Gia Cat Luong

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

» Hồ sơ khám phá

Chướng ngại lớn nhất cho việc nắm quyền lực của Gia Cát Lượng là ai? Thực không có gì phải nghi vấn, đó chính là Quan Vũ. Quan Vũ kiêu hùng đã sớm nổi danh. Năm Kiến An thứ 19 (năm 214), Lưu Bị tấn công Ích Châu, Mã Siêu ở Tây Lương tới đầu quân. Mã Siêu vốn là một hổ tướng có tiếng đương thời. Lưu Bị được bèn lập tức phong làm Bình Tây tướng quân, địa vị tương đương với Quan Vũ. Quan Vũ ở Kinh Châu nghe được tin cực kỳ bất mãn, lập tức viết thư cho Gia Cát Lượng “Như Siêu có thể so với ai?”. Gia Cát Lượng viết thư khéo léo đáp lại rằng: “Mạnh Khởi (Mã Siêu) tài kiêm văn vũ, dũng liệt hơn người, là hào kiệt một thời…. nhưng cũng chẳng sánh được với tướng quân…”. Quan Vũ đọc xong thư mà dương dương tự đắc.

Năm Kiến An thứ 24 (năm 219) Lưu Bị tự xưng làm Hán Trung vương, muốn trọng dụng Hoàng Trung làm Hậu tướng quân “Gia Cát Lượng bèn nói với tiên chủ: Danh vọng của Trung không thể cùng với Quan, Mã, nay lại tương vi. Mã, Trương ở gần có thể nói tường tận. Quan nay ở xa chỉ e không vui. Có nên hay chăng? Tiên chủ nói: Ta tự có cách giải thích” (Thục thư – Hoàng Trung truyện). Lưu Bị nói “Ta tự có cách giải”, thực ra chỉ là phái Ích châu tiền bộ Tư Mã Phí Thi đi trước. Tam Quốc chí - Phí Thi truyện viết: “Lưu Bị sai Thi tới phong Quan Vũ làm Tiền Tướng Quân, Vũ nghe được Hoàng Trung phong làm Hậu tướng quân bèn đại nộ mà rằng: Đại trượng phu sao có thể cùng sánh ngang với lão binh. Không chịu thụ phong”. Quan Vũ cuồng vọng tới thế, Gia Cát Lượng sao không trừng trị mà người lại còn lựa ý của Vũ để mà lấy lòng?

Cô (ta) nay có Khổng Minh, như cá gặp nước, các người chớ nói nhiều. Vũ, Phi bèn thôi” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Có thể thấy Quan Vũ, Trương Phi vốn không đặt Gia Cát Lượng vào trong mắt mình, đối với Lưu Bị càng ngày càng thân với Gia Cát thì lòng không vui.

Năm Kiến An thứ 13 Tào Tháo xuất quân xuống phía nam. Muốn một trận quét sạch Đông nam, Lưu Bị thân cô thế quả, lại không có chốn dung thân, tình hình ngàn cân treo sợi tóc. “Gia Cát Lượng năm đó 27 tuổi, tự dâng sách lược, thân đi sứ Tôn Quyền, cầu viện nơi Ngô hội, Quyền cũng có ý với Bị, lại them thấy Lượng kỳ nhã, càng thêm kính trọng lập tức sai ba vạn quân tới phù trợ Bị. Bị được đắc dụng cùng Vũ đế giao chiến, đại phá được quân địch, thừa thắng ruổi quân, Giang Nam được bình” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Trong trận Xích Bích, Gia Cát Lượng lập được đại công, không những củng cố lại địa vị trong tập đoàn Lưu Bị mà còn gây được uy tín. Quan Trương hai người cũng không còn dám xem thường nữa. Nhưng Quan Vũ từ sự khinh thị của quá khứ mà biến thành đố kị Gia Cát Lượng. Vương Phu Chi đối với việc này từng nói:

Chiêu Liệt bại ở Trường Bản mà quân của Vũ toàn vẹn, Tào Tháo qua sông, mà không một tay thi thố được. Mà Gia Cát công đông sứ, Lỗ Túc tây kết, định phân bang giao hai nước, Tôn thị phá Tào. Công không ở Vũ, mà ở Lượng. Lưu Kỳ nói : Triều đình dưỡng binh ba mươi năm mà nay đại công ở tay một nho sinh. Cho nên Vũ càng kị Gia Cát và kị Túc”.

Quan Vũ và Trương Phi tính cách vốn không giống nhau “Vũ thiện đối đãi với sĩ tốt nhưng kiêu căng kinh bạc đối với sĩ đại phu, Phi thì yêu kính quân tử nhưng ghét kẻ tiểu nhân” (Thục thư – Trương Phi truyện). Trương Phi đối với những sĩ đại phu có tài năng thì mười phần kính trọng, nhưng Quan Vũ đối với sĩ đại phu thì khó chịu. Gia Cát Lượng lại là sĩ đại phu đứng đầu trong tập đoàn của Lưu Bị, đương nhiên cũng ở trong đó. Gia Cát Lượng đối với việc Quan Vũ coi thường mình cũng thực rõ ràng nhưng vì kị việc Vũ “tình như thủ túc” đối với chủ công, lại thêm rằng thời gian theo Lưu Bị so với Quan Vũ thì muộn hơn nhiều, quan chức cũng kém hơn Quan Vũ, nên không thể không khéo léo mà xử thế. Gia Cát Lượng tính toán không phải là như thế nào để trừng phạt Quan Vũ, mà là giải quyết vấn đề từ căn bản, chờ đợi thời cơ để giết Quan Vũ.

Năm Kiến An thứ 24, Quan Vũ phát động chiến dịch Tương Phàn, tuy uy trấn Hoa Hạ, nhưng cuối cùng dẫn tới việc Kinh châu thất thủ, bản thân thì bị Tôn Quyền giết chết. Trong đó có rất nhiều điểm khiến người ta phải nghi ngờ.

Trước và sau chiến dịch Tương Phàn, sứ giả hai nước Ngô, Ngụy qua lại không ngừng, cùng bàn mưu tấn công Quan Vũ, có thể nói là không dong trống mở cờ mà lặng lẽ phối hợp với nhau. Lưu Bị và Gia Cát Lượng đối với việc này hòa toàn không biết nên không hề ra một mệnh lệnh nào cho Quan Vũ. Điểm làm người ta nghi ngờ là, Khi Tào Tháo đem quân xuống Ma Bi, không ngừng điều khiển Vu Cấm, Bàng Đức, Từ Hoảng tới viện trợ Phàn thành, hành động quân sự lớn như thế, Thục Hán cũng không hề sử dụng bất cứ một đối sách nào. Cuối cùng Quan Vũ thất bại mà chạy ra Mạch Thành, trước cảnh toàn quân sắp bị tiêu diệt mà viện binh của Thục quân vẫn không thấy đâu. Điều này cũng là một điểm rất đáng nghi ngờ. Quốc học đại sư Chương Thái Viêm có kiến giải độc đáo rằng: “Bại ở Lâm Thư (nơi Quan Vũ bị giết) Gia Cát Lượng không lấy một tốt tới cứu viện. Kẻ ngu muội cười rằng không biết nhìn xa…

Họ Chương luận rằng Gia Cát Lượng bởi thấy “Quan Vũ là một hổ tướng… không trừ đi tất về sau sẽ khó trị được, nên không tiếc Kinh Châu, mượn tay người Ngô, để lấy mạng của Quan Vũ”. Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu, tay nắm trọng binh, cực kiêu ngạo cuồng vọng, không những đời sau (Sau khi Lưu Bị chết) khó đối phó, mà ngay khi Lưu Bị còn sống Gia Cát Lượng cũng khó lòng vượt qua được chướng ngại Quan Vũ. Muốn nắm được đại quyền. Gia Cát Lượng tình nguyện đánh đổi Kinh Châu, mượn tay người Ngô để trừ khử Quan Vũ.

Kiến giải này của Chương thị thực là gan lớn. Đây đương nhiên chỉ là phỏng đoán. Họ Chương đối với những lí do nêu trên cho là chưa đủ, không lâu sau lại bổ sung thêm rằng: “Việc chính ở tay tiên chủ, Vũ Hầu đương sách hoạch việc an dân, chẳng thể lĩnh hết... Bại ở Kinh châu trước ở chỗ khinh Ngô, sau ở chỗ không có viện quân, đấy cũng chính là lỗi ở tiên chủ”.

Đem việc bại ở Kinh Châu mà nói là do Lưu Bị có lòng khinh địch, thực hơi có phần khiên cưỡng. Khi đó thực là Gia Cát Lượng không thể quản hết được việc quân chính đại quyền nhưng rõ ràng Gia Cát Lượng biết việc Quan Vũ tấn công Tương Phàn vào lúc điều kiện chưa đủ chin muồi, hoàn toàn đi ngược lại với Long Trung đối là đợi thiên hạ có biến, và sách lược hai đường cùng bắc phạt Tào Ngụy. Nhưng trong Tam Quốc Chí chính văn và cả bản chú của họ Bùi thì đều không hề thấy ghi chép Gia Cát Lượng khuyên gián.

Hơn nữa, cho dù Lưu Bị có sủng tín, thoải mái với Quan Vũ, không coi Long Trung đối là gì. Nhưng sau khi chiến dịch Tương Phàn chiến thắng, Lưu Bị, Gia Cát Lượng không thể không toàn lực quan sát từng bước của chiến dịch. Cho dù đường đi lối lại giữa Xuyên, Ngạc có cách trở, giao thông không tiện, tin tức truyền bá khó khăn, nhưng cả chiến dịch Tương Phàn từ tháng 7 năm Kiến An thứ 24 tới tháng 12 thì kết thúc, thời gian dài gần một nửa năm. Thục Hán bây giờ là một chính quyền hoàn chỉnh, không thể thiếu những con đường truyền tin. Quan Vũ tiến công Tương Phàn, giữ Kinh Châu binh lực không đủ, lại thêm lúc này liên minh Tôn Lưu đã bị phá vỡ, “bọ ngựa bắt ve, chim sẻ ở sau”, Tôn Ngô lúc nào cũng có thể tới cướp Kinh Châu. Gia Cát Lượng là người hiểu thấu binh pháp, chẳng nhẽ cũng không biết việc này?

Ai cũng đều biết Gia Cát Lượng một đời làm việc cẩn thận, không hề có chuyện mạo hiểm. Sao lại không nhắc nhở Lưu Bị đây? Phương Thi Minh tiên sinh trong Lưu Bị và Quan Vũ đã làm biến đổi nguyên ý của Chương Thái Viêm tiên sinh, đem “Gia Cát Lượng không trừ Quan Vũ tất đời sau khó trị được” mà đổi thành “Lưu Bị không trừ (Quan Vũ) thì đời sau khó trị được”. Cách “ghép cành” này thực không thể được. Tôi cho rằng chỉ cần Gia Cát Lượng làm đúng chức trách của một quân sư, lúc nào cũng có thể đem tình thế nguy hiểm của Kinh Châu mà nói với Lưu Bị. Lưu Bị cùng Quan Vũ tình thân như thủ túc, không thể nào chỉ có đứng nhìn việc Quan Vũ chiến bại ở Lâm Thư mà không một binh một tốt cứu viện. Cho nên người thực sự đưa Quan Vũ lên đoạn đầu đài không phải ai khác mà là chính là Gia Cát Lượng.

Chức thừa tướng, Gia Cát Lượng là lựa chọn cuối cùng?

Sau khi Quan Vũ chết, địa vị và quyền lực của Gia Cát Lượng được nâng cao rõ rệt nhưng vẫn chưa tới mức “trên vạn người, dưới một người”. Sau khi vào Thục, Lưu Bị tín nhiệm Pháp Chính hơn hẳn Gia Cát Lượng. Đối với điều này Gia Cát Lượng cũng rất rõ. Lưu Bị Đông Chinh “phục nỗi nhục Quan Vũ”, quần thần thay nhau khuyên gián, Lưu Bị nhất loạt đều không nghe. “Năm Chương Vũ thứ 2 đại quân thất bại, trú ở Bạch Đế, Lượng than rằng: Pháp Hiếu Trực (Pháp Chính) nếu còn, chắc có thể ngăn được chủ công Đông hành, dù có Đông hành cũng không tới nguy địa thay!” (Thục thư – Pháp Chính truyện). Đối với việc Lưu Bị phát động cuộc chiến ở Di Lăng, Gia Cát Lượng có ngăn cản hay không, bởi sử không chép nên không thể biết được. Nhưng từ lời nói trên có thể thấy được rằng Pháp Chính ở trong lòng Lưu Bị thực Gia Cát Lượng không thể bằng!

Lưu Bị nhập Xuyên chủ yếu là nhờ công Pháp Chính, Pháp Chính không những trợ giúp Lưu Bị lấy được Ích Châu, định Hán Trung, kiến lập được công lao trác việt, lại “có thừa trí thuật, hiểu ý chủ nhân”. “Tiên chủ cùng với Tào công tranh, thế có bất lợi, nên lui, nhưng tiên chủ đại nộ mà không chịu lui, bèn không dám can gián nữa. Tên bắn như mưa, Chính bèn lên phía trước tiên chủ, tiên chủ nói rằng “Hiếu Trực che tên” Chính nói “Minh công là giường cột sao có thể giống với bọn tiểu nhân được” Tiên chủ bèn nói “Hiếu Trực, ta với ngươi cùng đi”…

Từ đó đủ thấy Pháp Chính đối với Lưu Bị có thể nói là lấy thân tương trợ, việc việc đều thủ tín với Bị. Công phá được Thành đô Lưu Bị phong Chính là Thục quận thái thú, Dương Vũ tướng quân, ngoài giữ chốn kinh kỳ, trong làm mưu thần… Pháp Chính thân kiêm chức vụ trọng yếu ở trong ngoài, cũng chính là sự thể hiện của việc Lưu Bị cực kỳ tín nhiệm. Có người nói với Gia Cát Lượng rằng :

Pháp Chính làm thái thú Thục quận mà tung hoàng, tướng quân nên khởi bẩm chủ nhân, giảm bớt uy khí. Lượng đáp rằng: Chủ nhân phía bắc sợ Tào Tháo thế mạnh, đông sợ Tôn Quyền bức hiếp, gần đây lại thêm việc của Tôn phu nhân, tiến thoái khó khăn, Pháp Hiếu Trực lại là người phù trợ, sao có thể ngăn được Pháp chính không làm theo ý mình được” (Thục thư – Pháp Chính truyện)

Gia Cát Lượng phản ánh tình hình thực tế đương thời, nhưng cũng có thể thấy đây chính là Gia Cát Lượng tự trào lộng mình. Một mặt là Pháp Chính tung hoành ngang dọc không coi Gia Cát Lượng vào mắt; một mặt chính là Gia Cát Lượng đối với việc Pháp Chính tung hoành, tác uy tác phúc cũng đành bất lực.

Pháp Chính tung hoành ngang dọc Gia Cát Lương đương nhiên không vui. Nhưng làm thế nào để làm giảm quyền thế, Gia Cát Lượng tự có sự tính toán. Lưu Bị cùng với Tào Tháo tranh đoạt Hán Trung bởi binh lực không đủ nhưng vẫn “yêu cầu phát binh, Quân sư Gia Cát Lượng bèn hỏi Dương Hồng, Hồng đáp: “Hán trung là yết hầu của Ích Châu, việc tồn vong vốn nằm ở đó, nếu không có Hán Trung ắt không có Thục, đấy cũng chính là cái họa từ cửa vào vậy. Việc như nay, đàn ông đương chiến, đàn bà làm vận lương, phát binh còn nghi ngờ gì?”. Khi đó Thục quận thái thú Pháp Chính theo tiên chủ bắc hành, Lượng trong biểu dâng muốn phong Hồng tạm giữ chức Thục quận thái thú, mọi việc đều được làm tốt thì có thể lĩnh luôn chức vụ” (Thục thư- Dương Hồng truyện).

Hán Trung là “yết hầu của Ích Châu”, việc được mất liên quan tới sự tồn vong của chính quyền Thục Hán. Việc này chẳng nhẽ Gia Cát Lượng không hay? Đối với việc yêu cầu phát binh gấp thì chính là mệnh lệnh của Lưu Bị, sao có thể chống lại? Gia Cát Lượng hỏi Dương Hồng mục đích chỉ có một đó chính là mượn cơ hội để tiến cử Dương Hồng vào việc lo phát binh, tiện cho việc thay thế Pháp Chính làm Thục quận thái thú. Trong tình thế Pháp Chính không ở đó Lưu Bị cũng đành chấp nhận. Dương Hồng kịp thời đưa quân dội, lương thảo vật tư tới tiền tuyến là Hán Trung, nếu việc làm tốt có thể giữ nguyên chức Thục quận thái thú. Pháp Chính mất đi vị trí quan trọng là bên ngoài giữ chốn kinh kỳ, quyền thế bị giảm đi phần lớn.

Nhưng mâu thuẫn giữa Gia Cát Lượng và Pháp Chính vẫn chưa hết. “Gia Cát Lượng và Chính, tuy tính không giống nhau nhưng lấy công mà hỗ trợ”. Cái gọi là “lấy công mà hỗ trợ” thực ra chỉ là bề mặt, nhưng “tính không giống nhau” mới là bản chất. Đối với sự thông minh tài trí của Pháp Chính, Gia Cát Lượng cũng thực sự kính phục: “Trí thuật của Chính làm Lượng cảm thấy tài lắm” (Thục thư- Pháp Chính truyện). Càng quan trọng hơn nữa Pháp Chính là người duy nhất trong đám mưu thần mà có thể nói Lưu Bị nghe được. Điểm này chính Gia Cát Lượng cũng cho là không bằng. Bởi thế nếu như Pháp Chính sống lâu ắt hẳn mâu thuẫn sẽ còn hơn nữa.

May mắn cho Gia Cát Lượng chính là năm thứ 2 khi Lưu Bị xưng Hán Trung Vương, thì Pháp Chính bệnh mà qua đời. Khi Lưu Bị xưng đế thì Quan Vũ, Bàng Thống, Pháp Chính, Hoàng Trung đều đã mất. Trương Phi tuy nhiên là tình thủ túc với Lưu Bị nhưng dẫu sao cũng chỉ là một viên võ tướng. Mã Siêu là tướng hàng, tâm thường mang lòng phản trắc, càng không đáng tín nhiệm. Thái phó Hứa Tĩnh lại là người thanh đạm. Lưu Bị ngó trước sau, ngoài Gia Cát Lượng thì không ai có thể giao được trọng trách lớn. Từ khi tức vị liền phong Gia Cát Lượng làm Thừa tướng, sau khi Trương Phi chết lĩnh chức Tư lệ hiệu úy. Gia Cát Lượng phấn đấu mười lăm năm, cuối cùng cũng leo lên được cái ghế Thừa tướng của mình thực ra cũng chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của Lưu Bị?

Tiếu Chi (báo điện tử VietNamNet - theo Quang Minh nhật báo)

Gia Cát Lượng đã mượn đao giết Quan Vũ?

Quan Vũ

Lâu nay người ta vẫn coi Khổng Minh như một biểu tượng của của tài trí, mưu lược và cả sự chính nghĩa. Thực tế, trong cách nhìn mang tính lịch sử, Khổng Minh trước hết vẫn là một kẻ làm chính trị đúng theo nghĩa thực của từ này. Tại sao Khổng Minh bái Lưu Bị làm chủ? Lý do hẳn đã vì nhà Hán? Tại sao Khổng Minh thấy Quan Vũ chết mà không một binh một tốt cứu viện?... Vẫn còn rất nhiều sự kiện lịch sử khiến hậu nhân phải nghi ngờ. Bài viết dưới đây của giáo sư Chu Tử Ngạn là một cách lý giải khác về những sự kiện lịch sử còn đầy những tồn nghi đó.

Chọn Lưu Bị, Khổng Minh vì mình trước nhất?

Gia Cát Lượng ở Long Trung, tự xưng mình “chỉ mong bảo toàn tính mệnh thời loạn, chẳng cầu tiếng tăm nơi chốn chư hầu” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện), nhưng thực ra lại là kẻ lòng mang đầy chí lớn. Từng nói với Mạnh Thao, Từ Thứ, Mạnh Kiến rằng: “Ba người ắt làm quan tới thích sử, quận thú vậy”. Khi đó ba người bèn hỏi Gia Cát Lượng làm quan tới bậc nào? Lượng chỉ cười mà không đáp (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện” chú dẫn Ngụy lược). Cười mà không đáp là cớ gì? Bởi quan là thích sử hay quận thú đều không ở trong mắt của Lượng, trí lớn sao đã vội có thể nói cho người khác nghe được.

Gia Cát Lượng có tài kinh luân tế thế “Mỗi lần đều tự sánh mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện). Tuy nhiên Quản, Nhạc vốn chưa phải là người kiến công cái thế, làm quan chẳng qua cũng chỉ là tướng dưới tay chư hầu mà thôi. Gia Cát Lượng chí cao, tự sánh với Quản, Nhạc cũng có thể chỉ đơn thuần là mục tiêu nhỏ. Nếu lấy tình thế đương thời mà xét, cũng không loại trừ khả năng Gia Cát Lượng cũng có trí tranh đoạt thiên hạ, hùng tâm xây dựng nghiệp bá.

Những năm cuối Đông Hán, triều cương hỗn loạn, các chư hầu tranh nhau khởi binh. Xưng cô, gọi quả (xưng đế, xưng vương) cũng chẳng ít. Tào Tháo, Viên Thiệu, Tôn Sách, Tôn Quyền, Lưu Bị đều mang trong mình chí lớn quét sạch bốn bể mà thống nhất thiên hạ. Chẳng lẽ Gia Cát Lượng lại không bằng họ? Chẳng lẽ chỉ có thể làm thần tử mà không thể xưng vương?

Đáng tiếc ở chỗ, Gia Cát Lượng xuất sơn quá muộn (So với Tào Tháo, Viên Thiệu, Lưu Bị thì muộn hơn ít nhất hai mươi năm). Gia Cát Lượng chưa rời khỏi Long Trung “Tào Tháo đã có bách vạn hùng binh, ép thiên tử mà lệnh chư hầu, Tôn Quyền đã đóng ở Giang Đông tới ba đời, thế nước hiểm mà lòng dân thì theo, lại được hiền tài phò tá” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện). Những thế lực quân phiệt khác như Lưu Biểu thì nắm Kinh Châu, “đất dài ngàn dặm, mang binh giáp hơn mười vạn” (Ngụy Thư - Lưu Biểu truyện), Lưu Chương chiếm cứ Ích Châu, Chương Lỗ giữ Hán Trung, Mã Đằng, Hàn Toạn xưng hùng ở Quan Trung.

Mười ba châu của nhà Hán đã bị các lộ chư hầu chiếm cứ hết, Gia Cát Lượng đã mất đi cơ hội để độc bá một phương tự xưng chư hầu. Lòng mang tài kinh bang tế thế, để có thể xưng nghiệp vương bá như Gia Cát Lượng nếu muốn leo lên đỉnh cao của quyền lực, con đường duy nhất chỉ có thể là chọn chủ mà phục vụ. Đây đối với Gia Cát Lượng cũng chính là lùi để mà tiến. Điều này, Lượng cũng như Tư Mã Ý, thờ chủ thực tế cũng chỉ là một thủ đoạn để thực hiện mục tiêu chính trị của mình thôi.

Điều đáng nói ở đây chính là tiêu chuẩn của chủ mà Gia Cát Lượng chọn là gì? Tôi cho rằng, Gia Cát Lượng chọn chủ không ngoài 2 điều: Một là chủ nhân phải là một minh quân có hùng tài đại lược. Hai là, bản thân phải chắc chắn thành cánh tay của chủ, phải được chủ nhân đặc biệt trọng dụng.

Từ Long trung đối (cuộc đối thoại ở Long Trung) có thể thấy, Gia Cát Lượng đối với anh hùng trong thiên hạ đã nắm rõ trong lòng bàn tay. Lưu Biểu, Lưu Chương, Trương Lỗ… những kẻ bất tài vô năng này không đáng để suy xét. Những vị minh quân đáng suy xét đối với Gia Cát Lượng không ngoài ba người “Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị”. Từ tình thế chính trị lúc bấy giờ mà nói, kẻ có khả năng nhất thống thiên hạ là Tào Tháo, vì sao Gia Cát Lượng lại không lựa chọn? Đây thực cũng chẳng phải vì Tào Tháo “danh là tướng nhà Hán, mà thân thực là giặc nhà Hán”. Gia Cát Lượng không lựa chọn Tào Tháo chính vì Trung Nguyên quá nhiều nhân tài, Tào Tháo sau khi bình định phương Bắc đã không còn như thời mới khởi binh nữa, mãnh tướng, mưu thần trong tay lúc này nhiều như mây. Gia Cát Lượng mới ra khỏi lều cỏ mà muốn được thăng tiến trong Tào Tháo bá phủ đâu phả là chuyện dễ dàng. Đối với chuyện này, Gia Cát Lượng đã thực sự hiểu rõ.

Khi người bạn Mạnh Kiến có lòng nhớ nhà, muốn trở về Trung nguyên mà tìm công danh, Gia Cát Lượng từng khuyên rằng “Trung Quốc nhiều sĩ đại phu, rong chơi hà tất phải là cố hương”. Về sau Gia Cát Lượng thảo phạt Ngụy bắt được Từ Thứ đang nhậm chức Ngự sử trung thừa, Thạch Thao nhậm chức Quận thú thì cảm khái mà nói: “Ngụy nhiều kẻ sĩ nên coi thường mà chẳng dùng hai người này sao!” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện). Gia Cát Lượng vì Từ, Thạch hai người mà nói lên bất bình (thực tế hai người làm quan tới hai nghìn thạch, không thể nói là Tào Tháo không hề trọng dụng), chưa từng vì chuyện mình không theo Ngụy mà cảm thấy vinh hạnh!

Bằng con mắt trí tuệ của Gia Cát Lượng đương nhiên cũng có thể biết Tôn Quyền là người chủ có hùng tài đại lược, huống hồ anh trai là Cẩn cũng đang giữ chức ở Đông Ngô. Nhưng khi trọng thần Trương Chiêu tiến cử với Ngô chủ thì Gia Cát Lượng lập tức từ chối mà rằng “Tôn tướng quân là chủ, xem thấy đức độ,có thể dùng Lượng nhưng không thể dùng hết Lượng, nên ta chẳng thể ở” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện, dẫn chú Viên tử)

Vì sao cuối cùng Gia Cát Lượng lại chọn Lưu Bị? Lưu Bị có hùng tài, biết người lại giỏi dụng tự nhiên là điều kiện tốt để Gia Cát Lượng tuyển chủ. Lại thêm Bị đang cầu hiền như khát nước, ba lần tới lều tranh. Gia Cát Lượng “do lòng cảm kích, mà theo Tiên đế” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Ngoài những điều đó, những lời bàn khác đều cho là Gia Cát Lượng có lòng với nhà Hán, cùng với Lưu Bị chủ yếu chính là kiến lập trên lập trường “phò Lưu yên Hán”: “Vận Hán sắp mất nên lấy việc hưng suy kế tuyệt làm nhiệm vụ của mình” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện, Bản chú của Bùi Tùng). Bản chú của Bùi Tùng được rất nhiều sử gia dẫn dụng, để luận chứng cho việc Gia Cát Lượng có lòng “phục hưng Hán thất”, lấy đó làm nhiệm vụ của mình.

Đối với phân tích này tôi cho có phần không hẳn là như vậy. Vào giữa Đông Hán hoạn quan, ngoại thích thay nhau chuyên quyền chấp chính, triều chính ngày một suy vi. Những năm cuối Đông Hán, Đổng Trác làm loạn, quân phiệt chiến loạn, Triều đình nhà Hán chỉ còn những hơi thở cuối. Trong Sử sách có nói: “Từ An đế tới nay, quốc thống suy vi, duy chỉ còn tiếng, tấc đất ngọn cỏ đã không còn là của nhà Hán, kỳ vận đã mất từ lâu” (Ngụy thư - Vũ Đế Kỷ, dẫn chú Ngụy Lược). Đối với tình hình này, người thông minh như Gia Cát Lượng chẳng nhẽ nhìn không ra hay sao?

Gia Cát Lượng không theo Tôn Quyền lý do rất đơn giản, là vì Tôn Quyền “có thể dùng Lượng nhưng không thể dùng hết Lượng” chứ không phải vì Tôn Quyền họ Tôn không phải họ Lưu. Rốt cuộc vì sao Gia Cát Lượng lại phò tá cho Lưu Bị, một kẻ chạy đông chạy tây, dưới trướng người khác, không một tấc đất mà lập nghiệp?

Xưa nay hầu như tất cả các nhà chính luận đều chưa tìm hiểu sâu về điều bí mật này, phần lớn đều cho rằng Gia Cát Lượng nhìn xa trông rộng, không quan tâm tới thực lực quân sự và hiền tài dưới trướng của Lưu Bị, hoặc Lưu, Gia Cát kết hợp là bởi hai người trí lớn hợp nhau. Kỳ thực, điểm thú vị ở đây là ở chỗ, những điểm yếu, những chỗ thiếu của Lưu Bị trong mắt của Gia Cát Lượng lại là ưu thế. Thử nghĩ, nếu Lưu Bị cũng như Tào Tháo binh nhiều thế mạnh, nhân tài như mây, Gia Cát Lượng còn có thể được trọng dụng như thế không? Chính bởi dưới tay Lưu Bị, võ tướng chẳng qua chỉ là Quan Vũ, Triệu Vân, Trương Phi. Mưu thần chũng chẳng qua có Phí Trúc, Tôn Càn, Giản Ung vài người… Tập đoàn của Lưu Bị hiếm người tài như thế, cũng chính là một vũ đài rộng lớn để Gia Cát Lượng thi thố tài năng của mình.

Điều kiện để xuất sơn của Gia Cát Lượng rất cao. Chủ không những phải biết hiền, mà còn phải biết tận (dụng hết). Hai chữ “Hiền”, “Tận” ngụ ý sâu xa. Hiền – tức phải coi Gia Cát Lượng thành hiền sĩ, quy cách đối với hiền sĩ cao nhất đó chính là đối đãi với quốc sĩ. Như Trí Bá đối với Dự Nhượng thời Xuân Thu, Yên Chiêu Vương đối với Quách Hòe thời Chiến Quốc. Đối với Gia Cát Lượng điều này vốn là chẳng đủ. Mà Tận lượng thì thật khó dùng một hai câu mà biểu đạt ý mình. Gia Cát Lượng rất cao ngạo, tuy đang còn trẻ, lại mới ra khỏi lều tranh nhưng tuyệt đối không định từng bước từng bước làm những công việc thấp kém, mà muốn phải ở ngay vị trí cao. Nếu muốn dùng hết tài của Lượng thì phải đặt tới vị trí nắm trọng quyền trong triều chính.

Gia Cát Lượng nằm ở Long Trung, tuy được những danh sĩ như Tư Mã Huy, Bàng Đức công tiến cử, ở Kinh Tương cũng có một chút danh tiếng nhưng nhiều kẻ vẫn không cho là thế. Lượng “mỗi lần nói đều tự sánh mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, người đương thời đều không cho là vậy”. Chỉ có vài người bạn cho là như vậy mà thôi (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện). Đối với những khu vực như Trung Nguyên, Giang Nam đều không nói tới, vẫn chỉ là một nhân vật vô danh mà thôi.

Khi còn chưa thành danh Gia Cát Lượng đã muốn chủ nhân sử dụng phải Tận. Tâm cao khí ngạo là thế đối với những tập đoàn đã có đầy thực lực như Tào, Tôn thì không thể đạt được. Đối với Lưu Bị thì hoàn toàn khác. Lưu Bị tuy quan đã là tả tướng quân, Dự Châu mục. Theo chế độ của nhà Hán, tướng quân, châu mục đều có thể mở phủ mà tham chính, nhưng dưới trướng Lưu Bị nhân tài thiếu thốn. Triệu Dực từng nói “Nhân tài thời nay đã bị hai nước Ngụy, Ngô thu hết vậy”. Trong con mắt của Gia Cát Lượng, đây lại chính là “ưu thế” của Lưu Bị mà các thế lực chư hầu khác không thể bằng được. Cho nên Gia Cát Lượng đã đầu thân cho Lưu Bị.

Quan Vũ chết trận, lỗi tại Khổng Minh?

Kỳ thực Gia Cát Lượng sau khi đầu thân vào tập đoàn Lưu Bị thì địa vị và quyền lực dần dần được nâng lên rõ rệt. Sau trận Xích Bích (năm 208), Lượng làm Quân sư trung lang tướng, bổng lộc tương đương hai ngàn thạch (120 tấn thóc). Lưu Bị lấy được Ích châu, Lượng thăng làm Quân sư tướng quân, bổng lộc lên tới hai ngàn thạch. Năm thứ 5 Kiến An (năm 200) Quan Vũ được phong làm Thiên tướng quân, Hán Thọ Đình Hầu. Sau Xích Bích, Vũ làm Đãng khấu tướng quân, bổng lộc hai ngàn thạch. Lưu Bị xưng Hán Trung vương, Vũ làm Tiền tướng quân, chức chỉ dưới tam công. Trương Phi ở năm Kiến An thứ 4 làm Trung lang tướng, Sau Xích Bích làm Chinh Lỗ tướng quân, Nghi Đô thái thú, bổng lộc là hai ngàn thạch. Lưu Bị xưng Hán Trung Vương thăng Phi làm Hữu tướng quân, (Thục thư – Trương Phi truyện) vị dưới Tam công.

Có thể thấy, trước khi Lưu Bị xưng đế Quan Vũ, Trương Phi địa vị đều cao hơn Gia Cát Lượng. Đối với những người khác như Triệu Vân, Bàng Thống, Pháp Chính, Hoàng Trung, Mã Siêu đều không dưới Gia Cát Lượng, đúng như đại đa số các sử gia đều nói rằng quan hệ giữa Lưu Bị và Quan Vũ, Trương Phi có hơn Gia Cát Lượng một bậc. Bọn họ “ ngủ nghỉ cùng giường, tình thân như anh em” (Thục thư – Quan Vũ truyện). Cho nên bất kỳ người nào vào tập đoàn Lưu Bị đều chỉ có thể ở dưới ba người này mà thôi.Đối với người một lòng muốn hơn vạn người, có lòng giành đoạt thiên hạ như Gia Cát Lượng mà nói đây chính là một chướng ngại lớn trên bước đường hoạn lộ của mình.

Kỳ thực Lưu Bị đối với Gia Cát lượng không phải ngay từ đầu đã coi là tâm phúc, quân thần như cá với nước. Xông pha gần nửa đời, trải gần mười năm chiến loạn rèn rũa, Lưu Bị bây giờ đã là một chính trị gia lão luyện, trước khi Gia Cát Lượng xuất sơn, Bị không thể tính hết được năng lực của Lượng là cao hay thấp, cho nên Lưu Bị lấy được Kinh Châu, bốn quận Giang Nam, không hề cho Gia Cát Lượng giữ chức trọng yếu trong quân chính mà cho làm chức thu thuế vụ ở ba quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương để bổ sung quân lực mà thôi.

Nhận thức lại Long Trung đối cũng chỉ rõ rằng: “Lưu Bị vốn không lấy Long Trung đối làm phương lược, đương nhiên cũng không đặt Gia Cát Lượng vào địa vị vận trù mưu lược trong màn chướng. Trước khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng một thời gian dài không ở bên Lưu Bị, những việc đại chính đều không phải trong thời gian Gia Cát Lượng tham tán. Quyết kế vào Thục, phản công Lưu Chương là mưu của Pháp Chính, Bàng Thống, Lượng ở Kinh không tham dự vào việc nhập Thục. Cho nên những việc quan trọng này là đúng hay sai đều không có liên can tới Lượng”. Tôi cho rằng những lời này của Điền tiên sinh là chính xác. Chỉ rõ Gia Cát Lượng trong một thời gian dài hoàn toàn không phải là nhân vật số 1 dưới trướng của Lưu Bị.

Gia Cát Lượng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mục từ "Khổng Minh" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Khổng Minh (định hướng).

Gia Cát Lượng

Thừa tướng nhà Thục Hán

Sinh

181

tại Nghi Nam, Sơn Đông

Mất

234

tại Gò Ngũ Trượng, Thiểm Tây

Tên

Giản thể

诸葛亮

Phồn thể

諸葛亮

Tự

Khổng Minh (孔明)

Thụy hiệu

Trung Vũ Hầu (忠武侯)

Gia Cát Lượng (tiếng Hán: 诸葛亮; Phiên âm: Zhūge Liàng) (181–234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Mục lục

[ẩn]

1 Tiểu sử

2 Sự nghiệp

3 Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa

3.1 Lưu Bị tam cố thảo lư (Lưu Bị 3 lần đến lều cỏ)

3.2 Trận Đồi Bác Vọng

3.3 Trận Tân Dã

3.4 Trận Xích Bích và việc đoạt 10 vạn mũi tên của Tào Tháo

3.4.1 Khổng Minh cầu gió Đông giúp Chu Du

3.5 Kinh Châu

3.6 Gia Cát Lượng ra Tây Xuyên dùng mẹo bắt Trương Nhiệm

3.7 Thu phục Khương Duy

3.8 Dùng Không thành kế đuổi Tư Mã Ý

3.9 Gia Cát Lượng vây cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương cốc

4 Gia Cát Lượng bệnh mất ở Ngũ Trượng Nguyên và dùng kế giết Ngụy Diên

5 Gia Cát hay Chư Cát?

6 Tác phẩm

7 Xem thêm

8 Tham khảo

9 Chú thích

10 Liên kết ngoài

[sửa] Tiểu sử

Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc), tự Khổng Minh, Gia Cát (諸葛) là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".

Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).

Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam. Người đời mới có câu thơ:

Mạc học Khổng Minh trạch phụChi đắc A Thừa xú nữ

Theo sách "Khổng Minh Gia Cát Lượng", chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và cấp đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia"[1].

[sửa] Sự nghiệp

Xem thêm: Long Trung đối sách

Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo có nói: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên." Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.

Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyên, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh Hoạch.

Đền thờ Gia Cát Lượng

Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.

Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Phi (con trai Tào Tháo, lúc này là vua nước Ngụy) gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.

Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía nam để bình định bọn nổi loạn. Gia Cát Lượng ra quan không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.

Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu Thiện nghe lời gièm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.

Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.

Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.

[sửa] Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa

Tập tin:Gia Cát Lượng.JPG

Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, 2007

[sửa] Lưu Bị tam cố thảo lư (Lưu Bị 3 lần đến lều cỏ)

Lưu Bị sau nhiều năm bôn ba vất vả vẫn không có nổi một mảnh đất cắm dùi phải nương nhờ Lưu Biểu tại Kinh Châu. Nhưng ở đó không được bao lâu thì ông bị hai người em vợ của Lưu Biểu là Sái Trung, Sái Mạo li gián. Lưu Biểu sinh nghi nhiều lần định giết. Lưu Bị đành xin ở lại Tân Dã chiêu binh mãi mã chờ đợi thời cơ. Một hôm Lưu Bị buồn bã đi dạo quanh thành Kinh Châu thì nghe được tiếng hát, lời lẽ bài hát khẳng khái, anh hùng. Ông hỏi ra thì là Nguyên Trực, Nguyên Trực trở thành quân sư cho Lưu Bị. Cùng năm đó, Tào Tháo sau khi tiêu diệt Viên Thiệu ổn định phương Bắc, Tào Tháo sai các tướng Đồng Nhân, Lý Điển, Lý Quán dẫn quân tiến đánh Kinh Châu thực chất là để tiêu diệt lực lượng của Lưu Bị. Nhờ sự giúp đỡ của Nguyên Trực, Lưu Bị đánh bại quân Tào.Lưu Bị nhận ra được sự cần thiết của các mưu sĩ trong việc tạo nghiệp chính điều đó đã thay đổi hoàn toàn chiến cuộc của Lưu Bị sau này. Tào Tháo bực tức muốn lôi kéo nhân tài khỏi Lưu Bị nên ra lệnh cho mẹ Nguyên Trực viết thư triệu về Hứa Đô. Nguyên Trực đau khổ từ giã Lưu Bị trước khi ra đi tiến cử Gia Cát Lượng hiện đang ở tại núi Ngọa Long. Thời đó bậc danh sĩ Kinh Châu lan truyền một câu:" Ngọa Long, Phụng Sồ hai người được một sẽ có thiên hạ!". Lưu Bị liền tới Ngọa Long Cương tham bái nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tam cố thảo lư". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị, năm đó Gia Cát Lượng mới có hai mươi bảy tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị.

[sửa] Trận Đồi Bác Vọng

Sau khi Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây dựng binh mã tại Tân Dã khiến cho tiếng đồn xa xa. Tào Tháo nghe được tin, lo lắng lực lượng của Lưu Bị sẽ lớn mạnh khó lòng tiêu diệt lại nghe có Khổng Minh đa mưu túc trí giúp sức. Có lần Tào Tháo hỏi Nguyên Trực: - "Khổng Minh so với tiên sinh thì thế nào?" Nguyên Trực cười lớn rồi đáp: - "So với Khổng Minh thì tôi chỉ là con đom đóm le lói trong đêm còn Lượng là ánh nhật nguyệt hào quang." Hạ Hầu Đôn tức giận nguyện mang 10 vạn binh mã tiêu diệt Lưu Bị bắt sống Lưu Bị. Tào Tháo đồng ý. Nghe tin Hạ Hầu Đôn kéo tới, Lưu Bị lo lắng, hai anh em Quan, Trương hỏi: - "Sao đại ca không dùng "nước" của mình đi?" Khổng Minh tới nói: - "Chúa công có bao nhiêu can đảm, Lượng tôi có bấy nhiêu kế sách." Lưu Bị nghe xong tin tưởng, liền trao ngọc ấn và kiếm cho Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào tại Bác Vọng. Ông cho Triệu Tử Long và Lưu Bị dụ địch. Hạ Hầu Đôn gần tới đồi Bác Vọng thì thấy Lưu Bị ra đánh rồi rút lui vào thung lũng, cho rằng dù có mai phục thì cũng chỉ nhiêu đó thôi nên Hạ Hầu Đôn ra lệnh toàn binh tiến vào Bác Vọng. Lại nói Bác Vọng là khu thung lũng eo hẹp hai bên có rừng cây và núi đồi, cả 10 vạn đại quân đuổi theo Lưu Bị chèn ép nhau tiến lên. Hạ Hầu Đôn bắt đầu nghi ngờ thì rừng tên lửa bắn xuống mịt mù, cây cối hai bên đường cháy to, quân Tào hoảng loạn dẫm đạp lên nhau mà chạy, lương thực toàn bộ bị cháy, các tướng sĩ của Lưu Bị quay lại truy sát. Toàn bộ Tào quân bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy thoát. Lưu Bị chiến thắng hoàn toàn chỉ trong 1 trận, từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng. Lưu Bị vẫn thường nói với mọi người "Ta được Khổng Minh như cá được nước " quả thật không sai.

[sửa] Trận Tân Dã

Sau khi thất bại ở trận Đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tôn và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị. Khổng Minh bèn lập kế mai phục quân Tào. Ông sai Quan Vũ dẫn 1000 binh đi mai phục phía bờ sông Bạch Hà, quân lính mỗi người mang sẵn một bao cát đợi khi nghe tiếng ngựa hí thì ngăn nước sông xả nước cho nước cuốn chảy xuống. Ông lại sai Trương Phi mai phục ở Bác Lăng và dặn thấy quân Tào băng qua thì xông ra mà đánh. Cuối cùng ông sai Triệu Vân chia quân ba mặt Ðông, Tây, Nam, chừa phía Bắc cho quân Tào chạy, thấy có hiệu lửa thì xông ra mặt Bắc mà đánh đồng thời lệnh cho quân lính mang đồ dẫn lửa để sẵn trong nhà dân sau khi mọi người đã chạy đến Phàn Thành. Sau đó, quân Tào do Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử kéo đến. Hứa Chử dẫn quân vào rừng gặp Lưu Bị, Khổng Minh, định lên bắt nhưng bị gỗ, đá cản lại. Còn Tào Nhân, Tào Hồng thẳng tiến đến thành Tân Dã, thấy cửa thành mở rộng bèn dẫn quân vào thành thì thấy đây chỉ là tòa thành trống. Lúc ấy quân Tào tất cả đều mỏi mệt nên nấu cơm ăn để nghỉ ngơi. Bỗng đêm đó, có tin báo lửa cháy, Tào Nhân đang trấn an quân sĩ thì lại có tin báo lửa cháy khắp cả thành. Tào Nhân thất kinh chạy ra thì thấy cả vùng lửa cháy ngút trời. Quân Tào thi nhau chạy trốn, chết không biết bao nhiêu. Tào Nhân, Tào Hồng đang tìm đường thoát thân thì gặp quân của Triệu Vân ùa ra đánh giết, đang lúc nguy cấp thì quân dọ thám cho hay phía Bắc không có lửa nên quân Tào đổ ùa sang phía Bắc mà chạy. Tào Nhân chạy được một khoảng, kiểm điểm lại binh mã thấy hao hơn phân nửa. Quân Tào chạy một lúc nữa lại có con sông chặn trước mặt, nhưng nước cạn nên quân Tào không lo nữa, dẫn quân qua sông. Quan Vũ phục ở mé trên, thấy quân Tào đã tới, bèn cho quân xả nước xuống, nước chảy xuống như thác vỡ bờ cuốn trôi quân Tào vô số. Tào Nhân, Tào Hồng dẫn tàn binh trốn chạy, bỗng đâu gặp Trương Phi, may nhờ có Hứa Chử đến cứu. Sau đó Lưu Bị, Khổng Minh và các tướng thẳng tới Phàn Thành còn Tào Nhân dẫn đám bại binh về ra mắt Tào Tháo xin chịu tội. Tào Tháo tức giận Khổng Minh lắm, kéo đại binh tới ngay Tân Dã để báo thù, tạo nên trận Trường Bản sau này. Người đời sau có thơ khen trận Tân Dã: " Phong Bá ra oai Tân Dã huyện, Chúc Dung bay xuống Diễm Ma thiên"

[sửa] Trận Xích Bích và việc đoạt 10 vạn mũi tên của Tào Tháo

Chân dung Chu Du

Xem thêm: Trận Xích Bích

Trong trận Xích Bích, Khổng Minh đến Giang Đông giúp đỡ đại đô đốc của Đông Ngô là Chu Du chống Tào Tháo. Chu Du từ lâu biết Khổng Minh là "thiên hạ kỳ tài", để người như vậy sống về sau sẽ là họa cho Đông Ngô nên muốn tìm cách hại ông. Đầu tiên Chu Du sai Khổng Minh dẫn quân đi cướp trại Tào Tháo nhưng ông đã khéo léo từ chối. Sau đó, Chu Du sai Khổng Minh trong 10 ngày làm 10 vạn mũi tên nhưng cố tình dặn thợ tên làm chậm nhằm hại Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh hẹn trong 3 ngày sẽ làm xong. Chu Du mừng quá bảo Khổng Minh viết tờ quân lệnh. Khổng Minh bèn đến tìm Lỗ Túc là mưu sĩ của Đông Ngô mượn hai mươi chiếc thuyền, mỗi chiếc có chừng ba mươi quân sĩ, trên thuyền dùng vải xanh làm màn che xung quanh, lại bó cỏ với rơm cho nhiều. Lỗ Túc nhận lời nhưng không hiểu Khổng Minh làm gì. 2 ngày đầu Khổng Minh không làm gì cả. Đến ngày thứ ba, vào đầu canh tư, Khổng Minh bỗng bí mật cho mời Lỗ Túc đến uống rượu rồi lại sai người lấy dây chạc dài, buộc hai mươi chiếc thuyền liền lại với nhau, rồi bảo quân nhắm bờ phía Bắc thẳng tới. Hôm ấy, sương mù rất nhiều. Đến đầu canh năm, Khổng Minh tiến sát đến thủy trại của Tào Tháo, Khổng Minh sai thủy thủ dàn ngang đoàn thuyền ra rồi đánh trống vang trời, hò reo ầm ĩ. Sai Mão và Trương Doãn thấy sương mù dày đặc sợ có phục binh nên hạ lệnh cho quân sĩ bắn tên loạn xạ vào quân Khổng Minh. Đợi đến gần sáng, Khổng Minh dẫn quân trở về, 20 chiếc thuyền cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du trông thấy vô cùng kinh hãi, tự thấy tài kém Khổng Minh rất nhiều.

[sửa] Khổng Minh cầu gió Đông giúp Chu Du

Chu Du chờ hoài không thấy gió đông nên lâm bệnh nặng. Khổng Minh bảo Lỗ Túc có cách chữa bệnh cho Chu Du. Lỗ Túc dẫn Khổng Minh vào gặp Chu Du. Khổng Minh đưa Chu Du 4 câu thơ: "Muốn đánh Tào quân, Phải dùng hỏa công, Mọi sự đều có, Chỉ thiếu gió Ðông." Chu Du thất kinh hỏi cách. Khổng Minh bảo Chu Du hãy truyền xây ngay một đài thất tinh ở chân núi Nam Bình, cao bảy trượng, chia ba tầng, có hai trăm quân cầm cờ, ông sẽ cầu gió Đông luôn ba ngày ba đêm để giúp Chu Du. Lập tức Chu Du sai cất đài như lời Khổng Minh dặn, xong rồi giao cho Khổng Minh hai trăm quân sĩ cầm cờ quay theo các phương hướng. Chính giữa có cái đàn để Khổng Minh lên cầu gió . Ngày Giáp Tí, Khổng Minh tắm gội sạch sẽ, mặc áo đạo sĩ, đi chân không lên đàn, lại dặn Lỗ Túc về giúp Chu Du việc binh. Sau đó Khổng Minh truyền: "Đạo trường trang nghiêm, pháp linh như núi, các tướng sĩ không được rời khỏi quân vị, không được to nhỏ nói chuyện, không được mở miệng nói bậy, không được giật mình ngạc nhiên, không được tâm sanh tạc điểm, ai trái lệnh bị chém". Rồi Khổng Minh lên đàn thắp nhang, làm phép cầu ba lần, vẫn chưa có gió. Đến canh hai, gió Đông nam thổi tới rất mạnh, quân Ngô nhân cơ hội đó châm lửa phóng hỏa đốt sạch chiến thuyền quân Ngụy. Chu Du vừa mừng vừa sợ bèn sai Ðinh Phụng, Từ Thịnh đi ngay tới núi Nam Bình để lấy đầu Khổng Minh nhưng tới nơi thì Khổng Minh đã được Triệu Vân cứu thoát. Thực chất, khi Lưu Bị được Chu Du mời sang Đông Ngô để ám sát nhưng không thành, trước khi về có ghé thăm Khổng Minh. Lúc đó, Gia Cát Lượng đã lượng trước được tình hình nên nhờ Lưu Bị bảo Triệu Vân đưa 1 chiếc thuyền đợi sẵn ở chân núi Nam Bình, sau khi cầu được gió Đông xong sẽ trở về ngay, không được trễ. Việc lập đài cầu gió Đông Nam chẳng qua chỉ là hành động phụ thêm của Không Minh nhằm qua mắt Công Cẩn, tiện thoát thân. Qua đó có thể thấy được sự tinh thông thiên văn, thời tiết...của Gia Cát Lượng. Nhờ "gió Đông nam của Khổng Minh" mà quân Ngô đại thắng quân Ngụy, Chu Du không bị nỗi nhục mất nước, mất vợ nên về sau thi sĩ đời Đường Đỗ Phủ có 2 câu thơ: "Gió Đông nếu chẳng vì Công Cẩn / Đồng Tước đêm xuân khóa Nhị Kiều".

[sửa] Kinh Châu

[sửa] Gia Cát Lượng ra Tây Xuyên dùng mẹo bắt Trương Nhiệm

Sau khi Bàng Thống mất, Lưu Bị mời Khổng Minh ra Tây Xuyên để đánh chiếm Ích Châu. Khổng Minh giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ rồi cùng Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên. Khổng Minh muốn chiếm Lạc thành nhưng ngại Trương Nhiệm là người đã giết Bàng Thống nên tìm kế bắt Trương Nhiệm. Ông xem xét địa hình rồi sai Ngụy Diên đem quân phục ở phía đông cầu Kim Nhạn, cầm trường thương phục bên tả hễ địch chạy qua thì cứ nhằm tướng cưỡi ngựa mà đâm, Hoàng Trung dẫn quân phục phía hữu chỉ dùng đao chém chân ngựa, Trương Nhiệm sẽ chạy qua đường nhỏ phía Ðông. Trương Phi phục sẵn quân nơi đây mà bắt còn Triệu Vân thì chờ Trương Nhiệm chạy qua cầu Kim Nhạn thì chặt gẫy ngay cầu ấy. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch. Trương Nhiệm dẫn Trác Ung ra trận, gặp Khổng Minh liền dẫn quân ra đánh, Khổng Minh bỏ xe lên ngựa chạy qua cầu. Trương Nhiệm đuổi theo một quãng thì gặp Huyền Ðức và Nghiêm Nhan đổ ra chặn đánh. Nhiệm toan quay về thì cầu đã bị chặt gẫy. Nhìn bờ phía Bắc thì Triệu Vân chận, liền chạy vào đường nhỏ thì gặp quân phục của Ngụy Diên, Hoàng Trung. Trương Nhiệm chỉ còn vài chục kỵ binh theo sau chạy vội vào đường núi thì Trương Phi hiện ra, quát một tiếng như sấm, Nhiệm luống cuống thì bị các bộ tướng của Phi xông lại bắt sống. Trương Nhiệm bị bắt giải tới gặp Lưu Bị và Khổng Minh nhưng không chịu hàng nên bị Khổng Minh sai đem ra chém. Chiếm được Lạc Thành, Lưu Bị sau chiếm luôn Ích Châu.

Mạnh Hoạch (孟獲) là một nhà quý tộc, người đứng đầu Nam Man nằm ở Nam Trung, phía nam của Thục Hán, thuộc khu vực ngày nay là Vân Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo Tam Quốc Diễn nghĩa, Mạnh Hoạch đứng đầu các bộ lạc Nam Man và thường xuyên quấy nhiễu và Gia Cát Lượng đã đích thân dẫn quân đến thu phục Mạnh Hoạch. Theo Tam Quốc Diễn nghĩa thì Gia Cát Lượng đã 7 lần bắt được Mạnh Hoạch và tha với mục đích thu phục nhân tâm các bộ lạc khu vực này. Mạnh Hoạch sau đó thề trung thành với Thục Hán. Theo chính sử[cần dẫn nguồn] thì Mạnh Hoạch không phải là người thuộc các bộ lạc Nam Man mà là người Hán.

Cũng trong tiểu thuyết, Mạnh Hoạch có vợ là Chúc Dong. Cô này tự nhận mình là con cháu của thần lửa[cần dẫn nguồn]

[sửa] Thu phục Khương Duy

[sửa] Dùng Không thành kế đuổi Tư Mã Ý

Gia Cát Lượng về thành thu thập lương thảo. Nhưng chẳng mang theo nhiều quân. Tư Mã Ý đuổi đến nơi, Ông không những không triển khai quân đối phó mà còn mở cổng thành, có ý mời quan quân Tư Mã Ý vào thành. Còn mình thì ngồi trên thành, gẩy đàn rất bình thản. Tư Mã Ý đến nơi, thấy vây liền sinh nghi, không dám tiến vào thành vì sợ trong thành có bẫy. Tư Mã Ý nghe tiếng đàn của Gia Cát Lượng, thấy được sự bình thản trong con người ông, càng thêm lo sợ. Tư Mã Ý còn nói: "hiểu được tiếng đàn của Gia Cát Lượng thật là 1 diễm phúc của ta". Đột nhiên, dây đàn đứt, Gia Cát Lượng vô cùng lo sợ, nhưng Tư Mã Ý thì lại cho là có biến, liền lập tức ra lệnh lui quân. Gia Cát Lượng cũng vã mồ hôi vì lo lắng. Sau đó lập tức ra lệnh cho mọi người chuyển gấp lương thảo về Hán Trung, ông nói Tư Mã Ý nhất định sẽ quay lại. Và quả thật, Tư Mã Ý đã quay lại, lên thành, thấy chỉ còn chiếc đàn đã đứt dây, vừa cảm thấy tức, vừa thêm nể phục tài năng của Gia Cát Lượng.

[sửa] Gia Cát Lượng vây cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương cốc

Gia Cát Lượng sau khi nhiều lần tấn công và cố bắt sống Tư Mã Ý nhưng không thành, doanh trại Tư Mã Ý thì được canh phòng nghiêm ngặt không thể đột phá. Cuối cùng Gia Cát Lượng cho vài hàng binh vào trại Tư Mã Ý nói là toàn bộ lương thực của quân Thục đều cất giữ tại Thượng Phương cốc, Tư Mã Ý hơi nghi ngờ cho người dò xét thấy đoàn lương của Thục quân có đi vào Thượng Phương Cốc. Tư Mã Ý cả mừng ra lệnh đích thân thống soái một đạo quân nhỏ tới thượng Phương Cốc còn lại thì để lại giữ doanh trại. Cha con Tư Mã Ý vừa vô sơn cốc thì không thấy bóng người và lương thảo, bao quanh toàn đồi dọc dứng nhỏ hẹp, Tư Mã Ý đang nghi ngờ thì tiếng trống nổi lên, quân Thục ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu. Gia Cát Lượng liền cho quân phóng hỏa định hỏa thiêu cha con Tư Mã Ý. Lửa cháy càng lúc càng to, Tư Mã Ý khóc rên rỉ:"Ba cha con ta bị chết thiêu ở đây rồi!" vừa lúc đó thì xa xa mây giông kéo tới, mưa gió cuồn cuộn nổi lên dập tắt hết ngọn lửa, cha con Tư Mã Ý cả mừng vội vã chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Gia Cát lượng buồn rầu đứng dưới trời mưa ngửa mặt than trời: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.". Tư Mã Ý trở về thì doanh trại ở Vị Nam đã bị đánh phá phải rút lui cố thủ ở Vị Bắc. Quân Ngụy tuy đại bại nhưng mưu kế không thành, Gia Cát Lượng vì quá đau buồn lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh bệnh.

[sửa] Gia Cát Lượng bệnh mất ở Ngũ Trượng Nguyên và dùng kế giết Ngụy Diên

Khổng Minh sau khi thất bại trong việc tiêu diệt 2 cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương cốc cộng với thất bại của quân Đông Ngô nên ông lâm trọng bệnh ngất xỉu. Khi ông tỉnh dậy bảo Khương Duy ông không sống được lâu nữa, Khương Duy nghe vậy thất kinh, rồi khuyên ông dùng phép cầu thọ. Khổng Minh bèn bày đủ lễ vật, trên mặt đất thắp bảy ngọn đèn to, dưới thắp bốn mươi chín ngọn đèn nhỏ, phía trong để một cái đèn bổn mạng rồi cầu trời đất cho ông sống thêm 1 kỷ nữa để phục hưng nhà Hán. 7 ngày sau ông thấy ngọn đèn bổn mạng vẫn sáng thì cả mừng bỗng nghe bên ngoài có tiếng la ó thì thấy Ngụy Diên chạy vào báo có binh Ngụy kéo đến, chẳng may Ngụy Diên lật đật làm đổ ngọn đèn chủ tắt đi. Khổng Minh bèn quăng gươm xuống đất mà than: "sống chết có mạng không sao cầu được". Khương Duy tức giận muốn chém Ngụy Diên nhưng Khổng Minh ngăn lại. Sau đó, Khổng Minh gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra, dặn dò các tướng cẩn thận, viết di thư cho Hậu chúa Lưu Thiện rồi bày kế cho Dương Nghi khi ông chết đừng phát tang, hãy làm một cái hộp lớn, để ta ngồi trong, lấy bảy hạt gạo bỏ vào miệng ta, dưới chân để một ngọn đèn thật sáng, ba quân không được khóc lóc thì tướng tinh của ông sẽ không rớt làm cho Tư Mã Ý sẽ nghi sợ rồi cho hậu quân lui trước rồi cứ từng dinh mà rút dần. Nếu Tư Mã Ý dẫn quân đến thì đẩy xe có tượng gỗ của ông ra thì Tư Mã Ý thấy vậy tất sợ mà chạy. Lát sau, thượng thư Lý Phúc vào hỏi chuyện triều đình, Khổng Minh dặn dò nửa chừng thì qua đời, hưởng thọ 54 tuổi, bấy giờ là năm Kiến Hưng 12 ( 234).

Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Quân Thục trở về Thành Đô, Hậu chúa Lưu Thiện cho mai táng Khổng Minh tại núi Ðịnh Quân như ý nguyện của ông rồi phong hàm ân cho Khổng Minh làm Trung Vũ Hầu, lập miếu nơi Miêu Dương. Con trai Khổng Minh là Gia Cát Chiêm thủ hiếu cư tang.

[sửa] Gia Cát hay Chư Cát?

Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu và một số từ điển khác thì chữ 诸 (bính âm là zhū) thường được phiên là chư, vậy thì tên ông là Chư Cát Lượng (tiếng Hán: 诸葛亮; bính âm: Zhūgé Liàng)?

Tuy nhiên, nhiều từ điển Hán Việt ghi 2 cách đọc chưgia, đồng thời ở mục họ 诸葛 (Zhūgé) thì chỉ phiên là Gia Cát.

Vì sao Gia Cát Lượng lấy vợ xấu?

20/11/2010 06:51:36

Gia Cát Lượng - một nhà quân sự, chính trị và ngoại giao kiệt xuất thời Tam Quốc không những nổi tiếng về tài năng cũng như trí tuệ mà được biết đến bởi dung mạo khôi ngô, tuấn tú. Tuy nhiên, vì sao Gia Cát Lượng lại quyết định “kết tóc xe tơ” với một phụ nữ vừa xấu xí, vừa gầy đen và thấp bé cho đến nay vẫn là điều bí ẩn.

TIN LIÊN QUAN

Cây dâu Vân Trường trồng đền Gia Cát Lượng

Kỳ bí thôn bát quái của hậu duệ Gia Cát Lượng

Nhan sắc cháu gái đời thứ 63 của Gia Cát Lượng

Có giả thuyết cho rằng Gia Cát Lượng luôn coi trọng tài đức, đề cao vẻ đẹp nội tại của con người nên đã chọn Hoàng A Sửu vì sớm nghe nói và ngưỡng mộ tố chất ưu việt của người phụ nữ này. Đây cũng chỉ là sự lý giải một chiều chưa toàn diện và thấu đáo.

Chân dung Gia Cát Lượng

Theo cuốn “Những bí ẩn khó giải thích”, Khổng Minh thực chất kết duyên cùng Hoàng A Sửu là vì những toan tính cũng như mục đích chính trị.

Gia Cát Lượng xuất thân nghèo khổ, ngay từ nhỏ đã phải sống dựa vào người chú và sớm thấm thía sự áp bức của tầng lớp địa chủ, quý tộc. Khi người chú qua đời, Gia Cát Lượng mất chỗ dựa nên đã chuyển về định cư phía Tây thành Tương Dương.

Mặc dù còn rất trẻ và sống ở một vùng quê hẻo lánh nhưng Gia Cát Lượng không cam chịu “mai danh ẩn tích” suốt đời, thường xuyên quan tâm, chú ý đến sự thịnh suy của đất nước và ôm mộng gây dựng sự nghiệp theo con đường chính trị.

Điều này không những ảnh hưởng đến những suy tính của Gia Cát Lượng trong chuyện hôn nhân mà còn thôi thúc ông tìm chỗ đứng ổn định trong tầng lớp địa chủ để “mở mày mở mặt” sau này.

Gia Cát Lượng vì thế đã ra tay sắp đặt và thực hiện ba việc lớn liên quan đến chuyện hôn nhân trong gia đình. Đầu tiên, ông gả người chị gái cho con trai Bàng Đức Công, một nhân vật có “máu mặt” trong tầng lớp địa chủ Kinh Châu đang sống ở khu vực Tương Dương. Gia Cát cũng vì việc làm này mà được tôn là “Ngọa Long” và trụ vững ở Kinh Châu.

Gia Cát Lượng tiếp đó lại sắp đặt cho em trai mình kết hôn cùng con gái nhà Lâm Thị, cũng là một nhân vật danh tiếng trong giới địa chủ Kinh Châu đang sống ở khu vực phía Nam Tương Dương. Lần thứ ba và cũng là lần quan trọng nhất, Khổng Minh chọn vợ cho mình.

Với mục đích trụ vững ở Kinh Châu chứ không phải bất kỳ nơi nào khác nên Gia Cát đã chấp nhận lấy Hoàng A Sửu.

Gia Cát Lượng bất chấp mọi người chê cười khi lấy người vợ có dung mạo xấu xí còn có thể lý giải bởi nguyên nhân cha của Hoàng A Sửu, Hoàng Thừa Ngạn lúc đó đang là một danh sỹ có tiếng tăm trong vùng. Bên cạnh đó, gia đình Hoàng Thừa Ngạn còn có mối quan hệ thân thích, họ hàng với người vợ sau của Lưu Biểu.

(Theo TTXVN)

KHỔNG MINH THẦN TÓAN

ÐỐI TƯỢNG DỰ TRẮC

Muốn xin quẻ cầu tài, công danh, sự nghiệp, thi cử, đi xa, hay muốn biết cái vị lai mình mong cầu được ứng nghiệm rõ ràng, người cầu quẻ tâm phải thành, thân phải sạch. Đốt hương thỉnh nguyện, khấn vái thần linh nhờ chỉ dẫn sở nguyện của mình thì mới mong quẻ linh nghiệm và đúng đắn được. Các bạn cũng đã biết, sự linh ứng căn bản là ở nơi lòng mình vậy.

CÁCH LẬP QUẺ

Muốn xin quẻ, bạn hãy chọn 8 đồng tiền. Trong 8 đồng tiền, bạn lấy ra một đồng dán giấy đỏ cả 2 mặt. Để hết đồng tiền vào 2 lòng bàn tay úp kín lại, bạn đưa lên trán, xóc đều và thầm khấn... Kế gieo từng đồng một, cứ theo thứ tự (trên bảng đồ chiếu quẻ), chừng nào gieo ra đồng dán giấy đỏ thì thôi. Đồng đỏ nằm ở số nào thì đó là tên quẻ. Thí dụ: Đồng đỏ nằm ở số 2 là Đoài. Xong lần thứ nhất, ta bỏ tiền vào lòng bàn tay rồi lại tiếp tục xóc và gieo như trước. Ví dụ đồng đỏ ở số 4, vậy số 4 là Chấn, Chấn là tên quẻ. Trước chứ Đoài, sau chữ Chấn, hợp lại gọi chung là Đoài Chấn. Vậy Đoài Chấn là 1 quẻ. Nhưng mỗi một quẻ như Đoài chấn chẳng hạn lại có 6 quẻ Đoài chấn. Ta làm sao biết quẻ đoài chấn nào của ta cầu? Để giải thích điều đó, quí bạn cũng nên hiểu thêm rằng: Quẻ Diệc có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào (xem bảng đồ chiếu hào), vậy nhân lên thành 384 quẻ (hay hào). Bởi lẽ đó, sau khi xin được quẻ rồi bạn lại xóc tiền để tìm số thứ tự của quẻ. Nhưng lần này bạn phải bớt đi 2 đồng, chỉ dùng có 6 kể cả đồng đỏ. Bây giờ bạn để 6 đồng vào lòng bàn tay theo cách thức trên, gieo tiền ra, rồi sắp theo thứ tự (xem bảng chiếu hào). Như gieo đến số 5 là đồng đỏ, gọi là quẻ đoài chấn 5; như ở số 2 thì gọi là đoài chấn 2. Bạn chỉ việc tìm trong 384 quẻ là có quẻ bạn đang cầu. Cần nhắc thêm là có tất cả 3 lần gieo quẻ. Hai lần đầu để biết tên quẻ (quái danh), một lần sau là tìm hào số của quẻ ấy.

GIẢI ÐOÁN

Như ở ví dụ trong cách gieo 1, ta gieo được quẻ Hỏa Phong Ðỉnh, hào 2 (có thể ghi là Ly Tốn 2).

Tra trong đáp án 384 hào của 64 quẻ, ta có lời giải đóan:

Ý mê kỷ bất mêSự khoan tâm bất khoanYếu tri đoan đích tínDo cách lưỡng trùng sơn.Gia Cát Khổng Minh

Dịch thơ:

Ý mê, mình chẳng mêViệc dễ, lòng không dễCần biết tin xác thựcCòn bị cách sơn khê.

Lời bàn:

Mê hay ngộ, dễ hay khó là do chính mình. Trong hoàn cảnh mê mà biết ngộ là tốt, Ðứng trước hoàn cảnh khó khăn mà có lòng kiên định, sáng suốt, thì có thể chuyển khó thành dễ, đổi nguy ra an. Ðường đi dễ không phải vì không gặp ngăn sông cách núi mà dễ vì lòng người không ngại núi e sông.

Chiếm được quẻ này, người còn đang ở trong tình trạng khó khăn, nghi ngại, trong lòng những mong đủ tin tức để có thể dực vào đó mà quyết định nhưng tin tức chờ mong kia vẫn chưa tới được vì sự cách trở sơn khê. Vậy hãy đợi thời cơ, chừng nào có đủ "thiên thời, địa lợi" rồi hãy ra tay hành động.

MỘT SỐ NHẬN XÉT

So với các phương pháp ứng dụng Dịch lý Dịch số để bói, "KHÔNG MINH THẦN TOÁN" có vẻ đơn giản hơn nhiều. Số phương án đoán giải của "KHÔNG MINH THẦN TOÁN" cũng chỉ giới hạn ở con số 384. Phương pháp bói này có xứng với tên của vị quân sư lỗi lạc của nhà Thục Hán thời Tam Quốc (Trung Quốc) hay không, có "thần toán" hay không thì chỉ những người thường dùng nó mới biết!

Chào các bạn tôi có toàn bộ 384 quẻ của khổng minh thần toán

tôi post lên cho các bạn tham khảo tôi sẽ post từng phần 1

kt: lưu thành lam

Khổng Minh Thần Toán

"Khổng Minh Thần Toán" là một danh tác của Khổng Minh, vị quân sư của Lưu Bị đời tam quốc và có thể nói cũng là vị quân sư mọi triều đại về sau của Trung Hoa. Tư cách "quân sư của mọi triều đại" ấy dĩ nhiên là do cái sở học uyên bác của ông về dịch lý Ðông phương, và "Khổng Minh Thần Toán" chính là tác phẩm độc nhất của ông về môn học ấy. Sách này trải qua bao nhiêu thế kỷ, đã vẫn là một thứ kim chỉ nam cho mọi tầng lớp người ở Trung Hoa cũng như ở các quốc gia Á Châu chịu ảnh hưởng của nền văn hóa nước này. Ðiều đặc biệt là ngoài giá trị thần toán-giá trị dịch lý, rất đổi linh diệu. "Khổng Minh Thần Toán" còn bao hàm một giá trị đạo lý sâu xa, cái giá trị đạo lý của Ðông phương đúc kết từ tam giáo. Chỉ mỗi cái giá trị đạo lý này cũng đã thừa khả năng để đưa người đời vượt qua mọi cảnh huống tối tăm, để tự mình thắp đuốc lên mà đi tới miền tươi sáng"...

(Theo tác giả Trần Ðại Bính)

Muốn xin quẻ cầu tài, công danh, sự nghiệp, thi cử, đi xa hay muốn điều mình cầu được ứng nghiệm, người cầu tâm phải thành, thân phải sạch. Người cầu đốt hương thỉnh nguyện, khấn vái Thánh Thần nhờ chỉ dẫn sở nguyện của mình.

Có một số cách lập quẻ như sau:

Cách 1:

(Theo tác giả Trần Ðại Bính)

Dùng 8 đồng xu, trong đó chọn một đồng có đánh dấu riêng (dán giấy hay vạch sơn…). Ðể 8 đồng vào lòng bàn tay, úp kín lại, xóc đều, đưa lên ngang trán và thầm khấn.

Gieo lần lượt từng đồng, tìm ngọai quái rồi gieo lần lượt từng đồng tìm nội quái.

Căn cứ vào đồng xu có đánh dấu gieo được vào lần thứ mấy mà xác định tên quẻ: 1- Càn, 2 - Ðòai, 3 - Ly, 4 - Chấn, 5 - Tốn, 6 - Khảm, 7 - Cấn, 8 – Khôn.

Tiếp đến dùng 6 đồng xu trong đó có một đồng xu đánh dấu riêng, gieo lần lượt từng đồng tìm hào động.

Ví dụ:

Gieo lần 1: đồng xu có đánh dấu xuất hiện ở lần thứ 3: tìm được ngọai quái là Ly.

Gieo lần 2: đồng xu có đánh dấu xuất hiện ở lần thứ 5: tìm được ngọai quái là Tốn.

Gieo lần 3: đồng xu có đánh dấu xuất hiện ở lần thứ 2: Tìm được hào động là 2.

Như vậy ta gieo được quẻ Hỏa Phong Ðỉnh, hào 2 (có thể ghi là Ly Tốn 2). Tra trong đáp án 384 hào của 64 quẻ, ta có lời giải đóan:

Ý mê kỷ bất mê

Sự khoan tâm bất khoan

Yếu tri đoan đích tín

Do cách lưỡng trùng sơn.

------------Gia Cát Khổng Minh

------

Dịch thơ:

Ý mê, mình chẳng mê

Việc dễ, lòng không dễ

Cần biết tin xác thực

Còn bị cách sơn khê.

----------

Lời bàn:

Mê hay ngộ, dễ hay khó là do chính mình. Trong hoàn cảnh mê mà biết ngộ là tốt, Ðứng trước hoàn cảnh khó khăn mà có lòng kiên định, sáng suốt, thì có thể chuyển khó thành dễ, đổi nguy ra an.

Ðường đi dễ không phải vì không gặp ngăn sông cách núi mà dễ vì lòng người không ngại núi e sông.

Chiếm được quẻ này, người còn đang ở trong tình trạng khó khăn, nghi ngại, trong lòng những mong đủ tin tức để có thể dực vào đó mà quyết định nhưng tin tức chờ mong kia vẫn chưa tới được vì sự cách trở sơn khê. Vậy hãy đợi thời cơ, chừng nào có đủ "thiên thời, địa lợi" rồi hãy ra tay hành động.

Cách 2:

(Theo trang VietShare.com)

Dùng 3 đồng xu, gieo lần lượt 6 lần, mổi lần gieo 3 đồng, tìm 6 hào (tương tự gieo quẻ Dịch Dã Hạc).

Tiếp đến dùng 6 đồng xu, gieo lần lượt từng đồng tìm hào động.

Xác định được quẻ, hào số, tra trong đáp án ta được lời đoán.

Cách 3:

(Theo tác giả Bùi Hạnh Cẩn)

Dùng 10 mảnh bìa hình vuông, trên mỗi bìa, ghi một số từ 0 đến 9, gọi là ô số. Bỏ 10 ô số vào một cái hộp. Khi muốn tìm thẻ, hãy xóc đều, đưa lên ngang trán và thầm khấn.

Lần 1: Nhặt một ô bất kỳ. Nếu được các số 0,1,2,3 thì ghi đúng số. Nếu được các số từ 7-9 thì ghi đúng số 0. Ta được chữ số hàng Trăm. Ví dụ được thẻ số 1.

Lần 2:Bỏ ô số vào hộp, xóc lại và nhặt một ô. Ðược số nào ghi số đó. Nếu được số 9 thì ghi là 0. Ta được chữ số hàng Chục. Ví dụ được thẻ số 3.

Lần 3:Bỏ ô số vào hộp, xóc lại và nhặt một ô. Ðược số nào ghi số đó. Nếu được số 9 thì ghi là 0. Ta được chữ số hàng Ðơn vị. Ví dụ được thẻ số 4.

Như vậy người chiếm được thẻ số 134.

Tìm số 134 trong sách, sẽ được lời dự báo.

Nhận xét: cách lập quẻ này như tác giả Bùi Hạnh Cẩn trình bày có phần không đúng vớI nguyên tắc xử lý số lớn như phương pháp lập quẻ Mai Hoa hay Hà Lạc. Theo cách này, khả năng lấy được thẻ có chữ số hàng trăm là 0 rất cao: 70% trong khi khả năng lấy được thẻ có chữ số hàng trăm là 1,2 hoặc 3 - mỗi trường hợp là 10%.

Nên chăng: Nếu được số không lớn hơn 384 thì lấy số đó làm số thẻ, nếu được số lớn hơn 384 thì lấy số đó trừ dần cho 384 cho đến khi được số không lớn hơn 384 làm số thẻ của quẻ cần tìm (như cách 4).

Cách 4:

(Theo tác giả Bùi Hạnh Cẩn)

Người chiếm quẻ viết ra ba từ tiếng Việt hoặc 3 từ tiếng nước ngòai (theo âm Latinh) sau đó đếm số chữ cái của từng từ và viết chữ số cho hàng trăm, chục và đơn vị.

Nếu được số không lớn hơn 384 thì lấy số đó làm số thẻ, nếu được số lớn hơn 384 thì lấy số đó trừ dần cho 384 cho đến khi được số không lớn hơn 384 làm số thẻ của quẻ cần tìm.

Ví dụ:

KIỀU NGUYỆT NGA.

- Số chữ cái của từ KIỀU : 4

- Số chữ cái của từ NGUYỆT : 6

- Số chữ cái của từ NGA : 3

Ðược số 463 lớn hơn 384 nên phảI trừ đi 384, được 079 là số thẻ cần tìm (hào số 1 của quẻ Trạch Phong Ðại quá).

Cách 5:

Dùng 8 mảnh bìa hình vuông, trên mỗi bìa, ghi một số từ 1 đến 8, gọi là ô số. Bỏ 8 ô số vào một cái hộp. Khi muốn tìm thẻ, hãy xóc đều, đưa lên ngang trán và thầm khấn.

Dùng 10 mảnh bìa hình vuông, trên mỗi bìa, ghi một số từ 0 đến 9, gọi là ô số. Bỏ 10 ô số vào một cái hộp. Khi muốn tìm thẻ, hãy xóc đều, đưa lên ngang trán và thầm khấn.

Lần 1:nhặt một ô bất kỳ. Ðược số nào thì ghi đúng số làm quẻ ngoại. Ví dụ được thẻ số 1 - quẻ Càn.

Lần 2:Bỏ 8 ô số vào hộp, xóc lại và nhặt một ô bất kỳ. Ðược số nào thì ghi đúng số làm quẻ nội. Ví dụ được thẻ số 3 - quẻ Ly.

Lần 3:Bỏ 6 ô số vào hộp (để ra ngoài ô số 7 và 8), xóc lại và nhặt một ô. Ðược số nào thì ghi đúng số làm số hào động.

Ví dụ:

Được thẻ số 4.

Như vậy người chiếm được quẻ Thiên Hỏa Ðồng Nhân, hào số 4 (Càn Ly 4).

Tìm trong sách, sẽ được lời dự báo (quẻ số 16).

Khổng Minh Thần Toán

QUẺ SỐ 001 - THƯỢNG THƯỢNG

Bát Thuần Càn

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Càn

Thiên môn nhất quải bảng,

Dự định đoạt tiêu nhân. Mã tô phường thảo địa,

Thu cao thính lọc minh.

Cửa trời treo bảng đề danh,

Càng treo giá ngọc, càng dành phẩm tiên.

Âm vang ngựa thét băng miền,

Cuối thu ồ ạt vẫn truyền tiếng nai.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ: Con Rồng hiện trên ruộng, rất lợi khi gặp người đại nhân quân tử. Được thì suốt ngày nơm nớp, chiều tới thì lo lắng giữ gìn. Bởi thế nên lấy đó mà tự cường ở trên thì không kêu, ở dưới thì không lo. Thật là Đại cát vậy.

Quẻ này cầu bất cứ việc gì cũng đều được may mắn, vì câu thứ ba tả rằng "Nay người xin cầu như con ngựa hí ngoài đồng cỏ xanh tươi” và câu thứ tư còn thêm rằng “Cuối thu được nghe tiếng nay”. Cảnh thanh thản an nhàn biết bao, vậy còn gì hơn nữa.

Ý quẻ muốn nói rằng: cầu xin việc gì đều toại nguyện. Buổi phú quý, vinh hoa ắt đến, và hoá rủi thành may, đó là một quẻ đại cát, cầu danh cầu việc đắt thành vậy.

Hơn nữa, câu thứ nhất đã nói rất rõ rồi "Cửa trời treo bảng đề danh”, cầu danh, cầu mưu, cầu lợi đều đạt. Còn lo gì nữa.

Số hên: 10, 11, 21, 31, 1. Nếu muốn đánh số hên, đều đạt thành mỹ mãn 1 quẻ tốt cho việc cầu lợi.

QUẺ SỐ 002 - THƯỢNG THƯỢNG

Bát Thuần Càn

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Càn

Địa hữu thần,

Thậm uy nghiêm.

Hưng bang, phụ quốc,

Tôn chủ tà dân.

Đất này là đất có thần

Hữu cầu tất ứng, bội phần hiển linh,

Hưng bang Quốc phụ dân sanh,

Khuôn phù đức cả, thanh bình công cao.

LỜI BÀN:

Quẻ này chủ mưu vọng bất cứ một chuyện gì đều được thuận toại. Quan lại bói xem thì có cái vui thăng quan tiến chức. Kẻ sĩ bói xem thì có cái mừng đạt được công danh. Kẻ muốn xem về tiến trình thì phúc lộc lâu dài. Người muốn xem về sự nghiệp thì cơ sở vững bền. Tất cả đều tốt đẹp, duy chỉ có cầu tài thì vô vọng.

Quẻ này khá lắm, cầu mưu việc gì đều không trở ngại. Cầu tài có tiền, cầu công danh được lên chức, cầu duyên nợ được toại lòng, nhưng phải tận tụy và thành tâm với việc cầu, đừng làm những đều trái với lương tâm.

Bởi vì ta đã hiểu rằng: Đức là tất cả, đức tạo nên hạnh phúc cho người. Cho nên quẻ chú ý khuyên nhủ người nên tạo đức thêm dày, để được trọn việc sở cầu.

Căn cứ ý quẻ nói trên, sự cầu xin của người, hãy nén lòng góp sức người trong gia đình, đừng nản chí, ráng sức tiến tới, thì sẽ giải quyết được vấn đề của người trông mong trong mai sau. Dẫu là quá tốt đẹp, mọi sự hanh thông, chỉ hiềm cần cố gắng mới được. Chớ không phải việc dễ, mà chẳng cố. Đánh số rất tốt. Số hên: 22, 20, 2, 32.

QUẺ SỐ 003 - TRUNG BÌNH

Bát Thuần Càn

Động Hào Tam

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Càn

Tràng An hoa bất khả cập,

Xuân phong trung mã đề tật.

Cấp tảo gia tiên,

Sau nhiên sinh sắc.

Trường An hoa nở khó thay,

Gió xuân, vó ngựa, tràn đầy đường xa.

Thời lai, mệnh xấu sẽ qua,

Cành cây nở rộ sắc hoa trổ màu.

LỜI BÀN:

Có nếm được cái khó bậc nhất trong muôn khó mới là người thượng đại nhân. Người xin được quẻ này nên hết sức tiến lên. Nếu chỉ ỷ thân cậy thế không lo hoạt động thì chẳng những không tiến mà còn thoái nữa là khác.

Những việc cầu xin của người. Như là bông hoa ở nơi kinh kỳ Trường An, thơm đẹp vô cùng mà lại ở nơi xa xôi. Song chẳng sao cả, người chỉ nên tính toán kỹ lưỡng và nắm lấy cơ hội, rồi mau tiến tới thì sẽ thấy sáng lạn và thành đạt trong việc cầu xin.

Ý quẻ nói: Việc cầu xin tuy còn xa xôi, nhưng ý đã định làm thì nên thực hành ngay đi, đừng chần chờ nữa ắt sẽ lỡ dịp may. Vận may sắp đến cần đưa tay ra bắt lấy thì sẽ ắt thành.

Quẻ dạy: Làm ăn phải đi xa chổ khác. Mưu sự ở một chỗ chẳng thông, cần trì chí. Quẻ này nếu cầu tài chỉ có thề đạt một nửa và phải gắng sức đi xa mới mong. Số hên: 43, 13, 23, 33, 30, 3.

QUẺ SỐ 004 - TRUNG BÌNH

Bát Thuần Càn

Động Hào Tứ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Càn

Xuân hoa kiều mỵ,

Bất cấm vũ đả phong nhiêu.

Thu cúc u phương,

Phản nại sương lăng tuyết ngạo.

Hoa Xuân khoe sắc màu tươi,

Nhưng không chịu nổi dập vùi gió mưa.

Cúc cô đơn, nở trễ mùa,

Tuyết sương dầu dãi vẫn thừa sắc hương.

LỜI BÀN:

Quẻ này chủ đại khí vãn thành, người có chí lớn muốn đắc ý phải lúc về già. Ví thử lúc thanh xuân đà đắc ý thì rồi đây cũng như Cam La đời Tần, Vương Bột đời Đường mà thôi. Vũ đã phong nhiêu: gió đạp mưa vùi ý nói gian nan lận đận cuộc đời phong trần như Cam và Vương.

Người cầu được quẻ này, muốn cầu xin việc gì, hãy nên hoãn lại, hãy dò dẫm tiến tới mới hay. Bởi như hoa xuân rất tươi đẹp nhưng đâu chịu nổi mưa đùa gió tạt. Ngược lại hoa cúc tuy sanh trưởng trong mùa thu khí hậu hàn lạnh mà vẫn thơm tươi, chẳng sợ tuyết sương gì cả. Vậy ý quẻ khuyên ta nên chờ thời, đừng nên quá nóng, dù giàu sang hay công danh có muộn mấy đi nữa cũng đừng buồn, vì như hoa Cúc mùa Thu nở muộn mà vẫn thơm tho, hương sắc tốt tươi, chờ đợi là tốt, nhứt là thay đổi chổ ở, nơi làm càng không nên nóng ruột.

Quẻ dạy: Nhẫn nhẫn! Bôn ba chẳng qua thời vận. Công danh tiền bạc như mây nổi giửa trời, hơi nào phải lụy. Khương Tử Nha 80 tuổi mới nên danh, Cam La 12 tuổi đã nên phận, thì đã sao? Cầu tài nên chờ đợi. Chưa tốt lắm. Số hên: 44, 4, 14, 34, 24, 40.

QUẺ SỐ 005 - THƯỢNG THƯỢNG

Bát Thuần Càn

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Càn

Xuân sơn Chấn, Hạ phong Tốn,

Ngọa long khỏi, mãnh hổ kinh.

Phong vân hội họp,

Cứu tế thương sinh.

Xuân Lôi chấn, Hạ giao hòa,

Rồng nằm thức dậy, giỡn già trên mây,

Cọp kia thấy sợ chạy ngay,

Gió mây hội họp dịp may cứu người.

LỜI BÀN:

Quẻ này chủ đợi thời hãy hành động, Người xin được quẻ này nên chờ nuôi tinh thần để chờ dịp thần phân phát, nhất thiết chớ khinh cử vọng động để đến nổi chịu hại. Thuận theo thì khá, ngược lại ắt mệt đó.

Quẻ này tốt lắm. Vận thời sắp đến lúc hanh thông, vì đã đến lúc thuận theo thiên thời. Bởi quẻ nói: Mùa Xuân có sấm động, mùa hạ có gió đông, đó là hiện tượng của trời đất giao thái, thì con Rồng ắt đến lúc tung hoành trong mây, mà Cọp dữ kia cũng phải kinh sợ, và khi gió mây tụ họp càng là lúc đắc chí của Rồng. Hơn nữa, Rồng là tượng trưng cho thần oai cao thượng, thanh bình an vui. Cho nên người cầu xin được quẻ này, sở cầu mưu ắt được toại nguyện.

Tuy nhiên, thời vận hanh thông cần phải chờ có cơ duyên, như câu chót trong quẻ nói “gió mây hội họp, mới là dịp may thành đạt” vậy.

Quẻ dạy: Cầu tài, cầu danh thì tốt nhất, nếu cần chờ ngày Dần, ngày Thìn thì đẹp hơn. Vì quẻ có biểu tượng Rồng và Cọp. Đánh số nên lấy con nầy làm căn bản. Tốt lắm. Số hên: 5, 15, 25, 35, 50, 55.

QUẺ SỐ 005 - THƯỢNG THƯỢNG

Bát Thuần Càn

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Càn

Xuân sơn Chấn, Hạ phong Tốn,

Ngọa long khỏi, mãnh hổ kinh.

Phong vân hội họp,

Cứu tế thương sinh.

Xuân Lôi chấn, Hạ giao hòa,

Rồng nằm thức dậy, giỡn già trên mây,

Cọp kia thấy sợ chạy ngay,

Gió mây hội họp dịp may cứu người.

LỜI BÀN:

Quẻ này chủ đợi thời hãy hành động, Người xin được quẻ này nên chờ nuôi tinh thần để chờ dịp thần phân phát, nhất thiết chớ khinh cử vọng động để đến nổi chịu hại. Thuận theo thì khá, ngược lại ắt mệt đó.

Quẻ này tốt lắm. Vận thời sắp đến lúc hanh thông, vì đã đến lúc thuận theo thiên thời. Bởi quẻ nói: Mùa Xuân có sấm động, mùa hạ có gió đông, đó là hiện tượng của trời đất giao thái, thì con Rồng ắt đến lúc tung hoành trong mây, mà Cọp dữ kia cũng phải kinh sợ, và khi gió mây tụ họp càng là lúc đắc chí của Rồng. Hơn nữa, Rồng là tượng trưng cho thần oai cao thượng, thanh bình an vui. Cho nên người cầu xin được quẻ này, sở cầu mưu ắt được toại nguyện.

Tuy nhiên, thời vận hanh thông cần phải chờ có cơ duyên, như câu chót trong quẻ nói “gió mây hội họp, mới là dịp may thành đạt” vậy.

Quẻ dạy: Cầu tài, cầu danh thì tốt nhất, nếu cần chờ ngày Dần, ngày Thìn thì đẹp hơn. Vì quẻ có biểu tượng Rồng và Cọp. Đánh số nên lấy con nầy làm căn bản. Tốt lắm. Số hên: 5, 15, 25, 35, 50, 55.

QUẺ SỐ 006 - TRUNG HẠ

Bát Thuần Càn

Động Hào Lục

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Càn

Phi huyền phi ảo,

Phi thiên phi thâm.

Nhất cá diệu đạo,

Trước ý sưu tầm.

Không huyền chẳng ảo cũng không sâu,

Việc tính cầu xin từ khởi đầu.

Có dốc lòng đi, nên khéo léo,

Dò tìm hay dở tránh âu sầu.

LỜI BÀN:

Tưởng rằng điều khó hiểu ai ngờ đã tìm ra. Lâu nay không biết chỉ tại ít để ý tới việc đời, không nghiên cứu kỹ sự vật đó thôi. Quẻ này ngụ ý khuyên ta nên đi tìm tìm lấy cái đạo huyền diệu cho cuộc sống của mình. Thực ra thì cái diệu đạo chẳng ở đâu xa, chỉ là sự giác ngộ của mình đó thôi.

Người cầu xin được quẻ này nên lưu tâm về việc đã định cầm mưu và phải tính toán kỹ lưỡng từ đầu, bởi trong quẻ câu thứ nhất nói rất là tế nhị. Hơn nữa, ta muốn thành đạt theo ý nguyện thì càng nên khéo léo và dò dẫm từng bước tiến, chớ quá nóng nảy gây những điều không hay.

Ý quẻ muốn khuyên nhủ ta thận trọng, cân nhắc trong mọi công việc nhất là việc đang tính làm ăn tiểu tâm nghiên cứu chu đáo, rồi hãy tiến tới thì mới mong thành đạt. Sách có câu �Dục tốc bất đạt� vậy.

Quẻ vừa phải. Cầu tài không mấy lợi. Cầu danh phải cố gắng, may ra mới mong thành đạt. Nhẫn Nhẫn. Việc đánh số, cầu hên xuôi, ít thuận lợi. Thận trọng. Số hên: 16, 26, 36, 6, 60, 66.

QUẺ SỐ 007 - TRUNG BÌNH

Thiên Trạch Lý

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Đoài

Quân tu ngộ, vật ngộ nghi,

Hữu bình lộ, nhiệm khu trì.

Tùy thời biến,

Kiện kiện hàm nghi.

Tỉnh đi, chớ quá hoài nghi,

Con đường bằng thẳng, có gì bận tâm.

Tùy cơ ứng biến công thành,

Rồi đây muôn sự đem lành với ta.

LỜI BÀN

Nhân tình đen bạc, thế thái nhạt nồng.

Nhưng nếu ta nắm vững được phương châm hành động, rồi tùy cơ ứng biến, thì cũng có thể gọi là người tuấn kiệt thực thời vụ vậy. Có thế thì mới tránh được lỗi lầm.

Quẻ này cho hay sự cầu xin của người, như đi con đường bằng thẳng. Chớ nên nghi ngờ, và hãy nên tiến tới chẳng có gì trở ngại đâu. Nhưng có điều phải giữ lấy phước đức và ối với người phải tùy cơ khéo léo, đừng làm những gì trái với lương tâm, thì sự cầu xin của người ắt được công thành.

Nên uyển chuyển, tùy thời, tùy thế, mà hành động mới mong thành đạt. Làm như tánh người quân tử. �Quân tử tánh như thủy năng phương, năng viên, ủy khúc tùy hành, nghĩa là uyển chuyển tánh tình và công việc như nước, thì chui chỗ nào cũng lọt. Cầu tài cứ tiến tới. Cầu danh cứ hành động. Số hên: 70, 7, 17, 27, 77, 37.

QUẺ SỐ 008 - TRUNG BÌNH

Thiên Trạch Lý

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Đoài

Hổ luyến cao sơn biệt hữu cơ,

Chứng nhân mục hạ thượng vô nghi.

Nhạn lai liều lượng hoàng hoa phát,

Thử tế thanh danh đế kỳ.

Cọp kia luyến núi ắt mưu cơ,

Mục hạ người ta vẫn ý ngờ,

Nhạn đến, hoa hoàng đầy phát nở,

Thanh danh vang dội khắp kinh đô.

LỜI BÀN

Đã từ lâu đành chịu nhục trong cảnh bi, nhưng ý vẫn lặng xét thời cơ để hành động. Rồi đây một sớm vạn đến, tự nhiên hanh thông. Người xin được quẻ này, nên nhớ kỹ điều này: nhất thiết mọi mưu vọng đều phải đợi đến lúc cúc vàng đua nở (tức mùa thu).

Theo bài thơ của quẻ cho rằng: Sự cầu mưu của người hiện giờ, còn có sự trở ngại và chưa được thuận lợi lắm như trong quẻ câu thứ hai nói, người ta chưa tin tưởng nơi mình và ang nghi ngờ việc làm của ta. Nên phải chờ một thời gian nữa đến lúc nhạn về bóng nở thì khi ấy mới thành đạt ý muốn.

Ý quẻ nói rằng: nên nhẫn nại mà chờ đợi nhạn đến hoa nỡ, lúc đó hành động thì mới có kết quả và thu hoạch mỹ mãn vậy.

Quẻ dạy: Dục tốc thì bất thông chờ mùa thu, vì mùa thu là mùa chim nhạn bay về nam. Cầu tài chỉ thông một nửa . Nên lấy biểu tượng cọp và nhạn làm tượng trưng mà cầu may rủi. Số hên: 38, 28, 8, 18, 80, 88.

QUẺ SỐ 009 - TRUNG THƯỢNG

Thiên Trạch Lý

Động Hào Tam

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Đoài

Quý khách tương phùng cánh khả kỳ,

Đình tiên kho mộc phượng lai nghi.

Hảo tương đoàn sự tòng trường sự,

Hữu thính bàn nhân thuyết thị phi.

Tương phùng khách quý nẻo đường mai,

Trước ngõ cây khô phụng trổ tài.

Tà vọng đứng nghe làm việc thiện,

Theo người phải trái sẽ ương tai.

LỜI BÀN

Có người đề bạt, mọi việc đều toại lòng, ngoài hẳn ý liệu của mình. Tuy nhiên, nếu không có tu nhân tích đức thì quyết không thể có cái hy vọng đó được. Bởi thế, người quân tử bói được quẻ này thì nên, nhưng đứa tiểu nhân bói được quẻ này thì hung.

Theo ý quẻ nói, người cầu xin được quẻ này, thì hoàn cảnh sắp gặp may, mà chỉ còn một thời gian rất ngắn thôi.

Nhưng ý quẻ cũng khuyên nhủ rằng đừng nghe theo những lời tà vọng, mà phải tu tâm, tích đức thì mới tốt lành.

Quẻ dạy: Gần gặp lúc �Thới lai phong tống� rồi đó không cần phải lo âu, buồn khổ làm gì. Thời đến như cây sắt trổ bông! Chỉ hiềm phải giữ lòng ngay thật mới mong có kết quả tốt đẹp. Cầu tài sắp vượng. Cầu danh sắp được thông. Có thể tính chuyện hên xuôi. Số hên: 99, 9, 19, 29, 90.

QUẺ SỐ 010 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Trạch Lý

Động Hào Tứ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Đoài

Liêu lệ chinh hồng đô�c xuất quan,

Cao phi vũ dục cánh nhan nhan.

Nam chinh bắc tiến, hỏa gia tranh đấu,

Triều vân mộ vũ, ân giao hữu nhạt.

Cô hồng xuất chúng vút bay cao,

Phấn khởi nương mây chí khí hào.

Hướng Bắc đường xa tin sẽ lại,

Nhờ nơi giúp rập toại đường bao.

LỜI BÀN

Công danh phú quý, có cần khổ mới có được. Hoàn thành công việc mình thì hoàng thiên ắt chẳng phụ ta. Trái lại, nếu dục vọng nhiều mà biếng nhác quen thân, hoặc trước siêng sau nhác thì chắng khác nào mui xe ở bắc mà trục bánh xe ở nam vậy.

Quẻ này tốt lắm, thời vận đến lúc hanh thông rồi vậy. Quẻ cho biết rằng: Người tuy là cô đơn, nhưng là kẻ có tài, nên nay lại được xuất chúng. Có thể bay cao chơi xa, tất cả sự cầu mưu đều được may mắn toại lòng. Phủ khứ thái lai đấy.

Nhưng có điều hãy nên lưu ý, theo ý quẻ hướng làm ăn thuận lợi về hướng bắc hơn,như trong câu thơ thứ 3 nói: Hướng bắc đường xa tin sẽ lại, đó là ám chỉ đại lợi về hướng Bắc vậy.

Quẻ dạy: Cầu mưu, cầu tài nên tìm về hướng Bắc cầu tài đạt mười phân vẹn mười. Biểu tượng chim: chim Hồng. Số hên: 1, 10, 100, 11, 21, 31.

QUẺ SỐ 011 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Trạch Lý

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Đoài

Vô tung diệc vô tích,

Viễn cận quan nạn mịch.

Bình địa khởi phong ba,

Tự tiêu hoàn thành khap.

Lưng treo đao kiếm thanh cao.

Bước vào cung điện lạy chào đế vương,

Đảm đương công việc phi thường,

Trăm ngàn rèn luyện, đường đời mới nên.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ có cái lo chết chóc tan thương, cái buồn khóc lóc bi ai. Mọi việc đều bất lợi, có danh mà không có thực. Đã thế mà còn những tai biến phi thường. Người xin được quẻ này cần biết giới căn lúc nào cũng lo tu tâm để mong giải bớt tai họa.

Ý quẻ cho hay rằng hiện hoàn cảnh của con người, lưng treo đao kiếm nghĩa là có quyền cao đó, và ra vào cửa cổng. Nhưng muốn thành đạt sự nghiệp cần trải qua trăm ngàn rèn luyện thử thách nữa mới nên.

Như vậy sự cầu xin của người. Trong giai đoạn này chỉ có tiếng mà chưa có miếng. Nếu muốn thành đạt được sở cầu phải cố gắng trên đường đời thì mới mong.

Tuy tốt nhưng chưa hẳn là tốt, tuy ở giai đoạn vinh sang, nhưng chưa có quyền thực lực. Cần cố gắng ra sức và rèn luyện tri thức, may ra mới có tương lai hơn bây giờ. Tính chuyện may rủi khá hạp. Cầu danh, cầu lợi và tình duyên đều tốt. Số hên: 1, 10, 11, 21.

QUẺ SỐ 012 - HẠ HẠ

Thiên Trạch Lý

Động Hào Lục

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Đoài

Thần ảm ảm,

Ỷ du du.

Thu khước tuyên,

Mạc hạ câu.

Phần buồn ý lại sầu.

Còn biết làm gì đâu.

Ta hãy rút dây mất.

Cá nào mà thả câu.

LỜI BÀN

Quẻ này khuyên ta chớ vọng tưởng, chỉ nên giữ gìn cẩn thận để tránh tai họa, và tránh chuyện thị phi. Nếu không nghe lời răn ắt xảy ra chuyện lầm lạc tội lỗi, hối thì đã muộn.

Theo ý quẻ nói, hiện nay vận tình của bạn còn xấu xa lắm, chưa thấy may mắn chút nào như công việc mưu cầu, nên ngừng lại chờ thờ tốt hơn, nếu có làm tới e rằng sẽ bị tổn hao không thì cũng phí sức hao công chứ chẳng lợi gì.

Quẻ dạy: Xấu! Nhẫn nhẫn chờ thời Hai câu sao rất dở đi câu bị mất dây thì cá làm sao ăn? Cầu mưu cầu lợi chẳng thông chút nào đánh số chẳng hạp. Biểu tượng lả cá. Chỉ cầu may chút thôi. Số hên: 10, 11, 22, 2, 12, 20.

QUẺ SỐ 013 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Hỏa Đồng Nhân

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Ly

Đắc ý nghi phung phụ,

Tiền trình khứ hữu duyên.

Lợi danh chung hữu vọng,

Tam ngũ nguyệt đoàn viên.

Công thành nghĩ lại chuyện xưa

"Ở thì ăn xổi" lọc lừa nên khi

Duyên may ắt gặp còn chi

Trăng tròn danh lợi định kỳ vàng son.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ: mưu việc ắt thành, mọi việc đều có duyên may. Kén vợ thì được vợ đẹp, tìm việc thì được y việc hay. Trong cuộc trò chuyện, lập tức thành công, đấy mới gọi là người lành được trời giúp. Năm ba tháng ý nói cái ngày tốt đẹp gần kề.

Quẻ này khá lắm. Cầu mưu việc gì chẳng hề lo ngại, nhất là cầu xin về duyên nợ và tài lộc, chắc chắn thành đạt toại lòng. Nhưng một khi công thành rồi, nên nhớ lại cảnh cũ ngày xưa, mà ừng nên �ăn xổi ở thì� quên những ngày cay đắng cũ, mà ăn ở sao cho phải đạo làm người mới được. Được như vậy, cảnh giàu sang, phú quý sẽ được vững bền lâu.

Ý quẻ khuyên nên ăn ở đạo đức thì sẽ gặp duyên may. Tuy cũng cần chờ đợi khi trăng sáng tròn mới mong thành �

Quẻ dạy: tốt, cầu danh đắc danh, cầu lợi đắc lợi. Thời vận đã đến lúc hanh thông. Chẳng còn lo gì lận đận về sau nữa . Tuy nhiên cần giữ gìn lòng đạo đức, chớ theo phường “Có trăng rồi lại phụ đèn”. Cầu tài, cầu lợi thông. Tính chuyện rủi may rất hạp. Số hên: 3, 11, 33, 13, 10, 30.

QUẺ SỐ 014 - HẠ HẠ

Thiên Hỏa Đồng Nhân

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Ly

Đỉnh phi khởi phong ba,

Cô chu yếu độ hà.

Xảo trung khước tàng chuyết,

Nhân sự chuyên tha là.

Nước đèo đổ động phong ba

Thuyền nan một mảnh giang hà muốn sang.

Khó khăn lắm chuyện nguy nan.

Không điểu xảo, cũng gian nan một chèo.

LỜI BÀN

Tránh dữ tìm lành, đó là thường tình của nhân thế. Nếu một ngày nào đó gặp phải biến cố, tất nhiên ta phải khôn khéo tránh dữ tìm lành. Sống trong biến cố, chẳng phải mình ta tự cảm thấy bất an mà đến cả mọi người cũng đều lo lắng giùm ta. Việc người lần lửa chứa cái ý khuyên răn sau đó.

Người xin được quẻ này không nên tránh gian hiểm, cần phải cố gắng chống chọi quyết liệt với nguy cảnh là khác.

Người cầu xin được quẻ này, không được may mắn lắm. Phàm việc cầu mưu khó tránh điều trắc trở, nguy nan, nhất là về việc xin sở làm càng khó lòng vừa ý.

Ý quẻ dạy rằng: Công việc cầu xin kkhó mà thành công, nếu cố mà làm sẽ gặp nguy nan và những điều gian hiểm, nên bình tĩnh mà chờ thời thì tốt hơn.

Quẻ dạy: Xấu! Chớ tính toán. Gặp nhiều gian, mà chẳng nên công gì. Hoàn cảnh đang rắc rối. Cần ẩn nhẫn chờ thời, thì tốt hơn hết. Cầu tài, Cầu danh chẳng thông. Tính chuyện may rủi lại càng đỡ hơn. Nếu chờ đợi xin quẻ khác. Số hên: 10, 4, 44, 11, 40. Vì quẻ xấu, chớ nên tin tưởng lắm.

QUẺ SỐ 015 - HẠ TRUNG

Thiên Hỏa Đồng Nhân

Động Hào Tam

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Ly

Ý tại nhân trung tín vị lai,

Cố nhân thiên lý tự bồi hồi.

Thiên biên nhạn túc truyền tiêu tức,

Nhất điểm mai hoa xuân sắc hồi.

Nóng nảy chờ tin, tin chẳng lại,

Cố nhân dịu viễn cách trùng quan.

Nhạn về tin báo mai vàng nở,

Xuân đến hồng lên ngập ngút ngàn.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ cái tượng: trầm trệ đã lâu, khốn quẫn nhiều ngày nhưng sắp được hạnh thông. Tuy vật song song cũng phải đợi đến mùa mai nở thì lúc đó mới có tin vui. Người xin được quẻ này nên chờ đợi ít lâu, đừng nóng lòng vội tiến.

Những sự cầu xin của bạn vẫn chưa chút tia sáng nào tất cả sự trông chờ vẫn còn nơi xa, nhưng bạn hãy chờ một thời gian nữa sẽ được toại nguyện mai sau, như câu thứ tư, ba trong quẻ nói: "Nhạn báo Mai nở xuân sắp về".

Ý quẻ dạy: Chờ đợi và nhẫn nại thì tốt hơn, vì chờ tin, thì tin chưa lại, cố nhân vẫn còn lẩn quẩn nơi xa.

Quẻ dạy: Ẫn nhẫn chờ thời. Công việc tính chưa tiện vì quý nhân, hay người bảo bọc còn ở xa thì làm sao giúp bạn được. Tuy nhiên, cũng gần đến lúc thời vận tốt chỉ chờ vào mùa Thu, mùa Xuân, ắt đắt quả đạt thành. Biểu tượng nhạn hay chim. Cầu tài chưa toại mấy. Số hên: 11, 50, 55, 5, 10.

QUẺ SỐ 016 - TRUNG THƯỢNG

Thiên Hỏa Đồng Nhân

Động Hào Tứ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Ly

Tâm hòa đồng,

Sự hòa đồng.

Môn ngoại hảo thi công,

Giao gia sự hữu chung.

Việc nào việc nấy hiệp hòa

Đùa vui cười nói thật là thảnh thơi,

Tin này tùy ở nữa trời,

Thong dong bước tới cuộc đời vinh quang.

LỜI BÀN

Cùng hội cùng thuyền, cùng lòng cùng giúp, hễ ra khỏi cửa là có công, đó là cái tượng của quẻ này. Người xin được quẻ này chớ nên ít kỹ hại nhân, cũng chẳng nên duy ngã độc tôn, nếu không, thì đầu cọp đuôi rắn quyết không thể có lợi lộc được.

Ý quẻ cho biết rằng: Việc cầu xin của bạn ắt được vừa ýtrong mai sau. Bởi quẻ đã cho người rất rõ, hiện nay mọi việc đều được hòa hiệp, đàm tiếu chơi vui, nghĩa là hiện tình cảnh đã dễ chịu lắm rồi. Nếu cứ thong dong tiến tới nữa, thì sẽ hạnh phúc cuộc đời.

Do những lời phán xét của quẻ, thì sự cầu xin của bạn tuy còn hơi xa vời, nhưng rút cuộc đạt đến mục tiêu tốt đẹp. Nếu theo đúng lời khuyên của quẻ thong dong bước tới.

Quẻ dạy: Thời sắp đến, Nên gắng sức ắt thành công. Cầu tài tuy nhiên đạt nữa phần. Cầu danh còn đợi dịp một chúc. Cần chờ đợi chớ nóng nảy.

Số hên: 60, 11, 16, 66, 10.

QUẺ SỐ 017 - HẠ TRUNG

Thiên Hỏa Đồng Nhân

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Ly

Dục hành hoàn chỉ,

Bồi hồi bạt dĩ.

Tàng ngọc hoài châu,

Thốn tâm thiên lý.

Muốn đi sao lại ngập ngừng,

Chi mà quanh quuẩn lừng chừng nghĩ sao,

Đã từng nuôi dưỡng chí cao,

Hùng tâm ngàn dặm ai nào rút lui.

LỜI BÀN

Quẻ này khuyên ta nên cẩn thận làm đầu. Phàm công việc thường kéo tới bề bộn ngổn ngang, ta cần phải xét tín cẩn thận mà tiến lui. Nếu ta không cẩn thận, liều lĩnh hành động thì có khác chi ném ngọc quăng châu xuống vũng lầy, và như thế thì tránh sao khỏi tự bạo, tự khí. Coi chừng đấy.

Ý quẻ nói rằng: phàm mưu tính việc gì, phải quyết chí một lòng tiến tới, nhất là đã nuôi mộng cao đẹp, thì càng phải kiên quyết hơn, nếu không, công lao nữa chừng, và sẽ tốn của hao sức chẳng nên gì cả.

Vậy những việc mưu tính của mình, phải theo ý nguyện để tiến tới, ắt sẽ toại lòng, xưa có câu "Hữu chí cảnh thành".

Quẻ dạy: Chớ chần chừ, cứ tiến tới ắt thành công. Đừng sợ thất bại. Thất bại là mẹ của thành công, lo gì. Hơn nữa, quẻ tốt chớ không xấu. Cầu tài, cầu danh, cần cố gắng. Số hên: 77, 7, 17, 11, 10.

QUẺ SỐ 018 - HẠ HẠ

Thiên Hỏa Đồng Nhân

Động Hào Lục

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Ly

Tâm thích thích,

Khẩu thu thu.

Nhất phiên tư lự nhất phiên ưu,

Thuyết liễu hưu thời hậu bất hưu.

Lòng xa xót, ý bơ thờ!

Than thầm trong dạ, hững hờ lòng ai.

Suy tư đã lắm ưu hoài,

Chẳng ra manh mối lạc loài hư không.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ vừa lo được vừa lo mất, chẳng khác gì con ngựa con quyến luyến giàn đậu non, chẳng có hành động quả quyết, cho nên uổng phí cả tâm trường, chỉ mua lấy phiền não mà thôi.

Theo quẻ thơ cho biết, người cầu xin được quẻ này, hiện tâm tình rất lo âu cho việc đang mưu tính vô cùng. Bởi công việc quá rắc rối, nên rất buồn lòng phẫn trí. Vì vậy, người xin được quẻ này mà sự cầu mong hiện đang lưng chừng và hơi khó thành. Nhưng riêng tôi lại khuyên người rằng "Thế gian vô nan sự, chỉ sợ chí không kiên".

Quẻ dạy: Xấu. Mọi sự tính toán đều hư hỏng, chỉ nên chờ đợi. Tuy nhiên, dù sao ta cũng phải cố gắng tính toan chứ không phải làm như Đại Lản chờ sung "Có chí thì nên". Cầu danh, cầu lợi còn xa. Tính chuyện rủi may không hạp mấy. Số hên: 88, 8, 18, 11.

QUẺ SỐ 019 - TRUNG TRUNG

Thiên Lôi Vô Vọng

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Chấn

Bất viễn bất cận,

Tự dị tự nan.

Đẳng nhàn nhất sự,

Vân trung tiếu khan.

Ý xa mà lại như gần,

Ý gần mà lại như gần như xa.

Dễ như mà lại khó hòa,

Trông mây cười nu ïkhi mà tin sang.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ bất cứ nghi nan nào dù xa gần, dù khó dễ, thảy đều phải do chính ta chủ trương lấy. Song, nếu ta chịu khó tìm hiểu cơ huyền của tạo hóa thì càng dễ dàng trong việc giải quyết công việc. Cười nói ngâm trong mây ngụ ý nói lúc đắc thời đắc ý.

Những việc cầu xin ở đây, thấy dễ nhưng chẳng dễ, tưởng khó nhưng mà chẳng khó. Cần phải chờ dịp thuận tiện thì mới thành tựu.

Vậy xin được quẻ này, phải tính toán cho kỹ về việc sở cầu và chờ đợi một thời gian nào đó, đừng quá vội vả mà hư hại công việc đang cầu xin. Ý quẻ dạy rằng: Chờ đợi đến lúc thuận dịp sẽ thành, việc tuy dễ mà lại khó, tuy khó mà lại dễ. Dễ khó, hay khó dể đều do tài mình và nơi hoàn cảnh thuận tiện đưa đẩy mà tạo nên.

Quẻ dạy: Do ở tài mình, và trí lực của mình. Cương cầu cũng vô ích, nếu ta không đủ tài. Quẻ không hoàn toàn tốt, mà cũng chẳng hoàn toàn xấu. Xấu tốt, tùy ở hành động của ta. Cầu tài, cầu mưu tuy chậm, nhưng cố thì thành. Số hên: 99, 9, 19, 10, 90.

QUẺ SỐ 020 - HẠ HẠ

Thiên Lôi Vô Vọng

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Chấn

Đào Lý tạ xuân phong,

Tây phi hựu hậu đông.

Gia trùng vô ý tự,

Thuyền tại lãng đào trung.

Đào Lý tạ, gió xuân đưa,

Đông Tây tản mác hương thừa hết vương.

Trong nhà không có chủ trương,

Như thuyền một mảnh tang thương ba đào.

LỜI BÀN

Quẻ này bói sự nghiệp bất lợi, bói bệnh tật bất định, bói hôn nhân vô hy vọng, bói ra đi bị ngăn trở, bói kiện tụng lành ít dữ nhiều, đó là cái tượng thăng trầm thôi nổi, không tốt đẹp thanh thản gì. Người xin quẻ này phải hết sức tu chính mới được.

Người cầu xin được quẻ này, nên phải cẩn thận công ăn việc làm. Và khó thành đạt toại nguyện trong những việc cầu mưu. Bởi hoàn cảnh thời vận của bạn hiện đang như cây lý chào biệt gió xuân, như chiếc thuyền đang gặp sóng gió. Vậy đã cho ta thấy rằng còn gì gọi là may mắn!

Hơn nữa thơ quẻ còn tả cảnh người thêm rằng: Trong nhà không chủ trương, bay chạy đông tây. Đó là ý nói người sầu buồn và vất vả vô cùng vậy.

Quẻ dạy: Chớ tính toán vô ích thời chưa đến thì dù cho tài mấy, cũng như cá mắc cạn. "Bôn Ba Chẳng Qua Thời Vận". Suy cho kỹ, nghĩ cho cùng, chờ dịp thuận lợi hãy hay. Cầu tài, cầu mưu đều bất thông. Không mấy hạp cho việc tính chuyện may rủi. Vì quẻ quá xấu. Số hên: 22, 2, 12, 32, 20.

QUẺ SỐ 021 - TRUNG TRUNG

Thiên Lôi Vô Vọng

Động Hào Tam

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Chấn

Nhật thủy viễn nhất thủy,

Nhất sơn tuyền nhất sơn.

Thủy cùng sơn tận xứ,

Danh lợi bất vi nan.

Nước non non nước dặm ngàn,

Non càng quanh quất, nước càng mênh mông.

Đến nơi non nước tận cùng,

Công danh tài lợi hanh thông khó gì.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ trải khắp mọi gian hiểm mới có thể cáo thành. Tuyệt địa phùng sinh cuối cùng mới tới được thôn đầy liễu, am hoa minh. Do đó, ta mới thấy rằng cùng khốn mới làm đẹp được ta, nhẩn nhục mới luyện được chí cho ta.

Những việc cầu xin của bạn lúc bắt đầu ắt phải gian nan khổ cực. Song nếu là người dốc lòng bước tới, chung quy sẽ được toại nguyện, chớ không đến nỗi làm cho người thất vọng đâu.

Bởi ý quẻ có mách người rằng: Đến nỗi non nước tận cùng, danh lợi ắt chẳng khó gì. Vậy lo chi bạn không thắng lợi cuối cùng. Nhưng tôi khuyên bạn hãy kiên nhẫn và cố gắng bước tới, đừng nửa đường nản chí, thành công sẽ về với bạn.

Quẻ dạy: Cố gắng ắt đạt thành công. Cầu danh, tuy chưa thông buổi này, nhưng về sau ắt đạt, chỉ cần có chí kiên nhẫn. Cầu tài hơi chậm. Tính chuyện rủi may có hạp 1 phần. Số hên: 20, 21, 11, 22, 10.

QUẺ SỐ 022 - TRUNG TRUNG

Thiên Lôi Vô Vọng

Động Hào Tứ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Chấn

Sự tương phù,

Tại bán đo.

Phiên phúc chung khả miên,

Phong ba nhất diêm vo.

Nửa đường được sự giúp nhau,

Đừng nên áy náy lo rầu làm chi.

Gió mưa tắc nẻo chẳng gì,

Ba đào êm lặng, vậy thì yên vui.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ bỉ thử tương trợ nhau, không có việc gì là không xong. Người chính nhân quân tử một lòng thành kính cùng nhau tương thân tương trợ, không bao giờ có cái lo lật lọng trắng đen, điều gì cũng thuận buồm xuôi gió, chén chú chén anh.

Ý quẻ cho hay rằng: Việc cầu xin của bạn, tuy chưa được toại nguyện tức khắc, nhưng dần dần sẽ thành công tốt đẹp.

Như lời thơ quẻ nói: Nửa đường được quý nhân giúp đỡ, dù vấp phải những khó khăn gì, cũng sẽ vượt qua được, dù cho gặp gió mưa cũng chẳng sao, và rốt cuộc cũng không có sóng gió nổi dậy làm cản trở bước tiến của ta. Vậy hãy cố gắng đến bến vinh quang.

Quẻ dạy: Có quý nhân hỗ trợ, lo gì chẳng nên công. Gặp gian nan buổi đầu sau sẽ hanh thông. Chỉ cần cố gắng ắt đạt thành. Cầu danh, cầu tài có kẻ giúp. Chớ lo. Số hên: 20, 22, 2, 12.

QUẺ SỐ 023 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Lôi Vô Vọng

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Chấn

Hỉ, hỉ, hỉ,

Xuân phong nhập đào lý.

Bất dụng cưởng ưu tiên,

Nguyệt minh nhan thiên lý.

Vui thay ôi, lắm vui thay!

Xuân xanh Đào, Lý, đêm ngày hồng tươi.

Lo âu gì, cái nỗi đời,

Dặm ngàn trăng sáng một trời hoàng huy.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ bỉ cực thái lai, từ chổ khốn quẩn trở về. Cố nhân từ ngoài xa muôn dặm đem hết tâm lực để giúp ta, khiến mọi việc của ta đều được thuận lợi toại lòng. Như vậy thì là tất cả ta phải lo lắng buồn rầu, chỉ tổ khổ thân ta mà thôi.

Người xin được quẻ này rất là tốt phước. Cầu gì được nấy, muôn việc như ý, nhứt là xin cầu về tình duyên cưới gả, nhưng phải nhớ tu tâm tích đức thì mới nên sự nghiệp.

Quẻ dạy: Tốt đẹp vô cùng. Cầu được ước thấy. Sự hanh thông. Cầu danh đắc danh, cầu lợi đắc lợi. Hoàn cảnh đang gặp đại vận hanh thông như cảnh phong vân gặp hội. Tính chuyện rủi may càng hạp hơn. Số hên: 33, 22, 23, 3, 2.

QUẺ SỐ 024 - HẠ HẠ

Thiên Lôi Vô Vọng

Động Hào Lục

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Chấn

Ý kiết kiết,

Tâm thích thích.

Yếu bình an,

Phòng xuất nhập.

Ý buồn biết tính gì đây,

Cho thêm xót dạ, cho khuây ý tình.

Muốn yên chớ có đăng trình,

Mà thêm gian khổ phận mình đắng cay.

LỜI BÀN

Người xin được quẻ này hãy an tâm, an phận thủ kỷ, đề phòng cẩn thận lúc ra vào. Buôn bán thì chớ có đấu lưng cân nhẹ. Học trò thì chớ có khinh thánh miệt hiền. Làm quan tại triều thì chớ có tham lam hối lộ. Ở nơi nhà quê thì chớ có gây gổ đấu tranh. Tóm lại cần có một thái độ vô cùng thận trọng việc xử thế tiếp việt.

Theo ý quẻ cho biết, hiện nay hoàn cảnh của người rất là buồn phiền, đang lâm cảnh lúng túng. Do đó, tất cả công ăn việc làm của bạn cần nên cẩn thận, nhứt là đi xa không tốt, và thận trọng đừng làm những chuyện xa với sức mình, mà nên an phận chờ thời là tốt hơn.

Quẻ dạy: Mọi sự bất thông. Làm đâu hỏng đó. Đi xa còn gặp nguy. Chẳng lợi mà còn hao tổn tâm cơ, tiền bạc là khác. Chỉ nên ẩn nhẫn chờ thời là tốt nhất. Cầu tài bất thông. Chưa thuận dịp. Xấu lắm. Số hên: 20, 44, 22, 4, 24.

QUẺ SỐ 025 - HẠ HẠ

Thiên Phong Cấu

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Tốn

Kiến bất kiến,

Dã phòng nhân hội diện.

Ngộ bất ngộ,

Đao đê vô bằng cứ.

Hư không, vô ích, vô tăm,

Giả chân, chân giả chớ lầm mà nguy.

Phòng người trở mặt thị phi,

Không bằng, không chứng làm gì mà mong.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ mệnh kệt thời xui, bị bọn tiểu nhân giởn mặt. Mất vật thì khó tìm. Lục giáp thì thiếu an lành. Ta nên ăn ở mực thước, hành động hợp lý để may ra khỏi vạ.

Quẻ này không được may gì, mọi sự cầu mưu khó được vừa ý và càng nên đề phòng tiểu nhân. Tốt hơn là phải giữ mình, ít giao du để tránh những việc không may đưa đến.

Bởi quẻ ý có cho hay như trên, nên sự cầu xin của người phải cẩn thận và tính toán cho kỹ. Chớ nên nóng nảy gấp gáp tiến hành thì hỏng.

Quẻ dạy: Phòng ngừa tiểu nhân xấu thời vận bất tề. Nên ẩn nhẫn chờ thời là tốt. Dù cố gắng đến mấy, cũng khó mong, vì có kẻ phản bội, thọc gậy. Phòng thị phi quan sự. Cầu tài cầu danh còn xa vời, tính toán đỏ đen càng không hạp. Số hên: 5, 2, 55, 22, 25.

QUẺ SỐ 026 - TRUNG HẠ

Thiên Phong Cấu

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Tốn

Nhất phiên đài lý nhất phiên xuân,

Thùy thức đương sơ khí tượng tan.

Lâm hạ thủy biên tầm hoạt kê,

Kiến sơ lỉu lỉu xứng tâm tình.

Cây tươi là một lần xuân,

Nhưng ai biết được nghĩa xuân là gì?

Sanh nhai rừng núi đặng chi,

Bao giờ thấy rõ việc thì mới hay.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ tiến chẳng bằng lui, hành chẳng bằng tàng, giàu chẳng bằng nghèo, đạt chẳng bằng cùng bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, nếu ta giữ được thái độ điềm đạm thì tức là giữ được tư cách của ta và hạnh phúc của ta. Ngư tiều nong pho, đây là những lối sống có thể giúp ta an cư. Phú quý tôn nghiêm, ngày nay đâu có còn so sánh được với ngày xưa.

Ý quẻ nói rằng: Tình đời thường hay thay đổi. Chẳng ai đoán biết trước sự may rủi của nó. Nhưng một khi trông thấy sự thực rõ ràng rồi thì lúc đó mới tỉnh ngộ. Vậy thì cầu xin của người, đừng tin nơi người mà hãy tin nơi ta. Tất cả sự việc mưu cầu, nên thận trọng.

Quẻ dạy: Vừa phải, tin nơi lòng ta và tài ta là hơn. Mọi sự sở cầu đều chậm chạp, chưa ra gì cả. E rằng còn nên công, cần chờ thời vận là tốt. Bôn ba chẳng lợi gì. Cầu danh cầu tài không lợi. Còn hơi xa vời. Tính việc may rủi khó có may mắn. Số hên: 66, 26, 22, 6, 2.

QUẺ SỐ 027 - TRUNG HẠ

Thiên Phong Cấu

Động Hào Tam

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Tốn

Mạc quái ngã kiên thác,

Tâm tính tự thành kha.

Thiên tịch bất thông tâm,

Chân nhân khước bát ma.

Ầy ơi đừng tưởng ta lầm,

Hiểm sâu gian ác, tại tâm ngược trời.

Ở ăn hiền đức một đời,

Người tiên nào sợ chuyện thời tà ma.

LỜI BÀN

Kẻ trí ôm ngọc châu ở trong lòng, người thành đạt giữ trúc tại bên sườn. Không bị chịu cái ngu của kẻ khác, không bị mê lầm cái mê muội của kẻ khác, thấy lầm lẩn của đời nên không thể nhầm lẩn, chỉ có người chân nhân mới có những điều chân thực, Người xin được quẻ này chính nhờ đó mà tự quyết được đời sống của mình khiến được an lành. Nếu theo ý kẻ khác thì dữ, không lành đâu.

Người xin được quẻ này, hãy nên suy tính đường chính, đừng nên mộng tưởng những điều giàu sang bất nghĩa thì mới được an lành và khỏi bị ma quỷ cám dỗ trong đời.

Ý quẻ dạy: Nên ăn ở hiền lành đạo đức ắt sẽ thọ, sẽ sung sướng mà không sợ đến sự trả vay nhân quả thảm khốc ở ngày mai vậy.

Lời quẻ dạy: Nên giữ đạo làm người là tốt. Gieo nhân tốt, gặp quả tốt. Gieo gió thì gặt bão. Đó là định luật bất biến của tạo hóa. Cho nên mới có câu �họa phúc vô môn tự do nhân tự triện�. Quẻ không xấu, không tốt lắm. Cầu danh cầu tài chưa đạt, đánh số khó nên công. Số hên: 7, 2, 77, 22, 70, 20.

QUẺ SỐ 028 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Phong Cấu

Động Hào Tứ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Tốn

Lộc mã giao trì,

Nam nhi đắc chí thì.

Hành trình tảo biện,

Vinh quy lạc kỳ di.

Ngựa kia đang trẩy thôi đường,

Nam nhi đang thuở, bốn phương tung hoành.

Lên đường mau, mộng bình sanh�

�Hồi hương áo gấm� công thành nên danh.

LỜI BÀN

Quẻ này cho biết thời đã tới vận đã sang. Ta hãy nghe tiếng gà gáy dòn là phải dậy ngay chớ có ngồi rốn màhết thời cơ. Rồi một ngày mai áo gấm về làng hưởng phúc mãi tới già lúc đó mới biết cái thời giờ quyết định đó là quan trọng.

Người cầu được quẻ này thì tốt lắm. Nhứt là cầu xin về việc công danh, thi cử. Nếu cầu về kinh doanh, gia đạo, hôn nhân v.v� cũng đều được xứng ý, không gì đáng ngại.

Quẻ dạy rằng: Đang tính việc gì thì nên cấp tốc thực hành đừng để trễ nữa. Cuộc đời đang bắt đầu lên hương với cảnh vàng son, hoa mộng đẹp đẽ lắm rồi.

Quẻ dạy: Tốt đẹp lắm. Quẻ khuyên chớ chần chờ. Tiến tới ắt kết quả đạt thành. Cầu được ước thấy. Vạn sự đều thông, cầu danh, cầu lợi đều thông suốt. Đánh số càng hạp. Số hên: 8, 2, 88, 22, 80, 20.

QUẺ SỐ 029 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Phong Cấu

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Tốn

Liễu khước tâm đầu sự,

Tam sinh túc hữu duyên.

Hương văn thập lý quế,

Di bộ nhập thiên biên.

Đáy lòng sự việc đã làm xong,

Duyên nợ tiền sanh kỹ ngộ phùng.

Mười dặm quế thơm tràn nở rộ,

Bước vào trời nọ chẳng hao công.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ vì mình mà chính là vì người, cho nên khi đặc thân lên cõi trên, cõi trời mây cao rộng khiến hương thơm bay đi xa hàng mười dặm, phải chăng là đã có túc duyên hương lửa và tự được hưởng cái công quả của chính mình. Người xin được quẻ này càng cần phải làm sao cho lợi ít nhiều hơn nữa, mong đáp lại lòng trời.

Ý quẻ cho biết, tất cả sự cầu xin của bạn sẽ được toại nguyện trong tương lai gần đây. Nhứt là cầu xin về hôn nhân thì càng tốt đẹp hạnh phúc vô cùng.

Cầu xin về những việc như công danh, gia đạo, kinh doanh, tiền tài, bịnh tật� đều gặp được may mắn và yên lành. Chẳng có gì lo ngại.

Quẻ dạy: Gặp thời cây sắt trổ bông, tốt đẹp vô cùng. Vạn sự như ý sở cầu. Mọi sự hanh thông. Thuận chèo mát mái. Cầu danh, cầu lợi đều thành đạt. Đánh số thuận lợi. Số hên: 22, 99, 2, 9, 29, 90, 20. Biểu tượng: Bản quế.

QUẺ SỐ 030 - HẠ TRUNG

Thiên Phong Cấu

Động Hào Lục

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Tốn

Lục hoàng các bạch liểu đầu,

Tất cánh thành hà tế.

Bất như xu thử tinh thần,

Do hảo mãi ta chân khí.

Hoạn lộ công danh có nghĩa gì?

Bạc đầu gối mỏi còn nên chi!

Hư không rút cuộc hư không cả,

Dưỡng khí thừa nay chẳng mấy khi!

LỜI BÀN

Quẻ này cố khuyên ta chớ nên vội vả hành động cố giữ sự yên tỉnh, chớ tham lam tìm đường phải trái, chớ liều lỉnh vọng tưởng. Ta phải làm sao giữ được cái tinh thần có hại của ta, bồi bổ được cái nguyên khí vô cùng của ta. Người quân tử bói được quẻ này, có thể cầu phúc, kẻ tiểu nhân bói được quẻ này có thể lấy đó khỏi vạ.

Người cầu xin quẻ này hiện như một ông lão, đầu đã bạc và khí sắc tàn phai, ngày dương oai, điệu võ không còn nữa. Mà tốt hơn hết là thừa dịp nuôi dưỡng tinh thần để khỏe mạnh tuổi già.

Vậy ý quẻ có ý nói rằng: Nên yên phận, chớ nên cưỡng cầu và cần phải tu tâm dưỡng tính, làm điều phước lành, thì mới yên thân hơn.

Quẻ dạy: An phận thủ thường. Tài ba không có, thời vận cũng không, hay hơn hết nên thủ thường, để tìm hai chữ bình an là tốt hơn hết. Dù cho cố gắng mấy cũng chẳng nên công gì. Cầu tài, cầu danh trầm trệ, đánh đỏ đen khó trúng. Số hên: 3, 30, 33, 23.

QUẺ SỐ 031 - TRUNG TRUNG

Thiên Thủy Tụng

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khảm

Ly biệt gian, tuy bất dị.

Bạn đồng hành, di bất trệ.

Tảo tảo khởi trình,

Miển tha thất ý.

Khi xa nhau, chẳng dễ gì,

Lúc cùng đi, chẳng ngại khi đăng trình.

Cứ đi cho vạn ý tình,

Sớm hôm cho trọn nghĩa mình thì thôi.

LỜI BÀN

Quẻ này cho biết cuộc mưu vi tuy lúc đầu chẳng khỏi trở trệ, nhưng lâu sau vẫn được thuận lợi. Rất nên tùy cơ phán đoán mà hành động, chớ có dùng dằng do dự mà lở việc, khiến luôn tuổi già nua, ngồi than thân thở phận.

Ý quẻ dạy rằng: Việc cầu xin của người, bỏ chẳng mà làm thì khó. Vậy cứ cố gắng ráng sức tiến tới đi, để khỏi băn khoăn còn thành công hay thất bại, do Trời an bày cho mà thôi, lo lắng làm chi cho mệt trí.

Tuy nhiên, ta muốn thành đạt việc gì cũng phải cố gắng, bền chí, có kế hoạch và phối hợp hoàn cảnh thì mới nên vậy.

Quẻ khuyên: Cố gắng chớ nản chí, cócông mài sắc, có ngày nên kim, cứ cố sức mình, rồi cũng có ngày cũng được hưởng công xứng đáng, lo gì. Cuộc đời là một trường thử thách của con người. Hay dở đều ở đó, chỉ sợ không có tài trí, lo gì chẳng nên công. Cầu tài, cầu danh còn chậm. Đánh số hên xui không có lợi. Số hên: 11, 33, 1, 3, 30, 10.

QUẺ SỐ 032 - HẠ HẠ

Thiên Thủy Tụng

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khảm

Lạc chi cực hỉ, ưu tương chí,

Thiên thủy phân minh cát dữ hung.

Tài năng quang đại u chung ám,

Nhật lạc tây sơn phản chiếu trùng.

Sướng quá mức rồi nay sắp rầu,

Đông tây rõ rệt vui cùng sầu.

Nếu không sáng sủa thì u ám,

Trời lặn hướng tây còn sáng đâu!

LỜI BÀN

Điều kiện thuận lợi tới với ta thường không lâu, trái lại điều hoảnh nghịch ít khi ta thoát khỏi. Trời ở trên là tốt nước ở dưới là hung. Người xin được quẻ này bị cái cảnh nghịch lai mà thuận thụ, bị co mà mong được duổi.

Hiện tại cuộc đời thực có vẻ đen tối nhưng lần về sau cũng sẻ được sáng sủa. Y như cái cảnh mặt trời chiếu ánh vàng trên nền trời thành một lớp ráng vàng tuyệt đẹp.

Người cầu xin được quẻ này, nên phải cẩn thận công ăn việc làm của mình, tiền tài không nên tin người, kinh doanh nên giữ mức cũ mà đừng khuếch trương, nhứt là bệnh tật cần nên lưu ý mới tránh được đau thương đưa đến. Bởi vì toàn thơ của quẻ không có một lời may mắn hay khuyên dạy điều tránh gì cả.

Quẻ dạy: Cẩn thận đề phòng mọi việc �Cực lạc sinh bi� Đó là chuyện thường tình của đời người. Chỉ nên ẩn nhẫn và an phận cho qua lúc bỉ là hay. Cầu tài, cầu danh chẳng ra gì. Đánh số chẳng thông. Số hên: 3, 2, 22, 33, 30, 20.

QUẺ SỐ 033 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Thủy Tụng

Động Hào Tam

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khảm

Dược quá ba đào tam ngũ lý,

Thùy tri lãng tỉnh hựu vô phong.

Hạnh mong trực tông thanh vạn lọ,

Dụng xả, hành tàng, chẳng phí công.

Mây độ ba đào đã vượt qua,

Gió êm sóng lặn khí ôn hòa.

Đường mây nhẹ bước ngay thang thái,

Ằt đạt thành, nào phí sức ta.

LỜI BÀN

Khổ chưa hết thì cam đã về, gió lặng sóng êm, tiến thẳng bước trên đường mây rộng thênh thang. Người xin được quẻ này mọi việc đều cát lợi, khỏi lo buồn rầu.

Thơ quẻ cho hay, những việc không hay đã qua rồi, từ nay về sau được bình an vô sự, vận thời hanh thông.

Vậy, những việc cầu xin của bạn, dù có trở ngại gì đi nữa, cuối cùng sẽ thành đạt sở nguyện. Cầu tài lợi gia đạo, hôn nhân, kinh doanh, viễn du, nhứt là thi cử sẽ thành công vinh quang.

Quẻ dạy: Tốt đẹp như gấm thêu hoa. Bây giờ là lúc �hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai�. May mắn đến thì chẳng còn lo, mà cũng chẳng phí sức. Thời không đến, thì như cảnh �lôi oanh tấn phúc bi?". Cuộc đời hanh thông đến rồi lo gì nữa. Cầu tài, cầu danh đều hanh thông. Đánh số hên xui đắc lợi. Số hên: 3, 33, 30, 13, 23.

QUẺ SỐ 034 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Thủy Tụng

Động Hào Tứ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khảm

Nguyệt khuyết hựu trùng viên,

Khô ghi sắc cánh tiên.

Nhất diều di thản lộ,

Kiều thủ vọng thanh thiên.

Trăng kia hết khuyết lại tròn,

Cây khô nầy lại xanh tròn xinh thay.

Đường đi quang quẻ ven mây,

Ngẩng đầu lên ngó, trời nầy xanh xanh.

LỜI BÀN

Vận hạn tạm thời vẫn còn kẹt, nhưng rốt cuộc vẫn được đạt phát, cuộc đời xinh đẹp như cây khô gặp được tiết xuân, rừng rậm được khai hoang. Thật là một cảnh buồn gây ngạc nhiên không nhỏ cho mọi người. Song người ta sống ở đời trọng điều nghĩa thì sẻ không lo người không biết đến mình.

Ý quẻ cho biết: Người cầu xin đang đến lúc thịnh, điều xui xẻo đều đã qua, việc sung sướng và hạnh phúc sắp về người, bởi cảnh tình của người, như trăng khuyết lại tròn, cây khô nay lại mọc xanh tươi.

Vậy tất cả sự cầu xin của người ắt được toại nguyện như ý. Nhứt là cầu xin về thi cử và công danh ắt càng gặp nhiều may mắn.

Quẻ dạy: Thời vận hanh thông. Vạn sự như ý sở cầu. Trăng có khi tròn khi khuyết, bèo cũng lúc hợp lúc tan thì người cũng có lúc hẩm, lúc thái, đó là chuyện dĩ nhiên của cuộc đời. Bây giờ là lúc gặp vận thái, lo gì chẳng giàu sang, vinh hiển. Cầu được ước thấy. Đánh số tốt. Số hên: 3, 44, 4, 33, 40, 34.

QUẺ SỐ 035 - HẠ TRUNG

Thiên Thủy Tụng

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khảm

Hành lộ nan, hành lộ nan,

Kim nhật phương tri hành lộ nan.

Tiền trình quảng đại hà túc lự,

Miên lực kim triều độ thử than.

Đường đi khó, khó đường đi,

Đi đường mới biết những gì khó khăn.

Tương lai tốt, chớ băn khoăn,

Bờ này ráng sức, hãy cần vượt qua.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ mọi việc đình trệ, nhưng nhờ có định thức định lực, bạt thiệp san hà nên mới có ngày đáo bỉ ngạn (qua bờ bên kia). Phàm những việc mưu tính đạt được thành đạt đều do ở người có chí. Không thể ngồi phởn ron ăn chơi mà rồi công việc xong được. Đấy là cái nghĩa sâu xa, tế nhị, và quan thiết.

Quẻ dạy: Đường đi tuy khó, nhưng ta cố gắng vượt qua thì muôn sự khó cũng không thể nào cản bước chân ta. Không đáng lo ở sự đường đi khó, mà chỉ đáng lo vì ta bị nhụt chí mà thôi.

Vậy sự cầu xin của người, ắt tránh được điều khó khăn, trắc trở, nhưng cần cố gắng vượt qua, thì sở cầu vẫn được thành công toại nguyện.

Quẻ dạy: Ẫn nhẫn chờ đợi và gắng sức vận thời chưa tới, băn khoăn làm gì? Chỉ nên tích đức, luyện tài chờ thời đến thì mặc sức vẫy vùng. Cầu danh, cầu tài còn chậm. Đánh số chưa thông. Số hên: 5, 3, 33, 55, 30, 50, 35.

QUẺ SỐ 036 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Thủy Tụng

Động Hào Lục

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khảm

Xuân cảnh minh xuân sắc,

Xuân ý bàng thủy sinh.

Xuân thiên vô hạn hảo,

Háp khứ yên quỳnh lâm.

Cảnh xuân sáng, sắc xuân tươi,

Ý xuân đem lại cuộc đời lên hương.

Ngày xuân đẹp đẽ lạ thường,

Ta nên thết tiệc một trường hoan ca.

LỜI BÀN

Mùa xuân là vạn vật bắt đầu đổi mới. Con người được hưởng ngoạn gió xuân tươi mát, nói rằng: đẹp vô hạn, tức là cố lẹ chí khí, biết thừa thời mà hành động.

Nói rằng phó yên Quỳnh Lâm, tức là nói kết quả tốt đẹp, phải tốt. Đó chính là tượng trưng cho cái cảnh thịnh vượng chấn phát. Người xin được quẻ này thực hết sức phấn phát rồi vậy.

Quẻ cho biết rằng: Người cầu được quẻ này rất may mắn vô cùng. Cầu danh sẽ được lên chức, thi cử chắc đậu, gia đạo bình an vui vẻ, tiền tài được vừa ý, hôn nhân tình duyên được hạnh phúc và vợ hiền chồng sang, kinh doanh thì thuận lợi. Tóm lại thời vận được hanh thông, vạn sự như ý sở cầu.

Quẻ dạy: Vận thời lên hương. Cầu danh, cầu lợi dễ dàng, xuôi chèo mát mái. Tốt đẹp vô cùng. Đánh số hạp. Số hên: 6, 3, 36, 66, 30, 33, 60.

QUẺ SỐ 037 - THƯỢNG THƯỢNG

Thiên Sơn Độn

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Cấn

Vạn mã quy nguyên,

Thiên viên triều động.

Hổ phục long giáng,

Đạo cao đức trọng.

Ngựa dần chung một đường về,

Vượn hầu cùng một sơn khê huy hoàng.

Rồng hầu hổ phục tề toàn,

Tài cao đức trọng huy hoàng công danh.

LỜI BÀN

Quẻ này chỉ người quân tử, hiền nhân thì danh vọng tất nhiên phải có. Ví thử có kẻ lòng tham, lòng lang dạ thú, dèm pha phỉ báng, thì cũng chẳng làm mai một được cái chân tài thực học của họ. Về chuồng, chầu động, chỉ là những tỉ so sánh với núi Thái, với sao Bắc Đẩu đủ để cho mọi người phải ngưỡng mộ.

Người cầu xin được quẻ này thì may mắn vô cùng, trăm việc hanh thông, cầu tài có tài, hôn nhân được vợ chồng, làm quan nổi tiếng. Gia đạo vui vẻ, kinh doanh thành đạt, bịnh tật mau khỏi. Tóm lại ý quẻ nói: Rồng mây gặp hội, công danh vinh quang vậy.

Quẻ dạy: Tốt đẹp, thời vận hanh thông. Công danh tài lợi vững. Mọi việc đều thông đồng bén đọt, được tiến chức, thăng quan. Tài lộc vào như nước. Đánh số hạp mười phân. Số hên: 7, 3, 33, 77, 37, 30, 70.

QUẺ SỐ 038 - TRUNG THƯỢNG

Thiên Sơn Độn

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Cấn

Hoàng bằng báo thượng lâm,

Xuân sắc tiên minh.

Đề tiên khoái trước,

Mã thượng tốc hành trình.

Hoàng oanh đã báo tin mừng,

Xuân tươi sắc đượm tưng bừng non sông.

Bập bùng lên ngựa ruỗi dong,

Đường mây rực rỡ sự mong công thành.

LỜI BÀN

Ham vui biếng nhác, ngạo mạn đó là nguồn gốc của sự thất nghiệp. Chè chén say sưa, đó là gốc của sự thất thời. Phàm làm việc cần phải sớm, chớ nên dùng dằng do dự. Hãy đứng ngay lên mà đi, mà mưu tính xoay sở thì mới có lợi ít được. Người xin được quẻ này chính là đã có một cơ hội phi thăng đằng đạt, rất đáng mừng đây.

Những sự cầu xin của người, nên sớm kế hoạch tiến hành. Nay đang là hợp thời và vận đến, đừng nên chần chờ nữa rồi mất cơ duyên dù xin về bệnh tật cũng mau đi cầu, chớ để chậm trễ thì lại nguy.

Ý quẻ dạy rằng, bất cứ cầu xin việc gì, hãy mau mà không nên chậm trễ mới nên việc.

Quẻ dạy: Thời hanh thông đến rồi. Tuy nhiên, chớ chần chờ, nên thực hành gấp đi, để trễ là hỏng. Cầu tài, cầu danh đều đắc lợi. Cầu đánh số cũng hạp. Số hên: 8, 3, 33, 88, 80, 30, 38.

QUẺ SỐ� 039 - TRUNG TRUNG

Thiên Sơn Độn

Động Hào Tam

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Cấn

Đại tứ phóng linh đơn,

Cứu nhân hành vạn lý.

Đáo đầu đăng bỉ ngạn,

Độ quá nhận tiên ban.

Mở rộng con tâm bố đức lành,

Linh đơn diệu được cứu dân sanh.

Sông mê bến giác khi qua nổi,

Liệt vị thần tiên sự nghiệp thành.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ đại giác ngộ, có cái nghĩa phổ độ chúng sinh, đưa người tới bờ bên kia, còn mình thì nhập vào làng tiên. Mình đã có lòng vị tha mưu việc cho người há rằng mình lại bị trầm luân ở dưới? Người làm việc thiện tự tiện cho rằng có thiện báo, không mất đi đâu mà sợ.

Ý quẻ dạy: Đạo đức là tất cả, bố đức làm lành cho nhiều ắt được hạnh phúc, thọ trường vì tất cả đều hư không ngoài cái tâm và cái đức thì tại sao người lại không gieo cái nhân tốt trong hiện tại, để hái cái quả lành về sau?

Vậy sự cầu của người nên tính mưu điều phải, và phải cố làm những điều phước đức, thì việc mưu cầu mới gặp được quý nhân giúp đỡ mà nên sự.

Quẻ dạy: Bố đức, làm lành thì tốt mọi việc sở cầu trong tương lai, ắt có kết quả viên mãn. Cầu danh, cầu lợi chậm, cần chờ đợi, đánh số hạp vừa phải. Số hên: 9, 3, 99, 33, 39, 30, 90.

QUẺ SỐ 040 - TRUNG HẠ

Thiên Sơn Độn

Động Hào Tứ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Cấn

Nhất đới thủy, bích trừng trừng,

Chu trú giang biên, nguyệt đáo thiên tâm.

Ồn bộ kỳ trung, huyền diệu bất minh,

Phi nhân ngọ kỷ, cơ tán sinh thần.

Thuyền nan một mảnh giữa dòng,

Trăng soi lồng lộng bềnh bồng đẹp thay.

Vậy mà ai lại sầu tây,

Cho ray rức dạ, cho cay thân mình.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ nhẹ tin lời người, nhu nhược quả đoán, có cái kiến thức của kẻ ngồi đáy giếng nhìn trời, làm những việc chụp hình bắt bóng, cho nên xuýt nữa bỏ mạng. Những người xin được quẻ này há lại không lấy đấy làm răn?

Những việc cầu xin của bạn cần phải tính toán kỹ, đừng quá vội vã mà có hại, hãy nên giữ yên những điều làm ăn xưa nay tốt hơn.

Bởi ý quẻ cho hay rằng: Nước trong trăng sáng, thuyền ở giữa sông là một cảnh rất thơ mộng nhưng người không chịu hiểu cái hay đẹp của nó mà lại suy tư việc khác thành ra tự mình gieo cái buồn mà thôi.

Quẻ dạy: Đang có tâm sự buồn. Vận thời chưa thông. Làm ăn chỉ vào mức thường. Quẻ khuyên tùy thời, tùy lúc, hãy yên với cảnh hiện tại của mình. Cầu tài cầu danh chưa thông. Đánh số ít hạp. Số hên: 4, 40, 44, 14, 24, 34.

QUẺ SỐ 041 - TRUNG TRUNG

Bát Thuần Càn

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Cấn

Đào lý thư nghiên, xuân quan tiên lệ,

Lương thân mỹ cảnh quan tu ký.

Tùy tâm sở vãng, sự sự tương nghi,

Vô dụng đa nghi, can độc than kỳ.

Đào lý hoa khai xuân bắt màu,

Người nên nhớ cảnh đẹp trời cao.

Tùng tâm sở nguyện muôn điều lợi,

Chớ lại nghi ngờ thần thánh nào.

LỜI BÀN

Quẻ này cho biết mọi việc đều được xứng tâm toại ý nên kịp thời hành lạc. Tuy nhiên hành lạc nhưng phải tri túc mới được. Hôm nay nhàn rảnh an vui đây nhưng ngày mai lại phải cố tâm hoạt động, độc tâm cầu đạo, mong chờ các đấng thần linh ủng hộ, trời phật chở che. Sửa mình làm điều thiện đó là điều cần thiết trước hết.

Theo ý quẻ thơ tả hoàn cảnh hiện nay của người cầu xin rằng thời vận của người hiện như hoa ào, lý đang nở rộ, báo hiệu ngày xuân đã về với người. Nghĩa là thời vận đã đến. Cầu mưu hay cầu việc đều nên cả. Cứ cố gắng tiến hành ắt được định. Nhưng đừng nên hoài nghi công việc làm của mình, phải kiên chí mới nên.

Quẻ dạy: Thời gần đến kề. Chớ có nghi ngờ tùng tâm thì sở nguyện ắt thành, chớ lo. Cầu danh cầu lợi sắp đạt, đánh số hạp. Số hên: 1, 4, 40, 10, 41, 44, 21.

QUẺ SỐ 042 - TRUNG TRUNG

Thiên Sơn Độn

Động Hào Lục

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Cấn

Ần trung hiền, hiện trung vi.

Cá trung hữu huyền cơ.

Tham đắc thân liễu,

Trực thượng tiên the.

Mờ lại sáng, nhưng sáng lại mờ,

Trong kia đ]àng ẩn có huyền cơ.

Ai mà biết được ý tình rõ,

Lên thẳng thang tiên đã sẵn chờ.

LỜI BÀN

Huyền cơ mà không huyền, đó là cái đạo gốc ở Trung Dung. Thánh hiền Tiên Phật, ai cũng lấy đạo ở Trung Dung làm gốc để làm những việc mà trăm ngàn đời về sau còn ngưỡng mộ. Ngoài thường nếu muốn lên cõi tiên, mà lấy đó làm tiêu chuẩn thực cũng chẳng khó gì. Duy có điều chớ nên cho huyền cơ là u ẩn khó hiểu, khó đạt, mà đành cam chịu lạc hậu chạy sau người.

Người xin được quẻ này, mọi việc mưu cầu đều phải tính toán suy nghĩ cho kỹ, và kế hoạch chu đáo thì mới thành đạt về sau.

Bởi theo thơ quẻ nói hiện sự việc đang như một cảnh ánh sáng vào đó không rõ trong đó có rất nhiều bí ẩn. Người phải tìm hiểu rõ ràng nguyên do của nó mới nên sự việc.

Quẻ dạy: Cần suy nghĩ cùng cạn làm ăn chưa thông. Cầu lợi chưa đạt. Cầu danh còn chậm, có tính cách chờ đợi. Đánh số không hạp. Số hên: 2, 4, 22, 44, 42, 40, 20

QUẺ SỐ 043 - TRUNG TRUNG

Thiên Địa Bỉ

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khôn

Vô thượng khứ tại tiền đầu,

Hồi đầu nhất ngộ, thắng cương hải thu.

Thiên điều vạn tuyến, lộ thường tại,

Tự hảo sưu cầu.

Đừng đi tới tại nơi này,

Trở đầu tỉnh ngộ, kéo dây ngựa cương.

Biết bao trước mặt nẻo đường,

Tự mình lựa chọn, đo lường mà đi.

LỜI BÀN

Phải tùy cơ mà hành động, chớ có đợi thời. Xưa nay những nhà hiền triết giữ mình quyết không bao giờ chịu để mình chạy vào đất chết. Họ giữ gìn cẩn thận, họ tìm đủ kế sách thoát khỏi cảnh gieo neo nguy hiểm, để sửa soạn cho một đường lối mới tốt đẹp hơn. Đây là một điều mà họ cần tới đôi mắt tinh tường mới đạt tới được kết quả mỹ mãn.

Ý quẻ nói: Tìm chi cho xa, tất cả đều ở nơi trước mặt. Và biết bao nẻo đường ngay trong mắt. Muốn đi đường nào cứ chọn mà đi. Nghĩa là người muốn cầu xin điều gì hãy tìm hiểu các hoàn cảnh chung quanh mà mình từng thấu rõ, phù hợp với phả năng điều kiện của mình chớ nên đặt vọng cao quá.

Tốt hơn hết người dựa vào cái hiện hữu mà cần tiến tới đừng thay cũ đổi mới về việc làm ăn. Còn việc đi xa cũng không nên.

Quẻ dạy: Việc trước mắt không tìm, lại tìm ở đâu. Thời đến không lo nắm ắt sẽ bị vuột. Cầu tài, cầu danh, cẩn thận mới hay, đánh số hạp vừa phải. Số hên: 3, 4, 33, 44, 30, 40, 43.

QUẺ SỐ 044 - HẠ TRUNG

Thiên Địa Bỉ

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khôn

Tứ cố vô môn lộ,

Đào Nguyên lộ khả thông.

Tu luyện thành chính quả,

Vạn tuế thọ như tùng.

Dòm ngó bốn phương tắt nẻo cùng,

Chỉ còn đường ngõ đào nguyên thông.

Muốn thành chánh quả nên tu luyện,

Vạn thọ trường sanh mới phải công.

LỜI BÀN

Quẻ này chủ họa phúc không cửa, duy chỉ do người rước lấy đó mà thôi. Hãy bỏ con dao phai xuống ngồi ngay xuống mà niệm Phật, khổ tâm tu luyện, hà tất lại để mình rơi vào vòng tục lụy. Người xin được quẻ này nên biết cái cơ vinh nhục mà tự vận dụng lấy, bất tất phải trách người oán trời.

Theo ý quẻ cho biết, hiện nay tình cảnh của người, đường đời bước tới cũng như tất cả những điều cầu mưu, các ngã đường đi đều bị bế tắc, không ngõ nào đi nữa. Mà chỉ còn con đường đi Đào Nguyên có thể thông hành thôi (Đào Nguyên là nơi cảnh tiên) và tu luyện mới có thể thành chánh quả, mới có thể sống dai.

Ý quẻ muốn nói rằng: Người nên cố làm việc phước đức và mưu tính những điều đúng đắn, chớ đặt cao vọng quá là hơn.

Quẻ khuyên: Chỉ nên đi tu, thời vận chẳng mấy thông. Làm ăn phải ẩn nhẫn đợi chờ. Nên an phận thủ thừa là hay. Cầu tài, cầu danh vừa phải, chậm. Đánh số hạp chút ít thôi. Số hên: 4, 40, 44, 14, 24, 34.

[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/ADMINI%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG]

QUẺ SỐ 045 - TRUNG TRUNG

Thiên Địa Bỉ

Động Hào Tam

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khôn

Bất dụng mạng, bất dụng hoang,

Tự hữu túc túc hương.

Minh cô ưởng chung địa,

Tam bảo hiện môn tường.

Đừng mê vội chớ hoang mang,

Tự nhiên lại có xóm làng nghỉ ngơi.

Tiếng chuông vang dội chỗ nơi,

Thấy đường tam bửu, tuyệt vời binh thanh.

LỜI BÀN

Hành động bất cứ một việc gì cần phải hết sức thực tế, chớ nên kiêu hãnh làm liều, có thế thì mới có thể an tâm lập nghiệp.

Ý�quẻ thơ nói rằng: "Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất lai cưỡng cầu". Nghĩa là vội vàng làm chi, tất cả của cải ngoài thân mình của ta, số phận ắt phải có, nếu không dù tính toán mưu kế đến đâu cũng là số không. Cho nên hay hơn là cầu khẩn Thần Phật, tu tâm dưỡng tánh, như hai câu sau của quẻ thơ đã chỉ ra.

Như vậy, những việc cầu xin của người cứ tiến hành, nhưng phải cho công việc từ từ. Chớ nên quá vội và cưỡng cầu mà hỏng, nhứt là việc cầu mưu hãy theo đường đứng đắn, đừng tính chuyện tà đạo.

Quẻ dạy: Thời sắp đến nơi, chớ vội mà chi. Thời chưa đến thì bôn ba mấy cũng chẳng ra gì, Đời sắp lên hương lo gì. Chỗ bôn chôn sắp đến huy hoàng, sán lạng. Cầu tài, cầu danh sắp đạt thành, đánh số gặp may. Số hên: 54, 4, 5, 55, 44, 50, 40, 45.

QUẺ SỐ 046 - HẠ HẠ

Thiên Địa Bỉ

Động Hào Tứ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khôn

Bôn ba nhất thế,

Tống thị hư phù.

Vô thường nhất đáo vạn sự hưu,

Gấp tảo hồi đầu.

Cả đời vất vả thân người,

Điều là lận đận cuộc đời hư không.

Một khi mọi việc đến cùng,

Mau hồi đầu chớ nên mong những gì.

LỜI BÀN

Nhất âm nhất trác phải chăng do tiền định? Vì con cháu mà phải làm thân trâu ngựa, thì chi bằng trồng cây phúc được quả phúc, mong làm đẹp cho hậu thế mai sau. Người xin được quẻ này phải nên mau mau tỉnh ngộ.

Người cầu xin được quẻ này, hãy đề phòng cẩn thận, chớ nên sơ ý mới có thể tránh được những điều không hay đưa đến.

Bởi vì trong những lời của quẻ, nói rất rõ ràng, không câu nào may mắn tốt đẹp cả, mọi sự cầu xin nên phải dè dặt thận trọng và dò dẫm từng bước, đừng nên vội vã có hại.

Quẻ dạy: Ẫn nhẫn và yên phận thủ thường. Đề phòng mọi người xung quanh và chớ tính chuyện trái đạo, trái lòng, ắt bị nhân quả xấu. Cuộc đời chưa ra gì nên chờ thời cơ. Cầu tài, cầu danh đều chậm. Tính chuyện đen đỏ dở. Số hên: 6, 4, 44, 66, 46, 40.

QUẺ SỐ 047 - TRUNG TRUNG

Thiên Địa Bỉ

Động Hào Ngũ

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khôn

Chân, chân, chân, nhân bất thức,

Chân, chân, chân, thần hữu linh.

Quy tông phản bản,

Phương thị nguyên tinh.

Thiệt thiệt thiệt, người chẳng biết mình,

Chân chân chân, quả có Thần Linh.

Huy hoàng nguồn gốc trở về cội,

Vậy mới xứng là nguyên khí tinh?

LỜI BÀN

Ngay thực là một đức tốt. Người dù chẳng biết trời đã biết cho, cho nên ở đời, phải chuộng lòng chân thành. Chỉ cần có một ý niệm lòng chân thành mà quỷ thần ở chốn u minh cũng đã chứng giám cho mình, chẳng có gì đáng ngại.

Người xin được quẻ này cần phải chỉ trích phê bình mong thanh toán hết những điều gian dối, lừa lọc để tìm sự thật, lấy chân lý. Nhất thiết chớ có dối lừa, bịp người, bởi vì dối người tức là dối mình, bịp đời tức là bịp mình vậy.

Quẻ nói: Thiệt mà người không hiểu, nên Thần Linh đó phải quy tông hoàn bồn, thì mới là nguyên tinh, nghĩa là những việc cầu mưu của người, đã nằm trúng trọng tâm của sự việc, nhưng người chưa tìm được.

Một phương pháp để đi đến kết quả. Vì sự việc hơi quá phức tạp. Như vậy, những việc cầu xin của người nên tùy cơ ứng biến, theo yêu cầu của hoàn cảnh thì sẽ thành đạt ý muốn, và ngược lại sẽ làm cho người hao công phí sức. Như câu thứ nhứt của quẻ nói thiệt mà người không hiểu tức là hư không.

Quẻ dạy: Cần suy nghĩ cân nhắc trước khi hành động. Cố gắng mới nên công.Và làm việc có phương pháp. Cầu tài cầu mưu chầm chậm một chút. Đánh số cần chín chắn. Số hên: 74, 47, 77, 44, 7, 4, 40

QUẺ SỐ 048 - HẠ HẠ

Thiên Địa Bỉ

Động Hào Lục

Ngoại Quái: Càn

Nội Quái: Khôn

Tấu tận thiên thai,

Phong sương lịch biến.

Bất như vấn nhân tam thiên,

Tiệm tiệm thủ hồi thủ kiến.

Chạy khắp thiên thai chẳng biết đâu,

Thấm cùng sương gió hết nơi cầu.

Thì người thăm hỏi ba ngày đã,

Tự thấy lần lần đuôi với đầu.

LỜI BÀN

Quẻ này cho ta biết nếu bỏ gần lấy xa thì không có chuyện gì thành cả, chỉ mua lấy khó nhọc vào thân mà thôi. Bởi vì rằng thời vận không tới, cầu cạnh lo lắng một cách cưỡng ép thảy đều vô ích. Người xin được quẻ này nên minh tâm kiếm tánh, an bần lạc đạo, chớ có ngược lại lòng trời ý người.

Theo ý quẻ cho hay rằng đi cũng khắp nơi đầy sương gió đến giờ chưa tìm thấy một kết quả nào theo ý muốn và bây giờ chỉ có cách tìm người làm cố vấn cho mới mong thành.

Vậy thì tất cả việc cầu xin cùa người hãy bình tỉnh suy xét im đời và để được có công việc đầu đuôi rồi tiến hành mới tránh được những chuyện lầm lẫn và không may.

Quẻ dạy: Việc đang bế tắc cần có kẻ giúp và làm cố vấn cho mới thành. Tuy nhiên chớ chán nản, chậm một chút mới thành sự, khi đã có kẻ giúp đỡ, tính toán giùm. Cầu tài, cầu mưu chưa đến. Đánh số không mấy hạp. Số hên: 8, 4, 48, 84, 44, 88, 40, 80.

QUẺ SỐ 049 - HẠ HẠ

Bát Thuần Đoài

Động Hào Nhất

Ngoại Quái: Đoài

Nội Quái: Đoài

Trầm trầm kha nhiên,

Bất kiến thiên tâm.

Lôi môn nhất chân,

Thẻ kiện thân khinh.

Bệnh tình quả thực trầm kha,

Đất trời u ám hơi hà khổ đau.

Chờ khi sấm sét rồi sau,

Rồi sau mới khỏi mới mau dễ lành.

LỜI BÀN

Cơ duyên chưa đến nên hoàn cảnh bi đát, nào có khác chi hoàn cảnh của con cá bị kẹt tre bị kẹt trên ruộng cạn. Nhưng một sớm thời cơ tốt đến, cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn.

Bói được quẻ này, ta cần nên nhẩn nại đợi thời chớ có vội vàng hấp tấp. Khi thời đã tới thì như mây gặp gió, như rồng gặp mây bay lên trời thoát hẳn cái cảnh tù túng, khó khăn, trở ngại như trước.

Ý quẻ nói rằng: Hiện thời vận của người đang như trầm kha trời đất ám mờ chẳng gọi là may mắn. Cần phải chờ khi sấm sét vang lên, mây gió tan mất rồi trời đất quang đãng, lúc đó mới nhẹ bước trên đường đi.

Nghĩa là những việc cầu mưu của bạn, hiện nay chưa gặp may mắn, thành đạt tức khắc. Cần chờ khi thời vận đến thì mới nên công, toại lòng. Vậy hãy ráng sức chịu đựng chờ đợi một thời gian nữa để hoàn cảnh tương đối dễ thở mới tính việc tương lai cao đẹp.

Quẻ dạy: Vận bạn bất thông. Ẫn nhẫn chờ thời. Dù chạy cũng chẳng đến đâu. Chờ qua cơn giông tố, ắt mọi việc sẽ định. Đau bệnh kéo dài. Cầu tài, cầu mưu bế tắc, chơi việc đỏ đen càng bất lợi. Số hên: 9, 4, 49, 40, 90, 99, 44, 94.

QUẺ SỐ 050 - TRUNG TRUNG

Bát Thuần Đoài

Động Hào Nhị

Ngoại Quái: Đoài

Nội Quái: Đoài

Tài mã lưỡng mang mang,

Quan lộc hữu định phương.

Trư dương, ngưu khuyến,

Tự khứ chủ trương.

Tiền tài phú quý lo chi,

Về điều quan lộc có gì đáng lo.

Heo, Dê, Trâu, Chó đều cho,

Cho đi lo lấy, ấm no cuộc đời.

LỜI BÀN

Quẻ này tốt, vì nó chủ việc làm quan gặp vận hạnh thông, tài lộc vài như nước, hết sức giàu sang phú quý. Tạo hóa an bài đã từ trước không thể khác được.

Ý quẻ nói: Việc tiền tài quan lộc vội cầu làm chi, tất cả đều có định sẵn rồi. Nghĩa là thời vận đã an bày sẵn cuộc sống của người. Đến lúc �Phúc tự lại�. Chẳng cần vất vả vội cầu mà phiền lòng, tuy nhiên, câu xưa �Tọa hưởng kỳ thành� đối với khoa học tiến bộ ngày nay hơi có vô lý, song vẫn có lý do tồn tại của nó. Chẳng hạn như trúng số không phải sao.

Vậy việc cầu xin của người, hãy chỉ cố công cày cấy, còn phần gặt hái thu hoạch cứ để tự nhiên thì trời ắt không phụ lòng người.

Quẻ dạy: Chớ lo, cơ trời đã tạo con đường tương lai rồi. Chờ các năm Hợi, Mùi, Sửu, Tuất là những năm vận tốt của bạn. Cầu tài, cầu mưu đắc lợi. Tính chuyện đỏ đen hạp. Biểu tượng: heo, chó, dê, trâu. Số hên: 50, 5, 55, 15, 25, 35.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro