ThuhoachDang

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, Hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đang tiến hành công cuộc đổi mới , xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của đân tộc Việt Nam, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc

Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản

Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý trí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở cương lĩnh chính trị và điều lệ Đảng, giữ mối quan hệ mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo tôn trọng và phát huy vai trò của nhà nước, mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội.

Đảng kết hợp với chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.

I.andĐiều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của người Đảng viên như thế nào? Tại sao trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn lại được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định

Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của người Đảng viên như sau:

1. Về nhiệm vụ của Đảng viên:

Nhiệm vụ Đảng viên được quy định trong điều 2, điều lệ Đảng, gồm 4 điểm sau:

Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà nước; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng , pháp luật của nhà nước.

Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển Đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí đúng quy định.

Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi Đảng viên cần nắm vững nội dung cơ bản sau:

Một là, kiên định với những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng:

- Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta.

- Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.

- Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.

- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.

Hai là, mỗi Đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc thách thức lớn, các nguy cơ đang đe doạ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục.

Mỗi Đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, trí công, vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng, nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội; cảnh giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.

Ba là, đất nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới với nhiệm vụ trung tâm là xây dựng phát triển kinh tế, đòi hỏi Đảng viên phải nâng cao trình độ kiến thức và năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu.

Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Đảng viên. Có nhiều hình thức và phương pháp học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức Đảng và mỗi Đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp.

Bốn là, có mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân dành thắng lợi. và ngược lại, Đảng cần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng dễ quan liêu, xa rời nhân dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Mọi Đảng viên phải thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, đồng thời tích cực tham gia tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước.

Năm là, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tích cực làm công tác phát triển Đảng viên mới.

2. Về quyền của Đảng viên:

Điều 3, Điều lệ Đảng quy định Đảng viên có những quyền sau:

- Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.

- Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của ban chấp hành trung ương.

- Trình bày ý kiến khi tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đôi với mình.

- Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Các quyền của Đảng viên nêu trong điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho Đảng viên thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về mặt chính trị tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Những quy định về quyền của Đảng viên tạo điều kiện cho Đảng viên và tổ chức Đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.

Trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên, vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn lại được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định vì:

Đảng là một tổ chức chính trị, đây là một tổ chức luôn luôn vận động và phát triển nên rất cần những người ưu tú để cho Đảng hoạt động và phát triển bình thường để đáp ứng nhu cầu cách mạng trong từng thời kỳ. Trong quá tình vận động và phát triển luôn xuất hiện những phần tử thoái hóa biến chất, cần phải khai trừ ra khỏi Đảng. Việc khai trừ và kết nạp Đảng viên mới để bổ xung cho Đảng những con người có phẩm chất năng lực nâng cao bản lĩnh chính trị để phục vụ cho Đảng giúp Đảng ta lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới hiện nay. Chính vì vậy mà trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam thì mỗi người chúng ta phải xác định được động cơ vào Đảng đúng đắn, tuyệt đối trung thành với điều lệ và cương lĩnh của Đảng. Có xác định được như vậy thì người Đảng viên mới tận tâm tận lực phục vụ Đảng, vào Đảng là để chấp nhận gian khổ hi sinh, chấp nhận sự phân công và điều động của Đảng, hết lòng phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, đất nước lên trên lợi ích cá nhân, phấn đấu vì lý tưởng cách mạng cao cả, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa giàu đẹp và văn minh.

Bác Hồ kính yêu đã dạy chúng ta: “Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân.” Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc, nếu vào Đảng mà chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân thì đừng vào. Những người mà ngay từ khi phấn đấu vào Đảng đã có động cơ không trong sáng thì khi đã đứng trong hàng ngũ của Đảng chắc chắn sẽ “quay lưng” phản bội lại Đảng khi có cơ hội. Điều đó là hết sức nguy hiểm cho sự trong sạch, vững mạnh của Đảng. Thực tế đã có những Đảng viên đã được thử thách qua chiến đấu rất dũng cảm, rất anh hùng, nhưng trong điều kiện hòa bình, trước sự cám dỗ của tiền tài, vật chất đã gục ngã, đã bị biến chất, thoái hóa. Cũng có những Đảng viên sau khi vào Đảng một thời gian dài, nắm trong tay chức quyền thì bắt đầu mới bộc lộ bản chất cơ hội, bản chất của một con người mang danh Đảng viên để tiến thân. Những con người đó trước sau gì cũng làm tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng, làm hại đến lợi ích của nhân dân, của dân tộc và nguy hiểm hơn nữa là đến một lúc nào đó, họ sẽ phản bội lại lý tưởng cách mạng của Đảng.

“Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, những việc khó khăn, gian khổ, Đảng viên phải gương mẫu đi đầu, lo trước nỗi lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ. Tất nhiên, đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ Đảng viên thì cũng có cả quyền lợi. Nhưng vượt lên trên tất cả cái gọi là quyền lợi ấy phải là đạo đức cách mạng, là phẩm chất của người Đảng viên tận tụy vì dân. Nếu Đảng viên mà đặt lợi ích cá nhân, gia đình mình lên trên hết thì người Đảng viên đó không được lòng tin của nhân dân. Mất lòng tin của dân và xa dời quần chúng nhân dân thì mọi việc đều thất bại. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Chính vì vậy, việc xác định động cơ vào Đảng ở mỗi người là cực kỳ quan trọng. Nếu ngay từ đầu, động cơ vào Đảng không đúng đắn, lệch lạc và vụ lợi thì không những không làm cho Đảng vững mạnh mà ngược lại mặc dù Đảng sẽ nhiều Đảng viên, nhưng không có đoàn kết, không hình thành một khối vững chắc, thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ suy yếu, chia rẽ. Động cơ và mục đích của quần chúng khi vào Đảng là điều hết sức quan trọng, nhưng đó cũng là điều khó nắm bắt nhất, bởi nó nằm sâu trong nội tâm mỗi người. Vì vậy, trong công tác xây dựng Đảng, chúng ta cần tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng một cách có hệ thống cho các quần chúng ưu tú và cho các Đảng viên mới để mỗi người Đảng viên và quần chúng tự ý thức, tự trau dồi, tự rèn luyện bản lĩnh chính trị và tự phấn đấu vươn lên. Vì sự vững mạnh của Đảng, vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, quần chúng cũng như cán bộ, quần chúng ưu tú và người Đảng viên cần thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.

Trong quá trình phấn đấu vào Đảng, việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định. Đảng chỉ kết nạp những người thực sự giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nạp vào hàng ngũ mình những người mang động cơ thiếu trong sang, lệch lạc; càng không để cho các phần tử có cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau đồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng.

Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong điều kiện hòa bình, Đảng ta cầm quyền và cơ chế kinh tế thị trường, mỗi người chúng ta nói chung, người Đảng viên nói riêng, luôn phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách và những cám dỗ của quyền lực, tiền tài. Nếu người vào Đảng không có đủ nghị lực và bản lĩnh, sẽ không vượt qua được những thử thách, không thắng nổi cám dỗ vật chất thì Đảng sẽ xa dời tư tưởng cộng sản nền tảng, không vượt qua được những thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Động cơ và mục đích vào Đảng đúng đắn không phải là cái cụ thể, không phải là thứ mà chúng ta đem cân đong đo đếm được, mà nó đã tồn tại trong những người đoàn viên ưu tú, những quần chúng tiến bộ và được bồi đắp thêm ngay trong quá trình học tập, rèn luyện và phấn đấu vào Đảng của mỗi quần chúng ưu tú và người Đảng viên

Sau khi đã xây dựng cho mình được động cơ đúng đắn người Đảng viên phải thường xuyên tự rèn luyện và nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng.

Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng và con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ đã lựa chọn; trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng không giao động, giảm sút niềm tin và ý trí chiến đấu. Đồng thời bản lĩnh đó còn thể hiện ở tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. Trong điều kiện hiện nay, khi cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc.

Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, người phấn đấu vào Đảng cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin. Trước khó khăn thử thách không nao núng tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định.

Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của chính mình. Bản lĩnh chính trị còn được rèn luyện qua các hoạt động thực tiễn, muốn trở thành Đảng viên của Đảng cộng sản cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, hoạt động chính trị - xã hội, chỉ có sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm qua trường học đấu tranh thực tiễn, chúng ta mới trở nên vững vàng và kiên định.

Cùng với rèn luyện bản lĩnh chính trị, cần thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng như lời bác Hồ dạy: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Trong Đảng ta, có biết bao nhiêu đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về đạo đức cách mạng. Ngày nay, đại bộ phận Đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, được nhân dân quý mến, tin cậy.

Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ, như Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Ngày nay đạo đức cách mạng còn là ý trí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Không thể có đạo đức cách mạng nếu làm gì cũng tính thiệt hơn với Đảng, lúc nào cũng đòi hỏi hưởng thụ, muốn lựa chọn theo ý thích và lợi ích cá nhân, sống cơ hội thực dụng, coi đồng tiền là tất cả, lợi dụng cơ chế, chính sách để tham nhũng, lãng phí làm giàu phi pháp….

Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi ích cá nhân, lợi ích cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng. Đường lối của Đảng là kết hợp hài hòa ba lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đảng luôn tôn trọng và quan tâm đến lợi ích cá nhân, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên trên, lên trước lợi ích tập thể và toàn xã hội.

Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao

Đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi. Để xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

Để trở thành Đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng cần hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ của tổ chức Đảng, đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đó là điều kiện chủ yếu để quần chúng tin cậy giới thiệu và tổ chức Đảng xem xét kết nạp vào Đảng. Trong điều kiện hiện nay, ngoài nhiệt tình cách mạng cần đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn; không ngừng học tập, thường xuyên tiếp nhận những hiểu biết mới để đủ kiến thức đáp ứng các yêu cầu do thực tiễn đề ra. Phải coi trọng việc học tập chính trị cùng với chuyên môn, nghiệp vụ. Đảng không thể kết nạp những người lười học tập, hoặc học lấy lệ, chỉ cốt lấy bằng cấp, không thể hiện được tính tiên phong gương mẫu.

Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì người Đảng viên phải thảo mãn được hai điều kiện đó là; Nhiệt tình cách mạng, có năng lực trí tuệ và thực tiễn nó được tạo nên bởi trình độ trí tuệ của người Đảng viên. Hai điều kiện này có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau trong quá trình xây dựng động cơ cho mình.

Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội

Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Đảng viên phải giữ vững và phát huy truyền thống đó, trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú của mình. Phải hòa mình với quần chúng, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến của quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chinh sách, pháp luật của nhà nước.

Muốn trở thành Đảng viên, người phấn đấu vào Đảng phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, với đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con làng xóm, khối phố; tôn trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Hòa mình với quần chúng nhưng không bị động theo những suy nghĩ và việc làm tiêu cực, sai trái, mà luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, vận động mọi người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ do Đảng đề ra.

Người phấn đấu vào Đảng phải nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua hoạt động đoàn thể người phấn đấu vào Đảng thể hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, phát huy tính tiên phong gương mẫu – những phẩm chất cần thiết để trở thành Đảng viên của Đảng. Ở nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người trong độ tuổi Thanh niên muốn vào Đảng nhất thiết phải là Đoàn viên ưu tú.

Người muốn vào Đảng càng phải chú trọng mở rộng quan hệ xã hội và tích cực tham gia công tác xã hội, gương mẫu vận động gia đình, người thân tham gia các phong trào, các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; chống tệ nạn xã hội, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở

Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Nhân dân ta gắn bó với Đảng và luôn tham gia đóng góp cho Đảng. Vì vậy, tham gia xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sỏ trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của người phấn đấu vào Đảng.

Nội dung tham gia xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của người phấn đấu vào Đảng là: Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, Đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, pháp luật chính sách của nhà nước phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện đời sống cho nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở còn bao gồm các nội dung sau:

+ Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do Đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở, đơn vị, nhất là về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực.

+ Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức Đảng.

+ Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên.

+ Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những Đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức Đảng xem xét, bầu vào cấp ủy, giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để tổ chức Đảng xét kết nạp.

+ Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trong sạch, vững mạnh.

+ Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng.

II.Đồng chí cho biết nội dung và ý nghĩa của việc học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong quá trình phấn đấu của đồng chí để trở thành Đảng viên.

Nội dung và ý nghĩa của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, Đảng viên và mỗi người dân Việt Nam.

Đối với mỗi cán bộ, Đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Một là, thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” mỗi cán bộ Đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với cường quốc năm châu”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:

Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân chính.

Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.

Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc... của nhân dân.

Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước.

Mọi biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính. Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân...

Hai là, thực hiện đúng lời dạy: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư " nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới

"Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ "đối với mình", được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người là một tấm gương mẫu mực về "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Học tập và làm theo tấm gương của Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong giai đoạn hiện nay là:

Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.

Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Đối với cán bộ lãnh đạo, Đảng viên phải loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá nhân..., cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm...

Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì "hăng hái", tranh thủ kiếm lợi, việc gì không "kiếm chác" được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạm. Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước và của nhân dân. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.

Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Người luôn luôn phê phán "óc lãnh tụ", phê phán thói "quan cách mạng", phê phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng, coi thường tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác nhau của chủ nghĩa cá nhân.

Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, Đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để "kéo bè, kéo cánh", để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng..., làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ.

Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân, mỗi cán bộ, Đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc và nhân ái, luôn luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, Đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, Đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.

Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình. Người dạy cán bộ, Đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ Chí Minh "phải nghiêm khắc với chính mình". Phê bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình.

Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen, (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà "đấu đá", nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.

Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng Người danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất trên thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao cả, Người đã xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong trào cách mạng thế giới.

Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển.

Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề của quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.

Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân.

Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, Đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại.

Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm lòng của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

Đã bao nhiêu năm nay, trong tâm khảm người Việt Nam, Bác Hồ vĩ đại và gần gũi. Mỗi người cán bộ, Đảng viên, Đoàn viên thanh niên chúng ta đã lấy tấm gương của Bác để soi, để rèn mình, để cống hiến cho đất nước và xây dựng cơ quan, đơn vị mình ngày càng tốt hơn.

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu hơn, rộng hơn, chúng ta tiếp thu nền văn minh tiên tiến, nền khoa học công nghệ hiện đại của nhân loại thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh càng trở nên hết sức quan trọng.

Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và bản thân tôi nói riêng, thấy rất tự hào khi phấn đấu để được đứng vào hàng ngũ của Đảng và thấy rõ đó là một trọng trách, một nhiệm vụ cao cả và cũng đầy vinh quang xong cũng đầy thử thách, Với lòng quyết tâm và bầu nhiệt huyết của mình và mong muốn được đứng vào hàng ngũ của Đảng để đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Chính vì vậy trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên tôi đã đề ra cho mình phương hướng rèn luyện, luôn luôn phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Tôi tin rằng trong một ngày không xa tôi sẽ vinh dự trở thành một Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, trở thành người chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam .

Câu hỏi: Đồng chí hãy phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam

 Trả lời: 

Để trả lời câu hỏi này tôi xin được phép đề cập đến một số điểm cơ bản sau:

Trước hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản phẩm sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam dưới ánh sáng của thời đại mới; Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Phong trào công nhân và Phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX. Tại Đại hội VII năm 1991 đã chỉ rõ: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động..."  (Trích: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Đây là kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử của Đảng ta và cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng; Là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ ngàn năm.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta đã vận dụng những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng của nước ta. Cũng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII khẳng định "Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh". Thật vậy, "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại". 

"Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".

Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị. Khi vận dụng một quan điểm lý luận cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ mà nguyên lý đó phải giải quyết. Không thể chỉ dựa vào một câu nói, một luận điểm tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin hay Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khi không rõ bối cảnh ra đời của nó lại bê nguyên xi vào tình hình thực tiễn bởi những câu nói, bài viết của các nhà kinh điển luôn gắn liền với hoàn cảnh thực tiễn của nó.

Cần nắm chắc đặc điểm, tình hình thực tiễn của nước ta cần xác định rõ những yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn cần giải quyết.

Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đất nước, tham khảo có chọn lọc từ đó khái quát thành những bài học cho cách mạng nước ta trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.

Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức quan tâm coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay đang đi vào chiều sâu, nhiều vấn đề mới như kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, nhà nước pháp quyền, hội nhập... đều là những vấn đề rất mới cần được nghiên cứu, giải đáp về lý luận và thực tiễn.

Muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải nắm vững hệ thống các quan điểm và mục tiêu yêu cầu của từng giai đoạn... chỉ có vậy chúng ta mới có thể phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đúng đắn và khoa học.

Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải bảo vệ các nguyên lý lý luận của nó; là bảo vệ tính hệ thống, toàn vẹn của những nguyên lý cơ bản đó. Cần đấu tranh với những luận điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đưa những tư tưởng, quan điểm đó vào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đó chính là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo điều. Đấu tranh chống chiến lược "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa với những hoạt động phủ nhận chủ nghãi Mác - Lênin, xuyên tạc, bôi đen những thành quả của chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đấu tranh với các hành động xuyên tạc, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh... Đây là kết quả tất yếu của sự chuẩn bị công phu, gian khổ với những bước đi phù hợp thể hiện năng lực tổ chức tài tình của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; Là sự thắng thế của tư tưởng vô sản đối với đường lối chính trị của giai cấp tư sản. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng này hơn ai hết đảng viên phải là người đi đầu, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy, điều trước hết và chủ yếu là đảng viên phải có lập trường tư tưởng vững vàng, không mơ hồ, dao động; phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước; Kiên định những vấn đề và quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng./.

Câu 2: Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng theo tinh thần nghị quyết Đại hội X của Đảng?

Trả lời: 

Sự lãnh đạo của Đảng từ khi mới ra đời cho dù còn non trẻ qua các kỳ Đại hội nhưng vẫn giữ vững được những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là giữ vững Cương lĩnh, đường lối đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng. Tinh thần độc lập tự chủ, vận dụng sáng tạo và vấn đề đoàn kết, tạo sự thống nhất trong toàn Đảng luôn được đặt lên hàng đầu điều đó được thể hiện qua các cuộc Hội nghị Ban chấp hành TW; Thể hiện trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách dù hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 

Đại hội X đã khẳng định: "Hai mươi năm qua với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử". Nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện như:

Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH - HĐH phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường; Chính trị - xã hội ổn định; Quốc phòng - an ninh được giữ vững; Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao; Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên nhiều, tạo thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với nhiều triển vọng tốt đẹp.

Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những đặc trưng chủ yếu của xã hội mà chúng ta đang xây dựng là:

- Xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. đặc biệt từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc có những phát triển mới. Quán triệt tư tưởng "Lấy dân làm gốc"; "xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động". Thực hiện Nghị quyết đại hội VI, ngày 27/3/1990 Hội nghị TW 8 đã ra Nghị quyết 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhấn mạnh quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. đến đại hội VIII khẳng định: "Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân và nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua bao khó khăn, thủ thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay".

Tư duy mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới, Đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Tiếp tục đường lối được xác định trong các kỳ Đại hội trước, Đại hội X đã nhấn mạnh vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xem đó là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội;

Hiện nay, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, Đảng xác định điểm tương đồng là "Giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Điểm tương đồng ngày nay tổng quát hơn, dễ đạt được sự nhất trí hơn cả với đồng bào ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài. Đây thực sự là một quan điểm rất mới, thành quả của quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta: thay thuật ngữ "đại đoàn kết toàn dân" bằng thuật ngữ "đại đoàn kết bằng dân tộc" với nội dung đầy đủ hơn, toàn diện hơn.

Đại hội X chỉ rõ:

- Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó với đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước.

- Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp.

- Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.

- Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.

- Do nhân dân làm chủ (Cương lĩnh 1991 nói: Do nhân dân lao động làm chủ). Đây chính là nét mới tiến bộ hơn so với Cương lĩnh 1991. Thực chất nhân dân ở đây là nhân dân lao động, chiếm đại bộ phận dân cư. Nói nhân dân là phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước ta là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, nói nhân dân làm chủ có lợi hơn cho đại đoàn kết toàn dân.

- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; Việc bỏ cụm từ: "dựa trên sự công hữu về tư liệu sản xuất" xuất phát từ thực tế ở nước ta tồn tại 3 chế độ sở hữu cơ bản và nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Hơn nữa, vấn đề sở hữu là một trong những vấn đề lý luận phức tạp. Công hữu hay không sẽ do trình độ phát triển lực lượng sản xuất quy định, chứ không phải do ý muốn chủ quan áp đặt.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Đại hội X xác định những lĩnh vực đó là: "Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong đời sống văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Phát huy tiềm năng khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, chú trọng công trình văn hóa lớn, tiêu biểu. Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong đời sống văn hóa. đây là động lực lớn nhất, đồng thời cũng là nguyên nhân có tính chất quyết định tạo nên tính bền vững và chất lượng, hiệu quả của phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú cho mỗi người và cả cộng đồng. 

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; Việc bỏ đoạn: "con người thoát khỏi bóc lột" xuất phát từ thực tế bản chất chế độ chúng ta xây dựng không phải chế độ bóc lột nhưng hiện tượng bóc lột thì vẫn còn trong thời kỳ quá độ, do trình độ sản xuất quy định và còn có ý nghĩa thúc đẩy kinh tế phát triển.

- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; So với Cương lĩnh 1991 đặc trưng này được bổ sung thêm từ tương trợ. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, là công việc của mỗi người dân. Để nâng cao trách nhiệm của toàn dân, Đảng ta đặt vấn đề phải xây dựng sự đồng thuận xã hội. Nhà nước phát huy vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc không chỉ bằng việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật mà còn phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó một cách có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, tận tụy, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân.

- Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước riêng gắn liền với một giai cấp như nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa mà là một hình thức tổ chức nhà nước, một trình độ phát triển của nhà nước về phương diện tổ chức - thiết kế, hoạt động trong đó có sự phân công và tổ chức quyền lực để bảo đảm Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp".

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội X đã xác định: Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH - HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội./.

Câu 3: Trình bày quan điểm, chủ trương và giải pháp của Đại hội X về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Liên hệ trách nhiệm bản thân ?

Trả lời: 

Tiến bộ và công bằng xã hội là thể hiện bản chất xã hội chủ nghĩa của chế độ ta. Quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn luôn xác định phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc của Đại hội X được thể hiện qua các nội dung sau:

Một là, đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội gũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghãi quan trọng hàng đầu.

Ba là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí của yếu tố lợi ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI là: "Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ của công dân".

Bốn là, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá trình lịch sử. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.

Trong 5 năm tới Đảng ta chủ trương tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như sau:

Một là, khuyến khích mọi người làm giàu theo luật pháp, thực hiện tốt các chính sách xóa đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo.

Khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại.

Hai là, xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóa - thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm...

Xây dựng hệ thống an ninh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.

Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao...

Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập.

Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm cho sức khỏe mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ.

Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để nâng cấp các cơ sở y tế, y tế dự phòng, xây dựng và hoàn thiện chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người hưởng chính sách xã hội và người nghèo trong khám, chữa bệnh.

Phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao ngoài công lập.

Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế.

Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.

Phát triển mạnh thể dục thể thao, kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại.

Thúc đẩy phong trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ và đạo đức; giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Phòng chống HIV/AIDS bằng các biện pháp mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả.

Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Giảm tốc độ tăng dân số.

Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh và giữ mức sinh thay thế bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số.

Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tổ ấm của mỗi người, alf tees bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sáu là, chú trọng các chính sách, ưu đãi xã hội.

Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội.

Chăm sóc đời sống vật chất tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa.

Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang.

Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.

Phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công cộng, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập và huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội.

Công khai mức phí tại các cơ sở công lập và ngoài công lập, chấm dứt các khoản thu, chi không minh bạch và sai quy định, bảo đảm người làm dịch vụ có chế độ thu nhập hợp lý, có lương tâm nghề nghiệp.

Thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập về dịch vụ công cộng phát triển cả về quy mô và chất lượng xây dựng các cơ sở dịch vụ đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

***  Liên hệ bản thân:

Đại hội X của Đảng đã đưa ra những định hướng lớn và thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục công cuộc đổi mới toàn diện, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, do vậy mỗi người dân cần phải học tập, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp do Đại hội X nêu ra để từ đó nâng cao bản lĩnh chính trị, xác định lòng tin và ý chí phấn đấu tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Với bản thân tôi là một nhà báo, một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trên tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật nhận thấy cần tham gia tích cực các sinh hoạt chính trị, đóng góp vào việc thể chế hóa và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch công tác của các cấp ủy cơ quan, chính quyền địa phương nơi tôi cư trú thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội X vào cuộc sống; đồng thời tích cực tham dự các buổi sinh hoạt góp ý xây dựng Đảng, có ý kiến kịp thời giúp tổ chức đảng khắc phục khó khăn, gắn bó với quần chúng lao động để tổ chức đảng nơi mình sinh hoạt thực sự trong sạch và vững mạnh trở thành chỗ dựa tin cậy của nhân dân.

Trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" Nguyễn Đình Chiểu có viết "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà" là một nhà báo trong lĩnh vực truyền thông việc đưa thông tin chính thống, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nhận thức rõ cần có thái độ ủng hộ cái tốt, cái đúng, những nhân tố điển hình tiên tiến; cần đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực như cửa quyền, tham những, lãng phí, cục bộ... Kiên quyết phản bác các quan điểm tư tưởng sai trái, thù địch làm cản trở công cuộc đổi mới của đất nước, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân. Hơn nữa, bản thân cần không ngừng trau dồi lý tưởng cách mạng, ra sức rèn luyện về chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực sự trở thành một nhà báo giỏi, một công dân gương mẫu về mọi mặt. Tích cực lao động sáng tạo với ý chí vươn lên đóng góp thật nhiều công sức, trí tuệ cho sự nghiệp đổi mới đất nước; đồng thời là người tuyên truyền, giáo dục, vận động người thân, người cùng cơ quan, cùng nơi cư trú và bạn bè nhận thức đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đó chính là việc làm có ý nghĩa nhất thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội X của Đảng./. 

Câu 4: Phân tích tính tất yếu khách quan và cơ hội thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay ?

Trả lời: 

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước ta đã chủ trương tham gia các thể chế kinh tế quốc tế. Trong "Lời kêu gọi Liên Hợp quốc" tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đối với các nước dân chủ nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực". Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có chiến tranh kéo dài và cục diện đối đầu hai cực trên thế giới, nước ta bị bao vây cấm vận nhiều năm, quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta chủ yếu với các nước xã hội chủ nghĩa, có tham gia liên kết, hợp tác trong khuôn khổ của SEV từ năm 1978.

Từ Đại hội VI, khi tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta chủ trương "tham gia sự phân công lao động quốc tế...; tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi". Đến đại hội VII của Đảng chủ trương: "Mở rộng, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi". Đại hội VIII, đặc biệt là NGhị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành TW khóa VIII về kinh ế đối ngoại đã nhấn mạnh: "Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành khẩn trương vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA". Đại hội IX của Đảng đưa ra chủ trương "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực". Sau Đại hội IX, Nghị quyết TW 9 khóa IX nhấn mạnh: "Chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương nwocs ta đã kỹ và chuẩn bị tốt điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Có thể thấy rằng, sau 20 năm đổi mới, từ nhận thức đúng đắn tính tất yếu khách quan và những vấn đề của toàn cầu hóa, Đảng ta đã xác định rõ chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

*. Về cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế:

Hội nhập kinh tế không đơn giản là lập quan hệ thương mại với một số nước hoặc thành viên của một thể chế kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế cần được hiểu là quá trình chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng hiện đại, xây dựng nền kinh tế có chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; giải phóng mọi sức sản xuất; từng bước tự do hóa các hoạt động kinh tế, tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; mở cửa thị trường; đẩy mạnh các hoạt động kinh tế - thương mại - tài chính giữa nước ta với các quốc gia trên thế giới.

Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để phát triển nhanh, hệu quả và bền vững. Hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng thị trường xuất khẩu hàng háo và dịch vụ; thu hút nguồn vốn bên ngoài; tiếp nhận những thành tựu và kinh nghiệm về quản lý sản xuất, kinh doanh; về điều hành các mặt của đời sống xã hội... Qua hội nhập kinh tế quốc tế các doanh nghiệp trong nước buộc phải tham gia cuộc cạnh tranh quốc tế gay gắt ngay trong thị trường trong nước, tự vươn lên để tồn tại và phát triển.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt cho nhân dân ta nhiều thách thức và có những tác động bất lợi. Sự chi phối quá trình toàn cầu hóa của các nước tư bản phát triển mang lại nhiều thách thức, thua thiệt cho các nước kém phát triển, trong đó có nước ta. Các nước phát triển giành nhiều lợi thế trong cạnh tranh, gây sức ép mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, đồng thời tạo nên những rào cản để bảo hộ sản xuất trong nước họ... 

Hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với những biến động của tình hình thế giới, như khủng hoảng kinh tế, chính trị, năng lượng, môi trường, chiến tranh, xung đột cục bộ... tác động vào kinh tế thế giới trong đó có nước ta.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng gặp những khó khăn, thách thức từ trong nước, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, ảnh hưởng của tư duy cũ, bao cấp còn nặng nề, có sự do dự, chần chừ, trông đợi ỷa lại vào Nhà nước...

Nghị quyết Đại hội X của Đảng về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế:

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi mà nhân dân, dân tộc ta đánh đổi bằng cả xương máu của các lớp thế hệ con Lạc cháu Hồng.

Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào cách mạng 1930 – 1931. Đặc biệt là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành công trọn vẹn, đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm đầu sau khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi khảo nghiệm sáng kiến của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.

Với sự cố gắng của các tổ chức Đảng ở trong nước và của các đồng chí hoạt động ở nước ngoài Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3/1935) đề ra chủ trương đường lối và tổ chức hoạt động của Đảng. Đại hội đã đánh dấu sự khôi phục của tổ chức Đảng từ Trung ương đến đại phương, thống nhất phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương mới, đem lại niềm tin cho đảng viên và quần chúng.

Những năm 1936 – 1939, tình hình trong nước và thế giới có nhiều thay đổi, các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 1936, 1937 và 1939 đã có những quyết định kịp thời về chuyển hướng hình thức tổ chức và sử dụng những hình thức đấu tranh phù hợp, dấy lên cuộc vận động dân chủ rộng lớn – một hiện tượng hiếm có xảy ra ở một nước thuộc địa. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1/9/1939), thực dân Pháp tăng cường đàn áp phong trào cách mạng, phát xít Nhật đánh chiếm Việt Nam và Đông Dương, Nhật – Pháp câu kết thống trị dân tộc ta, loàm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phát xít Nhật phát triển gay gắt. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (11/1940) tiếp tục chủ trương đó. Tháng 1/1941, sau gần 30 năm hoạt động ở nước ngoài lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Trong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, hoạt động bí mật không có điều kiện họp Đại hội đại biểu toàn quốc định kỳ, các Hội nghị Trung ương, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương và Hội nghị cán bộ Đảng có vai trò quan trọng. Cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 5/1941. Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng 3/1945 và bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trên cương vị là Người đứng đầu Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh đã cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng chiến thắng giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Sau tháng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 Đảng đã nắm chính quyền toàn quốc nhưng do hoàn cảnh lịch sử khó khăn, phức tạp Đảng phải rút vào bí mật để thực hiện sự lãnh đạo kín đáo và khôn khéo. Các Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã trực tiếp quyết định những vấn đề về chiến lược và sách lược của Đảng và Nhà nước cách mạng về xây dựng chế độ mới và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng 11/1945 với bản chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”; Hội nghị BCH TW Đảng mở rộng 3/1946 với chủ trương “Hoà để tiến”; Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng 12/1946 với bản chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”.

Trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã có nhiều Hội nghị với những Nghị quyết quan trọng, cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc; Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (1961) bàn về phát triển nông nghiệp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy (1962) bàn về phương hướng, xây dựng và phát triển công nghiệp. Hội nghị lần thứ Tám (1963) bàn về phát triển kinh tế quốc dân. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Mười (1964) tập trung bàn về thương nghiệp và giá cả. Các Hội nghị Trung ương lần thứ mười chín (1971), lần thứ Hai mươi (1972) và lần thứ Hai mươi hai (1973) về phát triển kinh tế quốc dân ở miền Bắc.

Đối với sự nghiệp cách mạng miền Nam và chống Mĩ cứu nước, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đã giành nhiều Hội nghị với những nghị quyết quan trọng để lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời. Hội nghị Bộ Chính trị (1/1961) ra Chỉ thị “Về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Tháng 2/1962 Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về công tác cách mạng miền Nam”. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ chín (12/1963) bàn về “Phương hướng và nhiệm vụ cách mạng miền Nam và đường lối quốc tế của Đảng trong tình hình mới”. Các Hội nghị Trung ương lần thứ mười một (3/1965) và lần thứ mười hai (12/1965); Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1967) về đẩy mạnh đấu tranh công tác ngoại giao. Chủ trương mở cuộc tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 được đề ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14; Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 18 (1970) với chủ trương “Đánh bại chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 (1971) là “Kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Sau khi ký Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai vẫn ngoan cố tiếp tục chiến tranh, vi phạm Hiệp định. Trước tình hình đó Hội ghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 21 (1973) đã có Nghị quyết quan trọng khẳng định “Con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng”, phát triển lực lượng về mọi mặt để giành thắng lợi hoàn toàn. Những quyết định về phương án giải phóng miền Nam đã được Hội nghị Bộ Chính trị họp ngày 30/9 đến 8/10/1974 và từ 18/12/1974 đến 8/1/1975 thông qua trực tiếp đưa đến thắng lợi hoàn toàn của Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. 

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đất nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã họp tháng 12/1976 tại Hà Nội. Đại hội đã tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam. Đại hội đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng phát triển kinh tế trên cả nước. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân cả nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đó là khó khăn và cũng là thách thức mới. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra những chủ trương, biện pháp để kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đã cụ thể hoá đường lối của Đại hội IV thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, xác lập quan hệ sản xuất mới, đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội theo những chỉ tiêu chủ yếu mà Đại hội đã đề ra. Tình hình kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân có nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và cũng do sự trì trệ, kém hiệu quả của cơ chế quản lý cũ… Từ trong khó khăn đó Đảng và nhân dân ta đã bắt đầu có những khảo nghiệm thực tế và tìm tòi cách thức, cơ chế quản lý mới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu khoá IV (9/1979) đã mở đầu cho quá trình tìm tòi, đổi mới chủ trương khuyến khích mọi lực lượng và năng lực sản xuất làm cho sản xuất bung ra làm ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Các Hội nghị Trung ương tiếp theo và những quyết dịnh của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã hướng vào sự tìm tòi, đổi mới cơ chế quản lý… “Trong cuộc trường chinh để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng gắn bó với nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Trong giai đoạn mới, Đảng quyết làm tất cả vì phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân” (1)

Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V đã tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội hàng năm và dài hạn, công tác tư tưởng và tổ chức bảo đảm nhiệm vụ kinh tế, xã hội về phân cấp quản lý kinh tế, xây dựng và tăng cường cấp huyện, những vấn đề về phân phối lưu thông…

Trải qua mười năm lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam họp đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) đã nêu bật những thành tựu của 10 năm đổi mới về nhịp độ phát triển kinh tế, những chuyển biến tích cực về mặt xã hội; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an ninh; thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị và phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá, đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (7/1998) đã thông qua Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nên văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (10/1998) thảo luận và quyết định những vấn đề kinh tế – xã hội để khắc phục những khó khăn yếu kém, vượt qua những thách thức do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ các nước trong khu vực. Hội nghị Trung ương sáu (lần 2) họp tháng 1-2/1999 đã thảo luận và ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay” mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng…

Có thể thấy rằng sự lãnh đạo của Đảng từ khi mới ra đời cho dù còn non trẻ qua các kỳ Đại hội nhưng vẫn giữ vững được những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là giữ vững Cương lĩnh, đường lối đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng; Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh suyên suốt cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, nhân dân ta. Tinh thần độc lập tự chủ, vận dụng sáng tạo và vấn đề đoàn kết, tạo sự thống nhất trong toàn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức luôn được đặt lên hàng đầu điều đó được thể hiện qua các cuộc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương; Thể hiện trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách dù hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như con ngươi của mắt mình”. Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đồng thời, Đảng ta không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Và chính là kết quả của quá trình phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta. Đây là kết quả tất yếu của sự chuẩn bị công phu, gian khổ với những bước đi phù hợp thể hiện năng lực tổ chức tài tình của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; Là sự thắng thế của tư tưởng vô sản đối với đường lối chính trị của giai cấp tư sản… 

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ đơn độc, biệt lập của phong trào dân tộc Việt Nam. Từ đây gắn chặt phong trào cách mạng nước ta gắn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh thời đại và sức mạnh trong nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Đảng lãnh đạo cách mạng không phải là một đặc quyền, đặc lợi mà là sứ mệnh lịch sử, là trách nhiệm nặng nề, vẻ vang của Đảng với giai cấp, với dân tộc được nhân dân giao phó”(2). Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng đứng vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà còn tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Trong bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

“... Đảng ta vĩ đại như biển rộng núi cao,

Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.

Đảng ta là đạo đức, là văn minh,

Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no.

Công ơn Đảng thật là to,

Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”.

Thật vậy, kể từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân, cùng nhân dân mình viết nên những trang sử chói lọi, trong đó mỗi kỳ Đại hội Đảng, mỗi thời đoạn của cách mạng Việt Nam  là một dấu son không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc./.

(1) Trích Báo cáo Chính trị BCHTW Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV

(2) Trích Nghị quyết Trung ương 7 khoá VI

Câu 2: Từ khi ra đời đến nay, Cương lĩnh 1991 đã được cụ thể hoá và phát triển trong cuộc sống như thế nào ? (Đi sâu vào những vấn đề Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nói rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta).

Trả lời: Trong quá trình đấu tranh giai cấp yêu cầu phải có một tổ chức Đảng ra đời đòi hỏi phải xây dựng một cương lĩnh hay một chương trình hành động cho chính Đảng của mình để thu phục nhân dân, làm cho nhân dân đi theo. Vì cương lĩnh chính là sự thống nhất.

 Cương lĩnh chính trị là văn kiện lý luận và chính trị cơ bản, chỉ rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định của một chính đảng hoặc một tổ chức chính trị. Theo quan niệm của Đảng ta, Cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn nhất định. Nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. 

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, nhuận nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc, phản ánh đúng yêu cầu khách quan của lịch sử và nguyện vọng độc lập của quần chúng nhân dân. Độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh đã được phản ánh đầy đủ trong cương lĩnh của Đảng. Nhưng do yêu cầu thực tế của cuộc cách mạng trong thời kỳ mới đòi hỏi phải có một cương lĩnh mới ra đời phù hợp với điều kiện cách mạng mới, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) trên cơ sở tổng kết quá trình hơn 60 năm thực hiện cương lĩnh đầu tiên (1930) phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình trong nước và quốc tế, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tổng kết cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến 1991 và nêu lên những bài học kinh nghiệm:

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó alf bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.

Hai là, sự nghiệp cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. 

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tó hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 

Cương lĩnh xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội mang 6 đặc trưng cơ bản:

- Xã hội nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

- Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.

- Con người phải được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Những đặc trưng đó thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội và cũng là tiêu chí để phân biệt khác với bản chất của chế độ chủ nghĩa tư bản.

Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam XHCN là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta. Phải phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến trung thực phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng.

Mở rộng dân chủ các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH. Đó là dân chủ XHCN, không phải là dân chủ tư sản. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, ý thức trách nhiệm công dân và tôn trọng pháp luật. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tiến tới một xã hội xã hội chủ nghĩa công bằng, dân chủ, văn minh. Hội nghị TW 7 cũng nhấn mạnh và khẳng định mục tiêu XHCN của chúng ta: Để đạt được mục tiêu XHCN về lâu dài chúng ta phải làm cho quan hệ sở hữu XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân. Trong thời gian dài Đảng ta chủ trương “thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định những kinh nghiệm, bài học đổi mới mà các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng đã đúc rút vẫn có giá trị lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau:

Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, đổi mới phải dực vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.

Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạng dân tộc với sức mạnh thời đại.

Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.

Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.

Mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX đã xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trên các lĩnh vực hcính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở tất cả các cấp, các ngành, thu hút trí tuệ và sức lực của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thức thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn. 

Khả năng duy trì hoà bình, ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng ta tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra.

Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữ trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Trình độ làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định sự phát triển. Chu trình luân chuyển vốn, đổi mới công nghệ và sản phẩm ngày càng được rút ngắn; các điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới luôn thay đổi đòi hỏi các quốc gia cũng như doanh nghiệp phải rất nhanh nhạy nắm bắt, thích nghi. Các nước đang phát triển, trong đó có nước ta có cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của mình; đồng thời cũng đứng trước nguy cơ tụt hậu xã hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên.

Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch... Mặt khác, toàn cầu hoá cũng đặt Việt Nam đứng trước thách thức phải đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia.

Tình hình nước ta sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động. Nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và xu thế tích cực của thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối phó với những thách thức, tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực, chệnh hướng XHCN, nạn tham những và tệ quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra. Những nguy cơ đó đã được Đảng chỉ ra từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) nhưng vẫn tồn tại và diễn biến phúc tạp đan xen nhau, tác động lẫn nhau. Trong đó đáng chú ý là “Tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thựuc hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân; Nước ta vẫn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp trong khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế”.

Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong hoàn cảnh đó.

Đường lối kinh tế của Đảng được Đại hội thông qua là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh. Đường lối kinh tế đó đã xác định phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm; Phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán; Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội.

Cùng với lĩnh vực kinh tế, Đại hội IX đã xác định đường lối lãnh đạo đối với các lĩnh vực khác: “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; “Tăng cường quốc phòng an ninh”; “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân”; “Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”; “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đại hội khẳng định phải coi xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập khu vực và thế giới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc ta.

Trên cơ sở đánh giá khách quan “Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế”, Đại hội IX đã hoạch định “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010” với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; Vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Mục tiêu cụ thể là đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000; nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta; năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực; Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng và an ninh có bước đi trước; Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Với quan điểm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết; Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực; Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng – an ninh. 

Để thực hiện những mục tiêu trên “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2010 – 2010” đã đề ra “Định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng”; “Phát triển giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ”; “Phát triển văn hoá xã hội”; “Đẩy mạnh cải cách hành chính xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh”.

Đại hội IX của Đảng là “Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới”, nó có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.

Câu 3: Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên ? Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với một đảng viên ? Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên như thế nào ?.

Trả lời: Đối với mỗi cá nhân muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải tự mình trả lời những câu hỏi: Tại sao ta vào Đảng ? Vào Đảng để làm gì ?, Mục tiêu lý tưởng của Đảng ta là gì ?.

Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng ? Phải chăng để thăng quan, phát tài ? Không phải !... Chúng ta vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Cũng trong Di chúc của mình, Người viết “... Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...”. Những người muốn vào Đảng phải xây dựng cho mình được động cơ đúng đắn bởi nó có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên, nó sẽ là động lực lớn thúc đẩy mọi hành động, việc làm của chúng ta sau này. Để trở thành một đảng viên mỗi chúng ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Bản lĩnh chính trị được thể hiện ở tính kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu, trung thành với lợi ích của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc, suốt đời tận tâm trung thành phục vụ cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thấy sai phải biết phê phán... Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách mạng là “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Đây chính là nét nổi bật của người đảng viên.

Hai là, Không ngừng nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Là một người đảng viên chân chính, mẫu mực không chỉ hoàn thành nhiệm vụ mà phải gương mẫu hoàn thành tốt, đảm bảo chất lượng công việc cũng như đem lại hiệu quả cao. Để làm được điều đó đòi hỏi người đảng viên không chỉ nâng cao về năng lực mà còn cả năng lực về trí tuệ và năng lực thực tiễn, không ngừng học hỏi trau dồi để đủ kiến thức đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. 

Ba là, người đảng viên phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể cũng như các công tác xã hội. Điều đó được thể hiện ở ngay chính nơi ở, nơi làm việc cũng như các mối quan hệ với các quần chúng khác, biết lắng nghe, hiểu được tâm tư nguyện vọng của quần chúng, biết chăm lo đến lợi ích, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vận động nhân dân sống và làm việc theo đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Những hoạt động chính là cơ hội tốt giúp cho chúng ta tiến bộ, trưởng thành về chính trị, tạo dựng sự tín nhiệm của nhân dân tạo đà cho mỗi quần chúng phấn đấu trở thành đảng viên.

Bốn là, tích cực tham gia xây dựng Đảng cơ sở. Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng chúng ta không những tự giác thừa nhận, tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng mà còn cần tích cực tham gia xây dựng Đảng, giúp Đảng phát hiện những quần chúng mất tư cách đạo đức, phát hiện những đảng viên tha hoá về đạo đức, lối sống, chống tham nhũng trong Đảng... 

Năm là, mỗi người chúng ta không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động quần chúng nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tích cực góp phần xây dựng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh...

Động cơ thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để đứng trong một tổ chức tự nguyện của những người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Mỗi người chúng ta nguyện phấn đấu vào Đảng chính là tự nguyện dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, không sợ khó, sợ khổ, quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn đến mục tiêu CNXH. Mỗi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn của công cuộc đổi mới hiện nay, ra sức nắm bắt để vận dụng vào nhiệm vụ của mình; phải tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm toàn thể thống nhất trong nội bộ làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, tích cực làm công tác phát triển đảng viên mới. 

Cái được lớn nhất khi vào Đảng là có cơ hội được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

Động cơ vào Đảng đúng đắn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết quyết định. Bởi, chỉ có động cơ đúng đắn mới có thể đáp ứng được những yêu cầu của Đảng và Đảng cũng chỉ kết nạp những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ mình những người có động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc, càng không để cho các phần tử cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn chúng ta ta cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng bằng chính việc làm hàng ngày của mình, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, kiêu căng, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng. Lúc sinh thời Bác Hồ đã căn dặn “... Nếu không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào Đảng. Bởi Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc...”. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh thần to lớn của mỗi chúng ta. 

Tại Điều 1 Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn của đảng viên như sau:

1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.

2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.

Tại Điều 2 Điều lệ Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam quy định nhiệm vụ của đảng viên:

1. Tuyệt đối trung thành với mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục từng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thựuc hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Tham gia xây dựng bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục từng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyện tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

Tại Điều 3 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định quyền của đảng viên như sau:

1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.

2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.

4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.

Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Qua quá trình nghiên cứu và học tập về Đảng tôi nhận thấy rằng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi. Trong thời đại ngày nay, với mục tiêu và lý tưởng cao đẹp mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn và xây dựng. Tôi tha thiết và mong muốn được đứng trong hàng ngũ của Đảng để góp sức nhỏ bé của mình cho sự nghiệp chung của dân tộc và xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Tuyệt đối trung thành với Đảng, với lý tưởng cách mạng, nguyện đi theo con đường mà Đảng, Bác cùng toàn thể nhân dân đã lựa chọn. Mong rằng, Chi uỷ, Đảng uỷ giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi được đứng trong hàng ngũ của Đảng./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro