Khai quat ly luan gia tri thang du

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

2. Mâu thuẫn chung của công thức chung của tư bản

Tư bản vận động theo công thức T-H-T’ trong đó T’ = T + t. Vậy t

được sinh ra như thế nào? Như vậy chỉ có 2 trường hợp: trong lưu thông và

ngoài lưu thông.

1

a. Trong lưu thông (Trao đổi, mua bán): Dù trao đổi ngang giá hay không

ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới và do đó không tạo ra giá trị thặng

-  Trường hợp trao đổi ngang giá (mua bán đúng giá trị ) chỉ là sự chuyển

hoá hình thái giá trị từ H - T và ngược lại . Do đó, tiền không lớn lên, giá

trị không tăng thêm.

- Trao đổi không ngang giá:

Mua rẻ (thấp hơn giá trị) thì có lợi trong khi mua. Nhưng khi bán, bán

thấp hơn giá trị thì chịu thiệt thòi.

Bán đắt (cao hơn giá trị): cái được lợi khi là người bán thì sẽ chịu thiệt

khi là người mua.

Mua rẻ, bán đắt: điều này chỉ giải thích sự làm giàu của những thương

nhân cá biệt chứ không giải thích sự làm giàu của tư bản nói chung

Như vậy trao đổi không ngang giá thì giá trị không tăng thêm

b. Ngoài lưu thông (xét hai nhân tố) không có sự tiếp xúc hàng tiền:

Nhân tố (T) tiền: “tiền” tự nó không lớn lên.

 Xét nhân tố (H) hàng: Hàng ngoài lưu thông tức là vào tiêu dùng:

+ Tiêu dùng vào sản xuất, tức là tư liệu sản xuất. Vậy giá trị của nó

chuyển dịch dần vào sản phẩm - không tăng lên.

+ Tư liệu tiêu dùng, tiêu dùng cho cá nhân - cả giá trị và giá trị  sử

dụng đều mất đi.

Như  vậy cả trong lẫn ngoài lưu thông xét tất cả các nhân tố thì T

không tăng thêm.

Nhưng nhà tư  bản không thể  vận     động ngoài lưu thông, có nghĩa là

nhà tư bản phải tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hoá (trong

lưu thông ) nhưng nhà tư  bản không bán hàng hoá đó, vì nếu bán cũng

2

không thu được gì. Nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá đó (ngoài lưu thông) tạo

ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó - hàng hoá đó là sức lao động.

Như vậy công thức đầy đủ có thể viết:

Sức lao động

T  - H   sản xuất hàng hoá ...H’ - T’

TLSX

Như vậy thì mâu thuẫn của công thức chung là tư bản vận động vừa

trong lưu thông nhưng đồng thời vừa không trong lưu thông.

3. Hàng hoá sức lao động:

Sức lao          động là toàn bộ thể  lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con

người, thể lực và trí lực mà người đó sẽ vận dụng trong quá trình sản xuất

ra một giá trị sử dụng.

Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng đều là điều kiện cần thiết

để sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức

lao động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.

Đó là:

Người có sức lao động được tự do về thân thể, làm chủ về sức lao

động của mình. Việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải

thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô lệ.

Người có sức lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, để duy trì

cuộc sống phải đi làm thuê để sống. Nếu người lao động được tự

do thân thể  và  có  tư liệu sản xuất thì người lao động sẽ bán sản

phẩm do mình làm ra chứ không phải sức lao động.

Sự  tồn tại đồng thời 2 điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao         động

thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá báo hiệu một giai đoạn

mới trong sự phát triển xã hội -  giai đoạn sản xuất hàng hoá trở thành phổ

3

biến, đó là sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Hàng hoá sức lao động là

nhân tố tách chủ nghĩa tư bản ra khỏi sản xuất hàng hoá giản đơn. Như vậy,

sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để chuyển hoá

tiền tệ thành tư bản. Tuy nhiên     để tiền tệ biến thành tư bản thì lưu thông

hàng hoá và lưu thông tiền tệ phải đạt tới mức độ nhất định.

Sức lao động là hàng hoá đặc biệt: Sức lao động phải là hàng hoá và

giống hàng hoá thông thường khác nhưng tính đặc biệt được thể hiện:

Trong quan hệ mua bán:

o    Chỉ bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và có thời

gian nhất định.

o   Mua bán chịu - Giá trị sử dụng thực hiện trước - giá trị thực hiện

sau.

o    Chỉ có phía người bán là công nhân làm thuê - Người mua là

nhà tư bản.

o    Giá cả (tiền lương) luôn thấp hơn so với giá trị. Vì sức lao động

phải bán trong mọi điều kiện - mua bán trong mọi điều kiện để

sinh sống.

Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động:

Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như hàng hoá thông thường,

lượng giá trị sức lao động cũng được đo bằng thời gian lao động xã hội cần

thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Nhưng khác hàng hoá thông

thường vì sức lao động là năng lực (khả năng) tồn tại trong cơ thể sống của

con người, để tái sản xuất ra năng lực đó người công nhân phải tiêu dùng

một khối lượng sinh hoạt nhất định để thực hiện nhu cầu tái tạo sức lao

động. Như  vậy lượng giá trị  sức lao động được đo lường gián tiếp bằng

lượng giá trị sinh hoạt. 

- Yếu tố cấu thành giá trị sức lao động:

4

+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho bản thân người công nhân

+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho gia đình anh ta

+ Chi phí đào tạo

- Sự vận động của lượng giá trị sức lao động (tăng và giảm):

Nhân tố làm tăng là do chí phí đào tạo tăng, do đòi hỏi của cách

mạng khoa học kỹ thuật.

 Nhân tố làm giảm lượng giá trị sức lao động: do giá trị tư liệu

sinh hoạt giảm và năng suất lao động của ngành sản xuất tư liệu

sinh hoạt tăng.

Giá trị sức lao   động đặc biệt khác hàng hoá thông thường: nó

mang yếu tố tinh thần và lịch sử. Con người sống trong những

điều kiện kinh tế cụ thể ngoài nhu cầu vật chất còn có nhu cầu

tinh thần.

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: cũng giống như hàng hoá

khác giá trí sử dụng cũng   được thể hiện khi tiêu dùng. Nhưng nó khác      ở

chỗ nhà tư bản tiêu dùng sức lao động của công nhân và bắt công nhân lao

động kết hợp với tư liệu sản xuất để tạo ra hàng hoá. Trong quá trình lao

động đó người công nhân đã tạo ra một giá trị mới (v + m ) trong đó có một

bộ phận ngang bằng với giá trị sức lao động của người công nhân nhà tư

bản dùng để trả lương cho người công nhân đó (đó là v), còn một bộ phận

dôi ra ngoài bộ phận sức lao động (m) nhà tư bản chiếm không. 

Như vậy: Có thể nói rằng giá trị sức lao động khi nhà tư bản tiêu dùng

nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Hay nói cách khác:

Giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hoá sức lao động là nguồn gốc của giá trị

và giá trị thặng dư.

Còn các hàng hoá thông thường:

5

Nếu là tư liệu sản xuất khi tiêu dùng trong sản xuất thì giá trị

của nó được dịch chuyển vào giá trị sản phẩm.

Nếu là tư liệu sinh hoạt và tiêu dùng cho cá nhân thì cả giá trị

lẫn giá trị sử dụng đều mất đi.

4

Định nghĩa giá trị thặng dư

Giá trị thặng dư được Marx xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư.

Có thể lấy một ví dụ như sau để giải thích: Giả sử một người lao động trong một giờ làm ra được giá trị sản phẩm là 1000 đồng. Đến giờ thứ hai trở đi, trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra ở giờ thứ nhất, người lao động đó sẽ làm ra được 1100 đồng. Số tiền chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư sức lao động.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro