ra. Đáng ra anh nên biết ơn vì tôi đã cứu anh không bị đục lỗ đó.”

“Thế sao? Vậy tôi nghĩ anh nên dành nhiều thời gian nghiên cứu phép phiếc trước khi chúng ta bị đuổi chạy tới nơi khỉ ho cò gáy nào đó và...”

Sợ cuộc cãi vã của họ sẽ nghiêm trọng hơn, Roran đứng vào giữa hai người, “Đủ rồi,” anh nói, sau đó hỏi Carn, “Anh dựng lá chắn che giấu chúng ta được không?”

Carn lắc đầu. “Lũ người thông minh hơn lũ chó kia.” Anh nhìn Hamund vẻ xem thường. “Ít nhất là hầu hết. Tôi có thể giấu chúng ta nhưng không dấu được vết tích trên đường.” Và anh chỉ về phía trảng dương xỉ bị dẫm nát cũng như vết móng ngựa để lại trên mặt đất ẩm ướt. “Họ sẽ biết chúng ta ở đây. Nếu chúng ta đi trước khi họ tìm ra dấu vết, lũ chó sẽ chạy về phía họ và chúng ta sẽ...”

“Lên ngựa!” Roran ra lệnh.

Thêm vài tiếng chửi thề và rên rẩm nữa rồi những người đàn ông lên lên lưng ngựa. Roran nhìn về thung lũng lần cuối để đảm bảo họ không bỏ quên cái gì rồi dẫn đoàn người đi.

Họ cùng nhau phi nước đại dưới bóng cây và đi khỏi khe núi tiếp tục cuộc hành trình tưởng như không có điểm dừng tới Aroughs. Nhưng một khi đặt chân tới thành phố, Roran chưa biết họ sẽ phải làm gì.

THỰC NGUYỆT NHN

Eragon xoay vai khi đi trong trại của quân Varden, cố gắng chữa chứng ngoẹo cổ vì đấu kiếm với Arya và Blödhgarm đầu chiều.

Khi nó bước lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ trông như một hòn đảo cô đơn giữa một rừng lều bạt, nó chống tay lên hông và quan sát cảnh vật. Trước mắt nó là mặt nước hồ Leona đen lấp loáng trong ánh chạng vạng và ánh đuốc vàng chiếu ra từ khu lều. Varden đã hành quân trên con đường giữa khu lều và bờ sông: theo như Jeod bảo nó, con đường đá cuội đó có trước khi Galbatorix giết chết các Kỵ sĩ. Cách đây một phần tư dặm về phía bắc là một ngôi làng chài nhỏ ngay sát bờ sông. Eragon thừa biết dân làng chẳng vui vẻ gì khi quân đội tới đóng quân ngay trên cửa ngõ ra vào của họ.

Trò phải học... nhìn những gì trò thấy.

Từ khi rời khỏi Belatona, Eragon dành hàng giờ nghiền ngẫm lời khuyên của Glaedr. Nó không biết ông rồng định nói gì, vì Glaedr không chịu nói thêm gì sau đó. Và thế là Eragon đành tự mình suy diễn câu nói đó theo nghĩa đen. Nó đang thực sự nhìn những gì trước mắt nó, dù cho thứ đó nhỏ và không đáng chú ý tới đâu, và cố gắng hiểu xem câu nói của ông rồng có ngụ ý gì.

Dù nó cố gắng lắm nhưng chỉ chuốc lấy thất bại. Dù nhìn thấy gì, thấy bao nhiêu nó vẫn không nhìn ra thứ nó cần thấy. Tệ hơn, giờ nó còn chẳng hiểu gì, ví dụ như vì sao khói lại bốc lên từ ba ống khói trong khu làng chài.

Dù nó cảm thấy chưa hiểu gì nhưng những nỗ lực của nó ít nhất cũng thu về một thành quả: Arya không còn có thể đánh bại nó trong mỗi lần giao chiến. Nó quan sát nàng cẩn trọng gấp đôi, quan sát nàng như thể nàng là một con nai còn nó là kẻ săn mồi – về cuối cùng, nó cũng thắng được vài hiệp. Nhưng, nó vẫn chưa ngang cơ với nàng, vẫn kém nàng quá nhiều. Nó chưa biết nó cần học gì – hay ai có thể dạy nó – để trở thành tay kiếm lão luyện như nàng.

Có lẽ Arya nói đúng, kinh nghiệm là thầy dạy tốt nhất cho mình lúc này, Eragon nghĩ. Cần có thời gian để đúc rút kinh nghiệm, nhưng mình lại đâu có nhiều thời gian. Mình sắp tới Dras-Leona và rồi tớ Urȗ’baen. Nhiều nhất là vài tháng nữa mình và mọi người sẽ phải đối mặt với Galbatorix và Shruikan.

Nó thở dài và xoa mặt, cố nghĩ tới chuyện gì nhẹ nhàng hơn. Nhưng cuối cùng bao giờ nó cũng quay lại nghĩ tới những chuyện nó khúc mắc trong lòng, lo lắng về những chuyện đó nhưu một con chó nghĩ tới khúc xương, càng lúc càng căng thẳng.

Không nghĩ thêm được gì, nó đi xuống đồi. Nó lang thang trong những căn lều dưới ánh chiều chạng vạng, đi về phía lều của nó nhưng chẳng để ý gì tới đường đi. Đi bộ lúc nào cũng giúp nó bình tĩnh. Những người đàn ông luôn luôn tránh đường cho nó đi và đặt nắm tay lên ngực cùng một tiếng chào nho nhỏ, “Chào Khắc tinh của tà thần,” còn Eragon lịch sự gật đầu đáp lễ.

Nó đi bộ khoảng mười lăm phút, dừng lại và bắt đầu nghĩ ngợi thì nghe thấy một tiếng phụ nữ la chói lói đầy hứng khởi. Nó tò mò đi về phía âm thanh phát ra cho tới khi thấy một căn lều năm xa cách khu trại, gần gốc liễu khẳng khiu, cái cây duy nhất gần hồ mà quân đội không đốn hạ làm củi đun.

Ở đó, dưới những tán cây là một cảnh tượng kỳ lạ nhất nó từng thấy.

Mười hai Urgal bao gồm cả thủ lĩnh của bọn họ, Nar Garzhvog, ngồi thành hình bán nguyệt quanh đám lửa đang bập bùng cháy. Vẻ sợ hãi nhảy nhót trên gương mặt họ, khắc họa rõ nét hàng lông mày rậm, xương gò má rộng và quai hàm lớn cũng như những chóp sừng trên trán và cong xuống hai bên đầu. Urgal để trần tay và ngực, trừ một bao da quanh cổ tay và một dải vải da đeo chéo vai xuống eo. Trừ Garzhvog còn có ba Kull nữa hiện diện. Kích thước khổng lồ của họ khiến cho những Urgal còn lại – không ai dưới mét tám – trở nên nhỏ như một đứa bé.

Lẫn trong đám Urgal, là vài tá mèo ma ở lốt thú. Rất nhiều con mèo ngồi thẳng trước đống lửa, im lìm, không quật đuôi, tai dựng đứng. Những con khác nằm bò trên mặt đất, trong lòng Urgal hoặc nằm trên tay họ. Eragon kinh ngạc khi thấy một con mèo ma – một con mèo trắng cái gầy nhẳng – nằm cuộn tròn trên đầu một Kull, chân trước của nó đặt lên một bên sương xọ hắn và móng bấu chặt vào lông mày. Dù mèo ma nhỏ bé hơn Urgal nhưng chúng cũng dữ đằn tương tự và Eragon biết nó cần dè chừng tộc nào hơn; nó hiểu Urgal nhưng mèo ma thì... thật khó đoán.

Đối diện với chúng, ở bên kia đống lửa, phía trước khu lều là bà lang Angela. Bà ngồi khoanh chân trên một chiếc chăn và quay sợi. Cả mèo ma và Urgal đều chăm chú nhìn bà, không dời mắt nghe bà nói: “...nhưng hắn quá chậm và con thỏ mắt đỏ giận dữ đã xé toạc cổ họng Hord, giết chết hắn ngay lập tức. Sau đó con thỏ chạy tọt vào rừng, không ai còn biết tới nó nữa. Nhưng” – nói tới đây Angela hạ thấp giọng – “nếu các người đi qua khu rừng đó, như tôi từng có dịp... thi thoảng, thậm chí trong ngày hôm nay, các người sẽ thấy một con nai vừa mới bị giết hoặc một Feldȗnost trông như thể bị nhấm nháp ăn dần, như một cây củ cải. Và quanh nó, các người sẽ thấy những dấu chân thỏ lớn khác thường. Thi thoảng một chiến binh của Kvôth sẽ mất tích, khi người ta tìm thấy thì hắn ta đã chết với cổ họng bị xé toạc... luôn luôn trong tình trạng cổ họng bị xé toạc.

Bà chỉnh lại tư thế ban đầu. “Terrin rất buồn vì mất bạn và cậu ta muốn bắt được con thỏ nhưng những người lùn vẫn cần sự giúp đỡ từ cậu. Vì thế cậu ta trở lại thành lũy và vì thành đã bị vây hãm trong ba ngày ba đêm, nguồn lương thực cạn kiệt và binh lính đều bị thương.

“Cuối cùng, vào buổi sáng ngày thứ tư, khi tưởng như đã hết hy vọng, những đám mây tản ra và từ xa, Terrin ngạc nhiên nhìn thấy Mimring bay tới thành dẫn đầu một trận sấm rồng. Cảnh tượng về những con rồng khiến những kẻ công thành vô cùng hoảng sợ và họ ném vũ khí bỏ chạy vào rừng sâu.” Bà Angela cong môi. “Đó, như các người có thể tưởng tượng ra những người lùn của Kvôth vui mừng như thế nào.

“Khi Mimring đậu xuống, Terrin ngạc nhiên nhìn thấy những vẩy trên người nó sáng như kim cương vì Mimring bay quá gần mặt trời – để dẫn đường cho những con rồng khác, nó phải lượn qua lượn lại trên đỉnh núi Beor, cao hơn bất cứ con rồng nào trước và sau đó. Từ đó trở đi, Terrin trở thành anh hùng trong Trận chiến Kvôth, và con rồng của cậu mang tên Mimring Rực rỡ vì lớp vảy trên người và họ sống hạnh phúc mãi mãi. Nhưng, đúng ra mà nói, Terrin luôn luôn bị ám ảnh bởi lũ thỏ cho tới lúc già. Và đó là chuyện thực sự xảy ra với Kvôth.”

Sau đó bà im lặng, bầy mèo ma rên rừ rừ và Urgal gầm gừ vài tiếng tán thưởng.

“Bà kể rất hay, thưa Uluthrek,” Garzhvog nói, giọng nói của ông ta như thể đá lăn từ núi xuống.

“Cám ơn.”

“Nhưng đó không phải câu chuyện tôi từng được nghe,” Eragon nhận xét khi bước về phía đống lửa.

Biểu hiện trên khuôn mặt Angela sáng lên. “Ừ, cậu đừng mong những người lùn thừa nhận họ được con thỏ tha mạng chứ. Cậu trốn trong bóng tôi nghe lỏm toàn bộ à?”

“Không, chỉ vài phút thôi,” nó thú nhận.

“Vậy thì cậu đã bỏ qua phần hay nhất rồi, và tối nay tôi sẽ không kể lại đâu. Cổ họng tôi khô rát rồi.”

Eragon cảm thấy mặt đất rung lên khi Kull và các Urgal khác đứng dậy khiến lũ mèo ma nằm trong lòng họ không vui, vài con còn gào lên phản kháng khi rơi xuống đất.

Khi nó nhìn những khuôn mặt có sừng xấu xí tập trung quanh đống lửa, nó phải kìm lắm mới không rút kiếm. Kể cả sau một thời gian chiến đấu, hành quân và đi săn cùng Urgal thậm chí trao đổi tư tưởng cùng vài kẻ trong số họ, sự hiện diện của họ vẫn khiến nó ngỡ ngàng. Nó hiểu họ là quân đồng minh, nhưng xương cốt và cơ bắp vẫn không thể nào quên đi sự kinh hoàng thấm sâu trong người nó khi chiến đâu với đồng bọn của họ trong những trận chiến.

Garzhvog bỏ cái gì đó ra từ cái túi da nhỏ đeo trên thắt lưng. Ông ta đưa bàn tay dày cui qua đổng lửa, đưa vật đó cho Angela lúc đó đang hạ con suốt xuống và nhận lấy vật đó. Đó là một pha len màu xanh nước biển thô ráp trông rống như bông tuyết bị đông cứng sáng lấp lánh. Bà bỏ nó vào ống tay áo rồi cầm con suốt lên.

Garzhvog nói, “Thi thoảng bà phải tới lều của chúng tôi đó Uluthrek và chúng tôi sẽ kể cho bà nghe rất nhiều câu chuyện của chúng tôi. Chúng tôi có người kể chuyện. Anh ta rất khá; khi bà nghe anh ta ngâm câu chuyện về chiến thắng của Nar Tulkhqua tại Stavarosk, máu bà sẽ sôi lên và bà sẽ thấy như mình đang tru lên dưới ánh trăng và đấu sừng với những kẻ thù mạnh nhất.”

“Điều này còn tùy thuộc anh có sừng để đấu không chứ,” Angela nói. “Tôi rất vinh hạnh được ngồi nghe chuyện với anh. Có lẽ tối mai đi?”

Kull khổng lồ đồng ý; sau đó Eragon hỏi. “Stavarosk ở đâu? Tôi chưa bao giờ nghe.”

Urgal rì rầm không vui và Garzhvog hạ đầu khụt khịt như một con bò đực. “Anh đùa gì thế, Hỏa kiếm?” ông ta hỏi. “Anh muốn thách thức chúng tôi sao?” Ông ta đóng mở nắm tay thể hiện rõ ý đe dọa.

Eragon đề phòng nói, “Tôi không có ý xúc phạm, thưa Nar Garzhvog. Tôi thành thực có ý hỏi vậy; tôi chưa bao giờ nghe tới cái tên Stavarosk.”

Những tiếng rầm rì ngạc nhiên vang lên giữa các Urgal. “Sao lại có thể?” Garzhvog nói “Không phải con người nào cũng biết về Stavarosk sao? Không phải những con người ở phía bắc rặng Beor luôn nói về chiến thắng lớn nhất của chúng tôi sao? Nếu các nơi khác không biết thì quân Varden chắc chắn biết.”

Angela thở dài và không thèm nhìn lên nói. “Tốt nhất anh phải bảo bọn họ kể thôi.”

Eragon cảm thấy Saphira đang quan sát và nó biết cô sắp sửa bay tới nếu cuộc ẩu đả là không thể tránh.

Nó cẩn trọng lựa chọn từ ngữ và nói, “Không ai kể cho tôi nghe, nhưng vì tôi không ở cùng Varden lâu nên...”

“Drajl!” Garzhvog chửi thề. “Kẻ phản bội không có sừng thậm chí không có đủ dũng khí thừa nhận thất bại. Hắn là kẻ hèn nhát và dối trá!”

“Ai? Galbatorix à?” Eragon cẩn trọng hỏi.

Những con mèo rít lên khi nghe nhắc tới tên bạo chúa.

Garzhvog gật đầu. “Đúng. Khi hắn lên nắm quyền, hắn đã đuổi cùng giết tận loài chúng tôi. Hắn đã gửi một đội quân lớn tới núi Spine. Binh lính của hắn đã xông vào làng của chúng tôi, đốt xương chúng tôi và để lại mắt đất đen sì và nỗi cay đắng ở lại sau. Chúng tôi đã đánh trả - lúc đầu vì vui, sau là trong tuyệt vọng, nhưng vẫn chống trả. Đó là điều duy nhất chúng tôi có thể làm. Chúng tôi không có chốn dung thân, không có chỗ trốn. Ai sẽ bảo vệ Urgalgra khi các Kỵ sĩ đã ngã xuống?

“Chúng tôi may mắn. Chúng tôi có một thủ lĩnh tài ba, Nar Tulkha. Ông ấy từng bị loài người bắt giữ, từng dành nhiều năm chiến đấu với họ nên hiểu cách nghĩ của họ. Vì thế, ông có thể tập hợp rất nhiều bộ tộc lại. Sau đó ông lừa quân đội của Galbatorix vào trong một khe núi hẹp và chúng tôi từ trên ném gỗ xuống. Đó là một trận chiến đẫm máu đó Hỏa kiếm. Máu chảy lênh láng, người chất thành đống cao hơn đầu tôi. Cho tới ngày hôm nay, nếu anh tới Stavarosk, anh vẫn cảm thấy xương kêu răng rắc dưới chân và có thể tìm thấy những đồng tiền, kiếm và những mảnh áo giáp dưới lớp rong rêu.

“Hóa ra là các người!” Eragon reo lên. “Cả đời tôi từng nghe nói Galbatorix đã từng mất một nửa số quân lính trong rặng Spine nhưng không ai nói cho tôi biết vì sao hay thế nào.”

“Hơn một nửa số lính đấy Hỏa kiếm.” Garzhavog xoay vai và gầm gừ trong họng. “Và giờ tôi thấy chúng ta cần lan truyền câu chuyện đó để mọi người đều biết về chiến thắng của chúng tôi. Chúng tôi sẽ tìm những người kể chuyện, những thi sĩ loài người, dạy họ bài hát về Nar Tulkhqua và đảm bảo họ nhớ rằng phải hát thường xuyên và hát lớn.” Ông gật đầu như thể đã quyết ý rồi nói, “Tạm biệt, Hỏa kiếm. Tạm biệt, Uluthrek.” Sau đó ông ta và những chiến binh biến mất trong bóng tối.

Angela tặc lưỡi khiến Eragon giật mình.

“Gì thế?” nó hỏi và quay lại nhìn bà.

Bà mỉm cười. “Tôi đang tưởng tượng ra cảnh mấy tay thổi sáo tội nghiệp sẽ thế nào trong vài phút nữa khi về lều, thấy mười hai Urgal, bốn Kull đứng ngoài, vui vẻ dạy anh ta về văn hóa của Urgal. Tôi sẽ ấn tượng nếu chúng ta không nghe tiếng hét đó.” Bà lại tặc lưỡi.

Eragon cũng hứng thú tượng tự. Nó ngồi xuống dùng một cành cây gẩy đống than củi. Nó cảm nhận một vật nặng nề ấm áp trong lòng, khi nhìn xuống nó thấy con mèo ma trắng cuộn tròn trên chân. Nó đưa tay vuốt lông nó rồi nghĩ ngợi gì đó lên tiếng hỏi. “Có được không?”

Con mèo trắng vẫy đuôi phớt lờ nó.

Hy vọng mình không làm gì sai, Eragon cẩn trong gãi gãi cổ sinh vật. Một lát sau, một tiếng rừ rừ to vang lên.

“Cô ấy thích cậu,” Angela nhận xét.

Không hiểu vì sao Eragon lại thấy cực kỳ phấn chấn. “Cô ấy là ai thế ạ? Ý tôi là, cô tên gì? Tên cô là gì?” Nó liếc nhìn con mèo ma lo lắng mình khiến cô mèo phật ý.

Angela cười. “Tên cô ấy là Thợ săn đêm. Hay đúng hơn, đó là nghĩa tên cô ấy dịch ra từ ngôn ngữ mèo ma. Đúng hơn, cô ấy là.” Nói tới đây, bà lang húng hắng ho, âm thanh đó khiến Eragon dựng tóc gáy. “Thợ săn đêm là vợ Grimrr Nửa vuốt, có người nói cô ấy từng là nữ hoàng của loài mèo ma.”

Tiếng rừ rừ cáng lúc càng lớn.

“Tôi hiểu.” Eragon nhìn quanh những con mèo ma khác. “Solembum đâu?”

“Đang bận đuổi theo một con mèo vằn bằng nửa số tuổi của cu cậu. Cậu ta hành động như thể mèo con ấy... nhưng dù sao trong đời ai chẳng có một lần ngốc nghếch.” Bà lang giữ quay xa bằng tay trái, dừng nó lại và đưa một sợi bông mới vào đĩa sợi. Sau đó và tiếp tục xe sợi. “Có vẻ cậu có nhiều câu hỏi đó, Khắc tinh của tà thần.”

“Mỗi khi tôi gặp bà, tôi luôn luôn cảm thấy càng lúc càng mông lung.”

“Luôn luôn? Cậu chuyên chế nhỉ. Được rồi, tôi sẽ cố trả lời xem. Hỏi đi.”

Thấy bà ta cởi mở, Eragon cân nhắc nên hỏi gì trước. Cuối cùng nó hỏi, “Một cơn sấm rồng? Ý bà là…”

“Đấy là cụm từ đúng để chỉ một đàn rồng. Nếu cậu có cơ hội nghe tiếng chúng vỗ cánh, cậu sẽ hiểu. Khi mười, mười hai hoặc nhiều hơn bay trên đầu cậu, cậu sẽ thấy không khí rền rĩ xung quanh cậu như thể cậu đang ngồi trong một cái trống cỡ cực đại. Không thì cậu gọi một đàn rồng là gì? Cậu goi là một bầy quả, một đội đại bàng, một đàn ngỗng trời, một lũ vịt, một đàn chim giẻ cùi, một bầy cú, v.v... nhưng còn rồng thì sao? Một sự đói khát chắc? Không được. Không thể gọi chúng là một ngọn lửa hay nỗi sợ, dù ta thích từ nỗi sợ, Nhưng không, một đàn rồng gọi là một cơn sấm. Cậu sẽ biết nếu như cậu có thời gian đầu tư vào sách vở hơn là mua kiếm và vài từ bằng ngôn ngữ cổ.”

“Chắc chắn là bà đúng,” nó nói. Qua mối liên kết luôn hiện hữu giữa nó và Saphira, nó biết cô nàng đồng ý với cụm “một cơn sấm rồng.” Nó cũng nghĩ như vậy vì so sánh như thế rất hợp lý.

Nó cân nhắc một lúc lâu hơn rồi hỏi, “Sao Garzhvog lại gọi bà là Uluthrek?”

“Đó là danh xưng Urgal đã đặt cho ta từ rất lâu, từ hồi ta sống cùng họ.”

“Nghĩa là gì?”

“Thực nguyệt nhân.”

“Thực nguyệt nhân? Tên lạ nhỉ? Sao bà lại có tên đó?”

“Ta ăn mặt trăng chứ còn làm sao nữa?”

Eragon nhíu mày và quan tâm vào việc vuốt ve con mèo ma trong chốc lát. “Sao Garzhvog lại đưa bà viên đá?”

“Vì ta kể chuyện cho hắn. Rõ ràng thế còn gì.”

“Nhưng viên đá đó là gì?”

“Một mẩu đá. Cậu không thấy sao?” Bà kêu khục khục vẻ không tán đồng. “Cậu thật sự nên để ý tới những gì xung quanh hơn. Nếu không sẽ có ngày có người cầm dao đâm cậu khi cậu không để ý. Nếu cậu chết tôi sẽ nói những điều bí ẩn của tôi cho ai?” Bà hất tóc. “Tiếp đi. Tôi rất thích chơi trò này.”

Cậu nhướn lông mày và dù biết câu hỏi vô nghĩa, nhưng vẫn hỏi, “Chiếp chiếp?”

Bà lang cười váng lên và vài con mèo ma mở miệng nở một nụ cười đầy răng. Nhưng Thợ săn đêm có vẻ không hài lòng vì cô ta cắm móng lên chân Eragon khiến nó nhăn mặt.

“Ờm,” Angela vừa cười vừa nói, “nếu cậu phải có câu trả lời thì tôi sẽ kể cho cậu nghe một câu chuyện hay ho. Xem nào... Vài năm trước khi ta đi lang thang dọc biên giới phía tây Du Weldenvarden, cách xa các thành phố, làng mạc, thị trấn. Ta tình cờ gặp Grimrr. Lúc đó cậu ta chỉ là một thủ lĩnh một bộ tộc nhỏ và còn đủ móng vuốt. Lúc đó tôi gặp cậu ta đang đua với một con sáo non rơi từ tổ xuống. Tôi sẽ không để ý nếu cậu ta giết và ăn nó – mèo nào chẳng làm thế - nhưng cậu ta hành hạ con vật tội nghiệp: giang cánh nó ra, cắn đuôi nó, làm què chân nó rồi đè ngửa nó ra. Angela nhăn mũi khó chịu. “Tôi nói rằng cậu ta phải ngừng lại nhưng cậu ta gào trả và lờ tôi đi.” Bà nhìn Eragon bằng ánh mắt lạnh lùng. “Tôi không thích mọi người lờ tôi. Vì thế tôi lấy con chim và chỉ tay niệm thần chú. Thế là trong một tuần, cứ hễ cậu ta mở mồm ra là lại kêu như chim.”

“Ông ấy kêu chiếp chiếp á?”

Angela gật đầu. “Tôi chưa bao giờ cười đau ruột tới vậy. Không một con mèo ma nào dám lại gần cậu ta trong một tuần.”

“THể nào ông ấy ghét bà.”

“Thế đã sao? Nếu cậu không có kẻ thù, cậu là kẻ hèn nhát – có khi còn tệ hơn. Nhưng nhìn thấy phản ứng của cậu ta cũng đáng. Ôi, cậu ta đã rất tức giận!’

Thợ săn đêm gừ nhẹ cảnh cáo và co vuốt lại lần nữa.

Đau, Eragon nói. “Có lẽ tốt hơn chúng ta nên chuyển đề tài.”

“Ừm.”

Trước khi nó nghĩ ra một câu hỏi mới, một tiếng thét lớn vang lên từ trong khu trại. Tiếng thét vang lên ba lần trước khi tất cả rơi vào im lặng.

Eragon nhìn Angela và bà nhìn nó rồi cả hai bật cười.

NGHE NGÓNG VÀ VIẾT LÁCH

Eragon đang trên đường về lều thì nghe giọng Saphira, Muộn rồi đấy. Cô nàng đang nằm cuộn tròn trước lều nó, dưới ánh đuối mờ mờ trông nó như một núi than xanh. Cô nàng nhìn nó bằng một mắt lờ đà lờ đờ.

Nó xoa đầu và cụng đầu cô rồng trông một lát. Ừ, cuối cùng nó nói. Và em cũng nghỉ ngơi sau chuyến bay cả ngày nay. Ngủ đi, mai gặp lại em.

Cô rồng chớp mắt ra vẻ hiểu.

Eragon vào trong lều, thắp một ngọn nến duy nhất. Sau đó nó cởi giày và ngồi lên võng chân khoanh lại. Nó từ từ hít thở và để đầu óc mở rộng, vươn ra chạm vào tất cả những sự sống xung quanh, từ sâu bọ bên dưới chỗ Saphira nằm tới những chiến binh Varden và thậm chí cả vài cây còn lại xung quanh khu vực. Năng lượng phát ra từ cây cối mờ nhạt và khó nhìn nếu so sánh với nguồn sáng rực rỡ phát ra từ những sinh vật nhỏ bé nhất.

Nó ngồi đó một lúc lâu, để cho đầu óc trống rỗng. Nó biết tới hàng ngàn những cảm xúc khác nhau, dù rõ nét hay mờ nhạt. Nó không tập trung vào thứ gì ngoại trừ hít thở đều đặn.

Từ đằng xa, nó nghe tiếng những người đàn ông nói chuyện phiếm quanh đống lửa. Không khí ban đêm mang tiếng nói của họ đi xa hơn ý định, đủ xa để khiến những đôi tai thính nghe rõ từng từ. Nó có thể cảm nhận trí óc họ, đọc được ý nghĩ nếu nó muốn, nhưng nó chọn tôn trọng quyền riêng tư và chỉ nghe họ nói chuyện.

Người đàn ông giọng trầm nói, “...cái cách họ nhìn mày ấy, như thể mày là đáy của đáy xã hội rồi. Họ hầu như có thèm nói chuyện với mày khi mày hỏi họ đâu. Họ chỉ quay người bước đi mất thôi.”

“Ừ,” người kia nói. “Và phụ nữ của họ - xinh đẹp như tượng và quyến rũ.”

“Đó là lý do vì sao mày là một thằng khốn xấu xí đúng nghĩa đó, Svern. Đấy là lý do đấy.”

“Chuyện bố tao đi tới đâu là tán gái tới đó không phải lỗi của tao. Hơn nữa, mày làm gì có quyền đứng đó mà nhận xét này nọ; mặt mũi mày đủ khiến lũ trẻ gặp ác mộng rồi.”

Chiến binh giọng trầm càu nhàu; sau đó một ai đó ho húng hắng và Eragon nghe tiếng xì xì như khi củi cháy gặp chỗ ẩm.

Người thứ ba bước vào cuộc nói chuyện: “Tao không thích tụi tiên hơn gì bọn mày, nhưng chúng ta cần có họ mới thắng được.”

“Nhưng nếu sau đó họ quay lưng với chúng ta thì sao?” người giọng trầm hỏi.

“Nghe đi,” Svern nói thêm. “Nhìn chuyện gì đã xảy ra ở Ceunon và Gil’ead. Với toàn bộ quân đội và quyền năng mà Galbatorix cũng không thể chặn nổi họ vượt qua thành lũy.”

“Có thể vì lão ta không thử,” người thứ ba đưa ra giả thiết.

Một hồi im lặng kéo dài.

Sau đó người giọng trầm cất tiếng, “Giờ tôi chỉ có duy một suy nghĩ không vui... Dù lão có hay không thử, tôi không nghĩ chúng ta có thể làm gì họ nếu họ muốn đòi quyền sở hữu vũng đất củ của mình. Họ nhanh hơn và mạnh hơn chúng ta, và không giống như chúng ta, tất cả đều biết dùng phép.”

“Nhưng chúng ta có Eragon,” Svern phản đối. “Ngài ấy có thể đẩy họ về rừng nếu muốn.”

“Ngài ấy á? Ngài ấy giống tiên hơn loài người. Tao không tin vào lòng trung thành của ngài ấy hơn lũ Urgal.”

Người thứ ba lại nói: “Bọn mày có để ý không, ngài ấy lúc nào cũng mày râu nhẵn nhụi dù chúng ta nhổ trại sớm thế nào.”

“Chắc ngài ấy dùng phép thuật để cạo râu.”

“Đi ngược lại quy luật của tự nhiên. Giờ phép thuật cứ xẹt qua xẹt lại suốt ngày. Các pháp sư đâu cần chúng ta mà vẫn giết được kẻ thù cơ mà.”

“Nhưng mày đâu có kêu ca gì khi thầy thuốc dùng phép thuật trị thương thay vì dùng kẹp nhổ mũi tên ra khỏi vai mày nhỉ.”

“Có thể, nhưng nếu không có Galbatorix tao đâu có dính tên vào vai. Chính lão và phép thuật của lão là căn nguyên cho tất cả mớ hổ lốn sau này.”

Ai đó khịt mũi. “Đúng, nhưng tao thề, dù có Galbatorix hay không, đời mày kiểu gì chẳng lãnh tên một lần. Mày không làm được gì ngoài đánh nhau đâu.”

“Mày biết là Eragon đã cứu mạng tao hồi ở Feinster,” Svern nói.

“Đúng, và nếu mày còn lải nhải chuyện đó lần nữa, tao sẽ cho mày cọ nồi cả tuần.”

“Ờ, ngài ấy đã....”

Lại một hồi im lặng nữa. Nó chỉ bị phá vỡ sau tiếng thở dài của người chiến binh giọng trầm. “Chúng ta cần tìm cách tự bảo vệ mình. Đây là vấn đề. Chúng ta được thần tiên, pháp sư – của ta và của họ - che chở và sống nhờ các sinh vật khác trên mảnh đất này thương tình mới sống nổi. Những người như Eragon luôn sống ổn nhưng chúng ta không máy mắn như ngài ấy. Cái chúng ta cần là ...”

“Cái chúng ta cần,” Svern nói, “là các Kỵ sĩ rồng. Họ đưa thế giới về đúng trật tự.”

“Xì. Với con rồng nào? Mày không thể trở thành kỵ sĩ mà không có rồng. Hơn nữa, chúng ta vẫn không thể tự bảo vệ mình và điều đó khiến tao lo. Tao không còn là đứa bé trốn dưới váy mẹ, nhưng nếu Tà thần xuất hiện trong đêm, chúng ta chẳng thể làm gì ngoài đưa đầu cho hắn chém.”

“Nói mới nhớ, mày có nghe gì về Lãnh chúa Barst không?” người thứ ba hỏi.

Svern lẩm bẩm đồng ý. “Tao nghe nói về sau ông ấy ăn tim mình.”

“Cái gì nữa đây?” chiến binh giọng trầm nói.

“Barst...”

“Barst?”

“Mày biết đó, bá tước vùng Gil’ead.”

“Không phải là người phi ngựa tới Rảm chỉ để chọc giận...”

“Đúng người đó đó. Lão ta đã vào ngôi làng này và yêu cầu trai tráng nhập ngũ cho Galbatorix. Chỉ có điều, họ không đồng ý và tấn công lại Barst và binh sĩ của lão.”

“Dũng cảm,” người giọng trầm nói. “Ngu nhưng dũng cảm.”

“Ờm, Barst lại quá thông minh so với họ; lão cho cung thủ bao quanh làng trước khi tiến vào. Những binh sĩ đã giết một nửa trai tráng và những người còn lại cũng hấp hối. Không có gì bất ngờ. Sau đó Barst bắt sống trưởng làng, người khởi nguồn cuộc đấu tranh rồi dùng tay bẻ cổ ông ấy và vặt đầu ông ấy.”

“Không.”

“Như vặt đầu gà. Tệ hơn, lão ra lệnh thiêu sống người thân của ông ấy.”

“Barst phải khỏe ngang Urgal,” Svern nói.

“Có thể lão có mánh khóe gì đó.”

“Hay là dùng pháp thuật?” người giọng trầm nói.

“Nhưng theo những gì chúng ta biết, lão có sức mạnh – và cáo già nữa. Người ta kể, khi còn trẻ hắn chỉ một đòn đấm giết chết bò rồi.”

“Tao nghe vẫn thấy có hơi hướm phép thuật quanh đây.”

“Đó là vì lúc nào mày cũng thấy pháp sư xấu ẩn nấp trong bóng tối thôi.”

Người giọng trầm làu nhàu nhưng không nói gì.

Sau đó, những người chiến binh tản ra để vào ca gác nên Eragon không nghe được thêm gì. Trong lúc khác, cuộc nói chuyện của họ sẽ khiến nó không vui, nhưng vì đang suy tưởng nên nó vẫn bình tĩnh. Nhưng mặt khác nó cố nhớ những gì họ nói để sau này có dịp suy ngẫm.

Sau khi suy nghĩ đã đi đúng trật tự, nó cảm thây bình tĩnh và thư thái. Eragon đóng đầu óc lại, mở mắt và duỗi chân cho khỏi tê.

Nó nhìn chằm chằm ánh lửa chập chờn trong một phút, bị mê hoặc bởi ánh lửa nhảy nhót.

Sau đó nó tới chỗ đặt túi yên cương và lấy bút lông ngỗng, lọ mực, giấy da dê nó xin Jeod vài ngày trước, cùng bản sao cuốn Domia abr Wyrda mà một học giả già đưa cho nó.

Eragon trở lại võng, đẩy cuốn sách nặng sang bên để không vẩy mực lên đó. Nó đặt khiên dưới đầu gốc như đặt một cái khay và trải tờ giấy da dê trên bề mặt cong võng. Nó ngửi thấy mùi ta nanh thơm sắc khi mở nắp lọ mực và nhúng bút lông ngỗng vào.

Nó gạt đầu bút lông vào miệng lo để tránh mực tràn rồi cẩn thận đặt nét bút đầu tiên. Tiếng bút lạo xạo trên giấy khi nó viết những con chứ bằng ngôn ngữ loài người. Khi nó viết xong, nó so sánh bản này và bản hôm qua để xem liệu chữ viết của nó có tiến bộ - chỉ một chút – và so sánh với chữ trong cuốn Domia abr Wyrda nó dùng làm sách mẫu.

Nó nhìn bảng chữ cái thêm ba lần nữa, đặc biệt để ý tới những con chứ khó viết nhất. Sau đó nó bắt đầu viết những suy nghĩ và những quan sát trong ngày. Bài tập này không chỉ hữu ích vì giúp nó luyện chữ mà còn hiểu những thứ nó nhìn và làm trong ngày tường tận hơn.

Nó cần cù viết vì nó thấy được sự hứng thú từ thử thách tính kiên nhẫn này. Luyện chữ khiến nó nhớ tới ông Brom, về cách người kể chuyện già dạy nó ý nghĩa từng con chữ, giúp nó cảm nhận sự gần gũi của người cha đã xa cách nó.

Sau khi viết mọi thứ nó muốn, nó rửa sạch bút lông ngỗng và chuyển sang bút lông và chọn một tờ giấy một nửa đã chi chít những con chữ tượng hình của ngôn ngữ cổ xưa.

Bắt khó bắt chước kiểu chữ Liduen Kvaedhí của thần tiên khó hơn là viết chữ của loài người do chữ tượng hình tượng trưng cho các hình dạng trong đời sống. Nhưng nó vẫn học viết vì hai lý do: nó cần biết mặt chữ. Và nếu như nó viết cái gì bằng ngôn ngữ cổ, nó nghĩ mình nên viết lại bằng kiểu chữ hầu hết loài người không đọc được.

TRí nhớ của Eragon rất tốt, nhưng dù thế đi chăng nữa, nó đã bắt đâu quên những câu thần chú ông Brom và thầy Oromis đã từng dạy nó. Vì thế nó quyết định tạo ra một cuốn từ điển tất cả những từ nó biết bằng ngôn ngữ cổ. Lúc đầu nó cũng không thấy được tầm quan trọng của bản tóm tắt này cho tới gần đây.

Nó viết từ điển trong vài tiếng nữa sau đó bỏ bút mực vào túi yên cương và lấy ra hộp đựng trái tim ông rồng Glaedr. Nó cố gắng đánh thức ông rồng già như đã làm nhiều lần trước đó nhưng kết quả vẫn như cũ. Eragon không chịu từ bỏ. Nó ngồi cạnh chiếc hộp đã mở, đọc to cho Glaedr nghe về những nghi thức, lễ hội của người lùn viết trong cuốn Domia abr Wyrda – Eragon biết một vài – cho tới lúc đêm đã lạnh nhất và tối nhất.

Sau đó, Eragon đặt cuốn sách sang một bên, thổi tắt nến và nằm xuống võng ngủ. Nó lơ mở ngủ một lúc. Ngay khi ánh sáng đầu tiên xuất hiện ở đằng đông, nó ngồi thẳng dậy bắt đầu một ngày mới.

__________________

AROUGHS

Gần trưa đội của Roran tới khu lều cạnh đường. Những căn lều trông xám xịt và khó phân biệt vì lúc này sự mệt mỏi của Roran đã giăng mây che tầm nhìn cuae anh. Cách đó 1 dặm về phía nam là thành phố Aroughs nhưng anh chỉ nhận ra những đặc trưng cơ bản nhất của một thành phố: tường trắng như bang, cổng thành rộng lớn đóng im ỉm và những tòa tháp xây bằng đá vuông.

Anh nhảy khỏi ngựa khi đoàn người tới trại. Những con ngựa gần như ngã quỵ. Một thanh niên gầy nhẳng chạy tới chỗ anh và nắm lấy cương kéo cho tới khi con vật dừng hẳn.

Roran cúi xuống nhìn cậu nhóc và chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Một lúc lâu sau anh mới nói được một câu gọn lỏn, “Đưa tôi tới gặp Brigman.”

Thằng nhóc không nói tới một lời thằng nhỏ xoay người bước đi, để lại lớp bụi bay mù dưới gót chân trần.

Roran cảm thấy như anh phải ngồi đợi hơn một tiếng đồng hồ. Con ngựa thở hổn hển đứt đoạn còn anh chảy máu tai. Khi anh nhìn xuống đất, dường như máu vẫn tiếp tục chảy thành dòng. Từ đâu đó vang lên tiếng thúc ngựa.Tầm mười hai chiến binh tụ tập gần đó, chống lên giáo và khiên, vẻ mặt thể hiện nét tò mò.

Từ đằng xa một người đàn ông vai rộng mặc áo trấn thủ xanh lơ đi khập khiễng về phía Roran, sử dụng một cây giáo gẫy thay cho gậy chống. Ông để râu xồm xoàm dù ria cạo sạch và lấm tấm mồ hôi – Roran không biết vì ông đang thấy đau hay do nóng.

“Anh là Cây Búa Dũng Mãnh?” ông hỏi.

Roran ừm nhẹ một tiếng xác nhận. Anh thả tay đang cầm cương, cho vào trong áo và đưa cho Brigman một phong thư da dê có lệnh của Nasuada.

Brigman bóc niêm phong. Ông đọc một hồi rồi hạ lá thư xuống và nhìn Roran không biểu cảm.

“Chúng tôi đang đợi anh,” ông nói. “Một trong những thầy bùa thân cận của Nasuada đã liên lạc với tôi từ bốn ngày trước và nói anh đã đi, nhưng tôi không nghĩ anh sẽ tới sớm thế này.”

“Không dễ dàng gì,” Roran nói.

Môi trên của Brigman cong lên. “Tôi chắc chắn vậy thưa...ngài.” Ông đưa tấm da dê lại cho Roran. “Binh sĩ ở đây sẽ nghe lệnh ngài thưa Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng tôi chuẩn bị tấn công cổng tây. Có thể ngài muốn chỉ huy chăng?” Câu hỏi sắc nhọn như một mũi dao.

Thế giới xung quanh Roran dường như nghiêng nghả và anh cầm chắc cương hơn. Anh quá mệt không thể tán dóc với ai nữa rồi.

“Ra lệnh cho họ nghỉ một ngày,” anh nói.

“Ngài có còn minh mẫn không? Ngài làm thế nào để chiếm thành vậy? Chúng tôi phải mất cả buổi sáng để chuẩn bị tấn công và tôi sẽ không ăn không ngồi rồi chờ ngài ngủ đâu. Nasuada mong chúng tôi chiếm thành trong vài ngày và, vì Angvard, tôi sẽ làm được điều đó!”

Roran gầm nhẹ chỉ mình Brigman nghe thấy, “Ra lệnh cho binh sĩ rút lui, không tôi sẽ đánh ông què cẳng vì bất tuân quân lệnh. Tôi sẽ không cho phép bất kỳ cuộc tấn công nào diễn ra cho tới khi tôi nghỉ ngơi và quan sát tình hình.”

“Ngài thật là ngu ngốc. Điều này có thể...”

“Nếu ông không câm miệng và làm nhiệm vụ của mình đi, tôi sẽ tự tay đập ông một trận – ngay đây và ngay lúc này.”

Cánh mũi Brigman phập phồng. “Trong tình trạng này sao? Ngài không có cơ hội đâu.”

“Sai rồi,” Roran nói. Và anh nói thật. Anh không chắc mình sẽ đánh bại Brigman bằng cách nào nhưng anh biết anh có thể.

Brigman có vẻ đang đấu tranh tư tưởng ghê gớm. “Vâng,” ông quát lên. “Tốt hơn hết là không nên để cho quân sĩ thấy nội bộ tướng lĩnh lục đục. Chúng tôi sẽ ở nguyên vị trí nếu đó là điều ngài muốn, nhưng tôi không chịu trách nhiệm vì bỏ lỡ thời cơ. Đó là trách nhiệm của ngài.”

“Tất nhiên rồi,” Roran nói, cổ họng bỏng rát vì đau. “Cũng như ông phải chịu trách nhiệm vì những tổn thất ông đã gây cho cuộc vây thành lần này.”

Mắt Brigman tối lại và Roran có thể thấy ông tướng đã chuyển từ không thích anh sang thù ghét. Anh ước gì anh đã phản ứng nhã nhặn hơn.

“Lều của ngài ở đằng này.”

Sáng hôm sau Roran tỉnh giấc.

Ánh sáng mờ mờ chiếu vào lều khiến anh lên tinh thần. Trong một lúc, anh nghĩ anh chỉ ngủ có vài phút. Nhưng rồi anh nhận ra đầu óc anh đã sáng suốt và tỉnh táo hơn nhiều.

Anh tự rủa thầm, tức giận vì để lỡ cả ngày.

Anh đắp một tấm chăn mỏng, thực sự không cần thiết cho thời tiết phương nam dễ chịu, đặc biệt là khi anh vẫn đeo giầy và mặc quần áo. Anh bỏ chăn sang bên rồi ngồi thẳng dậy.

Anh rên lên một tiếng vì toàn bộ cơ thể anh như căng cứng và gẫy vụn. Anh nằm xuống thở hổn hển. Cú choáng ban đầu nhanh chóng tan đi chỉ để lại những cơn đau ê ẩm.

Anh mất vài phút mới tập trung toàn bộ sức lực lăn sang một bên và bỏ chân xuống võng. Anh dừng lại thở trước khi cố sức đứng lên.

Khi đã đứng được lên anh cười chua sót. Hôm nay sẽ là một ngày thú vị đây.

Khi anh ra khỏi lều những người khác đã dậy và đang đứng đợi anh. Trông họ tơi tả và thảm hại: họ cử động cà nhắc như anh. Sau khi chào hỏi, Roran chỉ về tấm vải băng cánh tay Delwin, băng vết thương một người chủ quán rượu chém vào. “Đỡ đau chưa?”

Delwin nhún vai. “Không tệ lắm. Nếu cần tôi vẫn đấm đá được.”

“Tốt.”

“Anh định làm gì tiếp theo đây?” Carn hỏi.

Roran nhìn mặt trời đang mọc, tính toán còn bao lâu sẽ tới trưa. “Đi bộ chút đã,” anh nói.

Roran dẫn những người bạn đồng hành đi từ trung tâm khu trại dọc ngang các dãy lều, xem xét tình hình quân binh cũng như quân dụng. Thi thoảng, anh dừng lại hỏi han một binh sĩ trước khi đi tiếp. Hầu như các chiến binh đều mệt mỏi và nản lòng, dù anh để ý thấy tinh thần có có phấn chấn đôi chút khi nhìn thấy anh.

Cuộc đi dạo của Roran kết thúc ở góc phía nam trại như anh đã dự định từ đầu. Anh và những người khác dừng lại nhìn về thành phố Aroughs.

Thành phố được chia thành hai khu. Khu thứ nhất thấp và trải dài gồm những tòa nhà quan trọng trong khi khu thứ hai, nhỏ hơn chủ yếu là những khu nhà cao, thiết kế trang nhã. Bức tường thành bao quanh cả hai khu. Từ ngoài nhìn vào có thể thấy rõ năm cổng thành: hai cổng lớn dẫn đường vào thành phố: một phía bắc và một phía đông – ba cổng còn lại nằm cạnh con kênh chảy từ phía nam vào thành phố. Ở bên kia Aroughs là con sống sóng vỗ rầm rì, nơi con kênh chảy ra.

Ít nhất họ không có tường hào, anh nghĩ.

Những vết thủng lỗ chỗ trên cổng bắc là vết tích của chiến tranh. Trên mặt đất cũng hằn những dấu vết của trận chiến. Anh nhận ra ba vết đạn từ máy bắn ta và bốn vết từ cẩu đá nhờ hồi thuộc đội Cánh Rồng, hai tòa tháp xiêu vẹo ở đằng sau tường thành. Vài binh sĩ đang ngồi chổm hỗm bên cạnh các cỗ máy chiến tranh hút thuốc hoặc chơi xúc xắc trên vài tấm da. Những cỗ máy có vẻ trông nhỏ bé tới tội nghiệp so với thành phố rộng lớn này.

Thành phố Aroughs thấp, bằng phẳng đổ thoai thoải ra biển. Hàng trăm trang trại điểm xuyết trên đồng bằng xanh rì, được đánh dấu bằng những hàng rào gỗ và ít nhất một túp lều lợp rạ. Những dinh thự xa hoa nằm đây đó: những trang viên xây bằng đá được bảo vệ bởi những bức tường cao và những người bảo vệ. Chắc chắn chúng là tài sản của giới quý tộc Aroughs và có thể là của những thương nhân làm ăn phát đạt.

“Anh nghĩ gì?” anh hỏi Carn.

Pháp sư lắc đầu, đôi mắt cụp của anh trông buồn hơn bình thường. “Chúng ta sẽ mất rất nhiều binh lính mới chiếm nổi thôi.”

“Chắc rồi,” Brigman nhận xét khi tiến tới chỗ họ.

Roran không nói ra những nhận xét của minhfl anh không muốn những người khác biết anh đang nản lòng vô cùng. Nasuada bị điên nếu tin rằng chúng ta có thể chiếm Aroughs chỉ với tám trăm binh lính. Nếu mình có tám ngàn quân cùng sự hỗ trợ của Eragon và Saphira thì còn có nhẽ. Nhưng đằng này...”

Nhưng anh biết anh phải tìm ra cách, vì tương lai của Katrina.

Roran không nhìn Brigman và nói. “Nói cho tôi nghe về Aroghs.”

Brigman xoay ngọn giáo vài lần, thân giáo xoay vài lỗ trên mặt đất, rồi nói. “Galbatorix đã tính toán từ trước; hắn đã cho dữ trữ lương thực đầy đủ trong thành phố trước khi chúng ta cắt đường chi viện từ đây với Triều đình. Ngài có thể thấy rằng họ không thiếu nguồn nước. Nếu chúng ta ngăn sông, họ còn có vài con suối và giếng trong thành phố. Họ có thể giữ thành cho tới mùa, thậm chí còn lâu hơn, dù tôi nghi họ không thể nào không ốm lên vì ăn củ cải suốt. Ngoài ra, Galbatorix còn điều số lượng lớn binh sĩ tới đây – gấp đôi số lượng quân của chúng ta – bổ sung cho binh sĩ trong thành.”

“Sao ông biết?”

“Nội gián. Nhưng cậu ta không biết về binh pháp nên đã cung cấp quá nhiều đánh giá chủ quan về những điểm yếu của Aroughs.”

“Ờ.”

“Cậu ta cũng đã khẳng định rằng cậu ta sẽ giúp đưa một lượng nhỏ quân chúng ta vào trong thành nhân lúc đêm tối.”

“Rồi?”

“Chúng tôi đã đợi nhưng cậu ta không xuất hiện và chúng tôi thấy cậu ta bị bêu đầu vào sáng hôm sau. Giờ vẫn còn treo ở cổng đông đó.”

“Thì ra là vậy. Ngoài năm cổng này ra còn cổng nào không?”

“Có ba cổng nữa. Ở gần bến cảng có một cổng dẫn nước lớn đủ cho ba dòng chảy đi vào cùng lúc và gần đó là một cổng trên đất liền cho người và ngựa. Ngoài ra còn một cổng trên đất liền ở đầu kia” – ông ta chỉ về phía tây thành phố - “giống những cổng khác.”

“Có thể bắn phá được cổng nào không.”

“Không nhanh được. Bờ biển quá hẹp khiến chúng tôi không thể bày bố quân hoặc tránh tên và đá của quân đội trong thành. Vì thế chúng tôi không thể tấn công các cổng gần biển cũng như là cổng tây. Vùng đất xung quanh thành bị chia cắt vì sông suối quá nhiều cho nên cũng khá nhỏ hẹp, vì vậy tôi đã quyết định tập trung mũi tấn công vào cổng gần nhất.”

“Cổng làm bằng gì?”

“Sắt và gỗ sồi. Chúng còn trụ vững hàng trăm năm nữa nếu không bị phá dỡ.”

“Chúng có được bảo vệ bởi phép thuật không?”

“Tôi không rõ vì tiểu thư Nasuada không gửi pháp sư cho chúng tôi. Halstead có...”

“Halstead?”

“Lãnh chúa Halstead của thành Aroughs. Chắc ngài từng nghe thấy rồi chứ.”

“Chưa.”

Một quãng im lặng ngắn khiến Roran có thể cảm nhận sự khinh miệt của Brigman dành cho anh đang lớn dần. Sau đó người đàn ông đó nói tiếp, “Halstead có riêng một pháp sư phục tùng: một kẻ xấu tính, da vàng vọt chúng tôi đã có dịp nhìn thấy trên tường thành cố hất ngã chúng tôi xuống bằng phép thuật. Hắn có vẻ không giỏi gì cho cam, trừ chuyện hắn đã thiêu cháy hai người tôi bố trí dùng gỗ phá cổng thành.”

Roran liếc mắt nhìn Carn – pháp sư tỏ ra lo lắng hơn trước – nhưng anh quyết định sẽ thảo luận vấn đề này với nhau sau.

“Công thành qua đường kênh có dễ hơn không?” anh hỏi.

“THế chúng ta sẽ đứng ở đâu? Thành phố kề sát kênh cơ mà. Hơn nữa đi qua lối đó khác nào đưa đầu có chúng giết, chúng có thể đổ dầu nóng, ném đá, hoặc bắn hỏa tiễn vào bất cứ tên ngu nào đi qua lối đó.”

“Cánh cổng không thể nào bịt kín được, phải có lối cho nước lưu thông chứ.”

“Đúng. Bên đưới có hàng lưới mắt cáo bằng gỗ và sắt để dòng chảy không quá mạnh.”

“Hiểu. Vậy là hầu hết thời gian, kể cả khi không bị tấn công, Aroughs đều hạ thấp cổng đúng không?”

“Đêm thì chắc, nhưng tôi tin ban ngày cổng đó sẽ mở.

“Ừm. Các bức tường xây từ gì?”

“Đá hoa cương, bề mặt cực kỳ trơn nhẵn và khít không thể lách nổi một lưỡi dao. Tôi đoán đây là tác phẩm của người lùn trước thời kỳ thoái trào của Kỵ sĩ Rồng. Tôi đoán lớp bên trong tường được trộn đá cuôi. Nhưng tôi không dám khẳng định vì chúng ta chưa làm xây sất nổi lớp vỏ ngoài. Chân tường sâu tới hơn 12 mét nên chúng ta sẽ không thể đào hầm để làm yếu móng tường hoặc đánh sập tường.”

Brigman bước thêm một bước và chỉ về những thái ấp ở phía nam và phía tây. “Hầu hết giới quý tộc đều lui vào Aroughs để lại tùy tùng bảo vệ tài sản. Họ gây rắc rối cho chúng ta, tấn công quân trinh sát, trộm ngựa...Chúng ta đã chiếm được hai thái ấp...” – ông ta chỉ hai kho thóc lớn đang cháy cách đó vài dăm – “nhưng giữ lại chúng còn phiền hơn vì thế chúng tôi đã đốt bỏ. Không may, chúng tôi không có đủ người để bảo vệ phần còn lại.”

Baldor nói. “Vì sao các kênh lại chạy vào Aroughs nhỉ? Hình như họ không dùng nó làm hệ thống mương tưới tiêu thì phải.”

“Ở vùng này không cần tưới nước như người miền bắc không cần xe trượt tuyết trong mùa đông vậy.”

“Thế mục đích là gì?” Roran thắc mắc. “Nguồn nước bắt đầu từ đâu? Ông đừng mong tôi tin nhưng con kênh này rẽ nhánh từ sông Jiet nhé, quá xa.”

“Không,” Brigman chế giễu. “Có một số hồ nước ở mạn bắc. Nước lợ và bẩn nhưng dân ở đây quen rồi. Một con sông bắt nguồn từ đó, chia làm ba nhánh sông nhỏ chảy tới đây vào các đập tạo năng lượng giúp xay bột cung ứng cho thành phố. Nông dân chở lúa mỳ tới các khu xay sát vào vụ mùa rồi chất các thúng bột lên sà lan chở vào thành phố. Dân cư ở đây cùng lợi dụng đường sông để chuyên chở hàng hóa như gỗ xẻ và rượu từ các trang ấp vào thành phố.”

Roran gãi gãi cổ khi tiếp tục quan sát Aroughs. Những gì Brigman vừa nói đã khiến anh nảy ra một ý nhưng chưa rõ nó có khả thi không. “Còn điểm gì đặc biệt ở khu ngoại vi không?”

“Đi dọc bờ biển về phương nam có một mỏ đá phiến.”

Anh gầm gừ trong khi suy ngẫm. “Tôi muốn tới xem khu xay sát,” anh nói. “Nhưng trước hết tôi muốn nghe toàn bộ tình hình từ ông.”

“Mời đi theo tôi thưa Cây búa Dũng mãnh.”

Trong cả một tiếng đồng hồ sau đó Roran thảo luận với Roran và hai phó tướng, nghe và hỏi về những lần công thành hay biết mỗi binh lính còn bao nhiêu lương thực.

Ít ra chúng ta không thiếu vũ khí, Roran nghĩ khi biết số tử sĩ. Kể cả nếu Nasuada không giới hạn thời gian nhiệm vụ cho anh thì người và ngựa cũng không có đủ lương thực mà sống trong hơn một tuần nữa.

Rất nhiều sự kiện và con số Brigman và các phó tướng đề cập tới được viết trên giấy. Roran không nói ra chuyện mình không thể đọc nổi những con chữ đen đen loằng ngoằng nên buộc những người kia đọc lên cho nghe. Dù vậy anh cũng tức vì phụ thuộc vào người khác. Nasuada nói đúng, mình phải học đọc vì nếu không mình không thể biết người kia có nói dối mình không khi đọc gì đó cho mình... Có lẽ khi về Varden Carn có thể dạy mình.

Roran càng biết nhiều về Aroughs, anh càng thấy thông cảm cho những khó khăn của Brigman; vô phương chiếm thành. Dù anh không thích người đàn ông này nhưng anh nghĩ vị tướng đã làm hết sức có thể. Roran tin ông ấy thất bại không phải vì không đủ năng lực mà vì ông ấy thiếu hai yếu tố hết lần này tới lần khác mang lại thắng lợi cho Roran: sự liều lĩnh và óc tưởng tượng.

Sau khi xem xét tình hình xong, Roran và năm người đồng hành cùng Brigman đi quan sát tường thành Aroughs ở khoảng cách gần hơn nhưng đủ xa để giữ an toàn. Lên lưng ngựa lần nữa lại khiến Roran đau nhưng anh không hề kêu lấy một tiếng.

Khi móng ngựa nện lên con đường rải đá đi tới thành phố ở gần khu trại, Roran để ý thi thoảng móng ngựa tạo ra những âm thanh khác thường. Anh nhớ đã nghe thấy âm thanh quen thuộc này trong ngày cuối chuyến đi.

Anh nhìn xuống và thấy những phiến đá phẳng hình như có màu bạc mờ, những mạch đá hình thành nên họa tiết hình mạng nhện khác thường.

Roran gọi lớn hỏi Brigman nhưng Brigman chỉ bảo “Vữa chất lượng kém nên họ dùng chì để trát đá.”

Lúc đầu Roran không tin nhưng Brigman rất nghiêm túc. Anh thấy ngạc nhiên vì người ở đây lại coi kim loại bình thường tới mức dùng để làm đường.

Họ cẩn trọng quan sát hàng phòng thủ của Aroughs nhưng chẳng phát hiện ra điều gì mới và càng khiến Roran tin vào chuyện không thể chiếm nổi thành phố.

Anh đi ngựa tới gần Carn. Pháp sư đang nhìn Aroughs vẻ thẫn thờ, môi chuyển động không thành tiếng như thể nói chuyện một mình. Roran đợi tới khi anh dừng lại mới hỏi, “Cổng thành có phủ phép thuật không?”

“Tôi nghĩ là có,” Carn trả lời. “nhưng tôi không chắc có bao nhiêu câu thần chú trên đó và dụng ý của từng cái là gì. Tôi cần thêm thời gian mới biết được.”

“Sao lại khó thế?”

“Không hẳn. Hầu hết các câu thần chú đều dễ phát hiện, trừ khi có ai cố giấu chúng. Nhưng kể cả thế, pháp thuật thường để lại những dấu vết nếu anh biết cách nhìn. Tôi chỉ sợ họ dùng thần chú này để khởi động thần chú khác, và nếu tôi tiếp cận chúng thì ai biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi có thể biến thành một vũng nước ngay trước mắt anh. Nếu có thể tôi sẽ tránh cái đinh mệnh đó.”

“Anh có muốn ở lại khi chúng tôi đi tiếp không?”

Carn lắc đầu. “Tôi không nghĩ nên để các anh đi mà không có sự bảo vệ. Tôi sẽ trở lạ sau khi mặt trời lặn và xem tôi có thể làm gì. Ngoài ra ở gần cổng thành sẽ giúp tôi hiểu mấy câu thần chú đó, nhưng giờ tôi không dám tới gần cổng thành khi mấy tay lính canh nhìn thấy tôi rõ rành rành thế này.”

“Được thôi.”

Khi Roran hài lòng rằng họ đã biết mọi thứ về thành phố, anh để Brigman dẫn tới khu xay sát gần nhất.

Khi Roran hài lòng rằng họ đã biết mọi thứ về thành phố, anh để Brigman dẫn tới khu xay sát gần nhất.

Khá giống những gì Brigman miêu tả. Nước từ kênh được dẫn tới những đập cao 20m. Ở chân đập có một guồng nước có gắn mấy cái thùng. Nước chảy vào thùng làm guồng quay tròn. Các guồng nước được nối vào ba tòa nhà giống y hệt nhau. Trong các tòa nhà là các cối đá cỡ lớn dùng để xay bột cung cấp đủ cho dân cư Aroughs.

Anh xuống ngựa ngay khi tới khu xay sát ở vị trí thấp nhất và đi men theo con đường giữa các tòa nhà, mắt nhìn kênh dẫn nước làm nhiệm vụ kiểm soát lượng nước lưu thông vào các con đập. Cửa kênh mở nhưng mực nước trong đập vẫn thấp hơn ba guồng nước đã từ từ chuyển động.

Anh dừng ở giữa đoạn đường thoai thoải, chôn chân trên bờ kênh ẩm ướt đầy cỏ, khoanh hai tay lại và cúi đầu chạm ngực khi suy tính cách chiếm thành. Anh tin mình sẽ có cách hoặc chiến thuật gì đó để lẻn vào thành, nhưng cách nào thì anh chưa rõ.

Nghĩ mãi tới mệt, anh dừng lại lắng nghe tiếng trục xoay cọt kẹt và tiếng thác nước đổ ầm ầm.

Những âm thanh đó êm ả nhưng lại gợi lên cho anh vết thương lòng. Anh nhớ tới xưởng xay bột của chú Dempton ở Therinsford nơi anh đã tới làm vào ngày tụi Ra’zac đốt nhà và tra tấn cha anh tới chết.

Roran cố quên ký ức không vui đó đi nhưng nó vẫn ở đó, vẫn làm anh đau quặn từng cơn.

Giá mình đi muộn vài giờ, mình đã có thể cứu cha rồi. Ngay lúc đó, phần thực tế trong con người Roran trả lời, Đúng, và Ra’zac có thể giết mình trước khi mình kịp giơ tay. Không có Eragon bảo vệ, mình chỉ như một đứa nhỏ sơ sinh, không hơn.

Baldor lặng lẽ bước tới gần anh. “Những người còn lại đang muốn biết anh đã có kế gì chưa?” anh ta hỏi.

“Tôi có vài ý tưởng nhưng chưa có kế hoạch. Anh sao?”

Baldor cũng khoanh tay lại. “Chúng ta có thể đợi Nasuada cho Eragon và Saphira tới giúp.”

“Xì.”

Trong một lúc lâu họ lẳng lặng nhìn dòng nước chảy lững lờ bên dươi. Sau đó Baldor nói, “Nếu anh yêu cầu chúng đầu hàng thì sao? Có thể chúng sẽ sợ hãi khi nghe tên anh, chúng sẽ tử mình mở cổng, quỳ dưới chân anh và xin anh tha chết.”

Roran tặc tặc lưỡi. “Tôi không nghĩ tên tuổi tôi có thể lan tới tận Aroughs này. Nhưng,” Anh gãi gãi râu. “Có lẽ cũng nên thử, để cho chúng hoang mang chút thôi.”

“Kể cả khi chúng ta mở được cổng thành thì sao chiến thắng được với số quân ít ỏi thế này?”

“Có thể thắng có thể thua.”

Họ lặng yên rồi Baldor lên tiếng, “Chúng ta đã đi một quãng đường rất dài.”

“Đúng.”

Lại một lần nữa không gian chỉ vang lên tiếng nước chảy và tiếng guồng quay. Cuối cùng vẫn là Baldor mở lời, “Chắc hẳn ở đây tuyết rơi không nhiều. Vì thế lượng nước do băng tan không lớn như ở quê hương chúng ta. Nếu không, vào lúc lập xuân, guồng sẽ ngập một nửa mất.”

Roran lắc đầu. “Chuyện lượng mưa hay lượng tuyết rơi nhiều hay ít không quan trọng. Cửa đập sẽ khống chế lượng nước chảy vào các guồng quay để đảm bảo tốc độ cho chúng.”

“Nhưng nếu nước dâng lên ngang cửa thì sao?”

“Hy vọng là không có ngày đó. Nếu không, anh buộc phải kéo xích mở cửa đập và thế là....” Roran nghĩ tới một loạt những hình ảnh, người anh thấy nóng lên như thể anh vừa nốc một hơi hết cả vại rượu mật ong.

Được không? Anh nghĩ. Liệu có thành công không... hay... Không sao, chúng ta phải thử. Chúng ta còn làm được gì nữa?”

Anh bước đi trên con đường hẹp trước cái đập ở giữa, kéo những thanh gỗ nhỏ chèn lên trục điều khiển cửa đập. Thanh điều khiển khá khó di chuyển dù anh chèn vai đẩy bằng hết sức.

“Giúp tôi đi,” Anh nói với Baldor đang đứng trên bờ kênh quan sát với vẻ hứng thú pha chút bối rối.

Baldor cẩn thận đi tới chỗ Roran đứng. Họ cùng nhau đóng cửa đập lại. Sau đó, Roran không chịu trả lời câu hỏi nào mà tiếp tục đóng nốt hai cửa đập còn lại.

Sau khi đã đóng chặt cả ba, Roran đi lại chỗ Carn, Brigman và những người khác rồi ra hiệu cho họ xuống ngựa ra chỗ anh. Anh vỗ lên đầu búa trong khi chờ đợi, đột nhiên cảm thấy mất kiên nhẫn.

“Sao?” Brigman hỏi sau khi họ đã tới nơi.

Roran nhìn từng người một để đảm bảo họ hoàn toàn chú ý tới anh rồi nói. “Phải rồi, đây là điều chúng ta sẽ làm...” – sau đó anh bắt đầu nói, nhanh và căng thẳng trong suốt nửa tiếng đồng hồ, giải thích từng điều anh nghĩ tới trong khoảng khắc thoáng qua đó. Khi anh nói, mọi người nghiêm túc hơn, nhưng Mandel đã bắt đầu nhoẻn cười, Baldor, Delwin và Hamund cũng có vẻ hứng thú với kế hoach táo bạo của anh.

Phản ứng của họ khiến Roran hài lòng. Anh đã làm nhiều chuyện để có được sự tín nhiệm từ họ và anh vui vì anh vẫn có thể tin tưởng họ. Trong đời, anh sợ nhất là mất Katrina, sau là làm những người chiến hữu thất vọng.

Nhưng có vẻ Carn còn hoài nghi. Điều này thì Roran đã đoán được nhưng anh chỉ không ngờ nỗi nghi ngờ này có khi ngang bằng với Brigman.

“Anh điên rồi,” ông ta hét lên khi Roran vừa nói xong. “Không thể nào thành công được.”

“Ông rút lại lời nói đó đi!” Mandel nói và nhảy lên phía trước, tay nắm thành quyền. “Vì sao à, Roran đã thắng nhiều trận chiến hơn ông, và anh ấy đâu cần nhiều quân lính như ông!”

Brigman rít lên, môi trên cong lên như một con rắn. “Đồ mất dạy! Tao sẽ dạy cho mày một bài học không thể nào quên!”

Roran đẩy Mandel lùi lại trước khi cậu trai trẻ tấn công Brigman. “Thôi nào!” Roran gầm lên. “Hai người xem lại cách hành xử đi!” Mandel cáu kỉnh ngừng lại nhưng vẫn nhìn Brigman trừng trừng. Brigman cũng hành động tương tự.

“Chắc chắn đây là một kế hoạch lạ lùng,” Delwin nói. “Nhưng những kế hoach kỳ lạ của anh đã giúp chúng ta chiến thắng trong quá khứ.” Những người làng Carvahall khác lên tiếng đồng tình.

Carn gật đầu nói. “Kế hoach có thể thành công có thể không. Tôi không chắc. Nhưng chắc chắn nó sẽ khiến kẻ thù của chúng ta ngạc nhiên và tôi phải thừa nhận rằng tôi tò mò muốn thấy chuyện gì sẽ xảy ra. Đây là việc vô tiền khoáng hậu.”

Roran cười rạng rỡ. Anh nhìn Brigman và nói, “Giờ chúng ta cần phải điện. Chúng ta chỉ có hai ngày rưỡi để chiếm Aroughs. Những biện pháp thông thường không có hiệu quả vậy chúng ta phải mạo hiểm bằng những kế hoạch bất bình thường.”

“Có thể thế,” Brigman nói nhỏ. “Nhưng đây là một kế hoạch liều lĩnh khiến chúng ta tổn thất binh sĩ và tôi không thể nào đồng tình.”

Nụ cười của Roran rộng hơn khi anh tiến tới chỉ cách Brigman vài centimet. “Ông không cần phải đồng ý với tôi; ông chỉ cần làm theo lệnh thôi. Giờ ông có nghe theo lệnh của tôi hay không?”

Không khí giữa họ nóng lên do hơi thở và nhiệt độ từ da thịt họ. Brigman nghiến răng và xoắn cây giáo mạnh hơn trước, nhưng ánh mắt dao động và ông ta lùi lại. “Quỷ tha ma bắt anh đi,” ông ta nói. “Tôi sẽ làm chó cho anh trong lúc này, Cây búa dũng mãnh ạ, nhưng anh cứ xem đi,anh sẽ phải trả giá cho quyết định của anh sớm thôi.”

Miễn là chúng ta chiếm được Aroughs, Rora nghĩ, tôi chẳng cần quan tâm. “Lên ngựa!” anh ra lệnh. “Chúng ta có việc cần làm và còn quá ít thời gian! Nhanh lên! Nhanh lên! Nhanh lên!”

__________________

DRAS- LEONA

Khi Eragon từ trên lưng Saphira nhìn thấy núi Helgrind ở chân trời phía bắc thì mặt trời đã lặn. Nó cảm thấy ghê tởm khi chiêm ngưỡng ngọn núi đã phóng vút lên từ mặt đất như một chiếc răng nhọn. Hầu hết các ký ức không vui của nó đều gắn liên với núi Helgrind. Nó ước có thể san bằng ngọn núi. Saphira có vẻ bàng quan với ngọn núi đen thẫm này hơn nhưng nó biết cô em nó cũng chẳng thích thú lởn vởn gần tý nào.

Khi đêm xuống, Helgrind đã khuất sau lưng chúng, trong khi Dras – Leona đã xuất hiện trước mặt, bên cạnh hồ Leona với hàng tá tàu thuyền cập bến. Thành phố rộng lớn vẫn san sát nhà cửa và không hiếu khách như trong trí nhớ của Eragon. Những con đường vẫn nhỏ hẹp, những căn nhà dơ dáy vẫn nằm sát những bức tường đắp bằng đất sét vàng bao quanh thành phố và đằng sau bức tường, nhà thờ lớn của Dras- Leona vươn lên den kịt. Đó là nơi những tu sĩ Helgrind tiến hành những nghi lễ man rợ.

Một dòng người tị nạn kéo nhau đi trên con đường phía bắc – họ chạy trốn khỏi thành phố sắp bị chiếm đóng tới Teirm hoặc Urû’baen, nơi ít nhất họ tạm thời tránh được sự xâm lăng của quân Varden.

Ngay từ lần đầu đặt chân tới Dras – Leona, Eragon đã cảm thấy sự xấu xa hiện diện trong thành phố, không như ở Feinster hay Belatona. Nó muốn dùng lửa và kiếm thiêu trụi phá hủy tất cả những nguồn năng lượng đen tối, bất thường nơi đây, muốn hưởng thú chuyện chém giết về để lại sau lưng không gì ngoài khỏi bụi và máu. Nó có chút đồng cảm với những người nghèo khổ, tàn tật và nô lệ bị giam hãm trong Dras – Leona. Nhưng nó hoàn toàn tin rằng thành phố cần hủy diệt và xây dựng lại nó không dính dáng gì tới giáo phái Helgrind mới là điều tốt nhất cho dân cư nơi đây.

Khi tưởng tượng ra cảnh nó cùng Saphira phá sập nhà thờ, nó bỗng phân vân không hiểu tôn giáo với những thầy tu tự hành xác này có một cái tên không. Tìm hiểu ngôn ngữ cổ đã dạy cho nó phải tôn trọng tầm quan trọng của những cái tên – tên ẩn chứa sức mạnh, tri thức – nếu nó không thực sự biết tên của tôn giáo Helgrind, nó sẽ không hoàn toàn hủy diệt nổi nó.

Trong ánh sáng vàng vọt, quân Varden cắm trại trên những cánh đồng đã canh tác ở bình nguyên phía đông nam Dras – Leona. Với vị thế này họ sẽ dễ dàng biết khi quân địch tấn công. NHững binh lính đã mệt mỏi sau cuộc hành trình dài nhưng Nasuada buộc họ phải tiếp tục cắm trại cũng như lắp ráp những công cụ phục vụ chiến tranh mà họ đang mang theo trong suốt hành trình từ Surda.

Eragon vui vẻ làm việc. Lúc đầu nó cùng một nhóm người đi san phẳng cánh đồng lúa mỳ và lúa mạch bằng những tấm ván ghép với nhau nhờ những dây thòng lọng dài. Cắt lúa bằng liềm hay pháp thuật có thể nhanh hơn nhưng những gốc rạ để lại sẽ gây nguy hiểm và khó chịu cho việc đi lại và đặc biệt là chuyện nghỉ ngơi. Vì vậy, những tấm ván ghép sẽ tạo nên một mặt phẳng mềm, đàn hồi như nệm và dù dù sao thà nằm trên ván ghép còn sướng hơn vạn lần nằm trên đất.

Eragon cùng làm việc với những binh sĩ khác trong khoảng một tiếng thì dọn đủ không gian cắm trại cho quân Varden.

Sau đó nó đi giúp mọi người dựng chòi canh. Sức mạnh phi thường của nó giúp nó di chuyển những xà rầm mà thường phải vài người mới làm nổi; như vậy tiến độ được đẩy nhanh hơn. Vài người lùn trong Varden đứng giám sát vì họ chính là tác giả thiết kế tháp canh.

Saphira cũng giúp. Cô nàng dùng răng và móng vuốt đào hào trong lòng đất và chất đất thành từng đống quanh khu trại chỉ trong vài phút trong khi cả trăm người phải lao động cả ngày. Và nhờ lửa và đuôi cô nàng đốn cây, dọn gọn các hàng rào, tường bao, nhà cửa và mọi thứ chung quanh khu trại Varden có thể bị kẻ thù lợi dụng. Làm bất cứ việc gì cô nàng cũng thể hiện bản thân là một tạo vật có sức hủy diệt ghê gớm đủ làm những con người dũng cảm nhất phải khiếp sợ.

Đến tôi muộn khi quân Varden mới dọn dẹp xong, Nasuada ra lệnh cho binh sĩ, người lùn và Urgal đi nghỉ.

Eragon chui vào lều ngồi thiền cho tới khi đầu óc thảnh thơi. Đó đã trở thành một thói quen với nó. Sau đó thay vì luyện thư pháp, nó dùng vài tiếng ôn lại những câu thần chú có thể cần trong những ngày tiếp theo cũng như tạo ra những câu chú mới khiến Dras – Leona thất điên bát đảo.

Khi nó cảm thấy đã sẵn sàng của trận chiến, nó lên giường đi ngủ, mơ những giấc mơ kỳ lạ và hưng phấn hơn thường lệ, vì dù đã thiền nhưng trận chiến sắp tới khiến máu nó sôi oleen và không cho phép nó nghỉ ngơi. Như tường lệ, đối với nó chuyện chờ đợi trong mòn mỏi luôn là phần khó khăn nhất. Nó ước gì mình đang ở giữa tiền tuyến nơi nó không có thời gian lo xem chuyện gì sẽ xảy ra.

Saphira cũng không nghỉ nổi. Eragon đọc được những giấc mơ toàn là cắn xé của cô nàng. Thế là nó hiểu cô em nó mong tới trận chiến thế nào. Cảm xúc của cô rồng có ảnh hưởng nhất định tới nó, nhưng nó không thể nào hoàn toàn quên được nỗi sợ trong lòng.

Bình minh ngày mới tới rất nhanh và quân Varden đã dàn quân trước Dras – Leona. Cảnh tưởng vô cùng hùng vĩ nhưng sự ngưỡng mộ của Eragon bị giảm đi khi nó nhìn thấy những lưỡi kiếm cùn, mũ trụ móp và khiên mẻ của binh lính cũng như những áo trấn thủ và áo giáp chỉ sửa lại sơ sài. Nếu họ thành công chiếm Dras – Leona, họ sẽ có thể thay một số đồ đạc – như từng làm ở Belatona và Feinster – làm sao bổ sung thêm lực lượng được.

TRận chiến ở đây càng kéo dài, nó nói với Saphira, Galbatorix càng dễ đánh bại chúng ta khi chúng ta tới được Urû’baen.

Vậy chúng ta không được phép chậm trễ, cô nàng trả lời.

Eragon ngồi trên lưng Saphira, cạnh Nasuada lúc này đã mặc áo giáp và yên vị trên con ngựa đen – Thần sấm. Bảo vệ cho Eragon là mười hai tiên nhân còn theo sát Nasuada là mười hai người trong đội cận vệ Chim Ưng Đen – con số này đã tăng thêm sáu trong thời gian tham chiến. Những tiên nhân đứng – vì họ không đồng ý cưỡi lên những con ngựa không phải tự tay họ huấn luyện – trong khi tất cả các Chim Ưng Đen đều ngồi trên ngựa, kể cả Urgal. Cách đó mười mét về bên phải là vua Orrin và những binh lính do ông đích thân lựa chọn. Narheim, chỉ huy người lùn và Garzhvog đều đứng đúng vị trí cánh quân mình chỉ huy.

Sau khi gật đầu với nhau, Nasuada và Vua Orrin thúc ngựa tiến lên phía trước, vượt khỏi toàn binh Varden. Eragon dùng tay trái nắm chặt lấy ngọn giáo trước mặt khi Saphira đi theo hai người.

Nasuada và vua Orrin dừng lại trước khi vượt qua những tòa nhà xiêu vẹo. Họ thấy hai người đưa tin – một mặc đồ của Varden, một của Surda – đang trên con đường hẹp qua mê cung những căn nhà ổ chuột dẫn tới cổng nam Dras – Leona.

Eragon nhíu mày khi quan sát hai người. Thành phố dường như trống trải và im lặng một cách bất thường. Trong Dras – Leona không có lấy một bóng người, kể cả trên tường thành nơi đáng ra hàng trăm lính của Galbatorix phải đứng gác.

Không khí có mùi không hay, Saphira nói và gầm nho nhỏ thu hút sự chú ý của Nasuada.

Ở chân tường, người đưa tin của quân Varden nói lớn đến mức Eragon và Saphira từ đằng xa còn nghe rõ, “Này! Nhân danh tiểu thư Nasuada của Varden và Vua Orrin của Surda cũng như tất cả những con người tự do của Alagaësia, chúng tôi yêu cầu các người mở cửa để đưa tin tới cho các lãnh chúa và chủ nhân của các người, ngài Marcus Tábor. Như vậy, ông ấy sẽ cứu sống rất nhiều, rất nhiều đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ trong Dras – Leona.

Từ đằng sau tường thành, một người không lộ mặt đáp lại: “Chúng tôi không mở. Đứng đó chuyển lời đi.”

“Anh đại diện cho lãnh chúa Tábor?”

“Đúng.”

“Vậy chúng tôi nên nhắc anh nhớ rằng những cuộc thảo luận của các chính khách nên diễn ra trong một căn phòng riêng tư hơn là nói ở nơi ai cũng có thể nghe được.”

“Tôi không phải nghe lệnh ngươi, đồ đầy tớ! Truyền thông điệp – nhanh! Không tôi mà mất kiên nhẫn thì ngươi sẽ thành nhím đó.”

Eragon bị ấn tượng: người đưa tin không hề hoang mang hay sợ hãi vì lời đe dọa. Anh ta vẫn tiếp tục không hề chần chừ: “Được thôi. Chỉ huy của chúng tôi mong nói chuyện với Lãnh chúa Tábor và tất cả dân thành Dras - Leona trong hòa bình và thân ái. Chúng tôi không có thù oán gì với các người, chỉ có Galbatorix và nếu được lựa chọn chúng tôi sẽ không đụng binh đao với các người. Không phải chúng ta đều là đồng bào ư? Rất người trong chúng tôi từng sống trong Đế chế, và chúng tôi rời đi chỉ vì ách thống trị hà khắc của Galbatorix. Chúng ta là đồng bào với nhau. Hãy gia nhập cùng chúng tôi và chúng ta sẽ cùng nhau giải phóng bản thân khỏi tên bạo chúa đang tại vị tại Urû’baen.

Nếu các người đồng ý, chúng tôi sẽ đảm bảo sự an toàn cho Lãnh chúa Tábor và gia đình ông ta cũng như những ai còn đang phục vụ Đế chế, mặc dù những ai đã thề lời hứa không thể phá vỡ với Galbatorix không thể giữ vị trí như cũ. Và nếu như vì lời thề mà các người không thể giúp chúng ta, ít nhất đừng cản trở chúng tôi. Mở cổng, hạ vũ khí và chúng tôi thề các người sẽ không bị tổn hại. Nhưng nếu cố ngăn chặn chúng tôi, chúng tôi giết các người chẳng khác gì cỏ dại, vì không ai có thể chịu nổi sự tấn công của quân đội chúng tôi, hay Khắc tinh tà thần Eragon và rồng Saphira.”

Khi nghe thấy tên mình, Saphira ngửng đầu gầm lớn.

Từ trên cổng thành, Eragon thấy một người cao lớn, mặc áo choàng bước lên thành, đứng giữa hai đoạn thành lũy chìa ra, ánh mắt liếc qua những người đưa tin và nhắm thẳng tới Saphira. Eragon nhíu mắt nhưng không thể nhìn ra khuôn mặt người kia. Bốn người mặc áo choàng đen khác bước tới và Eragon nhận ra họ là thầy tu Helgrind vì hình dáng dị dạng của chúng: một tên mất một cánh tay, hai tên mất một chân và tên cuối cùng mất cả một tay một chân và phải nhờ đồng đạo trợ giúp.

Người mặc áo choàng ngửa mặt len và cười man dại. Bên dưới hắn, người đưa tin cố lắm mới kiểm soát nổi ngựa khi chúng cứ cố lùi lại.

Bụng Eragon chùng xuống và nó nắm lấy cán thanh Brisingr chuẩn bị rút kiếm khi có biến.

“Không ai có thể sống khi vó ngựa các ngươi đi qua?” gã nói giọng vang đập vào các tòa nhà. “Tôi nghĩ các người đang đánh giá bản thân quá cao rồi đó.” Từ đằng sau, con rồng đỏ Thorn bay lên từ dưới một mái nhà, làm vỡ toang mái nhà gỗ bằng móng vuốt của nó. Con rồng xòe rộng đôi cánh khổng lồ, có móng vuốt ở đầu cánh, há mồm đỏ thẫm và khè ra lửa.

Murtagh – Eragon nhận ra hắn chín là Murtagh – nói bằng giọng chế giễu, “Cứ thử trèo lên thành xem; các người sẽ không bao giờ chiếm được Dras – Leona miễn là Thorn và ta còn ở đây. Hãy gửi tới những chiến binh và pháp sư giỏi nhất, và họ sẽ chết, từng người, từng người một. Ta thề đó. Không ai trong số các người giỏi hơn ta. Kể cả ngươi...Em trai. Hãy trốn đi trước khi quá muộn và cầu nguyện rằng Galbatorix sẽ không tự ra tay với ngươi. Nếu không, phần thưởng của ngươi chỉ có thể là cái chết và sự đau đớn mà thôi.

__________________

TUNG XƯƠNG

“Thưa ngài! Cổng mở rồi ạ!”

Roran ngẩng đầu lên từ tấm bản đồ anh đang nghiên cứu, nhìn người người lính gác chạy vào lều, mặt đỏ ửng và đồ mồ hôi.

“Cổng nào?” Roran hỏi với sự bình tĩnh chết người. “Nói rõ đi.” Anh đặt thước dây sang bên cạnh.

“Cổng gần nhất, thưa ngài... trên đường, không phải trên kênh.”

Roran rút búa ra khỏi thắt lưng, rời khỏi trại và chạy về phía nam khu trại. Anh đứng đó quan sát Aroughs. Anh nản lòng nhìn hàng trăm kỵ binh ùa ra từ trong thành phố, cờ hiệu tung bay trong gió trước khi cánh cổng đen xì khép lại.

Họ sẽ chém chúng ta thành từng mảnh mất, Roran tuyệt vọng nghĩ. Chỉ có một trăm năm mươi người còn trong trại, trong đó rất nhiều người bị thương không có khả năng chiến đấu. Phần còn lại vẫn còn ở khu xay sát anh tới thăm ngày hôm trước hoặc ở mỏ khai thác đá dọc bờ biển, hoặc trên bờ sông chính tây tìm những xà lan mà họ cần nếu muốn kế hoạch thành công. Giờ anh không kịp gọi viện binh về chống trả những kỵ binh này.

Khi ra lệnh cho binh lính làm nhiệm vụ, Roran đã hiểu anh đang khiến khu trại yếu ớt trước sức tấn công trực diện của kẻ thù. Nhưng, anh đã hy vọng dân cư trong thành vẫn còn hoang mang vì những cuộc tập kích gần đây nên không dám làm gì mạo hiểm – và những những chiến binh anh giữ lại có thể khiến những kẻ quan sát từ xa nghĩ lực lượng chính vẫn còn trong trại.

Giả thuyết đầu tiên dường như đã sai. Dù những binh lính trong Aroughs có nghe tới tên anh không, nhưng anh nghĩ cho một số lượng kị binh ít ỏi dàn quân trước thành phố chỉ là một đòn thăm dò. Nếu quân đội hoặc tướng sĩ của họ đã từng nếm mùi lợi hại của đội quân Roran chỉ huy, anh nghĩ họ sẽ cho một đội quân động gấp đôi ra. Nhưng giờ, anh phải nghĩ ra cách chống trả đòn tấn công và cứu binh lính khỏi cuộc tàn sát.

Baldor, Carn và Brigman chạy tới với vũ khí trong tay. Carn vội vàng mặc áo giáp thì Baldor nói, “Chúng ta sẽ làm gì?”

“Chúng ta không thể làm gì,” Brigman nói. “Chúng ta xong đời chỉ vì sự ngu ngốc của anh đó, Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng ta phải tẩu tán – ngay bây giờ - trước khi những tên kị binh đáng nguyền rủa kia dày xéo lên chúng ta.”

Roran vỗ mặt đất. “Rút lui ư? CHúng ta sẽ không rút lui. Binh lính của chúng ta không thể chạy trốn nổi, và cứ cho là có thể đi, tôi cũng không bỏ lại những người bị thương.”

“Anh không hiểu sao? Chúng ta thua rồi. Nếu chúng ta ở lại, chúng ta sẽ bị giết – hoặc tệ hơn, bắt làm tù binh!”

“Thôi nào, Brigman! Tôi không định quay đuôi bỏ chạy đâu!”

“Sao lại không? Vậy là anh không chịu thừa nhận thất bại? VÌ anh mong sẽ vớt vat danh dự từ trận chiến vô vọng cuối cùng hả? Có phải không? Anh không thể anh đang gây cho Varden tổn thất nghiêm trọng hơn à?”

Những kỵ binh giơ cao thanh kiếm và giáo lên quá đầu và – với một tràng gào rú, la thét có thể nghe rõ từ khoảng cách rất xa – họ thúc ngựa và bắt đầu lao tới như sấm rung chớp giật về phía khu đóng trại của Varden.

Brigman tiếp tục bài đả kích, “Tôi không để anh lãng phí mạng sống của chúng tôi để giành lấy lòng tự trọng cho anh. THích thì anh cứ việc ở lại, nhưng ...”

“Im!” Roran gầm lên. “Im mồm nếu không tôi khâu mồm ông lại đó! Baldor, trông chừng ông ta. Nếu ông ta làm bất cứ việc gì anh không thích, anh tự do chém giết.” Brigman căng người vì tức giận nhưng ông ta không dám nói gì vì Baldor đang giơ thanh kiếm nhắm vào ngực ông ta.

Roran đoán anh có chừng năm phút để quyết định hành động ra sao. Năm phút quá ngắn ngủi.

Anh cố tưởng tượng cảnh họ sẽ biết hoặc cầm chân kỵ binh thế nào, nhưng anh nghĩ thấy chuyện đó không có khả năng. Anh không tìm ra chỗ nào để đặt bẫy đoàn quân này. Mảnh đất quá bằng phẳng, trống trải cho bất cứ kế hoạch nào tương tự.

Chúng ta không thể thắng nếu chiến đấu, vậy – Vậy nếu chúng ta dọa được chúng thì sao? Nhưng bằng cách nào? Hỏa công? Hỏa công có thể là con dao hai lưỡi. Hơn nữa, cỏ còn ẩm ướt chỉ khiến lửa cháy âm ỉ. Khói? Không ăn thua.

Anh liếc nhìn Carn. “Anh có thể tạo ra hình Saphira gầm thét ra lửa như thể cô bé ở đây không?”

Đôi má gầy gò của pháp sư không còn màu sắc. Anh ta lắc đầu, biểu tình hỗn loạn. “Có thể, tôi không chắc, tôi chưa từng thử. Tôi sẽ tạo ra một hình ảnh của cô rồng từ trí nhớ của tôi. Nhưng có thể trông sẽ không giống một sinh vật sống.” Anh hất hàm về người kỵ sĩ đang phi nước đại tới. “Họ sẽ nhận ra có gì không đúng.”

Roran ấn móng tay vào lòng bàn tay. Chỉ còn bốn phút.

“Nhưng cũng đáng để thử,” anh ta nói khẽ. “Chúng ta chỉ cần làm cho họ sao nhãng, bối rối...” Anh liếc nhìn bầu trời, hy vọng thấy những đám mây mang mưa tới, nhưng lạy chúa, trên trời chỉ có hai đám mây đang bay bay. Bối rối, không chắc chắn, nghi ngờ....Con người sợ cái gì? Họ sợ những thứ họ không biết, không hiểu.

Ngay lập tức, Roran nghĩ tới hàng tá kế hoạch có thể làm nản lòng quân thù, kế hoạc sau càng kỳ lạ hơn kế hoạch trước, cuối cùng anh nghĩ ra một ý tưởng rất đơn giản và liều lĩnh tới mức hoàn hảo. Hơn nữa, không giống những ý tưởng khác, cái này đúng với con người anh hơn, nhưng cần có sự hợp tác của một người khác: Carn.

“Ra lệnh cho mọi người trốn trong lều!” anh hét và chuẩn bị bước đi. “Nói họ im lặng; tôi không muốn nghe một tiếng động dù là khẽ nhất trừ khi chúng ta bị tấn công!”

Anh bước tới cái lều trống gần nhất, nhét búa vào thắt lưng và cầm một tấm chăn len cáu bẩn từ đất lên. Sau đó anh chạy tới khu nấu ăn và cầm lấy một đoạn gỗ to bản mà các chiến binh thường dùng làm ghế ngồi.

Một tay cầm khúc gỗ, một tay cầm chăn, Roran quay trở lại lều tiến tới một ụ đất cao khoảng trăm mét ngay phía trước khu trại. “ai đó lấy cho tôi mấy khúc xương và một chai bia mật ong lại đây!” anh hét. “Và mang tới bàn có tấm bản đồ nữa. Ngay lập tức, quỷ tha ma bắt, nhanh lên!”

Đằng sau, anh nghe có tiếng bước chân hỗn loạn và tiếng binh khí va vào nhau loảng xoảng khi những binh sĩ rút vào lều. Một sự im lặng kỳ quái bao trùm khu trại trong vài giây sau, trừ có âm thanh do những người anh sai đi mang đồ gây ra.

Roran không thèm nhìn lại. Ở chân dốc ụ đất, anh dựng đứng khúc gỗ và kiểm tra vài lần cho chắc nó không đung đưa sau lưng anh. Khi đã hài lòng, anh ngồi xuống nhìn cánh đồng dốc trước mắt những tên kị binh.

Chúng sẽ tới đây trong ba phút nữa. Anh cảm nhận được mặt đất rung lên qua thanh gỗ bên dưới – càng lúc cảm giác đó càng mạnh.

“Xương với rượu mật ong đâu rồi?!: anh hét lên, mắt vẫn dán chặt vào đội quân đang lao tới.

Anh xoa râu và cho tay vào trong áo trấn thủ. Nỗi sợ làm anh ước gì mình mặc áo giáp nhưng phần lạnh lẽo, tàn nhẫn hơn trong con người anh nói anh sẽ khiến kẻ thù khiếp sợ hơn khi ngồi đó không áo giáp như thể anh đang sống thư thái nhàn tản. Phần đó cũng bảo anh để nguyên cây búa trên thắt lưng để khiến anh thấy an toàn.

“Xin lỗi,” Carn nói không ra hơi khi chạy tới chỗ Roran cùng với người đang mang chiếc bàn nhỏ từ trong lều của Roran. Họ đặt bàn trước mặt anh và đặt chăn lên đó, Carn đặt lên trên rượu cũng như một cái cốc da đựng năm khúc xương.

“Thôi, đi đi,” anh nói. Carn quay người định đi nhưng Roran giữ tay anh lại. “Anh có thể làm không khí xung quanh tôi mờ ảo như ở lửa cháy trong những ngày đông không?

Carn nheo mắt. “Có thể, nhưng để...”

“Cứ làm đi. Giờ đi trốn đi.”

Khi người pháp sư cao lêu nghêu chạy về phía lều trại, Roran lắc những chiếc xương trong cốc rồi đổ nó lên bàn và bắt đầu chơi một mình, ném xương lên không khí – đầu tiên là một cái, rồi hai, ba và bốn – rồi bắt lấy chúng. Cha anh, ông Garrow thường khiến anh thích thú khi chơi trò này trong lúc hút thuốc và ngồi trên chiếc ghế đã lung lay trong nhà suốt những tối mùa hefcuar Thung lũng Palancar. Thi thoảng Roran chơi cùng ông, nhưng thường anh là người thua thường ông Garrow thích chơi một mình.

Dù tim anh đập nhanh mạnh, còn bàn tay ướt đẫm mồ hôi,anh vẫn tỏ ra bình tĩnh. Nếu anh muốn có cơ hội thắng dù là nhỏ nhất, anh phải tỏ ra bình tĩnh dù thực tâm anh cảm thấy ra sao.

Anh cứ nhìn đống xương và không chịu nhìn lên khi những kỵ binh đang tới càng lúc càng gần. Tiếng những con ngựa phi nước đại càng lúc càng lớn cho tới khi anh nghĩ chúng sắp nhảy bổ lên người anh.

Cách chết kỳ lạ, anh nghĩ và cười dứt khoát. Sau đó anh nghĩ tới Katrina và đứa con chưa chào đời của họ và anh thấy được an ủi vì nếu anh chết, huyết mạch nhà anh vẫn còn. Không phải theo kiểu bất tử như Eragon nhưng cũng là một dạng bất tử.

Vào giây phút cuối, khi dội quân chỉ còn cách bàn vài mét, có ai đó hét lên, “Dừng! Dừng lại! Kìm cương lại! Tôi nói, kìm cương lại!” Và, với tiếng xiết dây, những con vật bất đắc dĩ chạy chậm lại rồi dừng hẳn.

Roran vẫn nhìn xuống.

Anh nhấp một hớp rượu và ném mấy cục xương lên lần nữa và dùng mui bàn tay đỡ hai khúc xương.

Roran ngửi thấy mùi đất ẩm bốc lên thoang thoảng, ấm áp và dễ chịu, cùng với đó là cái mùi đặc trưng không dễ chịu bằng của mồ hôi ngựa.

“Chào đằng đó!” người vừa hô dừng ngựa nói. “Chào đằng đó! Anh là ai mà lại ngồi ở đây trong buổi sáng trong lành, uống rượu và chơi trò mả rủi thế? Chúng tôi không xứng được so kiếm cùng anh sao? Anh là ai vậy?”

Từ từ như thể không để ý tới sự hiện diện chủa những binh lính và cho rằng việc này không quan trọng, Roran nhìn lên người đàn ông để râu quai nón nhỏ thó đội một chiếc mũ trụ khoa trương ngồi trước mặt anh trên con hắc mã to lớn đang thở khò khè.

“Tôi không phải đằng đó của ai, và tất nhiên không phải của anh,”Roran nói, không cần cố che giấu vẻ không thích thú người kia. “Tôi có thể hỏi anh là ai mà đi can thiệp vào trò chơi của tôi?”

Chiếc lông chim dài gắn trên mũ trụ của người đàn ông lắc lư khi hắn nhìn Roran, như thể anh là một sinh vật lạ lùng hắn săn được. “Tôi là Tharos Tốc độ, Đội trưởng đội cảnh vệ. Tôi nói cho biết, với sự khinh thường người khác như thế, tôi có thể chém bay đầu anh mà không cần biết anh là ai.” Như để nhấn mạnh lời nói của mình, Tharos hạ thấp ngọn giáo chỉ thẳng vào Roran.

Ba hàng kị binh tụ họp sau lưng Tharos. Trong đám người đó, Roran để ý có một người đàn ông gầy, mũi khoằm mặt và tay xương xâu – vai trần – mà Roran và các pháp sư của Varden có từng nói qua. Đột nhiên, anh thấy hy vọng Carn đã thành công tạo ra không khí lung linh mờ ảo quanh anh. Nhưng anh không dám quay đầu lại nhìn.

“Tên tôi là Cây Búa Dũng Mãnh,” anh nói. Anh khéo léo thu mấy khúc xương lại, ném lên trời và đón lấy ba khúc. “Roran Cây Búa Dũng Mãnh, và Eragon Khắc tinh của Tà Thần là em họ tôi. Nếu chưa nghe tới tôi thì chắc cũng phải nghe tới cậu ấy chứ nhỉ.”

Những tiếng thì thầm lo lắng vang lên trong hàng kị binh, Roran nghĩ mình đã thấy đồng tử Tharos mở rộng trong thoáng chốc. “Một tuyên bố ấn tượng nhưng làm sao tôi biết anh có nói thật không? Tất cả mọi người đều có thể nói mình là người khác vì mục đích của bản thân.”

Roran rút cây búa và đặt lên mặt bàn đánh cái rầm. Rồi, không để ý tới những người lính, anh chơi tiếp. Anh lẩm bẩm ra vẻ tức tối khi hai khúc xương rơi xuống khỏi mu bàn tay mình.

“À,” Tharos húng hắng nói. “Anh rất nổi tiếng đó Cây Búa Dũng Mãnh, dù nhiều người nói rằng những lời đồn chỉ toàn phóng đại sự thật. Ví dụ, có đúng là tại làng Deldarad của Surda anh một mình hạ gục ba trăm binh sĩ?”

“Tôi không biết chỗ đó tên gì, nhưng nếu tên nó là Deldarad thì đúng, tôi đã hạ gục rất nhiều binh sĩ ở đó. Nhưng thực ra chỉ có một trăm chín ba tên tôi và tôi được yểm trở bởi vài người bạn đồng hành nữa.”

“Chỉ có một trăm chín mươi ba?” Tharos nói bằng giọng không tin. “Anh khiêm tốn quá, Cây Búa Dũng Mãnh. Một chiến thắng như vậy cũng đủ mang lại sự truyền tụng tới muôn đời rồi.”

Roran nhún vai và đưa vại rượu lên uống một ngụm cho xong vì anh không chịu nổi việc đầu óc lâng lâng vì rượu của người lùn. “Tôi chiến đấu để chiến thắng chứ không phải để thất bại. Để tôi mời anh một chén, như một người lính với một người lính,” anh nói và đưa vại rượu cho Tharos.

Người chiến binh thấp lùn ngần ngừ, mặt đảo nhìn pháp sư đằng sau lưng trong một giây. Sau đó hắn ta liếm môi và nói. “Có lẽ tôi sẽ uống.” Hắn ta xuống ngựa, đưa giáo cho một người lính khác, cởi găng tay và đi tới chỗ cái bàn, cẩn trọng nhận rượu từ tay Roran.

Tharos ngửi mùi rượu sau đó uống một ngụm lớn. Lông vũ trên vũ trụ phất phơ.

“Anh không thích rượu này à?” Roran tò mò hỏi.

“Tôi thừa nhận, loại rượu nấu trên núi này cay quá,” Tharos nói và đưa vại rượu về cho Roran. “Tôi thích uống rượu nấu trên quê mình hơn, ấm, ngọt và khó say.”

“Đối với tôi loại rượu này ngọt như sữa mẹ ấy,” Roran nói dối. “Tôi uống nó mỗi sáng, trưa và tối.”

Tharos đeo găng tay lại và quay lại leo lên lưng ngựa, cầm lại giáo. Hắn một lần nữa đưa mắt nhìn tên pháp sư mũi khoằm đằng sau, người mà Roran để ý nước da đã tái đi như da người chết trong khoảnh khắc ngắn ngủi Tharos đặt chân xuống ngựa. Có lẽ Tharos cũng nhận ra sự thay đổi đó nên biểu tình trở nên căng thẳng.

“Cám ơn sự hiếu khách của anh, Cây Búa Dũng Mãnh,” hắn nói to hơn để tất cả cùng nghe rõ. “Có lẽ tôi sẽ sớm có cơ hội được hàn huyên trò chuyện với anh trong thành Aroughs. Nếu có dịp, tôi hứa sẽ phục vụ anh loại rượu ngon nhất trong trang viên nhà tôi, và có lẽ tôi sẽ giúp anh cai loại sữa kinh khủng này. Tôi nghĩ anh sẽ thấy rượu ở đây rất đáng để thưởng thức. Chúng tôi ủ nó bên trong những thùng gỗ sồi hàng tháng thậm chí là hàng năm. Thật đáng tiếc nếu tất cả những công trình đó bị phí phạm và những thùng rượu mở ra chảy lênh láng trên đường, nhuộm đường phố đỏ màu nho.”

“Thế thì quả là đáng tiếc,” Roran trả lời. “nhưng thi thoảng anh không thể tránh chuyện đổ rượu khi dọn bàn đâu.” Anh cầm vại và đổ rượu xuống lớp cỏ dưới chân.

Tharos không nói gì trong một lúc – kể cả lông vũ trên mũ trụ hắn cũng không động đậy – rồi, gầm lên một tiếng giận dữ, hắn hét với những người lính xung quanh. “Dàn trận lại! Dàn trận lại, Ta nói... Yah!” Và với tiếng hét cuối cùng hắn thúc ngựa chạy mất, những người lính còn lại theo sau chạy về Aroughs.

Roran vẫn tỏ vẻ bàng quan không lo lắng tới khi những tên lính đã đi hết. Sau đó anh từ từ thở hắt ra và chống khuỷu tay lên đầu gối. Tay anh hơi run run.

Thành công, anh vui mừng nghĩ thầm.

Anh nghe thấy tiếng chân người chạy tới từ phía khu trại và liếc mắt thấy Baldor, Carn đang tiến tới, cùng với ít nhất năm mươi chiến binh vừa trốn trong lều.

“Thành công rồi!” Baldor hét lớn khi họ tới gần. “Anh làm được rồi! Tôi không thể nào tin nổi!” Anh ta cười và vỗ vai Roran mạnh tới nỗi khiến Roran đập tay xuống bàn.

Những người còn lại bao quanh anh, cười lớn cũng như ca tụng anh, nói rằng dưới sự chỉ huy của anh, họ sẽ chiếm được Aroughs không mất một binh một tố và họ hạ thấp lòng dũng cảm và tính cách con người thành phố này. Ai đó ấn túi da đựng rượu còn ấm, đầy một nửa vào tay anh khiến anh nhìn nó với vẻ chán ghét. Sau đó anh nhìn người đàn ông đứng bên trai anh.

“Anh có phù phép không?” anh hỏi Carn, lời anh nói hầu như không nghe rõ dưới sự ồn ào của đám đông.

“Cái gì?” Carn nhoài lại gần hơn. Roran nhắc lại câu hỏi và lần này pháp sư cười và gật đầu. “Có. Tôi đã khiến không khí mờ ảo đúng như anh mong muốn.”

“Anh có tấn công pháp sư bên kia không? Khi chúng bỏ đi, tôi thấy hắn như sắp ngất ấy.”

Nụ cười của Carn rộng hơn. “Đấy là do hắn tự chuốc lấy. Hắn cố phá ảo ảnh hắn nghĩ là do tôi tạo ra – cố chọc thủng lớp không khí mờ ảo để thấy cái gì đằng sau – nhưng làm gì có cái gì để phá, để chọc thủng vì thế hắn đã tốn sức không đâu.”

Sau đó Roran cười thầm, sau đó tiếng cười nho nhỏ biến thành trận cười rung người vang tới tận Aroughs.

Trong vài phút anh để mình tận hưởng những lời tán dương tới khi anh nghe tiếng thét cảnh báo lớn vang lên từ trạm gác ở một góc trại.

“TRánh ra! Để tôi xem!” Roran nói và đứng bật dậy. NHững chiến binh tuân lệnh và anh nhìn người đàn ông duy nhất đứng ở phía tây – là một trong những người anh gửi đi xem xét bờ kênh – đang khó nhọc phi ngựa trên cánh đồng, nhắm hướng trại mà phi tới. “Đưa anh ta tới đây,” Roran ra lệnh và một người kiếm sĩ tóc đỏ gầy nhẳng chạy tới đón người kị sĩ.

TROng khi đợi người kia tới, Roran cầm mấy khúc xương lên rồi đặt xuống, từng cái một, vào cốc. NHững khúc xương kêu lanh canh khi rơi xuống.

Ngay khi nhìn thấy người lính kia, Roran gọi lớn, “Này anh! Thế nào? Mọi người bị tấn công à?”

Người đàn ông kia vẫn giữ im lặng mãi tới khi chỉ còn cách vài mét. Anh ta xuống ngựa và đứng trước Roran, cử động cứng nhắc như một cây thông thiếu năng, và lớn giọng báo cáo, “Có mặt, thưa ngài!” Khi quan sát gần hơn, Roran nhận thấy cậu ta chỉ là một thiếu niên – đúng hơn, cậu ta chính là cậu thiếu niên đã nắm dây cương cho anh hồi anh mới tới trại. Nhưng điều này không khiến Roran tò mò.

“THế nào? Tôi không có thì giờ mà dông dài.”

“Báo cáo! Hamund gửi tôi tới nói rằng chúng tôi đã tìm thấy tất cả những xà lan chúng ta cần và rằng ngài ấy đang cho dựng xe trượt mang nó tới một con kênh khác.”

Roran gật đầu. “Tốt. Anh ấy có cần thêm trợ giúp không”

“Báo cáo! Không ạ!”

“Có thế thôi à?”

“Vâng, thưa ngài!”

“Đừng luôn miệng thưa ngài thế. Một lần là đủ rồi. Hiểu không?”

“Vâng, thưa ngài – à, vâng th...à, ý tôi là vâng, tất nhiên rồi.”

Roran mỉm cười. “Cậu làm tốt lắm. Kiếm gì ăn đi rồi đi tới khu mỏ rồi báo cáo lại cho tôi. Tôi muốn biết họ làm tới đâu rồi.”

“Vâng, thưa...Xin lỗi ngài – Tôi không... Tôi sẽ làm ngay lập tức, thưa Chỉ huy.” Má cậu thanh niên hồng lên vì nói lắp. Cậu ta cúi đầu chào nhanh rồi nhanh chóng lên ngựa và đi về lều.

Roran càng nghiêm túc hơn vì anh biết, họ đang may mắn khi tránh được lần đụng độ này. Họ còn nhiều việc cần làm và nếu không làm tốt cuộc chiến của họ cũng thua chắc.

Anh nói với tất cả những người lính. “Về trại! Tôi muốn có hai hào quân sự xung quanh lều vào tối này; mấy gã lính da vàng bụng bự đó có thể sẽ đổi ý và quay lại tấn công và tôi muốn có sự chuẩn bị.” Vài người càm ràm vì phải đào hào nhưng phần đông có vẻ vui vẻ đồng ý.

Carn hạ giọng nói, “Anh không muốn họ kiệt sức vào sáng mai chứ?”

“Tôi biết,” Roran trả lời bằng giọng nhẹ nhàng tương tự. “Nhưng chúng ta cần củng cổ khu đóng quan và chúng ta cần làm điều này để tránh bị đánh úp. Hơn nữa, dù sáng mai họ mệt thế nào thì trận chiến cũng sẽ tiếp thêm sức lực cho họ. Luôn luôn như thế.”

Đối với Roran một ngày trôi qua rất nhanh khi anh tập trung vào những vấn đề thiết yếu và cố gắng tăng cường thể lực. Những binh lính làm việc hăng say – khi cứu họ, anh đã có được lòng trung thành và tận tụy từ họ - nhưng anh đã thấy rõ ràng hơn rằng, dù họ cố gắng thế nào cũng không thể hoàn thành chuẩn bị trong thời gian quá ngắn.

Suốt sáng, chiều và đầu buổi tối, Roran càng lúc càng cảm thấy hết hy vọng và anh tự nguyền rủa mình vì đã đưa ra một kế hoạch tham vọng và phức tạp tới vậy.

Từ đầu mình phải hiểu rằng chúng ta không có thời gian chứ, anh nghĩ. Nhưng giờ đã quá muộn để thử một kế hoạch mới. Lựa chọn duy nhất là cố gắng hết sức và hy vọng, những nỗ lực đó sẽ đủ để giành lấy chiến thắng.

Trời nhá nhem tối, những tia sáng lạc quan đã tới với anh, vì đột nhiên tất cả những sự chuẩn bị đều hoàn thành với tốc độ nhanh không ngờ. Chỉ vài giờ sau, khi trời tối đen và sao chiếu lấp lánh trên đầu, anh thấy mình đứng ở khu xay sát cùng với gần bảy trăm người, mọi sự chuẩn bị đã hoàn thành cho việc chiếm Aroughs vào cuối ngày hôm sau.

Roran cười vì nhẹ nhõm, tự hào và có chút ngờ vực vì công trình của họ.

Anh chúc mừng những người lính xung quanh và cùng họ về lều. “NGhỉ ngơi đi nếu có thể. Chúng ta sẽ tấn công vào lúc bình mình!”

Những người lính reo vui, dù họ mệt mỏi thấy rõ.

BẠN VÀ THÙ

Tối hôm đó, Roran ngủ không được sâu giấc. Anh không thể nào nghỉ ngơi hoàn toàn dù biết tầm quan trọng của trận chiến săp tới và rằng anh có thể bị thương đầy mình trong trận chiến như trước kia. Hai ý nghĩ đó khiến anh căng thẳng, tỉnh dậy khỏi giấc mộng đen tối, kỳ lạ.

Thế là, anh tỉnh giấc dễ dàng khi một âm thanh uỵch nho nhỏ vang lên ngoài lều

Anh mở mắt và nhìn lên nóc lều. Trong lều tối om chỉ trừ tia sáng yếu ớt hắt vào từ ngọn đuốc qua cửa vào. Không khí lạnh lẽo và chết chóc như thể anh đang bị chôn trong lòng đất. Anh không biết đã mấy giờ nhưng anh biết đã rất, rất khuya. Kể cả những sinh vật của ban đêm cũng đã trở lại ổ và đi ngủ. Không ai nên thức, trừ những lính canh mà quanh lều anh đâu có người lính nào.

Roran cố thở từ từ và hít thật sâu khi nghe ngóng. m thanh lớn nhất anh nghe được là tiếng đập của con tim, càng lúc càng lớn hơn, nhanh hơn vì anh cảm thấy căng cứng như dây đàn.

Một phút trôi qua.

Lại một phút nữa

Rồi ngay khi anh nghĩ không có gì phải lo lắng và nhịp tim dần ổn định thì một bóng đen vút qua cửa lều, che đi ánh sáng bên ngoài.

Nhịp tim của Roran đập nhanh gấp ba lần như khi anh chạy lên đỉnh núi vậy. Nhưng mục đích của người kia không thể là gọi anh dậy chuẩn bị chiếm Aroughs hay hiến kế cho anh vì nếu có, họ sẽ không ngần ngại mà gọi tên anh.

Một bàn tay đeo găng đen – đen hơn cả màn đêm – thò vào qua cửa lều.

Roran định mở miệng tri hô nhưng lại thôi. Không nên ngu ngốc đánh mất lợi thế ngạc nhiên. Hơn nữa, nếu kẻ đột nhập biết hắn đã bị phát hiện, hắn sẽ hoảng loạn và hoảng loạn sẽ khiến hắn nguy hiểm hơn.

Roran cẩn thận dùng tay phải nắm lấy con dao đặt dưới áo choàng anh đang gấp gọn thành gối và giấu vũ khí dưới chăn. Cùng lúc đó, anh dùng tay trái nắm chặt cạnh chăn.

Ánh sáng vàng khắc họa đường nét tên đột nhập. Roran thấy hắn mặt một áo da chần bông nhưng không mang áo giáp. Sau đó, cửa lều đóng lại và bóng tôi một lần nữa bao chùm lấy họ.

Người lạ mắt rón rén tới nơi Roran nằm.

Roran cảm thấy như anh sắp ngất vì thiếu không khí nếu cứ cố nín thở để tên kia không biết anh đã thức.

Khi kẻ đột nhập bước được nửa đường tới võng, Roran kéo chăn ra ném lên người gã và, với một tiếng hét kinh hoàng, anh lao lên người hắn, nắm lấy con dao định moi ruột hắn.

“Đừng!” người đàn ông hét lên. Roran ngạc nhiên ngừng tay và cả hai ngã nhào xuống đất. “BẠn mà! Tôi là bạn!”

Nửa giây sau, Roran thở hắt ra vì hai cú đấm vào bụng. Cơn đáu gần như hạ gục anh nhưng anh cố lăn ra tránh hắn và cố đẩy xa khoảng cách giữa hai người.

Roran gượng đứng dậy, rồi một lần nữa lao tới tên đột nhập đang lăn lộn trong đống chăn.

“Đợi đã, tôi là bạn anh!” người đàn ông hét lên nhưng Roran không định tin hắn thêm lần nữa. May mà anh không tin hắn, vì khi anh chém hắn, hắn qua lớp chăn tóm lấy tay phải và con dao của Roran sau đó dùng một con dao hắn lấy ra từ áo da chém vào Roran. Roran cảm thấy đau nhói nhưng cơn đau quá nhẹ nên Roran không để ý nhiều.

Roran rống lên và kéo mạnh chăn, kéo gã đàn ông đứng dậy và dộng hắn vào lều khiến lều đổ sập, nhốt họ bên trong. Roran vứt chăn sang một bên rồi lần mò tìm gã kia.

Tay trái Roran sờ thấy một đế giày cứng và đầu ngón tay anh lạnh cứng.

Anh lao lên, nắm lấy cổ chân hắn khi hắn cố quay lại. Gã quẫy đạp như một con thỏ khiến Roran tuột tay, nhưng anh nào bỏ cuộc. Roran nắm chặt cổ chân hắn và bóp vào gân chân hắn cho tới khi hắn kêu oai oái.

Trước khi hắn kịp trấn tĩnh, Roran leo lên người hắn và ấn bàn tay cầm dao của hắn xuống đất. Roran cố đâm hắn nhưng anh quá chậm; kẻ thù của anh nắm được cổ tay anh và dùng bàn tay như gọng kìm bóp chặt tay anh.

“Ngươi là ai?” Roran lồng lên.

“Bạn anh,” người đàn ông nói phả hơi thở vô mặt anh. Nó có mùi rượu táo hỏng. Sau đó hắn lên gối Roran ba phát liên tục.

Roran đập trán vào mũi hắn, khiến nó kêu đánh rắc. Gã rên rỉ và quẫy đạp bên dươi nhưng Roran không chịu thả hắn ra.

“Ngươi... không phải bạn ta,” Roran gầm trong họng khi cúi xuống và từ từ hạ con dao xuống người hắn. Khi cả hai đang căng người lên thì Roran nghe thấy có tiếng người la hét bên ngoài cái lều sập.

Cuối cùng anh khóa được tay hắn và đâm xuyên qua lớp áo và da thịt. Hắn co giật. Anh đâm nhanh thêm mấy nhát sau đó cắm nguyên con dao trên ngực hắn.

Qua cán dao, Roran cảm nhận được trái tim rung lên lần cuối khi bị cắt thành từng mảnh. Gã co giật hai lần nữa sau đó nắm đó, thở hắt ra.

Roran tiếp tục giữ hắn cho tới khi sự sống rời bỏ hắn. Họ ôm nhau thân mật như một cặp tình nhân. Dù gã kia định giết anh nhưng Roran không biết gì về hắn và anh không thể nào không thấy sợ hãi. Đây là một con người – một mạng sống, một sinh vật biết suy nghĩ – đã ra đi vì hành động của anh.

“Ngươi là ai?” anh nói thầm. “Ai gửi ngươi tới?”

“Ta đã... suýt giết được ngươi,” gã cất tiếng nói, nghe có vẻ hài lòng. Sau đó hắn thở hắt ra, cơ thể mềm oặt. Hắn chết.

Roran gục đầu lên ngực hắn và hít thở, người anh run lên vì bị tấn công.

Mọi người bắt đầu lôi lớp vải bố phủ lên người anh ra. “Kéo nó ra!” Roran hét, không thể chịu nổi sức nặng kinh khủng đang đè lên cũng như không gian đen thẳm, tù túng và không khí ngột ngạt.

Một kẽ hở xuất hiện vì ai đó đã cắt thủng lớp vải. Ánh đuốc ấm áp nhảy múa lan tỏa qua lỗ hổng.

Anh điên cuồng muốn thoát khỏi phòng giam. Anh đứng lên, nắm lấy lỗ hổng mà chui ra. Anh loạng choạng đi về phía có ánh sáng, trên người không mặc gì ngoài khố và nhìn xung quanh với vẻ bối rối.

Balodr đang đứng đó cùng Carn, Delwin, Mandel và mười người lính khác. Tất cả cầm vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Không ai mặc quân trang đầy đủ, trừ hai người mà Roran nhận ra là lính gác đêm nay.

“Chúa ơi,” ai đó hét lên và Roran quay lại nhìn người lính đang hé mắt nhìn qua căn lều thấy xác kẻ đột nhập.

Gã nhỏ thó, tóc dài bóng dầu buộc thành đuôi ngựa và đeo bịt mắt trái. Mũi hắn gẫy và tím đỏ - hậu qua từ những cú đấm của Roran – và máu be bét trên nửa dưới khuôn mặt hắn. Máu tràn ra trên ngực hắn và trên mặt đất xung quanh. Quá nhiều máu đối với một con người.

“Roran,” Baldor lên tiếng. Roran tiếp tục nhìn kẻ ám sát không thể rời mắt. “Roran,” Baldor lại nói nhưng lớn hơn. “Roran, nghe tôi nói này? Anh có bị thương không? Chuyện gì xảy ra?... Roran?”

Cuối cùng Roran cũng nghe thấy. “Cái gì?” anh hỏi.

“Roran, anh có bị thương không?”

Sao anh ấy lại nghĩ thế nhỉ? Roran bối rối nhìn xuống. Lông ngực anh bê bết máu khô, những vệt máu dính trên tay anh và trên khố.

“Ổn,” anh nói dù khó lòng mở miệng. “Có ai bị tấn công nữa không?”

Đáp lại, Delwin và Hamund bước sang một bên để lộ một thân hình không còn sự sống. Đó chính là cậu thiếu niên đã chạy truyền tin cho anh.

“Ôi!” Roran rên rỉ, nỗi buồn dâng lên trong anh. “Sao lại thế này?”

Một trong những chiến binh bước lên phía trước. “Tôi ở cùng lều với cậu ấy, thưa Chỉ huy. Cậu ấy luôn ra ngoài đi dạo mỗi tối, vì cậu ấy đã uống nhiều nước chè. Mẹ cậu ấy bảo làm thế để phòng ốm đau... Cậu ấy tốt tính lăm thưa Chỉ huy. Cậu ấy không nên bị vài tên hèn hạ chỉ biết đánh len chém thành nhiều mảnh thế này.”

“Không,” Roran thì thầm. Nếu cậu ta không ở ngoài đó thì người chết phải là mình. Anh chỉ tên thích khách. “Trong trại còn tìm thấy tên sát thủ nào không?”

Những người đàn ông thì thào nói chuyện; sau đó, Baldor cất giọng, “Tôi không nghĩ có.”

“Kiểm tra chưa?”

“Chưa.”

“Vậy thì đi kiểm tra đi! Nhưng đừng đánh thức những người khác. Họ cần ngủ. Từ lúc này hãy cho lính gác ở lều của các tướng lĩnh. Đáng nhẽ mình phải nghĩ tới chuyện này.

Roran đứng nguyên tại chỗ, cảm thấy mình thật ngu ngốc và đần độn khi Baldor ra lệnh. Mọi người, trừ Carn, Delwin và Hamund đều tản đi. Bốn người lính cáng xác cậu nhỏ đi chôn, trong khi những người còn lại đi kiểm tra khu đóng quân.

Hamund tiến tới nhìn tên thích khách, và dùng mũi giày đẩy con dao của hắn. “Chắc sáng nay anh đã khiến mấy tên lính sợ hơn chúng ta tưởng.”

“Chắc rồi.”

Roran run lên. Anh thấy lạnh toàn thân đặc biệt ở tay và chân như dính đá. Carn nhận ra và mang cho anh cái chăn. “Đây,” Carn nói và choàng lên vai Roran. “Ra ngồi cạnh đống lửa kìa. Tôi sẽ mang cho anh ít nước nóng mà tắm rửa. Thế nhé?”

Roran gật đầu vì không nghĩ mình còn nói được.

Carn định đi, nhưng được vài mét, anh dừng lại khiến Roran cũng phải ngừng bước. “Delwin, Halmund, lấy cho tôi cái võng, cái gì để ngồi cũng được, một vại rươu mật ong và ít vải băng bó tới đây. Nhanh nhé.”

Hai người kia giật mình bỏ đi.

“Sao?” Roran bối rối hỏi. “Sao thế?”

Nét mặt anh nghiêm trọng và chỉ lên ngực Roran. “Nếu anh không bị thương thì gì đây?”

Roran nhìn xuống và thấy bên dưới lớp lông ngực và lớp máu khô là một vết cắt dài và sâu chạy ngang xương ức và kết thúc ở đầu ngực. Chỗ hở rộng nhất khoảng 0,6cm và trông giống một nụ cười quỷ quái không có môi. Vết cắt không hề chảy máu. Roran có thể thấy lớp mỡ vàng dưới da và dưới đó và dưới đó là mô cơ ngực đỏ sậm sống màu thịt nai sống.

Anh đã quá quen với những vết thương do giáo mác, gươm kiếm và những vũ khí khác đem đến nên không lấy gì làm lo lắng. Anh đã bị thương không biết bao nhiêu lần trong cuộc đấu tranh chống lại Triều đình – vết thương khiến anh tự hào nhất là vết cắn của Ra’zac trên vai phải khi chúng bắt Katrina tại Carvahall – nhưng chưa bao giờ anh lãnh một vết thương lớn hoặc không bình thường thế này.

“Đau không?” Carn hỏi.

Roran lắc đầu. “Không.” Cổ họng anh cứng lại và tim anh – vẫn đang đập thình thịch vì trận đánh lộn – đập nhanh gấp đôi. Dao có độc chăng? Anh phân vân.

“Rora, anh phải thả lỏng người,” Carn nói. “Tôi nghĩ tôi có thể chữa trị cho anh, nhưng anh sẽ làm cho mọi chuyện khó khăn hơn nếu ngất đi.” Anh ta đỡ lấy vai Roran, dẫn anh tới cái võng Hamund mang ra từ lều và Roran ngoan ngoãn ngồi xuống,

“Nghỉ ngơi thế nào?” anh hỏi kèm một tiếng cười giòn ngắn ngủi.

“Hít sâu và tưởng tượng anh đang chìm sâu trong lòng đất khi thở ra. Tin tôi đi, anh sẽ thấy thoải mái.”

Roran nghe theo nhưng khi anh thở ra lần thứ ba, vết thương mở rộng, máy chảy ra từ vết thương, bắn lên mặt Carn. Pháp sư lùi lại và nguyền rủa. Máu nóng chảy xuống bụng Roran.

“Giờ thì đau rồi,” Roran nghiến răng nói.

“Này!” Carn hét và vẫy Delwin đang chạy lại chỗ họ, tay cầm đầy băng gạc và những vật dụng khác. Khi anh ta đặt chúng xuống một đầu võng, Carn cầm một ít vải lên ấn vào vết thương của Roran để cầm máu. “Nằm xuống,” anh ra lệnh.

Roran nghe theo và Hamund đưa cho Carn một cái ghế đẩu. Carn ngồi xuống trong khi vẫn bịt chặt miệng vết thương. Anh mở tay phải và nói, “Mở chai rượu ra và đưa cho tôi.”

Delwin đưa chai rượu cho Carn. Anh nhìn thẳng vào Roran và nói. “Tôi sẽ phải sát trùng vết thương trước khi dùng phép thuật làm khép miệng nó. Hiểu không?”

Roran gật. “Đưa cho tôi thứ gì để cắn nào.”

Anh nghe có tiếng cởi thắt lưng và một trong hai người, Delwin hoặc Hamund đưa thắt lưng vô miệng anh, anh anh dùng hết sức cắn. “Làm đi!” anh nói rõ ràng nhất có thể.

Trước khi Roran có thời gian phản ứng lại, Carn bỏ vải ra và rưới rượu lên vết thương, lên lớp lông ngực và máu khô cùng những vết bẩn khác dính trên đó. Roran rên rỉ và cong người lên, cào lên võng.

“Rồi, xong rồi,” Carn nói và đặt chai rượu sang một bên.

Roran nhìn những vì sao, những cơ bắp trên người anh run rẩy. Anh cố quên đi cơn đau khi Carn đặt tay lên vết thương và bắt đầu lầm rầm nói bằng ngôn ngữ cổ.

Sau vài giây, dù đối với Roran nó phải kéo dài tới vài phút, anh thấy không thể chịu nổi cơn ngứa bên trong lồng ngực khi Carn chữa trị vết thương do con dao của tên thích khách gây ra. Cơn ngứa lên cao dần, tới lớp da và cơn đau biến mất. Nhưng, anh vẫn thấy khó chịu muốn gãi rách da rách thịt.

Khi làm xong, Carn thở dài và cúi xuống, dùng tay đỡ đầu.

Roran buộc những cơ bắp cứng đầu làm việc theo ý mình, quăng chân sang một bên và ngồi thẳng dậy. Anh đưa tay lên sờ ngực. Ngoại trừ lớp lông, da anh mềm mại tới hoàn hảo. Bình thường. Không một vết sẹo. Y như cũ.

Pháp thuật.

Delwin và Hamund vẫn đứng nhìn. Họ mở to mắt hơn một chút dù anh nghĩ ai trong hoàn cảnh đó cũng sẽ thế thôi.

“Đi nghỉ đi,” anh nói và vẫy tay. “Chúng ta chỉ còn vài giờ, và tôi muốn hai người tỉnh táo.”

“Anh chắc chắn mình ổn rồi chứ?” Delwin hỏi.

“Ừ, ừ,” anh nói dối. “Cám ơn sự giúp đỡ của các anh, nhưng giờ đi đi. Làm sao tôi ngủ nôi khi hai anh cứ cục ta cục tác như gà mẹ được chứ?”

Sau khi họ rời đi, Roran xoa mặt và ngồi nhìn bàn tay run rẩy, dính đầy máu của mình. Anh thấy khó chịu. Trống rỗng. Như thể anh đã làm việc công việc cả tuần trong vòng vài phút.

“Anh còn chiến đấu nổi không?” Anh hỏi Carn.

Pháp sư nhún vai. “Không tốt bằng trước...đó là cái giá phải trả. Nhưng chúng ta không thể vào trận mà không có anh.”

Roran không muốn cãi. “Anh cũng nên đi nghỉ thôi. Sắp bình minh rồi.”

“Anh thì sao?”

“Tôi sẽ đi tắm, tìm áo mặc và cùng Baldor xem xét xem có phát hiện sát thủ nào của Galbatorix không?”

“Anh không định nghỉ ngơi à?”

“Không.” Anh vô thức gãi ngực. Anh dừng lại khi nhận ra mình vừa làm gì. “Lúc trước tôi cũng không ngủ được, và giờ...”

“Tôi hiểu.” Carn từ từ đứng dậy. “Tôi sẽ ở trong lều nếu anh cần tôi.”

Roran nhìn anh ta nặng nề bước vào bóng tối. Khi không còn thấy anh ta nữa, Roran nhắm mắt và nghĩ tới Katrina để bình tĩnh lại. Anh dùng hết sức mạnh ít ỏi còn lại, đi vào căn lều sập, tìm quần áo, vũ khí, giáp và khăn. Trong một lúc lâu anh tránh nhìn xác tên thích khách dù đôi khi thoáng thấy trong lúc bới tìm đô dùng.

Cuối cùng, Roran quỳ xuống, ngoảnh đầu, rút con dao khỏi xác chết. Anh vẩy con dao và nghe tiếng máu nhỏ giọt xuống sàn.

Trong cái im lặng lạnh lẽo của ban đêm, Roran từ từ chuẩn bị tinh thần cho trận chiến. Sau đó, anh đi tìm Baldor – người đã khẳng định với anh rằng không có thêm tên thích khách nào lọt qua tầm mắt của lính gác – và đi quanh trại, nghĩ ngợi về kế hoạch tấn công Aroughs. Sau đó, anh thấy nửa con gà nướng đã nguội ngắt từ bữa tối. Anh ngồi xuống ăn và ngắm nhìn các vì sao.

Nhưng, cho dù anh làm gì, anh vẫn nghĩ tới cậu nhỏ nằm chết ngoài lều anh. Ai là người có quyền quyết định ai được sống và ai phải chết? Mạng sống của mình đâu có đáng giá hơn cậu ấy nhưng cậu ấy là người nằm sâu dưới ba tấc đất trong khi mình còn ít nhất vài giờ tận hưởng cuộc sống dương thế. Đó là cơ hội, là định mệnh hay tội ác, hay đây là do một thế lực trên kia sắp xếp?

BỘT LỬA

“Cảm giác có em thích chứ?” Roran hỏi Baldor khi họ sánh bước đi tới khu xay sát gần nhất trong ánh hừng đông.

“Không phải thích hay không thích. Ý tôi là, em tôi đâu có lớn gì. Trông như con mèo con ấy.” Baldor kìm cương khi con ngựa của cậu ta định xông ra đám cỏ ven đường. “Tôi thấy chuyện có em – dù là trai hay gái – sau một thời gian quá dài cứ nhột nhạt thế nào ấy.”

Roran gật đầu. Anh dịch mông trên lưng ngựa, nhìn lại sau đảm bảo sáu trăm năm mươi lính đang giữ đúng khoảng cách với anh. Khi tới khu xay sat, Roran xuống ngựa và buộc ngựa trước điểm thấp nhất của ba căn nhà. Một người lính đứng sau dắt lũ ngựa về trại.

Roran đi tới lạch sông và bước xuống cầu kênh. Sau đó anh đặt chân lên xà lan gần bờ nhất trong bốn cái đang nổi dập dềnh.

Những xà lan trong giống mấy mảng bè đơn sơ hơn là một con thuyền độc mộc được những dân làng dùng làm phương tiện chuyên chở từ Narda tới Teirm. Roran rất thích điểm này vì bè đồng nghĩa với không có mũi tàu nhọn. Nhờ vậy, họ buộc, đóng cọc chúng được vào với nhau thành một mảng bè duy nhất dài tới 45m.

Roran đã chỉ đạo đem toàn bộ số đá phiến họ có từ mỏ khai thác chất lên xe bò chở tới đây, chất lên đầu chiếc xà lan thứ nhất và dọc xà lan thứ hai và ba. Trên đống đá phiến, họ chất những bao bột – tìm thấy trong nhà máy xay – tới khi tạo thành một bức tường cao ngang hông.Ở tảng đá cuối cùng trên xà lan thứ hai, bức tường tiếp tục chỉ với các bao bột.

Sức nặng của các phiến đá cùng đống bột kèm theo sức nặng của bản thân xà lan đã biến những chiếc thuyền nổi thành khúc gỗ công thành theo đường thủy khổng lồ. Roran mong sao nó có thể chọc thủng cánh cổng ở cuối con lạch. Kể cả khi cánh cổng được yểm bùa – mặc dù Carn không cho là thế - Roran cũng không nghĩ có bất cứ pháp sư nào, trừ Galbatorix có thể vô hiệu hóa lực tấn công của những chiếc xà lan này một khi chúng trôi xuống từ thượng nguồn.

Ngoài ra, đống đá và bột kia là một lá chắn phòng thủ chống giáo, tên và những vũ khí sát thương khác bay tới.

Roran cẩn trọng đi lại giữa những mảng thuyền dập dềnh tới đầu xà lan. Anh chèn giáo khiên của mình vào một chồng đá phiến rồi quay người quan sát các chiến binh tập hợp giữa các bức tường.

Mỗi lúc xà lan càng lún xuống sâu hơn xuống nước do sức nặng của các chiến binh. Cuối cùng nó chỉ còn nổi trên mặt nước có vài centimet.

Carn, Baldor, Hamund, Delwin và Mandel đứng cạnh Roran. Họ tự mình chọn vị trí nguy hiểm nhất. Nếu muốn có Aroughs, họ cần có sự đồng hành của kinh nghiệm cũng như sự may mắn. Họ không thể trao trách nhiệm nặng nề cho ai.

Ở rìa xà lan, Roran thấy Brigman đứng cùng với những người lính ông từng chỉ huy. Sau hành động bất tuân quân lệnh gần đây của Brigman, Roran đã giáng chức và giam ông ta trong lều. Nhưng, Brigman xin được tham gia trận chiến cuối cùng ở Aroughs, và Roran miễn cưỡng đồng ý; Brigman giỏi dùng đao kiếm và chỉ cần một thanh kiếm cũng tạo nên sự khác biệt trong trận chiến sắp tới.

Roran vẫn băn khoăn liệu anh có quyết định đúng không. Anh khá tự tin giờ các binh lính trung thành với anh chứ không phải với Brigman, nhưng Brigman đã là chỉ huy của họ trong nhiều tháng. Mối liên kết đó không thể quên trong một sớm một chiều. Kể cả trong trận chiến này Brigman không gây chuyện nhưng ai mà biết ông ta có chịu nghe lời hay lờ quân lệnh đi, ít nhất là khi Roran là người ra lệnh.

Nếu ông ta khiến mình không tin, mình sẽ chém chết ngay tại chỗ, Roran nghĩ. Nhưng giải pháp này rất phù phiếm. Nếu Brigman thật sự phản bội thì Roran sẽ không nhận ra cho tới khi quá muộn.

Khi chỉ còn lại sáu người lính đứng trên bờ, Roran cúp tay trước miệng hô lớn. “Mở cửa đập!”

Hai người đang đứng trên con đê ở đỉnh đồi – con đê có nhiệm vụ làm chậm dòng chảy của sông từ thượng nguồn về phía bắc. Dưới đó 6m có guồng nước đầu tiên và một hồ nước bên dưới. Phía trước cái hồ là con đê thứ hai, tại đó có thêm hai người lính. Dưới đó thêm 6m là một guồng nước nữa và một hồ nước sâu yên ả. Cuối hồ là con đê thứ ba và là con đê cuối cùng cùng hai người lính nữa. Ở chân dê cuối cùng là guồng nước cuối cùng. Từ đó, dòng chảy uốn lượn êm đềm chảy tới Aroughs.

Trên các con đê là ba cổng đập Roran bắt đóng lại trong lần đầu tới thăm khu xay sát. Qua hai ngày, đội binh lính đã lặn dưới dòng nước đang ngày một dâng cao nạo vét lòng hồ. Sau đó họ cắm những xà gỗ dài, chắc khỏe xuống hai bên cửa đập.

Những người đứng ở giữa và trên đầu đang nắm lấy những xà gỗ - chúng thò ra khỏi đê vài mét – và bắt đầu kéo đẩy chúng theo một nhịp điệu nhất định. Theo như kế hoạch, hai người đứng cuối sẽ đợi một lúc trước khi họ cũng làm theo.

Roran nắm chặt một bao bột trong lúc quan sát. Nếu họ chỉ tính lệch thời gian vài giây, chắc chắn một thảm họa sẽ xảy đến.

Gần một phút trôi qua, không có gì xảy ra.

Rồi, với một tiếng ầm lớn, cửa đập đầu tiên mở ra. Đê phình lên, đất nứt toác và nước phù sa chảy ầm ầm xuống guồng nước bên dưới khiến nó quay nhanh hơn bao giờ hết.

Đập sập, những người đứng trên đó nhảy lên bờ cách đó vài centimet.

Dòng nước từ độ cao hơn 9m đổ ầm xuống hồ nước đen êm ả bên dưới guồng nước. Một cơn sóng cao vài mét lao xuống đập bên dưới.

Thấy chuyện sắp xảy tới, hai chiên binh ở giữa rời vị trí, lao xuống khu đất an toàn.

May mà họ đã kịp. Khi cơn sóng đập tới đã phá vỡ cửa đập thứ hai như thể một con rồng đá tan nó và cuốn trôi đi những tàn tích của con đập.

Dòng lũ điên cuồng đâm vào guồng nước thứ hai với lực mạnh hơn trước. Gỗ kêu cọt kẹt và lần đầu tiên, Roran nghĩ tới khả năng một hoặc nhiều hơn một guồng nước sẽ bị cuốn trôi. Nếu chuyện đó thực sự xảy ra, những chiến binh và kể cả các xà lan sẽ bị nguy khốn; có thể cuộc tấn công Aroughs sẽ kết thúc từ trong trứng nước.

“Cắt dây neo!” anh hô.

Một trong những người lính cắt dây neo trong khi những người khác cúi xuống kéo một sợi dây dài độ 3 mét giữ xà lan đứng yên bằng tốc độ nhanh nhất.

Chiếc xà lan nặng nề lao lên phía trước, tốc độ chậm hơn mong muốn của Roran quá nhiều.

Mặc kệ cho dòng thác đang đổ ào ào về phía hai người lính, họ vẫn tiếp tục đứng ở đê thấp nhất để đẩy xà gỗ. Chỉ chưa đến một giây trước khi cơn lũ ào lên họ, những người lính mới rời bỏ vị trí.

Dòng nước đục một lỗ lớn trên đập đất dễ như thể nó là bánh mũ và cuồn cuộn lao tới guồng nước cuối cùng. Gỗ kêu kẹt ket – âm thanh lớn và sắc như đập đá – guồng nước nghiêng đi vài độ nhưng vẫn đứng vững. Sau đó, với một tiếng gầm to như tiếng sấm, dòng nước lao xuống chân đồi, nước bắn lên như sương mù.

Từng cơn gió lạnh vuốt lên mặt Roran đứng cách đó hai trăm mét.

“Nhanh nữa lên!” anh tri hộ với những người đang cắt dây neo khi cơn lũ giận dữ tràn xuống con kênh.

Lũ tiến tới với một tốc độ khó tin. Khi nó đập vào đuôi bốn chiếc thuyền, cả đoàn thuyền nhào về phía trước khiến Roran và các chiến binh nhào khỏi đuôi tàu và làm một số người ngã dúi dụi. Vài bao bột rơi xuống sông hoặc rơi ngược về phía những người lính.

Dòng nước tràn dâng nâng xà lan gần rìa nhất cao lên vài mét, đoàn thuyền dài gần 50 mét bắt đầu xoay tròn. Roran biết, nếu quá trình này tiếp tục, đoàn thuyền sẽ bị xé tan.

“Giữ thẳng thuyền!” anh rống lên, nhảy bật dậy khỏi bao bột anh vừa ngã đè lên. “Đừng cho thuyền xoay!”

Nghe thấy tiếng anh, các chiến binh lục tục chống thuyền trôi khỏi dòng nước xoáy và đi về giữa sông. Roran đứng trên đống đá phiến chỉ huy và cùng nhau điều khiển những chiếc xà lan trôi xuống.

“Chúng ta làm được rồi!” Baldor hét lên, trên mặt hiện một nụ cười ngu ngốc.

“Đừng mừng vội,” Roran cảnh cáo. “Chúng ta còn cả một đoạn đường dài.”

Bầu trời phía đông chuyển màu vàng chanh khi họ chỉ cách Aroughs một dặm. Với tốc độ di chuyển hiện tại, họ sẽ tới thành phố trước khi mặt trời ló rạng và màu trời xám xịt sẽ giúp họ tránh được những tên lính canh trên tường thành và chòi gác phát hiện.

Mặc cho những ghềnh đá trên đường đi, chiếc thuyền vẫn gia tốc băng băng tiến tới thành phố bên dưới khu xay sát và không còn một ghềnh thác nào cản bước họ.

“Nghe này,” Roran chụm tay trước miệng và nói lớn để mọi người cùng nghe. “Chúng ta có thể rơi xuống nước khi đâm vào cổng ngoài, vì thế chuẩn bị tinh thần bơi đi. Tới khi chúng ta vào đất liền, chúng ta sẽ là những mục tiêu dễ tấn công. Một khi lên bờ, chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất: leo lên bức tường trong trước khi họ nghĩ tới chuyện đóng cổng, vì nếu họ làm vậy, chúng ta sẽ không bao giờ có được Aroughs. Nếu chúng ta có thể vượt qua bức tường thứ hai, chúng ta sẽ dễ dàng tìm thấy Lãnh chúa Halstead và buộc ông ta đầu hàng. Nếu ông ta không chịu, chúng ta sẽ chiếm trung tâm thành phố, sau đó tản vào các con đường cho tới khi toàn bộ Aroughs thuộc về chúng ta.

“Nhớ, chúng ta có thể sẽ phải một chọi hai hoặc ba, vì vậy hãy ở gần nhau bảo vệ và che chắn cho nhau. Đừng một mình đơn độc, đừng tách mình ra khỏi nhóm. BỌn lính trong thành hiểu rõ địa bàn hownc húng ta, và họ có thể tấn công chúng ta vào lúc chúng ta không ngờ nhất. Nếu anh một mình, hãy chạy tới trung tâm thành phố, vì chúng tôi sẽ ở đó.

“Hôm nay chúng ta sẽ cống hiến hết mình vì Varden. Hôm nay chúng ta sẽ giành lấy vinh quang và danh dự tất cả đàn ông đều mơ ước. Hôm nay... hôm nay chúng ta sẽ đánh dấu tên tuổi chúng ta lên lịch sử. Những gì chúng ta làm trong vài giờ nữa sẽ truyền tụng cả trăm năm sau. Hãy nghĩ tới bạn bè, gia đinh, bố mẹ, vợ con các anh. Hãy chiến đấu hết mình vì chúng ta chiến đấu vì họ. Chúng ta chiến đấu vì tự do!”

Những người lính hô to hưởng ứng.

Roran để họ say men chiến đấu; sau đó anh giơ tay và nó. “Giơ khiên!” Và, mọi người như một giơ khiên lên, che chở cho họ và cho chiến hữu khiến cho khu giữa gỗ công thành như một con vật khổng lồ có vảy.

Roran hài lòng nhảy xuống nhìn Carn, Baldor và bốn người bạn đồng hành với anh trên quãng đường từ Belatona. Người trẻ nhất, mandel có vẻ sợ hãi nhưng Roran biết cậu ta biết cách kiềm chế nó.

“sẵn sàng chưa?” anh hỏi và họ gật đầu đồng lòng.

Sau đó Roran cười, khi Baldor hỏi lý do, anh nói, “Giá mà cha tôi nhìn thấy tôi lúc này!”

Sau đó cả Baldor cũng cười.

Roran nhìn chằm chằm dòng nước. Một khi tiến vào thành phố, các chiến binh sẽ nhận ra có gì không bình thường và sẽ ra hiệu báo nguy. Anh muốn họ báo nguy hiểm, nhưng không phải vì lý do này. Vì thế, khi dòng lũ chỉ cách Aroughs 5 phút, anh bảo Carn, “Gửi tín hiệu.”

Pháp sư gật đầu và môi di chuyển kiểu kỳ lạ nói ngôn ngữ cổ xưa. Sau vài phút, anh đứng thẳng và nói. “Xong rồi.”

Roran nhìn đằng tây. Ở đó, trên cánh đồng phía trước Aroughs là máy bắn đá, máy phóng tên và tháp chiến đấu của Varden. Tháp chiến đấu vẫn không có động tĩnh nhưng những máy móc khác đã chuẩn bị để hành động, bắn tên và đá theo đường vòng cung lên những bức tường trắng của thành phố. Anh biết rằng năm mươi người lính ở đầu kia thành phố đã thổi kèn, la hét, bắn hỏa tiễn, làm mọi thứ để thu hút sự chú ý của những tên lính trong thành và giả bộ như một đội quân lớn hơn sắp sửa tấn công thành phố từ đằng đó.

Roran cảm thấy bình tĩnh lạ thường.

Anh sắp tham chiến.

NHững binh lính của anh sắp chết.

Anh có thể là một trong số đó.

Anh hiểu và anh thấy thông suốt, anh không còn thấy kiệt sức hay run rẩy nữa. Không gì có thể tiếp sức lực cho con người nhiều như chiến tranh – không phải thức ăn, tiếng cười hay lao động chân tay, cả cả tình yêu cũng không phải – và dù ghét chiến tranh nhưng anh không thể chống lại sức quyến rũ của nó. Anh chưa bao giờ muốn làm một chiến binh nhưng anh đã trở thành một chiến binh và anh sẽ làm điều tốt nhất,

Roran che mắt nhìn qua đống đá phiến về cánh cổng đang nhanh chóng tiến tới. Trên mặt nước, cổng làm bằng sồi cứng, đen lại vì dùng lâu và ăn mòn. Bên dưới mặt nước, anh biết là lưới đan bằng sắt thép và gỗ cho dòng nước dễ dàng lưu thông. Phần bên trên là phần khó bẻ gẫy nhất, nhưng anh đoán thời gian sử dụng lâu đã khiến phần dưới yếu đi. Khi phần bên dưới bị đâm thủng, phần bên trên cũng dễ dàng đi tong thôi. Vì thế, anh đã ra lệnh cho đặ hai khúc gỗ gắn chặt bên dưới chiếc xà lan đầu tiên. Chúng sẽ tổng thẳng vào nửa dưới của cổng khi phần gỗ sẽ tổng vào phần trên.

Đây là một kế hoạch thông minh nhưng anh không biết có thành công không.

“Đững vững nha,” anh nói với mình anh hơn là nói với mọi người khi cánh cổng ngày càng gần.

Vài chiến binh bên rìa xa f lan tiếp tục điều khiển dùng gậy điều khiển xà lan, nhưng phần còn lại vẫn trốn bên dưới lớp khiên.

Cánh cổng gần hơn bao giờ hết, đường vòng cung dẫn tới cổng lớn lên trước mắt họ, trông nó như lối vào động. Khi đầu xà lan trôi vào trong đường vòm tối om, Roran nhìn thấy khuôn mặt một người lính, tròn và trắng như trăng rằm xuất hiện trên bức tường, cao hơn họ độ chín mét nhìn xuống cảnh cổng với sự kinh ngạc tới kinh hoàng.

Những chiếc xà lan di chuyển quá nhanh, Roran chỉ có thể thời lẩm bẩm một câu chửi duy nhất trước khi dòng nước đẩy họ đi vào con đường tôi om, anh không còn nhìn thấy tên lính kia nữa.

Xà lan đâm vào cổng.

Lực tác động khiến Roran nhào vào bức tường đá phiến đằng sau. Đầu anh đập vào đá và dù anh đội mũ trụ và mũ bảo vệ bên trong, tai anh vẫn ong lên. Xà lan rung lên và dù anh đang ù tai anh vẫn nghe thấy tiếng gỗ gẫy và tiếng kim loại bị cong vênh.

Một trong những tảng đá phiến trượt ra phía sau rơi trúng anh khiến anh thâm tím tay và vai. Anh dùng hết sức đẩy nó ra khỏi thuyền.

Trong ánh sáng nhờ nhờ, anh không thể nhìn thấy rõ chuyện gì xảy ra; tất cả chỉ có những cử động không rõ ràng và những âm thanh vọng lại. Nước tràn lên chân anh, anh nhận ra xà lan bị dò nhưng liệu có bị chìm không thì anh không chắc.

“Đưa rìu cho tôi!” anh hét và giơ tay ra sa, “Rìu, đưa tôi rìu!”

Anh loạng choạng vì chiếc xà lan vọt lên trước độ nửa mét. Cánh cổng bị lung lay nhưng không nhiều. Lực nước vẫn đẩy thuyền vô cổng nhưng anh không thể chờ đợi nổi nữa.

Ai đó đặt rìu vô lòng bàn tay anh. Anh nhìn thấy sáu ô trên trần hầm phát sáng vì những cung thủ đã tháo gạch giơ cung nhắm bắn.

Có người kêu thét lên.

“Carn!” Roran hét. “LÀm gì đi!”

Kệ cho pháp sư với nhiệm vụ của mình, Roran bắt đầu trèo lên đầu thuyền. Xà lan hơi lún về phía trước một chút. Một tiếng gào chói tai khác vang lên từ giữa cánh cổng và ánh sáng rọi qua những vết nứt trên cảnh cổng gỗ sồi.

Một mũi tên nữa bắn trúng đống đá phiến bên tay phải anh, để lại một vệt kim loại khắc lên tảng đá.

Anh cần nhanh gấp đôi.

Khi tới mũi thuyền, một âm thanh chói lói vang lên khiến anh bịt tai lùi lại.

Một cơn sóng lớn chùm lên người anh, che khuất tầm nhìn của anhh trong giây lát. Anh chớp mắt nhìn cho rõ và thấy một phần canahs cổng đã sập; giờ đoàn xà lan có thể tiến vào thành phố rồi. Nhưng, bên trên đoàn thuyền, những mảnh gỗ vụn đâm tua tủa từ phần còn lại của cánh cổng cao ngang với ngực, cổ và đầu người.

Roran không chần chừ lăn lùi lại và nằm xuống. “Cúi đầu xuống!” anh hét và dùng khiên che người.

Xà lan lao về phía trước, vượt qua những tên cung thủ đang nhắm bắn và lao vào căn phòng đá lớn với đuốc thắp sáng trên tường.

Ở đầu kiam nước từ con sông chảy vào một canh cổng thấp khác, từ đầu đến cuối đều là khung lưới. Qua những ô vuông, Roran có thể nhìn rõ những tòa nhà bên trong.

Hai bên căn phòng là những bậc thang đá cho người ta chất và dỡ hàng. Ròng rọc, dây kép và những cái lưới không treo trên tường và những cần trục đặt trên một mặt đá phẳng. Phía đầu căn phòng và đằng cuối, những cầu thang và lối đi dẫn người ta đi qua con sông mà không dính nước. Những lối đi gần rìa tiến được tới phòng bảo vệ bên trên đường hầm họ đã đi qua và Roran đoán và dẫn tới những khu phòng thủ lớn hơn khác của thành phố, như tới bức tường phòng thủ mà anh đã nhìn thấy tên lính.

Anh thất vọng khi nhìn cánh cổng thấp kia. Anh hy vọng sẽ tiến thẳng vào trong thành phố và tránh khỏi bị những tên lính tấn công khi họ đang trên thuyền.

Được, vậy là giờ không dùng cách này được nữa rồi, anh nghĩ.

Đằng sau anh, những tên lính mặt đỏ tía tai chạy ra từ phòng bảo vệ, quỳ xuống và bắt đầu giương cung nhắm bắn.

“Đằng đó!” Roran hét và chỉ về phía cầu cảng phía tay trái. Những chiến binh nắm lấy xào một lần nữa và đẩy xà lan về cuối con kênh. Hàng tá hàng ta mũi tên cắm vào khiên khiến chiếc thuyền có hình con nhím

Khi xà lan gần các bến cảng, hai mươi tên lính rút kiếm và chạy xuống cầu thang đón đầu quân Varden trước khi họ bước xuống.

“Nhanh!” anh hét.

Một mũi tên căm lên khiến của anh và đầu mũi tên hình kim cương chỉ còn cách tay anhh có 0.5cm. Anh suýt ngã và anh biết anh chỉ có vài giây nữa trước khi có nhiều tên khác muốn bắn vào anh.

Roran nhảy lên cầu cảng, giang rộng tay giữ thăng bằng. Anh hạ cánh nặng nề , một bên đầu gối đập xuống sàn nhà và chỉ có đủ thời gian lôi cây búa trước khi những tên lính tới gần.

Anh cảm thấy nhẹ nhóm và vui thú khi nhìn thấy họ. Anh ốm về hoạch định vẽ vời kế hoạch. Giờ anh được đối mặt với kẻ thù thực sự. Không phải những tên thích khác kinh tởm – mà an có thể đánh giết.

Vụ đụng dộ diễn ra ngắn ngủi nhưng dữ dội và đẫm máu. Roran giết hoặc làm bị thương ba tên linh ngay từ những giây đầu tiên. Sau đó, Baldor, Delwin, Halmund, Mandel và những người khác cùng anh khiến những tên lính tránh xa dòng sông.

Roran không phải một kiếm sĩ, vì thế anh không cố đấu kiếm với kẻ thù. Thay vào đó, anh để chúng đánh trúng khiên nếu muốn trong khi dùng búa đập gẫy xương chúng. Đôi lúc, anh phải đỡ kiếm nhưng anh cố không giao đấu nhiều hơn vài đường với một người vì anh biết sự thiếu kinh nghiệm của anh sẽ để anh lộ ra những sơ hở chết người. Anh đã phát hiện ra ngón nghề hay nhất trong đánh nhau không phải là những pha xoay kiếm tuyệt vời hay những động tác giả phức tạp do nhiều năm rèn luyện mà là chiếm thế chủ động và làm những gì kẻ thù ít ngờ tới nhất.

Thoát khỏi cuộc vây đánh, Roran lao lên cầu thang dẫn tới lối đi bộ có các cung thủ đang nắm bắn binh lính trên thuyền.

Roran nhảy lên ba bậc thang một và vung búa đập thẳng vào mặt tên cung thủ thứ nhất. Tên thứ hai đã bắn tên vì thế hắn đành hạ cùng xuống, vươn tay tìm đoản kiếm.

Nhưng hắn chỉ rút được nửa con dao khỏi vỏ thì Roran đã đánh mạnh vào ngực hắn,, khiến hắn gẫy xương sườn.

Một trong những điều Roran thích khi dùng búa là anh không phải quan tâm nhiều tới loại giáp đối thủ dùng. Một cây búa, giống như bất cứ loại vũ khí tù đầu khác, gây ra vết thương bởi lực tác động chứ không phải vì những vết chém cắt lên da thịt. Anh thích sự đơn giản đó.

Tên lính thứ ba trên đường định bắn anh trước khi anh bước thêm một bước. Lần này, mũi tên chọc qua khiên tới nửa và suýt xuyên vào ngực anh. Anh giữ mũi nhọn chết người đó tránh xa, anh tấn công vào vai hắn. Hắn sử dụng cung để đỡ vì thế Roran dùng mặt khiên đánh ngã hắn, hiến hắn la thét khi ngã dập người vào lan can đường đi bộ.

Kế hoach của Roran biến anh thành một mục tiêu dễ công kích. Khi anh chú ý tới năm tên còn lại thì ba tên đã nhắm thẳng vào ngực anh.

Những tên lính bắn cung.

Trước khi những mũi tên xuyên qua anh, chúng vặn vẹo và lệch sang phải, bay chéo qua những bức tường tối đen như những con ong vò vẽ khổng lồ đang giận dữ.

Roran biết Carn đã cứu anh, và anh sẽ tìm cách cám ơn pháp sư ngay khi họ không còn trong cơn nguy hiểm chết người này nữa.

Anh lao về phía những tên lính còn lại và hạ gục chúng bằng những cú đánh mạnh mẽ như thể chúng chỉ là những cái đinh cong anh cần đóng xuống. Sau đó anh bẻ gẫy mũi tên cắm trên khiên vf quay lại quan sát trận chiến.

Lúc đó tên lính cuối cùng đã đổ gục trên mặt đất bê bết máu, đầu hắn đứt lìa, rơi xuống sông.

Hai phần ba số quân Varden đã lên bờ, xếp hàng bên bờ sông.

Roran mở miệng định ra lệnh cho họ tản khỏi dòng sông – để những người còn trên thuyền có chỗ mà lên – thì cánh cửa bên trái mở toang và một đội lính xông vào.

Chết tiệt! Chúng tới từ đâu vậy! Có bao nhiêu tên đây?

Ngay khi Roran định bước lên cầu thang giúp đồng đội chống đỡ những kẻ mới, Carn – từ này giờ vẫn đứng đầu thuyền – giơ tay chỉ vào những tên lính và niệm chú bằng ngôn ngữ cổ.

Như anh ta muốn, hai túi bột và một tảng đá phiến bay lên khỏi thuyền và bay về phía những tên lính, hạ gục 12 tên. Sau ba bốn lần va chạm, túi bột bung ra, thứ bột trắng ngà phủ lên người chúng, khiến chùng mù mắt và khó thở.

Một giây sau, một ngọn lửa xuất hiện đằng sau chúng – một quả cầu lửa lớn màu vàng cam chạy qua đám mây bột, tham tàn nuốt chúng và tạo ra âm thanh như hàng trăm lá cờ bay phấp phới trong gió.

Roran che khiến và cảm nhận được sức nóng trên chân và lớp da trần ở ngực khi quả cầu thiêu cháy chỉ cách đó vài mét biến những hạt bột thành bụi rơi xuống: một cơn mưa đen, chết chóc chỉ hợp cho một đám tang.

Khi thứ ánh sáng chết chóc đó yếu đi, Roran cẩn trong ngẩng đầu. Khói có mùi hôi thối, nóng nực xộc vào mũi anh, làm cay mắt anh và anh nhận ra râu bị cháy. Anh nguyền rủa và hạ búa xuống dập lửa.

“Này!” anh hét gọi Carn. “Anh đốt râu tôi rồi! Cẩn thận hơn đi, không tôi phi giáo vào đầu anh đấy!”

Hầu hết những tên lính đang nằm lăn lộn dưới đất tay che khuôn mặt bị bỏng. Những tên khác dập lửa cháy quần áo, trên giáp trong khi cố chống những đòn tấn công khác của Varden. Những binh sĩ của Roran có vẻ chỉ bị vài vết bỏng nhỏ - hầu hết đều tránh xa tầm ảnh hưởng của quả cầu lửa – dù trận hỏa hoạn bất ngờ đó khiến họ bối rối đôi chút.

“Đừng đừng nhìn như mấy gã ngốc nữa mà hãy tóm lấy mấy thằng nhãi mù dở trước khi chúng phục hồi đi!” anh ra lệnh và gõ búa lên lan can để họ chú ý.

Varden đông hơn số lính và khi Roran xuống thang, họ đã giết chết ba phần tư số linh gác.

Roran đi về phía cánh cửa đôi lớn dẫn ra khỏi con kênh – cánh cửa lớn đủ cho hai xe ngựa đi song song qua. Anh đi qua Carn, đang ngồi trên đường, ăn đồ ăn từ túi da anh luôn mang theo. Roran biết trong túi đó là hỗn hợp của mỡ lợn, mật ong, gan bò giã nhỏ, tim cừu và quả việt quất. Có một lần Carn cho anh một miếng, anh nhổ ra – nhưng chỉ một miếng thôi đã đủ giúp một người duy trì thể lực sau cả ngày làm việc cực nhọc.

Pháp sư trông kiệt sức. “Anh tiếp tục nổi không?” Roran hỏi.

Carn gật đầu. “Tôi chỉ cần nghỉ một lát... Mấy mũi tên trong đường hầm rồi túi bột và đá...” Anh cắn thêm một miếng nữa. “Hơi quá sức chút.”

Roran thấy yên tâm định bỏ đi thì carn nắm lấy tay anh. “Tôi không làm,” anh nói và mắt hấp hay vui vẻ. “Đốt râu anh ấy. Đấy là do mấy ngọn duốc.”

Roran càu nahuf và tiếp tục đi về cửa. “Tập hớp!’ anh hét và dùng búa đập lên khiên. “Baldor, Delwin cùng tôi đứng hàng tiên phong. Những người còn lại đi sau. Chuẩn bị sẵn sàng. Có thể Halstead chưa biết chúng ta đã vào thành phố nhưng đừng để ai trốn thoát báo tin... Sẵn sàng chưa? Vậy thì đi với tôi!”

Anh cùng Baldor – má và mũi đỏ lựng vì vụ cháy – mở toang cửa bước vào Aroughs.

KHÓI BỤI

Hàng tá những tòa nhà tường vôi san sát nhau chung quanh bức tường ngoài, nơi con kênh dãn vào Aroughs. Tất cả các căn nhà – lạnh lẽo và kín mít vì những cửa sổ đen đóng kín – hình như đều là nhà kho. Tất cả đều chất đầy tới nóc, nghĩa là, không ai biết Varden đã vượt qua hàng phòng thủ.

Roran không có ý định đứng đó tìm hiểu.

Những tia sáng đầu tiên đã chiếu vào thành phố, mạ vàng những nóc tháp, tường thành, những mái vòm, những mái nhà nghiêng nghiêng. Đường phố và những con hẻm khoác lên mình màu bạc xỉn đục và nước chảy trong kênh có màu tối, ảm đạm và váng máu. Trên trời chỉ còn duy nhất một ngôi sao, tỏa ánh sáng xanh xao ảo não vì ánh dương sắp lên làm lu mờ những bảo vật của màn đêm.

Varden tiến lên, gót giày da của họ nện lên con đường rải đá cuội.

Từ đằng xa vọng lại tiếng gà gáy.

Roran dẫn đoàn quân đi qua những dãy nhà tới bức tường thành bên trong thành phố nhưng không phải luôn đi theo con đường to thẳng nhất để tránh chạm trán ai đó trên đường. Họ đi theo những con đường nhỏ và u ám tới mức đôi khi không nhìn thấy mặt đất.

Những máng nước cáu bẩn. Mùi hôi thối khiến anh lợm giọng. Anh ước gì mình đang đứng trên cánh đồng bao la ở quê nhà.

Sao người ta có thể sống thế này nổi nhỉ? Anh phân vân. Kể cả lợn cũng không đầm mình trong đống bẩn thỉu của nó.

Đi xa những bức tường ngoài họ thấy nhiều nhà ở và cửa hàng hơn: chúng cao ráo, vuông vắn với những bức tường sơn trắng và cửa trang trí hoa văn bằng thép. Đằng sau những cánh cửa sổ đóng kín, thi thoảng Roran nghe có tiếng nói hay tiếng bát đĩa loảng xoảng hoặc tiếng ghế kéo lên trên sàn gỗ.

Chúng ta không còn nhiều thời gian, anh nghĩ. Vài phút nữa thôi là những con đường sẽ nhung nhúc người.

Đúng như dự đoán của anh, hai người đàn ông bước ra khỏi con hẻm trước mặt họ. Họ gánh trên vai hai thùng sữa.

Họ ngạc nhiên khựng lại khi thấy Varden, sữa đổ khỏi thùng. Họ mở to mắt và há miệng định tri hô.

Roran và đoàn quân đứng lại. “Nếu các người hét lên một tiếng thôi, tôi sẽ giết chết ngay,” anh nói bằng giọng nhẹ nhàng, thân thiện.

Hai gã rùng mình thối lui.

Roran bước lên. “Nếu các người chạy, các người sẽ chết.” Anh nhìn chằm chằm họ và gọi tên Carn. Khi người pháp sư tới bên cạnh, anh nói. “Anh có thể làm cho họ ngủ được không.”

Pháp sư nhanh chong ngâm một cụm từ bằng ngôn ngử cổ, âm kết thúc đối với Roran giống như slytha. Hai gã đổ vật xuống đường, hai thùng sữa nảy lên khi đập xuống nền đá cuội. Sữa đổ tràn ra đường tạo nên một mạng lưới tinh tế những đường tơ trắng chạy theo các rãnh đá.

“Kéo họ sang một bên,” Roran nói, “chỗ nào người ta không thấy ấy.”

Sau khi các chiến binh của anh kéo hai gã bất tỉnh khỏi đường, anh ra lệnh cho quân Varden tiếp tục tiến lên. Họ cần nhanh chóng tới được nội thành.

Nhưng chưa đi được trăm mét, tại một góc quặt họ đụng độ với một nhóm bốn tên lính.

Lần này Roran không nhân nhượng. Anh lao về phía họ, xé lẻ họ và, trong khi chúng chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, anh đập búa vào cổ tên lính dẫn đầu. Cùng lúc đó, Baldor chém rơi đầu tên lính khác với sức mạnh bằng vài người đàn ông. Đó là sức mạnh anh có được sau nhiều năm làm việc trong xưởng rèn của bố.

Hai gã còn lại quang quác báo động. Chúng quay người, bỏ chạy.

Một mũi tay bay vút qua vai Roran trúng lưng một tên lính, khiến hắn đổ ụp xuống đường. Một lát sau, Carn quát, “Jierda!” Cổ tên lính cuối cùng gẫy đánh rắc, và hắn nằm bất động giữa đường.

Tên lính dính tên trên lưng bắt đầu hét: “Quân Varden! Quân Varden! Báo động, quâ...”

Roran rút dao găm, chạy tới cắt cổ hắn. Anh lau máu vào áo hắn rồi đứng dậy nó, “Chạy nhanh lên!”

Mọi người như một chạy rầm rập trên con đường dẫn tới nội thành Aroughs.

Khi họ chạy được trăm mét, Roran dừng lại tại một con hẻm đằng sau một căn nhà, giơ tay bảo những người lứng chờ. Sau đó anh đi rón rén, lén nhìn qua khung lưới sắt trên bức tường đá hoa cương trắng.

Cổng thành đóng.

Nhưng ở bên trái có một lỗ hổng lớn. Khi anh quan sát, một tên lính đi qua đó và nhắm thẳng về phía tây thành phố mà chạy.

Roran tự chửi rủa mình. Anh không định bỏ cuộc, đặc biệt khi họ đã đi được tới đây, nhưng họ đang càng ngày càng gặp nguy hiểm. Anh biết chỉ vài phút nữa thôi, lệnh giới nghiêm chấm dứt và anh cùng đội quân sẽ bị phát hiện.

Anh lùi lại sau bức tường và cúi đầu suy nghĩ.

“Mandel,” anh nói và búng tay. “Delwin, Carn và ba anh nữa.” Anh chỉ vào nhóm ba người lính trông có vẻ bặm trợn – anh nghĩ là có thâm niên chiến đấu. “Đi cùng tôi. Baldo, anh chỉ huy những người còn lại. Nếu chúng tôi không trở lại, hãy tự nghĩ cách giữ mạng. Đây là lệnh.”

Baldor ủ rũ gật đầu.

Cùng với sáu người anh lựa chọn, Roran rẽ vào con đường lớn dẫn tới cánh cổng cho tới khi tới chân tường đầy rác có lẽ cách lỗ hổng độ 15m.

Hai tên lính đang đứng gác ở hai thòa tháp trên cổng nhưng trong lúc này, chúng không thể nhìn thấy họ trừ khi thò cổ xuống.

Roran thì thầm nói, “Một khi qua được cánh cửa, anh, anh, và anh nữa” – Roran chỉ Carn, Delwin và một trong ba người lính kia – “sẽ tới chòi gác nhanh nhất có thể. Chúng tôi sẽ tới chòi gần đó. Làm gì cũng được nhưng nhớ là phải mở cửa. Có thể chúng ta chỉ phải quay một guồng xích duy nhất hoặc phải phối hợp mở cửa, vì thế đừng nghĩ các anh có thể chết để lại mọi việc cho tôi. Sẵn sàng chưa?... Nào!”

Roran chạy nhẹ nhàng nhất có thể, dọc theo bước tường rồi rẽ quặt vào lỗ hổng.

Phía trước anh là một căn phòng dẫn tới một quảng trường rộng có bốn đài phun nước xếp thành hàng ở chính giữa. Những người đàn ông ăn mặc đẹp đẽ đang vội vã đi lại trong quàng trường, rất nhiều người đang cầm những cuộn giấy trong tay.

Roran không để ý tới họ mà rẽ vào một cánh cửa đóng im ỉm. Anh dùng tay khóa, cố kìm ham muốn đá tung cửa ra. Sau cánh cửa là một phòng bốt gác với cầu thang xoắn ốc xây sát một bên tường.

Anh chạy lên cầu thang, sau một lần vòng duy nhất, anh đã ở trong một căn phòng trần thấp có năm tên lính đang hút thuốc và chơi xúc xắc trên bàn cạnh một trục quay khổng lồ có dây xích dày bằng cổ tay.

“Xin chào!” Roran nói bằng giọng trầm và đầy uy lực. “Tôi có một lá thư vô cùng quan trọng cho các người.”

Những tên lính ngần ngừ rồi đứng bật dậy, kéo lùi ghế lại. Chân ghế kêu kén két trên sàn nhà.

Họ quá muộn. Chỉ trong một tích tắc thiếu quyết đoán đó, Roran đã rút gọn khoảng cách trước khi chúng kịp rút vũ khí.

Roran rống lên khi lao vào giữa đám lính, cùng cây búa tả hữu xung đột và đẩy lùi năm tên lính vào một góc tường. Sau đó Mandel và hai người lính khác đến cạnh anh, lưỡi kiếm lóe lên loang loáng. Họ cùng nhau tiêu diệt những tên lính gác.

Khi đứng trước xác tên lính cuối cùng, Roran vỗ xuống đất và nói, “Đừng tin người lạ.”

Cuộc ẩu đả khiến căn phòng hỗn tạp nhiều thứ mùi kinh khủng giống như phủ lên người Roran cái chăn dầy nặng làm bằng loại chất liệu khiến anh khó chịu nhất. Anh hầu như không thở nổi, vì thế anh dùng tay áo che mũi và miệng lại.

Bốn người họ đi tới trục quay, cẩn thận không giẫm lên vũng máu và đứng nghiên cứu xem nó hoạt động ra sao.

Roran nhìn quanh, giơ búa lên khi nghe có tiếng kim loại lách cách rồi một tiếng cửa sập được kéo lên, theo sau là tiếng bước chân hỗn loạn khi một tên lính bước xuống từ tòa tháp canh bên trên.

“Taurin, chuyện chó gì đang...” Giọng nói của hắn tắc lại trong họng và hắn đứng khựng giữa cầu thang khi thấy Roran và những người bạn cùng những xác chết trong góc phòng.

Chiến binh bên phải Roran phi giáo về phía hắn nhưng hắn lùi lại và mũi giáo vọt đâm vào bức tường bên trên. Tên lính chửi rủa và chạy ngược lên cầu thang, biến mất trong khúc ngoặt cong cong.

Chỉ một lát sau, cảnh cửa sập đóng lại với một tiếng bùm, và họ nghe có tiếng kèn và tiếng hô báo nguy cho những người trên quảng trường.

Roran chửi rủa và quay về chỗ trục quay. “Thả xích,” anh nói và nhét búa vào thắt lưng. Anh nắm lấy bánh xe dùng để hạ và nâng lưới sắt lên và đẩy thật lực. NHững người khác tiếp sức và từ từ, rất từ từ, bánh xe bắt đầu chuyển động và tiếng xích vang lớn.

Vài giây sau công việc trở nên dễ dàng hơn có lẽ nhờ vào những người anh đã bảo tới bốt canh bên kia.

Họ không định nâng cả lưới sắt lên; sau nửa phút toát mồ hôi, tiếng hò hét của quân Varden vang lên bên tai họ vì những người lính bên ngoài thành đã lao vào quảng trường.

Roran thả tay, rút búa ra và cùng những người khác lao lên tầng.

Bên ngoài bốt canh, anh nhìn thấy Carn và Delwin vừa mới bước lên từ phía bên kia. Không ai bị thương nhưng Roran không thấy người lính già bên đó.

Trong khi đợi nhóm Roran tới, Baldor và những Varden còn lại sắp xếp thành một đội quân ở góc quảng trường. Họ đứng thành năm hàng, kề vai sát cánh với khiên che cao.

Khi Roran chạy tới, anh thấy một lực lượng lính tới đổ ra từ các tòa nhà trong quảng trường. Chúng hình thành một hang phòng thủ, chĩa giáo về phía trước trông gối cắm kim của thợ may. Anh ước chừng có khoảng một trăm năm mươi tên – quân đội của anh dễ dàng đánh bại nhưng sẽ tốn thời gian và hao tổn nhân lực.

Khi tên pháp sư mũi khoằm anh nhìn thấy ngày hôm trước bước ra khỏi hang lính và giơ tay lên đầu, trên tay hắn xuất hiện những ánh chớp đen lách tách thì tâm trạng của Roran càng xấu hơn. Roran đã học đủ những kiến thức về phép thuật từ Roran để biết ánh chớp có thể chỉ để phô diễn tài nghệ mà thôi, nhưng dù sao anh cũng biết chắc tên thầy pháp của quân địch là một mối đe dọa to lớn.

Carn tiến lên đứng trước mọi người chỉ sau Roran vài giây. Họ và Baldor lừ mắt nhìn tên pháp sư và hàng lính phòng thủ bên đối diện.

“Anh giết nổi hắn không?” Roran hỏi nho9r để những người lính đằng sau không nghe thấy.

“Tôi phải thử mới biết được chứ?” Carn trả lời. Anh ta dùng mu bàn tay chùi mép. Trên mặt anh lấm tấm mồ hôi.

“Nếu anh muốn chúng tôi có thể tập trung vào hắn. HẮn không thể nào giết hết chúng ta trước khi chúng ta làm lá chắn của hắn suy yếu và đâm xuyên tim hắn.”

“Anh không hiểu đâu... Không, đây là trách nhiệm của tôi và tôi phải tự mình đương đầu với hắn.”

“Chúng tôi giúp được gì không?”

Carn bật cười lo lắng. “Anh có thể bắn tên về phía hắn. Vừa chặn tên vừa làm phép sẽ khiến hắn suy yếu và lộ sơ hở. Nhưng dù làm gì cũng đừng xen vào giữa chúng tôi... Không an toàn cho cả anh và tôi.”

Roran chuyển búa sang tay trái rồi đặt tay phải lên vai Carn. “Anh sẽ ổn thôi. NHớ rằng hắn không quá thông minh. Anh đã lừa hắn một lần và có thể chơi hắn lần nữa.”

“Tôi biết.”

“Chúc may mắn.” Roran nói.

Carn gật đầu một cái rồi bước tới đài phun nước ở giữa quảng trường. Ánh sáng mặt trời nhảy nhót trên mặt nước, phản chiếu như hàng ngàn viên kim cương trong không khí.

Tên pháp sư mũi khoằm cũng bước tới đài phun nước cho tới khi họ chỉ cách nhau độ 6m.

Từ chỗ Roran đứng, Carn và đối thủ như đang nói chuyện với nhau nhưng anh không thể nghe họ nói gì. Sau đó cả hai pháp sư đều đứng cứng ngắc như thể có ai dùng dao găm đâm họ.

Đó là điều Roran đã biết trước: một dấu hiệu cho thấy họ đang đấu trí, không quan tâm gì tới mọi thứ xung quanh.

“Cung thủ!” anh hô. “Ra kia và đằng kia nữa,” anh chỉ về hai phía quảng trường. Bắn càng nhiều mũi tên vào tên chó phản bội kia càng tốt nhưng đừng bắn nhầm Carn không tôi sẽ cho các anh làm mồi cho Saphira.”

NHững người lính khó khăn rời ra để hai nhóm cung thủ tiến về quảng trường nhưng không một đội quân nào của Galbatorix tiến tới chặn Varden.

Chắc hẳn họ phải tự tin vào con rắn độc kia lắn, Roran lo lắng nghĩ.

Hàng ta những mũi tên đuôi lông ngỗng màu nâu bay vun vút về phía tên pháp sư phe địch và trong chốc lát, Roran hy vọng họ có thể giết chết hắn. Nhưng khi những mũi tên cách hắn khoảng mét rưỡi, chúng gẫy đôi, rơi xuống đất như vừa đâm vào một bức tường đá.

Roran nhảy lên vì quá căng thẳng. Anh ghét phải chờ đợi, không làm gì trong khi bạn bè đang gặp nguy. Hơn nữa mỗi giây trôi qua Lãnh chúa Halstead lại có thêm cơ hội hiểu chuyện gì đang diễn ra và tìm phương án thích hợp để ứng phó. Nếu những chiến binh của Roran muốn không bị gót giày của đội quân đông hơn gấp vạn của Triều đình dẫm bẹp, họ phải có được ưu thế về sự bất ngờ.

“Sẵn sàng nào!” anh nói với những chiến binh. “Chúng ta hãy xem có thể làm gì trong khi Carn đang chiến đấu bảo vệ chúng ta. Chúng ta sẽ tấn công toán linh kia. Một nửa đi theo tôi, một nửa theo Delwin. Chúng không thể chặn mọi ngả đường, vì vậy, Delwin, anh và cánh quân của anh hãy tìm đường vượt qua chúng rồi quay lại tấn công chúng từ phía sau. Chúng tôi sẽ khiêu khích trước mặt chúng để chúng không kịp trở tay. Nếu có tên nào định chạy, mặc kệ chúng. Đằng nào chúng ta cũng sẽ mất rất nhiều thời gian để giết tất cả rồi. Hiểu chưa.... Đi thôi!”

Mọi người nhanh chóng tản thành hai nhóm. Roran dẫn đầu nhóm của anh chạy về phía bên phải quảng trường trong khi Delwin chạy về bên trái.

Khi cả hai tiến tới đài phun nước, Roran lấy tên pháp sư phe địch leiecs nhìn anh. Chỉ trong thoáng chốc nhưng sự xao lãng đó đã đủ ảnh hưởng tới trận chiến giữa hắn và Carn. Khi tên mũi khoằm nhìn lại Carn, vẻ hằm hè trên mặt hắn xoắn lại thành một nỗi đâu và các đường gân bắt đầu nổi lên trên lông mày nhíu chặt và toàn bộ mặt hắn biến sắc, chuyển thành đỏ sậm vì giận dữ như thể bị úng máu.

“Không!” hắn lồng lộn hét lên, sau đó nói một cái gì đó bằng ngôn ngữ cổ mà Roran không hiểu.

Một tích tắc sau Carn cũng hét lên gì đó. GIọng họ chồng chéo lên nhau mang theo sự tức giận, thù ghét, buồn rầu khiến Roran biết rằng trận chiến giữa họ đã đi lệch hướng.

Carn biến mất trong ánh sáng xanh. Sau đó một vỏ sò cong cong hình mái vòm màu trắng xuất hiện nơi anh đứng và tỏa rộng ra cả quảng trường trong thời gian chẳng đủ cho Roran chớp mắt.

Thế giới chìm trong màn đen. Roran cảm thấy một luồng nhiệt nóng không chịu nổi, mọi thứ xoay vần xoắn vặn chung quanh anh như anh đang rơi vào một khoảng không vô định.

Cây búa rơi khỏi tay anh và đầu gối phải anh nhói đau. Sau đó một vật gì đó đập vào mồm anh khiến mồm anh toàn máu là máu.

Tới khi định hình nổi, anh thấy mình vẫn ở nguôn chỗ cũ, nằm sấp và người cứng ngắc. Các giác quan từ từ quay lại giúp anh thấy bề mặt đá xanh xám trơn nhẵn dưới mũi anh, ngửi thấy mùi vữa chì trên đá, cảm nhận được cơn đau ê ẩm chạy dọc cơ thể. m thanh duy nhất anh nghe được là tiếng đập của con tim.

Anh thổ huyết khi hít thở trở lại. Anh thèm khát không khí, anh ho hắng và ngồi thẳng dậy, nhổ đờm đen ra. Một chiếc răng cửa của anh hạ cánh xuống đất cùng máu. Anh nhặt nó lên xem xét, răng bị mẻ nhưng chân răng còn nguyên vẹn, thế là anh lau sạch nó và ấn lại vào nướu, nhăn mặt vì chạm vào chỗ đau. (cái này mà được à? Không tin!)

Anh loạng choạng đứng thẳng dậy. Anh đã bị thổi bay đập vào bậc tam cấp một ngôi nhà ở rìa quảng trường. Những người lính ngổn ngang xung quanh, tay chân xiêu vẹo, mất mũ trụ, gươm kiếm bay đâu mất.

Một lần nữa Roran mừng vì mình cầm búa vì trong cơn hỗn loạn nhiều Varden đã đâm cả vào nhau.

Búa? Búa của mình đâu? Anh trì trệ nghĩ. Anh nhìn xung quanh tới khi thấy cán búa nằm dưới chân một chiến binh gần đó. Anh lôi nó ra và nhìn quảng trường.

Những tên lính và Varden bị quăng liểng xiểng. Đài phun nước không còn gì ngoài đống gạch vụn đang phun nước từng chập. Bên cạnh đó nơi Carn từng đứng là một xác chết héo quắt, đen sì đang bốc khói trông như xác nhện chết, toàn bộ thân thể đã cháy thành than khiến người ta không nhận ra nói sinh vật đó từng sống chứ không nói chi là người. Lạ lùng thay, tên pháp sư mũi khoằm vẫn đứng tại chỗ dù vụ nổ làm bay hết quần áo ngoài chỉ còn mặc độc cái khố.

Cơn giận dữ không kiểm soát nổi sôi lên trong Roran. Anh không nghĩ tới tính mạng bản thân khập khiễng đi vào trung tâm quảng trường, cố sống cố chết giết tên pháp sư đó.

Tên pháp sư ngực trần đứng nguyên tại chỗ khi Roran đến gần. Roran giơ búa hét lớn nhưng bản thân anh không hề nghe nổi tiếng mình.

Nhưng hắn vẫn không mảy may nhúc nhích.

Roran nhận ra hắn không hề di chuyển lấy một centimet từ vụ nổ. Như thể hắn là một bức tượng mà thôi.

Vẻ bình thản của tên thầy pháp với sự xuất hiện của Roran chỉ khiến anh muốn lờ hành vi thiếu bình thường của hắn – hay đúng hơn là chẳng có hành động gì – và đập mạnh vào đầu hắn cho xong. Nhưng sự thận trọng của Roran đã giúp anh giảm bớt ý muốn báo thù và khiến anh đi chậm lại và dừng hẳn khi còn cách tên pháp sư độ mét rưỡi.

Anh mừng là anh đã dừng lại.

Từ đằng xa trong tên pháp sư vẫn bình thường nhưng khi lại gần, Roran thấy da hắn nhẽo và có nếp nhăn như một ông già. Da hắn xạm màu và càng lúc càng xạm hơn như thể hắn bị hóa đá.

NGực hắn phập phồng và tròng mắt đảo liên tục nhưng trắng dã. Ngoài ra hắn không thể cử động.

Trong lúc đó, tay, cổ và ngực hắn co lại, xương hắn như lộ ra – từ xương ức cho tới xương bánh chè, bung hắn tóp vào như một chai nước rỗng. Môi hắn co lại và vén cao lộ những chiếc răng vàng khè, tròng mắt thụt và da thịt héo lại.

Sau đó hơi thở của hắn – khò khè, rít lên từng chập – cũng yếu dần nhưng không hoàn toàn mất hẳn.

Roran hoảng sợ lùi lại. Anh càng thấy có gì đó trơn trượt dưới giày. Khi nhìn xuống anh thấy anh đang đứng trên một vũng nước. Lúc đầu anh nghĩ chỉ là nước từ đài phun nước nhưng sau anh biết đó là nước chảy ra từ người gã pháp sư đang cứng đờ.

Roran chửi rủa, khiếp sợ và nhảy ra chỗ đất khô. Nhìn thấy dòng nước là Roran hiểu Carn làm gì và sợ lại càng sợ thêm. Dường như Carn đã niệm một câu thần chú rút từng giọt nước khỏi người tên pháp sư.

Chỉ thêm vài giây, gã chẳng khác nào một bộ xương da đen cứng. Hẳn trở thành một xác ướp nằm phơi nắng trong cát sa mạc Hadarac cả trăm năm. Dù hắn sắp chết nhưng câu thần chú của Carn buộc hắn đứng đó: như một bóng ma kinh hồn táng đởm, một trong những thứ đáng sợ nhất Roran từng thấy trong những cơn ác mộng hay trong chiến trận.

Sau đó lớp da hắn phân hủy thành bụi xám, cuộn tròn, bay lên rồi rơi xuống trôi trên vũng nước bên dưới như tàn lửa. Tiếp theo đó là cơ và xương, rồi lục phủ ngũ tạng cũng chẳng còn. Tất cả chỉ để lại một đống bột trên vũng nước từng trong cơ thể người.

Roran nhìn xác Carn rồi vội quay mặt đi vì không chịu đựng nỏi. Ít nhất anh cũng báo thù được cho mình. Sau đó anh không nghĩ tới người bạn đã ra đi mà tập trung tới vấn đề trước mắt: những tên lính ở phía nam quảng trường đang từ từ đứng dậy.

Roran thấy quân Varden cũng đang hành động tương tự. “Này!” anh hô. “Đi với tôi! Chúng ta không thể bỏ lỡ cơ hội này.” Anh chỉ vào vài người lính bị thương nặng. “Giúp họ đứng dậy và để họ vào giữa hàng quân. Không được bỏ ai lại. Không một ai!” Môi và miệng anh sưng lên khi nói, đầu anhh đau như thể uống rượu cả đêm.

Quân Varden tập hợp lại dưới mệnh lệnh của anh và nhanh chóng đi theo anh. Với một toán người sau lưng, Roran sánh bước cùng Baldor và Delwin, cả hai đều bầm dập vì vụ nổ.

“Carn chết rồi à?” Baldor hỏi.

Roran gật đầu và nâng khiên lên như những người khác, hình thành một bức tường người thống nhất.

“Vậy chúng ta nên hy vọng Halstead không có thêm một pháp sư nào.” Delwin lầm bầm.

Khi quân Varden đã vào vị trí, Roran hét. “TIến lên!” và các chiến binh xông vào những tên lính còn lại trên quảng trường.

Có thể vì tướng chỉ huy của chúng kém hiệu quả hơn Varden hay vì vụ nổ vừa rồi đã khiến chúng tổn thất nghiêm trọng, binh lính của triều đình không thể phục hồi kịp khi Varden tấn công.

Roran rên rẩm và loạng choạng lùi lại một bước khi một ngọn giáo xuyên qua khiên và khiến tay anh tê rần. Anh dùng búa đập lên mặt khiên. Cán giáo nảy lên nhưng không chịu rời ra.

Một tên lính trước mặt anh, có lẽ là tên đã phóng giáo nhân cơ hội chạy tới và chém vào cổ Roran. Roran định giơ khiên cùng thanh giáo cắm trên đó nhưng nó quá nặng và cồng kềnh nên anh quyết định dùng búa đánh rơi thanh kiếm.

Nhưng thanh kiếm chém đúng điểm mù trong tầm nhìn của anh khiến anh đỡ trượt. Có lẽ vào phút đó anh đã chết nếu đốt ngón tay anh không đập trúng phần mặt kiếm khiến nó trật đi vài centimet.

Mũi tên lửa vút qua vai phải của Roran. Những mũi tên bắn vun vút xung quanh anh, mắt anh chỉ thấy màu vàng sáng. Đầu gối phải anh khuỵu xuống. Anh ngã.

Đá bên dưới anh. Xung quanh anh là những bàn chân và cẳng chân khiến anh không thể lăn người giữ an toàn. Toàn bộ cơ thể anh uể oải như thể anh rơi vào bẫy bằng mật vậy.

Quá chậm, quá chậm, anh nghĩ khi cố tháo khiên và đứng dậy. Nếu anh nằm dưới đất có thể anh bị dẫm bẹp quá.Quá chậm!

Rồi anh thấy một tên lính đổ ập xuống trước mặt, nắm lấy áo anh và một giây sau, có một ai đó nắm cổ áo giáp giúp Roran đứng dậy. Đó là Baldor.

Roran vặn cổ nhìn tên lính vừa đánh mình. Năm mắt xích trên giáp anh bị chặt tung nhưng dù sao áo giáp vẫn còn. Dù máu chảy ra từ phần mềm, đau cổ và tay nhưng anh không nghĩ mình dính vết thương chí mạng hay cần nghỉ ngơi xem xét. Tay phải anh vẫn lành lặn – ít nhất là đủ tiếp tục chiến đấu – và đó là tất cả những gì anh quan tâm trong giây phút này.

Ai đó đưa cho anh cái khiên mới. Anh đeo nó vào và cùng những người lính của mình đẩy lùi những tên lính vào những con đường rộng tỏa ra từ quảng trường.

Những tên lính nhanh chóng bị đánh bại trước sức mạnh vượt trội của quân Varden. Chúng chạy vào vô số những con đường và hẻm nhỏ tỏa ra khắp thành phố.

Roran ngừng lại cho năm mươi người lính quay lại đóng cửa thành và canh gác đề phòng có kẻ nào phát hiện họ đã ở trong lòng Aroughs. Hầu hết những tên lính trong thành phố đều canh gác ngoại thành để chống lại mũi quân bên ngoài và Roran không hứng đối mặt với họ lúc này. Làm thế khác nào tự sát.

Quân Varden chỉ gặp lại sự chống cự yếu ớt trên đường đi từ nội thành tới lâu đài nguy nga của lãnh chúa Halstead.

Trước lâu đài là một khoảng sân rộng với một hồ nhân tạo – với những con ngỗng trời và thiên nga trắng đang bơi lội. Lâu đài cao hơn phần còn lại của Aroughs. Lâu đài đẹp, tráng lệ với những mái vòm thoáng đãng, những dãy cột và ban công rộng dùng cho những bữa tiệc hay khiêu vũ. Không giống những lâu đài ở Belatona, nó được thiết kế cho việc vui chơi nghỉ ngơi đầu óc chứ không phải là phòng tuyến phòng thủ.

Chắc họ nghĩ không ai có thể vượt qua những bức tường, Roran nghĩ.

Vài bảo vệ và lính gác ở sân xông về phía Varden khi thấy họ, hò hét ầm trời.

“Giữ nguyên đội hình!” Roran ra lệnh khi những tên lính lao tới.

Trong một hai phút trong sân vang lên tiếng kim loại va chạm. NGỗng và thiên ngã kêu lên sợ hãi và đập cánh trên mặt nước nhưng không còn nào dám bay lên.

Varden không mất nhiều thời gian xử lý xong tụi lính gác. Sau đó họ lao tới cổng lâu đài, vốn được trang trí công phu với những hình vẽ trên tường và trần – cũng như những thanh gỗ trang trí, những đồ nội thất được điêu khắc cầu kỳ hay sàn nhà trang trí hoa văn – mà Roran thấy họ không thể vào một lượt. Lượng tài sản đổ vào xây dựng và bảo trì một dinh thự thế này quá lớn. Cái trang trại anh lớn lên không giá trị bằng một chiếc ghế trong sảnh lớn.

Qua cánh cổng, anh nhìn thấy ba nữ tì đang chạy dọc theo một hành lang dài khác.

“Đừng để họ trốn được!” anh hô to.

Năm kiếm sĩ tách khỏi đội ngũ Varden và lao về phía những người phụ nữ, bắt họ trước khi họ kịp rẽ vào một hành lang khác. NHững người phụ nữ thét lên và cố cào cấu mong thoát thân khi những người đàn ông lôi họ tới trước mặt Roran.

“Đủ rồi!” Roran hét vang khi họ đứng trước mặt anh và những người phụ nữ dừng chống cự dù vẫn tiếp tục kêu khóc. Người già nhất, một phụ nữ đứng tuổi gầy gò với mái tóc bạc búi rối đeo một chùm chìa khóa ở thắt lưng có vẻ là người biết điều nhất, vì thế Roran hỏi bà ta, “Lãnh chúa Halstead ở đâu?”

Người phụ nữ cứng đầu hất cằm. “Làm gì cũng được nhưng tôi không phản bội chủ nhân của mình.”

Roran tiến lên tới khi chỉ còn cách bà ta một bước. “Nghe và nghe kỹ này,” anh gầm lên. “Aroughs sẽ thất thủ và bà cũng những người khác sẽ chịu sự định đoạt của tôi. Bà không thể thay đổi điều đó. Nói cho tôi biết Halstead ở đâu và tôi sẽ để bà và những người kia đi. Bà không thể cứu lão ta nhưng có thể cứu mạng mình.” Đôi môi rách của anh sưng lên khiến chính anh cũng khó lòng hiểu rõ những từ phát ra từ miệng mình.

“Mạng sống của tôi chẳng là gì, thưa ngài,” người phụ nữ nói, nét mặt quả quyết như của một chiến binh.

Roran chửi rủa và đập búa vào khiên tạo ra một tiếng vang chát chúa trong hành lang rộng lớn. “Bà điên rồi sao? Halstead đáng để bà hy sinh mạng sống sao? Hay là Triều đình? Hay là Galbatorix?”

“Tôi không biết triều đình hay Galbatorix nhưng ngài Halstead luôn đối xử tốt với chúng tôi và tôi chưa từng thấy ông ấy cư xử tệ như ngài. Ngài bẩn thỉu và là thứ hạ đẳng không biết điều.”

“Thế sao?” Anh nhìn chằm chằm bà ta. “Bà nghĩ bà sẽ giữ miệng được bao lâu nếu tôi quyết định để lính của tôi lấy sự thật từ bà ra?”

“Không bao giờ,: bà ta tuyên bố và anh tin bà ta nói thật.

“Thế còn họ thì sao?” Anh hất hàm về những người phụ nữ còn lại, người trẻ nhất còn chưa tới mười bảy. “Bà có dám để họ bị tùng xẻo chỉ vì mạng sống của chủ nhân bà không?”

Người phụ nữ khinh miệt khịt mũi rồi nói. “Ngài Halstead ở phía đông lâu đài. Đi theo hành lang kia, Qua Hoàng Phòng và hoa viên của Phu nhân Galiana rồi chắc chắn sẽ thấy ngài ấy.”

Roran nghi ngờ lắng nghe. Sự đầu hàng của bà ta quá nhanh và dễ dàng so với sự cứng đầu lúc trước. Ngoài ra khi bà ta nói anh thấy hai người phụ nữ kia lộ vẻ ngạc nhiên và một cảm xúc gì đó anh không thể gọi tên. Bối rối? Anh tự hỏi. Nếu người phụ nữ tóc bạc kia vừa đưa chủ nhân của mình vào tay kẻ thù thì họ sẽ không thể nào phản ứng như thế. HỌ quá âm trầm, quá nhẫn nhin như thể đang che giấu điều gì.

Trong hai người, cô gái trẻ khó che giấu cảm xúc hơn vì thế Roran quay lại nhìn cô ta. “Cô, bà ta nói dối, đúng không? Halstead ở đâu? Nói!”

Cô gái mở miệng lắc đầu không nói. Cô cố lùi lại nhưng một trong những chiến binh đã giữ chặt cô ta.

Roran lao tới, ấn khiên vào ngực cô ta, ép toàn bộ không khí ra và ép cô ta kẹt cứng giữa mình và người đằng sau. Roran giơ búa chạm vào má cô ta. “Cô khá xinh đẹp, nhưng cô sẽ chỉ lấy được mấy lão già làm chồng nếu tôi đánh gẫy răng cô. Hôm nay tôi đã gẫy mất một chiếc răng và đã tự mình đặt nó vào chỗ cũ. Thấy không?” Anh nhe răng cười độc địa với cô ta. “Tôi sẽ giữ răng cô lại nhưng cô sẽ không thể làm điều tương tự đâu. Chúng là một món chiến lợi phẩm hay cho tôi đó chứ, nhỉ?” Rồi anh dọa dẫm cô bằng chiếc búa.

Cô gái khúm núm khóc. “Đừng! Làm ơn đi ngài, tôi không biết. Làm ơn! Ngài ấy ở trong phòng, đang họp bàn với các tướng lĩnh nhưng sau đó cùng Phu nhân Galiana tới kênh đào, và...”

“Đồ ngốc, Thara!” bà mệnh phụ thét.

“Ở đó có một con tàu nhưng giờ tôi không biết họ ở đâu, nhưng đừng đánh tôi, tôi không biết gì nữa, và...”

“Phòng của hắn ở đâu?” Roran hỏi cụt lủn.

Cô gái sụt sịt nói.

“Để họ đi,”” anh nói khi cô ta nói xong và ba người phụ nữ bỏ chạy, gót giày họ nện lên nền nhà bóng loáng.

Roran dẫn quân Varden qua tòa nhà rộng lớn theo sự chỉ dẫn của cô gái nhỏ. Vài người đàn ông cởi trần và phụ nữ đi ngang qua nhưng không ai có ý định chống trả. Trong lâu đài vang lên tiếng hét khiến anh chỉ muốn bịt chặt tai lại.

Họ đi qua một bức tượng rồng den lớn ngoài cửa. Roran phân vân liệu đây có phải con rồng của Galbatorix. Shruikan không. Khi đi qua bức tượng Roran nghe có tiếng tưng và có gì đó đâm vào lưng anh.

Anh ngã nhùi vào chiếc ghế đá cạnh đường.

Đau

Cơn đau bòn xương rút thịt mà anh chưa từng trải qua. Cơn đau quá lớn khiến anh sẵn sàng chặt tay miễn là nó ngừng lại. Anh cảm giác như ai đó giúi giùi khắc nung vào lưng anh.

Anh không cử động nổi...

Anh không thở nổi...

Kể cả một di chuyển nhỏ nhất cũng khiến anh đau đớn kinh hồn.

Anh tối tăm mặt mũi và nghe thấy tiếng Baldor và Delwin hét vang rồi tới Brigman và tất cả những người con lại. Nhưng anh không biết họ nói gì.

Cơn đau đột nhiên gia tăng, ai gào lên nhưng chỉ khiến đau thêm, Với một nỗ lực phi thường, anh cố nằm im. Nước mắt chảy xuống từ hai hốc mắt.

Rồi Brigman nói với anh. “Roran, anh trúng tên sau lưng. Chúng tôi cố bắt tên cung thủ nhưng hắn thoát được.”

“Đau...” Roran thở hổn hển.

“Đó là vì mũi tên trúng vào xương sườn. Lẽ ra nó có thể xuyên thủng người anh rồi. Anh may mắn vì nếu mũi tên nhích lên hoặc dịch xuống một centimet là anh đã chết rồi.”

“Rút tên ra,” anh nghiến răng nói.

“Không thể, mũi tên có ngạnh. Và chúng tôi không thể đẩy ra nó ra. PHải cắt thôi. Tôi có chút kinh nghiệm, Roran. Nếu anh tin tôi tôi sẽ làm ngay. Hoặc không, anh có thể đợi tới khi chúng ta tìm được thầy lang. Chắc phải có một hai người trong lâu đài này.”

Dù anh không muốn đặt mạng mình vào tay Brigman nhưng Roran không thể chịu đau hơn nữa, vì thế anh nói. “Làm ngay đi...Baldor...”

“Gì hả Roran?”

“Đưa năm mươi người đi tìm Halstead. Dù thế nào cũng không được để hắn trốn thoát. Delwin... ở lại với tôi.”

Baldor, Delwin và Brigman trao đổi vài câu nhưng Roran chỉ nghe được vài từ ngắt quãng. Sau đó phần lớn quân Varden rời đi khiến không gian im ắng hơn.

Theo lệnh của Brigman, một đội chiến binh mang vài chiếc ghế từ phòng gần đó tới, chẻ nó ra và nhóm lửa cạnh bức tượng. Trên ngọn lửa là mũi dao mà Roran biết Brigman sẽ dùng để đốt khử trùng vết thương trên lưng trước khi lấy mũi tên.

Khi nằm trên ghế thở dốc và run rẩy, Roran cố gắn kiểm soát nhịp thở, cố gắng thở từ từ và thật sâu để giảm bớt cơn đau. Anh cố không nghĩ những điều khác. Chuyện gì xảy ra và sẽ xảy ra cũng được, giờ anh chỉ biết thở nhịp nhàng.

Anh gần như ngất đi khi bốn người lính nâng anh lên khỏi ghế băng và đặt anh nằm sấp xuống đất. Ai đó nhét găng tay da vào miệng anh khiến môi anh đau hơn, cùng lúc đó những bàn tay thô ráp nắm chặt lấy chân và tay anh, giang rộng nó ra hết mức có thể.

Roran liếc nhìn Brigman đang quỳ bên cạnh, tay cầm một con dao cong. Con dao bắt đầu hạ xuống, Roran nhắm mắt và cắn chặt chiếc găng tay.

Anh hít vào.

Thở ra,

Lúc đó thời gian và ký ức rời bỏ anh.

CHUYỂN GIAO QUYỀN LỰC

Roran ngồi gập mình trên cạnh bàn, mắt nhìn vẩn vơ vào cái ly khảm đá quý trên tay.

Đêm đã xuống, ánh sáng duy nhất trong phòng ngủ xa hoa này là từ hai ngọn nên trên bàn và lò sưởi cạnh giường. Không gian im lặng chỉ trừ có đôi khi có tiếng củi lách tách cháy.

Một cơn gió thoang thoảng mùi nước biển thổi qua cửa sổ làm tấm rèm trắng khẽ lay động. Anh quay mặt đón gió, cảm nhận sự mát lành lên làn da hâm hấp sốt.

Anh có thể nhìn thấy Aroughs trải dài qua khung cửa sổ. Những đốm lửa tháp canh điểm xuyết đâu đó trên những con đường nhưng hầu như thành phố yên tĩnh chìm trong đêm tối – không bình thường vì mọi người đều đang trốn trong nhà.

Khi không còn gió, anh uống thêm một ngụm rượu, trực tiếp đổ thẳng xuống họng. Một giọt rượu chảy xuống môi dưới và anh căn người hít thở trong khi đợi cơn đau nguôi dần.

Anh đặt ly rượu lên bàn, cạnh đĩa bánh mỳ và thịt cừu và chai rượu cạn nửa, sau đó liếc nhìn gương đặt ngay trên hai ngọn nến. Trên đó phản chiếu gương mặt hốc hác, thâm tím, dính đầy máu me và bộ râu cháy xém góc bên phải.

Anh nhìn đi. Cô ấy sẽ liên lạc với anh khi cần. Trong lúc đó anh phải đợi. Anh chỉ có thể làm thế; cơn đau quá lớn khiến anh không thể nào ngủ nổi.

Anh cầm ly rượu lên và xoay trong bàn tay.

Thời gian từ từ trôi

***

Đêm hôm đó, mặt gương tỏa ra ánh sáng mờ áo như một mặt hồ bạc gợn sóng khiến Roran chớp mắt nhìn bằng đôi mắt sưng phù.

Sau đó khuôn mặt trái xoan của Nasuada xuất hiện, vẻ mặt nghiêm trọng hơn bao giờ hết. “Roran,” cô chào hỏi, giọng rõ ràng và mạnh mẽ.

“Thưa tiểu thư Nasuada.” Anh ngồi thẳng trên bàn chỉ cách đó vài centimet.

“Anh bị bắt à?”

“Không.”

“Vậy thì Carn hoặc chết hoặc bị thương.”

“Anh ấy hy sinh trong khí chiến đấu với một pháp sư khác.”

“Tôi rất tiếc... anh ấy là một người lịch sự và chúng ta không thể nào chịu đựng sự tổn thất khi một pháp sư nữa ra đi.” Cô ngừng lại. “Aroughs sao rồi.”

“Giờ Aroughs là của chúng ta.”

Nasuada nhướn mày. “Thât không? Tôi ấn tượng đó. Nói xem trận chiến diễn ra thế nào? Mọi chuyện theo đúng kế hoạch không?”

Anh há miệng một chút để nói chuyện không làm anh quá khó chịu và thuật lại chuyện xảy ra trong vài ngày qua, từ khi anh tới Aroughs, chuyện gã một mắt tấn công anh trong doanh trại, chuyện phá đập ở khu xay sát để Varden đâm thủng hàng phòng thủ vào Aroughs, hành trình tiến vào lâu đài của Lãnh chúa Halstead và kể cả vụ đối đâu giữa Carn và tên pháp sư địch.

Sau đó Roran tóm tắt vụ anh bị bắn vào lưng và việc Brigman cắt mũi tên cho anh. “May là ông ấy ở đó không tôi sẽ nằm vô dụng cho tới khi tìm ra một thầy thuốc.” Anh co rúm người và tỏng một giây, những ký ức về cơn đau hiện về rõ ràng hơn trong tâm tưởng anh, một lần nữa anh cảm nhận được sức nóng của kim loại trên da thịt mình.

“Tôi hy vọng anh đã tìm được một thầy thuốc.”

“Vâng, sau đó nhưng ông ta không phải pháp sư.”

Nasuada ngả người trên ghế và nhìn anh trong một lúc. “Tôi ngạc nhiên vì anh còn khả năng nói chuyện. Quả thật con người Carvahall được nung luyện trong sắt thép.”

“Sau đó chúng tôi chiếm lâu đài cũng như phần còn lại của Aroughs dù còn nhiều nơi chúng tôi chưa hoàn toàn kiểm soát được tình hình. Chuyện thuyết phục binh lính đầu hàng khá dễ dàng một khi họ biết chúng tôi đã vượt qua phòng tuyến của họ và nắm giữ được khu trung tâm.”

“Lãnh chúa Halstead thì sao? Các anh có bắt được ông ta không?”

“Hắn định trốn khỏi lâu đài khi một vài người của chúng tôi bắt gặp. Halstead chỉ mang theo một lượng nhỏ quân lính không đủ để cầm cự với quân ta vì thế hắn và bọn tùy tùng đã chạy vào một hầm rượu và cố thủ trong đó...” Roran xoa ngón cái lên cái ly trước mặt. “Họ không chịu đầu hàng, và tôi không dám xông vài; có thể cái giá phải trả sẽ rất đắt... Vì thế... tôi ra lệnh cho binh sĩ lấy thùng dầu trong bếp đốt và ném vào cửa hầm.”

“ Anh định hun họ?” Nasuada hỏi.

Anh từ tốn gật đầu. “Vài tên lính chạy ra khi cánh cửa bị đốt cháy nhưng Halstead rất cứng đầu. Khi chúng tôi vào thì lão đã chết ngạt.”

“Thật không may.”

“Và còn có con gái hắn, Tiểu thư Galiana.” Anh vẫn còn nhớ rõ mồn một khuôn mặt cô gái đó: nhỏ nhắn, xinh xắn mặc bộ váy màu hoa oải hương với những đường đăng ten và nơ.

Nasuada nhíu mày. “Ai sẽ kế tục Halstead làm bá tước vùng Fenmark?”

“Tharos Tốc Độ.”

“Là người đã dẫn binh tấn công anh ngày hôm qua đó hả?”

“Người đó đó.”

Vào tầm giữa chiều binh lính giải Tharos tới trước mặt anh. Người đàn ông nhỏ thó râu ria xồm xoàm bị choáng váng nhưng không có thương tích gì và hắn ta không đội chiếc mũ trụ khoa trương lần trước. Roran đang nằm sấp trên ghế vì vết thương trên lưng nói với hắn “ Tôi tin rằng anh nợ tôi một bình rượu.”

“Sao anh có thể làm được chuyện này?” Tharos thắc mắc, sự tuyệt vọng khiến giọng nói hắn run run. “Thành phố này bất khả xâm phạm. Trừ rồng ra không một sinh vật nào có thể bẻ gẫy hàng phòng thủ của chúng tôi. Hơn nữa nhìn anh xem. Trông anh cũng chỉ như những con người bình thường hơn là...” Sau đó hắn im lặng không nói gì nữa.

“Hắn phản ứng sao trước cái chết của bố và chị gái?” Nasuada hỏi.

Roran gục đầu vào tay. Lông mày anh rịn mồ hôi và anh dùng tay áo quệt nó đi. Anh đang run. Dù đang túa mồ hôi nhưng anh lạnh toàn thân, đặc biệt ở tay và chân. “Hắn có vẻ không quan tâm tới cha hắn lắm. Nhưng đối với chị gái thì...” Roran nhăn mặt khi nhớ lại vẻ đau khổ của Tharos khi biết Galiana đã chết.

“Nếu có cơ hội tôi nhất định sẽ báo thù,” Tharos đã nói. “Tôi thề.”

“Vậy thì làm nhanh đi,” Roran đáp lại. “Một người khác đã đòi lấy mạng tôi và nếu có ai định giết tôi thì đó sẽ là cô ta.”

“...Roran?... Roran?”

Anh ngạc nhiên khi nghe Nasuada gọi tên mình. Anh nhìn cô lần nữa, hình ảnh cô trong gương trông như một bức chân dung. Anh cố cất tiếng. “Tharos không hẳn là bá tước vùng Fenmark. Anh ta là người trẻ nhất trong số bảy người con trai của Halstead nhưng những người kia đều đã chạy trốn. Vì thế trong thời gian gấp rút, Tharos là người duy nhất phù hợp với danh hiệu này. Anh ấy đã làm tốt vai trò công sứ trong lần nói chuyện này của chúng ta với các nguyên lão của thành phố. Nhưng vì không có Carn nên tôi không thể biết ai đã thề trung thành với Galbatorix và ai không. Tôi đoán là hầu hết các lãnh chúa và phu nhân, tất nhiên là cả binh lính nữa nhưng tôi chưa biết ai vào ai.”

Nasuada cắn môi. “Tôi hiểu... Thành phố Dauth là gần với anh nhất. Tôi sẽ nhờ tiểu thư Alarice – tôi tin là anh đã có dịp gặp mặt – cho người nào biết đọc tư tưởng tới Aroughs. Hầu hết các quý tộc đều có một người như vậy vì thế chắc chắn Alarice có thể giúp chúng ta. Nhưng khi chúng ta tới Cánh Đồng Cháy, Vua Orrin đã mang theo tất cả những pháp sư của Surda vì thế dù Alarice gửi ai tới thì người đó cũng chỉ có khả năng đọc suy nghĩ thôi. Và không có những câu thần chú thích hợp thì chúng ta không thể nào tránh được chuyện những kẻ trung thành với Galbatorix đâm sau lưng.”

Trong khi nghe cô nói, Roran nhìn khắp bàn. Không biết Tharos có bỏ thuốc độc không? Nhưng ý nghĩ đó không khiến anh lo lắng.

Sau đó Nasuada nói tiếp. “... hy vọng rằng anh sẽ biết cách quản lý binh lính và không để họ chạy lung tung trong Aroughs, đốt phá hay hại người.”

Roran úa mệt đến mức không muốn đáp lại nhưng cuối cùng anh cũng cất tiếng, “Chúng tôi có quá ít người. Họ cũng như tôi đều rõ rằng những binh lính ngoài kia có thể đoạt lại thành phố nếu chúng tôi cho họ một cơ hội cực nhỏ.”

“Tôi nghĩ họ cần có rất nhiều may mắn... “Có bao nhiêu người chết?”

“Bốn mươi hai.”

Trong một chốc sự im lặng kéo dài. Sau đó Nasuada nói. “Carn có gia đình không?”

Roran nhún vai. “Tôi không biết.Anh ấy tới từ miền nam nhưng chúng tôi không nói chuyện về cuộc sống riêng tư... trước khi anh ấy hy sinh... ĐỐi với chúng tôi chưa bao giờ chuyện gia đình nhà cửa của nhau là mối quan tâm cả.”

Roran đột nhiên thấy ngứa cổ khiến anh ho húng hắng mãi. Anh co người lại tới khi trán đập vào bàn, người đau lên vì vết thương trên vai, lưng và miệng. Cơn đau quá kinh khủng, anh run người khiến rượu đổ ra tay anh.

Sau đó khi phục hồi được anh nghe Nasuada nói. “Roran, anh cần tìm thầy thuốc. Anh không khỏe và anh nên đi nghỉ đi.”

“Không.” Anh lau nước bọt trên mép vài nhìn cô.. “Họ đã làm mọi điều có thể và tôi không phải một đứa bé không thể chịu đau.”

Nasuada chần chừ và cúi đầu. “Thôi tùy anh vậy.”

“Giờ thì sao?” anh hỏi. “Tôi xong việc ở đây chưa?”

“Tôi định cho anh trở lại ngay khi chúng ta chiếm được Aroughs –giờ tình hình rất phức tạp – nhưng với tình trạng này anh không thể đi nổi tới Dras – Leona. Anh phải đợi tới khi...”

“Tôi sẽ không đợi,” Roran hét lên. Anh nắm gương và lôi về phía mình tới khi nó chỉ cách mặt anh vài centimet. “Đừng đùa tôi, Nasuada. Tôi đi được và tôi sẽ đi nhanh. Lý do duy nhất tôi tới đây là vì Aroughs là mối nguy với Varden. Giờ nguy hiểm đã không còn, tôi sẽ không ở lại dù có bị thương hay không, trong khi vợ và con tôi chỉ cách Murtagh và con rồng của hắn có vài dặm!”

Lúc đó giọng Nasuada trở nên nghiêm khắc. “Anh tới Aroughs vì tôi cử anh tới.” Sau đó bằng giọng nhẹ nhàng hơn, cô nói. “Nhưng anh đã làm xong nhiệm vụ. Anh có thể về ngay lập tức nếu có thể. Giờ anh không phải đi ngựa cả ngày lẫn đêm nữa. Hãy nghĩ kỹ đi. Tôi không muốn phải giải thích với Katrina rằng anh giết chết mình trên đường trở về... Anh nghĩ sẽ để ai thay anh chỉ huy khi anh rời Aroughs?”

“Tướng Brigman.”

“Brigman? Vì sao? Không phải anh và ông ta có xung đột à?”

“Ông ta đã giúp tôi chỉ huy binh lính khi tôi bị thương. LÚc đó đầu óc tôi không minh mẫn...”

“Tôi hiểu.”

“...và ông ấy đã giúp quân lính không lo lắng hay hoảng loạn. Vả lại lúc này ông ấy đang thay tôi chỉ huy quân lính trong khi tôi kẹt trỏng cái hộp nhạc kinh khủng này. Ông ấy là người duy nhất có kinh nghiệm. Không có ông ta chúng tôi không thể nào kiểm soát toàn bộ Aroughs. Binh lính quý mến ông ta và ông ta có tài quảng lý và sắp xếp. Ông ấy sẽ làm tốt việc ở thành phố này thôi.”

“Được rồi, vậy thì là Brigman.” Nasuada nhìn ra khỏi gương và nói gì đó với một người anh không thấy mặt. Cô quay lại nói, “Tôi phải thừa nhận rằng tôi chưa bao giờ nghĩ anh có khả năng chiếm Aroughs. Dường như không ai có thể phá vỡ hàng phòng thủ trong thời gian ngắn tới vậy, với quân lực quá ít ỏi lại không có sự trợ giúp của Kỵ sĩ và rồng.”

“Vậy sao cô cử tôi tới?”

“Vì tôi phải thử làm gì đó trước khi để Eragon và Saphira bay tới đó và vì anh luôn tạo ra được bất ngờ và làm được những việc khiến người khác đầu hàng hoặc bỏ cuộc. Cho dù gặp hoàn cảnh bất khả thi anh vẫn có thể xoay chuyện nó, và quả thật vậy.”

Roran khụt khịt mũi. Liệu mình sẽ được phỉnh mũi bao lâu trước khi chết như Carn?

“Cứ chế nhạo đi nhưng anh không thể từ chối thắng lợi của bản thân. Anh đã giành một chiến thắng vĩ đại cho chúng ta, Cây Búa Dũng Mãnh. Đúng hơn là Tướng quân Cây Búa Dũng Mãnh. Anh quá xứng với danh hiệu này. Tôi vô cùng biết ơn những gì anh đã làm. Với việc chiếm Aroughs anh đã giúp chúng tôi giảm bớt nỗi lo phải chiến đấu ở hai chiến trường, đồng nghĩa với ngày tàn của chúng ta. Tất cả Varden nợ anh, và tôi hứa với anh, chúng tôi sẽ không bao giờ quên những hy sinh của anh và những binh lính kia.”

Roran định nói gì đó nhưng không cất lời nổi. Anh thử lại và phải mất thêm lần nữa mới nói nổi: “Tôi...tôi sẽ truyền tải lời nói của cô cho mọi người. Nó rất có ý nghĩa với họ.”

“Vâng xin làm ơn. Và giờ tôi phải tạm biệt anh thôi. Muộn rồi, anh lại đang ốm và tôi đã bắt anh nói chuyện lâu thế này.”

“Đợi đã...” Anh vươn tay ra và chạm đầu ngón tay vào gương. “Đợi đã. Cô chưa nói với tôi: TÌnh hình chiến trường Dras – Leona ra sao?”

Cô nhìn anh không biểu hiện gì. “Tệ lắm. Không có dấu hiệu tiến triển. Chúng tôi sẽ có đất cho anh dụng võ ở đây, Cây Búa Dũng MÃnh. Nếu chúng tôi không tìm được cánh kết thúc trận chiến nhanh, chúng ta sẽ mất tất cả.”

THARDSVERGÛNDNZMAL

“Em vẫn khỏe,” Eragon điên tiết nói. “Đừng lo lắng. Em không làm được gì thêm đâu.”

Saphira rống lên và tiếp tục nhìn bóng mình trong hồ. Cô nàng lắc đầu rồi nặng nề thở ra một cuộn khói trắng bay vẩn vơ trên mặt hồ như một đám mây dông lạc lõng.

“Anh chắc không?” cô nàng hỏi và nhìn về phía nó. Nếu nó không mọc lại thì sao?

“Rồng lúc nào chẳng mọc vẩy mới. Em biết mà.”

Vâng nhưng em chưa bao giờ mất cái vẩy nào.

Nó không thèm giấu nụ cười; nó biết cô em nó cảm nhận được sự vui vẻ của mình. “Em không nên buồn thế. Có gì to tát đâu.” Nó vươn tay sờ vào lỗ hổng hình kim cương treencanhs mũi bên phải cô nàng. Lỗ hổng đó không lớn hơn đầu ngón tay cái nó là mấy và sâu khoảng 2cm. Qua lổ hổng nó có thể nhìn thấy rõ làn da màu xanh lơ của cô em.

Nó tò mò sờ lên làn da cô rồng bằng đầu ngón trở. Da ấm và trơn nhẵn như bụng bê.

Saphira thở phì phò và quay đầu đi. Dừng lại. Buồn lắm.

Nó ngồi xuống dùng chân té nước và cảm nhận làn nước bằng chân trần.

Có thể không lớn, cô nàng nói, nhưng ai cũng nhìn thấy. Sao họ không thể thấy cơ chứ? Trông nó như một vùng đất trống trên ngọn núi phủ trắng tuyết vậy.

Eragon cười lớn và té nước vào người cô nàng. Sau đó để xoa dịu lòng tự trọng bị tổn thương, nó nói. “không ai để ý đâu Saphira. Tin anh đi. Hơn nữa nếu họ có để ý đi chăng nữa, họ sẽ nghĩ đó là một vết thương do đánh nhau và có khi còn nghĩ em đáng sợ hơn.”

Anh nghĩ thế? Cô bé quay lại ngắm mình thêm lần nữa. Nước và vảy trên người cô rồng phản chiếu lẫn nhau trong sắc cầu vồng. NẾu như một tên lính đâm vào chỗ đó thì sao? Lưỡi kiếm sẽ xuyên qua em mất. Có lẽ em nên nhờ người lùn làm cho em một cái đĩa kim loại để cho chỗ đó lại cho tới khi mọc vẩy mới.

“Trông kỳ lắm.”

THế à?

“Ừm” Nó gật đầu và cười tiếp.

Cô nàng hừ mũi. Đừng có cười em. Nếu anh mất một mảng tóc trên đầu hay mất mấy cái bướu nhỏ ngu ngốc anh gọi là răng, anh sẽ thấy sao hả? Lúc đó sẽ đến lượt em cười anh thôi.

“Chắc chắn rồi,” nó dễ dàng đồng ý. “Nhưng mà, răng không mọc lại.” Nó đẩy mình đứng dậy và bước tới bờ sông chỗ nó để giày. Nó cẩn trọng đi trên đá. Saphira đi theo khiến mặt đất rung thình thình.

Anh có thể phù phép bảo vệ chỗ đó, cô em nó cất tiếng khi nó đi giày vào.

“Anh làm được. Em muốn không?”

Có chứ.

Họ lẩm nhẩm thần chú trong đầu trong khi buộc dây giày và đặt tay phải lên vào cánh mũi cô em và đọc vài từ cần thiết. Một màu xanh da trời bàng bạc sán lên dưới tay nó khi nó tạo lá chắn cho cô em.

“Xong,” nó nói khi xong việc. “GIờ em không phải lo lắng nữa nhé.”

Trừ việc em mất một cái vảy.

Nó đẩy nhẹ hàm cô em. “Thôi nào. Chúng ta về doanh trại đi.”

Họ cùng nhau rời hồ và leo lên con đê thoai thoải đằng sau, Eragon dùng một rễ cây lớn làm gậy chống.

Họ thấy toàn cảnh doanh trại Varden cách đó nửa dặm về phía đông, và ở phía bắc doanh trại là Dras – Leona. Dấu hiệu sống duy nhất trong thành phố là khói bốc lên từ các mái nhà. Như thường lệ, Thorna nằm bành trướng trên bức tường thành cổng nam, tắm mình trong ánh trời chiều. Con rồng đỏ có vẻ ngủ nhưng Eragon biết rằng nó vẫn quan sát Varden và ngay khi có ai tiếp cận thành phố nó sẽ vuonw mình và báo nguy cho Murtagh và những người trong thành phố.

Eragon nhảy lên lưng Saphira và cô nàng chở nó về trại bằng tốc độ khá lý tưởng.

Khi tới nơi, nó trượt xuống mặt đất và đi đầu di chuyển giữa các dãy lều. Doanh trại yên ắng, mọi thứ dường như trôi qua chậm chạp và buồn ngủ. Trong không khí vang lên tiếng nói chuyện chậm rãi nho nhỏ của các chiên binh và cờ xí bất động vì không có gió. Những sinh vật duy nhất miễn dịch với cảnh tẻ ngắt này là lũ chó hoang đang bới tìm thức ăn trong đống rác thải. Trên đầu chúng chi chít những vết cào xước, hậu quả do vô tình nghĩ có thể trêu đùa với những ma mèo mắt xanh như những con mèo nhà. Khi chuyện đó xảy ra, tiếng ăng ẳng đau đớn của chúng thu hút sự chú ý của cả trại và mọi người bật cười nhìn những con chó cụp đuôi chạy trốn khỏi những ma mèo.

Eragon biets nó và Saphira khiến người ta chú ý nhiều thế nào. Nó ngẩng cao đầu, vai mở rộng và sải chân hùng dũng. MỌi người cần thấy nó tràn đầy tự tin và rằng nó không bị ảnh hưởng bởi sự buồn tẻ trong doanh trại.

Giá mà Murtagh và Thorn bỏ đi nhỉ,Eragon nghĩ. Chúng chỉ cần bỏ đi một ngày là chúng ta sẽ chiếm được thành phố.

Tới giờ cục diện chiến trường Dras – Leona chưa có thêm thay đổi gì. Nasuada không chịu tấn công, cô đã giải thích với nó, “Có thể anh đã chiến thắng Murtagh trong lần đụng độ trước – nhưng cậu quên anh ta đã đâm vào hông cậu thế nào? – và hắn đã thề hắn sẽ mạnh lên trong lần đụng độ tới giữa hai người. Murtagh có thể là nhiều thứ nhưng tôi không tin hắn là một kẻ nói dóc.”

“Giữa hai pháp sư thì sức mạnh không phải là tất cả,” Eragon đã từng chỉ ra.

“Không, nhưng sức manh không phải không quan trọng. Hơn nữa hắn lại được các thầy tu Helgrind hỗ trợ, tôi nghi ngờ trong đó phải có vài pháp sư. Tôi không thể để anh đối mặt với họ và Murtagh trên chiến trường kể cả có các pháp sư của Blödhgarm. Từ giờ tới khi chúng ta lừa Murtagh và Thorn đi chỗ khác hoặc có được lợi thế trước họ, chúng ta sẽ ở đây không tấn công Dras – Leona.”

Eragon đã phản đối, đã nói rằng họ không thể không tấn công và rằng nếu nó không thể đánh bại Murtagh thì làm sao cô ta có thể hy vọng nó hạ bệ Galbatorix? Nhưng Nasuada vẫn không may may suy chuyển.

Họ - cùng với Arya, Blödhgarm và tất cả các pháp sư của Du Vrangr Gata – đã lên kế hoạch và tìm cách để giành lợi thế. Nhưng mọi kế hoạch đều có điểm yếu vì chúng đòi hỏi thời gian và nguồn lực hơn mức quân Varden có và vì họ không thể nào giải quyết được câu hỏi nên giết, bắt hay đánh đuổi Murtagh và Thorn.

Nasuada thậm chí đã tới hỏi Elva rằng con bé có thể dùng năng lực của mình – cho phép nó cảm nhận nỗi đau hiện tại cũng như tương lai của một con người – để hạ gục Murtagh hoặc để lén lút vào thành phố. Cô bé lông mày bạc đã cười vào Nasuada và chế giễu, thóa mạ đuổi cô đi. “Tôi không nợ cô hay bất kỳ ai, Nasuada. Tìm đứa trẻ khác mà nhờ. Tôi không làm.”

Và thế là, quân Varden phải đợi.

Ngày qua ngày, Eragon đã quan sát mọi người càng lúc càng rệu rã và chán nản, Nasuada càng lúc càng lo lắng. Eragon đã học được rằng một đội quân đói rã họng sẽ chết sớm và chia thành nhiều nhóm nhỏ trừ khi họ được cung cấp đầy đủ thức ăn. Khi tới một lãnh địa mới, nguồn cung cấp đơn giản nhất chính là thức ăn và những thứ thiết yếu khác từ khu nông thôn. Như dịch châu chấu, Varden đã để lại những mảnh đất trơ gốc rạ, lấy đi toàn bộ những thứ họ cần cho cuộc sống.

Một khi ngừng lại, họ sẽ nhanh chóng dùng hết nguồn lương thực dự trữ và buộc phải nhờ vào viện trợ lương thực từ Surda và những thành phố họ đã chiếm đóng được. Dù dân Surda có hào phóng thế nào thì cũng không thể nuôi Varden lâu hơn nữa.

Dù Eragon biết những chiến binh chiến đấu rất quả cam, nhưng khi đối dineej với cái chết đói từ từ dai dẳng chẳng để lại gì ngoài cho Galbatorix sự hả hê, hầu hết mọi người sẽ chọn đào ngũ sống bình yên tại một vùng đất xa xôi nào đó của Alagaësia tránh xa Triều đình tới hết đời.

THời khắc đó chưa đến nhưng cũng sắp tới rồi.

Eragon biết sự sợ hãi định mệnh đó sẽ khiến Nasuada thức trắng đêm vì thế mỗi sáng trông cô càng thêm tiều tụy, quầng thâm càng lớn.

Khó khăn họ gặp phải tại Dras – Leona khiến Eragon mừng vì Roran đã tới Aroughs chiến đấu và chiến thắng tại thành phố phía nam này. Anh ấy dũng cảm hơn mình. Nasuada không đồng tình nhưng Eragon quyết một khi Roran quay lại – nếu đúng ra thì chỉ trong vài ngày nữa – Eragon sẽ lập lá chắn hoàn toàn cho anh. Eragon đã mất quá nhiều người thân vì triều đình và Galbatorix và nó không muốn mất nốt Roran.

Nó dừng lại khi ba người lùn đang mải cãi cọ đi ngang qua. Người lùn không đội mũ trụ hay đeo huy hiệu nhưng nó biết họ không thuộc tộc Dûrgrimst Ingeitum vì họ tết râu với hột cườm – kiểu thời trang nó không bao giờ thấy ở một Ingeitum. Dù người lùn có nói chuyện gì thì nó cũng chằng hiểu – nó chỉ biết vài từ trong ngôn ngữ người lùn – nhưng chủ đề kia rõ ràng là rất quan trọng vì họ nói lớn, điệu bộ căng thẳng, biểu hiện thiếu kiềm chế và không hề để ý tới nó hay Saphira đang đứng bên đường.

Eragon mỉm cười khi họ đi qua; dù họ rất nghiêm túc nhưng nó vẫn thấy buồn cười làm sao ấy. Varden đã nhẹ nhõm đi nhiều khi vua người lùn mới Orik đã dẫn đoàn quân tới Dras – Leona hai ngày trước. Và chiến thắng của Roran ở Aroughs cùng với sự kiện này trở thành đề tài bàn tán chủ yếu trong doanh trại. Số lượng người lùn đã nhân đôi lực lượng đông minh Varden và tăng cơ hội Varden sẽ tới được Urû’baen và đánh bại Galbatorix nếu tìm được cách qua mặt Murtagh và Thorn.

Khi Nó và Saphira đi qua doanh trại, Eragon nhìn thấy Katrina ngồi ngoài lều đan quần áo cho đứa con sắp chào đời. Chị giơ tay vẫy nó và gọi. “Em họ!”

Nó vui vẻ đáo lại. Chuyện chào hỏi giữa họ đã trở thành thói quen từ khi chị và anh họ nó kết hôn.

Sau khi cả nó và Saphira đã ăn uống no say – chủ yếu là Saphira – chúng nghỉ ngơi trên một mảng đất mềm chan hòa ánh nắng cạnh lều Eragon. Theo lệnh của Nasuada, khu đất đó để trống cho Saphira sử dụng, và quân Varden cũng vui vẻ thôi.

Saphira nằm cuộn tròn tắm nắng trong khi Eragon lôi cuốn Domia Wyrda từ túi yên cương ra và ngồi dựa vào hốc giữa cổ và chân trước cô nàng. Ánh sáng chiếu vào cánh và lớp vảy lấp lánh, sơn lên đó một thứ màu tím huyết dụ kỳ lạ. Ánh sáng nhảy nhót tạo nên những hình thù lấp lánh khiến nó khó đọc nổi những con chữ run vuông chằn chặn. Nhưng nó không phiền; được ngồi cạnh saphira có thể đánh tan mọi sự bất tiện.

Chúng ngồi cùng nhau một hai tiếng đồng hồ gì đó tới khi Saphira tiêu hóa xong bữa ăn còn Eragon mệt mỏi vì phải dịch những câu nói phức tạp của Thầy tu Heslant. Sau đó vì chán, chúng đi lang thang khắp doanh trại, xem xét hàng phòng thủ và thi thoảng nói chuyện với những lính gác ở vòng ngoài.

Gần phía đông doạnh trại, nơi một toán người lùn đang đứng, họ gặp một ngườn lùn đang ngồi chồm hổm cạnh một xô nước, tay áo sắn tới khuỷu, nặn một quả bóng đất bằng cỡ nắm đấm. Dưới chân anh ta và bùn và cái que để quấy bùn.

Cảnh tưởng quá không hợp lý nên phải vài phút sau Eragon mới dám nhận đó là Orik.

““Derûndânn, Eragon... Saphira,” Orik không nhìn lên mà nói.

““Derûndânn,” Eragon nói nhắc lại từ chào hỏi bằng ngôn ngữ người lùn và ngồn xuống bên cạnh. Nó quan sát Orik tiếp tục nặn quả bóng. Orik thường xuyên nắm lấy một nắm đất rồi từ từ bồi thêm vào quả bóng.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ thấy một vua người lùn ngồi lê dưới đất nghịch đất như trẻ con,” Eragon nói.

Orik thở phì phì, thổi tung râu lên. “Tôi cũng không bao giờ nghĩ một kỵ sĩ và rồng lại nhìn tôi chằm chằm khi tôi đang làm một Erôthknurl.”

“Erôthknurl là gì?”

“Là thardsvergûndnzmal.”

“Một thardsver—?” Eragon bỏ cuộc khi nói được nửa từ vì không thể nhớ nổi chứ đừng nói là phát âm. “Và nó là...”

“Một thứ có vẻ giống thứ khác hơn bản thân nó.” Orik giơ quả banh đất lên. “Như thế này. Đây là viên đá hình thành từ đất. Hay đúng hơn, tý nữa nó sẽ là thế.”

“Viên đá hình thành từ đất... Phép thuật à?”

“Không, chỉ là kỹ năng khai khoáng thôi. Chẳng có gì hơn.”

Khi Orik không giải thích thêm, Eragon hỏi. “Làm thế nào?”

“Nếu anh kiên nhẫn, anh sẽ hiểu.” Rồi, sau một chặp, Orik dịu giọng nói. “Đầu tiên anh phải tìm ít đất.”

“Nhiệm vụ khó đấy,”

Orik ngước lên nhìn qua hàng lông mày rậm rạp. “Vài loại đất tốt hơn những loại khác. Ví dụ, chúng ta không thể dùng cát. Đất phải chứa nhiều hạt khoáng khác nhau mới kết dính được. Ngoài ra trong đất phải lẫn sét. Nhưng quan trọng nhất, nếu tôi làm thế này” – và anh ta vỗ tay vào đất xung quanh – “sẽ có nhiều bụi lẫn trong dất. Thấy không?” Anh ta giơ tay cho Eragon xém lớp bụi bám trong lòng bàn tay.

“Sao lại quan trọng thế?”

“À,” Orik xoa mũi, để lại ít nhọ trên mũi. Anh ta tiếp tục nặn quả banh thành hình tròn hoàn hảo. “Một khi có đất tốt, anh làm ướt nó và trộn như trộn bột mỳ với nước cho tới khi được một ít bùn tốt, đặc.” Anh ta hất đầu về đống bùn nhão dưới chân. “Từ bùn, cậu nặn quả banh, như thế này này. Sau đó cậu bóp chặt hết mức có thể. Thế là một có một quả banh tròn hoàn hảo. TỚi khi nó hơi dính, cậu làm theo tôi: cho thêm chút đất để hút bớt ẩm từ bên trong. Cậu tiếp tục làm cho tới khi quả banh khô nhưng vẫn giữ được hình dạng và không vỡ ra.”

“Như vậy chúng ta sắp có được khoáng thạch Erôthknurl. Sau đó tôi sẽ để nó dưới ánh mặt trời. ÁNh sáng và hơi nóng sẽ giúp lấy hết nước từ bên trong; sau đó tôi lại đắp đất lên và lại nặn tròn nó lại. Sau ba hay bốn lần, bề ngoài khoáng thạch Erôthknurl sẽ cứng như da Nagra.”

“Vậy là làm tất cả chỉ để có một quả banh bùn khô à?” Eragon bối rối hỏi. Saphira cũng có cảm giác tương tự.

Orik lại bốc thêm một nắm đất. “Không, vì thế chưa xong. Tiếp theo chúng ta sẽ dùng tới bụi. Tôi lấy bụi trát bên ngoài Erôthknurl để có lớp ngoài mỏng và trơn láng. Sau đó tôi để quá banh đó cho không khí ẩm tiếp xúc rồi cho thêm bụi, rồi đợi, cứ thế.”

“Trong bao lâu”

Tới khi bụi không bám nổi vào Erôthknurl nữa. Lớp vỏ sẽ khiến Erôthknurl đẹp hơn. Sau khoảng một ngày, nó sẽ sáng lấp lánh như thể đá hoa cương. Không cần cần nghiền, không cần gia công, không dùng pháp thuật – chỉ dùng trái tim, khối óc và đôi bàn tay – cậu sẽ có một viên đá từ đất... một viên đá dễ vỡ nhưng dù sao cũng là đá.”

Dù Orik nhắc đi nhắc lại nhưng Eragon vẫn khó tin rồi bùn dưới chân cậu có thể tạo được một thứ gì giống như Orik nói mà không cần tới phép thuật.

Nhưng vì sao người lại làm cái này hả vua người lùn? Saphira hỏi. Người có nhiều trọng trách vì giờ người là đấng trị vì cơ mà.

Orik càu nhàu. “Tôi không cần làm gì vào lúc này. Những người của tôi đã sẵn sàng chiến đấu và sẽ không tốt cho họ nếu tôi cứ toang toác bên họ như gà mẹ. Tôi cũng không muốn ngồi một mình trong lều xem râu mọc... đây là Erôthknurl.”

Anh ta lại im lặng nhưng Eragon thấy hình như Orik phiền lòng vì điều khác nên nó im miệng đợi xem Orik muốn nói gì. Sau một phút, Orik húng hắng nói, “Tôi từng uống rượu chơi xúc xắc với những người khác trong bộ tộc cho dù tôi có là truyền nhân của vua Hrothgar. Chúng tôi có thể cùng nhau nói chuyện và cười đùa thoải mái. Tôi không phải xin ai giúp đỡ và cũng không ai nhờ vả tôi. Nhưng giờ mọi sự đã khác. Bạn bè tôi không thể quên tôi là vua của họ và tôi không thể lờ chuyện họ đối xử khác với tôi.”

“Điều đương nhiên mà,” Eragon nhận xét. Nó thông cảm với Orik vì nó cũng đã trải qua tình huống tương tự khi trở thành Kỵ sĩ.

“Có lẽ. Nhưng kể cả thế tôi cũng khó chịu.” Orik than thở. “Ôi, cuộc đời thật là lạ, đội khi còn độc ác... Tôi ngưỡng mộ Hrothgar như bề tôi đối với nhà vua nhưng đối với tôi dường như ông ấy không đối xử như những người khác. Giờ tôi hiểu vì sao ông ấy lại như thế.” Orik khum khum tay cầm quả banh đất mà nhìn. “Khi cậu gặp Grimstborith Gannel ở Tarnag, ông ấy có giải thích cho cậu biết ý nghĩa của Erôthknurln không?”

“Chưa bao giờ nói tới.”

“Tôi đoán là do có nhiều vấn đề quan trọng hơn cần bàn... Nhưng vì là một Ingeitum, và là một knurla, cậu cần hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của Erôthknurl. Đó không chỉ là cách để cậu tập trung đầu óc, cho qua thời gian hay tạo ra đồ kỷ niệm. Không. Làm ra đá từ đất là một thứ thiêng liêng. BẰng cách này chúng ta thể hiện niềm tin vào sức mạnh của Helzvog và tôn kính ngài. Khi bắt tay vào việc chúng ta phải đặt vào đó sự tôn kính và mục đích của mình. Tạo ra một Erôthknurl là tạo nên một lời cầu nguyện và thần linh sẽ không nhân từ với bất cứ ai phù phiếm. Từ đất hình thành nên sinh thể sống và sinh thể sống lại trở về với đất. Vòng tuần hoàn cứ tiếp tục mãi mãi ngàn đời.”

Chỉ tới lúc này Eragon mới hiểu được công việc của Orik. “Anh cần Hvedra,” nó nói. “cô ấy sẽ đồng hành cùng anh và giúp anh không tuyệt vọng. Tôi chưa bao giờ thấy anh hạnh phúc như hồi cùng cô ấy ở Bregan Hold.”

Nếp nhăn trên mắt Orik lại trũng xuống khi anh ta cười. “Đúng... Nhưng nàng là grimstcarvlorss của Ingeitum và nàng không thể bỏ nhiệm vụ để đi an ủi tôi. Hơn nữa tôi sẽ không thể nghỉ ngơi nếu nàng trong tầm sinh sát của Murtagh và Thorn hoặc tệ hơn, dưới móng vuốt của Galbatorix và con rồng đen của lão.”

Để giúp Orik vui lên, Eragon nói, “Anh làm tôi nhớ tới câu trả lời cho một câu đố: một vị vua người lùn ngồi trên đất, làm một viên đá từ đất. Tôi không nhớ rõ câu đố như thế nào nhưng đại loại là:

Mạnh mẽ và chắc khỏe

Mười ba ngôi sao mọc trên lông mày

Viên đá sống hình thành biến đất chết thành đá chết.

“Không có vần điệu nhưng anh không thể bắt tôi ngâm nga chuẩn xác được. Tôi có thể tưởng tưởng câu đó như vậy sẽ khiến ối người gãi chảy máu đầu.”

“Ừm,” Orik nói. “Không phải với người lùn. Kể cả đứa nhỏ của chúng tôi cũng dễ dang hạ gục cậu.”

Cả rồng nữa, Saphira nói.

“Tôi nghĩ là anh đúng,” Eragon nói.

Sau đó nó hỏi Orik về mọi thứ xảy tới với người lùn sau khi nó và Saphira rời Tronjheim trong cuộc hành trình lần thứ hai về khu rừng của thần tiên. Eragon không có cơ hội nói chuyện dông dài với Orik kể từ khi người lùn tới Dras – Leona và nó mừng vì được nghe chuyện bạn mình.

Orik không muốn giải thích những rắc rối trong thể chế của người lùn. Nhưng khi nói chuyện, biểu hiện trên mặt anh ta sáng lạng hơn và sống động hơn. Anh ta giành cả tiếng kể về những kế hoạch của các bộ tộc người lùn đã bàn trước khi hành quân tới Varden. Các bộ lạc theo như Eragon biết đều rất bướng bỉnh và ngay cả vua họ, là Orik, cũng khó buộc họ nghe lời.

“Như kiểu dẫn một đàn ngỗng trời ấy,” Orik nói. “Họ luôn muốn đi theo hướng của mình và họ rất ồn ào và họ sẽ cắn tay bạn ngay khi có cơ hội.”

Trong khi nói chuyện, Eragon nghĩ sẽ hỏi về Vermûnd. Nó thường bằn khoăn chuyện gì sẽ xảy ra với người lùn định ám sát nó. Nó thích biết kẻ thù của nó đang ở đâu, đặc biệt là một kẻ nguy hiểm như Vermûnd.

“Hắn trở về quê nhà tại Feldarast,” Orik nói. “Ở đó hắn sẽ ngồi uống rượu và giận dữ về những chuyện đang và sẽ xảy ra. Nhưng giờ ai thèm nghe hắn nói chứ. Knurlan của Az Sweldn rak Anhûin vốn nổi tiếng cứng đầu. Trong hầu hết trường hợp, họ sẽ vẫn trung thành với Vermûnd dù các bộ tộc khác có làm gì hay nói gì nhưng cố ám sát một vị khách là hành vi không thể dung thứ. Tôi không thể tin nổi họ vẫn đồng ý li khai chỉ để bảo vệ một grimstborith đã đánh mất danh dự. Có thể mất hàng năm nhưng họ thực sự đã chống lại hắn. Tôi đã nghe thấy rằng rất nhiều người trong bộ lạc xa lánh Vermûnd, kể cả trong khi chính họ cũng bị tẩy chay.”

“Vậy anh nghĩ hắn ta sẽ ra sao?”

“Hắn đành phải chấp nhận hoặc không có người sẽ bỏ rượu độc hắn hoặc đâm dao vào ngực hắn. Dù sao hắn cũng không còn là mối đe dọa của cậu hay là thủ lĩnh của Az Sweldn rak Anhûin.”

Họ tiếp tục nói chuyện tới khi Orik hoàn thành xong vài bước đầu tiên trong quá trình tạo Erôthknurl. Anh ta đã để qua banh trên vải lều cho khô. Khi Orik đứng dậy thu dọn xô thùng và que, anh ta nói, “Tôi mừng vì anh đã lắng nghe tôi nói, Eragon ạ. Và cả cô nữa, Saphira. Thật là lạ khi giờ trừ Hvedra tôi chỉ có thể nói chuyện thoải mái với hai người. Những người khác...” Ông nhún vai. “Bah.”

Eragon cũng đứng dậy. “Anh là bạn tôi, Orik, dù có phải vua người lùn hay không. Chúng tôi luôn vui vẻ nói chuyện với anh. Và anh biết đấy, đừng lo chúng tôi sẽ nói cho người khác nghe những gì anh nói.”

“Ừ, tôi biết mà Eragon.” Orin nhìn thẳng vào mắt nó. “Cậu tham gia vào những sự kiện trong đại nhất thế giới nhưng cậu chưa bao giờ suy nghĩ hẹp hòi.”

“Tôi không hứng. Hơn nữa, tôi còn nhiều thứ khác để lo hơn trong giai đoạn này.”

“Thế thì tốt. Một kỵ sĩ phải tách biệt với những người khác. Hơn nữa, sao cậu có thể vì vụ lợi được? Tôi chưa bao giờ đánh giá cao tính độc lập của Kỵ sĩ nhưng giờ thì có, và vì nguyên nhân cá nhân.”

“Tôi không hoàn toàn xa rời mọi người,” Eragon nói. “Tôi đã thề trung thành với anh và Nasuada.”

Orikk gật đầu. “Đúng. Cậu không hoàn toàn tách khỏi Varden hay Ingeitum. Dù gì xảy ra tôi vẫn mừng vì tôi có thể tin cậu.”

Một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt Eragon. “Tôi cũng vậy.”

“Dù gì chúng ta cũng là anh em nuôi mà nhỉ? Và đã là anh em thì phải bảo vệ lẫn nhau thôi.”

Nên thế, Eragon nghĩ dù nó không nói lớn, “Anh em nuôi,” nó đồng tình và vỗ vai Orik.

Way of Knowing

The way of knowing (con đường nhận thức)

Chiều hôm đó, khi mà dường như ko có dấu hiệu một cuộc tấn công nào của Đế Chế từ Dras-Leona trong khi trời vẫn còn sáng, Eragon và Saphira đi tới bãi tập ở phía sau trại Varden.

Ở đó Eragon gặp Arya, vẫn như mọi ngày từ khi tiến tới thành phố. Nó hỏi nàng, và nàng trả lời ngắn gọn rằng nàng bị vướng vào một cuộc tranh luận mệt mỏi với Nasuada và vua Orrin từ suốt đêm qua. Eragon ếm phép lên cây kiếm của mình và Arya cũng làm tương tự, họ đứng đối mặt nhau. Có một sự thay đổi nhỏ, họ đồng ý sử dụng khiên đỡ, điều này sẽ làm trận đấu tập gần giống với thực tế hơn.

Nó và nàng di chuyển nhịp nhàng, những bước ngắn, mượt mà tựa như những vũ công trên mặt đất gồ ghề bằng cảm nhận của mỗi người, thuần thục.

Đây là phần hấp dẫn nhấn trong trận đấu đối với Eragon. Cảm xúc mãnh liệt bừng lên trong đôi mắt Arya, ko mấp máy, ko dao động, nàng nhìn nó 1 cách chăm chú. Nó càm thấy bối rối, nhưng nó thích khi có một sợi dây liên kết vô hình xuất hiện giữa hai người.

Arya xuất chiêu, và chưa tới một giây, nó thấy mình khuỵu xuống, lưỡi kiếm của nàng kề sát cổ trái của nó, cứa vô da thịt. Eragon cảm thấy cơn lạnh thấu người tới khi nàng thu kiếm lại và để nó đứng thẳng dậy.

-Thật là cẩu thả. Nàng nói.

-Làm thế nào nàng vẫn vượt hơn ta? Nó gầm gừ, tức tối

“Bởi vì”, nàng đáp, trong lúc chỉnh lại giáp vai phải và khiên cho nó, “ta đã có ngót một thế kỉ tập luyện. Sẽ thật kì lạ nếu ta không tốt hơn chàng, ít nhất là bây giờ. Chàng nên tự hào rằng chàng đã có thể dần chống đỡ lại ta. Rất ít ng có thể”

Brisingr rít lên trong không khí khi Eragon nhắm vô chân trụ của Arya. Tiếng kim loại vang lên khi nàng chặn đứng mũi kiếm bằng tấm khiên. Arya phản đòn bằng một cú đâm xoắn quấn lấy thanh kiếm và điểm hai nhát lạnh băng xuyên qua lớp giáp lên vai và đầu nó.

Nhăn nhó, nó ngưng lại, tạm hoãn trận đấu và suy nghĩ. Một trong những thách thức khi đấu với các thần tiên chính là tốc độ và sức mạnh của họ. Họ có thể dễ dàng áp sát và hạ gục đối phương từ khoảng cách xa hơn bất kì người trần nào khác. Do đó, để an toàn trước Arya, nó phải di chuyển cách xa nàng gần ba thước rưỡi.

Trước khi nó kéo dãn khoảng cách giữa hai người ra, Arya đã áp sát nó, chỉ với bước nhảy, tóc nàng tung bay phía sau. Eragon tấn công ngay trc khi cô tiếp đất, nhưng nàng đã để lưỡi kiếm lướt qua cơ thể mình mà không cần đỡ đòn. Nàng trượt cạnh tấm khiên bên dưới Eragon và hất lên, để hở nguyên mảng sườn không được phòng thủ. Bằng tốc độ ưu việt của mình, nàng vung kiếm lên và lại kề cổ nó, lần này là dưới cằm.

Nàng giữ nguyên tư thế, đôi mắt to tròn của nàng cách nó chỉ một phân. Có một cái gì đó dữ dội trong thái độ của nàng mà nó ko thể giải thích, nhưng điều đó làm cho nó ngưng lại.

Bóng tối lướt qua khuôn mặt Arya, nàng tra kiếm vào bao và bỏ đi.

Eragon xoa xoa cổ họng của nó: “nếu nàng biết nhiều về kiếm pháp” nó nói “ tại sao nàng không thể dạy ta giỏi hơn?”

Đôi mắt ngọc bích của nàng bừng lên:” ta đã thử” nàng nói ”nhưng vấn đề không phải ở đây” Nàng chỉ kiếm vô cánh tay phải của nó. “Vấn đề là ở đây” Nàng đập lưỡi kiếm vô mũ sắt của nó, tiếng kim loại va vào nhau kêu lanh canh. “ Và ta không biết phải dạy chàng thế nào ngoại trừ việc chỉ ra lỗi của chàng hết lần này đến lần khác cho tới khi chàng không mắc lỗi nữa” Nàng lại đập vô mũ sắt của nó một lần nữa ”Có nghĩa là ta phải đánh chàng bầm dập để làm điều đó”

Và nàng lại tiếp tục hạ gục nó và lòng kiêu hãnh của nó nhiều hơn mức nó có thể thừa nhận, thậm chí cả Saphira, nó cảm thấy nghi ngờ khả năng có thể đánh bại được Galbatorix, Murtagh, hoặc bất kì đối thủ đáng gờm nào khác, và thật xui xẻo khi phải đối đầu những kẻ như vậy một mình mà không có sự tợ giúp của Saphira hoặc khả năng phép thuật của nó.

Lăn ra xa Arya, Eragon đứng cách xa arya khoảng mười thước

“Tốt thôi” nó nói qua kẽ răng nghiến chặt” tiếp tục nào” Và nó gồng mình thủ thế, chờ đợi một lượt tấn công dữ dội khác.

Arya nheo mắt lại liếc nhìn một cách tinh quái:” tốt hơn rồi đấy”

Họ xáp vào nhau, cả hai thét lên, và bãi tập vang lên âm thanh của những tiếng va chạm dữ dội. Hết trận này tới trận khác, cho tới khi họ mệt nhừ, vã mồ hôi, lấm tấm bụi, Eragon bầm mình với nhiều vết chém . Và họ tiếp tục gồng mình lao vô quần thảo nhau, điều chưa từng xảy ra ở những buổi tập luyện trước đây. Không ai trong hai người có ý định ngưng lại mặc cho những vết bầm tím khắp mình.

Saphira xem trận đấu từ phía bên kia của bãi tập, nó nằm dài ra bãi cỏ. Nó khép kín phần lón tâm trí mình, để tránh ảnh hưởng đến Eragon . Thình thoảng nó đừa ra một vài nhận xét về kiếm pháp của Eragon hoặc của Arya, điều đó thực sự hữu ích cho Eragon. Đôi lúc, Eragon cảm thấy hơn một hoặc hai lần cô em rồng đã cứu nó khỏi những cú đánh đặc biệt nguy hiểm, vào những thời điểm mà cánh tay hay chân Eragon di chuyển nhanh hơn một chút so với bình thường, hoặc thậm chí trước khi nó định di chuyển. Mỗi lần vậy, Eragon cảm thấy nhột phía sau gáy và nó biết rằng Saphira đã can thiệp vô tâm trí nó.

Cuối cùng nó bảo cô em rồng ngưng lại. Anh phải tập một mình Saphira ạ, nó nói. Em không thể luôn có mặt để giúp anh mỗi khi anh cần được.

Em sẽ cố hết sức.

Anh hiểu. Anh cũng cảm thấy như em vậy. nhưng đây là ngọn núi mà anh phải leo một mình

Môi cô em rồng mấp máy. Tại sao anh lại phải leo khi anh có thể bay? Anh sẽ không thể tới bất kì đâu với đôi chân ngắn cũn đó được.

Điều đó không đúng và em biết điều đó. Bên cạnh đó, nếu anh bay, thì có nghĩa rằng đây chỉ là đôi cánh tạm bợ, anh sẽ ko thể học được gì hơn sự rẻ tiền nếu chiến thắng đó ko phải của bản thân.

Thắng là thắng và chết thì vẫn là chết, bất kể điều đó xảy ra bằng cách nào.

Saphira.., nó cảnh cáo cô em rồng.

Tí xíu thôi mà.

Tuy nhiền để trợ giúp ông anh, nó để Eragon làm chủ cơ thể, nhưng mặc dù vậy nó vẫn theo dõi với một sự cảnh giác không ngừng

Cùng với Saphira, các thần tiên được giao nhiệm vụ bảo vệ nó và Eragon đã tụ tập tại rìa bãi tập. Sự hiện điện của họ làm Eragon cảm thấy không thoải mái. Nó không muốn ai khác thấy sự thê thảm của nó trừ Saphira và Arya, nhưng nó biết rằng các thần tiên sẽ không bao giờ chịu quay về lều. Ít ra thì, họ vẫn hữu ích ngoại trừ việc bảo vệ nó và Saphira: họ không để các chiến binh lang thanh trên bãi tập trong lúc một kĩ sĩ và một tiên nhân đang xà quần với nhau. Các pháp sư của Blodhgarm không làm gì đặc biệt, nhưng chỉ sự xuất hiện của họ là đủ đe dọa các khan giả bình thường.

Sau nhiều hiệp đấu, Eragon càng lúc càng thất vọng. Nó thắng được 2 hiệp. Hầu như không có một tiểu xảo, kĩ thuật nào có thể qua mặt đc Arya mà không cần tới may mắ, và nó chưa bao h gắng hết sức trong những trận chiến trừ khi bị đe dọa tới tính mạng. Trừ những chiến thắng ít ỏi đó, Arya tiếp tục hạ nó một cách dễ dàng.

Cuối cùng, sự giận dữ bùng phát và nhấn chìm nó. Mặc dù kĩ thuật này ít khi nào đem lại hiệu quả cho nó, Eragon nâng cánh tay phải và chuẩn bị phóng thanh Brisingr vô Arya như một cây rìu chiến.

Vào lúc đó, một luông tâm trí chạm ùa vào tâm thức Eragon, một luồng tâm trí Era ngon nhận biết một cách rõ rngf không phải của Saphira hay Arya, hay của bất kì tiên nhân nào khác, nó là tâm trí của một con rồng, một con rồng đực. Eragon chặn lại luồng tư tưởng, chạy đua đặt các vòng bảo vệ và lo sợ bị tấn công bởi Thorn. Nhưng trước đó, một giọng nói vang lên khắp ý thức của nó, giống như âm thanh của một ngọn núi thay đổi trọng lượng theo âm điệu.

Đủ rồi, Glaedr nói.

Eragon cứng đơ lại và bước tới nửa bước. Ấn đầu ngón chân xuống đất, nó ngưng bản thân khỏi việc ném thanh Brisingr. Nó nhìn và cảm thấy Arya, Saphira, và các pháp sư của Blodhgarm cũng phản ứng như vậy, bất ngờ và ngạc nhiên, và nó biết họ cũng nghe thấy Glaedr.

Tâm trí con rồng vẫn như trước- Già cỗi, khôn ngoan nhưng ẩn chứa sự đau thương. Nhưng lần đầu tiên sau cái chết của Hiền Nhân Oromis tại Gil’ead, Glaedr dường như bị thôi thúc phải làm gì đó hơn là chìm sâu và bao bọc tâm trí trong nỗi đau thương của nó.

Glaedr tiền bối! Eragon và Saphira nói cùng lúc.

Người thế nào rồi….

Người không sao chứ…

Người….

Những người khác nói---Arya, Blodhgarm và 2 vị tiên nhân khác nữa, mà Eragon không thể xác định được---Nhiều luông tâm trí và giọng nói đan xen lẫn nhau gây ra hỗn loạn .

Đủ rồi, Glaedr lặp lại, âm thanh vang lên vừa mệt mỏi vừa bực tức. Các người muốn thu hút sự chú ý không mong muốn à?

Tất cả giữ yên lặng và đợi nghe rồng vàng sẽ nói gì. Hồi hộp, Eragon trao đổi cái nhìn với Arya.

Glaedr không nói ngay, mà quan sát mọi người trong vài phút, sự xuất hiện của rồng vàng đè nặng lên tâm trí Eragon, và nó chắc rằng những người khác cũng cảm thấy như vậy.

Sau đó, bằng giọng nói trầm vang, Glaedr nói, điều này đã đi quá xa….Eragon, người không nên phis thời gian vào việc tập luyện chiến đấu. Nó làm ngươi sao lãng những vấn đề khác quan trọng hơn. Thanh kiếm trong tay Galbatorix không phải là thứ ngươi cần lo sợ nhiều nhất, cũng như thanh kiếm miệng lưỡi của hắn ta, mà là tâm trí của hắn. Tài năng của hắn ghê gớm nhất là khả năng lần vào những phần nhỏ nhất, yếu đuối nhất trong tâm trí của con và buộc con phải tuân lệnh hắn. Thay vì tập trung vào cuộc đọ sức với Arya ngươi nên tập trung vô việc rèn luyện trí óc, cải thiện khả năng làm chủ bản thân; nó vẫn còn đầy rẫy những phiền muộn, và vô kỷ luật…..tại sao, sau đó, ngươi vẫn kiên trì với những nỗ lực vô ích?

Một loạt các câu trả lời nhảy đi đầu trong tâm trí Eragon: nó rất thích đọ kiếm với Arya, mặc sự bực mình điều đó gây ra cho nó, nó vẫn muốn trở thành một tay kiếm tốt nhất có thể--một tay kiếm giỏi nhất thế giới, nếu có thể. Các bài tập giúp nó tự chủ và trui rèn cơ thể, và còn nhiều lí do bên cạnh đó. Nó cố ngăn chặng luồng suy nghĩ bản thân, vừa để bảo vệ một số thông tin riêng tư và tránh để Glaedr thấy những thông tin không mong muốn, điểu đó chỉ xác nhận ý kiến của con rồng về sự thiếu kỷ luật của nó. Nó đã cố gắng nhưng không thành công, tuy nhiên, một luông không khí thất vọng lại bắt nguồn từ Glaedr.

Eragon chọn câu trả lời xác đáng nhất: nếu con có thể bảo vệ tâm trí con khỏi Galbatorix, nhưng không thể xâm nhập tâm trí hắn, chỉ kiềm chế đc hắn, thì tất cả sẽ quyết định bằng lưỡi kiếm. Vả lại, đức vua cũng không phải là kẻ thù duy nhất chúng ta phải lưu tâm: còn có Murtagh, một người, và ai mà biết được rằng loại người hay loại quái vật nào còn nằm dưới trướng Galbatorix? Con đã không thể giết Durza, cũng như Varaug mà không có sự giúp đỡ của Arya. Con luôn luôn nhận được sự giúp đỡ. Nhưng con không thể để ch Sahira, Arya, hay Blodhgarm cứu con mỗi khi con gặp rắc rối. Con phải luyện kiếm tốt hơn. Nhưng dường như con vẫn không có chút tiến bộ nào, mặc dù con đã cố gắng.

Varaug? Glaedr thắc mắc. Ta chưa từng nghe thấy cái tên đó trước đây

Eragon hạ giọng, sau đó kể cho Glaedr về biến cố trong việc chiếm Feinster và cách mà nó và Arya làm sao để tiêu diệt tà thần mới xuất hiện ngay khi Oromis và Glaedr đối mặt với cái chết—Bằng những cách khác nhau, ngay trên bầu trời Gil’ead. Eragon cũng tóm lược lại những sự kiện và hành động của Varden sau đó, và nó nhận ra Glaedr đã tự cô lập bản thân, nó có quá ít kiến thức về rồng. Câu chuyện làm Eragon mất vài phút, trong thời gian đó, tất cả mọi người đứng yên trong bãi tập, đôi mắt nhìn vào khoảng không, sự chú ý của họ quay vào trong tâm trí khi họ tập trung vào việc trao đổi tư tưởng, hình ảnh và cảm xúc.

Sau một hồi lâu im lặng, Glaedr thu nhận những thông tin mới. Khi rồng vàng cân nhắc và nói:”ngươi quá tham vọng khi đặt mục tiêu là có thể giết được một tà thần mà không bị thương tổn. ngay cả những kị sĩ tài năng nhất và già dặn nhất cũng hải ngần ngại khi tấn công tà thần một mình. Ngươi đã sống sót sau khi tiêu diệt được hai tên trong số đó, hai đã là quá nhiều. Hãy tạ ơn rằng mình thật may mắn và đừng mơ tới điều đó. Cố gắng vượt qua một tà thần giống như thử bay cao hơn mặt trời vậy.”

Vâng, Eragon đáp, nhưng kẻ thù của chúng ta mạnh như tà thần và có khi mạnh hơn nữa, và Galbatorix có thể tạo ra nhiều tên nữa để cản bước tiến của chúng ta. Hắn dung chúng một cách bất cẩn, mà không nghĩ tới hậu quả chúng để lại cho vùng đất này.

Ebrithil, Arya nói, cậu ấy nói đúng. Kẻ thù của chúng ta qua sức nguy hiểm…như tiền bối đã biết---Nàng sử dụng âm điệu nhẹ nhàng-----và Eragon chưa đạt tới trình độ cần thiết. Để chuẩn bị cho những điều đang chờ chúng ta phái trước, chàng cần phải điêu luyện hơn nữa. Tôi đã cố hết sức để dạy chàng, nhưng người thầy thực sự phải đến từ bên trong, không phải bên ngoài.

Những lời bảo vệ nó của nàng làm tim nó ấm lên.

Cũng như trước, Glaedr chậm rãi trả lời. Eragon vẫn chưa làm chủ được suy nghĩ của mình, như cậu ấy phải làm. Tất cả kĩ năng, tâm trí hay thể xác, đều không thể sử dụng riêng lẻ, nhưng trong hai thứ đấy, tâm trí quan trong hơn. Một người có thể chiến thắng một kiếm sĩ và một pháp sư chỉ bằng tâm trí. Tâm trí và thể xác của ngươi phải được thăng bằng, nhưng nếu phải chọn để tập luyện, ngươi nên chọn tâm trí. Arya…..Blodhgarm….Yaela…các người đều biết điều ấy là đúng. Tại sao không ai trong số các ngươi hướng dẫn Eragon tập luyện điều này?

Arya chuyển ánh mắt nhìn xuống đất, như một đứa trẻ vừa bị trách mắng, trong khi lớp lông trên vai Blodhgarm gợn sóng và dựng đứng lên , ông bĩu môi, để lộ ra hàm răng nanh trắng.

Blodhgarm là người cuối cùng dám đáp trả.Ông nói hoàn toàn bằng ngôn ngữ cổ, và là người đầu tiên làm vậy, Arya ở đây với trách nhiệm là một người đưa tin cho chúng tôi. Tôi và những người còn lại ở đây để bảo vệ cho Saphira vảy sáng Eragon Khắc tinh của tà thần, và điều đó thực sự đã tiêu tốn không ít thời gian và công sức. Chúng tôi đều cố giúp Eragon, nhưng bổn phận chúng tôi không phải là huấn luyện một kị sĩ. Chúng tôi cũng không giả vờ là đã cố gắng làm điều đó khi mà một trong những người thầy thực sự vẫn còn sống và hiện diện….thậm chí cả khi vị sư phụ đó từ bỏ nghĩa vụ của mình.

Đám mây đen của cơn giận bao trùm trong tâm trí Glaedr, tựa như những cơn sấm rạch ngang chân trời. Eragon tách mình khỏi ý thức Glaedr, cảnh giác của cơn thịnh nộ của con rồng. Glaedr đã không còn

có khả năng thể chất làm tổn hại đến bất cứ ai, nhưng nó vẫn vô cùng nguy hiểm. Nếu nó không kiềm chế và tấn công mọi người với tâm trí của mình, không ai trong số họ có thể chịu đựng được sức ép ấy.

Lời lẽ khiếm nhã và vô cảm của Blodhgarm gây sốc cho Eragon---Nó chưa bao h thấy một thần tiên lại nói với một con rồng như thế----nhưng sau khi suy ngẫm, Eragon nhận ra rằng Blohdgarm phải làm thế để vực dậy Glaedr và ngăn chặn rồng vàng tự giam mình trong đau khổ. Eragon ngưỡng mộ sự can đảm của vị tiên nhân, nhưng liệu xúc phạm Glaedr có phải là cách tốt nhất. Nhưng nó chắc chắn rằng đây không phải là cách an toàn nhất.

Cơn thịnh nộ của rồng vàng cuồn cuộn, nhá sáng như tia chớp, tâm trí Glaedr lướt qua từng người một. “Ngươi đã đi quá giới hạn rồi thần tiên ạ” Nó gầm lên, vần nói bằng ngôn ngữ cổ” Hành động của ta không cần ngươi chất vấn. Ngươi không thể hiểu được ta đã mất những gì đâu. Nếu không vì Eragon, Saphira và trách nhiệm đối với chúng, có lẽ ta đã hóa điên mất rồi. Sao ngươi có thể buộc tội ta từ bỏ nghĩa vụ của mình, Blodhgarm, con trai của Ildrid, hay ngươi muốn thử khả năng chiến đấu của ngươi với ta, người cuối cùng của lớp Tiền Bối.

Nghiến răng, Blodhgarm rít lên. Mặc dù vậy, Eragon vẫn nhận ra vẻ đau đớn trên khuôn mặt vị tiên nhân. Trước sự hoảng hốt của Eragon, Blodhgarm thả lỏng và tiếp tục nói: “Đừng đổ lỗi cho chúng tôi vì đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình, đó không phải trách nghiệm của chúng tôi, tiền bối ạ. Giống loài chúng tôi tiếc thương trước sự mất mát của người,nhưng người không thể trông mong chúng tôi cảm thông cho sự tự tiếc thương của người trong khi chúng ta đang phải đối mặt với kẻ thù nguy hiểm nhất trong lịch sử---kẻ gần như đã tiêu diệt hết giống loài của người, và đã giết kị sĩ của người.

Lần này thì cơn giận dữ của Glaedr đã phun trào như núi lửa. Khủng khiếp và đen tối, tâm trí Eragon bị hất mạnh, nó cả thấy như bị thổi tung, như cánh buồm trong cơn bão. Nhìn qua bên kia bãi tập, Eragon thấy các tiên nhân thả rớt vũ khí, ôm đầu, nhăn nhó trong cơn đau.

TỰ-TIẾC-THƯƠNG? Glaedr nói, nhấn mạnh từng từ, mỗi từ chứa đựng âm điệu của sự diệt vong. Trong tâm trí của con rồng, Eragon cảm thấy một thứ gì đó khó chịu đang hình thành, để đạt được kết quả, điều đó sẽ làm tổn thương và đau khổ cho rồng vàng rất nhiều.

Sau đó Saphira nói, giọng nói vang lên trong tâm trí Glaedr xuyên qua cảm xúc của rồng vàng tựa như một con dao xuyên qua màn nước. Sự phụ, nó nói, con đã rất lo lắng cho người. Thật tốt lành khi thấy người đã hồi phục mà lại đầy sức mạnh. Không ai trong số chúng con có thể sánh ngang với người, chúng con cần người giúp. Không có người, chúng con không có hy vọng lật đổ được đế chế.

Glaedr gầm lên một cách đáng ngại, nhưng nó không có ý tấn công hay gây khó khăn cho Saphira. Quả thật, lời nói của cô rồng có chút nào đó đã làm vui lòng rồng vàng. Sau tất cả, Eragon thấy rằng, nếu có một thứ gì đó có thể làm ảnh hưởng những con rồng, thì đó là những lời nịnh hót, Saphira đã minh chứng điều đó.

Không đợi Glaedr trả lời, , Saphira nói tiếp, từ khi người không còn đôi cánh, hãy để đôi cánh của con thay thế cho người. Không khí trong lành, bầu trời thì trong xanh, và không niềm vui sướng nào hơn được bay vượt qua những cánh đồng, bay tầm cao hơn bất kì con đại bàng nào dám vươn tới. Sau khi đã giam mình quá lâu trong tim của các tim, người nên bỏ lại tất cả phía sau, và cảm nhận không khí lùa qua dưới đôi cánh của người một lần nữa.

Cơn bão trong tâm trí Glaedr tan dần tan, tuy vẫn còn rộng lớn và nguy hiểm. Điều đó thật…..dễ chịu

Chúng ta sẽ bay sớm, Nhưng sự phụ?

Sao hả con

Có vài chuyện con muốn hỏi người

Con nói đi

Người sẽ giúp Eragon luyện kiếm chứ? Người có thể giúp anh ấy chứ? Anh ấy vẫn chưa đạt được trình độ cần thiết, và con không muốn mất đi kị sĩ của mình.Giọng nói của Saphira vẫn nghiêm trang, nhưng có chút gì đó cầu xin làm cổ họng Eragon quặn thắt lại.

Cơn bão trong tâm trí Glaedr qua đi, để lại một càm giác buồn thương, ảnh hưởng lên cả tâm trí Eragon. Glaedr ngưng lại. Những quầng sáng nhẹ nhàng dịch chuyển bên trong khối đá. Eragon thận trọng không tiến lại gần.

Được rồi, cuối cùng Glaedr cất tiếng nói, ta sẽ làm hết những gì có thể cho kị sĩ của ngươi, nhưng sau khi xong việc này, hắn phải học những gì ta cảm thấy cần thiết.

Còn đồng ý, Saphira nói, Eragon nhìn Arya và các tiên nhân khác thở phào nhẹ nhõm, như thể họ đã nín thở nãy h.

Vừa thu hồi tâm trí thì Eragon nhận hàng loạt luồng tư tưởng phóng tới từ Trianna và các pháp sư khác phục vụ cho Varden. Họ muốn biết thứ gì vừa lướt qua tâm trí họ và gây ra một nỗi thất vọng lan tỏa khắp người và vật trong trại. Trianna lấn các luông tư tưởng khác và hỏi: “chúng ta đang bị tấn công là, thưa khắc tinh của tà thần? Có phải là Thorn không? Hay là Shruikan? “Sự hoảng sợ trong tâm trí cô ta quá lớn, làm Eragon muốn quăng kiếm và khiên bỏ trốn cho an toàn.

Không có gì, mọi thứ đều ổn, nó nói những gì có thể. Sự tồn tai của Glaedr vãn là bí mật đối với Varden, kể cả Trianna và các pháp sư dưới quyền cô ta. Eragon muốn giữ kín điều này, lo sợ rằng rồng vàng sẽ bị gián điệp của đế quốc phát hiện. Nói dối khi giao tiếp với người khác bằng tinh thần là một công việc cực kì khó khăn---nhât là khi gần như bất khả thi không nghĩ tới thứ mình cần phải giữ bí mật--- Eragon chỉ dám trả lời nhát gừng. Các tiên nhân và tôi đang tập luyện phép thuật. Tôi sẽ nói chuyện này sau, nhưng không có gì đáng phải lo ngại cả

Nó thấy rằng lí do đó nghe có vẻ không được thuyết phục họ lắm, nhưng họ không dám hỏi chi tiết thêm và rút khỏi tâm trí nó trước khi để lộ tâm trí của họ trước mắt nó.

Arya cảm thấy có sự thay đổi trên nét mặt nó, nàng vội vã chạy lại, thì thầm: “mọi thứ đều ổn chứ?”

“Ổn” Eragon trả lời và cố làm cho giọng nói bình thường. Nó gật đầu với những tiên nhân đang nhặt vũ khí. “Tôi buộc phải trả lời vài câu hỏi”

“Ah! Chàng không nói với họ rằng….”

“Dĩ nhiên không”

Đứng vào vị trí đi, Glaedr ồm ồm, Eragon và Arya đứng cách ra khoảng sáu thước

Biết rằng nó có thể là một sai lầm nhưng không thể kiềm chế bản thân mình, Eragon hỏi: Sư phụ, người có thể dạy con hết những gì con cần biết trước khi tới Uru’baen không ạ? Thật sự là chúng con còn rất ít thời gian, con…..

Ta sẽ dạy ngươi ngay bây giờ, nếu ngươi lắng nghe.Glaedr nói. Nhưng ngươi phải học một cách chăm chỉ hơn bao giờ hết.

Con đang lắng nghe, thưa sư phụ.Nhưng Eragon không thể không tự hỏi một con rồng có thể biết gì về kiếm thuật. Glaedr có thể học được rất nhiều từ Oromis, cũng như Saphira học hỏi từ Eragon, nhưng dù cả hai có chia sẻ kinh nghiệm cho lẫn nhau, Glaedr vẫn chưa bao h cầm kiếm---Làm sao sư phụ có thể? Glaedr dạy Eragon đánh kiếm cũng giống như Eragon dạy một con rồng bay qua những luồng không khí trên ngọn núi vậy; Eragon có thể làm được, nhưng chá chắn không thể bằng Saphira, kiến thức của nó là được truyền thụ lại, và không có sự áp dụng thực tế thì khó mà có thể truyền đạt lại tốt.

Eragon giữ lại nhưng nghi ngờ đó trong thâm tâm, nhưng một số trong chúng lại vượt qua rào cản và đến tai Glaedr, rồng vàng khục khục một cách thích thú—một thói quan từ trước khi mất cơ thể thật khó mà quên ngay được---và ông nói: Tất cả những trậng đánh lớn đều giống nhau, Eragon ạ, và tất cả các chiến binh vĩ đại cũng vậy. Có một điểm chung, vấn đề không phải là ngươi sử dụng một cây kiếm, móng vuốt, hay răng nanh, đuôi. Thực sự là, ngươi phải hòa hợp với vũ khí của mình. Bất cứ ai bỏ thời gian luyện tập sẽ đạt được kĩ thuật và trình độ nhất định. Nhưng để đạt được đỉnh cao, nó đòi hỏi phải có nghệ thuật. Nó đòi hỏi trí tưởng tượng, sự chu đáo, những phẩm chất chung của các chiến binh giỏi nhất, ngay cả khi, hình dạng của họ khác nhau.

Glaedr im lặng một lúc, và nói: bây giờ, ta đã nói những gì trước đó với ngươi?

Eragon lặp lại ngay tức khắc. Con phải học cách nhìn những gì con thấy. Và con đã thử, thưa sư phụ.

Nhưng ngươi vấn chưa thấy. Nhìn Arya đi. Tại sao cô ta liên tục hạ gục ngươi hết lần này đến lần khác? Bởi vì cô ta thấu hiểu ngươi, Eragon. Cô ta biết ngươi là ai và ngươi nghĩ thế nào. Điều đó cho phé cô ta đánh bại ngươi một cách dễ dàng. Tại sao Murtagh có thể hạ ngươi tại Cánh đồng cháy, mặc dù nó không nhanh nhẹn và khỏe như ngươi?

Bởi vì con đã mệt và……

Làm thế nào hắn để lại một vết thương trên hông ngươi trong khi ngươi chỉ làm hắn trầy má trong lần giao chiến vừa qua. Ta sẽ nói ngươi biết, Eragon. Không phải vì ngươi mệt còn hắn thì không. Không phải vậy, đó là bởi vì hắn hiểu ngươi, Eragon, nhưng ngươi không bết gì về hắn. Murtagh biết nhiều hơn ngươi, do đó hắn quyền lực hơn ngươi, cũng như Arya.

Glaedr vẫn nói tiếp: nhìn cô ta, Eragon, nhìn kỹ vào. Cô ta biết ngươi là ai, nhưng ngươi có thấy gì từ cô ta không? Những gì ngươi thấy có đủ để giúp ngươi đánh bại cô ta không?

Eragon nhìn Arya và thấy có cái gì đó kết hợp giữa sự phòng thủ và quyết tâm, như thể nàng thách thức nó tìm ra được bí ẩn bên trong nàng, nhưng cũng lo sợ rằng nó sẽ làm được điều đó. Nỗi nghi ngờ trỗi lên trong Eragon. Nó thực sự hiểu nàng như nó nghĩ hay đây chỉ là sự lừa dối bản thân?

Ngươi đã để cho cơn giận dữ lấn át bản thân, Glaedr nhẹ nhàng nói. Giận dữ cũng tốt, nhưng nó không giúp ngươi ở đây. Con đường của một chiến binh là con đường của sự học hỏi. Nếu sự học hỏi đó dựa trên sự phẫn nộ, và con sử dụng cơn phẫn nộ của mình, thì ngươi sẽ không học hỏi được gì đâu. Đau đớn và thất vọng là những gì chờ đợi ngươi phía trước nếu ngươi làm vậy.

Thay vào đó, ngươi phải học cách bình tĩnh, ngay cả khi hàng trăm kẻ thù như bầy quạ đang lao vào gót chân ngươi. Thư giãn tâm trí, để nó phằng lặng như một hồ nước phản chiếu mọi thứ mà không bị tác động bởi bất kì thứ gì xung quanh. Sự hiểu biết sẽ đến với ngươi trong tâm thức đó, khi ngươi không còn lo nghĩ gì về thắng và bại, sự sống và cái chết.

Ngươi không thể dự đoán hết mọi tình huống, và ngươi không thể đảm bảo rằng sẽ chiến thắng trước mọi đối thủ, nhưng với cái nhìn bao quát và không quá tập trung vô chi tiết nhỏ nào, ngươi có thể thích nghi với bất kì tình huống nào. Một chiến binh có thể thích nghi dễ dàng nhất với mọi điều bất ngờ nhất là chiến binh có thể sống sót dai nhất.

Nào, bây giờ ngươi hãy nhìn Arya, nhìn thấu vào cô ta, và hành động những gì ngươi cho là thích hợp. Khi giao đấu, đừng để những suy nghĩ ảnh hưởng tới bản thân. Nghĩ mà không nghĩ, hành động bằng bản năng và không cần lí do. Đi đi, và thử xem.

Eragon ngẫm lại một phút những gì nó biết về Arya: nàng thích và không thích thứ gì, thói quen và kiểu cách, những sự kiện quan trọng trong cuộc đời nàng, những thứ nàng sợ hãi và hi vọng, và quan trọng hơn là cách nàng đương đầu trong cuộc sống và chiến đấu. Sau khi xem xét, nó cố gắng rút ra nhận xét về tính cách của nàng. Điều này thực sự khó khăn, đặc biệt là khi phải nhìn nàng không như mọi khi- một ngươi phụ nữ xinh đẹp mà nó hằng ngưỡng mộ và mong mỏi mà là con người thực sự của cô, toàn bộ, đầy đủ và riêng biệt, theo phân tích của nó.

Nó đưa ra kết luận sau một thời gian ngắn, mặc dù lo lắng về kết luận của mình quá đơn giản và trẻ con. Nó bước tới trước, nâng kiếm và khiên lên.

Nó biết rằng Arya đang chờ đợi một thứ gì khác từ nó; nó bắt đầu trận đấu như hai lần trước: xoay một vòng kiếm và nhắm thẳng vào vai phải nàng, như muốn phá vỡ khiên đỡ của nàng và nhắm vào phần xương sườn không được bảo vệ. Dù không đánh lừa được nàng như nó đã buộc nàng phải đoán trước mỗi hành động của nó, chừng nào nó còn làm được vậy, lợi thế nghiêng về phía nó.

Một cục đá nhỏ vấp dưới chân phải của nó. Nó phải dồn sức nặng để giữ thăng bằng.

Bước di chuyển của nó chỉ hơi khựng lại, nhưng Arya đã phát hiện ra sự phất thường đó và xáp lại, thét lên.

Thanh kiếm của họ lướt qua, một nhát, hai nhát, Eragon xoay lại và bất ngờ nhận ra rằng nhát chém tiếp theo Arya sẽ nhắm đầu mình---nó đâm vào ngực nàng, nhanh hết sức có thể, điểm ngay tại xương sườn mà nàng sẽ để hở nếu nhắm vô đầu nó

Trực giác của nó đã đúng nhưng toan tính sai.

Nó đâm quá nhanh, Arya chưa kịp vung kiếm và mũi thanh Brisingr xanh thẫm lướt qua ngực nàng một cách vô hại.

Một giây sau đó, thế giới nghiêng ngả xung quanh Eragon, mắt nó nháng lửa. Nó quỵ xuống một bên gối, chống hai tay xuống đất. Tai nó ong ong.

Những âm thanh u u dần giảm xuống, nó nghe Glaedr nói, đừng di chuyển quá nhanh Eragon. Cũng đừng di chuyển quá chậm. Di chuyển đúng thời điểm và cú đánh chuẩn xác, không quá nhanh cũng như quá chậm. Thời khắc là tất cả trong cuộc chiến. Nguwoi phải chú ý đến động tác và nhịp điệu của đối thủ: điểm mạnh của họ, điểm yếu của họ, sự cứng nhắc và linh hoạt của họ. Cuốn lấy nhịp độ trận đấu theo ý của ngươi và ngắt quãng nó khi nó không theo ý mình, và con sẽ làm chủ được nhịp độ của trận đấu nếu ngươi nương theo nó. Ngươi phải thấu hiểu điều này. Thay đổi thói quen trong tâm trí và nghiền ngẫm nó sau….nào, thử lại lần nữa!

Nghĩ tới Arya, Eragon xoay gót, lắc đầu để xóa đi mọi suy nghĩ, như hàng trăm lần trước, nó đứng thủ thế. Những vết đau nhức là nó cảm thấy mình như một ông già bị viêm khớm.

Arya hất mái tóc lên và cười với nó, để lộ hàm răng trắng xinh.

Cử chỉ này không làm nó bị ảnh hưởng. Nó tập trung vào cánh tay và không để bị lừa lần thứ hai.

Trước khi nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt Arya, nó vụt tới, hạ thấp Brisingr và đưa khiên ra trước. Đúng như dự đoán, vị trí thanh kiếm đã thu hút Arya, một đòn phủ đầu: một nhát chém có thể nào gãy xương đòn nếu nó không né kịp

Eragon hụ xuống đỡ đòn, làm nó trượt qua tấm khiêm, nó vung thanh Brisingr lên và nhắm vào eo nàng. Nàng khóa đòn của nó và để nó văng ra, không khí trong phổi nó như bị tống hết ra ngoài.

Họ vờn nhau, không ngừng tìm điểm sơ hở của nhau. Không khí giữa hai người trở nên căng thẳng, họ di chuyển nhanh dần, gần như chim, nguồn năng lượng chảy trong họ dồi dào.

Sự căng thẳng bùng lên như một que thủy tinh bị bẻ đôi.

Nó đánh và nàng trả đòn, lưỡi kiếm cả hai di chuyển cùng tốc độ, gần ngư vô hình. Họ ăn miếng trả miếng, nó để mắt không ngừng tới nàng, nhưng nó cũng cố-- như Glaedr khuyên, quan sát nhịp điệu và chuyển động cơ thể nàng, trong khi nó cố nhớ nàng thực sự là thế nào, nàng hành động và phản ứng ra sao. Nó ham muốn giảnh chiến thắng, nó cảm thấy như sẽ nổ tung nếu không làm đc điều đó.

Và bất chấp mọi nỗ lực của nó, Arya lại làm nó thót mình với cú đâm thằng vô xương sườn.

Eragon dừng lại và rủa thầm.

Tốt hơn rồi đấy, Glaedr nói. Tốt hơn rồi, kĩ thuật nắm bắt thời điểm của ngươi đã gần như hoàn hảo.

Nhưng nó vẫn chưa hoàn hảo

Không, nó vẫn chưa. Ngươi vẫn còn nôn nóng, và tâm trí của ngươi vẫn còn quá lộn xộn. Nhớ những gì cần nhớ , nhưng đừng để nó làm ngươi xao lãng khỏi những gì đang diễn ra. Tìm lại sự tĩnh tâm, và để những mối bận tâm về thế giới trôi qua và không để nó cuốn ngươi đi. Ngươi nên cảm nhận theo cái cách mà Oromis bắt ngươi phải lắng nghe ở trong rừng. Ngươi đã nắm bắt được hết mọi thứ xung quanh ngươi, và không quá chú tâm vô một chi tiết nào. Đừng chỉ nhìn vô mắt Arya. Sự tập trung của ngươi quá hẹp, quá chi tiết

Nhưng Brom dạy con rằng…

Có rất nhiều cách để sử dụng đôi mắt. Brom có cách riêng của mình, nhưng nó quá bảo thủ, không thích hợp cho những trận chiến lớn. Hắn dành nhiều thời gian cho nhưng cược đấu một chọi một, hoặc trong những nhóm nhỏ, thói quen của hắn phù hợp với điều ấy. Nhìn bao quát thì tốt hơn là nhìn gần và để cho những biến cố trong hoàn cảnh làm ngươi bất ngờ, ngươi hiểu chứ?

Vâng, thưa sư phụ

Nào, một lần nữa, và lần này, cho phép cơ thể thư giãn và mở rộng nhận thức ra.

Eragon lại suy ngẫm những gì nó biết về Arya một lần nữa. Khi đã có kế sách, nó nhắm mắt lại, thở chậm, chìm sâu trong bản ngã. Nỗi sợ và lo âu dần rút ra khỏi người nó, để lại sau đó một sự trống rỗng sâu sắc, vượt qua cả những nhức nhối do vết thương mang lại và làm nó cảm thấy thanh thản lạ kì. Nó không còn bận tâm tới chiến thắng, cũng như nỗi lo sợ bị that bại. Cái gì tới sẽ tới, nó sẽ không làm những việc vô ích để chống lại định mệnh.

"Sẵn sàng chưa?" Arya hỏi khi nó mở mắt.

"Sẵn sàng."

Họ đứng vô vị trí chuẩn bị, bất động, đợi người kia tấn công trước. Mặt trời nằm bên phải nó, nghĩa là nếu nó có thể khiến Arya đứng đối diện, anh sáng sẽ làm lóa mắt nàng. Nó đã thử trước đó, nhưng không thành công. Nhưng nó biết nó có thể làm được.

Nó biết Arya rất tự tin rằng có thể đánh bại nó. Nó chắc rằng nàng không coi nhẹ khả năng của nó. Tuy nhờ nắm quá rõ khả năng của nó, nàng đã chiến thắng rất nhiều lần. Những điều đó làm cho nàng nghĩ rằng sẽ đánh bại nó một cách dễ dàng, ngay cả khi, nàng hiểu nó rõ hơn nữa. Sự tự tin của nàng, cũng sẽ là điểm yếu của nàng.

Nàng nghĩ nàng sử dụng kiếm tốt hơn ta, nó nói thầm. Có thể, nhưng ta có thể dung điểm này để chống lại nàng.

Nó rảo bước và mìm cười với Arya và Arya mỉm cười lại với nó. Vẻ mặt nàng thoáng chút ấn tương. Ngay sau đó, nàng lườm nó, như thể chuẩn bị giải quyết nó và hạ nó lăn quay ra mặt đất.

Nó lùi về phái bên phải, và để nàng đứng đúng hướng nó muốn.

Arya dừng lại cách nó vài thước, trông như một con thú hoang bị bắt . Nàng xoay thanh kiếm nửa vòng trước mặt trong khi nhìn chằm chằm vào nó. Nó nghi ngờ rằng việc có Glaedr theo dõi càng làm cho cô quyết tâm chứng tỏ bản thân hơn.

Nàng làm nó sốc khi gầm một tiếng nho nhỏ, tựa như tiếng mèo. Giống như nụ cười trước đó, tiếng kêu của nàng là một thứ hiệu quả để làm nó xao lãng. Và điều đó có hiệu quả, nhưng chỉ một phần, nó đã đề phòng , dù lần này hơi khác trước.

Arya thu gọn khoảng cách giữa hai người chỉ với một cú nhảy và bắt đầu áp đảo nó bằng những nhát chém, nó dung khiên đỡ đòn. Nó để nàng tấn công mà không phản khán lại, như thể những cú đánh quá mạnh và nó không thể làm gì hơn việc phòng thủ. Với những tiếng kêu răng rắc từ tay và vai, nó lùi dần về phía bên phải, vấp váp và làm tăng ấn tượng rằng nó đang bị đẩy lùi. Nó vẫn bình tĩnh và giữ cảm giác trống rỗng.

Nó biết rằng thời cơ sẽ đến trước khi khi nó kịp nhận ra, và khi nó đến, nó phải hành đồng mà không cần suy nghĩ hay do dự , không cố gắng quá nhanh hay quá chậm, chỉ chớp lấy thời khắc đó ngay lập tức, hoàn hảo.

Thanh kiếm của Arya bổ xuống nó như một quầng sét, nó lách qua, xoay lưỡi kiếm trong khi mặt trời rọi phía sau lưng nó.

Lưỡi kiếm của Arya cắm phập xuống đất.

Arya xoay đầu lại, để giữ nó trong tầm nhìn, và sai lầm này đã làm nàng nhìn thẳng vào mắt trời. Nàng nháy mắt, và thấy nhiều chấm đen nhỏ.

Trong lúc cô đang bị lóa mắt, Eragon đâm Brisingr dưới cánh tay trí của cô, nhắm vô xương sườn. Nó có thể đâm vào gáy hoặc cổ nàng- nếu chiến đấu thực sự---nhưng nó không làm thế, với thanh kiếm cùn, một nhát chém như vậy có thể gây chết người.

Arya kêu lên khi bị chạm phải bởi thanh Brising, nàng lùi lại nhiều bước. Nàng đứng yên, cánh tay ép bên cạnh nhăn trán do đau và nhìn chằm chằm vào nó với một biểu hiện kỳ lạ.

Xuất xắc! Glaedr gầm lên. Lại một lần nữa!

……………………..

Eragon hài lòng; sau đó nó trở lại trạng thái cảnh giác.

Khi Arya bình tĩnh, nàng hạ cánh tay xuống. Eragon và nàng cẩn thận vờn nhau cho tới khi ánh mặt trời không còn chiếu rọi, họ mới vào cuộc. Eragon nhanh chóng để ý thấy Arya e dè với nó hơn trước. Bình thường nó sẽ hãi lòng và tấn công mãnh liệt hơn, nhưng lần này nó kiềm chế lại vì nó biết nàng hành động đều có mục đích. Nếu nó nuốt mồi, nó sẽ nhanh chóng thất bại dưới tay nàng như thường vẫn thế.

Cuộc đấu chỉ kéo dài chó vài giây nhưng nó cũng đủ cho họ giao nhau vài đường kiếm mãnh liệt. Khiên nứt, những mảng cỏ bay lìa khỏi mặt đất, kiếm va chạm kiếm, cơ thể họ xoắn vặn trong không khí như hai cột khói.

Cuối cùng thì kết quả vẫn như cũ. Eragon vượt qua hàng phòng thủ của Arya nhờ lừa đòn khéo. Thế là nó chém ngang ngực Arya, từ vai tới xương ức.

Arya loạng choạng khuỵu gối. Nàng cau có và thở nặng nhọc qua lỗ mũi đang phập phồng. Má nàng trắng bệch tới khác thường, trừ vết xưng tấy đỏ sẫm ở hai bên.

Lại! Glaedr ra lệnh.

Eragon và Arya làm theo. Với hai lần chiến thắng, Eragon không còn cẩn trọng nữa nhưng Arya thì không.

Trận tiếp theo không phân thắng bại; Arya qua được hết các mánh của Eragon và nó cũng thế. Họ chiến đấu mãi cho tới khi cả hai đều quá mệt mỏi không còn đủ sức tiếp tục. Họ dựa vào thanh kiếm vì giờ chúng quá nặng khiến họ không thể nhấc lên nổi. Họ thở dốc, mồ hôi đầm đìa trên mặt.

Lại, Glaedr trầm giọng nói.

Eragon loạng choạng nhổ thanh Brisingr khỏi mặt đất. Nó càng kiệt sức, đầu óc nó càng rối loạn và càng không thể tảng lờ cơ thể đang biểu tình của mình. Ngoài ra, càng lúc nó càng không thể duy trì tinh thần minh mẫn và khó tránh cơn tức giận thường làm quấy nhiễu nó khi nó muốn nghỉ ngơi. Nó đoán ông Glaedr đang cố dạy nó đương đầu với tình thế này.

Vai nó nóng lên khiến nó khó lòng giơ khiên và kiếm. Thay vào đó, nó giữa chúng ngang hồng và mong sao khi cần nó có thể nhanh chóng nâng chúng lên. Arya cũng vậy.

Họ vẫn tấn công nhau theo bài cũ.

Eragon đã sức cùng lực kiệt nhưng nó không chịu bỏ cuộc. Nó không biết vì sao nhưng đối với nó cuộc giao đấu của họ không chỉ là màn kiểm tra tay chân; mà thành bài kiểm tra nó là ai; tính cách của nó; sức mạnh của nó và sự kiên cường của nó tới mức nào. Không phải Glaedr đang kiểm tra nó mà là Arya. Dường như nàng muốn thứ gì từ nó, dường như nàng đang muốn nó chứng tỏ một điều gì... nó không biết nhưng nó quyết tâm cho nàng thấy nó có thể. Nếu nàng muốn giao đấu bao lâu, nó sẽ chơi tới cùng, dù nó sẽ đau đớn thế nào.

Mồ hôi nhỏ vào mắt trái nó. Nó chớp mắt và Arya hét lớn và lao tới.

Một lần nữa họ quấn lấy nhau trong điệu khiêu vũ chết chóc, một lần nữa họ chiến đấu tới sống còn. Mệt mỏi làm họ vụng về nhưng họ vẫn hòa điệu với nhau không cho ai giành phần thắng.

Cuối cùng, họ đối diện với nhau, khóa kiếm vào nhau, đẩy nhau bằng chút sức lực cuối cùng.

Rồi, khi họ đứng đó, đấu qua lại không phân thắng bại, Eragon mạnh mẽ, trầm giọng nói, “Ta...đã...thấy...nàng.”

Một tia sáng lóe lên trong mắt Arya rồi biến mất rất nhanh.

A heart to heart

Glaedr để hai người đánh them hai hiệp nữa. Càng về cuối thì hiệp đấu lại ngắn hơn trước, và kết quả thì thường là hòa, điều này không làm hài long rồng vàng như Eragon và Arya.

Glaedr muốn hai đứa nó đánh tiếp để phân thắng bại, nhưng kết thúc buổi tập, cả hai lả đi và nằm lăn ra nền đất, bênh cạnh nhau, hớp lấy từng ngụm không khí, và Glaedr phair thừa nhận rằng sẽ phản tác dụng nếu bắt hai đứa nó tập tiếp.

Khi cả hai đủ sức đứng dậy, Glaedr yêu cầu hai đứa về lều của Eragon.

Đầu tiên, với sự sợ giúp của Saphira, tụi nó chữa các vết thương bằng phép thuật. Sau đó tụi nó cầm 2 tấm khiên vỡ đưa cho thợ rèn chính của Varden, Fredric, và nhận lấy hai tấm mới thay thế, không quên cho một bài giảng dạy về việc sử dụng vũ khí của hai đứa nó.

Khi quay lại lều, nó thấy Nassuada đang đợi tụi nó, với cận vệ đi kèm. “Chỉ là vấn đề thời gian” cô mỉa mai “trước khi hai người cắt nhau ra từng mảnh, chúng ta cần nói chuyện”. Cô ngưng nói, cúi đầu bước vô lều

Blodhgarm và các pháp sư thần tiên khác, đứng thành vòng tròn bao quanh lều, Eragon có thể thấy điều này làm các cận vệ của Nassuada không thoải mái.

Eragon và Arya theo Nassuada vô lều, Saphira làm họ ngạc nhiên bằng cách thò đầu qua cửa lều và làm căn phòng tràn ngập mùi khói và thịt.

Sự xuất hiện bất ngờ của Saphira làm Nassuada giật lùi lại, nhưng cô nhanh chóng lấy lại vẻ bình tĩnh. Nhìn vào Eragon, cô hỏi:” có phải tôi đã cảm nhận được tâm trí của Glaedr đúng không?”

Nó đảo mắt nhìn ra ngoài lều, hy vọng rằng các cận vệ đứng đủ xa để nghe thấy, và gật đầu, “đúng thế”

“Ôi, tôi biết mà” cô kêu lên, vẻ hài lòng. Cô ngập ngừng:” tôi có thể nói chuyện với ông ấy được không? Điều đó có được phép hay không, hay ông ấy chỉ nói chuyện với kị sĩ và thần tiên?”

Tôi sẽ nói chuyện với cô, Nassuada, con gái của Ajihad, Glaedr nói, giọng nói của ông vang trong đầu họ. Hỏi tôi những gì cô thắc mắc, và để chúng tôi tiếp tục công việc; có nhiều thứ cần phải hoàn thành để chuẩn bị cho Eragon đối mặt với những thách thức.

Eragon chưa bao giờ trông thấy Nassuada sợ vậy, cô hỏi:” ông ở đâu?” Cô thì thầm, và đan tay vào nhau.

Nó chỉ vào góc giường.

Nassuada đảo mắt nhìn, và gật đầu, cô ấy đứng dậy, kính cẩn chào Glaedr. Cuộc giao tiếp có vẻ thoải mái hơn, trong suốt buổi nói chuyện, Nassuada hỏi thăm sức khỏe Glaedr và Varden có thể làm được gì cho ông không. Ngau câu hỏi đầu tiên của cô đã làm Eragon lo lắng----Glaedr đã lịch sự trả lời rằng ông ấy vẫn khỏe, cảm ơn, và vấn đề thứ hai, ông không cần gì từ Varden, mặc dù ông dánh giá cao tấm lòng của cô. Tôi không cần ăn, ông nói tôi không cần uống, cũng như không cần ngủ, như cô hiểu. Điều duy nhất làm tôi hài lòng, điều tôi ham muốn nhất, là làm thế nào để mang lại sự thất bại cho Galbatorix

“Vâng” Nassuada nói, “tôi hiểu, tôi cũng có chung một mong muốn.”

Sau đó cô hỏi Glaedr có cách nào để Varden chiếm Dras Leona mà tổn thất ít nhất về nhân mạng và vật chất không, rồng vàng đáp, tôi chưa có giải pháp nào khả thi cả, tôi sẽ tiếp tục suy nghĩ về nó, nhưng bây giờ, tôi chưa thấy con đường nào cho Varden. Nếu chỉ có Murtagh và Thorn, tôi có thể dễ dàng xâm chiếm trí thức chúng. Tuy nhiên, Galbatorix đã đưa chúng quá nhiều Eldunari. Kể cả có sự trợ giúp của Eragon, Saphira, và các thần tiên, khả năng chiến thắng vẫn không phải là điều chắc chắn.

Thất vọng, Nassuada lặng người đi trong chốc lát, cô xiết chặt tấm váy cảm ơn Glaedr đã tiếp chuyện. Cô cuis đầu chào tạm biệt, bước vòng qua Saphira một cách cẩn thận, tránh đụng vô cô em rồng.

Eragon ngồi tựa lên giường thư giãn, Arya thì ngồi trên một gốc cây đã được đẽo gọt. Nó chùi tay trên đầu gối, tay nó rít ráy, nó mời Arya uống một ít nước, nàng nhận nó với lòng biết ơn. Nó nuốt khan một vài ngụm nước. Trận đấu tập làm nó cảm thấy đói cồn cào. Nước chỉ làm dịu đi phần nào, nó mong sao Glaedr không giữ nó lâu hơn nữa. mặt trời đã lặn và nó muốn một bữa ăn nóng từ bếp Varden trước khi họ tắt bếp. Nếu không, nó sẽ lại phải gặm bánh mì cũ, một dải thịt khô, pho mát cừu mốc, nếu may mắn có thể nó sẽ có triển vọng được them một hai củ hành tây nữa.

Sau khi giải lao một chút, Glaedr bắt đầu nói về các kĩ năng khi quyết đấu bằng tâm trí, hầu hết là những điều nó đã biết, nhưng khi rồng vàng bắt nó làm điều gì, nó im lặng làm theo và không phàn nàn gì cả.

Họ nhanh chóng bỏ qua phần lí thuyết để bắt đầu thực hành. Glaedr bắt đầu bằng cách thử mức độ phòng thù của Eragon, dần dần tăng thêm sức mạnh, cả hai bắt đầu tấn công để giành quyền kiểm soát lẫn nhau, dù trong phút chốc, để đọc được suy nghĩ người kia.

Trong lúc tập luyện, Eragon nằm im, mắt nhắm ghiền, tập trung tất cả năng lượng vô trận bão trong tậm tưởng giữa nó và Glaedr. Trận đấu tập buổi chiều đã làm nó mệt nhoài, mụ mị, trong khi Glaedr vẫn sung sức, chưa tính tới việc ông có quyền năng thực sự mạnh mẽ. Thực sự khó khăn để Eragon có thể làm gì khác hơn là phòng thủ trước sự tấm công của Glaedr. Nhưng nó biết rằng trong một trận đấu thực sự, Glaedr

vẫn sẽ là người chiến thắng

Sau hai cuộc đọ sức, Glaedr rút lui—rất nhẹ nhàng, và làm khán giả, trong khi Arya thay thế làm đối thủ của Eragon. Nàng cũng mệt như Eragon, nhưng nó nhanh chóng nhận ra rằng, khi bước vô một trận đấu trong tâm trí, nàng vẫn hơn nó một bật, nàng đã gần như giết nó, kể cả khi bị đánh thuốc độc từ hồi ở Gil’ead. Sự suy nghĩ của Glaedr tuy tập trung và kỉ luật, nhưng thậm chí ông vẫn không thể xuyên qua hang phòng ngự của nàng.

Khả năng tự chủ là một đặc tính mà Eragon nhận thấy khi sống chung với thần tiên. Nhất trong số đó là Oromis, người mà Eragon thấy là, dường như không một điều gì nhỏ nhặt nhất có thể làm ông bận lòng. Kiềm chế là một đức tính bẩm sinh của nòi giống họ, là kết quả tự nhiên của một nền giáo dục nghiêm ngặt, và sử dụng ngôn ngữ cổ. Nói và suy nghĩ bằng thứ ngôn ngữ mà không thể nói dối- và mỗi từ ngữ chứa đựng đầy ma thuật bên trong. Sự bất cần trong nói và suy nghĩ sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Theo lẽ đó, thân tiên trở nên tự chủ hơn so với các chủng loài khác.

Nó và Arya vật lộn trong tâm trí vài phút, nó cố gắng thoát khỏi sự kiềm cặp tư tưởng của nàng, còn nàng thì cố với theo để áp đặt suy nghĩ lên nó. Nàng bắt được tư tưởng của nó nhiều lần, nhưng nó luôn thoát kịp sau một hai giây, nó biết, nếu nàng muốn gây tổn hại nó, thì nó không có cơ hội để trốn thoát.

Và mỗi khi tâm trí nó và nàng chạm vào nhau, Eragon lạ cảm nhận thứ âm điệu hoang dã đầy mê hoặc từ sâu thẳm bên trong Arya. Chúng cuốn hút nó ra khỏi cơ thể mình và đưa nó vào sâu trong mạng lưới của những giai điệu kì lạ, thánh thót mà không thể tìm ra trên cõi đời này. Nó cảm thấy hạnh phúc khi bị bỏ bùa bằng âm nhạc, quên cả việc chống chọi lại những đòn tấn công của Arya, như một con người bất chấp và bị mê hoặc trong tâm trí của thần tiên. Nó phải thoát ra. Nó là một kị sĩ. Nó khác biệt. Đó là mối nguy mà nó không thể chấp nhận, chừng nào nó còn tỉnh táo. Nó đã nghe rằng thâm nhập vào tâm trí Blodhgarm đã làm cho Garven, cận vệ của Nassuada trở nên mơ mộng ngớ ngẩn

Vì vậy, nó chống lại sự cám dỗ, một cách khó khăn

Saphira và Glaedr tham dự vào trận chiến, khi thì đối đầu, khi thì hỗ trợ nó, rồng già nói, ngươi cũng phải luyện kĩ năng như Eragon, vảy sáng ạ. Việc có Saphira tham chiến đã làm thay đổi cục diện trận đấu. Cùng cô em rồng, nó đã có thể chống lại được Arya, dù không dễ dàng gì. Sự kết hợp còn cho phép nó chế phục Arya hai lần. Khi Saphira lien kết với Arya, cả hai làm Eragon từ bỏ mọi nỗ lực tấn công, thay vào đó, nó thu hẹp tâm trí, như một con thú bị thương, chờ từng đợt tấn công của cả hai qua đi.

Cuối cùng, Glaedr chia hai cặp---Ông và Arya, Eragon và Saphira và họ đấu đôi, họ giả định một trận đấu thực sự giữa hai cặp kị sĩ và rồng. Sau vài phút vất vả, chúng đã ăn ý hơn, nhưng kết trận, trước sức mạnh và kinh nghiệm của Gleadr, và sự kết hợp ăn ý với trình độ điêu luyện của Arya đã vượt qua Eragon và Saphira, chúng không có một cơ hội nào để đương đầu lại.

Sau đó, nó thấy vẻ bất mãn của Glaedr. Bối rối, nó nói, Chúng con sẽ làm tốt hơn vào ngày mai, sư phụ

Tâm trạng Glaedr tối tăm hơn nữa. Trông ông cũng có vẻ mệt mỏi cho luyện tập. Các con đã làm tốt, hậu bối. Ta không thể yêu cầu ở con nhiều hơn như những đệ tự của ta được đào tạo tại Vroengard trước đây. Thật sự là bất khả thi khi bắt các con học những gì cần học trong vài ngày, vài tuần. Thời gian trôi nhanh như nước trôi qua kẽ răng chúng ta, và tất cả sẽ qua đi. Phải mất nhiều năm để trở thành bậc thầy trong nghê thuật chiến đấu trong tâm trí: nhiều thế kỉ, nhiều thập kỉ, và thậm chí sau đó, vẫn còn nhiều điều để tìm hiểu, khám phá về bản thân, về kẻ thù, về nền tảng của thế giới. Ông ấy gầm lên, rồi im lặng

Vậy chúng ta sẽ học những gì có thể và đối mặt với trận chiến. Eragon nói. Galbatorix có thể có cả hàng trăm năm để tôi luyện tâm trí, những cũng đà hàng trăm năm hắn không được những bậc tiền bối như người chỉ dạy. Hắn sẽ quên thứ gì đó. Với sự giúp đỡ của người, chúng con sẽ đánh bại được hắn.

Glaedr khục khục. Miệng lưỡi ngươi ngày càng dẻo hơn đấy, Eragon khắc tinh của Tà thần ạ. Nói thế, nhưng giọng rồng vàng có vẻ rất hài lòng. Ông nhắc bọn nó ăn uống và nghỉ ngơi, sau đó ông rút lui khỏi tâm trí bọn nó và không nói gì thêm

Eragon biết rằng ông vẫn đang dõi theo tụi nó, nhưng nó không bắt gặp tư tưởng của ông nữa. Một cảm giác trống vắng khẽ lướt qua.

Cái lạnh lùa qua tay chân nó, nó rùng mình.

Nó, Saphira và Arya ngồi lặng thinh trong góc tối của lều, không nói năng gì. Sau đó, để tỉnh táo, nó nói:” ông ấy có vẻ khá hơn” giọng nó khàn khàn, nó quay mình và tìm bình đựng nước.

“thật là tốt cho ông ấy” Arya nói “ Chàng thực sự đã giúp ông ấy nhiều. Nếu không có mục đích sống….nỗi buồn đã có thể giết chết ông. Việc ông còn sống sót quả thực….may mắn. Tôi rất cảm phục ông. Có rất ít người, thần tiên, hay rồng có thể gượng qua nỗi đau như vậy.

“Brom đã làm được”

“Ông ấy quả thực rất kiên cường”

Nếu chúng ta tiêu diệt được Galbatorix và Shruikan, Công nương nghĩ Glaedr sẽ làm gì? Saphira hỏi. Ông ấy sẽ tiếp tục hay…dừng lại.

Mắt Arya phản chiếu ánh sáng lấp loáng khi cô quay lại đối diện Eragon và Saphira. Chỉ có thời gian mới trả lời được, tôi khi vọng không, nhưng nếu chúng ta vượt qua Uru’baen, có lẽ ông sẽ cảm thấy rằng ông không thể sống tiếp, mà không có Oromis.

“Chúng ta sẽ giúp ông vượt qua”

Em đồng ý.

“Chúng ta sẽ không thể ngăn cản nếu ông quyết định sẽ tan vào hư không” Giọng Arya nghiêm khắc. Quyết định là do ông, chỉ mình ông thôi.

“Chúng ta có thể động viên và cho ông thấy rằng cuộc sống vẫn còn có ý nghĩa”

Nàng im lặng một lúc, khuôn mặt nghiêm lại;” tôi cũng không muốn ông ấy chết. Không một thần tiên nào muốn. Tuy nhiên, nếu tiếp tục cuộc sống làm ông đau khổ, thì tốt hơn là để ông ấy được giải thoát.”

Cả Eragon và Saphira không ai đáp lại.

Cả ba lại tiếp tục bàn luận những chuyện xảy ra gần đây trong một lúc. Sau đó Saphira rút đầu ra khỏi lều, nằm ở bãi cỏ bên cạnh. Em cảm thấy mình như một con cáo đang đút đầu vào cái hang thỏ vậy. Cô nàng phàn nàn. Nó làm da em ngứa ngáy, em sẽ không thể phát hiện nếu có ai lén leo lên người em.

Eragon nghĩ rằng Arya sẽ rời khỏi lều ngay, nhưng ngạc nhiên, nàng vẫn ngồi lại, và tiếp tục nói chuyện với nó. Cơn đói của nó dai dẳng suốt buổi tập đấu tinh thần với nàng, Saphira và Glaedr. Trong trường hợp này, nó sẵn sàng đánh đổi một bữa ăn nóng sốt để hầu chuyện làm vui lòng nàng.

Màn đêm bao quanh hai người, và trại yên tĩnh hơn trong khi hai người nói chuyện hết chủ đề này tới chủ đề khác. Nó cảm thấy choáng do kiệt sức và hồi hộp---như thể đã uống quá nhiều rượu----nó thấy Arya bình dị hơn thường ngày. Cả hai nói về nhiều thứ: Glaedr và trận đấu của họ, bao vây Dras Leona và sẽ làm những gì; và những việc ít quan trọng hơn, như là những con cò Arya thấy ở góc bờ hồ, cái vảy ở mũi Saphira bị mất, thời tiết thay đổi và dần lạnh hơn. Rồi cuối cùng họ lại trở về chủ đề luôn hiện hữu trong đầu họ, Galbatorix và cái gì đang chờ họ tại Uru’baen.

Trong khi họ đang suy đoán, rất nhiều lần, những cái bẫy ma thuật nào Galbatorix đang cài để bẫy họ và cách nào tốt nhất để vượt qua, Eragon nghĩ về câu hỏi của Saphira về Glaedr và nói: “Arya?”

“Sao” Cô đáp, giọng dịu dàng.

“Nàng sẽ làm gì sau hi kết thúc chuyện này?” nếu như chúng ta vẫn còn sống

“Chàng sẽ làm gì?”

Nó nhịp nhịp ngón tay vào thanh Brisingr và cân nhắc câu trả lời: “tôi không biết, chưa bao giờ tôi để tâm trí vượt quá Uru’baen…..Có lẽ tùy vào việc Saphira muốn gì, có lẽ tôi và Saphira sẽ trở lại thung lũng Palancar. Tôi có thể xây một ngôi nhà lớn dưới chân một trong những ngọn núi. Có thể chúng tôi sẽ ít ở đấy, nhưng ít ra chúng tôi sẽ có nhà để về sau khi bay khắp đất nước Alagesia và các nơi khác” Nó cười mỉm “ Tôi chắ rằng sẽ có nhiều thứ làm chúng tôi bận rộn, ngay cả khi Galbatorix chết….Nhưng nàng vẫn chưa trả lời ta, nàng sẽ làm gì khi chúng ta thắng, chắc hẳn nàng có nhiều dự định. Nàng đã suy nghĩ về nó nhiều hơn ta.

Arya gác một chân lên gốc cây, vòng hai tay ôm lấy chân, và tựa cằm lên đầu gối. Dưới ánh sáng mờ ảo, khuôn mặt nàng nổi lên giữa phông màn tối xung quanh.

“tôi đã có thời gian sống giữa người và người lùn nhiều hơn giữa các alfakin” nàng nói, sử dụng tên gọi thần tiên trong ngôn ngữ cổ. “tôi đã lớn lên ở đó, nhưng tôi không muốn trở lại sống ở Elleme’ra. Quá ít sự việc diễn ra ở đó, hàng thế kỉ trôi qua trong khi bạn ngồi đó, ngắm và chiêm nghiệm các vì sao. Không, tôi sẽ tiếp tục phục vụ mẹ tôi như một sứ giả. Lí dó đã khiến tôi rời khỏi Weldenvarden bởi vì tôi muốn giúp thế giới này cân bằng. Như chàng nói, sẽ còn nhiều thứ cần phải làm sau khi tiêu diệt được Galbatorix, nhiều thứ cần được đưa vào quỹ đạo, tôi muốn là một phần trong đó.”

“Ừm” đó không phải là điều nó hy vọng nghe nàng nói, nhưng ít ra điều này làm nó vẫn còn có cớ để liên lạc với nàng sau này, sau khi vượt qua Uru’baen, nó vẫn sẽ được gặp nàng, như bây giờ.

Nếu Arya nhận ra vẻ bất mãn của nó, nàng cũng sẽ tỏ vẻ gì.

Hai đứa nói chuyện một lúc nữa, rồi nàng cáo lui và duyên dáng quay đi.

Nàng bước đi qua nó, nó với theo, như thể muốn giữ nàng lại, rồi rụt tay lại.”Đợi đã” nó nói yếu ớt.Không chắc hy vọng gì, nhưng vẫn hy vọng. Tim nó đập mạnh, tai nó lùng bùng, má đỏ lựng.

Arya dừng bước trước cửa lều, không quay lại:”ngủ ngon,Eragon” nàng nói. Rồi bước qua cửa lều, biến mất trong màn đêm, để nó lại một mình trong bóng tối.

PHÁT HIỆN

Đối với những Varden thời gian có thể trôi chậm nhưng đối với Eragon ba ngày trôi qua như tên bắn. Thế cân bằng vẫn duy trì trên chiến trường Dras – Leona dù hiện tại Thorn đã thay đổi chỗ nằm yêu thích từ trên cổng thành trước sang khu thành lũy cách đó vài trăm mét về phía bên phải. Sau nhiều cuộc tranh cãi – và sau khi thảo luận kỹ lưỡng với Saphira – Nasuada và cố vấn của cô đã kết luận rằng Thorn chuyển chỗ chỉ vì nó thích thế; khu thành lũy bằng phẳng hơn và rộng rãi hơn. Ngoài ra, cục diện chiến trường chẳng có gì thay đổi.

Trong lúc đó, Eragon dành buổi sáng và buổi tối mỗi ngày học tập cùng Glaedr còn buổi chiều để luyện kiếm cùng Arya và vài tiên nhân khác. Cuộc đấu kiếm với các tiên nhân không dài và mệt mỏi như với Arya – nó chẳng tội gì phải tự mình làm khổ mình – nhưng những buổi học cùng Glaedr căng thẳng kinh khủng. Con rồng già không bao giờ từ bỏ chuyện nâng cao kỹ năng và tri thức cho Eragon và ông không cho phép nó phạm sai lầm hay tỏ ra mệt mỏi.

Eragon vui mừng vì cuối cùng nó cũng đấu ngang cơ với các tiên nhan. Nhưng chỉ cần nó lơi là một giây thôi là kiếm sẽ gí sát xườn nó hoặc kề cổ nó.

Nếu trong hoàn cảnh bình thường những cố gắng học hành của nó sẽ được coi là tiến bộ vượt bậc, nhưng trong điều kiện hiện tại, cả nó và Glaedr đều thấy chưa hài lòng.

Vào ngày thứ hai, trong tiết học sáng với Glaedr, Eragon nói, Thưa thầy, hồi con mới gia nhập quân Varden ở Farthen Dûr, cặp Song sinh đã thử khả năng của con – họ kiểm tra khả năng ngôn ngữ cổ và phép thuật.

Con đã nói với Oromis rồi. Sao giờ con lại nhắc lại?

Vì tự nhiên con nghĩ... cặp sinh đôi yêu cầu con triệu hồi hình dạng thực của chiếc nhẫn bạc. Lúc đó con không biết cách. Arya sau đó đã giải thích cho con: bằng cách nào con có thể dùng ngôn ngữ cổ gọi lên hình dáng thật của bất cứ tạo vật gì. Nhưng thầy Oromis chưa bao giờ dạy con và con muốn biết...vì sao ạ?

Glaedr dường như đang thở dài. Triệu hồi hình dáng thực là một dạng phép thuật khó. Để làm được, con buộc phải hiểu được vật đó – con phải làm thế để đoán được tên thật của một người hay một vật. Hơn nữa con cần thực hành nhiều. Và chuyện đó cũng khá nguy hiểm. Rất nguy hiểm. Câu thần chú đó không tạo nên một quá trình mà con tùy ý muốn kết thúc lúc nào thì kết thúc. Nếu con không gọi thành công hình dáng thật của vật đó...con sẽ chết. Oromis không muốn con gặp nguy hiểm và con cũng chưa học đủ để bàn luận tới chủ đề đó.

Eragon rùng mình khi nhớ lại Arya đã tức giận thế nào vì cặp Song sinh bắt nó triệu hồi hình dáng thật của chiếc nhẫn. Sau đó nó nói, Giờ con muốn thử.

Eragon cảm thấy toàn bộ tâm trí Glaedr đều dồn vào nó, Vì sao?

Con muốn biết giờ tầm hiểu biết của con tới đâu, dù chỉ đối với một vấn đề nhỏ

Ta hỏi con một lần nữa: Vì sao?

Eragon không thể giải thích bằng từ ngữ, thế là nó phóng những ý nghĩ và cảm giác của mình về phía Glaedr. Khi nó đã xong, Glaedr im lặng trong chốc lát để hiểu được luồng tư tưởng. Cuối cùng rồng vàng thủng thẳng nói, Ta hiểu con cho là nếu con làm được điều này mà còn sống, con có khả năng đánh bại Galbatorix có đúng không?

Vâng, Eragon nhẹ nhõm trả lời. Nó không thể giải thích lý do của mình rõ ràng như ông rồng nhưng quả đúng là như vậy.

Vậy là con quyết thử?

Vâng thưa thầy.

Con có thể chết đó, Glaedr cảnh báo.

Con biết.

Eragon! Saphira hét lên, ý nghĩ của cô bé nhạt nhòa trong tư tưởng của nó. Cô nàng đang bay trên doanh trại quan sát những nguy hiểm tiềm ẩn khi nó đang học cùng Glaedr. Quá nguy hiểm. Em không đồng ý.

Anh phải làm em ạ, nó bình tĩnh trả lời.

Glaedr nói với Saphira cũng như Eragon, Nếu cậu ta đã muốn, tốt nhất hãy để cậu ấy thử khi ta có thể quan sát được. Nếu cậu ta thất bại, có thể ta sẽ giúp cho cậu ta thêm kiến thức và cứu cậu ta.

Saphira rống lên – sự giận dữ tràn ngập trong tư tưởng Eragon – và sau đó, từ ngoài lều, Eragon nghe thấy có một cơn cuồng phong cực lớn và những tiếng hét thất thanh của người và tiên khi cô nàng hạ cánh. Cô em nó hạ cánh cực mạnh khiến lều trại và mọi thứ trên đó rung chuyển.

Vài giây sau, cô bé chui đầu vào lều và lườm Eragon. Cô nàng thở hổn hển và hơi thở khiến tóc nó bay ngược và nước mắt nó nóng lên. Anh đúng là đồ đầu gạch, y sì Kull vậy, cô em nó nói.

Em cũng chẳng kém.

Môi cô bé cong lên điệu bộ gầm ghè. Sao chúng ta phải đợi? Nếu anh phải làm thì chúng ta cùng làm.

Trò muốn triệu hồi gì? Glaedr hỏi. Tốt nhất nên chọn thứ trò quen thuộc hàng ngày.

Eragon nhìn chung quanh sau đó nhìn chiếc nhẫn đá sapphire đang đeo trên tay phải. Aren... Hó hiếm khi tháo nhẫn ra từ hồi Ajhad đưa cho nó. Đó là kỷ vật của ông Brom. Nó đã trở thành một phần thân thể nó, như tay như chân nó. Nó đã nhìn nó hàng tiếng đồng hồ, nó nhớ rõ từng đường nét, từng nét chạm khắc và nhắm mắt nó cũng tưởng tượng ra nó. Nhưng nó không biết nhiều chuyện về chiếc nhẫn – nó đã trải qua tay bao chủ, thần tiên tạo ra nó thế nào, và đặc biệt trên nhẫn đó ếm và không ếm bùa phép gì.

Không... không phải Aren

Sau đó nó đưa mắt nhìn thanh Brisingr đang dựng cạnh võng. “Brisingr” nó lẩm bẩm.

Bựt thanh kiếm nhích lên khỏi vỏ vài centimet như thể có ai đẩy nó lên và một ngọn lửa nhỏ xuất hiện trên đầu vỏ kiếm, liếm lên cán kiếm. Ngọn lửa biến mất và thanh kiếm chui vào vỏ khi Eragon kết thúc câu thần chú vô ý này.

Brisingr, nó nghĩ chắc chắn vì lựa chọn này. Bà Rhunön đã tạo ra thanh kiếm nhưng chính nó mới là người sử dụng và là người cùng thợ rèn thần tiên này dùng tư tưởng rèn nên thanh kiếm. Nếu hỏi nó nó hiểu vật gì nhất, nó sẽ trả lời là thanh kiếm.

Trò chắc chứ? Glaedr hỏi.

Eragon gật đầu mà quên mất rồng vàng không thấy nó. Vâng thưa thầy... nhưng con có một câu hỏi: Brisingr có phải tên thanh kiếm không và nếu không con có cần tìm ra tên thật của nó để làm phép không ạ?

Brisingr là tên thật của nó. Tên thật của thanh kiếm thực ra rất phức tạp nhưng dù sao nó cũng bao gồm brisingr. Nếu con muốn con có thể tìm tên thật của nó nhưng nếu không con có thể gọi nó là Kiếm cũng được, miễn là trong đầu con con hiểu rõ nó. Tên chỉ là nhãn gắn cho một tri thức và con không cần một cái nhãn để dùng tri thức đó. Con hiểu không?

Con hiểu.

Vậy thì làm đi.

Eragon mất một lúc để tập trung. Sau đó nó tĩnh tâm và vươn ra cuốn lấy năng lượng trong cơ thể. Nó chuyển năng lượng đó thành từ ngử trong khi vẫn nghĩ về những điều nó biết về thanh kiếm:

“Brisingr!”

Eragon cảm thấy sức mạnh của nó tụt dốc. Thấy nguy hiểm, nó cố nói, cố cử dộng, nhưng câu thần chú buộc nó đứng im. Nó không thể chớp mắt hoặc thở.

Không giống lúc trước, thanh kiếm không biến thành lửa, nó rung lên như một hình phản chiếu trong nước. Sau đó trong không khí cạnh thanh kiếm, một hình ảnh mờ ảo như sương như khói xuất hiện: một hình phản chiếu hoàn hảo của Brisingr không nằm trong bao. Eragon thấy bản sao giống y hệt thanh kiếm thật và có phần nguyên bản hơn. NHư thể nó nhìn thấy hồn của thanh kiếm, cái hồn mà cả Rhunön, với bao nhiêu năm kinh nghiệm cùng kiếm cung cũng không thể nắm bắt nổi.

Ngay khi hình phản chiếu trở nên rõ nét, Eragon lại thở và chuyển động được bình thường. Nó duy trì câu thần chú thêm vài giây để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hình triệu hồi sao đó nó để câu thần chú bay đi và hình ảnh ma mị của thanh kiếm tan vào hư vô.

Khi nó biến mất, trong lều dường như tối một cách không ngờ.

Chỉ lúc đó Eragon biết Saphira và Glaedr đang tiếp xúc với tư tưởng của nó, quan sát từng ý nghĩ nhảy nhót trong đầu nó. Chưa bao giờ Eragon thấy hai con rồng căng thẳng tới vậy. NẾu nó chọc Saphira, nó đoán cô nàng sẽ giật mình tới xoắn cả người lại.

Nếu em mà chọc vào người anh, anh chỉ còn là một chấm nhỏ xíu à, cô nàng nhận xét.

Eragon cười và nằm xuống võng vì mệt.

Trong tư tưởng, Eragon nghe thấy tiếng như gió thổi qua cánh đồng hoang vắng vì Glaedr đã thư thái trở lại. Con làm tốt lắm, Khắc tinh của tà thần ạ. Lời khen của Glaedr khiến Eragon ngạc nhiên; từ hồi dạy Eragon tới giờ có mấy khi con rồng già khen nó đâu. Nhưng đừng thử lại nhé.

Eragon rùng mình và xoa tay để xoa đi cái lạnh tới tận xương tủy. Con đồng ý với thầy. Nó không muốn thử lại. Nhưng dù sao nó vẫn cảm thấy hài lòng. Nó đã chứng minh được rằng ít nhất nó làm được một điều mà không phải ai trong Alagaësia cũng làm được.

Nó có thêm hy vọng.

Sáng ngày thứ ba, Roran trở về Varden cùng với những người chiến hữu: họ đều mệt mỏi, người đầy vết thương và rệu rã vì di chuyển trên đoạn đường dài. Sự trở về của Roran đã khuấy động Varden trong vài tiếng – anh và những người khác được chào đón như những người anh hùng – nhưng bầu không khí tẻ ngắt nhanh chóng trở lại với toàn quân Varden.

Eragon nhẹ lòng vì thấy Roran. Nó vốn biết anh họ mình vẫn an toàn vì nó đã bói cầu vài lần kể từ khi anh nó đi. Nhưng được nhìn thấy anh bằng mắt đã khiến Eragon không còn mang nỗi lo lắng mà tới bây giờ nó mới nhận ra nó vẫn canh cánh trong lòng. Roran là người thân duy nhất của nó – không tính Murtagh – và Eragon không thể chịu nổi ý nghĩ nó sẽ mất anh.

Giờ được nhìn thấy Roran gần ngay trước mắt, Eragon lại thấy xót xa vì vẻ ngoài của anh. Nó biết Roran và những người khác kiệt sức nhưng Roran trông tiều tụy hơn những chiến hữu nhiều; trông anh như thể già đi năm tuổi. MẮt anh đỏ và thâm đen, lông mày dựng đứng, anh di chuyển cứng nhắc như mọi centimet trên người đều bị thâm tím. Và râu anh bị cháy một nửa trông lởm khởm kinh khủng.

Năm người – ít hơn số người lúc đầu mất một – trước tiên tới gặp khu y xá của Du Vrangr Gata gặp các pháp sư trị thương. Sau đó họ yết kiến Nasuada. Sau khi khen ngợi lòng dũng cảm của họ, Nasuada cho tất cả lui trừ Roran. Cô hỏi anh đầy đủ chi tiết cuộc hành trình tới và rời khỏi Aroughs cũng như quá trình chiếm thành phố. Tuy đã nghe kể vài lần, nhưng cả Nasuada và Eragon – đang đứng bên phải cô – đều lắng nghe chăm chú và thi thoảng hoảng sợ. Khi Roran nói xong, Nasuada khiến cả anh và Eragon ngạc nhiên vì bổ nhiệm Roran làm tiểu đoàn trưởng.

Eragon cứ nghĩ Roran sẽ vui nhưng nó lại thấy những nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt anh và trán anh nhăn tít. Tuy nhiên Roran không từ chối hay phàn nàn, anh chỉ cùi đầu khàn giọng đáp, “Vâng thưa tiểu thư Nasuada.”

Sau đó, Eragon cùng Roran đi về lều nơi Katrina đang đứng đợi. Cô chào đón Roran bằng một cử chỉ khiến Eragon phải che mắt vì xấu hổ.

Họ và Saphira ăn cùng nhau nhưng Eragon và Saphira xin phép ra về ngay khi có thể vì Roran đã quá kiệt sức còn Katrina muốn ở một mình cùng anh.

Khi nó và Saphira đi lang thang trong doanh trại, Eragon nghe có ai gọi từ đằng sau, “Eragon! Eragon! Đợi tý!”

Nó quay lại và nhìn thấy hiền triết Jeod gầy cao lênh khênh đang chạy lại, những sợi tóc bay phấp phới quanh khuôn mặt gầy của ông. Jeod đang cầm trong tay trái một tờ giấy da dê nhàu nhĩ.

“Cái gì đây?” Eragon lo lắng hỏi.

“Cái này!” Jeod kêu to và mắt sáng lên. Anh giơ tờ giấy ra mà lắc. “Tôi đã làm lại! Eragon! Tôi đã tìm ra cách!” Trong ánh sáng yếu ớt, vết sẹo trên đầu và thái dương anh trông trắng đến giật mình so với làn da màu đồng.

“Anh làm cái gì lại cơ? Tìm ra cách gì thế? Từ từ; tôi chẳng hiểu gì cả!”

Jeod lo lắng nhìn xung quanh rồi ghe sát lại thì thầm, “Tất cả những gì tôi đọc và nghiên cứu đã đem lại kết quả. Tôi đã tìm ra đường hầm bí mật dẫn tới Dras – Leona!”

QUYẾT ĐỊNH

“Giải thích lại cho tôi,” Nasuada nói.

Eragon nhúc nhích vì thiếu kiên nhẫn nhưng không nói gì.

Jeod ngửng cổ khỏi đống sách và chồng văn thư trước mặt, giơ cao một cuộn giấy mỏng buộc da đỏ và tường thuật lần thứ ba, “Theo như tôi được biết, khoảng năm trăm năm trước...”

Jörmundur phẩy tay ngắt lời. “Đứng nói dông dài. Kể những cái quan trọng thôi.”

Jeod lại nói lại. “Khoảng năm trăm năm trước, Nữ Hoàng Forna cử Erst Râu Bạc tới Dras – Leona hoặc đúng hơn tới thành phố sau này là Dras – Leona.”

“Vì sao lại cử ông ấy tới?” Nasuada hỏi trong khi đang nghịch mép cổ tay áo.

“Người lun lâm vào cảnh nội chiến, và Forna hy vọng với việc giúp Vua Radgar thiết kế và xây dựng vòng phòng thủ cho thành phố, họ có thể bảo vệ chính giống loài mình, mặc dù người lùn tự mình có thể tạo nên hàng phòng thủ cho Aroughs.”

Nasuada cuốn một sợi chỉ thừa trên ngón tay. “Và sau đó Dolgrath Chân Thọt giết Forna...”

“Đúng. Và Erst Râu Bạc không còn lựa chọn nào khác ngoài trở về Rặng núi Beor nhanh hết mức có thể để chống lại sự xâm lăng của Chân thọt. Nhưng” – Jeod giơ một ngón tay rồi mở cuốn sách bìa đỏ - “trước khi rời đi hình như ông đã bắt tay vào công việc. Cố vấn của vua Radgar, Lãnh chúa Yardley, đã viết trong tự truyện rằng Erst đã phác họa sơ đồ hệ thống cống trong lòng thành phố để tăng hiệu quả cho hàng phòng thủ.”

Từ cái bàn ở giữa phòng của Nasuada, Orik gật đầu nói: “Đúng. Nhưng ngươi phải cho chúng ta biết rõ các nó ở đâu và xây bằng loại đất đá gì. Ngoài ra, ngươi phải tìm ra lối vào bị vùi lấp ở đâu.”

Jeod nói tiếp. “Tất nhiên, Dras – Leona không có hệ thống ngầm vì thế tôi đoán rằng bản thiết kế của Erst chưa bao giờ được thực hiện. Nhưng, trong vài trang sau, Yardley lại nói...” Jeod chú mục xuống sách đọc, “...trong một sự kiện đau lòng nhất, quân phản nghịch đã đốt phá và cướp bóc rất nhiều hộ gia đình. Những binh lính lúc đó không kịp phản ứng vì mải làm việc dưới cống ngầm như những nông dân bình thường.”

Jeod hạ sách xuống. “Giờ, họ đào cái gì? Tôi không thể tìm thêm bằng chứng về những hoạt động tương tự trong và ngoài Dras – Leona, cho tới khi...” Anh đặt cuốn sách bìa đỏ xuống và cầm một cuốn sách bìa gỗ dày và nặng chịch lên. “Tôi tình cờ đọc được cuốn Cuộc đời Taradas và những bí mật sâu kín trong Kỷ nguyên Loài người, Người lùn và những thần tiên già cỗi nhất thì...”

“Cuốn sách đó có nhiều sai sót,” Arya nói. Cô đứng bên trái bàn, đặt cả hai tay lên bản đồ thành phố. “Tác giả biết quá ít về loài tiên và những gì không biết, ông ta bịa ra.”

“Có thể,” Jeoda nói, “nhưng ông ấy biết rất nhiều về loài người và những thứ con người chúng tôi tò mò muốn biết.” Jeod mở tới giữa cuốn sách và từ từ đặt xuống bàn. “Trong khi viết sách, Othman có nghiên cứu về chuyện này. Ông ta chủ yếu nghiên cứu về đạo Helgrind và những sự việc bất thường xảy ra xung quanh nó. Tuy nhiên ông cũng có nói đôi nét về Dras – Leona: Dân cư thành phố thường xuyên than phiền vì những âm thanh và mùi khác lạ bốc ra từ dưới đường và sàn nhà, đặc biệt vào ban đêm. Họ cho rằng đó là do ma quỷ và những sinh vật siêu nhiên gây ra, nhưng nếu thật sự là do những linh hồn thì thật sự tôi chưa bao giờ nghe về loại nào như thể vì các linh hồn thường tránh xa con người.”

Jeod gấp sách lại. “Mai mà Othman có đánh dấu vị trí phát ra những tiếng động lạ trên bản đồ Dras – Leona mà, như quý vị có thể thấy, hình thành một đoạn đường thẳng xuyên qua phần phố cổ.”

“Vậy ông nghĩ có thể có đường hầm ngầm ở đây,” Nasuada nói. Đây là một câu nói, không phải câu hỏi.

“Chính xác,” Jeod nói và gật đầu.

Vua Orrin ngồi cạnh Nasuada vốn kiệm lời bỗng cất tiếng. “Vậy là ông cũng chưa đưa chúng tôi bằng chứng chứng thực có tồn tại đường hầm. Nếu có một khoảng không dưới lòng thành phố, biết đâu nó chỉ là một căn phòng bí mật hay hầm mộ gì đó thì sao. Kể cả nó là đường hầm, chúng ta không biết nó có kéo ra tận ngoài Dras – Leona hay không và đường hầm đó dẫn tới đâu? Chẳng lẽ tới trung tâm lâu đài? Hơn nữa, theo những gì ông nói, đường hầm ngầm đó từ đầu đã không được hoàn thành.”

“Chắc chắn là đường hầm, thưa Đức Vua,” Jeod nói. “Không có một căn phòng hay hầm mộ nào lại dài và hẹp như vậy. Còn về chuyện nó có được hoàn thành hay không... chúng ta chỉ biết nó không được sử dụng cho mục đích ban đầu và còn được sử dụng ít nhất tới thời Othman. Như vậy, đường hầm ngầm, đường hầm bộ hay các ngài muốn gọi là gì cũng được đã phải hoàn thành ở một mức độ nào đó, không thì nước đã phá hủy nó từ lâu rồi.”

“Thế ông có biết lối ra – hoặc lối vào ở đâu không?” nhà vua hỏi.

Jeod lục tung những cuộn giấy trong một lúc trước khi lôi một tấm bản đồ Dras – Leona khác ra, lần này là tấm bản đồ địa hình. “Cái này tôi không chắc nhưng nếu nó dẫn ra ngoài thành phố, vậy thì lối ra sẽ nằm đâu đó quanh đây ...” Ông chỉ tay vào một điểm góc phía đông thành phố. Hầu hết các tòa nhà bên ngoài bức tường bảo vệ trung tâm Dras – Leona đều nằm ở phía tây, cạnh hồ. Điều này có nghĩa rằng khu vực Jeod vừa chỉ vào, dù là khoảng đất trông nhưng lại gần với trung tâm Dras – Leona hơn. “Nhưng nếu không ai đi khảo sát thì chúng ta cũng chẳng biết có đúng không.”

Eragon nhíu mày. Nó cứ nghĩ phát hiện của Jeod phải có gì chắc chắn hơn.

“Chúng tôi rất cám ơn vì những nghiên cứu của ngài, thưa Hiền triết Jeod,” Nasuada nói. “Một lần nữa ngài lại chứng tỏ được vai trò của ngài đối với Varden.” Cô đứng dậy và bước lại nhìn tấm bản đồ. Đường viền váy thướt tha trên đất. “Nếu chúng ta gửi một đội quân tới xem xét, có thể chúng ta sẽ khiến Triều đình nghi ngờ. Lúc đó dù cho đường hầm có thực sự tồn tại, chúng ta cũng không thể sử dụng nổi. Murtagh và Thorn có thể sẽ đón lõng chúng ta.” Cô nhìn ông Jeod. “Ông nghĩ đường hầm rộng tới mức nào? Bao nhiêu người có thể đi vào đó?”

“Tôi không biết. Có thể...”

Orik húng hắng rồi nói. “Đất ở đây mềm và giống đất sét lại còn có phù sa – không thể nào xây đường hầm ngầm nổi. Nếu Erst thông minh ông ấy sẽ không phác thảo ra một đường cống rãnh lớn; ông ấy sẽ làm sập vài con đường, hoặc gây sói mòn chân móng thành phố. Trẫm đoán nó không rộng hơn một mét đâu.”

“Quá hẹp, chỉ vừa một người,” Jeod nói.

“Quá hẹp, chỉ vừa cho một knurla,” Orik nói thêm.

Nasuada quay về chỗ ngồi và nhìn mông lung vào tấm bản đồ như thể đang nhìn thứu gì khác.

Sau một vài khắc im lặng, Eragon nói, “Tôi có thể đi tìm đường hầm. Tôi biết cách dùng phép thuật ẩn thân; lính canh sẽ không thể thấy tôi.”

“Có thể,” Nasuada nói thầm. “Nhưng tôi không thích chuyện cậu hay bất cứ ai loanh quanh chỗ đó. Khả năng quân Triều đình để ý rất cao. Nếu như Murtagh là người đứng gác thì sao? Cậu có thể lừa hắn không? Cậu có biết giờ khả năng của hắn tới đâu không?” Cô lắc đầu. “Không, chúng ta phải hành động như có đường hầm thật và theo đó mà đưa ra quyết đinh. Nếu quả thực nó không tồn tại, chúng ta cũng không mất gì... còn nếu nó có thực, chúng ta sẽ chiếm được Dras – Leona một lần và mãi mãi.”

“Nàng nghĩ gì vậy?” vua Orrin cẩn trọng hỏi.

“NGhĩ một cái gì đó táo bạo; ...không đoán trước được.”

Eragon khụt khịt mũi. “Có thể cô nên triệu tập Roran.”

“Tôi không cần Roran giúp bày mưu, Eragon.”

Nasuada lại im lặng và mọi người trong phòng, kể cả Eragon đều đợi xem cô nảy ra ý tưởng gì. Cuối cùng cô nhúc nhích người và nói, “Thế này nhé: chúng ta cho một tiểu đội đi mở cổng thành từ bên trong.”

“Nhưng bằng cách nào?” Orik thắc mắc. “Chuyện xử lý hơn trăm tên lính đứng gác đã đủ khó rồi, và tôi xin nhắc cho cô nhớ, trong đó còn có một con thằn lằn không lồ thở ra lửa đó. Chắc chắn cu cậu sẵn sàng xơi tái bất cứ thằng ngu nào đi mở cổng. Đấy là chúng ta còn chưa tính tới Murtagh.”

Trước khi cuộc thảo luận tiếp tục, Eragon nói. “Tôi có thể làm được.”

Câu nói đó có tác dụng ngay lập tức với cuộc nói chuyện.

Eragon cứ nghĩ Nasuada sẽ gạt ngay lời đề nghị của nó, nhưng nó ngạc nhiên vì cô cân nhắc mội hồi. Sau đó nó còn ngạc nhiên hơn vì cô nói. “Rất tốt.”

Bao nhiêu lời biện hộ Eragon nghĩ tới đã trôi đi khi nó kinh ngạc nhìn Nasuada. Chắc chắn cô cũng đồng quan điểm với nó ở một số khía cạnh.

Trong lều như chợ vỡ vì ai cũng tranh nói. Arya khiến mọi người dịu lại: “Nasuada, cô không thể để Eragon tự gây nguy hiểm cho mình. Không thể được. Hãy cho một vài pháp sư của Blödhgarm đi thay; tôi chắc chắn họ sẽ đồng ý giúp. Ngoài ra họ là một trong những chiến binh thông thái nhất cô có thể tìm.”

Nasuada lắc đầu. “Không một tên lính của Galbatorix nào dám giết Eragon – Murtagh không dám và những chiến binh tép riu nhất cũng không dám. Chúng ta nên tận dụng ưu thế đó. Hơn nữa, Eragon là pháp sư mạnh nhất của chúng ta, mà mở cổng thành tốn rất nhiều sức lực. Cậu ấy là người có cơ hội thành công lớn nhất.”

“Nhưng nếu chàng bị bắt thì sao? Chàng không thể chống nổi Murtagh. Cô biết mà!”

“Chúng ta sẽ dẫn Murtagh và Thorn đi chỗ khác và cho Eragon cơ hội cậu ấy cần.”

Arya hất cằm. “Thế nào? Chúng ta làm thế nào?”

“Chúng ta sẽ tấn công Dras – Leona từ phía nam. Saphira sẽ vay vòng quanh thành phố, đốt cháy vài căn nhà và giết chết lính canh trên tường. Thorn và Murtagh sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài đuổi theo nếu như Blödhgarm và các pháp sư thần tiên tạo ra một ảo ảnh của Eragon cưỡi trên lưng Saphira. Miễn là Murtagh không tới gần, hắn sẽ không thể nào biết được.”

“Cô muốn thực hiện chuyện này?”

“Đúng.”

Gương mặt Arya cứng lại. “Vậy thì tôi sẽ đi cùng Eragon.”

Eragon thấy nhẹ nhõm. Nó đã mong cô đi cùng nó nhưng nó không biết phải hỏi thế nào vì sợ nàng sẽ từ chối.

Nasuada thở dài. “Cô là con gái Islanzadí. Tôi không muốn đặt cô vào tình thế nguy hiểm. Nếu cô chết... Hãy nhớ xem mẹ cô đã phản ứng thế nào khi nghĩ Durza đã giết chết cô. Chúng tôi không thể nào mất đi sự hỗ trợ của thần tiên.”

“Mẹ tôi...” Arya ngậm miệng sau đó bắt đầu một câu khác. “Tôi có thể đảm bảo với cô, thưa tiểu thư Nasuada, Nữ hoàng Islanzadí sẽ không chấm dứt liên minh với Varden dù cho tôi có gặp chuyện gì. Cô không phải lo. Tôi sẽ đi cùng Eragon và hai pháp sư nữa của Blödhgarm.”

Nasuada lắc đầu. “Không. Cô chỉ có thể mang theo một. Murtagh biết số thần tiên bảo vệ Eragon. Nếu hắn để ý thấy hai hoặc hơn hai người biến mất, hắn sẽ nghĩ chúng ta có đặt bẫy gì ở đây. Hơn nữa, Saphira sẽ cần sự trợ giúp để thoát khỏi tầm với của Murtagh.”

“Ba người không đủ để hoàn thành nhiệm vụ khó tới mức đó,” Arya không chịu thua. “Chúng tôi sẽ không thể đảm bảo an nguy của Eragon chứ đừng nói tới mở cổng.”

“Vậy thì các người có thể mang theo một người của Du Vrangr Gata.”

Trên mặt Arya thoáng nét chế giễu. “Các pháp sư của các người không đủ sức mạnh hay kỹ năng cho nhiệm vụ này. Chúng tôi sẽ phải một chọi một trăm, có khi hơn. Cả những kiếm sĩ bình thường hay những pháp sư đã được đào tạo đều không bằng chúng tôi. Chỉ có thần tiên hoặc Kỵ sĩ...”

“Hoặc Tà thần,” Orik gầm gừ nói.

“Hoặc tà thần,” Arya nói thêm dù Eragon có thể thấy nàng đang tức giận. “Chỉ những người đó mới có thể hoàn thành một nhiệm vụ khó khăn thến ày. Và kể cả vậy còn chưa chắc đã thắng. Hãy để chúng tôi mang theo hai pháp sư của Blödhgarm. Không một Varden nào có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ này.”

“Vậy tôi có được không?”

Mọi người ngạc nhiên quay lại nhìn khi Angela bước ra từ một góc lều. Eragon còn không biết bà ta ở đó.

Bà dừng trước mặt Arya. “Vậy cô không phản đối nếu tôi đi cùng chứ, Älfa? Tôi không phải Varden nhưng tôi sẵn lòng đi cùng cô.”

Arya ngạc nhiên hơn khi thấy Arya cúi đầu nói, “Tất nhiên thưa nhà Thông thái. Tôi không có ý nói mỉa. Tôi rất vinh hạnh nếu bà đi cùng.”

“Tốt!” Angela reo lên. “Vậy thì chắc cô cũng không phản đối,” bà nói hướng tới Nasuada.

Nasuada lại lắc đầu. “Nếu bà muốn và Eragon lẫn Arya đều không phải đối vậy thì không có lý do gì mà bà không thể đi. Nhưng tôi không hiểu vì sao bà lại muốn đi.”

Angela hất lọn tóc xoăn. “Cô muốn tôi giải thích cho mọi quyết định của mình à.... Được rồi, nếu như thỏa mãn được trí tò mò của cô thì chúng ta cứ cho là tôi có thù hằn với mấy tên thầy tu dòng Helgrind và tôi muốn trả thù. Hơn nữa, nếu Murtagh xuất hiện, tôi có thể lừa hắn.”

“Hay chúng ta nhờ Elva đi cùng,” Eragon nói. “Nếu ai có thể giúp chúng ta tránh nguy hiểm..”

Nasuada nhíu mày. “Trong cuộc nói chuyện lần cuối, cô bé đã tỏ rõ quan điểm. Tôi sẽ không cúi đầu trước cô bé đó để xin giúp đỡ đâu.”

“Tôi sẽ nói,” Eragon nói. “Cô bé giận tôi và tôi sẽ đi hỏi cô bé.”

“Làm gì cậu muốn. Tôi không thích đưa một đứa bé – kể cả một đứa nhỏ được chúc phúc như Elva – vào chiến trường. Hơn nữa, chắc gì con bé có thể bảo vệ nổi mình.”

“Miễn là nỗi đau của những người xung quanh không quá lớn,” Angela nói. “Trong vài trận chiến trước con bé đã cuộn mình lại như quả bóng không thể nào di chuyển hay thở nổi.”

Con bé khó đoán được lắm. Nếu con bé muốn đi thì cậu phải để ý thật kỹ đó Eragon.”

“Vâng,” nó hứa.

Sau đó Nasuada bắt đầu thảo luaanjv ới Orrin và Orik về chiến thuật và Eragon rút lui vì nó không biết gì nhiều.

Nó phóng tư tưởng tới Saphira vẫn đang qua nó nghe ngóng chuyện xung quanh. Vậy em thấy sao? Nó hỏi. “Sao em im lặng thế? Anh nghĩ em muốn nói gì khi Nasuada nghĩ ra chuyện đột nhập Dras –Leona.

Em không nói gì vì em chẳng có gì để nói. Đây là một kế hoạch hay.

Em đồng ý?!

Chúng ta không còn là những đứa bé hèn nhát nữa, Eragon. Có thể kẻ địch của chúng ta đáng sợ nhưng chúng ta cũng thế. GIờ là lúc chúng ta nhắc cho chúng nhớ.

Em có phiền nếu chúng ta tạm xa nhau?

Tất nhiên là có, cô nàng rống lên.Dù anh có đi đâu, quân dịch vẫn sẵn sàng đập chết anh như đập ruồi. Nhưng anh không còn vô dụng như xưa. Sau đó cô nàng rừ rừ.

Anh, vô dụng? Nó nói theo kiểu giận dỗi vu vơ

Ừ, một chút. Nhưng giờ cú táp của anh nguy hiểm hơn rồi.

Em cũng thế.

Mmm...Em phải đi săn đây. Sắp có bão rồi và em sẽ không có cơ hội đi săn cho tới khi chúng ta tấn công xong.

Bay cẩn thận nhé, nó nói.

Sau đó nó cảm nhận được sự hiện diện của cô em biến mất. Nó chuyện sự chú ý lại cuộc thảo luận trong lều vì nó biết cuộc đời nó, và cả Saphira, sẽ phụ thuộc vào quyết định của Nasuada, Orik và Orrin.

__________________

DƯỚI ĐỒI ĐÁ

Eragon xoay vai để điều chỉnh áo giáp bên trong sao cho thoái mải dưới lớp áo chấn thủ.

Xung quanh họ là bóng tối tới nặng nề và ngột ngạt. Tầng mây dày che khuất trăng sao. Nếu như không có ánh sang từ ngọn đèn ma trên tay Angela, kể cả Eragon và các tiên nhân cũng chẳng thấy gì.

Thời tiết ẩm ướt. THi thoảng đôi lần Eragon cảm thấy vài giọt mưa lạnh buốt rơi xuống má nó.

Elva đã cười và từ chối khi nó nhờ cô bé giúp. Nó đã tranh luận khá lâu nhưng chẳng đi tới kết quả gì. Saphira thậm chí đã can thiệp, cô em nó đã bay xuống lều đứa bé phù thủy ở, chui cái đầu khổng lồ vào chỉ cách con bé có một mét, bắt cô bé nhìn vào cặp mắt xanh sang không chớp của Saphira.

Lúc đó Elva không còn cười nữa nhưng cô nhóc vẫn không đồng ý. Sự cứng đầu của cô nhóc khiến Eragon thất vọng. Tuy vậy, nó vẫn ngưỡng mộ cá tính mạnh của Elva; với cô nhóc này cả Kỵ sĩ lẫn rồng đều không là gì. Nhưng dù sao, cô nhóc đã phải chịu đựng quá nhiều nỗi đau và trải qua nhiều chuyện đau khổ mà kể cả những chiến binh nhiều năm cũng hiếm khi gặp phải.

Arya đang đứng cạnh nó, choàng áo choàng lên cổ. Eragon cũng mặt một cái, cũng như Angela và tiên nhân tóc đen Wydren, người Blödhgarm chọn ra để đồng hành với họ. Họ cần mặc áo choàng để chống lại cái lạnh cắt da cắt thịt của ban đêm và che giấu vũ khí khỏi tầm nhìn của cư dân thành phố, nếu như họ tới được đó.

Nasuada, Jörmundur và Saphira đã đi với họ tới rìa doanh trại. Trong các khu lều, những binh lính Varden, người lùn và Urgal đang bận rộn chuẩn bị cho trận chiến sắp tới.

“Đừng quên,” Nasuada nói, hơi thở biến thành sướng khói trước mặt cô, “nếu tới bình minh mọi người không tới được cánh cổng, hãy đợi ở một nơi nào đó cho tới sáng hôm sau, và chúng ta sẽ thử lại.”

“Chúng ta làm gì có thì giờ mà chờ đợi,” Arya nói.

Nasuada xoa tay và nói. Cô có vẻ bồn chồn khác thường. “Tôi biết. Dù sao chúng tôi cũng sẽ sẵn sàng tấn công khi nhận được tín hiệu từ mọi người dù là lúc nào. Sự an toàn của mọi người quan trọng hơn việc chiếm được Dras – Leona. Hãy nhớ lấy.” Ánh mắt của cô dán chặt vào Eragon.

“CHúng ta nên đi thôi,” Wydren nói. “Sắp sáng rồi.”

Eragon áp trán vào đầu Saphira trong giây lát. Chúc anh đi săn thành công, cô bé nhẹ nhàng nói.

Em cũng thế nhé.

Chúng miễn cưỡng chia tay rồi Eragon cùng Arya và Wyrden đi theo Angela rời khỏi doanh trại, tiến tới khu phía đông thành phố. Nasuada và Jörmundur thì thầm chúc họ thượng lộ bình anh khi họ đi ngang qua, sau đó tất cả rơi vào tĩnh lặng chỉ còn tiếng thở và tiếng gót giày nện trên nền đất.

Angela điều chỉnh ánh sáng trong lòng bàn tay cho tới khi chỉ đủ sáng để Eragon nhìn thấy chân mình. Nó phải căng mắt ra để ý những cục đá hay nhánh cây chìa ra giữa đường.

Họ bước đi trong im lặng gần tiếng đồng hồ cho tới khi bà lang dừng lại nói nhỏ, “Theo tôi biết thì chúng ta đã tới nơi rồi. Tôi khá giỏi trong ước lượng khoảng cách nhưng có lẽ chúng ta đã đi hơn một ngàn mét rồi. Trong cảnh tranh sáng tranh tối này thì cũng khó nói lắm.”

Phía trên trái họ là những ánh sáng đâu đó từ phía chân trời, đó là bằng chứng duy nhất cho thấy họ đã tới gần Dras – Leona. Những ánh sáng đó gần họ tới mức họ có cảm tưởng như có thể với tay hái chúng xuống.

Nó và hai người phụ nữ đứng xung quanh Wyrden khi tiên nhân này quỳ xuống tháo găng tay phải ra. Wyrden đặt lòng bàn tay lên mặt đất và ngâm nga câu thần chú anh đã học từ pháp sư người lùn mà Orik đưa tới hướng dẫn họ cách tìm căn phòng dưới lòng đất – ngay trước khi ra đi làm nhiệm vụ -

Trong khi tiên nhân hát, Eragon chăm chú nhìn vào màn đêm, lắng nghe và quan sát động tĩnh của kẻ thù. Mưa nặng hạt dần. Nó mong sao thời tiết sẽ khá khẩm hơn trước khi trận chiến bắt đầu, nếu như nó có thể xảy ra.

Có tiếng cú rúc đâu đó và nó với tay nắm lấy thanh Brisingr, nhưng sau đó dừng lại và nắm chặt tay. Barzûl, nó dùng câu chửi thề quên thuộc của Orik để nói với mình. Nó đang căng thẳng hơn mức cần thiết. Những ký ức về trận chiến giữa nó và Murtagh cùng Thorn một lần nữa – từng ký ức và tất cả - đang khiến nó nao núng.

Chắc chắn mình sẽ thua nếu tiếp tục thế này, nó nghĩ thầm. Vì thế nó từ từ thở ra và luyện tập bài thể dục cho tinh thần đầu tiên Glaedr dạy để kiểm soát cảm xúc.

Con rồng già không mặn mà với nhiệm vụ nay khi Eragon kể cho ông nghe nhưng ông rồng cũng không phản đối. Sau khi bàn luận xong về những tình huống bất ngờ có thể xảy ra, Gleadr nói: Hãy thận trọng với bóng tôi đó Erago. Những thứ kỳ lạ thường ẩn nấp trong bóng tôi. Eragon không cho đó là một lời động viên ý chí nó.

Nó gạt những giọt nước mưa trên mặt còn tay kia nắm lấy chuôi kiếm. Găng tay da chạm vào da mặt nó sao ấm và mềm mại thế.

Nọ hạ bàn tay xuống ngoắc vào thắt lưng của Beloth Thông Thái và cảm nhận được sức nặng của mười hai viên kim cương không tì vết nạm lên đó. Sáng nay nó đã tới khu nhốt thú và khi các đầu bếp giết chim và cừu làm bữa sáng, nó đã chuyển năng lượng chết của lũ động vật vào những viên đá quý. Nó ghét chuyện nay; khi nó phóng tư tưởng về phía những con vật – nếu như chúng còn đầu – nỗi sợ hãi và đau đớn của chúng biến thành của nó, và khi đầu óc chúng trống rỗng dần, nó cảm thấy như chính nó đang chết. Đó là một trải nghiệm kinh khủng, khiến con người ta hoàng loạn và sợ hãi. Bất cứ khi nào có thể nó đều thì thầm bằng ngôn ngữ cổ với những con vật để khiến chung dịu nỗi đau. Thi thoảng nó thành công nhưng đôi khi lại không. Mặc dù kiểu gì chúng cũng phải chết và dù nó cần năng lượng nhưng nó không thích công việc này, vì nó có cảm giác nó là người chịu trách nhiệm vì cái chết của chúng. Nó cảm thấy có tội.

Giờ nó thấy thắt lưng hơi nặng hơn một chút vì lượng năng lượng chuyển dời từ những on vật. Kể cả nếu như những viên kim cương khảm trên đó có vô giá trị đi chăng nữa, Eragon vẫn thấy thắt lưng này còn quý hơn vàng, vì trên đó chứa hàng trăm ngàn mạng sống.

Khi Wyrden ngừng hát, Arya hỏi, “Anh tìm ra không?”

“Lối này,” Wyrden đứng thẳng lên nói.

Eragon vừa bị chấn động vừa thấy nhẹ nhõm. Jeod nói đúng!

Wyrden dẫn họ đi qua một con đường và rất nhiều ngọn đồi nhỏ sau đó đi tới một bãi bồi phù sa. “Cửa đường hầm phải ở đâu đó quanh đây,” tiên nhân nói và chỉ về phía bờ tây.

Bà lang tăng độ sáng của ngọn đèn ma để họ có thể tìm kiếm; sau đó Eragon, Arya và Wyrden bắt đầu ra soát hai bên bãi bồi bằng cách dùng que chọc xuống. Hai lần Eragon vấp chân vào một thân cây bu lô đổ khiến nó nghiến răng nghiến lợi vì đau. Nó ước gì mình quấn xà cạp nhưng nó đã bỏ lại thứ đó cùng khiên vì sợ chúng sẽ khiến dân thành phố chú ý.

Sau hai mươi phút tìm kiếm cuối cùng Eragon nghe thấy có tiếng kim loại rung lên, sau đó Arya nhẹ nhàng gọi. “Ở đây.”

Nó cùng những người còn lại tất tả chạy tới chỗ nàng đứng cạnh một lỗ nhỏ trên bãi.Arya rút que gậy ra để lộ một đường hầm lát đá cao năm mét rộng ba mét. Một lưới sắt đã gỉ sét che lỗ hổng lại.

“Nhìn đi,” Arya nói và chỉ xuống mặt đất.

Eragon nhìn và nó thấy một lối nhỏ dẫn xuống đường hầm. Kể cả dưới ánh sáng đỏ kỳ dị từ ngọn đèn ma của bà lang, Eragon cũng biết lối mòn đó có là do đi lâu mà thành. Một hoặc nhiều người đã sử dụng đường hầm này thường xuyên để ra vào Dras – Leona.

“Chúng ta nên cẩn thận,” Wyrden nói.

Angela hừ nhỏ trong họng. “Không thế thì các người tính đi thế nào? Với kèn trum pét thổi om sòm và sứ giả la hét báo tin chắc.”

Tiên nhân không trả lời nhưng rõ ràng anh ta rất không vui.

Arya và Wyrden giỡ tấm lưới sắt và cẩn trọng đặt chân vào đường hầm. Cả hai mang theo ngọn đèn ma cho riêng mình. Quả cầu sang trôi trên đầu họ như những mặt trời đỏ rực con con dù ánh sang của chúng không hơn ánh lửa tỏa ra từ than đang cháy là mấy.

Eragon lùi lại nói với Angela. “Vì sao thần tiên lại kính trọng bà thế? Hình như họ sợ bà nữa là đằng khác.”

“Chẳng nhẽ ta không đáng cho người khác kính trọng à?”

Nó lưỡng lự. “Bà biết không, một ngày nào đó bà phải nói cho cháu biết rõ về bà.”

“Sao cháu lại nghĩ thế,” Sau đó bà bước vào đường hầm, áo choàng phấp phới sau lưng như cánh Lethrblaka.

Eragon lắc đầu nối bước.

Bà lang nhỏ thó không phải cúi xuống nhiều để khỏi đụng đầu vào trần nhưng Eragon và hai tiên nhân kia phải cúi xuống như một ông gia bị bệnh thấp khớp. Hầu như đường hầm trống không. Một lớp bụi bẩn dày bám trên sàn nhà. Vài cành cây và đá sỏi, thậm chí cả da rắn nằm rải rác gần miệng đường hầm. Con đường có mùi như rạ ướt và cánh bướm đêm.

Eragon và những người khác im lặng bước nhưng đường hầm khuếch đại tiếng động. Một tiếng bước chân và tiếng lạo xạo vọng lại kèm theo tiếng văng vẳng thì thầm xì xào như có người sống quanh đây. Những tiếng xì xào khiến Eragon cảm thấy như bị bao vây bởi những linh hồn người chết bám theo họ trong từng bước đi.

Quá nhiều kẻ theo dõi vài người, nó nghĩ khi đá phải một hòn đá khiến nó nảy lên với những tiếng lách cách lớn đã đường đường hầm làm lớn hơn gấp trăm lần.

“Xin lỗi,” nó nói khi mọi người quay lại nhìn nó.

Một nụ cười nhăn nhở hiện lên trên môi nó. Ít nhất chúng ta đã biết những âm thanh kỳ lạ dưới lòng Dras – Leona từ đâu mà ra. Khi về nó sẽ kể lại cho ông Jeod nghe.

Khi họ đã đi được một đoạn khá dài trong đường hầm, Eragon dừng lại và nhìn về lối vào, lúc này hầu như đã lẫn trong bóng tối. Bóng chạng vạng như có thể nắm bắt lấy, như thể một tấm vài dày phủ lên toàn thế giới. Cùng với những bức tường sát sịt và trần nhà thấp, chúng khiến nó có cảm giác tù túng và bị bóp nghẹt. Thường nó không để ý nhiều tới việc ở trong không gian hẹp, nhưng đường hầm này khiến nó nhớ tới những con đường xấu xí trong núi Helgrind nơi nó và Roran chống trả lại lũ Ra’zac – một ký ức chẳng lấy gì làm vui vẻ.

Nó hít một hơi thật sâu sau đó thở ra.

Ngay khi định bước tiếp, nó thoáng nhìn thấy hai con mắt lớn sáng lên trong bóng tôi nhưn thể hai viên đá mặt trăng màu đồng. Nó nắm lấy thanh Brisingr và rút thanh kiếm ra khỏi bao vài centimet thì Solembum xuất hiện khỏi bóng tối, nhẹ nhàng di chuyển trên bàn chân móng vuốt.

Con ma mèo dừng lại ngoài vùng ánh sáng. Nó nhúc nhích cái tai điểm đen và hàm rơi ra như ngạc nhiên lắm.

Eragon thả lỏng người. Đáng nhẽ mình phải đoán ra chứ. Angela đi đâu và Solembum theo đó. Lại một lần nữa, Eragon nghĩ về quá khứ của bà lang: Sao bà lại có được sự trung thành của con mèo ma?”

Vì những người khác đã đi xa hơn, bóng tôi lại một lần nữa phủ lên Solembum.

Biết mèo ma bọc hậu nên Eragon vui vẻ đuổi theo những người còn lại.

Trước khi nhóm rời doanh trại, Nasuada đã nói tóm tắt cho họ trong thành có chính xác bao nhiêu lính, họ đứng gác ở đâu cũng như nhiệm vụ và thói quen như thế nào. Cô cũng cho họ biết chi tiết về giờ giấc ngủ nghỉ của Murtagh, hắn ta ăn gì, và kể cả tâm trạng vào đêm trước. Thông tin của cô luôn luôn chính xác đến lạ lùng. Nếu có ai hỏi, cô chỉ cười và giải thích rằng, từ hồi Varden xuất quân, mèo ma đã giúp cô do thám Dras – Leona. Một khi Eragon và những người đồng hành vào được trong thành phố, mèo ma sẽ cùng họ đi tới cổng nam nhưng sẽ nếu được không xuất đầu lộ diện trước mặt quân Triều đình, nếu không họ sẽ không thể nào giúp Nasuada hiệu quả như trước. Dù sao thì làm gì có ai lại nghĩ một con mèo to tổ chảng lại là do thám của quân địch được chứ?

Sau đó, Eragon đột nhiên nghĩ khi nhớ những lời chỉ dẫn vắn tắt của Nasuada rằng, điểm yếu lớn nhất của Murtagh là hiện giờ hắn vẫn phải ngủ. Nếu chúng ta không bắt hoặc giết được hắn trong ngày hôm nay, lần sau gặp lại, chúng ta phải tìm cách đánh thức hắn vào nửa đêm – hoặc nếu được thì nhiều hơn một đêm. Ba hay bốn đêm không ngủ đủ sẽ khiến hắn khó lòng chiến đấu.

Họ tiếp tục đi trong đường hầm chạy thẳng như một mũi tên, không có lấy một đoạn rẽ, ngõ quặt. Eragon nghĩ nó thấy nền hơi dốc – cũng đúng thôi vì nó được thiết kế làm cống thoát nước cho thành phố - nhưng nó không chắc lắm.

Sau một hồi, lớp bụi bẩn dưới chân họ nhão hơn và dính vào giày của họ như đất sét ướt. Nước nhỏ xuống từ trần nhà, thi thoảng rơi xuống cổ và chảy xuống xương quai xanh Eragon như một ngón tay lạnh lẽo lướt lên người nó. Có một lần nó bị trượt chân vì giẫm phải bùn khiến nó phải giang tay giữ thăng bằng, khi đó nó phát hiện tường dính đầy chất nhờn.

Họ không biết đã đi bao lâu, có thể là một tiếng hoặc giả chỉ là vài phút. Nhưng thế nào đi nữa, cổ Eragon ê ẩm vì nửa đứng nửa cúi và nó mệt mỏi phải nhìn chăm chăm vào bức tường đá giống nhau như đúc.

Cuối cùng nó để ý thấy vọng nhỏ đi và ngắt quãng lâu hơn. Ngay sau đó, đường hầm dẫn tới một căn phòng chữ nhật rộng với trần nhà nửa vòm chóp cao khoảng mười lăm mét. Căn phòng trống rỗng trừ có một cái thùng bị mọt ăn ở một góc. Phía đối diện với họ là ba cánh cổng vòm giống y sì nhau mở ra ba căn phòng giống nhau, đều nhỏ và tối. Eragon không biết chúng sẽ dẫn tới đâu.

Cả nhóm dừng lại và Eragon từ từ đứng thẳng lưng, nhăn mặt vì các cơ bắp đau nhừ giãn ra.

“Chắc phần này không nằm trong bản thiết kế của Erst Râu bạc,” Arya nói.

“Chúng ta nên chọn đường nào?” Wyrden hỏi.

“Không rõ ràng sao?” bà lang hỏi. “Đường bên trái. Luôn luôn là đường bên trái.” Sau đó bà rảo bước tới cổng vòm đó.

Eragon không thể nào im miệng. “Trái là trái nào? Nếu bà đứng ở chiều bên này thì bên trái là...”

“Trái có thể là phải và phải có thể là trái, đúng, đúng,” bà lang nói. Mắt bà nheo lại. “Thi thoảng cháu thông minh đột xuất quá đấy, Khắc tinh của tà thần ạ... Tốt thôi, chúng ta sẽ đi theo hướng của cháu. Nhưng đừng nói là ta không báo trước nếu chúng ta lạc đường lòng vòng trong đây hết ngày này tháng khác.”

Eragon thực ra thích đi vào cổng vòm ở giữa hơn vì có vẻ nó sẽ dẫn chúng đi thẳng lên các con đường nhưng nó không muốn cãi nhau với bà lang. Đi đường nào chúng ta cũng sẽ sớm tìm ra cầu thang, nó nghĩ. Dưới Dras – Leona không thể có quá nhiều phòng bí mật được.”

Angela giơ ngọn đèn ma lên cao và đi trước. Wyrden và Arya đi theo và Eragon chặn hậu.

Căn phòng đi vào qua cổng vòm bên phải rộng hơn họ tưởng. Nó phải dài tới hai mươi mét sau đó ngoặt ở một góc và kéo dài thêm vài mét nữa dẫn tới một hành lang cps gắn những chân đuốc trống. Qua hành lang là một cơn phòng nhỏ hơn với ba cổng vòm dãn tới ba cổng vòm khác, và cứ thế.

Ai xây dựng cái này và vì sao? Eragon băn khoăn. Tất cả các căn phòng họ đi qua đều trống trải. Thứ duy nhất họ thấy là một chiếc ghế hai chân nằm chổng chowvaf vài cái lọ vỡ nằm ở một góc phủ đầy mạng nhện.

Angela dường như chưa bao giờ chần chừ hay bối rối chọn hướng đi vì bà luôn chọn bên phải. Eragon có thể phản đối nhưng nó chẳng nghĩ được cách nào hay hơn nên thôi.

BÀ lang dừng lại khi họ tới một căn phòng hình tròn có bảy cổng vòm trên tường. Bảy hành lang tính cả cái họ vừa từ đó bước vào trải khắp bức tường trong phòng.

“Đánh dấu lối vào của chúng ta hoặc không chúng ta sẽ đi ngược lại mất,” Arya nói.

Eragon đi tới hành lang và dùng đầu kiếm Brisingr vẽ một dấu x lên bức tường đá. Trong khi đó nó nhíu mắt nhìn vào bóng tối tìm tung tích Solembum nhưng nó chẳng thấy gì. Eragon nghĩ con mèo ma đã lạc đâu đó trong ma trận này rồi. Nó đã định phóng tư tưởng đi tìm mèo ma nhưng lại lo; nhỡ có ai đó biết nó ở đây, hoj sẽ báo cho Triều đình biết vị trí của họ.

“A!” Angela reo lên và bóng tối xung quanh Eragon chuyển sang chỗ khác khi bà lang đứng nhón chân nâng ngọn đèn ma lên cao nhất có thể.

Eragon vội vàng chạy tới giữa phòng nơi bà đang đứng cùng Arya và Wyrden. “Cái gì thế?” nó thì thầm.

“TRần nhà, Eragon,” Arya nói nhỏ. “Nhìn trần nhà đi.”

Nó làm theo nhưng chỉ nhìn thấy những phiến đá cổ phủ rêu với rất nhiều đường rạn nứt, lạ là trần nhà vẫn chưa bị sập sau bao nhiêu năm.

Sau đó nó nhìn đi chỗ khác và thở hụt hơi.

Những đường đó không phải vết nứt mà là những chữ run được khắc sâu trong đá – nhiều hàng chữ. Chúng ngay ngắn và nhỏ với những nét sổ và góc sắc nét. Rêu phong và những vị khách của thời gian đã phủ kín một phần văn bản nhưng phần còn lại vẫn đọc được.

Eragon vật lộn với những chữ rune trongmootj lát nhưng chỉ nhận ra vài từ và những từ đó lại viết khác với cách nó viết. “Nó nói gì vậy?” nó hỏi. “Chữ người lùn à?”

“Không,” Wyrden nói. “Đây là chữ của loài người nhưng được nói và viết từ rất lâu rồi, thuộc về một ngôn ngữ đặc biệt: kẻ cuồng tín Tosk.”

Cái tên đó khiến Eragon giật mình. “Khi Roran và tôi giải cứu Katrina, chúng tôi có nghe những thày tu dòng Helgrind nhắc tới cuốn sách của Tosk.”

Wyrden gật đầu. “Đó là tôn chỉ của giáo phái Helgrind. Tosk không phải là người đầu tiên thờ phụng Helgrind nhưng là người đầu tiên soạn luật lệ cho tín ngưỡng của họ sau đó nhiều người đã làm theo. Những người thờ phụng Helgrind coi ông ta như người sáng lập giáo phái. Và cái này” – tiên nhân mở rộng tay – “là lược sử cuộc đời Tosk từ lúc ông ta sinh ra tới khi từ giã cõi đời: những câu chuyện thật cũng như những điều ông ta chưa từng nói với ai ngoài giáo phái.”

“Chúng ta có thể biết nhiều điều từ đây,” Angela nói mà không rời mắt khỏi trần nhà. “Nếu như chúng ta có thời gian,” Eragon ngạc nhiên khi thấy bà bị cuốn hút tới vậy.

Arya liếc nhìn bảy hành lang. “Một lúc cũng được nhưng nhanh lên.”

Trong khi Angela và Wyrden căng thẳng đọc, Arya đi tới một trong những cổng vòm và lầm rầm ngâm nga câu thần chú tìm đường và định vị. Khi ngâm xong, nàng ngẩng cổ đợi một lát rồi chuyển tới cổng vòm tiếp theo.

Eragon nhìn những chữ rune thêm một lúc nữa. Sau đó nó trở lại cửa hành lang họ vừa bước vào, dựa người vào tường chờ đợi. Những phiến đá mang sự lạnh lẽo khoác lên vai nó.

Arya dừng lại trước cổng vòm thứ tư. Điệu hát dần trở nên quen thuộc của nàng tăng lên một cung bậc và nghe giống như tiếng gió thì thào.

Nhưng lại không có gì xảy ra.

Sự nhột nhạt ở bàn tay phải khiến Eragon nhìn xuống. Một con dế lớn không có cánh bò lên găng tay nó. Con bọ thật xấu xí: đen và trông như củ hành, với những cái chân có ngạnh cùng cái đầu lớn trông như sọ người. Vỏ giáp cứng của nó bóng dầu.

Eragon rùng mình, nổi da gà và phẩy tay để con bọ bay vào bóng tối.

Nó rơi xuống với một tiếng thụp nghe thấy rõ.

Hành lang thứ năm cũng không khả quan hơn 4 hành lang trước là mấy. Arya bước qua cánh cổng Eragon đứng và đi tới trước cổng vòm thứ bảy.

Trước khi nàng đọc thần chú, một tiếng mèo kêu vang lên trong hành lang dường như xuất phát từ mọi hướng, sau đó là một tiếng rít và tiếng tát và cào khiến lông trên cơ thể Eragon dựng ngược hết lên.

Angela quay người. “Solembum!”

Cả bốn người như một đồng thời rút kiếm.

Eragon lùi về giữa phòng, ánh mắt đảo từ cổng vòm này sang cổng vòm khác. gedwëy ignasia của nó ngứa ngáy như bị bọ chét cắn – một kiểu báo động vô ích vì nó không biết được nó đang gặp nguy hiểm gì và bắt nguồn từ đâu.

“Lối này,” Arya nói và đi về cánh cổng thứ bảy.

Bà lang không chịu đi. “Không!” bà thì thầm nhưng quả quyết. “Chúng ta phải giúp cậu ấy.” Eragon để ý thấy bà cầm một thanh đoản kiếm có màu sắc lạ lùng đang phát sáng như đá quý.

Arya quắc mắt. “Nếu Murtagh biết chúng ta ở đây, chúng ta sẽ...”

Mọi chuyện xảy ra quá nhanh và im lặng nên Eragon không thể biết rằng liệu nó có nhìn đúng hướng không: sáu cánh cửa ẩn trên tường mở ra ba hành lang mở toang, và khoảng xấp xỉ ba mươi tên mặc đồ đen với kiếm trong tay xông về phía họ.

“Letta!” Wyrden hét lên và những tên trong một nhóm đụng vào nhau như thể chúng đụng phải một bức tường.

Sau đó những kẻ tấn công còn lại ngã đè lên và giờ họ không cần dùng tới phép thuật. Eragon dễ dàng đỡ một nhát kiếm, và với một đòn đánh đảo tay nó chém bay đầu kẻ tấn công. Như những tên khác, tên này đeo khăn che mặt chỉ để lộ cặp mắt và chiếc khăn bay mất khi đầu hắn lăn lông lốc dưới đất.

Eragon nhẹ nhõm khi thanh Brisingr đẫm máu. Đã có lúc nó sợ rằng đối thủ của nó được bảo vệ bởi phép thuật và áo giáp – hoặc, tệ hơn, chúng không phải con người.

Nó đâm xiên vào ngực một kẻ khác và đang đối phó với hai kẻ khác thì một lưỡi kiếm không biết từ đâu nhằm cổ họng nó mà bay tới. Lưới phép bảo vệ đã giúp nó tránh được cái chết nhưng vì lưỡi kiếm chỉ cách cổ nó chưa đầy hai centimet, nó buộc phải lùi lại.

Nó ngạc nhiên khi thấy gã nó vừa đâm vẫn đứng nguyên, máu chảy ào ạt từ lỗ mà Eragon xuyên qua.

Eragon kinh hãi. “Chúng không cảm thấy đau,” nó hét khi đang chặn lưỡi kiếm chém tới từ ba hướng khác nhau. Nếu những người khác có nghe thấy tiếng nó, họ cũng không thể trả lời.

Nó không nói nữa mà tập trung vào những kẻ trước mặt và tin tưởng những người bạn đồng hành sẽ bọc hậu cho mình.

Eragon chém tới chém lui thanh Brisingr vào không khí như thể nó chẳng nặng hơn một cây gậy là mấy. Nếu như bình thường trong một tích tắc nó có thể giết rất nhiều tên địch nhưng giờ nó đang đụng độ những kẻ không biết đau nên nó không còn lựa chọn nào khác ngoài chặt đầu chúng, đâm xuyên tim chúng hoặc chém và kìm chân chúng cho tới khi mất máu nhiều khiến chúng mất ý thức. Nhưng những kẻ kia cứ liên tiếp tấn công nó dù cho vết thương có nặng tới đâu. Càng nhiều kẻ xông tới càng khó cho nó đỡ và đánh trả. Nó có thể không đỡ và để lá chắn bảo vệ mình nhưng việc vung thanh Brisingr lên trở thành một phản ứng vô thức. Và vì nó không biết liệu lá chắn bảo vệ của nó có bị chọc thủng hay không – nếu chúng làm được điều đó, chúng sẽ giết chết nó – và nó nó sẽ còn cần tới nững lá chắn bảo vệ, vì vậy nó chiến đấu thận trọng như thể nó đang đụng độ với những kẻ có thể giết chết nó bằng một nhát chém.

Càng thêm nhiều tên lính mặc đồ đen xông ra từ cánh cửa bí mật trong hành lang. CHúng bao vây Eragon, dùng số lượng buộc nó lùi lại. Nhữn bàn tay thò ra nhắm vào chân tay nó như muốn giữ chặt lấy nó.

“Kverst,” nó hét nên một trong mười hai từ tử thần mà Orosmis đã dạy nó. Đúng như nó nghĩ, câu thần chú vô tác dụng: những tên lính kia được bảo vệ khỏi những đòn tấn công pháp thuật trực tiếp. Nó nhanh chóng dùng câu thần chú Murtagh đã từng sử dụng với nó: “Thrysta vindr!” Đó là một cách đánh gián tiếp vì nó không thực sự tấn công đối phương mà chỉ dùng khí nén lên người đối phương. Trong bất cứ trường hợp nào, nó cũng thành công.

Một trận gió lùa vào căn phòng, thổi bạt tóc và áo choàng của Eragon và thổi bay tên lính gần nó nhất đụng vào những tên đồng bọn, khiến khu vực đường kính mười mét xung quanh nó sạch bách.

Nó quay người xem những người khác xoay sở ra sao. Nó không phải người đầu tiên tìm ra cách chọc thủng lưới phòng ngực của những tên lính; những tia chớp xoay tròn trên tay phải Wyrden và bao bọc xung quanh những tên lính xấu xố đứng gần anh. Luồng năng lượng sáng lòa gần như trở thành chất lỏng khi chúng luồn lách xung quanh nạn nhân.

Nhưng càng càng nhiều tên lính xông vào phòng.

“Đường này!” Arya hét lên và lao về phía hành lang thứ bảy – nàng đã chưa kịp kiểm tra trước khi bọn lính tràn vào.

Wyrden đi theo, Eragon cũng vậy. Angela khập khiễng đi cuối cùng. Máu trên vai bà đang chảy ra. Đằng sau họ, những tên lính mặc đồ đen ngần ngừ đứng lại trong phòng thêm một chốc. Sau đó, với một tiếng hét lớn, chúng đuổi theo họ.

Khi Eragon chạy trong hành lang, nó cố gắng tìm ra câu thần chú nào đó có thể giết chết thay vì đánh ngã kẻ địch. Nó nhanh chóng tìm ra một câu và đọc ngay khi nhìn thấy kha khá tên địch.

Chúng là ai? Nó băn khoăn. Ở đây có bao nhiêu tên?

Qua lỗ hổng bên trên, nó nhìn thấy ánh sáng tím mờ nhạt. Nó vừa cảm thấy sợ hãi vì nơi bắt nguồn ánh sáng đó thì bà lang thốt lên một tiếng hét lớn sau đó là một ánh sáng vàng cam lóe qua cùng một tiếng thịch nghe ghê răng và mùi trứng thối bay lên.

Eragon quay người quan sát xung quanh và thấy năm tên lính mang bà lang đi qua cánh cửa trong hành lang. “Không!” Eragon hét lên nhưng trước khi nó ngậm miệng, cánh cửa đã đóng lại lặng lẽ như khi mở ra, và bức tường lại một lần nữa phẳng tới hoàn hảo.

“Brisingr!” nó hét lên và thanh kiếm của nó cháy rừng rực. Nó đặt đầu mũi kiếm lên bức tường và cố ấn nó xuyên qua đá, cắt mở cánh cửa. Nhưng vì phiến đá dày và khó chảy nên nó sẽ tốn rất nhiều năng lượng vô ích.

Sau đó Arya xuất hiện bên cạnh nó và đặt tay lên chỗ từng là cánh cửa rồi lẩm bẩm, “Ládrin.” Mở ra. Cánh cửa vẫn đóng nhưng Eragon xấu hổ vì nó chưa từng nghĩ tới dùng pháp thuật.

Những kẻ địch đang đuổi theo sát nụt nên nó và Arya không còn lựa chọn nào khác là quay người nghênh chiến. Eragon muốn dùng câu thần chú nó vừa nghĩ ra nhưng hành lang chỉ vừa cho hai người một lúc; nó sẽ không thể giết hết những tên còn lại khi chúng khuất dạng. Tốt nhất là để câu thần chú đó làm vũ khí bí mật.

Nó và Arya chặt đầu hai tên xông tới đầu tiên sau đó tấn công cặp tiếp theo khi chúng bước qua xác hai tên đồng bọn. Họ nhanh chóng chém chết sáu tên nhưng dường như cuộc chiến không thể nào đi tới hồi kết.

“Qua đằng đó!” Wyrden hô.

“Stenr slauta!” Arya hét vang và trong suốt hành lang – kéo dài vài mét kể từ chỗ nàng đứng – đá trên tường rơi xuống. Trận mưa đã khiến những tên mặc đồ đen thu mình chùn bước và hơn một tên bị què, ngã xuống đất.

Eragon và Arya cùng nhau chạy theo Wyrden lúc này đang chạy về phía cửa cuối hành lang. Tiên nhân chỉ còn cách cửa ba mươi mét.

Rồi mười mét.

Rồi năm mét...

Đột nhiên một trận mưa mũi lao bằng thạch anh tím bay tới từ những lỗ hổng trên sàn nhà và trần nhà, khiến Wyrden kẹt cứng ở giữa. Tiên nhân dường như trôi trong hành lang, những mũi lao chỉ còn cách da thịt anh một vài centimet vì lưới phòng hộ của anh bảo vệ anh. Sau đó một tiếng lách tách vang lên khi năng lượng phóng qua mỗi ngọn lao và những đầu lao sắc như kim tỏa sáng rực rỡ tới đau mắt. Một tiếng rắc vang lên và chúng xuyên qua mục tiêu.

Wyrden kêu lên và khuỵu xuống, ngọn đèn ma của anh tắt lịm và anh không di chuyển nổi nữa.

Eragon không tin vào mắt mình khi dừng lại trước trận địa lao. Với tất cả những kinh nghiệm chiến trận, nó chưa bao giờ chứng kiến cái chết của một tiên nhân. Wyrden và Blödhgarm cùng những tiên nhân bảo vệ nó đều là những người ưu tú. Eragon cứ nghĩ họ chỉ ngã xuống khi đối đầu với Galbatorix hoặc Murtagh.

Arya cũng choáng váng y như nó. Nhưng cô phục hồi tinh thần nhanh hơn. “Eragon,” cô vội vã nói. “dùng thanh Brisingr mở đường đi.”

Nó hiểu. Thanh kiếm của nó, không giống của nàng, miễn dịch với thứ ma thuật của những mũi giáo, dù cho đó là ma thuật gì đi chăng nữa.

Nó kéo tay về phía sau và vung mạnh nhất có thể. Nửa tá lao gãy vụn dưới lưỡi kiếm Brisingr. Đá thạch anh kêu vang như tiếng chuông khi vỡ vụn và khi đụng mặt đất chúng phát ra tiếng leng keng như băng đá.

Eragon tiếp tục đi về phía bên phải hành lang và không chạm vào mũi lao đẫm máu đang găm trên mình Wyrden. Nó vung kiếm hết lần này tới lần khác để mở đường đi qua rừng lao đang bay vun vút. Với mỗi nhát chém, nó làm cho nhiều mảnh thạch anh bay lượn trong không khí. Một mảnh sượt qua má trái nó khiến nó nhăn nhó ngạc nhiên và lo rằng lưới bảo vệ của nó đã bị vô hiệu hóa.

Những mạnh vụn của những mũi lao vỡ khiến nó phải di chuyển cẩn trọng. Những mảnh vụn bên dưới có thể dễ dàng làm rách giày nó trong những những mảnh đang lao vun vút bên trên đe dọa đầu và cổ nó. Nhưng nó vẫn xoay xở tránh, duy chỉ dính một vết cắt dài trên bắp chân phải khiến nó đau nhói mỗi lần dồn trọng lượng lên chân.

Những tên lính mặc đồ đen gần như tóm được họ khi Eragon giúp Arya vượt qua những mũi lao cuối cùng. Một khi vượt qua, họ chạy qua lỗ hỏng và đi vào vùng ánh sáng tím. Eragon quay người lại đối chọi với tụi lính, giết tới những tên cuối cùng để báo thù cho Wyrden.

Ở phía bên kia lỗ hổng là một căn phòng xây nặng nề và tối om khiến Eragon nghĩ tới những hang động bên dưới Tronjheim. Những hoa văn hình tròn lớn in lên đá – đá hoa cương , đá can-xê-đoan và đá hê-ma-tít được đánh bóng - ở giữa phòng. Xung quanh đó là những khối đá thạch anh thô to bằng cổ tay lẫn trong những cột bạc. Những phiến đá tím phát ra ánh sáng mờ mờ - đó chính là nguồn sáng họ nhìn thấy trong hành lang. Ngang qua những phiến đá nền in hoa văn, ở bức tường bên kia là một bàn thờ đen lớn phủ vàng và khăn màu đỏ thẫm. Những cây cột và chúc đài đặt hai bên bàn thờ, bên cạnh đó là hai cánh cửa đóng kín ở hai bên.

Đó là tất cả những gì Eragon nhìn thấy khi tiến nhanh vào phòng. Chỉ trong một tích tắc nó đã lao tới vòng tròn đá thạch anh và ban thờ. Nó cố dừng lại, cố đổi hướng nhưng nó đang di chuyển quá nhanh.

Nó tuyệt vọng làm một điều duy nhất: nhảy lên trên ban thờ và hy vọng với một cú nhảy nó có thể tránh chướng ngại vật trước mặt.

Khi đi qua những phiến đá thạch anh gần nhất, cảm giác cuối cùng của nó là hối hận và suy nghĩ cuối cùng của nó là về Saphira.

TẾ THẦN

Điều đầu tiên Eragon để ý là sự khác biệt về màu sắc. Phiến đá trên trần nhà dày hơn. Những chi tiết lúc trước có vẻ mờ nhạt thì giờ sáng sủa hơn và rõ nét hơn và những thứ nhấp nhô giờ trở nên bằng phẳng. Bên dưới nó, vẻ sa hoa của vòng tròn đá hóa văn càng trở nên rõ nét hơn.

Nó phải mất một lúc mới hiểu vì sao mọi sự thay đổi: ngọn đèn ma của Arya không còn chiếu sáng cho căn phòng. Thay vào đó, ánh sáng phát ra từ những viên đá pha lê sáng lập lòe và những ngọn nến trên chúc đài.

Tới lúc đó nói mới nhận ra có thứ gì đó tọng vô mồm nó, khiến quai hàm nó mở rộng đau đớn và nó bị trói treo tay lên xà nhà. Nó cố cử động nhưng cổ chân bị cùm xuống sàn nhà.

Khi vặn mình, nó thấy Arya ở bên cạnh, cũng đang vặn vẹo y như nó. Nàng cũng bị nhét giẻ vào miệng.

Nàng đã tỉnh và đang quan sát nó và nó nhận ra nàng an tâm khi thấy nó tỉnh lại.

Sao nàng lại không trốn? Nó tự hỏi.Rồi: Chuyện gì đã xảy ra? Nó suy nghĩ chậm chạp và kém nhanh nhạy như thể nó vừa uống rượu say tới không biết trời đất.

Nó nhìn xuống thấy giáp và vũ khí đã bị lấy mất chỉ để lại giáp chân. Thắt lưng của Beloth Thông thái đã không còn cũng như vòng cổ người lùn tặng cho nó để tránh có kẻ bói cầu nó.

NHìn lên, nó thấy chiếc nhẫn của thần tiên Aren cũng bị tháo đi.

Nó thấy hốt hoảng. Sau đó nó tự an ủi mình rằng nó vẫn chưa hết hy vọng vì nó còn dùng được phép thuật. Vì bị nhét giẻ vào mồm nên nó không thể đọc thần chú, cách đọc thầm này còn nguy hiểm hơn – vì nếu tư tưởng của nó bị phân tán, nó có thể vô tình chọn sai từ - nhưng không nguy hiểm bằng việc dùng ngôn ngữ cổ mà thiếu hiểu biết. Nó chỉ mất một chút sức lực để giải phóng mình vì thế nó tự tin mình có thể làm được mà không gặp mấy khó khăn.

Nó nhắm mắt, dồn năng lượng để chuẩn bị khởi sự. Nhưng nó nghe tiếng Arya giật dây xích và gây ra những tiếng động không rõ ràng.

Nó liếc sang thấy nàng lắc đầu với nó. Nó nhướn mày ý hỏi: cái gì thế? Nhưng nàng không thể làm gì hơn là gầm gừ gì đó trong cổ và tiếp tục lắc đầu.

Eragon thất vọng phóng tư tưởng về phía nàng – dù nó cũng lo có ai sẽ đọc tư tưởng của nó – nhưng không, nó chỉ cảm nhận thấy áp lực nhẹ nhàng xung quanh như có ai bọc len quanh tư tưởng nó.

Nó càng hoảng hốt hơn dù cố kiềm chế cảm xúc.

Nó không bị say thuốc. Nó dám chắc. Nhưng nó khôn biết còn cách nào nữa khiến nó không chạm tới tư tưởng của Arya được. Nếu là phép thuật thì đây không phải dạng phép thuật nó biết qua.

Nó và Arya nhìn nhau trong chốc lát; sau đó nó gì đó chuyển động khiến Eragon nhìn lên. Nó thấy máu chảy xuống từ chỗ xích tay, máu nàng chảy ra khắp tay.

Nó tức giận. Nó cầm sợi dây xích trên đầu mà giật. Sợi dây khá chắc nhưng nó không bỏ cuộc. Trong cơn tức giận, nó cứ kéo và kéo không màng tới nguy hiểm cho bản thân.

Cuối cùng nó dừng lại và yếu ớt treo tại chỗ vì máu nóng rịn ra từ cổ tay chảy xuống cổ và vai nó.

Cố thoát, nó thu kết năng lượng trong cơ thể và nhắm về phía cài cùm mà hô thầm, Kverst malmr du huildrs edtha, mar frëma né thön eka threyja!

Nó thét qua lớp giẻ vì từng thớ thịt trên cơ thể đau rần. Nó không thể tập trung nổi nên dừng câu thần chú lại.

Cơn đau ngay lập tức biến mất nhưng khiến nó khó thở, tim đập mạnh như nó vừa nhảy từ vách núi xuống vậy. Nỗi đau này giống với nỗi đau nó từng chịu đừng trước khi nhưng con rồng ma chữa trị vết sẹo trên lưng nó trong Lễ hội Agaetí Blödhren.

Khi từ từ phục hồi, nó nhận được ánh mắt quan tâm từ Arya. Chắc nàng cũng đã thử rồi. Rồi: Sao lại có thể? Cả hai đang bị trói và không cách nào thoát, Wyrden chết, còn bà lang bị bắt chưa biết sống chết ra sao và Solembum thì có lẽ đang nằm chịu đau đớn ở nơi nào đó trong mê cùng ngầm, nếu như những tên lính mặc đồ đen chưa giết nó. Eragon không thể hiểu nổi. Nó, Arya, Wyrden và Angela là những người có khả năng và nguy hiểm nhất tại Alagaësia. Nhưng giờ thì họ thất bại, còn sự sống chết của nó và Arya nằm trong tay kẻ thù.

Nếu chúng ta không thể thoát... Nó bỏ ngay ý nghĩ đó đi. Hơn lúc nào hết, nó muốn liên lạc được với Saphira, chỉ để chắc rằng cô em nó vẫn an toàn và để được an ủi. Dù có Arya ở bên nhưng nó vẫn thấy cực kỳ cô đơn và căng thẳng.

Dù cổ tay đau đớn nhưng nó vẫn lấy hết sức níu dây xích xuống vì nghĩ nếu nó giữ xích đủ lâu, nó sẽ lỏng ra. Nó cố vặn dây xích vì cho rằng làm vậy sẽ dễ bẻ gẫy hơn nhưng cùm quanh chân nó khiến nó không thể.

Cổ tay quá đau khiến nó dừng lại. Cơn đau như lửa cháy và nó sợ nó sẽ cắt vào da thịt mình mất nếu tiếp tục. Ngoài ra nó sợ mất máu vì vết thương đang chảy máu nhiều và nó cũng không biết nó và Arya sẽ bị treo ở đây bao lâu nữa.

Nó không thể biết giờ là mấy giờ nhưng nó đoán đã bị treo ở đây cùng lắm là vài tiếng, vì nó không thấy đói, khát hay muốn giải quyết nhu cầu cá nhân. Nhưng càng lâu nó sẽ càng thấy khó chịu.

Cơn đau ở cổ tay khiến mỗi phút đối với Eragon dài vô tận. THi thoảng, nó và Arya nhìn nhau và cố trao đổi tư tưởng, nhưng không có một lần thành công. Có hai lần khi cơn đau dịu bớt, nó cố níu dây xích xuống, nhưng vẫn vô vọng. Phần lớn thời gian, nó và Arya phải chịu đựng.

SAu đó, khi Eragon bắt đầu tự hỏi liệu có ai sẽ tới không, nó nghe có tiếng chuông sắt kêu rổn rảng vang lên từ nơi nào đó trong đường hầm. Cánh cửa hai bên bệ thờ bật mở. Những cơ bắp trên người Eragon căng ra vì đề phòng. Nó và Arya nhìn chăm chăm vào cánh cửa.

Một phút dài như vô tận trôi qua.

Tiếng chuông lại rổn rảng vang lên, khiến cả căn phòng rộn lên những tiếng vọng giận dữ. Ba thầy tu bước qua cửa: trẻ tuổi mặc đồ vàng kim, mỗi người cầm theo một khung kim loại gắn chuông. Đằng sau họ là hai mươi tư người đàn ông và phụ nữ, không ai trong số đó có đủ chân tay. Không giống ba người đi trước, nhóm tật nguyền đằng sau mặc áo choàng bằng da đen, cắt may phù hợp với vẻ ngoài xấu xí của từng người. Đi cuối cùng là sáu tên nô lê da bóng dầu khiêng một quan tài đặt một cơ thể không chân, không tay, không răng và dường như không xác định được cả giới tính: Giám mục của Helgrind. Cái đầu nó nhô cao khoảng một mét, trông sinh vật trông còn dị dạng hơn.

Các thầy tu và những kẻ sùng đạo tự ổn định vị trí xung quanh vòng tròn trong khi những tên nô lệ nhẹ nhàng đặt cái quan tài lên ban thờ ở đầu gian phòng. Sau đó, ba người thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai và không có một khiếm khuyết rung chuông lần nữa, tạo nên những hợp âm chói tai. Tất cả những thầy tu mặc áo da đen tụng nhanh vài từ mà Eragon không nghe rõ, mặc dù nó đoán là họ đang cầu nguyện. Giữa những từ ngữ liến thoắng vang lên, nó nghe được ba cái tên của ba người sáng lập nên Helgrind: Gorm, Ilda và Fell Angvara.

Giám mục nhìn nó và Arya bằng con mắt như đá. “Chào mừng tới đại sảnh của Tosk,” nó nói bằng cái miệng héo quắt. “Lần này là lần thứ hai ngươi xâm nhập cấm địa của chúng ta rồi đó Kỵ sĩ Rồng. Ngươi sẽ không có cơ hội làm việc đó thêm lần nữa... Galbatorix muốn chúng ta tha mạng cho ngươi và đưa ngươi về Urû’baen. Hắn nghĩ có thể khiến ngươi phục vụ cho người. Hắn muốn phục sinh thời đại của các Kỵ sĩ và loài rồng. Ta đã nói giấc mơ của hắn thật hão huyền. Ngươi quá nguy hiểm và chúng ta không muốn loài rồng tái sinh. Mọi người nghĩ chúng ta thờ phụng Helgrind. Đó chỉ là lời nói dối để che đậy sự thực bên trong mà thôi. Chúng ta không tôn thờ Helgrind – mà là Thần Tối Cổ, người đã tạo nên tôn giáo chúng ta và là người chúng ta nguyện hiến dâng máu và da thịt. Ra’zac là thần của chúng ta đó Kỵ sĩ Rồng – Ra’zac và Lethrblaka.”

Sự sợ hãi lan truyền trong người Eragon như một căn bệnh.

Giám mục phun phì phì vào mặt nó, nước đãi nhễu ra từ môi dưới. “Tội ác của ngươi không thể nào dung thứ nổi. Ngươi giết thần linh của chúng ta, ngươi và con rồng đáng nguyền rủa của ngươi. Vì thế, ngươi phải chết.”

Eragon quẫy đạp và hét lên qua lớp giẻ. Nếu nó có thể nói, nó có thể trì hoãn bằng cách nói những lời cuối cùng của Ra’zac, hoặc giả như đe dọa chúng rằng Saphira sẽ trả thù. Nhưng những kẻ kia đâu có ý định lấy giẻ ra.

Giám mục nở một nụ cười xấu xí, khoe hết phần lợi xám ngoét. “Ngươi sẽ không trốn nổi đâu, Kỵ sĩ. Những viên pha lê ở đây đã được phù phép để nhốt bất cứ ai xâm nhập cấm địa hoặc ăn cắp bảo vật của chúng ta, kể cả người đó có là ngươi. Hay những kẻ giải cứu ngươi. Hai người đồng hành của ngươi đã chết – đúng, kể cả mụ phù thủy thích chĩa mũi vào chuyện người khác – và Murtagh không hề biết ngươi ở đây. Hôm nay sẽ là ngày giỗ của ngươi, Eragon Khắc tinh của Tà thần.” Sau đó Giám mục nghiêng đồi huýt sáo nghe ghê rợn.

Từ trong cánh cửa tối ở bên trái điện thờ xuất hiện bốn tên nô lệ ngực trần. Chung khiêng trên vai một tấm ván có hai hình tròn lồi lên ở giữa. Bên trong phần lồi lên và hai vật hình ô van dài khoảng 50 cm dày 15cm. Những vật đó có màu đen xanh và lỗ chỗ như sa thạch.

Đối với Eragon thời gian trôi rất chậm. Không thể nào..., nó nghĩ. Quả trứng của Saphira trơn mịn nhưng có vân như đá hoa cương. Dù vật này có là gì thì chúng cũng không phải trứng rồng. Nhưng vì không phải nên nó càng sợ hơn.

“Vì ngươi giết Thần Tối Cổ,” Giám mục nói, “ngươi phải trở thành món ăn để người hồi sinh. Đáng ra ngươi không xứng hưởng sự vinh hạnh thế này, nhưng làm vậy sẽ khiến Thần Tối Cổ vui lòng và chúng ta sẵn sàng làm mọi thứ miễn là ngài hài lòng. Chúng ta là những bầy tôi trung thành, còn các ngài là những chủ nhân hà khắc và không bao giờ thay đổi: một vị thần ba mặt – thợ săn người, kẻ ăn xác thịt và kẻ uống máu. Chúng ta hiến dâng thân xác để mong xóa bỏ nhục dục trên đời. Chúng con làm theo Tosk.”

Những thầy tu mặc đồ đen đồng thanh nhắc lại, “Chúng con làm theo Tosk.”

Giám mục gật đầu. “Thần Tối Cổ luôn luôn làm tổ ở Helgrind nhưng tới thời cụ ta, Galbatorix đã ăn trộm trứng và giết những Ra’zac non và buộc các ngài thề trung thành nếu không sẽ khiến Ra’zac tuyệt diệt. Hắn đào rỗng các hang động và đường ngầm các ngài từng dùng và hắn giao cho các thầy tu chúng tôi quản lý trứng của các ngài – trông nom cho tới khi nào hắn cần các ngài. Chúng ta đã làm vậy và làm đúng phận sự.”

“Nhưng chúng ta vẫn mong tới ngày Galbatorix bị hạ bệ để không ai được sai khiến Thần Tối Cổ nữa. Thật ghê tởm.” Khi sinh vật dị dạng liếm môi, Eragon thấy rằng nó mất mất một đoạn lưỡi: bị dao khoét mất. “Chúng ta cũng mong cả ngươi cũng biến đi, Kỵ sĩ. Rồng là Kẻ thù không đội trời chung của Thần tối cổ. Không có chúng, không có Galbatorix, không ai có thể ngăn Thần Tối cổ sinh sống ở đâu và như thế nào.”

Trong khi đó, bốn tên nô lệ mang tấm ván tiến lên và nhẹ nhàng hạ nó xuống hình tròn đá hoa văn, cách Eragon và Arya vài bước. Khi làm xong, chúng cúi đầu và lùi lại phía cánh cửa mà chúng vừa từ đó đi tới.

“AI muốn hiến dâng từng mẩu xương tới thần thánh?” Giám mục hỏi. “Mọi người, hãy tụ lại quanh đây, vì hôm nay các người sẽ nhận được lời chúc phúc của Thần Tối Cổ, và nhờ sự hy sinh này, tội ác của các ngươi sẽ được xóa sạch và cuộc đời sau của các ngươi sẽ sạch sẽ như một đứa bé mới chào đời.”

Sau đó Giám mục và những người đi theo ngẩng đầu nhìn trần nhà và bắt đầu ngâm nga một bài hát có giai điệu kỳ lạ mà Eragon khó lòng hiểu nổi. Nó tự hỏi liệu đây có phải tiếng Tosk không. Thi thoảng nó nghe thấy một vài từ nó nghĩ là ngôn ngữ cổ - dù phát âm không đúng và bị dùng sai – nhưng vẫn là ngôn ngữ cổ.

Sau khi bài hát kết thúc với câu, “Chúng con làm theo Tosk,” ba tên thầy tu áo vàng rung chuông và những tên khác la hét hưởng ứng, to tới mức có thể làm sập trần nhà.

Vừa lắc xuông, ba tên kia vừa lùi khỏi phòng. Hai mươi tư thầy tu còn lại tiếng tới gần quan tài, cạnh chủ nhân què quặt đang được sáu tên nô lê đen bóng khiêng trên vai của chúng.

Cánh cửa đóng lại với cái sầm, và Eragon nghe có tiếng thanh kim loại nặng nề chèn ngang qua.

Nó quay sang nhìn Arya. Trong mắt cô dâng lên nỗi sợ hãi và nó biết cô cũng không tìm ra cách nào để trốn thoát.

Nó lại nhìn lên và kéo dây xích xuống bằng hết sức bình sinh. Vết thương trên cổ tay nó lại rách thêm và chảy máu tong tong.

Phía trước họ, quả trứng bên trái bắt đầu rung lắc nhẹ nhè, rồi xuất hiện một vết nứt như thể bị đập bằng một cái búa nhỏ.

Eragon thấy hoảng hốt. Nó chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bị Ra’zac ăn thịt. Nó như được tiếp thêm sức lực để dằng sợi xích và cắn chắt nùi giẻ trong miệng để giảm bớt cơn đau trên tay. Nó đau nảy đom đóm mắt.

Bên cạnh nó, Arya đang kéo giật, cả hai đều đang chiến đấu trong sự lặng lẽ chết người để tự cứu mình.

Những tiếng lách tách trên quả trứng xanh đen vẫn đều đều vang lên.

Không xong rồi, Eragon nghĩ. Xích quá chắc. Ngay khi chấp nhận sự thật, nó cũng thấy rõ nó không còn có thể bị thương nặng hơn bây giờ. Vấn đề chỉ là nó chọn bị thương hay bị làm cho bị thương thôi. Dù gì mình cũng phải cứu Arya.

Nó quang sát cái cùm trên cổ tay. Nếu mình làm gẫy ngón tay cái, mình sẽ cho tay ra được. Sau đó ít nhất mình có thể chiến đấu. Có thể mình sẽ dùng một mảnh vỏ trứng Ra’zac và dùng nó làm dao. Có thứ gì đó để cắt, nó có thể giải phóng cho chân mình dù ý nghĩ đó có kinh khủng nhưng nó không quan tâm. Tất cả những gì mình cần làm là bước ra ngoài vòng tròn đá. Sau đó nó sẽ có thể sử dụng phép thuật để giảm đau và ngừng chảy máu. Nó suy nghĩ chỉ trong vài phút nhưng đó là những giây phút dài nhất cuộc đời nó.

Nó hít một hơi để chuẩn bị Tay trái trước.

Trước khi nó khởi sự thì Arya đã hét lên.

Nó quay sang nhìn và hét không thành tiếng khi thấy những ngón tay phải của nàng. Da nàng dồn lên như găng tay tới phần móng và đoạn xương trắng ơn nhô ra khỏi những thớ thịt đỏ thẫm. Arya co người và dường như ngất đi trong chốc lát; sau đó nàng tỉnh lại và kéo tay ra. Eragon hét lên cùng nàng khi tay nàng trượt ra khỏi cái cùm khiến da thịt nàng rách toạc. Nàng hạ tay xuống khiến nó không nhìn thấy nữa nhưng vẫn thấy máu nàng nhỏ xuống dưới chân.

Nước mắt làm mờ mắt nó. Nó hét gọi tên nàng qua lớp giẻ nhưng hình như nàng không nghe thấy.

Khi nàng ôm lấy người để lặp lại quá trình đó, cánh cửa bên phải bật mở và một trong những thầy tu áo vàng bước vào. Arya khựng lại khi nhìn thấy hắn dù Eragon biết nàng có thể nhẹ nhàng kéo tay ra khỏi chiếc vòng kia mà hắn không biết.

Gã thanh niên ngờ vực nhìn Arya rồi cẩn trọng bước vào trung tâm, ánh mắt lo sợ nhìn quả trứng đang rung lắc. Gã này gầy gò, mắt to và vẻ ngoài cân đôi; rõ ràng hắn có được vị trí hiện tại là nhờ vào vẻ bề ngoài.

“Đây,” hắn thì thầm. “Tôi mang những thứ này tới.” Hắn lấy từ trong áo choàng ra một cái đục, cái búa cán gỗ và một cái giũa. “Nếu tôi giúp, các người phải mang tôi đi theo. Tôi không thể ở đây lâu hơn. Tôi ghét nó. Thật kinh khủng! Hứa là các người sẽ mang tôi theo!”

Trước khi hắn nói xong, Eragon đã gật đầu đồng ý. Nhưng khi hắn tiến về phía nó, Eragon ừm ừm trong cổ và đánh mắt về phía Arya. Tên thầy tu tập sự phải mất một lúc mới hiểu.

“À, vâng,” gã thanh niên lầm bầm rồi đi tới chỗ Arya. Eragon nghiến răng tức giận vì sự chậm chạp của gã.

Tiếng sột soạt từ cái giũa nhanh chóng nhấn chìm tiếng lách tách của vỏ trứng.

Eragon quan sát cứu – tinh – bất – ngờ của họ cưa xích trên tay trái Arya. Đồ ngu, cưa đúng một mắt thôi chứ!” Eragon giận dữ. Hình như hắn chưa bao giờ dùng giũa và Eragon còn nghi hắn trói gà không chặt chứ nói chi cưa một mẩu kim loại con con.

Arya bị treo lơ lửng khi tên thầy tu trẻ tiến hành công việc, mái tóc dài của nàng phủ lên mặt. Nàng run lên và máu chảy không ngừng.

Eragon mất hết tinh thần vì cái giũa không để lại một dấu vết nhỏ trên sợi xích. Chắc chắn thứ ma thuật yểm trên kim loại quá mạnh đối với một thứ đơn giản như cây giũa.

Gã thanh niên thở hổn hển, tức giận vì công việc không tới đâu. Sau đó hắn dừng lại, vuốt lông mày, rồi nhăn tít trán lại, tấn công sợi xích lần nữa trong khi đầu gối run rẩy, ngực phập phồng và tay áo phập phồng điên cuồng.

Cậu không nhận ra cậu không làm được gì sao? Eragon nghĩ. Thử dùng đục cái cùm trên chân nàng xem nào.

Gã thanh niên vẫn tiếp tục công việc.

Một tiếng rắc sắc lạnh vang lên khắp căn phòng. Eragon thấy một đường rãnh nhỏ xuất hiện trên đầu quả trứng đen rỗ. Đường rãnh lan ra thành một mạng nhện.

Sau đó quả trứng thứ hai bắt đầu lắc lư, vang lên những tiếng lách tách, hợp âm với quả trứng thứ nhất thành một giai điệu khiến người khác bực mình.

Gã thanh niên trắng bệch, làm rơi cái giũa và lùi khỏi Arya. Gã lắc đầu, “Tôi xin lỗi... tôi xin lỗi. Quá muộn rồi.” Mặt hắn nhăn nhó và nước mắt rơi xuống. “Tôi xin lỗi.”

Eragon hoảng sợ hơn khi hắn rút một con dao khỏi áo choàng. “Tôi không thể làm gì nữa,” hắn nói như thể nói với chính mình. “Không một điều gì...” Hắn sụt sịt và di chuyển về phía Eragon. “Đây là điều tốt nhất.”

Khi hắn tiến tới gần, Eragon vặn dây xích cố rút tay ra khỏi cùm. Nhưng cùm quá chặt và nó chỉ tổ làm rách da cổ tay.

“Tôi xin lỗi,” gã thì thầm khi dừng lại trước Eragon và rút con dao ra.

Không! Eragon thầm hét lên.

Một đoạn đá thạch anh bay ra từ đường hầm Eragon và Arya bước vào. Nó đập vào gáy gã thầy tu khiến hắn ngã lên người Eragon. Eragon lùi lại vì cảm giác cạnh dao sượt qua lồng ngực. Rồi hắn ngã lăn ra đất, bất tỉnh.

Vì trong đường hầm xuất hiện một bóng hình nhỏ thó đi khập khiễng. Eragon nhìn chăm chú và khi bóng người đó bước vào bóng tối, Eragon nhận ra Solembum.

Eragon thấy an tâm.

Con mèo ma ở dạng người. Cậu ta chỉ mặc độc chiếc khố rách trông như xé từ quần áo kẻ tấn công. Những sợi lông sắc như kim gần như dựng đứng lên cả cu cậu đang nhe răng ra. Trên tay mèo ma có vài vết cắt, tai trái lủng lẳng một bên đầu và mất một mảng da đầu. Cậu mang theo một cn dao dính máu.

Đi theo sau vài bước là bà lang Angela.

__________________

NHỮNG KẺ NGOẠI ĐẠO ĐÀO TẨU

“Đúng là đồ ngu,” Angela tuyên bố khi bà bước tới rìa hình tròn hoa văn. Bà bị chảy máu từ vài vết cắt và vết xước, quần áo dính nhiều máu khô hơn nhưng Eragon không nghĩ đó là máu của bà. Hơn nữa, trông bà vẫn mảy may vô sự. “Tất cả những gì hắn phải làm là –thế này!”

Bà vung kiếm lên và chém xuống một trong những cột đá thạch anh hình thành vòng tròn. Viên pha lên vỡ tan với một tiếng rắc kỳ lạ, như khi bị giật tĩnh điện và ánh sáng từ đó chập chờn rồi biến mất. Những tảng đá khác vẫn sáng.

Angela không dừng lại. Bà tiến tới tảng đá thạch anh bên cạnh chém vỡ nó, hết cái này tới cái khác.

Chưa bao giờ trong đời Eragon lại thấy hạnh phúc khi nhìn thấy người khác như lúc này.

Nó vừa nhìn bà lang vừa nhìn vết nứt loang rộng trên đỉnh quả trứng. Ra’zac sắp ra được, vì nó đang kêu chói lói và mổ vào vỏ trứng mạnh hơn. Giữa những mảnh vỏ trứng, Eragon thấy lớp màng trắng dày và cái đầu nhọn của Ra’zac đang đập một cách điên cuồng vào vỏ trứng.

Nhanh lên, nhanh lên, Eragon nghĩ khi lỗ hổng to bằng cỡ bàn tay nó và càng nhiều vỏ trứng rơi xuống sàn nhà nghe như tiếng đĩa bằng đất nung rơi xuống.

Lớp màng rách ra và con Ra’zac non chui đầu ra khỏi quả trứng để lộ ra cái lưỡi tim tím có gai khi kêu ré lên tiếng kêu chiến thắng. Chất nhờn nhễu xuống từ mai nó và mùi nấm mốc bay nồng nặc trong phòng.

Con Ra’zac lại rít lên rồi cố chui hẳn ra khỏi vỏ trứng. Nó lôi một bàn tay đầy móng vuốt ra, nhưng lại làm đổ quả trứng nghiêng sang một bên khiến chất lỏng vàng đặc quánh chảy ra hình tròn họa tiết. Con non kệch cỡm đó nằm im một lúc vì choáng váng. Sau đó nó quẫy đạp đứng lên, xoay tròn như một con sâu hoảng loạn.

Eragon nhìn mà sợ hãi nhưng thấy thích thú.

Ngực Ra’zac chia thành từng rãnh sâu nhô lên trông giống như xương sườn mọc bên ngoài cơ thể. Tứ chi của sinh vật gầy và có bướu, trông như nhưng cái que còn phần eo bé hơn so với loài người. Chân nó có thêm khớp phía sau mà Eragon chưa bao giờ nhìn thấy vì giờ con Ra’zac non chưa đi đứng vững vàng. LỚp mai của nó mềm và mỏng, không giống những Ra’zac trưởng thành mà Eragon từng đụng độ. Theo thời gian nó sẽ cứng lên thôi.

Ra’zac nghiêng đầu – đôi mắt không con ngươi to thô lố của nó nhìn về phía ánh sáng – và kêu ríu rít như phát hiện ra cái gì đó hay ho. Nó bước một bước về phía Arya... và một bước nữa... rồi thêm bước nữa, cái mào của nó rẽ ra khi vươn tới vũng máu dưới chân nàng.

Eragon hét ú ớ mong đánh lạc hướng sinh vật nhưng Ra’zac không thèm nhìn nó.

“Xong!” Angela reo lên khi đập vỡ tảng pha lê cuối cùng.

Dù những mảnh vụn đá thạch anh rải rác trên nền nhà nhưng Solebum vẫn nhào tới con Ra’zac. Hình dáng con mèo ma nhạt nhòa trong không khí – đầu rung lên – chân thu ngắn lại, lông dựng đứng – và nó hạ xuống bằng cả bốn chân trong hình dáng động vật.

Con Ra’zac rít lên và cào Solemum nhưng con mèo ma tránh được và nhanh như chớp, đánh gẫy cổ con Ra’zac bằng bàn chân to lớn.

Cổ Ra’zac gẫy cái rắc. Sinh vật nằm lăn ra đất nơi nó vừa đi loạng choạng vài phút trước.

Solembum phun phì phì, một bên tai lành lặn ép sát vào đầu; sau đó cậu ta giật cái khổ treo quanh hông và ngồi xuống chờ đợi quả trứng còn lại.

“Cô xem cô đã làm gì bản thân mình rồi?” Angela nói khi vội vã chạy lại với Arya. Arya yếu ớt ngước lên nhưng không định trả lời.

Với ba nhát chém, bà lang tháo cái cùm trên tay Arya ra như thể nó là pho mát không bằng.

Arya ngã quỵ xuống và ấn bàn tay bị thương vào bụng. Cô dùng tay còn lại gỡ giẻ ra.

Cái đau cháy bỏng trên vai Eragon biến mất khi Angela thả nó ra để nó hạ tay xuống. Nó lôi giẻ ra và hoảng hốt nối, “Chúng cháu tưởng bà đã chết.”

“Nếu muốn giết ta chúng phải cố gắng nhiều hơn. Trong số đó chủ yếu toàn mấy tay trộm vặt ấy mà.”

Arya vẫn ngồi và lẩm nhẩm thầm chú trị thương. Những từ ngữ của cô nhẹ nhàng và bay bổng nhưng không hề có chút sai sót.

Trong khi cô chữa trị vết thương trên cánh tay, Eragon chữa lành vết cắt trên lồng ngực và vết thương trên cổ tay. Sau đó nó nhìn Solembum và nói, “Tránh ra.”

Con ma mèo vẫy đuôi làm theo những gì Eragon bảo.

Eragon giơ tay phải lên và nói, “Brisingr!”

Một cột lửa xanh lơ bốc lên từ quả trứng thứ hai. Sinh vật bên trong đó gào thét: những âm thanh nghe kinh khủng và không bình thường, giống như tiếng cào lên kim loại hơn là tiếng gào thét của con người hay động vật.

Eragon nhíu mắt lại vì nóng khi hài lòng quan sát quả trứng bi đốt cháy. Mong đây là con cuối cùng. Khi tiếng thét biến mất, nó dập lửa. Sau đó là một khoảng im lặng bất thường vì Arya đã kết thúc câu thần chú trị thương.

Angela là người phá vỡ sự im lặng. BÀ đến bên Solembum lẩm nhẩm làm phép bằng ngôn ngữ cổ để làm lành cái tai và những vết thương khác.

Eragon quỳ xuống cạnh Arya và đặt tay lên vai nàng. Nàng nhìn nó rồi thả lỏng người cho nó nhìn thấy tay nàng. Lớp da dưới đốt thứ ba ngón cai cũng như dưới lòng bàn tay và ngang mu bàn tay sáng lên màu đỏ tươi. Nhưng thớ thịt bên dưới có vẻ đã lành lại.

“Sau nàng không chữa lành luôn đi?” nó hỏi. “Nếu nàng quá mệt, tôi có thể,”

Nàng lắc đầu. “Vết thương động tới một vài dây thần kinh... và tôi không thể chữa trị được. Tôi cần Blödhgarm giúp; ông ấy giỏi hơn tôi trong khoản chữa vết thương ngoài da.”

“Nàng còn chiến đấu nổi không?”

“Nếu tôi cẩn thận.”

Nó nắm chặt lấy vai nàng một lúc. “Những gì nàng làm...”

“Tôi chỉ làm những gì tôi cho là cần làm.”

“Hầu hết không có khả năng... tôi đã thử, nhưng bàn tay của tôi quá to. Thấy không?” Nó giơ tay cho nàng xem.

Nàng gật đầu rồi nắm lấy tay nó để đứng lên. Eragon đứng lên để giúp nàng đứng vững.

“Chúng ta phải tìm vũ khí,” nó nói. “cùng với nhẫn, thắt lưng, và vòng cổ của tôi.”

Angela nhíu mày. “Sao lại là thắt lưng? Nó được yểm chú à?”

Trong khi Eragon lưỡng lự chưa biết nói sao thì Arya cất tiếng, “Có thể bà không biết tên người chế tạo ra nó nhưng trong cuộc hành trình đời mình, chắc bà đã nghe tới thắt lưng của mười hai ngôi sao.”

Mắt bà lang mở to. “Thắt lưng đó ư? Nhưng ta nghĩ nó đã thất lạc từ bốn thế kỷ trước, bị hủy diệt trong ...”

“Chúng tôi đã phục chế nó,” Arya nhàn nhạt nói.

Eragon có thể thấy bà lang muốn hỏi thêm, nhưng cuối cùng bà chỉ nói, “Ta hiểu...nhưng chúng ta nào có thời gian mà lật từng phòng mà tìm kiếm. Một khi các thầy tu biết hai người đã trốn thoát, họ sẽ bám sát gót chúng ta.”

Eragon chỉ về phía tên thầy tu trẻ đang nằm dưới đất mà nói, “Có thể hắn sẽ cho chúng ta biết đồ đạc của chúng ta ở đâu.”

Bà lang đặt hai ngón tay bắt mặt cho gã thanh niên. Sau đó bà vỗ má hắn và banh mắt hắn ra.

Gã thầy tu vẫn bất tỉnh nhân sự.

Hắn không phản ứng khiến bà lang bực mình. “Đợi một lát,” bà nói rồi nhắm mắt lại. Bà hơi nhăn trán. Trong một lúc bà cứ bất động; sau đó bà lao về phía trước một cách đột ngột. “Thằng ranh con ích kỷ! Thể nào bố mẹ hắn chô hắn làm tu sĩ. Ta ngạc nhiên là họ chịu được hắn lâu tới vậy đấy.”

“Hắn có biết gì có ích không?” Eragon hỏi.

“Chỉ biết lối lên mặt đất.” Bà chỉ về cánh cửa bên trái điện thờ, cùng cánh cửa các tu sĩ đã bước vào và đi ra. “Lạ là hắn muốn thả tự do cho hai người; ta ngờ rằng đây là lần đầu tiên hắn làm việc tốt.”

“Chúng ta phải mang hắn theo.” Eragon ghét phải nói nhưng nhiệm vụ bắt buộc nó làm thế. “Cháu đã hứa là chúng tôi sẽ mang hắn theo nếu hắn giúp.”

“HẮn muốn giết cháu!”

“Nhưng cháu đã hứa.”

Angela thở dài và đảo mắt. Bà nói với Arya. “Ta nghĩ cô cũng không thuyết phục được câu ta nhỉ?”

Arya lắc đầu rồi nhấc gã thanh niên lên vai mà không cần cố gắng nhiều. “Tôi sẽ cõng hắn,” nàng nói.

“Trong trường hợp này,” bà lang nói với Eragon, “tốt nhất cháu nên cầm cái này vì có lẽ ta và cháu sẽ phải chiến đấu dài dài.” Bà đưa cho nó thanh đoản kiếm rồi rút ra một con dao găm chuôi nạm đá quý giấu trong váy ra.

“Cái này làm từ gì vậy?” Eragon hỏi khi nhìn vào lưỡi kiếm trong suốt, để ý thấy nó nhận và phản chiếu ánh sáng. Vật liệu này khiến nó nghĩ tới kim cương nhưng nó không thể nào tưởng tượng ra có ai có thể làm vũ khí từ đá quý; bất kỳ một pháp sư bình thường nào cũng có thể kiệt sức nếu muốn duy trì hình dạng đá kiếm sau mỗi lần quai búa.

“Không phải đá cũng chẳng phải kim loại,” bà lang nói. “Dùng cẩn thân. Đừng chạm vào lưỡi kiếm hay bất cứ phần nào không cháu sẽ hối hận. Đừng để thanh kiếm gần bất cứ bộ phận cần thiết nào của cháu – chân chẳng hạn.”

Eragon cảnh giác đặt thanh kiếm ra xa. “Vì sao?”

“Vì,” bà lang nói với vẻ thích thú hiện rõ trên mặt, “Đây là lưỡi kiếm sắc nhất từng tồn tại. Không một thanh kiếm, con dao hay lưỡi rìu nào có thể sắc bằng nó, kể cả Brisingr. Nó là vật thể sắc bén độc nhất vô nhị. Cái này” – bà dừng lại để nhấn mạnh –“là nguyên mẫu của lưỡi bào dốc... Cháu sẽ không tìm ra thứ nào sánh bằng nó. Nó có thể cắt xuyên qua những thứ được phép thuật bảo vê. Cứ thử đi nếu không tin.”

Eragon nhìn xung quanh xem co gì để thử kiếm. Nó đi tới bàn thờ và chém xuống một cạnh.

“Không nhanh thế chứ!” Angela rên rẩm.

Lưỡi kiếm trong suốt chém ngọt qua tảng đá dày 10cm như chém quá bánh trứng, rồi nhắm xuống chân nó mà tiến tới. Eragon la lên và lùi lạ, dừng tay để không chém vào chân.

Góc bàn thờ rơi xuống bậc tam cấp bên dưới rồi nảy lên và lăn lông lốc về giữa phòng.

Eragon nhận ra lưỡi kiếm này phải cứng như kim cương. Nó không cần được bảo vệ nhiều vì khó vật liệu nào đối chọi nổi với nó.

“Đây,” Angela nói. “Tốt hơn cháu nên cầm cái này nữa.” Bà đưa vỏ kiếm cho nó. “Đây là một trong số ít những thứ thanh kiếm không thể cắt xuyên qua.”

Mất một lúc Eragon mới nói được sau khi suýt mất ngón chân. “Thanh kiếm này có tên không?”

Angela cười. “Tất nhiên là có. Theo ngôn ngữ cổ, nó mang tên Albitr, đúng theo nghĩa cháu đang nghĩ. Nhưng ta thích gọi nó là Tinkledeath (Thần chết – leng keng) hơn.”

“Tinkledeath!”

“Đúng, vì tiếng kêu của nó phát ra khi cháu búng vào nó.” Bà dùng đầu móng tay chạm vào và mỉm cowif khi nghe nốt nhạc cao âm vang lên trong căn phòng tối như một tia sáng mặt trời. “Giờ thì chúng ta đi được chưa?”

Eragon kiểm tra xem họ có bỏ quên gì không; sau đó nó gật đầu, rảo bước về cánh cửa bên trái và mở nhẹ nhàng hết mức có thể.

Sau cánh cửa là hành lang dài thắp đuốc. Dọc đó là hai hàng lính gác chính là hai mươi tên lính mặc đồ đen mà họ đã đụng độ lúc trươc.

Chúng nhìn Eragon và rút vũ khí.

Eragon thầm nguyền rủa và nó lao về phía trước định tấn công trước khi những tên lính kịp rút kiếm và sắp xếp đội ngũ tấn công hiệu quả. Nó mới chỉ đi được vài mét thì một chuyển động thoáng qua từng tên lính: một bóng mờ như khi cờ xí bay phấp phới trong gió vậy.

Không kịp rên lên một tiếng, hai mươi tên giật lùi lại rồi ngã xuống đất chết.

Eragon hoảng hốt dừng lại trước khi đụng vào mấy cái xác. Tất cả bọn chúng đều bị chọc vào mắt rất gọn.

Nó quay lại định hỏi Arya và bà Angela xem chuyện gì thì im luôn khi nhìn bà lang. Bà đứng chống tay vào tường, một tay chống lên đầu gối, thở dốc. Da bà trắng như da người chết và tay run lên. Máu nhỏ ra từ con dao găm.

Eragon vừa sợ vừa nể. Dù bà lang vừa làm gì cũng vượt qua tầm hiểu biết của nó.

“Thưa Nhà Thông thái,” Arya nói có vẻ chính cô cũng không hiểu lắm về chuyện xảy ra. “sao bà có thể làm vậy?”

Bà lang cười khúc khích rồi nói, “Ta dùng mánh... học từ sư phụ ta... Tenga... nhiều năm về trước. Có lẽ hàng ngàn con nhện đã cắn nát tai ông ấy rồi.”

“Vâng, nhưng bà làm thế nào?” Eragon gặng hỏi. Mánh này có thể sẽ hữu dụng ở Urû’baen.

Bà lang lại cười. “Cái gì là thời gian nhưng không là chuyển động? Là chuyển động nhưng không phải lửa? Là lửa và năng lượng nhưng lại là những cái tên khác nhau đặt cho cùng một vật?” Bà dựa vào tường và lần tới chỗ Eragon đứng và vỗ vào má nó, “Khi nào cháu hiểu câu đó đó, cháu sẽ hiểu ta làm gì và làm thế nào... Hôm nay ta không thể dùng lại câu thần chú đó nếu không sẽ làm chính ta bị thương, vì thế dừng mong ta giết thêm ai nữa khi chúng ta gặp một đống người nhé.”

Eragon khó khăn lắm mới nuốt trôi cơn tò mò và gật đầu.

Nó cởi áo trấn thủ và áo da của một tên lính chết sau đó mặc quần áo vào. Làm xong, nó dẫn đường đi qua hành lang xuống cổng vòm phía xa.

Họ không đụng độ thêm một ai trong những căn phòng và hành lang nối sau đó và cũng không tìm thấy đồ đạc. Dù Eragon mừng vì không bị phát hiện nhưng không có bất kỳ tên lính nào cũng khiến nó lo lắng. Nó mong nó và những người đồng hành không báo động cho những tên thầy tu biết rằng họ đã trốn thoát.

Không giống những căn phòng trống không trước đó, những căn phòng bây giờ chứa đầy đồ nội thất, thảm trải phòng và những thiết bị kỳ lạ bằng đồng và phe lê mà Eragon không thể đoán nổi mục đích sử dụng. Hơn một lần, những cái bàn hoặc tủ sách khiến nó muốn dừng lại xem xét nhưng nó luôn cưỡng lại được. Họ không có thời gian cho những trang giấy cũ mủn dù trong đó chứa những thông tin gì.

Bà Angela chọn đướng mỗi khi có hơn một lựa chọn nhưng Eragon vẫn đi đầu. Nó nắm chắt chuôi kiếm Tinkledeath quá khiến tay nó bắt đầu bị chuột rút.

Rất nhanh sau đó, họ tới một hành lang nhỏ kết thúc bằng những bậc đá dốc lên. Hai thầy tu trẻ đứng hai bên cầu thang, cầm theo những cái chuông mà Eragon đã nhìn thấy từ trước.

Nó chạy về phía bọn họ và đâm vào một tên trước khi hắn kịp la hét hay rung chuông. Nhưng tên còn lại có thời gian làm cả hai việc trước khi Solembum nhảy lên người hắn và đè ngửa hắn xuống đất, xé tan mặt hắn và khiến cả hành lang vang lên tiếng la hét.

“Nhanh!” Eragon hét khi nhảy lên cầu thang.

Ở bậc cầu thang trên cùng là một bức tường không có gì đỡ rộng khoảng 3m5, trên đó có khắc hình cuộn sách trang trí hoa mĩ và những hình khắc trông khá quen mắt. Nó vòng qua bức tường và đi vào một luồng sáng cường độ mạnh khiến nó loạng choạng và bối rối. Nó đưa vỏ Tinkledeath lên che mắt.

Cách nó chưa tới 1.5m là Giám mục đang ngồi trên quan tài, máu chảy xuống từ vết cắt trên vai . Một thầy tu khác – một phụ nữ mất cả hai bàn tay – quỳ cạnh quan tài, hứng máu vào một cái ly vàng mà bà ta giữ bằng phần cẳng tay. Cả Giám mục lẫn bà ta đều kinh ngạc nhìn Eragon.

Sau đó Eragon nhìn qua vai họ thấy những hàng cột chống lên trần nhà biến mất trong bóng tôi. Trên bức tường cao vút là các cửa sổ kính – cửa số bên trái sáng lên nhờ ánh bình minh trong khi phía bên phải tối om, không có sắc màu của sự sống. Những bức tượng trắng bệch đứng giữa các cửa sổ. Các hàng ghế bằng đá hoa cương với màu sắc khác nhau kéo dài từ lối vào từ đằng xa tới tận chính điện. Và, ngồi hàng đầu là các thầy tu mặc đồ da, mặt ngửng lên hát như chim non đòi ăn.

Eragon muộn màng nhận ra nó đang đứng ở Đại Thánh Đường Dras – Leona, ở phía bên kia ban thờ mà nó từng quỳ gối cách đâu rất lâu.

Người đàn bà cụt tay hạ cái ly xuống và đứng dậy, mở rộng tay như định che chắn cho giám mục. Bên cạnh bà ta, Eragon nhìn thấy màu xanh của vỏ bao Brisingr nằm cạnh quan tài, và nó nghĩ nó thấy Aren ở cạnh đó.

Trước khi nó đoạt được gươm, hai tên bảo vệ vội chạy về phía nó và dùng ngọn giáo chạm trổ có quả tua đỏ trên đầu chém vào nó. Nó bước sang một bên tên lính đầu tiên và chém thân giáo ra làm đôi khiến cho lưỡi giáo bay vòng trong không khí. Sau đó Eragon chém hắn làm đôi; Tinkledeath lượt dọc các thớt thịt và xương nhẹ như không.

Eragon hạ gục tên thứ hai rất nhanh và quay lại nghênh chiến hai tên đang lao tới từ đằng sau. Bà lang tham dự cùng nó; giơ cao con dao găm, và Solembum đang gào thét từ bên trái nó. Arya vẫn chưa tham gia cuộc chiến vì phải cõng gã thanh niên.

Máu từ cốc lênh láng khắp sàn nhà xung quanh bục thờ. Những tên lính trượt trên vũng máu và tên ngoài cùng trượt chân ngã lên ngời gã phía trước. Eragon tiến tới – không nhấc chân lên để không mất thăng bằng – và trước khi những tên lính gác kịp phản ứng, nó chém cả hai trong khi vẫn cẩn trọng với thanh kiếm của bà lang.

Eragon có nghe thấy tiếng la hét của Giám mục như vang từ nơi xa xăm nào đó, “Giết bọn ngoại đạo! Giết chúng! Đừng để những kẻ báng bổ đó chạy thoát! Chúng phải trả giá vì tội ác với Thần Tối Cổ!”

Những thầy tu bắt đầu la hét và giậm chân và Eragon cảm nhận được tư tưởng chúng đang cào xé tư tưởng nó nhưng một đàn chó sói cào xé con nai yếu ớt. Nó lùi vào sâu bên trong, lập lá chắn theo như Glaedr đã dạy. Thật khó khăn cho nó khi phải chống trả quá nhiều kẻ thù nên nó sợ nó sẽ không thể duy trì hàng phòng thủ lâu. Nó chỉ có một lợi thế duy nhất là các thầy tu đang tấn công nó đơn lẻ, không có tổ chức chứ không phải theo một khối; nếu chúng kết hợp với nhau có thể làm nó thất thủ.

Sau đó tư tưởng của Arya ép lên nó – một sự hiện diện thân thuộc mềm mại an ủi nó chống lại những kẻ thù đang cào xé lên lớp vỏ bảo vệ đầu óc của nó. Nó an tâm đón nhận luồng tư tưởng của nàng, họ hòa nhập tư tưởng, như nó và Saphira vẫn làm, khiến nó không còn biết có bao nhiêu luồng tư tưởng đang nhắm tới nó nữa.

Họ cùng nhau tấn công tư tưởng một thầy tu. Y cố chuồi thoát như một con cá quẫy khỏi tay họ nhưng họ nắm chặt hơn không cho hắn thoát. Y một cụm từ kỳ lạ, khoa trương để khiến họ tránh xa tư tưởng y: Eragon đoán y sử dụng một đoạn kinh trong cuốn sách của Tosk.

Nhưng tên thầy tu thiếu luyện tập nên hắn nhanh chóng mất tập trung khi nghĩ, “Những tên ngoại đạo này quá gần Chủ nhân. CHúng ta phải giết chúng trước khi... Đợi đã! Không! Không....!

Eragon và Arya lợi dụng phút sơ hở và khuất phục suy tưởng của y. Một khi họ chắc chắn hắn không còn chống lại họ bằng ý chí hay thân xác, Arya đọc câu thần chú kiểm tra trí nhớ tên thầy tu, từ đó nàng biết nàng có thể vượt quá lá chắn phòng thủ của y.

Ở hàng ghế thứ ba, một tên hét lên và cháy rừng rực, ngọn lửa xanh bốc lên từ mắt, tai và mồm y. Ngọn lửa bén vào quần áo vài thầy tu bên cạnh khiến chúng chạy toán loạn, không thể tấn công Eragon lâu hơn. Ngọn lửa lách tách cháy như tiếng cành cây bị quậy gẫy trong cơn bão.

Bà lang chạy xuống từ ban thờ và lẫn trong đám thầy tu, đâm chém tên này tên khác. Solembum bám sát gót, kết liễu đời những gã vừa ngã xuống.

Sau đó, Eragon và Arya dễ dàng kiểm soát tư tưởng kẻ thù. HỌ tiếp tục cùng nhau giết bốn thày tu nữa còn những kẻ khác bỏ chạy tứ tán. Vài tên bỏ chạy qua hành lang mà Eragon nhớ là dẫn tới tu viện cạnh giáo đường, trong khi những kẻ khác trốn dưới các hàng ghế và cho tay lên che đầu.

Nhưng sáu thầy tu không thèm bỏ chạy hay trốn mà đứng thách thức Eragon với con dao cong giơ cao. Eragon chém trúng tên đầu tiên trước khi hắn kịp đâm nó. Eragon tức giận vì mụ ta lập lá chắn bảo vệ khiến lưỡi kiếm Tinkledeath đi chật 15cm khỏi cổ mụ; lưỡi kiếm phản lực lại làm rung tay nó. Eragon dùng tay trái đánh vào mụ. Không hiểu vì lý do gì, câu thần chú không ngăn được nắm đấm của nó và nó cảm thấy xương gò má mụ gãy vụn khi nó đánh bay mụ về những người đằng sau.

Những thầy tu còn lại ổn định vị trí. Eragon bước lên chặn nhát gươm vụng về của tên thầy tu đứng đầu – cùng tiếng hét Ha! – nó thụi vào bụng hắn và khiến hắn bay một đường đẹp mắt về các hàng ghế.

Eragon giết gã tiếp theo bằng cách tương tự. Một mũi lao xanh vàng găm vào họng tên thầy tu bên trái Cùng lúc đó, bóng hình màu hung của Solembum vụt qua nó và tấn công những kẻ còn lại.

Chỉ còn một tông đồ của Tosk đứng sau nó. Arya dùng cánh tay còn lại nắm lấy đằng trước áo choàng da và ném mụ bay xa 9m.

Bốn tên thầy tu học việc nâng quan tài của Giám mục lên và mang nó về phía đông qua cổng chính giáo đường.

Thấy chúng trốn chạy, Eragon gầm lên và nhảy lên bệ thờ làm đổ đĩa và ly thánh xuống đất. Từ đó, nó nhảy trên người những thầy tu đã chết. Nó hạ cánh nhẹ nhàng xuống hành lang và lao tới cuối giáo đường, nhằm thẳng những tên thầy tu học việc mà tới.

Bốn gã thanh niên dừng lại khi thấy Eragon. “quay lại!” Giám mục bài hải hét. “Quay lại!” Những nô bộc của nó vâng lệnh nhưng bị chặn đứng bởi Arya, một trong số đó bị Arya quật qua vai.

Chúng hoảng hốt la hét và quay người vụt chạy giữa hai hàng ghế. Trước khi chúng đi thêm được vài bước, Solembum bước ra chặn đường và lao vào chúng. Tai con mèo ma dán chặt xuống xương sọ và tiếng gầm trầm trầm của nó khiến Eragon dựng tóc gáy. Sát sau con mèo ma là Angela đi xuống từ bệ thờ, một tay cầm dao găm một tay cầm ngọn giáo xanh vàng.

Eragon không hiểu bà mang theo bao nhiêu vũ khí.

Họ ấn tượng vì các thầy tu học việc không hề run sợ hay bỏ chủ nhân lại. Thay vào đó chúng la hét và lao nhanh tới Solembum, có lẽ vì cho rằng mèo ma là kẻ thù nhỏ nhất và gần nhất; và vì chúng tin đây là kẻ thù dễ chơi nhất.

Nhưng chúng đã lầm.

Solembum nhún người nhảy từ nền nhà lên ghế. Sau đó, không dừng lại, cậu ta hạ cánh trên người một trong hai gã dẫn đầu.

Khi mèo ma bay trong không khí, Giám mục hét gì đó bằng ngôn ngữ cổ - Eragon không nhận ra từ đó là từ gì nhưng chắc chắn là ngôn ngữ chính thống của thần tiên. Dù câu thần chú đó là gì, nó cũng không ảnh hưởng tới Solembum, dù Eragon thấy bà Angela lảo đảo như dính đòn.

Solembum đụng trúng một tên thầy tu đang bay tới và hắn ngã ngửa xuống sàn, la hét khi Solembum vồ hắn. NHững tên con lại vấp lên xác đồng đạo, ngã xuống khiến Giám mục rơi khỏi quan tài trúng một trong những cái ghế. Nó nằm đó giãy giụa như giòi.

Một giây sau Eragon đuổi kịp chúng và bằng ba nhát kiếm, nó giết hết những gã thày tu chỉ trừ một tên đang bị Solembum gặm cổ.

Khi Eragon chắc chắn chúng đã chết hết, nó quay người định đâm chết Giám mục diệt trừ hậu họa. Khi nó tiến tới sinh vật không chi, một tư tưởng xâm nhập đầu óc nó, xục xạo đầu óc nó hòng khống chế đầu óc nó. Đòn tấn công xấu xa đó buộc nó dừng lại tập trung để chống lại kẻ xâm lăng.

Nó liếc thấy cả Arya và Solembum đều bất động. Chỉ có bà lang là không. Bà dừng lại một thoáng khi tên tấn công tiếp cận, nhưng sau đó bà chậm chạp tiến tới chỗ Eragon.

Giám mục nhìn Eragon chằm chằm, đôi mắt trũng sâu có quầng thâm của nó cháy lên sự hận thù và tức giận. Nếu sinh vật đó có tay và chân, Eragon tin nó sẽ xé tan tim mình ra bằng tay không. Với ánh nhìn ác ý đó, Eragon còn nghĩ sinh vật sẽ bò khỏi ghế và cắn chân nó nữa.

Cuộc tấn công vào đầu óc nó càng lên cao độ khi bà Angela tới gần. Giám mục – chắc chắn là do tên Giám mục này – giỏi hơn bất cứ tên đồng đạo nào. Vừa đấu tư tưởng với bốn người một lúc lại còn đe dọa từng người quả là đáng kinh ngạc, đặc biệt khi đối thủ của nó lại là một tiên nhân, một Kỵ sĩ Rồng, một phù thủy và một ma mèo. Giám mục là một trong những đối thủ khó chơi nhất mà Eragon từng đụng độ; nếu không có sự giúp đỡ của những bạn đồng hành, Eragon nghi nó đã bị sinh vật này hạ gục. Điều giám mục làm là điều Eragon chưa bao giờ chứng kiến, kể như cắt đứt luồng tư tưởng liên kết giữa Eragon, Arya và Solembum, khiến họ bối rối. Eragon còn tưởng mình đã quên bản thân là ai trong một lúc.

Cuối cùng Angela bước tới giữa hàng ghế. Bà đi qua Solembum – đang co mình bên cạnh tên thầy tu học việc cậu ta vừa giết chết, mọi sợi lông trên cơ thể đều xù lên – rồi cẩn trọng bước qua xác ba gã Eragon vừa giết.

Khi bà tới gần, giám mục bắt đầu quẫy như con cá mắc câu nhằm đẩy mình xa hàng ghế hơn. Cùng lúc đó, áp lực lên tư tưởng Eragon nhẹ hơn dù không đủ để nó dám cử động.

Bà lang dừng lại khi tới gần Giám mục và Eragon ngạc nhiên khi Giám mục không cử động mà nằm thở dốc trên ghế. Trong một phút, sinh vật mắt trũng sâu và người phụ nữ thấp bé, gương mặt cương nghị nhìn nhau trong một trận đấu trí vô hình.

Sau đó Giám mục náo núng còn bà Angela mỉm cười. Bà hạ con dao găm xuống và lấy trong váy ra một chủy thủ nhỏ màu đỏ vàng của ánh hoàng hôn. Bà nhoài người về phía Giám mục, thì thầm nho nhỏ, “Ngươi nên biết tên ta, đồ không lưỡi. Nếu ngươi biết, ngươi sẽ không dám chống lại chúng ta. Đây, để ta nói cho ngươi hay...”

Bà hạ giọng rất nhỏ khiến Eragon không nghe được. Nhưng Giám mục trắng bệch đi, cái mồm héo quắt của nó mở ra thành một hình ô van đen sì, một tiếng thét thoát ra từ họng nó. Cả giáo đường rung lên.

“Ôi, im lặng nào!” bà lang nói to và bà đâm chủy thủ vào ngực Giám mục.

Lưỡi dao lóe màu trắng sáng và biến mất cùng âm thanh như tiếng sấm nổ từ đằng xa. Khu vực xung quanh vết thương sáng lên như gỗ cháy; rồi da thịt Giám mục biến thành muội đen lan trên ngực nó. Với một tiếng ọc, tiếng hét của sinh vật ngừng lại đột ngột như khi bắt đầu.

Câu thần chú nhanh chóng lan khắp người Giám mục, khiến cơ thể hắn biến thành một lớp bụi đen có hình đầu và thân nó.

“Siêu thoát nhé,” Angela gật đầu nói.

__________________

CHUÔNG RUNG

Eragon rùng mình như vừa bước ra khỏi cơn ác mộng.

Giờ khi không phải chiến đấu với Giám mục, nó mới dần dà để ý tiếng chuông vang lên trong tu viện – âm thanh lớn, giục giã làm nó nhớ tới hồi Ra’zac đuổi theo nó trong giáo đường khi lần đầu tới Dras – Leona cùng ông Brom.

Murtagh và Thorn sẽ sớm có mặt, nó nghĩ. Chúng ta phải đi trước khi chúng tới.

Nó đặt thanh Tinkledeath trong vỏ vào tay bà Angela. “Đây,” nó nói. “Cháu nghĩ là bà muốn nó.” Rồi nó đẩy mấy cái xác sang một bên tới khi tìm ra thanh Brisingr. Tới khi nắm chuôi kiếm trong tay nó mới thây an tâm. Dù thanh kiếm của bà lang là một thanh kiếm tốt và nguy hiểm nhưng đấy không phải vũ khí của nó. Không có Brisingr, nó cảm thấy đầy điểm yếu – như khi nó và Saphira tách rời nhau.

Nó mất một lúc nữa mới tìm thấy nhẫn bên dưới hàng ghế và vòng cổ bị treo bên cạnh tay nắm quan tài. Giữa đống xác chết, nó tìm ra thanh kiếm của Arya và nàng hài lòng nhận lại nó. Nhưng nó không tìm ra thắt lưng của Beloth Khôn ngoan.

Eragon tìm dưới các hàng ghế gần đó rồi bệ thờ và khu vực xung quanh nhưng không thấy đâu,

“Nó không ở đây,” cuối cùng nó tuyệt vọng lên tiếng. Nó trở ra bức tường treo che giấu lối vào căn phòng bí mật. “Chắc chúng để nó dưới đường hầm.” Nó nhìn vào tu viện, “Hoặc có thể...” Nó lưỡng lự giữa hai lựa chọn.

Lẩm bẩm câu thần chú tìm kiếm thắt lung nhưng nó chỉ thấy hình ảnh trống rỗng xám xịt. Đúng như nó đã lo sợ, thắt lưng đã bị yểm bùa không cho người khác sử dụng phép thuật để nhìn thấy, cũng như bùa yểm trên thanh Brisingr.

Eragon nhăn nhó và bước thêm nửa bước về phía bức tường treo.

TIếng chuông càng lúc càng lớn.

“Eragon,” Arya gọi từ bên kia giáo đường. Nàng xốc tên thầy tu học việc lên vai kia.”Chúng ta phải đi.”

“Nhưng...”

“Oromis sẽ hiểu. Không phải lỗi của chàng.”

“Nhưng...”

“Bỏ đi! THắt lưng đó từng bị thất lạc rồi. CHúng ta sẽ tìm ra nó. Nhưng giờ chúng ta phải đi. Mau lên!”

Eragon chửi thề, quay người lại và chạy tới cùng arya, bà Angela và Solembum về cửa chính. Khi mọi thứ đã mất...Đối với nó bỏ lại thắt lưng là điều báng bổ đi quá nhiều sinh vật phải chết để thắt lưng có đủ năng lượng. Hơn nữa, nó có cảm giác kinh khủng rằng nó sẽ cần tới thắt lưng trong ngày hôm nay.

Ngay khi nó và bà lang đẩy cánh cửa nặng nề dẫn ra khỏi giáo đường, Eragon phóng tư tưởng đi tìm Saphira. Nó biết em nó đang bay lượn vòng trên thành phố, đợi nó tìm cô bé. Thời gian tự do hành động đã quá dài, và giờ nó không quan tâm liệu Murtagh hay bất cứ một pháp sư khác có cảm nhận thấy sự hiện diện của nó hay không.

Nó nhanh chóng cảm thấy tư tưởng quen thuộc của Saphira. Ngay khi tư tưởng chúng hòa làm một, cơn quặn thắt trong ngực Eragon biến mất.

Sao anh lâu thế? Saphira reo lên. Nó có thể cảm nhận sự lo lắng từ cô em và nó biết em nó đã định hạ cánh xuống Dras – Leona và lục tung thành phố lên để tìm nó.

Nó cho ký ức của mình tràn ra, chia sẻ với cô em mọi thứ từ khi họ chia tay. Quá trình kéo dài vài giây khi nó, Arya, bà Angela và ma mèo đang bước xuống được vài bậc tam cấp.

Không dừng lại để cho Saphira có cơ hội hiểu những luồng tư tưởng lộn xộn của nó, Eragon nói, Bọn anh cần thứ gì đó đánh lạc hướng – ngay bây giờ!

Cô nàng hiểu câu nói của nó và nó cảm thấy cô em nó đang lao thẳng xuống.

Ngoài ra, bảo Nasuada bắt đầu tấn công. Bọn anh sẽ tới cổng nam sau vài phút nữa. Nếu quân Varden không tới kịp khi bọn anh mở cổng, anh không biết bọn anh sẽ trốn sao nữa!

__________________

ĐỘNG – GAI - ĐEN

Sương sớm mát mẻ tạt qua đầu Saphira khi cô nàng lao tới thành phố - ổ - chuột khi ánh bình minh mới chiếu sáng được nửa. Những tia sáng thấp khiến những tòa nhà –có mùi- vỏ trứng-gỗ sống động hơn trong khi mặt phía tây vẫn chìm trong bóng đêm.

Tiên nhân-sói- trong-hình dạng – Eragon đang cưỡi trên lưng cô nàng hét gì đó nhưng cơn gió đói khát khiến từ ngữ của anh ta bị xé lẻ khiến cô nàng không hiểu. Anh ta hỏi cô bé về trí óc- đầy- nhạc thơ của mình nhưng cô nàng không để anh ta hỏi hết. Thay vào đó, cô nàng kể cho anh ta nghe về cảnh ngộ của Eragon và yêu cầu anh đánh động cho Nasuada rằng đã tới lúc hành động.

Saphira không hiểu làm sao Blödhgarm – giả dạng – Eragon có thể qua mắt mọi người. Anh ta không có mùi của bạn đồng hành – linh hồn – và – trái tim của cô nàng và cũng không suy nghĩ như Eragon. Nhưng giống hai – chân có vẻ bị ấn tượng vì sự xuất hiện này và nhiệm vụ của họ cũng chỉ là lừa giống hai – chân thôi.

Ở phía bên trái thành phố-ổ-chuột là hình dáng sáng lấp lánh của Thorn. Hắn ta đang nằm trải dài suốt khu thành lũy cổng nam. HẮn ngẩng cái đầu đỏ sậm lên và cô nàng biết nó thấy cô nàng bay tới mặt đất-đầy-xương, đúng như cô nàng mong đợi. Cảm xúc của cô nàng với Thorn rất phức tạp. Mỗi lần nghĩ về hắn, cô nàng lại thấy bối rối và mông lung không như bình thường.

Nhưng dù sao đi nữa, cô nàng cũng không để con thú non kia đánh bại nó.

Khi những ống khói đen sì và những mái nhà dốc đứng gần hơn, cô nàng sải cánh rộng hơn một chút, cảm nhận ngực, vai, cánh căng ra khi giảm tốc trên đà lao xuống. Khi cô nàng chỉ còn cách mấy khu nhà san sát nhau kia có vài mét, cô nàng đảo ngược lên và mở cánh rộng hết cỡ. Cô nàng cần một lực rất lớn để không bị ngã; trong một thoáng, cô nàng thấy cánh nó sắp bị gió xé rách tới nách.

Cô nàng quẫy đuôi để giữ cân bằng rồi bay lên trên quan sát động-gai-đen nơi các thầy tu-cuồng-máu thờ phụng. Cô nàng lại thu cánh, hạ thấp thêm vài mét nữa cho tới khu hạ xuống mái nhà thờ với một tiếng rắc như sấm dậy.

Cô nàng bám chặt móng xuống mái nhà thờ để không trượt xuống con đường bên dưới. Sau đó, cô nàng ngửng đầu gầm lớn hết cỡ để thách thức thế giới này và mọi thứ sống trong đó.

Có tiếng chuông lanh lảnh vang lên trong tòa tháp bên cạnh động-gai-đen. Cô nàng bực mình vì âm thanh đó nên ngoẹo cổ hà một hơi lửa xanh vàng vào đó. Tòa tháp không bắt lửa vì làm bằng đá, nhưng dây thừng và xà giữ chuông bắt lửa và vài giây sau, chuông đổ sập lên những thứ trong tòa tháp.

Cô nàng khoái trá nhìn giống-hai-chân-tai-tròn đang vừa chạy vừa la hét. Dù gì cô nàng cũng là rồng. Họ phải sợ cô nàng chứ.

Một kẻ hai-chân dừng lại cạnh quảng trường trước động-gai-đen và cô nàng nghe hắn đọc thần chú bằng giọng lít chít như con chuột đang sợ hãi. Dù câu thần chú là gì thì lưới phòng hộ của Eragon cũng bảo vệ cô nàng – cô nàng đoán thế vì không thấy có gì khác.

Tiên nhân-sói-trong-hình dạng-Eragon giúp cô nàng giết hắn. Cô nàng cảm nhận Blödhgarm đã bóp chặt tư tưởng hắn và buộc tên – hai-chân-tai-tròn khuất phục thế nào. Blödhgarm chỉ dùng một từ bằng ngôn ngữ-ma thuật-cổ xưa-của tiên nhân và tên hai-chân-tai-tròn ngã lăn ra đất, máu ứa ra từ miệng.

Sau đó tiên nhân-sói vô vai cô nàng và nói, “Chuẩn bị đi Vảy sáng. Chúng tới kìa.”

Cô nàng thấy Thorn bay lên từ mái nhà với người anh-cùng mẹ- khác cha- của Eragon-Murtagh, nhỏ bé, đen đúa trên lưng. Trong ánh bình minh, Thorn tỏa sáng lấp lánh y như nó. Nhưng lớp vảy của cô nàng sạch sẽ hơn sau khi được chăm sóc đặc biệt vào lúc trước. Cô nàng muốn vào trận trong hình tượng đẹp đẽ nhất. Kẻ thù không chỉ khiếp sợ mà còn ngượng mộ cô nàng.

Cô nàng biết chuyện đó là chẳng có tích sự gì, nhưng mà đã làm sao. Không giống loài nào có thể sánh nổi dáng vẻ hùng vĩ của loài rồng. Ngoài ra, cô nàng là con cái cuối cùng, và cô nàng muốn bất cứ ai nhìn thấy đều sững sờ trước vẻ ngoài và nhớ cô nàng thật kỹ. Dù cho loài rồng có tuyệt diệt thì giống hai-chân sẽ mai rỉ tai nhau với sự kính trọng và ngưỡng mộ.

Khi Thorn bay lên cao hơn thành phố-ổ-chuột độ 300m, Saphira đánh mắt nhìn quanh để chắc rằng người đồng hành-từ trái tim-tới khối óc Eragon không ở gần động-gai-đen. Cô nàng không muốn vô tình làm ông anh bị thương. Anh nó là một thợ săn dũng manh nhưng lại quá nhỏ và dễ bị đạp trúng.

Cô nàng vẫn đang tìm hiểu những ký ức-đau đớn- vọng lại-từ bóng tối mà Eragon chia sẻ cùng, nhưng cô nàng đã thấy những sự kiện vừa qua một lần nữa chứng minh cho điều cô nàng đã tin từ lâu: mỗi khi cô nàng là người bạn đồng hành –từ khối óc – tới trái tim chia lìa là anh nó lại gặp rắc rối, không kiểu này thì kiểu khác. Cô nàng biết, Eragon sẽ không đồng tình nhưng anh nó không thể chối bỏ được những việc xảy ra trong cuộc phiêu lưu vừa qua. Cô nàng hài lòng vì mình đúng.

Khi Thorn đã bay tới độ cao thích hợp, hắn quay lại và lao và khè lửa về phía cô nàng.

Cô nàng đâu có sợ lửa – lá chắn của Eragon sẽ bảo vệ nó – nhưng sự đồ sộ và sức mạnh của Thorn sẽ khiến bất cứ phép thuật nào yểm lên người cô nàng chống lại những nguy hiểm về mặt thể chất tiêu hao. Để bảo vệ mình, cô nàng lùi lại và ép chặt người vào giáo đường để có thể quay cổ đớp vào cái bụng trắng hếu của Thorn.

Một bức tường lửa nhấn chìm cô nàng, bao bọc và gầm thét như một thác nước khổng lồ. Ngọn lửa quá sáng khiến cô nàng phải nhắm mắt, giống như khi xuống nước, để ánh sáng không làm mù mắt.

Con lửa nhanh chóng tắt. Khi Thorn vọt lên trên, cái đuôi dày, xương xẩu của hắn vẻ một đường lên màng cánh phải cô nàng. Vết xước chảy máu, nhưng không nhiều. Cô nàng không nghĩ nó sẽ gây trở ngại trong khi bay dù rất đau.

Thorn lao về phía cô nàng lần nữa và cố dử nó bay lên. Cô nàng không mắc bây nên sau vài lần, hắn chán và đậu xuống một bên động-gai-đen, đôi cánh khổng lồ xòe rộng để giữ thăng bằng.

Toàn bộ tòa nhà rung lên khi Thorn hạ cánh bằng cả bốn chân, rất nhiều cửa sổ-có-họa tiết-khắc từ đá quý vỡ tan tinh, rơi lanh canh trên mặt đất. Hiện giờ Thorn to lớn hơn cô nàng do Galbatorix can thiệp vào quá trình nở, nhưng cô nàng không sợ. Cô nàng có nhiều kinh nghiệm hơn Thorn, hơn nữa, lại được huấn luyện bởi Glaedr, con rồng to hơn cả cô nàng và Thorn cộng lại. Ngoài ra, Thorn không dám giết cô nàng... và cô nàng cũng không nghĩ hắn muốn thế.

Con rồng đỏ gầm ghè và bước lên trước, móng vuốt của nó ấn vụn mái ngói. Cô nàng gầm lại và lùi vài mét tới khi đuôi chạm vào mái chóp vươn lên như bức tường ở phía trước động-gai-đen.

Đuôi Thorn giật giật và cô nàng biết hắn định vồ.

Cô nàng hít một hơi và tắm hắn trong ngọn lửa. Nhiệm vụ của cô nàng là không cho Thorn và Murtagh biết Eragon không ngồi trên lưng cô nàng. Vì thế cô nàng hoặc phải tránh xa Thorn để Murtagh không đọc được suy nghĩ của tiên nhân-sói-trong-hình dạng- Eragon hoặc cô nàng tấn công thường xuyên hơn và dữ dội hơn để Murtagh không có cơ hội – cái này hơi khó vì Murtagh vẫn thường tấn công trên lưng Thorn khi Thorn đang quay đảo trong không trung. Nhưng họ vẫn rất gần mặt đất, vậy là cô nàng có lợi thế, vì cô nàng thích tấn công hơn. Luôn luôn thích là người tấn công.

“Ngươi chỉ làm được thế?” Murtagh hét với giọng the thé tới kỳ lạ từ trong ngọn lửa đang nhảy múa.

Ngay khi cuộn lửa cuối cùng thoát ra khỏi miệng, Saphira lao về phía Thorn. Cô nàng hạ cánh lên ngực hắn, cổ cả hai xoắn vào nhau, đầu va vào nhau vì cả hai đều nhắm răng vào cổ họng đối phương. Lực tác động khiến Thorn ngã lên động-gai-đen. Hắn đập cánh vào Saphira để cả hai cùng ngã xuống đất.

Chúng hạ cánh làm vỡ đá lát vỉa hè và làm chấn động vài căn nhà gần đó. Hình như Thorn vị gẫy đoạn xương bả vai trái nào đó. Lưng hắn cong lên không tự nhiên vì lá chắn của Murtagh tránh cho hắn ngã dập lưng xuống đất.

Saphira nghe tiếng Murtagh chửi thề từ đằng sau Thorn. Cô nàng quyết định phải tránh xa tên hai-chân-tai-tròn đang giận dữ và bắt đầu đọc thần chú.

Cô nàng nhảy lên, đá vào bụng Thorn và đậu lên mái nhà đằng sau con rồng đỏ. Tòa nhà quá yếu không đỡ nổi cô nàng vì thế cô nàng bay lên và, để chắc chắn, đốt luôn một dãy nhà.

Để cho chúng xử lý, cô nàng hài lòng nghĩ, nhìn ngọn lửa đói khát liếm lên những kiến trúc bằng gỗ.

Cô nàng bay về động-gai-đen, trượt trên mái và bắt đầu xé rách mái nhà, giống như cách cô nàng xé tan nóc lâu đài ở Durza-Gil’ead. Chỉ có điều giờ cô nàng đã lớn hơn. Và những khối đã này đối với cô nàng chỉ như viên đá sỏi đối với Eragon. Những thầy tu-cuồng-máu trong đó đã làm bị thương bạn đồng hành-từ khối óc –tới trái tim của cô nàng, làm bị thương tiên-nữ-mang dòng máu-rồng Arya, người phụ nữ mang gương mặt trẻ-nhưng- trí óc già cỗi Angela và ma mèo Solembum – cậu ta còn mang nhiều tên khác – và đã giết Wyrden. Vì thế, Saphira quyết tâm hủy diệt động-gai-đen để trả thù.

TROng vài giây, cô nàng mở toang mái nhà. Cô nàng đốt sạch đồ đạc bên trong và thò móng vuốt vào trong lôi cây đại phong cầm và ném nó vào tường. Chúng kêu lanh canh và va vào những hàng ghế bên dưới.

Thorn gầm lên, sau đó bay lên bầu trời bên trên động-gai-đen và đập cánh tại chỗ dữ dội. Hắn xuất hiện như một hình bóng đen sì không rõ ràng trái ngược với bức tường lửa dâng lên từ những căn nhà bên dưới, trừ đôi cánh trong mờ, giờ đang tỏa ra ánh sáng vàng cam và đỏ sẫm.

Hắn lao tới, xòe những móng vuốt sắc nhọn ra.

Saphira đợi tới khoảng khắc cuối cùng; sau đó cô nàng tránh sang một bên, bay khỏi động-gai-đen và Thorn đâm đầu vào ngọn tháp giữa nhà thờ. Ngọn giáo đá-cao-có lỗ vỡ ra và đỉnh của nó – một cây cột vàng được chạm khắc hoa văn – đổ sụp và rơi xuống quảng trường dưới đó 12m.

Thorn gầm lên vì thất vọng và cố đứng dậy. Nửa sau của hắn cắm vào lỗ hổng Saphira vừa xé ra trên mái và hắn cào bới để kéo mình ra.

Trong lúc đó, Saphira bay về phía trước động-gai-đen, đối diện với ngọn tháp Thorn vừa đánh sập.

Cô nàng lấy hết sức ực bám vào ngọn tháp bằng móng chân phải.

Tượng và những đồ trang trí công phu vỡ tan dưới chân cô nàng; mây bụi làm tắc lỗ mũi; vài mảnh gạch đá rơi xuống quảng trường. Nhưng tòa tháp vẫn đứng vững, thế là cô nàng lại lắc.

Thorn hoảng sợ rống lên khi nhận ra cô nàng đang làm gì, và nó cào cấu mãnh liệt hơn để thoát ra.

Sau cú lay thứ ba của Saphira, ngọn tháp đá cao lớn đã vỡ tới chân và, từ từ sập xuống mái. Thorn chỉ còn thì giờ mà gầm gừ tức giận rồi sau đó tòa tháp đá cuội sập lên người hắn, khiến hắn chúi nhủi vào tòa nhà cháy, chôn hắn trong những cột đá.

Tiếng ngọn tháp vỡ tan thành từng mảnh vang vọng khắp thành phố-ổ-chuột như sấm động.

Saphira gầm lên hưởng ứng, lần này là vì chiến thắng. Thorn sẽ sớm thoát ra, nhưng cho tới lúc đó, mạng hắn nằm trong móng vuốt cô nàng.

Cô nàng nghiêng cánh, đảo một vòng quanh động-gai-đen. Cô nàng bay qua hai phía tòa nhà, đâm mình vào những cột trụ khiến chúng đổ tắp lự. Những khối đá sụp xuống tạo ra âm thanh ầm ĩ khó chịu.

Khi đã đốn hạ toàn bộ các cột trụ, bức tường không có cột chống lắc lửa và đổ xuống. Nỗ lực thoát ra của Thorn chỉ làm tình thế xấu hơn. Sau vài giây, tường đã sập. Toàn bộ kiến trục phi phá hủy, bụi bay cao khủng khiếp.

Saphira rống lên vì chiến thắng, sau đó đứng trên hai chân sau bên đống đổ vỡ và sơn màu cho chúng bằng ngọn lửa nóng nhất. Dùng phép thuật làm lửa đi chệch hướng thì dễ nhưng làm chệch hướng nhiệt bốc ra từ lửa cần rất nhiều cố gắng và năng lượng. Bằng cách buộc Murtagh dùng toàn bộ sức lực để giúp hắn và Thorn không bị nấu chín và khỏi bị đè nát, Saphira hy vọng làm hắn kiệt sức, và Eragon cũng những kẻ hai-chân-tai-tròn sẽ có cơ hội đánh bại hắn.

Trong khi cô nàng khè lửa, tiên nhân-sói tren lưng cô đọc thần chú, nhưng để làm gì thì cô nàng không biết, mà cũng chẳng quan tâm. Cô tin kẻ hai-chân này. Dù anh ta làm gì cũng là để giúp đỡ.

Saphira lùi ra sau khi đống đổ nát tung ra. Với một tiếng gầm, Thorn vươn mình khỏi đống đá vụn. Cánh hắn nhàu nát như bướm ép khô, và hắn chảy máu trên chân và lưng.

Hắn nhìn cô nàng mà gầm ghè, đôi mắt đỏ như đá ruby đen lại vì giận dữ. Đây là lần đầu tiên cô nàng thực sự chọc giận hắn và hắn thực sự muốn xé thịt nếm máu cô nàng.

Tốt thôi, cô nàng nghĩ. Có thể hắn không con chó toi-sợ-bị thua như cô nàng vẫn nghĩ.

Murtagh lấy một cái bao nhỏ nơi thắt lưng ra và lấy một vật tròn nhỏ. Theo như kinh nghiêm, Saphira biết đó là bùa dùng để chữa lành vết thương cho Thorn.

Cô nàng không chờ đợi mà bay cao nhất có thể trước khi Thorn đuổi theo. Cô nàng liếc xuống sau vài nhịp đập cánh và thấy hắn bay lên với tốc độ nhanh kinh ngạc, như một con chim cắt-móng-đỏ-lớn.

Cô nàng lượn vòng và đang định lao về phía hắn thì cô nàng nghe tiếng Eragon hét:

Saphira!

Cô nàng hoảng hốt, tiếp tục lượn vòng tới khi định ra vị trí cổng nam, nơi Eragon đang ở. Cô thu cánh và lao về phía đó.

Thorn đảo người, và cô nàng không quay lại nhìn cũng biết hắn đang bám sát đằng sau.

Và thế là cả hai đuổi nhau sát sượt trên bức tường của thành phố-ổ-chuột, và sương sớm mát lành tru lên trong tai Saphira như một con sói bị thương.

__________________

BÚA VÀ MŨ TRỤ

Cũng tới lúc!Roran nghĩ khi nghe tiếng kèn của quân Varden vang lên từ xa.

Anh liếc nhìn Dras – Leona và thấy bóng dáng Saphira đang lao về phía những tòa nhà tối om, vảy sáng lên trong ánh bình minh. Bên dưới cô nàng là Thorn, trông như một con mèo to vừa tắm nắng trên hàng rào xong giờ đang đuổi bắt con mồi.

Roran bồn chồn. Cuối cùng đã tới thời khắc chiến đấu. Anh lo lắng đôi chút cho Eragon sau đó đứng dậy khỏi khúc cây anh vừa ngồi đã bước tới hòa mình cùng những người lính đang xếp hàng ngũ theo hình chữ nhật rộng bề ngang.

Roran nhìn các hàng lối kiểm tra xem đội đã sẵn sàng chưa. Họ đã đợi gần như cả đêm. Họ mệt mỏi nhưng anh biết sự sỡ hãi và phấn khích sẽ sớm biến mất. Roran cũng mệt nhưng anh không quan tâm; anh có thể ngủ sau khi trận chiến kết thúc. Tới lúc đó, anh cần quan tâm làm sao giữ mạng mình và các binh lính dưới quyền.

Roran hài lòng đội mũ trụ lên. Sau đó anh rút búa và đeo đeo khiên vào tay trái.

“Theo lệnh ngài,” Horst bước lên trước mặt.

Roran gật đầu. Anh chọn người thợ rèn làm phó chỉ huy và được Nasuada chấp nhận ngay tắp lự. Ngoài Eragon ra, anh không muốn ai ai khác ngoài chú Horst bên canh. Anh biết là mình ích kỷ - chú Horst vừa có con nhỏ và quân Varden cần tới kỹ năng của chú – nhưng Roran không đặc biệt hứng thú với vụ thăng chức này, nhưng anh cũng không hẳn là thất vọng. Thay vào đó, anh đón nhận vị trí tiểu đoàn trưởng với vẻ bình tĩnh vì anh tin vào khả năng và năng lực của mình.

Tiếng kèn lại vang lên và Roran giơ búa lên trên đầu. “Tiến lên!” anh hét.

Anh đi vị trí tiên phong cùng với bốn tiểu đoàn trưởng khác.

Khi các chiến binh lao qua cánh đồng trống ngăn cách họ và Dras – Leona, tiếng hét báo động vang lên từ trong thành phố. TIếng chuông và kèn vang lên sau đó một khoảng khắc. Ngay sau đó toàn bộ thanh phố dội ra tiếng hét giận dữ của lính bảo vệ thành. Cùng với đó và tiếng gầm kinh khủng nhất và tiếng rơi vỡ ở trung tâm thành phố, nơi hai con rồng đang quần nhau. Thi thoảng, Roran thấy một trong hai con xuất hiện trên nóc nhà, vảy sáng lấp lảnh. Nhưng phần lớn thời gian, chúng khuất dạng.

NHững căn nhà ổ chuột xung quanh thành phố càng lúc càng gần. Những con đường nhỏ hẹp, tối tăm trông như một điểm gở với Roran. Quân triều đình – kể cả cư dân Dras – Leona dễ dàng phục kích họ trong những con đường ngoằn ngoèo. Đánh nhau trong những khu nhỏ hẹp có thể còn kinh khủng, gây bối rối và hỗn loạn hơn bình thường. Nếu rơi vào tình huống đó, Roran biết chỉ có vài người lính bình yên trốn thoát .

Khi tới mái hiên của dãy nhà thấp đầu tiên, trong lòng Roran quặn lên cảm giác không an tâm, anh càng thêm buồn bực. Anh liếm môi, thấy không khỏe.

Tốt nhất là Eragon nên mở cổng ra, anh nghĩ. Nếu không... chúng ta sẽ kẹt ngoài này làm cừu cho đồ tể thịt.

__________________

VÀ TƯỜNG ĐỔ

Tiếng đổ nhà khiến Eragon dừng lại nhìn.

GIữa hai mái nhà có một khoảng trống. Ở đó từng là ngọn tháp nhà thờ. Nhưng giờ ở đó chỉ còn một cột bụi bốc lên tận mây xanh, như một cột khói trắng.

Eragon cười với mình, tự hào về Saphira. Không sinh vật nào giỏi bằng rồng trong khoản gây hỗn loạn và hủy diệt. Tiếp đi, nó nghĩ. Đập nát ra! Đốt cháy thánh địa dưới hàng trăm mét đất của chúng luôn đi!

Sau đó nó tiệp tục đi vào bóng tối, lượn lách trên những con đường rải đá cuội cùng Arya, bà Angela và Solembum. Cũng có vài người trên đường: những lái buôn chuẩn bị mở hàng, những người bảo vệ đêm trên đường về nhà ngủ, những quý tộc say xỉn vừa bước ra khỏi cuộc hoan lạc, những người ăn mày ngủ ngoài cửa cũng như những tên lính chạy toán loạn về tường thành.

Mọi người, kể cả những kẻ đang chạy cũng quay lại nhìn nhà thờ khi tiếng động do hai con rồng đánh nhau vang khắp thành phố. Mọi người – từ những người hành khất đi tập tễnh, những chiến binh kinh qua trận mạc tới những tên quý tộc ăn mặc mớ ba mớ bảy – đều hoảng hốt, không ai trong số họ nhìn tụi Eragon tới lần thứ hai.

Eragon cho rằng nhờ vậy nó và Arya có thể đi qua những người bình thường trong thời gian ngắn nhất.

Theo lời Eragon, Arya đã đặt tên thầy tu học việc đang bất tỉnh trong một con hẻm khá xa nhà thờ. “Tôi hứa sẽ mang hắn đi cùng,” Eragon đã giải thích. “nhưng tôi chưa bao giờ nói là mang đi bao xa. Hắn có thể tự tìm đường từ chỗ này.” Arya ưng thuận và có vẻ bớt mệt mỏi vì bỏ được hắn đi.

Khi ba người vội vã bước trên đường, một cảm giác thâm thuộc xuất hiện trong Eragon. Lần cuối tới Dras – Leona cũng kết thúc khá tương tự: nó chạy giữa những tòa nhà san sát, bẩn thỉu, cầu mong tới cổng thành trước khi quân Triều đình tìm ra. Chỉ là lần này nó còn nhiều thứ hơn là Ra’zac để sợ.

Nó liếc nhìn nhà thờ lần nữa. Tất cả những gì Saphira phải làm là giữ chân Murtagh và Thorn vài phút. Sau đó chúng sẽ không thể làm gì để ngăn chặn quân Varden. Nhưng, vài phút này ngang với vài tiếng trong khi đánh trận, và Eragon thừa biết cục diện cân bằng thay đổi nhanh thế nào.

Cố lên em! Nó nghĩ dù không gửi từ ngữ đó tới SAphira. Nó không muốn làm cô em bị xao lãng hay cho người khác biết vị trí của mình. Một chút nữa thôi!

Đường càng ngày càng hẹp khi họ tới tường thành. Những tòa nhà nhấp nhô – chủ yếu là nhà dân – che hết mọi thứ trừ một khoảng trời trong xanh. Nước thải ứ đọng trên các máng cống cạnh các tòa nhà. Eragon và Arya dùng tay áo để che mũi và miệng. Mùi hôi thối hình như không ảnh hưởng tới bà lang trong khi Solembum gầm gừ và đập đuôi vì giận dữ.

Một chuyển động thoáng qua trên mái nhà gần đó khiến Eragon chú ý, nhưng dù là gì khi nó nhìn thì vật đó đã biến mất. Nó tiếp tục nhìn lên, nhưng sau một lúc, nó lại nhìn ra những quang cảnh kỳ lạ: một mảng trắng đối nghịch với ống khói dính đầy bồ hóng; một hình tam giác kỳ lạ đối nghịch với bầu trời ban sang; một điểm nhỏ hình ô van kích thước bằng đồng tiền xu đoan lập lòe trong bóng tối.

Trên mái nhà là hàng tá ma mèo trong dạng thú. Ma mèo chạy từ tòa nhà này sang tòa nhà khác, lặng lẽ quan sát trong khi Eragon và bạn đồng hành rảo bước trong mê cùng chằng chịt ảm đạm của thành phố.

Eragon biết những sinh vật biến hình đổi dạng khó hiểu này sẽ không giúp đỡ trừ khi họ rơi vào tình cảnh khốn đốn nhất – chúng muốn giữ bí mật chuyện liên quân với Varden trước Galbatorix lâu nhất có thể - nhưng nó vẫn thấy được cổ vũ tinh thần.

Con đường kết thúc bằng một ngã năm. Eragon bàn bạc cùng Arya và bà lang; sau đó họ quyết định đi thẳng.

Sau độ ba mươi mét là một ngã rẽ ra quảng trường phía trước cổng nam của Dras – Leona.

Eragon dừng lại.

Hàng trăm tên lính đang đứng trước cửa. Những tên lính đang bối rối mặc áo giáp và mang vũ khí trong khi chỉ huy hò hét ra lệnh. Đường chỉ vàng trên áo trấn thủ màu đỏ sâm của chúng lấp lánh khi chạy tới chạy lui.

Sự hiện diện của những người lính làm Eragon thuất vọng, nhưng nó càng chán nản hơn khi thấy chúng đã chất một núi đã đồ sộ trước cổng, không cho Varden công thành.

Eragon chửi thề. Khối đá quá lớn. Cần ít nhất năm mươi người lính làm trong vài ngày mới dọn sạch được. Saphira có thể mở cổng trong vài phút nhưng Murtagh và Thorn sẽ không cho cô em nó cơ hội.

Chúng ta cần đánh lạc hướng tiếp, nó nghĩ. Nhưng cách gì? Saphira! Nó hét và phóng tư tưởng về cô em. Nó chắc chắn cô em nó nghe thấy nhưng nó không có thời gian mà cà kê giải thích, vì lúc đó tất cả tụi lính dừng lại và nhìn chằm chằm vào Eragon và những người bạn đồng hành.

“Có địch!”

Eragon rút thanh Brisingr và giơ về phía trước trước khi những tên lính chú ý tới. Nó đâu còn lựa chọn nào khác. Nếu rút lui, quân Varden sẽ nằm gọn trong lòng bàn tay của Triều đình. Hơn nữa, nó không thể để Saphira một mình đương đầu với tường thành và những tên lính.

Nó hét vang khi chạy lên. Arya cùng nó tham gia trận chiến điên rồi này. HỌ cùng nhau mở đường máu xông qua những tên lính đang bị bất ngờ. Trong một khoảnh khắc, nhiều tên lính quá bối rối, chúng không nhận ra Eragon là kẻ thù cho tới khi nó chém vào chúng.

Những mũi tên bay vun vút từ tường phòng hộ lao vun vút xuống quảng trường. Rất nhiều mũi nảy ngược lại vì lưới phòng vệ của Eragon. Chúng giết chết hoặc làm bị thương những tên lính Triều đình.

Eragon không thể đỡ toàn bộ các mũi giáo và dao đâm vào mình. Nó cảm thấy yếu sức ở mức đáng kể vì phép thuật của nó phản đòn tấn công. Nếu nó không thoát được, nó sẽ chết vì kiệt sức.

Nó hét lớn, xoay một vòng, giữ thanh Brisingr gần eo khi chém những tên lính ở trong tầm kiếm.

Lưỡi kiếm xanh chém ngọt qua xương thịt như thể chúng không phải vật chất. Máu chảy đầu kiếm, nhỏ xuống thành từng giọt như tinh cầu san hô. NHững tên lính lùi lại, tay giữ chặt bụng để tránh vết thương hở miệng.

Mọi chi tiết dường như sáng chói và sắc cạnh, như thể được điêu khắc từ gương kính. Eragon nhìn thấy từng sợi râu của tên lính trước mặt mình. Nó có thể đếm từng giọt mồ hôi chảy xuống từ mắt hắn, và nhìn thấy từng đường gấp, vết trầy rách trên bộ đồ hắn mặc.

Tiếng va chạm khiến Eragon đau tai nhưng nó lại cực kỳ bình tĩnh. Nó không miễn dịch với những nỗi đau từng khiến nó khở. Nhưng nó không còn dễ động lòng như trước, vì thế nó chiến đấu tốt hơn.

Nó hoàn thành vòng xoay và đang di chuyển đến gần một tên lính khác thì Saphira lượn vòng trên đầu. Đôi cánh của cô em nó áp sát cơ thể, vỗ như những chiếc lá trong cơn cuồng phong. Khi cô nàng bay qua, một cơn gió thổi bạt tóc Eragon và khi ấn nó xuống đất.

Một giây sau, Thorn xuất hiện với hàm răng nhe ra và lửa phóng ra từ miệng. Hai con rồng quần nhau trên bầu trời trên Dras – Leona nửa dặm; sau đó lượn vòng và đuổi nhau theo hướng ngược lại.

Từ ngoài tường, Eragon nghe tiếng reo hò rất lớn. Chắc quân Varden sắp tới rồi.

Một mảnh da trên tay phải nó nóng bỏng như có ai dội mỡ nóng vào. Nó rít lên và lắc tay nhưng cảm giác vẫn còn.Sau đó nó nhìn thấy máu lan ra khắp áo trấn thủ của nó. Nó nhìn Saphira. CHắc chắn là máu rồng nhưng nó không biết của con rồng nào.

Khi những con rồng tới gần, Eragon lợi dụng phút sơ hở đó và giết thêm ba tên. Sau đó những tên lính định thần và trận chiến trở về như lúc đầu.

Tên lính cầm rìu tiến lên và vung rìu tới. Lưỡi rìu đi được một nửa thì Arya ngăn hắn bằng một cú chém từ đằng sau chia hắn thành hai.

Eragon gật đầu một cái cám ơn nàng. Họ thỏa hiệp ngầm, đứng đối lưng vào nhau và cùng nhau đối mặt với tụi lính.

NÓ có thể cảm nhận nhịp thở gấp gáp của nàng. Dù họ khỏe hơn và nhanh hơn con người, nhưng sức lực của hạn cũng có hạn. Họ đã giết hàng tá tên lính nhưng ngoài kia còn hàng trăm tên nữa. Eragon biết lực lượng tăng viện sẽ sớm xuất hiện thôi,

“Giờ sao?” nó hét và gạt một ngọn lao đang nhằm lên bắp đùi nó.

“Phép thuật!” Arya trả lời.

Trong khi trả đòn, Eragon đọc tất cả các câu thần chú có thể giết chết kẻ địch.

Một cơn gió khác thổi tóc nó. Một bóng hình lướt qua. Saphira đang lượn vòng trên đầu với tốc độ nhanh khủng khiếp. Cô nàng xòe cánh và chuẩn bị đáp xuống tường thành.

Trước khi kịp đậu xuống, Thorn đã tới kịp. Con rồng đỏ lao xuống, khè lửa dài 30m. Saphira hét lên vì thất vọng và bay khỏi tường thành, đập cánh liên hồi để bay cao lên. Hai con rồng xoắn lấy nhau, cắn cấu nhau.

Thấy Saphira gặp nguy chỉ làm Eragon thêm quyết tâm. Nó tăng tốc độ đọc nhanh lên nhưng không được mắc lỗi. Nhưng dù nó và Arya làm gì cũng không ảnh hưởng tới binh lính.

Sau đó giọng Murtagh dội từ trên trời xuống nhưng giọng của người khổng lồ mây: “Ta bảo vệ họ, Em trai!”

Eragon nhìn lên thấy Thorn đang lao tới quảng trường. Saphira không lường được sự đổi hướng đột ngột của con rồng đỏ. Cô nàng vẫn bay cao trên bầu trời thành phố, màu xanh đậm tương phản với màu trời xanh nhạt hơn.

Chúng biết, Eragon nghĩ và nỗi sợ hãi lấn át sự bình tĩnh trước đó.

Nó hạ mắt nhìn tụi lính. Càng ngày càng có nhiều tên ùa xuống đường hai bên tường thành Dras – Leona. Bà lang dựa mình vào một trong những căn nhà gần đó, dùng một tay ném các lọ thủy tinh, một tay vung Tinkledeath chém giết. Những lo thủy tinh tỏa ra khói xanh lơ. Bất cứ tên lính nào hít phải đều lăn quay ra đất, nắm chặt cổ và quẫy đạp khi những cây nấm nâu nho nhỏ mọc lên trên da. Đằng sau Angela, trên bức tường khu vườn bằng phẳng là Solembum đang co người. Con ma mèo dùng móng vuốt cào lên mắt những tên lính và kéo rơi mũ họ, làm họ quên mất việc tấn công bà lang. Cả ma mèo và Angela đều bị bao vây tứ phía. Eragon không tin họ còn trụ được lâu.

Eragon không thấy có tia hy vọng nào. Nó nhìn Thorn giang cánh và giảm tốc độ.

“Chúng ta phải đi!” Arya hét.

Eragon lưỡng lự. Arya, bà Angela và Eragon dễ dàng nhảy qua tường tới nơi quân Varden đang chờ đợi. Nhưng nếu họ trốn đi, quân Varden sẽ không bao giờ có được cơ hội chiếm thành. Varden không thể đợi lâu hơn: sau vài ngày nữa, nguồn nhu yếu phẩm sẽ cạm kiệt và lính tráng sẽ đào ngũ. Một khi chuyện đó xảy ra, Eragon biết họ sẽ không bao giờ thành công trong việc đoàn kết tất cả các giống loài chống lại Galbatorix.

Cơ thể và cánh của Thorn che phủ bầu trời, tỏa bóng râm màu hồng ngọc lên một vùng và che khuất Saphira. Những giọt máu, to bằng cỡ nắm đấm tay Eragon nhỏ xuống từ cổ và chân Thorn. Rất nhiều tên lính khóc thét lên vì chất lỏng chảy xuống.

“Eragon! Đi thôi!” Arya hét. Nàng nắm lấy tay nó mà két nhưng nó vẫn đứng nguyên, không chấp nhận từ bỏ.

Arya kéo mạnh hơn, buộc Eragon phải nhìn xuống mà giữ thăng bằng. Trong lúc đó nó nhìn xuống ngón tay trỏ đeo Aren trên bàn tay phải.

NÓ đã hy vọng sẽ dùng năng lượng dự trữ trong nhẫn trong ngày nó đối mặt với Galbatorix. Nó không xá gì với số năng lượng lão thu được trong thời gian tại vị, nhưng đó là số năng lượng lớn nhất mà Eragon có. Nó biết nó sẽ không có cơ hội có được lượng năng lượng tương tự trước khi Varden tới Urû’baen, nếu như thực sự họ có thể. Ngoài ra, đây là một trong những thứ ít ỏi ông Brom để lại cho nó. Vì thế nó không muốn sử dụng chút xíu nguồn năng lượng nào.

Nhưng nó đâu còn lựa chọn.

Đối với Eragon, lượng năng lượng dữ trự trong Aren là cực kỳ lớn; nhưng nó không biết liệu có đủ cho dự định của nó không.

Nó liếc nhìn Thorn đang bay tới với những móng vuốt to bằng một người đàn ông. Một phần trong nó đang hét váng lên đòi bỏ chạy trước khi con quái vật kia bắt nó ăn tưới nuốt sống.

Eragon hít một hơi rồi chạm vào mặt Aren hét, “Jierda!”

Lượng năng lượng tràn vào nó lớn hơn bao giờ hết.; nó cảm giác như một dòng sông băng đang tan chảy luồn vào từng thờ thịt nó, khiến nó nhột nhạt, căng người. Cảm giác này vừa khó chịu vừa đê mê.

Nó điều khiển khối đá lớn chặn cổng phóng lên trời. KHối đá đập vào người Thorn, xé nát cánh hắn và đánh bay Thorn đang gào thét ra khỏi nội thành Dras – Leona. Sau đó, khối đá vỡ vụn, tạo thành một mái vòm đá lơ lửng trên nửa phía nam thành phố.

Khối đá bay lên làm rung chuyển quảng trường và mọi người ngã nhào xuống đất. Eragon chống tay và đầu gối tại chỗ, ngửng mặt lên duy trì câu thần chú.

Khi năng lượng trong nhẫn gần cạn kiệt, nó thì thầm, “Gánga raehta.”. Như đám mây trong cơn cuồng phong, cụm đá bị kéo về bên phải, phía bến cảng và hồ Leona. Eragon tiếp tục đẩy chúng khỏi trung tâm thành phố xa nhất có thể, rồi, với chút năng lượng cuối cùng trong người, nó kết thúc câu thần chú.

Với một âm thành nhỏ tới gạt người, đám mây đá bụi đổ sập xuống. Những vật chất nặng hơn – đá, những khúc cây gẫy, đất cục – rơi thẳng xuống, làm mặt hồ dậy sóng, trong khi những thứ nhẹ hơn vẫn bay là là trên trời, tạo thành một đám khỏi nâu lớn từ từ bay về đằng tây.

Giờ trước cổng là một khoảng trống. Những viên đá lát đường bị vỡ tạo nên một cái hố, giống như vòng tròn những cái răng gẫy lởm chởm. Cổng thành phố mở, vỡ vụn và biến dạng, chắc chắn không sửa lại nổi.

Qua cảnh cổng hở toang hoác, Eragon thấy quân Varden tràn vào những con đường phía đưới. Nó thở ra và để kệ tim đập thình thịch vì kiệt sực. THành công, nó ngẩn người nghĩ. Sau đó nó từ từ đứng dậy vì còn mơ hồ biết rằng nguy hiểm chưa qua.

TROng khi tụi lính triều đình gắng gượng đứng dậy, quân Varden tràn vào Dras – Leona, hét vang những tiếng hét của chiến tranh và gõ kiếm vào khiên. Vài giây sau, Saphira hạ cánh xuống giữa họ. Cuộc chiến trở thành một cuộc tháo chạy vì những tên lính vội vã giẫm đạp lên nhau mà bỏ chạy.

Eragon thoáng thấy Roran giữ biển người và người lùn nhưng không kịp bắt anh chú ý tới mình.

Arya...? Eragon quay người và hoảng hốt vì nàng không ở bên. Nó mở rộng tầm mắt tìm kiếm và nhanh chóng phát hiện nàng ở bên kia quảng trường, bị tầm hai mươi tên lính bao vây. Những tên lính đang nắm tay chân nàng để lôi đi. Arya thoát được một tay và đấm vào cằm một tên, khiến hắn gẫy cổ nhưng những tên khác ngay lập tức tóm lấy tay nàng trước khi nàng kịp trở tay.

Eragon lao tới. Trong cơn kiệt sức nó chém quá thấp khiến mũi kiếm Brisingr chạm vào áo giáp của tên lính đã chết, khiến nó tuột tay. Thanh kiếm rơi lanh canh trên đất. Eragon lưỡng lự không biết nên quay lại không. Nhưng rồi nó thấy hai tên lính dùng dao đâm Arya và nó tăng tốc gấp đôi.

Khi thấy nó tới, Arya lắc mình một lúc. NHững tên lính tuột tay. Trước khi chúng kịp tóm nàng lại Eragon đã hạ gục một tên, đấm vào ngực hắn. Tên lính để ria con kiến đâm dao vào ngực Eragon. Eragon dùng tay không nắm lưỡi kiếm mà giật lấy khiến nó gẫy làm đôi, sau đó dùng chính thứ vũ khí của hắn đâm vào bụng hắn. Trong vài giây, tất cả các tên lính vừa đe dọa Arya nằm chết trên đất hoặc đang hấp hối. Eragon không giết thì Arya giết.

Sau đó, Arya nói. “Tự tôi có thể xử lý.”

Eragon cúi người, đặt tay lên đầu gối mà thở. “Tôi biết...” Nó hất đầu về phía tay phải nàng – đã bị thương khi kéo tay ra khỏi cùm – lúc này đang nắm chặt xuôi bên mình. “Cứ coi như tôi trả ơn đi.”

“Quà bé thế.” Nàng cười nhẹ.

Hầu hết lính tráng đều đã trốn hết; những tên còn lại thì lùi vào các căn nhà vì bị Varden dồn vào chân tường. Eragon thấy một số lớn lính Galbatorix hạ vũ khí đầu hàng.

Nó và Arya cùng nhau tới lấy lại thanh kiếm cho nó, sau đó họ đi tới bức tường đất vàng. MẶt đất khá bẩn. Họ ngồi trên tường quan sát quân Varden diễu binh vào thành phố.

Saphira nhanh chóng tới chỗ họ. Cô nàng dí mũi vào Eragon. Nó cười và gãi mũi cho cô em. Cô nàng kêu rừ rừ trong họng trả lời. Anh đã thành công, cô em nó nói.

Chúng ta đã thành công, nó trả lời.

Blödhgarm từ trên lưng Saphira đã thả lỏng bàn giằng trên yên cương rồi trượt xuống. Trong một thoáng, nó cực kỳ choáng váng vì gặp chính mình. Nó ngay lập tức quyết định rằng nó không thích tóc nó xoăn ở hai bên thái dương.

Blödhgarm nói gì đó không rõ bằng ngôn ngữ cổ; sau đó hình dạng anh ta mờ đi như khi nhiệt độ làm hơi nước bốc lên. Một lần nữa anh ta lại là chính mình: cao, lông lá, mắt vàng, tai dài, răng sắc. Anh ta chẳng giống tiên cũng chảng giống người. Nhưng từ những biểu hiện căng thẳng trên khuôn mặt, Eragon thấy có chút buồn giận lẫn lộn.

“Thưa khắc tinh của tà thần,” anh nói và cúi đầu trước Arya và Eragon. “Saphira đã nói cho tôi biết về chuyện xảy ra cho Wyrden. Tôi...”

Trước khi anh ta nói hết câu, mười tiên nhân dưới quyền Blödhgarm còn lại xuất hiên từ trong hàng ngũ Varden và vội vàng chạy tới với kiếm cầm trên tay.

“Thưa khắc tinh của Tà thần!” họ reo vang. “Thưa Argetlam! Thưa Vảy sáng!”

Eragon mệt mỏi chào họ và trả lời vài câu hỏi, dù thật sự nó chẳng muốn làm gì.

Một tiếng gầm cắt ngang cuộc trò chuyện. Một bóng đen lướt qua. Eragon nhìn thấy Thorn đang bay trên đầu – hắn lại gầm lên một lần nữa.

Eragon lầm rầm nguyền rủa và cầm theo thanh Brisingr leo lên lưng Saphira trong khi Arya, Blödhgarm và những tiên nhân khác bảo vệ xung quanh cô em nó. Đó là một đội hình dễ nể nhưng Eragon không biết họ có chống nổi Murtagh không.

Toàn quân Varden nhìn lên, nhưng kể cả những người quả cảm nhất cũng run sợ khi thấy một con rồng.

“Em trai!” Murtagh hét lớn khiến Eragon phải che tai. “Anh sẽ đòi máu từ chú mày vì tội làm Thorn bị thương! Cứ chiếm Dras – Leona đi. Thành phố chẳng là gì với Galbatorix. Nhưng anh thề chú mày sẽ không sống lâu đâu.”

Sau đó Thorn quay người bay về phía bắc Dras-Leona và nhanh chóng biến mất sau cụm khói đang bốc lên từ những căn nhà bốc lên từ nhà thờ cháy.

__________________

BÊN BỜ HỒ LEONA

Eragon bước đi trong doanh trại đã chìm trong bóng tối, quai hàm nghiến chặt, tay nắm thành quyền.

Nó đã giành vài giờ cuối cùng để bàn luận cngf Nasuada, Orik, Arya, Garzhvog, vua Orrin cùng rất nhiều các cố vấn. Họ nói về những sự kiện trong ngày và tình hình hiện tại của Varden. Gần cuối cuộc họp, họ liên lạc với nữ hoàng Islanzadí để thông báo cho bà rằng Varden đã chiếm được Dras – Leona và cái chết của Wyrden.

Eragon không thích giải thích cho bà chuyện một trong những pháp sư lớn tuổi và quyền lực nhất của bà hy sinh ra sao. Nữ hoàng cũng chẳng vui vẻ gì với tin đó. Phản ứng đầu tiên của bà là buồn bã, khiến nó ngạc nhiên; nó cứ nghĩ nữ hoàng không biết Wyrden.

Nói chuyện với Islanzadí khiến tâm trạng của Eragon rất xấu vì nó biết cái chết của Wyrden ngẫu nhiên và không cần thiết thế nào. Nếu như mình đi đầu, mình sẽ là người bị mấy mũi lao chọc thủng, nó nghĩ trong khi đi dạo khắp doanh trại. Hoặc là Arya.

Saphira biết nó định làm gì, nhưng cô nàng quyết định về bãi trống trước lều. Cô nàng chỉ giải thích, Nếu em đi rầm rầm trong doanh trại, Varden sẽ không ngủ được, mà giờ họ đang cần hồi sức. Nhưng đầu óc chúng vẫn kết nối với nhau và nó biết nếu nó cần cô em, cô em nó sẽ đến trong vài giây.

Để không ảnh hưởng gì tới khả năng nhìn trong đêm, Eragon tránh các đống lửa trại và đuốc đốt sáng trưng trước rất nhiều căn lều, nhưng nó xem xét kỹ từng nguồn sáng một.

Khi đi tìm, nó càng có cảm giác cô nhóc đang trốn tránh nó. Cảm giác của nó với cô nhóc hơn cả tình bạn, chính vì thế cô nhóc biết được vị trí cúa nó và trốn tránh nó, nếu nàng muốn. Nhưng nó không nghĩ nàng hèn nhát. Dù cô nhóc còn nhỏ, nhưng lại là một trong những người cứng rắn nhất nó từng gặp, dù là người, thần tiên hay người lùn.

Cuối cùng nó thấy Elva ngồi trước một căn lều nhỏ, không có gì nổi bật, dệt một cái ổ mèo nằm bên ánh sáng ngọn lửa đang tàn lụi. Bên cạnh cô nhóc là bà bảo mẫu Greta đang ngồi đan lát.

TROng một lúc Eragon chỉ đứng quan sát. Bà lão chăm chú hơn bình thường và nó không muốn làm phiền bà,

Rồi Elva nói, “Đừng mất tinh thần, Eragon. Không phải khi ngài đã đi được một đoạn đường rất dài.” Giọng cô nhóc nhẹ nhàng đáng ngạc nhiên như thể cô nhóc vừa khóc. Nhưng khi cô nhóc nhìn lên, ánh mắt có chút dữ dội và thách thức.

Greta giật mình khi Eragon tiến tới; bà cầm cuộn len và que đen lại và cúi đầu nói, “Xin chào, Khắc tinh của Tà thần. Tôi mời ngài ăn uống chút gì được không ạ?”

“Không, cảm ơn bà,” Eragon dừng lại trước Elva mà nhìn. Cô nhóc nhìn lại nó một lúc rồi tiếp tục dệt. Nó hơi nhói lên trong bụng khi nhận thấy màu mắt tím của cô nhóc giống màu đá thạch anh các thầy tu Helgrind dùng để giết Wyrden và giam cầm nó và Arya.

Eragon quỳ gối và nắm lấy một đoạn len, dừng chuyển động của Elva.

“Tôi biết ngài định nói gì,” cô nhóc cất tiếng.

“Có thể,” nó nhăn mặt, “Nhưng tôi vẫn phải nói. Em đã giết Wyrden – chính em là người đâm vào ngực anh ấy. Nếu em đi cùng chúng tôi, em có thể báo trước cho anh ấy về cái bẫy. Em có thể cảnh báo cho tất cả chúng tôi. Tôi đã phải giương mắt nhìn Wyrden chết, Arya xé nát nửa bàn tay, chỉ vì em. Vì sự tức giận của em. Vì sự cứng đầu của em. Vì sự kiêu hãnh của em... Em thích ghét tôi cũng được, nhưng em đừng nên khiến những người khác phải hứng chịu tính khí của em. Nếu em muốn Varden thua, vậy thì đi đầu quân cho Galbatorix đi. Đó là điều em muốn đúng không?”

Elva từ từ lắc đầu.

“Vậy thì tôi không muốn nghe em từ chối giúp đỡ Nasuada thêm một lần nào nữa, không cần biết vì lý do gì, dù ân oán của tôi và em như thế nào. Elva Farseer, em không thắng nổi tôi đâu.”

“Ngài không bao giờ đánh bại nổi tôi,” cô nàng lẩm bẩm, giọng đầy cảm xúc.

“Em sẽ bị ngạc nhiên đấy. Em là một tài năng quý giá, Elva. Varden cần em giúp đỡ nhiều hơn bao giờ hết. Tôi không biết chúng ta sẽ đánh bại bạo chúa ở Urû’baen kiểu gì, nhưng nếu em đứng cùng hàng ngũ với chúng tôi – nếu em dùng khả năng của mình chống lại lão – chúng ta có thể có cơ hội.”

Elva dường như đang đấu tranh tư tưởng. Sau đó cô nhóc gật đầu. Eragon thấy cô nhóc khóc, nước mắt tràn ra ào ạt. Nó không thích cô nhóc đau khổ, nhưng nó lại thấy khá hài lòng vì những từ ngữ của mình tác động mạnh tới cô nhóc này tới vậy.

“Tôi xin lỗi,” cô nhóc thì thầm.

Nó thả cuộn len và đứng dậy. “Lời xin lỗi của em không mang Wyrden quay lại. Trong tương lai em nên làm tốt hơn, có thể em sẽ xóa được lỗi lầm.”

Nó gật đầu chào bà Greta nãy giờ vẫn im lặng, sau đó nó bước vào màn đêm trở về những dãy trại tăm tối.

Anh làm tốt lắm, Saphira nói. TỪ giờ cô nhóc sẽ cư xử khác hơn đó.

Anh hy vọng vậy.

Eragon không quen quở trách Elva. Nó nhớ lại hồi ông Brom và cậu Garrow phạt nó vì phạm lỗi và giờ chính nó lại mắc nhiếc một người khác. Nó thấy...khác...và người lớn hơn.

Đó chính là vòng xoay của tạo hóa, nó nghĩ.

Nó đi dạo trong doanh trại, tận hưởng không khí mát mẻ từ hồ bốc lên trong màn đêm đen.

****

Sau khi chiếm Dras – Leona, Nasuada khiến mọi người ngạc nhiên vì quyết định Varden không đóng quân trong thành phố. Cô không giải thích nhưng Eragon nghĩ rằng sau thời gian bị cầm chân lâu ngày ở Dras – Leona, cô muốn nhanh chóng tiếp tục tiến tới Urû’baen. Ngoài ra cô không hứng thú cà kê ở trong thành huyến, nơi số lượng lớn lực lượng tình báo của Galbatorix nằm vùng.

Một khi Varden chiếm cứ các con đường, Nasuada cho một số binh sĩ chốt lại trng thành phố, dưới sự chỉ hy của tướng Martland Râu đỏ. Sau đó Varden rời Dras – Leona và đi về phương bắc, dọc theo nhánh sống xuất phát từ hồ Leona. Trên đoạn đường, những người đưa thư liên tục đi đi về về chuyển tin giữa Varden và Dras – leona vì Martland và Nasuada có nhiều vấn đề cần trao đổi nhằm nắm quyền kiểm soát thành phố.

Trước khi Varden rời đi, Eragon, Saphira và những pháp sư của Blödhgarm trở lại giáo đường giờ đã thành đống tro tàn, mang xác Wyrden về và tìm kiếm thắt lưng của Beloth Khôn Ngoan. Saphira chỉ mất vài phút để lật tung đống đá chặn lối vào căn phòng ngầm, giúp Blödhgarm và những tiên nhân khác tìm kiếm thi thể Wyrden. Nhưng họ tìm kiếm bao lâu, dùng bao nhiêu câu thần chú cũng không tìm thấy thắt lưng.

Các tiên nhân đã đặt anh lên khiến mang tới một gò đất nhỏ cạnh lạch sông ngoài thành phố. Họ chôn cất anh trong khi hát vài bài ca bi thảm bằng ngôn ngữ cổ - những bài khát rất buồn khiến Eragon khóc không đừng được và tất cả chim chóc cùng muông thú phải dừng lại lắng nghe.

Tiên nữ tóc bạc Yaela quỳ xuống bên mộ, lấy một quả sồi từ thắt lưng và đặt tên chính giữa ngực Wyrden. Sau đó mười hai tiên nhân, bao gồm Arya hát với quả sồi, giúp nó mọc mầm và lớn dần lên, vươn lên bầu trời như một bàn tay.

Khi các tiên nhân hát xong, cây sồi xum xuê lá cành cao sáu mét. Cuối mỗi nhánh là một chùm hoa xanh dài.

Eragon nghĩ rằng đây là một đám tang đẹp nhất nó được tham dự. Nó thích hơn việc người lùn chôn người chết trong những ngôi mộ đá lạnh lẽo, cứng rắn sâu trong lòng đất. Nó thích ý tưởng thân xác một người trở thành nguồn dinh dưỡng nuôi cho cây sống hàng trăm năm sau. Nếu nó chết, nó muốn trở thành một cây táo để bạn bè và người thân có được quả ngọt sinh ra từ thân xác nó (vấn đề là ai dám ăn?)

Ý tưởng đó khiến nó vui, dẫu theo kiểu bệnh bệnh một chút.

Bên cạnh vào giáo đường tìm kiếm thi thể Wyrden, Eragon cũng làm một vài thứ ở Dras – Leona sau khi nó thuộc về Varden. Với sự đồng ý của Nasuada, nó đã trả tự do cho tất cả nô lệ trong thành phố. Nó còn tự mình vào các trang ấp và các khu bán nô lệ và thả rất nhiều đàn ông, phụ nữ và trẻ em khỏi xiềng xích. Nó rất hài lòng và hy vọng cuộc sống những người nó vừa trả tự do kia sẽ khá hơn.

Khi về gần tới lều nó thấy Arya đợi nó bên ngoài. Eragon rảo bước nhưng trước khi nó kịp mở miệng chào, có ai đó gọi lớn. “Thưa Khắc tinh của Tà thần!”

Eragon quay lại thấy một tiểu đồng của Nasuada đang chạy tới. “Thưa khắc tinh của Tà thần” cậu nhóc nhắc lại, hơi hút hơi rồi cúi chào Arya. “Tiểu thư Nasuada mời ngài tới lều một tiếng trước bình minh ngày hôm sau, để thảo luận với người. Ngài nói sao, thư Tiểu thư Arya?”

“Nói với cô ấy là tôi sẽ có mặt,” Arya trả lời và hơi cúi đầu.

Tiểu đồng cúi đầu lần nữa rồi quay người chạy đi.

“Thật đau đầu, vì cả hai chúng ta cùng giết một Tà Thần,” Eragon cười nhạt nhận xét.

Arya cũng cười nhưng do bóng tôi nhìn không rõ. “Vậy chàng muốn ta để Varaug sống?”

“Không... Không muốn.”

“Tôi có thể để hắn làm nô lệ, dưới sự kiểm soát của mình.”

“GIờ nàng đang trêu tôi,” nó nói.

Nàng vui thích cười.

“Có lẽ tôi nên gọi nàng là Công chúa vậy – Công chúa Arya.” Nó lại nói, thích thú nghe từ đó phát ra từ miệng mình.

“Chàng đừng gọi tôi thế,” cô nghiêm túc hơn nói. “Tôi không phải công chúa.”

“Vì sao? Mẹ nàng là nữ hoàng. Thế sao nàng lại không phải công cúa. Tước hiệu của bà ấy là dröttning, của nàng là dröttningu. Cái đầu nghĩa là “nữ hoàng” và cái sau là...”

“Không có nghĩa là ‘công chúa,’” nàng nói. “Không hẳn. Trong ngôn ngữ loài người không có từ tương đương.”

“Nhưng nếu mẹ nàng băng hà hoặc nhường ngôi, nàng sẽ trở thành người trị vì giống loài mình, đúng không?”

“Không đơn giản thế.”

Arya không hứng thú giải thích nhiều hơn, vì thế Eragon nói. “Nàng muốn vào không?”

“Muốn,” nàng nói.

Eragon mở cửa lều và Arya đi vào. Sau khi nhìn thoáng qua Saphira – đang nằm cuộn tròn gần đó, thở nặng nề trong cơn ngủ sâu – Eragon đi vào theo.

Nó tới ngọn đèn đặt ở giữa lều và thì thầm, “Istalrí,” chứ không dùng brisingr vì lo thanh kiếm phát hỏa. Ngọn lửa tỏa ánh sáng ấm áp khiến căn lều dã chiến trở nên ấm cúng hơn hẳn.

Họ ngồi xuống và Arya nói. “Tôi tìm thứ này trong những đồ của Wyrden, tôi nghĩ chúng ta nên cùng nhau thưởng thức.” Từ trong túi quần, nàng lấy ra một bình thót cổ bằng gỗ, to bằng lòng bàn tay Eragon. Nàng đưa cho nó.

Eragon mở lọ và ngửi. Nó nhướn mày khi ngửi thấy mùi chất lỏng rất mạnh, ngọt ngào.

“Là faelnirv?” nó hỏi, nói ra tên thứ đồ uống thần tiên làm từ cây cơm cháy mà Narí từng gọi là ánh trăng.

Arya cười, giọng vang như sắt tôi luyện tốt. “Đúng, nhưng Wyrden cho thêm vài phụ gia.”

“Thế à?”

“Lá một loại cây sinh trưởng ở phía đông Du Weldenvarden, bên bờ hồ Röna.”

Nó nhíu mày. “Tôi biết tên cây đó không?”

“Có thể nhưng cũng chẳng quan trọng. Thôi uống thử đi. Chàng sẽ thích cho xem; ta thề.”

Sau đó nàng lại cười khiến nó chần chừ. Nó chưa bao giờ thấy nàng như thế. Nàng kỳ lạ và liều lĩnh. Nó ngạc nhiên vì nhận ra nàng đã say.

Eragon lưỡng lự. Nó không biết ông Glaedr có quan sát họ không. Sau đó nó rót thứ chất lỏng đó và nuốt. Nó khác: mạnh, có mùi xa, giống mùi xạ của chồn mactet hay chồn ecmin.

Eragon nhăn mặt kiềm chế cảm giác muốn nhổ ra khi faelnirv thiêu cháy cổ họng nó. Nó uống một ngụm nhỏ hơn và trả cái bình cho Arya để cô uống.

Hôm qua là một trong những ngày đẫm máu và rùng rợn. Nó dùng cả ngày chỉ để đánh đấm, giết chóc và suýt giết chết chính mình. GIờ nó muốn được giải thoát... Nó muốn quên. Sự căng thẳng ăn sâu vào tận trong đầu óc nó. Nó cần có một thứ gì đó. Một thứ gì đó từ bên ngoài, kể cả những thứ cực kỳ bạo lực, nhưng phải từ bên ngoài chứ không phải bên trong.

Khi Arya đưa bình lại cho nó, nó uống một ngụm lớn rồi cười không nín được.

Arya nhướn mày đánh giá nó. “Chàng cười gì?”

“Cái này...Chúng ta... Chúng ta vẫn còn sống, và chúng” - nó phẩy tay về phía Dras – Leona - “thì không. Cuộc sống khiến tôi vui, sự sống và cả cái chết.” Nó bắt đầu thấy ấm bụng, tai ngưa ngứa.

“Sống là tốt,” Arya nói.

Họ tiếp tục chuyền nhau bình rượu tới khi không còn giọt nào. Eragon nhét hũ nút lại – nó phải nỗ lực mãi vì ngón tay nó cứ lóng ngóng vụng về, võng đang chao đảo như thể nó đang ngồi trên một con thuyền lênh đênh trên biển.

Nó trả cái bình rỗng cho Arya. Nàng cầm lấy, nó nắm tay nàng, tay phải nàng và giơ về phía ánh sáng. Không thấy vết thương. “Blödhgarm chữa hả?” Eragon nói.

Arya gật đầu và nó thả tay nàng ra. “Hầu như vậy. Giờ tôi toàn quyền sử dụng tay rồi.” Nàng mở và nắm tay vài lần. :Nhưng một phần da dưới ngón cái vẫn không có cảm giác.” Nàng đung ngón trỏ tay trái chỉ vào.

Eragon vươn tay nhè nhẹ chạm vào. “Đây à?”

“Đây,” nàng nói và đẩy tay nó sang phải một chút.

“Blödhgarm không làm được gì sao?”

Nàng lắc đầu. “Ông ta đã dùng sáu câu thần chú nhưng các dây thần kinh vẫn không liền lại nổi.” Nàng tạo ra một cử động tùy tiện. “Cũng chẳng sao. Tôi vẫn bắn cung và vung kiếm được. Thế là đủ.”

Eragon chần chừ rồi nói. “Nàng biết đó... tôi rất cám ơn vì điều nàng làm – nàng đã cố làm. Tôi thấy có lỗi khi nàng mang một vết thương cả đời thế. Nếu tôi có thể tránh được chuyện đó xảy ra...”

“Đừng cảm thấy có lỗi chứ. Chúng ta không thể đi qua một đời mà không mang một vết sẹo. Kể cả khi chàng không muốn. Nhờ những vết thương chúng ta mới biết thực lực kẻ thù và khả năng của mình.”

“Bà Angela cũng nói tương tự - rằng nếu nàng không mang sẹo, nàng sẽ chỉ là một kẻ hèn nhát hoặc tệ hơn.”

Arya gật đầu. “Có chút đúng.”

Nó tiếp tục nói cười khi đêm dần trôi. Hơi rượu không hề yếu đi mà còn mạnh hơn. Eragon mơ hồ choáng váng. Nó thấy những mảng đen trong lều đang lượn lờ và những ánh sáng lập lòe kỳ lạ - trông như khi nó nhắm mắt trong đêm – trôi trước mắt nó. Tai nó nóng như sốt và da lưng ngứa ngáy nhưng kiến bò. Ngoài ra, những âm thanh được khuếch đại – tiếng côn trùng kêu, tiếng đuốc cháy lách tách ngoài lều; chúng cứ lùng bùng trong tai nó khiến nó khó lòng nghe thấy gì khác.

Mình bị trúng độc ư? Nó tự hỏi.

“Cái gì thế?” Arya hỏi vì để ý tới biểu tình kỳ lạ của nó.

Nó liếm môi vì giờ môi nó khô tới đau nhức và nói cho nàng nghe những gì nó cảm thấy.

Arya cười và ngửa mặt về sau, đôi mắt gần như nhắm. “Cũng đúng thôi. Nhưng tới bình minh chàng sẽ thấy đỡ. Tới lúc đó, hãy thư giãn và để bản thân hưởng thụ thôi.”

Eragon suy nghĩ mông lung một hồi trước khi từ bỏ dùng thần chú thanh tỉnh đầu óc – nếu như nó còn làm nổi.

Thế giới đảo lộn xung quanh nó. Eragon giờ mới thấy nó dựa vào các giác quan nhiều thế nào để biết đâu là thật đâu là giả. Nó dám thế là những đốm sáng có ở đó dù đầu óc nó biết thừa đó chỉ là ảo giác do faelnirv tạo ra mà thôi.

Nó và Arya tiếp tục nói chuyện, nhưng cuộc nói chuyện chẳng đên đầu đến đũa. Nhưng nó tin rằng cuộc nói chuyện này cực kỳ quan trọng dù nó chẳng biết vì sao hoặc nó có còn nhớ nổi không.

Một lúc sau Eragon nghe có tiếng nhạc của ống sáo sậy trầm mang âm cổ vang tới từ nơi nào đó trong trại. Lúc đầu nó nghĩ mình tưởng tượng ra thôi, nhưng sau nó thấy Arya nghiêng đầu hướng về phía phát ra tiếng nhạc như thể nàng cũng đang lắng nghe.

Ai đang chơi và vì sao, Eragon không biết. Nó cũng chẳng quan tâm. m thanh như thể xuyên qua màn đêm, như một ngọn gió cô độc và lạc lõng.

Nó nghiêng đầu lắng nghe, mắt lim dim trong khi những hình ảnh tưởng tượng nháy múa trong đầu óc, faelnirv là chất xúc tác giúp âm nhạc tạo nên hình ảnh.

Tiếng nhạc càng lúc càng hoang dại hơn, từ trầm buồn thành giục giã, các nốt nhạc lên bổng xuống trầm rất nhanh, rất quyết liệt, rất phức tạp, rất đáng sợ khiến Eragon bắt đầu lo cho sự an nguy của người nhạc công. Để chơi nhanh và kỵ nghệ như thế này là không bình thường, cho dù đó là thần tiên.

Arya cười khi nhạc lên cao độ. NÀng loạng choạng đứng lên, hai tay giơ cao quá đầu. Nàng dậm chân và vỗ tay – một lần, hai lần, ba lần – sau đó, Eragon ngạc nhiên khi thấy nàng nhảy. Lúc đầu nàng chuyển động chậm, gần như lả lướt, sau đó tốc độ tăng lên cho tới khi hòa nhịp với giai điệu.

Bản nhạc lên đỉnh điểm rồi từ từ nhẹ nhàng như lúc đầu. Nhưng trước khi tiếng nhạc kết thúc, một cái nhói đột ngột khiến Eragon gãi bàn tay phải. Cùng lúc, nó cảm giác trong đầu óc nhói đau, lá chắn phòng thủ sẵn sàng, báo hiệu cho nó nguy hiểm đang tới.

Một giây sau có tiếng rồng rống lên trên đầu.

Eragon lạnh người.

TIếng rống đó không phải của Saphira.

__________________

LỜI THẾ CỦA KỴ SĨ RỒNG

Eragon nắm lấy thanh Brisingr , sau đó, nó cùng Arya lao ra khỏi lều.

Eragon loạng choạng bước ra. Nó khuỵu chân xuống vì mặt đất như đang dậy song. Nó nắm lấy một túm cỏ, dùng như mỏ neo giữ mình đợi cơn chóng mặt qua đi.

Khi nhìn lên, nó phải nheo mắt lại. Ánh đuốc gần đó sáng rực rỡ tới đau mắt; ánh lửa chập chờn trước mắt nó như những con cá, có điều sống nhờ dầu.

Mất thăng bằng rồi, Eragon nghĩ.Không thể tin vào thị giác nữa. PHải thanh tỉnh đầu óc thôi. Phải...

Nó thấy có gì đó chuyển động nên lùi lại. Đuôi Saphira quẹt qua nó, chỉ các đầu nó vài cm, sau đó đập phải lều nó, bẻ gẫy các cột gỗ như thể chúng là những cành cây khô.

Saphira gầm gừ, cắn vào không khí khi đứng dậy. Sau đó cô nàng dừng lại vì bối rối.

Anh nhỏ bé, cái gì...

m thanh như tiếng gió lộng khiến cô nàng dừng lại. Từ trên bầu trời đen kịt, Thorn xuất hiện, đỏ như máu và lấp lánh như những ngôi sao. Hắn hạ xuống gần trại của Nasuada và mất đất rung lên dưới sức nặng của hắn.

Eragon nghe tiếng lính cận vệ của Nasuada hô vang; sau đó Thorn tạt chân trước qua mặt đất và một nửa số âm thanh đó câm bặt.

Dưới lực tấn công của con rồng đỏ, vài chục người lính ngã xuống hoặc bắn đi vào các lều, làm ngã vài người lính canh đang chạy tới.

Tiếng kèn vang lên trong doanh trại. Cùng lúc, tiếng giao đấu vang lên ngoài hàng phòng thủ khiến Eragon nghĩ có thêm một cuộc tấn công nữa từ phía bắc.

Có bao nhiêu lính? Nó nghĩ. Chúng ta có bị bao vây chưa? Sự hoảng sợ làm lu mờ các giác quan và khiến nó mù quáng muốn chạy trong màn đêm. Nhưng nó biết ý nghĩ đó là do tác động của faelnirv nên nó đứng im.

Nó thì thầm một câu thần chú trị thương, hy vọng nó có thể đảo ngược tác dụng của chất lỏng, nhưng không ích gì. THất vọng, nó cẩn thận đứng dậy, rút thanh Brisingr và đứng cạnh Arya khi tên người lính khác chạy tới. Eragon không biết nó sẽ đánh đấm thế nào. Không phải trong điều kiện hiện tại.

Khi những tên lính chỉ còn cách khoảng sáu mét thì Saphira gầm vang và dùng đuôi quét bay chúng. Eragon – cảm nhận được Saphira định làm gì – liềm ôm lấy Arya và chính mình, nhờ sự tượng trợ lẫn nhau để có thể đứng vững.

Sau đó Blödhgarm và một tiên nhân khác, Laufin bước ra từ mê cung lều trại trước khi họ có thể đứng lại. Những tiên nhân khác bám sát gót.

Một toán lính khác, hơn hai mươi tên chạy tới chỗ Eragon và Arya như thể chúng thừa biết tìm họ ở đâu.

Các tiên nhân dàn hàng ngang trước Eragon và Arya. Nhưng trước khi chúng tới được tầm kiếm của các tiên nhân, môt trong các lều mở ra và bà Angela hét vang, khiến chúng ngạc nhiên.

Bà lang mặc bộ đồ ngủ màu đỏ, mái tóc xoăn rối tung, hai tay vầm hai bàn chải len. Chúng dài gần một mét và có hai hàng răng sắt ở một đầu. Những chiếc răng sắt dài hơn nửa cánh tay Eragon và sắc như đầu mũi kim – nó biết nếu chạm vào, nó sẽ bị nhiễm độc máu từ sợ len trên đó.

Hai tên lính ngã xuống khi bà Angela cắm bàn chải len lên người, cào răng lược lên áo giáp chúng. Bà lang lùn hơn vài tên lính tới 30 phân nhưng bà không hề sợ hãi khi tả hữu xung đột giữa chúng. Ngược lại, bà là một bức tranh hung bạo, với mái tóc xõa tung, tiếng hét cùng biểu tình trong đôi mắt đen.

Những tên lính bao vây bà Angela và siết chặt vòng vây. Eragon không còn thấy bà và trong phút chốc, nó lo sợ bà sẽ thua.

Rồi, từ trong doanh trại, nó thấy Solembum chạy tới đám lính, tai dính sát da đầu. Càng nhiều mèo ma bám theo sau: hai mươi,, ba mươi, bốn mươi – một đàn và tất cả đều trong dạng thú.

Những tiếng rít, rống, gào thét vang động khi ma mèo lao vào tụi lính, kéo chúng xuống đất, dùng móng vuốt và răng nanh cắn xé chúng. Nhưng tên lính cố hết sức chống trả nhưng chúng làm sao có thể địch lại những con mèo lớn xác, dữ tợn kia.

Toàn bộ sự việc, từ khi bà lang xuất hiện tới sự can thiệp của bầy ma mèo khiến Eragon không kịp phản ứng. Nó chớp mắt và liếm môi, cảm thấy có chút mơ hồ về những gì xảy ra xung quanh.

Sau đó Saphira nói, Nhanh,lên lưng em, rồi cô em ngồi xuống để nó trèo lên lưng.

“Đợi đã,” Arya noi và đặt tay lên vai nó. Nàng nói vài từ bằng ngôn ngữ cổ. Một giây sau, sự hỗn loạn trong đầu óc Eragon tan biến và nó thấy mình kiểm soát lại được cơ thể.

Nó liếc nhìn cảm ơn Arya rồi ném vỏ bao Brisingr vào trong lều, leo lên chân phải cô nàng và ngồi yên vị ở vị trí quen thuộc ở cổ. Không có yên, những vảy sắc nhọn châm chọc vào chân nó, khiến nó nhớ tới chuyến bay đầu tiên.

“Chúng ta cần Dauthdaert,” nó hét gọi Arya.

Nàng gật đầu và chạy về lều mình cách đó mấy chục mét, về phía đông doanh trại.

Một tư tưởng khác, không phải của Saphira, ép lên đầu óc Eragon khiến nó rút tư tưởng mình về để bảo vệ bản thân. Sau đó nó nhận ra tư tưởng đó của Glaedr nên để cho ông rồng vàng vượt qua lá chắn bảo vệ.

Ta sẽ giúp, Glaedr nói. Đằng sau từ ngữ của ông, Eragon cảm thấy có cơn giận dữ kinh khủng hướng vào Thorn và Murtagh, một cơn giận đủ đốt cháy thế giới thành từng mảnh vụn. Hợp nhất tư tưởng với ta, Eragon, Saphira. Cả ngươi nữa, Blödhgarm, và ngươi, Laufin,cũng như tất cả các tiên nhân khác. Hãy để ta nhìn qua mắt các ngươi, nghe qua tai các ngươi, để ta đưa ra lời khuyên các ngươi nên làm gì và ta sẽ cho các ngươi mượn sức mạnh khi cần.

Saphira nhoài lên, nửa bay nửa đi giữa các dãy trại về phía con rồng đỏ Thorn. Các tiên nhân theo sau bên dưới, giết bất cứ tên lính nào họ đụng độ.

Saphira có lợi thế về chiều cao vì hiện tại Thorn vẫn trên mặt đất. Cô nàng hướng xuống – có chủ đích để đốt cháy lưng Thorn và nhằm hàm răng vào cổ hắn – nhưng khi con rồng đỏ thấy cô nàng tới, nó gầm ghè quay mặt nhìn cô nàng, co người lại như một con cún con đối mặt với con chó to hơn.

Eragon chỉ có thời gian để để ý yên cương của Thorn trống không thì con rồng đỏ dùng cái chân trước cơ bắp to đùng đánh bào Saphira. Bàn chân nặng nề của nó vờn trong không khí nghe vun vút. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, móng vuốt của hắn trắng tới ghê người.

Saphira tránh sang một bên, vặn mình để tránh cú táp. Mặt đất và bầu trời xoay đảo quanh Eragon. Khi nó nhìn lên doanh trại thì một bên cánh phải của Saphira đã xé nát lều một ai đó.

Lực xoay khiến Eragon lùi người lại. Những vẩy sáng của cô nàng bắt đầu trượt trên chân nó. NÓ ép sát đùi và nắm chặt cương trước mặt, nhưng chuyển động của Saphira quá khủng khiếp khiến nó không chịu nổi. Một giây sau, nó tuột tay và bay trong không khí, không biết đâu là trên đâu là dưới.

Khi ngã, nó vẫn nắm chặt Brisingr và kéo thanh kiếm xa người; dù có lưới bảo vệ hay không, thanh kiếm vẫn có thể làm nó bị thương vì bà Rhunön đã niệm chú vào đó.

Anh bé!

“Letta!” Eragon hét và với một cú nảy, nó dừng chết trên trười, chỉ cách mặt đất ba mét. Trong khí thế giới tiếp tục đảo lộn, nó thoáng thấy những đường nét lấp lánh của Saphira khi cô nàng đảo người đỡ nó.

Thorn gầm vang và làm thiêu cháy vài lều giữa hắn và Eragon bằng ngọn lửa trắng nóng dội từ trên trời xuống. TIếng hét tức giận vang lên khi những người đàn ông bị chết cháy.

Eragon giơ tay che mặt. Phép thuật bảo vệ nó khỏi những vết thương nghiêm trọng nhưng nhiệt độ không dễ chịu chút nào. Anh ổn, đừng quay lại, nó nói không chỉ với Saphira mà còn với ông Glaedr và các tiên nhân. Mọi người phải ngăn con rồng đo s lại. Tôi sẽ gặp mọi người ở lều chỉ huy của Nasuada.

Saphira rõ ràng là không đồng ý nhưng vẫn tấn công Thorn tiếp.

Eragon loại bỏ câu thần chú và ngã xuống đất. Nó hạ cánh nhẹ nhàng sau đó chạy giữa những căn lều cháy, rất nhiều trong số đó đã đổ sập, chỉ còn lại những đốm sáng vàng cam.

Khói và mùi vải bao bố đi đốt khiến Eragon khó thở. Nó ho, mắt chảy nước làm giảm thị lực.

Trước đó vài trăm mét, Saphira và Thorn đang quần nhau. Hai kẻ khổng lồ trong màn đêm. Eragon cảm thấy một nỗi sợ bản năng. Nó đang chạy về phía chúng, về phía hai sinh vật đang gầm ghé, đớp táp nhau, lớn bằng cả một tòa nhà – Thorn còn lớn hơn thế - có móng vuốt, răng nanh, ngạnh lớn hơn cả người nó? Kể cả sau khi nỗi sợ qua đi, nó vẫn hơi run khi chạy lên.

Nó hy vọng Roran và Katrina an toàn. Lều của họ ở phía bên kia doanh trại, nhưng Thorn và những tên lính có thể hướng tới đó bất cứ lúc nào.

“Eragon!”

Arya xuất hiện khỏi đám cháy, mang theo thanh Dauthdaert ở tay trái. Quầng sáng xanh mờ bao phủ lưỡi thương có ngạnh, dù quầng sáng khó thây trong màn lửa ngút trời. Đi cạnh nàng là Orik, đang dạo qua những lưỡi lửa như thể chúng chẳng hơi nước là mấy. Người lùn không mặc áo giáp và đội mũ trụ. Anh ta cầm chiếc búa cổ Volund bằng một tay còn tay kia cầm khiên tròn. Máu nhễu xuống từ lưỡi búa.

Eragon vẫy tay hét gọi họ, mừng vì có bạn bè sát cánh. Khi tới nơi, Arya đưa nó cây thương nhưng Eragon lắc đầu. “Giữ đi!” nó nói. “Chúng ta sẽ có cơ hội chặn Thorn nếu nàng dung Niernen còn tôi dùng Brisingr.

Arya gật đầu và nắm chặt cây thương. Lần đầu tiên, Eragon tự hỏi với vị trí một thần tiên nàng có thể tự mình giết rồng không. Sau đó nó bỏ qua ý nghĩ đó. Nếu nó biết gì về Arya thì cô luôn làm điều cần thiết, dù khó thế nào.

Thorn đâm móng vào lồng ngực Saphira, Eragon cảm nhận được nỗi đau qua kết nối giữa chúng. Từ tư tưởng của Blödhgarm, nó biết các tiên nhân đã tới gần con roongf, và đang bận rộn chiến đấu với những tên lính. Nhưng họ không dám lại gần Thorn hay Saphira vì sợ bị dẫm bẹp.

“Đằng này,” Orik nói, rồi chỉ cây búa vào đám lính đang di chuyển giữa các căn lều cháy.

“Kệ chúng,” Arya nói. “Chúng ta phải giúp Saphira.”

Orik càu nhàu. “Được, vậy chúng ta đi.”

Thế là ba người bọn họ lao về phía trước, nhưng Eragon và Arya nhanh chóng bỏ Orik lại. Người lùn không thể nào đuổi kịp họ, dù người đó có khỏe và săn chắc như Orik.

“Đi tiếp đi!” Orik hét từ đằng sau. “Tôi sẽ theo nhanh nhất có thể!”

Khi Eragon tránh những mảnh vải cháy bay trong không khí, nó thấy Nar Garzhvog quần nhau với một nhóm mười tên lính. Kull có sừng có vẻ biến dạng dưới ánh lửa, môi ông vén lên để lộ răng nanh, bóng tôi của hàng lông mày rậm làm mặt ông có vẻ độc ác, nguy hiểm, như thể xương sọ bị đục một lỗ. Ông ta dùng tay không nắm lấy một tên lính và xé đôi người hắn dễ dàng như Eragon xé gà rán.

Đi thêm vài bước, những căn lều cháy không còn. Ở bên kia đống lửa, mọi thứ trở nên hỗn loạn.

Blödhgarm và hai pháp sư khác đứng đối diện với những tên mặc áo choàng đen mà Eragon đoán là pháp sư Triều đình. Cả chúng và thần tiên đều không đụng đậy, dù mặt biểu lộ sự căng thẳng vô cùng. Hàng tá lính nằm chết trên mặt đất, vài người chạy trốn, vài tên mang những vết thương lớn đến nối Eragon biết chúng là những kẻ không còn biết đau.

Nó không nhìn thấy những tiên nhân khác nhưng nó có thể cảm nhận sự hiện diện của họ ở cạnh căn lều chỉ huy màu đỏ của Nasuada, ở trung tâm trận tàn phá.

Những nhóm ma mèo đuổi những tên lính tới lui trên trảng trốn quanh lều chỉ huy. Vua Nửa vuốt và phu nhân, Thợ săn Đêm dẫn đầu hai nhóm; Solembum dẫn nhóm thứ ba.

Đứng gần lều chỉ huy là bà lang đang đấu với một gã cao lớn, lực lưỡng – bà dùng bàn chải lông, hắn một tay cầm mâu một tay cầm néo. Cả hai có vẻ ngang cơ dù khác nhau về giới tính, cân nặng, chiều cao, phạm vi đánh, và vũ khí.

Eragon ngạc nhiên thấy Elva cũng ở đó, ngồi trên một cái thùng. Cô nhóc phù thủy khoanh tay quanh bụng và có vẻ bệnh sắp chết, nhưng cô nhóc cũng tham gia trận chiến theo cách của riêng mình. Bao quanh cô nhóc là một tá lính và Eragon thấy cô nhóc đang nói liến thoắng với họ. Khi cô nhóc nói, những người xung quanh phản ứng khác nhau: kẻ đứng chết trân tại chỗ; kẻ gào khóc và dùng tay che mặt; có kẻ quỳ gối và dùng dao đâm vào ngực; kẻ hạ vũ khí chạy khỏi doanh trại nhưng cũng có những kẻ nói bập bê như kẻ ngốc. Không ai cầm vũ khí chống lại cô nhóc và không ai tiếp tục tấn công người khác.

Lờ mờ bên trên đống lộn xộn và hai ngọn núi sống, Saphira và Thorn. Chúng dẹp sạch bên trái lều chỉ huy và vòng quanh nhau, giẫm nát hết lều này tới lều khác. Những ngọn lửa xuất hiện trên lỗ mũi và khẻ hở giữa những cái răng sắc như kiếm.

Eragon chần chừ. Mớ hỗn độn những chuyển động và âm thanh quá mạnh, nó không biết ở đâu cần nó nhất.

Murtagh? Nó hỏi Glaedr.

CHúng ta đang tìm hắn nếu hắn ở đây. Ta không cảm nhận được tư tưởng của hắn, nhưng cũng khó vì có quá nhiều người và câu thần chú ở môt nơi. Quay liên kết của họ, Eragon có thể biết ông rồng vàng đang làm nhiều hơn chỉ nói chuyện với nó; Glaedr đang đồng thời lắng nghe suy tưởng của Saphira và thần tiên, cũng như giúp Blödhgarm và hai người đồng hành chống lại những pháp sư triều đình.

Eragon tự tin rằng họ có thể đánh bại pháp sư cũng như bà Angela và Elva sẽ thừa sức bảo vệ mình khỏi sự uy hiếp của bọn lính. Nhưng Saphira đã bị thương vài nơi và cô nàng đang vất vả giữ không cho Thorn tấn công phần còn lại của doanh trại.

Eragon liếc nhìn thanh Dauthdaert trên tay Arya rồi nhìn những con rồng.Chúng ta phải giết hắn, Eragon nghĩ và trái tim chùng xuống. Sau đó mắt nó nhìn Elva và một ý tưởng mới nảy sinh trong đầu nó. Những từ ngữ của cô nhóc còn mạnh hơn bất cứ loại vũ khí nào; không ai, kể cả Galbatorix có thể chịu nổi chúng. NẾu cô nhóc có thể nói chuyện với Thorn, cô nhóc sẽ đuổi được hắn đi.

Không! Glaedr gầm lên. Trò chỉ tốn thời gian thôi. Tới với con rồng của trò đi – ngay! Cô nhóc cần sự giúp đỡ của trò. TRò phải giết Thorn, chứ không phải dọa nó chạy mất! Nó đã hỏng, và con không thể làm gì để cứu nó.

Eragon nhìn Arya và nàng nhìn nó.

“Elva có thể nhanh hơn,” nó nói.

“Chúng ta có thanh Dauthdaert...”

“Quá nguy hiểm. Quá khó.”

Arya lưỡng lự rồi gật đầu. Họ cùng nhau bước tới với Elva.

Trước khi bước tới chỗ cô nhóc, Eragon nghe có tiếng hét nghẹt lại. Nó quay lại, hoảng hốt thấy Murtagh bước ra khỏi lều chỉ huy, nắm lấy cổ tay Nasuada mà kéo.

Tóc Nasuada rối tung. Một vết sẹo xấu xí kéo dài trên má cô và chiếc váy vàng bị rách nhiều chỗ. Cô đá vào đầu gối Murtagh, nhưng gót chân nảy ra vì lá chắn, còn Murtagh không bị ảnh hưởng gì. HẮn bạo lực kéo cô tới gần hơn rồi dùng chuôi Zar’roc đánh vào thái dương cô, khiến cô bất tỉnh.

Eragon hét lên và lao tới.

Murtagh liếc qua nó. Sau đó hắn bỏ kiếm vào bao, vác Nasuada lên vai và quỳ một bên gối, cúi đầu như thể cầu nguyện.

Cơn đau nhói từ Saphira khiến Eragon xao lãng, cô nàng hét lên. “Cẩn thận! Hắn muốn thoát!”

KHi Eragon leo qua chồng xác chết, nó liều lĩnh liếc lên. Nó thấy cái bụng sáng lấp lánh của Thorn và đôi cánh màu nhung che hết nửa số vì sao trên trời. Con rồng đỏ hơi quay mình lao xuống, như một chiếc lá lớn và nặng.

Eragon lùi về một phía và lăn về sau lều, cố gắng tăng khoảng cách giữa nó và con rồng. Một tảng đá đập vào vai nó.

Không chậm lại, Thorn chạm đất bằng chân phải to bằng cả một thân cây và đặt bàn chân to tướng gần Murtagh và Nasuada. Móng vuốt của hắn ấn sâu vào đất, cày sâu vài chục phân khi nhấc hai người lên.

Sau đó, với một tiếng gầm chiến thắng và tiếng vỗ cánh huỵch ghê răng, Thorn bay khỏi doanh trại.

TỪ nơi Saphira và Thorn vừa quần nhau, Saphira đuổi theo, máu chảy ra từ những vết cắn và cào xước trên chân. Cô nàng nhanh hơn Thorn nhưng dù có đuổi kịp, Eragon cũng không nghĩ cô em nó làm sao mà cưu Nasuada trong khi không làm cô bị thương.

Một trận gió thối vào tai nó khi Arya tăng tốc vọt qua. Nàng chạy trên một đống thùng và nhảy cao lên trời, hơn bất cứ một thần tiên nào có thể. Nàng với lấy đuôi Thorn và đung đưa như thể một vật trang trí.

Eragon bước nửa bước theo sau như đinh ngăn cô, rồi nguyền rủa và gầm lên, “Audr!”

Câu thần chú giúp nó bắn lên trời như một mũi tên. Nó vươn tư tưởng tới Glaedr và con rồng già cho nó năng lượng/ Eragon đốt cháy toàn bộ năng lượng vừa nhận, không cần quan tâm tới hậu quả, chỉ muốn tóm được Thorn trước khi chuyện gì đó kinh khủng xảy ra cho Nasuada hay Arya.

Khi va chạm vào Saphira, Eragon quan sát Arya bắt đầu leo lên đuôi Thorn. Nàng nắm lấy ngạnh trên xương sống bằng tay phải, sử dụng chúng như thang. Bằng tay trái, nàng đâm Dauthdaert vào Thorn, dùng lưỡi thương để đẩy mình đi cao hơn và cao hơn. Thorn uốn éo để táp nàng như một con ngựa bị ruồi muỗi làm phiền, nhưng nó táp trượt.

Sau đó, máu con rồng đỏ chảy ra từ cánh và chân và, với hàng hóa quý giá đang mang sát ngực, nó lao xuống đất, với những đường lượn xoắn ốc chết người. Thanh Dauthdaert xé toạc da thit Thorn và Arya đứng trên người nó dùng tay phải cầm cây thương – bàn tay yếu, bị thương trong trận tập kích dưới Dras – Leona.

Trước khi những ngón tay lỏng ra và rơi khỏi Thorn, cô giang tay chân như nan xe. Chắc chắn cô dùng thần chú để bay từ từ trong bầu trời đêm. Qua thứ ánh sáng từ Dauthdaert trên tay, Eragon thấy nàng như một con đom đóm xanh lập lòe trong bóng tối.

Thorn dang cánh và bay về phía nàng. Arya quay đầu nhìn qua Saphira rồi quay người đối diện với Thorn.

Ánh sáng hiểm ác xuất hiện giữa hàm Thorn và một giây sau, ngọn lửa hung tàn ào ra từ mồm hắn, bao gọn Arya.

Lúc đó, Eragon chỉ còn cách nàng chưa đầy 17m – đủ gần để nhiệt độ khiến má nó nóng bỏng.

Ngọn lửa tan dần để lộ Thorn đang quay đi khỏi Arya, bay nhanh nhất có thể. Trong khí đó, hắn vẫy đuôi trong không nhanh nhất để nàng đừng mong tránh nổi.

“Không!” Arya thét lên.

Một tiếng rắc và đuôi hắn đập vào Arya. Nó khiến cô rơi vào bóng tôi, như một viên đá bị ná cao su bắn đi. Thanh Dauthdaert rời khỏi tay cô rơi xuống, ánh sáng từ nó mờ nhạt và nhanh chóng biến mất.

Dường như có cái vòng sắt quấn chặt quanh ngực Eragon, bóp nghẹt hơi thở của nó. Thorn bỏ đi nhưng Eragon vẫn có thể tóm được hắn nếu lấy thêm năng lượng từ Glaedr. Nhưng kết nối của nó với Glaedr càng lúc càng mong manh và Eragon không có cơ hội đánh bại Thorn và Murtagh một mình và trên khong trung, không phải khi Murtagh có hàng tá hoặc có thể nhiều hơn những Eldunarí.

Eragon chửi thề rồi chấm dứt câu thần chú giúp nó bay trên trời và lao đầu xuống tìm Arya. Gió rít bên tai, thổi tạt tóc và quần áo nó, thổi dẹt má nó, khiến nó nhắm chặt mắt. Một con côn trùng bay trúng cổ nó; lực đập manh như thể nó bị đá cuội ném trúng.

Khi ngã xuống, Eragon dùng tư tưởng tìm kiếm Arya. Nó cảm thấy có gì dó trong bóng tôi bên dưới khi Saphira xuất hiện dưới nó, vảy không còn lấp lánh dưới ánh sao. Cô nàng quay ngược lại cho Eragon thấy một vật nhỏ tối trong bàn chân trước.

Một nỗi đau chạm vào trí óc Eragon, sau đó mọi sự qua đi và Eragon không thấy gì nữa.

Anh bé à, em tóm được cô ấy rồi, Saphira nói.

“Letta,” Eragon nói và nó chậm lại rồi dừng hẳn,

Nó tìm Thorn một lần nữa nhưng chỉ thấy vài ngôi sao và màn đêm đen. Đằng đông nó nghe có tiếng đập cánh nho nhỏ rồi chìm vào im lặng.

Eragon nhìn doanh trại quân Varden. Những ngọn lửa tỏa ánh vàng cam và những cột khói bốc lên. Hàng trăm lều bị vùi dập trong đất cát cùng rất nhiều người không trốn kịp khi Thorn đánh úp. Nhưng những người đó không phải nạn nhân duy nhất của trận tấn công. Từ độ cao của mình, Eragon không thể nhìn rõ từng thi thể, nhưng nó biết rất nhiều binh lính đã tử trận.

Vị khói tràn vào miệng Eragon. Nó rùng mình, nước mắt của giận dữ và sợ hãi cùng thất vọng che mờ mắt nó. Arya bị thương – có lẽ đã chết. Nasuada đã đi mất, bị bắt cóc và cô sẽ sớm bị những kẻ hành hình độc ác của Galbatorix hành hạ.

Eragon thấy vô vọng.

Giờ họ tiếp tục thế nào đây? Sao họ mong chiến thắng khi không còn Nasuada dẫn dắt?

__________________

HỘI NGHỊ CỦA NHỮNG VỊ VUA

Sau khi hạ cánh tại doanh trại của quân Varden cùng Saphira, Eragon trượt xuống bên cạnh cô ả và chạy tới bãi cỏ mà Saphira đã nhẹ nhàng thả Arya xuống.

Nàng tiên nằm úp mặt xuống đất, khuôn mặt ủ rũ và toàn thân bất động. Khi Eragon lật Arya lên, mắt nàng chập chờn mở. "Thorn...Thorn thì sao?" Cô thì thào.

Hắn đã trốn thoát, Saphira đáp.

"Nasuada sao rồi? Anh cứu được cô ấy không?" Eragon nhìn xuống và lắc đầu.

Một thoáng buồn hiện lên trên khuôn mặt Arya. Cô ho và nhăn mặt, sau đó bắt đầu ngồi dậy. Một dòng máu trào ra từ khóe miệng cô.

"Đợi đã" Eragon hét lên. "Đừng di chuyển. Tôi sẽ gọi Blödhgarm tới".

"Không cần đâu". Nắm chặt vai Eragon, Arya kéo mình lên dồn một phần trọng lượng cơ thể vào đôi chân, sau đó mới thận trọng đứng thẳng lên. Hơi thở của cô trở nên khó nhọc vì căng cơ, Eragon có thể trông thấy nỗi đau đớn mà cô cố che giấu. "Tôi chỉ bị bầm vài chỗ thôi, không sao đâu. Thần chú của tôi bảo vệ tôi khỏi những điều tồi tệ từ cú đánh của Thorn".

Eragon nghi ngờ, nhưng nó chấp nhận tuyên bố của nàng.

Bây giờ thì sao?, Nó hỏi Saphira, di chuyển gần hơn với cô em rồng và nàng tiên. Mùi hắc và mùi tanh của máu ngập tràn khứu giác Eragon.

Eragon nhìn quanh trong doanh trại những ngọn lửa đã bị dập tắt. Mặt khác nó tự hỏi liệu Roran và Katrina thế nào sau cuộc tập kích. "Chuyện gì nữa đây?"

Những tình huống xảy ra tiếp theo trả lời câu hỏi của nó. Đầu tiên, một cặp lính triều đình bị thương lao ra từ làn khói định tấn công nó và Arya. Ngay khi Eragon kết liễu chúng, tám trong số mười một thần tiên còn lại trở về vị trí của họ quanh nó và cô em rồng.

Sau khi Eragon thuyết phục họ rằng nó không hề hấn gì, thần tiên chuyển sự chú tâm của họ về phía Saphira và khăng khăng đòi chữa lành vết cắn và vết trầy xước mà Thorn gây ra cho cô ả, mặc dù Eragon thích tự làm lấy chuyện đó hơn.

Nhưng nó biết phải mất tới một vài phút để chữa lành cho cô em rồng, Eragon rời khỏi Saphira cùng những thần tiên và vội vã quay lại lối đi thông qua những dãy lều tới khu vực cắm trại của Nasuada, nơi Blödhgarm và hai thần tiên khác vẫn đang bị cầm chân trong cuộc chiến tâm trí với bốn pháp sư triều đình.

Pháp sư còn lại đang quỳ trên mặt đất, trán hắn ta ấn lên đầu gối và hai cánh tay quấn quanh gáy. Thay vì tấn công hắn ta bằng phép thuật, Eragon sải bước tiến lại gần tên pháp sư, vỗ lên vai hắn và hét lên "Ha".

Gã pháp sư run run, giật bắn mình mất tập trung và dễ dàng để cho thần tiên xuyên qua hàng rào phòng thủ tâm trí hắn. Eragon biết điều này vì gã pháp sư co giật rồi lăn tròn trên đất, tròng mắt trắng dã và miệng sủi bọi vàng. Sau đó thì hắn ngừng thở.

Với vài câu ngắn gọn, Eragon giải thích cho Blödhgarm và hai thần tiên khác những gì đã xảy ra với Arya và Nasuada. Lớp lông trên người Blödhgarm dựng lên giận dữ, và đôi mắt màu vàng của ông ta như bị thiêu đốt trong ngọn lửa thù hận. Nhưng ông ta chỉ có một nhận xét ngắn gọn bằng ngôn ngữ cổ, "bóng đen đang bao trùm chúng ta, thưa kỵ sỹ". Sau đó ông ta cử Yaela đi tìm và thu hồi Dauthdaert từ bất cứ đâu nó đã rơi xuống.

Cùng nhau, Eragon, Blödhgarm và thần tiên ở lại với họ Uthinarë chạy dọc theo doanh trại, khoanh vùng và giết chết những tên lính triều đình thoát khỏi nanh vuốt của ma mèo và lưỡi dao của quân Varden, người lùn, thần tiên hay Urgals. Họ cũng tìm ra những ngọn lửa lớn và dập tắt chúng bằng phép thuật dễ dàng như thổi tắt một ngọn nến.

Trong khi đó, một cảm giác sợ hãi ngập tràn tâm trí Eragon, như nhấn chìm nó vào một lớp lông cừu đẫm nước bóp chặt tâm trí nó khiến nó thấy khó mà nghĩ về bất kỳ điều gì khác hơn là cái chết, bại trận và thất bại. Nó cảm thấy như thế giới đang sụp đổ xung quanh mình, mọi thứ nó cùng Varden đã nỗ lực hoàn thành đã bị rối tung nhanh chóng và không có gì có thể giúp nó giành lại quyền kiểm soát. Cảm giác bất lực làm suy yếu ý chí của nó để có thể làm bất cứ điều gì hơn là ngồi một góc và đau khổ. Tuy vậy, nó không để những cảm giác đó đánh gục, vì nếu làm thế nó sẽ chết ngay sau đó. Do đó, nó tiếp tục di chuyển, gắng bước theo thần tiên, mặc kệ nỗi tuyệt vọng của bản thân.

Tâm trạng nó vẫn chưa tốt lên khi Glaedr liên lạc với nó giận dữ trách, Nếu con chịu nghe lời ta, chúng ta đã có thể ngăn chặn Thorn và cứu Nasuada rồi.

Và chúng ta có thể sẽ không làm được, Eragon đáp. Nó không muốn thảo luận thêm về đề tài này, nhưng cảm thấy bắt buộc phải nói thêm:Thầy đã để cho cơn phẫn nộ che mất tầm nhìn rồi. Giết Thorn không phải là giải pháp tốt nhất, cũng như thầy có nên quá vội vã để tiêu diệt tiếp một thành viên của loài rồng hay không.

Đừng nghĩ đến việc thuyết phục ta, con chim mới nở! Glaedr tức giận đáp.Mi không thể hiểu những mất mát của ta.

Con là người hiểu hơn hết, Eragon trả lời, nhưng Glaedr đã thu hồi tâm trí, và Eragon nghĩ rồng vàng không nghe những gì nó nói.

Eragon dập tắt một đám cháy và đang chuyển sang đám khác khi Roran vội vã chạy tới và túm lấy cánh tay nó."Em có bị thương không?"

Cảm giác nhẹ nhõm thoáng qua Eragon khi nó nhìn thấy anh họ nó còn sống và khỏe mạnh. "Không" nó nói.

"Saphira thì sao?".

"Thần tiên đã chữa lành vết thương cho nó. Katrina thì sao? Chị ấy ổn chứ?"

Roran gật đầu và tư thế thoải mái hơn, nhưng vẻ mặt vẫn bối rối."Eragon" anh nói, tiến lại gần hơn "Xảy ra chuyện gì vậy? Có chuyện gì vậy? Anh thấy Jörmundur chạy quanh như một con gà mất đầu, đội lính gác của Nasuada ảm đạm như đưa đám và anh không tìm được bất cứ ai để hỏi. Có phải chúng ta vẫn còn nguy hiểm? Galbatorix tấn công à?".

Eragon liếc nhìn xung quanh, sau đó kéo Roran sang một bên, nơi không người nào khác có thể nghe thấy chúng. "Anh không được kể cho bất kỳ ai biết. Không phải lúc này" nó cảnh báo.

"Em có lời hứa của anh rồi".

Với một vài câu ngắn gọn, Eragon tóm tắt tình hình vụ đột kích cho Roran. Khi nó kết thúc, biểu hiện của Roran trở nên ảm đạm "Chúng ta không thể để Varden tan rã" anh nói.

"Dĩ nhiên là không. Sẽ không có chuyện đó xảy ra, nhưng vua Orrin có thể tạm thời chỉ huy hoặc..." Eragon im lặng khi một nhóm quân lính đi qua gần đó. Sau đó, nó nói "Anh sẽ ở lại với em chứ? Em có thể cần sự trợ giúp của anh".

"Trợ giúp của anh hả? Em cần anh giúp những gì?"

“Toàn bộ quân lính ủng hộ anh Roran, ngay cả những Urgals cũng vậy. Anh là cây búa dũng mãnh, người anh hùng đã chiếm thành Aroughs và ý kiến của anh rất có trọng lượng. Những ý kiến đó có thể rất quan trọng đấy”.

Roran im lặng trong giây lát, sau đó anh gật đầu. “Anh sẽ làm những gì anh có thể”.

“Bây giờ thì chỉ cần chỉ huy binh lính” Eragon nói và tiếp tục dập tắt đám cháy mà nó đã định trước.

Nửa giờ sau, khi yên tĩnh và trật tự đã được lập lại trong doanh trại, một người đưa tin thông báo cho Eragon rằng Arya muốn thấy sự hiện diện của nó trong lều của vua lùn Orik.

Eragon và Roran liếc nhìn nhau, sau đó họ bắt đầu tiến về hướng tây bắc của doanh trại, nơi hầu hết những người lùn đã dựng lều trên đất.

“Không có lựa chọn” Jörmundur nói “Nguyện vọng của tiểu thư Nasuada rất rõ ràng. Cậu, Eragon, phải thay thế địa vị và lãnh đạo Varden thay mặt cô ấy”.

Trong lều, những khuôn mặt nghiêm khắc và kiên định ngồi quây thành vòng tròn. Nét u tối chập chờn trên thái dương của bọn họ và làm những nếp nhăn của loài hai chân trở nên sâu sắc hơn, như Eragon đã biết đó là cách mà Saphira gọi bọn họ. Điều duy nhất khiến nó không hài lòng là Saphira, đầu của cô ả chen qua lối vào căn lều để cô ả có thể tham gia buổi hội nghị, nhưng cô ả liếm hàm như thể sắp gầm lên vì khó chịu.

Vua Orrin cũng đã có mặt, áo choàng màu tía quấn ngoài lớp áo khoác đêm của ông; Arya nhìn mông lung, thẫn thờ; Vua lùn Orik cũng đã tìm được một chiếc áo sơ mi thay cho bộ giáp của ông; Vua của ma mèo, Grimrr Halfpaw, băng vải trắng quanh một vết thương do kiếm cắt trên vai phải; Nar Garzhvog, gã Kull to lớn, phải khom lưng để tránh cho cặp sừng khỏi đụng phải trần lều; Và Roran đứng cạnh vách lều lắng nghe cuộc tranh luận, và cho đến lúc này vẫn chưa lên tiếng.

Không một ai khác được phép vào lều. Không có bảo vệ, không cố vấn, không người hầu, thậm chí ngay cả Blödhgarm và những thần tiên khác cũng không được phép. Bên ngoài lều, một đám đông người lùn và Urgals gồm mười hai người đứng trước lối vào, nhiệm vụ của họ là ngăn chặn bất kỳ ai, dù kẻ đó có mạnh mẽ hay nguy hiểm thế nào đi nữa, gây cản trở đến hội nghị. Một lưới phép thuật được thêu dệt để ngăn chặn việc nghe lén dù là bình thường hay bằng phép thuật.

“Tôi không bao giờ muốn chuyện này xảy ra” Eragon nói, và nhìn chằm chằm xuống tấm bản đồ của Alagaësia trải dài trên bàn đặt ở trung tâm chiếc lều.

“Không ai trong chúng ta muốn điều đó cả” Vua Orrin nói bằng giọng châm biếm.

Đây là sáng suốt của Arya, Eragon nghĩ, tổ chức buổi hội nghị ở lều của Orik. Vua lùn là một người chắc chắn ủng hộ Nasuada và Varden, ông ta cũng là tộc trưởng của Eragon và còn là anh nuôi của nó. Nhưng không ai có thể buộc tội ông ta vì sự khát khao địa vị của Nasuada, và có thể con người cũng sẽ không ủng hộ việc ông thay thế Nasuada.

Tuy thế, bằng việc tổ chức hội nghị tại lều của Orik, Arya đã làm tăng uy tín của Eragon và loại bỏ bớt những kẻ chống đối nó, không có bất kỳ biểu hiện nào của sự tán thành hay là phản đối. Nàng đã làm rất tốt, Eragon phải thừa nhận điều đó, nàng thao túng nhiều việc hơn những gì nó nghĩ. Rủi ro duy nhất trong những việc nàng đã làm là có thể khiến những người khác nghĩ rằng Orik là người kiểm soát nó, nhưng đó là rủi ro mà Eragon sẵn sàng chấp nhận để đổi lại sự hỗ trợ của những người ủng hộ nó.

“Tôi không bao giờ muốn điều này” nó lặp lại, đưa cái nhìn qua từng cặp mắt của những người xung quanh đang chăm chú nhìn. “Nhưng bây giờ nó đã xảy ra, tôi thề trên nấm mồ tất cả những gì chúng ta đã phải hy sinh, tôi sẽ cố gắng hết sức để sống xứng đáng với tấm gương của Nasuada và lãnh đạo Varden chống lại Galbatorix và đế quốc đi đến thắng lợi. Nó cố tỏ ra tự tin, nhưng sự thật là nỗi sợ hãi khổng lồ vẫn đang ám ảnh nó và nó còn không biết liệu nó có thể hoàn thành nhiệm vụ này không. Nasuada đã làm mọi chuyện thật xuất sắc, điều đó đe dọa nó ngay cả trong suy nghĩ cố gắng hoàn thành chỉ một nửa những gì cô đã làm được.

“Rất đáng khen ngợi, ta cam đoan đấy” vua Orrin nói. “Tuy nhiên, quân Varden đã luôn phối hợp làm việc rất tốt với các đồng minh-với đàn ông của Surda; với vua Orik, người bạn hoàng tộc của chúng ta và những người lùn của dãy Beor; với thần tiên; và bây giờ, mới đây thôi là với Urgals dưới sự chỉ huy của Nar Garzhvog, và với ma mèo”. Ông gật đầu với Grimrr, và vua của ma mèo gật nhẹ đầu đáp lại. “Nhưng vẫn chưa đủ thuyết phục để tất cả chúng ta công khai đồng ý ủng hộ cậu. Cậu không đồng ý phải không?”

“Dĩ nhiên rồi”.

“Dĩ nhiên” vua Orrin nói. “Ta tiếp thu ý kiến đó, giờ thì cậu sẽ tiếp tục bàn bạc với chúng ta về những vấn đề cấp bách, như Nasuada đã từng làm à?” Eragon hơi do dự, nhưng trước khi nó có thể trả lời thì Orrin lại tiếp tục nói:”Tất cả chúng ta” ông ta hướng sự chú ý tới những người khác trong lều, “Đã đặt cược rất lớn vào liên minh này, và không ai trong số chúng ta đánh giá cao sự sai khiến. Chúng ta cũng sẽ không phục tùng điều đó. Thẳng thắn mà nói, kỵ sỹ Eragon, cậu vẫn còn trẻ và thiếu kinh nghiệm, và sự thiếu kinh nghiệm đó có thể sẽ dẫn đến những kết cục tai hại. Những người khác trong số chúng ta đã học tập được rất nhiều từ những năm lãnh đạo lực lượng của chúng ta, hay chí ít cũng được thấy xem xét sự chỉ huy của người khác. Chúng ta có thể chỉ ra con đường đúng đắn cho cậu, có lẽ cùng với nhau chúng ta có thể tìm ra cách chỉnh đốn mớ hỗn độn này và lật đổ Galbatorix”.

Những gì vua Orrin nói đều là sự thật, Eragon nghĩ, nó vẫn còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, và nó cần lời khuyên của những người khác, nhưng nó cũng không thể tỏ ra quá yếu kém được.

Thay vào đó, nó trả lời, “Bệ hạ có thể yên tâm rằng thần sẽ tham khảo ý kiến với ngài khi cần thiết, nhưng vẫn như mọi khi, quyết định của thần là của riêng thần”.

“Tha thứ cho ta, kỵ sỹ, nhưng ta luôn gặp khó khăn để tin điều đó. Sự gắn bó của cậu với thần tiên” Orrin liếc nhìn Arya “ đã được biết đến rộng rãi. Còn gì nữa, cậu là một thành viên ngoài huyết thống của bộ tộc người lùn Ingeitum, chịu sự ảnh hưởng của tộc trưởng bọn họ và người đó là vua Orik. Có thể ta nhầm, nhưng ta nghi ngờ quyết định của cậu là của riêng cậu”.

“Trước tiên, bệ hạ khuyên thần lắng nghe ý kiến những đồng minh của chúng ta. Giờ ngài lại không nhớ điều đó. Có thể ngài cho rằng tôi thích nghe ngài nói hơn và chỉ mỗi mình ngài thôi sao?” Cơn giận của Eragon lớn dần khi nó nói.

“Ta sẽ thích sự chọn lựa của cậu nếu điều đó là tốt nhất cho lợi ích người dân của chúng ta mà không phải những chủng tộc khác!”.

“Họ đã có điều đó” Eragon gầm gừ. “Và họ sẽ tiếp tục nhận được điều đó. Vâng, thần có nghĩa vụ phải trung thành với cả Varden lẫn bộ tộc Ingeitum, cả Saphira, Nasuada và gia đình thần. Nhiều người có quyền đòi hỏi thần, thậm chỉ cả những người dưới quyền của bệ hạ. Tuy nhiên, mối quan tâm hàng đầu của thần là đánh bại Galbatorix và đế quốc. Nó vẫn luôn như vậy, và nếu có một sự xung đột nào giữa các mối ràng buộc về lòng trung thành của thần thì điều phải quan tâm là những gì sẽ được ưu tiên. Hãy chất vấn những phán quyết của thần, nếu bệ hạ cần phải làm, nhưng đừng đặt câu hỏi cho động cơ của thần. Thần cũng rất biết ơn nếu bệ hạ đừng ám chỉ thần là một kẻ phản bội đồng loại của mình”.

Orrin cau mày, má ông đỏ lên và nhà vua sắp sửa lớn tiếng đáp trả thì Orik gõ Volund, cây búa chiến tranh của ông vào khiên cắt ngang.

“Tranh cãi vô nghĩa thế đủ rồi đấy!” Orik tức giận la lên, mắt nhìn trừng trừng. “Ngài lo lắng về một vết rạn trên sàn nhà khi mà toàn bộ quả núi sắp sửa đổ xuống trên đầu chúng ta!”

Vẻ cau có trên mặt vua Orrin hằn sâu hơn, nhưng ông không theo đuổi vấn đề xa hơn nữa. Thay vào đó, nhà vua nhấc ly rượu vang khỏi bàn và ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế của mình, nơi ông nhìn chằm chằm vào Eragon với sự tăm tối và ánh mắt biểu hiện sự căm thù ngấm ngầm.

Em nghĩ ông ta ghét anh, Saphira nói.

Có thể, hoặc là ông ta ghét những gì anh trình bày. Nhưng bằng cách nào thì anh cũng là một trở ngại đối với ông ta. Ông ta sẽ chịu đựng để quan sát đấy.

“Câu hỏi trước hết đặt ra cho chúng ta rất đơn giản”, Orik nói. “Bây giờ chúng ta nên làm gì khi mà Nasuada đã bị bắt?” Ông đặt ngang Volund trên bàn và mân mê khối chỗ u trên đầu. “Ý kiến của tôi là tình trạng của chúng ta hiện nay rất giống sáng nay. Trừ khi chúng ta thừa nhận thất bại và cầu hòa, chúng ta chỉ còn một lựa chọn duy nhất: tiến quân đến Urû’baen nhanh nhất chúng ta có thể. Một mình Nasuada sẽ không bao giờ chống lại được Galbatorix. Điều này sẽ phụ thuộc vào” ông ra hiệu về Eragon và Saphira “và thần tiên. Nasuada đã mang chúng ta tới nơi xa xôi này và mặc dù đã phải bỏ lỡ nó, nhưng chúng ta không cần cô ấy để tiếp tục. Con đường chúng ta đang đi có thể sai lệch chút ít. Kể cả khi cô ấy có mặt tại đây ngay, tôi cũng không thể để cô ấy làm điều gì khác hơn. Tiến tới Urû’baen, chúng ta phải đi, và chấm dứt nó.

Grimrr đung đưa con dao găm có lưỡi màu đen, dường như chẳng quan tâm tới cuộc tranh luận.

“Tôi đồng ý”, Arya nói. “Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác”.

Phía trên bọn họ, cái đầu đồ sộ của Garzhvog khẽ gật, làm cái bóng biến dạng lướt qua vách lều. “Người lùn nói đúng. Urgralgra sẽ ở lại với Varden tới chừng nào mà Kiếm Lửa còn là người lãnh đạo cuộc chiến. Với sự lãnh đạo của anh ta và Lưỡi Lửa, chúng tôi sẽ đòi được những món nợ máu mà Kẻ phản bội không sừng, Galbatorix còn nợ chúng tôi”.

Eragon thở nhẹ, nó cảm thấy không được thoải mái.

“Tất cả những điều đó rất hay và hợp lý”, vua Orrin nói, “nhưng ta chưa nghe thấy bằng cách nào chúng ta có thể đánh bại Murtagh và Galbatorix khi chúng ta đến Urû'baen”.

“Chúng ta có Dauthdaert”, Eragon chỉ ra vì nó biết Yaela đã thu hồi ngọn giáo, “và với nó chúng ta có thể”.

“Phải rồi, phải rồi, Dauthdaert. Nó đã không giúp cậu ngăn cản Thorn, và tôi không cho rằng Galbatorix sẽ để cho cậu lại gần hắn ta hay Shruikan cùng với nó. Dù sao đi nữa, nó vẫn không thể thay đổi thực tế cậu không phải là đối thủ của tên phản bội có trái tim đen đó. Khốn kiếp, kỵ sỹ, cậu thậm chí còn không phải là đối thủ của anh trai cậu, kẻ chỉ mới trở thành kỵ sỹ trong thời gian ngắn hơn cậu”.

Nhà vua tiếp tục:”Chúng ta bước vào cuộc chiến này với sự hiểu biết rằng cậu sẽ tìm thấy một cách để chống lại sức mạnh siêu nhiên của Galbatorix. Nasuada đã quả quyết với chúng tôi như vậy. Thế nhưng chúng ta đang ở đây, sắp sửa đương đầu với pháp sư mạnh mẽ nhất sử sách từng ghi lại, và chúng ta không có cơ hội nào rõ rệt hơn để đánh bại hắn như khi chúng ta vừa bắt đầu!”.

“Chúng ta sẽ chiến đấu”, Eragon khẽ nói, “vì đây là lần đầu tiên kể từ thời kỳ suy tàn của các kỵ sỹ chúng ta đã có cơ hội dù là mong manh nhất để lật đổ Galbatorix. Như bệ hạ biết đấy”.

“Cơ hội gì chứ?” nhà vua mỉa mai. “Chúng ta chỉ là những con rối, tất cả chúng ta, nhảy múa theo những ý thích bất chợt của Galbatorix mà thôi. Lý do duy nhất chúng ta có thể đi xa thế này là vì hắn để cho chúng ta đi. Galbatorix muốn chúng ta đến Urû’baen. Hắn muốn chúng tôi mang cậu đến cho hắn. Nếu hắn muốn ngăn chặn chúng ta, hắn hẳn đã bay ra gặp chúng ta ở Cánh Đồng Cháy và nghiền nát chúng ta ở đó rồi. Và một khi hắn đã có được cậu trong tay, những gì hắn phải làm chỉ là nghiền nát chúng tôi”.

Không khí trong lều trở nên rất căng thẳng giữa bọn họ.

Hãy cẩn thận, Saphira nói với Eragon. Ông ta sẽ cuốn gói rời khỏi nếu anh không thể dùng cách khác thuyết phục được ông.

Arya cũng cảm thấy lo lắng tương tự.

“Toàn thể quân đội ngưỡng mộ anh, Roran à, thậm chí những Urgal nữa. Anh là Cây Búa Dũng Mãnh, anh hùng của thành Aroughs, lời nói của anh có sức nặng rất lớn. Chuyện đó có thể rất quan trọng.”

Roran nín lặng trong khoảnh khắc, rồi gật đầu: “Anh sẽ làm tất cả những gì có thể”.

“Lúc này anh chỉ cần trông coi sĩ tốt là được” Eragon nói, rồi tiếp tục đi về ngọn lửa như dự định.

Hơn nửa giờ sau, khi mà toàn doanh trại đã bắt đầu trở lại yên tĩnh và bình lặng, Eragon được nhắn rằng Arya yêu cầu sự có mặt của nó ở lều của Orik.

Eragon trao đổi ánh mắt với Roran trong giây lát, rồi cùng đi tới khu trại phía Tây Bắc, nơi phần lớn người Lùn hạ trại.

“Không có lựa chọn nào khác hết”, Jormundur quả quyết nói, “Nasuada đã truyền đạt nguyện vọng rất rõ ràng. Cậu, Erogon, là người thay thế công nương lãnh đạo Varden”.

Những khuôn mặt tụ họp trong gian lều trông đều khắc khổ và nghiêm nghị. Bóng đen u ám khắc sâu ở hai bên thái dương và những đường nét mặt tư lự của đám hỗn tạp người-hai-chân, như Eragon biết Shaphira vẫn hay gọi như vậy. Kẻ duy nhất không có vẻ gì như vậy là Shaphira – cái đầu bự chảng của cô nàng thò vào qua cửa lều để tham dự vào cuộc họp – trong khi cặp môi của cô nàng hơi nhíu vào, như thể đang gầm gừ nhè nhẹ.

Vua Orrin cũng có mặt, áo choàng tím phủ lên bộ đồ ngủ; Arya, trông có vẻ run rẩy nhưng quyết tâm; vua Lùn Orik, mặc một chiếc giáp mỏng bên ngoài; vua mèo ma Grimrr Nửa-vuốt, với dải băng trắng quấn vòng qua vết kiếm chém trên vai phải; Kull Nar Garzhvog, cố gắng khom lưng tránh cặp sừng đâm thủng mái lều; và Roran, đứng sát vách lều im lặng lắng nghe cuộc họp, đến giờ vẫn chưa nói câu nào.

Không có ai khác được cho phép vào trong căn lều. Kể cả thủ vệ, các quân sư, thậm chí Blodgarm và những tiên nhân khác. Ở bên ngoài lều, một đám người, người lùn lẫn Urgal đứng thành hàng 12 lớp trước cửa vào – với nhiệm vụ ngăn cản bất kì kẻ nào dù cho có nguy hiểm hay mạnh mẽ tới đâu quấy rầy cuộc họp. Quanh chiếc lều, một cơ số những câu thần chú được niệm vội vàng nhằm chặn việc nghe trộm bằng bất kể hình thức nào.

“Tôi không bao giờ muốn chuyện này”, Eragon nói, chăm chú nhìn vào bản đồ Alagaesia trài dài trên mặt bàn ở trung tâm căn lều.

“Cũng chẳng ai muốn cả”, vua Orik cay đắng nói.

Eragon nghĩ, Arya thật khôn khéo khi triệu tập cuộc họp trong lều của Orik. Vị vua Lùn từ trước đến giờ vẫn là người ủng hộ đáng tin cậy của Nasuada và quân Varden – đồng thời vừa là thủ lĩnh bộ tộc lẫn anh kết nghĩa của Eragon – nhưng không ai có thể buộc tội ông lăm le vị trí của Nasuada, cũng như không người nào có thể chấp nhận ông như người thay thế Nasuada.

Dù vậy, khi tổ chức cuộc họp ở lều của Orik, Arya đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Eragon cũng như làm yếu thế những kẻ chỉ trích nó, mà thậm chí không cần phải ra mặt ủng hộ hay công kích gì hết. Eragon thầm nhủ, cô thật sự giỏi trong việc thao túng người khác hơn nó nhiều. Rủi ro duy nhất trong việc này là người khác có thể cho rằng Orik là chủ nhân của nó, nhưng Eragon chấp nhận để đổi lấy sự ủng hộ của bạn bè mình.

“Tôi không bao giờ muốn điều đó”, nó lặp lại, nhìn chăm chú vào những cặp mắt đang dán vào mình xung quanh. “Tuy nhiên, giờ đây chuyện đã rồi, tôi thề trên mộ của những đồng đội đã mất rằng tôi sẽ làm hết sức để noi gương Nasuada, để lãnh đạo Varden chiến thắng Galbatorix và Đế quốc.” Nó cố gắng tỏ ra thật tự tin, nhưng sự thật là hoàn cảnh tàn khốc làm nó thấy sợ hãi, nó còn không biết là mình có thể đảm nhiệm phận sự này không nữa. Nasuada đã thể hiện năng lực quá ấn tượng, đến nổi chỉ nghĩ đến việc hoàn thành một nửa những gì cô đã làm cũng làm nó hết vía.

“Thực đáng khen ngợi, tôi chắc chắn đấy”, King Orrin cười khẽ, “Tuy nhiên, quân Varden trước giờ vẫn luôn hòa hợp với các đồng minh, với những chiến binh của Surda, với người bạn trung trinh Orik và những người Lùn của rặng Beor Hùng Vĩ, với Urgal, lãnh đạo bởi Nar Garzhvog, và với tộc mèo ma”. Ông gật đầu về phía Grimrr, và nhận được cái gật đầu khẽ đáp trả. “Thật không hay nếu các binh sĩ thấy chúng ta bất đồng công khai, phải không?

“Đương nhiên”.

“Đương nhiên”, vua Orrin tiếp, “Thế nên, tôi cho rằng, cậu vẫn có thể tiếp tục nhận lời khuyên của chúng tôi về những vấn đề quan trọng, như Nasuada đã từng?”Eragon hơi khựng lại, nhưng trước khi nó kịp nói gì, Orrin lại tiếp tục nói: “Tất cả chúng tôi” – ông hướng đến những người khác trong lều – “đã mạo hiểm rất nhiều cho cuộc hành trình này, và không ai chấp nhận bị ra lệnh cả. Cũng không ai chịu phục tùng cả. Nói thẳng ra nhé, dù đã đạt được rất nhiều thành tựu, Eragon Khắc tinh của Tà Thần à, cậu vẫn còn rất trẻ và thiếu kinh nghiệm, và sự thiếu thốn kinh nghiệm đó có thể trở thành điểm yếu chí tử đấy. Tất cả chúng tôi ở đây đã hưởng lợi ích từ bao nhiêu năm lãnh đạo lực lượng của mình, hoặc chứng khiến người khác lãnh đạo rồi. Chúng tôi có thể hướng dẫn cậu tìm ra lối đi đúng đắn, và biết đâu cùng nhau chúng ta có thể tìm cách sửa chữa đống hỗn độn này và lật đổ Galbatorix.”

Eragon nghĩ - tất cả những gì Orrin nói đều đúng, từ chuyện nó còn quá trẻ và non kinh nghiệm, cũng như nó đã cần đến lời khuyên của người khác – nhưng nó không thể thừa nhận mà không tỏ ra yếu thế được.

Thay vào đó, nó đáp trả, “Ngài có thể chắc rằng tôi sẽ luôn tham khảo mọi người khi cần thiết, nhưng quyết định của tôi sẽ luôn luôn là quyết định của bản thân.”

“Thứ lỗi cho tôi, Khắc tinh của Tà Thần, nhưng thật khó khăn để tôi tin chuyện này. Mối quan hệ thân cận với loài tiên” – Orrin liếc nhìn Arya – thì ai cũng biết cả. Hơn nữa, cậu còn là thành viên danh dự trong tộc Ingeitum, và sẽ luôn tuân theo chỉ thị của tộc trưởng, người ngẫu nhiên lại là vua Orik đây. Có thể tôi đã nhầm, nhưng có lẽ thật đáng ngờ rằng quyết định của cậu sẽ là quyết định độc lập.”

“Trước tiên, ngài khuyên tôi lắng nghe đồng minh. Giờ thì lại không. Có khi ngài sẽ thoải mái hơn nếu tôi chỉ lấy ý kiến từ ngài, và riêng ngài mà thôi hả?” Càng nói Eragon càng giận hơn.

“Tôi chỉ trông chờ rằng quyết định của cậu sẽ đem lại điều tốt đẹp nhất cho nhân dân ta, chứ không phải cho giống loài khác!”

Eragon gầm lên, “Đã, và sẽ tiếp tục như thế. Tôi nợ lòng trung thành tới cả Varden và tộc Ingeitum, đúng thế, nhưng cũng với cả Saphira, với Nasuada, và với gia đình tôi nữa. Rất nhiều người đòi hỏi ở tôi, và thậm chí đến cả ngài nữa, thưa Đức Vua. Tuy nhiên, mối quan tâm trước tiên của tôi là đánh bại Galbatorix và Đế Quốc. Sẽ luôn là như vậy, và một khi nếu có xung đột về lòng trung thành của tôi nên đặt ở đâu, đó sẽ là chuyện được ưu tiên nhất. Cứ việc đặt nghi vấn đối với phán quyết của tôi nếu ngài muốn, nhưng đừng vào giờ nghi ngờ động cơ của tôi. Và tôi sẽ cảm tạ ngài vì đã kiềm chí không ám chỉ tôi là kẻ phản bội giống loài.”

Orrin nhìn trân trối, má dần đỏ lựng lên, khi ông định phản pháo thì một tiếng bang lớn cắt ngang, vua Orik đập cây búa bự chảng Volund vào chiếc khiên của mình.

“Nói lời vô nghĩa đủ rồi đấy!” Orik la lên, quắc mắt. “Sao các người có thể bận tâm về một vết nứt trên sàn, trong khi cả ngọn núi đang đổ ập lên đầu chúng ta!”

Orrin càng trợn mắt ra nữa, nhưng ông không hề tiếp tục nói. Thay vào đó, ông cầm lấy một cốc rựu trên bàn và ngồi phịch xuống ghế, nhìn Eragon với ánh mắt tăm tối âm ỉ.

Em nghĩ lão ghét anh đấy, Saphira chép miệng

Hoặc vậy, hoặc ông ta ghét cái mà anh đại diện. Dù sao đi nữa, anh vẫn là tảng đá ngáng chân ổng. Ổng sẽ phải chịu theo dõi anh thôi.

“Câu hỏi đặt ra cho chúng ta rất đơn giản”, Orik quả quyết. “Chúng ta nên làm gì bây giờ, khi Nasuada đã đi mất?” Ông đặt Volund lên chiếc bàn và quẹt bàn tay xương xẩu qua đầu. “Ý kiến của tôi là tình thế của chúng ta vẫn y hệt như buổi sáng nay. Trừ khi chúng ta chấp nhận thất bại và tìm cách cầu hòa, chúng ta vẫn còn lựa chọn duy nhất: hành quân đên Uru’baen nhanh nhất có thể. Nasuada không thể nào tự mình chiến đấu với Galbatorix. Điều đó tùy thuộc vào các người” – ông nhìn về phía Eragon và Saphira – “cũng như loài tiên. Nasuada đã đưa chúng ta đến xa chừng này, và giờ tuy đều rất nhớ công nương, chúng ta không cần cô ấy để tiếp tục. Con đường phía trước không cho phép thay đổi gì nhiều. Thậm chí nếu công nương ở đây, tôi không thấy cô ấy có thể làm gì khác lắm. Chúng ta phải tới Uru’baen, và thế là kết thúc.”

Grimrr vẫn nghịch ngợm với lưỡi dao màu đen, tỏ ra thờ ơ với cuộc đấu khẩu.

“Tôi đồng ý”, Arya nói. “Chúng ta không có lựa chọn khác.”

Ở trên đầu bọn họ, cái đầu vĩ đại của Garzhvog trầm xuống, phủ một chiếc bóng kì dị lên suốt dọc vách lều. “Người lùn nói rất hay. Những Urgralgra sẽ sát cánh cùng Varden một khi Hỏa Kiếm còn là thủ lĩnh. Có anh ta và Lưỡi Lửa dẫn đầu, chúng tôi sẽ đòi được món nợ máu từ kẻ phản bội không sừng, Galbatorix.”

Ergon cựa mình không thoải mái lắm.

“Thế cũng được thôi,” vua Orrin trầm ngâm, “nhưng tôi vẫn chưa nghe làm sao chúng ta đánh bại Murtagh lẫn Galbatorix khi đến Uru’baen.”

“Chúng ta có thanh Dauthdaert”, Ergaon chỉ vào Yaela đang lấy ra thanh thương, “với nó, ta có thể …”

Vua Orik xua tay. “Rồi rồi, thanh Dauthdaert. Nó chả giúp cậu ngăn Thorn, và tôi thì càng không thể tưởng tượng Galbatorix sẽ để cậu lại đâu đó gần lão và Shruikan với nó đâu. Dù sao đi nữa, nó cũng không thay đổi sự thực rằng cậu vẫn chưa thấm vào đâu với kẻ kẻ phản bội trái-tim-đen. Khỉ thật, Khắc tinh của Tà Thần, cậu thậm chí còn không bằng anh trai cậu, và hắn thì còn có ít thời gian là Kỵ sĩ hơn cậu nhiều!”

Anh cùng mẹ khác cha thôi, Eragon thầm nhủ, nhưng không thốt ra lời nào. Nó không thể nghĩ ra cách nào để phản pháo lại luận điểm Orrin, khi mà chúng đều rất hợp lý đến từng điểm một, và chúng làm nó rất xấu hổ.

Vua Orrin tiếp lời: “Chúng ta tiến hành chiến tranh với niềm tin rằng cậu sẽ tìm ra cách để chống lại sức mạnh bất thường của Galbatorix, thế nên Nasuada đã hứa hẹn, đảm bảo với chúng tôi. Và bây giờ ta ở đây, đối đầu với pháp sư hung mạnh nhất trong lịch sử, mà khả năng đánh bại hắn vẫn không cao hơn tí nào từ khi bắt đầu!”

“Chúng ta khơi mào cuộc chiến,” Eragon khẽ nói, “vì đó là lần đầu tiên các Kỵ Sĩ cảm thấy chúng ta có cơ hội, dù là nhỏ nhất, để lật đổ Galbatorix. Ngài biết vậy mà.”

“Cơ hội ở đâu ra?” nhà vua nhếch mép chế nhạo. “Tất cả chúng ta là những con rối, nhảy múa theo sự giật dây của Galbatorix. Lý do duy nhất mà chúng ta đi xa được đến ngần này là bởi hắn để chúng ta đến. Galbatorix muốn chúng ta tới Uru’baen. Hắn muốn chúng ta mang cậu tới. Nếu hắn thực muốn chặn chúng ta, hắn đã có thể bay đến Thung Lũng Cháy và đè bẹp chúng ta ở đó rồi. Và khi cậu ở trong tầm tay, hắn sẽ làm y như thế: đè bẹp chúng ta.”

Không khí trong lều càng lúc càng căng thẳng hơn.

Cẩn thận nhá, Saphira nhắc Eragon. Lão sẽ rời đi nếu anh không tìm được cách thuyết phục nào khác.

Arya tỏ ra lo lắng y như vậy

Eragon chầm chậm dang tay ra trên bàn và tập trung suy nghĩ. Nó không muốn nói dối, nhưng đồng thời nó phải tìm cách cổ vũ hy vọng cho Orrin, trong khi nó cũng khó làm được như thế với bản thân. Liệu đó có phải là những gì Nasuada phải trải qua khi cô ấy tập hợp chúng ta đến bây giờ, thuyết phục chúng ta tiến bước dù con đường phía trước vẫn mịt mù?

“Vị thế của chúng ta không đến nỗi … mong manh như ngài nghĩ đâu”, Eragon thở ra.

Orrin khịt mũi, ngửa cổ uống một hớp rượu.

“Thanh Dauthdaert là mối đe dọa với Galbatorix,” Eragon tiếp,”và đó là lợi thế của chúng ta. Hắn sẽ phải lo lắng về nó. Vì thế, chúng ta có thể ép hắn làm điều mình muốn, dù chỉ một chút thôi. Thậm chí nếu không thể giết hắn, ta vẫn có thể tiêu diệt được Shruikan. Chúng không hẳn là một cặp rồng và Kỵ Sĩ, nhưng cái chết của Shruikan sẽ làm hẳn tổn thương nghiêm trọng.

“Chẳng bao giờ xảy ra chuyện đó đâu”, Orrin bi quan. “Hắn biết rõ chúng ta có thanh Dauthdaert rồi, và chắc chắn sẽ phòng bị kĩ càng”.

“Có thể không lắm chứ. Tôi nghi ngờ Murtagh với Thorn nhận ra nó”.

“Có thể, nhưng Galbatorix sẽ nhận ra khi hắn kiểm tra trí nhớ của chúng.”

Và hắn cũng sẽ biết sự tồn tại của Glaedr, nếu chúng vẫn chưa nói cho hắn, Saphira nhắc Eragon.

Tinh thần Eragon lại chìm xuống nữa. Nó chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này, nhưng cô nàng nói đúng. Không có nhiều hy vọng gây bất ngờ cho hắn. Chúng ta chẳng có bí mật nào nữa cả.

Cuộc sống luôn chứa đầy bí mật. Galbatorix vẫn không thể nào tiên đoán chính xác chúng ta chọn cách nào để chiến đầu với lão. Ít nhất như thế chúng ta có thể đánh bại lão.

“Cậu đã tìm được cây thương thần chết nào vậy, Khắc tinh của Tà Thần?” – Grimrr hỏi với giọng buồn chán.

“Du Niernen – thanh Orchid”

Gã mèo ma hấp háy, Eragon có cảm tưởng rằng gã bị bất ngờ, dù biều tình của Grimrr vẫn trống không. “Thanh Orchid à. Thật không đấy? Quả là lạ nếu tìm được vũ khí cổ xưa như vậy, nhất là vũ khí … đặc thù như thế này”

“Vì sao vậy?” Jormundur hỏi tới.

Chiếc lưỡi nhỏ hồng của Grimrr liếm phớt qua bộ vuốt. “Niernen thực khéttttttt tiếngggggggg”. Nó kéo dài từ cuối cùng ra thành một tiếng rít ngắn.

Trước khi Eragon moi ra được thêm thông tin gì từ gã mèo ma, Garzhbog lên tiếng với giọng ken két như đá mài: “Anh đang nói đến cây thương thần chết nào vậy, Hỏa Kiếm? Có phải là cây giáo đã đâm Saphira bị thương ở Belatona không? Chúng tôi đã nghe vài chuyện về nó, nhưng thực sự chúng rất kì cục.”

Giờ Eragon mới nhớ Nasuada chưa từng nói cho loài Urgal lẫn mèo ma Niernen thực sự là gì. Hay lắm, nó nghĩ. Thế chả giúp được gì cả.

Nó giải thích cho Garzhvog về thanh Dauthdaert, rồi buộc mọi người trong lều thề bằng cổ ngữ sẽ không bàn luận về cây thương với bất kì ai mà không được phép. Có vài tiếng càu nhàu, nhưng cuối cùng họ đều đồng ý, kể cả mèo ma. Cố gắng dấu diếm thanh thương khỏi Galbatorix có vẻ vô nghĩa, nhưng Eragon không thấy có lợi gì khi thanh Dauthdaert được biết tới quá rộng rãi.

Khi người cuối cùng hoàn thành lời thề, Eragon tiếp tục nói, “Rồi. Đầu tiên chúng ta có thanh Dauthdaert, và đó là những gì chúng ta có thêm. Thứ hai, tôi không hề có ý đối đầu với Murtagh lẫn Galbatorix cùng lúc, chưa bao giờ. Khi chúng ta đến Uru’baen, chúng ta sẽ dụ Murtagh ra khỏi thành phố, bao vây hắn, với toàn bộ quân số nếu cần thiết – kể cả các tiên nhân – và dứt khoát tiêu diệt hoặc bắt được hắn.” Nó nhìn vào những gương mặt xung quanh, cố gây gấn tượng với sức thuyết phục của mình.

“Thứ ba – và đây là điều mọi người phải tin tưởng sâu sắc – Galbatorix không hề bất diệt, dù cho có hùng mạnh thế nào đi nữa. Hắn có thể đặt hàng nghìn lưới phòng vệ để bảo toàn bản thân, nhưng bất chấp kiến thức và sự xảo quyết của lão, chắc chắn vẫn có những phép thuật có thể giết lão, nếu chúng ta khôn khéo đủ để nghĩ ra chúng. Giờ đây, có thể tôi sẽ là người tìm ras phép thuật đánh bại lão, nhưng cũng có thể là một tiên nhân hoặc một thành viên của Con Đường Lãng Du. Galbatorix có vẻ không thể động tới được, tôi biết, nhưng sẽ luôn luôn có điểm yếu, cũng như sẽ luôn có những kẽ hở để thọc con dao xuyên qua và tiêu diệt kẻ thủ.”

“Nếu các Kỹ Sĩ trước đây không thể tìm thấy điểm yếu của hắn, làm sao chúng ta tìm được?” Vua Orrin gặng hỏi.

Eragon dang rộng tay, bàn tay xòe ngửa. “Có thể chúng ta không tìm ra. Không có gì chắc chắn cả, hơn nữa còn là trong chiến tranh. Tuy nhiên, nếu tất cả phù thủy của năm giống loài vẫn không thể giết lão, thì chúng ta sẽ phải chấp nhận Galbatorix sẽ tiếp tục thống trị lâu đến chừng nào lão muốn, và không có gì chúng ta có thể làm để thay đổi việc đó.”

Khoảng khắc im lặng, tuy ngắn nhưng sâu thăm thẳm, lan khắp căn lều.

Rồi Roran tiến lên. “Tôi sẽ phát biểu”

Eragon nhìn những người quanh bàn liếc nhìn nhau.

“Cứ nói đi, Cây Búa Dũng Mãnh,” Orik trầm giọng hướng về vẻ khó chịu rõ ràng của vua Orrin.

“Thế này: đã có quá nhiều máu và nước mắt đổ xuống để chúng ta có thể quay lại. Sẽ thực bất kính với cả những người đã ngã xuống và những người nhớ đến họ. Đây có thể là trận chiến giữa những vị thánh” – anh có vẻ hoàn toàn nghiêm túc với Eragon khi nói điều này – “nhưng tôi sẽ chiến đấu cho đến khi họ quật ngã mình, hoặc tôi quật ngã được bọn họ. Một con rồng có thể giết một vạn con sói một lúc, nhưng một vạn con sói cùng nhau cũng có thể giết được rồng.”

Không hẳn đâu nha, Saphira khụt khịt trong tâm thức chung giữa cô nàng và Eragon.

Roran cười-mà-không-tiếu, “Và chúng ta lại có một con rồng bên phía mình. Cứ quyết định đi, nhưng tôi, sẽ tiếp tục tới Uru’baen, và tôi sẽ đối mặt với Galbatorix, kể cả khi phải tự mình là điều đó.”

“Không phải chỉ mình anh đâu”, Arya lên tiếng. “Tôi biết tôi đại diện cho Nữ hoàng Ilanzadi khi tôi nói dân tộc tôi sẽ chiến đấu cùng anh.”

“Chúng tôi nữa”, Garzhvog gầm lên.

“Chúng tôi nữa,” Orik quả quyết.

“Chúng tôi nữa,” Eragon nói, thầm mong sẽ làm nhụt chí những ai bất đồng.

Sau một khoảng lặng, khi bốn người bọn họ quay lại nhìn Grimrr, gã mèo ma hít vào nói, “Ồ, tôi cho là chúng tôi cũng sẽ ở đó.” Gã lại kiểm tra lại móng vuốt sắc lẻm.

“Ai đó sẽ phải lén vượt qua hàng ngũ kẻ địch, và chắc chắn không thể là những người lùn vụng về với đôi ủng sắt của họ.”

Orik nhướng mày, nhưng nếu ông thấy bị xúc phạm, thì ông đã giấu nó đi rất tốt.

Orrin uống cạn thêm hai cốc rượu nữa, rồi chùi tay vào miệng, “Tốt lắm, như các người muốn; chúng ta sẽ hành quân tiếp đến Uru’baen”, rồi vươn tay túm lấy bình rượu trước mặt.

MÊ CUNG KHÔNG LỐI THOÁT

Eragon và những người khác dành suốt thời gian còn lại của cuộc họp kín để thảo luận những vấn đề thực tế: cách liên lạc – ai trả lời cho ai; thư lệnh; sắp xếp lại tháp canh và lính canh cho doanh trại nhằm tránh Thorn hay Shruikan đánh úp họ lần nữa; và làm sao để cung cấp đầy đủ quân trang cho những người lính đã bị hỏng hết các đồ dùng đó trong lần tấn công rồi. Họ thống nhất chưa tiết lộ chuyện Nasuada bị bắt cho tới ngày hôm sau; các chiên binh được nghỉ ngơi quan trọng hơn.

Nhưng họ không hề bàn tới việc làm sao cứu được Nasuada. Cách duy nhất rõ ràng là nắm được Urû’baen, và lúc đó có thể cô đã chết, bị thương hoặc buộc phải thề trung thành với Galbatorix bằng ngôn ngữ cổ. Vì thế họ hoàn toàn tránh vấn đề này như thể đó là điều cấm kỵ

Tuy vậy cô vẫn thường trực trong suy nghĩ của Eragon. Mỗi lần nó nhắm mắt, nó lại thấy Murtagh đánh cô, sau đó những ngón chân phủ vẩy sắc nhọn nắm chặt lấy cô rồi con rồng đỏ bay vào bóng tối. Ký ức đó chỉ khiến Eragon thấy mình thảm hại hơn nhưng lại không thể không nghĩ tới.

Khi cuộc họp kín kết thúc, Eragon ra hiệu cho Roran, Jörmundur, và Arya. Họ theo nó về lều không hỏi lấy một câu. Ở đó Eragon hỏi xin lời khuyên từ họ và bàn kế sách cho ngày mai.

“Hội đồng Bô lão sẽ gây khó khăn cho ngài, tôi chắc chắn,” Jörmundur nói. “Họ không coi ngài có kinh nghiệm chính trị như Nasuada và họ sẽ tấn công vào điểm đó.” Chiến binh tóc dài bình tĩnh tới đáng ngạc nhiên sau vụ tấn công, quá bình tĩnh đến nỗi Eragon nghi ông đã không còn biết khóc hay giận dữ.

“Tôi không thể,” Eragon nói.

Jörmundur cúi đầu. “Nhưng dù gì ngài cũng phải kiên quyết vào. Tôi có thể giúp ngài, nhưng ngài phải dựa vào chính mình là chính. Nếu ngài để họ gây ảnh hưởng tới quyết định của mình, họ sẽ nghĩ họ là người nắm quyền chỉ huy Varden, chứ không phải ngài.”

Eragon liếc nhìn Arya và Saphira, suy nghĩ.

Không bao giờ được sợ, Saphira nói với mọi người. Không ai có thể thắng được anh ấy khi tôi đang đứng quan sát.

Khi cuộc họp nhỏ thứ hai đi tới hồi kết, Eragon đợi tới khi Arya và Jörmundur ra khỏi lều; sau đó nó nắm vai Roran. “Lúc nãy anh nói đây là cuộc chiến của các vị thần là sao?”

Roran nhìn chăm chăm vào nó. “Ừ anh nói thế... Em và Murtagh và Galbatorix – quá mạnh nên không một người thường nào có thể hạ gục các người. Như vậy thật không đúng. Không công bằng. Nhưng sự thật lại như thế. Bọn anh như đàn kiến dưới gót giày các người. Em có biết bằng một tay em có thể giết bao nhiêu người không?”

“Rất nhiều.”

“Chính xác. Anh mừng vì em chiến đấu với bọn anh, anh mừng vì em là em anh, nhưng anh hy vọng bọn anh không phải dựa dẫm vào Kỵ sĩ, tiên nhân hay bất cứ pháp sư nào để chiến thắng. Không ai nên sống nhờ lòng thương hại của người khác. Không nên. Nó làm thế giới mất cân bằng.”

Sau đó Roran rảo bước ra khỏi lều.

Eragon ngồi xuống võng, cảm thấy như bị thụi vào ngực. Nó ngồi đó, toát mồ hôi suy nghĩ tới khi dòng suy nghĩ của nó buộc nó bật dậy và vội bước ra ngoài.

Khi nó ra khỏi lều, sáu Chim Ưng Đêm nhảy dựng lên, sẵn sàng vũ khí để hộ tống nó tới nơi nó muốn.

Eragon ra hiệu cho họ đứng nguyên vị trí. Nó đã phản đối nhưng Jörmundur khăng khăng bắt buộc các Chim Ưng đêm bảo vệ nó, cùng với Blödhgarm và các thần tiên khác. “Chúng tê không thể không cẩn thân,” ông nói. Eragon không thích có thêm người bám theo nó nhưng nó buộc phải đồng ý.

Đi qua những người bảo vệ, Eragon vội vã tới chỗ Saphira đang nằm cuộn mình trên mặt đất.

Cô em nó mở một mắt khi nó tới gần rồi nâng cánh để nó có thể chui vào gần cái bụng ấm áp của cô nàng. Anh bé, cô em nói, bắt đầu rên rừ rừ nhè nhẹ.

Eragon ngồi sát cô nàng, nghe tiếng rên và tiếng hơi thở nhè nhẹ. Đằng sau đó, cái bụng cô nàng nhô lên và xẹp xuống từ từ.

Lúc nào, sự hiện diện của cô em nó cũng giúp nó bình tĩnh. Nhưng lần này thì không. Đầu óc nó không chịu bình tĩnh, nhịp tim vẫn dồn dập và tay và chân nóng kinh khủng.

Nó giữ cảm xúc cho riêng mình, không muốn làm phiền Saphira. Cô nàng đã mệt sau hai cuộc chiến với Thorn và cô nàng ngủ say, tiếng rên rừ rừ biến mất mà chỉ còn nhịp thở đều đặn.

Những suy nghĩ của Eragon không cho nó được ngủ. Nó liên tục nghĩ tới sự thực không thể thay đổi, không thể chối cãi: nó là chỉ huy quân Varden. Nó, chỉ là một đứa nhỏ nhất trong một gia đình nông dân nghèo, thế mà giờ lại là chỉ huy quân đội lớn thứ hai Alagaësia. Thật không tưởng, như thể định mệnh đang trêu đùa nó, nhử nó vào một cái bẫy có thể hủy diệt nó. Nó không bao giờ muốn và mưu cầu vị trí này, nhưng các sự kiện cứ cuốn nó vào.

Nasuada nghĩ sao lại để mình làm người kế nhiệm chứ? Nó băn khoăn. Nó nhớ những lý do cô đưa ra, nhưng chúng chẳng giải quyết được nghi ngờ của nó. Cô ấy thực sự tin rằng mình có thể ngồi vào vị trí này sao? Sao không chọn Jörmundur? Ông ấy đã ở cùng Varden hàng chục năm, và ông ấy biết nhiều về chỉ huy và các chiến lược.

Eragon nghĩ tới hồi Nasuada chấp nhận liên quân với Urgal dù giữa hai loài tồn tại sự thù địch, và dù Urgal giết bố cô. Mình có làm nổi không? Nó tưởng tượng là không – ít nhất là vào thời điểm đó. Mình có thể đưa ra một quyết định như vậy, nếu chúng là bắt buộc để đánh bại Galbatorix?

Nó không dám chắc.

Nó cố gắng không nghĩ. Nó nhắm mắt, tập trung đếm nhịp thở mười lần một. Khó để chỉ làm mỗi điều này; vài giây lại một ý nghĩ hay một cảm giác khiến nó sợ hay xao lãng, nó lại quên đếm.

Nhưng, theo thời gian, cơ thể nó thả lỏng hơn và nó không nhận ra rằng nó đã lơ mơ ngủ.

Nó nhìn thấy nhiều thứ, vài thừ mờ nhạt và không rõ ràng, vì giấc mơ phản ánh những sự kiện của ngày hôm qua. Những giấc mơ khác khiến nó buồn vui lẫn lộn: những ký ức và những điều nó ước ao.

Sau đó, đột ngột như khi hướng gió thay đổi, giấc mơ của nó gợn sóng và trở nên rắn chắc hơn và thực hơn, như thể đó là những sự vật nó có thể nắm với. Mọi thứ xung quanh nó mờ đi, nó được chứng kiến một thời gian và không gian khác – vừa quen vừa lạ, như thể nó đã từng thấy từ lâu nhưng đã quên.

Eragon mở mắt nhưng hình ảnh vẫn còn đó, cảnh sắc xung quanh mờ mịt. Nó biết giấc mơ không bình thường.

Một cánh đồng tối và cô độc trải trước mắt, bị cắt ngang bởi một dòng sông chảy từ từ về phương đông: một dải lụa bạc sáng lên dưới ánh trăng....Trôi trên dòng sông vô danh đó là một con tàu lớn và kiêu hãnh với mái chèo trắng giơ lên chuẩn bị... Những hành lính cầm chắc cây thương và hai người đội mũ đi giữa họ, như trong một buổi diễu binh cấp nhà nước.... Mùi gỗ cây liễu và cây dương, giác một nỗi buồn man mác... Rồi một tiếng khóc đau khổ, những chiếc vảy ánh lên,những cử động hỗn loạn khó biết đâu với đâu.

Sau đó chỉ còn im lặng và màn đêm.

Eragon nhìn rõ và lại thấy mình đang nhìn vào dưới cánh Saphira. Nó thở ra – giờ nó mới biết nãy giờ mình nín thở - nó dùng bàn tay run run lau nước mắt. Nó không hiểu vì sao giấc mơ lại ảnh hưởng mạnh mẽ tới nó.

Liệu có phải một tiên đoán? Nó nghĩ.Hay một sự việc thực sự xảy ra vào thời điểm này? Và vì sao nó lại quan trọng với mình?

Sau đó, nó không tài nào ngủ lại. Sự lo lắng xuất hiện và sục sạo trong đầu óc nó như một bầy chuột, mỗi vết cắn của nó như khiến đầu óc nó nhiễm độc.

Cuối cùng nó chui ra khỏi cánh Saphira – cố gắng không làm cô em thức giấc – và về lều.

Như lúc trước, những Chim Ưng đen lại đứng lên khi nhìn thấy nó. Chỉ huy của họ, một người đàn ông lực lưỡng mũi khoằm tiến lên gặp Eragon, “Ngài cần gì thưa khắc tinh của Tà thần?” anh ta hỏi.

Eragon nhớ mang mang tên anh ta là Garven và anh ta đã mất các giác quan sau cuộc kiểm tra của thần tiên. Giờ trông anh đã khỏe lại nhưng ánh mắt vẫn mơ màng. Nhưng Eragon nghĩ anh ta có đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ; nếu không, Jörmundur không bao giờ để anh ta về vị trí.

“không phải lúc này,” Eragon hạ giọng nói. NÓ bước thêm một bước rồi dừng. “Tối nay chúng ta mất bao nhiêu Chim Ưng Đen?”

“Sáu, thưa ngài. Chúng ta sẽ thiếu lực lượng trong vài ngài cho tới khi tìm được người thích hợp. Và chúng ta sẽ cần trợ giúp niều. Chúng tôi muốn tăng gấp đôi lực lượng bảo vệ ngài.” Ánh nhìn đau khổ ánh hưởng tới cái nhìn xa xăm của Garven. “Chúng tôi đã không bảo vệ được tiểu thư, thưa Khắc tinh của Tà thần. Nếu lực lượng đông hơn, có thể chúng tôi đã...”

Người đàn ông lưỡng lự rồi gật đầu, biểu cảm tiều tụy.

Tôi cũng không bảo vệ được cô ấy, Eragon nghĩ khi bước vào lều. Nasuada là người nó thề trung thành; nó có nhiệm vụ bảo vệ cô còn cơn Những Chim Ưng Đen. Và lúc cô cần nó, nó lại không cứu được cô.

Nó chửi rủa chính mình.

Đáng ra nó phải tìm cách cứu cô, dù có bằng cách nào đi nữa. Nhưng nó cũng biết cô không muốn nó bỏ lại Varden chỉ vì sự an nguy của bản thân cô. Cô thà chịu khổ và chết hơn là để sự vắng mặt của mình ảnh hưởng tới thứ cô đã cống hiến cả cuộc đời.

Eragon lại chửi và bắt đầu đi đi lại lại trong lều.

Mình là chỉ huy của Varden.

Giờ khi Nasuda đã đi, Eragon mới nhận ra Nasuada không chỉ là nó thề trung thành và là chỉ huy của nó; cô là bạn nó, nó cảm thấy cần bảo vệ cô y như cảm giác đối với Arya. Nhưng nếu nó cố đi cứu cô, nó sẽ khiến Varden thua trận.

Mình là chỉ huy của Varden.

Nó nghĩ tới những người nó phải chịu tránh nhiệm: Roran và Katrina và những dân làng Carvahall; hàng trăm người lính nó đã sát cánh chiến đấu; và rất nhiều; những người lùn; ma mèo và kể cả Urgal. Giờ tất cả đều dưới sự chỉ huy của nó, và nó buộc phải đưa ra những quyết định sáng suốt để đánh bại Galbatorix và Triều đình.

Nhịp tim của Eragon tăng cao khiến nó nổ đom đóm mắt. Nó dừng đi lại và nắm chặt lấy cái cột giữa lều, sau đó lau mồ hôi trên lông mày và môi trên.

Nó ước nó có ai để cùng nói chuyện. Nó định đánh thức Saphira nhưng lại thôi. Giấc ngủ của cô nàng quan trọng hơn việc lắng nghe nó phàn nàn. Nó không muốn Arya hay Glaedr phải nặng gánh vì những vấn đề họ không thể giải quyết. Hơn nữa, sau cuộc nói chuyện gai góc lần trước, nó không nghĩ Glaedr sẽ thông cảm với nó.

Eragon đi theo nhịp: ba bước tiến, quay lại, ba bước tiến, quay lại.

Nó đã đánh mất thăt lưng Beloth Khôn ngoan. Nó đã trơ mắt nhìn Murtagh và Thorn bắt cóc Nasuada. Và giờ nó chỉ huy Varden.

Những suy nghĩ đó cứ chạy trong đầu óc nó, và càng lúc nó càng căng thẳng. Nó cảm thấy như nó kẹt trong mê cung không lối thoát và mỗi lần quặt vào một ngã rẽ nó lại đụng phải một con quái vật. Dù nó có nói gì trong buổi họp cùng Orik, Orin và những người khác, nó vẫn không thấy được bằng cách nào nó, Varden và quân đồng minh có thể đánh bại Galbatorix.

Mình thậm chí chẳng cứu được Nasuada kể cả khi tự do đuổi theo cô. Nó thấy chua sót. Nó vô vọng. Sao chúng ta lại gặp chuyện này? Nó chửi thề và cắn môi trong tới khi đau không chịu nổi.

Nó dừng đi lại và nằm xuống đất, kê tay sau gáy. “Không thể, không thể,” nó thì thầm và kéo người chạm đầu gối. “Không thể.”

Trong cơn tuyệt vọng, Eragon nghĩ tới việc cầu xin sự giúp đỡ của vị thần người lùn Gûntera, như nó từng làm. Đặt vấn đề của mình dưới chân một đấng vĩ đại hơn nó và tin gửi gắm định mệnh của mình vào ngài có thể là một sự giải thoát. Làm vậy sẽ giúp nó chấp nhận số phận tốt hơn – cũng như số phận của những người nó yêu thương – vì nó sẽ không còn trực tiếp chịu trách nhiệm cho bất cứ chuyện gì xảy ra.

Nhưng nó không tài nào cầu khấn nổi. Nó phải chịu trách nhiệm cho số mệnh của họ, dù có thích hay không, và nó thấy bản thân sai khi giao trách nhiệm của mình cho người khác, kể cả đó có là thần thánh – hay ý tưởng của thần thánh.

Vấn đề là nó không biết nên làm gì. Nó có thể chỉ huy Varden; cái đo thì nó chắc. Nhưng sao nó có thể chiếm Urû’baen và giết Galbatorix thì nó không biết. Nó không thể chống lại Murtagh, kém hơn lão bạo chúa rất nhiều. Nó không thể chọc thủng lưới phòng hộ tư tưởng của chúng. Nắm giữ tư tưởng của họ, hoặc ít nhất chỉ của Galbatorix là hoàn toàn không thể rồi.

Eragon ấn ngón tay vào gáy mà gãi trong khi suy nghĩ mông lung mọi khả năng.

Sau đó nó nghĩ tới lời khuyên mà Solembum đã nói với nó rất lâu rồi, hồi còn ở Teirm. Ma mèo đã nói, Tới thời điểm mi cần một vũ khí, hãy nhìn xuống gốc cây Menoa. Sau đó khi gần như sức tàn lực kiệt, mi hãy tới trước tảng đá Kuthian, tự xưng tên và cửa linh hồn sẽ mở.

Lời nói liên quan tới cây Menoa đã đúng; dưới gốc Menoa, Eragon đã tìm thấy thép sáng để tạo nên lưỡi kiếm. Giờ khi đang tuyệt vọng Eragon nghĩ tơi câu thứ hai trong lời nói của ma mèo.

Nếu thực sự mình sức tàn lực kiệt,thì chính là lúc này, Eragon nghĩ. Nhưng nó nào biết tảng đá Kuthian và Cửa Linh Hồn ở đâu. Nó đã từng hỏi ông Oromis và Arya, nhưng cả hai chưa bao giờ đưa ra câu trả lời.

Eragon vươn tư tưởng, tìm kiếm đầu óc ma mèo. Solembum, nó nói, tôi cần ngươi giúp! Làm ơn tới lều của tôi.

Sau một lát, nó cảm thấy sự bực tức của ma mèo và nó cắt đứt liên lạc.

Sau đó Eragon ngồi một mình trong bóng tối...chờ đợi.

__________________

NHỮNG MẢNH VỤN, NỬA THẤY NỬA KHÔNG VÀ MƠ HỒ

Sau mười lăm phút, bức trướng cửa lều mở ra và Solembum nhảy vào, đêm móng hạ cánh nhẹ nhàng trên đất.

Con mèo hung bước qua Eragon không thèm nhìn, sau đó nhảy lên võng của nó, yên vị trên chăn và sau đó liếm láp bàn chân phải. Cậu ta không thèm nhìn Eragon mà nói, ta không phải chó cho mi gọi đến thì đến đi thì đi, Eragon.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ thế,” Eragon trả lời. “Nhưng ta cần ngươi, trường hợp khẩn.”

Umm. Tiếng lưỡi Solembum liếm soàn soạt to hơn khi cậu ta tập trung vào bàn chân. Vậy nói đi, Khắc tinh của Tà thần. Mi muốn gì?

“Đợi chút.” Eragon đứng dậy tới cột treo đèn. “Tôi thắp cái này lên đã,” nó cảnh báo cho Solembum. Sau đó Eragon nói bằng ngôn ngữ cổ. Một ngọn lửa sáng lên trên đèn, trong lều tràn ngập thứ ánh sáng ấm áp.

Cả Eragon và Solembum đều nheo mắt khi đợi mắt tiết chế kịp với ánh sáng. Khi ánh sáng không còn khiến họ cảm thấy quá khó chịu, Eragon ngồi xuống cái ghế đẩu, không xa võng là mấy.

Con ma mèo đang dùng ánh mắt xanh lạnh nhìn nó.

“Không phải mắt ngươi có màu khác à?”

Solembum chớp mắt một cái và mắt cậu ta chuyển từ xanh sang vàng. Sau đó cậu ta tiếp tục liếm bàn chân. “Mi muốn gì,Khắc tinh của Tà thần? Tối để làm nhiều việc, không chỉ để ngồi nói chuyện. Cái đuôi cậu ta quật từ bên này sang bên khác.

Eragon liếm mép, hy vọng của nó làm nó lo lắng. “Solembum, ngươi đã nói rằng khi mọi hy vọng không còn và khi ta sức cùng lực kiệt, ta nên tới tảng đá Kuthian và mở Cửa Linh Hồn.”

Con mèo ma dừng liếm chân. À, cái đó.

“Đúng, cái đó. Ta muốn biết ngươi định nói gì. Nếu có gì giúp chúng ta chống lại Galbatorix, ta cần biết ngay bây giờ - không phải sau này, không phải khi ta đã giải được một hai câu đó, mà là bây giờ. Vì thế, ta có thể thấy tảng đá Kuthian và làm sao ta mở được Cửa Linh Hồn, và ta sẽ tìm thấy gì ở đó?”

Cái tai điểm đen của Solembum hơi hướng lên phía trước, móng vuốt co lại đệm chân được một nửa. Ta không biết.

“Ngươi không biết?” Eragon không tin mà kêu lên.

Mi có cần nhắc lại mọi điều ta nói không?

“Sao ngươi lại không biết?”

Ta không biết.

Eragon nhoài người về phía trước, nắm lấy bàn chân to tướng của Solembum. Tai con ma mèo cụp lại, nó rít lên và cong móng, châm móng vuốt vào lòng bàn tay Eragon. Eragon cười và bỏ qua cơn đau. Con ma mèo khỏe hơn nó tưởng, đủ khiến nó ngã khỏi ghế.

“Không thêm một câu đố nào nữa,” Eragon nói. “Ta cần sự thật, Solembum. Ngươi biết thông tin đó từ đâu và nó có nghĩa gì?”

Lông trên xương sống Solembum dựng đứng. Thi thoảng các câu đố là sự thật, đồ người đầu gạch. Giờ thả ta ra không ta xé nát mặt mi và đem ruột mi cho quạ ăn đấy.

Eragon vẫn nắm một lúc lâu hơn, sau đó thả bàn chân Solembum ra và ngả về sau. Nó nắm chặt tay nén đau và để máu ngừng chảy.

Solembum nhìn nó, tất cả sự thờ ơ đều không còn. Ta nói ta không biết vì, dù cho mi nghĩ gì, thì ta thật sự không biết. Ta không biết đá Kuthian ở đâu và làm sao mi mở được Cổng Linh Hồn hay cổng đó chứa cái gì.

“Nói bằng ngôn ngữ cổ xem.”

Con ngươi mắt Solembum còn hẹp hơn, nhưng cậu ta vẫn nhắc lại bằng ngôn ngữ của thần tiên. Lúc đó Eragon biết Solembum nói thật.

Eragon có rất nhiều thắc mắc khiến nó không biết bắt đầu từ ddaaua. “Sau ngươi lại biết đến Đá Kuthian?”

Một lần nữa đuôi Solembum lại quật sang hai bên, làm các nếp gấp trên chăn phẳng thớm. Như cũ, ta không biết. Hay ta không nghĩ ra.

“Vậy sao...” Eragon không nói hết vì bối rối.

Ngay sau ngày tàn của thời đại Kỵ sĩ, chúng ta tự nhiên mang một nhận thức rằng, khi nào gặp một Kỵ sĩ mới, người không phục vụ Galbatorix, chúng ta phải nói với người đó điều ta nói với ngươi: về cây Menoa và về tảng đá Kuthian.

“Nhưng thông tin tới từ đâu?”

Miệng Solembum nhăn lại khi nó nhe những chiếc răng tạo ra một nụ cười không thoải mái. Cái đó chúng ta không biết, chỉ có ai hoặc cái gì nói cái đó mới biết nó có nghĩa gì.

“Sao ngươi lại biết?” Eragon hô lên. “Nếu đó là Galbatorix thì sao? Hắn ta có thể đã thử chơi các ngươi. HẮn có thể cố chơi ta và Saphira, để tóm sống chúng ta.”

Không, Solembum nói, móng vuốt cắm sâu vào chăn. Ma mèo không dễ bị lừa như các loài khác. Galbartorix không phải người đứng đằng sau chuyện này. Ta chắc chắn. Ai muốn mi biết thông tin này là ngươi sắp xếp để ngươi tìm được thép sáng tạo ra thanh gươm của ngươi. Liệu Galbatorix có làm thế không?

Eragon nhăn trán. “Các ngươi chưa bao giờ thử tìm xem ai đứng đằng sau sao?”

Có.

“Và?”

Thất bại. Con ma mèo xù lông. Có hai khả năng. Một, trí nhớ của chúng ta chống lại ý muốn của chúng ta và bị điều khiển bởi thực thể đáng ghê tởm nào đó. Hai là, chúng ta đồng ý để thay đổi ký ức, không hiểu vì lý do gì. Có lẽ chúng ta tự mình khống chế ký ức. Ta không thể tin có ai có thể thành công trong việc làm thay đổi trí nhớ của chúng ta. Nếu chỉ là vài người, ta sẽ hiểu. Nhưng đây lại là cả một loài. Không, không có khả năng.

Sao lại tin tưởng ma mèo để giao thông tin này?

Ta đoán là vì, chúng ta luôn là bạn của Kỵ sĩ và bạn của rồng... Chúng ta là những kẻ quan sát. Những kẻ lắng nghe. Những kẻ lang thang. Chúng ta một mình du ngoạn tại những nơi tối tăm của thế giới, và chúng ta nhớ thế giới đang thế nào và sẽ thế nào.

Ánh mắt của Solembum chuyển động.Hiểu đi, Eragon. Chúng ta không vui vẻ gì với tình thế này. Chúng ta đã từng tranh luận không biết bao nhiêu lần về thông tin sẽ gây lợi hay hại khi thời điểm đến. Cuối cùng, ta quyết định. Ta quyết định nói cho mi, để mi có được tất cả những giúp đỡ mi cần. Còn ngươi hiểu thế nào là chuyện của ngươi.

“Nhưng tôi phải làm gì?” Eragon nói. “Làm sao tôi tìm được tảng đá Kuthian?”

Cái đó thì ta không thể nói.

“Vậy thì thông tin dùng làm cái gì? Không nghe với nghe rồi chẳng giải quyết được gì.”

Solembum chớp mắt lần nữa. Ta có thể nói cho ngươi nghe cái khác. Có thể chẳng có ý nghĩa gì nhưng có thể sẽ giúp ngươi tìm được đường đi.

“Cái gì?”

Nếu mi im lặng ta sẽ nói. Khi gặp ngươi ở Teirm, ta có một cảm giác rất lạ rằng mi nên có cuốn sách Domia abr Wyrda. Ta mất một thời gian để dàn xếp nhưng ta chính là người đứng sau việc Jeod đưa mi cuốn sách đó. Sau đó ma mèo giơ chân kia lên, và sau một hồi kiểm tra, bắt đầu liếm.

“Trong mấy tháng qua ngươi có thêm cảm giác kỳ lạ nào nữa không?” Eragon hỏi.

CHỉ thích ăn những cây nấm nhỏ màu đỏ, nhưng nó cũng qua nhanh.

Eragon càu nhàu và cúi xuống lấy cuốn sách từ dưới võng ra. Nó nhìn chằm chằm vào cuồn sách bìa da dày trước khi mở tới một trang bất kỳ. Như thường lệ, những con chứ rune chằng chịt khiến nó khó hiểu khi mới liếc qua. Nó phải cố gắng lắm mới dịch được vài từ.

...Nếu tin Taladorous nghĩa là chính những ngọn núi là thành quả của câu thần chú. Điều này, tất nhiên vô lý, vì...

Eragon nhăn mặt vì thất vọng và gập cuốn sách lại. “Ta không có thời gian. Cuốn sách quá to còn ta lại đọc quá chậm. Ta chỉ mới đọc vài chương, và ta không thấy có liên quan gì tới Tảng đá Kuthian và Cửa Linh hồn.”

Solem dán mắt vào nó. Mi có thể nhờ ai đọc cho, nhưng nếu có bí mật ẩn giấu trong Domia abr Wyrda, có lẽ ngươi là người duy nhất tìm ra.

Eragon cưỡng lại ý muốn chửi thề. Nó đứng bật dậy và đi đi lại lại. “SAO ngươi không nói cho ta sớm hơn?”

Ta thấy không quan trọng. Bất cứ lời khuyên nào về cánh cổng hay tảng đá chẳng biết có giúp hay chẳng ích gì, và biết nguồn gốc thông tin – chẳng...thay...đôi...

Gì!

“Nhưng nếu ta biết có gì đó liên quan tới Cổng Linh Hồn, ta sẽ giành nhiều thời gian mà đọc hơn.”

Nhưng ta không biết ngươi cần, Solembum nói. Lưỡi nó thò ra khỏi mieengjj và liếm lên hàng ria. Cuốn sách có thể chẳng nói gì tới Tảng đá Kuthian hay Cổng Linh Hồn. Ai mà biết được? Ngoài ra, mi cũng đã đọc rồi. Liệu nếu ta nói ta có cảm giác thế này thế kia ngươi có chịu đọc thêm không? Hả?

“Có thể không... nhưng ngươi vẫn phải nói chứ.”

Con ma mèo xòe móng và không nói gì.

Eragon nhăn mắt, nắm cuốn sách như muốn xé nó ra. “Cuốn sách này không thể là mọi thứ chúng ta cần. Phải có thông tin gì đó ngươi quên chứ.”

Có nhiều, nhưng ta nghĩ chẳng có cái gì liên quan tới chuyện này.

“Trong tất cả các chuyến du ngoạn ở Alagaësia, kể cả có hay không có đi cùng bà Angela, ngươi chẳng nhẽ chưa bao giờ tìm thấy cái gì giải thích cho bí mật này? Hay kể cả thứ gì đó giúp chúng ta chống lại Galbatorix ư?”

Không phải ta thấy mi sao?

“Không buồn cười đâu,” Eragon nhăn mặt. “Chết tiệt, ngươi phải biết gì chứ.”

Không.

“Vậy thì nghĩ đi! Nếu ta không tìm ra biện pháp chống lại Galbatorix, chúng ta sẽ thua đó Solembum. Chúng ta sẽ thua, hầu hết Varden, kể cả ma m èo, sẽ chết.”

Solembum lại rít lên. Thế ngươi muốn gì ở ta? Ta không thể nghĩ ra nơi giúp ngươi. ĐỌc sách đi.

“Chúng ta sẽ tới Urû’baen trước khi chúng ta tìm ra cuốn sách. Cuốn sách sẽ như không tồn tại.”

Tai Solembum lại cụp xuống. Không phải lỗi của ta.

“Ta không quan tâm. Ta chỉ muốn tìm cách giúp chúng ta không đâm đầu vào chỗ chết. Nghĩ đi! Ngươi phải biết gì nữa chứ!”

Solembum phát ra tiếng gầm gừ nho nhỏ. Ta không biết. Và...

“Ngươi phải biết, nếu không chúng ta tiêu!”

Khi Eragon nói từ đó, nó thấy sự thay đổi trên ma mèo. Tai Solembum từ từ dựng đứng, ria chùng xuống, ánh mắt nhẹ nhàng hơn và mất đi sự cứng rắn. Cùng lúc đó, đầu óc mèo ma như thể trống trỗng không bình thường, như thể trí óc của nó bị đóng băng hoặc móc mất.

Eragon cứng người không hiểu gì.

Sau đó nó cảm thấy Solembum nói, tư tưởng bằng phẳng và không màu như một hồ nước dưới bầu trời ẩm đạm, đầy mây. Chương bốn mươi bảy. Trang ba. BẮt đầu từ khổ thứ hai.

Ánh nhìn của Solembum có thần sắc lại và tai nó về vị trí cũ. Cái gì? Nó hỏi với sự tức giận rõ ràng. Vì sao mi lại nhìn ta chằm chằm?

“Ngươi vừa nói gì?”

Ta nói ta không biết gì nữa. Và rằng...”

“Không, không phải cái đó, cái khác cơ, về chương và trang ấy.”

Đừng đùa. Ta không có nói.

“Có mà.”

Solembum nhìn kỹ nó vài giây. Sau đó, khi đã bình tĩnh, cậu ta nói, Nói cho ta nghe chính xác những gì ngươi nghe, Kỵ sĩ Rồng.

Thế là, Eragon nhắc lại từng từ. Sau khi nó nói xong, con ma mèo im lặng trong một lúc. Ta không nhớ,cậu ta nói.

“Ngươi nghĩ nó nghĩa là sao?”

Nghĩa là chúng ta nên xem trong trang ba chương bốn mươi bảy viết gì.

Eragon lưỡng lự rồi gật đầu và bắt đầu lật trang. Trong lúc đó, nó nhớ lại chương đó viết gì; về sự việc sự tái sinh của các hậu duệ Kỵ sĩ rồng, sau đó là cuộc chiến diễn ra trong thời gian ngắn giữa tiên và người. Eragon đã đọc phần đầu nhưng nó thấy đó chỉ là một cuộc bàn luận khô khan về các hiệp ước và thỏa hiệp. Thế là nó bỏ qua để đọc trong lần khác.

Ngay sau đó, nó tìm thấy trang. Nó dùng đầu ngón tay di chuyển dọc theo các con chữ rune và đọc lớn lên.

...Hòn đảo có khí hậu cực kỳ ôn hoàn so với vùng đất liền ở cùng độ cao. Mùa hè thường mát mẻ và có mưa, mùa đông lại không quá lạnh và không phải chịu ảnh hưởng của các cơn gió lạnh cắt da cắt thịt thổi tới từ rặng Spine. Điều này có nghĩa là mùa màng ở đây cho thu hoạch tốt. Ngoài ra, đất đai ở đây rất tốt và màu mỡ - đất ba dan bồi tụ sau nhiều năm núi lửa phun trào và che phủ mặt đất với lớp bụi dày đặc – và các cánh rừng nhiều các thú vật cho rồng đi săn,bao gồm những loài không tồn tại ở nơi nào khác trên Alagaësia.

Eragon dừng lại. “Chẳng liên quan.”

Đọc tiếp xem.

Eragon nhíu mày tiếp tục đọc đoạn tiếp.

Ở lòng chảo trung tâm Vroengard là nơi các kỵ sĩ xây dựng thành phố cực kỳ nổi tiếng của mình, Doru Araeba.

Doru Araeba! Thành phố duy nhất trong lịch sử được xây dựng làm nơi cư trú cho rồng cũng như người và tiên. Doru Araeba! Nơi của pháp thuật và học hỏi và những bí mật cổ xưa. Doru Araeba! Cái tên mang âm điệu phấn khởi.Thành phố không giống bất cứ thành phố nào trước nó và kể cả sau nó. Nhưng giờ nó đã không còn, bị hủy diệt – bị chôi vùi bởi tên bạo chúa Galbatorix.

Các tòa nhà xây dựng theo phong cách thần tiên – với sự ảnh hưởng của các kỵ sĩ loài người vào vài năm cuối quá trình xây dựng – không dùng đá, cũng không dùng gỗ; các tòa nhà gỗ, rõ ràng không thể chịu nổi những sinh vật với móng vuốt sắc như dao cạo và khả năng thở ra lửa. Tuy nhiên, đặc điểm tuyệt diệu nhất của Doru Araeba là độ lớn. Mỗi con đường đều rộng rãi cho ít nhất hai con rồng đi sánh ngang, phòng và lối vào lướn đủ cho nhiều con rồng ở với đủ kích thước.

Kết quả, Doru Araeba là một thành phố rộng lớn thênh thang, điểm xuyết những tòa nhà to lớn vô cùng, khiến người lùn cũng phải ấn tượng. Những khu vườn và đài phun nước là những thứ quá bình thường trong thành phố, vì các thần tiên vô cùng yêu chuộng thiên nhiên. Ngoài ta còn có rất nhiều những tòa tháp cao vút xen lẫn những đại sảnh và pháo đài của kỵ sĩ rồng.

Trên rặng nui xung quanh thành phố, Kỵ sĩ rồng cho dựng các tháp canh và nhà tổ chim – để canh chừng các đợt tấn công – và các kỵ sĩ và rồng của họ có những hang động cao trên núi, nơi họ sống tách biệt khỏi những người còn lại. NHững con rồng già hơn, lớn tuổi hơn đặc biệt được sắp xếp tách khỏi các con rồng khác, vì chúng thích sống cô độc, trên lòng chào để chúng cất cánh dễ dàng hơn.

Eragon thất vọng dừng đọc. Doru Araeba thực sự thú vị nhưng nó đã đọc những cái khác, chi tiết hơn về thành phố của kỵ sĩ rồng trong thời gian ở Ellesméra. Mà nó cũng không thích ngồi dịch chữ rune nữa.

“Chẳng có tích sự gì,” nó nói và hạ quyển sách xuống. Đừng từ bỏ. Đọc thêm hai trang nữa xem. Nếu sau đó không có gì, mi có thể dừng.

Eragon hít một hơi và đồng ý. Nó chạy ngón tay theo trang cho tới khi tìm thấy chỗ nó vừa dừng và đọc tiếp:

Thành phố có nhiều kỳ quan, từ Đài nước biết hát của Eldimírim tới pháo đài pha lê của Svellhjall hay cây tổ quạ của loài rồng, nhưng hơn cả, tôi tin tưởng kho báu lớn nhất của Doru Araeba là thư viện của nó. Không phải vì đây là một công trình quan trọng – dù thực sự như thế - mà vì qua nhiều thế kỷ, các Kỵ sĩ đã thu thập kho kiến thức quý báu nhất của toàn miền đất. Vào thời điểm thời đại các hiệp sĩ suy vong, trên toàn miền chỉ còn lại ba thư viện– một của Ilirea, một của Ellesméra và một của Tronjheim—và cả tổng số sách trong ba thư viện đó không thể nào sánh bằng thư viện của Doru Araeba.

Thư viện nằm ở phía tây bắc thành phố, gần khu vườn được bao quanh bởi Ngọn tháp xoắn của Moraeta, hay còn được biết tới với cái tên Tảng đá của Kuthian...

Giọng Eragon chết nghẹn trong cổ họng khi nhìn thấy cái tên. Sau một lát, nó đọc tiếp, chậm rãi hơn:

Được biết tới với cái tên, tảng đá Kuthian,nó không xa Thượng viện, nơi các Kỵ sĩ rồng tối cao gặp mặt các vua và nữ hoàng khi họ tới gặp mặt là bao.

Eragon vừa sợ vừa ngưỡng mộ. Một người hoặc cái gì đó đã sắp xếp để nó biết được thông tin này, cũng là người hoặc vật đã giúp nó tìm thép sáng rèn kiếm. Ý nghĩ đó thật đáng sợ và giờ khi Eragon biết mình phải đi đâu, nó lại không chắc nó còn muốn tìm ngọn ngành nữa không.

Nó không biết cái gì đang chờ đợi nó ở Vroengard? Nó sợ phải liều lĩnh, nhất là khi nó có được cơ hội thực hiện điều không tưởng.

__________________

CU HỎI KHÔNG LỜI ĐÁP

Eragon tìm kiếm trong cả cuốn Domia abr Wyrda cho tới khi tìm được phần nói về Kuthian ở chương mười hai. Nhưn nó chỉ thất vọng vì cả chương chỉ nói rằng Kuthian là tên một trong những Kỵ sĩ đầu tiên tìm ra đảo Vroengard.

Sau đó nó gấp sách và ngôi chăm chăm nhìn vào nó, đấm thùm thụp lên lưng. Trên võng, Solembum cũng giữ yên lặng.

“Ngươi có nghĩ trong Cổng Linh Hồn chứa linh hồn không?” Eragon hỏi.

Linh hồn này không phải linh hồn người chết.

“Không phải thì là gì?”

Solembum nhoài người dậy và duỗi thẳng người từ đầu tới đâu. Nếu mi tìm ra, ta sẽ có hứng nghe xem nó là gì.

“Vậy ngươi có nghĩ ta và Saphira nên đi không?”

Ta không thể nói cho ngươi biết ngươi nên làm gì. Nếu đây là cái bẫy, thì toàn bộ giống loài chúng ta sẽ tuyệt diệt trong tích tắc. Ngoài ra lúc đó quân Varden cũng phải đầu hàng rồi nên không ai có thể hạ bệ Galbatorix. Nếu không phải thì đây có thể là cơ hội để tìm được một lực lượng trợ giúp mà chúng ta không ngờ tới. Mi phải tự quyết xem có nên không. Về phần ta, ta nắm giữ đủ thứ trong bí mật này rồi.

Cậu ta nhảy khỏi võng và đi về phía cửa lều, rồi dừng lại nhìn Eragon. Có rất nhiều những thế lực kỳ lạ ở Alagaësia, Khắc tinh của Tà thần. Ta đã thấy những thứ đi ngược với niềm tin thông thường: cơn lốc ánh sáng quay vòng trong những hang động ẩn sâu trong lòng đất, đá biết nói, bóng người biết đi. Các căn phòng vào bên trong lớn hơn bên ngoài... Galbatorix không phải thế lực duy nhất và thậm chí không phải kẻ mạnh nhất. Hãy chọn cẩn thận, Khắc tinh của Tà thần, và nếu ngươi chọn ra đi, hãy ra đi trong im lặng.

Sau đó, ma mèo chui ra khỏi lều và biến vào bóng đêm

Eragon thở một hơi và ngửa người ra sau. Nó biết nó phải làm gì; nó phải tới Vroegard. Nhưng nó không thể quyết định mà không tham khảo ý kiến Saphira.

Với một tiếng động nhỏ phát tới tư tưởng Saphira, nó đánh thức cô em dậy. Một khi nó làm cô nàng yên lòng rằng không có gì bất ổn, nó chia sẻ với cô nàng ký ức chuyến thăm của Solembum. Cô nàng cũng vô cùng kinh ngạc.

Khi nó nói xong, cô em nó cất lời, Em không thích ý tưởng có trở thành con rối cho kẻ đã yểm bùa ma mèo.

Anh cũng thế, nhưng chúng ta còn lựa chọn nào đâu? Nếu Galbatorix nhúng tay vào, vậy thì chúng ta đang tự mình dâng mình lên miệng hắn. Nếu nếu chúng ta ở lại, chúng ta cũng đang làm y như thế, ngay khi chúng ta tới Urû’baen.

Khác biệt ở đây là, chúng ta còn có quân Varden và các thần tiên.

Đúng.

Họ im lặng một lúc lâu. Sau đó Saphira nói, Em đồng ý. Em đồng ý là chúng ta phải đi. Chúng ta cần móng vuốt dài hơn và răng sắc hơn nếu chúng ta muốn đánh bại Galbatorix và Shruikan cùng Murtagh và Thorn. Hơn nữa, Galbatorix nghĩ chúng ta sẽ thẳng tiến tới Urû’baen để cứu Nasuada. Nếu có điều gì đó làm em ngứa vảy, đó là làm theo điều kẻ địch đã tiên liệu.

Eragon gật đầu. Nếu đây là bây thì sao?

Một tiếng gầm nho nhỏ phát ra ngoài lều. Vậy thì chúng ta sẽ dạy cho kẻ chơi khăm chúng ta biết sợ danh tính chúng ta, kể cho kẻ đó có là Galbatorix.

Nó mỉm cười. Lần đầu tiên kể từ khi Nasuada bị bắt nó thấy được phương hướng. Họ có thể làm được chuyện gì đó – một thứ sẽ ảnh hưởng tới các sự kiện trong tương lai, thay vì ngồi chờ đợi thụ động. “Vậy thì chúng ta sẽ đi,” nó lẩm bẩm.

Arya tới lều nó vài giây sau khi nó liên lạc với nàng. Tốc độ của nàng khiến nó choáng váng cho tới khi nàng giải thích rằng nàng cùng Blödhgarm và các thần tiên khác đang đứng ngoài canhh gác phòng Murtagh và Thorn trở lại.

Với nàng ở đó, Eragon vươn tư tưởng tới Glaedr và mời ông nói chuyện, dù thật ra rồng vàng chẳng hứng thú gì.

Một khi bốn người bọn họ, bao gồm cả Saphira cùng giao nhập tư tưởng, Eragon cuối cùng bật miệng nói, Tôi biết Tảng đá Kuthian ở đâu!

Đá gì? Glaedr trầm rền nói, giọng chua chát.

Cái tên nghe quen quen, Arya nói, nhưng tôi không biết nó ở đâu.

Eragon hơi nhíu mày. Cả hai người bọn họ đều đã nghe nói nói về lời khuyên của Solembum. Không thể nào cả hai cùng quên được.

Thế là, Eragon nhắc lại câu chuyện nó gặp Solembum ở Teirm, và nó nói về những cảm giác của ma mèo và đọc cho họ nghe đoạn liên quan từ trong cuốn sách Domia abr Wyrda.

Arya vén tóc ra sau đôi tai nhọn. Nàng nói cả bằng lời lẫn trong tư tưởng, “Chàng nhắc lại tên tảng đá được không?”

“...Ngọn tháp xoắn ốc Moraeta hay tảng đá Kuthian,” Eragon trả lời. Nó lưỡng lự trong nửa giây rồi cũng nói. “Đó là chuyến bay dài, nhưng...”

...nếu tôi và Eragon đi ngay .... Saphira nói.

“..... chúng tôi vó thể tới đó và trở về....”

...trước khi Varden tới Urû’baen. Đây là...

“...cơ hội duy nhất để đi...”

Chúng ta không có thời gian ....

“... để thực hiện chuyến đi nữa đâu.”

Nhưng hai trò định bay tới đâu? Glaedr hỏi.

“Thầy... nói sao?”

ĐÚng như ta nói, con rồng vàng gầm lên, đầu óc tôi đen lại Ngươi lảm nhảm từ nãy tới giờ mà có nói cho cái...vật bí ẩn kia ở đâu đâu.

“Con có nói!” Eragon hoang mang nói. “Ở đảo Vroengard!”

Nói lần cuối, trả lời thẳng vào vấn đề...

Vết hắn trên trán Arya càng sâu. “Nhưng chàng làm gì ở Vroengard?”

“Ta không biết!” Eragon nói, càng lúc càng nóng đầu. Nó bực chuyện ông Glaedr cứ vòng vo mãi về mấy địa điểm; ông rồng dường như cố tình chọc tức nó. “Còn phải xem chúng tôi tìm thấy gì. Một khi tới đó, chúng tôi sẽ cố mở tảng đá Kuthian và tìm xem trong đó chứa đựng bí ẩn gì. Nếu đó là một cái bẫy...” Nó nhún vai. “thì chúng tôi sẽ chiến đấu.”

Biểu hiện trên mặt Arya càng lúc càng khó coi. “Tảng đá Kuthian...Tên có vẻ ấn tượng, nhưng tôi không biết vì sao, nó vọng lên trong trí óc tôi như một bài hát tôi đã từng biết nhưng đã quên rồi.” Nàng lắc đầu và đặt tay lên thái dương. “Giờ không nhớ gì rồi...” Nàng nhìn lên. “Xin lỗi nhé, chúng ta đang nhắc tới đâu thế?”

“Tới Vroengard,” Eragon nhắc từ từ.

“À, đúng... nhưng vì mục đích gì? Mọi người đang cần chàng ở đây, Eragon. Mà dù sao ở Vroengard cũng chẳng còn gì có giá trị.”

ĐÚng, Glaedr nói. Đó là nơi bỏ hoang chết chóc. Sau sự hủy diệt của Doru Araeba, vài người trốn thoát được đã quay lại thứ gì hữu dụng, nhưng Tụi phản đồ đã dọn dẹp sạch sẽ rồi.

Arya gật đầu. “Sao chàng lại nghĩ tới chuyện này nhỉ? Tôi không hiểu sao chàng có thể bỏ mặc Varden vào thời điểm nước sôi lửa bỏng này. Và để làm gì nào? Bay tới một nơi xa xôi của Alagaësia chẳng vì mục đích, nguyên nhân gì?... Tôi nghĩ chàng khá hơn thế... Chàng không thể đi chỉ vì chàng không thích vị trí mới, Eragon.

Eragon tách rời tư tưởng khỏi Arya và Glaedr sau đó ra hiệu cho Saphira làm điều tương tự. Họ không nhớ!... Họ không thể nhớ!

Do phép thuật. Phép thuật nằm sâu bên trong như phép thuật dấu tên những con rồng phản bội Kỵ sĩ.

Nhưng em không quên Tảng đá Kuthian, đúng không?

Tất nhiên là không, tư tưởng cô nàng thoáng xanh màu giận dỗi. Sao em có thể quên khi chúng ta liên kết cực kỳ gần gũi?

Eragon hoa mắt khi cân nhắc những khả năng. Để hiệu quả, câu thần chú sẽ phải xóa bỏ kết ký ức những ai đã biết về tảng đá và ký ức của những ai nghe hoặc đọc về nó sau đó. CÓ nghĩa là... toàn bộ Alagaësia đều bị ếm chú. Không ai có thể thoát nổi.

Trừ chúng ta.

Trừ chúng ta,nó đồng tình. Và me mèo.

Và, có thể, Galbatorix.

Eragon rùng mình; nó cảm giác như những con nhện băng bò trên xương sống nó. Nó kinh ngạc và thấy mình chỉ là một sinh vật nhỏ bé, yêu đuối. Để che phủ đầu óc của thần tiên, người lùn, loài người và cả loài rồng, không khiến cho họ có chút mảy may nghi ngờ là một bài toán quá khó. Nó nghi đây có thể là một đòn phép có chủ tâm; hơn nữa, nó tin câu thần chú này được tạo ra theo bản năng, vì không thể dùng từ ngữ mà tạo ra nổi một câu thần chú phức tạp tới nhường này.

Nó phải biết ai đã làm méo mó tư tưởng của mọi người tại Alagaësia, và lý do. Nếu là Galbatorix thì Eragon sợ rằng Solembum đã suy luận đúng và quân Varden không có nửa cơ hội chiến thắng.

Em có nghĩ đây là tác phẩm của loài rồng, giống như Xóa tên? Nó hỏi.

Saphira mất lúc lâu mới trả lời. Có lẽ. Nhưng cũng theo như những gì Solembum nói với anh, trên Alagaësia có rất nhiều thế lực. CHỉ khi tới Vroengard chúng ta mới biết được rõ ràng.

Nếu chúng ta tới được.

Đúng.

Eragon vuốt tóc. Nó đột nhiên cảm thấy mệt mỏi vô cùng. VÌ sao mọi chuyện phải khó khăn đến thế? Nó băn khoăn.

Vì, Saphira nói, ai cũng muốn ăn nhưng không ai muốn bị ăn.

Nó khụt khịt có chút phấn khởi.

Dù cuộc nói chuyện giữa nó và Saphira rất ngắn nhưng cũng đủ khiến Arya và Glaedr để ý,

“Sao chàng đóng tâm tưởng với chúng tôi?” Arya hỏi. ÁNh mắt nàng nhìn mông lung trên một bên vải bạt lều – gần chỗ Saphira nằm trong bóng tối. “Có gì không đúng sao?”

Có vẻ trò bị rối loạn đầu óc rồi, Glaedr nói thêm.

Eragon cười không thành tiếng. “Có lẽ vì con đang thế.” Arya nhìn nó lo lắng khi nó bước tới võng và ngồi xuống. Nó đặt tay vào giữa hai chân. Nó im lặng trong một lúc để chuyển từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng nói của thần tiên và phép thuật, “Hai người có tin Saphira và tôi không.”

Sau một hồi ngắn ngủi Arya trả lời, “Có,” bằng ngôn ngữ cổ.

Ta cũng vậy, Glaedr trả lời tương tự.

Anh nói hay em nói? Eragon hỏi qua Saphira.

Anh muốn nói thì nói đi.

Eragon ngước nhìn Arya. Sau đó, vẫn bằng ngôn ngữ cổ nó nói với cả Arya và Glaedr, “Solembum nói cho tôi nghe tên địa điểm, một địa điểm ở Vroengard, nơi Saphira và tôi có thể tìm thấy một người hoặc vật gì đó giúp chúng ta đánh bại Galbatorix. Nhưng, cái tên đó bị yểm bùa. Mỗi lần tôi nói ra tên đó, mọi người sẽ quên ngay.” Arya có chút choáng váng. “Hai người tin tôi không?”

“Tôi tin chàng,” Arya chậm rãi đáp.

Ta tin rằng trò tin vào điều trò nói, Glaedr gầm nên. Nhưng thực sự không cần làm vậy.

“Vậy con chứng minh kiểu gì? Người không nhớ nếu con nói tên hay chia sẻ ký ức với người. Người có thể hỏi Solembum, nhưng sau đó, để làm gì?”

Để làm gì à? Thứ nhất, chúng ta có thể biết con không bị lừa hay bị điều khiển bởi thế lực đứng sau Solembum. Đối với câu thần chú, có thể chúng ta sẽ tìm ra cách biết nó tồn tại. GỌi ma mèo và chúng ta sẽ xem làm thế nào.

Em làm nhé? Eragon hỏi Saphira. Nó nghĩ ma mèo sẽ thích tới vì Saphira gọi hơn.

Một lát sau, nó thấy cô nàng tìm kiếm trong suốt doanh trại, rồi cảm nhận tư tưởng của Solembum chạm tới Saphira. Một lát sau, cô nàng và ma mèo trao đổi gì đó rồi Saphira tuyên bố, Cậu ta đang tới.

Họ im lặng chờ đợi, Eragon nhìn chăm chăm xuống bàn tay trong khi lập danh sách những thứ cần đến trong cuộc hành trình tới Vroengard.

Khi Solembum vào lều, Eragon ngạc nhiên vì thấy cậu ta ở dạng người: trẻ, mắt đen và trông xấc xược. Ở tay trái, ma mèo cầm chân ngỗng nướng vốn cậu ta đang ngốn ngấu. Mỡ dính đầu môi và cằm, rơi xuống ngực trần của cậu ta.

Khi nhai thịt, solembum hất cái cằm nhọn về chỗ đất chôn tim của tim của Glaedr. Ngài muốn gì, người thở ra lửa?” cậu ta hỏi.

Để biết ngươi có sống đúng những gì ta thấy không! Glaedr nói, và tư tưởng con rồng bao vây lấy Solembum, như một đám mây đen bao lấy một ngọn lửa cháy sáng trong gió. Sức mạnh của con rồng là vô biên, và theo kinh nghiệm cá nhân, Eragon biết rằng rất ít kẻ có thể chịu nổi ông.

Với một tiếng ngao trong miệng, Solembum há mồm đầy thịt và giật lùi lại như thể dẫm phải một con rắn độc. Cậu ta đứng nguyên tại chỗ, sau đó run lên, răng nhe ra và sự giận dữ hiện lên trên con mắt vàng. Eragon phải đặt tay lên Brisingr phòng trường hợp xấu. Ngọn lửa lụi nhưng vẫn còn: một ánh sáng trắng nóng giữa một biển mây đen.

Sau một phút, bão tan và mây rút đi, dù không hoàn toàn biến mất.

Xin lỗi nhé, ma mèo, Glaedr nói, nhưng ta muốn biết chắc chắn.

Solembum rít lên, lông tóc dựng ngược như lông nhím. Nếu ông còn có cơ thể, ông già, tôi sẽ cắt đuôi ông ra.

Ngươi, con mèo con nhà ngươi á? Ngươi chỉ gãi ngứa cho ta thôi.

Một lần nữa Solembum lại phun phì phì sau đó quay gót bước ra ngoài, vai nhô lên gần tai.

Đợi đã, Glaedr lên tiếng, Ngươi nói cho Eragon biết cái chỗ ở Vroengard phải không, chỗ bí mật không ai nhớ ra đấy?

Ma mèo dừng lại, không quay người, nó gầm lên và giơ chân ngỗng lên trên đầu vì mất bình tĩnh và khinh bỉ. Đúng.

Và ngươi nó cho hắn nghe trang nào trong Domia abr Wyrda để tìm ra địa điểm đó.

Hình như vậy nhưng tôi không nhớ, và tôi mong dù gì ở Vroengard, nó cũng nhổ râu đốt chân ông.

Cửa ra vào lều phấp phới bay khi Solembum gạt nó sang một bên; sau đó hình dáng nhỏ thó của cậu tan vào bóng tối, như chưa từng xuất hiện.

Eragon đứng lên và, dùng mũi giày đá miếng thịt ăn dở ra khỏi lều.

“Đáng ra người không nên quá thô bạo với cậu ấy,” Arya nói.

Ta không còn lựa chọn khác, Glaedr nói.

“Thật ư? Người có thể hỏi ý cậu ta trước.”

Và cho cậu ta cơ hội chuẩn bị sao? Không, ta làm xong rồi; bỏ qua đi, Arya.

“Tôi không thể. Lòng tự tôn của cậu ta bị tổn thương. Người nên xoa dịu cậu ấy. Không nên để ma mèo trở thành kẻ địch của mình.”

Nếu rồng là kẻ thù của cô còn nguy hiểm hơn. Bỏ qua đi, tiên nữ trẻ tuổi.

Eragon lo lắng nhìn Arya. Giọng Glaedr khiến nó lo lắng – nó biết Arya cũng thấy thế - nhưng Eragon không biết phải giải quyết sao.

GIờ, Eragon, con rồng vàng nói, ngươi để ta kiểm tra ký ức cuộc trò chuyện với Solembum chứ?

“Nếu người muốn, nhưng... vì sao ạ? Người sẽ quên ngay thôi.”

Có thể có nhưng cũng có thể không. Chúng ta phải thử mới biết. Glaedr nói với Arya. Tách đầu óc cô ra, đừng để ký ức của Eragon bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của cô.

“Nghe theo người, thưa Tiền bối Glaedr.” Khi Arya nói, tiếng nhạc trong tâm tưởng của nàng càng ngày càng xa. Một lát sau, tiếng hát kỵ lạ biến mất.

Sau đó Glaedr chú ý tới Eragon, Cho ta xem, ông ra lệnh.

Lờ đi sự lo lắng, Eragon nhớ lại lần đầu tiên Solembum tới lều, rồi nó cẩn trọng nhớ lại mọi lời trao đổi giữa hai người sau đó. Tư tưởng của Glaedr hòa chung với Eragon để con rồng có thể cùng trải nghiệm với nó. Đó là một cảm giác không thoải mái; như thể nó và ông rồng là hai hình ảnh khác nhau in lên cùng một mặt của đồng xu.

Khi xong, Glaedr rút khỏi đầu óc Eragon và sau đó nói với Arya. Nếu ta quên, hãy nhắc cho ta rằng ““Andumë và Fíronmas ở trên ngọn đồi đau khổ, da họ trông như thủy tinh.” Cái địa danh ở Vroengard... ta biết nó. Hoặc từng biết. Có gì đó rất quan trọng, cái gì đó... Tư tưởng của con rồng vàng xám xịt trong một giây, như có một lớp sương mù phủ lên ngọn đồi và thung lũng tư tưởng của ông. À? Ông ra lệnh, trở lại thái độ cộc cằn như trước. Chần chừ gì nữa? Cho ta xem những ký ức đi.

”Con làm rồi.”

Ngay khi Glaedr tỏ ra không tin, Arya nói, “Thưa Glaedr, hãy nhớ lại: Andumë và Fíronmas ở trên ngọn đồi đau khổ, da họ trông như thủy tinh.’”

Làm sao – Glaedr dợm nói nhưng rồi gầm lớn khiến Eragon thấy như nghe thấy tiếng gầm ngoài đời thực. Ôi. Ta ghét những câu thần chú ám lên ký ức người khác. Chúng là dạng pháp thuật tồi tệ nhất, luôn luôn dẫn tới rối loạn và bối rối. Chúng gây ra một nửa số vụ người thân trong một gia đình chém giết lẫn nhau mà không biết.

Câu người nói có nghĩa gì ạ? Saphira hỏi.

Chẳng có nghĩa gì với mọi người nhưng có ý nghĩa với ta và Oromis. Không ai hiểu trừ khi ta nói.

Arya thở dài. “Vậy câu thần chú có thật. Tôi đoán chàng phải tới Vroengard thôi. Bỏ đi một thứ quan trọng thì thật là ngu ngốc. Chúng ta cần biết ai thao túng chuyện này.”

Ta cũng đi nữa, Glaedr nói. Nếu ai đó muốn làm hại con, chúng không nghĩ mình sẽ phải chiến đấu với hai con rồng thay vì một. Hơn nữa, ngươi cần có hoa tiêu. Vroengard đã trở nên nguy hiểm từ khi thời đại các kỵ sĩ rồng diệt vong, và ta không muốn con làm mồi cho một con quỷ bị lãng quên nào đó.

Eragon lưỡng lự khi thấy sự mong muốn kỳ lạ trong ánh mắt Arya, nó biết nàng cũng muốn đi cùng. “Saphira sẽ bay nhanh hơn nếu chỉ mang theo một người,” nó bình tĩnh nói.

“Tôi biết... chỉ có điều tôi luôn ước ao được tới quê hương của Kỵ sĩ Rồng.”

“Tôi chắc một ngày rồi nàng sẽ tới đó. Một ngày nào đó.”

Nàng gật đầu. “Một ngày nào đó.”

Eragon mất một lúc để kiểm soát lại năng lượng và nhớ lại cần chuẩn bị những gì và sau đó, nó, Saphira và Gleadr có thể lên đường. Nó hít một hơi và đứng lên.

“tướng quân Garven!” nó gọi. “Anh vào đây được không?”

__________________

RA ĐI

Đầu tiên, Eragon nhờ Garven bí mật cử một Chim Ưng đen đi thu xếp vật dụng cần thiết cho cuộc hành trình. Saphira sau khi chiếm Dras – Leona đã đi ăn nhưng cô nàng không ăn nó vì nếu không sẽ bay rất chậm và khó lòng bay cao. Vì thế giờ cô nàng ăn thêm rồi bay một mạch tới Vroengard, nhưng một khi tới đó, Eragon biết cô nangg sẽ sớm phải đi tìm thức ăn trong hoặc xung quanh hòn đảo. Nó rất lo về ván đề này.

Em luôn có thể bay về với cái bụng rỗng, cô nàng an ủi nó nhưng nó không tin.

Tiếp đó, Eragon gửi một người đưa tin tới Jörmundur vàBlödhgarm yêu cầu họ tới lều. Khi họ tới, Eragon, Arya và Saphira dành thêm một tiếng nữa nói cho họ tình hình của mình – lần này còn khó giải thích hơn – rằng chuyến đi này là cần thiết. Họ dễ dàng thuyết phục Blödhgarm nhưng Jörmundur thẳng thừng phản đối. Không phải vì ông nghi ngờ thông tin của Solembum hay vì ông nghi ngờ tính quan trọng của nó – về cả hai vấn đề này ông đều chấp nhận lời của Eragon mà không hỏi gì thêm – nhưng, ông càng lúc càng tranh cãi mạnh hơn về vấn đề này sẽ hủy hoại quân Varden khi họ tỉnh dậy và phát hiện ra không chỉ Nasuada bị bắt cóc mà Eragon và Saphira cũng đã biến đi đâu không biết.

“Hơn nữa, chúng ta không dám để Galbatorix nghĩ rằng hai người đã rời đi,” Jörmundur nói. “Nhất là khi chúng ta đã tới gần Urû’baen. Có thể lão sẽ cử Murtagh và Thorn tới chặn đường ngài. Hoặc lão sẽ lợi dụng cơ hội này để đè bẹp quân Varden một lần và mãi mãi. Chúng ta không thể liều.”

Eragon buộc phải công nhận rằng lo lắng của ông có lý.

Sau khi thảo luận một lúc lâu, cuối cùng họ đi tới giải pháp: Blödhgarm và các thần tiên khác sẽ tạo nên bản sao của Eragon và Saphira, như hồi họ đã tạo ra bản sao Eragon khi nó tới núi Beor để tham gia buổi chọn người kế vị Hrothgar.

Hình ảnh xuất hiện dần trở thành một bản sao sống biết suy nghĩ, biết thở của Eragon và Saphira, nhưng đầu óc chúng trống rỗng, và nếu ai đó tiếp cận đầu óc họ, họ sẽ biết ngay. Vì thế, bản sao của Saphira không biết nói và mặc dù các thần tiên có thể tạo giọng nói cho bản sao Eragon, nhưng cách phát âm kỳ cục sẽ khiến những người nghe phát hiện. Những nhược điểm của bản sao là mọi người chỉ nên thấy chúng từ đằng xa và những người gần gũi với họ - như vua Orrin hay Orik – sẽ mới nhận ra.

Vì thế Eragon ra lệnh cho Garven đánh thức tất cả các Chim Ưng Đêm và cho họ tới gặp nó ngay. Khi toàn bộ đội đã tập hợp trước lều nó, Eragon giải thích cho nhóm người, người lùn và Urgal biết vì sao nó và Saphira phải đi, dù nó chỉ nói mù mờ về chi tiết và giữ bí mật về chuyện nó tới đâu. Sau đó nó giải thích các thần tiên sẽ che giấu sự vắng mặt của chúng như thế nào và nó bắt những người hộ vệ kia thề giữ bí mật bằng ngôn ngữ cổ. Nó tin họ, nhưng cẩn tắc vô áy náy vì biết đâu Galbatorix có cài cắm mật thám ở đây.

Sau đó, Eragon và Arya tới gặp Orrin, Orik và Roran và cả bà phù thủy Trianna. Cũng giống như với đội Chim Ưng Đen. Họ giải thích tình hình và buộc họ thề giữ bí mật.

Đúng như Eragon đoán, vua Orrin là người khó chơi nhất. Ông tỏ ra phẫn nộ trước việc Saphira và Eragon sẽ tới Vroengard và không chấp nhận ý kiến này. Ông nghi ngờ lòng dũng cảm của Eragon, về thông tin của Solembum và đe dọa sẽ rút quân đội khỏi Varden nếu Eragon tiếp tục theo đuổi thứ ngu ngốc không rõ ràng thế. Nó mất một tiếng đe dọa, nịnh nọt ông mới đồng ý, mà cả cho tới sau đó, nó vẫn sợ ông đổi ý.

Chuyến tới thăm Orik, Roran và Trianna ngắn hơn, nhưng Eragon và Arya vẫn phải mất lúc lâu để nói chuyện với họ. Sự mất kiên nhẫn làm nó cộc cằn; nó muốn đi, và mỗi phút trôi qua chỉ làm cho nó thêm khẩn trương.

Saphira vẫn ở lại lều và những tiên nhân bao quanh, tay mở rộng và đầu ngón tay chạm vào khi họ hát. Mục đích của câu thần chú dài và phức tạp của họ là nhằm thu thập những thông tin cần thiết để tạo ra bản sao của Saphira. Tạo ra bản sao một con người hay thần tiên đã khó; một con rồng còn khó hơn, đặc biệt trong việc tạo nên những cái vảy sống động. Blödhgarm đã nói cho Eragon biết phần khó nhất của quá trình là tạo ra cho bản sao có sức nặng ảnh hưởng lên các vật xung quanh khi cất cánh hay hạ cánh như thật.

Khi Eragon và Arya cuối cùng đi thăm mọi người xong, đêm đã gần sang ngày và mắt trời đã lấp ló đằng chân trời. Dưới những tia sáng ban mai, những thiệt hại trong đêm giờ trông nặng nề hơn.

Eragon sẽ rất hạnh phúc được ra đi cùng Saphira và Glaedr, nhưng Jörmundur khăng khăng buộc nó phải ra mặt quân Varden một lần trên cương vị chỉ huy mới.

Thế là, ngay sau đó, một khi tập hợp quân đội, Eragon ngồi đằng sau một xe ngựa, nhìn vào những gương mặt đang hướng lên – người và những giống loài khác – và nó ước gì nó không ở đây.

Eragon đã hỏi xin Roran lời khuyên, và Roran trả lời. “Hãy nhớ, họ không phải kẻ thù của em. Em không phải sợ họ. Họ muốn giống em. Hãy nói rõ ràng, rành mạch, trung thực và dù em làm gì, cũng đừng để họ nghi ngờ em. Thế là em sẽ thắng được họ. Họ sẽ sợ và nản lòng nếu như em nói về Nasuada. Hãy trấn an họ và họ sẽ theo em tới bất cứ đâu ở Urû’baen.”

Dù Roran đã động viên nhưng Eragon vẫn thấy run trước bài phát biểu. Nó ít khi phát biểu trước đám đông, và chưa bao giờ nói với cả một đội quân lớn. Khi nó nhìn những người chiến binh đen sạm vì cháy nắng, bị chiến tranh làm gầy mòn, nó quyết định nó thà đánh nhau với một trăm kẻ địch còn hơn đứng trước mặt họ và lo họ sẽ không ủng hộ mình.

Tới lúc mở miệng Eragon vẫn không biết sẽ nói gì. Khi nó bắt đầu, từ ngữ như thể cứ thế trôi ra nhưng nó quá căng thẳng, không nhớ nổi những gì mình nói. Bài phát biểu trôi qua, ấn tượng còn lại của nó là nóng nực và toát mồ hôi, tiếng rên rỉ của những người lính khi biết tới số phận của Nasuada, tiếng tung hô khi nó cổ vũ họ tới chiên thắng và tiếng hét vang hòa chung vào nhau khi nó kết thúc. Nó nhẹ nhõm nhảy xuống đi tới nơi Arya và Orik đang đứng đợi cạnh Saphira.

Trong lúc đó, những lính bảo hộ của nó hình thành một vòng tròn bao quanh bốn người, tách họ khỏi đám đông và cản những người muốn nói chuyện với nó lại.

“Làm tốt lắm, Eragon!” Orik vỗ tay nói.

“Thật sao?” Eragon hoa mày chóng mặt hỏi.

“Chàng hùng biện giỏi nhất,” Arya nói.

Eragon nhún vai và xấu hổ. Nó nhớ Arya biết hầu hết các chỉ huy của Varden và nó không thể nghĩ tới Ajihad hay người tiền nhiệm của nó, Deynor. Có thể họ phát biểu còn hay hơn.

Orik kéo tay áo nó. Eragon cúi người. Bằng giọng đủ to để lấn át đám đông, Orik nói. “Ta hy vọng cậu sẽ tìm thấy thứ đáng giá trong chuyến đi này, bạn của ta. Cẩn thận đừng bị giết nhé?”

“Tôi sẽ cố.”

Eragon ngạc nhiên vì anh ta kéo tay nó và ôm lấy nó. “Gûntera sẽ bảo vệ cậu.” Khi tách ra, Orik vươn tay vỗ lên người Saphira. “Và cả cô nữa, Saphira. Thượng lộ bình an.”

Saphira rền giọng đáp lại.

Eragon nhìn Arya. Nó tự nhiên thấy lóng ngóng không biết phải nói gì. Đôi mắt đẹp của nàng vẫn dán vào nó; tầm ảnh hưởng của nàng trên nó chưa bao giờ nhạt đi.

Sau đó nàng giữ đầu nó, hôn lên lông mày nó.

Eragon nhìn nàng chăm chăm, tâm trí bay đâu mất.

“Guliä waíse medh ono, Argetlam.” Chúc chàng may mắn, Bàn tay bạc.

Khi nàng thả tay, nó nắm lấy tay nàng. “Chúng tôi sẽ không gặp gì xấu. Tôi sẽ không để nó xảy ra. Dù cho Galbatorix có đợi chúng tôi. Nếu buộc phải làm, tôi sẽ sẵn sàng dùng tay xé toang những ngọn núi, nhưng tôi hứa, chúng tôi sẽ an toàn trở về.”

Trước khi nàng đáp lại, nó thả tay nàng ra và trèo lên lưng Saphira. Đám đông lại hét vang khi nhìn thấy nó lên yên. Nó vẫy tay với họ, họ càng reo hò lớn hơn, dậm chân và dùng chuôi kiếm gõ lên khiên.

Eragon thấy Blödhgarm và các thần tiên khác tụ thành một nhóm, một nửa ở sau lều lớn gần đó. Nó gật đầu với họ và họ cũng gật đầu đáp lại. Kế hoạch rất đơn giản: nó và Saphira sẽ đi như thể họ chỉ định bay lên trời và phóng về vùng đất phía trước – như họ thường làm khi quân đội hành quân – nhưng sau khi bay lượn vài vòng, Saphira sẽ bay lẫn vào những đám mây, và Eragon sẽ niệm chú giấu cô nàng khỏi những người đang quan sát bên dưới. Sau đó, các thần tiên sẽ bóng Eragon và Saphira trong khi họ vẫn tiếp tục cuộc hành trình, trông như thể họ trồi lên từ các đám mây. Hy vọng là không ai nhận ra sự khác biệt.

Eragon ấn chặt chân trên bàn đạp và kiểm tra túi đằng sau để chắc chắn túi đã đậy nắp cẩn thận. Nó đặc biệt quan tâm tới cái túi bên trái, vì có thứ được gói trong đó – lẫn trong đống quần áo và chăn – là cái hộp viền nhung đừng trái tim quý giá của Glaedr, Eldunarí của ông.

Chúng ta đi thôi, ông rồng già nói.

Tới Vroengard! Saphira reo lên và cả thế giới rung lắc xung quanh Eragon khi cô nàng nhảy khỏi mặt đất, một trận gió tạt vào nó khi cô nàng vỗ đôi cánh to tướng trông như cánh dơi, đưa họ lên càng lúc càng cao.

Eragon nắm chặt dây cương phía trước, cúi thấp đầu để tránh hướng gió và nhìn vào bộ yên cương da bóng loáng. Nó hít một hơi sâu và cố không lo lắng về những thứ họ bỏ đằng sau cùng những điều đợi chờ họ phía trước. Họ không thể làm gì khác ngoài chờ đợi – chờ đợi và hy vọng Saphira có thể bay tới Vroengard và trở về trước khi quân Triều đình một lần nữa tấn công Varden; hy vọng Roran và Arya có thể an toàn; hy vọng rằng nó sẽ tìm ra cách cứu Nasuada; và hy vọng tới Vroengard là quyết định chính xác, vì thời gian nó phải đối mặt với Galbatorix càng lúc càng gần.

__________________

ĐAU KHỔ VÌ KHÔNG CHẮC CHẮN

Nasuada mở mắt.

Gạch lát che phủ trần nhà hình vòm tối tăm. Trên đó là họa tiết hình chữ nhật mang màu đỏ, xanh lơ và vàng kim: một ma trận phức tạp những đường kẻ khiến cô bần thần nhìn chăm chú.

Cuối cùng cô cố tập trung để nhìn đi chỗ khác.

Một ánh sáng vàng cam tỏa ra từ đâu đó đằng sau. Ánh sáng đủ mạnh để cô nhìn rõ căn phòng hình bát giác, nhưng lại quá mờ ảo để đẩy lùi bóng tối như sương mù phủ ở các góc phòng.

Cô nuốt nước bọt. Cổ họng cô khô rang.

Cô đang nằm trên mặt sàn lạnh lẽo, trơn nhẵn và cứng đến khó chịu. Cơn lạnh luồn lách trong xương và khiến cô nhận ra cổ chị mặc một chiếc váy ngủ trắng mỏng.

Mình đang ở đâu?

Ý ức tràn về cùng lúc không có cảm xúc hay thứ tự: Một loạt hình ảnh không vui vẻ gì ập vào đầu óc cô khiến đầu óc cô căng ra.

Cô thở hổn hển và cố ngồi thẳng dậy – để chạy trốn hoặc để chiến đấu nếu cô có thể - nhưng cô phát hiện mình không thể di chuyển nổi vài centimet. Cô đeo cùm ở tay và chân, một thắt lưng da ấn chặt đầu cô vào phiến đá, không cho cô ngồi lên hay trở mình.

Cô căng người lên nhưng xích quá chắc khiến cô không thể nào làm đứt nổi.

Cô thở ra và nằm im nhìn lên trần. Nhịp tim đập nện lên tai cô như tiếng trống đánh điên cuồng. Cô nóng người; má cô nóng, tay và chân có cảm giác như bị bôi mỡ.

Vậy là mình sẽ chết thế này đây.

Trong một lúc, sự tuyệt vọng và tự tiếc thương bản thân lấn át lý trí cô. Cô còn chưa đi hết đoạn đầu đời chứ n ói gì tới kết thúc, mà đặc biệt lại theo cái cách kinh tởm nhất thế này. Tệ hơn, cô không còn gì. Không còn kháng chiến, không còn tình yêu, không con cái và không có cả cuộc sống. Đứa con duy nhất của cô chỉ có chiến trận và những xác chết cùng những thứ cần thiết cho nó: quá nhiều mưu kế đến nỗi cô không nhớ nổi; những lời thế vì tình bạn và lòng trung thành giờ chẳng bằng lời hứa của diễn viên kịch câm; và đội quân quá yếu, què quặt và hay cau có được dẫn dắt bởi một Kỵ sĩ còn trẻ hơn cô. Có lẽ sẽ chẳng có nhiều người nhớ tới tên cô. Cô là người duy nhất còn lại trong dòng họ mình. Và khi cô chết, dòng họ cô sẽ tuyệt hậu.

Ý nghĩ đó làm cô đau và cô tự mắng nhiếc mình vì sao không sinh con khi có cơ hội.

“Con xin lỗi,” cô thì thầm, như nhìn thấy gương mặt cha trước mặt.

Sau đó cô phục hồi lại tinh thần và dẹp nỗi tuyệt vọng sang một bên. Cô chỉ tự kiểm soát bản thân mình mới vượt qua nổi tình hình này và cô không định buông xuôi mình gặm nhấm những sự nghi ngờ, nỗi sợ và hối hận. Miễn cô còn làm chủ đầu óc mình, cô sẽ không hoàn toàn vô vọng. Dù chỉ là chút tự do nhỏ nhoi nhất – tự do trong tư tưởng – nhưng thế là đủ, vì cô biết cô sẽ sớm không còn tự do.

Nhưng dù sao cô vẫn còn một nhiệm vụ phải làm: ngăn cản những câu hỏi của chính mình. Cô cẩn kiểm soát bản thân tới phút cuối đời. Nếu không, cô sẽ nhanh chóng bị gục ngã.

Cô thở chậm lại để bình tĩnh vượt qua các cảm xúc khác. Sau đó cô quyết định nên nghĩ về cái gì cho an toàn. Có rất nhiều vấn đề nguy hiểm – cho cô, cho Varden, cho quân đồng minh hoặc cho Eragon và Saphira. Cô không xem xét lại những vấn đề cô cần tránh, có thể sẽ đưa cho kẻ cai ngục ngoài kia thông tin hắn cần. Thay vào đó, cô nghĩ tới những hồi ức và suy tưởng vô hại – tự thuyết phục mình rằng mọi thứ mình đang có, đã có bao gồm những thứ nhỏ bé đó.

Cô cố gắng tạo nên một con người mới và đơn giản hơn để khi bị thẩm gia, cô có thể hoàn toàn tỏ ra ngu ngốc. Đây là một kỹ xảo nguy hiểm; để thành công, cô buộc phải tin cô thực sự như vậy, và nếu cô có ngày tự do, cô sẽ rất khó lấy lại tính cách thật sự của mình.

Nhưng mà cô nào có cơ hội được tự do hay giải cứu. Hy vọng của cô nằm trong tay kẻ bắt giữ cô kìa.

Gokukara, hãy cho con sức mạnh để chịu đựng hoàn cảnh trước mắt. Hãy bảo vệ con cú nhỏ bé của người, và nếu con chết, hãy mang con an toàn rời khỏi nơi này... nang con tới vùng đất của cha con.

Cô nhìn khắp căn phòng lát gạch kỹ lưỡng hơn. Cô đoán đang ở Urû’baen. Murtagh và Thorn chỉ có thể mang cô tới đây và nó giải thích cho phong cách thần tiên của căn phòng; các thần tiên đã xây dựng rất nhiều kiến trúc ở Urû’baen, thành phố họ gọi là Ilirea, hoặc trước khi xảy ra chiến tranh cùng loài rồng – từ rất, rất lâu rồi – hoặc sau khi thành phố trở thành thủ đô của Đế chế Broddring thời các Kỵ sĩ Rồng.

Hoặc như cha cô đã nói. Cô không nhớ gì về thành phố quê hương mình.

Nhưng cô cũng có thể ở một nơi hoàn toàn khác; một trong những dinh cơ riêng của Galbatorix chẳng hạn. Hoặc một căn phòng không có thật. MỘt pháp sư quyền năng có thể tạo ra cho cô mọi thứ cô đang thấy, cảm thấy, nghe thấy, ngửi thấy và làm thế giới xung quanh cô méo mó đi mà cô không hay biết.

Dù chuyên gì đang xảy ra – hoặc dường như xảy ra – cô cũng không được để bản thân bị lừa. Kể cả nếu Eragon xông vào cắt dây trói cho cô, cô cũng vẫn phải tin là trò bịp của kẻ bắt cóc. Cô không dám tin vào các giác quan.

Lúc Murtagh bắt cô khỏi doanh trại, thế giới đã trở nên dối trá và cô không thể biết bao giờ mới hết dối trá. Cô chỉ chắc chắn rằng mình còn sống. Ngoài ra tất cả đều phải nghi ngờ, kể cả suy nghĩ của cô.

Sau khi cú shock lúc đầu qua đi, khoảng thời gian chờ đợi mòn mỏi làm cô mệt mỏi. Cô không biết mấy giờ mà chỉ thấy mình đói khát. Cơn đói cứ tăng dần. Cô thử đếm số để tính giờ nhưng rồi chán và cô luôn quên mình đếm đến đâu khi đếm tới chục ngàn.

Dù cô biết ác mộng đang chờ đợi mình nhưng cô lại mong kẻ bắt cóc sẽ xuất hiện sớm. Cô hét lên mấy phút nhưng chỉ có sự im lặng trả lời cô.

Ánh sáng vàng vọt đằng sau chưa một lần xao động; cô đoán nó giống với ngọn đèn không dùng lửa của người lùn. ÁNh sáng khiến cô khó ngủ nhưng rồi sự kiệt sức chiến thắng. Cô lơ mơ thiếp đi.

Cô sọ nằm mờ. Cô dễ bị giết nhất khi đang ngủ và cô sợ đầu óc không tỉnh táo sẽ tiết lộ những thông tin cô muốn che giấu. Nhưng cô có nhiều lựa chọn đâu. Dù sớm dù muộn, cô vẫn phải ngủ và bắt mình thức chỉ khiến sức khỏe tệ hơn.

Thế là cô ngủ. Nhưng giấc ngủ không sâu và cô vẫn thấy mệt khi tỉnh dậy.

Một tiếng bùm khiến cô giật mình.

Ở đâu đó phía trên và đằng sau, cô nghe có tiếng mở then cửa và tiếng cọt kẹt của cánh cửa mở ra.

Nhịp tim của cô tăng lên. Cô đoán một ngày đã qua từ lúc tỉnh dậy. Cô khát tới khô cô, lưỡi dính lên vòm hongj và toàn bộ cơ thể đau nhừ tử vì nằm một chỗ quá lâu.

Tiếng chân đi xuống cầu thang. Tiếng bốt mềm đi trên đá. Dừng lại. Tiếng kim loại leng keng? Chìa khóa? Dao? Hay cái gì đó kinh khủng hơn?... Rồi tiếng bước chân tiếp tục. Giờ họ đang tới gần cô. Gần hơn... gần hơn.

Cô thấy một gã đàn ông béo tốt mặc áo trấn thủ len xám mang theo một đĩa thức ăn: bơ, bánh mỳ, thịt,, rượu và nước. Hắn dừng lại và đặt đĩa lên bệ tường rồi quay người tiến tới chỗ cô với sải chân ngắn, nhanh và chuẩn xác. Khá thanh lịch.

Gã ta thở khò khè dựa vào tấm ván mà nhìn cô. Đầu hắn giống hình quả bầu: phình trên phình dưới và tóp giữa. Hắn ta mày râu nhẵn nhụi tới mức gần như hói, trờ chút tóc đen, cắt ngắn. TRán gã sáng bóng, cái má nần nẫn thịt hồng hào còn môi xám như màu áo trấn thủ. Ánh mắt gã chẳng có gì đặc biệt: nâu híp.

Hắc tặc lưỡi và cô thấy răng hắn đua ra như bàn cào khiến hắn hắn hơi vổ.

Hơi thở ấm và ấm ướt của hắn hơi mùi gan và tỏi. Cô thấy buồn nôn.

Cô thừa biết mình đang trong tình trạng không một mảnh vải che thân. Cô cảm thấy mình không có sức chống cự giống như một thứ đồ chơi hay thú cưng bày ra đó. GIận dữ và mỉa mai khiến cô nóng má.

Không đợi hắn nói ra, cô cố nói, hỏi lấy nước nhưng cô họng cô khô cháy; cô chỉ có thể kêu trong họng.

Gã mặt đồ xám tặc lưỡi và tháo dây xích dưới sự ngạc nhiên của cô.

Khi vừa được thả ra, cô ngồi thẳng dậy, dùng tay phải như một lưỡi dao đánh vào cổ gã.

Hắn tóm lấy cổ tay cô dường như chẳng tốn sức mấy. Cô gầm gừ và dùng ngón tay kia chọc vào mắt gã.

Hắn lại tóm cổ tay cô. Cô giằng ra nhưng hắn nắm quá chặt ; cổ tay cô như thể bị giam trong đá.

Cô thất vọng ngả người về đằng trước và cắn vào tay hắn. Máu ngập trong mồm cô có mùi mằn mặn và mùi đồng. Cô ngưng thở nhưng vẫn cắn sâu xuống mặc cho máu chảy ra dưới môi. GIữa răng và lưỡi, cô cảm nhận được cơ bắp của gã căng ra xẹp xuống như hàng trăm con rắn đang tìm đường thoát.

Ngoài ra, hắn không phản ứng gì.

Cuối cùng, cô thả tay hắn ra và nhổ máu vào mặt hắn.

Kể cả lúc đó gã vẫn không tỏ thái độ, thậm chí chẳng chớp mắt hay tỏ ra đau hay tức giận.

Cô giằng tay ra lần nữa rồi quăng chân và hông sang đã vào bụng hắn.

Trước khi cô kịp đá trúng đích, hắn thả tay trái cô ra và tát mạnh vào mặt cô.

Cô nổ đom đóm mắt và sự bùng bổ im lặng dường như bùng phát. Mặt cô lệch sang một tên, răng nghiến ken két và cơn đau chạy dọc sống lưng lên tới sọ.

Khi nhìn rõ, cô ngồi nhìn chăm chăm gã nhưng không định tấn công thêm lần nữa. Cô hiểu mạng sống của cô nằm trong tay gã... Cô hiểu cô cần tìm thứ gì đó cắt cổ họng hắn hoặc đâm vào mắt hắn nếu muốn thắng hắn.

Hắn thả tay kia của cô ra và lấy từ trong áo ra một chiếc khăn tay trắng. Hắn lau vết máu và nước bọt trên mặt hắn. Sau đó, hắn buộc khăn tay quanh cánh tay và dùng hàm răng vổ giữ một đầu vài (bẩn)

Cô giật lùi khi hắn vươn tay ra cầm lấy chân cô bằng đôi tay thô kệch. Hắn cái còng xám ra và chân cô chạm đất. Cô như một con búp bê hắn nắm trên tay.

Hắn nhấc bổng cô lên. Lần này, chân cô chạm đất. Hắn giúp cô tới một chiếc cửa nhỏ cô không thể thấy khi nằm. Bên cạnh đó là một cầu thang ngắn dẫn tới căn phòng thứ hai rộng rãi hơn – cùng cánh cửa gã cai ngục vừa bước vào. Ở giữa phòng có một khung sắt đóng chặt nhưng đằng sau nó cô thoáng thấy một bức tranh theo treo trên bức tường đá nhẵn nhụi.

Hắn đẩy cửa mở và dẫn cô vào một căn phòng bí mật hẹp. Cô an tâm vì hắn bỏ cô một mình. Cô tìm trong căn phòng xem có gì dung được làm vũ khí hay để trốn thoát, nhưng chung quanh cô chỉ có bụi, mùn cưa và vệt máu khô.

Thế cô đành làm những gì cần làm và sau khi đi ra khỏi căn phòng, gã đồ xám bóng nhẫy mồ hôi nắm tay cô dẫn về phiến đá xích.

Khi tới gần, cô bắt đầu đấm đá giãy giụa; cô thà bị đau còn hơn để hắn xích cô lại. Nhưng cô không thể nào khiến hắn dừng lại hay chậm bước. Hắn như sắt thép dưới những cú đấm đá của cô.

Hắn xử lý cô dễ dàng như với một đứa bé, hắn nhấc cô đặt tên tấm đá, đè vai cô xuống, xích chân tay cô lại. Cuối cùng, hắn khóa thắt lung trên đầu cô để giữ cô nằm yên nhưng không bị đau.

CÔ mong hắn sẽ đi ăn trưa – hoặc tối hay gì cũng được – nhưng hắn lại mang tới cho cô và đưa cô uống cốc rượu pha nước.

Cô khó lòng uống khi nằm ngửa vì thế cô phải nuốt thật nhanh. Cảm giác rượu trôi xuống họng thật dễ chịu và mát.

Khi cốc rượu đã hết, gã đặt nó sang một bên và cắt bánh mì và bơ rồi giơ trước mặt cô.

“Cái gì…” cô nói, giọng nói cuối cùng cũng trở lại. “Tên anh là gì.”

Gã nhìn cô vô cảm. Cái trán dô của hắn sang bóng dưới ngọn đèn không dùng lửa.

Hắn đẩy bánh mỳ và pho mát trước mặt cô.

“Anh là ai?... Đây là Urû’baen sao? Anh cũng là tù nhân à? CHúng ta có thể giúp nhau. Galbatorix không thể biết tất cả. Chúng ta có thể cùng tìm cách trốn. Tôi thề là dù chuyện này có vẻ không tưởng nhưng chúng ta có thể làm được.” Cô nói nhỏ và bình tĩnh, hy vọng gã sẽ đồng cảm hay hứng thú.

Cô biết cô có khả năng thuyết phục người khác – hàng giờ đại diện của Varden thương lượng đã chứng minh năng lực của cô – nhưng dường như từ ngữ của cô chẳng ảnh hưởng gì tới gã. Ngoại trừ thở, gã như người chết rồi khi chỉ đưa đó chìa bánh mỳ pho mát ra. Cô bỗng nghĩ có khả năng hắn điếc nhưng nhanh chóng loại bỏ vì vừa rồi hắn nghe thấy cô xin nước.

Cô nói hết nước hết cái và khi dừng lại – để tìm cách nói khác – gã đặt bơ và bánh mỳ lên môi cô và giữ nguyên đó. CÔ tức giận buộc hắn bỏ đi, nhưng tay hắn không buông, gã tiếp tục nhìn vào cô bằng vẻ lãnh cảm, vô tình như cũ.

Cô dựng tóc gáy khi nhận ra gã không bị ảnh hưởng; lời nói của cô không là gì với gã. Cô sẽ hiểu nếu gã ghét cô hoặc nếu hắn thích tra tấn cô, hoặc hắn là nô lệ vâng lệnh Galbatorix, nhưng dường như đều không đúng. Hắn khác biệt, thiếu những cảm xúc nhỏ nhất. Cô không nghi ngờ gì rằng hắn sẽ giết cô nếu muốn, như khi một ngươi di chết một con kiến.

Cô thầm chửi rủa, mở miệng và để hắn đặt bánh mỳ pho mát lên đầu lưỡi, dù thực tâm cô muốn cắt đứt ngón tay hắn.

Hắn cho cô ăn. Như một đứa bé. Hắn dùng tay bón thức ăn cẩn thận như thể miệng cô là một khối cầu mỏng manh dễ vỡ.

Một cảm xúc chôn vùi sâu bên trong trào dâng. Cô là lãnh tụ tối cao của đội quân đồng minh lớn nhất trong lịch sử Alagaësia. Nhưng cô là con gái cha cô. Cô đã sống trong cái nóng, cái bụi của Surda, giữa những tiếng rao hàng của lái buôn trong những khu chợ đông đúc. Cô chỉ là thế. Coi không được phép tự kiêu, không được gục ngã.

Nhưng cô ghét gã. Cô ghét mình bị bón ăn trong khi cô tự mình ăn được. Cô ghét rằng Galbatorix, hoặc ai đang quan sát cô, đang cố hạ nhục nhân phẩm của cô. Và cô ghét rằng, ở một mức độ nào đó, họ đã thành công.

Cô quyết định rằng mình sẽ giết gã. Nếu cô còn muốn cái gì trong đời thì đó là mạng sống của gã cai ngục. Ngoài trốn thoát ra, không còn gì có thể cho cô sự hài lòng tương đương. DÙ sao mình cũng phải tìm được cách.

Cô hài lòng và ăn hết phần còn lại.

Khi cô ăn xong, gã cầm cái khay rời đi.

Cô nghe tiếng bước chân hắn tới cánh cửa, đóng cửa và cài then ra đi. Sau đó tiếng bước chân xa dần.

Một lần nữa cô lại một mình, chờ đợi và tìm cách giết người.

Cô lại mất một lúc nhìn những đường kẻ trong hoa văn xem nó kết thúc và bắt đầu từ đâu. Cô chonj đường kẻ màu xanh lơ; màu tượng trưng cho con người cô không dám nghĩ tới.

Sau đó, cô chán và với ý muốn trả thù, cô nhắm mắt lại và ngủ lơ mơ khoảng vài giờ, với những cơn ác mộng ngược đời.

Khi gã đàn ông mặc đồ xám quay lại, cô gần như mừng vì gặp gã. Cô khinh thường bản thân vì cảm xúc này, coi đó là một điểm yếu.

Cô không chắc mình đã đợi bao lâu – sao biết chắc khi không ai nói cho biết – nhưng cô biết hắn tới sớm hơn lần trước. Nhưng, chờ đợi vẫn dài dằng dặc và cô sợ rằng cô bị bỏ lại một mình – nhưng chắc chắn không phải không ai để ý. Cô ghét khi mình mừng vì gã tới thăm cô thường xuyên hơn đã nghĩ. Nằm trên một phiến đá phẳng đã đủ đau đớn rồi, đừng nói là còn không được giao tiếp với bất kỳ sinh vật sống nào – kể cả một kẻ bị thịt và đáng ghét như gã cai ngục này.

Khi gã mở khóa, cô thấy vết thương trên tay hắn đã lành, da hẵn mịn và hồng như da lợn sữa.

Cô kiềm chế không đánh gã nhưng trên đường tới phòng nhỏ, cô giả vờ bị choáng ngã, hòng tới gần đĩa thức ăn cướp con dao nhỏ dùng để cắt thức ăn. Nhưng đĩa quá xa, gã quá nặng cứ lôi cô xềnh xệch khi không biết ý định của cô. Kế hoạch thất bại và cô buộc mình phải bình tĩnh trong suốt quá trình gã chăm sóc cô; cô cần thuyết phục gã rằng cô đã từ bỏ và hắn sẽ lơi là hoặc may mắn hơn, trở nên bất cẩn.

Trong khi gã cho cô ăn, cô quan sát móng tay gã. Lúc trước cô quá tực giận không để ý, nhưng giờ khi bình tĩnh hơn, cô thấy nó khác tường.

MÓng tay hắn dày và khá cong. Chúng nằm sâu trong da và phần da thừa trên móng lớn và rộng. MÓng tay hắn không giống người hay người lùn nào cô từng gặp.

Cô gặp họ lúc nào nhỉ?... Cô không nhớ.

Hắn chăm sóc móng khá cẩn thân. Chăm sóc theo cô là một từ miêu tả đúng, vì móng tay hắn như những cây hoa hiếm được người làm vườn quan tâm hàng giờ liền. Tay hắn không hề bị xước móng rô, móng tay cắt gọn gàng – không quá dài không quá ngắn – và được giữa gọn. Phần móng tay hắn bóng như sứ, lớp da xung quanh như thể bôi dầu hoặc bơ.

Trừ các thần tiên, cô chưa thấy gã đàn ông còn trai nào chăm sóc móng kỹ càng tới mức này.

Thần tiên ư? Cô bỏ qua và phát bực với chính mình. Cô có biết thần tiên nào đâu.

Móng tay là một điều bí ẩn; một thứ tạo hóa ban tặng dễ hiệu như kỳ lạ; một bí ẩn cô muốn khám phá, dù tốn công vô ích.

Cô không biết ai chăm sóc móng. Chính hắn sao? Hắn khá khó chiều và cô không tưởng tưởng nổi có một người vợ, con gái hay người hầu nào có thể gần gũi hắn tới mức giúp hắn chăm sóc cả ngón tay. Tất nhiên, cô nhận thấy cô có thể nhầm. Rất nhiều những thương binh mang vết sẹo chiến tranh – những người lầm lì ít nói dường như tình yêu duy nhất đời chỉ là rượu, gái gú và chiến tranh – lại khiến cô ngạc nhiên vì tích cách trái ngược với vẻ ngoài: thích khắc gỗ, nhớ những bài thơ tĩnh lãng mạn hay làm mọi điều vì gia đình để giúp họ sống yên ổn khỏi phần còn lại của thế giới. Cô phải mất rất nhiều năm mới biết Jör—

Cô quên ngay đi trước khi nghĩ xa hơn.

Lúc nào cũng vậy, trong đầu cô luôn vang lên câu hỏi: vì sao? Cô muốn được biết, kể cả khi đề tài đó là móng tay.

Nếu bộ móng tay này là sản phẩm của ai đó, thì họ hoặc là vì tình yêu hoặc vì sợ hãi mà giúp. Nhưng cô vẫn thấy có gì đó sai.

Nếu, chính gã chăm sóc móng thì nghe còn có lý. Có thể chăm sóc móng là cách gã kiểm soát cuộc đời không còn của gã. Hoặc có thể gã thấy đó là phần cơ thể đẹp duy nhất. Hoặc cũng có thể do thói quen thôi.

Dù thế nào đi nữa vẫn có một sự thực rằng một ai đó đã chăm sóc, bôi dầu, bơ cho móng tay gã không hề lơ đễnh chút nào.

Cô tiếp tục ngẫm nghĩ trong khi ăn. Thi thoảng, cô ngước lên nhìn khuôn mặt nặng bì bì của gã tìm một vài dấu hiệu, nhưng không thành công.

Sau khi đã cho cô ăn xong miếng bánh mỳ cuối cùng, gã bước khỏi phiến đá, cần cái đĩa và đi ra.

Cô nhau và nuốt miếng bánh mì nhanh nhất có thể mà không cần thở; sau đó giọng cô khàn khàn cất lên vì lâu không nói, “MÓng tay anh rất đẹp. Chúng rất...bóng.”

Gã dừng bước và cái đầu to, lù đù của gã quay lại nhìn cô. Trong một chốc, cô nghĩ gã sẽ lại đánh cô nhưng rồi đôi môi xám xịt của hắn mở ra thành một nụ cười, nhe hết hai hàm răng trên và dưới.

Cô kiềm chế cơn rùng mình; gã như thể định cắn đứt đầu một con gà.

Sau đó, vẫn với cảm xúc không bình thường đó, gã đi ra khỏi tầm nhìn cuả cô, và vài giây sau, cô nghe có tiếng cửa mở ra và đóng lại.

Nụ cười nở trên môi cô. Tự hào và thích nịnh bợ là những điểm yếu cô có thể khai thác. Nếu cô chỉ giỏi một chuyện thì đó là bắt người khác phục tùng ý chí của mình. Gã đã chìa cho cô một bàn tay – dù chỉ là đầu ngón tay, hay đúng hơn bằng cái móng tay – thế là đủ. Giờ cô có thể trèo lên.

__________________

CĂN PHÒNG CỦA NHÀ TIÊN TRI

Lần thứ ba gã tới thăm, Nasuada còn đang ngủ. Tiếng cửa đập làm cô giật mình thức giấc, tim đập loạn xạ.

Cô mất vài giây mới nhận ra mình ở đâu. Lúc nhận ra, cô chớp mắt và nhíu mày để nước mắt chảy đi. Cô ước gì mình chùi nước mắt đi được.

Cô càng nhăn trán tợn khi nhìn thấy những chấm bẩn do rượu vẩy lên người trong bữa ăn.

Sao hắn quay lại sớm thế nhỉ?

Tim cô chùng xuống khi hắn bước qua với một lò than.Hắn đặt xuống cách phiến đá một quãng. Trên lò than có ba que sắt dài.

Thời khắc cô sợ hãi cuối cùng cũng tới.

Cô cố nhìn vào mắt hắn nhưng hắn không chịu nhìn cô khi lấy đá lửa và que cời lò trong túi giắt nơi thắt lưng ra và đốt bùi nhùi. ÁNh lửa lóe lên và lan tỏa như một bó dây sáng đỏ. Gã cúi xuống, chu môi thổi lửa, nhẹ nhàng như mẹ hôn con và đốm lửa lòe lên thành ngọn lửa nhỏ.

Hắn nhóm lửa trong vài phút, xếp than thành một lơp dày vài cm, khói tỏa lên trên khung sắt bên trên. Cô cứ thần người quan sát dù biết chuyện gì sắp tới. Cả cô và gã đêu không noisl như thế họ quá xấu hổ vì chuyện sắp xảy ra vì cả hai đều biết đó là chuyện gì.

Hắn nhóm lửa tiếp rồi quay lại như thể tới gần cô.

Đừng nhượng bộ, cô nói với mình.

Cô nắm tay thành quyền và nín thở khi hắn tới gần...gần hơn...gần hơn...

Cơn gió nhẹ thổi qua mặt cô khi hắn đi quá. Cô lắng nghe tiếng chân hắn đi vào in lặng khi hắn lên cầu thang rời khỏi phòng.

Cô thở hắt ra khi thư giãn một chút. Giống như bị nam châm hút,, cô nhìn chăm chăm vào những viên than sáng hồng.

Cô liếm môi và nghĩ tới giờ có chút nước uống thì tốt.

Một viên than nảy lên và nứt đôi nhưng căn phòng vẫn trỗng trải.

Khi nằm đó, không thể chiến đấu hay trốn thoát, cô cố không nghĩ. Nghĩ sẽ làm cô yếu lòng. Chuyện gì xảy ra sẽ xảy ra và dù cô có sợ hay căng thẳng thế nào cũng không thay đổi nổi.

Tiếng bước chân mới vang vọng ngoài hành lang: lần này là một nhóm người, vài người đi theo nhịp, vài người không. Họ cùng nhau tạo nên tiếng vọng vang động khiến cô không thể biết có bao nhiêu người. Tiếng chân dừng lại trước cửa. Cô nghe có tiếng người nói nho nhỏ và sau đó hai tiếng bước chân lạch cạch – cô đoán là hắn đi giày đế cứng – vào phòng.

Cánh cửa đóng sầm lại.

Từ trên cầu thang vang lên bước chân đều đặn và thận trọng. Cô thấy cánh tay ai đó đặt một chiếc ghế gỗ chạm trổ.

Một người đàn ông ngồi lên đó.

Hắn to lớn: không béo nhưng vai rộng. Ông ta khoác một chiếc áo choàng dài đen trông nặng nề như thể áo giáp. Ánh sáng tỏa ra từ than và ngọn đèn không dùng lửa mạ vàng lên vẻ ngoài ông ta nhưng các đường nét vẫn khó nhìn nhận do bóng tối. Nhưng dù sao bóng tôi không thể che đi phần đỉnh đầu nhọn trên lông mày được.

Tim cô lỡ nhịp. Sau đó, cố gắng lắm tim cô mới đập nhanh như cũ.

Người đàn ông thứ hai mặc áo choàng không tay màu nâu sẫm và quần chẽn – thêu chỉ vàng – bước tới bên lò than và đứng quay lưng với cô trong khi dùng que sắt gẫy than.

Người đàn ông trên ghế kéo từng ngón găng tay một. Sau đó, ông ta rút hẳn găng tay ra. Da ông ta mang màu đồng.

Khi ông ta nói, giọng trầm, dầy và đầy uy lực. Bất cứ một nhà thơ nào sở hữu chất giọng ngọt ngào này đều có thể được tôn vinh thành một đại thi hào. Giọng nói này khiến cô sởn gai ốc; từ ngữ dường như dòng nước ấm vỗ lên người cô, vỗ về cô, đánh lạc hướng cô và trói buộc cô. Cô nhận thấy nghe ông ta nói cũng nguy hiểm như nghe Elva nói.

“Chào mừng tới Urû’baen, Nasuada, con gái của Ajihad,” người đàn ông ngồi ghế nói. “Chào mừng tới ngôi nhà của ta, bên dưới những phiến đá lâu đời. Lâu lắm rồi nơi này mới đón chào một vi khách cao quý như cô. Tôi có nhiều nhiệm vụ phải làm nhưng từ giờ trở đi, tôi sẽ không nơi là trách nhiệm chủ nhà.” Nói tới cuối, có chút đe dọa lẩn quất trong giọng nói ông ta, giống như móng vuốt xòe khỏi đệm móng.

Cô chưa bao giờ gặp Galbatorix mà chỉ được nghe tả hay xem các bức chân dung, nhưng ảnh hưởng từ lời nói của người đàn ông này lên cô quá mạnh khiến cô thực sự nghĩ ông ta chính là lão bạo chúa.

Cả âm điệu lẫn cách phát âm của lão đều có cái gì đó của cái khác, như thể ngôn ngữ lão nói không phải ngôn ngữ mẹ đẻ. Giọng lão chỉ hơi khác chút xíu nhưng một khi đã để ý cô nhận ra ngay. Cô đoán có thể ngôn ngữ đã thay đổi trong nhiều năm kể từ khi lão ra đời. Đó dường như là cách giải thích có lý nhất, vì cách nói của lão khiến cô nhớ - Không, không, cô chẳng nhớ cái gì.

Lão nhoài người và cô thấy ánh mắt găm lên người cô.

“Cô trẻ hơn ta tưởng. Ta biết tuổi cô đã trưởng thành nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ mà thôi. Cô giống bất cứ đứa nhỏ nào: hiếu động, tự kiêu, ngốc nghếch không biết đâu là điều tốt nhất cho mình – những đứa nhỏ cần sự hướng dẫn của những người lớn tuổi hơn và khôn ngoan hơn.”

“Như ông?” cô nói bằng giọng khinh miệt.

Cô nghe lão cười khúc khích. “Vậy cô muốn thần tiên cai quản chúng ta ư? Tôi là người duy nhất trong giống loài chúng ta có thể khiến họ tránh xa. Với sự hiểu biết của họ, những bô lão già nhất của chúng ta cũng chỉ là những đứa nhỏ không hiểu chuyện , những người lớn không có trách nhiệm.”

“Theo như quan điểm của họ, ông cũng vậy thôi.” Cô không biết lòng dũng cảm của cô tới từ đâu nhưng cô thấy mạnh mẽ và không sợ hãi. Dù lão bạo chúa có định trừng phạt hay không, cô cũng quyết không để lộ tư tưởng.

“À, nhưng ta đã tích lũy được nhiều kiến thức hơn qua nhiều năm. Ký ức của hàng trăm người giờ là của ta. Cuộc sống chất chồng lên cuộc sống: tình yêu, thù hận, những trận chiến, chiến thắng, thất bại, những bài học, những lỗi lầm – đều năm trong đầu ta, thì thầm những điều khôn ngoan vào tai ta. Ta nhớ những thời đại. TROng toàn bộ lịch sử, không có ai như ta, kể cả trong thần tiên.”

“Sao có thể?” cô thì thầm.

Lão di chuyển trên ghế. “Đừng giả bộ với ta, Nasuada. Ta biết Glaedr trao tim cho Eragon và Saphira, và rằng ông ta ở đó cùng Varden vào thời điểm này. Cô hiểu ta đang nói tới nơi nào.”

Cô sợ. Galbatorix đang sẵn sàng nói chuyện về những thứ đó với cô – lão ta muốn, dù nó sẽ tiết lộ quyền năng của lão ta – khiến cô mất hết hy vọng nhỏ nhoi rằng lão định thả cô.

Sau đó lão dùng găng tay phẩy về căn phòng. “Trước khi bắt đầu, cô nên biết đôi chút về nơi này. Khi các thần tiên lần đầu tiên đặt chân tới miền đất này, họ thấy một khe nứt sâu trong vách núi chạy tới các đồng bằng gần đây. Họ đánh giá vách núi này như một bức tường phòng thủ trước các cuộc tấn công của loài rồng, nhưng vết nứt lại là một cái khác. Ngẫu nhiên họ biết rằng hơi nước bốc ra từ vết nứt sẽ khiến những người ngủ cạnh đó sẽ thấy một chút tương lai. Vì vậy, khoảng trăm trăm năm mươi ngàn năm trước, thần tiên đã xây dựng căn phòng này bên trên vêt nứt và cách đây khoảng vài trăm năm, một nhà tiên tri tới sống nơi đây, ngay sau khi các thần tiên rời khỏi Ilirea. Bà ta ngồi ngay chỗ cô nằm, và bà ta giành hàng thế kỷ để tiên mộng những điều đã và sẽ xảy ra.

“Tới lúc trong không khí không còn thứ hiệu lực đó nữa, nhà tiên tri và những người phục vụ rời đi. Bà ta là ai và đã đi đâu thì không ai biết. Người ta không biết tên bà mà chỉ gọi là NHà tiên tri, và có một số câu chuyện cho ta tin rằng bà ta không phải tiên, người lùn hay một dạng gì hoàn toàn. Có thể, trong thời gian bà ta sống, căn phòng này được gọi là Căn phòng của Nhà tiên tri, và giờ nó vẫn mang tên này. – chỉ có điều giờ đây cô mới là nhà tiên tri, Nasuada, con gái của Ajihad ạ.”

Galbatorix mở rộng cánh tay. “Đây là nơi sự thật được tiết lộ. Ta không tha thứ cho bất cứ kẻ nào dám nói dối trong căn phòng này, dù là lời nói dối nhỏ nhất. Ai nằm trên bàn đá kia sẽ là nhà tiên tri đương nhiệm, và dù nhiều người thấy khó lòng làm nổi nhiệm vụ này nhưng lại chưa ai từ chối nó. Cô cũng không khác.”

Chân ghế kéo lê trên mặt sàn. Sau đó cô cảm thấy hơi thở ấm nóng của Galbatorix bên tai. “Ta biết cái này sẽ làm cô bị tổn thương, Nasuada, đau hơn cô tưởng. Cô sẽ phải thay đổi bản thân trước khi lòng tự trọng của cô cho phép cô phục tùng. Dù ở đâu đi chăng nữa thì chuyện thay đổi bản thân luôn là vấn đề khó nhất. Ta hiểu, vì ta không dưới một lần thay đổi chính mình. Nhưng, ta sẽ ở đây giúp đỡ cô vượt qua lần thay đổi này. Cô nên biết ta sẽ không bao giờ nói dối cô. Không một ai trong chúng ta. Không phải trong căn phòng này. Cô có thể nghi ngờ ta nhưng dần già cô sẽ tin ta. Đối với ta nơi này rất linh thiêng và ta thà cắt đứt tay mình còn hơn báng bổ nó. Cô có thể hỏi bất cứ câu hỏi nào, và ta hứa với cô, Nasuada, con gái của Ajihad rằng ta sẽ trả lời thành thật. Với tư cách vua của vùng đất này, ta thề với cô.”

Cô cắn răng không biết nên trả lời sao. Sau đó, cô nghiến răng nói. “Tôi sẽ không bao giờ nói ông nghe điều ông muốn biết!”

Lão cười trầm vang căn phòn. “Cô hiểu nhầm rồi; ta không mang cô tới đây vì ta cần thông tin. Ta đã biết tất cả. Số lượng và cách sắp xếp quân đội; tình trạng lương thực; vị trí đoàn xe tiếp viện; cô định chiếm thành phố này như thế nào; nhiệm vụ, thói quen và khả năng của Saphira cùng Eragon; thanh Dauthdaert cô có lúc ở Belatona; kể cả quyền năng của cô nhóc – phù thủy Elva mà cô đã giữ lại bên mình tới gần đây – tất cả ta đều biết, thậm chí biết nhiều hơn. Ta có nhiều mật thám hơn cô tưởng tượng và ta còn có nhiều cách khác để thu lượm thông tin. Cô không giấu được gì khỏi mắt ta đâu, Nasuada. Vì thế cô không mở miệng cũng thế thôi.

Từ ngữ của lão như giáng búa lên người cô, nhưng cô vẫn cố không để chúng làm cô nhụt chí. :Vậy thì vì sao?”

“Vì sao ta mang cô tới đây ư? Vì, cô gái thân mến ạ, cô có tài chỉ huy, và điều này còn nguy hiểm hơn bất cứ câu thần chú nào. Eragon và cac tiên nhân không hề đe dọa được ta, nhưng cô... cô nguy hiểm theo cách khác. Không có cô, Varden giống như một con bò mù vậy, họ sẽ tức giận và sẽ nhắm mắt xông tới không quan tâm tới gì trên đường. Sau đó, vì sự ngu ngốc của chúng, ta sẽ tóm chúng và hủy diệt chúng.”

“Nhưng hủy diệt Varden không phải lý do ta mang cô tới đây. Không, cô ở đây vì cô đáng để ta chú ý. Cô dũng cảm, mạnh mẽ, tham vọng, và thông minh – những phẩm chất ta đánh giá cao nhất đối với một người hầu cận. Ta mong có cô bên canh, Nasuada, nhưng tư vấn tối coa và chỉ huy quân đội sẽ xây dựng trong bước cuối kế hoạch ta đã lập ra trong gần một thế kỷ. Trên Alagaësia sẽ có một trật tự mới và ta muốn cô nằm trong đó. Từ khi Thập Tam chết, ta đã tìm những người thay thế họ. Cho tới hiện nay, ta vẫn chưa tìm được ai. Durza là một công cụ hữu ích nhưng hắn là một Tà thần, vì thế hắn có một số hạn chế nhất định: hắn không thể duy trì duy nhất một thân xác. Trong tất cả những ứng viên, Murtagh là người đầu tiên tỏ ra có năng lực và là người đầu tiên sống sót qua những thử thách của ta. Cô sẽ là người thứ hai và Eragon là người tiếp theo.”

Nasuada kinh hoàng. Những gì hắn định làm còn kinh khủng hơn cô đoán.

Người đàn ông mặc áo choàng nâu cạnh lò than làm cô giật mình vì dùng que sắt chọc mạnh vào đống than khiến đầu qua sắt chạm vào cả đĩa đồng bên đưới.

Galbatorix tiếp tục nói. “Nếu cô sống, cô sẽ có cơ hội biến mình hoàn hảo hơn khi ở bên Varden. Hãy nghĩ đi! Phục vụ ta, cô sẽ mang lại hòa bình cho toàn bộ Alagaësia, và cô sẽ trở thành nhà xây dựng mang lại làn gió mới.”

“Ta thà để ngàn con rắn độc cắn còn hơn phục vụ ông.” Sau đó cô nhổ nước bọt.

Tiếng cười của lão vọng trong căn phòng lần nữa: âm thanh của một người không sợ gì hết, kể cả cái chết. “Chúng ta xem xem.”

Cô giật mình khi thấy một ngón tay chạm vào khuỷu tay cô. Nó từ từ vẻ một vòng tròn, rồi trượt xuống vết sẹo trên cẳng tay và dừng lại trên phần sẹo. Ngón tay vỗ ba lần trước khi lần xuống vết sẹo kế tiếp, rồi lùi lên, chạy lên chạy xuống như dùng bàn giặt quần áo.

“Cô đã đánh bại đối thủ trong Thách đấu Trường Đao,” Galbatorix nói. “với nhiều vết cắt hơn bất cứ người nào có. Điều nay có nghĩa rằng đầu óc cô cực kỳ mạnh mẽ và sức tưởng tượng phong phú - khiến bất cứ người đàn ông nào phải cúi đầu trước cô. Nhưng, giờ chúng không giúp nổi cô đâu. Ngược lại, chúng là thứ cản trở cô. Mọi người đều có một giới hạn, vấn đề là bao giờ người ta mới đạt được điểm đó. Và cô sẽ đạt được, ta hứa với cô. Sức mạnh của cô sẽ cản trở nhưng không thể xóa bỏ thời khắc đó. Lưới phòng họ cũng không bảo vệ nổi cô dưới sức mạnh của ta. Vậy, sao cô phải đau khổ vô ích chứ? Không ai dám nghi ngờ lòng dũng cảm của cô; cô đã chứng minh cho cả thế giới biết. Giờ nhượng bộ đi. Không có gì là nhục nhã khi chấp nhận điều tất nhiên sẽ tới. Tiếp tục sẽ chỉ khiến cô bị tra tấn chẳng vì lý do gì cả chỉ để dạy dỗ cô. Hãy bỏ qua nhiệm vụ của cô đi và thề trung thành với ta bằng ngôn ngữ cô và chỉ trong một giờ, cô sẽ có hàng tá kẻ hầu người hạ, những xúc lụa và vải hoa Damacus, vô số căn phòng ở và một chỗ ở bàn ăn cùng ta.”

Lão dừng lại đợi cô trả lời, nhưng cô chỉ nhìn chằm chằm vào những đường vẻ trên trần nhà mà không chịu nói.

Trên tay cô, ngón tay tiếp tục di chuyển, từ vết sẹo tới hõm trên cổ tay, nơi động mạch chính chạy qua.

“Được thôi. Cô muốn thế nhé.” Lực ấn trên cổ tay cô biến mất. “Murtagh, tới đây. Đừng bất lịch sự với khách chứ.”

Ôi trời, không phải hắn nữa chứ, cô nghĩ và đột nhiên thấy buồn vô tận.

Người đàn ông bên cạnh lò than bắt đầu quay người lại, và dù hắn đeo mặt nạ bạc che nửa trên khuôn mặt nhưng cô vẫn thấy đó chắc chắn là Murtagh. Đôi mắt hắn ẩn trong bóng tôi, miệng và quai hàm không tỏ rõ biểu hiện gì.

“Không biết sao Murtagh lưỡng lự khi bắt đầu phục vụ ta, nhưng sau đó hắn đã chứng minh mình là một học trò có năng lực nhất. HẮn có tài năng của cha hắn. Đúng không?”

“Vâng, thưa ngài,” Murtagh nói bằng giọng thô cứng.

“Hắn khiến ta ngạc nhiên vì giết chết vua Hrothgar tại Cánh Đồng Cháy. Ta không nghĩ hắn chào đón người bạn cũ nhiệt tình thế nhưng sau đó, Murtagh của chúng ta đã trở nên hoàn toàn tức giận và khát máu. Hắn có thể xé toang cổ họng một Kull bằng tay nếu ta cho hắn cơ hội, và ta đã cho hắn. Không gì sung sướng bằng giết chóc. Đúng không?”

Cơ bắp trên cổ Murtagh căng ra. “Không, thưa ngài.”

Galbatorix cười nhẹ. “Murtagh Vua Sát thủ...tên đó hay đó, sẽ tạo ra một huyền thoại nhưng cậu sẽ không có được nếu không có ta chỉ dẫn.” Sau đó nói với cô. “Từ trước tới giờ ta chưa hề dạy qua hắn nghệ thuật thuyết phục, vì thế hôm nay ta mang hắn tới đây. HẮn có kinh nghiệm với lĩnh vực này nhưng chưa bao giờ thực hành, giờ là lúc hắn cần nắm bắt nó. Vậy còn cách nào hay hơn cách ngồi đây học cùng cô? Dù sao, Murtagh cũng là người thuyết phục ta rằng cô có thể gia nhập thế hệ phụ tá mới của ta.”

Một cảm giác bị phản bội lạ lùng lan tỏa trong cô. Dù chuyện gì xảy ra cô vẫn nghĩ tốt cho Murtagh. Cô muốn hắn giải thích nhưng hắn chỉ đứng im lặng như một người lính gác.

Sau đó nhà vua chỉ lò than và nói đều đều. “Cầm que sắt lên.”

Tay Murtagh co lại thành nắm đấm nhưng không động đậy.

Một từ vang lên trong tai Nasuada như tiếng chuông. Thế giới dường như rung lên, như một người khổng lồ dùng một sợi chỉ buộc vào thế giới và đang rung nó. TROng một lúc, cô tưởng mình đang rơi, không khí trước mặt cô mờ ảo như nước. Dù từ đó mang sức mạnh khủng khiếp nhưng cô lại không thể nhớ nổi thậm chí là nó thuộc về ngôn ngữ nào, vì cô nghe tai này ra tai kia, chỉ còn nhớ nổi về sức ảnh hưởng của nó.

Murtagh rùng mình; sau đó hắn vặn người, cần một trong những que sắt lên. Tia lửa bắn lên không khí, vài vụn lửa rơi xuongs sàn nhưng hạt giống thông rơi ra khỏi quả thông.

Đầu que sắt sáng vàng, khi cô quan sát, nó ngả sang màu cam nâu. Ánh sáng từ thanh kim loại nóng phản chiếu trên chiếc mặt nạ che nửa mặt của Murtagh, dáng người cô in trên đó với đôi chân dài chạy theo những đường nét chạm khắc cong cong trên mặt na che má Murtagh.

Dù bị trói nhưng cô vẫn cố đẩy xích ra khi hắn tới gần.

“Tôi không hiểu,” cô nói với Galbatorix bằng sự bình tĩnh ngụy tạo. “Sao ông không dùng tư tưởng hạ gục tôi?” Cô không muốn lão dùng hình thức này nhưng cô thà tự mình đề phòng đòn tấn công còn hơn phải chịu đau đớn từ khối sắt nung.

“Sẽ có lúc ta dùng nếu cần,” Galbatorix nói. “Nhưng giờ ta thích xem cô dũng cảm thế nào, Nasuada, con gái của Ajihad. Hơn nữa ta không thích kiểm soát đầu óc cô và buộc cô thề trung thành với ta. Ta muốn cô tự mình quyết định.”

“Vì sao?” cô khàn giọng nói.

“Vì ta thích. GIờ, lần cuối, cô đồng ý không?”

“Không bao giờ.”

“Được thôi. Murtagh?”

Thanh sắt hạ xuống, đầu nó như một viên đá hồng ngọc to lớn tỏa sáng.

Cô không cắn được vào cái gì để kìm cơn đâu, vì thế cô hét vàcăn phòng bát giác vọng lên tiếng thét đau đớn của cô tới khi giọng của cô mất đi và bóng tôi che phủ con người cô.

__________________

TRÊN CÁNH RỒNG

Eragon ngửng đầu, hít một hơi sâu cảm thấy sự lo lắng lùi dần.

Ngồi trên lưng rồng không lấy gì làm thoải mái nhưng gần Saphira giúp cả nó và cô em bình tĩnh. Sự vui vẻ đơn giản vì được tiếp xúc cơ thể với nhau giúp chúng được ản ủi theo cách mà ít thứ làm được. Hơn nữa, những âm thanh và chuyển động đều đều của đôi cánh giúp nó bỏ qua những suy nghĩ u ám trong đầu.

Dù chuyến đi của chúng rất gấp gáp và toàn quân Varden đang rơi vào cảnh hiểm nghèo nhưng Eragon lại mừng được rời xa quân đội. Những cuộc chém giết gần đây khiến nó cảm thấy như nó không còn là chính mình.

Từ hội gia nhập Varden ở Feinster, nó đã dành hầu hết thời giand dể chiến đấu hoặc chờ đợi chiến đấu, và nó bắt đầu thấy căng thẳng, đặc biệt sau sự kiện kinh hoàng đẫm máu ở Dras – Leona. Thay mặt Varden, nó đã giết hàng trăm tên lính – vài người trong đó thậm chí còn chẳng động nổi vào sợi lông chân của nó – và dù hành động của nó mang công lý nhưng nó vẫn thấy phiền. Nó không muốn cuộc chiến nào cũng tuyệt vọng và mọi đối thủ đều ngang cơ với mình hoặc giỏi hơn, nhưng đồng thời chém giết quá dễ dàng khiến nó thấy mình giống đồ tể hơn một chiến binh. Nó dần dà tin rằng cái chết là thứ ăn mòng và nó càng gần cái chết nó càng xa rời nhân cách của mình.

Nhưng, một mình cùng Saphira – và cả Glaedr, dù rồng vàng vẫn im lặng từ lúc khởi hành – giúp Eragon trở lại trạng thái bình thường. Nó thấy yên ổn nhất khi ở một mình hoặc trong một nhóm nhỏ, và nó không hề thích ở một thành phố hay thậm chí một doanh trại như của Varden. Không giống phần đông những người khác, nó không ghét hay sợ thiên nhiên hoang dã; vì tại những vùng đất không người luôn tiềm tang sự yên bình và vẻ đẹp không một nhà nghệ thuật nào diễn tả nổi và nó thấy mình sống lại.

Vì thế nó để tiếng đập cánh của Saphira làm nó xao nhãng và trong lúc trời sang, nó quan sát cảnh vật lướt qua.

Từ doanh trại Varden tới bờ hồ Leona, Saphira bay trên làn nước, nhứm về phía tây bắc và bay cao khiên Eragon phải dùng thần chú để chống rét.

Mặt hồ chia thành những khối màu rõ rệt: những con sóng phản chiếu ánh sáng mặt trời lên người Saphira lấp lánh, nơi không có ánh sáng mang mày tối xám. Eragon chưa bao giờ chán ngắm sự thay đổi thường xuyên của ánh sáng: không gì trên thế giới này có thể sánh bằng.

Chim bói cá, sếu, ngỗng, vịt, sáo đá và những loài chim khác thường bay là là trên mặt nước. Hầu hết những con chim không để ý tới Saphira nhưng một số chim bói cá bay lượn theo cô nàng một lúc, chủ yếu vì tò mò hơn sợ hãi. Hai con thậm chí còn lượn lờ trước mặt cô nàng, chỉ cách những chiếc răng dài sắc nhọn có vài chục cm.

Những con chim săn mồi mỏ khoằm, mào vàng làm Eragon nghĩ tới Saphira. SAphira thích chí với cách nhận xét đó, dù thực ra cả về vẻ bề ngoài lẫn kỹ năng săn mồi chúng đều không bằng Saphira.

Bờ sông phía sau họ dang dần biến vào trong đường chân trời tím nhạt, sau đó hoàn toàn khuất dạng. Khoảng hơn nửa tiếng, họ chỉ nhìn thấy những con chim và những đám mây trên trời và làn nước lóng lánh che phủ bề mặt trái đất.

Rồi, phía trước và bên trái họ xuất hiện đường viền xám mờ nhạt của rặng Spine chào đón Eragon. Dù đây không phải những ngọn núi của thời tuổi thơ nó, nhưng chúng vẫn thuộc cùng một dãy, và nhìn thấy chúng làm nó thấy mình không xa nhà lắm.

Rặng núi càng lúc càng gần cho tới khi đỉnh núi đá tuyết phủ xuất hiện trước mặt họ nhưng một bức tường phòng thủ bị thời gian bào mòn. Dọc bên dưới sườn núi xanh đậm là hàng tá những dòng suối chảy róc rách, uốn lượn tới khi hòa vào một hồ lớn dưới chân núi. Sáu ngôi làng gần chân núi, nhưng dưới phép thuật của Eragon, dân làng không hề thấy Saphira khi cô nàng bay qua.

Khi nó nhìn những ngôi làng, nó mới thấy sao chúng nhỏ bé và cô độc đến thế và làng Carvahall nhỏ bé và biệt lập thế nào. So với những thành phố lớn nó từng tới, những ngôi làng trông chẳng hơn vài ngôi nhà lụp xụp, chỉ dành cho những người cùng khổ. Nó biết rất nhiều người trong số họ chưa từng đi xa nơi họ sinh ra vài dặm và sẽ sống cả đời nơi này.

Quả là một sự tồn tại hạn hẹp, nó nghĩ.

Nhưng nó lại nghĩ liệu cứ sống ở một nơi và học tất cả những gì cần thiết có hơn việc nay đây mai đó không. Liệu biết nhiều nhưng chỉ hiểu bề nổi có tốt hơn biết ít nhưng hiểu sâu không?

Nó không chắc. Nó nhớ ông Oromis từng nói với nó rằng nếu ai đó nhìn kỹ sẽ thấy cả thế giới này bắt đầu từ hạt cát nhỏ nhất.

Rặng núi Spine chỉ bằng một mảnh nhỏ so với núi Beor nhưng những đỉnh núi cao dựng đứng vươn lên trên Saphira tới 350m khi cô nàng bay lượn giữa các vách núi, đi theo những hẻm núi và thung lũng phủ bóng tối chia cắt dãy núi. Thi thoảng cô nàng phải bay cao hơn để tránh những khe núi hẹp phủ tuyết. Lúc đó, tầm nhìn của Eragon được mở rộng, nó thấy các ngọn núi rất giống những chiếc răng mọc lên từ lợi là mặt đất nâu.

Khi Saphira đánh võng trên một thung lũng sâu, nó thấy cả đáy một dòng suối chạy lững lờ qua trảng cỏ. Và dọc theo bãi cỏ, nó hình như thoáng thấy mấy ngôi nhà – hoặc có thể là lều; khó mà phân biệt được - ẩn dưới tán lá cây vân sam vẫn mọc nhiều trên núi. Một ánh lửa nhỏ chiếu xuyên qua các cành cây, như một mẩu vàng nhỏ lẫn trong những lớp kim khâu, và nó nghĩ nó thấy một bóng người đốn gỗ bên bờ suối. Trông bóng người đó đồ sộ tới lạ thường, đầu nó quá to so với người.

Anh nghĩ có Urgal.

Đâu? Saphira hỏi,và nó cảm thấy cô nàng đang tò mò.

Ở tráng trống trước mặt đằng sau chúng ta ấy. Nó cho cô nàng xem ký ức vừa qua. Anh ước chúng ta có thời gian quay lại tìm hiểu. Anh muốn xem họ sống ra sao.

Cô nàng khụt khịt. Khói nóng bốc ra từ lỗ mũi rồi bay xuống dưới cổ và sang người nó. Họ sẽ không tử tế với một con rồng và Kỵ sĩ nếu họ hạ cánh không báo trước.

Nó ho hắng và chớp mắt vì nước mặt giàn giụa. Em có phiền không?

Cô nàng không trả lời, nhưng khói bốc ra từ lỗ mũi cô nàng dừng lại, và không khí quanh nó nhanh chóng trở về trạng thái trong lành.

Không lâu sau đó, hình dáng ngọn núi bắt đầu quen thuộc với Eragon, và một khe nứt lớn hiện ra trước khi Saphira và nó nhận ra chúng đang bay ngang qua khe núi dẫn tới Teirm – cùng khe núi nó và ông Brom đã hai lần cưỡi ngựa đi qua. Con đường vẫn y như trong tâm trí nó: nhánh sông chảy về phía tây của sông Toark vẫn chảy nhanh và hung hãn về đại dương xa xôi, mặt nước cuồn cuộn sóng. Con đường gồ ghề nó và ông Brom đi vẫn là con đường mòn bụi bặm chẳng to hơn đường hươu đi là mấy. Nó nghĩ nó thấy cả rặng cây họ dừng lại nghỉ ngơi ăn uống.

Saphira bay về hướng tây và chúi xuống con sông cho tới khi không còn thấy dãy núi mà chỉ còn thấy những cánh đồng ắp nước, từ đó cô nàng đảo hướng về phía bắc. Eragon không hỏi vì sao cô em quyết định bay như vậy; cô nàng chưa bao giờ đánh mất phong thái của mình, kể cả vào những đêm không sao hay khi ở sâu trong Farthen Dûr.

Mặt trời xuống gần đường chân trời khi họ bay qua Spine. Khi hoàng hôn dần phủ lên vùng đất, Eragon tự làm cho mình bận rộn bằng cách nghĩ cách bẫy, giết hoặc lừa Galbatorix. Sau một lúc, Glaedr rời khỏi hòn đảo cô độc của mình và cùng nó tìm cách. Họ dành khoảng một giờ để thảo luận vô số sách lược, sau đó tập tấn công và phòng thủ tâm tưởng. Saphira cũng tham gia bài tập, nhưng ít khi thành công, vì bay khiến cô nàng khó tập trung vào những thứ khác.

Sau đó, Eragon nhìn lên những ngôi sao lạnh lẽo. Rồi nó hỏi Glaedr, Liệu Cổng Linh HỒn có chứa những Eldunarí mà các Kỵ sĩ đã giấu khỏi Galbatorix không?

Không,Glaedr trả lời không chút đắn đo. Không thể. Oromis và ta sẽ biết nếu Vrael lập kế hoạch này. Và nếu có bất cứ Eldunarí còn sót lại tại Vroengard, chúng ta đã tìm thấy khi quay về tìm kiếm trên hòn đảo. Không dễ để che giấu những sinh vật sống đâu.

Vì sao không?

Vì nếu một con nhím có cuộn tròn lại, thì nó cũng không thể nào biến thành vô hình, đúng không? Tư tưởng cũng chẳng có gì khác biệt. Ngươi có thể giấu suy nghĩ không cho những người khác đọc được nhưng sự tồn tại của ngươi vẫn rõ rành rành trước mắt những người rà soát khắp một vùng...

Chắc chắn thầy có thể dùng thần chú để...

Nếu một câu thần chú có thể che mờ các giác quan, chúng ta sẽ biết, vì chúng ta có lập lưới phòng hộ tránh điều đó xảy ra.

THế là, không có Eldunarí, Eragon chán nản kết luận.

Không may là không.

Họ bay trong im lặng tới khi mặt trăng khuyết xuất hiện trên đỉnh núi nham nhở của rặng Spine. Dưới ánh trăng, mặt đất trông như thể rải thiếc, và Eragon tưởng tượng ra rằng đây chính là tác phẩm của người lùn tạc khắc và cất giữ trong một hang động lớn bằng cả Alagaësia.

Eragon có thể cảm nhận sự hài lòng của Glaedr trong chuyến bay. Giống Eragon và Saphira, ông rồng già thích được rời mặt đất, dù chỉ trong một thời gian ngắn, để tự do bay lượn trên bầu trời.

Saphira là người cất tiếng trước. Giữa những tiếng đập cánh chầm chậm, từ từ, cô nói với Glaedr. Kể chuyện cho bọn con nghe đi, Ebrithil.

Con muốn nghe thể loại truyện gì?

Về làm sao người và Oromis bị THập Tam Phản đồ bắt rồi thoát được.

Lúc này, sự hứng thú của Eragon tăng lên. Nó luôn luôn tò mò vì vấn đề này nhưng chưa bao giờ đủ can đảm để hỏi Oromis.

Glaedr im lặng rồi nói, Khi Galbatorix và Morzan trở lại từ miền hoang dã và bắt đầu xử lý những người chống lại chúng, lúc đầu chúng ta không nhận ra mối nguy hiểm tiềm tàng. Tất nhiên chúng ta có lo lắng nhưng nếu biết Tà thần bước chân vào mảnh đất này thì hành động của chúng ta không chỉ dừng lại ở mức đó. Galbatorix không phải Kỵ sĩ đầu tiên điên loạn, dù hắn là người đầu tiên có môn đệ như Morzan. Vì Morzan chúng ta biết mình đang đối diện với mối nguy hiểm như thế nào, nhưng sự thực chỉ hiển hiện vào phút cuối.

Lúc đó, chúng ta không ngờ Galbatorix có thể tụ tập những kẻ đồng lõa hay hắn có ác tâm làm chuyện đó. Chúng ta luôn cho chuyện những kẻ đồng đạo có thể bị những lời đường ngọt chứa độc của Galabatorix dụ dỗ là điều vô lý. Morzan là Kỵ sĩ trẻ, hắn yếu lòng cũng dễ hiểu. Nhưng những Kỵ sĩ trưởng thành thì sao? Chúng tôi chưa bao giờ nghi ngờ lòng trung thành của họ. Chỉ tới khi họ bị dụ dỗ họ mới để lộ ra rằng họ đã bị lòng hận thù và những điểm yếu đánh gục. Vài người trong số đó muốn trả thù cũ; vài người tin rằng, vì có sức mạnh nên Kỵ sĩ và Rồng phải là đấng thống trị Alagaësia; và những kẻ khác, ta sợ phải nói rằng, đơn giản họ chỉ thích có cơ hội xe tan những gì vốn có và tự làm theo những gì mình muốn

Ông rồng già ngừng lại, và Eragon cảm thấy sự hận thù và nỗi buồn từ ngày xa xưa phủ lên tâm trí ông. Sau đó Glaedr tiếp tục: Những sự kiện tại thời điểm đó...hỗn loạn. Chúng ta biến rất ít và những báo cao chúng ta nhận được chỉ toàn là xuất phát từ những lời đồn đãi nên không có tính hữu dụng. Oromis và ta bắt đầu nghi ngờ có gì đó cực kỳ xấu đang xảy ra mà chúng ta không nhận ra. Chúng ta cố thuyết phục vài con rồng và Kỵ sĩ lớn tuổi hơn nhưng họ không đồng ý và bác bỏ mối lo ngại của chúng ta. Họ không ngu ngốc, nhưng nhiều thế kỷ hòa bình đã làm tầm nhìn của họ kém tinh anh và họ không thể thấy rõ thế giới đang biến động quanh họ.

Thất vọng vì không kiếm được thông tin, Oromis và ta rời Ilirea để tự tìm hiểu. Chúng ta đi cùng hai Kỵ sĩ trẻ hơn, cả hai đều là thần tiên và là chiến binh được tôi luyện, vừa trở về từ chuyến do thám phía bắc rặng Spine. Một phần do họ mà chúng ta đã mạo hiểm viễn chinh. Có thể các con nhận ra họ, vì họ là Kialandí và Formora.

“À,” Eragon nói, đột ngột hiểu chuyện.

Đúng. Sau một ngày rưỡi đi lại, chúng ta dừng lại ở Edur Naroch, tòa tháp canh cổ quan sát toàn bộ Cánh rừng Silverwood. Chúng ta không hề biết trước đó Kialandí và Formora đã tới tòa tháp giết chết ba yêu tinh trông giữ cánh rừng. Sau đó, họ đặt bẫy trên những tảng đá bao vòng quanh tòa tháp. Chính bẫy đó đã tóm được chúng ta khi ta đặt móng xuống đất. Đây là một câu thần chú thông minh; Galbatorix đã tự mình dạy cho họ. Chúng ta thèm phòng vệ lại, vì câu thần chú không gây hại cho chúng ta, mà chỉ giữ chân và làm chậm tiến độ của chúng ta, giống như thể chúng ta bị đổ mật lên đầu óc và thân thể. Trong khi chúng ta đừng đó gầm ghè, từng phút trôi qua như từng giây. Kialandí, Formora, và con rồng của họ bay lượn quanh chúng ta còn nhanh hơn chim ruồi; họ chỉ như những mảnh loang loáng tối.

Khi họ sẵn sàng, họ thả chúng ta ra. HỌ đã niệm hàng ta câu thần chú – để giữ chúng ta tại chỗ, khiến chúng ta mù và không cho Oromis nói làm ông ấy khó lòng niệm chú. Một lần nữa, thần chú của họ không làm hại chúng tôi và chúng tôi và vì thế chúng tôi không phòng vệ lại... Lúc có thể, bọn ta tấn công Kialandí, Formora,và con rồng của họ bằng tư tưởng. Chúng ta giằng co hàng giờ và phần thắng thuộc về chúng ta. Kỷ niệm đó....chẳng lấy gì làm vui vẻ. Họ yếu và thiếu kinh nghiệm hơn Oromis và ta, nhưng hai đấu một mà, và họ có trái tim của con rồng Agaravel – họ đã lấy từ Kỵ sĩ bị họ bức hại – và gia tăng sức mạnh. Kết quả là chúng ta phải chầy chật để bảo vệ mình. Chúng ta sau đó phát hiện ra, mục đích của họ là buộc chúng ta giúp Galbatorix và Thập Tam Phản Đồ có thể tiến vào Ilirea mà không bị để ý, sau đó họ có thể đánh úp các Kỵ sĩ và lấy những Eldunarí trong thành phố.

“Vậy sao hai người trốn được?” Eragon hỏi.

Lúc đó, rõ ràng chúng ta không thể thắng nổi họ. Vì thế, Oromis quyết định liều dùng pháp thuật để chúng ta tự do, dù ông ấy biết nó sẽ làm cho Kialandí và Formora dùng pháp thuật phản kích lại. Chúng ta làm vậy vì tuyệt vọng nhưng làm gì còn lựa chọn nào khác.

Vào một lúc, ta không biết kế hoạch của Oromis, ta đã đánh trả hai kẻ tấn công, cố làm bị thương họ. Oromis đợi thời cơ đó. Ông ấy biết Kỵ sĩ hướng dẫn Kialandí và Formora dùng pháp thuật, chính vì thế ông ta quen với cách dùng chú của họ. Vì thế, ông ấy đoán ra Kialandí và Formora sẽ dùng thần chú thế nào, và lỗ hổng trên đòn chú nằm ở đâu.

Oromis chỉ có vài giây để hành động; giây phút ông sử dụng pháp thuật, Kialandí và Formora nhận ra ông định làm gì, họ hoảng loạn bắt đầu dùng thần chú. Oromis phải mất ba lần để bẻ gẫy vòng trói của họ. Ta không thể nói chính xác ông ấy làm thế nào. Ta nghi có khi ông ấy còn chẳng hiểu nữa là. Hiểu theo cách đơn giản nhất, ông ấy di chuyển chúng ta dịch đi một ngón tay từ chỗ chúng ta đang đứng.

Giống như cách Arya đưa quả trứng của con từ Du Weldenvarden tới Spine phải không ạ? Saphira hỏi.

Đúng và không đúng, Glaedr trả lời. Đúng, ông ấy di chuyển chúng ta từ nơi này tới nơi khác bằng dịch chuyển tức thời. Nhưng ông ấy không chỉ di chuyển vị trí mà còn thay đổi da thịt khiến chúng ta không còn là mình. Rất nhiều điểm nhỏ nhất trên cơ thể chúng ta đã thay đổi nhưng không gây ra hậu quả nghiêm trọng, và ông ấy là thế với tất cả các cơ bắp, xương và nội tạng.

Eragon nhíu mày. Câu thần chú đó đòi hỏi sự sắp xếp cao nhất, một đòn vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Nhưng, Eragon có ấn tượng tới đâu nó vẫn không thể đừng hỏi, “Nhưng làm thế nào ạ? Giờ ngài vẫn như cũ mà.”

Có thể như cũ, cũng có thể không. Sự khác biệt của chúng ta trước và sau rất nhỏ, nhưng đủ để làm hỏng đòn phép Kialandí và Formora ếm lên chúng ta.

Vậy họ dùng thần chú gì khi phát hiện ra điều tiền bối Oromis làm? Saphira hỏ

i.

Eragon thấy Glaedr giã cánh xuống như thể ông đã quá mệt mỏi vì đứng một tư thế quá lâu. Thần chú đầu tiên của Formora định giết chúng ta, nhưng lưới phòng vệ của chúng ta đã ngăn lại. Câu thứ hai từ Kialandí … khác. Đó là câu thần chú hắn học từ Galbatorix và lão học từ những linh hồn ác chiếm trụ Durza. Cái này ta biết, vì ta tiếp cận trí óc của Kialandí trong khi hắn đọc thần chú. Đó là một câu thần chú thông minh, xảo quyệt nhằm không cho Oromis sử dụng dòng năng lượng quanh ông ấy, như vậy chúng ta sẽ không dùng pháp thuật được.

“Kialandí có làm vậy với ông không?”

HẮn có thể nhưng hắn sợ câu thần chú sẽ giết ta hoặc ta và trái tim sẽ không còn liên hệ với nhau. Như vậy tạo ra hai bản thể của ta thì làm sao họ chống chịu được. Rồng còn phụ thuộc vào pháp thuật để tồn tại nhiều hơn thần tiên; không có nó chúng ta sẽ chết.

Eragon có thể cảm nhận sự tò mò của Saphira dâng cao. Có thể sao? Liên kết giữa rồng của Eldunarí của rồng có thể ngắt trong khi cơ thể rồng vẫn sống?

Có thể, nhưng đây là câu chuyện khác ta sẽ kể lúc khác.

Saphira im lặng nhưng Eragon thừa biết cô nàng sẽ hỏi lại cơ hội đó sớm nhất có thể.

“Nhưng câu thần chú của Kialandí không ngăn nổi sư phụ Oromis dùng phép đúng không ạ?”

Không hoàn toàn. Đáng ra câu thần chú phải làm được điều đó nhưng khi Kialandí dùng câu thần chú đó thì Oromis di chuyển chúng ta từ nơi này tới nơi khác, chính vì thế ảnh hưởng của nó giảm đi. Nhưng dù sao ông ấy chỉ có thể sử dụng một phần phép thuật nhỏ nhất. Câu thần chú đó để lại di chứng cả đời ông ấy, dù những thầy thuốc giỏi nhất đã cố gắng thế nào.

“Sao lưới phòng hộ không bảo vệ ông ấy?”

Glaedr hình như đang thở dài. Không ai biết. Không ai làm điều này trước đó, Eragon, và trong những người còn sống sót, chỉ có Galbatorix biết bí mật của nó. Phép thuật đó ếm lên tư tưởng Oromis nhưng lại không trực tiếp ảnh hưởng tới ông ấy. Thay vào đó, nó ảnh hưởng lên nguồn năng lượng và liên kết của ông với năng lượng. THần tiên đã nghiên cứu pháp thuật từ lâu nhưng họ cũng không hoàn toàn hiểu các thế giới vật chất và phi vật chất tương tác thế nào. Đó là một câu đố không bao giờ có lời giải. Tuy vậy, hình như các linh hồn hiểu về vật chất và phi vật chất rõ hơn chúng ta, vì họ là đại diện cho cái thứ hai và họ trở thành cái thứ nhất khi ở dạng Tà thần.

Dù sự thật thế nào thì chúng ta cũng biết: Oromis đọc thần chú, chúng ta tự do, nhưng ông ấy đã bị ảnh hưởng quá nặng. Cả đời ông ấy không thể nào dùng một câu thần chú quyền năng tới vậy nữa và từ đó trở đi, thân thế ông ấy rất dễ bị tổn thương. Ông ấy rất dễ bị giết. Điểm yếu này đã tồn tại khi Kialandí và Formora bắt chúng ta, nhưng khi ông ấy di chuyển chúng ta và thay đổi hình dạng cơ thể, điểm yếu này còn trở nên tệ hơn.

Oromis ngã xuống và trở nên yếu ớt như một con chim non. Lúc đó Fomora và con rồng của bà ta, một con vật màu nâu xấu xí lao tới, hai kẻ kia theo sát sau. Nếu họ biết ông ấy đã yếu, họ sẽ tận dụng thời cơ để chui vào đầu óc mà điều khiển ông ấy. Ta phải đánh lạc hướng họ cho tới khi Oromis phục hồi... Ta chưa bao giờ chiến đấu dũng mãnh như vậy trong đời. Bốn chọi một, hoặc năm nếu các trò tính cả Agaravel. Cả hai con rồng, con màu nâu và màu tím của Kialandí đều nhỏ hơn ta nhưng răng chúng sắc còn móng vuốt thì sắc nhọn. Nhưng cơn giận đã tiếp sức mạnh cho ta, ta gây ra những vết thương chí mạng cho chúng. Kialandí ngu ngốc khi tiến tới tầm đánh của ta và ta đã dùng móng vuốt tóm hắn và ném trả về. Glaedr hét lên một tiếng. Phép thuật không bảo vệ ông ấy khỏi mũi lao phóng tới từ lưng con rồng tím, và đáng ra ta đã giết chết hắn nếu như không có con rồng nâu ngáng đường.

Chúng ta chiến đấu thêm gần năm phút nữa thì Oromis kêu rút lui. Ta ném đất vào mặt kẻ thù và trở về chỗ Oromis, dùng móng phải nắm lấy ông ấy và bay đi từ Edur Naroch. Kialandí và con rồng không thể đuổi theo, nhưng Formona và con rồng nâu lại có thể.

Họ bắt kịp chúng ta khi chúng ta mới bay khỏi tòa tháp canh một dặm. Thi thoảng chúng và ta rất gần, rồi con rồng nâu bay dưới ta, ta thấy Formora định dùng kiếm đâm chân phải ta. Bà ta muốn ta đánh rơi Ormis hoặc muốn giết ông ấy. Ta vặn mình, vì thế thay vì mất chân phải, ta mất chân trái.

KÝ ức của Glaedr thảm khốc, lạnh lẽo như thể lưỡi kiếm của Formona làm bằng băng chứ không phải thép. Cảm giác đó khiến Eragon nôn nao. Nó nuốt nước bọt và nắm chặt dây cương, mừng vì Saphira được an toàn.

Không đau như các con tưởng tượng nhưng ta biết ta không thể tiếp tục chiến đấu, vì thế ta quay người bay về Ilirea nhanh nhất có thể. Formora mờ mắt vì chiến thắng, vì dù chân đâu nhưng ta vẫn cắt đuôi được con rồng nâu và trốn thoát.

Oromis có thể ngăn máu chảy nhưng ông ấy lực bất tòng tâm, còn không thể nào liên kệ với các Kỵ sĩ tiền bối để cánh báo về kế hoạch của Galbatorix. Một khi Kialandí và Formora báo cáo lại, Galbatorix sẽ tấn công Ilirea ngay lập tức. Nếu hắn chờ đợi sẽ cho chúng ta thời gian củng cố lực lượng, và dù hắn có sưc mạnh song yếu tố bất ngờ vẫn là vũ khí mạnh nhất của hắn vào hồi đó.

Khi chúng ta tới Ilirea, chúng ta đã thất vọng khi thấy vài lệnh vẫn còn đó, trong lúc chúng ta vắng mặt, có nhiều người bỏ đi tìm Galbatorix hoặc đi gặp Vrael ở Vroengard. Chúng ta thuyết phục những người còn lại là họ đang gặp nguy hiểm, và chúng tôi nhớ họ cảnh báo Vrael và những con rồng và Kỵ sĩ tiền bối. Họ không tin Galbatorix có lực lượng để tấn công Ilirea – hoặc lão dám làm chuyện đó – nhưng cuối cùng chúng tôi cũng khiến họ nhìn vào sự thật. Thế là họ quyết định tất cả các Eldunarí ở Alagaësia phải được đưa tới Vroengard để giữ an toàn.

Đó có vẻ là một biện pháp bảo đảm nhưng chúng tôi đáng ra phải đưa tới Ellesméra. Nếu không, chúng ta nên để chúng lại tại Du Weldenvarden. Ít nhất vài tim rồng có thể an toàn trước Galbatorix. Chúa ơi, nhưng không ai nghĩ rằng họ sẽ an toàn cùng các thần tiên hơn ở Vroengard.

Vrael ra lệnh cho rồng và Kỵ sĩ trong vài ngày phải tới trợ thủ cho Ilirea nhưng Oromis và ta sợ rằng họ đã quá trễ. Và chúng ta không thể nào tăng cường hàng phòng thủ cho Ilirea. Vì thế chúng ta đã tập hợp tất cả các nguồn trợ cấp cần thiết và cùng với hai học trò – Brom và con rồng giống tên con, Saphira – chúng ta rời thành phố ngay trong đêm. Ta nghĩ con đã hiểu Oromis đau khổ thế nào khi quyết định ra đi.

Eragon vô thức gật đầu khi nhớ lại thành phố với những tòa tháp tuyệt đẹp nằm trên vách núi và được ánh trăng rọi sang.

Chính vì thế chúng ta không ở Ilirea và Thập Tam Phản đồ tấn công chỉ vài giờ sau đó. Và đó là lý do vì sao chúng ta không ở Vroengard khi những tên đó đánh bại toàn bộ lực lượng và chiếm giữ Doru Araeba. TỪ Ilirea chúng ta tới Du Weldenvarden với hy vọng những thầy thuốc loài tiên có thể chữa bệnh cho Oromis và phục hồi khả năng dùng phép.Khi họ không thể, chúng ta quyết định ở lại vì ở lại sẽ an toàn hơn bay tới Vroengard trong khi cả hai đều bị thương và có thể bị tấn công trong khi bay.

Brom và Saphira không ở lại cùng chúng ta. Dù chúng ta khuyên ngăn nhưng họ vẫn tham chiến và trong cuộc chiên này, Saphira đã hy sinh... Và giờ hai con đã biết sao mà Thập Tam phản đồ bắt được chúng ta và chúng ta đã thoát ra sao.

Sau một lúc, Saphira nói, Cám ơn người đã kể chuyện, Ebrithil.

Không có gì, Bjartskular, nhưng đừng bao giờ bảo ta kể lại.

Khi trăng lên tới ngọn, Eragon thấy một chùm ánh sáng vàng cam nhạt trôi trong bóng tối. Nó mất một lúc mới nhận ra đó là ánh đuốc và đèn từ Teirm cách đó rất xa. Và, cao hơn những ánh đèn là một điểm sáng màu vàng xuất hiên trong tích tắc như một con mắt lớn liếc nhìn nó, rồi biến mất rồi xuất hiện, lóe chớp như thể đôi mắt đang chớp.

Đèn hải đăng Teirm đã lên đèn, nó nói với cả Saphira và Glaedr.

Vậy là sắp có bão, Glaedr nói.

Saphira thôi đập cánh và Eragon cảm nhận cô nàng đang lượn xuống chầm chậm trên mặt đất.

Nửa tiếng sau cô nàng đáp xuống. Lúc đó, Teirm chỉ còn là một đốm sáng mờ nhạt phía bắc và ánh sáng từ ngọn đèn hải đăng chẳng sáng hơn ánh sao là bao.

Saphira thổi lừa đốt lửa trại ở bờ biển vắng. Dưới ánh trăng, bờ biển cứng, phẳng trở nên trắng trong khi những con sóng vỗ bờ mang màu xám và đen trông giận dữ, như thể biển đang tham lam ngốn lấy đất liền.

Eragon tháo đai đeo ở chân và trượt khỏi Saphira, mừng vì được duỗi cơ bắp. Nó để ý thấy mùi nước biển khi đi dọc bãi biển tới đám lửa lớn, áo choàng phấp phới sau lưng. Sau đó, nó quay người chạy về chỗ Saphira.

Cô nàng vẫn ở nguyên chỗ cũ, nhìn xa xăm ra biển. Nó ngừng lại không biết cô nàng định nói gì đây – nhưng vì cô em nó vẫn giữ im lặng, nó quay người một lần nữa tới bên đống lửa. Cô em nó sẽ nói khi sẵn sàng.

Eragon chạy đi chạy lại cho tới khi ấm người và chân bắt đầu run.

Nhưng trong suốt thời gian đó, Eragon chỉ nhìn ra biển.

Khi Eraagon ngồi xuống cạnh cô nàng, Glaedr cất tiếng. Thử là trò ngu ngốc.

Eragon nghiêng đầu không biết con rồng già đang nói với ai.

Con biết con làm được, Saphira nói.

Con chưa bao giờ tới Vroengard, Glaedr nói. Và nếu có bão, con sẽ bay thẳng ra biển hoặc còn tệ hơn. Rất nhiều con rồng đã chết vì tự tin thái quá. Cơn gió không phải bạn của con, Saphira. Nó có thể giúp con nhưng cũng có thể giết chết con.

Con không phải con rồng con bị cơn gió điều khiển!

Không, nhưng con vẫn còn trẻ và ta không nghĩ con đã sẵn sàng.

Nếu đợi chúng ta sẽ tốn rất nhiều thời gian!

Có thể, nhưng thà an toàn tới đó còn hơn.

“Hai người nói gì vậy?” Eragon hỏi.

Cát dưới chân trước Saphira kêu lạo xạo khi cô nàng ấn móng xuống.

Chúng ta phải quyết đinh, Glaedr nói. Từ đây, Saphira hoặc có thể bay thẳng tới Vroengard hoặc theo bờ biển phía bắc tới khi tới đất liền gần nhất và sau đó – chỉ tới lúc đó – mới rẽ về hướng tây và bay qua biển.

Đường nào nhanh hơn? Eragon hỏi dù đã đoán ra câu trả lời.

Bay thẳng, SAPhira nói.

Nhưng nếu thế, cô ấy sẽ phải bay suốt không nghỉ.

Saphira chen vào vì tức giận. Nhưng chặng đường cũng chẳng xa hơn đoạn đường từ Varden tới đây. Con có nói sai không?

GIờ con mệt rồi, và nếu có bão.

Vậy thì con sẽ bay qua bão! Cô nàng nói và thở ra một ngọn lửa xanh vàng từ lỗ mũi.

Ngọn lửa biến mất ngay trước mắt Eragon chỉ để lại dư ánh sáng loáng. “Á! Giờ anh không thấy gì.” Nó dụi mắt để dư ảnh biến mất. Chẳng nhẽ bay thẳng từ đây thật sự chỉ toàn nguy hiểm?

Đúng, Glaedr gầm.

Thế nếu bay theo đường bờ biển chúng ta sẽ mất thêm bao nhiêu thời gian?

Nửa ngày hoặc hơn.

Eragon hãi cằm khi cô nàng nhìn chằm chằm vào mặt nước. Sau đó nó ngước nhìn Saphira và, bằng giọng trầm, nó nói. “Em chắc chắn mình làm được không?”

Cô nàng xoay cổ nhìn nó bằng một con mắt to tướng. Con ngươi nó mở rộng tới khi gần thành một hình tròn; nó quá đen và lớn, Eragon có cảm giác mình bị hút và sẽ biến mất trong đó.

Em chắc, cô em nó nói.

Nó gật đầu và vuốt tóc khi cân nhắc. Vậy chúng ta phải thử...Glaedr, nếu cần, người hướng dẫn em ấy nhé? Người có thể giúp em ấy đúng không?

Con rồng già im lặng một lúc lâu; sau đó ông khiến Eragon ngạc nhiên khi rên rừ rừ trong tư tưởng giống như khi Saphira rên rừ rừ vì hài lòng hay vui sướng. Rất tốt. Nếu chúng ta phải liều thì chúng ta không được phép hèn nhát. CHúng ta sẽ bay qua biển.

Vấn đề giải quyết xong, Eragon leo lên lưng Saphira và mới một cú nhảy, cô nàng để lại mảnh đất an toàn bên dưới và bay theo những con sống nối nhau không kết.

__________________

LÃO RÓT MẬT VÀO TAI NGƯƠI, LÃO CHẠM TAY VÀO NGƯỜI NGƯƠI

“Aaaaaaaaaaa!”

“Cô có thề trung thành với ta hay không?”

“Không bao giờ!”

Câu hỏi và câu trả lời của hai bên cứ liên tục lặp lại như hai đứa con nít chơi trò chơi nhưng chỉ trừ có điều cô thua ngay cả khi thắng.

Nhờ việc này mà Nasuada còn tỉnh táo. Cô vẫn nắm được thế giới của mình – co có thể chịu đừng từng thời khắc trôi qua, vì chúng cho cô cơ hội nắm một cái gì đó khi mà mọi thứ khác đang vuột khỏi tầm tay. Những suy nghĩ, hành động, nỗi đau và sự nhẹ nhõm: cô sống nhờ vào những thứ đó. Không có chúng, có lẽ cô đã thua cuộc, trở thành một con cừu không có người chăn dắt, một con chiên mất lòng tin... một Kỵ sĩ xa rời con rồng.

Nhưng không may thay, diễn biến luôn kết thúc cùng một cách: với ngọn sắt nung đỏ.

Cô hét lên và cắn phải lưỡi, máu chảy tràn ra miệng. Cô ho, cố thông cổ họng nhưng có quá nhiều máu khiến cô bị sặc. Phổi cô cháy bỏng vì thiếu ô xi, và những đường viền trên trần nhà uốn éo và trở nên mờ nhạt, sau đó, ký ức của cô bay biến chảng còn lại gì, thậm chí chẳng còn màu đen.

Sau đó, Galbatorix nói với cô trong khi nung nóng thanh sắt.

Đó cũng là một phần trong diễn biến.

Lão chữa lành lưỡi cho cô – ít nhất là cô nghĩ đó là lão chứ không phải Murtagh – và nói. “Lưỡi cô mà đứt thì sao cô nói được? Làm sao ta biết khi nào cô đồng ý phục tùng ta?”

Như trước, lão bạo chúa ngồi bên phải, cô chỉ thấy hắn là một bóng người khuất trong bóng tối, ẩn dưới lớp áo choàng dài và nặng nề.

“Cô biết rằng ta đã gặp cha cô, khi ông ấy là người quản lý tài sản của Enduriel,” Galbatorix nói. “Ông ấy nói cho cô nghe chưa?”

Cô rùng mình và nhắm mắt cảm nhận nước mắt lăn ra từ khóe mi. Cô ghét nghe lão nói. Giọng nói của lão quá quyền lực, quá quyến rũ; nó khiến cô muốn làm tất cả những gì lão sai khiến.

“Đúng,” cô thì thào.

“Lúc đó ta hầu như không để ý nhiều tới ông ta. Vì sao ư? Ông ấy chỉ là một nô bộc, không ai để ý. Enduriel cho phép ông ấy có chút tự do, để quản lý cơ nghiệp cho hắn – nhưng hóa ra lại là tự do quá đáng.” Lão bạo chúa vung tay không chủ đích, và ánh sáng chiếu vào bàn tay gầy như móng vuốt của lão. “Enduruel luôn là người dễ tính. Con rồng của hắn mới quái tính; Enduriel thường làm theo những gì con rồng bảo...Thật là trò đùa kỳ lạ của số phận. Khó lòng mà tin được một người đàn ông chỉ soi mặt lên đôi giày bóng lộn của ta lại trở thành kẻ thù khó chơi nhất chỉ sau Brom, và giờ cô, con gái của ông ta, trở lại Urû’baen và sắp sửa phục mệnh ta, như cha cô. Thật là mỉa mai, phải không nhỉ?”

“Cha tôi đã trốn thoát và ông ấy đã suýt giết Durza,” cô nói. “Tất cả các câu thần chú và lời thề của ông không thể giữ ông ấy cũng như sẽ không ràng buộc được tôi.”

Cô nghĩ Galbatorix vừa nhíu mày. “Đúng, thật không may làm sao. Lúc đó Durza đã suýt mất mạng. Gia đình dường như dễ dàng giúp một con người thay đổi bản thân và tên thật của mình, vì thế sau này ta chọn tâm phúc là những kẻ không vướng bận gia đình. Nhưng, cô đã nhầm nếu nghĩ có thể tìm ra lỗ hổng trong lời chú của ta. Cách duy nhất thoát khỏi Căn Phòng của Nhà tiên tri là thề trung thành với ta hoặc là chết.”

“Vậy ta thà chết.”

“Thật là thiển cận.” BÓng bạo chúa nhoài về phía cô. “Cô đã bao giờ nghĩ tới thế giới này sẽ hỏng nếu ta không lật đổ các Kỵ sĩ chưa?”

“Các kỵ sĩ giúp thế giới hòa bình,” cô nói. “Họ bảo vệ Alagaësia không lâm vào cảnh nồi da nấu thịt, bệnh dịch hoành hành... khỏi các Tà thần. Lúc gặp nạn dịch hạch, họ mang thức ăn cho những người chết đói. Làm sao không có họ lại làm thế giới tốt đẹp hơn chứ?”

“Vì chúng ta phải trả giá cho sự phục vụ của họ. Cô và mọi người đều biết cái gì cũng có giá của nó, hoặc là bằng vàng, thời gian hoặc bằng máu. Không có gì mà không có giá, kể cả các Kỵ sĩ. Đặc biệt là các Kỵ sĩ.

“Đúng, họ giữ hòa bình, nhưng họ đàn áp mọi giống loài trên mảnh đất này, dù là tiên, người lùn hay thậm chí là con người. Những người hát rong thường ca ngợi họ cái gì nhỉ? Rằng họ trị vì hàng ngàn năm, rằng trong suốt ‘kỷ nguyên vàng’ đó rất ít có biến cố hoàng gia nào. Ồ, ở đây có những nguy hiểm nho nhỏ: tà thần ở đây, Urgal tấn công, hai bộ lạc người lùn xung đột vì một mỏ khoáng thạch nhưng chẳng ai quan tâm. Nhưng nhìn tổng thể, trật tự mọi thứ vẫn giữ nguyên như khi các Kỵ sĩ mới nắm quyền.”

Cô nhe có tiếng kim loại leng keng khi Murtagh đảo than trong lò. Cô ước gì cô thấy được khuôn mặt hắn để xem phản ứng của hắn trước những gì Galbatorix vừa nói, nhưng hắn vẫn đứng đó cúi mặt nhìn đống than hồng. Hắn chỉ nhìn cô khi nhấn que sắt nóng lên da thịt cô. Đó là những gì hắn làm và cô nghi hắn cần nó như cô cần những lời đáp trả Galabtorix của mình.

Galbatorix vẫn ra rả nói: “Thế không phải quá tàn ác hay sao Nasuada? Đời thay đổi nhưng các Kỵ sĩ vẫn xích chặt mảnh đất này không cho nó phát triển, hay thụt lùi theo quy luật tự nhiên... không thể trở thành một thứ mới mẻ. Ta tận mắt chứng kiến những công văn tại Vroengard và ở đó, ở Ilirea, rằng những phát hiện nhỏ nhặt nhất – về phép thuật, cơ khí, và những triết lý tự nhiên – bị các Kỵ sĩ giấu kín vì họ sợ điều xảy ra nếu ai cũng biết những kiến thức đó. Các Kỵ sĩ hèn nhát muốn đi theo lối mòn trong cách sống và tư duy. Họ cố gắng duy trì nó tới hơi thở cuối cùng. Có thể sự chuyên chế của họ mang lại hòa bình nhưng sẽ duy trì thế giới theo một hình thái tới mãi mái.”

“Nhưng giết người và phản bội có thực sự là giải pháp?” cô hỏi, không quan tâm hắn sẽ trừng phạt cô thế nào.

Lão cười, dường như hứng khởi. “Đạo đức giả! Cô buộc tội ta vì bất cứ điều gì cô nghĩ ra. Nếu có thể, cô nên giết ta ngay tại đây, đừng do dự. Cứ cho ta là một con chó dại mà giết đi.”

“Ông là kẻ phản bội còn tôi thì không.”

“Ta là kẻ chiến thắng. Thế là đủ. Chúng ta không khác nhau nhiều như cô nghĩ đâu Nasuada. Cô muốn giết ta vì cô tin cái chết của ta sẽ giúp Alagaësia tiến một bước mới và vì cô – một đứa nhỏ - tin rằng cô có thể trị vì Vương QUốc tốt hơn ta. Sự ngốc nghếch của cô sẽ khiến cho kẻ khác muốn trừ khử cô. Nhưng tất nhiên không phải ta. Ta đã chống lại Kỵ sĩ vì nguyên do tương tự, ta có quyền làm vậy.”

“Vậy ông không hề có ý định trả thù?”

Cô nghĩ lão cười. “Có thể ta xuất phát từ mục đích cá nhân nhưng hận thù hay trả thù không phải động cơ thúc đẩy của ta. Ta nghĩ về Kỵ sĩ là gì và rằng chỉ khi họ bị xóa sổ chúng ta mới lớn mạnh được.”

Trong một lúc cơn đau từ vết thương quá kinh khủng khiến cô không mở miệng nổi. Sau cùng cô cũng thì thầm: “Nếu những gì ông nói là thực – và tôi không có lý gì mà tin ông, nhưng nếu đúng là thật – vậy thì ông cũng đâu hơn các Kỵ sĩ. Ông cướp lấy thư viện và thu thập kho kiến thức của họ nhưng ông cũng không chia sẻ với một ai.”

Lão tới gần cô hơn, cô cảm thấy hơi thở lão bên tai. “Vì, trong những bí mật của họ, ta đã tìm thấy một sự thực vĩ đại hơn, một sự thật có thể trả lời cho bất kỳ câu hỏi nào trong lịch sử.”

Một cơn rùng mình chạy dọc xương sống cô. “Câu hỏi... nào?”

Hắn ngả người ra ghế và cầm lấy đuôi áo choàng. “Câu hỏi làm thế nào mà một vị vua hay nữ hoàng có thể ban hành luật lệ trị vì những sinh vật sử dụng pháp thuật. Khi ta nhận ra điều đó, ta đã bỏ qua những thứ khác và tự mình lần theo sự thật đó, câu trả lời đó, vì ta biết nó cực kỳ quan trọng. Vì thế ta giữ cho mình những bí mật của Kỵ sĩ rồng; vì ta còn bận nghiên cứu. Tới khi ta tìm ra câu trả lời ta sẽ công bố những bí mật kia. Thế giới này vốn là một nơi nhiều vấn đề và tốt nhất nên để nước lặng trước khi khuấy động nó lên... Ta mất gần một thế kỷ để tìm ra thông tin mình cần, và giờ khi đã có, ta sẽ dùng nó để thay đổi Alagaësia.

Pháp thuật làm thế giới này không có công bằng. Sẽ là công bằng nếu kẻ yếu có khả năng đó – nhưng không. Thường kẻ mạnh mới có khả năng dùng phép và họ có được nhiều hơn những người khác. Cứ nhìn thần tiên thì biết. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng tới một cá nhân mà còn gây ảnh hưởng tới quan hệ giữa các giống loài. Thần tiên dễ dàng duy trì trật tự xã hội hơn chúng ta vì hầu hết họ có thể sử dụng pháp thuật và rất ít trong số họ phải cần người khác ban ơn. Họ may mắn nhưng chúng ta, người lùn và kể cả Urgal thì không. Chúng ta chỉ có thể sống ở Alagaësia vì thần tiên đồng ý. Nếu họ muốn, họ có thể xóa sổ chúng ta khỏi mặt đất dễ dàng như cơn lũ cuốn phăng một tổ kiến. Nhưng giờ khi ta có thể đối địch với họ thì họ không thể làm được nữa.”

“Những Kỵ sĩ sẽ không bao giờ để họ giết hoặc đuổi chúng ta đi.”

“Không, nhưng hồi các Kỵ sĩ tồn tại, chúng ta phải sống dựa vào lòng nhân ái của họ và chúng ta không nên sống phụ thuộc vào sự gia ơn của kẻ khác. Các kỵ sĩ lúc đầu là công cụ duy trì hòa bình giữa tiên và rồng, nhưng cuối cùng, mục đích chính của họ lại là duy trì luật lệ trên mảnh đất này. Nhưng họ không đủ tài cán, cũng giống như những pháp sư của ta, Bàn ta đen. Vấn đề này là vấn đề nan giải. Cuộc đời ta là bằng chứng đây. Kể cả nếu có đủ lượng pháp sư sống trên Alagaësia – đủ để can thiêp vào những trường hợp lạm dụng quyền hành nhỏ nhặt nhất – chúng ta vẫn phải nhờ cậy vào những kẻ quyền lực hơn chúng ta. Mảnh đất này lúc đó chẳng an toàn hơn hiện giờ là bao. Không, để giải quyết vấn đề này, chúng ta phải tìm hiểu tới gốc rễ vấn đề. Những người cổ đại biết và giờ ta cũng biết.”

Galbatorix dịch người trên ghế và cô thấy ánh nhìn sắc lẹm trong mắt lão, nhờ ánh đèn hắt ra trong một hang động. “Ta sẽ khiến các pháp sư không thể làm hại người khác, dù đó là người, người lùn, hay thần tiên. Không ai được dùng thần chú trừ khi ta cho phép và chỉ có phép thuật phục vụ lợi ích con người mới được dùng. Kể cả thần tiên cũng bắt buộc phải theo và họ sẽ học được cách dùng từ đúng đắn hoặc câm họng lại.”

“Ai là người cho phép?” cô hỏi. “Ai sẽ quyết định nên dùng câu thần chú nào và không dùng câu nào? Ông ư?”

“Ai đó. Ta biết cái gì cần và ta tìm ra cách và ta sẽ thi hành. Cô nghi ngờ ư? Được, hãy tự hỏi mình, Nasuada: ta có phải một quân vương tồi không? Thành thực đi. Nếu chiếu theo người tiền nhận, ta không hề quá đáng.”

“Ông độc ác.”

“Không giống nhau.... Cô dẫn dắt Vardenl cô hiểu gánh nặng của người chỉ huy. Chắc chắn cô thấy được phép thuật đe dọa các Vương quốc thế nào? Ta cho cô một ví dụ. Ta đã nhiều lần tìm câu thần chú bảo vệ lãnh thổ. Nhưng chắc chắn sẽ có kẻ tìm được cách lách luật và cũng có kẻ tìm cách lừa tiền cả quý tộc lẫn dân thường. Vậy cô nghĩ vì sao ta phải cẩn trọng hạn chế sử dụng pháp thuật trong Vương quốc?”

“Vì ông sẽ gặp nguy.”

“sai! Cô hoàn toàn sai. Không gì đe dọa được ta. Không ai và không một cái gì. Nhưng những pháp sư là những kẻ đe dọa sự bình yên cho vương quốc và ta sẽ không dung thứ cho chúng. Một khi ta buộc tất cả các pháp sư trên thế giới thực hiện luật, hòa bình và trật tự sẽ được thiết lâp. Không một con người hay người lùn nào phải e dè thần tiên. Chúng ta không cần núp dưới bóng các Kỵ sĩ. Những kẻ bình thường không còn phải tôn thờ kẻ có pháp thuật. Alagaësia sẽ thay đổi, và với sự an toàn mới thiết lập này, chúng ta sẽ xây nên một tương lai hoành tráng hơn, và cô có thể trở thành một phần trong đó.

“Phục tùng ta, Nasuada và cô sẽ có cơ hội thấy sự kiến tạo thế giới này – một thế giới con người dựa nào sức mạnh cơ bắp và ý chí chứ không phải phép thuật. Con người có thể tập luyện để khỏe mạnh và rèn luyện ý chí nhưng không phải ai sinh ra cũng có khả năng dùng phép. Như ta đã nói, phép thuật thiếu tính công bằng và vì sự tốt đẹp, ta sẽ hạn chế khả năng của các pháp sư.”

Cô nhìn những đường kẻ trên trần nhà và cố lờ lão đi.Lão nói rất nhiều thứ giống với suy nghĩ của cô. Lão đúng: pháp thuật là năng lực có sức hủy diệt thế giới này nhất, và nếu ban hành điều luật hạn chế dùng pháp thuật, Alagaësia sẽ trở nên tốt hơn. Cô ghét phải thừa nhận không có gì có thể ngăn Eragon khỏi...

Xanh. Đỏ. Những màu sắc đan xen trên thảm. Cơn đau nhói. Cô tuyệt vọng cố tập trung vào những thứ khác. Dù cô có nghĩ gì thì thứ đó cũng không tồn tại.

“Cô cho ta là quỷ dữ. Cô nguyền rủa tên ta và tìm cách hạ bệ ta. Nhưng hãy nhớ, Nasuada: ta không khơi mào chiến tranh và ta không chịu trách nhiệm cho những kẻ chết trong trận chiến ấy. Ta không phải kẻ khơi mào. Cô cơ. Ta giành thời gian nghiên cứu, nhưng Varden cứ cố lấy cắp quả trứng của Saphira khỏi kho báu của ta và cô cũng những kẻ đồng bọn của cô phải chịu trách nhiệm cho cảnh đầu rơi máu chảy. Cô là kẻ đã reo rắc tang thương trên miền đất này, chứ không phải ta. Và giờ cô lại to mồm kêu ta sai! Nếu cô vào thăm những người nông dân, họ sẽ nói cho cô hay họ sợ nhất là Varden. Họ sẽ nói cho cô nghe họ trông mong binh lính của ta bảo vệ họ thế nào và họ hy vọng Triều đình sẽ đánh bại Varden và mọi chuyện lại trở về như cũ thế nào.”

Nasuada liếm môi. DÙ cô biết sự cứng đầu của mình sẽ phải trả giá thế nào nhưng cô vẫn nói, “Tôi thấy ông phản biện quá nhiều...Nếu sự thịnh vương là mối quan tâm chính của ông, vậy ông nên đầu hàng Varden từ hàng tuần trước, thay vì để quân đội đi lại lung tung. CHỉ có khả năng ông không chắc chắn như ông đang giả bộ. Hoặc ông sợ thần tiên sẽ chiếm lại Urû’baen khi ông bỏ đi?” Như một thói qune. Cô nói về Varden như thể cô chỉ là một người bình thường nghe danh về họ thôi vậy.

Galbatorix nhúc nhích và cô biết hắn định đáp lời nhưng cô chưa nói xong.

“Và Urgal nữa chứ? Ông không thể thuyết phục tôi rằng mục đích khi xóa sổ cả một giống loài là để xoa dịu nỗi đau khi mất đi con rồng đầu tiên. Ông có câu trả lời không, kẻ Phản bội?...Giờ nói cho tôi nghe về những con rồng đi. GIải thích vì sao ông giết hại quá nhiều khiến chúng gần như lâm vào tuyệt diệt. Và cuối cùng, hãy giải thích cách ông dùng các Eldunarí một cách sai trái đi.” Trong cơn giận dữ, cô để cho mình nói ra một điều. “Ông đã buộc họ cúi mình làm theo những gì ông muốn. Ông sai, ích kỷ và thèm khát quyền lực.”

Galbatorix đánh giá co một lúc. Sau đó cô thấy hắn khoanh tay. “Ta nghĩ sắt đủ nóng rồi. Murtagh, nếu ngươi có thể...”

Cô nắm chặt tay, móng tay chọc vào da, không khống chế nổi cơ bắp đang run lên. Một trong những thanh sắt chạm vào vành lò than khi Murtagh kéo nó ra. Hắn đối mặt với cô, và cô không thể không nhìn chằm chằm vào đầu sắt nóng đỏ. Sau đó cô nhìn vào mắt Murtagh. Cô thấy sự tội lấy và đau đớn trong đó, cô cũng cảm nhận nỗi buồn đang dâng lên trong cô.

Chúng ta thật ngốc, cô nghĩ. Những kẻ ngốc đáng thương yếu đuối.

Sau đó, cô không còn sức mà nghĩ và thế là cô làm theo tiến trình cũ, bám vào đó mà sống như một người chết đuối bám láy cọc.

Khi Murtagh và Galbatorix rời đi, cô quá đau đớn chỉ còn sức nhìn mông lung lên hoa văn trên trần nhà trong khi cố không khóc. Cô đổ mồ hôi và run lẩy bẩy, như thể đang lên cơn sốt. Cô không thể tập trng vào một thứ trong vài giây. Cơn đau không hề thuyên giảm như khi cô bị cắt hay bị thâm tím; ngược lại, cơn đau tỉ lệ thuận với thời gian.

Cô nhắm mắt và tập trung thở chậm lại cho bình tĩnh.

Lần đầu tiên Galbatorix và Murtagh tới, cô rất dũng cảm. Cô chửi bới họ và làm tất cả những gì có thể để khiến họ tổn thương. Nhưng, sau những màn tra tấn của Murtagh và Galbatorix, cô đã dần dần hết hứng phản kháng ra ngoài. Sắt nóng làm cô sợ hãi; dù những ký ức về nó thôi cũng đủ khiến cô muốn cuộn tròn lại thành một quả bóng nhỏ. Trong lần thăm thứ hai gần đây nhất, cô đã nói ít nhất có thể.

Cô đã cố thử xem có thực sự Galbatorix và Murtagh không lừa cô. Cô đã hỏi họ về những công việc Triều chính, những điều gián điệp đã báo cáo cô trừ những điều Gabatorix không tin rằng cô biết. Tới giờ, Galbatorix và Murtagh vẫn nói thật, nhưng cô không tin bất cứ điều gì nhà vua nói khi cô không có bằng chứng lão nói thật.

Cô không chắc về Murtagh. Khi đi cùng nhà vua, cô không tin những gì hắn nói, nhưng khi hắn tới một mình...

Vài giờ sau cuộc gặp mặt đau đớn đầu tiên với Bạo chúa Galbatorix – khi cô đã ngủ lơ mơ một lúc lâu – Murtagh tới một mình, mắt mờ và hơi thở có mùi rượu. Hắn đứng trước khối đá cô nằm, và hắn nhìn chằm chằm cô với biệu hiện lạ lùng, khiến cô không chắc hắn định làm gì.

Cuối cùng, hắn quy người bước tới bức tường gần nhất và trượt ngồi xuống. Hắn ngồi đó, bó gối lên gần ngực, mái tóc dài nhờn bóng của hắn che gần hết khuôn mặt, máu chảy ra từ đốt ngón tay phải. Sau vài phút, hắn cho tay vào trong áo choàng nâu 0 hắn vẫn mặc nguyên bộ đồ cũ chỉ có điều không đeo mặt nạ - và lấy ra một chai đá nhỏ. Hắn uống vài ngụm rồi bắt đầu nói.

Hắn nói còn cô nghe. Cô không còn lựa chọn nhưng cô không cho phép mình tin lời hắn. Lúc đầu thì không. Theo như những gì cô biết, những gì hắn nói và làm đều nhằm chiếm lòng tin của cô.

Murtagh bắt đầu bằng việc kể cho cô nghe về một người đàn ông tên Tornac, về tai nạn và vài lời khuyên Tornac cho hắn về một người đàn ông nên sống như thế nào. Cô không thể biết Tornac là bạn, kẻ tôi bộc, người họ hàng xa hay kết hợp của mấy thứ đó. Nhưng dù ông ta là gì, rõ ràng ông ta rất quan trọng với Murtagh.

Khi hắn kể gần hết hắn nói, “Galbatorix định giết cô. Lão biết Elva không bảo vệ cô nhưng trước, vì thế hắn quyết định giờ là thời khắc hoàn hảo để ám sát cô. Tôi chỉ tình cơ biết được kế hoạch đó; tôi tình cờ ben cạnh lão khi lão ra lệnh cho Bàn tay đen.” Murtagh lắc đầu. “Đó là lỗi của tôi. Tôi thuyết phục lão đưa cô tới đây. Lão thích nó; lão biết cô sẽ khiến Eragon đâm đầu vào rọ nhanh hơn...Nhưng chỉ có cách đó tôi mới cứu được cô... Tôi xin lỗi...Tôi xin lỗi.” Và hắn vùi đầu vào cánh tay.

“Tôi thà chết còn hơn.”

“Tôi biết,” hắn nói bằng giọng khàn khàn. “Cô tha thứ cho tôi nhé?”

Cô không trả lời. Cô cảm thấy khó chịu. Vì sao hắn lại muốn cứu mạng cô, và hắn muốn cô làm gì cho hắn?

Murtagh không nói gì thêm. Sau đó, hắn kể cô nghe về lần hắn bị diễu tới trước Galbatorix, về việc lão đã không tin và ghen tị thế nào khi gặp con trai của Morzan, về những tên quý tộc muốn dùng hắn để chiếm được sự sủng ái của nhà vua, và niềm khao khát người mẹ hắn hầu như không nhớ mặt. Hai lần hắn nhắc tới Eragon và chửi cậu ta vì được định mệnh ưu ái. “Hắn sẽ không làm tốt nếu như chúng tôi đổi vị trí. Nhưng mẹ chúng tôi đã chọn hắn để đưa tới Carvahall, chứ không phải tôi.” Hắn vỗ lên sàn nhà.

Coo thấy toàn bộ màn diễn đều là tự khóc thương bản thân, là điểm yếu của hắn không có gì ngoài mong sự thương cảm từ cô cho tới khi hắn kể lại Cặp song sinh đã bắt hắn khỏi Farthen Dûr thế nào và chúng đã xử tệ với hắn thế nào trên đường tới Urû’baen, và Galbatorix đã tra tấn hắn thế nào. Hắn kể ra vài trò tra tấn còn tệ hơn của cô và, nếu thật sự có, khiến cô có chút thương cảm cho hắn.

“Tôi sống được là nhờ có Thorn...” Cuối cùng hắn thừa nhận. “Khi cu cậu nở ra vì tôi và chúng tôi kết nối....” hắn lắc đầu. “Tôi yêu nó. Sao lại không thể yêu nó chứ? Tôi yêu nó như Eragon yêu Saphira. Giây phút tôi chạm vào nó tôi đã lạc lối. Galbatorix dùng nó để chống lại tôi. Thorn mạnh hơn tôi. Nó chưa bao giờ từ bỏ. Nhưng tôi không thể trơ mắt nhìn nó chịu đau vì thế tôi đã thề trung thành với nhà vua, và sau đó...” Môi Murtagh cong lên vì kinh sợ. “Sau đó, Galbatorix đi vào trong tư tưởng tôi. Lão biết mọi thứ về tôi, sau đó hắn biết tên thật của tôi. Giờ tôi là của lão...Mãi mãi.”

Sau đó hắn dựa đầu vào tường, nhắm mắt và cô thấy nước mắt chảy ra từ khóe mắt hắn.

Sau dần hắn đứng lên, khi bước về cửa, hắn dừng lại cạnh cô và chạm vào vai cô. Cô để ý móng tay hắn sạch sẽ và hồng hào, nhưng không được chăm sóc kỹ lưỡng như gã cai ngục. Hắn nói gì đó bằng ngôn ngữ cổ và một lát sau, cơn đau của cô bay biến, dù vết thương vẫn như cũ.

Sau đó hắn rút tay thì cô nói. “Tôi không thể tha thứ...nhưng tôi hiểu.”

Nghe tới đó hắn gật đầu và đi mất, để lại cô phân vân không biết có phải mình đã tìm ra đồng minh mới không.

Cuộc nổi loạn nhỏ .

Khi Nasuda đặt mình lên phiến đá, run lẩy bẩy và vã mồ hôi, cơ thể cô đau ê ẩm. cô ước Murtagh quay trở lại, giải phóng cô khỏi sự đau đớn tột cùng về thể xác lẫn tinh thần này.

cuối cùng cánh cửa dẫn tới buồng giam mở ra, cô không thể ngăn cản mình nghỉ ngơi, nhưng cô đã vô cùng thất vọng khi nghe thấy tiếng bước chân xáo trộn của gã cai ngục đang đi xuống cầu thang dẫn vào phòng

Gã đàn ông đậm người có bờ vai hẹp,lần trước khi gã xuất hiện, đã để mặc cho vết thương do cô gây ra chảy máu, rồi băng lại bằng 1 chiếc khăn tay. Khi hắn tháo cùm cho cô để đưa cô đi vệ sinh, cô đã cố gắng đoạt lấy con dao trên khay thức ăn, nhưng cô nhận ra mình không còn chút sức lực nào. Thay vì hành động, cô chấp nhận rằng mình phải cám ơn sự giúp đỡ của hắn, và lần thứ hai, khen ngợi móng tay hắn. bộ móng tay ấy thậm chí còn sáng bóng hơn so với lần đầu tiên cô thấy và rõ rang là hắn muốncô thấy, bởi hắn luôn để tay ở nơi cô k với tới đc, nhưng lại nhìn thấy được.

Sau khi hắn cho cô ăn và rời đi, cô đã cố gắng ngủ, nhưng sự đau đớn của những vết thương làm giấc ngủ cứ chập chờn.

Mắt cô bừng tỉnh khi nghe thấy chốt cửa phòng giam mở ra.

Không phải là 1 lần nữa chứ ! – cô nghĩ, và sợ hãi

Không phải sớm vậy chứ ! Mình không thể nào chịu đựng được nữa, mình không đủ mạnh mẽ . sau đó cô kìm chế nỗi sợ hãi và tự nhủ : không, đừng nói bất kỳ điều gì, bằng không mày sẽ bắt đầu tin họ mất. Mặc dù cô vẫn hoàn toàn kiểm soát ý thức và cảm xúc, cô cũng không thể ngăn quả tim cô đập loạn xạ. tiếng bước chân 1 ai đó vọng lại trong căn phòng, và Murtagh xuất hiện. Anh ta không đeo mặt nạ, và trông có vẻ ủ rũ. Lần trước anh ta đã chữa lành vết thương cho cô, cảm giác khi thoát khỏi sự đau đớn, nó giống như là 1 điều hạnh phúc. Trong cuộc đời cô, chưa khi nào cô có cảm xúc mãnh liệt giống như khi mọi nỗi đau về tinh thần và thể xác được giải phóng.

Cô thở hổn hển xúc động nói : “ cảm ơn”

Murtagh gật đầu, bước qua bức tường và ngồi xuống đúng nơi lần trước anh ta ngồi.

Cô nhìn anh trong phút chốc. da ở ngón tay anh đã lành trở lại. Anh xuát hiện với dáng vẻ nghiêm trang, dù ít nói và rầu rĩ. Bộ quần áo lành lặn, giờ đây xuất hiện những vết sờn, vết rách, và những miếng vá. Cô nhận ra một vài vết cắt ở mặt bên cánh tay áo.

Cô tự hỏi, có phải anh vừa trải qua 1 trận chiến.

“ Galbatorix có biết anh ở đây?”- cô hỏi.

“ có thể, nhưng tôi không tin lắm. Ông ta còn đang bận rộn với những người đàn bà. Hoặc la Ông ấy đang ngủ, bây giờ chẳng phải là nửa đêm sao. Tôi đã đặt 1 câu thần chú để không ai có thể nghe thấy chúng ta nói gì. Ông ấy có thể phá vỡ câu thần chú ấy, nhưng khi ấy, tôi sẽ biết”

“ chẳng may ông ta tìm thấy chúng ta”

Murtagh nhún vai

“ ông ta có thể tìm thấy chúng ta, nếu ông ta làm suy yếu sự phòng vệ của tôi “

“ đừng để ông ta làm điều đó. Anh mạnh mẽ hơn tôi, và anh không có thứ gì mà ông ta có thể uy hiếp. anh có thể chống lại ông ta, không như tôi….lực lượng Varden đang đến gần, các thần tiên cũng vậy, họ đang đến từ phương bắc. nếu anh có thể chịu đựng them 1 vài ngày, chúng ta sẽ có cơ hội….cơ hội giải phóng cho a”

“ cô không tin họ có thể làm được điều đó đúng k?”

Murtagh lại nhún vai

“…..và giúp tôi trốn thoát”

Một tràng cười lớn phát ra từ miệng Murtagh.

“ bằng cách nào? Tôi chẳng thể làm gì mà không có lệnh của Galbatorix”

“ anh có thể nới lỏng dây trói cho tôi, và khi đi ra, hãy quên khóa cửa”

Môi trên anh ta nhếch lên, vẻ cười khinh bỉ : “ có 2 người đàn ông canh gác ngoài kia, và có những sự phòng vệ được thiết lập trong căn phòng này, cảnh báo cho Galbatorix nếu có 1 tù nhân nào trốn thoát. Cũng có hang trăm binh lình từ đây cho đến cánh cổng gần nhất. Cô chắc hẳn là rất may mắn nếu đến được tiền sảnh”

“có thể, nhưng tôi muốn thử”

“cô sẽ tự giết chết bản thân mình”

“ giúp tôi, nếu a muốn, a có thể đánh lừa sự phòng vệ của lão”

“ tôi không thể. Lời thề không cho phép tôi dùng phép thuật chống lại lão”

“thế còn những người lính, hãy nghĩ đi? Nếu anh cầm chân chúng đủ lâu để tôi tới được cánh cổng, tôi có thể ẩn nấp trong thành phố, và sẽ không còn là vấn đề nữa khi Galbatorix biết…..”

“ thành phồ này là của ông ta. Ngoài ra, dù cô đi đâu, ông ấy cũng có thể tìm ra cô chỉ bằng 1 câu thần chú. Cách duy nhất cô có thể an toàn là cách xa nơi đây trước khi lão biết, nhưng cô không thể làm được điều ây, thậm chí ngay cả khi cô bay trên lưng rồng”

“ phải có cách nào đó”

“ nếu có….” Anh ta cười chua xót và nhìn xuống “thì là đừng nghĩ đến nó nữa”

Thất vọng, cô nhìn chằm chằm lên trần nhà trong giây lát. “ ít nhất, hãy cởi những cái cùm cho tôi”

Anh ta thở dài.

“ như thế tôi có thể đứng dậy” – cô nói “ tôi ghét phải nằm trên tảng đá này và ngước nhìn anh, nó làm tôi mỏi mắt”

Anh ta lưỡng lự, rồi sau đó đứng dậy, lại gần phiến đá, và bắt đầu tháo những dây trói xung quanh cổ tay và cổ chân cô : “ đừng nghĩ cô có thể giết tôi”-anh ta thì thầm “ cô không thể”

Ngay khi cô được tự do, anh ta trở lại vị trí ban đầu, ngồi trên sàn nhà, nhìn chằm chằm vào khoảng không. Cô nghĩ, đó là cách anh ta thử dành cho cô 1 chút riêng tư khi cô ngồi dậy và đung đưa chân qua 1 bên phiến đá. Quần áo cô rách tả tơi, và thật khó để che kín toàn bộ thân thể.

Sàn nhà bằng đá cẩm thạch thật lạnh lẽo dưới bàn chân cô,khi cô lại gần Murtagh và ngồi xuống bên cạnh anh. Cô vòng 2 tay ôm lấy mình, vẻ dịu dành thùy mị.

“ Tornac có phải là người bạn từ thủa thiếu thời duy nhất của anh?” – cô hỏi.

Murtagh vẫn không nhìn về phía cô. “ không, nhưng anh ấy còn thân thiết hơn cả cha tôi. anh ấy dạy dỗ rôi, dỗ dành tôi…. Mắng mỏ tôi khi tôi quá kiêu ngạo, và cứu tôi khỏi những điều ngớ ngẩn do chính tôi tạo ra, rất nhiều lần, nhiều hơn cả những gì tôi có thể nhớ được. nếu anh ấy còn sống, anh ấy hẳn sẽ đập tôi vài phát cho đến khi tôi choáng váng như 1 thàng say hôm nọ”

“ anh nói anh ấy đã chết khi anh chạy trốn khỏi Ure’bean?”

Anh ta cười hố hố: “ tôi đã nghĩ là tôi thong minh. Tôi đã hối lộ 1 tên lích gác để hắn bỏ ngỏ 1 bên cổng. chúng tôi định trốn ra khỏi thành phố trong bóng đêm, và chúng tôi tin rằng, khi Galbatorix biết được chuyện gì xảy ra, thì đã quá muộn để bắt chúng tôi lại. ông ta đã biết ngay từ đầu. nhưng bằng cách nào, tôi không rõ, tôi đoán ông ta đã bói cầu tôi mọi lúc. Khi tôi và Tornac qua khỏi cánh cổng, những người lính đã chờ chúng tôi ở đó. Họ được lệnh mang chúng tôi về, không trầy xước, nhưng chúng tôi đã chiến đẫu, và 1 trong số họ đã giết Tornac. Kiếm sĩ tài ba nhất trong vương quốc đã ngã xuống bằng 1 con dao từ sau lưng”

“ nhưng Galbatorix đã để anh thoát”

“ tôi nghĩ ông ấy cho rằng chúng tôi sẽ không chiến đấu. Ngoài ra, đêm đó, Galbatorix đã bị thu hút đến 1 nơi nào đó”

Nasuda cau mày khi nhìn thấy nụ cười khểnh trên khuôn mặt Murtagh

“ tôi đã tính thời gian” – anh ta nói. “ đó là khi lũ Ra’zac xuất hiện tại thung lũng Palancar, tìm quả trứng của Saphira. Và cô thấy đấy, Eragon đã mất người cha dượng của mình, gần như cùng lúc khi tôi đánh mất Tornac. Số phận thật là hài hước, cô có nghĩ vậy không?”

“ phải…..nhưng Galbatorix có thể bói cầu anh, và sao lão không theo dõi anh, và mang anh về Ure’bean sau đó?”

“ lão muốn chơi đùa với tôi, toi nghĩ vậy. tôi tới sống tại 1 trang trại của 1 người mà tôi tin là có thể tin tưởng được. và như những lần trước, tôi lại phạm sai lầm, dù tôi chỉ biết điều đó sau này, khi cặp song sinh mang tôi về. Galbatorix biết tôi ở đâu, và ông ta biết tôi vẫn còn tức giận về cái chết của Tornac, vì thế ông ta tạm để tôi ở lại điền trang, trong khi đang săn lung Eragon và Brom…. Tôi đã làm lão ngạc nhiên, tôi rời đi, và trong khi lão đang tìm hiểu sự biến mất của tôi, tôi đã đến Dras_Leona. Đó là lý do tại sao Galbatorix đến Drax-Leona. Đó không phải là để trừng phạt bá tước Tabor vì hành động của ông ta, mặc dù lão đã làm thế- mà là để tìm tôi. Nhưng ông ta đã đến trễ. Khi ông ta đến Dras-leona, tôi đã gặp Eragon và Saphira, và trên đường đến Gil’ead”

“ tại sao anh lại rời đi?” – Nasuda hỏi

“ Eragon chưa từng kể cho cô nghe sao, bởi vì…”

“ không, không phải Dras-leona. Tại sao anh lại rời khỏi điền tranh đó? Anh an toàn ở đó, hoặc anh cũng đã cho là vậy. vậy tại sao anh lại rời đi?”

Murtagh im lặng trong giây lát. “ tôi muốn tra thù Galbatorix, và tôi muốn tạo nên tên tuối cho mình, hoàn toàn tách biệt với tên tuổi của cha tôi. Toàn bộ cuộc đời tôi, mọi người nhìn tôi với ánh mắt khác biệt, vì tôi là con trai của Morzan. Tôi muốn mọi người tôn trọng tôi vì những việc tôi làm, chứ không phải vì cha tôi” Murtagh quay lại nhìn Nasuda, một cái nhìn thoáng qua ngoài tầm mắt “ tôi cho rằng tôi có những gì tôi muốn, nhưng lại 1 lần nữa, số phận thật là nực cười”

Cô tự hỏi liệu còn ai trong số những quần thần của Galbatorix mà hắn quan tâm tới, và rồi cô quyết định, đây là 1 đề tài hết sức nguy hiểm để nói đến.

Vì thế, cô hỏi “ Galbatorix có biết nhiều về Varden?”

“ tất cả, nhiều hơn những gì tôi có thể nói. Ông ta có nhiều gián điệp hơn cô tưởng”

Cô thắt chặt vòng tay quang bụng khi bụng cô sôi lên. “ anh có biết làm thế nào giết được Galbatorix không?”. “ một con dao, 1 thanh kiếm, một mũi tên. Thuốc độc. phép thuật. tất cả những cách thông thường. vấn đề là lão có quá nhiều những câu thần chú bảo vệ, không ai hay 1 thứ gì có thể làm hại lão. Eragon may mắn hơn mọi người. Lão không muốn giết cậu ấy, và vì thế, cậu ấy có nhiều cơ hội tấn công lão hơn những người khác. Nhưng dù Eragon có tấn công lão cả trăm lần, Eragon cũng sẽ không tìm ra cách nào vượt qua được sự phòng vệ của lão”

“ mọi câu đố đều có lời đáp, và mọi con người đều có điểm yếu” Nasuda khẳng định. “ lão có yêu bất kỳ ai trong số những người đàn bà của lão”

Vẻ mặt của Murtagh trả lời cho cô tất cả. sau đó anh ta nói “ có quá tệ không nếu Galbatorix tiếp tục làm vua? Thế giới mà ông ta mong muốn là 1 thế giới tốt đẹp. nếu ông ta đánh bại Varden, toàn cõi Alagaesia sẽ hòa bình. Ông ta sẽ đặt dấu chấm hết cho sự lạm dụng phép thuật, thần tiên, người lùn và cả con người sẽ không còn lý do để căm ghét lẫn nhau. Còn gì hơn nữa, nếu Varden thất bại, tôi và Eragon sẽ ở bên nhau như anh em. Còn nếu Varden thắng, điều đó có nghĩa là tôi và Thorn phải chết. chẳng phải vậy sao”

“ ồ, thế còn tôi” – Nasuda hỏi “ nếu Galbatorix thắng, tôi sẽ thành nô lệ và phục tùng mọi mệnh lệnh mà ông ta muốn à?” Murtagh từ chối trả lời, nhưng cô thấy cơ trên cánh tay anh căng lên “ anh không thể từ bỏ, Murtagh”

“ tôi còn lựa chọn nào khác không” anh ta hét lên, âm thanh vọng khắp căn phòng.

Cô đứng dậy và nhìn chằm chằm vào anh. “ anh có thể chiến đấu. nhìn tôi đây….nhìn tôi đây”.

Anh ta miễn cưỡng nhìn lên.

“ anh có thể tìm cách chống lại hắn. đó là điều anh có thể làm. Ngay cả khi lời thề chỉ cho anh 1 sự phản kháng nhỏ nhất. 1 sự phản kháng nhỏ nhất cũng có thể trở thành sự sụp đổ của lão” cô nhắc lại câu hỏi của anh để nhấn mạnh “ anh còn sự lựa chọn nào khác không? Anh có thể trải qua cảm giác cùng cực, khốn khổ và vô dụng trong phần đời còn lại của anh. Anh có thể để Galbatorix biến anh thánh 1 con quái vật. hoặc anh có thể chiến đấu.” cô chìa rộng cánh tay cho anh thấy những vết bỏng “ anh có muốn làm tôi bị thương không?”

“ không” – anh ta la lên.

“ vậy thì hãy chiến đấu đi. Anh phải chiến đấu, hoặc anh sẽ mất tát cả mọi thứ của anh, cả Thorn”. Cô giữ nguyên vị trí, trong khi anh bật dậy trên đôi chân của mình, uyển chuyển như 1 con mèo, tiến lại phía cô đến khi chỉ còn cách vài centimet. 2 hàm răng nghiến chặt, trong khi anh nhìn trừng trừng về phía cô, thở dồn dập qua lỗ mũi. Cô nhận thấy cảm xúc của anh ta, thứ mà cô đã nhiều lần nhận thấy trước kia. Đó là dáng vẻ của 1 người đàn ông có niềm kiêu hãnh bị xúc phạm, người muốn tấn công bất ngờ kẻ đã xúc phạm anh ta. Thật là nguy hiểm khi thúc giục anh ấy, nhưng cô biết cô phải làm vậy, vì cô có thể sẽ không có cơ hội làm lại điều đó.

“ nếu tôi có thể tiếp tục chiến đấu” – cô nói “ anh cũng có thể”

“ quay lại tảng đá”- anh ta nói 1 cách gay gắt.

“ tôi biết anh không phải kẻ nhát gan. Chết vinh quang còn hơn làm 1 tên nô lệ cho 1 kẻ như Galbatorix. Ít nhất anh cũng có thể làm được vài điều tốt đẹp, và tên anh sẽ được nhắc đến như là thước đo cho long tốt và sự tử tế sau khi anh chết”

“ quay lại tảng đá” anh ta gầm lến, tóm lấy cô bằng tay và kéo lê cô về phía phiến đá.

Cô để cho anh đặt cô lên phiến đá, buộc dây trói quanh cổ tay và cổ chân cô, thít chặt dây da quanh đầu cô. Sau khi làm xong, anh đứng lại nhìn cô. Ánh mắt đen hoang dại, mọi đường nét trên cơ thể anh như sợi dây thừng được kéo căng ra.

“ anh phải quyết định rằng anh có sẵn sang mạo hiểm cả mạng sống để cứu lấy chính mình hay không? – cô nói “ cả anh và Thorn, và anh phải quyết định ngay bây giờ, khi vẫn còn thời gian. Hãy hỏi chính bản thân mình, điều gì Tornac muốn anh làm?”

Không trả lời, Murtagh đặt bàn tay phải lên ngực cô, bàn tay ấm áp chạm vào da thịt cô. Sự tiếp xúc làm cô ngừng thở trong giât lát vì bất ngờ.

Sau đó, gần như là thì thầm, anh ta bắt đầu nói bằng cổ ngữ. những từ ngữ lạ lung trôi ra từ miệng anh ta, làm cô chưa bao giờ thấy sợ hãi như vậy. anh ta nói điều gì đó trong vài phút. Và khi anh dừng lại, cô không thấy có gì khác biệt, không có điềm lành hay điềm dữ nào cả.

Không khí lạnh ùa vào ngực cô khi Murtagh bỏ bàn tay ra. Anh lùi lại, và bước qua cô về phía cửa. Nasuda lập tức gọi a để hỏi về điều mà anh vừa làm, anh dùng lại và nói “ nó sẽ bảo vệ cô khỏi mọi đau đớn, nhưng cô phải giả vờ, bằng không, Galbatorix sẽ phát hiện ra những gì tôi đã làm”

Và rồi anh bước đi.

“ cảm ơn” – cô nói thầm trong căn phòng trống. Cô dành nhiều thời gian để suy nghĩ về cuộc trò chuyện của họ. có vẻ như Galbatorix không nghe thấy những gì họ nói với nhau, cũng có thể là có. Tất cả đều có thể xảy ra. và rồi cô thấy tiếc thương cho anh, dù trong sâu thẳm tâm hồn, a có là người tốt hay xấu. Cô nghĩ về vua Hrothgar, người giống như chú cô từ khi cô còn nhỏ, và làm sao Murtagh có thể giết ông ở cánh đồng cháy. Và cô nghĩ về tuổi thơ của Murtagh, cũng như những khó khăn mà anh đã trải qua. Làm sao anh có thể để Eragon và Saphira tự do khi anh dễ dàng bắt được họ mang về Ure’bean.

Cho dù anh đã từng là 1 người chính trực và đáng tôn trọng, thì giờ đây việc anh bị ép buộc phục tùng có thể hủy hoại cuộc đời anh.

Cuối cùng, cô quyết định bỏ qua quá khứ của anh, và sẽ chỉ phán xét anh trên những hành động mà anh làm ở hiện tại. Là tốt hay xấu, hay là cái gì đó ở giữa, anh vẫn là 1 đồng minh lớn, và cô sẽ cần sự giúp đỡ của anh nếu có. Và nếu anh sai, đối với cô sẽ không thể còn điều gì tồi tệ hơn bây giờ được nữa. còn nếu anh đúng, cô có thể trốn khỏi Ure’bean, và đó là sự mạo hiểm đáng giá.

Khi không còn bị những nỗi đau hành hạ, cô ngủ ngon lành 1 giấc dài và sâu, đó là lần đầu tiên cô ngủ ngon lành từ khi bị bắt đến Ure’bean. Cô tỉnh dậy, thấy hy vọng nhiều hơn trước. và lại nằm xăm xoi những hình vẽ trên mái nhà. Đường kẻ nhỏ màu xanh mà cô dõi theo làm cô để ý thấy 1 hình vẽ màu trắng nằm ở 1 góc của phiến đá mà trước đây cô không hề nhìn thấy. mất 1 lúc cô mới nhận ra chỗ mất màu ấy là do 1 mảnh vỡ nhỏ rơi xuống.

Khung cảnh làm cô thấy thích thú, chúng thật ngộ nghĩnh, và cô có phần thoải mái khi biết rằng căn phòng hoàn hảo của Galbatorix thực sự không phải là hoàn hảo, và dù lão có khoe khoang thế nào, lão cũng không phải là người biết hết mọi điều và không phải không bao giờ phạm sai lầm.

Cánh cửa phòng giam lại mở ra, là tên cai ngục, và cô đoán là hắn mang bữa trưa đến. cô hỏi hắn là cô có thể ăn trước khi hắn dựng cô dậy được không, vì cô đói và muốn ăn hơn bất kỳ việc gì khác, mặc dù đó không hoàn toàn là sự thật. đáp lại yêu cầu của cô, hắn đồng ý, và dù không nói lời nào, hắn cười nhe hàm răng gớm giếc như bồ cào ra, ngồi xuống bên thành của phiến đá. Khi hắn đút những thìa cháo nóng vào miệng cô, đầu óc cô đang suy nghĩ để lên kế hoạch cho 1 điều bất ngờ, mà cô biết là cô chỉ có 1 cơ hội duy nhất để thành công.

cô thấy thật buồn nôn và khó nuốt những thứ đồ ăn nhạt nhẽo. tuy nhiên, cô kìm nén, và khi bát cháo hết, cô đã no, thì cô đã sẵn sang.

Gã này luôn luôn đặt khay thức ăn trên bệ tường phía xa, gần chỗ Murtagh ngồi, và có lẽ khoảng cách từ cửa đến nhà vệ sinh là vài mét/

Khi được tháo cùm, cô trườn khỏi phiến đá. Gã cai ngục với tay định túm lấy tay trái cô, nhưng cô nâng tay lên, và bằng giọng ngọt ngào nhất có thể “ tôi có thể tự đứng dậy, cảm ơn anh”

Gã cai ngục lưỡng lự, hắn lại mỉm cười và 2 hàm răng lại chạm vào nhau như thế nói: “ được thôi”

Họ tiến tới nhà vệ sinh, cô đi trước, hắn theo sau. Khi bước được 3 bước, cô cố tình xoay chân phải và giả vờ vấp ngã. Gã cai ngục la lên và cố đỡ lấy cô. Hắn quá chậm, và những ngõn tay thô kệch của gã túm lấy ngay phía trên cổ cô, cô thoát được.

Cô ngã sõng xoài trên cái khay thức ăn, làm vỡ cái bình vẫn còn 1 ít rượu, và làm cái bát bằng gỗ lăn long lóc trên sàn nhà. Như kế hoạch, cô chống tay phải xuống, và ngay khi thấy cái khay bên dưới mình, cô lần mò tìm lấy 1 cái thìa kim loại.

“ ah” – cô kêu lên vẻ đau đớn, rồi quay lại nhìn gã cai ngục, vẻ rất khó chịu “ có lẽ tôi chưa thực sự khỏe” – cô nói, và nở 1 nụ cười xin lỗi. ngón cái chạm vào cái thìa, cô túm lấy nó khi gã cai ngục kéo tay trái cô để cô đứng dậy.

Hắn nhìn cô từ trên xuống dưới, nhăn mũi vẻ khó chịu về cái váy ượt đẫm rượu vang. Trong khi đó, cô vòng tay ra sau, nhét cái thìa vào cái lỗ gần cạp quần. rồi cô đưa tay lên, như thể cô không cầm gì hết.

Gã cai ngục càu nhàu, túm lấy tay cô, đưa cô vào nhà vệ sinh. Khi đã vào phòng, cô xoay người lại, hướng về phía cái khay, thì thầm.

Ngay sau khi đóng cửa, cô lấy cái thìa ra khỏi gẫu quần, ngáng ngang miệng khi cô giật những sợi tóc dài nhất ở phía sau đầu. nhanh hết mức có thể, cô kẹp 1 đầu búi tóc ở tay trái, và lăn trúng trên đùi bằng tay phải, bện chúng thành 1 đoạn dây.

Cô thất vọng vì nhận ra đoạn dây quá ngắn. long ngóng và vội vàng, cô bỏ 1 đầu của sợi dây ra và vất chúng trên sàn nhà.

Cô giựt 1 búi tóc khác và tết thành 1 sợi dây thứ 2, sau đó bỏ ra giống sợi đầu tiên.

Biết rằng mình chẳng còn bao nhiêu thời gian, cô để chúng lên đầu gối và nối 2 búi tóc lại với nhau.

Sau đó cô lấy cái thìa từ trong miệng ra, buộc nó vào chân trái bằng sợi dây mỏng mảnh đó, để quàn áo che đi.

Cô phải buộc vào chân trái, vì Galbatorix luôn ngồi ở phía bên phải cô.

Cô đứng dậy, kiểm tra lại để đảm bảo đã giấu kín cái thìa, và đi thử vài bước để chắc là nó sẽ không rơi ra.

Xong việc, cô thở dài. Bây giờ cô phải trở lại phiến đá mà không để cho gã cai ngục biết được những gì cô vừa làm.

Gã cai ngục đứng chờ cô mở cửa nhà vệ sinh. Hắn cau có nhìn cô, đôi long mày thưa thớt xúm lại, tạo thành 1 đướng ngang thẳng trên mặt.

“ cái thìa” – hắn nói, ngấu nghiến từng từ như thể đó là món củ cải linh nhừ.

Cô hất cằm chỉ về phía cầu tiêu.

Hắn quắc mắt. bước vao nhà vệ sinh, kiểm tra trần, tường, sàn nhà và tất cả những thứ còn lại trước khi quay trở ra. Hắn nghiến 2 hàm răng, vò đầu bứt tai vẻ buồn rầu và đau đớn – cô nghĩ vậy – vì cô đã ném cái thìa đi. Cô nên tử tế với hắn, và cô biết 1 hành động khiêu khích nhỏ thôi cũng có thể làm hắn bối rối và tức giận.

Cô khựng lại khi gã để tay lên đầu cô, lùa ngón tay vào tóc cô, đẩy cô tiến về phía trước. khi không tìm ra cái thìa, mặt hắn dài thượt ra. Hắn túm lấy tay cô, lôi cô về chỗ phiến đa, và trói cô lại.

Sau đó hắn lấy cái khay, ra khỏi phòng vẻ rầu rĩ ủ rũ.

Cô đợi đến khi hắn đi hẳn, dùng ngón tay trái, cố gằng từng tí từng tí một, kéo cạp quần lên

Mội nụ cười rạng rỡ xuất hiện trên khuôn mặt cô khi cô chạm được ngón tay trỏ vào cái thìa. Giờ, cô đã có 1 thứ vũ khí.

Đỉnh núi của băng và tuyết.

Khi những vệt sang mờ nhạt đầu tiên ló ra, tạo thành những đường kẻ dọc theo mặt biển gợn song, chiếu sáng những con song lờ mờ, tạo nên vẻ lấp lánh như pha lê. Eragon tỉnh giấc, nhìn về phía tây bắc, tò mò nhìn những tia nắng ló ra từ những đám mây, tạo thành những hình ảnh trong không gian.

Những gì Eragon thấy khiến người ta phải bối rối. những đám mây che phủ gần nửa đường chân trời, và đám mây trắng lớn nhất nhìn cao như đỉnh của rặng Bore, quá cao để Saphira có thể bay qua. Chỉ có bầu trời rộng mở ở phía sau, và họ có thể lạc đường, khi cơn bão đến gần.

“ chúng ta phải bay xuyên qua nó” – Glaedr nói, và Eragon thấy Sahira lo lắng.

“ tại sao không cố bay vòng qua” – Saphira hỏi.

Cả Saphira và Eragon đều nhận ra là Glaedr đã kiểm tra những đám mây. Cuối cùng ông rồng vàng nói : “ đương nhiên là ta không muốn ngươi bay quá xa. Chúng ta vẫn còn quãng đường dài cần bay, và nếu ngươi trở nên yếu…”

“ và thầy có thể cho con sức mạnh để bay”

“ hmph. Kể cả vậy, thì đó vẫn là điều cẩn trọng nhất trong số những việc liều lĩnh của chúng ta. Ta đã thấy những cơn bão như vậy trước kia. Nó lớn hơn con tưởng. để đi vòng qua nó, con sẽ phải bay rất xa, về phía tây, tới phía bên kia của Vroengard, và có thể sẽ mất 1 ngày mới tới được đất liền”

‘ khoảng cách tới Vroengard không quá xa” – Saphira nói.

“ không, nhưng gió sẽ làm chậm bước chúng ta, ngoài ra, linh tính của ta mach bảo, cơn bão sẽ mở rộng tới tận hòn đảo. chỉ có 1 cách là bay xuyên qua nó. Tuy nhiên, k cần thiết phải bay qua tâm bão. Con có thấy cái khe giữa 2 cái cột mây ở phía tây kia không?”

“ Có”

“ đi tới đó, và có thể chúng ta sẽ tìm được con đường an toàn để đi qua những đám mây”

Eragon túm chặt lấy yên khi Saphira nghiêng cánh trái, rẽ về phía tây, nhắm thẳng tới cái khe mà Glaedr đã nói đến. Eragon ngáp, dụi mắt khi Saphira bay là là, sau đó anh xoay người, lục tìm 1 quả táo và vài miếng thịt bò khô trong cái bao da đeo bên người.

Đó là 1 bữa sáng đạm bạc. nhưng anh không thấy đói lắm, và ăn nhiều vào bữa sáng khi đang bay trên lưng Saphira làm anh thấy buồn nôn.

Khi ăn, anh hết nhìn ngắm những đám mây, lại nhìn chằm chằm xuống mặt biển lấp lánh. Anh thấy lo lắng khi bên dưới họ toàn là nước, và như anh ước lượng, đất liền ít nhát cũng cách họ 50 dặm. anh rung mình khi tưởng tượng cứ chìm sâu, sâu dần vào long biển lạnh lẽo.

Anh tự hỏi, có cái gì dưới đáy biển. 1 suy nghĩ lóe lên trong đầu anh, anh có thể dùng phép thuật để du ngoạn và tìm hiểu dưới đáy biển. nhưng suy nghĩ ấy chả có gì thú vị. những vực nước quá tối và nguy hiểm, và anh cảm thấy, đây k phai là nơi anh nên khám phá. Tốt hơn là để kệ nó cho những sinh vật đã sống ở đó.

Khi trời sáng rõ, những đám mây rõ ràng là xa hơn nhiều so với những gì họ đã thấy, và như Glaedr nói, cơn bão lớn hơn nhiều những gì Eragon và Saphira tưởng tượng.

1 cơn gió nhẹ ngược chiều nổi lên làm đôi cánh Saphira trở nên nặng hơn, nhưng cô nàng vẫn tiếp tục hành trình.

Khi chỉ còn cách cơn bão 1 khoảng k xa, Saphira làm Eragon và Glaedr bất ngờ vì cô nàng lao xuống và bay là là ngay trên mặt biển.

Khi cô nàng lao xuống, Glaedr hỏi : “ Saphira, con định làm gì thế?”

“ con muốn biết” – cô ả nói – “và con muốn cho đôi cánh nghỉ ngơi chút ít trước khi bay vào những đám mây”

Cô ả bây là là mặt nước, cái bóng và hình phản chiếu dưới nước của cô nàng di chuyển cứ như 1 cặp bóng ma, 1 tối, 1 sáng. Sau đó cô nàng xoay cánh, đập mạnh 3 cái, hạ cánh ngay trên mặt nước. những con sóng ập vào cổ cô nàng khi ngực nó cày 1 đường xuống mặt biển, làm hành trăm bọt nước bắn tung tóe lên người Eragon.

Nước lạnh, nhưng sau 1 quãng thời gian dài bay trên cao, giờ không khí lại có cảm giác ấm hơn.Eragon cũng cởi bỏ áo choàng và găng tay.

Saphira gấp cánh lại, trôi bập bềnh theo những con song. Người Eragon dính đầy những đám rong tảo. chúng phân nhánh như bụi rậm, dọc theo thân là những bong bóng nhỏ cỡ bằng quả nho.

Phía xa, ở trên cao là những đàn hái âu trắng, với chấm đen ở dầu cánh, đang bay ra từ những đám mây khổng lồ.

Cảnh sắc càng làm Eragon lo lắng, những con chim biển khiến anh nhớ về cảnh tượng nhứng con sói, những con hươu chạy toán loạn trong 1 đám cháy rừng ở Spine.

“ nếu khôn ngoan, chúng ta nên quay lại” - a nói với Saphira

“ nếu không ngoan, chúng ta nên rời Alagaesia và không bao giờ quay lại”- cô rồng đáp lại.

Uốn cong cái cổ, Saphira thọc đầu xuống nước, lắc lắc cái đầu và lưỡi thì thè ra thụt vào vài lần, như thể cô ả nếm phải cài gì ghê ghê.

Sau đó Eragon cảm nhận được sự sợ hãi trong tâm trí con rồng già, Glaedr gầm lên trong tâm trí Eragon : “bay lên, nhanh, nhanh”.

Saphira không thắc mắc. nó xòe cánh, bay lên khỏi mặt nước, tạo thành những âm thanh như tiếng sấm.

Tiến về phía trước, eragon túm chặt lấy cái yên để k bị đổ về phía sau, cú đập cánh của Saphira làm nước bắn tung tóe, tạo ra 1 màn sương mù khiến Eragon chẳng nhìn thấy gì. Chàng dùng tâm trí để xem điều gì đã làm Glaedr hoảng hốt.

Từ dưới sâu, 1 cái gì đó đang tiến về phía Saphira nhanh hơn cả Eragon có thể tin được. Một thứ gì to lớn , lạnh lẽo….. và đói khát. Anh tìm cách làm nó sợ, tìm cách đuổi nó đi, nhưng sinh vật đó xa lạ và không nhân nhượng trước những nỗ lực của a.

Hết sức lạ lung,ký ức của sinh vật đó như 1 cái hang không ánh sáng, trải qua hang nghìn năm dưới đáy biển đóng băng, vơi những chuyến đi săn và bị săn.

Sự sợ hãi lớn dần, Eragon lần mò tìm thanh Brisingr, ngay khi Saphira bay vọt lên từ mặt nước.

“Nhanh lên, Saphira”. Anh hét lên.

Cô ả chậm chạp bay lên, đạt được vận tốc và độ cao, sau đó 1 cái vòi nước trắng xóa phun ra ngay phía dưới, và Eragon thấy 1 cặp hàm trắng xám. Cặp hàm đủ lớn để nuốt 1 con ngựa mà không cần phải nhai, với hang trăm cái răng sáng bóng.

Saphira sợ hãi khi thấy những gì Erragon thấy, cô ả vòng đột ngột sang bên, để tránh cái miệng đang há hốc, đầu cánh rẽ xuống mặt nước. ngay sau đó, Erragon cảm thấy hàm con quái vật cắn lại. những cái răng nhọn hoắt đớp hụt đuôi Saphira trong gang tấc.

Trong Khi con quái vật rơi xuống nước, 1 phần cơ thể nó trở nên rõ rang hơn. Cái đầu to và góc cạnh. 1 cái mào đầy xương mọc ra phía trên đôi mắt, và từ cái mào ấy, có những cái tua mà Eragon đoán nó phải dài hơn 6 feet. Cái cổ trông như 1 con rắn khổng lồ. thân hình nó trơn nhẵn, mạnh mẽ và nặng nề đến không tin nổi. 2 cái vây chèo 2 bên thân mình, quơ quơ trong không trung.

Con quái vật rơi xuống nước, và 1 luồng bụi nước khổng lồ bay lên. Trước khi những con song nhấn chìm con quái vật, Eragon nhìn vào đôi mắt nó, đôi mắt đen hướng về phía trước như 2 giọt nhựa đường. đôi mắt chứa đầy sự tức giận, căm ghét, và thất vọng khiến cho Eragon ước gì mình đang ở giữa sa mạc Hadarac.

Chỉ có ở đó, a mới cảm thấy an toàn trước những con quái vật già đói khát.

Tim đập thình thịch, Eragon nới lỏng thanh Brisngr, nằm thụp xuống cái yên rồng : “ cái quái gì vậy?”

Một Nidhwal – Glaedr nói.

Eragon nhăn mặt. chàng chưa từng nghe về nó trong cuốn Ellesmera. “ Nidhwal là cái gì vậy thầy?”

“ chúng hiếm khi được nhắc đến. chúng thuộc về biển cả cũng như Fanghur thuộc về bầu trời. cả 2 đều là anh em của rồng. tuy nhiên vẻ bề ngoài lại rất khác nhau, giống Nidhwal gần với loài rồng hơn là những con Fanghur. Chúng cũng có 1 thứ tương tự như “ trái tim trong trái tim Eldunari” ở trong ngực, cho phép chúng lặn sâu dưới đáy biển trong khoảng thời gian dài”

“ chúng có thổi ra lửa không?”

“ không, nhưng giống như loài Fanghur, chúng cũng thường sử dụng sức mạnh ý trí để đánh bại con mồi, ý trí ấy mạnh hơn cả việc 1 con rồng khám phá ra sự sợ hãi của mình”

“ chúng có thể ăn thịt chính đồng loại mình” – Saphira nói.

“ đối với chúng, chúng ta không phải đồng loại” – Glaedr nói – “ tuy nhiên chúng ăn thịt chính đồng loại mình, và đó là lý do khiến chúng còn lại rất ít. Chúng không có hứng với bất kỳ việc gì xảy ra ngoài lãnh thổ của chúng, và tất cả mọi lỗ nực lien lạc với chúng đều thất bại. phải mất vài ngày bay từ đất liền, tới vùng biển sâu nhất, mới tìm thấy chúng. Và chúng có vẻ đã táo bạo và liều lĩnh hơn kể từ thời kỳ suy tàn của kỵ sĩ.”

Eragon rung mình khi nhớ lại cảm giác khi xâm nhập vào tâm trí Nidhwal. “ tại sao thầy hay Orimis chưa bao giờ chỉ cho bọn con về chúng?”

“có rất nhiều thứ ta không dạy con, Eragon. Chúng ta không có quá nhiều thời gian, và tốt nhất là dạy con làm sao chống lại được Galbatorix, chứ không phải là 1 sinh vật sống trong bóng tối ở 1 vùng đất chưa được khám phá của Alagaesia”.

“ vậy còn có thứ gì tương tự như Nidhwal mà chúng con chưa biết không?”

“ 1 vài”

“ thầy sẽ nói cho bọn con chứ ah. Ebrithil?” – Saphira hỏi.

“ chúng ta thỏa thuận thế này nhé, Saphira và Eragon. Cho ta 1 tuần, và nếu sau 1 tuần, chúng ta vẫn sống sót và tự do, ta sẽ rất vui long dành 10 năm tiếp theo để dạy cho các con về từng giống loài 1 mà ta biết, bao gồm cả vô số những loài côn trùng. Nhưng từ giờ đến lúc đó, hãy tập trung vào nhiệm vụ trước mắt đã. Các con có đồng ý k?”

Eragon và Saphira miễn cưỡng đồng ý, và họ không còn bàn luận về chúng nữa.

Những cơn gió ngược chiều ngày càng mạnh dần khi họ tới gần cơn bão, làm Saphira chỉ bay được 1 nửa tốc độ bình thường của cô ả. Những cơn gió mạnh làm cô nàng lắc lư, và thi thoảng làm cô ả khựng lại trong phút chốc.khi những con gió giật mạnh, mặt biển cuộn sóng, như những vảy cá bạc trắng xóa.

Từ khi trời sáng, những đám mây càng lúc càng lớn và tụ lại gần. nhìn chúng thật đáng sợ. ở phía dưới, chúng có màu đen và đỏ tía, nối với 1 mặt biển bằng 1 màn mưa như thể 1 cái dây rốn.

Cao hơn phía trên, những đám mây có màu bạc sỉn, trong khi phía trên cùng là 1 màu trắng hoàn toàn trong trẻo, và vững chắc như sườn của dãy Tronjheim. Nhìn về phía bắc, qua tâm cơn bão, những đám mây tạo thành hình 1 cái đe bằng phẳng khổng lồ, hiện ra lờ mờ, như thể các vị thần đang muốn tạo ra 1 thứ dụng cụ gì đó kỳ lạ và ghê gớm.

Khi Saphira bay vọt lên, vào giữa 2 cột mây khổng lồ, nhìn cô ả không khác gì một hại bụi. mặt biển biến mất, và phía dưới họ chỉ còn 1 tấm đệm mây. Những cơn gió ngược trở nên nhẹ hơn, nhưng lại đổi hướng lien tục và xoáy tròn mà không có 1 phương hướng cụ thể nào. Eragon nghiến chặt 2 hàm răng để chúng khỏi va vào nhau, dạ dày anh muốn ói khi Saphira lao xuống 12 feet và rồi ngay tức khác bay thẳng lên trên 20 feet.

Glaedr nói : “ con đã bao giờ bay trong những cơn bão, ngoại trừ lần gặp cơn bão giữa thung thũng Palancar và Yazuac chưa?”

“ chưa” – Saphira trả lời, ngắn gọn và đầy lo lắng.

Glaedr dường như mong chờ câu trả lời đó, và không hề do dự, ông bắt đầu giảng giải cho Saphira về sự phức tạp khi định hướng những đám mây khổng lồ. “ tìm kiếm mọi sự chuyển động và ghi nhận mọi sự sắp đặt xung quanh con”- ông rồng già nói, “dựa vào chúng, con có thể tìm được nơi nào gió mạnh nhất, và hướng gió”

Những gì Glaedr nói, Saphira đều biết, nhưng khi Glaedr nói, thái độ bình tĩnh của ông làm yên long cả Saphira và Eragon. Nếu có bất kỳ sự sợ hãi nào trong tâm trí con rồng già, nó sẽ làm họ nghi ngờ chính bản thân mình, và có lẽ Glaedr nhận thức được điều đó.

1 đám mây bay lạc trước mặt Saphira. Thay vì né tránh, cô nàng lao thẳng vào như 1 mũi giáo xanh lấp lánh. Khi màn mây mù bao bọc lấy họ, gió trở nên im bặt. Eragon nheo mắt, dùng 1 tay che mặt để chúng không bay vào mắt.

Khi bay ra khỏi đám mây, hành triệu triệu những giọt nhỏ bám đầy trên cơ thể Saphira như thể kim cương trên những cái vảy rồng lấp lánh.

Saphira vẫn tiếp tục bay chuệnh choạng. đang bay cân bằng, bỗng 1 cơn gió đẩy cô ả sang 1 bên, hay nâng 1 cánh của nó lên, làm nó xoay tròn 180 độ.

Ngồi trên lưng rồng trong khi cô nàng chiến đấu với những cơn gió đổi chiều liên tục thực sự là mệt mỏi, và với Saphira, đó cũng là 1 nhiệm vụ cực khổ và khó chịu, và còn thấy khó khăn hơn khi biết rằng còn rất xa nữa mới đến đích. Nhưng cô nàng không còn sự lựa chọn nào ngoại trừ việc tiếp tục.

Sau 1 hay 2 giờ bay, họ vẫn chưa thoát ra được khỏi cơn bão. “ chúng ta phải đổi hướng” – Glaedr nói : “ chúng ta đã đi đủ xa về phía Tây. Và nếu chúng ta dám đương đầu với cơn bão, thì đó là lúc này, trước khi tát cả mọi người kiệt sức”

Không nói 1 lời, Saphira vòng về phía bắc, tiến thẳng tới bức tường mây khổng lồ, cao chót vót nằm ở trung tâm của cơn bão.

Càng lại gần cơn bão, càng thấy nó to lớn hơn bất kỳ thứ gì Eragon từng thấy, lớn hơn cả Farthen Dur. Một tia chớp xanh lẹt kéo thẳng lên trời, tới chỗ những đám mây bằng phẳng tạo thành hình như cái đe. 1 giây sau đó, 1 tiếng sấm làm rung chuyển bầu trời. Eragon bịt tai lại.

Dù anh biết những câu thần chú sẽ bảo vệ anh khỏi sấm sét, nhưng a vẫn thấy sợ hãi về việc liều mạng đến gần nhưng tia sét đầy năng lượng.

Saphira có vẻ không sợ hãi, vì anh không cảm thấy điều ấy. tất cả những gì anh ảm nhận được là sự quyết tâm của cô nàng. Cô ả đập nhanh đôi cánh, và chỉ 1 vài phút sau, bức tưởng mây khổng lồ đã hiện ra trước mặt. Họ lao qua, tiến vào trung tâm cơn bão.

Ánh sáng chập chờn xung quang họ, xám xịt và chả có gì đặc biệt. Như thể toàn bộ phần còn lại của thế giới không còn tồn tại.

Những đám mây làm Eragon không thể nào nhìn thấy đầu, đuôi và cánh của Saphira. Họ gần như là mù. Và chỉ có sức kéo của trọng lục khiến họ phân biệt được là mình đanh bay lên hay xuống.

Eragon mở rộng tâm trí, nhưng anh không cảm nhận được bất kỳ 1 sinh vật sống nào, ngoại trừ Saphira và Glaedr, thậm chí là 1 con chim lạc đàn.

May mắn là Saphira vẫn giứ được phương hướng, và nhờ đó mà họ không bị lạc. Bằng cách Tiếp tục mở rộng tâm trí tìm kiếm sự sống xung quanh, bất kỳ 1 sinh vật hay cây cỏ nào, Eragon đảm bảo rằng họ sẽ k lao thảng vào sườn của 1 vách núi.

Eragon cũng niệm 1 câu thần chú mà Oromis đã từng dạy anh. Câu thần chú sẽ cho anh và Saphira biết chính xác khi họ gần đến mặt đất hay mặt nước.

Từ lúc bay vào trong những đám mây, hơi ẩm trong không khí bám đầy trên da anh, thấm đầy vào quần áo anh, làm chúng nặng trĩu xuống. đó thực sự là 1 điều phiền phức mà anh phải lờ đi. Nhưng gió và nước, chúng sẽ nhanh chóng làm anh chết cóng.

Vì thế, a niệm 1 câu thần chú khác, loai bỏ toàn bộ những giọt nước nhỏ trong không khi xung quanh anh, và xung quanh mắt Saphira – như cô nàng yêu cầu – vì hơi ẩm ngưng tụ lại càng nhiều trên mặt, khiến cô nàng phải lien tục chớp mắt.

Những cơn gió ở tâm bão yên ả 1 cách lạ thường. Eragon bình luận 1 vài câu về điều ây, nhưng ông rồng già vẫn giữ 1 thái độ nghiêm túc như lúc đầu : “ chúng ta vẫn chưa đối mặt với điều tồi tệ nhất cảu cơn bão đâu”

Những gì Glaedr nói sớm trỏ thành hiện thực. 1 con gió dữ dội bất ngờ đẩy Saphira lên cao cả ngàn feet. Không khí quá loãng làm cho Eragon không thể thở được. và hơi nước thì đóng băng thành trăm nghìn tinh thể nhỏ, đâm vào mũi, má Eragon và cánh Saphira như những con dao sắc nhọn.

Kẹp chặt cánh vào thân mình, Saphira lao thẳng về phía trước, cố gắng thoát khỏi luồng khí đang đẩy cô lên cao. Vài giây sau, luông gió đẩy cô lên cao biến mất, nhưng thay vào đó, 1 luông gió khác xô cô ả lao thẳng xuống những con sóng phía dưới với 1 tốc độ khủng khiếp.

Những tinh thể băng tan ra, tạo thành những giọt nước lớn hơn, trôi bồng bềnh quanh Saphira như thể không có trọng lực khi họ lao xuống. chớp lóe lên gần họ. 1 thú ánh sáng xanh kỳ quái xuyên thủng tấm màn mây. Eragon hét lên đau đớn khi sấm nổ xung quanh. Tai anh rung lên. Anh xé 2 mảnh vải nhỏ từ cái áo choàng, nhét chúng vào tai, càng sâu càng tốt.

Chỉ đến khi gần xuống đến đáy của đám mây, Saphira mới kiềm chế được cơn gió. Nhưng ngay khi cô nàng làm được điều đó, 1 cơn gió khac lại ập tới, túm lấy cô nàng như 1 bàn tay khổng lồ, kéo thẳng lên trới.

Nhứng cơn gió quá mạnh và dữ dội, Saphira khoogn thể chống lại, và cô nàng cứ bay lên lại lao xuống, giống như 1 miếng bọt biển trong 1 xoáy nước vậy.

Cô nàng cố tiến về phía trước được 1 ít, 1 vài dặm hiếm hoi, với những nỗ lực phi thường và đắt giá. Nhưng mỗi khi thoát ra khỏi luông không khí này, cô ả lại ngay lập tức bị cuốn vào luông không khí khác. Eragon thấy thiếu tự tin khi nhận ra anh, Saphira và Glaedr bất lực trước cơn bão. Và dù với tất cả sức mạnh của họ, họ cũng không có hy vọng đối đầu được với sức mạnh thiên nhiên.

Lần thứ 2, 1 cơn gió lại ném Saphira lao thẳng xuống những cơn sóng phía dưới. cả 2 lần, những cơn gió đều xô Saphira xuống gần đáy cơn bão, nơi những trận mưa rào rậm rập đổ xuống mặt biển.

ở làn thứ 2, Eragon nhìn về phía vai Saphira. TRong 1 khoảng khắc, anh nghĩ là mình nhìn thấy cái bóng dài, đen của con Nidhwal đang nằm nghỉ ngơi phía trên mặt biển nhấp nhô. Nhưng khi chớp lóe lên lần nữa, cái bóng biến mất. và anh tự hỏi, đó có phải là 1 trò bịp bợm với anh.

Saphira trở nên yếu hơn. Cô không còn chống trọi với những cơn gió, để mặc cho chúng mang cô đến nơi nào chúng muốn. cô chỉ cố gắng chống lại, khi rơi xuống gần mặt biển. cô cố gắng giữ yên đôi cánh và tốn càng ít sức cành tốt. Eragon nhận thấy Glaedr truyền cho cô nàng 1 dòng năng lượng để duy trì sức lực. Nhưng ngần đó là không đủ để cô ả làm được điều gì đó, ngoại trừ việc đứng yên.

Cuối cùng thì ánh sáng cũng mờ nhạt dần. Nỗi thất vọng tràn trề trong Eragon, Họ đã dành cả ngày phung phí vì cơn bão. Và nó chưa có dấu hiệu suy giảm, như thể Saphira vẫn chỉ ở đâu đó trong vành đai bão mà thôi.

Mặt trời lặn. Eragon thậm chí còn không nhì thây được cả mũi của mình. Chả có gì là khác biệt khi anh nhắm hay mở mắt cả. như thể đó la 1 đống len đen sì được chất đống xung quanh anh và SAphira. Quả thật,bóng tối như là 1 thứ vật chất nào đó, có sức nặng, và đang tác động lên họ từ mọi phía.

Cứ 1 vài giây, 1 tia sét lại lóe lên, xé tan màn đêm. Đôi khi ẩn mình trong những đám mây, đôi khi hiện ra ngay trước mắt họ, sáng chói như ánh mặt trời và làm cho không khí có vị tanh tanh như sắt.

Sau khi ánh sáng chói lòa của những tia sét biến mất, màn đêm trở nên đen tối gấp nhiều lần. cả Eragon và Saphira hết chói mắt vì nhứng tia sét, giờ lại chả nhìn thấy gì trong màn đêm den kịt.

Những tia chớp không đánh trúng Saphira, nhưng tiếng sấm vang rền làm cả 2 thấy mệt mỏi.

Chúng sẽ kéo dài bao lâu, Eragon thực k biết.

Saphira bị cuốn vào 1 cơn gió , lớn hơn và mạnh hơn những gì mà họ đối mắt trước đó.

Ngay khi nó ập đến, SAphira cố gắng chống lại nó, cố gắng thoát ra. Nhưng cơn gió quá mạnh, và cô nàng không sao giữ được cánh mình thăng bằng.

Cuối cùng, quá thất vọng, cô nằng rống lên 1 tiếng, phun lửa ra từ cái miệng, tỏa sáng 1 vùng nhỏ xung quanh, làm những tinh thể băng sáng long lanh như đá quý.

Giúp tôi – cô ả nói với Eragon và Glaedr : “ tôi không thể làm điều đó 1 mình”

Sau đó tâm trí họ hòa trộn vào nhau, với sức mạnh do Glaedr truyền sang, Eragon hét lớn :

“ Ganga fram”

Câu thần chú đẩy Saphira tiến về phía trước, nhưng hết sức chậm chạp, vì đi ngang 90 độ so với chiều gió không khác gì bơi qua dòng Anorak khi mùa xuân về ( xuân về tuyết tan). Dù Saphira có tiến lên theo chiều ngang, cơn gió vẫn tiếp tục thối cô nàng bay lên với 1 tốc độ chóng mặt. Eragon cảm thấy khó thở, và họ vẫn còn mắc kẹt trong con gió.

“ chúng ta mất quá nhiều thời gian và sức mạnh rồi. hãy kết thúc câu thần chú đi” – Glaedr nói

“ nhưng…”

“ kết thúc câu thần chú đi.chúng ta không thể thắng được những cơn gió trước khi cả 2 con kiệt sức đâu. Chúng ta phải nương theo những cơn gió cho đến khi chúng đủ yếu để Saphira thoát ra”

“ bằng cách nào” - Saphira hỏi trong khi Eragon làm theo chỉ dẫn của Glaedr. Sự kiệt sức và cảm giác thất bại làm rối trí cô rồng. điều đó làm Eragon thấy lo lắng cho cô.

“ Eragon, trò phải chỉnh sửa lại câu thần chú giữ ấm cho trò, và cả Saphira và ta. Trời đang lạnh dần, lạnh hơn cả mùa đông ở núi Spine. Và nếu không dùng phép thuật, chúng ta sẽ đóng băng mà chết”

“ cả thầy sao”

“ ta sẽ vỡ nát như 1 cái ly thủy tinh nóng rơi vào tuyết vậy. bây giờ hãy dùng 1 câu thần chú, gom không khí xung quanh con lại, như vậy con mới có thể thở được. nhưng phải nhớ là để những dòng khí con đã thở rồi thoát ra ngoài, nếu không con sẽ ngạt đấy. câu thần chú sẽ rất phức tạp, vì vậy con không được phép mắc lỗi. vậy, hãy nghe cho cẩn thận, nó phải như thế này….”

Khi Glaedr đọc những cụm từ cần thiết bằng ngôn ngữ cổ, Eragon đọc lại cẩn thận, cho đến khi con rồng già thấy hài long về cách phát âm của anh. Eragon niệm thần chú,chỉnh sửa câu thần chú trước của anh theo hướng dẫn của Glaedr. Cả 3 người đều được bảo vệ trước cái lạnh.

Họ chờ đợi.cho đến khi 1 cơn gió nâng họ nên. Cao nưa, cao nữa. Từng phút trôi qua, Eragon tự hỏi liệu họ có dừng lại được, hay là liệu họ có bay vút lên tận trăng sao hay không.

Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu anh, có thể đó là cách tạo ra sao băng : 1 con chim, 1 con rồng hay 1 sinh vật sống nào đó bị tung lên cao bởi những cơn gió, sao đó bay ngang qua bầu trời, tỏa sáng như 1 múi tên.

Và nếu như thế, anh đoán, Saphira và Glaedr sẽ là những ngôi sao băng sáng nhất, hung vĩ nhất trong ký ức của những người còn sống, những người chứng kiến sự ra đi của họ từ 1 vị trí rất xa bờ biển.

Tiếng gió rít dần trở nên nhẹ nhàng hơn. Không còn tiếng sấm. Eragon rút 2 miếng vải nhét trong lỗ tai ra, bất ngờ vì sự im ắng xung quanh.

Chỉ còn nghe thấy những tiếng rì rào, mờ nhạt như tiếng 1 con suối rừng.

Tiếng gầm rú của cơn bão nhỏ dần. Eragon nhận ra sự căng thẳng do những câu thần chú tạo ra đang tăng dần – không phải từ câu thần chú ngăn cản sự mất nhiệt cơ thể, mà là từ câu thần chú gom không khí lại phía trước anh và Saphira. Chúng làm cả 2 không thể thở bình thường được.

Và dù là lý do gì chăng nữa, năng lượng cần để duy trì câu thần chú đó là đang nhân lên. Nó vượt quá tỷ lệ cân xứng với câu thần chú thứ nhất. và anh cảm thấy sức mạnh đang cạn kiệt. dường như chỉ còn 1 phần rất nhỏ duy trì cho sự sống. Bàn tay anh trở nên lạnh cóng, tim đập yếu ớt, và tâm trí mất minh mẫn. đó có lẽ là điều đáng lo lắng nhất.

Con rồng vàng liền giúp anh. 1 dòng năng lượng tràn vào người Eragon. Anh cảm thấy sức nặng trên vai giảm xuống. tâm trí minh mẫn trở lại và thể chất lại cường tráng như trước.

Họ lại tiếp tục.

Một lúc lâu sau, Saphira nhận thấy cơn gió suy yếu. và cô nàng thoát ra khỏi đó.

Mây bắt đầu tan dần trên đầu họ. Và Eragon nhìn thấy 1 vài chấm sáng; những ngôi sao: lấp lánh hơn bất kỳ thứ gì anh đã từng thấy.

Nhìn kìa. Eragon nói. Những đám mây mở ra phía trên họ. và Sphira bay thoát ra ngoài cơn bão, lơ lửng phía trên những cơn gió.

Ngay phía dưới họ, Eragon nhìn thấy toàn bộ cơn bão, mở rộng hàng trăm dặm về mọi phía.

Trung tâm cơn bão giống như cái mũ nấm, trơn nhẵn do được tạo ra từ rất nhiều những đám mây, trải dài từ đông sang tây, và luôn đe dọa đến Saphira.

Những đám mây có máu trắng sữa, tỏa sáng như thể ánh sáng phát ra từ bên trong. Trông chúng đẹp và thực sự yên bình. Chúng gần như không biến đổi, như là không có bất kỳ 1 sự dữ dội nào ẩn chứa bên trong.

Eragon ngẩng lên nhìn trời. há hốc mồm vì kinh ngạc. bầu trời chứa hành triệu ngôi sao, nhiều hơn những gì a đã từng nghĩ. Xanh, đỏ, trắng, vàng…chúng nằm rải rác trên bầu trời như những hạt bụi. những chòm sao mà a biết nằm xen kẽ với hàng nghìn những ngôi sao khác mà đây là lần đầu tiên a nhìn thấy. chúng không chỉ sáng hơn, mà khoảng không cũng trở nên tối hơn. Như thể là trước đây, mối lần a đều nhìn bầu trời xuyên qua 1 màn sương mù, khiến a chưa từng thấy vẻ đẹp thực sự của những ngôi sao.

Anh nhìn chằm chằm lên bầu trời, kinh ngạc trước vẻ đẹp rực rỡ, lộng lẫy của tự nhiên.

Chỉ đến khi anh nhìn xuống, a mới nhận ra có gì đó không bình thường. đường chân trời có màu đỏ tía.

Bầu trời và mặt biển đúng ra phải luôn luôn gặp nhau tạo thành 1 đường thẳng, nhưng giờ đây nó lại cong cong, giống như 1 đường tròn lớn ngoài sức tưởng tượng.

Đó thực sự là 1 cảnh tượng kỳ lạ. Eragon mất 1 lúc lâu để hiểu được mình đang ngắm nhìn điều gì. “ Thế giới có hình tròn” – anh lẩm nhẩm – “ bầu trời thì rỗng, và thế giới có hình tròn”

“ nó vốn là như vậy” – Glaedr nói : “ ta đã nghe điều này từ 1 con rồng hoang dã, nhưng ta chưa bao giờ nghĩ sẽ tận mắt chứng kiến nó”

ở phía đông, 1 thứ ánh sáng vàng mờ nhạt bao phủ 1 phần đường chân trời, báo hiệu mặt trời sắp mọc. nếu Saphira giữ nguyên vị trí trong 4 hay 5 phút nữa, có le họ sẽ được ngắm mặt trời mọc,cho dù phải mất hàng giờ đồng hồ nữa, nhưng tia nắng ấm áp mới tới được mặt biển phía dưới.

Saphira đứng yên đó trong 1 lúc. Lơ lửng ở giữa những ngôi sao và trái đất, trôi bập bềnh trong ánh chạng vạng như thể bị cuốn mất linh hồn. họ chẳng thuộc về nơi nào cả, không phải thiên đường, cũng không phải trái đất. lơ lửng như 1 hạt bụi giữa khoảng không ngăn cách 2 thế giới.

Saphira tiền về phía trước, nửa bay nửa rơi. Không khí quá loãng, do đó đôi cánh không thể nâng được trọng lượng của cô nàng,dù cô nàng cảm thấy có 1 luồng gió nổi lên.

Trong khi cô rồng đang bay xuống, Eragon nói: “ nếu chúng ta có đủ ngọc, thầy có nghĩ chúng ta có thể tích trữ năng lượng vào đó và bay tới mặt trang không?”

“ ai mà biết được”- Glaedr nói.

Khi Eragon còn nhỏ, làng Carvahall và thung lũng Palancar là tất cả những gì anh biết. anh có nghe về đế chế, nhưng nó không được thực tế, cho đến khi anh tiếp cận với nó. Khi đó, hình ảnh về thế giới trong tâm trí anh là cả những miền đất còn lại của Alagaesia, và những vùng đất khác mà a có dịp đọc về chúng.

Còn bây giờ, anh nhận ra, thế giới mà anh cho là rộng lớn đó, thực ra chỉ là 1 phần nhỏ của 1 thứ còn lớn hơn vậy nhiều. điều đó giống như là, quan điểm của anh về thế giơi, chỉ trong vài giây, đã biến đổi từ 1 con kiến thành 1 con đại bang vậy.

Bầu trời thì rỗng, và thế giới thì có hình tròn.

Điều đó làm anh xem xét, đánh giá và phân chia lại…tất cả mọi thứ. Cuộc chiến giữa Varden và đế chế dường như quá nhỏ bé khi so sánh với sự vĩ đại của cả thế giới. và anh nghĩ, những nỗi đau, mối bận tâm của con người thật quá ư nhỏ bé khi nhìn thế giới từ trên cao.

Eragon nói với Saphira : “ nếu mọi người có thể thấy những gì chúng ta thấy, có lẽ sẽ ít chiến tranh xẩy ra hơn”

“anh không thể mong những con sói có thẻ trở thành cừu”

“không. Nhưng những con sói có lẽ không cần tàn ác với những con cừu”

Saphira nhanh chóng rơi trở lại bóng tối của những đám mây, nhưng cô nàng tránh không để bị 1 cơn gió nào đó cuốn bay lên hay rơi xuống nữa. thay vào đó, cô nàng lướt bay nhiều dặm, trươt qua đỉnh của nhứng cơn gió, lợi dụng chúng để giữ sức.

1 hoặc 2 giờ trôi qua, sương mù tan. Và họ bay ra khỏi đám mây lớn nhất ở tâm của cơn bão.

Họ quyết định hạ thấp xuống, bay là là trên những quả đồi không có thật mọc ra từ mây, thoai thoải dần tạo thành 1 vùng bằng phẳng. bao trùm lấy tất cả mọi thứ trong tầm mắt.

Khi mặt trời mọc, cả Eragon và Saphira đã không còn sức để để ý đến những gì xung quanh. Không có bất kỳ thứ gì bên dưới có thể thu hút sự quan tâm của họ.

Sau đó Glaedr nói : “ Saphira, ở đây, phía bên phải. con có thấy không?”

Eragon nhỏm đầu, liếc mắt về phía ánh sáng.

Đâu đó về phía bắc, 1 dãy núi hiện ra sau những đám mây. Đỉnh núi được bao phủ bởi băng và tuyết, trông giống như 1 chiếc mũ miện cổ xưa, nằm trên 1 lơp màn sương.

Những vách đá hướng về phía đông, tỏa sáng rực rỡ trong ánh bình minh, ngả bóng trên 1 vùng đồng bằng phía tây rộng lớn.

Eragon ngồi thẳng dậy. thật khó tin là chuyến phưu lưu của họ đã đến đích.

“ chú ý” – Glaedr nói – “ Aras Thelduin” – ngọn núi lửa nằm ở giữa trung tâm Vroengard. “ bay nhanh lên Saphira, chúng ta chỉ còn 1 đoạn đường ngắn nữa thôi”

GIÒI ĐẤT

Chúng bắt được cô khi cô tới điểm giao nhau giữa hai hành lang giống hệt nhau, đều có những cột nhà, đuốc và những lá cờ hiệu nền đỏ tươi trên là ngọn lửa vàng đang bừng cháy – biểu tượng của Galbatorix.

Nasuada không mong trốn được, nhưng cô không thể nào không thất vọng vì thất bại. Cô chỉ mong chạy trốn được xa hơn.

Cô chiến đấu suốt đoạn đường tụi lính lôi cô về căn phòng giam giữ cô. Những người đàn ông mặc áo giáp ngực và đeo miếng bảo vệ cẳng tay, nhưng cô vẫn cào được vào mặt chúng và cắn tay chúng, làm hai gã bị thương khá nặng.

Những tên lính thốt lên thất vọng khi họ bước vào Căn phòng của Nhà tiên tri và thấy cô đã làm gì với gã cai ngục. Cẩn thận không dẵm vào vũng máu, chúng mang cô tới bàn đá, trói cô xuống và nhanh chóng bỏ đi, để lại cô một mình cùng xác chết.

Cô hét lên trong xà lim và giật cùm, tức giận vì không thể làm tốt hơn. Vẫn còn tức giận, cô nhìn xuống thi thể trên nền nhà, rồi nhanh chóng rời mắt đi. Dù chết nhưng gương mặt hắn vẫn hằn lên sự buộc tội khiến cô không tài nào chịu nổi.

Sau khi ăn cắp được cái thìa, cô đã dành hàng giờ để mài tay cầm vào bàn đá. Thìa được làm bằng sắt mềm, vì thế nó rất dễ định hình.

Cô đã nghĩ Galbatorix và Murtagh sẽ tới gặp cô, nhưng thay vào đó lại là gã coi ngục mang cho cô bữa ăn tối. Hắn bắt đầu tháo cùm để đưa cô vào nhà nhỏ. Ngay khi hắn tháo cùm bên tay trái, cô dùng phần tay cầm thìa sắc nhọn đâm vào họng hắn. Gã hét chói lói khiến cô nghĩ tới lợn bị chọc tiết, rồi quay người, đập cánh tay xuống ngã xuống sàn nhà, nằm đó ngấp ngoái một lúc lâu.

Cô không muốn giết gã. Cô không nghĩ gã là người xấu – cô không chắc gã là cái gì – nhưng vì gã quá đần độn khiến cô có cảm giác mình lợi dụng gã. Nhưng cô phải làm điều cần thiết và dù cô không thích nhưng cô vẫn cho rằng hành động của mình là đúng.

Khi gã nằm bất động chết trên sàn nhà, cô tháo xích và nhảy khỏi bàn đá. Sau đó, cô lo lắng rút cái thìa ra khỏi cổ gã – giống như là vặn nút chai ra – khiến máu tuôn ra khắp chân cô, khiến cô nhảy lùi lại trong khi phun ra một tiếng chửi thề.

Hai gã lính gác ngoài Căn phòng của nhà Tiên tri rất dễ đối phó. Cô đã khiến chúng bất ngờ và giết chết tên bên phải cùng cách giết gã cai ngục. Sau đó, cô lôi con dao từ thắt lưng y và tấn công tên còn lại trong khi hắn cố đâm ngọn giáo về phía cô. Đánh gần thì giáo không thể có lợi bằng dao găm và cô đã giết chết hắn trước khi hắn kịp chạy trốn hay tri hô.

Nhưng cô không chạy được xa. DÙ vì câu thần chú của Galbatorix hay vì xui xẻo thì cô đã đụng một nhóm năm tên lính, và chúng nhanh chóng, nếu không nói là dễ dàng, tóm được cô.

Chỉ nửa tiếng sau cô nghe có tiếng chân người đi giày đế sắt đi về phía căn phòng. Sau đó Galbatorix xuất hiện cùng một vài tên lính gác.

Như thường lệ, hắn dừng lại chỉ đủ để cô liếc mắt nhìn thấy một bóng người cao, ẩn trong bóng đen với khuôn mặt vuông chữ điền. Cô thấy hắn quay đầu khi nhìn cảnh tượng trước mắt; sau đó, bằng giọng lạnh lùng, hắn nói. “Sao lại thế này?”

Một tên lính mũ trụ gắn lông chim chạy lên trước Galbatorix, quỳ xuống giơ cái thìa được mài sắc lên. “Bẩm bệ hạ, chúng thần tìm thấy cái này bên ngoài.”

Nhà vua cầm cái thìa lên và xoay nó trong tay. “Ta hiểu.” Hắn liếc nhìn cô. Hắn nắm lấy cái thìa và chẳng tốn sứ bẻ nó làm đôi. “Cô biết cô không thể trốn mà còn cố. Ta không thích cô giết những binh lính của ta để chọc giận ta. Cô không có quyền cướp đi mạng họ. Cô không có quyền làm bất cứ điều gì trừ phi ta cho phép.” Hắn ném hai mẩu kim loại xuống sàn. Sau đó hắn quay người và bước ra khỏi Căn phòng của nhà tiên tri, áo choàng nặng nề phấp phới sau lưng.

Hai tên lính lôi xác gã cai ngục đi, sau đó lau căn phòng và chửi rủa cô.

Khi họ đi và cô lại một mình, cô để cho mình thở dài và cô bớt căng cơ hơn.

Cô ước cô có cơ hội ăn uống, vì giờ khi sự phấn khích qua đi, cô quả thực rất đói. Tệ hơn, có lẽ cô phải đợi hàng giờ mới được ăn bữa tiếp, vì có vẻ Galbatorix không trừng phạt cô bằng cách bắt cô nhịn ăn.

Cô thèm bánh mì và thịt rán cùng một cốc rượu. Nhưng không bao lâu sau co nghe có tiếng g giày gõ bên ngoài xà lim. Cô giật mình, cố gắng chuẩn bị tinh thần cho bất cứ trường hợp xấu nào, vì chắc chắn nó sẽ xấu.

Cánh cửa mở ra và hai tiếng bước chân vọng trong căn phòng bát giác khi Murtagh và Galbatorix tiến vào. Murtagh đứng tại vị trí cũ nhưng không mang theo lò than. Hắn khoanh tay dựa vào tường và nhìn chằm chặp vào sàn nhà. Cái cô nhìn thấy qua cái mặt nạ bạc không an ủi cô; đường nét khuôn mặt hắn có vẻ cứng hơn, và hắn lẩm nhẩm cái gì đó khiến cô lạnh tới tận xương.

Thay vì ngồi như thường lệ, Galbatorix đứng đằng sau đầu cô, khiến cô cảm nhận được sự hiện diện của hắn rõ ràng hơn bao giờ.

Lão xòe bàn tay dài như móng vuốt trước mặt cô. Lão cầm một chiếc hộp nhỏ trang trí một chiếc kèn cong có lẽ là những con chữ tượng hình của ngôn ngữ cổ. Những tiếng kèn kẹt nho nhỏ phát ra, nhẹ nhàng như tiếng chuột cào tường, nhưng không rõ ràng.

Lão dùng ngón tay cái đẩy khóa hộp lên. Sau đó lão cho tay vào lấy ra một con giòi lớn màu ngà. Sinh vật dài khoảng 6cm, và có cái mồm nhỏ xíu, kêu kèn kẹt thể hiện sự không thích thú gì thế giới này. Nó mập và có những nếp gấp trên thân trong như con sâu bướm, nhưng nếu nó có chân thì chúng cũng quá bé nên cô không nhìn thấy.

Sinh vật uốn éo để cố thoát ra khỏi những ngón tay của Galbatorix. Nhà vua nói. “Đây là con giòi đất. Trông nó có vẻ không giống. Chúng chỉ sống tại một vùng của Alagaësia và cô khó lòng bắt được nó. Lấy nó đi, như một biểu hiện sự kính trọng ta dành cho cô, Nasuada, con gái của Ajihad. Ta sẽ sử dụng nó trên người cô.” Giọng lão hạ thấp xuống, trở nên quyến rũ hơn. “Nhưng, ta sẽ không muốn đổi chỗ cho cô đâu.”

Tiếng kèn kẹt của con giòi đất to lên khi Galbatorix thả nó xuống cánh tay phải trần trụi của cô, ở ngay dưới khuỷu tay. Cô giật mình khi sinh vật ghê tởm rơi xuống; nó nặng hơn vẻ bề ngoài và nó bám lấy cô như thể bằng hàng trăm cái móc nho nhỏ.

Con giòi đất vặn vẹo thêm một lúc nữa; sau đó nó cuộn tròn lại và nhảy vài cm lên trên cánh tay cô.

Cô vặn người, mong khiến con giòi rơi xuống, nhưng nó vẫn tiếp tục nhảy.

Tiếp tục nhảy.

Rồi dần dà lên tới vai cô, những cái móc đâm vào da cô như quả gai. Cô liếc mắt thấy con giòi đất nâng cái đầu không mắt lên và nhắm vào mặt cô, như thể ngửi không khí. Cái mồm nhỏ xíu của nó mở ra, và cô thấy hàm trên sắc nhọn đằng sau môi trên và môi dưới.

Skree-skree? Con bọ nói. Skree-skra?

“Không phải ở đó,” Galbatorix nói bằng ngôn ngữ cổ.

Con bọ nghe thấy và tránh xa đầu cô khiến cô thấy nhẹ nhõm đôi chút. Sau đó nó nhảy ngược lại cánh tay cô.

Vài thứ khiến cô sợ. Những que sắt nóng làm cô sợ. Ý nghĩ Galbatorix sẽ bị vì Urû’baen làm cô sợ. Tất nhiên cô cũng sợ chết dù không nhiều vì cô sợ sẽ để lại những thứ chưa hoàn thành.

Nhưng, dù vì lý do gì, cảnh thượng vào cảm giác về con giòi này làm cô sợ hơn mọi thứ. Mọi cơ bắp trên người cô dường như nóng lên và nhột nhạt, và cô muốn chạy, cái mồm nhỏ xíu kia làm cô nhớ miệng một đứa nhỏ. m thanh của nó rất kinh khủng khơi dậy những sự kinh sợ nguyên sơ trong con người cô.

Con giòi đất dừng lại ở khuỷu tay cô.

Skree-skree!

Sau đó, cơ thể mềm nhũn, béo múp của nó nhún lại, nhảy cao khoảng 4 5 inch lên không khí rồi chúi đầu xuống phần mềm ở khuỷu tay cô.

Khi nó chạm xuống, con bọ biến thành mười hai con rết xanh sáng nhỏ, bò lên tay cô trước khi mỗi con tìm một chỗ chui vào, luồn lách trong da thịt cô.

Cơn đau quá kinh khủng; cô vùng vẫy và hét lớn, nhưng không thể nào thoát nổi sự tra tấn. Nó như kéo dài mãi mãi. Que sắt nóng làm cô đau hơn nhưng cô thà để nó đốt cháy da thịt cô còn hơn, vì kim loại nóng là thứ cô có thể đoán trước. Nỗi sợ khi biết cơn đau của mình là do một sinh vật sốngnhai thịt cô rất đặc biệt, và tệ hơn, sinh vật đó nằm trong cô.

Cuối cùng, cô đánh mất lòng tự trọng và kiểm soát. Cô hét cầu xin nữ thần Gokkukara thương xót và cô bắt đầu lập bập như một đứa bé, không thể nào kiểm soát từ ngữ thoát ra.

Đằng sau cô, cô nghe tiếng cười của Galbatorix, và việc lão hưởng thụ sự đau đớn của cô làm cô ghét lão hơn bao giờ hết.

Cô chớp mắt từ từ bình tĩnh lại.

Sau một lúc, cô nhận thấy Galbatorix và Murtagh đã đi. Cô không nhớ họ đi lúc nào; chắc lúc đó cô bất tỉnh.

Cô đỡ đau hơn những vẫn cảm thấy kinh sợ. Cô liếc nhìn cơ thể và ngước mắt lên, tim đập dồn dập. Da cô sưng lên và những đường máu tụ chạy theo những đường con bọ đào xới dưới da cô, và chúng đang đau nóng lên. Như thể cô vừa bị ai dùng roi quật vào người.

Cô phân vân liệu con bọ còn trong người mình không. Có thể nó đang nằm đâu đó để tiêu hóa thức ăn. Hoặc giả nó đang làm kén, như giòi hóa ruồi hoặc chuyển thành một dạng kinh khủng hơn. Hoặc, đây là khả năng kinh tởm nhất, chúng đẻ trứng trong người cô, và sẽ có càng nhiều con nở ra và chén sạch cô.

Cô rùng mình và khóc vì sợ hãi và thất vọng.

Cơn đau làm cô không giữ nổi bình tĩnh. Mắt cô mờ đi và cô thấy mình đang sụt sùi khóc. Cô thấy ghê tởm bản thân nhưng cô không dừng lại được, dù cố đến thế nào. Để quên đi, cô nói chuyện với bản thân – hầu hết toàn chuyện vô nghĩa – về bất cứ thứ gì giúp cô tập trung vào vấn đề khác. Nó thành công, nhưng chỉ một chút.

Cô biết Galbatorix không muốn giết cô, nhưng co sợ cơn giận sẽ khiến lão đi xa hơn dự định. Cô run rẩy, toàn bộ cơ thể nóng bừng như thể cô bị hàng trăm con ong đốt. Sức mạnh ý chí có thể giúp cô chống chọi trong một thời gian dài; dù cô quyết tâm thế nào thì nó cũng chỉ có một giới hạn mà thôi. Và cô sợ cô đã vượt qua giới hạn. Cái gì đó sâu kín bên trong cô dường như đang vỡ vụn, và cô không tin mình có thể phục hồi sau vết thương.

Cánh cửa lại bật mở.

Cô cố tập trung xem ai tới.

Đó là Murtagh.

HẮn nhìn cô, môi cong lên, thở phì phò, lông mày nhíu chặt. Lúc đầu cô nghĩ hắn giận nhưng sau đó cô nhận ra thực ra hắn đang lo lắng và sợ hãi tới chết. Sự quan tâm của hắn khiến cô ngạc nhiên. Cô biết hắn thích cô – nếu không sao hắn nhọc công thuyết phục Galbatorix để cô sống? – nhưng cô không nghĩ hắn lại quan tâm tới cô nhiều.

Cô cố an ủi hắn bằng một nụ cười. Nụ cười có vẻ méo mó nên Murtagh nghiến răng như thể cố trấn tĩnh.

“Đừng cử động,” hắn nói và nâng tay lên trước người cô và bắt đầu lẩm bẩm bằng ngôn ngữ cổ.

Làm như tôi cử động được ấy, cô nghĩ.

Phép thuật có hiệu quả và dần dần, cơn đau qua đi, nhưng không biến mất hoàn toàn.

Cô nhíu mày không hiểu thì hắn nói, “Tôi xin lỗi. Tôi không thể làm gì hơn. Galbatorix sẽ biết tôi làm mất.”

“Vậy còn...còn Eldunarí của anh. Chắc chắn họ giúp được.”

Hắn lắc đầu. “Chỉ toàn rồng trẻ khi cơ thể họ chết đi. Họ biết rất ít về phép thuật và Galbatorix hầu hết dạy cho họ biết kể từ khi... tôi xin lỗi.”

“NHững thứ đó còn trong tôi không?”

“Không! Không. Galbatorix đã bắt chúng ta hết khi cô ngất đi.”

Cô an tâm hơn. “Câu thần chú của anh không làm tôi ngớt đau.” Cô cố không nói giọng buộc tội, nhưng cô không thể giấu sự tực giận trong giọng nói.

Hắn nhăn nhó. “Tôi không chắc vì sao. Dù sinh vật đó là gì, nó cũng không phải loại sinh vật bình thường.”

“Anh biết nguồn gốc của nó không?”

“Không. Hôm nay tôi mới biết khi Galbatorix mang nó tới từ phòng riêng.”

Cô nhắm mắt.

“Thả tôi ra.”

“Cô có chă...”

“Thả tôi ra.”

Hắn im lặng tháo còng cho cô. Sau đó cô ngồi dậy trong khi chờ đợi cơn đau đầu giảm đi.

“Đây,” Murtagh nói, đưa cho cô một chiếc áo choàng. Cô quấn nó quanh người, che cơ thể và giữ ấm và để cô không những thấy những vết bỏng, vết sẹo và những đường thâm tím.

Con giòi đất đã chui tới tận chân cô. Cô đi khập khiễn tới góc phòng. Cô dựa người vào tường và từ từ ngồi xuống.

Murtagh ngồi cạnh cô và cả hai nhìn chăm chăm bức tường đối diện.

Cô bắt đầu khóc.

Một lúc sau, hắn vỗ vai cô và cô giật nảy người. Cô không chịu được. Hắn đã làm cô bị thương vài ngày trước và dù cô biết hắn không muốn nhưng cô không thể quên chính hắn là người gí cây sắt nóng vào người cô.

Nhưng khi cô nhìn thấy phản ứng của hắn, cô vươn tay ra nắm lấy tay hắn. Hắn bóp nhè nhẹ những ngón tay cô, sau đó vòng tay quanh vai cô kéo coo lại gần. Cô phản kháng một lúc rồi cũng thư giãn trong vòng tay hắn và ngả đầu vào ngực hắn mà khóc. TIếng khóc vang vọng khắp phòng.

Vài phút sau, cô thấy hắn cử động và nói. “Tôi thề sẽ tìm cách thả cô ra. Đã quá muộn chô tôi và Thorn. Nhưng không phải cho cô. Miễn là cô không thề trung thành với Galbatorix, tôi sẽ có cơ hội đưa cô ra khỏi Urû’baen.”

Cô ngước mắt nhìn hắn và hiểu hắn thật lòng. “BẰng cách nào?” cô thì thào.

“Tôi không biết,” hắn thừa nhận cùng một nụ cười gượng gạo. “Nhưng tôi sẽ tìm ra cách. Dù thế nào tôi cũng tìm ra. Nhưng cô phải hứa với tôi sẽ không bỏ cuộc – cho tới khi tôi tìm ra cách chứ?”

“Tôi không nghĩ mình chịu nổi cái...vật đó thêm lần nữa. Nếu hắn cho nó vào người tôi, tôi sẽ cho hắn cái gì hắn muốn.”

“Cô sẽ không phải lam vậy; hắn không dịnh sử dụng lại con giòi đất.”

“...Vậy hắn định làm gì?”

Murtagh im lặng trong hơn một phút. “Hắn định làm méo mó những gì cô nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy và nếm thấy. Nếu không thành công, hắn sẽ tấn công đầu óc cô. Cô không thể chống lại hắn. Không ai có thể. Nhưng tôi chắc rằng trước khi hắn ra tay, tôi sẽ cứu được cô. Tất cả những gì cô cần làm là tiếp tục chiến đấu. Chỉ vài ngày thôi.”

“Làm sao tôi chiến đấu nổi khi không tin nổi giác quan của mình?”

“Hắn không thể làm chủ một giác quan của cô.” Murtagh xoay người nhìn thẳng vào mắt cô. “Cô có thể cho tôi chạm tới tư tưởng không? Tôi sẽ không đọc suy nghĩ của cô. Tôi chỉ muốn cô biết đầu óc tôi cảm nhận cái gì, để cô có thể nhận ra – cô có thể nhận ra tôi – trong tương lai.”

Cô lưỡng lự. Cô biết đây sẽ là một bước ngoặt. Hoặc cô đồng ý tin hắn hoặc từ chối. Nếu từ chối có thể cô sẽ mất đi cơ hội cuối cùng tránh trở thành nô lệ cho Galbatorix. Nhưng cô vẫn cảnh giác với những người muốn tiếp cận đầu óc cô. Murtagh có thể lừa cô hạ thấp lưới phòng vệ để hắn dễ dàng bước vào tư tưởng của cô. Hoặc có thể hắn muốn tìm kiếm thông tin trong đó.

Sau cùng cô nghĩ, Vì sao Galbatorix lại sử dụng mánh này? BẢn thân lão tự làm cũng được. Murtagh nói đúng; mình không thể chống lại lão...Nếu mình đồng ý với Murtagh, mình toi, nhưng nếu mình từ chối, mình toi chắc. Dù cách nào Galbatorix cũng tấn công mình được. Chỉ là vấn đề thời gian thôi.

“Cứ làm gì anh muốn,” cô nói.

Murtagh gật đầu và hơi nhắm mắt.

Trong tư tưởng bình lặng, cô bắt đầu ngâm nga một đoạn thơ cô hay sử dụng để giấu những suy nghĩ và bảo vệ trí óc khỏi kẻ xâm nhập. Cô tập trung vào nó, quyết tâm phản kháng lại Murtagh nếu cần và cố không nghĩ về những bí mật cô muốn giấu.

Ở El-harim có một người đàn ông mắt vàng

Ông ấy nói với tôi, “Hãy cẩn trọng với những lời nói thầm, vì chúng thì thầm những điều dối trá.

Đừng vật lộn với những con quỷ trong bóng tối,

Nếu không chúng sẽ đóng dấu lên đầu óc con;

Đừng nghe lời bóng tối thẳm sâu

Không chúng sẽ săn lùng con khi con say giấc ngủ.”

Khi tư tưởng của Murtagh chạm vào cô, cô khụt khịt mũi và tiếp tục lẩm nhậm đoạn thơ với nhịp điệu nhanh hơn. Cô ngạc nhiên vì tư tưởng của hắn khá quen thuộc với cô. Sự tương tự giữa tư tưởng của hắn và – Không, cô không thể nói của ai, nhưng tương đồng đến đáng ngạc nhiên nhưng cũng có những điểm khác biệt. Khác nhất chính là sự giận dữ của hắn, nằm ở trong tâm tưởng hắn như một trái tim đen lạnh lẽo bị bóp chặt và nằm im với những mạch máu của sự thù hận vươn ra khắp phần còn lại của tư tưởng. Nhưng sự quan tâm của hắn dành cho cô che lấp cơn giận. Cô đã biết hắn muốn giải cứu cô là thực, vì con người khó mà giấu được nội tâm. Cô tin Murtagh không lừa cô.

Hắn giữ đúng lời tiến sâu vào trí óc cô, và sau vài giây, hắn rút ra và cô lại thấy tư tưởng mình một mình.

Murtagh mở mắt và hắn nói. “Xong rồi. Giờ cô có thể nhận ra tôi nếu tôi chạm vào tư tưởng cô không?”

Cô gật đầu.

“Tốt. Galbatorix có thể làm nhiều việc nhưng lão không thể lừa cảm giác của trí óc. Tôi sẽ cố cảnh báo cô trước khi lão bóp méo các giác quan của cô và tôi sẽ liên hệ với cô khi lão ngừng lại. Bằng cách đó, lão sẽ không thể khiến cô rối trí.”

“Cám ơn anh,” cô nói và không thể diễn đạt được sự biết ơn bằng vài câu chữ ngắn ngủi đó.

“May là chúng ta có thời gian. Varden mới hành quân được ba ngày và các thần tiên sẽ nhanh chóng tiến tới từ mạn bắc;. Galbatorix đã đi để quan sát hàng phòng ngực của Urû’baen và thảo luận binh pháp với Lãnh chúa Barst là người chỉ huy quân đội trong thành phố.”

Cô nhíu mày. Cái này báo trước điềm gở. Cô đã nghe tới Lãnh chúa Barst, hắn mang tai tiếng nhất trong những quý tộc của triều đình Galbatorix. Người ta nói hắn có đầu óc bệnh hoạn và bàn tay đẫm máu. Chỉ có ai ngu ngốc mới thích đối chọi với hắn. Những kẻ đó chỉ có chết.

“Không phải anh ư?” cô hỏi.

“Galbatorix có kế hoạch khác cho tôi nhưng lão chưa nói.”

“lão sẽ bận chuẩn bị trong bao lâu?”

“Hết ngày hôm nay và cả ngày mai.”

“Anh nghĩ có thể thả tự do cho tôi trước khi lão quay lại không?”

“Tôi không biết. Có lẽ là không.” Họ ngừng lại không nói gì. Sau đó hắn nói. “Giờ tôi có câu hỏi cho cô: vì sao cô lại giết những người đó? Cô biết cô không thể thoát cơ mà. Có phải cô chỉ muốn chọc giận Galbatorix thật?”

Cô thở dài và đẩy người khỏi lồng ngực Murtagh để ngồi thẳng dậy. Hắn lưỡng lữ rời tay khỏi vai cô. Cô sụt sịt sau đó nhìn thẳng vào mắt hắn. “Tôi không thể nằm đó chờ hắn làm gì tôi thì làm. Tôi phải chiến đấu; tôi phải cho hắn thấy hắn không bẻ gẫy nổi tôi và tôi muốn làm hắn tổn thương trong khả năng của mình.”

“Đó là chọc giận đó!”

“Đúng một phần thôi. Thế thì sao?” Cô nghĩ hắn sẽ tỏ ra kinh tởm hay ghét hành động của cô, nhưng ngược lại,, hắn nhìn cô vẻ tán thưởng và môi cong lên thành một nụ cười nhỏ vẻ hiểu biết.

“Cô làm tốt lắm,” hắn trả lời.

Sau một lúc cô cười lại với hắn.

“Hơn nữa,” cô nói. “nếu có cơ hôi là tôi sẽ trốn.”

Hắn nhăn mặt. “Lúc đó thì rồng cũng ăn cỏ.”

“Kể cả vậy tôi cũng thử.”

:Tôi hiểu. Nếu tôi có thể tôi cũng sẽ làm điều tương tự khi Cặp song sinh mang tôi tới đây.”

“Và giờ?”

“Tôi không thể, mà dù tôi có thể, tôi làm có mục đích gì?”

Cô không biết trả lời sao. Họ im lặng. Cuối cùng cô cất tiếng, “Murtafh, nếu không thể cứu tôi khỏi đây, tôi muốn anh hứa với tôi rằng anh sẽ giúp tôi thoát bằng...cách khác. Tôi sẽ không yêu cầu anh...tôi không muốn đặt gánh nặng lên vai anh, nhưng có anh thì chuyện sẽ đơn giản hơn, vì tôi không có cơ hội làm một mình.” Môi hắn mím càng lúc càng chặt khi cô nói, nhưng hắn không ngắt lời. “Dù có chuyện gì xảy ra, tôi cũng không muốn bản thân trở thành đồ chơi cho Galbatorix. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì, bất cứ điều gì để tránh định mệnh đó. Anh hiểu không?”

Hắn gật đầu.

“Anh hứa với tôi nhé?”

Hắn nhìn xuống và nắm chặt tay, hơi thở hỗn loạn. “Ừ.”

Murtagh là người ít nói nên dù cô có gợi chuyện nhưng họ cũng chỉ nói về vài vấn đề nhỏ nhặt. Murtagh nói với cô về việc hắn cải tiến chiếc yên cương Galbatorix đưa hắn như thế nào – Murtagh rất tự hào vì nó giúp hắn lên xuống nhanh hơn, chũng như rút kiếm dễ hơn. Cô nói hắn về đường phố mua sắm tại Aberon, thủ đô của Surda, và khi con bé, cô thường chạy trốn vú nuôi thế nào để tới chơi ở đó. Cô thích những lái buôn du mục. Tên ông ấy là Hadamanara-no Dachu Taganna nhưng hắn thích cô gọi ông thân mật bằng cái tên Taganna. Ông bán đao kiếm và ông thường rất thích đưa cô đi xem gian hàng của mình, dù cô chẳng bao giờ mua cái gì.

Khi cô và Murtagh tiếp tục nói chuyện, họ trò chuyện càng lúc càng thân mật và thoải mái hơn. Dù họ đang trong hoàn cảnh chẳng lấy gì làm hay ho nhưng cô thích nói chuyện với hắn. Hắn thông minh và có học thức. Cô thích cách châm chọc của hắn, đặc biệt trong hoàn cảnh của cô.

Murtagh dường như cũng thích nói chuyện với cô. Nhưng được một lúc họ nhận ra nếu tiếp tục nói chuyện sẽ làm ngu ngốc. Họ có thể bị bắt gặp. Vì thế cô quay lại bàn đá, nằm xuống và để hắn trói lại.

Khi hắn định đi, cô nói. “Murtagh.”

Hắn dừng lại nhìn cô.

Cô lưỡng lự một lúc rồi dùng hết can đảm mà nói. “Vì sao?” Cô nghĩ hắn hiểu cô muốn nói gì. Vì sao lại là cô? Vì sao lại cứu cô, và giờ vì sao lại cố giải thoát cho cô? Cô đã đoán ra câu trả lời nhưng cô vẫn muốn nghe hắn nói.

Hắn nhìn cô rất lâu, lâu nhất từ trước tới giờ rồi nói bằng giọng trầm, khó hăn. “Nàng biết vì sao mà.”

__________________

GIỮA ĐỐNG ĐỔ NÁT

Những đám mây xám xịt dày tan đi. Từ trên lưng Saphira, Eragon chiêm ngưỡng đảo Vroengard.

Trước mắt họ là một thung lũng lòng chảo bao quanh bởi những dãy núi vòng cung cao vượt những đám mây. Trong khi rừng rộng lớn là những cây gỗ vân sam, thông, linh sam che phủ sườn núi cũng như chân núi. Trông chúng như một đội quân những chiến binh đầy gai hành quân từ đỉnh núi xuống. Những cái cây lớn và rậm rạp đến mức từ trên cao Eragon cũng thấy rêu và địa y bám lên những cành cây chắc nịch. Màn sương mù trắng phủ lên sường núi, và tại một vài chỗ trong thung lũng, mưa đang giăng giăng.

Trên mặt thung lũng là những tảng đá đủ loại: những tảng đá trước là lối vào những hang động; những đá phiên thuộc về những tòa tháp đã bị thiêu trụi; đá lát đại sảnh với mái đã sập xuống; và vài tòa nhà nhỏ hơn trông có vẻ vẫn ở được.

Hơn mười hai con sông chảy từ núi xuống và uốn lượn dọc mặt đất phủ cây lá xanh tươi tới khi đổ vào một hồ nước lớn yên ả gần trung tâm thung lũng. Xung quanh hồ là phần còn lại của thành phố của các Kỵ sĩ, Doru Araeba. Những tòa nhà khổng lồ - những căn phòng lớn tới mức có thể chứa toàn bộ dân làng Carvahall. Mỗi cánh cửa đều giống như lối vào một động lớn rộng mênh mông chưa người khám phá. Mỗi cánh cửa sổ đều cao và lớn như cổng lâu đài và mỗi bức tường đều phẳng và dựng đứng.

Những cây trường xuân ken dầy trên những phiến đá. Ở những nơi không có trường xuân thì có rêu phủ khiến những tòa nhà trông giống như mọc lên từ lòng đất. Những tảng đá có vẻ từng có màu vàng đất, dù được sơn màu đỏ, nâu, hay xanh dương.

Với kiến trúc đặc trưng của thần tiên, những ngôi nhà trông duyên dáng và thon dài hơn những tòa nhà của loài người và người lùn. Nhưng ở chúng có sự rắn chắc và quyền lực mà những căn nhà cây ở Ellesméra thiếu. Eragon thấy thấp thoáng bóng dáng những căn nhà ở Thung lũng Palancar. Nó nhớ tới những kỵ sĩ rồng loài người đầu tiên đã tới vùng đất này của Alagaësia. Nhờ có ông mà ở đây kiến trúng rất đặc trưng, không hoàn toàn theo kiểu thần tiên hay loài người.

Hầu hết các tòa nhà đã bị hư hại nhưng một số còn hỏng nghiêm trọng hơn. Sự tổn thất dường như tỏa ra từ một điểm nhỏ phía bắc thành phố, nơi có một hố sâu xuống lòng đất khoảng 6m. Những cây phong mục bật rễ và những chiếc lá úa của nó lay động trong gió.

Khu vực trông trong thành phố giờ là nơi sinh sống của tảo và cây bụi. Những mảnh kính vỡ rơi đầy trên những phiến đá lát đường. Nơi những tòa nhà che chắn cho Vườn Thượng Uyển khỏi vụ nổ tàn phá thành phố, những bông qua màu xám xịt vẫn mọc theo kiểu trang trí nghệ thuaatj, hình dáng của chũng chắc chắn đã được định hình bằng những câu thần chú đã chìm vào quên lãng.

Tất cả các phần của thung lũng cùng nhau phô bày một bức tranh ảm đạm.

Hãy chứng kiến sự tan hoang của cái vốn là niềm tự hào và kiêu hãnh của chúng ta, Glaedr nói. Sau đó: Eragon, con phải đọc một câu thần chú khác. Như thế này này - Và ông đọc vài dòng bằng ngôn ngữ cổ. Đó là một câu thần chú kỳ lạ; từ ngữ tối nghĩa và quên vào nhau. Bản thân Eragon chẳng hiểu nó dùng làm gì.

Khi nó hỏi Glaedr, ông rồng già nói, Ở quanh đây có thứ thuốc độc vô hình, trong không khí con đang hít thở, ở mặt đất con bước đi và thức ăn và nước uống. Câu thần chú sẽ bảo vệ chúng ta.

Độc...gì? Saphira hỏi, ý nghĩ của cô nàng chậm như những nhịp đập cánh.

Eragon thấy từ Glaedr hình ảnh hố sâu trong lòng thành phố và ông rồng nói, Trong trận chiến với THập tam phản đồ, một trong số chúng ta, một thần tiên có tên Thuviel đã dùng phép thuật để tự sát. Dù cố tình hay hữu ý thì con cũng thấy kết quả rồi đó. Vụ nổ đã khiến nơi này không còn ai có thể sống nổi. Những người còn lại nhanh chóng bị nhiễm trùng da và rụng tóc. Sau đó nhiều người đã chết.

Eragon lo lắng đọc thần chú – cần khá ít năng lượng – trước khi nói, Làm sao một người, kể cả có là thần tiên chăng nữa lại gây thiệt hại lớn thế này? Dù có sự giúp sức của con rồng đi nữa, con không nghĩ Thuviel có khả năng gây ra chuyện này, trừ khi con rồng của ông ấy phải to cỡ quả núi.

Con rồng không giúp, Glaedr nói. Con rồng đó đã chết. Không, tự Thuviel đã gây ra đó.

Nhưng bằng cách nào?

Cách duy nhất là biến toàn bộ da thịt thành năng lượng.

Ông ấy trở thành một linh hồn ư?

Không, Năng lượng một khi không có tư tưởng và vật chứa đựng sẽ tỏa ra tới khi biến mất hết.

Con không biết một cơ thể lại chứa đựng nhiều năng lượng tới vậy.

Ít người biết, nhưng dù những vật nhỏ nhất cũng chứa một lượng năng lượng lớn. Vấn đề là thường năng lượng ở trạng thái đóng băng. Nếu con đốt nóng nó, con sẽ gây ra một cơn lũ ít người có thể chịu đựng nổi... Người ta nói là tận Teirm còn nghe thấy tiếng nổ và khói bụi bay cao bằng đỉnh núi Beor.

Đó là vụ nổ giết chết Glaerun phải không ạ? Eragon hỏi, nhớ tới một trong Thập tam phản đồ chết ở Vroengard.

Đúng. Galbatorix và những tên phản đồ còn lại đã có thời gian chuẩn bị và có thể bảo vệ bản thân. Nhưng rất nhiều đồng minh của chúng ta không có được may mắn đó và đã chết.

Khi Saphira chao cánh xuống dưới những đám mây, Glaedr hướng dẫn cô nàng cách bay tới phần tây bắc thung lũng. Glaedr đọc tên từng ngọn núi cô nàng bay qua: Ilthiaros, Fellsverd, and Nammenmast, cùng với Huildrim vàTírnadrim. Ông cũng đọc tên rất nhiều những toa fnhaf và những ngọn tháp đổ bên dưới, và ông đã dạy lịch sử cho Eragon và Saphira, dù chỉ Eragon chú ý tới lời giảng giải của ông rồng già.

Trong tâm tưởng Glaedr, Eragon cảm nhận được một nổi buồn từ lâu bị đánh thức. Nỗi buồn này không chỉ vì sự sụp đổ của Doru Araeba mà còn vì cái chết của cac Kỵ sĩ, loài rồng gần như tuyệt diệt và các giống loài đã mất đi hàng ngàn năm gom nhặt kiến thức và sự hiểu biết. Ký ức về những gì đã xảy ra – mà ông rồng từng có với những người khác – càng làm thêm sự độc bá của Glaedr. Cái đó cùng với nỗi buồn của ông rồng tạo nên một cảm giác phiền muộn khiến Eragon buồn theo.

Nó hơi rút lui khỏi tư tưởng Glaedr nhưng trông thung lung vẫn ảm đạm và thê lương như chính thung lũng đang khóc than cho ngày tàn của những Kỵ sĩ.

Saphira bay càng thấp thì các tòa nhà càng lớn. Khi kích cỡ thật của chúng lộ ra, Eragon nhận ra rằng những gì nó đọc trong Domia abr Wyrda không hề phóng đại: những đại lộ lớn khổng lồ. Saphira hoàn toàn có thể bay trong đó.

Gần thành phố bị lãng quên là những khúc xương trắng khổng lồ ngổn ngang mặt đất: đó là bộ xương rồng. Cảnh tượng khiến nó khiếp sợ nhưng nó không thể rời mắt. Nó ấn tượng về kích thước. Vài con rồng nhỏ hơn Saphira nhưng hầu hết lớn hơn rất nhiều. Bộ xương to nhát nó nhìn thấy có khi phải dài 24m, rộng 4,5m. Chỉ riêng một cái bộ xương - bị phủ địa y trong như một tảng đá sần sùi – dài hơn và cao hơn cả người Saphira. Kể cả ông Glaedr cũng chỉ nhỏ xíu so với con rồng chết đó.

Đó là Belgabad, con rồng vĩ đại nhất, khi nhận ra sự chú ý của Eragon ông rồng già giải thích.

Eragon nhớ mang máng cái tên đó từ những cuốn sách lịch sự nó đọc hồi ở Ellesméra; tác giả chỉ viết là ông rồng đó đã xuất hiện và biến mất trong trận chiến, thế thôi.

Kỵ sĩ của ông ấy là ai? Nó hỏi.

Ông ấy không có kỵ sĩ. Ông ấy là một con rồng hoang dã. Ông ấy đã sống một mình trong hàng thế kỷ ở con sông băng ở phía bắc. Nhưng khi Galbatorix và Thập tam phản đồ giết loài chúng ta, ông ấy đã tới giúp sức.

Ông ấy là con rồng lớn nhất phải không ạ?

Lớn nhất á? Không. Chỉ tính tại thời điểm đó thôi.

Sao ông ấy tìm đủ thức ăn chứ?

Khi tới độ tuổi và kích thước đó, rồng thường dùng hầu hết thời gian ngủ đông, mơ mộng về những ngôi sao, những ngọn núi nâng lên hạ xuống trong hàng thiên niên kỷ hoặc thậm chí những thứ nhỏ bé như chuyển động của cánh bướm. Lúc này ta đã cảm thấy muốn mơ nhưng ta thức vì ta còn có việc cần làm.

Người...có...biết...Belgabad? Saphira hỏi, cố nói từng từ vì mệt nhọc.

Ta đã gặp ông ấy nhưng ta không biết ông ấy. Luật là, những con rồng hoang dã không đi cùng những con rồng được gắn kết với Kỵ sĩ. Họ coi thường chúng ta vì chúng ta bị thuần hóa và hay ỉ ôi kêu ca. Còn chúng ta coi thường họ vì họ bị bản năng lấn át quá nhiều, nhưng đôi khi chúng ta tôn trọng họ vì lý do tương tự. Nhưng, con phải nhớ, họ không nói ngôn ngữ của chúng ta. Chính vì thế chúng ta và họ khác biệt nhiều hơn con nghĩ. Ngôn ngữ giúp giải thích tư tưởng theo cách khó có thể giải thích được. Những con rồng hoang dã có thể giao tiếp hiệu quả như bất cứ người lùn hay thần tiên nào, nhưng họ không biết cách chia sẻ ký ức, hình ảnh, cảm xúc bằng từ ngữ. Họ cứng đầu không chịu học.

Glaedr ngừng lại rồi nói thêm, Nếu ta nhớ đúng, Belgabad là tổ tiên xa của Hắc long Raugmar và ta chắc con nhớ, Saphira, Raugmar là cụ cố của mẹ con, Vervada.

Saphira mệt mỏi nên rất chậm chạp trong phản ứng. Mãi lúc sau, cô nàng mới ngoái cổ lại nhìn cái bộ xương to tướng đó. Ông ấy phải là một thợ săn giỏi.

Ông ấy là người giỏi nhất, Glaedr nói.

Vậy...con mừng vì mang trong mình dòng máu của ông ấy.

Những khúc xương rải rác trên mặt đất làm Eragon ấn tượng. Tới lúc này nó mới hiểu hết quy mô trận chiến và số lượng rồng từng sinh sống trên mặt đất. Cảnh tượng làm nó thêm ghét Galbatorix, và một lần nữa nó thể sẽ giết nhà vua.

Saphira bay xuống một màn xương mù, những đám mây bay bay ở đầu cánh cô nàng trông như những xoáy nước nhỏ xíu trên trời. Sau đó một bải cỏ rậm rạp chạm vào và cô nàng hạ cánh nặng nề. Chân phải cô nàng chông xuống, cô nàng đổ sang một bên, ngã đập ngực và vai xuống với một lực đủ khiến Eragon, nếu không có lưới phòng vệ đã bị lưỡi giáo phía trước đâu thủng họng.

Sau đó cô nàng năm im bất động. Sau rốt, cô nàng từ từ co chân, gấp cánh, cuộn tròn lại.

Eragon thả dây quấn chân, nhảy xuống đất. Đất ướt và mềm. Nó khuỵu một bên gối xuống vì bốt lún sâu trong đất.

“Chúng ta tới rồi,” nó thích thú nói. Nó tới chỗ đầu Saphira. Khi cô nàng cúi đầu nhìn vào mắt nó, nó đặt tay lên đầu cô nàng và đặt trán lên mũi cô nàng.

Cám ơn em, nó nói.

Nó nghe có tiếng cụp khi cô nàng khép mi mắt lại, sau đó đầu cô nàng rung lên cùng tiếng rừ rừ sâu trong lòng ngực.

Sau một lúc, Eragon thả cô em nó ra và nhìn khung cảnh xung quanh. Cánh đồng Saphira vừa đáp xuống ở ngoại ô phía bắc thành phố. Những mảnh đá lát sàn vỡ - có mảnh to gần bằng Saphira – nằm rải rác trên cỏ. Eragon nhẹ nhõm vì cô nàng tránh được chúng.

Cánh đồng dốc lên, xa khỏi thành phố, tới một chân núi gần nhất phủ kín cây. Nơi cánh đồng và ngọn đồi gặp nhau là một khoảng đất trống được lát đá bừng khẳng. Phía bên kia khoảng đất trống là những cột đá lớn kéo dài nửa dặm về phía bắc. Chắc đây từng là tòa nhà lớn nhất và được trang trí kỳ công nhất.Eragon thấy những cột đá được trang trí cũng như những cây hoa và dây leo quấn quanh đầy nghệ thuật cùng với rất nhiều bức tượng nhưng hầu hết chúng đã mất mất vài phần, như thể chính chúng cũng tham gia trận chiến.

Đây là Đại Thư Viện, Glaedr nói. Hoặc là cái còn lại sau khi bị Galbatorix đập phá.

Eragon từ từ quay người quan sát khu vực xung quanh. Ở phía nam thư việc là một con đường mòn đã mờ dấu chân người mọc đầy cỏ dại. Con đường mòn dẫn từ thư viện tới một vườn táo bị khuất khỏi tầm nhìn. Sau những cây tạo là một tảng đá lớn vươn lên cao khoảng 60m, trên đó mọc lên vài cây bách xù.

Eragon mừng rỡ. Nó chắc chắn dù vẫn hỏi, Có phải nó không sư phụ? Có phải tảng đá Kuthian đây không?

Eragon có thể nhìn thấy Glaedr đang dùng mắt nó để nhìn, rồi ông rồng già nói, Ta thấy nó rất quen nhưng ta không thể nhớ ta đã từng nhìn thấy nó khi nào...

Eragon không cần ông nói gì thêm. “Đi nào!” nó nói. Nó bước qua những cây cỏ cao tới thắt lưng tiến tới con đường mòn gần nhất.

Cỏ mọc không quá dày. Nó có thể cảm nhận những tảng đá cuội cứng dưới từng bước chân thay vì mắt đất ướt đẫm nước mưa. Với Saphira ở sát sau, nó nhanh chóng đi trên đường, và họ cùng nhau bước dưới bóng cây táo. Cả hai người đều cẩn trọng, vì những cái cây có vẻ nguy hiểm và đang quan sát chúng. Những cành cây quá lớn như thể chúng là những móng vuốt vậy.

Eragon không cố ý thở dài vì an tâm khi đi ra khỏi bóng cây.

Tảng đá Kuthian đứng sừng sững trước một vườn hoa hồng, cây kế, cây mâm xôi, và cây thủy độc cần. Đằng sau tảng đá là những cây gỗ vân sam kéo dài tới tận ngọn núi cao cao phía sau. Tiếng những con sống kêu vang trong khắp khu rừng. Nhưng họ chỉ nghe thấy tiếng chứ không hề nhìn thấy chúng.

Ba chiếc ghế đá – hình dạng của chúng nửa bị che dưới những rễ cây, dây leo và cây leo – nằm cách nhau một quãng dều đặn quanh khu đất trống. Ở một bên là những cây liễu từng là nơi cho các Kỵ sĩ ngồi dưới bóng cây mà ngắm cảnh. Nhưng đã qua hàng trăm năm và những cây đã quá lớn, cành lá ken quá dày. Không một con người, thần tiên hay người lùn có thể chui vào nổi.

Eragon dừng lại trước khoảng trốn nhìn Tảng đá Kuthian. Bên cạnh nó, Saphira nằm xuống làm rung chuyển mặt đất và khiến nó cúi chân để giữ thăng bằng. Nó vỗ vai cô em, rồi nhìn tòa tháp đá. Nó thấy lo lắng.

Eragon mở toang đầu óc tìm kiếm khu đất trống và những cái cây đằng sau xem có ai đang theo dõi chúng không. Nó chỉ cảm nhận thấy những cái cây, những con chuột chũi, chuột nhắt, côn trùng và những con rắn sọc trong những bụi rậm mà thôi.

Sau đó nó bắt đầu đọc câu thần chú cho phép nó biết có bất cứ bẫy pháp thuật nào xung quanh. Trước khi nó đọc được vài từ, Glaedr nói. Dừng lại. Con và Saphira đã quá mệt. Trước tiên hãy nghỉ ngơi; ngày mai chúng ta sẽ quay lại và tìm xem có gì không.

Nhưng...

Hai còn không thể tự bảo vệ mình nếu chúng ta buộc phải chiến đấu. Dù chúng ta cần tìm gì thì cứ để sáng mai đi.

Eragon lưỡng lự rồi buộc phải dừng câu thần chú. Nó biết Glaedr đúng, nhưng nó ghét phải chờ đợi trong khi nhiệm vụ sắp hoàn thành.

Tốt thôi, nó nói và trèo lên lưng Saphira.

Với một tiếng hốp, cô nàng đứng lên và từ từ quay người đi dưới bóng cây táo. Dưới bươc chân cô nàng, nhiều cây rụng ra, một trong số đó rơi vào lòng Eragon. Nó nhặt lá lên và định ném đi thì nhận ra lá có hình dạng kì lạ. Răng cưa nó dài hơn và rộng hơn những lá táo nó từng nhìn, những đường gân lá chạy theo đường bất kỳ chứ không theo hình mạng thông thường.

Nó nhặt thêm một chiếc lá nữa vẫn còn xanh. Giống như chiếc lá vừa rồi, chiếc lá xanh này có đường răng cưa lớn và mạch gân là lạ.

Từ sau trận chiến, mọi thứ đã không còn như nó vốn có, Glaedr nói.

Eragon nhíu mày và ném chiếc lá đi. Một lần nữa nó nghe thấy tiếng sóc kêu nhưng không nhìn thấy con nào dù tư tưởng nó cảm nhận được chúng.

Nếu anh có vảy, chắc anh dựng ngược vảy lên rồi, nó nói với Saphira.

Một cột khói nhỏ bay lên từ lỗ mũi cô nàng khi cô nàng khụt khịt vẻ thích thú.

Từ dưới tán vây, cô nàng đi về phía nam tới một dòng suối chảy xuống từ trên núi. Tới đó, Saphira quay mình và đi theo dòng suối tới một cánh đồng phía trước khi rừng xanh ngắt.

Đây, Saphira nói rồi nằm xuống.

Đây có vẻ là một nơi cắm trại tốt. Saphira không thể tìm kiếm hơn nên Eragon đồng ý và trèo xuống. Nó dừng lại để chiêm ngưỡng cảnh sắc nhìn từ thung lũng. Sau đó nó tháo yên và túi xách trên lưng Saphira xuống. Cô nàng lắc đầu, đảo vai và vặn cổ liếm chỗ ngực bị dây sít vào.

Sau cùng, cô nàng cuộn tròn trên cỏ, chuồi đầu dưới cánh và quấn đuôi quanh mình. Đừng đánh thức em trừ khi có cái gì đó định thịt chúng ta, cô nàng nói.

Eragon mỉm cười và vỗ đuôi cô nàng, sau đó nhìn thung lũng lần nữa. Nó đứng đó rất lâu, hầu như không suy nghĩ gì mà chỉ quang sát mà thôi.

Cuối cùng nó lấy túi ngủ ra nằm cạnh Saphira.

Người trông chừng cho chúng con nhé? Nó nhờ Glaedr.

Ừ, nghỉ ngơi đi và đừng lo nghĩ gì.

Eragon gật đầu dù Glaedr không nhìn thấy nó. Sau đó nó chui vào trong chăn và để mình lang thang trong những giấc mơ.

__________________

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#eragon