Mê tông chi quốc(tt)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 5: Stupa

Sấm vang chớp giật, trấn động cả vùng núi hoang dã, mây đen dày đặc vần vũ khắp bầu trời, hốt nhiên xuất hiện chiếc tiêm kích vận tải lặng lẽ như bóng u linh, nó lượn qua đỉnh đầu mọi người, rồi lặng lẽ biến mất trong màn đêm thăm thẳm.

Có người nhiều lần từng nhìn thấy bóng dáng những “con tàu ma” lảng vảng trong khu vực tam giác Bermuda, cũng có những quả ngư lôi được phóng ra từ tàu ngầm mấy chục năm về trước, đến nay vẫn lởn vởn ngao du trên mặt biển. Nhưng từ trước đến nay chưa hề nghe ai nói, trên bầu trời sẽ xuất hiện một chiếc “máy bay u linh” đã mất tích từ hơn hai mươi năm trước.

Trên mỏm núi, đội thám hiểm ai nấy đều tròn mắt kinh ngạc nhìn chăm chú, quả thực khó mà tin được những gì vừa nhìn thấy, lẽ nào chiếc máy bay vừa lượn sát mặt đất khi nãy đúng là chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Anh bị mất tích trong khe cốc khổng lồ ở núi Dã Nhân? Rốt cục nó là thực thể hay u hồn? hay chỉ là hình ảnh còn lưu lại từ mấy chục năm trước được truyền dẫn qua sóng điện mây mù, giống như chiếc bóng ảo ảnh xuất hiện bởi hiện tượng khúc xạ ánh sáng?

Ngọc Phi Yến thầm hoang mang trong lòng, giờ đây lại không có Khương sư phụ kinh nghiệm lọc lõi ở bên cạnh, cô càng cảm thấy đơn thương độc mã hơn bao giờ hết, không nhịn nổi liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Anh nghĩ vật chúng ta vừa nhìn thấy là vật gì vậy?”

Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Cô là thủ lĩnh, lại là dân hối tử trộm mộ, chuyện người sống cô hiểu rõ hơn tôi, chuyện người chết cô cũng thông thạo hơn tôi, bây giờ đến cô còn chả biết thì tôi biết thế quái nào được?”

Ngọc Phi Yến hận Tư Mã Khôi đến nỗi nghiến răng ken két, nhưng cũng không biết phải làm sao: “Bây giờ tôi cũng chẳng có cách gì giải thích, nhưng tôi thấy chiếc máy bay tiêm kích bay trên trời hình như hướng về mỏm núi phía đối diện, chúng ta đành bám đuôi xem rốt cục nó là gì, rồi phân tích phán đoán sau cũng chưa muộn”.

Tuy chưa đến lúc mặt trời lặn, nhưng dưới ảnh hưởng của cơn bão nhiệt đới cuồng bạo, trên đầu mây đen bủa vây, cả vòm trời đen thui như đít nồi, cho dù hai người đứng gần nhau mặt đối mặt, thì vẫn chẳng thể nhìn rõ đối phương, những dụng cụ chiếu sáng mang theo người giờ đây gần như không thể phát huy tác dụng. Đội thám hiểm chỉ còn biết mượn ánh sáng lóe lên trong khoảnh khắc ngắn ngủi của những tia sét rạch ngang bầu trời, họ đi xuyên qua cánh rừng rậm um tùm, truy lùng theo phương hướng mất hút của chiếc bóng máy bay quái dị, gian nan tiến từng bước về phía trước.

Cơn cuồng phong ù ù gầm rít thét gào, cuốn cả cánh rừng nguyên sinh trong núi Dã Nhân vào vòng xoáy của nó, tiếng sấm réo ùng ùng ngầm dự báo cơn mưa dữ dội như trút nước sắp chuẩn bị tràn về. Dưới sự công kích của cơn bão nhiệt đới hung bạo, gần như tất cả khu vực trong rừng đều trở nên nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có khả năng xảy ra lũ lụt, lở đất trượt đá.

Nhưng căn cứ theo ghi chép của không quân Anh để lại, thì khe cốc khổng lồ nằm ở phần bụng núi Dã Nhân, là một nơi có dải địa hình tương đối hiếm có, nó vốn là hẻm núi được hình thành do lòng núi khô cạn bửa ra làm đôi. Nếu dùng cách miêu tả trực quan hơn, thì khe cốc khổng lồ này chính là một tòa động huyệt nằm ẩn sâu dưới lòng đất, có thể suy đoán, nó được hình thành bởi những mạch nước không ngừng lõm xuống từ hàng triệu năm trước, độ sâu lên đến hàng ngàn mét, hướng chạy của sơn động gần như vuông góc với mặt đất, cửa động tương đối nhỏ hẹp, càng vào trong càng rộng rãi hơn, đây là một hiện tượng địa chất vô cùng đặc biệt, nó không dễ bị lũ lụt từ những nơi thấp đổ về. Đối với đội thám hiểm mà nói, trong điều kiện thời tiết ác nghiệt như hiện nay, chỉ cần nghĩ cách tránh không để đất đá trong lòng núi sụt lở rơi trúng người, thì vào sâu trong lòng động lại là biện pháp tương đối an toàn hơn cả.

Ở nơi sâu trong khe cốc khổng lồ, quanh năm sương khí mịt mù, chẳng ai rõ rốt cục đám sương mù dày đặc đó là thứ gì, càng không rõ căn nguyên xuất hiện của nó. Mấy chục năm trước, chiếc tiêm kích vận tải của quân đội hoàng gia Anh rơi xuống núi, lại vừa vặn mất tích trong biển sương mênh mông. Khi ấy, do ảnh hưởng của việc thay đổi thời tiết, vị trí của mây mù xuống tương đối thấp, có thể thấp thoáng nhìn thấy cửa động sâu hun hút của khe cốc, vậy mà trải qua một quãng thời gian dài, lượng sương mù từ nơi sâu trong khe cốc đã trào ra, phủ kín khắp phạm vi mấy chục dặm bán kính vuông, thành ra rất khó phán đoán vị trí của nó một cách chuẩn xác.

Đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, vốn định thông qua con đường Stilwell để tiếp cận khe cốc, như vậy sẽ tránh được những trở ngại do các nhân tố tự nhiên bao vây phía ngoài núi Dã Nhân gây nên, rồi từ động huyệt dưới lòng đất tìm kiếm lối ra bị sương mù che khuất. Kế hoạch là vậy nhưng trong thời gian thực hiện lại có quá nhiều biến cố xảy ra, giờ đây khí hậu thay đổi dữ dội, trong biển cây cối xanh mênh mông, rất khó phán đoán chính xác phương vị. Cả đội đành phải hành sự theo diễn biến tình hình thực tế, đổ ra truy lùng cái bóng bí ẩn của chiếc phi cơ ma quỷ biến mất sau mỏm núi. Đây là đầu mối duy nhất hiện có trong tay, đồng thời cũng là tia hi vọng sống còn của cả đội.

Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải lần mò từng bước trong rừng rậm đi trước mở đường. Tất cả những gì tầm mắt có thể nhìn thấy chỉ là tàn tích của những bức tường thành tan hoang sụp vỡ, trải qua bao bãi bể nương dâu, bị gió mưa xâm thực phá hủy. Tháp cổ đổ nát khắp nơi, chỉ còn lại mỗi cái móng trơ gan cùng tuế nguyệt. Thấp thoáng ẩn hiện dưới bức màn thảm thực vật um tùm dày kín là một bức tượng điêu khắc hình đầu người to lớn khác thường nằm đổ ngang trên mặt đất, từ sau những rễ cây cổ thụ đan kết ngoằn nghoèo chồng chéo lên nhau, đôi mắt tượng chiếu ánh nhìn đăm đăm khiến người ta không khỏi cảm thấy rợn tóc gáy.

Càng đi vào sâu, vết tích càng nhiều, rõ ràng trong những năm tháng xa xưa đã trôi vào dĩ vãng từ rất lâu, núi Dã Nhân quả thực từng có một thời đoạn lịch sử rất đỗi huy hoàng trần phong, rốt cục đó là nền văn minh hiển hách như thế nào? Vì sao lại không hề có bất kỳ tài liệu ghi chép liên quan nào? Và ai xuất phát vì mục đích gì mà cố tình hủy hoại tất cả những vết tích cổ xưa vốn có thể vén bức màn bí mật che đậy gương mặt thật của nó?

Dân gian Miến Điện lưu truyền một thuyết pháp: “Để bảo vệ bí mật chôn vùi trong núi Dã Nhân, người xưa đã cài đặt trùng điệp những cạm bẫy và trở ngại, bất kỳ kẻ nào vọng đồ rình trộm bí mật này, đều dính lời nguyền tà ác, cho dù chết đi cũng khó lòng giải thoát”. Bởi vậy người bản địa sợ núi Dã Nhân hơn cả sợ quỷ, không ai dám lại gần nó nửa bước.

Rất lâu trước đây, Tư Mã Khôi đã sớm nghe đồn về những truyền thuyết này, lúc đó anh còn không tin lắm, nhưng giờ đây khi bản thân cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự, mới hiểu trong núi Dã Nhân quả thưc ẩn chứa quá nhiều bí mật. Tuy anh tham gia quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện gần chục năm nhưng lại không biết rõ lắm về lịch sử cổ đại của Miến Điện, Campuchia. Anh vừa đi vừa hỏi Ngọc Phi Yến ở phía sau: “Theo cô, trong núi có mộ cổ không?”

Ngọc Phi Yến trả lời: “Tôi chưa bao giờ nghe nói trong núi Dã Nhân có huyệt mộ gì cả, những nước Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam v.v… đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn minh Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại, lăng tẩm các đế vương quý tộc trong lịch sự đều vô cùng chú trọng đến vấn đề “thành phủ thâm u”, tất cả những di tích mà chúng ta vừa gặp trên đường tuy rằng cổ quái nhưng không giống với hình dáng những loại tồn tại trong mộ táng. Về điểm này, tôi khẳng định không thể nhìn lầm”.

Tư Mã Khôi nói: “Nhưng ngọn núi sâu này lại có vẻ còn thần bí hơn cả thành phủ trong mộ cổ, xem ra việc tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích của quân Anh còn khó khăn gấp nhiều lần so với dự tính. Theo tôi đoán, khe cốc khổng lồ ở núi Dã Nhân quá nửa là tồn tại một vật gì đó mà chúng ta khó lòng tưởng tượng nổi”.

Ngọc Phi Yến cũng có cùng linh cảm như vậy, cô gật đầu nói: “Đúng là một cõi u mê tăm tối, nghe vô thanh, nhìn vô ảnh, thần quỷ khó lường…”, đang nói nửa chừng, bất chợt cuồng phong kẹp vô số những giọt mưa to như hạt đậu nành từ giữa không trung xối xả dội xuống, đánh rát cả mặt, mọi người không thể ngẩng mặt lên nổi, Ngọc Phi Yến hạ kính chắn gió trên mũ dã chiến xuống, sau đó đưa mắt nhìn lên nơi cao, thúc giục hội Tư Mã Khôi: “Trận mở màn của Stupa đã bắt đầu, nếu các anh không muốn mất mạng, thì phải đi nhanh hơn mới được”.

Tư Mã Khôi biết, trong tiếng Miến Điện, “Stupa” là phiên âm của từ “Buddha”. Nghe nói từ này bắt nguồn từ Ấn Độ, nước lân bang phía tây Miến Điện, chính xác hơn thì đó là tiếng Phàn của người Ấn Độ cổ, nghĩa gốc của nó vốn để chỉ tháp cổ, còn có nghĩa là ngôi mộ hình vuông hoặc hình tròn, bởi vì tháp ở Ấn Độ đều là những mộ phần để an táng thi hài các bậc thánh tăng hoặc nơi cất đặt xá lị Phật tổ. Bởi vậy từ Buddha, ngoại trừ chỉ tháp Phật ra, còn ngầm có một tầng ẩn ý ám chỉ việc “mai táng”.

Chẳng rõ ai đã đặt tên cho cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương, di chuyển với tốc độ 140 km/h này là Stupa. Nhưng theo thông lệ từ trước đến nay, phàm những cơn bão có tên hiệu liên quan đến thần phật, thì cấp độ đều không thể là loại nhỏ, nó chắc chắn sẽ mang theo thiên tai với quy mô nhất định. Những nơi bão quét qua đều khiến nhà đổ cửa sập, ngay cả cây cổ thụ ngàn năm tuổi cũng bị nhổ bật gốc, sức tàn phá của nó giống như sức mạnh vô biên của Phật tổ, tát bể rời non, khiến chúng sinh chốn trần gian khốn đốn, không thể chống cự.

Miền Trung và miền Nam Miến Điện là khu vực đồng bằng bình nguyên, thuộc dải khí hậu nhiệt đới gió mùa mang theo mưa lớn, nhưng sang miền Bắc, địa hình bắt đầu thay đổi với hệ thống đồi núi phức tạp, càng ngược về Bắc càng xuất hiện nhiều núi cao vực thẳm, rừng sâu cốc hẹp. Còn về khu vực núi Dã Nhân, thì hẳn là nơi đường xa, núi hiểm, từ xưa đến nay thủy chung rơi vào trạng thái tuyệt đối kín bưng. Cơn bão nhiệt đới từ vùng ven biển cập vào đất liền, sau khi xuyên qua vùng bình nguyên rộng lớn ở Miến Trung, thì lại gặp sự cản trở của vùng sơn địa, khiến sức gió dần dần giảm xuống, bởi thế nếu là những cơn bão có quy mô nhỏ thì rất khó chạm tới núi Dã Nhân. Nhưng giờ đây cơn bão nhiệt đới Buddha thực sự cuồng bạo, dữ dội chẳng khác chi Stupa, nên núi Dã Nhân Bắc Miến mới đành thúc thủ chịu sự khảo nghiệm hà khắc của trời đất. Thảm thực vật sinh sôi nảy nở um tùm rậm rạp ở đây, cùng với vô số động huyệt nông sâu khác nhau đều là những tác nhân khiến địa tầng và lòng núi trở nên yếu ớt khác thường, nếu không tìm được nơi ẩn nấp an toàn thích hợp, thì dãy núi cao chập trùng bị rừng nguyên sinh che phủ này thực sự sẽ trở thành mộ địa chôn thây tất cả các thành viên của đội thám hiểm.

Tư Mã Khôi tự biết cân đối nặng nhẹ, hiểu rằng không thể lề mề chậm chạp, anh và Hải ngọng hai người đội mưa to gió lớn, liều mạng phạt đứt những lùm cây bụi dây leo rậm rịt cản đường, gắng sức leo lên các mỏm núi phía trên cao. Tư Mã Khôi cũng liệu định trước, nơi sâu trong khe cốc ở núi Dã Nhân chắc chắn mai phục vô số hiểm nguy ghê gớm. Trước đây, không biết bao nhiêu nhà thám hiểm và phân đội cứu nạn đặc phái của quân đội đều đứt ở trong này, quân Anh, quân Mỹ hoàn toàn bó tay bất lực với nó, so với đội quân được trang bị vũ khí khoa học tối tân đặc biệt, thì mấy kẻ sống sót vừa may mắn bước ra từ lãnh địa của thần chết như hội anh có thể tìm thấy món hời gì ở nơi đây? Nhưng tình thế ép người ta làm liều, biết rõ đã đi là chẳng còn đường về, nhưng cũng không thể không hô quyết tâm mà ngẩng đầu ưỡn ngực lao vào.

Đội thám hiểm dò dẫm đi từng bước nơi gần đường gờ của mỏm núi, trong cơn mưa như trút giăng mắc mịt mùng khắp cánh rừng, mượn ánh sáng của sấm chớp, mọi người nhìn thấy lòng núi dưới chân gồ đội lên như hình nón, trong khi chóp nón giống như bị ai đó phạt đứt, lộ ra một hẻm núi khổng lồ, rộng rãi, sâu hun hút, vết nứt không theo quy tắc vươn dài ra hai đầu Nam Bắc, dài đến mười mấy dặm, chỗ hẹp nhất cũng rộng không dưới trăm mét, giống như một cái miệng rộng ngoác, đen ngòm đang há to trên bề mặt núi, dường như cánh cửa thông với địa ngục đang mở ra ngay trước mắt.

Phần lộ ra trong lòng núi là những tầng nham thạch màu xanh đen, treo lủng liểng vô số loài dây leo, khiến nó trông càng sặc sỡ và quái dị hơn. Mưa gió từng cơn nối tiếp từng cơn, khiến màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất bị tiêu tan hoàn toàn, nhưng ở nơi sâu trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân vẫn miên man mây mù, u tối mênh mông, chẳng thể nhìn thấy đáy.

Trước đây, mọi người không chỉ một lần thử tưởng tượng, xem khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân nơi chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích, rốt cục trông như thế nào, nghĩ đĩ nghĩ lại, thì chẳng qua cũng chỉ hình dung nó là một hẻm núi sâu trong lòng núi, nó chắc chắn không thể hùng vĩ nguyên thủy như hẻm núi Grand Canyon ở Mỹ, cũng không thể khí nuốt vạn tượng như thung lũng chữ thập ở Châu Phi, chỉ có điều nó là một động huyệt nằm sâu dưới lòng đất và hướng chạy dựng đứng mà thôi.

Nhưng đến tận thời khắc này, khi mọi người mạo hiểm băng qua làn mưa như thác đổ, đứng trên mép vực của sơn cốc, mới thực sự cảm nhận một cách sâu sắc về địa thế đáng sợ, nguy hiểm tột cùng của nó. Những người từng tận mắt chứng kiến, đều không thể không kinh hoàng. Bởi đứng trước nó sẽ khiến bạn vô thức nảy sinh ảo giác như thể đang đứng trước vực thẳm sâu vạn trượng, chỉ cần nhìn lâu một chút sẽ lập tức hoa mắt chóng mặt, dường như dưới lòng đất có một thế lực khủng bố vô hình nào đó đang tồn tại, khiến người ta lạnh thấu tim phổi. Đó là cảm giác trấn động chân tâm khó có thể diễn tả bằng lời, là sự trống rỗng từ một nơi xa xôi, sâu thẳm nào đó trong linh hồn, là nội hàm to lớn không thể đo lường.

Hồi 6: Cường quang

Cùng với sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha, mưa gió càng ngày càng trở nên hung bạo. Quần thể thực vật trong rừng rậm nguyên sinh phân bố cao thấp, giao hòa vào nhau, một số thân cây có rễ ăn nông trên mặt đất, độ bảo vệ và bám víu không được chắc chắn lắm, liền bị cuồng phong thổi bật gốc, hoặc nếu không cũng bị phạt đứt ngang thân, một số thực vật khác to lớn lực lưỡng, sức sống tương đối bền bỉ dẻo dai hơn thì cũng bị cuồng phong quật nghiêng ngả theo luồng gió cuốn. Giông tố cuồng phong và sấm vang chớp giật gầm réo khắp không trung, nuốt chửng tất cả âm thanh dưới vòm trời.

Hội Tư Mã Khôi đứng trên mép sơn cốc, tay bám chặt lấy mấy thân cây cổ thụ to đến một vòng ôm không xuể trên mỏm núi, nằm rạp xuống đưa mắt ngó xuống đáy hẻm núi, thì cảm thấy mưa gió mỗi lúc một mạnh bạo hơn, trận mưa này đúng chẳng khác nào đổ nước biển Đông, trút sông Ngân Hà, mỏm núi giờ không còn là chỗ có thể trú chân an toàn được nữa. Nhờ vào ánh sét sáng trắng rạch ngang bầu trời, có thể nhìn thấy dây leo bám chằng chịt vào bức tường cổ trong lòng hẻm núi, vách treo dựng đứng, hướng đi gần như vuông góc với mặt đất, nơi sâu nhất mây mù dày đặc mênh mang, hoàn toàn che khuất tầm nhìn, dây thừng đội thám hiểm mang theo chỉ có hạn, mà cho dù buộc tất cả dây thừng lại với nhau, rồi thả xuống lòng động huyệt sâu không thể lường này, thì chắc chắn cũng chẳng thể vươn tới đáy.

Đang đợi tìm một chỗ có thể trèo xuống, nào ngờ chiếc cáng mà Tuyệt và Karaweik đang khênh không chịu nổi sức gió, vừa bị cuồng phong tạt một cái, phút chốc đã căng như cánh buồm, Thảo Thượng Phi đang nằm trong cáng, người gầy khô chỉ còn lại nắm da bọc xương, chẳng địch lại nổi, một trận cuồng phong quét qua khiến cả người lẫn cáng đều bị cuốn vào không trung, nhẹ như cánh hoa bay theo chiều gió.

Tư Mã Khôi phát hiện chiếc cáng tuột ra khỏi tay Tuyệt, ngay sau đó nhìn thấy một bóng người vụt qua trước mắt, liền vội vàng giơ tay định bắt, nhưng lại tóm hụt, trong cơn cuồng phong giông tố mà cơn bão nhiệt đới Buddha mang tới, trước mắt chỉ nhìn thấy một màn đêm đen xì xì, trong chớp mắt đã chẳng nhìn thấy thân thể Thảo Thượng Phi rơi về phương nào. Tư Mã Khôi khẽ thở dài, lòng thầm nghĩ nếu có trách thì chỉ biết trách cái tên Thảo Thượng Phi đặt không hay, kiếp sau có lẽ nên đổi là “Trùy ngàn cân” mới thỏa đáng.

Lúc này, khu vực gần mép núi đã chẳng thể trú chân được nữa, may mà còn nhìn rõ địa hình, mọi người đang định đội mưa gió rút lui xuống sườn núi, tìm một nơi nhỏ hẹp bằng phẳng hơn tiến xuống đáy sơn cốc, nhưng dưới áp lực của gió bão hung dữ, ngay bước chân cũng không di chuyển nổi, cả cây cổ thụ đang bám trong tay cũng bị gió thổi ngả nghiêng như muốn đổ gục, giờ đây đúng là tiến thoái lưỡng nan.

Ngọc Phi Yến nhận thấy trên núi quá sức nguy hiểm liền vội vàng huých Tư Mã Khôi, ra hiệu cho mọi người phải tức khắc mạo hiểm bò xuống dưới sơn cốc. Tư Mã Khôi cũng biết đây là kế sách duy nhất có thể thực hiện trong lúc này, liền nắm lấy tay Karaweik, bảo cậu bé hãy theo sát mình, rồi tóm lấy một sợi rễ cây cổ thụ to như cánh tay người, từ từ tụt xuống dưới.

Lòng sơn cốc tuy cũng chịu ảnh hưởng bởi cơn bão nhiệt đới, nhưng dưới tác động của địa hình đặc biệt, ở nơi sâu có những dòng khí đối lưu quanh năm lượn vòng khiến mưa gió khó lòng xâm nhập vào bên trong. Từ vách đá bò xuống mấy chục mét, đã không còn cảm thấy tiếng gió thổi ù ù trên mặt đất, lượng mưa cũng giảm đi khá nhiều.

Tư Mã Khôi xuống đến độ sâu ngoài trăm mét, thì nhìn thấy sương khí dưới chân đặc quánh ngưng tụ, nếu còn xuống sâu hơn, thì sẽ lọt vào đám sương dày mênh mông. Loại sương mù đậm đặc này lai lịch bất minh, tuy bản thân sương mù hoàn toàn vô hại đối với cơ thể con người, nhưng nó cũng khiến những chất ô nhiễm trong không khí không dễ phát huy, rất có khả năng sẽ trở thành “sương mù sát nhân” khiến con người tử mạng.

Tuy cơn bão nhiệt đới Buddha khiến khí hậu thay đổi theo chiều hướng xấu, thổi tan tác đám sương mù trào ra từ lòng đất ở núi Dã Nhân, sương mù trong khe cốc khổng lồ cũng chịu sự áp chế của cơn giông tố, mà dần dần hạ thấp xuống với tốc độ chậm chạp. Nhưng trong động huyệt vẫn hoàn toàn bị mây mù che phủ kín mít, nông sâu khó lường, trong màn sương bí ẩn ngưng tụ không thể tiêu tán, tử khí bốc lên nặng nề, không rõ ẩn chứa những hung hiểm gì. Cho dù chiếc tiêm kích vận tải đúng thật rơi xuống chỗ này, nhưng đội thám hiểm phải đi vào màn sương mù hạn chế tầm nhìn đến cực độ, tiến hành tìm kiếm khắp khu vực rộng lớn, sâu hút như vậy, thì cũng chẳng khác nào mò kim đáy biển, cơ hội thành công rất đỗi mờ mịt, mong manh. Không những vậy, suốt chặng đường mệt muốn đứt hơi, mọi người đi đến đây đều sức cùng lực kiệt, cảm thấy khó có thể gắng gượng thêm được nữa.

Ngọc Phi Yến thấy đội thám hiểm đã thoát khỏi sự công kích của cơn bão nhiệt đới và vào đến lòng sơn cốc, theo tình hình lúc này, thì nên dừng chân hạ trại, không nên gấp gáp quá, kẻo cuối cùng lại hóa công cốc. Nghĩ vậy, cô ả bèn bảo mọi người ngừng chân nghỉ ngơi, đợi khi đám sương bí ẩn kia xuống thấp hơn nữa mới tiếp tục hành động.

Ở giữa hai vách đá trong lòng sơn cốc, mọi người tìm thấy một cái động lõm bị dây leo rừng phủ đầy, độ nông sâu rộng hẹp vừa đủ để mấy người bọn họ chen chúc chui vào, nhóm một đống lửa, hong khô quần áo vừa ướt sũng nước mưa, đồng thời giở lương khô ăn lót dạ, bên tai vẫn nghe thấy tiếng mưa rơi lào rào, trong những khe đá sát bên cạnh vẫn vọng lại tiếng gió càn quét ù ù. Cả đội trú chân ở nơi hiểm ác “đầu không chạm trời, chân không chạm đất”, trong lòng không khỏi thót tim quặn bụng, làm sao có thể yên tâm nghỉ ngơi.

Trong thời gian một ngày ngắn ngủi, Ngọc Phi Yến liên tục bị chặt đứt mấy thuộc hạ đắc lực như tay trái tay phải, trong lòng đương nhiên không tránh khỏi cảm giác đau buồn, hoảng loạn, ngẫm nghĩ thấy giờ đây bên mình chỉ còn lại mỗi gã Gấu trắng người Nga, mà người này vì tránh né sự thống trị của bức màn sắt Nga – Xô Viết, mới chạy lưu vong sang dải đất Đông Nam Á, gã từng ở địa phận vô chính phủ khắp giữa ba nước Miến Điện, Campuchia, Thái Lan bán mạng cho quỷ dữ để trồng anh túc, việc giết người đối với gã đã trở thành bản tính, một khi thú tính trỗi dậy sẽ lập tức trở mặt không nhận người, sau đó do gây ra đại họa, bị người ta cắt mất nửa cái lưỡi, mới đành tháo chạy xuống eo biển Malacca, cuối cùng chuyển đến đầu quân làm thuộc hạ của Ngọc Phi Yến, hắn ta tính tình hung tàn, lạnh lùng, tâm địa khó dò, không đáng tin cậy.

Lúc này, người mà Ngọc Phi Yến có thể gửi gắm niềm tin và hi vọng chỉ có bốn thành viên trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện mà thôi. Lúc đầu cô ả chỉ định dẫn theo Karaweik – cậu bé có thể tìm thấy con đường U Linh và thông thạo khu vực chôn vùi địa lôi ngầm, nhưng giờ đây, khi ngoái đầu nhìn lại chặng đường đã qua, cũng may nhờ lôi kéo Tư Mã Khôi vào nhập hội, nếu không hậu quả thực chẳng dám nghĩ đến. Ngọc Phi Yến dự định sau khi mọi việc thành công, sẽ lôi kéo, mua chuộc mấy người này gia nhập băng đảng của mình, cái cô tinh thông y thuật, giỏi nắn xương tên là Tuyệt gì đó còn có vẻ dễ thuyết phục, chứ hai gã Tư Mã Khôi và La Đại Hải tính tình quái đản, cứng mềm đều chẳng ưa, phải nói thế nào mới khiến họ động lòng đây? Từ trước đến nay, Ngọc Phi Yến là người đa mưu túc trí, rất giỏi lung lạc lòng người, chỉ cần động não một chút, liền nghĩ ngay ra kế sách. Nhân thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi, liền tìm đầu mối nơi Karaweik trước tiên.

Ngọc Phi Yến phát hiện cậu bé cực kỳ nhát gan, từ khi vào trong sơn cốc đến giờ cứ mãi sợ hãi đến nỗi hai hàm răng liên tục đánh cầm cập vào nhau, chẳng mở miệng nói nổi nửa lời, liền rút một miếng ngọc phỉ thúy hình ống ở trong người ra. Tổ tiên cô ả từng là giai cấp quý tộc giàu có hiển hách, miếng ngọc phỉ thúy này là một trong những báu vật gia truyền của tổ tiên, nếu bỏ nó vào chậu thau đồng đựng đầy nước sạch, sẽ phát ra ánh sáng xanh biếc sóng sánh ngập chậu, miếng ngọc quả thực là vật khác thường, vì nó còn có khả năng giúp chủ nhân tránh tà chặn nạn.

Ngọc Phi Yến cầm miếng ngọc bội, luồn sợi chỉ đỏ vào, rồi đeo lên cổ Karaweik, đồng thời nói cho cậu bé rõ tác dụng thần kỳ của nó.

Tuyệt thấy Karaweik có vẻ ngơ ngác không hiểu gì, thì nói với cậu vật này vô cùng quý giá, bảo cậu phải mau cảm ơn Ngọc Phi Yến.

Ngọc Phi Yến thầm đắc ý trong lòng, đang định nhận Karaweik là đồng hương, rồi nhân cơ hội này khiến hội Tư Mã Khôi thu nạp mình vào nhóm. Ai ngờ Tư Mã Khôi nhìn cũng chẳng thèm nhìn miếng ngọc phỉ thúy gia truyền của cô ả, quay ngoắt sang hỏi Ngọc Phi Yến: “Không có công lao mà nhận bổng lộc, e rằng ăn không ngon, ngủ không yên. Thằng nhóc Chủ Nhật này là anh em của tôi và La Đại Hải, cô tặng cho nó vật quý giá như vậy, thì bọn tôi cũng phải tặng lại cô một vật mới phải đạo chứ”.

Ngọc Phi Yến biết thái độ này của Tư Mã Khôi tức là anh không chịu nhận lễ, đang ngầm tỏ ra bất cần, liền thầm nghĩ: “Gã tiểu tử này trên người có vật gì đáng đem ra so sánh với miếng ngọc gia truyền của tổ tiên nhà mình, mà dám mặt dày mang ra đáp lễ?”

Tư Mã Khôi đọc được ý nghĩ của cô ả, liền bảo cô đừng coi thường người ta quá đáng như thế, chớ quên thuyền rách cũng còn có ba ngàn cái đinh, gia tộc họ Thắng nhà cô có món đồ chơi gia truyền, thì chúng tôi cũng có vật ông bà cụ kị để lại chứ, nói xong liền quay sang La Đại Hải liếc mắt ra dấu, ý bảo anh hãy lôi vật nhà mình ra cho Ngọc Phi Yến được mở rộng tầm nhìn.

Từ trước đến nay La Đại Hải và Tư Mã Khôi làm việc rất ăn ý, anh gật đầu tỏ ra đã hiểu, rồi lộn ngược toàn bộ các túi trái phải trước sau trên người, cuối cùng cũng lôi ra được một cây móc ngoáy tai bằng đồng có khắc hoa văn, xem công nghệ có vẻ như là sản phẩm thủ công bản địa của người Miến Điện, tuy nhìn có vẻ khá tinh sảo, màu sắc có vẻ cũng đã lâu năm, nhưng ngắm thế nào thì cũng vẫn là loại hàng chợ, mang ra đặt ngang hàng với báu vật hiếm có khác thường của Ngọc Phi Yến, quả thực trông rõ rẻ tiền, kém phẩm chất, vật này thì có giá trị gì? Nếu lỡ rơi trên đường, sợ rằng của chẳng có ai thèm nhặt.

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến nhìn chiếc ngoáy tai bằng đồng với con mắt đầy vẻ khinh thường, miệt thị, thì vờ cười nhạt một tiếng, nói với cô ả: “Thủ lĩnh! Chắc cô không hiểu về hàng họ lắm thì phải, có phải cô cho rằng vật trong tay anh em bọn tôi chẳng đáng hai hào mua cái lỗ đít gà không? Tạm thời chưa vội luận bàn đến việc đắt rẻ, nó thực sự không phải vật tầm thường đâu. Thực ra chắc cô không biết đấy thôi, chứ lúc cuối thời Thanh đầu những năm Dân Quốc, nó được mang ra từ đại nội hoàng cung đấy. Bao nhiêu năm qua, nó là bảo vật nhét đáy hòm nhà Hải ngọng, nếu chẳng phải đem tặng cho nhân vật có thân phận cao quý như cô, thì chúng tôi có sống chết gì cũng chả chịu mang ra đâu”.

La Đại Hải ở bên cạnh cũng giúp đánh trống gõ mõ, hai khóe mắt hoen hoen đỏ như thể đang xúc động dạt dào, ngậm nước mắt khuyên can Tư Mã Khôi: “Người anh em! Tớ suy đi tính lại, vẫn thấy không nỡ xa rời nó, chúng ta làm như vậy thực sự….thực sự rất có lỗi với tổ tông đó”. Nó đoạn liền định lấy vật đang ở trong tay Tư Mã Khôi mang đi.

Ngọc Phi Yến vốn dĩ cho rằng Tư Mã Khôi đang định giở trò với mình, nhưng nhìn sắc mặt trịnh trọng của bọn họ, quả không phải làm giả, chẳng lẽ mình lại nhìn lầm thật, nhưng xét cả tình và lý, thì đều nói không thông, chỉ đành hỏi lại: “Làm sao trong hoàng cung lại có loại hàng chợ này?”

Tư Mã Khôi cố tình ra vẻ bất lực nói: “Chúng tôi nói đến đâu thì biết đến đấy, hôm nay tôi kể lai lịch gốc gác của nó cho cô biết cũng chẳng hề gì, nhưng cô tuyệt đối không được loan truyền ra ngoài, vì đây chẳng phải chuyện gì phong quang cho lắm”. Ngọc Phi Yến càng cảm thấy quái dị hơn, bên trong còn có thể ẩn chứa chuyện gì không phong quang nữa đây? Thì nhìn thấy Tư Mã Khôi thò tay chỉ La Đại Hải, rồi trầm giọng nói với cô: “Chẳng giấu gì cô, cô đừng thấy Hải ngọng nói giọng khẩu âm Đông Bắc mà cho rằng cậu ta là người Đông Bắc, kỳ thực tổ tông mấy đời nhà Hải ngọng đều là người Bắc Kinh, dưới gốc rễ hoàng thành Bắc Kinh từ trước đến nay đều là nơi ngọa hổ tàng long, loại cao nhân nào mà chẳng có? Ông nội nhà Hải ngọng cũng không phải nhân vật tầm thường, mà là vị đại thái giám cuối cùng của vương triều Mãn Thanh, tên là Tiểu Đức Hải. Còn về vật này thì lai lịch càng không phải bàn, đó là vật ông nội Tiểu Đức Hải thuận tay dắt bò, tiện cầm luôn ra ngoài, lúc theo hoàng đế Phổ Nghi rời khỏi Tử Cấm Thành đấy”.

La Đại Hải nghe xong suýt chút nữa thì ngất xỉu, chửi thầm trong bụng: “Tiên sư thằng Khôi, cậu đúng là đồ một bụng nước bẩn, thấy lời là chiếm, tớ đếch thấy ai thất đức hơn cậu, có ông nội nhà cậu mới là mẹ nó thái giám ấy”. Nói là nói vậy, chứ đến nước này, anh cũng đành tiếp tục nhăn mặt, thở dài than vãn với Ngọc Phi Yến: “ Cô nghe người ta nói thế cũng chẳng sao, nhưng đã nghe thì phải nghe cho rõ đầu cua tai nheo, thực ra nội tôi ông già chẳng phải hạng trộm cắp, tiện tay lấy đồ của người đâu, chỉ là muốn lưu lại chút kỷ niệm, cái này gọi là làm người không được quên gốc gác, sau khi nước Đại Thanh của chúng ta không còn, ông già ngày nào cũng lôi cái ngoáy dáy tai này ra lễ đủ ba lạy, khấu đầu đủ chín cái, ông già vào cung từ lúc sáu tuổi, hầu hạ thái hậu và hoàng thượng quá nửa đời người, mãi đến lúc chết vẫn chưa quên tận trung với chủ đấy….”. Nói đến câu cuối cùng, dường như hoài niệm lại chuyện cũ, cảm xúc dâng trào đến nỗi nghẹn ngào chẳng nói thành lời.

Tư Mã Khôi liền vội vàng cất lời an ủi: “Nô tài mà làm được đến như vậy, thì cũng coi là chẳng còn gì phải hổ thẹn với chủ nữa rồi”.

Ngọc Phi Yến nghe đến đây thì càng sinh nghi: “Ông Tiểu Đức Hải đã là thái giám trong Tử Cấm Thành, hơn nữa lại tịnh thân, vào làm quan lúc mới sáu tuổi, thì làm gì còn sinh con đẻ cháu được nữa?”

Tư Mã Khôi vội vàng che đậy hộ Hải ngọng, nói sau khi công công Tiểu Đức Hải xuất cung, chẳng phải ông ấy vẫn phải thành gia sống nốt quãng đời còn lại sao? Kết quả là ông ấy lấy một cung nữ già làm vợ, rồi nhận nuôi một đứa con trai lúc tuổi già xế bóng, để còn giúp mình dưỡng già đưa ma, tuy không phải cha đẻ, nhưng tình cảm cha con thân thiết chẳng chê vào đâu được, cái đó gọi là “không phải ruột thịt, mà còn hơn ruột thịt”, đây chính là điểm khiến người ta cảm động nhất trong gia đình nhà La Đại Hải.

Ngọc Phi Yến nhẹ gật đầu, trong lòng vẫn còn rất nhiều nghi hoặc không giải đáp được, bèn hỏi: “Vị công công Tiểu Đức Hải đã định lấy một vật trong cung ra ngoài, sao chẳng lấy vàng bạc ngọc ngà, hoặc chí ít cũng là tranh chữ, đồ cổ, mà lại lấy cái móc ngoáy tai mang về lót dưới đáy hòm?”

Tư Mã Khôi lại khua môi múa mép bịa một hồi, nói cô đừng coi thường cái móc ngoáy tai bằng đồng chính hiệu này, những bảo vật quốc gia đều danh tiếng đúng với thực tế, vì sao ư? Bởi vì nhìn một vật cổ, cô không thể phán đoán nó sang hèn dựa vào chất liệu, mà trước tiên phải xem giá trị lịch sử, thứ đến mới là giá trị nghệ thuật của nó.

Nghe nói từ thời Đại Minh, Hồng Vũ Đế nổi dậy, tắm máu trăm trận, cuối cùng cũng đẩy lùi nhà Nguyên lui về phía bắc sa mạc Gobi, phục hồi sơn hà nhà Hán chúng ta, sau loạn Yến Vương dẫn quân tạo phản, Hán Chiêu Đế giành được ngôi báu dựng đô ở Bắc Kinh, chăm lo trị quốc, nhờ thế đất nước được hưởng thái bình, trải qua bao nhật nguyệt vần vũ, vật đổi sao rời, việc này gọi là “hoa thơm không thường nở, cảnh đẹp chẳng thường thấy”, đến những năm cuối triều đại nhà Minh, triều đình thất chính, trong nhiễu ngoài loạn, dân chúng không thể yên ổn sinh sống, đầu tiên là Đại Thuận hoàng đế Lý Tự Thành lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh, bức tử hoàng đế Sùng Trinh ở núi Môi Sơn, thay đổi triều đại thời thế, thiên hạ bách tính cứ ngỡ từ nay lại được an cư lạc nghiệp, đâu ngờ lại xuất hiện tên Tổng binh Ngô Tam Quế nổi giận vì bị cướp mất hồng nhan tri kỷ, đã mở cửa Sơn Hải Quan cho quân Thanh tràn vào, đội quân giáp sắt giương cao bát kỳ hành quân như gió cuốn tiến về Nam, đi đến đâu thắng như chẻ tre đến đó, cứ thế hùng cứ Trung Nguyên, nước Đại Thanh vẫn dựng đô ở Bắc Kinh, cô có biết vì sao không? Chỉ bởi vì vị hoàng đế Mãn Thanh đó cũng nhìn trúng ý địa hình Bắc Kinh của chúng ta, rõ ràng không phải hạng tầm thường, đất này phía bắc ngậm núi Yến Sơn, phía tây tiếp giáp núi Thái Sơn, Hành Sơn, phía Đông nuốt biển Bột Hải, phía nam trấn áp sông Hạ Thủy, núi Hoa Sơn, quả thật có thể gọi đây là “kim phủ thiên thành”, là nền móng không thể lung lay của vạn cổ ngàn năm.

Từ khi Mãn Thanh làm chủ Bắc Kinh đến nay, liên tiếp mấy đời minh quân thánh chủ, thấu thời độ thế, trọng dụng hiền tài, dân no nước đủ, trọng thị canh nông, bình định mọi cuộc phản loạn, ba phen quét sạch, cuối cùng cũng khiến bốn biển thống nhất, vạn dân quy thuận, nào ngờ, sau thời Khang Hy, Càn Long trị vì đất nước, lại chẳng ngăn cản nổi sự luân chuyển thịnh suy, phong vân biến đổi, cuối cùng cương triều bại hoại, đại cục hỗn loạn đến nỗi không thể dàn xếp nổi nữa, mắt nhìn liên quân tám nước tràn vào Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu buộc phải hoảng loạn chạy trốn, trên đường khênh kiệu tháo chạy, thời tiết hanh khô, nước non thiếu thốn, mặt trời chói chang xuyên suốt tầng không, tịnh chẳng bóng mây, lão Phật gia trong người bốc hỏa, tai ù mắt mỏi, nỗi khổ chẳng thể nói thành lời, ngự y chữa trị nhiều phương pháp nhưng vẫn vô hiệu, đúng lúc sắp sửa hấp hối lìa đời, may mà có một vị cung sử theo hầu dâng lên một cái móc ngoáy tai lung linh bát bảo mà nước Xiêm từng cống tặng trước đây, sau khi được chính tay tổng quản thái giám Lý Liên Anh ngoáy tai lấy dáy ra, mang cục dáy đặt lên bàn cân, thấy nặng hơn hai hoa, Từ Hy thái hậu hạ được nội hỏa trong người, phút chốc cảm thấy tinh thần sảng khoái, tai thông mắt rõ, bởi vậy mà sống lại, trở về Bắc Kinh chủ trương nghị hòa với bọn giặc tây, ký kết hiệp ước Tân Hợi.

Có thể nói nếu lúc đó Từ Hi thái hậu không được ngoáy tai, thì bà ta đã chẳng thể bảo toàn tính mạng trở về kinh thành. Nếu bà ta không trở về, thì công cuộc biến pháp năm Mậu Tuất của hoàng đế Quang Tự rất có thể đã thành công, còn ông cũng không cần uất ức đến phát bệnh, để rồi cuối cùng rơi vào thảm cảnh nuốt hận lìa đời. Có ai ngờ, chỉ mỗi chiếc móc ngoáy tai bé tí tẹo, lại trở thành vật chứng lịch sử chứng kiến sự thay đổi biến hóa của phong vân và những năm cuối của thời vãn Thanh bị tước quyền đoạt nước. Chẳng trách sau đó Lý Hồng Chương đại nhân lại cảm thán: “Nhọc nhằn thân ngựa đóng yên cương/ Đại sự chưa thành chết còn vương/ Ba trăm năm nước nhà suy bại/ Lủng lẳng xác dân treo dọc đường/ Thu phong bảo kiếm thầm rơi lệ/ Tà dương rọi bóng bức thành tường/ Ngoáy tai móc đồng, một báu vật(Vốn là: Phiêu du bốn bể lòng trĩu nặng)/ Đồng bào ơi hỡi, hãy lên đường”.

Đến lúc này Ngọc Phi Yến cuối cùng cũng hiểu, thì ra Tư Mã Khôi nói nhiều như thế, chẳng qua chỉ muốn thể hiện món đồ chơi rách của anh ta có giá trị phi thường, đủ sức ngang hàng với mảnh ngọc bội phỉ thúy mà mình vừa mang tặng Karaweik, tấm chân tình sâu nặng toàn tâm toàn ý phơi ra bị gã tạt một gáo nước lạnh. Đúng là minh châu bảo ngọc rơi vào tay kẻ mù, lòng tốt bị coi là lòng lang dạ sói. Càng nghĩ, cô ả càng tức lộn ruột, không nhịn nổi, đôi hàng lông mày thanh tú dựng đứng lên: “Anh coi thường tôi thế cơ à?”

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bị mình chọc tức đến nỗi gò má chuyển màu trắng bệch, nước mắt ầng ậng trực trào ra khỏi mi, trong lòng anh cũng không khỏi cảm thấy ái ngại, liền nói thẳng với cô cho rõ chuyện. Tư Mã Khôi khuyên nhủ cô cứ nhận lấy đi, tuy vật này không thể sánh với những vật cô từng nhìn thấy dưới mộ cổ, nhưng châu chấu đã nhảy vào chảo mỡ, ít nhiều gì thì cũng thành thức ăn mặn. Hơn nữa cô cũng đừng tốn công phí sức lôi kéo bọn tôi nhập hội làm gì, bao nhiêu năm nay, chưa có người nào sống sót thoát ra khỏi sơn cốc trong núi Dã Nhân. Lùi một vạn bước mà nói, cho dù chúng ta thực sự may mắn giữ được cái mạng mà ra được, tôi cũng chỉ hi vọng cô hãy thực hiện lời hứa lúc trước, dẫn Karaweik cao chạy xa bay, còn về chuyện ba người bọn tôi, cô đừng can thiệp vào nữa.

Thì ra ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt trước khi gặp nạn “Đỉa Campuchia” ăn thịt người, đã suy nghĩ rất kỹ, cho dù ba người mình may mắn mang được mạng sống rời khỏi núi Dã Nhân, thì cũng không định trốn ra nước ngoài. Bởi vì sang bên đó, trên người chẳng có sở trường, cũng chẳng có nổi nghề nghiệp nuôi thân, vì kế sinh nhai, chắc chắn sẽ bị người khác khống chế, sớm muộn gì mà chẳng theo Ngọc Phi Yến trở thành dân “Hối tử” trộm mộ.

Nghĩ đến kết cục mà hội Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp phải nhận, có thể thấy đúng thực “Người chết vì của, chim chết vì mồi”, bọn họ đều là những kẻ được người ta bỏ nhiều tiền ra thuê, kết quả bị chết oan uổng, bất minh trong cánh rừng nguyên sinh đoạt tuyệt với thế giới bên ngoài. Làm những phi vụ mang sọ dừa giắt trong cạp quần như vậy, ai dám đảm bảo một ngày nào đó chẳng gặp vận rủi, đâm đầu vào tay “hồn ma chết bất đắc kỳ tử” mà đền luôn tính mệnh. Nếu phải bán mạng cho bọn tài phiệt vì chút tiền bạc, để đến cuối cùng chết nhục nhã chẳng khác nào một con chó, thì chẳng thà cứ vượt biên trở về đất nước, đáng bị bắn thì chịu bắn, đáng bị ngồi nhà đá thì ngồi nhà đá, như vậy còn thoải mái, dễ chịu hơn nhiều.

Ngọc Phi Yến nghe mấy lời của Tư Mã Khôi, cơn thịnh nộ trong lòng cũng nguôi ngoai đi chút ít, nhưng vẫn còn chưa hết giận anh, đang lúc định nói với anh câu gì, đột nhiên một âm thanh cực mạnh từ đáy sơn cốc dội lên, mọi người biết chắc có chuyện chẳng lành sắp xảy ra, liền vội vàng thò người xuống nhìn, chỉ thấy trong lớp sương mù bí ẩn dày đặc phía dưới chân, phát ra mấy luồng sáng cực mạnh, không những vậy nó còn vô cùng chói mắt.

Ánh sáng cực mạnh chói lòa, xuyên qua từng tầng sương dày, lúc mờ lúc tỏ không ngừng lay động, nó dao động lắc lư liên tục khiến người ta hoa hết cả mắt, cùng với đó là âm thanh quái dị cứ “răng rắc răng rắc” như tiếng thân cây cổ thụ mục nát đang bị đổ sụp gãy gập, nghe mà sởn gai ốc, anh ngẫm nghĩ: “Mấy luồng sáng trong sương dày trông chói sáng lóa mắt thế kia, có khi phải mạnh gấp mười lần ánh sáng của đèn chiếu Halogen, chắc chắn không thể là ánh sáng của sinh vật. Lại còn âm thanh giống như tiếng cành gãy, rung lên từng đợt dưới khe cốc, đang di chuyển đi lên với tốc độ chóng mặt nữa chứ, rốt cục là vật thể gì phát ra tiếng động đó nhỉ?”

Hồi 7: Rơi vỡ

Ở nơi sâu khoảng hai ba trăm mét dưới khe cốc, bỗng xuất hiện mấy luồng sáng chói mắt phát ra từ đám sương mù dày đặc, ánh sáng mạnh trong bóng tối dao động bất định, đồng thời dưới lòng đất còn vọng lại âm thanh khác thường nghe “răng rắc” như tiếng cành khô gãy vụn, xem động tĩnh thì dường như có một vật gì bên dưới vực sâu đang bò lên với vận tốc rất nhanh.

Tư Mã Khôi đoán định nguồn ánh sáng xuất hiện trong sương mù đày đặc chắc chắn không phải ánh sáng sinh học. Bởi những loại ánh sáng do sinh vật hoặc quặng đá phát ra đều thuộc loại hàn quang hóa học, thời gian chiếu sáng kéo dài, không tỏa nhiệt, đối với con người mà nói, đó là nguồn ánh sáng lý tưởng nhất, vậy mà tia sáng dao động trong lớp sương mù mịt kia lại vô cùng chói mắt, những loại đèn chiếu sáng thông thường không thể nào so bì, dường như nó được sản sinh ra từ nguồn nhiệt quang điện khí. Lẽ nào trong khe cốc dưới lòng đất âm u không nhìn thấy mặt trời, hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài này, lại ẩn giấu loại “thiết bị chiếu sáng cường quang” có thể hoạt động tốt cho đến tận bây giờ?

Chiếc tiêm kích mất tích gần ba mươi năm, trong môi trường ẩm ướt, lạnh lẽo thế này, nó cũng sớm bị ăn mòn, hoen rỉ, rách nát chẳng còn hình dạng, hơn nữa, trên thân máy bay chắc chắn không lắp đặt loại đèn chiếu sáng cường quang, bởi thế nguồn sáng phát ra từ màn sương dày đặc, cũng không thể đến từ chiếc máy bay bị rơi vỡ cách đây nhiều năm.

Mọi người ngấm ngầm kinh hãi trong lòng, khó nói thành lời, chẳng ai hay cái gì sẽ xuất hiện trong đám sương mù, nín thở tập trung nghe ngóng một hồi lâu, chỉ thấy mấy chùm sáng bỗng dưng vụt tắt, đáy khe cốc một lần nữa lại trở về trạng thái yên ắng không một tiếng động, như thể chưa từng xảy ra bất cứ việc gì trước đó.

Điều nguy hiểm sở dĩ trở thành nguy hiểm, khả năng rất cao, là do con người không thể dự đoán trước được chân tướng thật sự của nó, Tư Mã Khôi cũng biết gặp những việc đại loại như thế này, chỉ dựa vào phán đoán thì chưa đủ, mà còn phải tận mắt xác thực, anh và mọi người bàn bạc một chút, rồi quyết định mình và Ngọc Phi Yến hai người sẽ xuống chỗ sương mù mịt mùng dưới kia làm rõ xem rốt cục đó là cái gì. Hai người mang theo vũ khí, trên người buộc đèn led dã ngoại chiếu sáng bằng điốt phát quang, lại cầm thêm chiếc đèn pin tụ quang siêu sáng, tay bám rễ cây từ từ tụt xuống, càng đến gần chỗ sương khí trào ra, càng lờ mờ nhìn thấy một bóng đen to lớn ẩn hiện trong màn sương mù mênh mang mờ mịt.

Do sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha càng ngày càng gia tăng, nên sương khí trong lòng sơn cốc cũng dần dần giảm xuống thấp, lúc hai người đến gần thì sương mù không còn quá dày đặc nữa, nhờ ánh sáng của đèn pin, Tư Mã Khôi có thể nhìn kỹ bóng đen to lớn đó, không ngờ nó lại là một chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, bị vô số rễ cây buộc chặt, chiếc máy bay có phần đầu tù tròn, phần thân hình e líp dọc, hai cánh phân bố theo hình thang, trước hẹp sau rộng, điểm khác biệt so với các máy bay cùng loại là từ đầu đến đuôi đều sử dụng kết cấu gỗ ván ép.

Trên thân chiếc máy bay tiêm kích còn có biểu tượng “Rắn đen” rất bắt mắt, chiếc máy bay này hoàn toàn giống với chiếc máy bay chụp ở sân bay không quân trong ảnh, không những vậy kết cấu cũng hoàn toàn đồng nhất với chiếc tiêm kích số hiệu “Rắn đen” bị mất tích của không quân Anh. Do chiếc máy bay mang số hiệu “Rắn đen” thuộc loại máy bay tiêm kích cải tiến, nên căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ, đã đặc biệt nới rộng dung tích chuyên chở hàng hóa, phần thân cũng được cải tiến gần như toàn bộ, so với những chiếc máy bay tiêm kích hạng nhẹ thông thường, trông nó rất khác biệt. Bởi thế, so sánh với ảnh chụp, đoàn thám hiểm không khó đoán ra “thân phận” của nó. Ghi chép năm đó còn cho thấy: sau khi chiếc máy bay bị rơi xuống sơn cốc, giọng liên lạc chập chờn khi được khi mất phát ra qua sóng điện, lúc các thành viên của đoàn bay gắng sức kêu cứu, cũng đã xác nhận chiếc “Rắn đen” bị rơi vào sương mù, sau đó thì hoàn toàn đứt đoạn mọi liên lạc với thế giới bên ngoài.

Nhưng giờ đây, Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến tận mắt chứng kiến, mới biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó không hề rơi xuống nơi sâu nhất dưới đáy cốc, mà bị rễ cây cổ thụ treo níu giữ treo lơ lửng giữa không trung. Do máy bay tiêm kích khác với các loại máy bay quân dụng khác, nó hoàn toàn sử dụng gỗ Balsa – một loại gỗ rất nhẹ để xây dựng kết cấu, động cơ Piston tản nhiệt mang lại hiệu suất cực cao, tốc độ bay nhanh, thời gian bay có thể kéo dài liên tục, đồng thời khả năng tải trọng không vì thế mà giảm xuống, chẳng những vậy khả năng sống sót lại rất cao, có thể thích hợp mọi nhu cầu nhiệm vụ gian nan, dưới diều kiện khí hậu biến đổi phức tạp ở vùng núi Miến Điện, nó càng phát huy tính năng ưu việt vượt trội. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải cải tiến số hiệu “Rắn đen” khi bị mất lái rơi xuống sơn cốc, thì chịu sự tác dụng của dòng khí lưu thông trong khe cốc, khí đối lưu khiến thân máy bay được bảo toàn nguyên dạng, xem ra chẳng có hư hại gì nghiêm trọng.

Đội thám hiểm liều mạng xông vào núi Dã Nhân là để tìm chiếc tiêm kích vận tải, đồng thời lấy “hàng” trong khoang máy bay về, thế mà lúc này chiếc máy bay mất tích mà cả hội đang săn lùng lại bất ngờ hiện ra ngay trước mắt, nó bị đám rễ cây bám lung tung quanh thân, treo lủng lẳng giữa không trung. Như vậy cũng có nghĩa cả đội không cần xuống dưới đáy động sâu hút nơi sương khí bủa vây, hiểm nguy mai phục tứ bề nữa. Không thể không thừa nhận đây là niềm vui ngoài ý muốn nhưng chẳng hiểu vì sao Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến không hề cảm thấy may mắn mà ngược lại còn lờ mờ có dự cảm không lành.

Ngọc Phi Yến nhìn bên trong khoang máy bay tối hù hù, yên ắng rợn người, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có cảm thấy chiếc máy bay vận tải này có điểm gì bất thường không?”

Tư Mã Khôi bám vào rễ cây rủ xuống từ vách đá dựng đứng, nhìn đăm đăm một hồi vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải, anh đã sớm nhận ra vài điểm quái dị khác thường, bèn thuận miệng đáp: “Cũng hơi bất thường, trông nó mới quá… dường như chỉ vừa bị rơi xuống chưa lâu”. Trên thực tế, chiếc may bay tiêm kích vận tải rơi xuống động huyệt trong sơn cốc có lẽ đã gần ba mươi năm. Vậy mà thời gian và quá trình xâm thực của môi trường ác nghiệt dưới lòng đất lại không để lại chút dấu tích nào trên thân mình nó, lớp sơn vẫn mới toanh như lúc ban đầu, có lẽ ngay cả động cơ cũng hãy còn nóng.

Nghĩ lại việc ở ngoài sơn cốc lúc trước, mọi người từng nhìn thấy bóng chiếc máy bay u linh bay sát đầu rồi lượn vèo qua, khi ấy trong khoang máy bay không hề có chút ánh sáng nào, cánh quạt cũng đã ngừng quay, đội thám hiểm đuổi theo quỹ đạo phi hành của nó đến tận đây. Theo lý mà suy đoán, thì chiếc máy bay vận tải vừa bay lượn giữa tầng mây, cũng chính là chiếc “Rắn đen” đang bị rễ cây cổ thụ buộc chặt dưới sơn cốc. Nhưng sao mỗi lúc xuất hiện nó lại có những đặc điểm khác nhau như hai chiếc hoàn toàn riêng rẽ vậy? Trong khi, chiếc máy bay vận tải số hiệu “Rắn đen” thực hiện nhiệm vụ chuyên chở đặc biệt của quân đội hoàng gia Anh, chỉ có một chiếc duy nhất đã mất tích hơn hai mươi năm trước trong núi Dã Nhân mà thôi.

Ngọc Phi Yến không nén nổi nỗi hoài nghi trỗi dậy trong lòng: “Lẽ nào chiếc khi nãy nhìn thấy chỉ là ảo giác? Bởi vì mọi vết tích đều cho thấy chiếc máy bay đang hiện hữu ngay trước mắt quả thực đúng là mới rớt xuống đây chưa lâu. Rốt cục chiếc máy bay số hiệu Rắn đen đã mất tích nhiều năm đã gặp phải chuyện gì? Trong điều kiện không hề có động lực, làm sao nó có thể bay lượn giữa không trung?”, rồi cô lại nghĩ hay là thời gian và không gian – những năng lượng hằng định bất biến này đều bị bẻ cong quay vòng trùng lặp trong đám sương mù dưới lòng đất, mới khiến chiếc máy bay vận tải số hiệu Rắn đen xuất hiện theo phương thức quái dị không thể tưởng tượng nổi giống như loài ma quỷ? Ngoài ra, những phi công trong khoang máy bay đều đi đâu cả rồi? Còn nữa, mấy luồng sáng chói mắt dội ra từ đám sương mù và âm thanh dị thường kêu “răng rắc răng rắc” không ngớt phát ra từ nơi sâu dưới lòng đất rốt cục là thứ gì vậy?

Tuy rằng Ngọc Phi Yến đi nhiều hiểu rộng, nhưng tình hình lúc này cũng chẳng khác chi sa vào đám sương mù mịt trải dài năm dặm, không thể phân biệt nổi phương hướng, bởi vì những việc này hoàn toàn khác xa với những phi vụ trộm mộ mà cô hằng thông thuộc, hơn nữa tình hình hiện tại đang phải đối mặt dường như thuộc về phạm trù “hiện tượng siêu nhiên”, các kiến thức khoa học thường thức và định luật vật lý đều khó lòng giải thích thỏa đáng, trong đầu cô liên tiếp lóe lên vài ý tưởng, nhưng rất nhanh sau đó đều bị chính mình phản bác, cuối cùng cô đành một lần nữa quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Trong thực tế sao lại xuất hiện tình hình như vậy được nhỉ? Hay chúng ta đang gặp ác mộng chắc?”

Tư Mã Khôi lại chẳng ước những việc trải qua trong mấy ngày nay chỉ là một cơn ác mộng quá đi chứ, nhưng vết thương đang ngâm ngẩm đau trên vai không ngừng nhắc nhở anh: “Những việc trước mắt tuy rằng quái dị ngoài sức tưởng tượng, nhưng lại hoàn toàn là sự thực, sự thật chắc như thép”. Lúc này, nghe Ngọc Phi Yến nói, anh trầm mặc một lúc rồi mới trả lời: “Chắc chắn chẳng phải ác mộng đâu”. Miệng thì ứng đáp vậy, nhưng trong lòng lại ngẫm nghĩ: “Lời này cũng có hai cách hiểu, từ cổ xưa đã có bốn giấc mộng: “Hồ Điệp, Hàm Đan, Nam Kha, Hoàng Lương”, sau này còn có thêm Hồng Lâu mộng, tất cả như ngầm ẩn dụ vạn vật trên thế gian đều hư vô như giấc mộng, đời người vốn dĩ cũng chỉ là một giấc mộng, đang sống nghĩa là đang nằm mơ. Nghĩ kỹ lại, câu nói này đúng là cũng có lý lẽ nhất định, khoảng cách giữa giấc mơ và hiện thực vốn rất mong manh, mơ hồ, chỉ có điều những gì cuộc đời mình gặp phải…. toàn là ác mộng”.

Từ trước đến nay, Tư Mã Khôi gan to trùm trời, anh bèn quyết định vào trong khoang máy bay trước nhìn xem sự thể thực hư ra sao rồi mới nói. Tư Mã Khôi thi triển chiêu “Tiên nhân treo tranh”, dùng hai chân quắp lấy rễ cây, thân mình nhoài ra chúc đầu xuống nhòm vào bên trong, hai tay nhẹ nhàng chạm vào phần đầu khoang lái của chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen, sau đó dùng đèn pin tụ quang mang theo bên mình soi vào bên trong, rồi nghé mắt quan sát tình hình . Trong phạm vi ánh sáng của đèn pin, chỉ thấy khoang lái trống toang hoang, ngoại trừ một vài chỗ bị rò nước do va chạm rách vỡ ra, thì ngay cả nửa bóng ma cũng chẳng thấy đâu.

Cả thân mình chiếc máy bay bị rễ cây buộc chặt cứng, treo lơ lửng giữa tầng không dưới lòng sơn cốc, những loài thực vật dây leo thả mình từ trên vách đá dựng đứng xuống dưới, thân to như các cột trụ trong đền chùa, miếu điện, tuy rất dai chắc nhưng rốt cục cũng đâu phải sắt thép, sức chịu đựng cũng đã gần tiệm cận mức giới hạn, hai tay Tư Mã Khôi vừa chạm nhẹ vào phần đầu khoang lái, liềnlập tức phát giác chiếc máy bay khẽ rùng rùng muốn rơi, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể tuột khỏi sự ràng buộc của đám rễ cây, dây leo, tiếp tục lao xuống nơi sâu hơn.

Tư Mã Khôi cũng không dám liều mạng hơn, anh chỉ sợ sẽ nhào theo chiếc máy bay rớt xuống đáy cốc có sương mù bủa vây và rơi vào thảm cảnh máy tan người nát. Chẳng tìm thấy bất cứ đầu mối nào trong khoang máy bay, anh bèn chuyển đèn pin tụ quang chiếu sáng hai cánh trên thân máy bay.

Nhưng đúng lúc này, từ trên cao dội xuống hàng loạt tiếng động rung trời chuyển đất, thì ra cơn cuồng phong giông tố do bão nhiệt đới Buddha mang tới quá sức dữ đội, kết cấu đất đá men bờ cốc lại xốp yếu, không chịu nổi sự công kích của mưa bão, nên đã xảy ra hiện tượng sụt lở trên diện tích rộng, một lượng lớn bùn đất, sỏi đá từ trên cao ùn ùn đổ xuống, không ngừng chảy về nơi sâu. Hội La Đại Hải đợi ở bên trên chờ tiếp ứng, nhìn thấy hiện tượng nguy hiểm liên tiếp xảy ra giữa hai vách núi, thì biết nơi này chẳng thể dung thân lâu thêm được nữa, đành phải bám vào rễ cây tụt xuống dưới chạy trốn.

La Đại Hải hướng xuống dưới, thét gọi Tư Mã Khôi: “Tránh ra mau!”, hai chân Tư Mã Khôi hãy còn bấu rễ cây, nghe tiếng hét thất thanh, liền vội vàng thu thân nhìn lên trên, chỉ thấy một luồng gió nhẹ ập vào mặt, trong bóng tối cũng chẳng nhận ra rốt cục là vật gì rơi xuống, anh vội vàng dùng tay ẩy mạnh thân máy bay, mượn lực đàn hồi đẩy cơ thể bắn ra xa, một đoạn rễ cây lớn đâm sầm vào chiếc máy bay, cùng với đó là sự công kích liên tiếp của dòng đất đá, bùn nước, chiếc máy bay phải chịu một xung lực rất lớn, phần đầu rách toạc thành một miệng hố, cùng lúc đó nó lao mạnh xuống dưới một chút, vài sợi rễ cây bám trên thân máy bay cũng bị đứt theo.

Trong khoảnh khắc nhanh như điện xẹt, Ngọc Phi Yến phát giác tình hình không ổn, hai vách đá dựng đứng cheo leo, một khi trên cao sụt lở rơi xuống, nếu còn lảng vảng ở chỗ rễ cây cổ thụ, thì chắc chắn sẽ không có đường mà di chuyển, né tránh, còn nếu bám vách mà trốn xuống phía dưới, cho dù không bị ngã thịt nát xương tan, thì cũng bị đất đá sụt lở rơi trúng mà vỡ đầu chảy máu, thấy chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen cũng đang có chiều hướng muốn rơi xuống nơi sâu, cô liền lập tức hét gọi mọi người mau chóng trốn vào trong khoang máy, chí ít như thế vẫn còn có thể mượn vỏ máy bay tạm thời tránh khỏi công kích, hơn nữa “hàng” trong khoang máy bay cũng phải thu về tay, nếu không bao nhiêu mạng người của Sơn lâm đội lão thiếu đoàn đều hi sinh vô nghĩa cả hay sao.

Cánh cửa may bay vốn bị thủng lỗ, bốn người bọn họ trong lúc sốt vó lo chạy trốn, chẳng thèm suy nghĩ lâu la, kẻ trước người sau thi nhau chui vào trong khoang. Hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến trốn gần khoang lái, chưa kịp đóng nắp máy bay lại, thì mấy sợi rễ cây treo phần đầu máy bay đứt thêm hai cọng nữa, đầu máy gần như chúi xuống dưới, mọi người ngồi bên trong cũng lao mạnh theo đà, ai nấy đều bất giác hét toáng lên, tưởng như tim gan phèo phổi đều vọt ra khỏi miệng, hoảng hốt chụp vội lấy dây an toàn đùng để buộc hàng trong máy bay.

Ngọc Phi Yến chui vụt vào trong khoang lái, cô ả cũng chưa kịp hoàn hồn trở lại, nhờ chút ánh sáng phát ra từ đèn tụ quang, cô quan sát bốn phía xung quanh, phát hiện tuy chiếc máy bay mất tích hơn hai mươi năm, nhưng thiết bị điều khiển và đồng hồ các loại thì vẫn còn như mới, chẳng hề bị han rỉ hay bám bụi, lúc này trong lòng cô chỉ sót lại duy nhất một ý niệm: “Sao có thể như vậy được…. rốt cục giờ đây đang là năm nào?”

Tư Mã Khôi nhìn thấy Ngọc Phi Yến ngồi vào vị trí phi công điều khiển, khuôn mặt tư lự đăm chiêu, liền hỏi: “Cô biết lái máy bay tiêm kích thế nào sao?”

Ngọc Phi Yến từng lái máy bay trực thăng cứu hộ trên mặt nước, dạng Martin đơn giản, chứ chưa từng chạm vào chiếc tiêm kích vận tải của không quân Anh bao giờ, nên lắc đầu nói: “Tôi không biết, chẳng lẽ anh thì biết khởi động nó bay lên trời sao?”

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Dù sao trước sau gì cũng chết, nhưng mình đã sống hai mươi mấy năm trời, mà đến tận giờ vẫn chưa hề được lái máy bay, thôi thì trước khi chết cũng phải lái nó một phen cho thật sướng đời mới được”. Thế là anh vội đáp: “Không biết lái mà cô còn dám chiếm vị trí này à?”, nói xong chẳng cần để ý gì, liền xô Ngọc Phi Yến sang một bên, luồn người chui vào, tranh chiếc ghế phi công, nắm chắc cần điều khiển rồi kéo mạnh một cái về phía sau.

Lúc này, Hải ngọng ở phía sau cũng thò nửa người ra trước, anh không muốn bị rơi tan xác chút nào, tuy nói mọi vật từ xưa đến nay đều phải chết một lần, nhưng cách chết do máy bay rơi lại chẳng đẹp đẽ cho lắm. Chắc trước đây anh từng mấy lần chơi game lái máy bay, nên tự phong cho mình chức phi công bán chuyên nghiệp: “Thực ra cái này cũng chẳng có gì khó, cậu cứ buộc cục xương vào cái cần điều khiển thì cả chó cũng biết lái ấy chứ”. Hải ngọng vừa đứng một bên chỉ chỉ chỏ chỏ Tư Mã Khôi thao tác như thế nào, vừa thò tay ra ấn loạn xạ tất cả các nút trên bàn điều khiển một hồi.

Ngọc Phi Yến thấy mấy gã liều mạng này rõ là đang nghịch lung tung, liền hoảng hốt quát: “Các anh muốn chết phỏng?”, lời còn chưa dứt thì một trận bùn đất cát đá bị sụt lở từ bên trên rào rào đổ xuống, phút chốc đã vùi lấp nửa thân máy bay, hàng loạt sợi rễ lần lượt đứt phựt, chiếc tiêm kích vận tải của không quân Anh lúc này hoàn toàn rơi vào tình trạng đầu chúc xuống, đít vống lên, trong tiếng kêu gào hoảng loạn như tuyệt mệnh của đội thám hiểm, chiếc máy bay 

lao vù vù xuống vực sâu mù mịt sương khí với tư thế dốc ngược dựng đứng.

Hồi 8: Hẻm núi khổng lồ

Dưới sự tấn công dữ dội của hết cơn giông tố này đến đợt cuồng phong khác, lòng núi Dã Nhân đồi rung núi chuyển, trời sụp đất vỡ. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải lao vù vù với tốc độ kinh người xuống đáy khe núi, cùng với vô vàn đất bùn cát đá sụt lở. Tư Mã Khôi quay cuồng nhào lộn trong khoang máy bay, chỉ thấy bên ngoài cửa sổ bóng tối hun hút bao trùm khắp nơi. Anh thấy trời xoay đất chuyển, hoa mắt chóng mặt, tiếng gió ù ù vang lên bên tai, nhưng một hồi lâu vẫn chưa thấy máy bay phát nổ do đâm phải lòng đất. Bốn xung quanh anh chỉ có màn sương đen bủa vây mù mịt, khiến người ta không thể cảm nhận được sự tồn tại của không gian và phương vị, như thể đang bị rơi xuống động không đáy vậy.

Trong lúc hỗn loạn, cũng chẳng biết có phải mình đã chạm vào nút gì hay không, chỉ thấy một chiếc đèn màu đỏ ở mặt đồng hồ trên bàn điều khiển đột nhiên sáng lên, Tư Mã Khôi thấy ánh đèn nhấp nháy bất định, trong lòng khẽ kích động, nhớ lại loại đèn này dường như là đèn tín hiệu cảnh báo, có lẽ chỉ phát ra khi máy bay bị mất lái hoặc sắp hạ cánh. Tư Mã Khôi than thầm, sương khí dưới lòng khe núi núi Dã Nhân dày không thể lường, mênh mông như trời đất, vô hạn tựa tạo hóa, chỉ thần quỷ mới rõ khi nào chiếc máy bay vận tải này mới hạ cánh tiếp đất, bây giờ chỉ sợ muốn chết ngay cũng chẳng được nữa rồi. 

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải đặc biệt số hiệu “Rắn đen”, lao vù vù xuống dưới với tốc độ rất nhanh, nhưng khi chưa kịp đâm sầm vào mặt đất cho máy tan người nát, thì thân máy bay đột nhiên ngả dần ra. Thì ra, nửa trên của khe núi mạch chạy bất quy tắc, gần như hoàn toàn là vách treo dựng đứng, nhưng đến dưới đáy vực thì không gian lại rộng rãi thoáng đãng hơn rất nhiều. Hẻm núi này miệng hẹp, bụng rộng, bề mặt cắt ngang của nó tạo thành hình “kim tự tháp”, càng xuống sâu càng khoáng đạt, hơn thế, nữa địa lại thế vô cùng độc đáo, địa khí từ dưới bốc lên, dòng nhiệt khí đối lưu mạnh mẽ không ngừng lưu chuyển ngùn ngụt, nhờ đó mà tự nhiên đỡ được chiếc máy bay, khiến tốc độ rơi tự do của nó từ từ giảm dần. 

Kết cấu ván gỗ ép của chiếc máy bay tiêm kích vận tải, từ trước đã được mệnh danh là “Chất gỗ kỳ tích”, trong hoàn cảnh đặc biệt gần tương tự với “hiệu ứng ống khói” sẽ phát huy tính ưu việt to lớn; nó giống như cánh diều đứt dây, nhào lộn giữa không trung mấy vòng, cuối cùng ngả ngả nghiêng nghiêng đáp xuống giữa dòng nước lặng. Lúc tiếp đất, cánh trái máy bay bị gãy nát hoàn toàn, cánh quạt trên động cơ cũng bị đâm gãy; dưới tác dụng của quán tính, thân máy bay lật nghiêng, trượt dài một đường trên trăm mét mới dừng lại hẳn. 

Tư Mã Khôi trong khoang máy bay cảm thấy ba hồn bảy vía như lao ra khỏi xác, khó khăn lắm mới ép nó về đúng chỗ, toàn thân trăm xương không chỗ nào không đau nhức. Trong khi thần trí còn hoang mang bất định, anh vẫn nhận thức được cuối cùng máy bay cũng đã tiếp đất, chắc là mệnh mình chưa đến lúc tuyệt. Rơi từ độ cao hàng ngàn mét xuống mà không hề bị tan xương nát thịt ngay tại chỗ, điều này hoàn toàn có thể nói là một kỳ tích; nhưng giờ đây hoàn cảnh chưa rõ trắng đen, anh cũng không thể dùng những câu đại loại như “đại nạn không chết, tất có phúc dày” để đánh lừa bản thân, mà chỉ thấy trong lòng không thể không thầm thốt lên một câu: “Xem ra máy bay tiêm kích do người Anh chế tạo đúng là danh bất hư truyền, quả nhiên tỷ lệ sống sót cao đến kinh ngạc!” 

Tư Mã Khôi giãy đạp cố gắng đứng dậy, sờ thấy chiếc đèn pin tụ quang trên người, cầm nó chiếu sáng tứ phía, mắt bị chấn động hoa hết cả lên, nhìn cái gì cũng thấy nhập nhèm. Anh lờ mờ thấy các thành viên khác trong đội vẫn tạm bình thường, may mà các thiết bị trong khoang máy rất gọn gàng ngăn nắp và mọi người đều thắt dây an toàn, tuy không tránh khỏi việc sứt đầu mẻ trán nhưng điều đáng mừng là chí ít chẳng ai bị gãy tay lìa chân. Người bị thương nghiêm trọng nhất là Karaweik, trong lúc điên đảo quay cuồng, cậu bị rách một đường dài trên đầu, mặt đầm đìa máu, Tuyệt ở cạnh đang giúp cậu băng bó vết thương. La Đại Hải và gã Gấu trắng người Nga đều ngã sưng mày tím mặt, nhưng cũng chẳng có gì đáng ngại lắm, chỉ là vẫn hoa mắt chóng mặt, nằm vật trong khoang máy bay mãi chẳng bò dậy nổi. 

Tư Mã Khôi dùng đèn pin tụ quang chiếu sang Ngọc Phi Yến, tuy rằng cô ả mặt mày trắng bệnh như giấy sáp nhưng vẫn cố xua tay tỏ ý không sao. Hai người họ đầu óc quay cuồng, tư duy có chút đình trệ, cùng nhìn ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy phóng tầm mắt đến chỗ nào, chỗ ấy đều tối như hũ nút, chỉ duy trên đỉnh đầu là có một sợi sáng mỏng lờ mờ ẩn hiện, nên nghĩ chắc đó chính là miệng khe núi lộ ra ngoài núi Dã Nhân, lúc sáng lúc tối trong tiếng sấm rền chớp giật. Từ dưới đáy ngước nhìn lên trên, miệng hẻm núi rộng lớn khác thường ấy, lại chỉ mong manh như một đường chỉ, thực sự khó có thể tưởng tượng là rốt cục bản thân đang ở độ sâu bao nhiêu mét trong lòng núi. 

Ngọc Phi Yến thầm kinh ngạc, cô không ngờ huyệt động trong lòng hẻm núi, có hướng thẳng đứng này, lại sâu đến dường vậy. Nếu như gần đây không có lối nào khác đi ra khỏi núi, thì giữa không gian đáy động thâm u khó lường này, với độ cao không thể trèo lên như thế, quả thực đã trở thành “cơn ác mộng” mà đội thám hiểm khó có thể vượt qua. Cô ta ra dấu tay, bảo Tư Mã Khôi ra bên ngoài xem xét tình hình. 

Tư Mã Khôi khắp mình mẩy đau như thể gẫy lìa từng đoạn, đến nỗi phải hít ngược mấy hơi thở lạnh vào trong, rồi gắng sức đẩy nắp trên của máy bay ra, một cảm giác đơn độc cách biệt bất chợt ùa đến. Lúc này, anh mới nhìn thấy màn sương khí dày đặc che phủ khắp nơi sâu trong huyệt động đều đã tiêu tan chẳng thấy đâu, chỉ có một lượng lớn nước ngưng đọng khắp vách núi, hình thành nên làn mưa bụi mênh mông không ngừng lất phất bay xuống. 

Anh suy đoán: có khả năng do diện tích sụt lở ở ven miệng hẻm núi quá lớn, đã làm thay đổi vòng tuần hoàn khí đối lưu dưới đáy động; ngoài ra, cuồng phong giông tố khiến nước đọng dưới tầng đất đá trong lòng núi nhanh chóng gia tăng, tràn vào những nơi sâu trong khe núi, trên không trung đang mưa ào ạt, dưới lòng động cũng ảnh hưởng mưa theo, nhờ vậy mới xua tan được đám sương khí mịt mù. Xem ra, trước khi cơn bão nhiệt đới Buddha qua đi, lớp sương mù dày đặc dị thường này tạm thời sẽ không xuất hiện nữa. 

Ngọc Phi Yến mau chống chiếu sáng mọi chỗ. Cô ta lấy súng phát tín hiệu trong ba lô của Tư Mã Khôi, bắn lên hai chuỗi pháo sáng về hai hướng; hai chuỗi pháo phát ánh sáng chói lòa, trắng bạc, lần lượt vạch một đường rơi dài ở phương xa. Do khu vực lân cận đều không bị sương mù dày đặc che phủ nữa, nên có thể mượn ánh sáng xanh mờ ảo, nhìn thấy thấp thoáng khoảng cách giữa đáy động với đỉnh khe núi, thực sự không thể đoán nổi; còn nếu chỉ dựa vào trực giác phán đoán độ cao thẳng đứng đó có lẽ phải trên ngàn mét. Vách đá trong huyệt động hình kim tự tháp đều dựng đứng xiên lệch ra ngoài, nhìn nguy hiểm vô cùng, không có chỗ để con người có thể leo lên nổi, cho dù Tư Mã Khôi có giỏi thể hiện tuyệt kỹ: “Bọ cạp đảo đầu bò tường” đi nữa thì cũng bó tay đầu hàng. Đây dường như là một cái bẫy của tự nhiên, đã vào thì khó lòng ra. Những kẻ gặp nạn rơi vào nơi này, đúng thực “Xẻ ngang đất rộng không móng sắc, uốn lượn tầng không thiếu cánh bay”. 

Đáy khe núi thoai thoải, bốn phía đồng không mông quạnh, nhìn chẳng thấy bờ, tất cả đều là đầm lầy mênh mang do nước dưới lòng đất ngưng tụ lại mà thành; ở nơi xa tít còn có luồng sương khí mông lung chưa kịp tan, khói mờ nước rộng, sương tỏa núi sâu khiến người ta không thể nhìn rõ thực hư. Khu vực đáy động lẽ ra phải là một cái hồ dưới lòng đất, nằm ở nơi sâu nhất của núi Dã Nhân, nhưng do hệ thực vật ở đây um tùm rậm rạp, nên hầu hết nước tụ chưa kịp thẩm thấu xuống tầng đất đã bị rễ cây hút cạn veo, khiến cả lòng hồ dưới đất sâu biến thành đầm lầy. Thêm vào đó, hàng chục triệu năm nay, vô số thực vật và bùn đất bị mưa gió quét từ trên đỉnh cốc xuống, dần dần tích tụ dưới đầm lầy, tạo thành một bờ đê dài miên man. Lớp đất ẩm ướt trên bề mặt phủ đầy tầng tầng lớp lớp rêu xanh dày, đây đó thỉnh thoảng lại lóe lên những tia sáng lân tinh yếu ớt do sinh vật mục nát hóa thành, ngước mắt ra xa, chỉ thấy mặt nước bập bềnh lên xuống, thật giả khó phân. 

Huyệt động thâm u dưới lòng đất, từ trước đã là miền đất bí mật mà thế nhân khó lòng nhòm ngó. Tuy rằng hội Tư Mã Khôi có thể sống sót lọt xuống đáy cốc, lại có thể nhân lúc sương mù dày đặc tiêu tan, lợi dụng ánh sáng của pháo phát tín hiệu, đại thể đã nhìn rõ địa hình xung quanh, nhưng trong lòng ai nấy không những đều cảm thấy việc hãy chưa xong, mà ngược lại, một linh cảm bất an còn không ngừng trỗi dậy: “Những gì nhìn thấy trước mắt chỉ là một góc phía trên của tảng băng trôi, không biết còn bao nhiêu bí mật kinh thiên động địa nữa vẫn bị niêm phong kín trong thế giới dưới lòng đất quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời này”. 

Ngọc Phi Yến tai mắt tinh nhanh, nên lúc pháo tín hiệu phát sáng lướt qua bầu trời, cô đã phát hiện xung quanh đầm nước và mặt đất ẩm ướt, dường như có vật gì đó đang bò rất nhanh phía ngoài chiếc máy bay vận tải, nhưng tốc độ di chuyển quả thực nhanh đến nỗi chưa kịp nhìn rõ rốt cục là thứ gì, thì bóng dáng của nó đã biến mất khỏi tầm mắt. Cô ngẫm nghĩ: “Trong khu vực đầm lầy âm u, ẩm ướt này, phần nhiều thường ẩn náu những sinh vật có tính tấn công rất cao như cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện; mạo hiểm rời khỏi máy bay lúc này đúng là không được thỏa đáng cho lắm”. Thế là cô liền thay đổi chủ ý, nhắc nhở mọi người coi chừng động tĩnh bốn phía xung quanh, tạm thời không nên rời khỏi chiếc máy bay tiêm kích vận tải. Nói xong, cô ta lại bắn thêm ba chuỗi pháo sáng phát tín hiệu lên cao, chiếu sáng toàn bộ tầm nhìn lân cận, đồng thời kéo nòng khẩu súng tự động Uzi trong tay lên đạn sẵn sàng, đề phòng lỡ đột ngột xảy ra biến cố gì. 

Tư Mã Khôi thấy ánh sáng phát ra từ mấy chuỗi pháo gần chiếc máy bay vận tải, trong huyệt động dưới lòng đất thâm u, yếu ớt chẳng khác chi ánh sáng đom đóm; rồi sau khi pháo sáng tắt lịm, bốn bề một lần nữa lại chìm vào sự tĩnh lặng yên ắng, sâu thẳm vô bờ bến. 

Trước đây, không biết bao nhiêu lần anh từng tự hỏi, trong khe núi quanh năm bị sương mù che phủ rốt cục tồn tại thứ gì, nhưng trước sau đều không tìm ra nổi manh mối. Lúc này, thân sa vào đây, anh càng cảm thấy khe động núi Dã Nhân quả thực hiểm ác phi thường. Trải qua bao nhiêu tuế nguyệt mờ ảo như sương khói là bấy nhiêu năm tháng nó phải chịu cảnh mưa gọt gió bào, mãi cho đến tận ngày nay, vẫn mãi là góc chết mà tầm mắt loài người khó có thể nhận thức được. Không chỉ có vậy, trong dải bóng tối mênh mông này chắc chắn còn ẩn chứa một bí mật sâu xa nào đó khó có thể vạch trần. Anh càng nghĩ càng cảm thấy phức tạp, tư duy chìm đắm miên man, không khỏi có đôi chút bần thần. Anh tư lự mãi một hồi lâu chẳng nói câu gì. 

Ngọc Phi Yến thấy Tư Mã Khôi cũng có lúc không biết nói gì, lại cảm thấy có vài phần bất ngờ, bèn đưa khẩu súng đang cầm trong tay cho anh, nhắc anh hãy chú ý quan sát tình hình xung quanh chiếc tiêm kích vận tải. Sau đó cô liền khom lưng lần ra phía sau khoang, lần lượt kiểm tra hàng hóa sắp đặt trong khoang, tìm kiếm vật phẩm mà khách hàng ủy thác, khi đã lấy được sẽ lập tức nghĩ cách tìm lối ra, rút lui khỏi núi Dã Nhân. 

Ba mươi mấy thành viên của đội thám hiểm, bây giờ chỉ còn sáu kẻ may mắn sống sót, đồng thời lại bị rơi xuống nơi sâu nhất của khe núi núi Dã Nhân cùng với chiếc máy bay vận tải đã mất tích nhiều năm. Nhưng tước bỏ hết những yếu tố ly kỳ khó có thể giải thích, mà mọi người đã gặp phải sang một bên, thì sự việc tiến triển vẫn quá đỗi bất ngờ, đầu tiên là vô tình tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải “Rắn đen” ngay trong khoảnh khắc đầu tiên, rồi sự xâm nhập của cơn bão nhiệt đới khiến cho sương mù trào ra từ lòng đất bị suy giảm đi rất nhiều, và điều quan trọng nhất là “hàng” trong khoang máy bay không ngờ lại vẫn còn nguyên. 

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải, cải tiến thịnh hành trong chiến tranh thế giới thứ hai này, thuộc loại máy bay hạng trung. Khoang máy bay rộng rãi, chia làm ba phần, xuyên suốt từ đầu đến cuối, không hề có bức ngăn nào ở giữa. Phần đầu là khoang lái, phần giữa và phần sau là khoảng không gian cần thiết để chuyên chở người và hàng hóa. 

Phần sau của máy bay buộc chặt bốn chiếc hòm gỗ hình chữ nhật, đã được niêm phong kín, phía ngoài còn bọc bằng lớp áo mưa dày nặng. Hai chiếc hòm buộc thành một cọc, khóa lại rất chắc chắn, nên trong suốt quá trình rung lắc, động chạm dữ dội khi nãy mà nó không hề có vết tích bị lỏng lẻo hay xô lệch gì, nhưng trên mặt hòm, ngoại trừ một vài con số đánh ký hiệu ra, thì chẳng hề có bất kỳ biểu tượng gì khác. 

Ngọc Phi Yến bảo Tuyệt cầm đèn halogen, giúp mình chiếu sáng bên trong khoang máy bay, lại lệnh cho gã Gấu trắng người Nga dùng giáo mỏ vịt cạy nắp hòm hàng. Đang đợi bắt tay vào làm, đột nhiên họ lại nghe thấy dường như có người đang nói gì đó ở góc tối trong khoang máy bay. Tư Mã Khôi nghe âm thanh tuy hơi yếu ớt, nhưng rõ ràng là phát ra ngay phía sau. Máy điện đàm không dây của máy bay đã hoàn toàn hỏng hóc, không thể tiếp nhận bất kỳ thông tin liên lạc nào. Tuy rằng, tình hình trong hòm hàng tạm thời vẫn chưa nhìn thấy, nhưng từ đầu đến giờ đều bị niêm phong kín mít, cho dù thực sự có người sống trốn bên trong, thì cũng chết ngạt từ bao giờ. Hơn nữa, vị trí phát ra giọng nói này có lẽ đến từ khoang giữa máy bay, phía nhóm mấy người La Đại Hải đang đứng; bây giờ đội thám hiểm chỉ còn sót lại mấy kẻ may mắn thoát chết. Ngoại trừ gã Gấu trắng người Nga coi như nửa câm ra, thì mấy người còn lại có nói gì, Tư Mã Khôi tự khắc hiểu rất rõ, nhưng giọng nói vừa vọng đến khi nãy nghe vô cùng cổ quái, rõ ràng còn có người khác nữa. 

Tư Mã Khôi lập tức đề cao cảnh giác: “Trong khoang máy bay chắc chắn có kẻ lạ!” . Đang lúc anh định dỏng tai lên nghe lại, thì chẳng thấy tiếng gì phát ra nữa.

Tư Mã Khôi còn cho rằng chắc tại mình căng thẳng thần kinh, nên nảy sinh ra ảo thanh, anh bèn quay đầu lại hỏi Ngọc Phi Yến – người cách anh gần nhất: “Khi nãy cô có nghe thấy gì không?” 

Ngọc Phi Yến cũng phát hiện thấy sự thể khác thường. Cô ta từng nhiều lần giao tiếp với khách hàng Âu Mỹ, có thể nghe ra người vừa nói lúc nãy mang khẩu âm Anh rất rõ rệt, liền trả lời Tư Mã Khôi: “Dường như có một người Anh, ông ta nói hàng trong khoang máy bay… rất nguy hiểm”. 

Trong huyệt động dưới lòng đất sâu như vực thẳm vốn dĩ chỉ có bóng tối âm u bao trùm, trong khoang máy bay bị rò nước mưa nhỏ hẹp này chỉ có một ngọn đèn halogen, mọi người tuy ở gần nhau, nhưng ngay cả mặt mũi và bóng hình của đối phương cũng nhìn chẳng rõ. Có điều, cũng chính vì không gian chật chội, hơn nữa khoảng cách lại cực gần, cho nên qua hơi thở tồn tại trên cơ thể người sống, mọi người vẫn có thể cảm nhận được. Tư Mã Khôi có thể khẳng định, bao gồm cả chính mình, thì trong khoang máy bay chỉ có sáu người, làm sao có thể đột nhiên lại nhiều thêm một người được? Trừ khi người Anh mà Ngọc Phi Yến vừa nói đến… là “vong hồn” của phi công không quân Hoàng gia Anh.

Hồi 9: Giọng nói

Tư Mã Khôi đột nhiên nghe thấy bên cạnh có người nói, nhưng trong khoang máy bay rõ ràng không có người còn sống nào khác. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải, số hiệu “Rắn đen”, trong khoang từ đầu đến cuối đều thông suốt, tuy rằng tối mò mò, nhưng cầm đèn halogen lên soi, thì có thể soi trực tiếp rõ từ đầu này đến tận đầu kia. Tất cả khoảng không gian chỉ rộng một nắm tay, thì làm gì còn nơi nào để cho người có thể lẩn trốn. Hay chăng, ngoại trừ sáu thành viên may mắn sống sót của đoàn thám hiểm ra, trong chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích nhiều năm này, còn có một vong linh của viên phi công người Anh đang ẩn náu?

Thông tin giống như lời cảnh báo kia, dường như đến từ một thế giới khác, không chỉ có hai người Ngọc Phi Yến và Tư Mã Khôi nghe thấy, mà gã Gấu trắng người Nga đang ngồi ở khoang giữa cũng nghe thấy rõ mồn một. Gã theo đoàn thám hiểm thâm nhập vào lòng núi Dã Nhân, chẳng qua cũng chỉ vì món thù lao khổng lồ. Có điều, gã hoàn toàn chẳng thể ngờ, sẽ gặp bao nhiêu tình huống phức tạp ngoài sức tưởng tượng ở trong núi đến thế, hơn nữa càng lún càng sâu, đến khi gã muốn phủi tay không làm, thì phát hiện đã chẳng thể thoát thân, nên đành phải tiếp tục đồng hành cùng những kẻ sống sót còn lại.

Sau khi chiếc máy bay tiêm kích vận tải rơi xuống đáy khe núi, gã Gấu trắng tuy rằng chẳng gặp thương tích gì nghiêm trọng, nhưng tâm thần lại bị chấn động không nhẹ, đầu óc mụ mẫm “nam bắc khó phân, đông tây khó định”, tuy rằng thân thể đã chạm đất, nhưng lục phủ ngũ tạng hãy còn treo lơ lửng giữa tầng không, chưa chịu chui vào vị trí cũ. Gã chẳng theo tín ngưỡng nào, tâm tính lạnh lùng tàn nhẫn, từ trước đến giờ chẳng biết sợ sệt thứ gì. Trong quá trình chiếc máy bay bị rơi xuống, khoang máy bay hoàn toàn tối om, bên ngoài càng âm âm u u, mù mù mịt mịt. Gấu trắng ngồi trên ghế nệm, mình thắt dây an toàn, tay nắm chặt sợi dây thừng, trong cơn rung lắc dữ dội, thân thể bị quăng đi quật lại theo quán tính. Gã đã từng đi rất nhiều loại máy bay khác nhau, thậm chí còn bị lửa pháo phòng không trên mặt đất bắn trúng, nhưng cũng chưa từng hoảng hốt mất phương hướng, bởi vì gã biết gặp những tình huống như thế, sợ cũng vô tác dụng, nên chỉ còn biết tuân theo mệnh trời mà thôi.

Nhưng giờ đây, trong khoang máy bay chật chội âm u này, gã loáng thoáng nghe thấy động tĩnh tiếng nói của một người Anh, việc này hoàn toàn vượt ra khỏi nhận thức thông thường của gã. Trước đây, khi còn là lính đánh thuê, gã từng tiếp xúc với một vài người Anh, khẩu âm Anh nằng nặng không thể trộn lẫn vào đâu được. Thế nhưng trước mắt trong chiếc “Rắn đen” này căn bản chẳng có người Anh nào, thiết bị liên lạc ở khoang lái rõ ràng cũng đã bị hư hại, thì vì sao lại có tiếng thì thầm của người Anh? Ngoài ra, chiếc máy bay vận tải đã mất tích hơn hai mươi năm, vì sao mãi đến tận giờ này phút này, vẫn có thể bảo dưỡng y nguyên như mới? Và vì sao trước khi vào khe núi núi Dã Nhân, lại nhìn thấy chiếc bóng đen sì sì của nó bay lượn là là trên đỉnh đầu?

Tổng hợp tất cả những hiện tượng khó giải thích này lại, chỉ làm rõ cho một vấn đề, đó là chiếc máy bay vận tải này đang “gặp ma”, hơn nữa trong máy bay còn lẩn khuất một vong hồn của phi công không quân hoàng gia, cho nên mới nghe thấy giọng nói của vong hồn.

Tuy gã Gấu trắng không nghe rõ được hết toàn bộ nội dung, nhưng vẫn có một vài từ chập chờn lọt vào tai, vong hồn của viên phi công không quân Anh dường như muốn cảnh báo đội thám hiểm: “Hàng trong khoang máy bay vận tải – cực kỳ nguy hiểm!”.

Gấu trắng chẳng tin bất cứ ai, nhưng lại vô cùng tin tưởng vào đôi tai của chính mình, gã ra hiệu bằng tay với Ngọc Phi Yến: “Chiếc máy bay này quả thực quá bất thường, trước khi điều tra rõ ràng toàn bộ sự việc, tốt nhất không nên động chạm bừa bãi vào bất kỳ vật gì, nếu không rất có thể sẽ dính họa sát thân”.

Ngọc Phi Yến luôn lo lắng khe động núi Dã Nhân sẽ liên tục sụt lở do sự công kích của bão nhiệt đới, mà nếu huyệt động hình kim tự tháp này sụp xuống hoàn toàn, mọi người sẽ đều bị chôn sống dưới đáy; vậy nên việc cần làm trước mắt chính là mau chóng lấy được “hàng” trong khoang máy bay, sau đó lập tức tìm kiếm lối ra, đợi khi cơn bão Buddha suy yếu thì cả hội sẽ tháo chạy ra khỏi núi Dã Nhân.

Nhưng đến đúng khớp này thì xảy ra sự bất ngờ, trước khi chiếc máy bay vận tải rơi xuống đáy cốc, cô ta hoàn toàn chưa kịp quan sát kỹ tình hình bên trong khoang; nhưng lúc này, cô ta lấy đèn halogen chiếu sáng trước sau trái phải một hồi, thì cũng làm gì có tên người Anh nào trốn trong khoang? Theo tư liệu ghi chép của quân Anh, mà cô nắm giữa trong tay, chiếc máy bay tiêm kích số hiệu “Rắn đen” trong lúc chấp hành nhiệm vụ ở Miến Điện và mất tích tại nơi sâu nhất trong đám sương mù dày đặc dưới lòng khe núi núi Dã Nhân, khi đó, bao gồm cả phi công, trong khoang máy bay có tất cả ba thành viên. Chẳng lẽ vong hồn của họ đều hãy còn lởn vởn quanh nơi này? Họ không chịu để người khác động chạm vào “hàng” trong khoang máy bay?

Trong lúc mọi người đang rối như tơ vò vì sự việc ly kỳ diễn ra trước mắt, thì thấy Karaweik đầu băng bó trắng toát, tay cầm một vật màu đen đưa ra trước mặt Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Đây là cái gì thế?”. Karaweik tỏ ra luống cuống, cậu hoa chân múa tay nói một hồi lâu, may mà có Tuyệt đứng bên cạnh phiên dịch giúp, nên mọi người cuối cùng cũng hiểu rõ. Thì ra, sau khi chui vào khoang máy bay trốn, chiếc máy bay vận tải lập tức bắt đầu rơi tự do với tốc độ kinh khủng, cậu đột nhiên cảm thấy có một vật đập vào người. Trong lúc hoảng hốt, chẳng nhìn rõ là vật gì, cậu liền thuận tay bắt lấy. Lúc ấy cũng không hiểu ấn vào chỗ nào, tự dưng thấy có tiếng nói chuyện phát ra từ bên trong, khiến Karaweik giật nảy người, sau đó chiếc máy bay va chạm vào dòng khí lưu thông lượn vòng dưới khe núi. Trong lúc thân máy bay rung lắc điên đảo, đầu cậu bị đập mạnh, rách một miếng to, rồi từ đó mất hết cảm giác. Khi tỉnh lại, cậu thấy mình vẫn nắm vật ấy trong tay, ấn một cái lại thấy có tiếng nói phát ra nên Karaweik cảm thấy rất thích thú.

Theo luật lệ bất thành văn của đội du kích cộng hòa sản Miến Điện, trên chiến trường, những vật vô chủ và những vật trên cơ thể người chết, ai nhặt được thì coi như của người ấy, còn ở đây chẳng có ba mục kỷ luật, tám điều quy định gì cả, cũng chẳng hề có khái niệm “tất cả đều phải xung công”, thế là cậu liền nhặt bỏ vào túi, định giữ làm của riêng. Thế rồi đợi khi nhìn thấy năm người còn lại chẳng ai nói câu gì, Karaweik mới mang vật đó đưa cho Tư Mã Khôi xem, muốn nhờ anh chỉ cho cậu cách sử dụng như thế nào.

Nhóm mấy người quan sát vật mà Karaweik nhặt được, thì ra là đó là chiếc máy thu âm loại nhỏ, kiểu cầm tay giống như máy dùng để phỏng vấn, mặt ngang còn cắm chiếc micro có dây. Lúc này mọi người mới vỡ lẽ, tiếng nói của người Anh nghe được lúc trong khoang máy bay đều từ đây mà ra. Tư Mã Khôi đúng là lắc đầu bất lực với cái kiểu ngờ nghệch, dạy mãi không khôn của người Miến Điện, nhưng sợi thần kinh đang căng như dây đàn cuối cùng cũng chùng xuống một đoạn.

La Đại Hải giơ tay gõ đầu Karaweik một cái: “Ranh con nhà cậu, suýt chút nữa khiến hồn vía bọn anh dạt nhà bỏ đi rồi đấy!”

Karaweik ú ớ chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác.

Ngọc Phi Yến thấy cả hội chỉ là sợ bóng sợ gió, nhưng cuốn băng trong máy ghi âm dường như có nhắc đến thông tin gì đó có liên quan đến “hàng” nên trong lòng cô cũng đang có rất nhiều nghi hoặc khó lòng giải thích. Gấp gáp muốn tìm đáp án từ trong cuốn băng, cô bèn quyết định sẽ nghe lại từ đầu đến cuối, rồi sau đó căn cứ theo tình hình thực tế để lấy hàng trong khoang. Nghĩ vậy, cô liền khuyên can: “Dù sao sai một chút và sai một trăm chút cũng chẳng khác nhau là bao, các anh đừng trách cứ người anh em nhỏ tuổi này nữa, cậu ta thì hiểu được gì chứ?” Nói xong, cô lập tức tua lại cuốn băng, rồi cẩn thận nghe lại từ đầu, phát hiện giọng nói ghi âm trong cuốn băng quả nhiên là của một người Anh. Trừ Tư Mã Khôi và La Đại Hải ra, thì những người còn lại đều ít nhiều hiểu tiếng Anh, nhưng hai người này làm gì có chuyện ngồi yên một bên mà giương mắt nghe như vịt nghe sấm. Ngọc Phi Yến cũng chẳng biết làm sao, đành phải nghe một đoạn, lại dịch một đoạn cho họ.

Không ngờ sự việc nghe được sau đó lại khiến mọi người cảm thấy kinh ngạc, đầu óc như muốn nổ tung, vì nội dung ghi lại trong cuốn băng còn đáng sợ gấp nhiều lần việc gặp phải vong hồn phi công không quân Anh dưới lòng đất như họ nghĩ.

Người ghi âm là một chuyên gia thám hiểm hang động người Anh, tên là Wilson. Anh đã tự mình ghi âm cuốn băng dựa theo thời gian thực tế, bắt đầu từ thời khắc chiếc máy bay vận tải cất cánh tại sân bay, đồng thời nói rằng nếu như có người phát hiện ra cuốn băng này, thì có nghĩa là anh ta đã lâm nạn. Trên đường phi hành, Wilson hồi tưởng ngắn gọn những điều mình đã trải qua, tự nhận đội của anh là phân đội tinh nhuệ có kinh nghiệm phong phú, bao gồm những phi hành viên ưu tú nhất, có chuyên gia nghiên cứu về lịch sử tôn giáo và hiện tượng siêu nhiên, cũng có quân nhân phục viên từ binh chủng không quân, họ không thuộc tổ chức chính trị nào mà chỉ làm việc vì tiền. Lần này, nhận đơn hàng từ một khách hàng không lộ diện, mục tiêu là tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích vận tải mất tích dưới khe núi núi Dã Nhân, nghe nói trong khoang vận tải chất đầy châu ngọc quý hiếm mà bọn thực dân Anh đã cướp đoạt từ Miến Điện, có điều cụ thể là hàng gì thì tuyệt đối cơ mật, nên ngoại trừ đội trưởng ra, các thành viên khác hoàn toàn không hề hay biết. 

Qua nhiều lần thăm dò và trinh sát trên không, bước đầu đã xác minh được kết cấu địa hình trong lòng khe núi: đây là một huyệt động khổng lồ mặt cắt hình kim tự tháp, sâu rộng không thể lường, bề ngang tương đối hẹp. Căn cứ vào thông tin liên lạc qua bộ máy điện đàm không dây của phi công lái chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, thì có lẽ nó đã rơi xuống sườn nam.

Đội thám hiểm đồng thời cũng phát hiện: bất luận trên mặt đất hay dưới lòng đất, đường bộ hay đường thủy, đều không có con đường nào tuyệt đối an toàn để đi xuyên vào núi. Ngoại trừ màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất, núi Dã Nhân còn tồn tại một lượng lớn các di tích cổ đại: có điều, phần lớn trong số chúng đều bị hủy hoại nghiêm trọng, nên không thể phán đoán hay khảo nghiệm bối cảnh văn hóa và cội nguồn lịch sử của nó, vì dường như người cổ đại muốn che đậy một bí mật nào đó, đồng thời họ cài đặt trùng điệp cạm bẫy để bảo vệ nó. Trong khi ấy, chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở bảo vật cổ đại Miến Điện lại rơi đúng xuống núi Dã Nhân, tất cả những việc đó phải chăng là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Wilson cho rằng có thể mình chỉ quá đa nghi mà thôi, nhưng những ai càng nghiên cứu sâu về luật logic thì càng nên coi trọng sự trùng hợp đó.

Thật không may, tất cả những đội thám hiểm trước đây định vào núi đều không rõ tông tích, và gần như chẳng có kẻ may mắn nào sống sót trở về. Đối với những nhà thám hiểm chuyên nghiệp được trang bị tinh nhuệ, có kinh nghiệm phong phú, rèn luyện qua các lớp đào tạo cao cấp và vũ trang đến tận răng, thì địa hình ngoại vi núi Dã Nhân phức tạp và các loài mãng xà, độc trùng chẳng phải trở ngại tuyệt đối. Hiểm họa thực sự là đến từ màn sương bí ẩn quanh năm không tiêu tan ở sâu trong núi, sương khí mù mịt bao trùm cả cánh rừng nguyên sinh xung quanh khe núi, đã khiến người ngoài khó lòng nhìn thấu những bí mật bên trong của nó.

Đội thám hiểm Anh của Wilson đã nghĩ ra một kế hoạch gần như là điên cuồng, họ cho rằng chiếc máy bay tiêm kích của không quân hoàng gia năm đó, sở dĩ có thể hạ cánh xuống vùng sương mù ở nơi sâu trong khe núi, là do có hai điểm thuận lợi, thứ nhất là kết cấu chất liệu đặc biệt của loại máy bay tiêm kích, thứ hai là tác dụng của dòng khí lưu thông mà địa hình đặc biệt trong khe núi sản sinh ra; nhưng nếu giả dụ thay vào chiếc máy bay khác, chắc chắn là sẽ bị quá nhẹ hoặc quá nặng, không thể vừa vặn như chiếc tiêm kích. Ngoài ra, điều kiện thời tiết cũng có khả năng là một trong những nhân tố quyết định, vào ngày chiếc tiêm kích vận tải số hiệu “Rắn đen” mất tích, cũng là ngày cơn bão nhiệt đới di chuyển về hướng bắc, khiến phần lớn vành đai địa hình khe núi núi Dã Nhân bị lộ ra khỏi lớp sương mù dày đặc.

Nếu bây giờ muốn vào sâu trong khe núi, chỉ có đợi đến khi cơn bão nhiệt đới lại đến một lần nữa, đồng thời còn phải sử dụng chiếc máy bay tiêm kích cùng số hiệu với chiếc đã mất tích, thì mới hi vọng đạt được mục đích. Nơi sâu trong núi Dã Nhân có khu vực bom mìn, sương mù, độc trùng và các loại tà thuật, khiến người phương Tây khó lòng lý giải, cho nên bọn họ dự định đáp chiếc máy bay tiêm kích giống nhau, nhân lúc thời tiết thay đổi, mạo hiểm tiến vào nơi sâu nhất dưới khe núi, rồi sau khi thành công sẽ nghĩ cách đáp khinh khí cầu rút lui. Mãi cho đến cuối những năm sáu mươi, vẫn có thể tìm thấy bóng dáng máy bay tiêm kích ở những khu vực tương đối lạc hậu. Họ đã vất vả ngược xuôi một phen, cuối cùng cũng tìm được chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, có cùng số hiệu với chiếc “Rắn đen”, ở một nơi nào đó thuộc khu vực Đông Nam Á.

Gần núi Dã Nhân tồn tại rất nhiều tô tem

[1]

 mãng xà, chiếc máy bay rơi xuống vùng sương mù mang số hiệu “Rắn đen”, mạch chạy của khe núi ngoằn ngoèo như rắn lượn, thậm chí ngay cả con đường U Linh mà liên quân Trung – Mỹ đã xây dựng cũng dài như hình rắn. Đội thám hiểm Anh phán đoán: có lẽ “rắn” là chiếc chìa khóa liên kết toàn bộ bí mật trong núi Dã Nhân. Thế là họ liền tìm một chiếc máy bay tiêm kích vận tải, sau đó tiến hành cải tiến, làm mới từ trong ra ngoài, bao gồm cả nước sơn, tất cả đều hoàn toàn giống như đúc với chiếc máy bay bị mất tích, rồi đặt tên cho nó là “Rắn đen II” với hi vọng nó có thể đem lại may mắn cho đoàn thám hiểm.

Đội thám hiểm Anh mua đứt một sân bay kín đáo, do lực lượng vũ trang địa phương khống chế, ở khu vực phi chính phủ giáp ranh Cam Miến, rồi nhân lúc cơn bão nhiệt đới Buddha xâm nhập, họ đáp chiếc Rắn đen II bay vào núi Dã Nhân. Kế hoạch này vô cùng mạo hiểm, thiên thời địa lợi nhân hòa, dũng khí kỹ thuật, chỉ cần thiếu bất kỳ nhân tố nhỏ nào cũng đều có khả năng ảnh hưởng đến vận mệnh cuối cùng, vì sự thay đổi bất thường luôn mang lại những khó khăn không thể tưởng tượng. Nhưng đối mặt với món thù lao thuộc khổng lồ và cảm giác sứ mệnh to lớn vô hình nào đó đã khiến đội thám hiểm dưới sự thôi thúc của tâm lý đầu cơ, vẫn quyết định lao vào dù biết rõ khó khăn.

Wilson thẳng thắn thừa nhận: “Tính nguy hiểm của nhiệm vụ lần này vô cùng lớn, có khả năng không còn đường trở về, nhưng hi vọng những gì chúng tôi làm là có giá trị”.

Sau khi chiếc máy bay vận tải Rắn đen II cất cánh, nó bay lượn rất lâu trên bầu trời vùng núi, không ngờ thời tiết biến đổi càng lúc càng khắc nghiệt, đằng xa bắt đầu xuất hiện tiếng sấm rền vang dội, sương mù dày đặc gần khe núi cũng không hạ xuống đến mức thấp như dự tính ban đầu. Mọi việc đều không hội tụ đủ điều kiện giống trong kế hoạch, bởi vậy phi công đành đề nghị từ bỏ chuyến hành động này. Nhưng giữa khoảnh khắc cả đoàn đang bay là là vượt qua khe núi, thì đột nhiên xuất hiện chiếc máy bay tiêm kích vận tải u linh như một bóng ma từ trong dải mây mù ngưng tụ không tan biến lừ lừ bay ra.

Wilson nói: “Đó chính là chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã mất tích mấy chục năm trước của không quân Hoàng gia Anh, nó lao thẳng vào chúng tôi mà không phát ra một tiếng động nhỏ, đến khi phi công phát hiện thấy nó, đồng thời định chuyển hướng né tránh, thì mọi sự đã quá muộn. Chiếc Rắn đen II của chúng tôi đâm trúng chiếc máy bay xuất hiện từ đám sương mù. Lạ một điều, tuy rằng đột ngột xảy ra va chạm giữa không trung, nhưng lại chẳng hề khiến chiếc Rắn đen II phát nổ ngay lập tức, mà cảm giác giống như đâm vào một màn sương dày đặc, nhìn không rõ, sờ không thấy, còn chiếc máy bay vận tải đối diện dường như vốn dĩ chỉ là ảo ảnh không hề tồn tại. Nhưng điều khiến mọi người khó hiểu nhất là: trong khoảnh khắc va chạm với chiếc máy bay u linh kia, hai động cơ của chiếc Rắn đen II liền ngừng hoạt động, các thiết bị khác cũng hoàn toàn không thể điều khiển nổi, khoang máy bay phút chốc trở nên tối mù, rồi rơi thẳng xuống khe núi trong tình trạng mất lái.

May nhờ thượng đế che chở, nên chiếc Rắn đen II thoát khỏi họa máy tan người nát. Nó bị vướng vào các rễ cây cổ thụ, treo lơ lửng giữa không trung. Đợi khi các thành viên lần lượt tỉnh lại khỏi hôn mê, phát hiện sương mù hoàn toàn che khuất tầm nhìn phía ngoài khoang, chẳng rõ mình bị rơi xuống phương nào, để duy trì tầm nhìn với khoảng cách nhất định trong sương mù, đội thám hiểm Anh liền bật sáng mấy ngọn đèn halogen cường quang đã chuẩn bị từ trước, vì nó có thể xuyên thấu những tạp chất trong sương mù với hạn độ lớn nhất. Sau đó mọi người mở cửa máy bay ra ngoài, dùng đèn halogen nhiều bóng soi chiếu địa hình gần “điểm rơi”. Lúc này đội trưởng đội thám hiểm lại nhắc nhở mọi người thêm lần nữa: nếu tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, trước khi có sự cho phép của anh ấy, tuyệt đối không ai được mở hòm hàng, bởi vì “hàng” chở trong máy bay cực kỳ nguy hiểm”.

Có điều, lúc này vận đen của đội thám hiểm Anh chỉ vừa mới bắt đầu, ánh sáng cực mạnh phát ra bởi đèn chiếu trên máy bay không ngờ lại dẫn dụ một vật thể to lớn dị thường từ nơi sâu trong đám sương mù đi ra - Wilson miêu tả vật thể đó là “vật thể sống” với giọng kinh hoàng tột độ, nó nuốt chửng cả chiếc Rắn đen II, tiếp sau đó là một loạt tạp âm hỗn loạn điếc tai cùng tiếng gào thét hoảng loạn, rồi băng ghi âm ngừng lại ở đây.

[1]

() Tô tem: Tôn giáo của người nguyên thủy, coi một động vật hay thực vật nào đó là tổ tiên của mình và thờ nó.

Chương 4: Động không đáy kinh hoàng

Hồi 1: Súng săn

Dường như tất cả các đội thám hiểm vào núi Dã Nhân đều suy xét kỹ lưỡng đến những trở ngại và nguy hiểm có thể gặp phải, nhưng hiểm họa khó lòng dự tính nhất lại đến từ màn sương khí không ngừng trào ra dưới lòng đất. Ngoại trừ những kẻ mất tích vĩnh viễn bị nhốt trong đám sương mù bí ẩn, thì e rằng trên thế giới chẳng còn người nào khác có thể giải đáp xem rốt cục họ đã gặp phải điều gì trong đám sương mù, cũng không biết cội nguồn của nó xuất phát từ đâu. Nếu phán đoán theo lý lẽ thông thường, sương mù có khả năng khiến con người nảy sinh ảo giác, hoặc giả sương mù có hàm chứa độc tố, nhưng dựa vào kinh nghiệm phong phú, vũ khí tiên tiến hiện đại, cộng thêm một chút vận may không thể thiếu, thì lẽ ra họ cũng phải có cơ hội để rút lui an toàn khỏi núi mới phải.

Không chỉ có hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến nghĩ như vậy, mà ngay cả đội thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II cũng ôm hi vọng về sự may mắn đó. Để đối phó với màn sương mù ngàn năm nằm sâu trong khe động khổng lồ, họ đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị cần thiết, bao gồm các loại biện pháp phòng độc cùng nhiều thiết bị chiếu sáng cường quang sử dụng trong sương mù. Thế nhưng, chẳng ai có thể ngờ, bao trùm dưới màn sương mù dày đặc ấy lại tồn tại một thứ gì đó khiến con người hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi.

Cuộn băng ghi âm mà Wilson để lại khiến mọi người nghe xong đều thất sắc, im lặng mãi một hồi lâu. Nội dung mà cuốn băng nhắc đến đã hoàn toàn đảo lộn toàn bộ nhận thức về các sự việc của họ trước đây. Ngọc Phi Yến biết rất rõ trong lòng, hội của cô và đoàn thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II, chắc chắn đều có cùng một “khách hàng” ngồi phía sau màn diễn. Theo thông lệ quốc tế, nếu khách hàng đã thuê một nhóm người truy tìm tông tích chiếc máy bay vận tải bị mất tích, thì trước khi nhóm người đó thất thủ hoặc từ bỏ, sẽ không cho phép người khác nhúng tay vào. Nếu biết trước cơ sự như vậy, bọn cô ta đã chẳng thèm lao vào để uống ngụm nước đục này.

Ngọc Phi Yến lại nghĩ đến lúc cùng Tư Mã Khôi phát hiện ra chiếc máy bay tiêm kích vận tải, khi ấy sương mù trong khe núi đã hạ xuống mức thấp và chiếc Rắn đen II cũng không có biểu hiện gì bất thường, trong khoang chẳng thấy vết tích thể người Anh nào. Căn cứ vào đó có thể suy đoán: “vật thể sống” mà cuộn băng ghi âm nhắc đến, chỉ hoạt động trong phạm vi sương mù bao phủ, hơn nữa, chính “ánh đèn” đã dẫn dụ nó ra khỏi đám sương mù.

Lúc này Tư Mã Khôi đã cậy được nắp hòm hàng trong khoang máy bay, vừa nhìn quả nhiên bên trong chứa toàn trang thiết bị và vật dụng mà đội thám hiểm Anh mang theo, chứ không phải “báu vật Miến Điện” mà Ngọc Phi Yến đang mất công tìm kiếm.

Anh thấy thần sắc mọi người đều vô cùng nặng nề, như thể đại nạn đang sắp sửa giáng xuống đầu, liền tìm một lý do an ủi: “Chí ít cuốn băng ghi âm cũng giúp chúng ta giải thích một việc, đó là chiếc máy bay chúng ta gặp trong khe núi là chiếc Rắn đen II, chứ không phải oan hồn mấy chục năm trước vẫn lởn vởn trong sương mù còn gì !”.

Ngọc Phi Yến liếc Tư Mã Khôi một cái rồi nói: “Anh việc gì phải lừa người rồi tự lừa mình như thế. Chiếc máy bay mà chúng ta gặp quả đúng là chiếc Rắn đen II, nhưng rốt cục nó đã đâm phải cái gì trong đám sương mù ấy?”

Tư Mã Khôi nói, chiếc Rắn đen II đã đâm chính diện vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải, nhưng lại không hề xảy ra cháy nổ, tôi nghĩ chắc là do “sương mù”. Nghe nói trên đời thường xuất hiện ảo ảnh “thành phố trên mặt nước, thành phố trong núi”, buổi tối ở những khu nghĩa địa hoang vắng còn có “thành ma”. Vật đột ngột xuất hiện từ trong lớp sương mù, quá nửa chỉ là hình ảnh mấy chục năm trước còn lưu lại của chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích mà thôi.

Cuối thời kỳ chiến tranh Thái Bình Dương, quân Mỹ có một trung đội máy bay chiến đấu Mustang P-51. Trong khi đang chấp hành nhiệm vụ tuần tra ở khu vực Thái Bình Dương, đột nhiên họ phát hiện không phận phía đối diện xuất hiện hàng loạt máy bay chiến đấu Mitsubishi A6M Zero của quân Nhật, trong khi hạm đội liên hợp Nhật Bản lúc đó đã hoàn toàn không còn tồn tại, không quân và hải quân đều đã bị đánh cho tan tác, và đã sớm mất quyền khống chế trên khu vực từ lâu. Vậy thì làm sao còn có thể xuất hiện cả đội quân với quy mô cực lớn và chỉnh tề như vậy? Trong lúc phi công máy bay chiến đấu Mỹ định phát đòn công kích, thì toàn bộ quân địch đột nhiên biến mất chẳng còn tông tích, trước mắt họ chỉ còn lại mặt biển mênh mông nối liền đường chân trời dài tít tắp, xanh biêng biếc ngút cả tầm nhìn. Thông qua liên lạc họ được biết: sóng ra-đa hải quân tuần tra ở khu vực lân cận trước sau không hề xuất hiện bất kỳ phản ứng bất thường nào. Khi đó toàn bộ thành viên phi hành của trung đội bay chiến đấu Mustang đều tròn mắt ngạc nhiên, chẳng ai rõ cảnh tượng họ tận mắt chứng kiến khi nãy rốt cục là chuyện gì.

Sau này, hiện tượng đã được giải thích: đó chỉ là do khúc xạ ánh sáng của hơi nước, và còn có rất nhiều người tận mắt nhìn thấy chiến trường cổ đại rực rỡ huy hoàng trên biển hoặc thấp thoáng hiện lên phía tận cùng đường chân trời trong sa mạc. Có điều, các nhà khoa học đến tận bây giờ vẫn chưa giải thích nổi vì sao những ảo ảnh hình thành trên mặt nước hoặc trong tầng mây, mãi bao nhiêu năm sau này mới xuất hiện.

Đây là những điều Tư Mã Khôi nghe được lúc còn ở trong đội du kích cộng sản Miến Điện. Bản thân anh cũng không biết nó là thật hay giả, sở dĩ giờ đây lôi ra nhắc lại vì thấy cảnh ngộ đội thám hiểm gặp phải trong núi Dã Nhân có vài phần tương tự với các hiện tượng ly kỳ xuất hiện nơi biển rộng cát dài kia. Giải thích như vậy nghe có vẻ thông suốt lý lẽ hơn cả.

Thế mà Ngọc Phi Yến lại không công nhận suy đoán này. Nếu nói đó chỉ là hiện tượng giả được hình thành do sương mù, vậy thì tại sao vào khoảnh khắc chiếc Rắn đen II đâm phải nó, lại giống như chạm vào bức từ trường cực mạnh, khiến toàn bộ động cơ, thiết bị đều ngừng hoạt động? Ngoài ra, sau khi nó rơi xuống khe cốc, “vật thể sống” bị đèn halogen cực mạnh dẫn dụ ra khỏi đám sương mù là thứ gì? Các thành viên đội thám hiểm Anh đã gặp phải nạn gì? Và vì sao ngay cả thi thể cùng vết máu đều chẳng lưu lại chút nào tại hiện trường?

Tuyệt cũng có cùng cảm giác nghi hoặc sâu sắc như vậy. Không kìm được, cô liền mở miệng hỏi Tư Mã Khôi: “Vì sao người Anh lại hình dung vật xuất hiện trong sương mù dày đặc là vật thể sống?”

Tư Mã Khôi đáp: “Cái từ này đúng là dễ hù dọa người thật. Kỳ thực, nói trắng ra, đó chẳng qua là một “vật sống” nào đó tồn tại trong đám sương mù trào ra từ lòng đất hay sao?”

Tuyệt lắc đầu phủ nhận: “Chỉ sợ chẳng hề đơn giản như thế, từ này phạm vi bao trùm quá rộng lớn, anh có thể nói cái cây ngọn cỏ là vật thể sống, thậm chí cũng có thể nói cả cõi trời đất này đều là một vật thể sống. Chỉ đến khi chúng ta tận mắt chứng kiến vật xuất hiện trong sương mù ấy, thì mới có thể miêu tả chuẩn xác về nó. Rốt cục trời đất mênh mang, những điều con người biết chỉ vô cùng hữu hạn, nhưng một điểm có thể khẳng định chắc chắn, vật bị đèn halogen dẫn dụ ra khỏi sương mù, tuyệt đối nguy hiểm khác thường, chúng ta không gặp phải nó thì hơn”.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: “Có thể làm rõ chân tướng vật ẩn nấp trong sương mù được, cũng chính là vấn đề then chốt giúp đội thám hiểm đào thoát khỏi núi Dã Nhân”. Nhưng khi bị mọi người liên tiếp đặt câu hỏi như nã đạn pháo, thì anh cũng chẳng biết phải trả lời thế nào, và trong lòng nghĩ: “Tôi còn đang hoang mang đây này, sao các cô toàn nhằm tôi mà hỏi mãi thế?”, nên đành phải lảng đi: “Nhìn không hết là việc bình thường dưới trời, hiểu không thấu là chuyện bình thường trên đất. Mọi việc diễn ra trước mắt quả thực vượt xa khỏi dự liệu, dường như chẳng có chút logic nào, nên nếu có là ai thì cũng chẳng thể giải đáp nổi. Với tình hình này, chúng ta chỉ có thể cố gắng dùng tư duy đàn hồi để giải quyết thôi”.

Ngọc Phi Yến và Tuyệt đều ngơ ngác không hiểu, nên thắc mắc: “Tư duy đàn hồi có nghĩa là gì vậy?”

Hải ngọng nói thay Tư Mã Khôi: “Cái từ này đúng là dễ dọa người thật. Kỳ thực nói trắng ra, hiện giờ cậu ta chẳng còn kế sách gì nữa cả, đành phải cố biến vấn đề phức tạp thành đơn giản, biến nó từ lạ thành bình thường. Chúng ta cần gì phải tự làm khó bản thân thế chứ, chẳng may nghĩ quá hóa cuồng thì người chịu thiệt thòi rủi ro là chính mình chứ ai?”

Ngọc Phi Yến gật đầu đồng tình: “Nói cũng có lý. Giờ đây bên ngoài núi mưa to như tháo cống, nước mưa không ngừng thấm qua kẽ đất đá, lòng sơn động bị màn mưa che phủ, khiến sương mù dày đặc dưới khe cốc bị tiêu tan hoàn toàn. Chúng ta nhờ thế mà tranh thủ được thiên thời, nếu bây giờ buông tay từ bỏ thì có khác gì mang công đổ bể. Chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Anh, từng xác nhận thông tin thông qua liên lạc điện đàm không dây rằng: đã hạ cánh vào màn sương mù, chứ không chìm xuống đầm lầy. Ở dưới lòng đất có bao nhiêu là đầm lầy, nên nơi cho phép chiếc tiêm kích vận tải hạ cánh chỉ có mỗi dải đất ẩm ướt dài hẹp và sâu hút này thôi. Nếu chúng ta tiếp tục lần mò về phía nam, thì biết đâu vẫn còn cơ hội tìm thấy hàng chứa trong khoang máy bay.

Trước đây Ngọc Phi Yến thường tự do hành sự theo ý mình, chẳng bao giờ cần giải thích gì với thuộc hạ, nhưng đối với mấy người mới hội Tư Mã Khôi (bọn họ quả thật có thể buông tay giãy cẳng giữa đường, mà mình chẳng làm gì được), nên cô đành xuống nước, thương lượng đầu cuối với họ, rồi dặn dò mọi người: “Dụng binh hay ở chỗ thần tốc, bây giờ chúng ta không thể nấn ná thêm được nữa, phải nhanh chóng bắt tay hành động. Bởi không chừng cơn bão nhiệt đới chẳng kéo dài thêm bao lâu, lỡ mà nó chuyển hướng giữa chừng hoặc đột ngột suy yếu thì sự việc sẽ phiền phức to, lúc đó đám sương mù chắc chắn sẽ xuất hiện trở lại. Trước khi xuất phát, mọi người cố gắng mang theo những vật dụng cần thiết mà đội thám hiểm Anh để lại, đặc biệt là lương thực và vũ khí phòng thân, cùng với thiết bị chiếu sáng. Nếu trên đường bất ngờ gặp sương mù, thì phải tắt ngay đèn pin cường quang và đèn chiếu halogen đi. Trong tình huống bất đắc dĩ, cũng có thể đổi sang dùng đèn hàn quang hóa học không tỏa nhiệt”. Nói xong, cô bắt đầu tìm kiếm vật dụng cần thiết trong hòm hàng của đội thám hiểm Anh.

Ngọc Phi Yến bất ngờ phát hiện một chiếc máy bộ đàm dạng đeo vai, bèn hỏi hội Tư Mã Khôi xem có ai biết sử dụng không?

Tuyệt xem xong bảo: “Đây là máy điện đàm không dây chiến thuật quân dụng hiệu PRS25/77 mà. Cái này do Mỹ sản xuất, tôi hiểu một chút về thông tin, chắc có thể sử dụng được nó, nhưng bây giờ trong huyệt động dưới lòng đất chẳng có kẻ sống sót nào khác ngoài chúng ta, thì cần nó để liên lạc với ai?”. Ngọc Phi Yến nói: “Sau khi lấy được hàng, chúng ta sẽ tìm cách rút lui khỏi khe núi, nhưng nếu ra được ngoài núi Dã Nhân mà không có ai tiếp ứng thì cũng chẳng nên cơm cháo gì được, mang theo nó chẳng nguy hại gì, ngược lại biết đâu sẽ có lúc phải dùng đến”.

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bố trí mọi việc khá hợp lý, có bài có bản hẳn hoi, nếu là mình thì cũng chẳng thể nghĩ ra sách lược gì hay hơn, nên anh chỉ ngồi im lặng, chẳng nói thêm gì.

Những người còn lại cũng không có ý kiến gì khác, người nào người nấy cắm cúi bắt tay chuẩn bị, chỉ mỗi mình La Đại Hải cả đời chưa từng bị con gái chỉ huy bao giờ, tuy chẳng nói ra miệng, nhưng trong lòng khó tránh khỏi có chút khó chịu. Anh vô tình phát hiện dưới đáy hòm có một hộp gỗ dài, mở ra nhìn thì thấy bên trong đựng một khẩu súng săn bốn nòng kiểu cũ bị tháo rời từng bộ phận, kèm theo hai loại thuốc súng đặc chế. La Đại Hải trong chốc lát đã lắp ráp xong và thấy khẩu súng săn này đúng là to ngoại hạng, hơn nữa chất liệu thân súng rất được chú trọng, công nghệ vô cùng tinh xảo, bốn nòng súng xếp thành hình chữ thập, hai nòng trái phải lắp đạn ghém, hai nòng trên dưới là những đường xẻ rãnh dành cho loại họng súng cỡ lớn. Anh từng nghe người bản địa nói, đây là kiểu súng mà dân quý tộc Anh trước đây thường sử dụng khi đi săn voi rừng hoặc tê giác ở Miến Điện hay Ấn Độ. Lớp sừng bên ngoài của tê giác cứng đanh như thép nguội, đủ để phòng vệ trước nhiều loại đạn, chỉ mỗi khẩu “săn voi rừng” với đường kính họng súng ngoại cỡ này là nó không thể địch lại nổi mà thôi.

La Đại Hải hớn hở ra mặt, nói với Tư Mã Khôi: “Khẩu súng này chẳng khác nào khẩu pháo, có nó bên mình, tớ cũng cảm thấy vững dạ hơn nhiều”.

Tư Mã Khôi nhắc nhở: “Tiên sư Hải ngọng, cậu định mang nó đi bắn cả xe tăng đấy hả? Tớ bảo cho mà biết, sử dụng súng săn nòng ngoại cỡ đó cũng đáng ngại ra phết, tuy rằng uy lực nó lớn thật, nhưng vì được sản xuất từ lâu rồi nên cấu tạo thiết kế có khá nhiều điểm lạc hậu, khuyết điểm vô số, rất dễ cướp cò, đặc biệt lực đẩy về sau mạnh đến kinh người, kẻ nào thể lực yếu ớt, khi nổ súng không khéo còn nảy ra sau ngã chổng vó đấy”.

La Đại Hải tự thấy mình cao to lực lưỡng, thể lực tráng kiện, tay vai chắc chắn nên chẳng coi mấy lời của Tư Mã Khôi vào đâu: “Bọn khọm Anh đấy chẳng phải cũng chỉ uống nước máy, ăn mỳ trắng thôi sao? Đâu phải hạng ba đầu sáu tay gì. Bọn ấy mà đã sử dụng được thì chúng ta cũng có thể chơi cho sướng tay chứ”. Nói xong, anh khoác băng đạn của khẩu săn voi lên người, sau đó quay sang dặn dò Karaweik: “Ranh con nhà cậu nhớ bám đuôi cho sát vào nhé, nếu dám rớt lại phía sau, coi chừng anh bắn tuốt xác ra đấy”.

Karaweik cũng biết hoàn cảnh trước mắt vô cùng nguy hiểm, mặt mày hoảng hốt, miệng ngậm chặt chẳng dám ho he câu nào.

Sau khi mọi người đã nai nịt gọn gàng đâu vào đấy, họ mới lần lượt chui ra khỏi khoang Rắn đen II. Người nào người nấy đều lăm lăm khẩu súng tự động trong tay, dùng đèn chiếu halogen mở đường, dò dẫm về phía cực nam của khe núi truy lùng mục tiêu. Vùng nước đọng thấm qua kẽ nứt đất đá bị dòng khí lưu thông ở nơi cao trong khe núi cuốn ngược lên, đã tạo thành màn mưa bụi dày đặc giăng mắc mịt mùng khắp không gian, khiến tầm nhìn cũng bị ảnh hưởng, mọi vật trở nên mơ hồ không còn rõ ràng nữa.

Đáy khe núi toàn là những vùng đất ẩm ướt hoang phế, trong đó có một dải khá rộng, trải dài theo chiều dọc, tạo hình giống như con mãng xà khổng lồ. Trên mặt nước xung quanh lại mọc đầy cỏ răng cưa thân dày lá rậm và lau sậy um tùm, chúng cao đến ngang thân người, khiến đầm lầy trông chi chít ngang dọc chẳng khác nào bàn cờ.

Tuyệt thấy kỳ lạ liền thắc mắc: “Không gian dưới lòng đất rộng lớn, sâu hút, quanh năm bị sương mù dày đặc phong tỏa như thế này, ánh mặt trời chẳng bao giờ lọt xuống tới nơi thì lẽ ra không thể xảy ra hiện tượng quang hợp được mới phải, vậy mà sao hệ thực vật ở đầm lầy lại có thể mọc um tùm, phong phú dường này nhỉ?”

Tư Mã Khôi cũng đồng cảm: “Điều bất thường nhất là ở đây quả thực quá rộng rãi, trống trải, mà độ sâu của huyệt động không dưới hai ngàn mét. Tôi vốn dĩ cho rằng dưới lòng đất phải có vật gì đó ẩn nấp, nhưng trong này ngoại trừ sương mù ra, thì dường như chẳng có thứ gì”. Trong lúc nói, dưới chùm sáng của đèn chiếu halogen, anh nhìn thấy ở mặt nước lân cận nổi lềnh bềnh mấy khúc trông như củi khô, trong lòng biết chắc, đó chính là cá sấu.

Bốn xung quanh hẻm núi hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Những loài động thực vật từ trên cao rơi xuống đáy động, chỉ có thể sinh sôi nảy nở ở môi trường gần như khép kín. Bởi vậy, trong đầm lầy dưới lòng đất, xuất hiện các loài sinh vật bò sát như cá sấu hay mãng xà Miến Điện thì cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ. Nhưng “vật thể sống” xuất hiện từ đám sương mù và tấn công chiếc Rắn đen II rốt cục là thứ gì? Hình dạng của nó chắc chắn không thể nhỏ được, hơn nữa, nó có thể mượn sự trợ giúp của sương mù nhanh chóng di chuyển lên nơi cao, nên chắc chắn không thể là cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện.

Tư Mã Khôi chẳng lần tìm được đầu mối, nên mặc kệ không buồn nghĩ nhiều nữa. Anh ngẩng đầu nhìn lên cao, trước đây anh chẳng có chút cảm xúc nào với cơn bão nhiệt đới Buddha, chỉ thấy khí hậu khắc nghiệt là mối hiểm họa chí mạng, nhưng giờ đây lại ngàn vạn lần mong rằng cơn giông tố xua tan mây mù này đừng có dừng lại.

Trong lúc bước đi với đầu óc trỗng rỗng, đột nhiên anh nhìn thấy phía trước có một con cá sấu khổng lồ dài mười mấy mét, nặng tới vài tấn, há miệng lộ ra hàm răng sắc nhọn lởm chởm. Nó nằm vắt ngang đường, án binh bất động, bất ngờ bị kinh động bởi ánh sáng đèn halogen và tiếng bước chân, nhưng nó chẳng hề tấn công mà chỉ chậm chạp nhúc nhích thân hình nặng trịch phát ra mấy tiếng “ì oạp ì oạp” rồi cứ thế trườn sâu vào đám lau sậy, nghe âm thanh dường như đã bò đi khá xa.

Ngọc Phi Yến vội nhắc nhở mọi người, tuyệt đối không được đi gần chỗ cỏ lau sậy mọc, để tránh bị cá sấu mai phục ngoạm một ngoạm mà lôi xuống đầm lầy.

Lúc này gã Gấu trắng người Nga đột ngột dừng bước, làm một nhúm đất nơi con cá sấu khổng lồ vừa trườn qua làm vỡ cả tầng gỗ mục, dưới lớp rêu xanh và bùn đất dày lộ ra một khoảng đất rộng màu vàng như gan chó. Gã liên tiếp móc mấy chỗ khác nữa trên mặt đất, tất cả đều giống như vậy, xem ra nó kéo dài một mạch xuống tận nơi sâu dưới đáy đầm. Gã Gấu trắng người Nga dường như cảm thấy việc này rất đỗi bất thường, gương mặt vốn dĩ lạnh như băng của gã giờ đã phủ thêm một làn mây u ám.

Tuy rằng Tư Mã Khôi không hiểu gã khọm người Nga kia đang làm trò gì, nhưng nơi này cực kỳ nguy hiểm, đâu thể tự tiện dừng lại như thế, bèn hỏi: “Bác chuyên gia nhát chết cho em hỏi, bác đang đào bom đấy à?”

Gã Gấu trắng người Nga nghe thấy tiếng nói liền ngẩng đầu lên, mặt lạnh tanh hướng thẳng về phía Tư Mã Khôi mà há to miệng, bên trong lộ ra mỗi cái cuống lưỡi, ngầm ra hiệu mình không thể nói, sau đó liền dùng dao găm vạch vài chữ trên mặt đất.

Mọi người chiếu đèn nhìn xuống, chỉ thấy bốn chữ cái tiếng Anh “MOHO”, ai nấy đều cảm thấy kỳ lạ khó hiểu: “Đây là tên người à?”

Ngọc Phi Yến biết một số kinh nghiệm mà chuyên gia bom mìn Gấu trắng này từng trải qua, nhìn thấy mấy chữ cái tiếng Anh trên mặt đất, thì liền hiểu ra điều mà gã muốn nói với mọi người, cô ta kinh ngạc hỏi lại: “Có phải anh muốn nói chúng ta bị rơi vào trong ống kính viễn vọng rồi không?”

Hồi hai: Kính viễn vọng địa cầu

Gã Gấu trắng người Nga dùng dao găm vạch bốn chữ “MOHO” trên mặt đất, chỉ có Ngọc Phi Yến hiểu rõ ý gã. Đây là một sự thật khiến người ta không thể nào chấp nhận nổi: đáy động dưới khe núi khổng lồ ở vùng núi Dã Nhân được cấu thành bởi vật chất thạch quyển[1], sáu kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm không rõ vì sao lại rơi vào “điểm gián đoạn Moho” ở giữa lớp vỏ địa chất và quyển Manti của trái đất.

Nếu phải giải thích sự việc này, thì phải bắt đầu nói từ thời kỳ đầu những năm 50, khi đó hai trận địa đối địch là hai cường quốc Liên Xô và Mỹ thường chịu sự chi phối bởi tư duy chiến tranh lạnh. Họ đổ một lượng lớn tài sản vật chất vào cuộc chiến tranh không bao giờ chấm dứt, nghiên cứu khoa học quân sự cũng phát triển đột biến với tốc độ gần như là thần kỳ, hai bên đều vắt kiệt sức để khai phá mọi nguồn tài nguyên chiến lược.

Liên Xô khi đó có một dự án bí mật, đặt biệt danh là “Kính viễn vọng địa cầu”. Vùng phía đông và phía nam trên lãnh thổ Liên Xô rất rộng lớn trống trải, uốn vòng theo dải đồi núi, hang động thiên nhiên và các mỏ khoáng nhiều vô kể. Vì muốn nắm giữ được nguồn tài nguyên phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất, đồng thời chạm tay vào thế giới chưa từng được biết đến của nhân loại sớm hơn nước Mỹ, người Liên Xô đã dùng thiết bị máy móc khoan sâu hạng nặng, bí mật tiến hành đào bới ở độ sâu chưa bao giờ từng có trước đây, dưới một hang động khô trong bồn địa thiên nhiên.

Công trình này tiêu tốn khoảng thời gian gần hai mươi năm, huyệt động mà họ đào được nằm dựng đứng với độ sâu đạt tới mười ba ngàn mét, là huyệt động sâu nhất trên thế giới được biết đến. Bởi vì việc này liên quan đến những cơ mật quân sự ở mức độ tối cao, cho nên dự án “Kính viễn vọng địa cầu” từ đầu chí cuối tuyệt đối được tiến hành trong trạng thái tuyệt mật, bên ngoài rất ít người biết đến nội tình sau bức màn.

Gấu trắng Ciglovski nghiên cứu tinh thông về chất nổ và khoan xuyên địa chất. Vào thời kỳ cuối của công trình “Kính viễn vọng địa cầu”, gã từng tham gia vào dự án và có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều bí mật có liên quan. Nhân loại đã chế tạo ra kính thiên văn, có thể dùng mắt thường để thăm dò mọi bí mật của không trung vũ trụ, nhưng mắt người lại không thể nhìn xuyên thấu lòng đất, cho nên họ mới đặt tên cho vực sâu nằm xuyên qua địa tầng trái đất là “Kính viễn vọng địa cầu” với mong muốn có thể thông qua nó để trực tiếp quan trắc vật chất dưới lòng đất.

Tại các độ sâu khác nhau trong lòng đất, kết cấu của vật chất cũng hoàn toàn khác nhau, không phải tất cả từ trên xuống dưới đều là bùn cát đất đá lẫn lộn. Nói một cách khái quát, đại thể có thể phân chia trái đất thành ba tầng khu vực, phần ngoài cùng gọi là lớp vỏ địa chất, phần sâu hơn là tầng quyển manti trung gian, hay còn gọi là lớp phủ, bên trong lớp phủ là phần lõi. Phía ngoài và phía trong tầng quyển manti, chỗ ranh giới của loại các vật chất khác nhau gọi là điểm gián đoạn, chỗ giáp ranh giữa lớp vỏ và lớp phủ được gọi là điểm gián đoạn Moho, chỗ giáp ranh giữa lớp phủ và lớp lõi được gọi là điểm gián đoạn Gutenberg.

Năm đó, người Liên Xô đã đào tới độ sâu hơn mười ngàn mét dưới lòng đất, lấy được mẫu vật từ tầng quyển manti bên trong “điểm gián đoạn Moho”, phát hiện dưới lòng đất hàm chứa loại vật chất có tính phóng xạ rất lớn, khiến vật chất tầng thạch quyển hình thành giống như sáp parafin, nó không phải đá cũng không phải cát, có lẽ bên trong chứa vi sinh vật, nên mới hiện lên những vết vằn màu gan chó hiếm gặp ấy, hoàn toàn không giống với cấu tạo địa chất thường thấy trong các hang động khác ở núi Dã Nhân. Gấu trắng từng nhìn thấy mẫu vật này ở Liên Xô, đồng thời hiểu rằng vạch ranh giới loại vật chất dưới lòng đất này mang tính toàn cầu, nhưng tùy vào khu vực bề mặt khác nhau thì độ sâu của điểm gián đoạn Moho cũng thay đổi; nếu ở núi Dã Nhân Miến Điện, chí ít phải nằm sâu dưới lòng đất khoảng mấy chục nghìn mét thì mới có thể xuất hiện loại vật chất đặc thù này.

Ngọc Phi Yến ngước đầu lên nhìn khe nứt của miệng vực ở mãi trên cao qua lớp mưa bụi, trong lòng trào lên cảm giác khác lạ khó nói thành lời. Lúc này, bên ngoài núi mưa to như trút, sấm sét giao hòa, không thể dùng mắt thường phán đoán dựa theo tia sáng của ánh chớp, mà chỉ có thể nhìn con số hiển thị vị trí so với mực nước biển trên đồng hồ đeo tay, khoảng cách theo chiều thẳng đứng giữa đáy động và miệng vực áng chừng khoảng hai nghìn mét. Hơn nữa, đỉnh khe núi, bản thân lại nằm trong núi Dã Nhân, nơi có vị trí tương đối cao so với mực nước biển, trừ đi độ cao của ngọn núi, thì từ mặt đất xuống dưới này không thể vượt quá một nghìn mét. Độ sâu ấy đương nhiên không thể gọi là nông, nhưng sự biến hóa của vật chất địa tầng cho thấy rõ ràng mọi người đang ở độ sâu mười nghìn mét dưới lòng đất, chứ không phải một nghìn. Việc đó cũng có nghĩa là độ sâu mà bản thân tự cảm giác thấy còn kém độ sâu thực tế một số không. Trong lòng khe núi thăm thẳm như vực sâu vạn trượng này, dường như mọi logic và kiến thức thông thường đều mất hết ý nghĩa, khiến người ta hoàn toàn khó lòng phán đoán được rốt cục bản thân đang gặp phải tình huống gì.

Ngọc Phi Yến trong lòng hỗn độn một mớ, cô ta tóm tắt nội dung tình hình mà gã Gấu trắng phát hiện với những người còn lại. Hội Tư Mã Khôi trình độ văn hóa có hạn, nên chẳng thể nào hiểu được “điểm gián đoạn Moho” và “kính viễn vọng địa cầu” rốt cục là chỉ thứ gì? Nếu như diễn đạt nôm na có khi họ lại hiểu được chút ít.

Hải ngọng tặc lưỡi: “Bây giờ dù sao chân đã chạm tới đáy rồi, còn lo nó sâu bao nhiêu làm chi? Tôi thực sự chả hiểu chuyện này có gì đáng để quan tâm. Rơi xuống từ một ngàn mét cũng chết, mà rơi xuống từ mười ngàn mét chẳng phải cũng chết sao? Kiểu gì thì vẫn một kết cục thịt nát xương tan vung vãi tứ phía, dù sao có thành bộ dạng gì thì bản thân cũng chả nhìn thấy; bởi vậy, căn bản chẳng cần suy nghĩ về độ nông sâu của huyệt động dưới lòng đất này làm gì cho mệt óc”.

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: “Chắc là vẫn hơi khác một chút đấy, rơi từ hai ngàn mét thì chỉ cần gào lên một tiếng thảm thiết, chẳng kịp đau buồn gì đã ra đi rồi. Nhưng nếu rơi từ nơi cao mười ngàn mét, cứ mặc thân thể rơi tự do xuống dưới, trước tiên cậu phải gào mất vài tiếng, sau đó móc một điếu thuốc ra hút, rồi lôi giấy bút ra viết di chúc, dặn dò hậu sự xong đâu đấy, lại hồi tưởng quãng đời chinh chiến trên lưng ngựa ở cánh rừng rậm nhiệt đới này hết mấy lượt, cúi đầu nhìn xuống, thì ô hay, vẫn còn nửa đoạn đường nữa mới rơi được tới đáy kia”.

Ngọc Phi Yến thấy hai người bọn họ căn bản chẳng hiểu chuyện gì, bèn nói: “Bất kể do địa chất trong lòng núi Dã Nhân biến dị hay do cảm giác về không gian của bản thân bị nhiễu loạn, đều là những vấn đề sau này mới cần để tâm đến. Giờ phải cân nhắc việc nào quan trọng việc không. Hiện giờ quan trọng nhất là đi tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích”.

Cô thấy đầm lầy dưới lòng đất mênh mang vô bờ bến, lớp phủ thực vật và bóng tối lại cản trở công cuộc tìm kiếm, nên với tình hình này, muốn tìm thấy mục tiêu, gần như là mò kim đáy bể, thật khiến người ta chẳng biết bắt đầu từ đâu. Tất cả mọi chiêu phép đào mồ quật mả trong núi trước đây đều chẳng có tác dụng gì ở nơi này, đầu óc cô trống rỗng không nghĩ ra nổi một kế sách nào.

Tư Mã Khôi theo đoàn thám hiểm vào núi sâu, thấy hội trộm mộ Ngọc Phi Yến đúng là có chút bản lĩnh, nhưng kinh nghiệm và kỹ thuật truyền thống của bọn họ, dường như hoàn toàn không thích hợp trong rừng rậm nhiệt đới Miến Điện. Ngay từ đầu, Khương sư phụ quyết định tiến vào thâm cốc theo con đường “tượng môn” là đã phạm vào điều đại kị.

Tư Mã Khôi lăn lộn trong đội du kích cộng sản Miến Điện đã nhiều năm, ngoài việc phóng hỏa giết người, thì kinh nghiệm về những phương diện như tác chiến trong rừng rậm, mưu cầu sinh tồn ở nơi hoang dã, tìm kiếm cứu viện hay phân biệt phương hướng v.v… anh đều nắm rõ như lòng bàn tay. Anh quay sang nói với Ngọc Phi Yến: “Địa hình vùng núi Miến Điện cực kỳ phức tạp, muốn đảm bảo an toàn, thì phải cố gắng thực hiện theo phương châm – đi chỗ cao, chớ đi chỗ thấp, đi đường rộng, chớ đi đường hẹp, đi dọc chớ đi ngang, băng rừng chớ lội cỏ”.

Thế mà bây giờ đội thám hiểm ở đáy khe núi tìm tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, trong bốn điều cấm kỵ, họ đã phạm phải ba. Thứ nhất, đi xuyên vào trong huyệt động, tức là đi nơi thấp, thứ hai sự hạn chế của địa hình và môi trường, khiến tầm nhìn trở nên vô cùng hạn hẹp, tức là đi nơi hẹp, thứ ba dưới lòng đất toàn là đầm lầy, cỏ răng cưa và lau sậy mọc um tùm rậm rạp, rất dễ bị cá sấu lén tấn công. Có thể nói, cảnh ngộ họ gặp phải bây giờ hiểm ác đến cực điểm.

Nghe Tư Mã Khôi nhắc đến cá sấu mai phục dưới đầm lầy, mặt mày ai nấy đều tự dưng biến sắc. Nhớ năm đó ở Miến Điện, đội quân hơn hai ngàn tên, được vũ trang đầy đủ đến tận răng lạc bước vào đầm lầy, do binh sỹ bị thương quá nhiều, mùi máu tanh bốc lên nồng nặc, kết quả là dẫn dụ vô số cá sấu trườn ra khỏi đầm. Chưa đầy nửa tiếng sau, hơn hai ngàn con người gần như đều trở thành miếng mồi sống nuôi cá sấu. Căn cứ vào tập tính của loài này là, sau khi phát hiện ra con mồi, nó không lập tức tấn công ngay, mà trước tiên sẽ quan sát kỹ một hồi, nhưng khi có con nhào lên trước, thì đồng loại sẽ thi nhau phi lên tranh mồi. Lúc đó kết cục như thế nào, đương nhiên chẳng cần nói thì ai cũng tự rõ.

Tư Mã Khôi lại nói: “Trước mắt chỉ biết chiếc máy bay vận tải đại khái hạ cánh ở cực nam khe núi, nhưng huyệt động dưới lòng đất thênh thang thâm u như thế này, dựa vào mấy khẩu súng của chúng ta, mạo hiểm đội mưa dò dẫm đi tìm trong đầm lầy, thì biết đến bao giờ mới thấy?”

Ngọc Phi Yến bị Tư Mã Khôi vặn lại thì máu quyết tâm đã nguội đi quá nửa, lặng lẽ hỏi: “Theo như anh nói, chẳng lẽ chúng ta không còn cơ hội nào tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó sao?”

Tư Mã Khôi đáp: “Hoàn cảnh càng nghiệt ngã thì cơ hội càng nhiều hơn. Lúc đầu tôi cũng chẳng có cách gì hết, có điều từ khi đi vào đầm lầy, tôi lại đột nhiên nghĩ ra một cách, không chừng lại dùng được”.

Chủ nghĩa thực dân Anh thống trị Miến Điện gần trăm năm, trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai, quân đội Anh đánh nhau với quân Nhật ở Miến Điện, quy mô phải tới hơn một triệu người. Đương nhiên, phần lớn lính tráng lúc đó đều đến từ những nước thuộc địa, tuy nói rằng họ chiến đấu vì nước Anh vĩ đại, nhưng rất nhiều người cả đời chưa hề đặt nửa bước chân lên lãnh thổ nước Anh, thậm chí cũng chẳng rõ nước Anh nằm ở đâu trên bản đồ.

Giữa các nước thuộc địa rải rác khắp thế giới, người Anh coi trọng nhất Ấn Độ đất rộng người đông, trong khi Miến Điện lại là bức bình phong chiến lược tự nhiên của Ấn Độ. Năm đó, họ xây dựng Miến Điện trở thành một tỉnh của Ấn Độ. Bởi thế người Anh đặc biệt chú ý phát triển Miến Điện trong suốt nhiều năm, biến nó trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất Đông Nam Á. Thời kỳ này, chế độ thống trị thực dân đã có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đối với Miến Điện. Cho đến ngày nay, lãnh thổ Miến Điện còn rất nhiều đường bộ, đường sắt, sân bay do người Anh xây dựng, đặc biệt có vô số vũ khí chiến tranh nằm rải rác khắp nơi trên đất nước, bao gồm cả pháo hạng nặng, xe tăng, máy bay chiến đấu.

Tư Mã Khôi cho dù không thông thạo tình hình nước Anh lắm, nhưng anh tham gia quân đội nhân dân cộng sản Miến Điện đã bao nhiêu năm, nên nắm rất rõ những loại vũ khí do người Anh chế tạo. Chiếc máy bay tiêm kích, anh cũng từng nhìn thấy không ít lần. Trước đây, cùng đồng đội hành quân trong núi sâu rừng thẳm, đôi lúc anh cũng gặp vài xác máy bay ném bom bị rơi xuống núi, và cả những quả bom hạng nặng ném xuống nhưng không phát nổ. Binh lính bản địa của quân đội nhân dân cộng sản nhìn thấy vỏ ngoài chiếc máy bay, liền dỡ nó ra mang về, những phần tương đối hoàn chỉnh họ còn có thể mang ra chợ bán lấy tiền, hay đổi lấy vật dụng có giá trị tương ứng. Bởi vì loại gỗ ván ép sử dụng cho máy bay tương đối nhẹ, nguyên liệu hoàn toàn dùng gỗ Balsa, một loại gỗ khá giống với họ gỗ hông (Paulownia) ở châu Á. Loại gỗ này không nứt không cong, dễ gia công, khả năng chịu chấn động tốt, không dễ bị biến dạng và không dễ cháy, nên nó rất thích hợp để làm đồ gia dụng hoặc sửa chữa nhà cửa. Nếu nhìn thấy trong nhà người bản địa, có những đồ gia dụng đơn giản do mấy tấm gỗ ván ép cũ kỹ lắp ghép thành, thì chẳng cần hỏi cũng biết, nguyên liệu chắc chắn được lấy từ chiếc tiêm kích của quân đội Hoàng gia Anh.

Những điều này đều là điều ai cũng biết, bình thường đến mức không thể bình thường hơn nữa, làm gì có chỗ nào đặc biệt? Nhưng Tư Mã Khôi từng được truyền thụ Kim điển, hiểu được cái lý “tướng vật”, đó là căn bản khởi nghiệp của tổ tiên, giờ đây trên thế giới, ngoại trừ anh ra, thì chẳng còn người thứ hai có được bản lĩnh này nữa.

Vậy thế nào là “tướng vật”? Thời xưa thường có các thuật sĩ xem tướng số cho người sống, dựa vào ngũ quan diện mạo và khí sắc để phán đoán cát hung phúc họa cho họ, ngoài ra còn có thầy địa lý xem “tướng đất”, nghĩa là thông qua bố cục địa hình phong thủy để phán đoán sông núi địa lý. Bên cạnh đó còn có rất nhiều hạng mục tạp nham như tướng mèo, tướng bò, tướng ngựa v.v… Thế nhưng tất cả quy nạp lại, cổ pháp đó toàn bộ đều thuộc về đạo “tướng vật”.

Thời xưa, đạo chỉ “tướng vật” nhìn tên mà biết nghĩa, “tướng” tức là chỉ vật có thể dùng mắt nhìn thấy, còn về hàm ý của “vật” bao trùm phạm vi vô cùng rộng lớn, vạn vật trong cõi trời đất, bất kể sống chết gì, đều được coi là “vật”. Là vật tất phải có thuộc tính, chẳng có cái gì không hợp lẽ âm dương sinh khắc.

Người xưa giải thích về nguyên lý “tướng vật” như sau: “Thiên địa vốn vô vi, thuộc tính vạn vật vốn dĩ đã có, muốn miêu tả vạn vật, hãy xem tạo hóa nhỏ bé của nó, mà phân biệt thời số vận hạn, sẽ linh ứng như thần phán”. 

Lời này hàm ý quá sâu xa, nếu nói đơn giản, rõ ràng hơn một chút, thì ta có thể lấy một ví dụ tương đối trực quan để hình dung: “Bỏ một giọt nước mắt vào ống rồi mang vào phòng thí nghiệm, từ đó ta rất dễ phân tích mọi thành phần hóa học, để biết giọt nước mắt do những phân tử nào cấu thành. Nhưng lý do gì khiến giọt nước mắt có thể trào ra khỏi cơ thể? Rốt cục do đau buồn hay do mừng vui? Cho dù áp dụng các phương pháp khoa học tiên tiến hơn nữa, thì cũng không thể phân biệt được nguyên nhân phát sinh ra nó. Cái này nghĩa là biết hình mà không biết tính. Nhìn rõ, sờ thấy bao giờ cũng dễ phân biệt, còn những khí chất vô hình vô ảnh thì rất khó phán đoán, chỉ có thể thông qua cổ pháp tướng vật để quan sát phân tích, điều ấy gọi là: nhìn hình, biết tính - biết tính mới có thể biết tường tận nguyên lý và nhờ đó cuối cùng sẽ tìm thấy con đường giải quyết.

Tuy Tư Mã Khôi lĩnh hội bản lĩnh gia truyền này không sâu lắm, chẳng qua thủ thân được một chút lông da bên ngoài, tới được trình độ nông cạn “nhìn hình, biết tính”. Có điều, khi ở gần đầm lầy dưới lòng đất, anh đã tiến hành phân tích tỉ mỉ mọi vật xung quanh, không khỏi giật mình trước một số điều mình đã thấy.

Anh biết chất liệu chế tạo nên chiếc máy bay tiêm kích vận tải, còn có một đặc tính: nếu gỗ ván ép Balsa bị ngâm lâu trong môi trường ẩm ướt, không có ánh sáng mặt trời, thời gian càng lâu thì tính gỗ càng nặng nề âm khí. Nếu chiếc máy bay vận tải hạ cánh xuống khe cốc sâu mấy chục năm, thì cũng tức là trong rừng rậm dưới lòng đất đang vùi chôn một thân gỗ âm khí cực mạnh.

Cỏ răng cưa và lau sậy trong đầm lầy cũng đều hợp theo lẽ chuyển biến của tạo hóa. Nếu ở môi trường bình thường, cùng một đám lau sậy, nhưng khóm ở mặt bắc sẽ um tùm rậm rạp vì ở gần mặt trời hơn, còn khóm ở mặt nam sẽ khô cằn hơn một chút. Nhưng ở dưới khe núi quanh năm bị mây mù che phủ không chút ánh sáng này, quy luật sinh trưởng của lớp phủ thực vật chắc là sẽ không phân biệt nam bắc. Thế nhưng, chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã mất tích mấy chục năm nay, chắc chắn đang tỏa âm khí nặng nề ở nơi nó nằm, nói cách khác, nơi nó nằm gọi là “cực âm”, bởi vậy đám lau sậy mọc gần vị trí chiếc máy bay sẽ cằn cỗi hơn. Nếu tiến hành quan sát phân tích tỉ mỉ, thì sẽ không khó xác định phương hướng chính xác của nó.

Nếu Tư Mã Khôi không cùng đội du kích cộng sản Miến Điện lăn lộn bao nhiêu năm nơi rừng già núi sâu, và không hiểu được đôi chút về bí thuật tướng vật, thì cũng khó có thể nắm vững được kinh nghiệm đặc thù này. Trong đầu anh nảy ra một kế sách, chỉ sợ để lâu sinh biến, nên liền đi trước dẫn đường và nói với hội Ngọc Phi Yến: “Mọi người chỉ cần đi theo tôi, trong ngày hôm nay chắc chắn sẽ có kết quả”, rồi lại dặn dò: “Đi lại trong đầm lầy, mọi người hãy đi theo hàng dọc, khoảng cách giữa người trước và người sau không được vượt quá một cánh tay, đồng thời phải bước nhẹ, đứng chắc, nai nịt các vật dụng tùy thân như súng, ba lô, bình nước đều phải gọn gàng, ép sát vào người, những vật cao quá đầu, rộng quá vai đều vứt hết, như vậy khi xảy ra tình huống đột biến như bị ngã hay thụt chân, mới có thể đảm bảo những vật dụng mang theo không rơi vãi, mất mát, cũng có thể tránh va chạm vào bụi cỏ phát ra tiếng động lớn dẫn dụ bọn cá sấu đến, làm như vậy sẽ giúp hành động được nhanh chóng hơn”.

Tư Mã Khôi nói xong, lập tức dùng dao săn phạt một đoạn cành khô, cắm xuống bùn dưới đầm để dò đường. Anh lần mò theo khu vực tỏa ra âm khí nặng nề tối tăm nhất trong đầm lầy, chậm chạp tiến từng bước. Những người còn lại bám sát phía sau, xuyên qua bụi cỏ răng cưa um tùm và bóng tối mênh mang, rồi chẳng biết họ đã đi được bao nhiêu cây số thì nhìn thấy ở nơi sâu phía bãi cỏ hoang, đột nhiên có một vật gì rất to lớn nằm chắn ngang.

Nhờ vào chùm sáng phát ra bởi đèn chiếu halogen, họ nhìn kỹ vào vật thể ấy, thấy thấp thoáng như hình của chiếc máy bay tiêm kích vận tải. Nó nằm bất động chìm sâu vào giấc ngủ im lìm ở nơi đây liền một hơi đã hai mươi mấy năm, nửa thân dưới của nó đã bị lún dưới đầm lầy, gần đó nhấp nhô lồi lõm đầy những vật trông như sáp nến, bao phủ kín mít chẳng chừa chỗ nào, đồng thời trên bề mặt đất ẩm ướt còn lộ ra rất nhiều măng đá[2], kết dính lằng nhằng bởi chất keo giống như thảm rêu, nhìn vào chẳng khác nào loại dầu nến, người Miến Điện gọi nó là “nến nước”, kỳ thực đó là sào huyệt một loài bướm đêm có tên gọi là “ngài mắt kính”.

Mọi người vừa đến gần, thì lũ côn trùng bị kinh động hoảng hốt bay tứ tán khắp nơi. Dưới làn mưa bụi mịt mùng, chúng túa ra từ lùm lau sậy gần đó, không ít con bị nước mưa đánh ướt sũng, nhìn thấy chùm sáng lay động trong bóng tối, liền ngờ nghệch đâm đầu bổ nhào vào đèn chiếu halogen, trên cánh ngài có những vệt vằn màu trắng, trong suốt như mắt kính, chúng đều là loại sinh vật sinh sôi nảy nở ở những nơi ẩm ướt quanh năm. “Nến nước” là loại hợp chất do bụi phấn trên cơ thể bướm đêm ngưng tụ đông đặc lại mà thành, và cho dù dưới làn mưa sương tăm tối, nó vẫn có thể tỏa ra thứ ánh sáng lành lạnh, nhưng trong môi trường đặc biệt này, rất khó có thể nhìn thấy từ phía xa, mà phải lại gần ở khoảng cách mấy chục mét mới có thể phát hiện được. Chiếc máy bay tiêm kích ngủ yên dưới lòng đất đã bao nhiêu năm, chất gỗ Balsa tuy rằng đã qua gia công, nhưng do ngâm lâu dưới lòng đất quá mức nóng ẩm nên rất dễ bị mục nát; giờ đây xung quanh nó đã sớm trở thành sào huyệt tụ tập của loài bướm đêm.

Hội Tư Mã Khôi mặc kệ chẳng buồn giơ tay xua bọn bướm đêm đang bám đầy người, đội mưa xách đèn đi tới chiếc máy bay. Tuy rằng toàn thân nó phủ đầy rêu xanh và rễ cây, nhưng dùng giáo mỏ vịt xới tung lớp phủ thực vật bên ngoài, thì đã lộ ra cửa khoang máy bay bị đóng kín mít. Họ kiểm tra mọi dấu hiệu đặc trưng, thấy đây chính là chiếc máy bay tiêm kích mà đội thám hiểm cần tìm. Đến phút giây này, tim ai nấy đều bất giác đập loạn xạ cả lên.

Ngọc Phi Yến giơ tay sờ vào thân máy bay ướt lạnh, trơn nhầy, xem ra bề mặt cũng kết đầy tổ ngài. Tuy rằng việc này hoàn toàn nằm trong dự liệu, nhưng cô dường như càng ngày lại càng lún sâu hơn vào bể nghi hoặc: “Chiếc máy bay tiêm kích thực sự, quả đúng đã rơi xuống khe núi hai mươi mấy năm. Vậy thì lẽ nào vật mà chiếc Rắn đen II đâm phải trong đám sương mù lại là một bóng ma?”. Cô nóng lòng muốn xem hàng trong khoang còn nguyên lành không, bèn giục Hải ngọng đi cậy cánh máy bay.

Hải ngọng đành trao khẩu súng săn cho Tư Mã Khôi, cầm lấy cây giáo mỏ vịt chọc vào khe cánh máy bay. Cùng với âm thanh cọ sát nghe trầm đục rồi lại kèn kẹt do han gỉ, cánh cửa máy bay bị anh nậy ra một đường rãnh to, luồng khí ẩm mốc lập tức xộc thẳng vào mũi, chùm sáng của đèn halogen như bị bóng tối nuốt chửng, chẳng thể nhìn thấy tình hình bên trong khoang.

Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng mờ mịt, bèn ngăn Hải ngọng lại, không để bạn tùy tiện trèo vào, rồi tự mình lẹ làng tiến sát, anh muốn cố gắng quan sát rõ tình hình trong khoang trước đã. Tư Mã Khôi giơ cao ngọn đèn, ghé mắt nhòm, chỉ thấy trong khoang tối mịt, im lìm, chẳng thể nhìn rõ nơi xa, còn nơi gần cũng không thấy điều gì bất thường. Bỗng nhiên anh nhìn thấy một vật đang bò phía trước, nhưng ánh sáng của ngọn đèn trong tay ảm đạm như sắp tắt, nên căn bản chẳng thể nhìn thấy rõ nó là cái gì.

Tư Mã Khôi trong lòng lờ mờ cảm thấy không ổn, liền định thu người lùi bước, ai ngờ từ trong khoang máy bay ào ra một vật đen ngòm, anh chưa kịp tránh thì toàn thân đã bị nó khóa chặt ngắc, chỉ cảm thấy luồng khí lạnh xuyên thấu tận xương, đầu óc tối tăm, cảm giác ngột ngạt tựa ngộp thở, trong khi cả người dường như bị một sức mạnh khủng khiếp nào đó đè nén bóp nghẹt, rồi bất giác kéo sâu vào trong khoang. Anh vội vã giơ tay ngăn lại, không ngờ tay vừa đẩy ra, thì chạm vào một khoảng không hư vô trống rỗng, chỉ có sương mù dày đặc bủa vây trước mắt mà thôi.

[1]() Thạch quyển: Là lớp vỏ cứng ngoài cùng của các hành tinh có đất đá, bao gồm lớp vở và tầng trên cùng của quyển Manti.

[2]() Măng đá: là một dạng trầm tích hang động phát triển từ nền hang động đá vôi lên, có hình măng, hình nón thấp nhỏ.

Hồi 3: Hàng nguy hiểm

T

ư Mã Khôi hoảng hốt phát hiện trước mắt là một dải hư không, vật đang bóp nghẹt cơ thể mình dường như chỉ có đám sương khí hữu hình vô chất này thôi. Ngực anh đau tức, thân thể không thể cử động, miệng cũng không thể thốt thành lời, bất giác bị kéo tụt vào trong quầng sương. Lúc đó anh lại cũng đang đứng quay lưng về phía mấy người cùng hội ở ngoài máy bay, khiến tầm nhìn của mọi người bị cản trở, nên chẳng ai có thể phát hiện cảnh ngộ bất ngờ mà anh gặp phải.

Nửa thân trên của Tư Mã Khôi bị kéo về trước, đầu ngón chân vẫn cố bám trụ trên mặt đất nhưng chẳng thể gồng mình lên được, cánh tay trái cầm đèn cũng bị sương mù khống chế, khí lạnh xuyên thấu đến tận xương tủy, mắt nhìn tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Anh thầm oán thán trong lòng và giữa lúc tình thế cấp bách, tay phải anh gạt nòng khẩu “súng săn voi” lên.

Khẩu súng săn nòng cực đại nổ “đoàng” một tiếng thật lớn, khiến toàn thân Tư Mã Khôi bị bắn ngược về phía sau, đập mông một nhát rất mạnh xuống bùn. Trên nóc chiếc máy bay tiêm kích cũng bị đạn xuyên thủng một lỗ lớn, gió hoang mưa lạnh liền ùa vào, phút chốc màn sương mù mịt mùng trong khoang bị thổi tan tác.

Hội Hải ngọng nghe thấy tiếng súng mới biết xảy ra biến cố, cả bọn vội vàng chạy lại đỡ Tư Mã Khôi dậy, chỉ thấy trên người anh toàn là vết thâm tím, mặt trắng bệch như sáp nến.

La Đại Hải và Tuyệt hiểu rất rõ tính cách can trường của Tư Mã Khôi. Khí phách gan dạ, cái thứ này có thể chia ra làm nhiều loại: một vài kẻ có gan cợt nhả phụ nữ, nhưng không có gan sống mái một phen với kẻ thù, một số người khác không sợ tuốt thịt lột da, nhưng lại sợ bị bác sĩ tiêm, có kẻ dám ăn trộm ví tiền nhưng không dám chặn đường cướp của. Đương nhiên, cũng có người văn võ song toàn, như Tư Mã Khôi chẳng hạn, bẩm sinh đã là một kẻ liều mạng, trước giờ luôn điềm tĩnh ung dung trước mọi hoàn cảnh, lâm nguy cũng chẳng mảy may run sợ. Nhưng lúc này, nhìn thần sắc cũng thấy rõ là anh vừa bị chấn động không nhỏ; vậy rốt cục Tư Mã Khôi đã nhìn thấy vật gì mà khiến anh sợ tới mức như vậy?

Mãi một lúc sau, Tư Mã Khôi mới định thần lại được, sờ những vết bầm trên cơ thể, vẫn thấy đau đến tận xương tủy. Anh cũng không thể xác định rốt cục mình đã gặp phải cái gì giữa khoảnh khắc đó, chỉ có thể hình dung mọi cảm giác sợ hãi dường như đều cộng gộp cả vào lúc ấy, nên lòng thầm nghĩ “Chẳng lẽ trong đám sương mù kia lại có ma?”; nhưng suy ngẫm một lát, lại thấy không giống, có lẽ đội thám hiểm Anh trên chiếc Rắn đen II cũng gặp phải cảnh ngộ giống mình, cuối cùng ngay cả một cái xác cũng chẳng thấy đâu, tất cả đều bị đám sương mù dưới lòng đất núi Dã Nhân phân hủy hòa tan, hay là bị lôi đến nơi nào khác?

Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Lúc lăn lộn trên chiến trường năm đó, tình hình chiến sự trên không thảm khốc ác liệt như thế, xác người chết lấp đầy cả rãnh núi, hai đứa bọn mình mò mẫm giữa đêm tối trong rừng sâu, tìm đạn trên thân thể người chết, lúc đó tớ cũng chẳng thấy cậu nhíu mày một cái, thế mà bây giờ sao lại thế hả?”

Tư Mã Khôi lắc đầu, trả cho Hải ngọng khẩu súng săn, khi nãy chẳng hiểu ma sai quỷ khiến thế nào, tự nhiên anh lại cầm món đồ chơi này trong tay, nếu không có nó thì kết cục thật chẳng dám nghĩ tới. Tuy rằng Tư Mã Khôi đã sớm mặc kệ sự sống chết, nhưng anh vẫn không thể giải thích rõ ràng rốt cục khi nãy mình sợ điều gì. Có lẽ cảm giác này gần giống với cảm giác lần đầu tiên nghe người ta kể chuyện “Tây Du Ký”, tuy nhiều lần ăn thịt lợn, cũng nhìn thấy lợn chạy tới chạy lui, nhưng không thể nào tưởng tượng nổi làm sao lợn lại mặc được quần áo, nói được tiếng người, mà lúc đó cứ tin là thật, nên tự nhiên cũng thấy khiếp đảm. Có lẽ đối với những hiện tượng chưa biết, vượt ra ngoài phạm trù nhận thức của mình, con người chắc hẳn đều ôm tâm lý hoảng sợ hình thành từ phút đầu tiên, và trước sau không thể khắc phục được nhược điểm này.

Tư Mã Khôi không muốn thuật lại chuyện vừa gặp cho mọi người nghe, để tránh nảy sinh áp lực tinh thần và hoảng sợ không cần thiết, nên chỉ nói sương mù ở huyệt động này không ổn lắm, chiếc máy bay tiêm kích lại bị niêm phong nhiều năm dưới lòng đất, sương khí bên trong chưa chịu ảnh hưởng bởi mưa gió, nhưng bây giờ trên nóc đã bị xuyên thủng một lỗ hổng lớn, sương khí trong khoang sẽ nhanh chóng tan hết, giờ chắc đã an toàn rồi, mọi người mau vào lấy “hàng”, rồi nhanh chóng chuồn khỏi nơi quỷ quái chết tiệt này cho xong.

Ngọc Phi Yến thấy Tư Mã Khôi không hề có biểu hiện gì khác thường, thì tạm yên tâm trở lại. Rút kinh nghiệm lần trước, cô xách khẩu súng xung phong Uzi quét một lượt đạn vào khoang, khiến nóc máy bay bị thủng lỗ chỗ, nước mưa lại càng tràn xuống nhiều hơn, quả nhiên không thấy xuất hiện điều gì bất thường nữa; thế là cô bảo Tuyệt và Karaweik cùng mình đi vào tìm “hàng”, còn Tư Mã Khôi, La Đại Hải và gã Gấu trắng người Nga ở lại bên ngoài cảnh giới.

Tư Mã Khôi cũng rất muốn biết vị khách hàng thuê đội thám hiểm rốt cục muốn tìm kiếm “hàng” gì. Người và máy bay mất tích trong rừng rậm Miến Điện suốt thời kỳ chiến tranh nhiều không kể xiết, vậy sao họ lại quan tâm duy nhất đến chiếc máy bay tiêm kích của không quân Anh? Chỉ riêng những gì Tư Mã Khôi tận mắt chứng kiến: để truy lùng chiếc máy bay giữa núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, họ phải trả giá bằng mấy chục sinh mạng, thì không biết trong những năm gần đây đã có bao nhiêu kẻ phải thiệt thân vì nó nữa.

Thường nói thế gian có báu vật vô giá, nhưng đó chẳng qua chỉ là một cách hình dung mà thôi, phải trả một cái giá quá đắt như vậy, chỉ để kiếm tìm một vài món đồ cổ moi ra từ lòng đất Miến Điện thôi sao? Tư Mã Khôi không thể lý giải: vị khách sai khiến tất cả đứng đằng sau tấm màn này có tâm địa gì, cũng chẳng rõ “hàng” trong khoang máy bay có điểm gì đặc biệt, mà khiến người ta huy động nhiều sức người sức của như vậy. Anh chỉ cảm thấy: “Trong con mắt của những kẻ lắm tiền nhiều của kia, mạng sống con người chẳng qua chỉ là thứ rơm rác, đối với họ, nó chẳng có giá trị gì”.

Giữa lúc ấy, đột nhiên lại nghe được tiếng “soạt soạt” từ trong bụi cỏ răng cưa dưới đầm sâu vọng lại, dường như có vật gì đang bò lên với tốc độ cực nhanh. Trước đây, khi ở ngoài khoang chiếc Rắn đen II, anh đã phát hiện có tiếng động tương tự như vậy, lúc này lại thấy nó xuất hiện, anh lập tức đề cao tinh thần cảnh giác. Hải ngọng và gã Gấu trắng ở bên cạnh cũng đều nhất loạt giương súng lên, sẵn sàng ngắm bắn.

Ba người bọn họ đều là những kẻ từng trải, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, nên trước khi nhìn thấy mục tiêu, họ tuyệt đối không nổ súng mù quáng. Ba người giơ cao ngọn đèn chăm chăm quan sát, chỉ thấy từ nơi sâu trong bụi cỏ xuất hiện một con thằn lằn màu xanh ngọc, to như nắm tay, từ đầu đến chân thon dài, xanh mỡ màng như ngọc phỉ thúy, cặp mắt lồi ra trông như hai ngọn đèn đỏ, miệng không ngừng thè chiếc lưỡi dài, đớp những con ngài mắt kính bị nước mưa đánh rụng trên mặt đất, động tác cực kỳ mau lẹ, thần tốc.

Con thằn lằn cỏ không tránh người, bò một mạch đến trước mặt bọn họ. Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều biết đây là loại thằn lằn thường xuất hiện trong rừng rậm, con có kích thước nhỏ gọi là thằn lằn, còn con có kích thước lớn gọi là rồng Komodo. Lúc bình thường nó nằm im như chết, nhưng khi trườn bắt mồi thì nhanh như cắt. Nó sinh trưởng rất chậm, nghe nói ở miền núi Miến Điện, từng có người bắt được con rồng Komodo hơn một trăm tám mươi tuổi, thân mình to lớn ngang ngửa với một con trâu đực.

Hải ngọng thấy vậy, lập tức hạ bớt cảnh giác. Anh đã hành quân nhiều năm trong rừng già núi sâu, cũng rất giỏi bắt thằn lằn, liền khoác súng lên vai, nhân lúc con thằn lằn không để ý, chộp nhanh lấy nó từ phía sau, bóp chặt đuôi nó, rồi nói với Tư Mã Khôi: “Chả ngờ trong đầm lầy mà tớ còn tìm được món đồ chơi này”.

Tư Mã Khôi nhíu mày bảo: “Bốn chân của nó có máu độc đấy, dính một tẹo cũng đủ cậu toi đời, cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe quãng đời còn lại, mau ném nó xuống đất, di cho nó một nhát cho xong”.

Hải ngọng nói: “Lớn bé gì thì cũng coi là một sinh mạng, giẫm chết như thế thì phí quá…”. Anh vốn định giở trò đùa ác, toan ném con thằn lằn lên người gã Gấu trắng, nhưng lời còn chưa dứt, đã nghe trong lùm cỏ dài gần đầm lầy phát ra những tiếng động loạn xạ, chẳng ngờ vô số con thằn lằn không ngừng ùn ùn chui ra. Chúng bị bọn bướm đêm thu hút đến, trườn lên với vận tốc cực nhanh, giống như gió cuốn mây tàn, phút chốc đã nuốt sạch bay bọn bướm đêm vào bụng. Bọn bướm đêm tuy có cánh, nhưng lại chẳng thể bay được dưới trời mưa, nên đành trở thành bữa ăn thịnh soạn cho lũ thằn lằn cỏ. Lũ thằn lằn bò ra từ đầm lầy càng lúc càng nhiều, những con tranh mồi chậm hơn đồng loại một chút, bèn nóng nảy kêu “chít chít” loạn cả lên, chúng bò loằn ngoằn trên mặt đất, thể hiện sự lo lắng bất an.

Ba người thấy bầy thằn lằn xuất hiện với số lượng kinh người, con nào con nấy xù vẩy khắp mình mẩy, liền bất giác lùi về sau mấy bước. Con thằn lằn bị La Đại Hải bóp chặt trong tay cũng giãy giụa dữ dội. Toàn thân nó đều là những chiếc vẩy nhỏ, sắc như dao cạo, trong lúc quằn quại, lớp vẩy của nó cứa cả vào hai tay Hải ngọng, phút chốc máu chảy đầm đìa.

Hải ngọng nổi cơn thịnh nộ, xé tay áo băng vết thương, chửi tục một hồi, rồi định cầm súng săn bắn chết con thằn lằn đó cho hả giận, nhưng thấy bầy thằn lằn từ đầm lầy bò lên nhiều không kể xiết, chúng lũ lượt ùn ùn kéo đến, nên đừng nói một khẩu súng, mà cho dù có bình phun lửa, cũng chưa chắc đã ngăn cản nổi bọn chúng.

Tư Mã Khôi thấy tình thế bất lợi, liền ra hiệu bằng mắt với La Đại Hải, cả hai người lập tức chui vào trong khoang máy bay, gã Gấu trắng người Nga cũng không dám chậm chễ, chui tọt vào theo. Ba người vội vã đóng chặt cánh cửa, tìm vật chặn các lỗ hổng và khe hở, đề phòng bọn thằn lằn lọt vào trong tấn công.

Ngọc Phi Yến đang dẫn Tuyệt và Karaweik bật đèn pin siêu sáng đi tìm “hàng”. Tư Mã Khôi thuật lại tình hình bên ngoài cho cô ta nghe, rồi bảo trước mắt trong vòng một tiếng chắc không thể nào ra ngoài được, mà phải đợi đến khi bọn thằn lằn ăn hết sạch lũ bướm đêm rồi mới tính tiếp. Thằn lằn cỏ ở rừng rậm nguyên sinh Miến Điện có tập tính rất kỳ lạ, ngay cả những người bản địa giàu kinh nghiệm nhất cũng không dám kinh động đến chúng.

Theo lẽ thường mà nói, có rất ít loài thằn lằn mang nọc độc, còn những loại thằn lằn sinh tồn trong rừng rậm Miến Điện đều không có túi độc, thế mà rất nhiều người vẫn chết vì chất kịch độc của nó. Nghe nói rồng Komodo Miến Điện bản thân không hề có độc, chỉ khi máu tươi của nó từ cơ thể trào ra bên ngoài mới trở thành dịch độc, hơn nữa còn là loại dịch mang độc tính cực mạnh, vô phương cứu chữa. Đến ngày nay, người ta vẫn không thể điều tra rõ, máu độc dẫn đến chết người của chúng chứa thành phần gì. Năm đó cũng từng có nhà khoa học tiến hành những nghiên cứu có liên quan, nhưng chẳng thu được kết quả gì, cuối cùng chỉ có thể giải thích theo cách lý luận của một nhà tôn giáo người Nhật Bản: sinh vật bản thân chúng vốn dĩ không có độc, chỉ khi chúng tích lũy đủ cảm giác giận dữ, thì mới tấn công vào cái hư vô trong tinh thần của con người mà thôi.

Mọi người biết rõ điểm đáng sợ của thằn lằn cỏ, nhưng rốt cục chúng vẫn chỉ là loài sinh vật bò sát đầu óc đần độn, đội thám hiểm lại có máy bay che chắn, bởi thế chúng chẳng thể tạo ra hiểm họa gì lớn lắm. Chỉ có điều không biết cơn mưa trong khe núi sẽ kéo dài được bao lâu nữa, bởi vì so với thằn lằn, thì điều đáng sợ hơn gấp nhiều lần chính là đám sương mù giết người bủa vây khắp đáy động.

Khi nãy Tư Mã Khôi suýt chút nữa thì hiến tặng cả tính mạng cho đám sương mù, nên đến giờ anh vẫn còn cảm thấy tim đập chân run. Nơi sâu trong đám sương mù dày đặc dường như chẳng tồn tại bất kỳ thứ gì, khoang máy bay cũng không tìm thấy thi thể của thành viên phi hành đoàn, có lẽ họ và đội thám hiểm Anh trong chiếc Rắn đen II đều vĩnh viễn “tan biến” trong sương mù. Anh nói với hội Ngọc Phi Yến tuyệt đối không được chạm vào màn sương mù bí ẩn trào ra từ lòng đất, sương khí càng đậm đặc thì càng nguy hiểm. Tuy rằng cơn bão nhiệt đới Buddha bội phần hung tàn dữ dội, nhưng nó lại mang đến cho chúng ta cơ hội vô cùng hiếm hoi để thoát khỏi bàn tay thần chết, đồng thời có khả năng sẽ lấy được “hàng” ra khỏi núi Dã Nhân.

Thế nhưng Ngọc Phi Yến vì đang nhìn chăm chăm vào khoang hàng như kẻ mất hồn, nên cô không hề để ý đến mấy lời của Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi thấy thần sắc Ngọc Phi Yến khác thường, đang định hỏi xem rốt cục có chuyện gì, thì nghe Tuyệt ở bên cạnh nói với mình: “Anh không nhớ sao, trong cuốn băng ghi âm mà chuyên gia hang động người Anh đó để lại, từng nhắc đến một việc, anh ta nói hàng chứa trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải... cực kỳ nguy hiểm”.

Tư Mã Khôi nghe xong mới chợt nhớ ra khi nãy quên bẵng mất việc này, sinh vật bò sát máu lạnh trong đầm lầy dưới lòng đất, cơn cuồng phong giông tố vần vũ ngoài núi, và đám sương mù có thể xuất hiện trở lại bất cứ lúc nào, đều đang là mối hiểm họa tiềm ẩn, trong khi “hàng” ở khoang máy bay lại gần ngay gang tấc. Xem ra, trước mắt ngay cả khoang chiếc máy bay vận tải cũng chẳng thể an toàn tuyệt đối. Nhưng “nguy hiểm” mà người Anh kia muốn ám chỉ là thứ gì? Nó “nguy hiểm” đến mức độ nào? Chẳng lẽ chạm cũng không được chạm, xem cũng không được xem hay sao?

Tuyệt vừa cùng Ngọc Phi Yến lục soát kỹ lưỡng toàn bộ khoang hàng máy bay, cô hạ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Chiếc máy bay vận tải này căn bản chẳng chuyên chở bất kỳ loại “hàng” nào cả, chúng ta bị mắc lừa rồi.”

Lúc Tư Mã Khôi vừa chui vào khoang, thì nhìn thấy phía sau máy bay có chứa một thùng hàng giống chiếc thùng phuy khổng lồ, dường như cả khoang hàng đều bị nó chiếm hết chỗ, nhưng đến tận giờ, anh vẫn chưa biết bên trong nó đựng thứ gì. Anh chỉ mong mau chóng lấy được hàng, rồi kết thúc nhiệm vụ thót tim này, nhưng lúc này nghe Tuyệt nói trong máy bay chẳng hề có “hàng”, anh không khỏi ngạc nhiên hỏi lại: “Khoang hàng máy bay chỉ có mỗi cái vỏ rỗng thôi sao?”

Căn cứ vào những thông tin mà hội Tư Mã Khôi được biết trước mắt, chiếc máy bay tiêm kích vận tải thuộc về không quân Hoàng gia Anh, lúc đang thực hiện nhiệm vụ, thì gặp thời tiết khắc nghiệt, mất tích trong hẻm núi Dã Nhân, khoang hàng chở rất nhiều bảo vật Miến Điện, giá trị không thể ước lượng nổi; còn đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, lại được một nhà tài phiệt nào đó thuê tìm kiếm “hàng” trong chiếc máy bay với bất kỳ giá nào. Giờ đây, mọi người đã tìm thấy chiếc máy bay, nhưng tung tích của “hàng” thì vẫn chưa thấy, cùng lắm cũng chỉ là một phen vồ hụt, chứ sao có thể nói là “bị mắc lừa”?

Tư Mã Khôi biết rõ Tuyệt không phải hạng người nói sai sự thật, nên trong lòng anh cảm thấy có điều gì uẩn khúc. Anh không hỏi thêm gì nữa, mà vội vàng cùng Hải ngọng đẩy nắp thùng hàng sang một bên để nhìn cho rõ. Hai người cầm đèn chiếu halogen nhòm vào, khi nhìn rõ tình hình bên trong, thì cả hai đều rùng mình một cái, đồng thanh kêu lên thất kinh: “Thằng cha này được, một quả bom to tổ bố!”

Hồi 4: Bom địa chấn

Thì ra chiếc thùng hàng bằng nhôm giống như thùng phuy kia lại là thùng chứa bom ngoại cỡ, bên trong đựng một trái “bom địa chấn” hạng nặng. Vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Hoàng gia Anh từng trang bị hàng loạt bom chấn động cỡ lớn, quả nặng nhất phải lên tới chục tấn, được gọi là “Grand Slam”[1], sức hủy diệt vô cùng đáng sợ.

Loại bom cỡ lớn này, đa số đều do máy bay ném bom Lancaster từ không trung thả xuống, chuyên dùng để phá hủy vật chắn kiên cố dưới lòng đất được đúc bởi bê tông cốt thép. Do bom rơi xuống với vận tốc cực nhanh, nên sóng xung chấn hình thành sau khi phát nổ sẽ khuếch tán rộng ra tứ phía, dẫn đến hiệu quả gần giống với hiện tượng động đất, bởi vậy nó còn có tên là “bom địa chấn”. Nhưng tuyệt đối không thể coi thường sóng xung chấn sinh ra do quá trình phát nổ mạnh, vì nó có khả năng sát thương rất cao đối với quân địch đang lẩn trốn trong đường hào giao thông hoặc trong hầm phòng không.

Hội Tư Mã Khôi đều đã từng trải qua chiến dịch Kunlong ở giai đoạn ác liệt thảm khốc nhất. Lúc đó quân chính phủ muốn khai thông phòng tuyến sông Irrawaddy, nên đã điều động rất nhiều loại pháo hạng nặng, quần thảo đánh phá khắp trận địa kiên cố của quân đội cộng sản. Tuy rằng trước đó quân cộng sản đã thực hiện công tác chuẩn bị rất chu toàn, đào nhiều hầm ẩn trú và chiến hào sâu, sẵn sàng tư thế chiến đấu, nhưng dưới làn pháo lửa dữ dội, họ vẫn gánh chịu hậu quả thương vong rất nặng nề. Trong số những binh sĩ hi sinh, có chín mươi phần trăm không phải chết trực tiếp do bom nổ, mà do pháo hạng nặng gây chấn động làm chết đứng ngay trong chiến hào. Sau chiến dịch này, nguyên khí quân cộng sản bị hao hụt thảm hại, không còn khả năng chiến đấu trực diện với quân đội chính phủ nên đành phải rút lui vào núi thực hiện chiến thuật đánh du kích.

Bởi vậy bọn họ hiểu rõ hơn ai hết, đừng thấy hàng trong khoang máy bay là kiểu bom đời cũ mà coi thường, bởi cho dù quả bom gây chấn động nặng cả tấn này còn lại đến tận ngày nay, thì nó vẫn là loại vũ khí khủng khiếp nhất. Một khi nó đã nổ, cho dù ai may mắn không bị tan xác ngay tại hiện trường, thì lục phủ ngũ tạng của họ cũng bị sóng xung chấn ép cho dập nát.

Tuy Tư Mã Khôi là người phản ứng rất nhanh, nhưng cũng không thể ngờ nổi bảo vật Miến Điện trong khoang hàng chiếc tiêm kích vận tải lại là một quả bom địa chấn lạnh tanh thế này. Vật lù lù như một đống thiếc xám sắt nguội kia chắc phải nặng đến cả tấn, nếu chỉ dựa vào sức của sáu kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm thì làm sao có thể xoay vần nổi nó? Huống hồ, trên đời này sao lại có chuyện phi lý như thế, làm gì có kẻ ăn no rỗi hơi, thuê bao nhiêu đoàn thám hiểm đến núi Dã Nhân chỉ để tìm một quả bom ngàn cân như vậy?

Lúc này Tư Mã Khôi mới cảm nhận một cách sâu sắc về chuỗi sự kiện liên quan đến chiếc máy bay tiêm kích vận tải, chỉ e nó phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà giờ đây anh được biết. Vốn dĩ con đường của hội anh và Ngọc Phi Yến đã khác nhau, hai bên lại chẳng hề có gì liên can; nhưng theo lời hứa lúc trước, hội anh cũng chỉ cần trợ giúp đội thám hiểm tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải trong khe núi núi Dã Nhân, sau đó mang “hàng” ra ngoài. Bây giờ tình hình chuyển biến đột ngột thế này, anh không thể không hỏi đối phương xem rốt cục thế nào.

Hải ngọng cũng chẳng nể nang gì, quay sang chất vấn Ngọc Phi Yến: “Nói thật cho cô biết, Hải ngọng tôi vài bữa nay chưa giết đứa nào, chân tay cũng ngứa ngáy khó chịu lắm rồi đây, nếu như cô không giải thích lý do nghe cho lọt cái lỗ tai, thì đừng trách bọn ông cho nếm tí mùi”.

Kỳ thực sau khi nhìn thấy hàng trong khoang máy bay, Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy rất bất ngờ, nhưng trong lòng cô ta đúng thực cũng có vài điều giấu giếm hội Tư Mã Khôi. Đang lúc cô ta định nói cho Tư Mã Khôi biết, thì nghe La Đại Hải giở giọng uy hiếp, nên chẳng khách khí nữa, đốp luôn: “Anh bạn họ La đúng là kẻ nhiều lời; tôi cũng nói thật cho anh biết, trong khoang chỉ có mỗi quả bom địa chấn này thôi, nó chính là “hàng” mà đội thám hiểm cần tìm đấy. Có điều chúng ta chẳng cần phải mang nó ra khỏi núi, mà chỉ cần làm nó phát nổ là được. Những việc khác các anh không cần hỏi nhiều, chỉ cần làm theo lời tôi nói là được”.

La Đại Hải nghe vậy chế nhạo: “Cô nói thế thì khác gì không nói, định dọa ma bọn này đấy à? Để cô tự nói ra, là Hải ngọng tôi đã chừa lại cho chút sĩ diện rồi mà còn chưa biết? Đừng biến mình thành kẻ được cho liêm sỉ mà vẫn không biết liêm sỉ là gì”.

Ngọc Phi Yến làm gì có chuyện nuốt trôi mấy lời này, cô ta cười nhạt đáp: “Ba tờ giấy dán thành một cái đầu lừa, mặt của anh cũng to thật đấy”.

La Đại Hải càng nghe càng ức chế, anh nạt nộ: “Hải ngọng ta gặp bọn cắp vặt các cô, đúng là cáo hoa nằm ấp ổ gà, nói lý không được, đành phải dùng nắm đấm hỏi chuyện vậy…”

Tư Mã Khôi thấy hai người này như thể ăn nhầm phải gan hùm, nói chuyện hung hăng, bất cần, căn bản chẳng giải quyết nổi vấn đề gì, đành phải ra mặt khuyên giải. Anh nói với Ngọc Phi Yến: “Nói thế dễ làm tổn thương người khác lắm đấy! Đại trượng phu thân chết, tiếng vẫn còn, nếu cô tự tiện chà đạp danh dự người khác như thế, tôi cũng chỉ còn cách tạ lỗi cáo từ tại đây để cất bước về cố hương thôi”. Nói xong anh gọi ba người còn lại đến, quay lưng như thể định bỏ đi thật.

Ngọc Phi Yến lạnh lùng hừ lên một tiếng, trợn mắt nói với Tư Mã Khôi: “Nhìn bộ dạng của anh kìa, vừa nhắc đến về nước là hí ha hí hửng, trong suốt hai ngày tôi quen anh, chẳng bao giờ thấy anh hào hứng như thế, hay là ở trong nước có bóng hồng nào đang chờ?”

Tư Mã Khôi nghe cô ả nói thế, cũng không tránh khỏi có chút bực mình: “Nhà cô bán dấm đấy à, sao nói gì mà chua ngoa thế?”. Ba người chẳng hợp lời, càng nói càng căng thẳng, trong khi gã Gấu trắng người Nga thì từ đầu chí cuối mặt đều lạnh như tiền. Gã đang chăm chú quan sát kết cấu của quả bom địa chấn, hoàn toàn vô cảm với tất cả những việc khác, còn Karaweik lại trễ miệng ngoác ra nụ cười ngờ nghệch, mọi người chẳng coi lời của cậu vào đâu, may mà nhờ Tuyệt khuyên giải, cuộc cãi vã mới tạm lắng xuống.

Ngọc Phi Yến bình tĩnh trở lại, tự biết hiện giờ mình là kẻ thân cô thế yếu, nếu làm hội Tư Mã Khôi điên tiết lên, thì khó mà thu dọn nổi chiến trường. Thế là, cô ta đành nói rõ toàn bộ quá trình sự việc cho hội Tư Mã Khôi nghe. Nhóm người của cô ta quả thực được “khách hàng” thuê để đi tìm chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Hoàng gia Anh; nhưng cô ta cũng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy khuôn mặt thực sự của khách hàng, chỉ biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở cổ vật Miến Điện chuẩn bị được bí mật đưa vào viện bảo tàng đế quốc Anh, nên nhiệm vụ của đội thám hiểm là vào khe núi dưới lòng đất, tìm “hàng” trong khoang máy bay. Trước đó, đội thám hiểm được thông báo: “hàng” trong khoang máy bay vô cùng nguy hiểm. Trước khi xuất phát, cả đội lại nhận được một bức mật hàm niêm phong dấu đỏ, kèm theo chỉ thị, chỉ khi nào tìm thấy chiếc tiêm kích bị mất tích, đồng thời xác định chính xác số hiệu hàng hóa, mới được phép mở bức mật hàm và giải quyết “hàng” theo phương thức nói trong thư. Thông tin trong bức mật hàm được viết bằng chất dịch của cá mực, vết chữ sau khi gặp không khí sẽ lập tức bốc hơi biến mất, không để lại chút dấu tích nào.

Ngọc Phi Yến tìm thấy khoang hàng, xem rõ chỉ thị trong mật hàm, mới biết mục đích của chuyến mạo hiểm này là phải dẫn nổ quả bom địa chấn, còn về chuyện bảo vật Miến Điện chứa trong máy bay tiêm kích, chẳng qua chỉ là cái bóng nhằm che đậy chân tướng sự thật mà thôi.

Về tình hình “khách hàng”, Ngọc Phi Yến chỉ biết đó là một vị tài phiệt trong thế giới ngầm, được gọi bằng biệt danh “Nấm mồ xanh”. Tiền thân của tổ chức này có thể truy ngược về những năm thế kỷ mười sáu, nó được thành lập bắt đầu từ Công ty Britain – Đông Ấn. Công ty Đông Ấn tiến hành các hoạt động thương mại viễn dương ở Nam Á, chuyên buôn bán nha phiến, buôn lậu thuốc lá, thỏa sức cướp đoạt tài nguyên kinh tế, tiến hành khuếch trương chủ nghĩa thực dân cho đế quốc Anh, đồng thời âm mưu chiếm nguồn lợi nhuận khổng lồ. Chính phủ Anh ủy quyền cho công ty Đông Ấn tất cả mọi quyền lực, như quyền lũng đoạn thị trường, quyền huấn luyện quân đội, quyền tuyên chiến - giảng hòa, quyền lập tòa án phán quyết cư dân các nước thuộc địa và bản quốc, nên nó dường như trở thành đại diện chính thức ở nước ngoài của chính phủ Anh. 

Thế nhưng quy luật ở đời: cực thịnh tất sẽ suy, cùng với sự phát triển rực rỡ của nền tư bản công nghiệp, công ty Đông Ấn vốn dựa vào sự lũng đoạn của nền tư bản thương mại, cuối cùng cũng không tránh khỏi vận mệnh phá sản giải thể. Nhưng sự biến mất về thể xác chẳng qua chỉ là lớp vỏ ngoài của công ty Đông Ấn, còn kẻ thao túng đích thực đứng sau lưng thì ngược lại có thể nhờ đó mà gỡ bỏ được cái xác ung nhọt nặng nề, rồi lợi dụng mạng lưới quan hệ mà công ty Đông Ấn để lại, ngấm ngầm cấu thành một thế lực mới. Thế lực này đồng thời buôn bán tin tình báo, vũ khí và thuốc phiện, rồi dựa vào cơ hội chiến tranh để gặt hái tiền của, khống chế rất nhiều đội quân phụng mệnh như con rối. Thế lực của nó bám rễ sâu rộng ở khắp nơi, nhưng hành sự vô cùng kín tiếng bí mật, nên thế giới bên ngoài phần lớn đều không biết đến sự tồn tại của nó.

Tuy rằng những điều Ngọc Phi Yến biết chỉ giới hạn đến đây, nhưng cô ta nhìn kí hiệu đặc thù trên thân quả bom nặng cả tấn thì cũng không khó khi suy đoán tiền nhân hậu quả của toàn bộ sự việc: chiếc máy bay tiêm kích vận tải và quả bom địa chấn chứa bên trong, quá nửa đều thuộc về kẻ có biệt danh là “ Nấm mồ xanh”. Địa thế khe sâu núi Dã Nhân rất đặc biệt, dưới lòng đất không chỉ có sương mù che khuất tầm nhìn, mà còn có dòng khí lưu thông cực mạnh, nếu lợi dụng loại máy bay chiến đấu đến thả bom từ trên không, thì căn bản không thể phán đoán được độ sâu thẳng đứng của huyệt động, từ đó khó lòng phá nổ chính xác, mà nếu lỡ khe núi bị sụt lở, thì sự việc càng trở nên dở hơn mà thôi. Phương tiện duy nhất có thể đi vào khe núi sâu hút là chiếc máy bay tiêm kích vận tải với thiết kế độc đáo. Bởi vậy “Nấm mồ xanh” mới phái người lái chiếc “tiêm kích”, mang theo quả bom địa chấn vào lòng khe núi, nhưng có lẽ họ không ngờ được mối hiểm họa đến từ đám sương mù, nên khi phi hành đoàn trên chiếc máy bay chưa kịp kích nổ quả bom, thì đã gặp tai nạn bất trắc, thế là họ lại phải lợi dụng các đội cảm tử khác, tiếp tục hoàn thành kế hoạch ban đầu, chỉ có điều không rõ trong đó còn ẩn chứa nguyên do gì chưa thể tiết lộ nữa không.

Sau khi Ngọc Phi Yến kể lại toàn bộ câu chuyện, cô ta lại lần nữa nhấn mạnh với hội Tư Mã Khôi: dù sao chuyến này vào núi thực hiện “phi vụ liều mạng” là lấy tiền của người, thay người chịu nạn, nên cho dù hàng trong khoang là bảo vật Miến Điện, thì cũng không đến tay chúng ta, giờ đây lâm vào tình cảnh này, đương nhiên không thể ra về tay không, chỉ đành tiếp tục hành sự theo chỉ thị, kích nổ quả bom địa chấn.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, cơn bão nhiệt đới Buddha với cấp độ và sức mạnh hiếm có, mấy chục năm mới xuất hiện, nếu không nhờ cơ duyên này, đội thám hiểm chắc cũng không thể né tránh khỏi màn sương mù đoạt mệnh mà an toàn xâm nhập vào khe núi, giờ đây phải kích nổ quả bom địa chấn nặng ngàn cân, thì cũng dễ như trở bàn tay. Có điều, chuyện này vẫn có nhiều uẩn khúc đáng ngờ. Tuy rằng chiếc máy bay tiêm kích vận tải nhờ vào kết cấu đặc biệt của nó, có thể thâm nhập nơi sâu nhất dưới khe núi, nhưng cụ thể hạ cánh xuống khu vực nào thì khó lòng phán đoán trước được. Còn quả bom địa chấn trong khoang cũng không thể dịch chuyển sang chỗ khác một lần nữa, mà với khoảng không gian mênh mông vô bờ bến dưới lòng đất này, thì cho dù sức công phá của nó có mạnh hơn nữa, rốt cục vẫn rất khó bao trùm toàn bộ khe núi. Kết quả của kế hoạch này căn bản sẽ không thể thực hiện đúng như dự tính, vậy thì tại sao lại có người chủ định cho nổ tung mạch núi Dã Nhân? Trộm nghĩ căn nguyên gốc rễ của việc này chắn hẳn không hề đơn giản, chỉ e hệ lụy khôn lường.

Tư Mã Khôi lại suy nghĩ: vậy kẻ có biệt danh là “Nấm mồ xanh” rốt cục muốn làm gì, nên có liên quan đến bí mật cổ xưa vùi chôn dưới lòng núi Dã Nhân không? Việc này rốt cục đâu có liên quan đến bốn thành viên của đội du kích, sao mình phải nghĩ nhiều? Anh quan sát xung quanh, thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến dường như chẳng còn điều gì giấu giếm đối phương, hơn nữa theo quy tắc trong giới, việc này vốn dĩ không được nói ra, nên bây giờ cũng chẳng còn gì để truy hỏi thêm nữa.

Hội La Đại Hải cũng nghĩ như Tư Mã Khôi, chẳng buồn điều tra gốc gác, cũng không muốn hỏi nhiều nữa, chỉ mong nhanh chóng hoàn thành phi vụ này, sau đó nghĩ cách thoát ra khỏi núi, trước mắt chỉ còn đợi thời cơ đến là bảo gã Gấu trắng người Nga kích hoạt ngòi nổ quả bom.

Nào ngờ giữa lúc ấy lại xuất hiện một biến cố ngoài dự liệu, gã Gấu trắng sau khi quan sát tỉ mỉ quả bom địa chấn, lấy tay ra hiệu bảo mọi người: “Quả bom này có cài đặt thiết bị hẹn giờ, muốn kích nổ nó cũng rất đơn giản. Nhưng có lẽ do ảnh hưởng của quá trình rung lắc dữ dội nên thiết bị kích nổ đã bị hư hại, không thể phục hồi, cho nên sau khi kích hoạt, mọi người chỉ còn khoảng thời gian mấy chục phút để di rời. Uy lực trái bom này lại quá lớn, phạm vi sóng xung chấn bao phủ rất rộng, nên bây giờ chỉ còn cách để một người lại phụ trách kích nổ, những người khác phải rời đi trước, nếu không tất cả sẽ cùng chết chung một hố; thế nhưng người ở lại sau cùng kích hoạt trái bom, chắc chắn sẽ không còn đường thoát thân”.

Sự thực tàn khốc này, giống như một gáo nước lạnh đột ngột hắt thẳng vào mặt mọi người. Mạng sống của ai cũng chẳng phải từ trên trời tự nhiên rơi xuống, làm gì có người nào chịu ở lại làm xác pháo thế mạng? Tư Mã Khôi càng biết rõ hơn nữa uy lực của bom địa chấn, bây giờ trên lãnh thổ Miến Điện vẫn còn rất nhiều hố bom rộng không gì sánh nổi, mà đa phần đều do máy bay ném bom của Anh năm đó để lại khi phá hủy lá chắn của quân Nhật. Những hố bom đó thật chẳng khác chi hố nham thạch, được hình thành do mảnh thiên thạch từ trên trời rơi xuống, vì lớp bề mặt trong hố hình thành các quầng sóng khuếch tán thành từng vòng tròn, bao nhiêu năm sau vẫn chẳng có cọng cỏ nào mọc lên nổi. Những nơi sóng địa chấn lan đến, đất đá bị nung nóng bỏng, chạm vào là chết, dính vào là tử. 

Tư Mã Khôi thầm tính toán trong lòng, thấy chẳng ai đáng phải chết cả, liền nói với Ngọc Phi Yến: “Vật cố định, còn con người phải chuyển động, người sống cần biết biến hóa ứng phó. Nếu thực sự không xong, thì chúng ta hãy mặc kệ quả bom đó. Sau khi trở về, cô cứ nói là đã cố gắng phụng mệnh hết sức, kích nổ trái bom địa chấn, nhưng tiếc thay quả bom xịt này chẳng thèm phát nổ, hoặc có thể đổ lỗi rằng: đã kích nổ, nhưng uy lực của nó chưa đủ, nên không thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Dù sao thì chỉ cần da môi trên chạm da môi dưới một chút thôi mà, tùy cô muốn nói thế nào chẳng được. Sau khi cơn bão nhiệt đới qua đi, lòng đất lại bị sương mù bủa vây, lẽ nào họ lại dám xuống đây để tiến hành điều tra hiện trường chắc?

Ngọc Phi Yến lập tức lắc đầu: “Tuyệt đối không được, anh không biết gì về Nấm mồ xanh đâu, mấy ngón ma thổi đèn như bọt khói này thì giấu nổi ai chứ”?

Tư Mã Khôi vẫn điềm nhiên như không: “Trong thời đại này, người nào càng nghiêm túc thì càng dễ trở thành kẻ ngốc. Làm người không nên thật thà quá, đừng quên trên thế giới chẳng bao giờ tồn tại loại mắt nhìn xa vạn dặm, tai nghe xa vạn lý, người ngoài làm sao biết chuyện gì đã xảy ra trong khe núi núi Dã Nhân? Chúng ta ở đây có sáu người, tôi, La Đại Hải và Tuyệt sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ bơi qua sông Mungkoe trở về Trung Quốc, cả đời này có lẽ chẳng còn cơ hội gặp lại nhau. Gã người Nga thì là câm dở, hơn nữa gã cũng chẳng sợ chết quá đi chứ? Hay lẽ nào cô sợ thằng oắt con không hiểu chuyện như Karaweik lỡ lời nói ra? Tôi thấy chỉ cần cô không tiết lộ, thì tuyệt đối thần không hay, quỷ không biết”.

Hải ngọng cũng nói, không có quy tắc, chẳng thành vuông tròn, nhưng quy tắc đều do con người đặt ra, cho nên chúng ta làm người thì không thể cứ ngồi ôm mãi một quy tắc cứng nhắc, mà phải biết tránh nặng đón nhẹ. Chỉ cần thằng cha địa chấn này phát nổ, trời rung đất chuyển vẫn là nhẹ, đầm lầy bùn nhão như thế, dựa vào hai cái cẳng, chắc chắn chẳng kịp trốn chạy, thế chẳng phải tất cả chúng ta tự dưng đều khỏe re mãi mãi dưới âm tào địa phủ sao?

Ngọc Phi Yến nghe mọi người khuyên giải, cũng bắt đầu động lòng, đang định đồng ý, thì chợt nghe thấy một giọng nói lạnh băng, trầm đục từ sau lưng vọng tới: “I’m staring at you!”

[1]

() Grand Slam: Thắng lợi trong cuộc so tài.

Hồi 5: Con mắt ngoài khoang lái

Tư Mã Khôi cũng nghe thấy vô cùng chính xác. Âm thanh đó vừa rất đỗi xa lạ, lại vừa có vài phần quen tai, anh và những người còn lại đều ngầm cảm thấy rùng rợn trong lòng, đồng thời quay đầu lại nhìn.

Trong khoang máy bay tối mù mù, làm gì có bóng người nào thừa ra, chỉ có chiếc máy ghi âm cầm tay vừa phát hiện được trong chiếc Rắn đen II khi nãy là vẫn ngang nhiên nằm trên mặt đất, thì ra đây chính là nguyên nhân khiến mọi người đều cảm thấy âm thanh nghe quen tai.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: đây đúng là gặp ma thật, anh vẫn nhớ lúc ở trong chiếc Rắn đen II, không nghe thấy đoạn ghi âm vừa rồi, hơn nữa âm thanh lúc này khàn đục, trầm thấp, hoàn toàn khác với giọng của Wilson trong đội thám hiểm Anh. Có thể khẳng định, giọng nói này vô cùng xa lạ, không biết ai đã nhấn nút bật của chiếc máy ghi âm nhỉ? Khi nãy sự chú ý của tất cả mọi người đều tập trung vào trái bom địa chấn, nên không ai để ý đến tình tiết này.

Ngọc Phi Yến nhặt chiếc máy ghi âm lên xem lại, phát hiện nội dung ghi âm ban đầu đều bị xóa sạch, tua đi tua lại mấy lần, đều chỉ có duy nhất một câu: “I’m staring at you…”, nghe mãi đến cuối cùng pin yếu, âm thanh càng lúc càng kéo dài, nghe rất quái dị. Hải ngọng hỏi: “Câu nói đó có nghĩa gì vậy?”. Tuyệt dịch lại cho anh: “Có nghĩa là “Ta đang nhìn các người”. Hải ngọng cảm thấy vô cùng kỳ quái, nhìn trước nhìn sau rồi nói: “Ai đang nhìn chúng ta hả?”

Lúc rời khỏi chiếc Rắn đen II, mọi người khá vội vàng, chẳng ai còn nhớ sau khi nghe xong cuộn băng ghi âm, ai là người cuối cùng cầm nó, nhưng trong khoang máy bay, ngoại trừ sáu người sống ra, thì chẳng còn kẻ may mắn nào sống sót nữa cả. Vậy thì ai là kẻ đã xóa trộm nội dung trước đây trong băng rồi để lại lời cảnh cáo này?

Mọi người thì vậy, nhưng Ngọc Phi Yến lại cực kỳ quen thuộc với âm thanh này. Tuy từ trước đến giờ, nhóm của cô ta đều liên lạc thông qua người phụ trách trung gian, nhưng cô ta cũng từng vài lần nói chuyện công việc chi tiết bằng điện thoại với kẻ đầu não phía sau của tổ chức mang tên “Nấm mồ xanh”, biết giọng đối phương khàn đục, sống sượng, nghe rất khác người bình thường, nên chỉ cần nghe qua một lần thì sẽ không thể quên được. Bởi vậy, nghe thấy âm thanh vọng ra từ băng ghi âm, cô ta lập tức biết đây chính là “Nầm mồ xanh” – người đã phân công nhiệm vụ cho đội thám hiểm. Cũng vì ngoại trừ giọng nói của người này ra, thì tên tuổi, tướng mạo, thân phận v.v... cô ta đều không biết chút nào, do đó mà cô ta đành phải gọi hắn bằng cái tên “Nấm mồ xanh”.

Ngọc Phi Yến ngẫm kỹ lại việc này, càng nghĩ càng thấy lạnh sống lưng, sự việc đúng là quá đỗi kỳ quái khiến người ta khó lòng định liệu. Rốt cục ai là kẻ đã mở cuốn băng ghi âm? Lời ghi âm trong đó vốn dĩ không hề tồn tại, chắc chắn nó không thể nào tự nhiên xuất hiện, lẽ nào Nấm mồ xanh thực sự có khả năng sử lý xự việc cách xa ngàn dặm bằng cảm giác? Trộm nghĩ trên thế giới này không thể có loại tà thuật nào kỳ dị đến thế.

Ngọc Phi Yến cầm máy ghi âm nhìn đi nhìn lại, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi, nếu trên thế giới quả thực không có mắt nhìn vạn dặm, tai nghe vạn lý, thì chỉ có một khả năng: đó là vào thời khắc này, Nấm mồ xanh đang ẩn trốn trong chiếc tiêm kích vận tải, có thể một trong sáu kẻ may mắn sống sót chúng ta, có một kẻ là “quỷ biển”, nên nhất cử nhất động của đội thám hiểm trong khe núi đều không thoát khỏi tầm mắt của Nấm mồ xanh.

Lời này thốt ra đã khiến mọi người đều cảm thấy dường như có một bóng đen âm u vụt lướt qua tim. Khi nãy, mọi người còn đang bàn bạc từ bỏ kế hoạch hành động, thì đột nhiên từ máy ghi âm lại vọng ra một câu nói, sự thật hiện ra trước mắt hết sức rõ ràng: Nấm mồ xanh đang muốn cảnh cáo đội thám hiểm: “Đừng hòng ôm bất kỳ mơ tưởng, ảo vọng nào, phải mau chóng kích nổ bom địa chấn”.

“Quỷ biển” mà Ngọc Phi Yến nhắc đến, cũng là một cách gọi trong ngôn ngữ cũ của giới lục lâm, bây giờ từ này được dùng để chỉ “tai mắt”, “gián điệp”. “Biển” ý muốn chỉ bí mật, “quỷ” có nghĩa là ngầm theo dõi, cách xưng hô này cũng có lai lịch hẳn hoi. Trước đây, những ám ngữ mà giới lục lâm thường dùng, được gọi chung là “Mắt giang hồ đáy biển”, tương truyền hàng ngàn năm trước, có một người đánh cá trên biển, nhưng anh ta liên tục quăng ba mẻ lưới, đều chẳng thu được gì, mẻ lưới cuối cùng lại vớt phải một chiếc hộp sắt, trong hộp sắt đựng một phần của tập sách cổ. Người ngư dân đó liền mang ra chợ cho mọi người xem, những người có học vấn cao đều đọc được tất cả các chữ trong cuốn sách, nhưng câu từ lắp ghép lại thì đầy ẩn ý và rất khó lý giải, đọc xong như hiểu mà lại như không, chẳng ai biết rõ rốt cục nó ghi chép nội dung gì. Sau đó, cuốn tàn thư đã rơi vào tay một sư phụ lục lâm, ông ta đã đặt tên cho nó là “Đáy biển”, mượn nguyên tác đồng thời cộng thêm đôi chút sửa chữa thêm thắt, dần dần đã biến thành ám ngữ ngầm được giới giang hồ sử dụng rộng rãi sau này. Cuốn tàn thư được mệnh danh là cuốn “Kinh kim cương” lừng danh khắp năm hồ bốn bể. Đây chính là lai lịch của “mắt giang hồ đáy bể”.

Tư Mã Khôi nhận ra câu nói vừa rồi của Ngọc Phi Yến, là lời đồng âm đa nghĩa, cô ta đang muốn ám chỉ cho mình biết tên “quỷ biển” kia ẩn thân rất kỹ, chẳng có tung tích nào mà tìm kiếm. Nấm mồ xanh để lại lời cảnh cáo trong cuốn băng ghi âm, cũng chưa chắc là “người”, bởi vì nếu là người, thì sao lại vô hình vô ảnh, mà có thể nói rõ ràng rạch ròi đến thế? Đối phương đã nắm rõ mọi tình hình, thì khoảng cách tất phải ở gần ngay trước mắt mọi người, ngoài ra, khoang máy bay nhỏ hẹp, kín mít, làm gì có chỗ nào ẩn giấu người được?

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, bất luận Nấm mồ xanh là người hay là ma, đối phương chắc chắn đang trốn trong khoang máy bay, nhưng trong khoang tất cả chỉ có sáu người mà thôi. Anh biết rõ bản thân mình hoàn toàn không liên quan đến Nấm mồ xanh, còn năm người còn lại, giơ bàn tay ra đếm cũng có thể đếm rất rõ ràng: La Đại Hải và Tuyệt đương nhiên không cần nói, Karaweik tuy là người Miến Điện bản địa, nhưng một cậu thiếu niên vùng sơn cước mới mười mấy tuổi đầu thì làm được được trò trống gì? Sao có thể là đầu não tổ chức thương mại lớn nhất trong thế giới ngầm ở Đông Nam Á. Huống hồ, thời gian Karaweik theo chân đội du kích cộng sản Miến Điện cũng không phải là ngắn, trong khi việc gặp đội thám hiểm ở núi Dã Nhân là việc mới chỉ xảy ra khoảng hai, ba ngày, bởi thế chắc chắn cậu bé cũng chẳng liên can gì đến Nấm mồ xanh.

Lại nghĩ Ngọc Phi Yến là thủ lĩnh đội thám hiểm, nếu cô ta quả thực không cần biết đến hậu quả, mà cho kích nổ quả bom địa chấn trong khoang máy bay, thì những người còn lại cũng không cố sống cố chết ngăn cản làm chi, mà việc gì cô phải giả thần giả quỷ với chính mình, bởi thế Ngọc Phi Yến cũng có thể loại trừ ra ngoài.

Theo lý mà nói, nếu thực sự có một gã “quỷ biển” ngấm ngầm theo dõi hành động của đội thám hiểm trong bóng tối, thì đó phải là kẻ ẩn mình dưới lớp vỏ thuộc hạ của Ngọc Phi Yến; nhưng từ khi đội thám hiểm vào núi đến giờ, các thành viên gần như đều bị chết hết, chỉ có hai người may mắn sống sót là Ngọc Phi Yến và gã Ciglovaski người Nga.

Tư Mã Khôi cảm thấy gã khọm người Nga tuy tính tình lạnh lùng, tàn nhẫn, giết người không ghê tay, tuyệt đối không phải hạng lương thiện gì, nhưng vẫn có một điểm không thể bỏ qua: gã mũi to này là chuyên gia bom mìn, chất nổ, nên đối với quả bom địa chấn hạng nặng trong khoang máy bay, chắc chắn chẳng ai có thể hiểu về nó hơn gã. Nếu không phải là gã đã chỉ ra thời hạn kích nổ quả bom, thì những người xung quanh nào biết nguy hiểm ẩn chứa bên trong. Bởi vậy, qua chi tiết này cũng có thể thấy Ciglovaski không phải là kẻ có biệt danh Nấm mồ xanh.

Tư Mã Khôi suy đoán loạn xạ một hồi, đầu óc mau lẹ sắp xếp mọi người thành hàng dọc, xem xét liền mấy lượt, về cơ bản, anh phủ định phán đoán trong sáu người có một kẻ là Nấm mồ xanh. Thế nhưng kẻ được gọi là Nấm mồ xanh chắc chắn vẫn đang trốn trong khoang, chỉ có điều hắn trốn ở “góc chết” mà mọi người không ai nhìn thấy được. Mà cũng không hẳn đó là “góc chết” về mặt thị giác, bởi rất có khả năng là “góc chết” trên trường nghĩa tâm lý, nghĩa là “góc chết” mà người ta không thể tưởng tượng được bằng tư duy thông thường.

Những người còn lại đều giống như Tư Mã Khôi, xoay vần sự việc mấy lượt trong đầu, càng nghĩ càng cảm thấy kinh hoàng bất an, nhưng giờ khắc này, chẳng ai dám mở lời bàn bạc. Bởi vì lời càng nhiều họ càng dễ lỡ miệng, biết rõ trong khoang có một Nấm mồ xanh giống như vong hồn đang đứng cạnh ngầm theo dõi, nó đã có thể sử dụng máy ghi âm để phát lời cảnh cáo trong lúc mọi người không hề phát hiện ra, nên nếu như nó ngấm ngầm ám hại, thì cũng đủ khiến người ta có đề phòng cũng như không.

Hải ngọng đột nhiên nảy ra suy một nghĩ kỳ lạ: nói cuốn băng ghi âm này xuất hiện một cách kỳ quái, không khéo bên trong có ma, thì nhân lúc sớm sủa, mau chân giẫm nát nó cho xong, tránh khỏi sau này món đồ chơi kia lại tự mình giở trò quái quỷ nào đó, khiến chúng ta ở nơi tối lửa tắt đèn này màn còn phải nơm nớp đề phòng nó. Nghĩ đi nghĩ lại có khi đây chẳng qua là tâm bệnh. Nói xong, anh liền ném nó xuống đất, dùng cán súng gõ đập không thương tiếc. Chiếc máy ghi âm của đội thám hiểm Anh để lại, vỡ vụn thành từng mảnh, cuộn băng bên trong cũng vỡ hỏng hoàn toàn.

Mọi người nhất thời im lặng, chẳng ai nói với ai lời nào. Tư Mã Khôi thấy dường như khó có thể nhìn thấy dấu tích gì từ vẻ bề ngoài, nên cũng không muốn rút dây động rừng. Để tiết kiệm nhiên liệu, anh liền tắt đèn halogen đang cầm trên tay, chỉ dùng chút ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn pin. Loại ánh sáng này vô cùng ảm đạm, nhưng năng lượng tiêu hao tương đối nhỏ, có thể duy trì chiếu sáng trong thời gian rất lâu. Khoang máy bay phút chốc chập chờn bóng sáng, người hay ma khó mà phân biệt nổi.

Tư Mã Khôi quanh năm lảng vảng ở nơi đầu súng mũi gươm, xem sự sống cái chết đều nhẹ tựa lông hồng, thêm vào đó lại có tâm lý phản nghịch thiên bẩm rất mạnh, thì làm gì có chuyện chịu để yên mặc cho người khác xoay vần? Tuy anh không biết tình hình cụ thể về kẻ được gọi là Nấm mồ xanh, nhưng thấy kiểu hành sự của hắn đầy bí hiểm, quái dị, thì đoán ngay tên này chắc chắn thuộc loại tà môn ngoại đạo, việc gì mình phải bán mạng cho những hạng người như thế? Ông mày bảo không làm là không làm, đứa nào làm gì được ông? Nghĩ đến đây, anh một lần nữa lại gọi mấy anh em trong đội du kích cộng sản Miến Điện đến, chuẩn bị “phủi đít ra về”.

Nhưng Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy cái đầu băng bó trắng xóa của Karaweik thì lập tức lại nhớ ra: “Lúc đội du kích cộng sản Miến Điện tan rã, Karaweik đã không quản nguy hiểm, dẫn bọn mình từ con đường U Linh đi xuyên qua núi Dã Nhân, giờ đây làm sao mình có thể mặc kệ sự sống chết của cậu bé?”. Có điều, hoàn cảnh trước mắt của hội Tư Mã Khôi ngay cả cái mạng của bản thân cũng khó bảo toàn, còn người có thể dẫn Karaweik chạy trốn khỏi Miến Điện chỉ có một mình Ngọc Phi Yến, nên anh lại đành ghìm lòng lại, hỏi Ngọc Phi Yến bây giờ dự định làm thế nào, hay là phải để một người ở lại kích hoạt quả bom địa chấn?

Ngọc Phi Yến trong lòng rõ hơn ai hết, người nào ở lại người đấy sẽ cầm chắc lệnh bài tử hình. Thực ra cô ta chẳng buồn bận tâm đến điều này, bởi vì trong mắt cô ta, sinh mệnh và giá trị sinh mệnh là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, bởi thế cô ta cũng dễ dàng đưa ra quyết định về cái được cái mất. Trong lòng Ngọc Phi Yến sớm đã có sự tính toán so sánh thiệt hơn, liền nói với mọi người: “Bây giờ chúng ta sẽ rút thăm phán định sống chết, ai rút phải quân bài đen sẽ phải ở lại kích nổ quả bom, kẻ ở lại sống hay chết đành phải tuân theo mệnh trời vậy…”

Tư Mã Khôi nghe xong, trong lòng ngầm phán đoán: “Tổ tiên Ngọc Phi Yến xuất thân là dân trộm mộ Quan Đông, kỹ thuật ngửa bài này chắc chẳng ai thắng nổi cô ả, vì xem ra mọi người có vẻ đều bình đẳng như nhau, nhưng trên thực tế, tất cả quyền định đoạt đều do cô ả ngầm nắm giữ”. Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, đang định lên tiếng vạch trần thủ đoạn, nhưng lời chưa kịp thốt ra khỏi miệng thì đã nghe Tuyệt nói trước với Ngọc Phi Yến: thời gian hẹn giờ của quả bom địa chấn chỉ có hạn, trong khi Nấm mồ xanh khi nãy vừa lợi dụng máy ghi âm để cảnh cáo mọi người, mà hắn lại thật sự đang ẩn nấp giữa chúng ta, vậy thì hắn cũng có khả năng rút phải quân bài đen, bị bom nổ thịt nát xương tan, nói không chừng thời gian mấy chục phút đó cũng chẳng đủ để hắn chạy thoát. Ngọc Phi Yến cúi đầu đáp: “Cũng mong như vậy”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải ngược lại không thể nào chấp nhận suy đoán này. Tuy ngoài miệng chẳng nói gì, nhưng trong lòng họ đều nghĩ: “Trên thế giới này, kẻ điên nào mà không có chứ? Có thể đúng là chúng ta gặp phải tên không sợ chết, huống hồ đối phương trốn trong chỗ tối, u hồn tựa bóng ma vô hình vô ảnh, hắn có phải người sống hay không còn khó nói nữa là”.

Tư Mã Khôi nghe thấy âm thanh bò trườn của bọn thằn lằn cỏ bên ngoài khoang cửa đã có phần suy yếu, cùng lúc Hải ngọng lại ngồi khuyên can Ngọc Phi Yến, bảo cô hãy từ bỏ ý niệm kích nổ quả bom: “Xem ra cô cũng không có vẻ là người cứng nhắc, bảo thủ. Cô cứ nghĩ kỹ lại mà xem, thằng cha địa lôi này đủ sức phá nổ cả dãy núi Dã Nhân khiến trời rung đất chuyển. Hơn nữa ở khu vực sâu hút dưới đáy này, sương mù vẫn chưa tan hết, cho dù chỉ để lại một người kích nổ thì biết đâu là sau khi bom nổ, sương mù dày đặc lại đột nhiên từ dưới lòng đất ùn ùn trào lên, khi đó ngay cả những người đã tháo chạy trước đó cũng tuyệt đường sống luôn. Hơn nữa, lúc chúng ta phát hiện ra cuốn băng ghi âm trong chiếc Rắn đen II, quả thực cũng bị nó làm cho mất hồn mất vía, sau đó mới biết chẳng qua chỉ là sợ bóng sợ gió vớ vẩn. Có khả năng lời cảnh cáo vừa rồi xuất hiện trong máy ghi âm cũng chỉ do mọi người nhất thời hoảng loạn, không thể phân biệt rõ chân tướng thật sự mà thôi, hết nghi thần nghi quỷ, lại nghi người, cứ ngồi đó nghi nghi hoặc hoặc mà tự mình giết mình…”

Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều tự tìm những lý do mà ngay cả bản thân mình cũng khó tin nổi, hòng đánh tan ý niệm của Ngọc Phi Yến. Nhưng lúc lời mới nói được một nửa, thì đã thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến trở nên vô cùng khó coi. Họ phát hiện hướng nhìn của cô là nhằm vào vị trí khoang lái ở ngay sau lưng mình, nên trong phút chốc đều cảm thấy khí lạnh xâm chiếm da thịt, vội vàng quay người xem rốt cục là thứ gì. Vừa mới ngoảnh đầu lại thì thấy trong bóng tối có một con mắt khổng lồ ám đầy ma khí, ánh mắt nhấp nháy như ánh nến, đang im lặng bất động nhìn chằm chằm vào những người ở trong khoang.

Hồi 6: Kinh hoàng

Tư Mã Khôi thấy hiện tượng lạ, không kịp đi tìm đèn halogen, trong lúc hấp tấp, đành vội xách đèn pin, mượn ánh sáng yếu ớt của nó nhìn về phía trước, chỉ thấy bên ngoài khoang lái có một con mắt khổng lồ nhìn chằm chằm không rời. Mắt to như cái bánh xe, hai mí mắt chầm chậm khép mở, thần sắc vô định, dường như nó đang nhìn xuyên thấu qua ô cửa sổ khoang lái, bám dính vào sáu người sống đứng bên trong.

Sau khi quan sát rõ ràng, Tư Mã Khôi biết đây là mắt của một con rồng Komodo to lớn khác thường. Do quanh năm sống ở nơi huyệt động tối tăm ẩm ướt, thường xuyên bắt các loại côn trùng có lân quang làm thức ăn, nên phần mắt của nó không những không bị lớp vẩy che mờ, mà ngược lại thị lực càng được tiến hóa hơn, hai mắt lồi hẳn ra phía ngoài. Không tính cái đuôi, thân thể của nó vẫn dài đến năm, sáu mét, da cứng thịt dày; bình thường nó có thể nằm im bất động như tượng gỗ hàng mấy tháng ròng, nhưng lúc này nó bị ánh đèn trong chiếc tiêm kích vận tải dẫn dụ đến.

Tuy rằng trên người ai nấy đều có súng và dao săn, nhưng rồng Komodo sống trong núi sâu Miến Điện, bất phân lớn nhỏ, trên mình đều mang chất kịch độc, có thể dùng mắt khống chế người trong vòng trăm bước, rất khó phòng bị, nên chẳng ai dám chọc giận chúng. Một khi rồng Komodo triển khai tấn công, nó sẽ trở nên đáng sợ hơn cả cá sấu đầm lầy.

Tư Mã Khôi thấy tình thế không ổn, vội vàng tắt đèn pin đang cầm trong tay, nhỏ giọng nói với mọi người: “Đừng động đậy!”

Hội Ngọc Phi Yến không ai không biết rồng Komodo có thị giác linh động với mọi trạng thái, nó vô cùng nhạy cảm với vật thể di động và ánh sáng, nên chẳng ai dám cử động dù rất nhỏ. Tai họ nghe thấy trên nóc máy bay như có vật thể gì rất nặng chậm chạp ngọ ngoạy, đoán chắc đó là một con rồng Komodo khác, đang bò lồm ngồm trên nóc, mọi người liền lập tức tắt hết mọi nguồn ánh sáng bên mình.

Cả khoang máy bay trong khoảnh khắc đã trở nên đen quánh như sơn, chỉ có vảy lân quang lấp lánh cứ chập chờn nhấp nháy, đó là vảy lân quang của những con bướm đêm bị ánh đèn thu hút đâm loạn xạ vào người lúc ở lùm cỏ - trước khi đội thám hiểm vào trong máy bay. Tuy đi dưới màn mưa, nhưng họ vẫn bị khá nhiều bụi lân quang bám dính, đồng thời còn có không ít con bướm đêm theo chân bay vào bên trong.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, mấy con rồng Komodo vẫn còn luẩn quẩn ở đây chưa chịu bỏ đi, nguyên nhân chắc là do đám bướm đêm còn lại này, anh đang định phủi sạch bụi lân quang trên mình, thì đột nhiên thấy nóc máy bay phát ra âm thanh kêu “răng rắc”.

Chiếc máy bay ngủ im trong đầm lầy dưới lòng đất suốt một thời gian dài, kết cấu chất gỗ đã sớm bị mối mọt mục nát bởi không khí ẩm ướt xâm hại thì làm sao có thể chịu được thân thể khổng lồ nặng nề của rồng Komodo, chỗ lúc trước bị súng săn voi bắn thủng, bây giờ đều bị ép xuống đến nứt toác.

Chi sau của con rồng Komodo khổng lồ thụt xuống khe nứt. Trong lúc khẩn thiết khó lòng thoát thân, nó vắt kiệt sức dùng đuôi quẫy đạp, khiến chiếc máy bay bị rung lắc gần như tan ra thành từng mảnh. Hằng hà sa số những con thằn lằn nhỏ nhân cơ hội này đã lẻn chui vào bên trong qua các kẽ nứt.

Mọi người đứng trong bóng tối, hai mắt không nhìn thấy gì, chỉ cảm thấy lũ thằn lằn bò từ chân lần ngược lên người, nhưng ai nấy không thể không giơ tay hay đạp chân để giãy chúng ra.

Đúng lúc này, đột nhiên từ quả bom địa chấn bỗng vang lên một tiếng “kịch” , âm thanh tuy không lớn, nhưng hai tai Tư Mã Khôi rất nhạy cảm nên từ vị trí đang đứng anh phán đoán: hình như nút kích hoạt của quả bom địa chấn đã được mở. Trong lòng anh bỗng chốc buốt lạnh, biết chắc Nấm mồ xanh đang trốn trong khoang máy bay đã giở trò quỷ, phen này rắc rối to rồi, quả bom địa chấn hạng nặng với uy lực vô biên sắp phát nổ trong vòng vài phút nữa, mà hậu quả thật không dám nghĩ tới.

Tư Mã Khôi nóng lòng muốn biết, gã Nấm mồ xanh kia rốt cục đã dùng cách gì, để trốn dưới con mắt của mọi người mà không hề bị phát hiện. Anh chẳng còn bận tâm đến mấy con rồng khổng lồ Komodo đang lởn vởn ngoài khoang lái, lập tức huơ huơ chiếc đèn pin trong tay, quét một đường: ngoại trừ sáu kẻ may mắn sống sót ra thì làm gì còn người nào thừa, thế nhưng nút kích hoạt ở phần đuôi quả bom địa chấn đúng thực là đã bị “người” trong bóng tối âm thầm khởi động.

Hội Ngọc Phi Yến thấy tình hình khác lạ, ai nấy đều kinh ngạc không thốt nên lời, biết chắc chuyến này sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa. Quả bom chứa trong chiếc tiêm kích số hiệu Rắn đen, tuy không thể sánh với quả “Grand Slam” đã san phẳng cả dãy núi, nhưng khối lượng của nó cũng đủ để người ta khiếp vía, vì gần như vượt qua cả cực giới hạn tải trọng của chiếc tiêm kích vận tải. Giờ phút này, cho dù mọi người có mọc thêm vài cái chân, cũng không thể chạy trốn khỏi phạm vi bao trùm nguy hiểm của sóng xung chấn phát nổ trong thời gian ngắn như vậy.

Đám sương mù bí ẩn ngàn năm không tan ở núi Dã Nhân, cơn bão nhiệt đới Buddha hoành hành, động huyệt không đáy giống như kính viễn vọng địa cầu, rồng Komodo, cá sấu, mãng xà Miến Điện mai phục dưới đầm lầy, quả bom địa chấn hạng nặng chứa trong khoang hàng chiếc Rắn đen, và cả “ngôi mộ màu xanh” ẩn chốn giữa bóng tối ngấm ngầm theo dõi hành động của mọi người, vòng sóng nguy hiểm này nối tiếp vòng sóng nguy hiểm khác, vô số ẩn số khó lòng giải thích không ngừng xuất hiện, khiến thể xác và thần kinh của mấy kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm, đều bị đẩy đến gần mép vực suy sụp.

Mọi người biết giờ đây chỉ còn đường chết, không còn đường sống, nhất thời đều thất sắc, ai nấy ngẩn người bất động, nhưng sau giây phút ngắn ngủi đó, trong đầu không hẹn mà cùng xuất hiện một ý niệm: “Chạy! có thể chạy bao xa thì chạy!”, tâm lý này được gọi là “chó cùng dứt dậu”, ngồi đây đợi chết, cùng chiếc máy bay nổ tan xác thành khói bụi tro tàn, chi bằng hãy cố gắng chạy trốn đi thật xa, nói không chừng vẫn còn bảo toàn được thi thể nguyên lành.

Tư Mã Khôi hét gọi những người còn lại: “Đừng ngẩn tò te ra thế, mau rút thôi!”

Ngọc Phi Yến nhắc nhở: “Vùng đất ẩm ướt phía nam, cỏ mọc um tùm, có thể làm giảm sóng xung chấn của vụ nổ, sau khi rời khỏi máy bay, mọi người hãy cùng chạy về phía đó nhé!”

Mắt nhìn thời gian trôi chảy từng giây từng phút, mọi người chỉ mong rời khỏi trái bom địa chấn càng xa càng tốt; nhưng muốn rời khỏi chiếc máy bay, trước hết phải giải quyết xong hai con rồng Komodo khổng lồ đang quần đảo ngoài khoang lái, lúc này không thể không hạ quyết tâm lao ra chiến đấu trực diện với nó.

Hải ngọng xung phong mở màn, anh giương khẩu súng săn bốn nòng, chĩa lên lỗ hổng trên nóc máy bay, ngắm chuẩn vào bụng con rồng Komodo đang nằm ệp ở ngoài, rồi bắn một phát. Khẩu súng săn này tuy không bằng súng bắn tỉa công phá, nhưng nếu hạ gục mục tiêu gần, thì uy lực của nó lại không loại vũ khí nào có thể sánh kịp. Chỉ nghe “đoàng” một tiếng rồi khói trắng tỏa ra mù mịt như sương mây, con rồng Komodo khổng lồ thoáng chốc đã ngã vật ra đất, bụng thủng ruột lòi, máu chảy lênh láng.

Cùng lúc này, con rồng Komodo ở ngoài khoang lái, cũng bị gã Gấu trắng người Nga ném quả lựu đạn tan thành hai mảnh. Nó tuy chết mà không phục, hai mắt vẫn đỏ au au tựa máu nhìn trừng trừng như muốn lồi hẳn ra ngoài, rồi mí mắt lộn mạnh một cái, một tia máu từ hốc mắt bắn vọt ra, xuyên phụt qua khe nứt máy bay.

Rồng Komodo rất giỏi ngụy trang, bình thường nó có thể nằm im bất động giống như phiến đá hoặc thân cây khô, đợi khi con mồi đến gần mới bất ngờ vùng dậy, phun máu độc từ hốc mắt tấn công đối thủ. Chất dịch máu trong nang mắt của nó kịch độc không gì sánh nổi, hơn nữa tốc độ lại nhanh thần kỳ, khiến người ta khó lòng tránh được.

Gã Gấu trắng người Nga không ngờ con rồng bị tan xác thành hai mảnh, mà vẫn có thể lén tấn công, nên cho dù phản ứng của gã rất đỗi nhanh nhạy, nhưng vẫn bị máu độc bắn vào mắt trái. Gã đau đớn gào rú thảm thiết như một con mãnh thú bị chọc tiết. Tuy thể xác đau đớn bội phần nhưng đầu óc hãy còn tỉnh táo, gã biết rằng một khi bị chất độc từ mắt chạy vào não, thì coi như hoàn toàn xong đời, hết thuốc cứu chữa; dưới sự thôi thúc của khao khát sinh tồn mãnh liệt, gã cố nén cơn đau thấu đến tận tim, gắng gượng móc con mắt bên trái của mình ra.

Phần dịch độc mà gã người Nga tránh được, đều bắn vào thân thể mấy người ở phía sau. Khoang máy bay chứa một quả bom khổng lồ, sáu người còn lại phải chen chúc nhau trong một khoảng không gian nhỏ hẹp còn lại. Mọi người chỉ còn cách đứng nghiêng, vì ngay cả xoay người cũng rất khó khăn, làm sao có thể né tránh nổi, kết quả người nào cũng bị máu độc bắn vào.

May mà chất độc chỉ bám vào ba lô hoặc quần áo, không tiếp xúc với da thịt, nhưng gã Ciglovski cao to ngoại cỡ kia lăn lộn giãy giụa, dùng sức quá mạnh, nên chạm cả vào Tuyệt đứng ngay sau lưng. Tuyệt bị gã xô đẩy, gáy đập vào vỏ sắt cứng đanh của quả bom địa chấn, phút chốc máu tươi chảy ra đầm đìa, trong lúc hoảng loạn, cũng chẳng rõ vết thương nặng nhẹ thế nào.

Mọi người chưa kịp rời khỏi chiếc tiêm kích vận tải thì trong thời gian chớp mắt, liên tiếp hai thành viên nữa lại bị trọng thương, có điều vì nguy cơ cấp bách trước mắt, không cho phép trù trừ nấn ná lâu thêm, nên chẳng ai dám chậm chễ. Ngọc Phi Yến giơ chân đạp tung cánh cửa, giương khẩu súng xung phong Uzi đi trước mở đường. Hải ngọng cõng Tuyệt trên lưng, Tư Mã Khôi gọi Karaweik cùng xách nách dìu gã Gấu trắng mặt đầm đìa máu, mỗi người cầm một cây nến tín hiệu, bám sát sau lưng Ngọc Phi Yến. Không quản đường dưới chân gập ghềnh lồi lõm, họ liều mạng băng băng tháo chạy về phía đầm lầy um tùm cây cối.

Gã Gấu trắng tuy thân thể khỏe như bò mộng, nhưng vừa bị mất một mắt, vết thương quả không nhẹ, lại bị vài phần chất độc ngấm vào não nên thần trí bắt đầu nhiễu loạn, phút chốc mất hết lý trí như kẻ điên dại, rồi thú tính khát máu chợt trỗi dậy, trong lòng chỉ muốn giết người. Gã phát hiện hai cánh tay đều bị người khác kẹp chặt, liền thuận thế cuốn một vòng, hai bàn tay to phàm phạp như hai cánh quạt, định bóp chặt yết hầu của Tư Mã Khôi và Karaweik.

Tư Mã Khôi và Karaweik xả thân lôi gã tháo chạy khỏi chiếc tiêm kích vận tải, còn thần kinh mạch mệnh đều đổ dồn về quả bom hạng nặng ở phía sau, thì làm sao kịp đề phòng biến cố xảy ra ngay bên cạnh. Thế nhưng Tư Mã Khôi do suốt ngày lăn lộn nơi đường biên sống chết, từ trước đến giờ vẫn vô cùng nhanh nhạy, còn Karaweik tuy rằng tuổi còn nhỏ, nhưng vì cả ngày trèo cây xuyên núi nên thân thủ cũng lanh lẹ như khỉ, hai người đều ứng biến thần tốc, phát hiện thấy bàn tay to lớn của gã người Nga như hai gọng kìm đang nhằm vào cổ họng mình, liền vội vã lùi người lại, né sang một bên.

Ciglovaski thấy mình vồ trượt, liền lập tức rút dao săn ra, quay người lại chém. Tư Mã Khôi không kịp đứng dậy, vội lăn mấy vòng trên mặt đất, tránh đường dao chém. Anh thấy mặt gã Gấu trắng máu thịt hỗn độn, chỉ lộ ra mỗi con mắt hung quang sáng quắc, liền biết gã này đã mất hết lý trí, giống như một con chó dại, một khi nó đã lên cơn, thì chắc chắn sẽ không chịu buông tha, bèn hét lớn bảo Karaweik mau mau tháo chạy, tuyệt đối không được dừng lại.

Karaweik nhìn thấy gã khọm người Nga đột nhiên trở nên hung tợn như ác quỷ, đã sớm kinh hồn thất tán, toàn thân mềm nhèo nhẹo, không biết phải làm thế nào, mãi đến lúc nghe tiếng hét của Tư Mã Khôi, mới giật mình bừng tỉnh, thục mạng lao về phía hội La Đại Hải.

Ai ngờ gã Ciglovaski tuy rằng thần trí đang hoảng loạn, nhưng bình sinh giết người như giết rận, chẳng khác nào cỗ máy giết người do Liên Xô chế tạo, thủ đoạn giết người dường như trở thành bản năng, phát hiện có người chạy trốn, gã không thèm đuổi theo, mà “hừ” lên một tiếng rồi ra sức ném con dao săn trong tay về phía đó.

Con dao săn quân dụng hình vòng cung mà đội thám hiểm sử dụng trong rừng rậm, còn gọi là “dao mở núi”, sống dao dày, nhưng lưỡi rất mỏng và sắc, cán ngắn, thân dài, trước rộng sau hẹp, được làm bằng thép lò xo, là loại dao cực kỳ sắc bén. Con dao săn từ tay Ciglovaski phóng đi, gấp như sấm đánh, nhanh như chớp giật, chỉ thấy tiếng u u của kim loại vọng lại, nó lượn vòng trên không trung, rồi tiện ngang cổ Karaweik, nghe sắc lẻm, cái đầu người lập tức bị cắt ngang rời ra khỏi thân. Thế bay của con dao vẫn không hề suy yếu, tiếp tục lượn tiếp vài mét nữa mới chịu rơi xuống đất.

Karaweik đang chạy điên loạn về phía trước, đột nhiên bị con dao sắc từ phía sau cắt một đường vừa nhanh vừa mạnh, tuy đầu đã lìa khỏi thân, nhưng theo quán tính, chân vẫn không dừng lại ngay được, mà tiếp tục chạy thêm dăm ba bước nữa thì thi thể không đầu mới đổ rầm xuống đất.

Màn thảm kịch đột ngột xảy đến quả thực quá nhanh. Tư Mã Khôi thấy Karaweik chết đứng dưới lưỡi dao của gã Gấu trắng, bản thân lại không kịp đến ứng cứu, tuy nói sinh tử vô thường, chẳng ai đoán trước được, nhưng anh vẫn không thể kìm chế nổi cơn thịnh nộ bốc cháy phừng phừng trong lòng, làm ánh mắt xung huyết đỏ lòm. Trong lòng dội lên ý niệm giết người, anh ngẩng đầu nhìn gã Gấu trắng cũng đang quay người nhào đến, thầm nghĩ: “Hôm nay không phải tao chết thì mày phải chết”, rồi lập tức tránh sang một bên thủ thế, hai tay nắm chặt hai cán con dao săn.

Tuy trong lòng Tư Mã Khôi vừa giận vừa hận, nhưng đối mặt với cường địch, anh vẫn không hề mất bình tĩnh. Tư Mã Khôi biết gã người Nga cao lớn tay dài, chẳng khác nào loài dã thú, hơn nữa gã từng phục vụ trong quân đội Xô Viết nhiều năm, xem tư thế vung tay đá chân của gã thì biết chắc chắn gã này giỏi đấm bốc. Nên cho dù trên vai anh không bị thương, mà trực diện bổ nhào vào đối phương, thì e rằng cũng không chiếm được nửa phần lợi thế, huống hồ quyết đấu sinh tử, cần phải tốc chiến tốc thắng.

Trong lòng Tư Mã Khôi ngầm định giới hạn, nên anh không giằng co chính diện với gã người Nga, mà chỉ bắn một phát đạn hú họa, rồi tránh sang bên trái đối phương. Gã Gấu trắng nhào lên không trúng, bèn quay người lại tóm, nào ngờ bước chân Tư Mã Khôi di chuyển nhanh như sóc, tuyệt đối không tiếp xúc mặt đối mặt với gã, anh lui lại, quay người lẻn sang phía phải đối phương. Gã Gấu trắng thân hình to lớn lực lưỡng, nên khi phải liên tục xoay chuyển hết bên trái lại sang bên phải, tất có đôi chút lóng ngóng, mới chạy được hai ba vòng, bước chân đã bắt đầu loạng choạng, trọng tâm không vững, Tư Mã Khôi nhanh như cắt chớp cơ hội, vật ngửa gã ra đất.

Tuy gã người Nga bị ngã mạnh, nhưng vẫn kịp đạp Tư Mã Khôi một cái. Tư Mã Khôi không ngờ đối phương ra tay nhanh như vậy, bị đạp loạng choạng, anh cũng ngã nhào xuống đất theo gã. Tự biết mình phải chạm trán với kẻ thù hiểm ác nhất từ trước đến nay, nhưng lòng quyết tâm báo thù còn mạnh hơn nên anh chẳng hề có ý sợ hãi rút lui. Vừa ngã, anh liền lập tức đứng bật dậy, tiếp tục cầm con dao săn nhào lên.

Không ngờ, lúc đó mùi máu tanh nồng nặc bốc ra từ cơ thể gã Gấu trắng đã dẫn dụ một con cá sấu đang nằm mai phục dưới đầm lầy. Nó há to cái miệng đỏ lòm rộng ngoác ngoạm mạnh vào hai chân Ciglovaski, chậm chạp kéo gã về phía sau. Hàm cá sấu chi chít những chiếc răng nhọn hoắt như lưỡi cưa, lực ngoạm lại rất lớn, nên quá nửa thân người của gã Gấu trắng bị nó nuốt chửng. Gã bất giác cảm thấy đau buốt đến tận xương tủy, gã cố giãy giụa nhưng không thể thoát ra nổi.

Dưới cơn đau dữ dội, cổ họng gã phát ra những tiếng nghe “khặc khặc”. Rồi thần trí cuối cùng cũng minh mẫn trở lại, gã tự biết thân rơi vào cảnh ngộ này, chắc chắn chẳng còn đường sống, lại sợ bị cá sấu lôi xuống đầm lầy, phải chịu cái đau đớn do bị xé xác nuốt chửng, bèn tự mình kết liễu cuộc đời. Gã sờ cuộn thuốc nổ mang theo bên mình, rồi giật mạnh dây dẫn lửa.

Cùng với tiếng nổ lớn vang khắp đầm lầy là xương thịt máu me bay ra tứ phía. Tư Mã Khôi vội vàng tránh qua một bên, tuy anh từng chứng kiến tận mắt vô số cái chết trên chiến trường Miến Điện, nhưng nhìn cảnh tượng này, anh vẫn thấy bàng hoàng sững sờ, lòng cảm nhận sâu sắc sự bi thảm của thế gian, dường như cũng chỉ đến thế là cùng. Anh ngẩng đầu lên nhìn, thấy phía trước pháo tín hiệu vụt lóe sáng. Thì ra La Đại Hải cõng Tuyệt bị thương ở đầu, gấp gáp chạy theo Ngọc Phi Yến vào đồng cỏ sâu, nên không hề biết biến cố xảy ra phía sau. Mãi cho đến khi nghe thấy tiếng nổ do gã Gấu trắng tự kết liễu đời mình, mới biết có chuyện chẳng lành, anh liền bước chậm lại, ngoái đầu nghe ngóng.

Tư Mã Khôi tự hỏi: “Không biết thời gian đã qua bao lâu, dường như vượt cả thời hạn ấn định, sao trái bom địa chấn trên chiếc tiêm kích đến bây giờ vẫn chưa phát nổ?”. Nhưng không kịp nghĩ nhiều, anh vội vàng đuổi theo hội La Đại Hải. Ngọc Phi Yến và La Đại Hải chỉ thấy có một mình anh đi đến, trong lòng đều cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi nguyên do, nhưng lời còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng nổ long trời lở đất, đáy khe núi Dã Nhân sâu vạn trượng đột nhiên xảy ra vụ nổ dữ dội, đúng chẳng khác gì “tinh cầu tương kích, càn khôn vỡ vụn”.

 Quả bom địa chấn nặng ngàn cân trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải, cuối cùng củng phát nổ, năng lượng giải phóng do khí nén cao áp giản nở đúng là rung trời chuyển đất,đổ biển trút sông. Tiếng vang lớn động cả khe núi sâu hun hút. Sóng xung chấn và sức ép dữ dội từ trung tâm vụ nổ lan truyền ra, mạnh như cơn lốc, nhanh chóng phủ khắp đầm lầy dưới lòng đất.

Bốn kẻ may mắn tháo chạy khỏi càn tay thần chết đó là Tư Mã Khôi, La Đại Hải, Ngọc Phi Yến và Tuyệt, vừa mới bỏ trốn chẳng bao xa đã bị cơn bão xung chấn cuốn vào vòng xoáy của nó. Do vụ nổ xảy ra quá nhanh, sấm nổ bịt tai còn chẳng kịp làm gì còn thời gian tìm chỗ ẩn náu,khiến thân thể dường như bị một bức tường xi măng dày nặng đột ngột đâm sầm vào với tốc độ khủng khiếp, nên họ chẳng khác nào cánh hạc giấy bị đứt dây, lật nhào xuống bùn đất

Trước mắt Tư Mã Khôi là một khoảng đỏ đen lẫn lộn,hai tai anh bị chấn động không nghe một tiếng gì ngoài tiếng "ong ong" còn trong đầu chỉ là một dải hỗn loạn, sau đó mất hết toàn bộ ý thức.

Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, những giọt nước mưa lạnh buốt thấu xương không ngừng tạt vào mặt

Làm Tư Mã Khôi dần dần tỉnh lại . Anh chỉ cảm thấy đầu đau như muốn vỡ tung,mọi thứ trước mắt mờ ảo dập dềnh,không hề nhìn thấy một chút ánh sáng nào. Trong lòng anh còn lờ mờ nhớ lúc trước trái bom địa chấn vừa phát nổ, quả bom địa chấn do nước Anh chế tạo tuy rằng vẫn thuộc phạm trù vũ khi thông thường, không thể so sánh được với bom hạt nhân, nhưng sức phá hoại của nó đúng là có thể dời non lấp biển.

Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe người dân bản địa nói,năm đó lúc phản công Miến Điện, tình hình vô cùng ác liệt, chỉ cần ban ngày,ngẩng đầu nhìn lên trời sẽ thấy máy bay quân Đồng Minh quần thảo hết phi đội này đến phi đội khác, nghìn thịt như chim én, rồi ném những quả bom còn to hơn cả cái nhà, quả nọ tiếp quả kia,phạt đứt bay cả đỉnh núi. Kích thước loại bom địa chấn này thuộc hàng khủng,trọng lượng cũng nặng khác thường nếu là cấp Grand Slam, thì nhất loạt đều phải do máy bay Lancaster thả xuống. Qủa bom với cấu tạo hình giọt nước với bề mặt tuyệt đối nhẵn nhụi không nếp gấp này, lúc thả xuống sẽ xoay vòng với tốc độ cao giữa không trung,khi tiếp đất nó có thể xuyên thấu hố công sự với độ sâu rất lớn, rồi hủy diệt vụn nát mọi mục tiêu chiến lược

Có điều,nhìn tổng quan cả quá trình lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai,toàn bộ số bom Grand Slam mà quân Anh sử dụng chưa tới một trăm quả,hơn nửa tuyệt đại đa số dùng trong các chiến trường châu Âu. Trong thời kì chiến đấu với quân Nhật ở Miến Điện,bom địa chấn quân Anh sử dụng tuy thể tích nhỏ hơn một chút nhưng bên trong được nhồi thuốc pháo tiên tiến có độ phát nổ rất cao nên so với Grand Slam ,uy lực của nó cũng khủng khiếp không kém, thậm chí ngang ngửa về mọi điểm.

Bom địa chấn trong khu vực sâu núi Dã Nhân được đặt trong khoang hàng chiếc tiêm kích vận tải, đồng thời lại không có xung chấn tốc độ cao khi thả từ không trung xuống,một khi kích hoạt kíp nổ tại chỗ,tuy không thể đâm sâu nhưng vẫn có thể hình thành hố bom với đường kính gần trăm mét, hơn nữa phạm vi bao phủ của sóng địa chấn,có tác dụng hủy diệt, còn trải rộng hơn. Môi trường trong đầm lầy dưới lòng đất rất khắc nghiệt, chỉ dựa vào đôi chân,thì chạy nổi bao xa,bởi thế hội Tư Mã Khôi đã liệu định trước là trong thời gian có hạn,căn bản không thể chạy đến khu vực an toàn. Mọi người còn cho rằng chắc chắn là sẽ chết chứ không thể khác được. Lúc này, Tư Mã Khôi đã bắt đầu tỉnh lại, tâm thần hoảng loạn, anh cảm thấy như cơ thể bị vụn nát thành từng mảnh, nhưng đột nhiên thấy cuống họng có vị ngọt liền hộc ra một ngụm máu đen, liền sau đó thấy tứ chi, trăm xương đều đau buốt, mới biết,mình vẫn còn sống

Tư Mã Khôi thoát khỏi đại nạn , hai kiếp vẫn được làm người, nhưng trong lòng lại không hề cảm thấy may mắn chút nào , mà ngược lại còn thấy rất đỗi hoang mang cho dù anh có mệnh lớn phúc dày , đoạt quyền tạo hoá , thì vẫn chỉ là người trần mắt thịt, dẫu không thịt nát xương tan ngay tại chỗ , thì cũng bị sóng xung chấn ép cho dập nát lục phủ ngũ tạng mà chết , vậy mà không hiểu tại sao vẫn có thể sống đến bây giờ?

Anh thấy rằng mọi hiện tượng kì dị trong khe núi Dã Nhân đều không thể giải thích nổi. Tư Mã Khôi bị sóng xung chấn của quả bom làm cho khí huyết chấn động cả lên,tai trái không nghe thấy gì, tai phải không ngớt "ù ù",sau gáy ùa gió lạnh , thị giác , thíng giác đều hỏng cả,dường như chỉ còn mỗi hồn phách là vẫn chưa lià khỏi xác mà thôi. Anh nằm vật trên đất , trăm mối không thể giải thích thấu đáo , cũng không rõ ba người còn lại sống chết ra sao , trong lòng vừa tuyệt vọng , vưà bất an , khi thấy mình mẩy chân tay mềm nhũn , không thể động đậy nổi.

Tư Mã Khôi lúc mơ lúc tỉnh , cứ như vậy không biết bao lâu trong đêm tối. Cuối cùng khí huyết như thủy triều dềnh lên tụt xuống trong lồng ngực anh cũng dần bình lặng , tay chân đã có thể cử động,anh hít sâu một hơi , giãy đạp giữa đám cỏ hoang bùn lầy rồi mãi mới nhỏm dậy được. May mà lúc chạy trốn khỏi chiếc máy bay tiêm kích , chiếc ba lô chất đầy các thiết bị chiếu sáng không bị rơi mất, nen sờ thấy nến tín hiệu , anh quăng nó ra xa. Rồi qua màn ánh sáng , anh nhìn thấy hội La Đại Hải đang nằm vật trên đám cỏ răng cưa , cách mình chẳng bao xa. Họ cũng bị sóng xung chấn làm ngất đi , tai mũi họng đều rỉ máu,nhưng chẳng ai bị thương ngoài da cả.

Tư Mã Khôi bước tới lần lượt gọi ba người kia dậy. Mọi người giành giật sự sống sau kiếp nạn , trên mặt toàn là máu và bùn. Ai nấy tự kiểm tra vết thương của mình , nội tạng bên trong dường như không có gì đáng ngại lắm,chỉ có điều tinh thần đang hoảng loạn,chưa thể ổn định ngay được , màng nhĩ cũng bị rung động mạnh , mãi lâu sau mới có thể nghe được chút âm thanh.

Vết thương đằng sau đầu của tuyệt tương đối nặng , sau khi thay băn khác vẫn không ngừng chảy máu , cô chợt nhớ đến tung tích của Karaweik , liền nóng lòng gạn hỏi Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi cũng chẳng giấu giếm , kể lại toàn bộ cho Tuyệt nghe , thi thể của Karaweik và gã Gấu trắng người Nga , một người bị mất đầu , một kẻ tan xác thành trăm mảnh , sau khi bom địa chấn phát nổ lại càng chẳng biết chỗ nào mà lượm lặt nữa.

Tuyệt và La Đại Hải nghe tin dữ , thần sắc u ám ảm đạm , im lặng mãi một hồi lâu. Ngọc Phi Yến cũng lặng lẽ không nói , bất kể do chủ động hay bị động , giờ đây quả bom điạ chấn cũng đã bị kích hoạt phát nổ theo chỉ thị của Nấm mồ xanh. Hội ba người Tư Mã Khôi đã sớm dự tính , tiếp theo đây đương nhiên sẽ vượt biên giới trở về đất nước , không còn gì liên quan đến đội thám hiểm nữa. Nhưng núi Dã Nhân vô cùng hiểm trở , cơn bão nhiệt đới Buddha lại vẫn chưa lắng xuống , giờ đây muốn đi đến được vùng trời của sự sống , tất phải nương tựa vào nhau.

Lúc này bốn người sức cùng lực kiệt , tuy biết rõ nguy hiểm mai phục tứ bề dưới đầm lầy , nhưng cũng không thể mau chóng rời khỏi đây , đành phải đến một chỗ khô ráo hơn gần đó , tạm thời nghỉ ngơi , chỉnh đốn hành lý.

Ngọc Phi Yến gắng hết sức trấn tĩnh tâm thần đang hoảng loạn cực độ , quan sát tứ phía , nhưng càng nhìn càng cảm thấy bất an. Từ lúc tận mắt thấy hàng trong chiếc máy bay tiêm kích , đến khi Nấm mồ xanh hiện thân theo dõi hành động của đội thám hiểm trong bóng tối , rồi cuối cùng kích nổ quả bom hạng nặng... Tất cả đều xảy ra quá nhanh , chẳng để lại chút thời gian cho người ta suy nghĩ. Bây giờ ngẫm kĩ lại , trong toàn bộ sự việc quả thực có nhiều điểm quái dị.

Mọi người nghĩ rằng Nấm mồ xanh muốn lợi dụng bom địa chấn để phá hủy mạch đất trong khe núi Dã Nhân , áp chế sương mù đậm đặc bên trong. Thế nhưng lòng huyệt động rộng rãi thênh thang thế này , mà chỉ dựa vào một trái bom hạng nặng đời cũ , thì căn bản không thể phát huy tác dụng mang tính quyết định , hơn nữa bốn kẻ may mắn sống sót đều không chạy thoát khỏi phạm vi sóng xung chấn bao phủ , nhưng tại sao vẫn bảo toàn tính mạng? Ngoài ra, lũ cá sấu, mẵng xà dưới đầm lầy nhiều như thế, trong lúc bốn người bọn họ hôn mê bất tỉnh, sao không tấn công

rong lúc Ngọc Phi Yến còn đang mơ hồ , thì đột nhiên Tư Mã Khôi ngửi thấy thoảng mùi khí rất lạ từ trong làn không khí âm u , ẩm ướt bốc ra dưới lòng đất . Nó giống với mùi long não , lại tữa như 1 chất hoá học nào đó đang xảy ra phản ứng mãnh liệt . Nhìn sang đám cỏ răng cưa vốn mọc um tùm xung quanh nay đã chết rụi , mà chẳng biết chết khi nào .

Tư Mã Khôi cảm thấy trên da thịt ran rát như bị bỏng , trong lòng anh bừng tỉnh ngộ , anh nói với Ngọc Phi Yến:'đừng suy đoán lung tung , đó là quả bom địa chấn trong máy bay tiêm kích vận tải đã bị cải tiến lại rồi,đó có khả năng là quả bom hạt nhân thể lỏng'

Ngọc Phi Yến chưa từng nghe thấy 'bom hạt nhân thể lỏng' , nên cho rằng Tư Mã Khôi đang khoác lác để mọi người phải kinh ngạc , liền cau mày nói:'lúc này là lúc nào mà anh còn nói nhăng nói cuội , núi Dã Nhân làm gì có bom hạt nhân được?'

La Đại Hải và Tuyệt năm đó đều là chiến hữu cùng Tư Mã Khôi nam tiến Miến Điện nên hiểu được cái nguy hiểm của vũ khí hạt nhân thể lỏng. Cả hai đều thất kinh hỏi lại:'vũ khí hạt nhân thể lỏng? Đó chẳng phải bom chứa chất độc màu da cam gây rụng lá sao'

Thì ra mấy năm trước hội Tư Mã Khôi theo anh Thiết Đông sang xin gia nhập quân đội ở Việt Nam. Trên đường tiến về phiá nam, đến biên giới Bắc Việt , do lúc đó không trung bị tấn công không ngớt , nên mọi người phải đi hành quân theo con đường nhỏ , những gì họ thấy ven đường là những quả đồi trọc , mặt đất không mọc nổi một ngọn cỏ , thực vật cả một dải rộng lớn đều chết hết. Trước đây chưa thấy hiện tượng kì lạ này nên ai nấy đều đánh trống ngực thình thịch

Trong đoàn, anh Triết Đông là người có kiến thức quân sự phong phú nhất , anh nói :'rừng rậm Việt Nam,đại bộ phận được phủ bởi rừng cây nhiệt đới và rừng cây rụng lá bán nhiệt đới rậm rạp giúp bộ đội hành quân không lo kẻ địch phát hiện,vì vậy không quân Mĩ rải một lượng lớn chất độc màu da cam xuống hậu phương Bắc Việt để mục tiêu quân sự bí mật ở Bắc Việt không còn ẩn dấu được và đồng thời cắt đứt tuyến đường mòn bí mật *** . Chất độc này dùng để diệt cỏ rụng lá, bất kì loài thực vật nào sinh sống trên trái đất đều không thể sống sót khi tiếp xúc với chất này.

Đó là lần đầu tiên hội Tư Mã Khôi lĩnh giáo sự tàn khốc và đáng sợ của chiến tranh hiện đại. Đến Miến Điện, mọi người cũng nghe nói tới loại vũ khí hoá học này,mà được phát minh đầu tiên là bọn Đức Quốc Xã,sau đó quân đồng minh Anh-Mĩ tiếp tục sáng chế và bí mật chuyển một lượn lớn bom mìm chứa chất độc màu da cam đến các chiến trường ở Thái Bình Dương để chiến đấu với quân Nhật. Chất độc màu da cam không chỉ có khả năng giết chết thực vật, mà còn có khả năng giết chết con người. Tuy nhiên, người bị nhiễm chất này tại thời điểm ấy không hề xuất hiện biểu hiện khác thường, nhiều năm sau mới phát bệnh, nguy hiểm trực tiếp hoặc gián tiếp đều rất nguy hại. May mà khi ấy, quân Nhật tan rã thảm bại đã được dự đoán trước, nên quân đồng minh không có cơ hội sử dụng nó trên diện rộng

Tư Mã Khôi phát hiện sau khi bom địa chấn nổ , hệ thực vật trong đầm lầy trở nên dị thường,bầy cá sấu và thằn lằn ở gần đó cũng bỏ đi chạy trốn mất tăm, lúc này anh mới kinh hoàng nhớ ra loại chất độc anh mới nghe tên chứ chưa bao giờ trải nghiệm. Quả bom địa chấn đã được cải tiến đến chín phần , mục đích thực sự không phải là phá hủy mạch đất ở khe núi Dã Nhân, mà phá hủy hệ thực vật dưới đáy động

Ngọc Phi Yến cũng là người nhanh mắt sáng dạ, khi nghe Tư Mã Khôi giải thích bí mật của quả bom địa chấn cô ta liền lập tức xâu chuỗi các sự kiện và có ngay lời giải. Trong lòng khe núi quanh năm không thấy mặt trời,phần đáy lại bị hệ thực vật um tùm che phủ đó chắc chắn không phải hệ động thực vật thông thường dưới lòng đất. Ngoài ra, lòng đất không ngừng phun ra một lượng lớn sương mù dày đặc, những việc đó có liên quan đến nhau. Quả bom địa chấn, trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải được cài loại chất độc gây rụng lá đặc biệt nào đó, có thể chuyên dùng để hủy diệt hệ thực vật dưới lòng đất bởi vì vậy Nấm mồ xanh mới không ngừng phái người liều chết thâm nhập vào khe núi kích hoạt quả bom, nhưng không hiểu hắn hành động như vậy, rốt cục là nhằm mục đích gì?

Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt từ lâu đã khôn màng tới sự sống chết của bản thân. Sau khi phát hiện trong bom địa chấn có chứa chất độc màu da cam, lúc đầu ai nấy đều khó tránh khỏi hoảng loạn, nhưng nghĩ lại họ thấy rằng thế cũng chẳng sao. Tuy nói di chứng hậu hoạ của loại vũ khí hoá học này là vô cùng vô tận, lúc đó ở tại hiện trường phát nổ,thì dù có mặt nạ phòng độc nhưng với tình trạng không mặc trang phục đặc biệt phòng chống hóa chất, e rằng cũng không bảo vệ được hòan toàn. Nhưng dù sao thì chất độc chẳng thể phát tác ngay tức thì, vì thời kì ủ bệnh có thể kéo dài tới 3 năm,cũng có thể 7 hoặc 8 năm,thậm chí có thể lâu hơn, ai mà nói chính xác được. Lúc này Karaweik đã chết, trong lòng mọi người đều đau buồn, nên chẳng muốn bất kì liên quan gì đến núi Dã Nhân này nữa, họ chỉ mong cơn giông tố tạm ngớt là lập tức lên đường

Tuyệt thấy Ngọc Phi Yến thần trí bất định, cho rằng cô ta sợ di chứng để lại do chất độc màu da cam mang đến,liền nói:'Việc này đúng là rất khó chấp nhận,chúng ta chẳng ai thấy dễ chịu cả, nhưng dù sao việc cũng đã xảy ra rồi,cô nghĩ nhiều cũng vô ích thôi'

La Đại Hải trong lòng đang sẵn bực mình, thấy Ngọc Phi Yến cau mày thiểu não,thì càng được thể cười vui trước nỗi đau kẻ khác:'gặp phải chuyện đen đủi này,với cô có thể là địa ngục, nhưng với chúng tôi,nó chẳng qua chỉ là cơm bữa thường ngày thôi'

Tuyệt đẩy Hải ngọng sang một bên,tiếp tục khuyên giải:'từ khi đội thám hiểm vào núi đến nay,trên đường đi bị tổn thất thương vong rất nặng nề,thoát khỏi thiên la lại rơi vào điạ võng,những hung hiểm của núi Dã Nhân dường như vô cùng vô tận,chỉ sợ là rơi vào cái hố không đáy, chớp mắt vô tình,còn quay đầu là kế sách, hay là cô cùng chúng tôi trốn khỏi núi cho xong?'

Kì thực sau khi hội Xuyên Sơn Giáp gặp phải bất trắc,Ngọc Phi Yến đã suy tính tới việc rút tay không làm nữa,nhưng tâm trạng của cô lúc đó chẳng khác nào tâm trạng của kẻ đánh bạc. Vì phi vụ làm ăn này mà bọn cô đã bỏ ra bao nhiêu tiền của,nếu giờ đứt gánh giữa đường,chằng phải tất cả công sức đều đổ xuống sông,xuống bể cả hay sao?Cuối cùng càng lún,càng sâu,càng lúc càng thua đậm,đến khi thực sự muốn dừng chân,thì tất cả đã quá muộn.

Lúc này Ngọc Phi Yến nghe Tuyệt nói,thực sự như người mù được chữa sáng mắt,lời nói đã khiến cô giác ngộ triệt để. Cô ngẫm lại thấy quả không sai,sau khi quả bom địa chấn phát nổ, núi Dã Nhân không biết xảy ra những hiểm hoạ gì nữa,thế là cô gật đầu chấp nhận cùng ba người sống sót của đội du kích, nghĩ cách tháo chạy khỏi núi Dã Nhân.

Ai ngờ đúng lúc đó, mặt đất dưới chân sụt lở dữ dội làm mọi người cuống quýt. Cho rằng sóng địa chấn chưa hoàn toàn dứt hẳn,người nào người nấy hấp tấp gắng sức đứng lên,thi nhau lùi ra sau né tránh. Đến khi dẫm chân lên được chỗ đất rắn chắc liền bật đèn halogen lên chiếu sáng bốn hướng xung quanh,họ chỉ thấy cả đầm lầy xung quan sụt lún nhanh đến chóng mặt. Quần sáng của đèn chiếu tuy rằng không thể rọi đến nơi xa,nhưng cũng có thể phán đoán được tình hình sụt lún đất này chắc là điểm trung tâm phát nổ đang khuếch tán rộng ra bên ngoài.

Tại khu vực bị lún xuống,đầu tiên là mặt nước không ngừng xuất hiện bọt khí, sau đó hiện ra một vũng xoáy hình trôn ốc, nước tù và bùn lầy trong đầm dường như liên tiếp bị hút xuống dưới, cuối cùng cũng lộ ra một đường vực thẳm, cúi đầu xuống nhìn chỉ thấy tối mịt, không rõ đáy sâu bao nhiêu. Thì ra dưới vùng đầm lầy trong khe núi Dã Nhân còn tồn tại vực sâu hút không thể lường được như vậy.

Ngọc Phi Yến thấy sự việc này ẩn chứa nhiều quá uẩn khúc, kì bí,bất giát nghĩ đến tầng đất lúc trước nhìn thấy ở đáy động: chúng đều là hợp chất silicat,màu vàng như gan chó,trông rất khác thường. Lúc đó gã Gấu trắng từng giải thích loại vật chất này tiềm tàng ở tầng giữa lớp vỏ địa lý và quyển Manti,chỉ có nơi vực thẳm dựng đứng với độ sâu trên chục ngàn mét mới xuất hiện, nhưng với độ sâu của khe núi Dã Nhân chắc chỉ khoảng hơn hai ngàn mét,nên căn bản không thể chạm tới điểm gián đoạn Moho.

Giờ đây xem ra thực sự không phải như vậy,gã Liên Xô đó quá nửa là hoa mắt nhìn nhầm,vật chất đặc biệt ở dưới đầm lầy chắc là do một loại thực vật bào tử nào đó sinh tồn trong lòng đất,hình thành một tầng 'KÉN' dày bì giữa lòng khe núi. Trải qua bao năm dài tháng rộng,kén trầm tích thành vũng bùn, lúc này tầng kén bị chất độc màu da cam trong quả bom địa chấn phá hủy, nên đang nhanh chóng héo rụng,chết rũ.

Mọi người hít ngược một hơi khí lạnh vào phổi nếu cả khu vực đáy sơn cốc như vậy thì quả thực không thể tưởng tượng được thực vật bào tử,giống hình chiếc ô kia,rốt cục có thể sinh trưởng to lớn cỡ nào, chỉ thấy vực sâu không đáy bị tầng kén niêm phong kín mít từ hàng chục triệu năm nay,đột nhiên bửa đôi ra. Đường nứt sâu hút đột ngột xuất hiện trước mắt mọi người,dường như là đường hầm đi xuyên vào tâm trái đất,nó vừa sặc sỡ quái dị,vừa mờ mịt thần bí,vươn dài xuống lòng đất vô cùng vô tận. Nó mang đến người ta cảm giác âm u,ghê rợn,bởi vì bên trong nó tràn ngập bóng tối chưa hề được biết đến,thứ bóng tối mà mắt thường và tâm linh con người vĩnh viễn không thể nào nhìn thấu được,mà nơi tận cùng của bóng tối lại càng là điều bí ẩn lớn nhất trong các bí ẩn

Sau khi đáy động xảy ra vụ nổ khủng khiếp, cỏ răng cưa trong đầm lầy đều bị chất độc da cam phá hủy,trong khi đó dưới vùng đầm lầy còn có cả 1 tầng thực vật loại bào tử đặc biệt,tạo thành bức bình phong giống như kén nhộng,rồi tất cả hệ thực vật và động vật lưỡng cư bò sát đều sống kí sinh trên lớp kén đó. Tác dụng ghê gớm của chất độc da cam khiến lớp kén trở nên khô héo , chết rũ rồi tốc độ phân rã diễn ra quá nhanh , khiến vực sâu không đáy bất ngờ hiện ra ngoài dự liệu. Cùng với sự hủy diệt của lớp phủ thực vật , sương mù dày đặc từ dưới vực sâu cũng ùn ùn phun trào , dần dần lan toả khắp không gian tối đen như mực.

Mọi người cúi xuống nhìn , phát hiện hệ thực vật trong lòng đất núi Dã Nhân dường như là gốc rễ của sương mù, nhưng đầm lầy ở đó đang không ngừng sụt lở , không cho phép họ nán lại lâu hơn, thế là cả hội đành phải nhanh chóng rút lui ra xa.

Trải qua hàng loạt biến cố bất ngờ xảy đến, trong lòng Tư Mã Khôi đã sắp xếp được toàn bộ sự việc: đây chắc chắn là nơi sâu nhất của núi Dã Nhân, cũng là nơi chôn giấu 1 bí mật kinh người nào đó, thế nhưng lại bị đám sương mù bí ẩn không tiêu tan bủa vây cả ngàn năm, biến nơi này thành chốn cách biệt đối với thế giới bên ngoài, hình thành nên một rào cản không thể nào phá vỡ. Vậy nên, chỉ có cách sử dụng chất độc hóa học đặc chế gây rụng lá, thì mới có thể hủy hoại đám thực vật tạo ra sương mù dưới lòng đất đó. Từ hai mươi mấy năm trước, người ta đã sớm chế tạo bom địa chấn chứa chất độc hoá học này, đồng thời cũng liều chết lái chiếc tiêm kích vận tải thâm nhập đáy động, thế nhưng lần hành động đó hoàn toàn thất bại, những thành viên phi hành đoàn may mắn sống sót, sau đó bị tan biến trong sương mù

Nhưng lớp sương mù phủ thực vật khổng lồ sản sinh trong sương rốt cục là giống cây gì? Hội Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết. Động thực vật ở núi sâu rừng già Bắc Miến có đến hàng chục triệu loài,giờ đây những loài đã phân chi phân họ biết được chỉ chiếm một phần mười,số còn lại đều thuộc phạm trù thế giới chưa từng nhìn,thấy chưa từng nghe thấy.

Ngoài ra, các hiện tượng quái dị trong sưông mù, những hà thám hiểm biến mất không tung tích, thực vật bào tử che phủ vực sâu dưới lòng đất, tất cả những ẩn số ấy rốt cuộc chôn giấu bí mật gì? Bao nhiêu nghi vấn đặt ra không thể giải thích,hơn nữa còn hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của mọi người.

Tư Mã Khôi suy ngẫm có lẽ nên đi sâu vào đáy động sẽ giải được câu đố. Với tính cách thường ngày của Tư Mã Khôi, chắc chắn anh cũng rất hiếu kì,muốn tìm hiểu mọi nguồn,đồng thới xuống thám thính một chuyến. Thế nhưng giờ đây anh lại chẳng có tâm trạng đó,mấy năm ở Miến Điện,kí ức tàn khốc còn lưu trong bộ nhớ,tất cả dường như một cơn ác mộng không thể phai nhoà. Bây giờ,anh chỉ muốn rời khỏi chốn qủy quái này càng xa càng tốt.

Bốn người không quản cảm giác mệt mỏi và đau đớn đang lan toả khắp cơ thể,cùng lôi kéo nhau đạp bùn , rẽ nước đi về phía khu vực đường viền đáy khe sâu. Khe núi Dã Nhân là một huyệt động dựng đứng ,trên hẹp dưới rộng, phần đáy vô cùng thênh thang thoáng đạt. Cuồng phong giông tố do cơn bão Buddha mang tới, khiến lòng đất lênh láng nước tụ, nước mưa thuận theo khe nứt tầng đá trong khe sâu không ngừng thẩm thấu vào trong,làm cho nơi lòng núi trước đây bị cát sỏi, bùn đất chèn kín, giờ đều được xuyên thông. Bởi vậy bọn họ suy đoán, bốn phiá huyệt động chắc chắn không phải bức tường thép bao vây kín mít, khi đã có một lượng lớn nước mưa nhỏ xuống thì chân núi sẽ xuất hiện rất nhiều đường nứt, giờ đây sương mù cũng đã tan hết, chỉ cần đợi mưa lớn ngớt cơn là có thể lần mò mạch đất, rút quân khỏi núi Dã Nhân.

Nhưng trời đã không chịu chiều lòng người thì biết làm sao. Bốn người đang cuống cuồng chạy trốn,chân sau đá chân trước,đi chẳng được bao xa, bỗng cảm thấy dưới chân hẫng xuống đột ngột làm cả hội ngã lăn ra đất,thì ra thực vật dạng kén dưới đầm lầy khô héo quá nhanh, khiến vực sâu nhanh chóng sụt lở, nuốt chửng chỗ đặt chân của mọi người

Hội Tư Mã Khôi ngã trên mặt đất, khắp nơi đều là bùn lầy, dù tay giãy chân đạp như thế nào, họ cũng không thể thoát thân ra nổi, tất cả đều theo đám bùn đất nát trượt xuống đáy động sâu thẳm dưới đầm lầy

Phần đáy động như thể vực sâu không đáy này, lại có cây cổ thụ chằng chịt quấn quýt ,đan xen vào nhau,tuy tất cả đã khô héo,nhưng tàn tích để lại chưa hoàn toàn mục nát, hình hài vẫn còn nguyên, cành cây thậm chí vẫn giữ được những nhánh xiên nhỏ. Loại cây cổ thụ này dày đặc tầng lớp như thể một cánh rừng rậm dưới lòng đất, có lẽ mạch nước chảy xuống bào mòn từ bao nhiêu năm trước khiến tầng địa bì lỗ chỗ này sụt xuống. Hội Tư Mã Khôi lực bất tòng tâm, đành thuận thế trượt đến nơi thoai thoải. May mà chỗ nào cũng toàn bùn đất gỗ mục, nên chẳng ai bị thương nặng. Mọi người tập hợp nhau lại, giơ đèn chiếu lên, chỉ thấy mình bị rơi vào một tán cây có dạng như nấm đá, phần thân dưới là một thân cổ thụ to cỡ mười vòng ôm, bên trong rỗng ruột, người có thể chui vào trú chân, thế là mọi người liền chui vào bên trong khi tai vẫn còn nghe tiến bùn đất liên tiếp cuộn chảy không ngớt, còn bộ rễ của thực vật bào tử rủ xuống lòng đất,cũng nối nhau trút xuống. Lúc này cho dù họ có bản lĩnh lớn bằng trời cũng không trèo lên được, ai nấy đều liên miệng than vãn. Hải ngọng tức giận đá chân một hốc cây, lớn tiếng chửi:'bận này thì đúng là mẹ nhà nó đi đời thật rồi, có biến thành chim cũng chẳng bay ra nổi" Tư Mã Khôi thầm ước lượng , thể tích sụt lở này là rất lớn, nhưng lối ra chưa hẳn đạ bị bùn đất lấp kín, thực vật bào tử kia tuy bị chất độc da cam hủy hoại, nhưng vô số rễ của nó đều bám chắc vào lòng đất, không chừng vẫn có thể bám vào những cái rễ chưa bị đứt, trèo ngược lên trên. Có điều, anh thấy mọi người đều sức cùng lực kiệt, hơn nữa vết thương trên đầu Tuyệt cũng không nhẹ, nếu hành động vội quá , chỉ sợ sẽ xảy ra bất trắc, thế là anh bèn nói:' không ngờ nơi sâu nhất dưới khe núi lại thế này. Tôi thấy nơi đây cũng tạm coi là chốn đào nguyên nho nhỏ, chi bằng cứ nghỉ ngơi một vài tiếng, rồi nghĩ cách sau'. Ngọc Phi Yến khẽ than:' hàng nghìn năm không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, hằng nghìn năm chẳng có người nào lui tới, nơi đây quả là chốn đào nguyên để cô hồn dạ qủy mai danh ẩn tích ,né tránh thế sự'. Nói xong cô rút lương khô ra, chia cho mọi người ăn, rồi tập hợp, kiểm đếm hành lý còn sót lại, phát hiện thấy các thiết bị chiếu sáng cùng thuốc súng bị rơi rớt nghiêm trọng, số lương thực còn lại chỉ đủ 4 người ăn trong vòng nửa ngày, trong lòng không khỏi lo lắng.

Vết thương trên đầu Tuyệt tuy đã khép miệng, nhưng vì mất máu quá nhiều khiến thân thể cô vốn đã yếu ớt,giờ lại càng không thể tiếp tục gắng gượng, cô gối đầu lên ba lô rồi mau chóng thiếp đi.

Tư Mã Khôi nhìn thấy giọt nước mắt đọng trên khoé mắt Tuyệt, biết là cô đang đau lòng vì cái chết đột ngột thảm thương của Karaweik, nên trong giấc ngủ mộng mị vẫn day dứt không nguôi, anh bèn dùng tay giúp cô khẽ quệt vệt nước mắt. Đến lúc đến lượt mình phải ngủ một lát , thì anh mãi vẫn không thể chợp mắt.

Hải ngọng và Ngọc Phi Yến cũng vậy, thần kinh ba người bọn họ rơi vào trạng thái căng thẳng cao độ suốt một thời gian dài, huống hồ giờ đây thân vẫn đang trong vòng nguy hiểm, tia hi vọng sống sót thật mong manh, bởi vậy họ rất khó đột ngột thả lỏng cơ thể,đành ngồi thức bên cạnh ngọn đèn mờ ảo.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ:"Nếu lúc này mà bà giáo dạy toáng hồi cấp 1 của mình có mặt ở đây thì tốt biết mấy,bà ấy không chỉ giỏi toán mà có khả năng đặc biệt là chỉ cần giảng bài trên bục giảng thì học sinh trong lớp mí mắt trên dính với mí mắt dưới

,thần kì như thuật thôi miên,nói ngủ là ngủ được ngay,trời có sấm cũng chẳng dậy nổi".

Anh đang nghĩ lung mung rốt cục vì mệt mỏi quá nên mắt cũng díp lại, ý thức dần chập chờn mơ hồ. Đúng lúc anh đang nửa tỉnh nửa mơ, thì cảm giác dường như cạnh mình có điều gì khác thường. Đội thám hiểm có tất cả hơn ba mươi người, những người sống sót đi vào khe núi chỉ còn 6 người. Sau khi bom địa chấn trong chiếc máy bay tiêm kích phát nổ, chất độc da cam phát tán khiến cả vùng đầm lầy sụt xuống nhốt những kẻ sống sót ở nơi này, kể cả bản thân, bây giờ chỉ có 4 người mà thôi, thế nhưng không biết tự lúc nào, dưới bóng đèn yếu ớt,thấp thoáng thừa ra một bóng người.

Tư Mã Khôi thấy người đó ôm hai đầu gối,bất động ngồi xuống cạnh mình, không biết đang nhìn cái gì, anh cảm thấy rất đỗi quái dị:'mình gặp ma sao? người này là ai vậy'. Anh rất muốn gắng gượng xem rõ thân hình, mặt mũi người đó, có điều ánh đèn mờ ảo đến nỗi khiến người ta dường như chẳng thể mở nổi mắt ra, tuy rằng khoảng cách rất gần, nhưng anh chỉ thấy hình hình, bóng bóng, không thể nhìn một cách xác thực.

Tư Mã Khôi lòng đầy nghi hoặc. Anh nhớ trong khoang máy bay tiêm kích vận tải, mọi người phát hiện nấm mồ xanh trà trộn vào đội thám hiểm nhưng chỉ nghe thấy tiếng, chẳng lẽ giờ đây nấm mồ xanh lại quyết định hiện thân. Tư Mã Khôi chẳng nói chẳng rằng quyết định giơ tay bóp chặt vai người đó để xem mặt mủi đối phương như thế nào! Chẳng ngờ người đó cũng quyết định đứng dậy, trong chốc lát đường như mặt đối mặt với Tư Mã Khôi, do khoảng cách quá gần nên ngũ quan khó phân biệt, trong thời khắc đó anh chỉ thấy đôi mắt giống như cặp hố đen.

Khi nhìn thấy ánh mắt đó, thì anh giống như bị một cục đá băng lạnh buốt ném thẩmg vào ngực, phút chốc cơn hàn khí ác nghiệt bất giác ùa đến, khiến mỗi lỗ chân lông của anh đều tê cóng thấu xương. Anh định rút con dao săn ra thì ngọn đèn đặt trong hốc cây vụt tắt, không gian xung quanh trở nên tối đen, xung quanh chẳng còn động tĩnh gì nữa.

Khi Tư Mã Khôi bật được chiếc đèn pin giắt theo người, thì chỉ thấy 3 người bạn đồng hành đang ngủ rất say, gần đó chẳng có bóng dáng ai khác. Khắp người anh từ trên xuống đều ướt sũng mồ hôi lạnh, trong lòng không khỏi hoài nghi chuyện ban nãi chỉ là một giấc mộng.

Lúc đó hội Ngọc Phi Yến và Tuyệt bị ánh đèn pin đánh thức dậy, Tư Mã Khôi kể lại chuyện mới xảy ra cho bọn họ nghe, cuối cùng nói:"nếu không phải áp lực thần kinh của tôi quá lớn,mà tưởng tượng ra âm hồn thì cũng là do cánh rừng già dưới lòng đất rất quái dị, không nên nán lại lâu'.

Mọi người suy đoán:' cánh rừng già này quá nửa là tầng sâu nhất trong khe núi Dã Nhân, chắc chôn dấu nhiều bí mật còn độ nguy hiểm thì miễn bàn, giờ đây nghe Tư Mã Khôi kể lại ,ai nấy đều cảm thấy kinh sợ, rợn tóc gáy, chẳng người nào muốn lưu lại lâu hơn. Sau ít phút nghỉ ngơi, họ thay pin đèn, lấy lại tinh thần, tiếp tục khởi hành.

Tư Mả khôi giơ cao đèn Halogen mở đường. Ngọc Phi Yến vác khẩu súng xung phong Uzi cùng Tuyệt đi ở giữa. Hải ngọng ôm khẩu săn voi ngoại cỡ đi sau cùng. Bốn người bám sát nhau, lấy la bàn phân biệt phương hướng, họ đi xuyên qua cánh rừng um tùm, lần mò đến khu đất địa thế cao hơn. Trong rừng rậm vùi sâu dưới lòng đất, chỗ nào cũng yên ắng khác thường, mọi người đi loạng choạng trong lớp sương mù giăng mắc mờ ảo. Đến chỗ phiá trước có cây cổ thụ đổ rạp chắn ngang đường. Tư Mã Khôi tiến lên, giơ cao đèn halogen quét một đường, rồi đang định đi vòng qua nó thì bất ngờ nhìn thấy trong lùm gỗ mục khẳng khiu trơ cành, ẩn hiện một đôi mắt đỏ lòm như máu, tà khí phát ra từ ánh mắt hung ác rợn người.

Tư Mã Khôi loé lên suy nghĩ :"thì ra ở đây có mai phục". Anh tự biết nếu hạ thủ trước chưa chắc đã tốt, nhưng ra tay sau chắc chắn sẽ lãnh đủ hậu quả, nên không do dự nửa giây, anh liền băm mạnh con dao săn trong tay xuống. Chỗ dao cắm xuống chỉ nghe "keng" một tiếng, như chặt phải vật gì rất cứng, tay cầm dao bị tác động run lên bần bật.

Lúc này ba người còn lại cũng đuổi kịp đến ngay sau lưng Tư Mã Khôi, mọi người đều nắm chắc vũ khí và định thần lại quan sát, chỉ thấy ánh vàng loé lên chói cả mắt, thì ra đây là tượng một con mẵng xà được đúc bằng vàng. Đôi mắt của mẵng xà vàng được nạm đá Rubi bị ánh sáng chiếu vào, phát ra từng lớp sóng quái dị làm cho đôi mắt như đang không ngừng đảo qua đảo lại , thần thái giống y như con rắn sống. Phạt mấy cành khô cạnh con mẵng xà, họ phát hiện nó là một bức tượng được khắc trên thỏi vàng, mà thể tích thỏi vàng này là rất lớn, khác hẳn những thỏy vàng thông thường.

Nhìn cảnh tượng này, mọi người kinh ngạc, và càng kì lạ hơn vì không biết tại sao thỏi vàng lại nằm ở đây. Tiện tay gạt mấy cành cây và bùn đất ở gần đó sang một bên, họ lại phát hiện trên dưới trái phải thỏi vàng, là vô số thỏi vàng khác, không nghờ đó là một bức tường thành được lắp ghép bằng những thỏi vàng.

Bức tường thành bằng vàng cao vút, đúc tầng tầng lớp lớp các bức phù điêu, mỗi bức phù điêu được khảm nạm những viên đá quý với màu sắc khác nhau. Tất cả sinh linh trời đất, uy nghiêm của thần phật, truyền thuyết trong sử thi, thánh chiến vinh quang, đều được chuyển hoá bằng những dấu tích huy hoàng rực rỡ, rồi vĩnh viễn ngưng tụ lại ở bức tường. Sự diễm lệ, hùng vĩ siêu nhiên của nó đã đủ khiến trí tưởng tượng mong manh và nhợt nhạt của loài người sụp đỗ nặng nề

CHƯƠNG 5: THÀNH NHỆN VÀNG HỒI THỨ 1: TOÀ THÀNH BỐN TRIỆU BẢO THÁP(1)

"Vận may" - cái thứ ấy có thể là bà mẹ đẻ đối với người này nhưng lại là mụ dì ghẻ đối với kẻ khác.

Tư Mã Khôi cảm thấy mấy người của anh chắc đang được mụ dì ghẻ nuôi dưỡng, bởi họ rơi vào nơi sâu nhất dưới đáy núi Dã Nhân cùng với loài thực vật dạng kén. Địa hình nơi này rất đặc biệt, không biết bao nhiêu năm trước đã trải qua những kiếp nạn long trời lở đất nào, mà khiến mạch nước lún sâu đến như vậy, lòng nui dần trống hoác, từ đó cả cánh rừng rậm nguyên sinh rộng lớn bị thụt xuống đáy động.

Lòng khe núi ngay sau đó liền phát triển loài thực vật bào tử giống hình chiếc ô, che phủ hoàn toàn cánh rừng nguyên sinh dưới lòng đất, ngày dài tháng rộng chẳng ngờ lại tích bùn thành đầm. Huyệt động thâm u sâu hơn hai ngàn mét theo chiều đứng này, mải mãi chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời, bởi thế tốc độ phân hủy mục nát của cây cối diễn ra rất chậm chạp, màu sắc nhợt nhạt, đập vào mắt chỉ thấy toàn như gấm dệt đen sì sì, nếu như không hề xảy ra biến cố gì, thì chỉ sợ mấy chục ngàn năm nữa, hình hài của nó vẫn giử nguyên như cũ.

Mãi đến khi quả bom địa chấn trong chiếc tiêm kích vận tải phát nổ, chất độc màu da cam khuyếch tán khắp nơi , hủy hoại lớp phủ thực vật dày đặc kín trong không gian kín mít dưới đáy cốc, rồi đầm lầy theo đó sụt lở xuống dưới, thì khu vực cấm địa này bởi vậy mới bị lộ ra ngoài.

Do điểm phát nổ không xảy ra ở nơi trung tâm sơn cốc, nên lớp phủ thực vật xa nhất tuy cũng tận số diệt vong nhưng mức độ hủy hoại không nghiêm trọng lắm , vẫn còn vô số những chiếc rễ đen sì, to lừng lững như cột đình đâm rủ xuống lòng đất . Bốn kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm di chuyển dần xuống hi vọng tìm thấy khu vực có thể bò ngược lên trên.

Ai ngờ , trong cánh rừng sâu dưới lòng đất âm u này , lại ẩn dấu bức tường thành được xếp bằng vàng. Thân tường cao vút dựng đứng bị che phủ bởi bùn đất và rể khô, gạt bỏ lớp bụi đất che phủ bên ngoài , liền lỗ ra ánh vàng kim chói mắt . Bóng tối dày đặc và màn sương mù mỏng tang bủa vây tứ bề khiến mọi người không thể nhìn rõ quy mô của bức tường vàng , chỉ thấy phù điêu khắc trên thỏi vàng trùng trùng điệp điệp , vô cùng vô tận, tuy dày đặc nhưng vẫn có thứ bậc, trình tự tinh ảo tuyệt luân, kĩ thuật chế tác hoàn mĩ như thể không phải vật chốn trần gian.

Hội Tư Mã Khôi giơ cao đèn chiếu halogen quan sát một hồi lâu, người nào người nấy đều tròn mắt kinh ngạc , chỉ thấy mỗi thỏi vàng trước mắt đều được đúc thành một tầng khung tháp cổ khắc hình mặt người , bảy thỏi hợp thành một thể , quấn quanh chân tháp là mẵng xà , hình thái mỗi con một khác , thiên biến vạn hoá , chẳng bức nào giống bức nào . Các bức phù điêu trong chân tháp lại vẽ trời đất bao la mênh mông , bên trên là trăng sao nhật nguyệt , bên dưới là sinh linh , muông thú , tiên nữ phiêu bồng , mẵng xà dữ tợn , dũng sĩ đầu người mình voi , thậm chí cả cuộc chiến tranh huy hoàng giáo vàng ngựa sắt và cả chư vị thần phật đang cúi nhìn chúng sinh đang chen chúc dưới phàm trần . Có thể nói , thiên địa vạn vật không gì không bao hàm trong đó.

Miến Điện chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hoá Ấn Độ cổ, ngàn năm nay, Phật pháp cực thịnh chẳng ngày suy vong ,nơi nào cũng có đền đài, miếu mạo nổi tiếng, nhưng thần phật trong những bức phù điêu vàng này hình thái vô cùng đặc biệt, nhuốm đầy màu sắc tôn giáo li kì nơi đất khách, thậm chí nó còn khác biệt rất lớn với hình tượng thần phật ở bất kì nơi nào trên thế giới. Dường như từ bản thân bức vẽ, người ta có thể nhìn thấy bóng dáng thần bí đã sớm biến mất của một vương triều cổ đại.

Bốn người nằm mơ cũng không thể ngờ tới trong cánh rừng già núi sâu Bắc Miến, lại có nhiều vàng thỏi đến như vậy. Họ lần lượt gỡ bỏ lá cành mục nát hai bên sa, những thỏi vàng khảm nạm đầy đá quý và phù điêu lần lượt hiện ra trước mắt. Không biết tường thành này có điểm tẫn cùng hay không, bởi càng nhìn càng hoa mắt chóng mặt, trong khi ánh sáng của đèn chiếu chỉ soi rõ được khoảng cách trong vòng năm đến mười bước chân. Cảm giác này chẳng khác nào thầy bói mù xem voi, gần đó lại không hề có vật tham chiếu, nên hoàn toàn không thể phán đoán tình hình thực tế.

Mọi người không ngớt bàng hoàng, kinh ngạc, chỉ thấy một cảm giác chật chội, bí ách rất mãnh liệt chợt ùa giội vào mặt. Bức tường thành cao vút đúc đầy phù điêu vàng giống như một vị thần Kim Cương lạnh lùng, tàn khốc, nó im lặng điềm nhiên chấp nhận sự kinh sợ và kính nể của kẻ phàm trần. Hội Tư Mã Khôi nhìn hồi lâu, trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, xương sống gai lạnh. Sức mạnh của tôn giáo có thể khiến con người điên cuồng rồ dại, chắc cũng chỉ có nguyên nhân này, mới tạo ra được một kì tích hiển hách và rạng rỡ như vậy. Tận mắt chứng kiến sự tồn tại của những bức phù điêu bằng vàng, lập tức sẽ khiến con người bật lên một cụm từ xuất thân từ Phật pháp : bất khả tư nghị , ý nói đến sự thần thông và trí tuệ của phật tổ cao siêu huyền diệu đến mức người phàm trần không thể nào bàn luận thấu đáo được.

Tư Mã Khôi vừa nhìn vừa đánh trống ngực vì quy mô của bức tường thành rộng lớn khó lường, nó ngang nhiên ngủ yên dưới lòng đất, dường như không thể đi vòng qua nổi. Chỉ có trời mới biết người ta đã dùng bao nhiêu thỏi vàng để tạo ra nó. Móng tường nằm sâu dưới đất một đoạn khá lớn, phần còn lại ẩn mình trong bóng tối, những gì thấy được trước mắt chỉ là một khúc thôi. Thực không thể tưởng tượng nổi cổ nhân hàng ngàn năm trước rốt cục đã xây nó bằng cách nào. Sơn cốc núi Dã Nhân bị sương mù trầm tích không tan bủa vây, nuốt chửng vô số sinh mạng, vì sao lại vùi chôn một lượng vàng nhiều đến thế? Chúng do triều đại nào để lại? Và những thỏi vàng tạc kín phù điêu ăn khớp hoàn toàn với nhau, tạo nên bức tường thành giống như một công trình kiến trúc này, rốt cục có hình dạng như thế nào?

Trong khắp năm châu bốn bể, những điều kì quái lạ lùng chưa tận mắt trông thấy, chưa tận tai nghe thấy không biết còn bao nhiêu nữa. Tuy hội ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt, lưu lạc ở nơi tha hương rừng già núi thẳm đã không ít năm, nhưng hiểu biết về lịch sử và văn hóa của Miến Điện chỉ có hạn, nên chẳng ai nói được nguồn gốc, lai lịch của nó.

Tuyệt nhìn sởn đến nỗi da nổi cả gai ốc, cô quay sang nói với Tư Mã Khôi:" những bức phù điêu dát vàng này dường như có điểm gì không giống lắm với những vị bồ tát thường thấy trong đền chùa ở Miến Điện, chúng cứ cổ quái thế nào ấy"

HỒI THỨ 1(2) TOÀ THÀNH BỐN TRIỆU BẢO THÁP

Miến Điện chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hoá Ấn Độ cổ, ngàn năm nay, Phật pháp cực thịnh chẳng ngày suy vong ,nơi nào cũng có đền đài, miếu mạo nổi tiếng, nhưng thần phật trong những bức phù điêu vàng này hình thái vô cùng đặc biệt, nhuốm đầy màu sắc tôn giáo li kì nơi đất khách, thậm chí nó còn khác biệt rất lớn với hình tượng thần phật ở bất kì nơi nào trên thế giới. Dường như từ bản thân bức vẽ, người ta có thể nhìn thấy bóng dáng thần bí đã sớm biến mất của một vương triều cổ đại.

Bốn người nằm mơ cũng không thể ngờ tới trong cánh rừng già núi sâu Bắc Miến, lại có nhiều vàng thỏi đến như vậy. Họ lần lượt gỡ bỏ lá cành mục nát hai bên sa, những thỏi vàng khảm nạm đầy đá quý và phù điêu lần lượt hiện ra trước mắt. Không biết tường thành này có điểm tẫn cùng hay không, bởi càng nhìn càng hoa mắt chóng mặt, trong khi ánh sáng của đèn chiếu chỉ soi rõ được khoảng cách trong vòng năm đến mười bước chân. Cảm giác này chẳng khác nào thầy bói mù xem voi, gần đó lại không hề có vật tham chiếu, nên hoàn toàn không thể phán đoán tình hình thực tế.

Mọi người không ngớt bàng hoàng, kinh ngạc, chỉ thấy một cảm giác chật chội, bí ách rất mãnh liệt chợt ùa giội vào mặt. Bức tường thành cao vút đúc đầy phù điêu vàng giống như một vị thần Kim Cương lạnh lùng, tàn khốc, nó im lặng điềm nhiên chấp nhận sự kinh sợ và kính nể của kẻ phàm trần. Hội Tư Mã Khôi nhìn hồi lâu, trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, xương sống gai lạnh. Sức mạnh của tôn giáo có thể khiến con người điên cuồng rồ dại, chắc cũng chỉ có nguyên nhân này, mới tạo ra được một kì tích hiển hách và rạng rỡ như vậy. Tận mắt chứng kiến sự tồn tại của những bức phù điêu bằng vàng, lập tức sẽ khiến con người bật lên một cụm từ xuất thân từ Phật pháp : bất khả tư nghị , ý nói đến sự thần thông và trí tuệ của phật tổ cao siêu huyền diệu đến mức người phàm trần không thể nào bàn luận thấu đáo được.

Tư Mã Khôi vừa nhìn vừa đánh trống ngực vì quy mô của bức tường thành rộng lớn khó lường, nó ngang nhiên ngủ yên dưới lòng đất, dường như không thể đi vòng qua nổi. Chỉ có trời mới biết người ta đã dùng bao nhiêu thỏi vàng để tạo ra nó. Móng tường nằm sâu dưới đất một đoạn khá lớn, phần còn lại ẩn mình trong bóng tối, những gì thấy được trước mắt chỉ là một khúc thôi. Thực không thể tưởng tượng nổi cổ nhân hàng ngàn năm trước rốt cục đã xây nó bằng cách nào. Sơn cốc núi Dã Nhân bị sương mù trầm tích không tan bủa vây, nuốt chửng vô số sinh mạng, vì sao lại vùi chôn một lượng vàng nhiều đến thế? Chúng do triều đại nào để lại? Và những thỏi vàng tạc kín phù điêu ăn khớp hoàn toàn với nhau, tạo nên bức tường thành giống như một công trình kiến trúc này, rốt cục có hình dạng như thế nào?

Trong khắp năm châu bốn bể, những điều kì quái lạ lùng chưa tận mắt trông thấy, chưa tận tai nghe thấy không biết còn bao nhiêu nữa. Tuy hội ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt, lưu lạc ở nơi tha hương rừng già núi thẳm đã không ít năm, nhưng hiểu biết về lịch sử và văn hóa của Miến Điện chỉ có hạn, nên chẳng ai nói được nguồn gốc, lai lịch của nó.

Tuyệt nhìn sởn đến nỗi da nổi cả gai ốc, cô quay sang nói với Tư Mã Khôi:" những bức phù điêu dát vàng này dường như có điểm gì không giống lắm với những vị bồ tát thường thấy trong đền chùa ở Miến Điện, chúng cứ cổ quái thế nào ấy"

* * *

Tư Mã Khôi gật đầu:"tôi từng nghe phật tổ Thích Ca Mâu Ni được hạ giáng trong một gia đình hoàng tộc, là con vua Tịnh Phạn nước Ca Tì La Vệ(kapilavastu thuộc Nepal ngày nay). Khi mới sinh, ngài đứng trên bông sen vàng , hào quang trí tuệ toả khắp bốn phương, một tay chỉ trời một tay chỉ đất. Thân mình ngài màu vàng kim, cao một trượng sáu, biến hoá thần thông, không có gì không hiểu, không có gì không thông, phổ độ chúng sinh thiên hạ, tướng ngọc trang nghiêm, diệu pháp vô biên, được người đời mệnh danh là Thiên Nhân Sư. Nhưng thần phật trên bức phù điêu này có chút dữ tợn quái dị, tôi thấy mấy hình người ngợm này nhìn chẳng phải loại lương thiện gì, chỗ nào cũng bốc mùi tà khí....".

Hải ngọng kinh ngạc nhìn khốj vàng khổng lồ, không khỏj nảy sinh cảm giác thán phục, anh lấy tay vỗ bồm bộp vào mặt một vị thần trên bức phù điêu, miệng nhắc nhở Tư Mã Khôi:" thằng ôn nhà cậu mồm mép ý tứ một chút đi, đừng thất đức như thế được không hả? Dù sao thì cả đời tớ đây, đây là lần đầu tiên cảm thấy vàng nó lại thường như thế này, không ngờ có thể dùng vàng làm vật liệu xây dựng, chẳng khác gì gạch đá sỏi. Nếu vận chuyển hết số vàng này ra ngoài núi, đổi lấy vũ khí, không biết có thể trang bị cho bao nhiêu quân đội nhỉ? Đừng nói đánh chiếm lại Yangon chỉ là chuyện nhỏ, mà nếu biết dùng tiết kiệm một tý có thể phát động thế chiến thứ 3 không chừng. Hải ngọng tớ bình sinh chỉ có một mong muốn, đó là trở thành bộ trưởng Bộ quốc phòng. Lúc lựa mua vũ khí, tớ nhất quyết không thèm mua đồ của bọn khọm Mĩ, tuy đồ hiện đại thật , nhưng tần suất xảy ra sự cố là rất lớn. Đồ của Tiệp Khắc, Canada và Liên Xô chế tạo vẫn da thật thịt thật hơn, cho dù dính mưa lớn hay ngâm dưới sông sâu vẫn bòm bòm giòn tan như thường...".

Tuyệt khuyên La Đại Hải đừng nổi lòng tham cạo vàng trước mặt phật mà chuốc họa vào thân, huống hồ từ lúc mọi người chạy trốn khỏi hiện trường quả bom địa chấn phát nổ, họ đều bị dính chất độc da cam gây bỏng ty không rõ bom chứa loại chất độc gì? Nhưng hậu qủa nó để lại chẳng có kết cục gì tốt đẹp. Giờ đây, họ vừa thoát kiếp nạn để hồi sinh, đã là vạn hạnh trong bất hạnh rồi, điều nên nghĩ lúc này là thoát khỏi núi Dã Nhân trước khi đại nạn xảy ra, làm gì còn tâm tư mà động lòng tham nữa?

Tư Mã Khôi nói:"Tuyệt nói rất phải! Có điều khiến ai ai cũng động lòng, ai ai cũng yêu thích không chỉ mỗi người Trung Quốc ta thích đâu mà nhân dân trên toàn thế giới đều thích cả, vì nó tượng trưng cho hoà bình. Tôi thấy nếu vì nền hoà bình toàn nhân loại mà khuâng hết số vàng bạc, châu báu này ra ngoài, cho dù Phật tổ có biết, thì người cũng cảm thấy hãnh diện mà thôi..."

Tư Mã Khôi vừa nói chuyện với Tuyệt và La Đại Hải vừa liếc mắt nhìn trộm Ngọc Phi Yến, phát hiện thần sắc cô ả rất bất an, thậm chí có vài phần khiếp sợ, không biết là vì lí do gì. Từng có một vĩ nhân đã nói rất hay thế này:"một tên trộm mộ không muốn phát tài, thì không thể coi là một tên trộm mộ đạt tiêu chuẩn". Tư Mã Khôi cảm thấy việc này hết sức khác thường liền hỏi Ngọc Phi Yến xem cô nàng đã phát hiện ra điều gì.

Ngọc Phi Yến rốt cục vẫn là một nhân vật xuất chúng hàng đầu trong giới trộm mộ, nhìn thấy trên những bức phù điêu vàng có rất nhiều tháp cổ, trong đầu đại thể đã phác hoạ ra nét khái quát sự việc, chỉ có điều biết chừng ấy cũng như ếch ngồi đáy giếng mà chê trời bằng vung, tức thời chưa thể nói chính xác hoàn toàn được, nên chưa dám khẳng định chắc chắn. Thấy Tư Mã Khôi hỏi nên mới định thần lại trả lời:"tôi thấy màu sắc của mấy thỏi vàng kia hơi kì quái, không giống vàng thật nhưng rốt cục là loại vật liệu gì, thì hiện thời tôi chưa đoán ra. Ngoài ra dãy phù điêu đồ sộ này không phải là thành trì cũng không phải đền chùa miếu mạo, chỉ sợ nó chẳng phải công trình kiến trúc nào mà chúng ta có thể tưởng tượng, hơn nữa đáng lẽ nó không xuất hiện ở núi Dã Nhân mới phải..."

Mọi người nghe xong cảm thấy mơ hồ khó hiểu, tuy rằng họ quanh năm chiến đấu ở vùng núi Bắc Miến, nhưng chưa từng nghe qua chuyện này, câu hỏi chứa đầy trong bụng nhưng chẳng biết hỏi từ đâu.

Thần sắc Ngọc Phi Yến rất nghiêm trọng nói:" Rất có khả năng đây chính là toà thành Nhện Vàng do quốc vương Anagaya của nước Chăm pa cổ xây dựng, còn được biết dưới cái tên toà thành bốn triệu bảo tháp"

.........

Cô liền kể tóm tắt với mọi người đầu đuôi sự việc,thì ra cái gọi là thành Nhện Vàng là một truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền từ hàng ngàn năm. Trước đây,ChămPa từng tồn tại một vương triều vô cùng lớn mạnh và hiển hách,lịch sử gọi là vương triều BaGan, phạm vi lãnh thổ vượt sang cả phần đất phía nam Đại Việt(nước Việt cổ) và phía bắc của Lào,tín ngưỡng theo hệ tôn giáo thần thú Vệ Đà(VeDa) của Ấn Độ giáo cổ đại. Họ chuyên sản xuất vàng, ngọc đẹp,đá qúy,và đó là một vương triều hùng mạnh,thịnh vượng và bị các chư quốc xung quanh nhòm ngó thế nhưng người Champa cổ đại đã đánh tan các vương triều từ Trung Nguyên,phía nam dẹp tan các vương triều Phù Nam (quốc gia phía nam Đại Việt), Lào trước sau không bao giờ mất thế thượng phong,... Mãi đến khi Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đem quân chinh phạt mới khiến đất nước này dần suy yếu. Thành trì của người Cham Pa cổ đa số bị khói lửa chiến tranh phá hoại, số ít còn lại cũng sớm trở thành sào huyệt cho dơi,chuột ẩn mình. Hiện ở Việt Nam vẫn còn một số truyền thuyết liên quan đến toà thành Nhện Vàng, giờ tuy các nhà khảo cổ phát hiện ra các di tích kỳ vĩ như Angco Wat ở Campuchia, Buddha Bà La Môn ở Indonesia w... Nhưng tất cả đều kém xa so với toà thành này,chỉ là chưa tìm đủ chứng cứ chứng minh toà thành này thật sự tồn tại.

Tương truyền ở phía tây có tháp Thông Thiên do vua Babylon xây dựng còn ở phương Đông có toà thành nhện vàng đối sánh. Dưới thời vua Anagaya cai trị ông đã rút kiệt ngân khố đúc một toà thành bàng vàng khảm nạm các loại đá quý và ngọc phỉ thuý,các bức phù điêu trên tòa thành có vô số hình bảo tháp bởi vậy nó mới có tên này. Nó lộng lẫy tuyệt đỉnh,có thể sánh ngang nhật nguyệt.

Người Chăm pa cổ rút kiệt ngân khố quốc gia đổ dồn vào toà thành Nhện Vàng từ đó quốc gia dần lụn bại,không thể chấn hưng,rồi cuối cùng mang đến vận đen suy bại diệt vong cho hậu thế. Các vương triều từng xâm lăng chinh phục Chăm Pa cổ lại không thể phát hiện tung tích toà thành này nên nhiều người cho rầng đây chỉ là một giai đoạn lịch sử thần thoại li kì,cùng toà thành Nhện vàng bí ẩn khôn lường này chỉ là truyền thuyết hoang đường mà thôi, chưa chắc đã có thật trên đời.

Mãi cho đến khi đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ,kẻ xâm lược đã cướp bóc một lượng lớn văn vật cổ từ Việt Nam và Lào, trong đó có cả mấy bức bích họa của nước Chăm Pa còn lưu truyền lại,miêu tả hình của bốn triệu bảo tháp,và điều này đã cung cấp cho những nhà ngiên cứu hậu thế rất nhiều thông tin quý giá. Từ đó,người ta mới phát hiện ra tên gọi toà thành bốn triệu bảo tháp,bởi vì con số bốn triệu kì thực không được chuẩn xác lắm,còn bảo tháp trong bức phù điêu vàng rốt cục có bao nhiêu thì không thể nói chính xác.

Từ màu sắc mấy bức bích hoạ người ta có thể thấy hình thù kì quái của nó,đại thể đó là 1 kiến trúc hình bánh răng do nhiều thỏj vàng xếp khít vào nhau,phần giữa hình bầu dục phía ngoài có 8 chân dài ngắn khác nhau vươn ra tứ phía, cấu tạo chỉnh thể giống hình con nhện nên các nhà khoa học phương Tây gọi là toà thành Nhện Vàng và họ cho rằng đây chỉ là phù hiệu hoặc Tôtem cổ của vương triều Chăm Pa,chứ chưa hẳ là một vật thể có thực.

Cho dù toà thành Nhện vàng có thực cũng phải nằm trong lãnh thổ phiá bắc Lào mới đúng. Không ngờ nó lại bị chôn vùi dưới sơn cốc khổng lò của núi Dã Nhân Bắc Miến,nên chẳng trách trước giờ chẳng ai tìm thấy tung tích của toà thành này. Nhận thức của thế giới với toà thành này rất hạn chế, chỉ biết người ta dùng vàng thỏi đúc thành phù điêu rồi ghép lại mà thôi. Chẳng ai biết vì sao người xưa lại muốn đắp nó. Ngoài ra,thần thú Vệ Đà mà người Chămpa cổ thờ phụng chẳng có thân thể thực nhưng lại có vô số hình thể tượng trưng rất kì quái,mà mẵng xà và tháp cổ là đáng sợ nhất vì nó dự báo cho kết thúc và cái chết.

Ngọc Phi Yến cảm thấy trên những bức phù điêu vàng kia toả mùi tử khí rất nặng nề. Có quỷ mới biết vì sao vua Anagaya cho xây dựng con quái vật ấy hơn nữa Nấm mồ xanh bất chấp mọi giá để đi tìm. Lẽ nào chỉ đơn giản là vì vàng thôi sao?Phải chăng trong toà thành ẩn dấu một bí mật khác?Cô nói với mọi người:"Nếu chúng ta muốn giữ mạng sống tốt nhất là nên rời khỏi nơi này càng xa càng tốt"

Giữa lúc cô đang nói, trong bóng tối lại xuất hiện âm thanh của cành cây khô di chuyển cọ xát nghe ken két rợn người

HÔI THƯ 2 CHAP 1 SONG ĐIÊN TRONG ĐÔNG TÔI

Hội Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nhắc đến truyền thuyết vua Anagaya nước Chăm pa xây dựng toà thành nhện vàng, ai nấy đều cảm thấy vô cùng kinh ngạc, từ khi khai thiên lập địa tới nay chưa bao giờ nghe nói thấy trên thế giới lại có chỗ kì dị như vậy, kì dị ở chỗ lấy đâu ra nhiều vàng như vậy, lại còn ghép với nhau hoàn toàn ăn khớp với nhau, rung lắc thế nào cũng ko đổ. Mọi người tuy thắc mắc nhưng không có tâm trí đâu đi tìm hiểu sâu về nó, bản thân họ còn đang nằm trong vòng nguy hiểm, mà trước tiên họ phải tìm đường thoát ra khỏi núi, bởi vậy họ cũng chỉ thuận miệng bàn bạc mà thôi. Nào ngờ lời của Ngọc Phi Yến chưa dứt lại nghe thấy tiếng ''ken két'' dị thường.

Ban đầu, mọi người cho rằng màng nhĩ bị chấn động bởi sóng địa chấn do qủa bom địa chấn phát nổ, sinh ra ảo giác. Nhưng liền sau đó cả hội cảm thấy hình như ko đúng, tai ù cũng ko có hiện tượng như vậy, lại phát hiện âm thanh cành cây khô di chuyển trên đỉnh đầu, thế là mọi người liền xách đèn halogen lên xem rốt cục có đang xảy ra điều gì bất thường. Thế nhưng ở đáy vực sâu hun hút này, do chịu ảnh hường của môi trường nên ăcquy tiêu hao rất mau, ánh sáng nhợt nhạt toả ra hầu như ko có tác dụng gì, đến đâu cũng là một dải đen sì sì, chẳng thấy gì hết.

Mọi người nghe tiếng động càng lúc càng dồn dập dường như có rất nhiều cây cổ thụ ngàn năm đang giãy giụa rạch đất, làm xuất hiện âm thanh rất chói tai khiến người ta cảm thấy dường như có luồng điện xẹt qua đầu, cơ thể tê giật hết cơn này sang cơn khác. Tư Mã Khôi nhớ lại lúc Chiếc Rắn đen 2 bị tấn công trong đám sương mù, khi ấy cũng phát ra kiểu âm thanh này. Thông tin mà Wilson- thàng viên đội thám hiểm để lại trước khi chết cũng nói là trong đám sương mù có tồn tại một '' vật thể sống'' rất to lớn và đáng sợ, nhưng màn sương bí ẩn đã bị mưa lớn trấn áp nên khi rơi xuống đầm lầy dưới lòng đất nên không có chuyện gì xảy ra đặc biệt . Lúc đó anh đóan, nguồn gốc của đám sương này rất có thể do lớp phủ thực vật trong không gian khép kín tạo ra, mải sau này chất độc màu da cam phá hủy hệ thực vật nơi đây mới không còn sự uy hiếp đáng sợ của đám sương mù giết người nữa, vậy tại sao lại xuất hiện tiếng động này? Lẽ nào sâu dưới đáy sơn cốc lại xuất hiện sương mù?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro