Lop tau tuan duong York

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Xưởng đóng tàu:Palmers Shipbuilding and Iron Company.Xưởng hải quân Devonport

Bên sử dụng: Hải quân Hoàng gia Anh

Thời gian đóng:1927 - 1931

Dự tính:7

Hoàn tất:2

Hủy bỏ:5

Bị mất:2

Đặc điểm khái quát

Kiểu:Tàu tuần dương hạng nặng

Trọng tải choán nước:8.250 tấn (tiêu chuẩn)10.350 tấn (đầy tải)(Exeter: 8.390 tấn tiêu chuẩn,10.410 tấn đầy tải)

Độ dài:164,6 m (540 ft) (mực nước)175,25 m (575 ft) (chung)

Sườn ngang:17,58 m (57 ft)(Exeter: 17,67 m - 58 ft)

Mớn nước:6,17 m (17 ft)

Động cơ đẩy:4 × turbine hơi nước hộp số Parsons,8 × nồi hơi ống nước Admiralty,4 × trục,công suất 80.000 mã lực (59,7 MW)

Tốc độ:59,7 km/h (32,25 knot)56 km/h (30,25 knot) (đầy tải)

Tầm xa:18.500 km ở tốc độ 25,9 km/h(10.000 hải lý ở tốc độ 14 knot)

Tầm hoạt động:1.900 tấn dầu

Thủy thủ đoàn đầy đủ:623(Exeter: 630)

Vũ trang:6 × pháo BL 203 mm (8 inch)/50 caliber Mark VIII (3×2),4 × pháo QF 102 mm (4 inch)/45 caliber Mark V (4×1),8 × súng máy Vickers .50 12.7 mm (0,5 inch) Mark III (2×4),6 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch)

Máy bay mang theo:1 × Fairey Seafox(Exeter: 2 × Fairey Seafox/Supermarine Walrus)

Thiết bị bay:1 × máy phóng xoay(Exeter: 2 × máy phóng cố định)

Lớp tàu tuần dương York là lớp thứ hai và cũng là lớp tàu tuần dương hạng nặng cuối cùng trang bị pháo 203 mm (8 inch) của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo theo những điều khoản giới hạn của Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922.Về thực chất chúng là một phiên bản cải tiến của lớp tàu tuần dương County dẫn trước, được thu gọn trong một nỗ lực trích ra được nhiều tàu nhỏ hơn trong hạn ngạch của hiệp ước.Chúng có thể mô tả như những "tàu tuần dương hiệp ước", do thuật ngữ "tàu tuần dương hạng nặng" chưa được đặt ra cho đến Hội nghị Hải quân London năm 1930.Hai chiếc thuộc lớp tàu này đã được hoàn tất: HMS York và HMS Exeter, cho dù ba chiếc khác đã được vạch kế hoạch, trước khi kiểu tàu tuần dương trang bị pháo 203 mm (8 inch) không còn được Hải quân Hoàng gia ưa chuộng.

Thiết kế

Hải quân Hoàng gia có nhu cầu về những tàu tuần dương nhỏ hơn so với lớp County,thiết kế lớn nhất trong phạm vi giới hạn của Hiệp ước Washington, để có thể chế tạo được nhiều tàu chiến hơn trong hoàn cảnh ngân sách quốc phòng giới hạn của nước Anh đang chịu suy thoái. Cách duy nhất để tiết kiệm là phải giảm bớt hỏa lực, vỏ giáp hoặc tốc độ.Do việc giảm bớt hai yếu tố sau là không thể chấp nhận được, người ta chọn giảm bớt hỏa lực, nên lớp York bị loại bỏ tháp pháo 'X' chỉ còn sáu khẩu pháo 203 mm (8 inch),được cho là con số tối thiểu cần thiết để đánh giá chính xác điểm rơi của loạt đạn pháo.Việc tiết kiệm về kích cỡ cho phép rút ngắn chiều dài con tàu 15 m (50 ft) và 2,7 m (9 ft) mạn thuyền so với County, mặc dù hệ thống động lực không thay đổi để duy trì được tốc độ tối đa.Những chiếc York đã tiết kiệm được 1.750 tấn trọng lượng, nhưng sự giảm bớt về chi phí 250.000 Bảng Anh và 50 thành viên thủy thủ đoàn là chưa thỏa đáng.So với lớp County, sự bảo vệ được cải thiện đáng kể, với đai giáp dày 76 mm (3 inch) và sâu 2,4 m (8 ft) cùng một lớp sàn tàu bên dưới bọc thép nối liền mép phía trên đai giáp.Để rút ngắn chiều dài của đai giáp, hầm đạn giữa tàu của lớp County được loại bỏ nhờ giảm bớt dàn hỏa lực.Các hầm đạn được bảo vệ bằng những "hộp thành trì" phía trước và phía sau được mở rộng bên ngoài đai giáp.Do hầm đạn giữa tàu được tháo dỡ,các khẩu pháo hạng hai 102 m (4 inch) được di chuyển ra phía trước để gần với nguồn tiếp đạn pháo và thuốc phóng từ hầm đạn phía trước.Người ta tin rằng vỏ giáp được tăng cường này đã cứu chiếc Exeter trong trận River PlateVũ khí mà chúng trang bị tương tự như của lớp County, ngoại trừ việc loại bỏ tháp pháo 'X';và do không có đủ khoảng trống xoay trên một mạn thuyền hẹp hơn, chúng chỉ trang bị ống phóng ngư lôi ba nòng.Thiết kế nguyên thủy cũng không dự định mang theo loại pháo phòng không QF 2 pounder "pom-pom" nhiều nòng vừa mới phát triển, khiến cho hỏa lực phòng không yếu kém chỉ với hai khẩu đội súng máy Vickers 0,5 inch bốn nòng.Đến năm 1935, chúng được thay thế bằng các khẩu đội 2 pounder nòng đơn.Do những thay đổi về hầm đạn, và để giữ các ống khói cách xa cầu tàu, chỉ có hai ống khói được sử dụng; các lổ thoát hơi của phòng động cơ phía trước được sáp nhập vào một ống khói lớn phía trước.Nó được đặt nghiêng trên chiếc York để giữ cho khói thoát ra cách xa cầu tàu, nhưng có dạng thẳng trên chiếc Exeter do thay đổi cấu trúc cầu tàu và ống khói sáp nhập rộng hơn.Để giữ sự đồng nhất về kiểu dáng, York có các cột ăn-ten nghiêng trong khi của Exeter lại là thẳng đứng.York có cầu tàu kiểu "bệ" cao từng thấy trên lớp County, vốn cách xa tháp pháo 'B'.Đó là do nó được dự định trang bị một máy phóng và thủy phi cơ bên trên nóc tháp pháo,vốn cần có khoảng trống và đòi hỏi một cầu tàu cao để có tầm nhìn ra phía trước.Tuy nhiên, nóc tháp pháo tỏ ra không đủ chắc chắn để mang máy phóng nên nó chưa từng được trang bị.Exeter được đặt hàng hai năm sau đó, và cầu tàu được tái thiết kế theo hướng đó,thấp hơn, dịch ra phía trước và hoàn toàn kín,giống như sau đó được thấy trên các lớp tàu tuần dương hạng nhẹ Leander và Arethusa.York cuối cùng cũng được trang bị máy phóng trên bệ xoay đặt giữa tàu phía sau các ống khói, và Exeter có một cặp cố định ở cùng vị trí,phóng ra phía trước và chệch một góc so với trục dọc.Một cần cẩu để thu hồi thủy phi cơ bố trí bên mạn phải,và chúng có thể mang một máy bay, ban đầu là một chiếc Fairey Seafox, và sau đó trên Exeter là kiểu Supermarine Walrus.

HMS York (90) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp York. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các mặt trận Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. York bị xuồng máy tấn công của Hải quân Ý đánh đắm trong vịnh Suda tại đảo Crete vào tháng 3 năm 1941.

Thiết kế và chế tạo

York là chiếc dẫn đầu của một lớp tàu tuần dương dự tính sẽ có năm chiếc, được chế tạo theo một thiết kế được cải tiến từ lớp County trước đó, được thiết kế lại để có thể chế tạo rẻ hơn những chiếc trước đó. Nó có thể phân biệt ở dáng vẽ bên ngoài so với con tàu chị em Exeter,khi chiếc sau có ống khói và cột ăn-ten thẳng đứng, trong khi trên chiếc York có dáng nghiêng.Thêm vào đó, York có thiết kế cầu tàu theo kiểu truyền thống hơn tương tự như của lớp County, trong khi của Exeter được thiết kế hiện đại hơn, sau này được thấy trên các lớp Leander và Arethusa.York được đặt lườn tại hãng đóng tàu Palmers Shipbuilding and Iron Company ở Jarrow vào ngày 18 tháng 5 năm 1927, được hạ thủy vào ngày 17 tháng 7 năm 1928 và hoàn tất vào ngày 1 tháng 5 năm 1930.

Lịch sử hoạt động

Khi được đưa vào hoạt động, York phục vụ cùng với Hải đội Tuần dương 8 tại Bắc Mỹ và West Indies Station, tại Địa Trung Hải vào năm 1935 và 1936, và tại America Station cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939.Vào tháng 10 năm 1939, York được điều về "Lực lượng F" tại Halifax, Nova Scotia thuộc Canada, nhận nhiệm vụ truy tìm các tàu cướp tàu buôn đối phương và hộ tống các đoàn tàu vận tải.Đến ngày 3 tháng 3 năm 1940, nó ngăn chặn chiếc tàu biển chở hành khách Đức Arucas ngoài khơi bờ biển Đông Nam Iceland. Chiếc tàu Đức bị chính thủy thủ đoàn đánh chìm trước khi bị chiếm.Vào tháng 4 năm 1940, York nằm trong thành phần Hạm đội Nhà phục vụ trong chiến dịch Na Uy. Nó đã được sử dụng trong việc triệt thoái binh lính Anh và Pháp khỏi Namsos cùng với HMS Devonshire, tàu tuần dương Pháp Montcalm và ba tàu vận tải Pháp. Đến tháng 8 năm 1940 York được điều về Hạm đội Địa Trung Hải, gia nhập Hải đội Tuần dương 3 tại Alexandria.Vào tháng 10 năm 1940, York đã tham gia hoạt động trong Trận chiến mũi Passero.Trong khi hộ tống một đoàn tàu vận tải, trên chuyến quay trở về,Hạm đội Địa Trung Hải bị một máy bay Italy phát hiện. Hải quân Ý tìm cách đánh chặn chúng trong biển Ionian. Trong đêm 11-12 tháng 10 năm, ngoài khơi mũi Passero,hải đội tàu phóng ngư lôi Italy thứ nhất với Airone, Alcione và Ariel đã tấn công tàu tuần dương HMS Ajax.Cuộc tấn công bị thất bại, và Ajax đã đánh chìm Airone và Ariel trong khi Alcione thoát được.Không lâu sau đó Hải đội Khu trục 11 Italy, gồm có Artigliere,Aviere,Camicia Nera và Geniere đi đến chiến trường, và bị bất ngờ bởi hỏa lực pháo điều khiển bằng radar của HMS Ajax. Artigliere bị hư hại nặng và Aviere bị hư hại nhẹ.Camicia Nere tìm cách kéo chiếc Artigliere rút lui nhưng bị một máy bay trinh sát Anh Sunderland nhìn thấy, và dẫn đường cho ba máy bay ném bom-ngư lôi Swordfish từ tàu sân bay HMS Illustrious tấn công. Các quả ngư lôi trượt khỏi các con tàu Ý.Sau đó HMS York xuất hiện.Camicia Nera nhanh chóng cắt bỏ dây kéo và thoát đi.York đã đánh chìm Artigliere sau khi thủy thủ đoàn của nó đã bỏ tàu.

Bị mất

Vào tháng 1 năm 1941 York gia nhập "Lực lượng D" đặt căn cứ tại vịnh Suda tại đảo Crete để hoạt động tại khu vực Đông Địa Trung Hải. York bị đánh chìm trong vịnh Suda bởi hai chiếc xuồng máy tấn công (MTM) Ý thuộc hải đội MAS vào ngày 26 tháng 3 năm 1941.Sáu xuồng máy tấn công được tung ra từ các tàu khu trục Crispi và Sella đã xâm nhập vào trong bên cảng,nhắm vào ba mục tiêu theo từng cặp: York, tàu chở dầu Pericles và một chiếc khác cùng đang thả neo tại đây. Ba chiếc xuồng máy tấn công gặp trục trặc về cơ khí hoặc con người, do điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt, nhưng ba chiếc còn lại đã tấn công các mục tiêu.Chiếc xuồng máy tấn công do Đại úy Luigi Faggioni điều khiển,mang theo 300 kg (667 lb) chất nổ, đã đâm trúng York phía giữa tàu, làm ngập nước cả hai phòng nồi hơi và và một phòng động cơ, khiến nó bị chìm xuống đáy cảng ở vùng nước nông và làm thiệt mạng hai thành viên thủy thủ đoàn. Tàu ngầm Anh HMS Rover được cho tách ra từ Alexandria để đến hỗ trợ cấp điện cho nó, nhưng vào ngày 24 tháng 4 chiếc tàu ngầm bị hư hại nặng bởi một cuộc không kích, nên người ta từ bỏ mọi nỗ lực nhằm trục vớt con tàu. York bị phá hủy bởi thuốc nổ vào ngày 22 tháng 5 năm 1941.Một số vũ khí của nó được tháo dỡ để bố trí chung quanh Crete nhằm phòng thủ hòn đảo.Sau chiến tranh, xác tàu đắm của York được cho kéo đến Bari và được tháo dỡ vào năm 1952.

HMS Exeter (68) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp York. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai khi đối đầu với thiết giáp hạm bỏ túi Đức Admiral Graf Spee trong trận River Plate vào ngày 13 tháng 12 năm 1939, và bị hư hại nặng khiến phải mất thời gian để sửa chữa.Sau đó Exeter được gửi sang Viễn Đông và bị tàu chiến Nhật Bản đánh chìm vào năm 1942.

Thiết kế và chế tạo

Exeter được đặt hàng hai năm trễ hơn con tàu chị em York, nên thiết kế của nó tích hợp những cải tiến nhờ kinh nghiệm hoạt động của chiếc dẫn trước. Mạn thuyền rộng hơn 0,3 m (1 ft) để chịu đựng trọng lượng bên trên nặng hơn,Và lổ thoát khí của các nồi hơi được sáp nhập ra phía sau, cho phép các ống khói thẳng đứng cách xa cầu tàu, thay vì dạng nghiêng như trên chiếc York để giữ cho khói thoát ra cách xa cầu tàu.Kết quả là các cột ăn-ten được đặt thẳng đứng, và ống khói phía sau dày hơn cho hợp kiểu dáng.Cũng vì thế, cầu tàu được hạ thấp, trong khi York được nâng cao do dự tính bố trí máy bay phía trước, và thiết kế cầu tàu của Exeter là kiểu vây kín hiện đại, được tích hợp trên mọi thiết kế tàu tuần dương sau này.Vì nóc của tháp pháo chính 203 mm (8 inch) không đủ mạnh để mang máy phóng dự định cho chiếc York, Exeter có một cặp máy phóng cố định hướng chéo ra ở giữa tàu, và một cần cẩu thu hồi bên mạn phải.Exeter được đặt lườn vào ngày 1 tháng 8 năm 1928 tại xưởng hải quân Devonport, Plymouth, Devon. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 7 năm 1929 và hoàn tất vào ngày 27 tháng 7 năm 1931.

Cải biến

Vào năm 1932, Exeter được thêm những tấm thép hông giữa tàu cho đến sàn phía trên để đóng kín sàn chính dạng mở kéo dài đến ống khói phía sau (không như lớp County, lớp York không có sàn tàu phẳng). Điều này cung cấp thêm những khoảng kín để ở và làm việc.Đến năm 1935, các súng máy Vicker nhiều nòng được dự định cuối cùng cũng được thay thế bằng pháo phòng không QF 2-pounder. Vào đầu chiến tranh, các khẩu pháo 102 mm (4 inch) nòng đơn được thay thế bằng kiểu Mark XVI nòng đôi hiện đại, và khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đơn được bổ sung trên cả hai tháp pháo 'B' và 'Y'. Radar cảnh báo trên không Kiểu 286 được bổ sung, đòi hỏi phải thay thế cột ăn-ten bằng kiểu ba chân,loại radar bước sóng mét đơn sơ này có các ăn-ten truyền (Tx) và nhận tín hiệu (Rx) riêng biệt, mỗi chiếc trên một đầu cột. Radar Kiểu 284 được trang bị trên tháp kiểm soát hỏa lực bên trên cầu tàu để cung cấp thông tin tầm xa và điểm rơi của đạn pháo.

Lịch sử hoạt động

Khi hoàn tất, Exeter gia nhập Hải đội Tuần dương 2 thuộc Hạm đội Đại Tây Dương, nơi nó phục vụ từ năm 1931 đến năm 1934. Vào năm 1935 nó được bố trí đến Châu Mỹ và West Indies Station cho đến năm 1939, và được tạm thời bố trí đến Địa Trung Hải trong cuộc khủng hoảng Abyssinia trong những năm 1935 và 1936.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, Exeter cùng với tàu tuần dương HMS Cumberland tham gia hình thành nên Hải đội Nam Mỹ.Cùng với các tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Ajax và HMNZS Achilles thuộc lớp Leander,nó đã đối đầu với thiết giáp hạm bỏ túi Đức Admiral Graf Spee trong trận River Plate vào ngày 13 tháng 12 năm 1939, mà cuối cùng đã đưa đến việc Admiral Graf Spee phải tự đánh đắm nhiều ngày sau đó.Trong trận này, Exeter đã hoạt động như một đội riêng của chính nó, trong khi Achilles và Ajax thuộc đội bên kia, nhằm chia tách phân tán hỏa lực của Graf Spee. Exeter bị bắn trúng bảy quả đạn pháo 279 mm (11 inch) cùng nhiều phát suýt trúng gây hư hại đáng kể bởi mảnh đạn pháo, khiến 61 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng cùng 23 người khác bị thương.Tất cả ba tháp pháo 203 mm (8 inch) đều bị loại khỏi vòng chiến, và tốc độ của con tàu bị giảm còn 33 km/h (18 knot), buộc nó phải rút lui khỏi trận chiến. Exeter hướng đến cảng Stanley thuộc quần đảo Falkland để được sửa chữa khẩn cấp, vốn kéo dài cho đến tháng 1 năm 1940, rồi sau đó quay trở về Devonport bằng chính động lực của nó để được sửa chữa toàn diện từ tháng 2 năm 1940 đến tháng 3 năm 1941. Trong khi đang được sửa chữa, vị chỉ huy của nó, Đại tá Hải quân W.N.T. Beckett MVO DSC từ trần vào ngày 10 tháng 3 năm 1941 tại bệnh viện Saltash,do biến chứng của cuộc phẩu thuật liên quan đến những vết thương mà ông mắc phải trước đó.Ông từ trần đúng vào ngày Exeter dự định hoạt động trở lại.Vị trí của ông được thay thế bởi Đại tá Hải quân Oliver Loudon Gordon.Khi quay trở lại hạm đội vào năm 1941, Exeter tham gia hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương, bao gồm đoàn tàu vận tải WS-8B đi đến Trung Đông vào lúc diễn ra việc đánh chìm thiết giáp hạm Bismarck. Sau đó, nó chuyển sang Viễn Đông.Khi Đế quốc Nhật Bản tham chiến vào tháng 12 năm 1941, Exeter nằm trong thành phần lực lượng hải quân của ABDA để bảo vệ Đông Ấn thuộc Hà Lan (Indonesia) khỏi sự xâm chiếm của Nhật Bản.

Bị mất

Vào ngày 27 tháng 2 năm 1942, Exeter bị hư hại trong trận chiến biển Java khi nó trúng phải một quả đạn pháo 203 mm (8 inch) vào một phòng nồi hơi, và bị buộc phải quay trở về Surabaya để sửa chữa. Tàu khu trục HMS Electra được cử đi theo hộ tống cho việc rút lui của nó bị đánh chìm.Hai ngày sau, khi tìm cách đi đến eo biển Sunda, nó bị đánh chặn bởi các tàu tuần dương hạng nặng Nhật Bản Nachi, Haguro, Myoko và Ashigara cùng các tàu khu trục Akebono, Ikazuchi, Inazuma, Yamakaze và Kawakaze vào sáng ngày 1 tháng 3 năm 1942. Trận chiến biển Java thứ hai diễn ra, gọi đúng là Trận chiến ngoài khơi đảo Bawean, và Exeter nhanh chóng bị hư hại bởi hỏa lực pháo, một phát bắn trúng đã làm mất điện toàn thể con tàu.Thuốc nổ được cho kích nổ để tự đánh đắm và con tàu bắt đầu chìm, thoạt tiên bị nghiêng sang mạn trái nhưng rồi trúng phải một quả ngư lôi phóng từ tàu khu trục Inazuma bên mạn phải,khiến nó cân bằng trở lại trước khi lật nghiêng sang mạn phải và bị chìm vào khoảng giữa trưa.Các tàu khu trục theo hộ tống nó HMS Encounter và USS Pope cũng bị mất;Pope tạm thời thoát ra khỏi trận đánh, để rồi bị không kích đánh chìm chỉ vài giờ sau đó.Khoảng 800 thủy thủ Đồng Minh, bao gồm chỉ huy của chiếc Exeter,Đại tá Hải quân Oliver Gordon, được quân Nhật vớt lên và trở thành tù binh chiến tranh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro