Phụ lục: Lịch sử thế giới (rewriting)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sinh vật sống trên cạn đầu tiên xuất hiện vào khoảng 1,3 triệu năm trước Tân Sinh Giới (TSG).

900 nghìn năm trước TSG, 4 loài hybrid cổ đại xuất hiện.

800 nghìn năm trước TSG, loài người cổ đại xuất hiện, được gọi là Homo Origo.

420 nghìn năm trước TSG, các bộ tộc người và hybrid hình thành nhiều ở khu vực Eksvi - Ethoria ngày nay. Họ đã có thể sử dụng các công cụ và vũ khí bằng đá, đồng và da thú.

350-310 nghìn năm trước TSG, ngôn ngữ cổ đại xuất hiện, ghi chép cổ đại nhất cũng được cho là bắt nguồn từ khoảng thời gian này.

300-100 nghìn năm trước TSG, các quốc gia cổ đại đầu tiên xuất hiện, đây cũng là khoảng thời gian hybrid và con người phát triển mạnh về chất liệu. Cũng là thời gian xảy ra "cuộc xung đột sắt-than-thiếc" giữa hybrid và con người.

Năm 2003 trước TSG, phép thuật đã được truyền bá rộng rãi giữa các giống loài hybrid.

Năm 1885 trước TSG, Đế chế Eks-Thorian phát lệnh cấm phép thuật. Sau đó, lệnh cấm còn lan tỏa đến cả những đất nước khác như Đế chế Clockman, lệnh cấm đã gây nhiều thiệt hại đến sự phát triển và cách tân của phép thuật hybrid.

Năm 1016 trước TSG, lệnh cấm phép thuật từ Eks-Thorian lan truyền từ phương Bắc xuống phía Nam, đế chế Eks-Thorian cũng nhân cơ hội mở rộng lãnh thổ, lấy lí do là lan truyền lệnh cấm.

Năm 974 trước TSG, lệnh cấm mất tác dụng, Đế chế Eks-Thorian suy yếu, các khu vực bắt đầu đòi tách khỏi đế chế, sự trỗi dậy của Đế chế Clockman từ phương Tây đã lôi kéo sự chú ý của các tộc hybrid.

Năm 470 trước TSG, Đế chế Eks-Thorian sụp đổ hoàn toàn, 9 khu vực thuộc đế chế cũ tách riêng thành 5 quốc gia độc lập gồm Eksvianirva, Ethor, Avish, Greya-Lanirva, Ethaprion.

Năm 0 (TSG), Qủy và Thần chính thức tranh giành Trái Đất, đến cuối năm, trận chiến kết thúc, các tộc hybrid được ban cho lãnh thổ riêng.

Năm 123 sau TSG, Cổng địa ngục mở ra, loài Qủy trỗi dậy lần 1, các "kẻ được chọn" đã thành công tiêu diệt lực lượng Qủy và đóng Cổng địa ngục sau 1 năm.

Năm 172 sau TSG, 1 cuộc nhảy vọt về quan hệ đối ngoại với các quốc gia lân cận giúp Eksvianirva trở nên hùng mạnh, nhà vua quyết định phát triển quân đội.

Năm 234-256, "The former great Eksvi - Ethoria war" xảy ra, 5 nước từng thuộc đế chế Eks-Thorian xung đột quân sự với nhau, đây cũng là thời điểm mà thuốc súng được sáng chế ra, khởi đầu cho thời kì bom đạn. Eksvianirva chiến thắng và rồi thống nhất Avish và Ethaprion vào lãnh thổ.

Năm 3/1/378, Greya-Lanirva tạo ra chiếc tàu chiến đầu tiên. Đế chế Clockman hỗ trợ nguyên liệu cho Greya-Lanirva để tạo ra nhiều tàu chiến hơn nhằm lật đổ Eksvianirva.

Năm 29/11/400, Đế chế Clockman chính thức tuyên chiến với Eksvianirva sau 1 vụ tranh chấp lãnh thổ trên biển. Đồng thời thiết lập khối liên minh quân sự Minu Pact bao gồm Clockman, Greya-Lanirva, Ethor, Finizque (1 quốc gia đảo phía Nam) và Origon (đại diện các dân tộc hybrid đảo Cội Nguồn) đối đầu với khối đồng minh của Eksvianirva gồm AEA (Avish the Eksvian Administration), EIEA (Ethaprion Independent Eksvian Administration) và FAEA (Felinerian Allied Eksvian Administration)

Năm 5/405, 1 cuộc đảo chính diễn ra ở Eksvianirva đòi độc lập cho AEA và EIEA, buộc nhà vua thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ ở Eksvianirva, EIEA được trao quyền độc lập và đổi tên thành Cộng hòa tự chủ Prionest - Prionest Independent Republic (PIR), AEA thỏa thuận để tiếp tục là nước phụ thuộc của Eksvianirva nhưng có chính quyền riêng tách biệt khỏi chính quyền Eksvianirva, đổi tên thành ASIA (Avish people's Special Independent Administration). Sau khi mất hầu hết quyền kiểm soát ở Avish và Prionest, Eksvianirva đổi thành Eksvi Citizen Union có tên khác là Eksvi Republic (EKR). Chính quyền mới quyết định rút khỏi cuộc chiến.

Năm 449-468, những chiếc máy bay và tàu lượn đầu tiên được cấp bằng sáng chế ở nhiều nước, tạo ra "The sky control copyright conflict". Cuối cùng, Prionest được công nhận là nước đầu tiên tạo ra máy bay nhưng quyền sản xuất phát triển phương tiện trên không được chia đều cho Finizque và cả Clockman.

14/6/500, thành phần quý tộc phản động từ Eksvi vượt biên sang Finizque và hợp tác với bọn khủng bố tại Finizque để lật đổ chính quyền. 18/6/500, đảo chính thành công, Finizque chuyển sang chế độ quân chủ và đổi tên thành Finizque Confederate Republic (FCR), tuy tên quốc gia là "cộng hòa" nhưng đấy chỉ là lớp ngụy trang cho chế độ vương quyền tuyệt đối ở FCR. Tên vua mới đã cho thi hành nhiều chính sách để "xóa sổ" chế độ Finizque cũ như Lệnh cấm ngôn ngữ 29/6, Lệnh cấm phản đối 1/7, Luật ưu tiên hoàng tộc 10/7, Lệnh truy nã thành phần khủng bố 22/7, Luật trừng phạt hành vi bạo động 24/7...

Thấy được sự nghiêm trọng của "cuộc tàn sát" này, ngày 2/8/500, Eksvi đòi tổ chức cuộc gặp gỡ và thảo luận về Quyền dân chủ chế độ cộng hòa với đại diện hoàng tộc FCR. Phía FCR từ chối và vào ngày 30/8 gửi đe dọa chính thức tuyên chiến với Eksvi nếu còn dây dưa vào nội bộ FCR.

13/9/500, FAEA kết thúc thỏa thuận đồng minh lấy lí do là "Không công nhận EKR là kế nhiệm của Eksvianirva", thực tế là muốn liên minh với FCR nhằm mở rộng lãnh thổ. Đại diện của FAEA thẳng thừng tuyên bố "giải tán" FAEA và cho thành lập Cat's Treaty Union (CTU). 21/9/500, CTU và FCR xác nhận hợp tác với nhau về mặt quân sự.

12/10/500, CTU cho khởi động xưởng chế tạo, sửa chữa vật dụng và phương tiện chiến tranh đầu tiên, ở đó, những chiếc xe bọc thép và máy bay phục vụ chiến tranh đầu tiên ra đời. 1 tháng sau, CTU đã chế tạo được hơn 300 máy bay, 40 bệ phóng tên lửa, 800 xe bọc thép, 1000 súng trường và pháo cao xạ, sẵn sàng chiến đấu, 17/11/500, 20% số vũ khí và phương tiện sản xuất được đã được chuyển đi bằng tàu ngầm cho FCR nhằm chủ động khơi mào cuộc chiến. 23/11/500, EKR chính thức tuyên chiến với FCR thông qua việc dùng chiến hạm có trang bị ngư lôi tấn công tàu ngầm chở hàng của CTU.

26/11/500, CTU bắn phá biên giới EKR bằng chiến hạm, sau đó đã đổ bộ thành công vào phía Đông EKR và chờ tín hiệu từ quân FCR ở phía Nam. 30/11, quân chủ lực của FCR phát tín hiệu cho CTU, cùng lúc đó, FCR hành quân sang sát biên giới phía Tây EKR và gửi tối hậu thư yêu cầu chính quyền EKR đầu hàng và nhượng lại phần lãnh thổ phía Tây cho FCR. Ngay hôm sau, EKR đột kích lại vào vùng tạm chiếm của CTU và không đồng ý đầu hàng FCR. Từ đó, xảy ra liên tiếp các cuộc chiến to nhỏ trên lãnh thổ EKR như Đột kích ban đêm 4/12, Không chiến CTU 11/12, Phòng thủ biên giới phía Tây 13/12, Không chiến CTU đợt 2 15/12,...

Đế chế Clockman trước đó phản đối cuộc chiến và muốn giữ thế trung lập, nhưng rồi vì sợ sự trỗi dậy của Eksvianirva và thậm chí là đế chế Eks-Thorian nếu FCR biến EKR trở lại quân chủ, Clockman đồng ý gia nhập cuộc chiến ngày 31/12/500.

Ngày 8/1/501, giữa biển lửa chiến tranh, Quỷ trỗi dậy lần 2, các nước tạm đình chiến để hợp sức đẩy lùi Qủy. Cuộc chiến với quỷ kéo dài 11 năm 9 tháng 2 ngày.

20/10/512, chiến tranh trở lại, lần này, có thêm 1 quốc gia mới đại diện cho loài hybrid mới là Tyuelioan Republic (TYR). 24/10/512, EKR công bố đã có liên hệ với TYR và đang xác nhận TYR là đồng minh mới. PIR trước còn là quốc gia trung lập lại đột ngột hỗ trợ phe FCR và CTU.

Clockman cho 395 máy bay đánh bom xuống thủ đô của FCR và CTU ngày 27/10. Bất chấp lời đe dọa sẽ còn nhiều vụ đánh bom nữa từ phía Clockman, CTU và FCR tiếp tục giữ thế gọng kìm nhằm tiêu diệt EKR.

Đến ngày 2/9/535, cuộc chiến mới kết thúc, FCR sụp đổ và trở thành Fiviaz Kingdom (FIK), thừa nhận chế độ vương quyền không tuyệt đối ở nước này, FIK không cần trả lại phần lãnh thổ chiếm được trừ phần thuộc EKR. Người dân CTU đứng lên lật đổ chế độ độc tài và chia thành 3 khu tự trị có chủ quyền và tư cách quốc gia gồm Cat Village, Cat City và Feline Operation Territory. Clockman tuy ở bên thắng cuộc nhưng vì nền kinh tế suy thoái từ thiệt hại chiến tranh và chính quyền lỏng lẻo, cũng đã sụp đổ thành 17 "quốc gia" không chính thức, nhưng về sau lại đồng ý thành lập lại 2 phe chính quyền đấu tranh về kinh tế với nhau là United Overclock Free States (UOFS) và Union of Overclock Capitalist Countries (UOCC). Ở các hội nghị quốc tế vẫn để tên chung là Liên bang Overclock - Overclock People's Union (OPU) nhưng có 2 phe đại diện. EKR có thêm phần lãnh thổ khai hoang để làm căn cứ đầu não ở phía Bắc và thống nhất các vùng lãnh thổ thuộc đế chế Eks-Thorian cũ dưới dạng liên minh Yenra Pact. TYR chia rẽ rồi lại thống nhất tuy còn nhiều tư tưởng khủng bố ly khai, trở thành United States of Sliminia (USS). 3 khu tự trị tách riêng từ CTU cuối cùng cũng dừng thù địch lẫn nhau và khai thông biên giới, chính quyền mới thống nhất 3 khu vực là Felinerian Federation (FEF).

Quỷ nổi dậy lần 3, lần này cuộc kháng chiến kéo dài đến hơn nghìn năm.

10/3/1900, khái niệm về điện và đồ điện tử đã được phổ biến trên toàn thế giới, từ đây, các quốc gia chuyển sang hạn chế xung đột quân sự và tập trung đấu tranh kinh tế-chính trị.

22/12/1900, 1 nhóm hacker vô tình chiếm quyền kiểm soát hệ thống phòng không của FEF. USS yêu cầu lời giải thích cho sự bất cẩn này của mạng lưới quân sự FEF, thậm chí còn nghi ngờ đây là 1 âm mưu, 1 cái cớ để FEF nâng cấp lực lượng không quân. Căng thẳng quân sự tiếp diễn trong những năm tiếp theo.

1/3/1903, nhóm khủng bố ly khai White Community (WCO) đòi chia tách USS thành 2 miền Đông-Tây, đồng loạt nổ súng ở toàn bộ các thành phố lớn quan trọng ở miền Đông của USS. UOCC bí mật hỗ trợ phong trào này của chúng nhằm "xin tí đất" ở biên giới 2 nước. FEF dù không định, nhưng vì bị khích đểu từ trước nên cũng ủng hộ chúng, đồng thời còn công khai đào tạo và chế tác nhiều kiểu dáng mới cho máy bay quân dụng. Trước sức ép, USS huy động toàn bộ lực lượng quốc gia cộng thêm kêu gọi đồng minh kiềm hãm nguy cơ WCO liên kết với FEF.

15/6/1904, PIR ủng hộ WCO chính thức, kéo theo bất đồng giữa các quốc gia thành viên của Yenra Pact, UOCC bàn kế hoạch, chuẩn bị thành lập Korti Pact để kết nối các quốc gia về phe WCO.

9/7/1904, EKR và Greya-Lanirva (GLA) về phe đồng minh của USS, 1 cuộc thế chiến trên đà bùng nổ, Yenra Pact đã bị coi như tan rã đối với nội bộ các nước thành viên. Đại diện bên phía Ethor Democratic Republic (EDR) phát biểu sẽ cố giữ vị thế trung lập, cách ly khỏi cuộc chiến. Tuy nhiên, sau 1 vài lần tham khảo ý kiến người dân, EDR đã ủng hộ WCO nhưng vẫn giữ thái độ phản đối chiến tranh xảy ra.

Korti Pact bắt đầu hoạt động với các thành viên gồm: PIR, UOCC, WCO và FIK. Đối lập là tổ chức liên chính phủ Peace Makers (PMA) do UOFS cùng 1 số phe phái chống chiến tranh phía UOCC khởi xướng. 30/11/1906, tổ chức đã lôi kéo được GLA và EKR gia nhập.

FEF và EDR trở thành cộng tác viên của Korti Pact vào 4/12/1906. Sau hàng loạt những năm tháng chiến tranh lạnh, vụ phá hoại biên giới 2 vùng lãnh thổ USS khai mào thế chiến. WCO đưa ra cảnh báo sẽ phá điều luật MW (Magic in Warfare) nếu USS không đầu hàng và thừa nhận quyền tự chủ và tư cách quốc gia trong vùng tạm chiếm thuộc WCO.

22/1/1907, USS bất chấp tất cả để cứu vãn tình thế, trực tiếp đem phép thuật vào chiến trường, từ đây, điều luật MW mất tác dụng, đánh dấu 1 cuộc thế chiến sử dụng phép thuật và công nghệ song song. Korti Pact lên án điều này và yêu cầu phía PMA chấm dứt liên minh hỗ trợ USS, đe dọa sẽ tuyên chiến với toàn bộ khối PMA. 29/1/1907, PMA cho triệu tập đại diện 2 phe nhằm kí hiệp định ngừng chiến và thỏa thuận không sử dụng phép thuật thời chiến BMEM (Ban of Magical Equipment and Methods). 31/1/1907, đàm phán thất bại, cả USS và WCO cáo buộc lẫn nhau về nguồn gốc cuộc chiến.

5/2/1907, GLA và PIR xung đột lãnh thổ, kéo theo toàn bộ PMA và Korti Pact tham chiến chính thức. Cuộc chiến diễn ra ở nhiều khu vực, chủ yếu là ở: Mặt trận phía Tây (UOFS, USS vs UOCC, WCO), mặt trận phía Bắc (GLA, EKR vs PIR) và mặt trận phía Đông-Nam (EKR vs FIK, FEF, EDR).

3-10/1907, Korti Pact thắng thế chủ yếu vì nước có không quân số 1 thế giới FEF gánh, dần về sau thì USS có hệ thống pháo hạt nhân băng khắc chế lại. Đội đột kích cảm tử vô dụng từ FIK làm tình thế thêm căng thẳng cho Korti Pact, ngược lại, GLA với công nghệ phản nhận thức áp dụng áp chế hoàn toàn ở mặt trận Bắc, phần thắng chỉ còn là thời gian với PMA.

1908-1959, các nước thông qua những thuộc địa tạm chiếm mà chuyển quân, USS tham gia mặt trận Đông-Nam, FEF tập trung mặt trận Tây. WCO bị đẩy lùi khỏi lãnh thổ, phải tạm trú ở PIR, OPU chính thức tái thành lập do sự sụp đổ của UOFS, giờ đây UOCC đã toàn quyền điều khiển OPU, gây khó khăn cho USS. EDR rút lui khỏi cuộc chiến giúp EKR và GLA dễ dàng làm chủ mặt trận Bắc. 11/1959, EKR và GLA tổng tấn công OPU. Vì bất ngờ cộng thêm đòn gọng kìm được tạo từ USS và EKR, OPU thất thủ. Mất đi thành viên chủ chốt, Korti Pact cũng không còn khả năng lật kèo nữa. PIR về phe PMA, 13/1/1960, WCO đầu hàng, chấm dứt thế chiến. Tuy ở phe thua, FEF lại không bị thiệt hại nhiều, còn được giữ lại hầu hết vùng chiếm được. FIK mất đi 1 nửa lãnh thổ trên biển, EKR và GLA đòi nhận 1 khoản bồi thường chiến tranh từ PIR. USS lấy thêm lãnh thổ từ tay OPU. Phần biển bị mất của FIK chia đều giữa OPU và EDR.

Hiện nay (2100), tuy vẫn còn tranh chấp lãnh thổ và tư tưởng ly khai, nạn khủng bố, lừa đảo nhưng thế giới có thể coi là hòa bình, hybrid và con người tự tách biệt, trừ khi có vấn đề cực kì nghiêm trọng ảnh hưởng toàn thế giới mới có những hội nghị thượng đỉnh giữa người-thú nhân.



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro