Chương 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Gojo Satoru từ lâu đã ôm trong mình niềm hiếu kì lớn dành cho một đất nước cực Đông xa xôi mang tên Nhật Bản. Gã biết đến xứ sở này qua câu chuyện kể của các thương nhân Hà Lan, qua các vật dụng bằng sứ tinh xảo, gấm lụa, gia vị hay chỉ đơn giản là qua truyện cổ tích của Andersen. Đã từ rất lâu, những vùng đất phương Đông huyền bí đã phập phồng trong giấc mộng của người phương Tây trong hàng thế kỷ. Đặc biệt là một đảo quốc bế quan tỏa cảng, tự cô lập mình với thế giới bên ngoài, cắt đứt mọi liên lạc với thương nhân da trắng chỉ trừ người Hà Lan, hình thành trong bốn bức tường của nó một thế giới riêng đầy bí mật, một nền văn minh riêng, một dòng lịch sử riêng chảy qua trái tim của phương Đông.

Thế mà Gojo Satoru cũng chẳng khác là bao những người đồng hương da trắng của gã. Họ đến với tư cách của kẻ chinh phục. Đặt chân lên vùng đất mới, khiến cư dân xứ này nháo nhác trước sự hiện diện của tộc người tóc sáng màu cao lớn, ngắm nghía cho thỏa thuê những điều mới lạ rồi tiến hành khai thác, lợi dụng nó. Mới lạ thì sao chứ, đối với người da trắng, đó chỉ để đong đầy vốn hiểu biết về "thế giới bên ngoài" cái rốn của quả địa cầu là Âu - Mĩ, tất cả sẽ sớm muộn được quy đổi thành trị giá đồng đô la mà thôi. Ồ, lại thêm một xứ sở nữa in dấu giày của người da trắng. Lại thêm một chiến tích đầy vẻ vang tô điểm cho cái danh sách dài dằng dặc của nòi giống hùng mạnh đi khắp thế giới "khai hóa văn minh". 

"Nói chung là, tôi muốn đặc quyền cư trú của người Mĩ ở cảng mở này." Satoru sốt ruột nói với sứ giả của một chủ phiên. "Và cả quyền giao thương, buôn bán nữa. Nếu tướng quân của ông còn lưỡng lự, hãy nhắc ngài ta xem lại những điều khoản của 'Hiệp ước Thương mại Harris' năm 1858."

Viên sứ giả mím chặt môi, đáp lại bằng tiếng Anh. "Tôi sẽ tâu lại lên đức ông, thưa đại tá Gojo." Dứt lời, ông ta lẳng lặng rời đi bằng cách cúi đầu, đi lùi lại đến khi khuất hẳn. Tuyệt nhiên ông ta không hề quay lưng về phía Satoru. 

Satoru thở dài, dùng hai tay đưa chén trà xanh lên miệng. Những người Nhật Bản này lúc nào cũng kiệm lời, lặng lẽ im lìm như bóng cây, lạnh lùng hơn cả những tay quý tộc Anh tuy không ngạo mạn bằng. Đến bước chân của họ, dù mang guốc gỗ nặng trịch, cũng hầu như chẳng phát ra tiếng động, thật khác xa với người châu Âu thích nện gót giày lên nền đất để lấy uy. Gã trộm nghĩ lí do họ phải đi đứng khẽ khàng đến thế là do bản thân đeo trên mình quá nhiều phép tắc lễ giáo.

Nhưng phong vị ở đây không tồi chút nào, gã hài lòng liếc nhìn chén trà xanh. Ở xứ sở này, uống trà không chỉ đơn thuần là nghệ thuật nữa mà còn được nâng tầm thành "trà đạo". Trà là một thức uống "gây nghiện" chẳng kém gì rượu rum. Anh thậm chí sẽ chẳng buồn phản bác nếu người nào đó bảo rằng có lẽ nước Anh xâm lược tiểu lục địa Ấn Độ chỉ vì trà mà thôi. 

Còn một bức thư nữa gã phải viết cho Lãnh sự quán Hoa Kì. Viết xong bức thư này, gã sẽ tự giải phóng mình khỏi bốn bức tường và ra ngoài "phiêu lưu" một chút. Vào trong rừng nghe có vẻ là một ý tưởng không tồi.

Thị trấn cảng kể từ sự xuất hiện của các thương nhân da trắng thì trở nên nhộn nhịp hẳn. Những con thuyền Tây tối tân hiện đại đang neo đậu ngoài bờ vịnh kia như một tấm vé đảm bảo cho đặc quyền của người Mĩ trên đất cảng Nhật. Người dân không khỏi hiếu kì với những vật phẩm đến từ phương Tây như đèn chùm, đồng hồ, Âu phục, bản đồ thế giới, đồ cổ,... Lợi dụng sự tò mò thiếu hiểu biết của dân bản xứ, thương gia Tây phương buôn bán đủ thứ đồ lỉnh kỉnh cho họ, dẫn đến kết cục họ sẵn sàng trả giá cao cho đến cả cái tay nắm cửa "Tây". 

"Chào buổi sáng, các cô nương."

Thoạt đầu hai nàng maiko trẻ còn e ngại trước sự hiện diện của một người Mĩ mắt xanh tóc bạch kim, nhưng ngay sau đó nụ cười của gã đã trấn tĩnh các nàng.

"Hai nàng, thích nó ư?"

Gã ngập ngừng nói bằng vốn tiếng Nhật ít ỏi, chỉ vào chiếc mũ ren lông chim trên đầu một trong hai nàng.

"Anh ta nói được tiếng Nhật kìa." Hai maiko thì thào phấn khích. "Vâng, trang sức của phụ nữ xứ các anh trông đẹp lắm."

"Nhưng nàng đội nó sai rồi." Satoru nhếch mép, leo xuống ngựa. Chiều cao 6 feet 3 inch của gã quả là quá khổ so với hai người phụ nữ Nhật nhỏ bé. "Cho phép tôi."

Dứt lời, gã cẩn thận đưa tay xoay ngược lại chiếc mũ, chỉnh sao cho nó vừa vặn mái đầu đen nhỏ nhắn của nàng. "Tuyệt đẹp!" Gã thốt lên cảm thán bằng một tràng tiếng Anh, rồi lại chuyển sang tiếng Nhật. "Ý tôi là, subarashii, subarashii."

Hai má maiko ửng hồng dưới lớp phấn trắng. Nàng e thẹn cảm ơn, giọng nhỏ hơn hẳn so với hồi nãy. "Đa tạ."

Đến lúc phi ngựa rời đi, Satoru vẫn thấy nàng đứng trong tư thế nghiêng người về phía trước. Người Nhật có vẻ thích cúi mình; hoàn toàn không phải do hèn nhát, mà đó là một phần văn hóa của họ. 

Satoru vừa thúc dây cương vừa ngẫm nghĩ. Một maiko Nhật Bản đội mũ Tây gắn lông chim! Đồ Tây lúc này trông vẫn còn lạc quẻ đơn điệu bên cạnh nền văn hóa truyền thống ăn sâu bám rễ hàng nghìn năm trong nếp sống người Nhật. Nhưng không còn lâu nữa, gã thầm nghĩ, rồi mọi chuyện sẽ khác. Cái Đông - Tây này rồi sẽ trộn lẫn, và dân tộc Nhật Bản dù cứng đầu đến đầu rồi cũng sẽ phải thuận theo những thay đổi của thời đại thôi.

Vài giờ đồng hồ sau, thị trấn cảng nhộn nhịp đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là bạt ngàn rừng cây. Satoru ngửa mặt lên trời, hít một hơi đầy buồng phổi. Ừm, mùi vị của thiên nhiên nước Nhật. 

Gã không cưỡi ngựa nữa mà nắm lấy dây cương dắt nó đi dạo. Rừng cây Nhật Bản không tạo cảm giác phóng khoáng như rừng cây ở Mĩ, vì vốn diện tích Nhật Bản chỉ bằng cái móng tay so với Hoa Kì. Nhưng rừng cây Hoa Kì chẳng tạo cảm giác như nó đang chôn chặt những bí mật âm u, không là trầm tích cổ xưa của một nền văn hóa lâu đời như nơi đây. 

Satoru có cảm tưởng mình đang xâm phạm một thánh địa linh thiêng. Rừng cây - hơi thở của nền văn hóa Nhật Bản. Ba phần tư diện tích nước Nhật được che phủ bởi núi rừng, vì vậy cái nôi văn hóa của nước này được dưỡng nên từ cái bóng thâm u của rừng già. Việc suốt ngày lẩn quất quanh rừng đã ban cho nghệ sĩ dân gian Nhật một trí tưởng tượng phong phú: họ tạo ra những giai thoại truyền kỳ về yêu quái sống trong rừng sâu .

"Bĩnh tĩnh nào, chàng trai." Satoru vuốt mõm con ngựa vừa mới hí lên khe khẽ. "Ở đây chẳng có ma quỷ nào cả. Chỉ có tao và mày thôi." 

Chính lúc ấy, cái giây phút quyết định ấy, có một âm thanh kì lạ vọng từ đâu đó sâu thăm thẳm trong khu rừng, đủ ma quái và kì ảo để đánh đổ mọi lí lẽ trước đó của gã. Giác quan thứ sáu - cơ quan phi lý trí nhất của con người - đang không ngừng mách bảo gã, nhồi vào đầu một viên đại tá đã kinh qua sa trường trận mạc như gã những ý tưởng mê tín điên rồ: Lẽ nào là ma quỷ ư?

Không, Satoru tự cười nhạo bản thân mình sau khi đã định thần, chẳng có ma quỷ gì sất, chỉ là âm thanh do con người tạo ra mà thôi. Thứ âm thanh đủ hay để khiến kẻ lí trí như ta sảng hoặc trong giây lát. Thế giới ngoài kia người ta đang chĩa kính viễn vọng vào không gian và nghi vấn sự tồn tại của Chúa Trời, còn gã - vốn vỗ ngực tự xưng là kẻ vô thần - lại đi tin vào ma quỷ chỉ vì nghe được một âm thanh lạ tai! Gã sẽ đổ tại do màn sương trắng như chiếc khăn voan của cô dâu phủ lên cánh rừng đã phần nào làm tăng phần quỷ dị.

Âm thanh kia tiếp tục vang lên, tuy không còn kì quái như ban đầu song sức mê hoặc vẫn không hề thuyên giảm. Trong lúc dắt ngựa như người mộng du về phía nơi phát ra âm thanh, gã tự hỏi liệu đó có phải là một loại đàn không. Nó khác xa với các loại nhạc cụ thính phòng phương Tây mà gã thường nghe. Một thứ âm thanh mỏng tang, tuôn chảy như nước từ trong lạch nguồn, lắng xuống, rơi nhẹ lên không trung rồi tỏa ra hệt cánh hoa anh đào rơi xuống mặt hồ. Cả đời gã chưa bao giờ được nghe thanh âm nào thanh tao và thuần khiết đến thế. 

Có một người ngồi trên tảng đá, mượn sương trắng để che giấu bất thành màn độc tấu có một không hai. Tay người đó lướt trên dây đàn nhẹ như không, thế mà không ai có thế đánh giá thấp quyền lực vô song của thứ âm nhạc tuôn ra từ đầu ngón tay ấy. Satoru khẽ nấp sau một lùm cây, quan sát, lắng nghe. Âm thanh đang từ du dương chuyển sang dồn dập gấp gáp, hình như người kia đang rất tức giận. Dục tốc bất đạt, cuối cùng người này cũng gảy hỏng một cung đàn, mạch cảm xúc từ đó mà đứt theo.

Vị cầm sư này uể oải đứng lên, vươn vai trong khi lưng vẫn quay về phía Satoru, không có vẻ gì là nhận ra sự hiện diện bí mật của gã. Thế mà người nọ bỗng thình lình lên tiếng.

"Vậy là anh đã nghe được tiếng đàn koto của tôi."

Là giọng nam. Có vẻ người này đã nhận ra sự hiện diện của anh rồi. Khá đấy, cậu ta còn không thèm nhìn về phía này lấy nửa lần.

"Ra đây đi, đừng nấp nữa."

Dù chẳng hiểu chàng trai này đang nói gì, Satoru đoán cậu ta đang yêu cầu gã xuất đầu lộ diện. Thủ sẵn một nụ cười kiểu cách trên môi, gã giơ hai tay đầu hàng, rời khỏi chỗ nấp. 

Khi sương mù tan đi, gã có thể nhận ra vẻ mặt bình thản của người kia dần chuyển sang kinh ngạc khi trông thấy anh. 

"Một người phương Tây." Em ngơ ngác nhìn gã, lẩm bẩm. "Hóa ra mấy bức mộc bản ukiyo-e không hề nói dối..."

"Xin lỗi, cậu nói chậm lại, để tôi, có thể nghe hiểu, được không?" Gã xua tay, đáp lại em bằng thứ tiếng Nhật nhát gừng.

"Giờ thì anh hiểu tôi nói gì rồi chứ?" Em nói bằng tiếng Hà Lan. 

"Xem thứ ngôn ngữ này hữu dụng hơn tôi tưởng." Gã bật cười khanh khách, không giấu nổi sự nhẹ nhõm khi người ta cũng nói cùng thứ tiếng mình biết.

"Anh là người Hà Lan ư?" Giọng nói trầm trầm kín đáo của em thật là một trời một vực so với dáng điệu ung dung thoải mái của Satoru. "Hay là... người Mĩ?"

Giống như khi ta nhắc đến cụm từ "người miền Bắc" trước mặt một điền chủ ở Virginia, chàng trai Nhật Bản này phản ứng lại ngay khi hai tiếng "người Mĩ" vừa rơi ra khỏi miệng em. Nét mặt em sa xuống, trở nên cảnh giác như con cua thu vào trong cái vỏ của mình. 

Satoru đã suýt nữa nói "Ước gì tôi là Rembrandt, nhưng không, tổ quốc của tôi chỉ có Matthew Perry." Câu nói đã nằm ở chót lưỡi đã kịp thời thu lại. (1)

"Không đâu, cậu bé ạ. Tôi là người Hà Lan."

Một lời nói dối đã thốt ra thì không có cách nào thu lại được nữa. Chỉ có dáng vẻ thả lỏng trở lại và ánh sáng lại bừng lên trong đôi mắt chàng trai là phần nào an ủi Satoru. Không, còn chẳng phải chàng trai, người này mới chỉ là một thiếu niên mà thôi. Bây giờ gã mới có dịp quan sát tỉ mỉ đối phương. Gã chưa bao giờ gặp ai có mái tóc đen đến thế. Không phải màu đen của bồ hóng thường bắt gặp trên mái đầu loăn quăn của người Nam Âu, cũng chẳng phải màu gỗ mun của người Ấn Độ, mà là màu đen của mực tàu, tương phản với nước da trắng khiến em trông như một bức tranh thủy mặc. Khuôn mặt em có thể thu hút sự chú ý của bất cứ người phương Tây nào, bởi đó là một khuôn mặt thuần Á Đông - mắt hẹp một mí, mũi và miệng nhỏ, vẻ sắc lạnh pha lẫn hoài cảm kín đáo, ưu sầu. Quả là thú vị ra trò khi quan sát đôi mắt tưởng chừng già dặn quá tuổi kia cố gắng che đi niềm hiếu kì của tuổi trẻ. 

"Thế ư? Tôi thích nước Hà Lan của anh lắm." Em dè dặt nói. Satoru nghĩ có lẽ em thường dè dặt như thế này khi nói về sở thích của mình. "Tôi đã xem tranh của một số họa sĩ ở Thời kì hoàng kim Hà Lan. Nhật Bản chưa bao giờ có lối vẽ tranh nào giống như vậy cả." (2)

"Vậy à? Thế cậu đã xem tranh của các họa sĩ Ý bao giờ chưa?" Ngài đại tá Gojo Satoru không giấu nổi một nụ cười dành cho người thiếu niên Nhật Bản đam mê nghệ thuật phương Tây này. Khi thấy cậu có vẻ bối rối, anh mới từ tốn giải thích. "Nghe này cậu bé, các bức họa Phục Hưng Ý, đó là nơi mọi sự bắt đầu..." 

"Tôi không phải cậu bé." Thiếu niên lạnh lùng cắt ngang. Satoru đang cao hứng thao thao bất tuyệt về Michelangelo bỗng trở nên xụi lơ. 

"Trẻ con luôn tự cho là mình đã lớn lắm. Cậu bao nhiêu tuổi rồi?"

"Tôi 16."

"Đúng là một cậu bé mà." Gã bật ra một tràng cười ha hả.

Tiếng cười giễu cợt của gã không hề làm em nao núng. "Ở đây độ tuổi trưởng thành của chúng tôi đến sớm hơn các anh rất nhiều."

"Thế cậu là gì nếu không phải một cậu bé đây, hả cậu bé?" Gã điềm tĩnh hỏi ngược lại, dùng chiều cao 6 feet 3 inch phủ bóng xuống vóc người nhỏ bé của em.

"Tôi là một samurai." Cậu vỗ nhẹ vào thanh katana đeo bên hông mình. "Thanh kiếm này có thể chém đôi cái chiều cao lêu nghêu của người phương Tây các anh - những kẻ luôn cho mình cái quyền được nhìn xuống các dân tộc khác."

Satoru nhướn mày, nhìn em bằng đôi mắt xanh ngọc sapphire. Không chỉ khả năng nói tiếng Hà Lan điêu luyện của em làm gã ngạc nhiên, gã còn bất ngờ khi khám phá ra em chẳng phải một người Nhật sính ngoại như bao kẻ tầm thường khác gã từng gặp, mà tầm hiểu biết của em còn sâu sắc hơn thế, đến độ không hề vì luồng gió phương Tây mà để truyền thống dân tộc bị nghiêng ngả. 

Những kẻ luôn cho mình cái quyền được nhìn xuống các dân tộc khác, Satoru cười thầm khi tua lại những lời mà cậu thiếu niên nói với ngữ điệu bình tĩnh nhưng không kém phần đanh thép. Gã chưa bao giờ nghe thấy một người phi-da trắng nào miêu tả chính xác về người da trắng đến thế. Ôi, hét câu này vào mặt mấy lão già lộng quyền ngồi trên đỉnh kim tự tháp thì đã đời phải biết. 

"Thôi nào, ngài làm cho một người da trắng như tôi phải xấu hổ về nòi giống của mình rồi đấy, hỡi samurai trẻ tuổi." Gojo dí dỏm đáp lại, nghiêng mình cúi chào kiểu nhà binh. "Gojo Satoru, quân hàm đại tá, xin được diện kiến người đẹp."

Thiếu niên vẫn không hề đổi sắc mặt ngay cả khi môi gã ấn nhẹ lên mu bàn tay em. Những gì em mải bận tâm là gã không gọi em là "cậu bé" nữa mà là "samurai trẻ tuổi". 

"Còn tôi là Zen... là Fushiguro. Anh chỉ cần gọi tôi là Fushiguro là được."

"Thế có nghĩa là chúng ta còn gặp nhau à, Fushiguro?" Gã mỉm cười.

"Có lẽ... Nếu lúc đó anh chưa quay trở về Hà Lan. Còn tôi thì vẫn ở đây thôi."

Fushiguro ôm cây đàn koto lên. Đó là dấu hiệu cho thấy cuộc gặp gỡ kì lạ này đã đến lúc kết thúc.

"Chào nhé, Fushiguro." Gã leo lên yên ngựa, giơ tay chào theo kiểu quân đội. Người ta có thể thấy động tác này của gã duyên dáng nhiều hơn là nghiêm túc.

"Tạm biệt, đại tá."

Tuy thế nhưng gã vẫn còn nấn ná lại một chút nhìn em rời đi, biến mất sau rặng cây um tùm. Vóc người nhỏ và bước chân thoăn thoắt không tiếng động - đúng là một người Nhật điển hình. Thế mà tư thái của em lại không giống với hầu hết người Nhật gã từng gặp, chính cái tư thái khiến gã liên tưởng tới cây mai ấy. Phải rồi, người Á Đông ưa chuộng cây mai lắm, bởi họ nhìn thấy ở loài cây xinh đẹp này thứ gì đó hào sảng và cao quý - cốt cách của người quân tử. 

Vậy ra đây chính là một samurai.

Satoru suy tư đến tận khi về đến biệt quán nơi gã ở, lơ đãng để người hầu cởi bỏ áo choàng đi đường và chiếc mũ top cao của gã.

Đất nước này sẽ níu chân gã lâu đây.

(1) Rembrandt (1606 - 1669): danh họa người Hà Lan. Matthew Perry (1794 - 1858): phó đề đốc Hoa Kì, người đã dùng vũ lực buộc Nhật Bản mở cửa với bên ngoài.

(2)Thời kì hoàng kim Hà Lan: thế kỉ 17 ở Hà Lan, khi nước này trở thành cường quốc khoa học, kinh tế, quân sự, nghệ thuật.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro