Chương 2 C

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Rồi một hôm, chúng tôi nhận được tin là Sư Đoàn chuẩn bị lên đường xuống vùng Đại Lý giápranh với Miến Điện và sẽ có thể rút lui sang đó. Việc đi hay ở là do chúng tôi quyết định, nhưngsau nhiều giờ bàn luận chúng tôi đồng ý theo Sư Đoàn một chuyến xem sao, dù sao chúng tôicòn trẻ, thích phiêu lưu mạo hiểm. Hơn nữa nếu Côn Minh rơi vào tay CS, thì thế nào chúng tôicũng phải ra đi, nếu không muốn chúng bỏ vào tù. Bọn VMCS nằm vùng sẽ nổi dậy và mục tiêutrước mắt của chúng là tiêu diệt VNQĐĐ, kẻ thù số một của chúng.Sư Đoàn ra đi bằng quân xa. Rời khỏi vùng ngoại vi phía Tây của Thành phố, đoàn xe khởi sự đivào xa lộ Côn Minh – Miến Điện. Con lộ này được xây dựng do sự giúp đỡ tài chính và chuyênmôn của Đồng Minh, đặc biệt là Hoa Kỳ. Nó có một mục tiêu chiến lược là dùng để chuyển vậntiếp tế, hàng hóa quân sự cho Chính quyền Tưởng Giới Thạch đóng đô tại Trùng Khánh (TỉnhTứ Xuyên) trong thời kỳ kháng Nhật. Con đường này quả là gian nan, hiểm trở, băng qua các đồinúi, các thung lũng hẹp, suối sâu. 

Ngồi trên xe tuy thích thú với cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nhưnglúc lên đèo, xuống núi quanh co hình chữ chi muốn rợn cả người. bởi vậy lái xe trên đoạn đườngnày đòi hỏi những tài xế nhiều kinh nghiệm, quả cảm, lanh trí. Nếu không, chỉ sơ xẩy một chút làrơi xuống vực sâu.Ai đã từng lái xe trên đèo Ngoạn Mục (Phan Rang-Đalat) thì chỉ bằng một phần ba và ngắn hơnnhiều. Tính ra thì Xa lộ Côn Minh-Miến Điện dài khoảng 500 cây số. Từ Côn Minh tới Đại Lý(như một Huyện), đường chạy dài trên đồi núi cao, nhưng khi gần tới Đại Lý thì xuống dần. ĐạiLý là một vùng tương đối bằng phẳng, ruộng đất phì nhiêu. Đại Lý trước kia là đất của MạnhHoạch, đã bẩy lần bị Khổng Minh bắt mới chịu đầu hàng.Đoàn xe tơi Thị trấn Thanh Phong thuộc Đại Lý vào khoảng xế chiều và cũng tại nơi đó Sư Đoàntạm dừng quân chờ lệnh tiếp của Lư Hán ở Côn Minh. Tính theo lộ trình thì đoàn quân đã điđược hai phần ba đường và đoạn tiếp tới biên giới Miến Điện không còn khó khăn nữa. Nhữngngày dừng quân, nhàn rỗi chưa làm gì, chúng tôi rủ nhau tản bộ ra phố xem dân cho biết sự tình.Thị trấn Thanh Phong cũng gần như Mông Tự, dân chúng làm ăn cũng khá nhộn nhịp. Đời sốngcó vẻ bình an, trầm lặng gần như chưa biết chiến tranh là gì. Nhưng từ khi Sư Đoàn rút về đóngquân tại đó thì dân tình xem ra lo lắng, bàn tán nhiều. Ngoài ra trong Thị trấn đã xuất hiện nhữnghoạt động võ trang tuyên truyền của CS. Tại một góc chợ, tình cờ chúng tôi được thấy tận mắtmột anh cán bộ CS đứng trên một cái bàn cao, lưng đeo súng lục, tay cầm loa đang hò hét, tuyêntruyền xách động quần chúng, y hệt như mấy tên VMCS ở Việt Nam, trong những ngày đầu cáchmạng tháng 8/1945.Trong đám quần chúng bu quanh, tôi thấy lẫn lộn cả binh sĩ của Lư Hán, kể cả chúng tôi, nhưngkhông ai phản ứng gì cả, kể cả Chính quyền địa phương. Sư Đoàn đóng quân được mười ngày,thì bỗng nhiên có lệnh quay về Côn Minh, khiến chúng tôi nghĩ ngay có chuyện gì xẩy ra. Thế làgiấc mộng phiêu lưu sang Miến Điện không thành. Chúng tôi đành theo đơn vị hồi về cố quận.Lượt về, đoàn xe ngừng lại một địa điểm cách Thành phố Côn Minh mấy chục cây số. Sau đóđoàn xe trở lại Thanh Phong tiếp tục chở các đơn vị còn lại. Anh Hồng , trước khi rời Tchapa,anh bị điều động sang một đơn vị khác, nên khi Sư Đoàn trở lại Côn Minh, đơn vị của anh bị xếpđặt vào đợt chót. Do đó, khi mà anh Tạo và tôi rời bỏ Sư Đoàn về lại Côn Minh hơn một thángmà vẫn không thấy anh về. Sau này liên lạc được với anh thì mới biết là đơn vị không có xe, nênphải nằm lại Thanh Phong chờ đợi.Sau này, chúng tôi bắt được liên lạc qua một bức thư của anh nhờ gia đình anh Tạo tại Hà Nộigửi sang Mỹ cho biết là anh đã trở về VN năm 1951 trong vùng VMCS kiểm xoát. Anh cho biếtthêm là sau khi chúng tôi rời bỏ Côn Minh thì anh vẫn phục vụ trong quân đội Lư Hán một thờigian ngắn, rồi sau đó đặt dưới quyền chỉ huy của các cán bộ CS. Trở về với gia đình, anh lấy lạitên cũ và làm việc cho VMCS tới sau năm 1975 mới về hưu trí. Tôi rất tiếc là khi trở về thămnhà ở Hà Nội năm 1989 tôi đã không biết anh có ở đó không, nếu biết thì hai anh em gặp lạinhau thì vui mừng biết bao, vì hai chúng tôi sống với nhau quá nhiều kỷ niệm. Nhưng quả đấttròn, thế nào cũng có ngày gặp lại nếu còn sống. Tôi nghiệm thấy cuộc đời tôi đã xẩy ra như vậyvà cũng sẽ xẩy ra trong tương lai. Chứng minh là đã tưởng bỏ mình ở Chiến khu, không bao giờtrở lại Hà Nội, rồi thì năm 1950 tôi lại có mặt ở Hà Nội. 

Rồi Việt Trì, Yên Bái, Lào Kay năm 1946, thì năm 1978 lại quay lại, dù rằng ở một hoàn cảnhkhác nhau. Sau 1954, hai miền Nam Bắc phân ly, tôi trở vào Nam phục vụ trong quân đội, rồicũng tưởng rằng sẽ chẳng còn bao giờ trở lại quê nhà, thăm gặp lại anh em sau bốn mươi năm xacách, kể từ đầu năm 1946, tôi rời gia đình lên Đệ tam chiến khu của VNQDĐ. Vào tù CS, cũngtưởng không có ngày về, nhưng rồi lại trở về Sài Gòn. Các anh em thân thiết sau 30/4/1975 ditản qua Hoa Kỳ, thì cũng có bao giờ mong ngày tái ngộ, thế rồi cuối năm 1991, chúng tôi lại gặpnhau trên đất Hoa Kỳ, như thuở nào trên đất Côn Minh. Do đó, tôi nghĩ lại có ngày trở về SàiGòn khi hết chề độ cộng sản như mọi sự thể đã diễn ra trong cuộc đời tôi.Khi đơn vị của tôi vừa tới địa điểm dừng quân, là chúng tôi được tin quân đội của Lư Hán đãđảo chính, dành quyền chỉ huy toàn bộ Thành phố Côn Minh. Các đơn vị thuộc Chính quyềnTrung Ương Trung Hoa Quốc Dân Đảng rút ra khỏi Thành phố và sau đó một số ít thuộc thànhphần chủ chốt đã được không vận sang đảo Hải Nam, rồi kế tiếp là Đài Loan. Các đơn vị còn lạirút xuống Khai Viễn rồi chạy qua VN, ở cửa khẩu Hồ Kiều, vào khu vực chiếm đóng của quânđội Pháp. Nghe đâu các đơn vị này được Pháp tập trung về Cam Ranh (VN) rồi sau đó được chởbằng đường thủy đến Đài Loan.Anh Tạo và tôi, vội vã trở về Côn Minh coi tình hình biến chuyển ra sao với anh em còn lại trongThành phố. Việc đầu tiên, chúng tôi tìm tới chỗ anh Xuân Tùng, vì ở đó thường có những tin tứcmới lạ. Tới nơi, tôi vẫn thấy các anh đang làm bánh và trò chuyện như không có gì xẩy ra cả.Chúng tôi cũng cho các anh hay là chúng tôi mới từ Đại Lý trở về.

 Anh Xuân Tùng cho hay làtính hình không thuận lợi, nhưng đợi một thời gian sẽ tính. Anh cũng cho hay là một số đã bỏ vềphía Nam để chuẩn bị về VN nếu cần. Tin tức cũng cho biết VMCS đang hoạt động trong bí mậtđã bắt đầu hoạt động công khai, kiểm tra sự lui tới của anh em VNQDĐ giữa Côn Minh và KhaiViễn. Tuy nhiên chúng vẫn còn e ngại không rõ Lư Hán có thực tâm ngả theo CS hay không?Trong khi quân đội Lư Hán đảo chính Chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng, thìquân đội Trung Cộng đã vượt qua sông Dương Tử, ào ạt tiến xuống miền Nam. Chính quyền LưHán hy vọng Trung Cộng sẽ dành cho quyền tự trị như thuở còn Tướng Long Vân. Khi chúng tôitrở lại Côn Minh, thì quân của Mao đã tới ranh giới phân chia hai Tỉnh Quảng Tây và Quý Châu.Sở dĩ Tướng Lư Hán đảo chính Tưởng giới Thạch để hy vọng được Trung Cộng để tâm nâng đỡ,nhưng hắn đã sai lầm lớn. Khi chúng tôi tới Quế Dương (Thủ phủ của Quý Châu) đọc báo mớihay là Lư Hán được Trung Cộng dành cho chức vị Phó Chủ Tịch Tỉnh Vân Nam. Không biết sauđó cuộc đời của tên phản phúc Lư Hán ra sao?Trong khi chờ đợi tình hình diễn biến để quyết định ra đi, anh Tạo và tôi mở cửa hàng cắt tócngay ở ngoài cổng thành Côn Minh. Làm được vài ngày, chúng tôi xin được chân cắt tóc chomột đơn vị đóng ở trên cổng thành. Thành phố Côn Minh gồm có nội thành và ngoại thành, ngăncách bởi một bức tường bao quanh. Các bức tường dày khoảng mười thước và cao chừng bẩythước và có bốn cửa ở bốn hướng. Ở ngoài bức tường là giao thông hào rộng và sâu. Thành nộiHuế của VN là hình ảnh thu nhỏ đối với thành Côn Minh.Trên mỗi cổng thành là một tòa nhà rộng lớn có mái cong như tranh vẽ trong truyện kiếm hiệpTrung Hoa, có thể chứa được hàng trăm người. Cổng ra vào như một đường hầm. Trong Thànhlà trung tâm của thành phố, gồm các phố phường buôn bán nhộn nhịp, các cơ quan làm việc củaChính quyền. 

BTL của Lư Hán đóng trên một ngọn đồi, ở đó có thể quan sát được toàn bộ Thànhphố. Ở trong Thành còn có một tháp cao chừng ba, bốn chục thước. Trên đỉnh được gắn một congà bằng đồng, do đó được gọi là tháp Gà Đồng.Dân trong vùng truyền tụng là ngôi tháp đó do Khổng Minh cho xây dựng lên để yểm MạnhHoạch ở trong đó. Họ cũng đồn thêm là cấm dân chúng được đánh trống canh năm, nếu khôngtuân theo, thì Mạnh Hoạch sẽ thoát ra được và Côn Minh sẽ bị nước hồ Tây Sơn (Sí Sán) dânglên nhận chìm. Thứ hai là chùa Sư Khô (không phải cô), trong đó có liệm xác một vị sư tăng viêntịch vào trong một hòm kính suốt năm này sang năm khác mà không bị hư. Thứ ba là nhà BảoTàng trong đó có một bộ áo giáp bằng đồng. Người xử dụng nó phải là một võ tướng có thânhình to lớn khác thường. Tôi phỏng định bộ áo giáp phải cân nặng mấy chục ký là ít. Ở ngoàiThành về phía tây có hồ "Sí Sán" ,"Tây Sơn" lớn gấp bốn hồ Tây ở Hà Nội. Ở trong hồ còn cóvài hòn núi nhô lên khỏi mặt nước, ở trên được xây dựng một ngôi chùa nho nhỏ ẩn hiện trongcây xanh cổ thụ. Cảnh đẹp như một bức tranh thủy mạc, nhất là vào những đêm có ánh trăng.Ngoài những cảnh đẹp và hình tượng xây dựng lâu đời, thủ phủ Côn Minh còn là một nơi có khíhậu, thời tiết rất ôn hòa, không nóng mà cũng không lạnh lắm. Năm nào lạnh lắm thì mới cótuyết, còn vào mùa Đông chỉ có đóng băng ở các sông rạch độ vài ba mi-li-mét là nhiều lắm. Dođó, khí hậu mát mẻ nên trồng rau và cây trái rất tốt. Rau, củ, trái cây đều to và ngọt. Đặc biệt làcó trái lê, ngoài vỏ xanh lè, nhưng ở trong ruột mầu café sữa ăn thật dòn, ngọt và thơm. Các tráilựu cũng vậy, hạt rất lớn và ngọt. Cũng nhờ khí hậu, hoa quả rẻ, mà chúng tôi ai cũng lên ký, dù ăn uống chẳng có gì là bổ. Bệnh sốt rét rừng cũng biến mất trong chúng tôi mà chẳng cần đếnmột viên thuốc. Trong cuộc đời đi đây, đi đó cũng nhiều nhưng tôi chưa thấy nơi nào lý tưởngnhư Côn Minh.Cũng như ở Sư Đoàn 125, chúng tôi cũng được bố trí một phòng nhỏ để hớt tóc. Ngoài việc cắttóc cho đơn vị đóng trên cổng Thành, chúng tôi còn phải đi hớt cho các thành phần đóng rải rácở gần đó. Chúng tôi cùng ăn với binh sĩ và lãnh tiền công theo đầu người hớt được hàng ngày.Đơn vị cũng trả bằng tiền hoa xòe. Để dự trù cho kế hoạch ra đi, chúng tôi làm bất kể giờ giấc đểkiếm cho được nhiều tiền. Có hôm, chúng tôi phải nhờ binh sĩ đứng đợi đến phiên hớt cầm đènhộ để chúng tôi hớt tới khuya, vì hôm sau có điểm binh. Vào các giờ sau bữa cơm chiều, nếukhông có chuyện gì, thì sĩ quan, binh sĩ tập trung ở sân ca hát và nhẩy "Sôn Đố Mì" mặc dù CônMinh chưa chính thức đặt dưới quyền cai trị của CS. Như vậy là chứng tỏ ảnh hưởng của TrungCộng trong quân đội Lư Hán rất mạnh.Lư Hán có muốn chống lại cũng không sao làm nổi, nên đành nhắm mắt làm ngơ vì đã trót chốnglại Chính quyền Tưởng giới Thạch. Tôi còn nhớ là một bữa đi hớt tóc cho một đơn vị giữ an ninhcho một trại tù, tình cờ tôi đã nhận ra một số đảng viên VNQDĐ Hải ngoại bị giam trong trại,trong đó có ông Quản Mai, anh Đỗ Văn.Sau một thời gian thấy rõ thái độ của Lư Hán, cũng như mọi hoạt động của CS Trung Hoa ởthành phố Côn Minh, VMCS cấu kết với CS Trung Hoa nằm trong các đơn vị Lư Hán, bắt giamcác đảng viên VNQDĐ Hải ngoại. Đối với VMCS, thì các đảng viên VNQDĐ Hải ngoại là kẻthù số một cần phải hạ thủ trước, rồi sau đó mới tính tới VNQDĐ ở trong nước mà chúng chưanắm được. Bởi vậy, chúng tôi không còn có con đường nào khác là phải thoát khỏi Côn Minhcàng sớm càng tốt. Chúng tôi gặp lại các anh Xuân Tùng và Hoàng Tường, thì được các anhđồng thuận là con đường thoát thân là đi tới Quảng Châu rồi qua Hồng Kông. Sau khi cùngquyết định, anh Tạo và tôi có bao nhiêu tiền kiếm được bỏ ra mua vàng hết, chỉ để lại một ít đểchi tiêu dọc đường. Những ngày đó đã vào cận Tết năm Canh Dần, 1950.Trên đường rời khỏi miền Hoa Nam Trung HoaTừ Thủ phủ Côn Minh (Vân Nam) qua Quế Dương (Thủ phủ Quý Châu), Liễu Châu (TỉnhQuảng Tây), Quảng Châu (Tỉnh Quảng Đông) tới Hồng Kông (Nhượng địa Anh Quốc).Mặc dù tình hình xáo trộn, quân Trung Cộng đang có mặt tại Tỉnh kế bên, dân chúng Côn Minhvẫn chuẩn bị tổ chức ăn Tết Canh Dần (2/1950). 

Các phố xá vẫn không kém phần náo nhiệt,hàng Tết được trưng bày la liệt trong các cửa hàng cũng như chợ búa. Chúng tôi cũng mua vềchỗ ở của anh Xuân Tùng nào bánh chưng, kẹo mứt để dùng vào những ngày Tết. Nhưng cuốicùng anh Xuân Tùng đã đề nghị chúng tôi ra đi làm hai toán để dễ bề lẫn tránh và mưu sinh ởdọc đường. Mục tiêu cuối cùng của chúng tôi là Hồng Kông, và ước tính có thể mất từ nửa nămđến một năm nếu không có gì bất trắc ở dọc đường, vì chúng tôi phải vượt qua các Tỉnh QuýChâu, Quảng Tây, Quảng Đông, mà mỗi Tỉnh rộng hơn cả Bắc Việt của VN. Toán thứ nhất gồmcác anh Xuân Tùng, Hoàng Tường và Vũ Văn Phiên. Toán thứ hai có anh San, Tạo và tôi.Theo kế hoạch thì toán một lên đường vào ngày 29 Tết (15/02/1950), toán hai mồng 2 Tết CanhDần (18/02/1950). Sở dĩ chúng tôi chọn vào ngày đó là mọi người còn bận rộn về Tết.Chúng tôi ăn Tết vào ngày 28, để toán anh Xuân Tùng ra đi vào ngày 29. Các anh lên tàu ở mộtga xép kế cận để đi tới ga chót là Chim Bích, sau đó xuống tàu, hoặc đi bộ, hoặc đi xe tùy tìnhhình cho phép.Chúng tôi thay vì đưa tiễn, để tránh mọi sự dòm ngó của mọi người, nhất là người VN, giả dạngrủ nhau đi dạo phố phường coi thiên hạ sắm Tết, và mua một vài thứ cần dùng cho đi đường rồichia tay.Một năm cũ trôi qua, một mùa Xuân mới trở lại. Ngày mồng một Tết năm Canh Dần(17/02/1950), chúng tôi đi dự lễ Tết đồng bào do VMCS tổ chức, làm như không có việc gì xẩyra cả. Buổi lễ rất đông, phần lớn là các kiều bào đã làm ăn sinh sống lâu năm ở Côn Minh. Tôinhận thấy có một số anh em Việt Quốc tham dự. Trong căn phòng rộng, cờ đỏ sao vàng đượctreo đầy ở hai bên hành lang. Trên tường, phía sau bục diễn đàn là ba bức chân dung lớn của balãnh tụ CS Trung Hoa, Liên Sô và Việt Nam: Mao trạch Đông, Staline và Hồ chí Minh. Diễn tiếncủa buổi lễ cũng vẫn là những bài diễn văn chúc Tết và ca tụng các lãnh tụ Cộng Sản. Hôm đótrong phần phát biểu, có một đảng viên VNQDĐ lên diễn đàn. Trước khi ngỏ lời, anh đã cúi đầuchào các lãnh tụ, nhưng vì qua thái độ quá khiêm tốn nên trở thành châm biếm khiến một sốngười không nhịn được cười ồ.

 Hành động đó làm các tên cán bộ VMCS tức tối ra mặt.Tôi không hiểu anh đảng viên VNQDĐ do thiệt tình hay cố ý làm ra như vậy để ngầm chế diễu,mọi người nghĩ rằng anh cố ý chế diễu. Theo tôi được biết thì sau buổi họp đó, anh đã bị VMCSbắt đi giam. Dĩ nhiên sẽ lãnh đủ đòn thù của CS. Ngày mồng một Tết trôi đi trong an lành. Tốihôm đó, ngồi sưởi bên lò than hồng, tính chuyện cho ngày hôm sau, anh Cung thành San, trongkhi đang lo sấy chiếc áo khoác bị ướt, đã vô ý đánh rớt vào ngọn lửa, làm cháy sém mất một vaiáo. Chúng tôi cho đó là một điềm không tốt trước khi lên đường, rồi bèn mang tuổi ra coi bói.Anh Tạo và tôi sinh năm Thìn, mang con Rồng, mà Rồng đối với năm Canh Dần (con cọp) thìchẳng ăn thua gì. Một con ở trên trời, một con ở dưới đất. Riêng anh San sinh năm Mùi, mạngcon Dê, tôi đùa anh là tiêu rồi, vì dê mà gặp cọp thì hết đường đường chạy rồi. Thấy vậy, anhSan chỉ cười, không nói gì. Nhưng không ngờ, chỉ đoán chơi cho vui ngày đầu Xuân lại trở thànhsự thật, vì anh San đã bị thổ phỉ bắn chết trên lộ trình đi.Sáng mồng hai Tết, sau khi ăn bận thật đàng hoàng, như đi thăm chúc Tết người thân, chúng tôirời bỏ căn nhà đã để lại bao kỷ niệm của những ngày sống lưu vong ở Côn Minh. Không nhưtoán trước của anh Xuân Tùng, lên đường phải tới nhà ga nhỏ để tránh tai mắt của CS, chúng tôitới thẳng nhà ga Côn Minh. Vào những ngày Tết, nhà ga không kém phần nhộn nhịp, kẻ xuôi,người ngược rất tấp nập, chen chúc nhau mua vé. Cái may mắn là hai đoàn tàu xuôi ngược lạikhởi hành gần như một lúc. Tại sân ga có nhiều người Việt, tôi đoán chừng trong đó có cán bộVMCS. Để tránh nghi ngờ, ai hỏi, chúng tôi cũng nói là đi Khai Viễn ăn Tết. Để sẵn sàng đápsang đoàn tàu chạy ngược đi Chim Bích, trên lộ trình đi sang Quí Châu, chúng tôi ngồi sẵn trêntàu đi Khai Viễn. Nhưng khi đoàn tàu chạy ngược chuyển bánh thì chúng tôi nhẩy sang, vì haiđoàn tàu đỗ cạnh nhau. 

Mọi sự đều diễn ra êm đẹp như mong muốn.Đoàn tàu chạy qua những bản, làng, đồi núi trong ngày đầu Xuân lạnh giá, mưa lất phất bay. Haibên đường, những hàng cây hoa đào đỏ thắm như đón chào một năm mới tốt đẹp cho mọi người.Trước cảnh đẹp, tôi cảm thấy hứng khởi, ca sẻ bản nhạc "Lên đường" của Nhạc sĩ Hoàng Giác,là "năm năm theo tiếng gọi lên đường.....". Đường đi quả là dài, đòi hỏi nhiều phấn đấu, quyếttâm và cũng nhờ may mắn nữa. Tàu càng ngược lên phía Bắc, thì trời càng lạnh và gió thổimạnh. Khoảng năm giờ chiều thì đoàn tàu từ từ tiến vào sân ga Chim Bích, là ga cuối cùng của con đường hỏa xa Hà Nội-Côn Minh do Thực dân Pháp xây dựng mấy chục năm về trước. Nhàga vắng lặng, lèo tèo vài ba người, có lẽ chỉ có mấy chúng tôi là khách cuối cùng. Ra khỏi nhà galà một dãy phố, nhà cửa đóng im lìm, vì là ngày Tết. Riêng chỉ có một vài cửa hàng ăn là mởcửa, có lẽ để tiếp khách phương xa lỡ đường. Trời lạnh buốt căm căm, mưa bụi bay trong gió lạicàng tăng thêm vẻ lạnh lẽo của một buổi chiều mùa Đông.Chúng tôi vào đại một cửa hàng ăn để tránh mọi dòm ngó của thiên hạ. Chúng tôi đặt cơm chiềuvà xin ông chủ hàng cho tạm trú trong đêm. Sau đó, chúng tôi tới gần đầu phố vì khi đi ra khỏinhà ga, tôi đã nhìn thấy hai chiếc xe tải lớn đang đậu ở lề đường. May mắn là khi gặp người chủxe thì họ bằng lòng cho chúng tôi đi quá giang với điều kiện mỗi người phải đóng hai đồng bạchoa xòe để được chở tới Huyện Bình Dĩ, nằm trong ranh giới Tỉnh Quý Châu. Chúng tôi đồng ýngay mà không cần mặc cả, vì lúc đó chúng tôi chỉ muốn thoát khỏi lãnh thổ Tỉnh Vân Namcàng sớm càng tốt. Chúng tôi nộp tiền trước và cho họ biết là chúng tôi ăn ngủ ở cửa hàng ăn,đểsáng hôm sau có gì họ kêu.Yên trí trở về hàng ăn, chúng tôi đã dùng một bữa cơm thật ngon lànhvà đi ngủ sớm để sáng hôm sau tiếp tục lên đường.Cả ngày ngồi trên tàu mệt mõi hay sao mà chúng tôi ai cũng đều ngủ say như chết. Sáng hômsau, choàng tỉnh dậy thì trời đã sáng tỏ, mà cũng chẳng thấy người chủ xe kêu gọi gì cả. Chúngtôi vội vàng thu xếp hành lý rồi chạy lại chỗ đậu xe, thì ôi thôi, chiếc xe đã đi mất dạng. Vừa tứccho mình, vừa giận tên chủ xe xảo trá. Chúng tôi chỉ còn nước đi bộ, nhưng oái ăm thay là mấybữa nay thời tiết quá xấu. Trời lạnh buốt và ẩm thấp, sương mù.Quay về nhà trọ, chúng tôi hỏi thăm ông chủ nhà về phương tiện di chuyển, thì được ông giớithiệu tới một chủ nhà có xe ngựa cho thuê. Sau khi ngã giá, mỗi người trả một đồng hoa xoè,chúng tôi chuẩn bị lên đường.Chiếc xe ngựa không có mui, phía trước có một chiếc ghế dài cho người xà ích (người cươngngựa) và người phụ giúp ngồi, còn đàng sau cũng có một chiếc ghế cho khách. Lúc đầu tôi thấyngười con trai ông chủ tính đi cùng, nhưng sau đổi ý để ông già đánh xe. Trước khi đi, chúng tôimua ít pháo đùng để ngụy trang thay súng nếu cần. Anh Tạo mặc bộ áo xường xám cho vẻ ngườiTàu, anh San lận con dao găm. Khi thấy người con trai của ông già định đi, chúng tôi đã e ngại ởdọc đường hắn có thể làm bậy. Anh San thấy vậy đã trấn an là anh đủ sức thanh toán tên đó nếucần. Anh San khi còn hoạt động ở trong VNQDĐ chuyên trách tổ ám sát.Theo dân chúng đồn đại thì Tỉnh Quý Châu, thổ phỉ hoạt động gần như công khai. Chúng có thểgiết người lấy một vài cắc bạc còn hơn là lên núi kiếm củi, thành thử bọn tôi xử dụng xe ngựa điđường quả là liều mạng, nhất là trong những ngày đầu năm, thời tiết xấu ít ai qua lại để can hiệp.Sau cùng chiếc xe ngựa cũng lăn bánh. Anh San ngồi cạnh ông già cầm cương ngựa. Anh Tạo vàtôi ngồi phía sau. Để chống lạnh và sương gió, chúng tôi lấy mền chùm kín người, chỉ để hai conmắt trông chừng hai bên đường. Con đường từ ga Chim Bích đến Quế Dương, Thủ phủ của QuýChâu không đến nỗi tồi lắm. Tỉnh Quý Châu là một Tỉnh mà đồi núi chiếm đến ba phần tư đấtđai, nên con lộ được xây băng qua các đồi núi chập chùng, người thưa, nhà ít nên rất vắng vẻ.Tỉnh Quý Châu được coi như là tỉnh nghèo nhất của miền Hoa Nam. Cũng vì nhờ địa thế hiểmtrở nên thổ phỉ dễ bề hoạt động, quân lính Chính quyền chỉ còn nhắm mắt làm ngơ.Chiếc xe ngựa chậm chạp lăn bánh dưới bầu trời u ám, lạnh giá. Huyện Bình Dĩ thì còn xa,đường thì dài, nên trước cảnh ông già chậm rãi cho ngựa đi từng bước, anh San đã nói ông giàngồi sang bên để anh cầm cương. 

Từ đó con ngựa lồng lên và cỗ xe chạy phăng phăng. Hai bênđường, sương phủ lên nền cỏ trắng xóa như tuyết rơi, các giây điện đứt ra từng đoạn làm gián đoạn mọi liên lạc giữa Côn Minh và Quế Dương, khiến chúng tôi càng yên tâm hơn trên bướcđường chạy chốn.Quân tiền phong của Trung Cộng đã có mặt tại Quý Châu và trong lãnh thổ Vân Nam. Phải nóirằng cảnh tượng lúc đó quả là đẹp. Một cỗ xe, một con ngựa, trên là ba chàng thanh niên và mộtông già, trên con đường núi quanh co, vắng vẻ, sương rơi phủ đầy trời. Cũng chỉ vì thời tiết lạnhgiá, và lại vào ngày đầu năm, nên vắng bóng thổ phỉ suốt đoạn đường đi. Trời về mùa Đông, nênbóng tối cũng xuống rất nhanh. Năm giờ chiều mà như tám, chín giờ tối. Ngựa đã thấm mệt, nêncỗ xe giảm dần tốc độ. Chúng tôi đã thấy một vài ánh đèn le lói sau các rặng cây bên đồi. Hỏiông già thì cứ lặng câm không nói, nhiều lúc bực tức quá, chúng tôi muốn cho ông già xuốngsuối. Ánh đèn lúc ẩn, lúc hiện.Con đường cứ vòng vèo theo chữ chi, có lúc tưởng đã tới đích, rồi ánh đèn lại mất hút trong đêmtối mịt mù. Cuối cùng thì chúng tôi tới đích. Đường vào Huyện, ánh đèn sáng tỏ từ một cửa hàngăn, phía trước có một đoàn xe đậu bên đường chừng năm,sáu chiếc. Để tránh lộ hình tích, chúngtôi ngừng xe ở khoảng tối, trả tiền nốt cho ông già, rồi dạo bước dấu mình trong bóng tối hàngcây bên đường tới dãy hàng ăn ở đầu Huyện.Trời tối lại lạnh, nên không ai phát hiện sự lui tới của chúng tôi. Tới cửa hàng ăn, tôi nhận rachiếc xe mà tôi định tháp tùng vào buổi sáng sớm. Người chủ xe thấy chúng tôi bước vào hiệu,trố mắt nhìn sững, tưởng chúng tôi mới ở trên trời rơi xuống. Hắn hỏi chúng tôi tới bằng gì, thìđược trả lời là đi bộ, vì tức hắn không gọi khi đã lấy tiền trước. Chúng tôi bèn đòi tiền lại và thuêbuồng nghỉ tạm một đêm rồi tính sau để tránh sự kiểm xoát của chính quyền địa phương, nên ănuống xong, chúng tôi vào phòng nghỉ ngay. Sáng ra liên lạc với chủ xe thì họ cho biết chưa thể điđược vì đợi đường tan tuyết.Trong khi chờ đợi không làm gì, chúng tôi đi dạo phố phường để xem các anh thuộc toán trướccó mặt ở đó không, vì theo chỗ chúng tôi đoán thì với thời tiết và phương tiện nghèo nàn, thì cácanh ấy không thể nào đi quá Huyện Bình Dĩ, nơi mà chúng tôi đang dừng chân. 

Đi loanh quanhmột hồi không thấy gì, chúng tôi trở lại nhà trọ, thì ngay lúc sắp sửa bước vào nhà, thì bỗngnhiên một tiếng ho đằng hắng khác thường ở trên lầu tòa nhà bên cạnh, khiến chúng tôi ngờ ngợngững mặt lên coi. Một bất ngờ không mong đợi, là trên lan can, anh Hoàng Tường đứng dơ tayvà làm hiệu im lặng. Thật là vui mừng, vì những tưởng khó mà có thể gặp nhau lại, khi còn trênđất Trung Cộng.Với sáu anh em, trên đường bôn tẩu quả là khó khăn lẫn tránh, khó tìm phương tiện và làm ăn,nhưng ngược lại với số đông thì mọi sự giúp đỡ, tương trợ dễ dàng hơn, nhất là về mặt tinh thầnvà tâm lý. Bởi vậy mọi tính toán là một chuyện, mà thực tế xẩy ra lại là một chuyện khác, nhất làsau khi rời Bình Dĩ, mọi chuyện đã xẩy ra ngoài sự ước đoán. Ngày gặp lại nhau đã là mồng bốnTết Kỷ Sửu (21/02/1950). Theo chủ xe thì họ dự trù lên đường vào ngày mồng sáu. Thế là chúngtôi có ba ngày nghỉ ngơi ngoài sự mong muốn, vì lẽ chúng tôi chỉ muốn tranh thủ thời gian, càngsớm thoát ra khỏi vòng kiểm soát của Trung Cộng càng tốt bấy nhiêu, hơn nữa lộ trình còn quádài. Tuy nhiên với Tỉnh Quý châu thì chúng tôi cũng đỡ lo, vì không có người VN sinh sống làmăn, nếu có thì chỉ ở Thủ phủ Liễu Châu và Tỉnh Nam Ninh thuộc Tỉnh Quảng Tây cũng nhưQuảng Châu của Tỉnh Quảng Đông.Vào buổi chiều cùng ngày, chúng tôi lên trên phòng gặp các anh trò truyện và mới biết mọi việcxẩy ra trên đoạn đường đi của toán thứ nhất. Cũng như chúng tôi, con tàu chuyên trở các anh đãngừng lại ở ga cuối cùng. Các anh tính ngủ lại qua đêm trên tàu, vì trời đã về chiều, lại là ngày cuối năm, khó mà tìm ra chỗ ngủ đêm. Nhưng rồi cũng phải ra khỏi ga, vì có một số lính TrungCộng đang ăn nằm ở đó.Ra khỏi nhà ga, các anh dạo bộ đi khỏi dãy phố, vì sợ lộ không dám vào nhà trọ, và đi chừngmấy cây số thì các anh tới một xóm nhà gần bên đường. Trời lạnh, màn đêm sắp buông xuống,các anh đánh liều vào gõ cửa một ngôi nhà tương đối khá giả hơn để xin tá túc, và kết quả đượcông chủ nhà chấp thận. Các anh được dành cho một gác xép trong vài ngày Tết. Nhờ sự cắt tóccho gia chủ nên được đối đãi ân cần, ngoài ra còn húi ủng hộ cho một cán bộ CS trong một toánquân đang dừng chân trong khu vực. 

Do đó, ông này đã giúp đỡ lại bằng cách chặn chiếc xe đòmà chúng tôi đã đóng tiền ngày hôm trước, để nhờ chở đi Quế Dương. Như vậy là các anh đãtạm trú tại đó từ chiều ngày 29 đến sáng mồng 3 Tết.Sáng ngày mồng Sáu tết (không hiểu có phải xuất hành vào giờ sát chủ hay không) trời tạnh ráo,có chút ánh sáng mặt trời ló dạng, tuyết rơi trên đường đã tan dần, chúng tôi, toán nào vẫn đápchiếc xe đó. Xe tôi chạy trước, các xe đều chuyên chở muối, loại muối mỏ đánh thành cục trònnặng chừng hai mươi ký. Trên xe chỉ có một tài xế chính và một phụ, phía sau là một ghế dàingay sát mui xe, dành cho chúng tôi ngồi. Xe chở khá nặng, chạy không nhanh lắm, nhất là lúclên dốc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro