Chương 2 C

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quang cảnh trên lộ trình di chuyển thật vắng lặng, không một chiếc xe nào chạy ngược chiều, haibên đường là rừng núi, không một bóng nhà, quả là thuận lợi cho hoạt động của thổ phỉ. Khoảnghai, ba giờ chiều gì đó, trong khi chiếc xe của chúng tôi từ từ bò lên dốc cao, thì bỗng nhiên mộtloạt súng nổ cho xe ngừng lại. Anh Tạo và tôi chưa kịp phản ứng gì, thì anh San ngồi cạnh tôi ởphía trái đã lao người xuống sàn xe. Cùng lúc đó tôi nhìn thấy một tên thổ phỉ, ăn mặc binh phục,đứng trên một mô đất cao ở bên lề đường nổ súng. Sau tiếng súng, tôi vội lao theo anh San, thìthan ôi, viên đạn oan nghiệt đã bắn trúng tim anh San nằm bất động, miệng ứa đầy máu. Cũngmay là hắn chỉ nổ một phát súng, nếu không thì hai chúng tôi còn lại sẽ không thoát khỏi, một làchết, hai là bị thương. Chết thì không nói làm gì, chứ bị thương thì không biết tính sao, dĩ nhiênlà không thể tiếp tục lên đường được.Khi chiếc xe ngừng lại, thì một toán thổ phỉ ào ra, nhẩy lên xe lục lọi và lấy muối mang đi. Haichúng tôi được lệnh xuống xe và chúng lục xoát khắp người. 

Thấy không có gì, chúng lột chiếcmền mà cúng tôi đang quàng tránh rét. Hai túi đồ nghề cắt tóc, chúng tôi dấu ở dưới những cụcmuối, chúng cũng lấy đi mất. Chỉ có điều là may mắn chúng không lần kỹ quần áo mặc, nếukhông thì mấy chiếc nhẫn vàng dấu ở dưới gấu quần lót sẽ mất tiêu.Chúng tôi đã tính là chúng lột bỏ quần áo ngoài thì ít ra chúng cũng để lại bộ quần áo lót chochúng tôi mặc. Việc đánh cướp chỉ diễn ra mươi mười lăm phút, và sau đó chúng rút chạy lên núicao mất dạng.Theo dân chúng cho biết thì chúng thuộc quân Lư Hán hoặc Tưởng Giới Thạch, nên súng ốngtrang bị rất đầy đủ. Đúng là được làm Vua, thua làm giặc ở đất Trung Hoa là vậy. Ít phút sau thìxe của anh Xuân Tùng lên tới và được chúng tôi nói rõ sự việc diễn tiến. Chúng tôi đề nghị vớichủ xe để nguyên thi thể anh San ở trên xe để về Bàn Huyện cách khoảng hai, ba chục cây số gìđó, báo cáo cho Chính quyền địa phương hay. Khi đoàn xe tiếp tục chuyển bánh, thì một đoàn xechở đầy binh lính Trung Cộng từ hướng Huyện Bình Dĩ chạy tới và dừng lại.Sau khi báo cáo sự việc, thì toán quân được lệnh truy kích về hướng thổ phỉ vừa rút chạy. Tôichắc là không kết quả vì chúng đã rút chạy khá xa, vả lại rừng núi hiểm trở khó bề bao vây...Vào gần chiều tối, thì tới ngoại vi Thị trấn. Chủ xe bảo chúng tôi khiêng xác anh San xuống xe ởkế cận một bãi trống khá rộng chạy dài vào tới gần chân núi. Xem ra thì là một bãi tha ma, khôngphải nghĩa địa, ai muốn chôn cất chỗ nào tùy ý, không có ai trông nom gì cả. Tuy nhiên ở giữabãi có một căn nhà nhỏ, quét vôi trắng dùng để quàn xác trong khi chờ đợi để chôn. Các anh chỉđịnh tôi ở lại trông nom xác anh San và xem có các giấy tờ gì quan trọng liên hệ đến Quốc DânĐảng Trung Hoa thì đốt hết. Khi đó chúng tôi chỉ có một thẻ kiểm tra do Chính quyền Côn Minhcấp, trên có dấu ấn hình thanh thiên bạch nhật, Quốc kỳ của Trung Hoa Quốc Gia. Còn lại, cácanh đi tiếp vào Huyện báo cáo cho quan chức địa phương rõ sự việc.Ở lại một mình, bên xác người bạn trên một bãi vắng tanh, gió lạnh thổi ào ào, xa xa tiếng hú củachó sói vang vọng mà thấy rợn cả người, mặc dù đã sống ở trong rừng núi âm u đã lâu ngày. Hơnmột tiếng sau thì các anh trở lại và cho biết là đã trình báo, và sáng hôm sau tới văn phòngHuyện để làm việc. Chúng tôi khiêng xác anh San để vào căn nhà trắng, đốt hương, nến (mua ởtrong Huyện) rồi đóng cửa thật kỹ để hầu tránh chó sói mò tới tha xác đi. sau khi mọi việc hoàntất, chúng tôi trở về nhà trọ, và ai cũng đều lo nghĩ rồi đây sự việc sẽ ra sao. Bữa cơm tối chỉ cònnăm người chẳng làm chúng tôi vui chút nào. Đường còn dài, biết còn bao nhiêu trở ngại xẩy ranữa. Thôi thì cũng phó thác cho may rủi, đến đâu hay tới đó, làm sao tính trước được.Sáng hôm sau, chúng tôi tới văn phòng Huyện vào lúc đầu giờ làm việc và được tiếp ngay. ÔngChủ tịch Huyện là một người to lớn, tương đối còn trẻ và mang tên họ Mao. Ông tiếp chúng tôirất ân cần và mở đầu câu chuyện bằng xin lỗi chúng tôi về tai nạn xẩy ra mà Huyện đã không giữtròn trách nhiệm bảo vệ an ninh cho dân.Theo lời yêu cầu của chúng tôi, ông đã vui vẻ cấp một cỗ quan tài, một toán đào huyệt và mộtthày tu hành lễ chôn cất, cùng các thứ như hương, nến...Về giấy tờ đi đường, chúng tôi khai đãbị thổ phỉ lấy đi hết cùng với quần áo tiền bạc. Các thứ sau, ông từ chối vì Chính quyền mớithành lập còn thiếu thốn. 

Riêng về giấy tờ thì ông không ngần ngại cấp ngay. Có giấy tờ hợppháp trong tay, chúng tôi quá sức vui mừng. Trên giấy cấp, tôi thấy có hàng chữ ghi "phản quốc"có nghĩa là "hồi hương". May thay là ông CS Trung Hoa chứ không phải là VMCS, mà ghi haichữ trên thì quả là hết đường. Khoảng gần trưa thì mọi việc tang lễ hoàn tất, chúng tôi cùng vớitoán đào huyệt khiêng quan tài anh San ra nơi an nghỉ cuối cùng. Chúng tôi đã để anh nằm quaymặt về hướng Nam. Anh Cung thành San mất vào lúc ba giờ chiều ngày mồng Sáu Tết Kỷ Sửu(23/02/1950), năm kỵ với tuổi của anh mà anh Tạo và tôi đã vui đùa trong khi tán dốc, khôngngờ mà lại đúng như thật. Sau này trở về nước, cứ vào ngày trên, anh Hoàng Tường và chúng tôilại tề tựu làm giỗ anh và nhắc lại chuyện xưa.Cái chết bất ngờ của anh San trên đường chạy chốn CS làm chúng tôi mất đi một chiến hữu đầynhiệt tình, năng nổ và tháo vát. Đến bây giờ và mãi mãi cái chết của anh vẫn hiện ra như in trongtâm tư tôi mỗi khi quay về dĩ vãng xa xưa của những ngày trên bước đường chiến đấu cho tổquốc đầy gian truân. Cái chết của anh thật là xui mà cũng thật là may, vì nhờ đó mà chúng tôi cóđược giấy tờ hợp lệ, không còn lo âu những lúc đi đường nữa.Trên giấy phép trở về nước, còn có sự kêu gọi mọi sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, nênmọi nơi mà chúng tôi đi qua hầu được giúp đỡ. Tôi không hiểu có duy tâm hay không, chứ từ lúcanh San mất đi, chúng tôi luôn gặp may và thời gian trù liệu hàng năm mới tới được Hồng Kông, thì ngược lại thì chỉ trong vòng chưa đầy ba tháng, chúng tôi đã tới đích một cách êm xuôi.Sau khi chôn cất anh San đâu vào đó, chúng tôi tiếp tục chuẩn bị cho ngày lên đường. Từ BànHuyện tới Quế Dương, Thủ phủ của Tỉnh Quý Châu, đường xa khoảng 500 cây số. Do đó, chúng tôi phải tính tới phải bán một ít vật dụng để có thêm tiền mua vé xe nếu cần, hoặc sắm thêm bộđồ cắt tóc. Anh Xuân Tùng hy sinh chiếc bút máy Parker, anh Hoàng Tường cái đồng hồ Omega.Nhưng vấn đề phát mại là ở đâu. 

Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm ra kết luận là tìm tới ngôi nhà Thờ do người ngoại quốc trụ trì, vìchúng tôi nghĩ là ở đó sẽ có nhiều tin tức có lợi cho kế hoạch lên đường và may ra họ có thể muamấy thứ có giá trị mà chỉ riêng họ mới biết. Qua dò hỏi dân chúng, chúng tôi đã tìm tới đượcngôi nhà Thờ như mong muốn. Nhà Thờ này thuộc Thiên chúa giáo. Khi gặp mặt, ông Cha làmột người Bỉ, cỡ trung niên, thái độ trầm ngâm ít nói. Phải chăng còn nghi kỵ chúng tôi khôngbiết thuộc thành phần nào, cộng sản Việt Nam, dân thường hay người Việt Nam Quốc Gia.Trong khi tiếp súc, chúng tôi vẫn giữ kín xuất xứ. Do đó, ông Cha chỉ nói chuyện một cáchchung chung không đả động gì đến chính trị cả. Chúng tôi dùng tiếng Pháp để trao đổi chuyệntrò. Cuối cùng ông đồng ý mua hai thứ chúng tôi bán, nhưng viết giấy chứng nhận để chúng tôitới Quế Dương thì lại nhà Thờ ở đó lấy tiền.Còn về tình hình đường đi nước bước, ông chỉ cho chúng tôi trên bản đồ và lưu ý đường xá nguyhiểm, không an ninh. Như vậy là cuộc gặp gỡ, nói chung có phần thuận lợi. Sau này khi rời khỏiQuế Dương cũng như Quảng Châu, tôi mới hiểu ra là ông Cha người Bỉ ở Bàn Huyện, thay vì trảtiền mặt ngay, ông ta lại viết giấy nợ, là có ý chỉ dường khéo cho chúng tôi liên lạc với nhà Thờở Quế Dương. Đó là một đường giây có tính cách chính trị để giúp đỡ, yểm trợ cho những phầntử Quốc Gia còn bị kẹt trong vùng CS kiểm xoát trốn thoát ra vùng Tự Do.Mọi thứ chuẩn bị xong, chúng tôi tìm tới hãng xe đò để hỏi tin tức về ngày đi, và được họ chobiết là chưa tính vì tình hình an ninh lộ trình chưa bảo đảm, và chỉ khi nào Huyện thông báo chođoàn xe hộ tống mới được di chuyển.Thế là chúng tôi phải ở nán lại ít hôm để chờ đợi. Được haingày thì vào buổi sáng, một đoàn quân Trung Cộng từ hướng Huyện Bình Dỉ đổ tới. Hỏi ra thìđược biết, đoàn quân đó sau khi tới vùng ngoại vi thành phố Côn Minh, thì được lệnh trở lạimiền Bắc.

 Đơn vị này thuộc lực lượng của Tướng Lưu bá Thừa, Chỉ huy Đệ tứ Dã chiến quân.Thay vì di chuyển bằng xe thì họ đã đi bộ, có lẽ vì thiếu phương tiện. Do đó, họ lại tiếp tục đi tớiQuế Dương. Thấy vậy, chúng tôi hội ý, và cùng quyết định đi bộ theo họ, vì ở lại rất tốn kém.Lúc đó, trừ hai anh Xuân Tùng và Hoàng Tường gần bốn mươi tuổi, còn ba chúng tôi mới ngoàihai mươi, nên đi bộ không thành vấn đề, nếu có lo thì chỉ lo cho hai anh có tuổi không đi bộnhiều như chúng tôi. Anh Hoàng Tường, đại diện chúng tôi đề nghị viên sĩ quan chỉ huy đoànquân cho phép chúng tôi tháp tùng.Kết quả như ý, và cứ mỗi buổi sáng lúc lờ mờ sáng là chúng tôi sẵn sàng ngồi đợi ở đầu đường.Đi được độ một, hai ngày, thì chúng tôi quen dần với đoàn quân và cả cấp chỉ huy. Viên sĩ quanchỉ huy, được biết mang chức vụ "Dình Trang" (Doanh Trưởng hay Trung Đoàn Trưởng) Theosát ông ta là một lính hầu cận có dắt theo con ngựa để ông ta xử dụng khi cần. Dĩ nhiên là khi xinphép ông ta đi cùng, chúng tôi đã xuất trình tờ giấy phép, và vì thế, ông ta đối xử với chúng tôinhư một người yêu nước chân chính là đã trở về VN với Hồ chí Minh. Kế hoạch đi đường củađoàn quân là tùy theo từng chặng có Bản, Xóm, Thị trấn mà ngừng nghỉ. Do đó, có ngày đi từmờ sáng đến chiều tối mới dừng quân, và có hôm ba, bốn giờ chiều đã nghỉ. Hàng ngày ở các địađiểm ấn định nghỉ đêm, chúng tôi tìm vào một cái quán dùng cơm và ngủ trọ. Thường thì sau khicơm nước xong, chúng tôi nhờ chủ quán nắm cho năm phần cơm để ăn vào trưa ngày hôm sau.Lộ trình đi, lúc thì trên đường cái lớn, lúc thì theo con đường nhỏ gọi là "xéo lủ".Theo "xéo lủ" thí phải leo đồi núi nhiều, nhưng được cái lợi là rút ngắn khoảng đường dài . Cóngày tôi thấy sau khi leo dốc, xuống dốc không ngừng nghỉ, rồi bắt qua đường cái, nhìn cây sốchỉ đường thấy rút ngắn được đến mươi mười lăm cây số. Đi như vậy, dĩ nhiên là mệt và mỏicẳng. Có lần tôi thấy cảnh đẹp quá, kêu hai anh Xuân Tùng và Hoàng Tường quay lại coi, thì haianh đã bực mình kêu lên là: mệt bỏ mẹ, coi với ngó gì.Quay đầu lại là cả một vấn đề khi tư thế khom mình leo dốc. Đi cùng với đoàn quân, tôi mới rútra kinh nghiệm là trước kia thấy lính Lư Hán quấn xà cạp trên dưới như ống tre, bèn cho là Tàuphù. Nhưng hiểu ra thì họ có lý vì quấn xà cạp nhiều như vậy và trên dưới như nhau, thì mới đibộ được nhiều vì máu không có dồn nhiều xuống chân, hơn nữa mỗi khi tới quán trọ, trước khiăn cơm, nhà hàng cho mỗi người một thùng nước nóng để ngâm chân, thành ra sau một đêm ngơinghỉ, sáng hôm sau ra, tôi cảm thấy như bình thường. Kết quả sau chín ngày liên tiếp, chúng tôiđã vượt qua quãng dường dài gần 500 cây số từ Bàn Huyện đền Quế Dương, mà không ai bị đauốm gì cả.Khi tới Thành phố, chúng tôi xin phép viên sĩ quan chỉ huy ở lại và cảm tạ sự giúp đỡ của ông ta.Ông Doanh Trưởng có ngỏ ý với ba tên trẻ tuổi chúng tôi là vào đơn vị của ông ta hớt tóc và đilên miền Bắc. Dĩ nhiên là chúng tôi từ chối khéo. Có lẽ ông ta nghĩ chúng tôi còn trẻ chắc khoáiđi đây, đi đó, chứ có biết đây chúng tôi chạy chốn CS dù là CSVN hay Cộng Sản Trung Hoacũng là một loại cả. Việc đầu tiên là chúng tôi đi tìm chỗ trú ngụ, dù là ngắn hạn, hay dài hạn.Địa điểm thích hợp với chung tôi lúc đó là vùng ngoại ô Thành phố, vừa dễ tìm nhà, vừa rẻ tiền.Thành phố Quế Dương tương đối khá lớn, nhưng so với Côn Minh thì không bằng, nhất là vềmặt thời tiết và khí hậu. Do Thành phố vừa mới "giải phóng" nên mọi hoạt động vẫn còn tiếpdiễn như dưới thời kỳ Tưởng Giới Thạch. Cũng vì vậy mà sự lui tới và mọi sinh hoạt của chúngtôi không bị trở ngại, dòm ngó. Sau ít giờ vừa đi tìm nhà trọ, và quan sát bốn hướng của Thànhphố, cuối cùng chúng tôi đóng đô tại cửa Tây, không xa Thành phố bao xa. Chúng tôi thuê đượcmột căn phòng, trên một gác xép không mấy rộng, nhưng cũng đủ cho năm người ăn ngủ màkhông cần giường, bàn ghế gì hết, chỉ trải chiếu lên sàn nhà là đủ. Căn gác có hai phòng, bêncạnh do một bà giáo độc thân trú ngụ. Lúc đầu còn xa lạ nhưng sau quen dần và trở nên thânmật.Có được chỗ nghỉ ngơi rồi, chúng tôi liền đi tìm ngôi nhà Thờ mà ông Cha Cố người Bỉ ở BànHuyện chỉ dẫn đến lấy tiền bán đồng hồ Omega và bút máy Paker. 

Do đó, chúng tôi có hai việc,trước là đưa giấy biên nhận lấy tiền, hai là hỏi han về tình hình đi đứng giữa Quế Dương và LiễuChâu (thuộc Tỉnh Quảng Tây) và tìm sự giúp đỡ để có thể tiếp tục lên đường. Theo tin tức sơkhởi khi đi tìm chỗ ở, thì giữa thành phố Quế Dương và Liễu Châu, tình hình an ninh vẫn cònphức tạp, do các lực lượng võ trang của Chính quyền Tưởng Giới Thạch không chịu đầu hàng,mà rút ra rừng núi tiếp tục chiến dấu và tiến hành thổ phỉ làm cứu cánh tồn tại lâu dài trong chếđộ mới.Đường thiết lộ giữa Quế Dương và Liễu Châu chưa được thiết lập nên chỉ có phương tiện duynhất là dùng xe hơi. khoảng cách giữa hai Tỉnh cũng khá xa, phải mất hai ngày, một đêm mới tớinơi. Tìm được ngôi nhà Thờ cũng không khó, vì trong thành phố chỉ duy nhất có một mà thôi.Việc gặp lúc đầu có khó khăn do nhân viên giúp việc nhà Thờ từ chối vì không có lệnh tiếp xúcvới người xa lạ. Nhưng sau một hồi giải thích, thuyết phục, người đó mới chịu vào trình cho Chasở hay. Chờ đợi khoảng năm, mười phút thì chúng tôi được phép vào gặp. Dĩ nhiên là có sự nghingại lúc đầu câu chuyện, nhưng dần dà theo sự trình bày của hai anh Xuân Tùng và Hoàng Tường, ông Cha Cố thông cảm và cởi mở hơn. Ông Cha là người Pháp đứng tuổi, khỏe mạnh vàtên là Brigier.Nói chuyện một hồi lâu, ông dẫn chúng tôi vào một căn phòng làm việc, có gắn trên tường mộtbức bản đồ miền Hoa Nam rất lớn và đầy đủ chi tiết. Ông nói qua về Thành phố, rồi sau tới đoạnđường khởi sự nơi đang ở tới Liễu Châu, cùng với những địa danh ở dọc đường và cuối cùng làtình hình an ninh lộ trình. Ông khuyến cáo chúng tôi nên đợi chờ đến khi nào thật sự hoàn toànan ninh mới đi, hoặc có hộ tống của Quân đội. Trước khi ra về, ông đã chỉ trả số tiền liệt kê trênbiên nhận bằng tiền giấy của chế độ cũ (tiền quan kim) vì chưa có đổi ra tiền mới. Về khoản yêucầu giúp đỡ của chúng tôi, thì ông ta từ chối khéo vì nhà Thờ đang trong tình trạng khó khăn, tuynhiên cũng giúp đỡ chúng tôi một tạ gạo ăn tạm qua ngày. Dĩ nhiên là có còn hơn không trongkhi đang thiếu thốn. Khi cáo từ ra về, ông Cha Cố không quên hỏi thăm về địa điểm chúng tôi ở. 

Sau khi hiểu rõ về tình hình chung, chúng tôi chuẩn bị cuộc sống trong những ngày tạm trú tạiQuế Dương, mà không biết thời gian chờ đợi là bao lâu. Việc đầu tiên là mua thêm một bộ đồ cắttóc thay cho hai bộ đã bị thổ phỉ lấy mất, hai cái ghế mây, một cái gương, một chậu rửa mặt, mộtấm đun nước, một tấm cót thay cho vải bạt làm lều. Kế tiếp là tìm một địa điểm thích hợp đểcăng bạt, lập tiệm. Khi mọi thứ hoàn thành đầy đủ, chúng tôi bắt tay vào việc ngay. Anh Tạo,Phiên và tôi giữ nhiệm vụ hớt tóc, anh Xuân Tùng phụ tá, anh Hoàng Tường lo nội vụ cơm nướcở nhà và đi chợ.Cuộc sống tạm bợ như vậy coi như tạm ổn. Hàng ngày, chúng tôi kiếm được đủ tiền ăn, tiền nhàvà để dư được một chút để chuẩn bị cho những ngày ra đi về sau. Chúng tôi làm việc từ tám giờsáng cho đến năm, sáu giờ chiều mới nghỉ. Buổi cơm chưa, anh Hoàng Tường nấu mang ra tậnchỗ. Buổi tối, anh em xum họp,bàn mọi chuyện, cũng quên đi thời gian chờ đợi. Rồi tới mộthôm, sau nửa tháng hành nghề, hai anh Xuân Tùng và Hoàng Tường nhân đi phố thực hiện mộtvài thứ cần dùng, thì bất ngờ hai anh bị toán ba anh Việt, Chân, Văn (Văn sến) bắt gặp.Cuộc gặp gỡ bất thần làm cả hai bên vô cùng mừng rỡ, nhất là trên bước đường chạy chốn tronglòng địch (CS). Anh Việt cho biết là ba anh đã từ Côn Minh tới bằng xe đò. Cùng đi còn có bamẹ con, vợ của một ông Tướng trong quân đội của Tưởng Giới Thạch ở Côn Minh đã ra ĐàiLoan từ trước. Bà ta tên Lìn (Liên) khoảng ba, bốn mươi tuổi, có hai con, một gái mười tuổi vàmột trai sáu tuổi. Các anh mới tới được hai hôm và cũng đã thuê nhà trọ ở tạm. Các anh đã đi tìmchúng tôi ngay sau khi được ông Cha Cố cho biết tin tức là trước đó hơn nửa tháng có năm ngườitới nhà Thờ, gồm hai người đứng tuổi nói tiếng Pháp trôi chảy và biết qua Hán văn và ba ngườitrẻ tuổi. Không hiểu anh Việt có nói dóc không, anh nói là đã nhận ra ngay là hai người đứngtuổi là hai anh Xuân Tùng và Hoàng Tường, còn ba tên trẻ là chúng tôi. Khi ba anh cho ông Cốđạo biết chúng tôi cùng là một nhóm, thì ông ngỏ lời mời chúng tôi lại gặp.Theo tôi hiểu thì để tránh không muốn hỏi thẳng anh Việt là ba anh khi rời Côn Minh đã có sựliên hệ giấy tờ với tòa Lãnh sự Pháp nên mới có sự tiếp xúc thẳng với nhà Thờ ở Quế Dương đểcó sự giúp đỡ lúc đi dọc đường. Chúng tôi tới nhà Thờ cùng ba anh, và lần này thì ông Cố đạoBrigier đã tiếp đón chúng tôi niềm nở hơn. Cũng như lần trước, mọi chuyện về tình hình đượcmang ra bàn luận và cuối cùng ông ta đã giúp toán năm anh em chúng tôi năm mươi vạn quankim để mua vé xe và lộ phí chi tiêu dọc đường. Số tiền khá lớn vào lúc đó, chúng tôi phải bỏ vàobao bố mới đem đi hết một lúc. Được hưởng một số tiền lớn ngoài sức tưởng tượng, làm chúngtôi hết sức mừng rỡ. hai anh Xuân Tùng và Hoàng Tường dành riêng cho ba anh em chúng tôi một vạn để tiêu sài. Chúng tôi vào ngay một tiệm ăn sang trọng dùng một bữa cơm thịnh soạncho bõ những ngày gian nan, cực khổ.Sau khi có món tiền lớn, chúng tôi tới bến xe đặt mua vé trước đi Liễu Châu và họ cho biết chỉtrong vài ngày nữa sẽ lên đường. Yên trí trở về nhà chờ đợi ngày ra đi. Chúng tôi đóng cửa tiệmvà các bàn ghế biếu cho chủ nhà. Ngày ngày, chúng tôi rủ nhau đi dạo phố mà không còn sợ bịCông an hỏi giấy tờ.Thành phố hoàn toàn gần như không có một người VN nào làm ăn, sinh sống. Cứ cách vài ngày,chúng tôi lại ra bến xe hỏi chủ hãng, thì họ cứ khất lần. Sinh nghi, chúng tôi đi trình công an,cảnh sát, thì sau khi điều tra, thì họ cho chúng tôi biết là chủ hãng xe đã lừa gạt và chỉ trả lại cómột phần năm số tiền mua vé.Thất vọng và chán nản, chúng tôi chẳng muốn làm gì cả. Chúng tôi nhờ anh Việt tới ông Cha Cốtrình bày sự việc xẩy ra và đề nghị giúp đỡ. Kết quả không thành vì nhà Thờ cho biết không còntiền và chỉ giúp thêm một tạ gạo ăn đỡ. Không còn trông mong gì nữa, chúng tôi lại xin ông chủnhà lấy lại các thứ đã cho hôm trước để tái hành nghề. Sau ít ngày, chúng tôi đã vô tình gặp mộtngười VN cũng từ Côn Minh tới.Qua sự tiếp xúc, chúng tôi trở nên thân quen, và ông ta thường tới nhà chơi nói chuyện. Ông tatên Hồ và tự giới thiệu là người liên lạc của Hồ chí Minh. Trong mọi câu chuyện, ông ta đề nghịvới anh Xuân Tùng là sẽ làm chiếc cầu để nối lại sự đoàn kết giữa người Quốc Gia và Cộng Sảnđể tiếp tục chống Thực dân Pháp. Nghe vậy, chúng tôi cũng trả lời khéo để cho qua câu chuyện,vì đang ở trong hoàn cảnh thập phần nguy hiểm. Nhưng qua những mẩu chuyện trao đổi, thìchúng tôi đã có ý nghi hoặc hắn ta là một nhân viên của Phòng Nhì Pháp, hoặc có thể là nhânviên nhị trùng của Pháp và VMCS. Để cụ thể hóa vấn đề đó, một hôm nhân hắn sang tán chuyệnvới bà giáo ở bên cạnh, chúng tôi liền lần tìm trong chiếc áo vét của hắn mắc trên thành ghế,nhưng không thấy gì ngoài cái thiệp mời của VMCS đi dự lễ chúc Tết kiều bào.Theo riêng tôi hiểu thì hắn là một con người rất nguy hiểm, quỷ quyệt, khôn lanh rất phù hợp vớicông tác của một nhân viên tình báo. Thật tình mà nói, thì sự gặp gỡ giữa chúng tôi và anh chànghọ Hồ đã mang lại một may mắn không ngờ. Một hôm, anh ta đến cho chúng tôi hay là anh giớithiệu chúng tôi với một ông chủ xe sắp sửa di chuyển đi Liễu Châu. Khi gặp, ông chủ xe cho biếtông từ Côn Minh mới tới và trên xe có trở theo một gia đình giàu có tìm dường ra Hồng Kông.Qua trình bày, ông chủ xe chấp thuận với sự đồng ý của gia đình thuê mướn xe. Ông cũng chobiết là ông sẽ dự trù khi tới Liễu Châu, ông sẽ bán chiếc xe, rồi đi Quảng Châu và Hồng Kông.Phải nói rằng ông chủ gia đình nhà giàu thật có lòng tốt và thông cảm hoàn cảnh giống nhau nênkhông từ chối. Sau này khi ra tới Hồng Kông, chúng tôi đã gặp ông ta trên một đường phố lớn.Theo chúng tôi hiểu, thì chiếc xe đó đã ẩn dấu nhiều của cải của ông nhà giàu chạy chốn CS.Mọi việc trôi chảy êm thắm, tất cả đều mừng rất lớn và mong mỏi sẽ không có gì trở ngại vào lúccuối. Chúng tôi cũng không quên cảm ơn sự giúp đỡ của ông bạn Hồ. Chuyến đi sẽ trù liệu vàsáng ngày hôm sau, nếu đoàn xe hộ tống của quân đội không mắc công tác khác. Các chủ xe đãđược thông báo chuẩn bị sẵn sàng từ chiều hôm trước. Trở về nhà, cũng như hôm trước, chúngtôi dọn hết đồ đạc về nhà ông chủ và cho hay là sáng hôm sau chúng tôi sẽ lên đường. Trườnghợp không thấy trở về trong ngày thì mọi thứ coi như của ông chủ. Ông chủ nhà cũng là mộtngười tốt, luôn luôn chúng tôi sớm ra khỏi Quế Dương. Sáng hôm sau chúng tôi dạy rất sớm vàđi tới địa điểm ấn định.Một tiếng đồng hồ sau, ông chủ nhà gàu mới tới. Ông chủ xe cho hay là xe trong tình trạng tốt vàchờ lệnh là lên đường. Chiếc xe thuộc loại chở hàng nên rất rộng rãi cho hai gia đình, gồmkhoảng mười người. Thật là hồi hộp trong giờ phút chờ đợi đó. Về phần toán anh Việt, Chân,Văn đã không thấy tới thăm nhiều ngày, nên không hiểu chuyện đi đứng của các anh đó ra sao.Khi đó chúng tôi quan niệm, ai đi được lúc nào cứ đi, chứ không nên chờ đợi nhau, và càng ítliên hệ càng tốt trong lúc đi dọc đường.Vào lúc mười giờ sáng thì đoàn xe được sắp xếp xong và chạy vào khoảng giữa đoàn xe quânđội. Lúc đó, chúng tôi mới tin là thực sự không thay đổi. Đường sá tương đối tốt nên tốc độ dichuyển khá nhanh, bụi đường bay mịt mù, dù phải băng qua những đoạn đường rừng núi hiểmtrở. Di chuyển muộn nên đoàn xe chạy một hồi tới địa điểm nghỉ ngơi vào lúc gần tối. Gia đìnhông nhà giàu vào ngủ trọ một nhà hàng ăn khang trang, trong khi đó chúng tôi ăn ở trên xe để tiếtkiệm tiền khi tới Liễu Châu.Số chỉ vàng dự trù để trong người, chúng tôi vẫn chưa xử dụng tới, tuy nhiên nếu đổi ra tiền mặtcũng chẳng được bao nhiêu, cùng lắm là ăn được nửa tháng cho năm người. Ngày kế tiếp vì dichuyển sớm, không có trục trặc giữa đường, nên chừng ba giờ chiều đoàn xe đã tới Liễu Châu.Ông chủ xe cho chúng tôi xuống và hẹn sáng ngày hôm sau trở lại chỗ xuống xe, có gì ông ta sẽcho hay tiếp.Thành phố Liễu Châu thuộc Tỉnh Quảng Tây, thời tiết, khí hậu lúc đó nóng như ở Bắc Việt.Quang cảnh phố xá nhộn nhịp khác thường, hơn hẳn Côn Minh và Quế Dương, vì nó ở ngã bađường, từ Côn Minh tới cũng như ở Hồ Nam, Trường Sa xuống,từ Quảng Đông sang. Cũng từLiễu Châu, đường hỏa xa được thiết lập từ miền Bắc xuống và đổ về miền Biển thuộc TỉnhQuảng Đông. Chúng tôi vai đeo nải, tay mang túi đồ dùng như nồi niêu, song chảo, đi trộn vàolàn sóng người trên các đường phố đông đúc. Như ở mọi nơi khác, khi mới tới,chúng tôi đi tìmnơi trú ngụ ở ngoại vi thành phố vừa rẻ tiền lại dễ tìm. để tranh thủ thời gian, chúng tôi chia làmhai toán, các anh Tùng,Tường và Tạo một toán, anh Phiên và tôi một toán. Khi xong, hẹn tậptrung ở một nơi ấn định. Anh Phiên và tôi đi tìm tòi một hồi lâu thì tới một phố vắng, hai bênđường có trồng cây, nhà cửa xây dựng theo kiểu villa, mà trước kia có thể thuộc các chủ nhà giàucó, nhưng nay thấy vắng vẻ, vườn tược cỏ mọc um tùm.Trong số những căn nhà đó, tôi thấy có một nhà, cửa ra vào mở toang, thỉnh thoảng có người ravào, ăn mặc bình thường gần như nghèo khó. Chúng tôi thấy làm lạ, bèn rủ nhau vào xem sao,thì đó là một ngôi nhà hai tầng, màu vôi tường loang lổ, các cửa ra vào trống không , chứng tỏ lànhà vô chủ đã bỏ trốn từ lâu. Tuy nhiên các phòng đều có đầy người, đủ mọi thành phần, kẻ nằm,người ngồi, cười nói ồn ào. Đó là những kẻ thất nghiệp, không nhà, không cửa tụ tập, sau khikiếm ăn trở về. Sự hiện diện của hai chung tôi, cũng chẳng làm họ ngạc nhiên, chú ý vì cách ănmặc của chúng tôi cũng không hơn gì họ mấy. Một tên thấy chúng tôi sách cái túi nồi niêu, chănchiếu, liền chỉ cho chúng tôi lên lầu, vì ở dưới quá đông. Lên tới nơi thì quả nhiên còn có mộtphòng vắng người. Tôi và anh Phiên hội ý, là nếu không thuê được nơi ở trọ thì sẽ tạm trú ở đó ítngày rồi sẽ tính sau. Khoảng hai tiếng sau, thì toán anh Tùng trở về và không tìm được chỗ nàorẻ tiền. Hai chúng tôi bèn đùa với các anh ấy là đã thuê được một villa khang trang. Lúc đầu cácanh tưởng là chúng tôi nói dóc, khi tới cổng căn nhà, các anh vẫn còn không tin. Nhưng khi bướcvào trong nhà, thì các anh mới hiểu là chúng tôi nói thật.Trước tình hình lúc đó, trời lại sập tối, chúng tôi đồng ý ở tạm và cùng nhau dọn dẹp chỗ nằm vànấu bữa cơm chiều. Rồi một đêm cũng qua đi trong bình an, sau một ngày ngồi mỏi gối trên xe.Sáng hôm sau, các anh Tung, Tường và Tạo đến nơi hẹn với ông chủ xe. Anh Phiên và tôi ở lạitrông đồ đạc và giữ chỗ. Khi trở về, các anh cho biết là ông chủ xe, thay vì tiếp tục lên đường điQuảng Châu, thì nay ông đã đổi ý định và quay trở lại Côn Minh để đi về ngả Miến Điện. Tôinghĩ là ông ta có một nhiệm vụ bất thần gì đó mà ông ta không thể nào tiết lộ được.Khi từ biệt, ông ta đã giúp chúng tôi mấy chục Mỹ kim để dùng mua vé đi nốt đoạn đường màchúng tôi đã phác họa cho ông ta biết khi còn ở Quế Dương. Đây lại là một dịp may nữa manglại cho chúng tôi sau cái chết của anh San. Để có đủ tiền mua vé cho năm anh em chúng tôi, còncái gì đáng giá mang ra bán hết, kể cả mấy chỉ vàng mà anh Tạo và tôi còn cất dấu ở nẹp quần áolót. Riêng vàng và dollars, chúng tôi phải mất gần nửa buổi mới bán được, vì là hàng quốc cấmsau khi CS chiếm Chính quyền. Các cửa hàng vàng, bạc, nữ trang trong thành phố đều đóng cửa.Vì vậy chúng tôi phải vào cửa hàng bán tạp hóa hoặc cửa hàng ăn. Nhưng mỗi khi đề cập tới làhọ chối bây bẩy vì sợ rơi vào bẫy của công an, mật vụ CS. Cuối cùng phải thuyết phục lâu lắmmới được một chủ hàng tạp hóa bạo phổi lắm mới chịu mua.Với số tiền bán vàng và mỹ kim, chúng tôi thừa mua đủ năm vé xe lửa đi Quảng Châu, gọi là:"Khỏi xế tàu nhanh". Trong những ngày chờ đợi, chúng tôi vẫn tiếp tục ở căn nhà villa bỏ hoangcùng với mấy ông bạn bất đắc dĩ, hành nghề gồng gánh thuê "Piên tản" và thất nghiệp đi ăn xin.Ngoài giờ lo cơm nước, chúng tôi thả bộ khắp phố phường, mà chẳng hề gặp một anh công anhỏi han giấy tờ gì cả. Bất ngờ, buổi chiều trước ngày lên tàu, thì chúng tôi lại bắt gặp toán ba anhViệt, Chân, Văn vừa từ Quế Dương tới bằng xe đò. Chúng tôi cho các anh biết là đã lấy vé và lênđường ngày hôm sau. Sau đó, các anh cũng tức tốc mua vé để cùng đi với chúng tôi. Nếu chậmthì lại phải đợi mất mấy hôm nữa. Anh Việt có cho chúng tôi biết là các anh đã bị công an, cảnhsát bắt giữ một tuần vì bị khám xét trong khi đi phố không có giấy tờ hợp lệ.Ở trong trại giam của công an CS, các anh đã gặp đủ mặt Tướng, Tá của Quân đội Tưởng giớiThạch đã không kịp chạy chốn. Tuy nhiên các anh cũng được đối xử tử tế và cho ăn uống đầyđủ. Trong thời gian đó, anh Việt cho biết, anh được các ông bạn sĩ quan Tàu phong cho tước hiệuvề "Đại ca ăn khỏe".Sau một tuần điều tra không có gì nguy hại, các anh đã được trả tự do. Nói chung thì toán anhViệt ra đi có vẻ thoải mái hơn chúng tôi nhiều. Những ngày chờ đợi ở Quế Dương, anh Việt lạiđược tốt số được bà Tướng Tàu chiêu đãi đi ăn uống, du hí ở phòng trà (mới giải phóng nên chưabắt vào khuôn phép). Sau này về nước, anh vẫn nhận được thư thăm hỏi của bà và gia đình ở bênĐài Loan gửi sang.Được gặp lại toán anh Việt, và cùng đáp một chuyến tàu đã mang lại thuận lợi cho chúng tôi khitới thành phố Quảng Châu, Hồng Kông, cũng như băng qua cửa khẩu vào đất Cửu Long mộtphần của Hồng Kông. Ngày hôm sau vào lúc tảng sáng, chúng tôi rời nhà ga Liễu Châu đáp tàuđi thẳng Quảng Châu. Khoảng đường dài mất hai ngày, một đêm thì tới. Hành khách không mấyđông, nên dù lấy vé hạng ba, chúng tôi vẫn có thể nằm ngả lưng lúc tàu chạy vào ban đêm. Đibằng tàu hỏa, quả dễ chịu hơn xe hơi rất nhiều.Chúng tôi có thể ngắm cảnh hai bên đường một cách thoải mái, đặc biệt là ít sợ bị thổ phỉ ở dọcđường, vì trên tàu luôn luôn có lực lượng cảnh sát hộ tống. Vào cuối ngày đầu, con tàu củachúng tôi băng qua một cây cầu, một phần xây dựng bằng gỗ, bắt qua con sông Tương từ Hồ Nam chảy xuống khá rộng. Khi tàu chạy qua, chiếc cầu rung lên như muốn xụp đổ. Nghe đâucây cầu đó đã do quân đội Nhật bắt lại sau khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt.Quang cảnh hai bên bờ sông thật đẹp, dòng nước chảy êm đềm. Tôi còn nhớ là vào lúc chiều tà,không nhớ vì cảnh đẹp hay hóng mát, tôi đã ra ngồi ở bực cửa lên xuống của toa tàu, rồi hứng tríca hát một mình. Nhưng không ngờ trong khi ca hát, thì tôi liếc thấy một tên công an võ trang ởtoa tàu bên cạnh đang chăm chú nhìn tôi. Tôi cảm thấy ngay là có chuyện, nên vội rời chỗ vàotrong toa. Quả nhiên, tôi chưa ngồi nóng chỗ thì tên công an đi tới và hỏi giấy tờ. Tôi xuất trìnhtờ giấy phép của Chủ tịch Bàn Huyện cho y coi. Xem một lát không nói gì rồi trả lại. Sau y bắttôi moi các túi áo quần cho y khám, thấy có lọ thuốc ho, bèn bắt tôi uống thử. Tôi lấy một, haiviên nuốt một cách tỉnh bơ, không tỏ vẻ gì run sợ. Thấy vậy, y bèn bỏ đi.Qua hành động đó của tên công an hạ cấp đủ thấy rõ trong chế độ CS, mạng lưới tổ chức côngan, mật vụ được chú tâm đến chừng nào, mà tính đa nghi là mục tiêu giáo dục hàng đầu củachúng. Từ đó, chúng tôi hết sức cảnh giác trong bất cứ hành động nhỏ nhặt nào có thể gây trởngại cho chuyến đi đầy khó khăn, nguy hiểm của chúng tôi, nhất là chặng đường còn lại chẳngcòn bao xa. Con tàu đi qua Tỉnh Quảng Tây lúc chín giờ tối, và bắt đầu qua ranh giới TỉnhQuảng Đông. Trời tối nên cũng chẳng quan sát được gì. Chúng tôi chỉ còn ngã lưng vào thànhghế làm một giấc ngủ say xưa. Khi tỉnh dậy thì trời đã sáng, con tàu đang lao mình xuyên quanhững cánh đồng rộng bát ngát, các đồi núi chỉ thấy LỜ mờ hiện xa xa, không như khi còn trênđất Quảng Tây.Khí hậu cũng tương đối dễ chịu, không còn oi bức nữa, vì con tàu đang hướng về phía biển. Độchín giờ sáng thì con tàu đã ở trong vùng kế cận thành phố Quảng Châu. Quang cảnh hai bêngiống như từ Tỉnh Mỹ Tho tới Phú Lâm ngoài thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn ở miền nam VN. Haibên đường, Quốc lộ chạy song song với đường tàu hỏa là các ruộng lúa xanh rờn xen lẫn nhữngvườn cây ăn trái.Trước cảnh thanh bình đó, khiến tôi cảm thấy bồi hồi tưởng nhớ về quê hương đã mấy mùa Xuânxa cách. Khoảng mười giờ thì đoàn tàu từ từ tiến vào sân ga chính của thành phố. Quang cảnhthật là ồn ào, tấp nập, kẻ đón, người đưa. Chúng tôi thu xếp hành lý bước ra khỏi nhà ga. Nhưngvừa sắp sửa ra khỏi cửa, thì còi hụ vang lên. Chúng tôi còn đang ngơ ngác không hiểu ất giáp gì,trong khi thiên hạ xô nhau, kẻ lên xe, người chạy bộ khỏi nhà ga. Hỏi ra thì mới hiểu là còi báođộng có máy bay của Trung Hoa Quốc Gia từ Đài Loan tới ném bom. Chúng tôi đang nhớn nháctìm phương tiện, thì hai chiếc xe taxi chạy ào tới. Tên lái xe kêu chúng tôi lên xe gấp rồi đưa vềkhách sạn.Trong lúc bối rối, muốn thoát nhanh khỏi cảnh tai bay vạ gió, chúng tôi không ai bảo ai nhẩy đạilên xe cho hắn chở đi. Chạy loanh quanh qua các phố phường trong thành phố khá sầm uất, thìxe ngừng lại trước một tòa nhà cao chót vót. Tôi nhìn thấy tấm bảng ghi Khách sạn Ôi Quan. Tôirời khỏi xe mà cảm thấy quá mắc cỡ, nhưng không thể nào lui được nữa. Tôi vẫn là người phụtrách mang túi đồ đạc nấu nướng và mền chiếu. Để đỡ mắc cỡ phần nào, tôi đi xen vào chínhgiữa toán. Anh chàng tiếp viên khách sạn, ăn mặc quần áo trắng toát, cổ đeo nơ đen, đứng ởthềm cửa đón chào chúng tôi. Qua cử chỉ của hắn, tôi thấy một cái gì như có vẻ coi thường,không mặn mà lắm. Qua vài lời thăm hỏi, anh ta chỉ cho chúng tôi vào cầu thang máy để lên tầnglầu trên coi phòng.Khách sạn này cao vào khoảng mười hai tầng. Vào thời gian 1950 thì loại khách sạn như vậyđược coi như sang trọng và hiện đại nhất ở Quảng Châu. Trước khi bước vào thang máy, tôi không quên dấu túi đồ vào một góc tường, nhưng có lẽ sau đó, nhân viên khách sạn lấy liệng vàonhà kho hoặc vào thùng rác. Lên tới lầu năm thì ngừng lại, người hướng dẫn chỉ cho chúng tôihai phòng. Tổng cộng với giá cho thuê là mười hai vạn quan kim một ngày. Sau khi tắm rửa,thay quần áo, ba anh Việt, Chân, Văn thuê xe lên đường sang khu vực Tô giới công cộng "SaĐiện" xin giấy tờ ở tòa lãnh sự Anh cho nhập cảnh vào Hương Cảng. Trong khi chờ đợi, chúngtôi rời khỏi khách sạn đi xem thành phố và tìm một địa điểm thuận lợi cho việc cư trú, nếu chưarời khỏi Quảng Châu.Tôi còn nhớ ngày hôm đó là ngày mồng một tháng năm, ngày Quốc Tế Lao Động, nên khi bướcra khỏi khách sạn, là gặp ngay một toán đông, với rừng cờ đỏ búa liềm, cùng tiếng hò reo vangdội khắp phố phường. Chúng tôi hòa vào đám đông đứng coi ở hai bên đường. Để đề phòng cảnhgiác, chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Trung Hoa, hoặc tiếng Pháp khi cần. Khi điđường tôi để ý xem có người Việt, nhưng tuyệt nhiên không nhận ra một ai.Năm đó là năm 1950, nên còn rất ít người VN sang làm ăn ở đó, nếu có, chỉ là những phái đoànqua lại ít ngày rồi bỏ đi. Tại Tỉnh Quảng Tây, nhất là ở thành phố Nam Ninh, gần biên giới VN,có rất nhiều người Việt cũng như các cán binh Việt Cộng sang tập huấn trong thời kỳ chiến tranhchống thực dân Pháp. Sau hơn một tiếng đồng hồ đi tìm loanh quanh ở khu phố nghèo, không ramột căn nhà cho thuê, chúng tôi trở về khách sạn. Gần tới nơi thì gặp ngay anh Việt đang dáodác tìm kiếm chúng tôi. Anh cự nự một lát, rồi giục giã chúng tôi lên phòng thu dọn đồ đạc rồi đichỗ khác ngay. Chúng tôi ngạc nhiên hỏi lại anh thì chỉ được cho biết là tới địa điểm mới sẽ rõ.Thế là tiền thuê 12 vạn quan kim như cho không. Khi chúng tôi báo cho nhân viên phụ tráchkhách sạn, thì họ rất lấy làm ngạc nhiên, không giống nhu khi chúng tôi mới đặt chân vào kháchsạn với quần áo, hành lý chẳng ra thể thống gì cả. Có thể trong đầu họ lúc đó rất nghi ngờ vềhành vi của chúng tôi.Ra khỏi khách sạn, riêng tôi thì bỏ qua túi đồ, vì nghĩ rằng chẳng còn hợp thời nữa. Chúng tôinhảy lên xe taxi rời ngay, vì e rằng nhân viên khách sạn hồ nghi đi báo cho công an, cảnh sátbiết, thêm rắc rối. Xe chạy khoảng mươi lăm phút, thì xe chở anh Việt chạy trước dẫn đườngngừng lại ngay trước cửa một bệnh viện, tôi ngước mắt nhìn thấy tấm bảng đề "Hopital SaintPaul". Chưa hết ngạc nhiên vì sao anh Việt lại đưa chúng tôi tới bệnh viện, thì anh Việt đã dụcchúng tôi xuống xe và dẫn tới cổng bệnh viện. Một thời gian sau khi bấm chuông thì từ trongbệnh viện, một ông Cha Cố, áo chùng thâm, chậm rãi đi trên con đường nhỏ lát đá ra tới cổng,đón chúng tôi. Cánh cửa sắt được mở rộng, ông Cha Cố người Pháp vui vẻ bắt tay đón chào, saukhi được lời giới thiệu của anh Việt.Khi đó, tôi hiểu ngay ra sự việc giống như ở Quế Dương tại nhà Thờ Cha Cố Brigier, nghĩa làLãnh sự Pháp ở Quảng Châu đã thông báo cho Cha Cố ở Bệnh viện Saint Paul tiếp đón chúngtôi. Khi vào tới phòng tiếp tân, thì tôi đã thấy ở giữa phòng một bàn dài phủ khăn trắng tinh, trênbầy la liệt thức ăn. Ông Cha Cố chỉ phòng ngủ và bảo chúng tôi đi tắm rửa rồi dùng cơm. Quảthật là chu đáo khi đối xử với chúng tôi vào lúc đó, những người đã từng chiến đấu chống họ hơnmột năm trời ở Chiến Khu Phòng Thô (Tỉnh Lai Châu, VN).Chúng tôi hiểu rõ mục đích của họ, nhưng vào hoàn cảnh lúc đó, chúng tôi chấp nhận để miễnsao thoát ra khỏi vùng kiểm xoát của CS rồi sẽ tính sau. Đêm đó, phải nói là chúng tôi đã đượcăn uống no nê, nghỉ ngơi thoải mái, không còn phập phồng lo sợ như ở nhà trọ hay khách sạn ởcác Tỉnh, Thành vừa đi qua. Theo anh Việt cho hay thì anh đã tới tòa Lãnh sự Pháp và Anh ở bên Tô giới công cộng (Sa Điện) và đã được Lãnh sự Anh cấp giấy nhập cảnh chung cho 11 người(kể cả ba mẹ con bà Tướng Tàu).Ba mẹ con bà này đã mướn phòng riêng và chỉ gặp lại chúng tôi ở nhà ga xe lửa vào lúc lên tàusáng ngày hôm sau. Sáng ra, chúng tôi cùng ông Cha ăn sáng, và ông cho chúng tôi hay là khôngnên đi đâu, ông sẽ cho người ra ga mua vé, và chỉ lên tàu ít phút. Tôi còn nhớ vào khoảng 11 giờthì ông Cha cho xe chở chúng tôi rời bệnh viện. Đúng như trù liệu, chúng tôi lên tàu được mộtlát thì tàu chuyển bánh. Đây là đoạn đường tàu chót từ nhà ga Quảng Châu dẫn tới một nhà ganhỏ cách biên giới ngăn cách Tỉnh Quảng Đông Trung Hoa và lãnh thổ nhượng địa Cửu Long vàHồng Kông do người Anh quản trị.Trên tàu, chúng tôi phân tán nhỏ để tránh con mắt cú vọ của công an Trung Cộng, vì giấy xuấtcảnh không có. Tàu chạy vào khoảng hai tiếng thì tới ga chót. Ga này chỉ cách biên giới khoảngmột cây số. Những ai muốn qua Hồng Kông thì phải xếp hàng để công an và nhân viên quanthuế kiểm tra giấy tờ và hàng hóa. Do đó, chúng tôi cũng phải đứng vào hàng. Được biết thì hàngngày, số người đi ra Hồng Kông thường rất đông, có khi phải chờ đợi hàng tiếng đồng hồ mới tớiđược trạm kiểm soát. Trạm này nằm cách chiếc cầu ngăn cách hai bên lối ba, bốn chục thước.Ranh giới phân cách địa phận Trung Hoa và nhượng địa Anh bởi một con sông nhỏ, mà phía bờbên kia được dựng lên một hàng rào kẽm. Còn ở trên cầu, mỗi bên kiểm soát một nửa. Muốn vàokhu vực Anh, thì phải đi qua một cái cửa nhỏ có nhân viên cảnh sát Anh Quốc canh gác, sau khitrình giấy tờ hợp lệ. Trên đường tiến tới trạm kiểm xoát, không hiểu tôi có hành động gì làm bọncông an khả nghi không, mà bất ngờ một tên sấn tới đòi khám xét quần áo và đòi lột cả giầy tôiđang đi. Sau khi kiểm tra không có gì, hắn mới cho tôi tiếp tục đi.Thật hú vía, tôi tưởng phen này sẽ kẹt thật sự, nhưng rồi may mắn lại tới. Nhưng chưa hết, số làtoán anh Việt xếp hàng ở phía trước đã tới gần trạm kiểm soát, đợi mãi không thấy chúng tôi tới,nên nóng lòng chạy ngược lại tìm, thì cũng vừa lúc chúng tôi tới. Tại gần trạm kiểm xoát, nhìnlên trên cầu tôi thấy cảnh sát Anh trong bộ quần áo sọc trắng, đầu đội mũ kiểu thuộc địa, tay cầmdùi cui đang đánh đuổi những người Trung Hoa, hình như các công nhân, thợ thuyền muốn quaHồng Kông làm ăn, nhưng vì giấy tờ không hợp lệ nên bị đuổi về.Qua hình ảnh đó, tôi lại thấy hiện lên cái cảnh thực dân đàn áp dân lành mà không khỏi bựcmình, nhưng dầu sao chúng tôi cũng phải qua cầu. Trong khi anh Việt đang bận rộn với tên côngan gác ở đầu cầu, thì tất cả chúng tôi đã bước qua phía bên kia cầu.Khi đó mọi người ở Lục Địa ra Hồng Kông thì khó, chứ về phía Trung Hoa thì chỉ làm lấy lệ.Cảnh sát Anh hỏi giấy tờ, chúng tôi trả lời anh Việt cầm giấy tờ đang ở trạm kiểm xoát bên kiacầu. Cũng vừa lúc đó anh Việt hớt ha, hớt hả chạy tới và dục chúng tôi đi ngay tới trạm kiểmxoát của người Anh. Hỏi ra mới biết là anh bị tên công an hỏi giấy tờ, anh cho hắn xem rồi bất ý,anh dật lấy và chạy qua cầu. Tên công an vì bất ngờ nên không kịp phản ứng và bỏ qua luôn, vìcó lẽ hắn nghĩ là sang bên kia rồi cũng bị cảnh sát Anh đuổi về, chứ có biết đâu chúng tôi chỉthiếu con dấu và chữ ký của nhà chức trách địa phương Quảng Châu. Tại trạm kiểm xoát, anhViệt trình giấy nhập cảnh chung của 11 người và được nhân viên người Anh thông qua thủ tụcrất nhanh.Chúng tôi qua cổng, bước vào địa phận một xứ sở tự do vào lúc ba giờ chiều, sau ba tháng hànhtrình xuyên qua bốn Tỉnh miền Hoa Nam, lúc đi xe, lúc đi bộ, lúc đi tàu dưới sự kiểm xoát củaTrung Cộng vừa mới chiếm xong lục địa Trung Hoa vào cuối năm 1949. Việc đầu tiên là chúngtôi tới quầy đổi tiền, nằm ở trong sân ga tàu hỏa, để đổi số tiền quan kim còn lại lấy tiền HồngKông. Anh Lê Đình Việt (Lê Văn Nhân) đại diện cho nhóm mua 11 vé đi tới thành phố CửuLong (Kowloon).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro