Chương 2 - A Trên đường vào Chiến Khu Phòng Thô qua biên giới Trung Hoa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Sau khi thanh toán xong vụ giáo quan Nhật thì toàn bộ lực lượng rút khỏi Thị xã vào quá nửađêm. Ngày đó thuộc vào trung tuần tháng 11/1946.Từng bộ phận theo kế hoạch, đoàn quân rút theo ngã Bát Xát, Trịnh Tường và Mường Hum.Quốc Gia Thanh Niên Đoàn (QGTNĐ) gồm các anh Nguyễn sĩ Hồng, Mai ngọc Bảo, Trươngkhánh Tạo, Nguyễn Đại và tôi cùng đi trong những người ốm yếu (những người bệnh nặng và bịthương mới được chuyển qua Hồ Kiều). Đêm đó trời cũng không trăng sao, thời tiết ở vào cuốiThu, về đêm đã trở lạnh.Chúng tôi âm thầm lặng lẽ theo đoàn quân, mà trong đầu óc mọi người đều có những suy nghĩriêng tư, nhưng tựu chung đều cảm thấy ngày mai đầy chông gai. Gần sáng thì đoàn quân tới BảnKim, cách Lào Kay chừng mười cây số. Bản này nằm ở trong một thung lũng hẹp, phía bắc giápsông Hồng, phía nam là dãy núi cao chạy dài từ Cốc Lếu tới Bát Xát, Trịnh Tường ở phía tây.

Dân cư thuộc sắc tộc thiểu số người Nhắng. Nghe tên gọi thì cứ tưởng là mọi rợ, nhưng thực tếhọ là những người khá văn minh và đẹp đẽ. Không khác gì người Thổ (Tày), họ nói tiếng Kinhrất thông thạo. Về ăn mặc thì quần áo nhuộm chàm và có thêu hoa nếu là đàn bà, con gái. Sinhhoạt hàng ngày của họ rất bình thường, không có mấy ảnh hưởng về chính trị. Họ tỏ ra thờ ơ lãnhđạm khi thấy chúng tôi tới. Có chăng là mấy ông "Sá phải" như đại diện Xã, Lý trưởng của ta,đứng ra liên lạc, tiếp súc với Chính quyền để nhận chỉ thị thôi. Nghỉ ngơi vài tiếng đồng hồ, đoànquân lại tiếp tục tiến vào Bát Xát.Như kế hoạch đã định, phần lớn lực lượng khi tới Bát Xát thì rẽ vào Mường Hum để tiến vàoPhòng Thô, số còn lại kể cả những người ốm yếu thì tạm ngừng ở Bát Xát. Cánh quân tiến vàoPhòng Thô, mà chủ lực là người Thổ (Tày) dưới quyền chỉ huy của các ông Triệu quốc Lộc,Hoàng văn Đạt, Phạm đức Nghi, còn người Kinh thì đặt dưới quyền chỉ huy của ông Nguyễn duyDzị. Đêm đó, chúng tôi vào nghỉ trong đồn Bát Xát. Đồn này được xây cất từ thời Pháp thuộcnên nhà cửa, doanh trại rộng rãi, ngăn nắp. Nằm trên một khu đất cao cạnh sông Hồng, mà bênkia sông thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Ở bên đó cũng có một đồn mang tên là Bát Xát Tàu. 

Cònđồn Bát Xát Tây thì án ngữ ngã ba đường Lào Kay-Trịnh Tường-Mường Hum. Người Chỉ huyĐồn lúc đó là anh Hoàng văn Tín (Hạ Sĩ Quan Quân đội Pháp theo VNQDĐ).Sáng ngày hôm sau thì có lệnh toán quân còn lại tiếp tục đi vào Mường Hum, nhưng di chuyểnđược vài cây số, trên con đường mà hai bên là núi cao, thì chúng tôi bị phục kích và bị chặn lại.Toán tiền phong chống cự được một lúc rồi đành phải rút trở lại Bát Xát. Trong anh em chúngtôi, anh Tạo chẳng may trúng đạn vào mông. Sở dĩ VMCS có mặt ở đó là do chúng từ Sapa (bịchiếm đóng trước đó ít lâu) đổ xuống chiếm Mường Hum. Cánh quân ông Triệu quốc Lộc đi quavì chúng chưa kịp tới.Chúng tôi trở lại đồn Bát Xát nghỉ mấy ngày, rồi sau đó được lệnh di chuyển đi Trịnh Tường.Mấy ngày tại đồn, có vài khóa sinh trường Lục Quân Yên Bái bị bệnh nặng và qua đời. QGTNĐcó anh Đại, Lục Quân Yên Bái có một anh tôi không nhớ tên, hình như thuộc gia đình họ Cự, códanh tiếng buôn bán ở Hà Nội. Anh Đại khi chết, tôi nằm gần chỗ anh, nhưng chẳng có cách nàođể cứu chữa được, trong hoàn cảnh thiếu thốn, thức ăn tẩm bổ cũng không. Anh bị sốt nặng rồichết lịm đi trong đêm. Mặt anh tím và sưng vù lên vì muỗi đốt. Khi đi, chúng tôi cũng chẳngkhỏe khoắn gì hơn, chỉ may mắn là cơn sốt rét chưa nổi dậy. 

Đã có kế hoạch rút bỏ Lào Kay, nênduy trì đồn Bát Xát là vô ích, vả lại VMCS đã chiếm Mường Hum, trước sau chúng cũng tấncông đồn.Con đường vào Phòng Thô qua Mường Hum đã bị ngăn chặn, nên Bộ Chỉ Huy Quân vụ bộ phảitính tới lối khác để vào Phòng Thô. Cũng chỉ vì di chuyển trên lộ trình mới, nên tình cảnh củađoàn người rút lui còn bị nguy hiểm, gian nan, chết chóc nhiều hơn. Lộ trình Bát Xát TrịnhTường tương đối còn dễ đi, nhưng từ Trịnh Tường tới Y Tí, rồi biên giới Trung Hoa thì chỉ lànhững con đường mòn, là dãy núi cao chót vót chạy dài từ Mường Hum Bát Xát tới biên giới rồinhập vào núi Cấm ở trong biên giới Trung Hoa. Do đó, chúng tôi không thể vượt qua để vàoPhòng Thô được mà phải đi vòng sâu vào lãnh thổ Trung Hoa. Vấn đề đi qua Trung hoa, Bộ ChỉHuy đã can thiệp nên không bị ngăn chặn ngay tại biên giới, nhưng cũng gập nhiều chuyện cướpbóc ở dọc đường bởi những tên thổ phỉ địa phương. Rời Bát Xát trong đêm tối, đường trải đálởm chởm khó đi. 

Anh Tạo, lúc khởi hành, tưởng đã phải ở lại đồn vì vết thương chưa lành.Nhưng vào giờ chót, Bộ Chỉ Huy đã cảm thông cho mượn con ngựa của ông Triệu Việt Hưng.Anh Tạo ngồi trên lưng ngựa, tôi dắt ngựa, bước thấp, bước cao, nhiều lúc muốn ngã té ngửa.Tuy không phải đi bộ, nhưng ngồi trên lưng ngựa với vết thương ở mông, nhiều lúc cũng làmcho anh đau đớn vô cùng, nhưng với đức tính gan lì, anh cắn răng chịu đựng. Qua một đêm, mộtngày thì chúng tôi tới được Trịnh Tường bình an, sau nhiều vất vả ở dọc đường. Cũng từ đây trởđi, đội hình di chuyển không còn duy trì được nữa, mạnh ai người nấy đi và dĩ nhiên là nhữngngười ốm yếu, bệnh hoạn thường lê lết tới sau. Chẳng may có chuyện gì xẩy ra ở dọc đườngkhông còn ai cứu giúp nữa..Trịnh Tường là một Châu (gần như một Quận, Huyện ở dưới đồng bằng). Tuy vậy dân cư cũngkhông lấy gì làm đông lắm. Họ là người Nhắng, người Xạ Phang (người Tàu sống ở biên giới)sinh sống về nghề dệt vải và trồng trọt, kể cả trồng cây thuốc phiện. Địa thế ở đây hoàn toàn làrừng núi, đường đi thật là khó khăn, hiểm trở, nên VMCS cũng chẳng quan tâm đánh chiếm làmgì, hơn nữa lại quá xa Thị xã Lào Kay. Chúng thừa hiểu là VNQDĐ đã yếu thế, sớm muộn gìcũng phải tan rã, hoặc chạy sang Trung Hoa. Do đó, chúng tôi được nghỉ dưỡng sức ở TrịnhTường lâu ngày hơn để chuẩn bị tiến tới Y Tí. Một Bản gần biên giới. Được nghỉ ngơi, ăn uốngđầy đủ, nên chúng tôi lấy lại sức khỏe một phần nào, nhất là anh Tạo lại bị thương. Nếu không,chúng tôi đã không đủ sức để vượt qua đoạn đường dài đầy cam go sau đó.Nhưng rồi ngày lên đường cũng phải tới, vì lực lượng vào đánh chiếm Phòng Thô của ông Triệuquốc Lộc và Nguyễn duy Dzị đang cần sự có mặt của Bộ Chỉ Huy Quân Vụ Bộ. Khi lên dườngcó một số bị bệnh phải ở lại đi sau, trong đó có anh Tạo vì vết thương chưa lành hẳn. Ra khỏiTrịnh Tường chẳng được bao xa, thì đoàn quân có người bệnh đã rơi rớt dọc đường, trong đó cótôi.Tôi đã lên cơn sốt rét, có lẽ trước khi đi đã dùng cơm với thịt heo, rồi uống nước suối. Cơn sốthành hạ từ rét qua sốt nóng, nhiều lúc quá mệt, tôi đã phải nằm lăn ra bên lề đường mặc cho tớiđâu thì tới. Nhưng rồi trước cái chết, sự ham sống lại vùng lên. Tôi nghĩ còn trẻ, tôi phải sống,chứ không thể chết một cách âm thầm trong cái cảnh rừng núi âm u này được. 

Phải sống để tiếptục chiến đấu, nếu có chết thì cũng phải chết cho vinh quang, xứng đáng nơi chiến trường. Với ýchí và quyết tâm phải đi tới đích, tôi cắn răng chịu đựng sự mệt mỏi, lê bước trên con đườngrừng vắng vẻ, sương chiều đã phủ lấy ngàn cây. Một sự im lặng ghê rợn, ngoài tiếng nước suốichảy róc rách bên đường. Đến chừng 8 hoặc 9 giờ tối thì tôi tới nơi đóng quân ở một Bản nhỏ,gồm năm ba căn nhà tường đất, lợp rạ của người Mèo. Sắc dân này thường ở trên núi cao, vì thếmà đường đi càng lên cao, trời về khuya càng lạnh.Khi tôi tới thì mọi người đã ăn uống xong xuôi và đi nghỉ, còn tôi thì mệt quá, bỏ cơm nắm ra ăntạm với muối, rồi lăn ra ngủ như chết. Ngày hôm sau, chúng tôi dậy rất sớm, nấu cơm để lênđường đi Y Tí cho kịp trước khi trời tối, vì đoạn đường khá dài, nếu không sẽ ngủ ở giữa rừng.Ngày ở biên khu rất ngắn, nhất là vào những tháng cuối năm. Khởi hành quá sớm nên trời còn tốiđen như mực, sương xuống như mưa, cảnh vật thật lặng lẽ và buồn nản. Chúng tôi âm thầm dấnbước trên con đường nhỏ hẹp, hai bên là rừng cây cao bát ngát. Sau một đêm ngủ ngon giấc, tôiđã lấy lại sức khỏe nên không đến nỗi đi lẹt đẹt phía sau. Con đường tuy nhỏ hẹp, qua đèo, quasuối, nhưng là con đường độc đạo, nên không bị lạc. Càng gần tới Y Tí thì địa thế càng lên cao.Cái lạnh của rừng núi thấm vào thân thể như dao cắt. Khi đó, chúng tôi, quần áo chẳng còn đánggiá nữa để chống lạnh, khi ở Trịnh Tường ra đi, tôi đã xin được ở bệnh xá một tấm bông dày đểđệm ở ngực. Những áo quần tốt lành, chúng tôi đã đem bán hết ở Lào Kay để lấy tiền mua thứcăn bồi dưỡng khi có bệnh. Vào lúc chạng vạng tối, màn đêm đã bắt đầu hạ xuống, thì chúng tôitới Y Tí. Nơi đây nhà cửa tương đối còn nhiều hơn, nên chúng tôi còn có chỗ để ngủ nhờ dân cưcũng là người Mèo, họ tỏ ra không mấy thân thiện với chúng tôi.

 Tuy nhiên với lực lượng đôngđảo và võ trang nên họ phải chịu tiếp đó thôi. Sau này ở Chiến khu Phòng Thô, người Mèo đãtheo Pháp chống lại chúng tôi. Nhà cửa của họ ba mặt đều xây kín mít, chỉ có một mặt để hở mộtlối vào rất nhỏ. Vào tới trong phải đứng một lúc mới thấy rõ đồ vật để ở trong nhà.Thông thường có một bếp lửa, củi cháy liu riu, phía trên để một giá bằng tre dùng để sấy thịt heo,hoặc thú rừng mà họ đánh bẫy được. Quần áo của họ cũng nhuộm chàm, ăn mặc cũn cỡn hở cảbụng, miệng luôn phì phào tẩu thuốc dài. Sắc dân này thường ở trên núi cao, cách biệt với cácsắc dân khác sống ở dưới thấp như Mán, Lô Lô, U Lý, Yao, còn người Thổ, Thái, Nhắng thì ởgần người Kinh hơn. Người Mèo ở Bắc Việt có lẽ lạc hậu hơn cả và đời sống của họ rất thấpkém. Bản Y Tí cách biên giới Trung-Việt nửa ngày đường. Đối với người Kinh, qua lại biên giớithì khó, chứ đối với họ thì không có biên giới nào cả. Họ đi qua, đi lại như một nhà, vì hai bênbiên giới đều có người Mèo sinh sống. Chính vì chỗ đó mà chúng tôi tới đâu họ cũng thông báocho nhau hay để phục kích hoặc trốn tránh. Lại một đêm trôi qua, chúng tôi chuẩn bị vượt quabiên giới. Núi rừng Cấm cao vời vợi, nằm án ngữ về hướng tây, chạy dài vào trong nội địa TrungHoa. Như dự tính, vào khoảng trưa thì đoàn quân đặt chân lên đất Trung Hoa.Thực ra thì cũng chẳng có dấu vết gì đánh dấu ranh giới hai nước, mà chỉ là một con suối chảyngăn cách hai dãy đồi núi mà thôi. Tôi biết được là do một cán bộ VNQDĐ đã từng hoạt độngqua lại khu vực này cho hay. Thú thật lúc đó tôi chẳng có cảm nghĩ gì cả, mà chỉ mong cho đoạnđường ngắn lại để chóng trở về căn cứ địa Phòng Thô. 

Đoàn quân qua biên giới đã không gặp trởngại bởi lực lượng biên phòng của Trung Hoa, cũng như dân quân tại địa phương, vì Bộ ChỉHuy đã có liên lạc và được phép của cấp chỉ huy địa phương. Trong nội địa Trung Hoa cũngkhông khác gì hơn trong biên giới VN. Vẫn là rừng núi cao và loáng thoáng năm ba căn nhà củangười Mèo ẩn hiện trong rừng cây.Thời tiết, khí hậu cũng trở nên ẩm thấp và lạnh giá hơn. Đường đi vẫn lượn quanh các đồi núicao và suối sâu. Trời lất phất mưa lại càng làm cho đường thêm trơn trợt khó đi. Nón, áo mưathiếu, quần áo ướt sủng lại càng thêm buốt lạnh. Đường dài, ướt lạnh, đói khiến sức khỏe chúngtôi (mấy anh em QGTNĐ gồm các anh Hồng, Bảo, Nghĩa và tôi) càng sút kém đi nhiều, nhưngmay là cơn sốt rét đã không xẩy ra. Vào buổi chiều gần tối, thì đoàn quân tới một Bản sắc dân XạPhang. Trời vẫn mưa phùn và lạnh lẽo. Vì là đất nước người, nên họ không cho chúng tôi vàongủ trong Bản. Do đó, chúng tôi phải dựng lều ở ngoài trời để tạm trú qua đêm. Lều chỉ là haitấm mền căng trên mấy cây cọc. Trời thì mưa rả rích suốt đêm, nên chúng tôi đành ngồi bó gối, đợi cho đêm chóng tàn. Mưa gió, ướt sủng nên chẳng nấu nướng được gì cả. Còn ít cơm nắm đểdành rồi cũng phải mang ra ăn nốt vì bụng đói như cào. Trời vừa rạng sáng, đoàn quân lại tiếptục lên đường giữa trời mưa chưa ngớt. Trời thì lạnh, bụng thì đói, chúng tôi chẳng còn conđường nào khác là cắn răng chịu đựng. Lộ trình vẫn không kém phần gian nan khổ cực. Trời thìlúc mưa, lúc tạnh rất khó chịu. Chúng tôi đi theo sườn núi rừng Cấm vòng về hướng tây bắc, vớicảnh vật, rừng cây bát ngát, suối chảy róc rách, chim kêu vượn hú, thật âm u vắng vẻ. Cảnh rútlui trong mấy ngày đường, đã diễn ra thật gian khổ và chết chóc.Ngày đi, đêm nghỉ, mà lại ngủ ở ngoài trời vì dân không cho vào nhà. Trời mưa lạnh, nấu nướngnửa sống, nửa chín, rồi cũng phải ăn để mà sống. May mắn là khi đó trời còn thương nên chúngtôi không ai bị thương, bị bệnh cả, mặc dù thân hình còm cõi thiếu ăn. Những ai khỏe mạnh thìđi trước, những người yếu thì theo sau. Cũng vì vậy, mà có một số người bị bệnh nằm gục bênđường. Ai gượng được thì tiếp tục đi, còn không thì chịu chết. Chúng tôi, mấy anh em QGTNĐcũng không hơn gì, nhiều lúc vì mệt, vì đói cũng phải nằm lăn ra bên đường thở dốc. Không có ýchí, quyết tâm cao thì không sao vượt qua nổi, nhất là chúng tôi còn trẻ mới ra đời chưa nhiềukinh nghiệm, mà duy nhất chỉ có một tấm lòng ra đi vì sông núi, vì tổ quốc. Phải nói rằng lúc đósự hiểu biết về chủ nghĩa CS, về con người CS chưa được bao nhiêu. Nhưng với những hànhđộng, chủ chương thực tế của VMCS trước mắt đã khiến chúng tôi đứng về phía những ngườicách mạng Quốc Gia và chống lại họ rất quyết liệt. 

Trên lộ trình đi, tôi đã thấy những người bạn cùng chiến đấu chết gục bên bờ suối, hay cùng ômnhau chết trong một lùm cây. Thật vô cùng đau đớn cho một đoàn quân chiến bại rút chạy trongcảnh hỗn loạn. Ngoài cái chết vì bệnh, vì đói rét, chúng tôi những người rơi rớt đằng sau, còn bịcái nạn những tên thổ phỉ địa phương ra cướp bóc. Chúng xử dụng súng hỏa mai (loại súng mỗikhi bắn phải nhồi thuốc) không bắn được xa, nhưng cũng có thể gây thương tích trầm trọng, daogăm hăm dọa rồi tước hết những gì mà chúng tôi còn xử dụng được như mền, áo ấm. Đường đicàng gần tới khu vực rẽ về nội địa VN thì các Bản, Làng của dân địa phương càng nhiều hơn vànhiều đường mòn xuất hiện. Nếu toán người đi trước không lấy cành cây chắn ngang thì người đisau dễ bị lạc lắm. Mấy ngày sau thì đoàn quân tới một ngã ba có con đường mòn hướng lên đỉnhnúi rừng Cấm nhìn về VN.Lực lượng gồm những người khỏe mạnh do ông Triệu Việt Hưng chỉ huy tiến về Sập Nhị Lầu(Phong Thổ) còn những người ốm yếu như chúng tôi thì được Ban Lãnh Đạo can thiệp với chínhquyền địa phương cho tạm trú để dưỡng bệnh. Chúng tôi được đưa vào hai Bản: Hoang Thiền vàLi Cù Tỉ thuộc huyện Mahati nằm sâu trong nội địa, có quân đội địa phương đồn trú. Số ngườibệnh này do ông Bảo Ngọc, nguyên Chủ nhiệm Việt Trì đảm trách và liên lạc với địa phương,còn ông Vũ hồng Khanh lên đường đi Côn Minh với sứ mệnh xin sự giúp đỡ của Trung ƯơngTrung Hoa Quốc Dân Đảng.

Anh em chúng tôi, mấy đứa cùng vào ở Bản Hoang Thiền. Bản này nằm trên một địa thế khôngcao, không thấp, gồm những đồi và rừng cây tương đối thưa thớt, ở cách xa chân núi rừng Cấmkhoảng hơn nửa ngày đường. Hoang Thiền (hay còn gọi là Hoang Điền) có nghĩa gần như đấthoang. Bản gồm khoảng năm, sáu chục nóc nhà xây tường bằng đất, ba bề kín mít như nhà củangười Mèo để tránh cái lạnh của rừng núi. Bản nằm ở trên sườn đồi. Tìm được một khu đấttrống, rộng thật là khó. Một bên là núi, một bên là suối. Dân cư thuộc sắc tộc người U-Lý, gầngiống như người Xạ Phang. Nghề sinh sống căn bản là dệt vải, nghề phụ là trồng lúa, nhưngruộng đất chẳng có là bao. Ruộng là những thửa đất được san ra từng bực thang. Phụ nữ lo vềchàm vải và dệt. Người nào, người nấy lúc nào mặt mày tay chân cũng dính chàm. Các cô gáicũng không đến nỗi tệ lắm, nhưng hai bắp chân thì quá lớn, có lẽ vì sống ở nơi núi cao, lênxuống hàng ngày nên như vậy. Tôi thấy đàn ông có vẻ nhàn nhã hơn đàn bà. Nhà dựng ở trêncao, nên vấn đề nước có vẻ hơi cực vì phải xuống suối lấy về. Họ xử dụng hai ống bương lớnghép lại rồi gù (đèo) bằng chán.Dân ở đây mọi thứ đều gù bằng chán, không như các sắc dân khác thì đèo bằng vai như Thổ,Mán, Nhắng v.v.. vì vậy mà chúng tôi gán cho danh hiệu là "Thiết đầu đà kim cương". Thồ nhưvậy, cái cổ phải cho cứng hơn là cái chán. Đã có lần tôi thử làm như vậy nhưng chịu không nổi,rút cuộc vẫn phải thồ bằng vai. Tuy nhiên vào mùa mưa, nước nhiều thì họ dùng các ống tre nốilại để lấy nước từ suối cao chảy về tận Bản. Thời gian chúng tôi tới đó đã thuộc về cuối năm Âmlịch, nên hàng ngày vẫn mưa. Trước đám đông người xa lạ tới, lúc đầu họ cũng tỏ ra lãnh đạm vàkhó chịu, nhưng rồi thấy chúng tôi không có hành động sai trái thì họ cũng để cho chúng tôi sốngbình yên. Cũng như các Bản khác mà chúng tôi đã đi qua, họ không cho chúng tôi vào ở trongnhà, trừ phi chúng tôi vào chơi, sưởi ấm bên bếp lửa hồng. Nói là vào chơi, nhưng thực ra thì chủvà khách đều ngồi im lặng chẳng nói một lời.

 Thực ra không phải là kỳ thị, mà là tiếng nói khôngthông hiểu nhau. Do đó, ngồi mãi suy nghĩ cũng chán rồi bỏ ra, chủ cũng chẳng thèm giữ lại làmgì. Ông Xã Phải (xã trưởng) có lẽ đã được thông báo cho biết về sự lui tới của chúng tôi rồi, nên có đứng ra tiếp chuyện với người đại diện của chúng tôi (biết nói tiếng Trung Hoa) nên mọi việccũng dễ dàng. Anh Hồng, Bảo và tôi được một ông chủ nhà chỉ cho ở trên một sàn gác của mộtchuồng trâu. Trên sàn có để sẵn rơm rạ nên cũng giúp cho chúng tôi chống lạnh, vì ba anh em chỉcó một cái mền mỏng.Có một số ở trong một căn nhà ở đầu Bản. Căn nhà này họ nói là Trường học, nhưng tôi khôngthấy một cái bàn ghế nào cả, mái nhà lợp rạ, bao quanh bằng bốn bức tường đất cao khoảng bathước. Hai đầu để trống rỗng, mặc cho gió sương ra vào tự do. Có hai cửa để ra vào, nhưngkhông có cánh cửa. Tại đây tôi thấy có ba ông Minh, Vinh, Xuân, nguyên là Hiệu trưởng và làhuấn luyện viên của trường Quân chính Việt Trì, mà chúng tôi là khóa sinh. Thầy trò gặp nhauchào hỏi nhưng chẳng ai buồn nói chuyện trong hoàn cảnh này. Về sau, ba ông rời đó, tìmđường về nước. Trên đường đi, ông Minh bị bịnh chết ở dọc đường, còn hai ông Vinh và Xuânsống sót trở về được tới Hà Nội. Khi đó đã thuộc quyền kiểm soát của quân đội Pháp. Sau đó,ông Vinh phục vụ trong lực lượng Bảo Chính Đoàn ở Bắc Việt, và rồi trong một công tác đithanh tra, ông đã bị tử thương vì mìn do VMCS gài trên lộ trình di chuyển. 

Ông Xuân khôngthấy làm gì cả, sau năm 1954 di tản vào Nam, nhưng không biết ra sao. Vì có sự liên lạc, yêu cầucủa Bộ Chỉ Huy Quân Vụ Bộ cũng như Hải Ngoại Bộ, nên chúng tôi được chính quyền địaphương giúp đỡ mọi ngày cung cấp gạo, rau và ít muối. Gạo và rau đủ ăn, nhưng muối thì hạnchế, nên phải dùng dè sẻn, nếu không sẽ phải ăn lạt. Do khỏi phải lo lắng về mặt ăn uống, chúngtôi chỉ còn lo hàng ngày vào rừng kiếm củi về nấu ăn và sưởi ấm.Ăn ngủ trên gác chuồng trâu, nên mùi uế khí gây nhiều khó chịu, nhưng rồi cũng quen đi, nhưngđược cái ấm áp vì rơm rạ xếp đống chung quanh. Có được một cái mền mỏng, hẹp nên ba anhem không khéo nằm là thò chân tay ra ngoài. Tốt nhất là nằm úp thìa, vừa ấm lại vừa kín. Cảnhsống như vậy, ngày nọ kế tiếp ngày kia, trong vùng rừng núi biên khu, nơi đất khách quê người.Được ăn uống tương đối no, tuy rằng không đủ chất bổ, nhưng vì không làm việc nặng nhọc, điđứng nhiều, nên sức khỏe cũng trở lại đôi phần, cũng như bệnh sốt rét của tôi không thấy táiphát. Một ngày nọ, một số anh em bị bệnh phải nằm lại ở Trịnh Tường đã tới chỗ chúng tôi ở.Trong toán này có anh Tạo (QGTNĐ) vết thương mang trên mình khi rời Bát Xát nay đã lành.Trông anh tiều tụy, sau bao ngày leo đèo, lội suối, thiếu ăn, thiếu thuốc. Chúng tôi gập lại nhaulòng mừng khôn siết, vì QGTNĐ còn lại chẳng bao nhiêu, mỗi người mỗi ngả. Trong hoàn cảnhkhốn cùng đó, tình anh em chúng tôi lại càng thêm khắng khít. Hai ba ngày hôm sau lại có thêmmột toán nữa tới, tất cả đều ốm yếu. QGTNĐ lại có thêm ba anh Thưởng, Nghĩa, Ngạn. Riênganh Thưởng có vẻ bệnh nặng hơn cả. Khi rời Lào Kay, anh gia nhập vào Biệt Động Đội, một Độigồm những người khỏe mạnh, gánh vác những nhiệm vụ nặng nhọc và nguy hiểm. Anh thuộcvào loại to lớn, khỏe mạnh trong Đoàn, tính tình vui vẻ, hiền hòa, tháo vát (trước kia anh theohọc trường Bách nghệ Hà Nội).Bây giờ mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn ghi khắc hình ảnh anh một cách rõ ràng, nhất là trong những giờphút trình diễn văn nghệ. Anh xử dụng ống Tiêu trong ban hợp ca của Đoàn cùng với các anhLý, Linh, Quân...

Ban hợp ca mà chúng tôi thường hát luôn là bản "Hồn Vọng Phu". Bây giờmỗi lần nghe lại, tôi lại thấy lòng rộn ràng nhớ tiếc xa xôi. Những cực nhọc, thiếu thốn, khí hậucay nghiệt của núi rừng Bắc Việt, đã làm anh em chúng tôi xuống dốc một cách thê thảm, khôngnhư còn tuổi trẻ hăng hái của thuở ban đầu. Thế rồi anh Thưởng bệnh ngày càng nặng, thuốcthang không có, một hai, ba bát cháo loãng hàng ngày làm sao cứu sống anh được. Thấy bệnhtình nặng, gia chủ không cho ở trong nhà, dù rằng chỉ là một túp lều cạnh chuồng trâu, chuồngbò.Chúng tôi đành phải khiêng anh xuống chỗ trường học. Tại đây như đã biết thì trống rỗng, bốnbề gió sương hắt vào, làm sao có thể chịu được trong lúc bệnh hoạn như vậy. Chúng tôi biết vậy,nhưng chẳng còn cách nào khác hơn. Qua một ngày đêm, sức cùng lực kiệt, anh đã ra ngườithiên cổ. Thương anh quá, mà chẳng sao khóc được, vì nghĩ mình có thể ngày mai, ngày mốtcũng có thể đi theo anh luôn. Tôi vuốt mắt anh và phủ lên mình chiếc mền còn sót lại của anh.Anh mất đi vào khoảng tháng Chạp Âm Lịch (năm ta 1946). Chúng tôi ra đào huyệt ở đầu Bản,bên bờ suối. Tôi còn nhớ như in, chỗ anh nghỉ vĩnh viễn, nằm dưới một tàng cây lớn có hoavàng, bên cạnh là một giòng suối chảy róc rách quanh năm.Trước khi mang anh đi chôn cất, chúng tôi bó anh vào một chiếc chiếu, vì khi đó làm gì có quantài. Một vài người đã bảo tôi hãy lấy lại chiếc mền của anh Thưởng để dùng trong lúc trời lạnhgiá, nhưng tôi đã không thể làm như vậy được, khi mà không có đến một cái hòm gỗ tồi tàn đểquàng xác anh. Tôi và đồng chí VNQDĐ dùng đòn khiêng anh ra ngoài huyệt. Trời thì mưa lâmrâm, đường thì trơn trợt, có lúc ngã đôi ba lần, nhưng rồi cũng tới. Chỗ chôn cất anh đào lên đầyxương trâu. Tôi để lên ngực anh chiếc mũ QGTNĐ mà anh vẫn giữ được cho đến ngày cuối cùngcủa cuộc đời anh. Tôi thắp vài nén hương (xin được của dân) trên mộ anh để tưởng niệm mộtchiến hữu đã ra đi không bao giờ trở lại. Anh Thưởng đã lập gia đình và hiện vợ con đang sinhsống ở Hoa Kỳ.Sau khi anh Thưởng mất được ít ngày thì chúng tôi ăn một cái Tết đầu tiên xa nhà trên đất nướcngười. 

Tết năm đó nhằm vào tháng 2 năm 1947. Dĩ nhiên trong hoàn cảnh lúc đó thì không ai cóthể vui được, mà buồn thì nhiều. Dân cư ở đó cũng vậy, tôi không thấy họ chuẩn bị Tết gì cả. Chỉcó khác ngày thường là nghỉ ngơi ăn uống có sang hơn chút đỉnh. Cảnh vật vào những ngày cuốivà đầu năm cũng chẳng tươi đẹp gì hơn. Trời vẫn mưa bay, sương mù bao phủ rừng cây, cáchnhau vài chục bước không rõ bóng người. Ra ngoài nhà là chạy như ma đuổi. Khí hậu càng ẩmướt và lạnh giá hơn. Thành thử chúng tôi chẳng đi đâu, nằm ôm nhau nghĩ ngợi mông lung. Đểngày mồng một Tết có khác hơn, chúng tôi đã đổi với chủ nhà lấy ít gạo nếp nấu xôi ăn cho lạmiệng, gọi là mừng Xuân. Ngồi trùm mền, chúng tôi quây quần chung quanh nồi cơm nếp, thaycho những món ăn ngon của những ngày Tết nơi quê nhà. Chẳng có một sự vật nào nhắc nhở làTết cả, ngoài mấy cây mai rừng mọc hoang ở đầu nhà, hoa vàng tơi tả dưới làn mưa gió, đằng xavẳng về tiếng chày giã gạo đều đều do sức đẩy của nước suối, cùng với tiếng suối chảy róc rách,nghe sao mà buồn thế!Chúng tôi không hiểu ngày mai sẽ tới đâu, và đều có chung một cảm nghĩ là chẳng còn bao giờtrông thấy quê nhà và gia đình nữa. Những ngày Tết rồi cũng qua đi mà chẳng có gì tiếc nuối.Rồi một hôm, chúng tôi có lệnh chuẩn bị trở về Chiến khu Phòng Thô. Được tin ai cũng mừng vìthoát cảnh sống tha hương, nhất là tại một nơi đèo heo hút gió, rừng núi âm u, thiếu thốn mọi bề.Về Chiến khu chiến đấu, có hy sinh cũng thỏa đáng cho cuộc đời đầy lý tưởng hơn là chết bờ,chết bụi, chẳng ai thèm nghĩ tới. Theo kế hoạch thì tất cả những ai tương đối khỏe mạnh thuộchai Bản Hoang Thiền và Li Cù Tỉ sẽ tập trung di chuyển về núi rừng Cấm. Còn ai bị bệnh sẽ đivào đợt sau, QGTNĐ có anh Tạo và Nghĩa đi đợt sau. Một năm sau, khi lưu vong sang CônMinh, tôi mới hay là sau ít ngày chúng tôi về nước thì anh Tạo rời Mahati rồi lên Côn Minh, cònanh Nghĩa (trong Nghĩa bộ đội của QGTNĐ) trong một vụ cháy nhà, anh đã bị chết cháy vì bệnhnặng quá không chạy ra ngoài được.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro