Nguoc ve thoi minh Q4 full

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngược về thời Minh

Dịch từ nguyên tác: 回到明朝当王爷 (Hồi đáo Minh triều đương vương gia)

Tác giả: 月关 (Nguyệt Quan)


Quyển bốn - Dương Lăng xuống Giang Nam

Chương 122: Xưởng đốc ra quân

Dịch: TheJoker

Biên dịch: Ba_Van

Biên tập: vandai79

Hiệu đính:

Nguồn: www.tangthuvien.com

Không biết từ khi nào, ngoài trời lại đổ một cơn mưa nhỏ. Mưa tí tách rơi, đáp xuống những tàu lá chuối dưới khung cửa sổ phát ra âm thanh lộp bộp. Bỗng hai tiếng đàn gảy "tính tang" vang lên cùng một giọng hát ngọt ngào khẽ ngân nga trong đêm mưa sâu thẳm:

Nén nhìn bướm lượn hiên bên,
Run cành sẽ hỏi thệ nguyền biết không?
Nương tràn tâm ý gió đông
Vì ai nên bệnh, nên lòng ủ ê.
Gió đưa bướm mối mai về,
Mà nơi phòng kín áo thề chửa may.
Bàng quan mấy kẻ đâu hay
Chờ ai giải khối tình này người ơi!

Hieusol dịch



Lần đầu khoác chiếc áo cưới ngồi ngóng đợi bên giường, thấy sắc trời càng lúc càng tối mà lão gia dường như không muốn đến, trong lòng Tuyết Lý Mai thực sực đã hốt hoảng. Nàng với Tô Tam vốn có tình thân như thủ túc nên không hề muốn tranh sủng. Nhưng dù xinh tươi quyến rũ thì nét đẹp hoa thơm cỏ lạ ấy của nàng sao có thể sánh với vẻ tuyệt sắc nhân gian vạn người không một của Ngọc Đường Xuân đây?

Cho dù địa vị không bằng Ấu Nương, nhan sắc không bằng Tô Tam thì tiểu cô nương cũng không lo lắm mà chỉ sợ Dương Lăng vì bị lệnh vua ép buộc mới nạp nàng về chứ thực ra trong lòng không hề thích. Ngồi cô quạnh cho đến khi nến hồng cháy hết, Tuyết Lý Mai thương xót cho bản thân mình, cầm lòng không được bèn ôm lấy đàn, vừa khẽ gảy vừa hát, nghe tiếng mưa rả rích bên ngoài cửa sổ mà trong lòng đau khổ không thôi.

Ngọc Đường Xuân tỉnh dậy từ trong mộng đẹp, nghe tiếng ca của Tuyết Nhi mà thấy thẹn muốn chui xuống đất, vội vàng ngọ nguậy tính ngồi lên để giúp lão gia vận quần áo. Vốn Dương Lăng sớm đã ngồi dậy mặc y phục xong, thấy nàng lần đầu đón nhận cơn mưa móc, dáng vẻ mệt mỏi yêu kiều, bèn vội giữ lấy bờ vai thơm mềm, kéo tấm chăn mỏng khoác lên cho nàng, rồi nhẹ giọng bảo:
- Trời mưa rồi, đừng để nhiễm lạnh, nghỉ ngơi sớm chút đi.

Ngọc Đường Xuân đang lõa phơi dáng ngọc, thấy ngồi dậy cũng hơi mất ý tứ bèn nghe lời nằm xuống. Dương Lăng quan tâm như vậy khiến nàng cảm thấy ấm áp trong lòng. Nàng hé cánh môi đào mỉm cười thật ngọt ngào, thẹn thùng gật đầu.

- Nén nhìn bướm lượn bên hiên...
Tiếng ca lại cất lên trong đêm. "Con bướm hái hoa" Dương Lăng vội vàng cuống quít mở cửa phòng đi ra...

***

Một đêm hai lần điên cuồng, đáng lý nên ngủ không dậy mới phải, song trời vừa tờ mờ sáng thì Dương Lăng đã tỉnh giấc, có lẽ do khoảng thời gian này y đã quen với việc dậy sớm vào chầu. Trong khi đó, Tuyết Lý Mai vốn quen với việc thức khuya dậy sớm lại đang ngủ say sưa. Dáng ngủ của nàng thật sự không được tốt. Quấn lấy nhau cả đêm khiến cả tấm chăn mỏng bị nàng cuộn hết lên người, chỉ để lộ một làn da trắng mịn, trên khuôn mặt được trang điểm nhẹ vẫn lờ mờ hai vệt nước mắt vừa khô.

Tuyết Lý Mai tự biết tư sắc và phong thái không bì được với Ngọc Đường Xuân. Để lấy lòng lão gia, tuy là lần đầu phá thân nhưng nàng đã nén sự xấu hổ mà rụt rè dốc sức giở mọi thủ đoạn quyến rũ mà nàng nghe được ở Thì Hoa Quán. Chỉ mong lão gia sung sướng vui vẻ mà trong tim có thể dành một vị trí cho nàng.

Trong ấy tuy vẻ kiều diễm không diễn đạt được thành lời nhưng chỉ riêng tinh thần "cần cù", "hết lòng cầu thị" của tiểu nha đầu này đã đủ khiến cho tất cả dâm thần phải cảm động rồi. Nếu không chú ý đến vệt máu đỏ và vẻ mặt non nớt lúc giao hoan mà chỉ nhìn vào các tư thế thay đổi không ngừng của nàng thì Dương Lăng có lẽ đã tưởng nàng là kẻ thạo nghề trong chốn phong nguyệt.

Thân thể Tuyết Lý Mai mềm mại, eo thon uyển chuyển gọn gàng, da dẻ mịn màng… đặc biệt là làn da ngọc ngà trắng mịn ấy như đang ửng ráng mây hồng, tinh khôi không tì vết. Lúc động tình, nàng nhíu hàng chân mày, hân hoan như chực khóc. Khuôn mặt thuần khiết khi đó phơi bày một nét quyến rũ lạ thường khiến Dương Lăng sinh ra một loại khoái cảm muốn ức hiếp, lăng nhục. Đêm phong lưu này quả là sung sướng!

***

Nên khai nụ thì đã khai nụ, phải khai trương cũng sẽ khai trương.

Nội xưởng được thành lập, mọi con mắt trong và ngoài triều đều dồn về nó. Thế nhưng nha môn Nội xưởng nằm ngoài Tây Trực môn không bỏ tiền ra mua đất mà lại tổ chức cho quan binh Tả Tiêu doanh - vốn vừa mới phục dịch ở Thái lăng nay lại lắc mình biến thành những binh sỹ nha sai - tự lực cánh sinh xây dựng nha môn trong sơn cốc phía sau Cao Lão trang, thật khiến người ta cười rụng rớt quai hàm.

Đông xưởng lo Dương Lăng sẽ lập tức tiếp nhận việc thuế giám, thế là Phạm Đình và bốn đại thủ lĩnh thái giám của ty Lễ Giám cùng ngồi lại với nhau, nghĩ ra đủ loại phương kế để định gây khó dễ, nhưng chờ mãi vẫn không thấy Dương Lăng đến tìm. Quá đỗi ngạc nhiên, bọn họ bèn phái người đi nghe ngóng thì được biết Dương Lăng đã chiêu nạp gã "Thiên hộ giữ cổng" người Sắc Mục bất tài vô dụng trong Cẩm Y vệ là Vu Vĩnh làm Nhị bộ đầu, hiện đang dẫn một đám binh sỹ liên lạc với hàng xe, hàng ngựa vận chuyển đường dài khắp nơi để hợp tác, thành lập cơ cấu tình báo cho Nội xưởng.

Nghe xong tin này, Phạm Đình suýt cười đến tắt thở, bao sự trọng thị và e dè với Dương Lăng tức thì tan theo mây khói. Nếu không phải hai bên đang ở thế đối lập với nhau thì lão cũng muốn thông cảm cho Dương Lăng, hành động lần này đã thật sự làm mất hết mặt mũi của xưởng vệ. Nếu Dương Lăng tạm thời không dám tìm đến cửa để tiếp nhận ty Thuế Giám thì mình cũng không cần e ngại mà “hào phóng” một chút. Phạm Đình bèn hạ lệnh, bảo nha sai Đông xưởng tạm thời không cần gây phiền phức cho Nội xưởng, để xem thử Dương Lăng có thức thời hay không rồi sẽ tính tiếp.

Bọn quan văn nghe nói ngoài Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ, không ngờ bây giờ Hoàng Thượng lại lập thêm Nội xưởng, thế là nhao nhao yêu cầu Tam đại học sỹ thừa lúc Nội xưởng chưa đứng vững mà phát động tất cả quần thần trong triều "lấy ngòi bút làm vũ khí", thúc giục Hoàng Thượng loại bỏ xưởng này.

Tạ Thiên nghe vậy thì hơi động lòng, bèn ngầm hẹn Lưu Kiện và Lý Đông Dương để thương nghị. Khi Lưu Kiện nghe nói đến hành động yếu ớt của Dương Lăng, cũng không cảm thấy Nội xưởng có thể trở thành mối hoạ lớn, nhưng nếu có thể phát động lực lượng thần tử của triều đình diệt nó tận gốc, ắt sẽ có thể khiến cho hai xưởng Đông, Tây và Cẩm Y vệ có điều cố kỵ, không dám can dự làm loạn triều chính nên cũng vui vẻ tỏ ý tán thành.

Nhưng Lý Đông Dương lại trầm ngâm thật lâu, kề cà không nói lời nào. Tạ Thiên không nhịn được bèn cảm khái nói:
- Tân Chi, tôi biết ông rất có hảo cảm với Dương Lăng đó, thậm chí có rất nhiều kỳ vọng vào y.

- Chúng ta đều đã già rồi, còn có thể tận tâm, tận lực cho triều đình bao năm nữa chứ? Nếu như có vài vãn bối đủ tài lẫn đức có thể hết lòng phò tá Hoàng Thượng, đám lão thần chúng ta cũng không phụ lòng tiên đế, không phụ lòng với bá tánh lê dân rồi. Nhưng mà, Dương Lăng và đám lộng thần bên cạnh Hoàng Thượng xưng bạn xưng bè, nay lại mưu cầu lãnh đạo Nội xưởng, rõ ràng lòng lang dạ thú, chẳng lẽ ông còn tin y sẽ là kẻ trung lương ư?

Lưu Kiện cũng không vui, nói:
- Tân Chi, tôi biết ông trông đợi vào y rất nhiều. Tuy tài cán y không bằng Dương Đình Hoà, Dương Nhất Thanh, nhưng lại là kẻ được Hoàng Thượng tin sủng nhất. Nếu như y một lòng vì nước, chúng ta đương nhiên không ngại mà nâng đỡ cho y, nói không chừng bản triều có thể giống như "Tam Dương nắm quyền"(1) thời Tuyên Đức, lại sản sinh ra thêm "Tam Dương tài giỏi"(2). Nhưng nay nghe lời nói, xem hành động của y, người này tuy chưa hẳn đại gian đại ác, song tuyệt không giống như bề tôi trung hiền. Ông đừng làm việc theo cảm tính nữa.

Lý Đông Dương mỉm cười nói:
- Hai vị đại nhân cho rằng tôi không nỡ cắt đứt tiền đồ của y sao? Ha ha ha, tôi đang nghĩ, trong triều có Nội xưởng và không có Nội xưởng thì cái nào có lợi hơn.

Tạ Thiên không đồng ý, nói:
- Tân Chi, ông hồ đồ rồi sao? Ông nói xem, xưởng vệ đã làm được việc gì có ích cho triều đình, cho dân chúng rồi? Chẳng lẽ có hai xưởng một vệ tranh quyền đoạt lợi còn chưa đủ, còn muốn đẻ thêm một con ác hổ sao?

Lý Đông Dương khẽ cười nói:
- Chẳng lẽ Tạ đại nhân đã quên nơi mà con hổ Nội xưởng này chằm chằm giương mắt vào chính là ty Thuế Giám sao?

Lưu Kiện và Tạ Thiên nghe xong, ánh mắt chợt sáng lên, Tạ Thiên buột miệng nói:
- Hai hổ tranh đấu...

Lưu Kiện do dự một chút rồi nói:
- Tôi thấy Dương Lăng né tránh khắp nơi, không giao tranh cùng Đông xưởng. Giao ty Thuế Giám cho Nội xưởng là khẩu dụ của Hoàng Thượng, có thánh chỉ trong tay mà y cũng không dám đi mở miệng với Vương Nhạc, chẳng phải Tân Chi đã quá trông đợi ở y rồi sao?

Lý Đông Dương cười lớn rồi nói:
- Lão đại nhân à, ông thấy Dương Lăng ngày thường hành sự, tuy được vua sủng ái mà vẫn biết khiêm tốn. Nhưng ông quên phần kiến thức, tâm cơ nọ của y tại Kinh Diên đã khiến những vị đại nhân của cả triều muốn làm khó y một phen cũng phải cứng họng à? Tâm cơ và kiến thức của người này đủ thấy y không phải người thường. Sở dĩ tôi đây hiểu không thấu y là bởi vì y rất được ơn vua, vốn không cần cúi đầu để gia nhập Thần Cơ doanh.

- Đương nhiên nếu như y lòng nhiều dã tâm, muốn đoạt lấy hoặc được bổ ra vùng biên ngoại làm quan to hay tướng soái, chúng ta sẽ không khoanh tay đứng nhìn. Lạ là lạ ở chỗ dường như y lại gặp sao yên vậy, không hề có dã tâm.

- Nếu y vốn ẩn nhẫn như vậy, đã không lộ tài năng mà giờ lại khua chiêng gióng trống, sốt sắng với việc thiết lập Nội xưởng nên tôi mới không tin y sẽ bỏ qua vật sờ tay vào là bỏng như cái Thuế Giám này.

Sau đó ông ta mỉm cười, như đã định liệu trước, nói:
- Hãy chờ mà xem, nếu cặp mắt già này chưa mờ, cái ý nghĩ kỳ lạ đi kết hợp Nội xưởng với hàng xe, hàng ngựa gì đó làm do thám cho Nội xưởng, tám chín phần mười là cố ý tỏ ra yếu thế. Đợi khi thế lực ổn định, y nhất định sẽ tranh đoạt miếng thịt Thuế Giám béo bở này với Đông xưởng.

Tạ Thiên vỗ tay khen:
- Hay đây! Thuế của thiên hạ ba phần quy về bộ Hộ, bảy phần chảy vào ty Lễ Giám. Quyền tài chính nằm trong tay nội triều (ý chỉ các hoạn quan) chung quy không làm người ta an tâm. Vương Nhạc tuổi tác đã cao, một khi tạ thế, chuyện tương lai khó bề lường trước. Nếu như Nội xưởng và Tây xưởng tranh quyền đoạt lợi, lưỡng bại câu thương, chúng ta liền có thể thừa thế phát động việc đem trả quyền thu thuế về tay bộ Hộ.

Lưu Kiện nhíu hàng mày trắng, nói:
- Suy nghĩ của Tân Chi thực ra không tệ, nhưng mà Đông xưởng rễ sâu gốc lớn, thế lực bao trùm khắp thiên hạ. Chỉ dựa vào ơn vua và Nội xưởng không nên hồn nên vía, Dương Lăng có tư cách khiêu chiến với ty Lễ Giám, khiêu chiến với Đông xưởng sao?

Lý Đông Dương cười lớn:
- Không thể được! Cho nên chúng ta không những không thể tâu xin Hoàng Thượng triệt bỏ Nội xưởng, mà trước mắt còn phải âm thầm giúp đỡ bọn họ nhiều hơn. Thực lực Nội xưởng càng mạnh, dã tâm của y cũng sẽ càng lớn. Nhưng cho dù lớn mạnh thế nào, y cũng không thể giáng cho Đông xưởng một kích trí mạng, trừ phi chúng ta tạo cho y một hình tượng giả: ngoại triều (*) đang đứng về phía y!
(*: các quan, tướng không phải là hoạn quan)

Lưu Kiện vỗ tay khen:
- Hay! Lão Tạ, báo cho Đốc Sát, bảo bọn ngôn quan của Ngự Sử đài không cần gây phiền phức cho Nội xưởng nữa. Trước mắt vẫn phải mở rộng cánh cửa thuận lợi, để Nội xưởng có thực lực tranh đoạt quả đào trong tay Đông xưởng. Hà hà hà, vì lợi, hai đào sẽ có thể dễ dàng đoạt lấy ba mạng (3)!

Gần hai mươi năm từ triều đại Hoằng Trị cho đến nay, ngoại triều vẫn luôn chèn ép phe nội quan. Có lẽ vì vậy mà tam đại học sỹ đã quên rằng trên đời còn có một câu ngạn ngữ rằng: dưỡng hổ di hoạ (nuôi ong tay áo)!

***

Hai tháng, chỉ vẻn vẹn hai tháng, thế lực của Nội xưởng đã phát triển vượt xa dự đoán của chính bản thân Dương Lăng. Vốn y dự tính một khi Nội xưởng khai trương, lập tức ty Lễ Giám, Đông xưởng, Cẩm Y vệ và bọn quan văn ngoại triều quyết sẽ không bỏ mặt làm ngơ, ắt khó khăn trắc trở sẽ ùn ùn kéo tới.

Vì vậy y dùng khoái mã khoẻ mạnh mời Ngô Kiệt và Hoàng Kỳ Dận về kinh, tự mình bổ nhiệm làm quan Nội xưởng. Ngô Kiệt làm Đại bộ đầu, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh làm Nhị bộ đầu, ba vị quan đô ty Liên Đắc Lộc (*) làm Tam bộ đầu, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh làm Chưởng hình thiên hộ, những người còn lại đều chiếu theo Bách hộ, Ty phòng, nha dịch, nha sai mà thay đổi toàn bộ thể chế. An bài mọi thứ ổn thoả xong xuôi, mỗi ngày y đều theo bên cạnh hoàng đế, chuẩn bị dựa vào gốc cây to này để ứng phó với các loại công kích có thể xảy đến. ( *: hai người còn lại là Lưu Sỹ Dung và Bành Kế Tổ)

Không ngờ đợi mãi mà phía Đông xưởng không thấy tăm hơi, quan văn trong triều và Ngự Sử đài cũng không hề có động tĩnh gì khiến Dương Lăng uổng công lo lắng một phen.

Mấy năm trở lại đây, tuy Ngô Kiệt không được xem trọng trong Cẩm Y vệ nhưng vẫn luôn cố hết sức đảm trách công tác thu thập tình báo nên có thể nói kinh nghiệm của lão về phương diện này rất phong phú.

Không những Dương Lăng điều lão về kinh mà còn cho lão một bước lên trời, nhậm chức Đại bộ đầu, chỉ đứng sau quan Tổng đốc Nội xưởng khâm sai của y. Hơn thế, Dương Lăng hoàn toàn không hề uý kỵ xuất thân Cẩm Y vệ của lão, mọi việc đều mạnh dạn giao cho lão làm.

Chịu đủ ghẻ lạnh nhiều năm, Ngô Kiệt vốn đầy lòng nghi kỵ và ghen tức của ngày trước giờ đây cảm động đến rơi lệ, hơn nữa lão đã cứu mạng Dương phu nhân, tự nhận mình đã có quan hệ vô cùng thân mật với nhà họ Dương nên có thể nói lão hết lòng, tận sức tận lực vì Nội xưởng. Dưới sự chỉ dạy của lão và hai vị Thiên hộ Liễu, Dương, đám quan binh đã qua huấn luyện tốt của Thần Cơ doanh đã nhanh chóng hoà nhập vào vai trò mới.

Nhận thánh chỉ vào đến kinh thành, Hoàng Kỳ Dận nghe nói Dương Lăng muốn điều lão đến Nội xưởng nhậm chức. Lão phu tử này tuy bị triều đình chèn ép nhiều năm, nhưng khí phách kiên cường ngạo nghễ của vị ngự sử nhiệt huyết năm xưa vẫn còn nên đã cự tuyệt thẳng thừng. Dương Lăng đã sớm chuẩn bị, y mời lão phu tử vào mật thất, thành thật cùng lão chuyện trò đại khái về mục đích của việc tạo phước cho lê dân của mình một phen.

Dù sao Hoàng Kỳ Dận đã không còn là thiếu niên vừa “trúng cử” đã được giữ lại làm ngự sử ngôn quan ở Đốc Sát viện, không biết nỗi khổ của dân gian năm xưa nữa, cũng không còn khí phách kiểu thư sinh, quý trọng danh tiếng cá nhân bên ngoài. Trong lòng lão, nếu có thể vì dân chúng mà làm những chuyện này đến nơi đến chốn, cho dù ở lại Nội xưởng có tổn hại đến danh dự cá nhân cũng không tính là gì. Huống hồ ở kinh sư bây giờ còn ai nhớ đến người thời tuổi trẻ đắc chí đã bị gán tội đày đến vùng đất hoang vu nghèo khó gần ba mươi năm như lão nữa?

Hai tháng thời gian, Nội xưởng không những đã trụ vững tại kinh sư, mà còn lấy nó làm trung tâm, ngày ngày không ngừng vươn ra khắp bốn phương, tốc độ phát triển đáng kinh ngạc này rốt cuộc đã dẫn tới sự chú ý và khiếp sợ của Đông xưởng và ty Lễ Giám.

Tốc độ lan tràn nhanh như ôn dịch này ngay cả Dương Lăng cũng không ngờ tới. Y vốn nghĩ rằng trước tiên khai thông một tuyến đường giao thông vận tải đường thuỷ và đường bộ từ kinh sư đến Giang Nam, đợi đến cuối năm có nhiều lợi nhuận, làm gương cho những thương nhân khác, sẽ lại thừa thế mở rộng phạm vi thế lực của Nội xưởng một cách toàn diện.

Cho dù là vậy, trong lòng y cũng không dám lạc quan. Thường thì thương nhân khi giao thiệp cùng quan lại luôn luôn ở thế yếu, bọn họ không thể không mảy may nghi ngờ mà yên tâm hợp tác cùng Nội xưởng. Nội xưởng lại không thể dùng quyền thế ép buộc bức bách bọn họ công tư hợp doanh (4). Muốn tạo dựng danh dự và uy tín với những thương nhân vốn trời sinh đa nghi và cẩn thận này, nói dễ vậy sao?

Thế nhưng Vu Vĩnh - hậu duệ của đế quốc La Mã thần thánh đến từ sông Rhine - quả thực là thiên tài về kinh doanh. Gã cho người thăm viếng mấy cửa hàng thuyền bè, cửa hàng ngựa xe vào loại lớn nhất, đưa ra những điều kiện mà không một chủ hàng nào có thể cự tuyệt: “Nội xưởng chúng ta giúp các người vận chuyển tiền bạc hàng hoá, lữ khách bán buôn. Bây giờ các người hãy kết toán lại rồi tính lợi nhuận bình quân hằng năm của các ngươi trong năm năm vừa qua. Nếu sau khi chúng ta tham gia, lợi nhuận thấp hơn con số này, chúng ta sẽ không lấy một văn tiền, nếu cao hơn con số này, dù cao hơn bao nhiêu chúng ta đều lấy một nửa. Năm nay ấy à? Nửa cuối năm nay chúng ta sẽ không lấy một văn tiền nào, coi như giúp không cho các người.”

Đám chủ hàng thuyền, hàng xe trước giờ chịu đựng nỗi khổ bị bóc lột trái pháp luật nhưng lại không nơi mà tố cáo, sao không biết lợi nhuận khổng lồ ẩn chứa bên trong đó chứ. Điều kiện của Nội xưởng hào phóng đến độ cho dù nằm mơ cũng có thể cười vang, sao bọn họ lại có thể từ chối được?

Vu Vĩnh chỉ chạy đến bốn nhà thì không cần phải tiếp tục đi nữa. Trên con đường làng nhỏ hẹp dẫn vào chốn bồng lai tiên cảnh của Cao Lão trang, tới lui nườm nượp đều là những chủ nhân lớn nhỏ của các hàng vận chuyển khắp nơi nghe tiếng mà đến. Chỉ chưa quá nửa tháng, toàn bộ hàng ngựa, xe, thuyền của cả kinh sư và thậm chí những thành trì lân cận đều đã ký khế ước cùng Nội xưởng. Như khối tuyết lăn, thế lực của Nội xưởng xuôi theo sông đào và quan đạo lăn một mạch đến mọi nơi trong thiên hạ.

Hay tin, Dương Lăng hớt ha hớt hải chạy đến chất vấn Vu Vĩnh:
- Quân lương triều đình chỉ phát đến cuối tháng bảy, trong năm tháng cuối năm, mấy ngàn con người của Nội xưởng sẽ ăn gì uống gì mà sống?

Vu Vĩnh cúi đầu khom lưng, ra vẻ con buôn nói:
- Khải bẩm đốc chủ, người của chúng ta dùng ngựa xe của bọn họ, hẳn sẽ không đi tới đi lui tay không chứ? Tôi đã bảo người mang theo đặc sản của kinh sư, thẳng đường đi đến Hồ Châu, không cần nhờ thương nhân khác bán thay, khi đến nơi thì một ngàn lạng có thể lãi được năm trăm lạng rồi.

- Tiếp tục lấy một ngàn năm trăm lạng bạc này đặt tơ lụa ngay ở Kim Lăng, vận chuyển về kinh rồi tung ra bán, sẽ lại có thể lãi tám trăm lạng. Đi về một vòng mất một tháng, một ngàn lạng bạc biến thành hai ngàn ba trăm lạng. Đó là đốc chủ ngài đã căn dặn không được trốn thuế đấy, bằng không chỉ cần động chút tay chân, lúc qua trạm thuế, hai rương gộp lại thành một, ba rương báo thành hai, biết đâu có thể kiếm thêm được ba trăm lạng nữa. Một tháng sau triều đình mới ngưng phát quân lương, chúng ta đã dùng số tiền của một tháng này đẻ ra số tiền lương của ba tháng rồi. Đại nhân không cần lo lắng.

Dương Lăng nghe xong, rắm cũng không dám đánh, xoay người đi luôn. Trông thấy Hoàng đại bộ đầu chủ quản nội chính, y chỉ thòng đúng một câu:
- Hoàng lão chỉ cần trông coi tài vụ cho tốt, chi tiêu tiền lương hãy để Vu Vĩnh lo hết đi.

***

Trong ty Lễ Giám, tại phòng của công công Vương Nhạc, bốn đại thủ lĩnh thái giám và Phạm Đình đang ngồi ở ghế dưới, mỗi người một vẻ mặt, không khí trong phòng ngột ngạt lạ thường. Vương công công đưa ngón tay chấm chút nước sạch day day khoé mắt khô khốc, run rẩy nói:
- Mấy người các ngươi đâu cần phải lo lắng như vậy chứ? Phải nói, dù sao Dương Lăng này và chúng ta đều có chung cội nguồn. Tuy rằng thế lực hiện tại của y phát triển rất mạnh, nhưng thuỷ chung không có ý đụng chạm với Đông xưởng và ty Lễ Giám chúng ta, có phải các người hơi phóng đại không?

Từ sau lần hút chết trong "vụ án phong thuỷ của Đế Lăng", Đới Nghĩa đã hận Vương Nhạc đến thấu xương và cũng đã sớm nảy sinh hiềm khích với hảo hữu khi xưa là Phạm Đình. Lão và Dương Lăng cùng là đại thần đốc tạo Thái Lăng, đôi bên đã có chút giao tình. Quan trọng hơn chính là, giữa bọn họ còn có một bí mật trọng đại cùng ảnh hưởng đến sống chết của hai người. Dựa vào cái bí mật này, lão đã có thể ngồi với Dương Lăng trên cùng một con thuyền, cùng y có phước cùng hưởng, có hoạ... thì xin cho miễn đi nhé.

Cho nên, việc Dương Lăng bắt đầu xây dựng thế lực riêng cho mình, hơn nữa phát triển nhanh chóng dị thường, đứng vào vị trí của lão mà xét thì chỉ có lợi mà không hề có hại. Vì vậy, vừa nghe Vương Nhạc phản đối, Đới Nghĩa lập tức theo đuôi, chế nhạo:
- Nói đúng lắm, có phải lão Phạm đã bắn tiếng doạ nạt quá rồi không? Ông nhìn cái đám người mà y dùng xem, ngoài mấy tên lính to đầu không biết chữ ra, còn có kẻ tài ba nào chứ?

- Cũng chỉ có một huyện thừa già bất đắc chí, một Ngô thiên hộ quanh năm ở tái ngoại thu mua hàng da, còn có gã Vu Vĩnh đó nữa... Ha ha. Nghe nói con gái hắn tóc vàng mắt xanh, rất là xinh đẹp, Vu Vĩnh muốn gả hai đứa con gái của gã cho Dương Lăng làm thiếp mới kiếm chác được chức Nhị bộ đầu ở Nội xưởng. Người mà Dương Lăng dùng, Ngô Kiệt thì xuất thân từ Cẩm Y vệ, Vu Vĩnh và Vương công công lại có quan hệ thân thích, ông nói Dương Lăng sẽ gây bất lợi cho chúng ta sao?

Trương Thọ cười thâm độc, nói:
- Đới công công! Cũng bởi chính vì chúng ta nghĩ như vậy nên mới bỏ qua cơ hội tốt nhất để áp chế y. Giờ đây y đã mọc đủ lông đủ cánh, ta thấy dã tâm của y rất lớn, tuyệt không giống nhân vật yên phận thủ thường. Ty Thuế Giám khống chế bảy thành thuế của triều đình, một khi nắm giữ được nó, chẳng những lập tức sẽ dưới một người, trên vạn kẻ, thậm chí cũng sẽ có một phần thế lực ngoại triều phải khuất phục dưới trướng của y.

- Chỉ cần ông đứng nơi đầu ngọn sóng của con đường quyền lực này, cho dù bản thân không muốn, cũng sẽ phải lên tới nơi cao hơn, bằng không ông chỉ có nước chìm xuống, thậm chí mọi thứ hiện có cũng giữ không nổi. Dương Lăng có thể không động tâm với ty Thuế Giám sao? Khà khà, tuổi trẻ đắc chí, vận khí đang rất tốt, ông cho rằng y sẽ đi ngược dòng nước chảy xiết ư? Đợi đến khi y đã gom góp đủ lực lượng rồi, đám lão già sợ chuyện chúng ta sẽ bị y coi như cái gai trong mắt cần phải nhổ sạch đi!

Phạm Đình nói với Vương Nhạc:
- Công công! Trương Thọ nói thực không sai. Khi Hoàng Thượng bổ nhiệm thái tử, mấy tên Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng chỉ biết hầu hạ, nói chuyện rất có chừng mực. Khi tân Hoàng vừa kế vị, bọn chúng vẫn yên phận thủ thường, thế mà hôm nay cũng đã dần dần nổi tâm tư.

- Khi Mã Vĩnh Thành nhậm chức tổng quản mua sắm phủ Nội vụ, Nguỵ Bân nắm giữ Kính Sự phòng, Trương Vĩnh vào Ngự Mã giám thì Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng thấy vậy thèm thuồng, suốt ngày xúi giục Hoàng Thượng cho bọn chúng cái chức tốt đấy. Lòng tham con người vô đáy, đừng thấy bọn chúng bây giờ chưa nên trò trống gì mà xem thường, trước tiên muốn tiền rồi sau đó sẽ muốn quyền, có được quyền rồi sẽ lại muốn quyền to hơn, có rất nhiều người đang nhòm ngó mấy chiếc ghế của ty Lễ Giám này lắm đó. Bọn chúng và Dương Lăng giao tình thắm thiết nên tôi vẫn luôn e ngại rằng, Dương Lăng lần lữa không hành động có phải là vì y muốn cùng bọn chúng nội ứng ngoại hợp hay có mưu toan gì đây.

Vương Nhạc nghe vậy thì hơi động tâm. Lưỡng lự một chút, ông ta quét mắt nhìn từng khuôn mặt của mấy người thân tín rồi hỏi:
- Sao? Thực sự có kẻ dám hất đổ mâm cơm của chúng ta hay sao? Ừm... vậy các ngươi nói, ta phải làm sao đây? Chúng ta đều làm việc cho Hoàng Thượng, mấy người các ngươi và Miêu Quỳ cứ đấu đá nhau suốt, ta thấy mà phiền lòng. Không lẽ lại ra tay với Dương Lăng nữa sao?

Lý Vinh nãy giờ vẫn không hé môi bỗng chậm rãi lên tiếng:
- Vương công công! Bây giờ chúng ta không ra tay, người ta sẽ ra tay trị chúng ta đó. Lão nhân gia người trực tâm nhân hậu, chúng tôi cũng không muốn tranh đấu sống chết với Nội xưởng, khiến ngoại triều nhìn vào cười nhạo chúng ta. Tôi đã nghĩ được một biện pháp có thể kìm nén nhuệ khí của Dương Lăng, khiến y không dám mặc sức phô trương như vậy nữa. Không biết công công thấy sao?

Vương Nhạc mừng rỡ:
- Vậy thì tốt, vậy thì tốt! Mau nói ra nghe thử xem.

Lý Vinh lấy từ trong ống tay áo một phong hàm, cười nói:
- Công công! Biện pháp của tôi rất đơn giản: “lạt mềm buộc chặt!”

Phạm Đình sốt ruột giục:
- Thôi ông đừng làm khó nhau nữa! Mau nói đi, thế nào là lạt mềm buộc chặt?

Lý Vinh từ tốn giải thích:
- Giao ty Thuế Giám cho Dương Lăng.

Lời vừa thốt ra, Phạm Đình và mấy thủ lĩnh thái giám liền giật nẩy mình, ngay cả Vương Nhạc cũng ngạc nhiên trợn trừng cặp mắt già nua. Lý Vinh giảo quyệt nói tiếp:
- Các ông không phát hiện sau khi tin tức ty Thuế Giám sẽ do Nội xưởng quản lý được truyền ra, sự hiếu kính của bọn thuế giám trấn thủ các nơi đã giảm đi một nửa, thậm chí cả tiền thuế thường ngày nộp lên cũng ba lần bảy lượt thoái thác, chần chừ không chịu giao hay sao?

Hà Trường Xuân phẫn nộ:
- Đám tiểu nhân nịnh hót đó, nếu không phải nhờ chúng ta tiến cử, bọn chúng có thể kiếm được công việc béo bở này sao? Bây giờ bọn chúng thấy gió buông buồm, kẻ nào cũng đều đứng xem chừng, thật đáng băm vằm trăm mảnh!

Lý Vinh cười hắc hắc nói:
- Bọn chúng còn có thể chần chừ do dự với chúng ta, huống hồ là một tên Dương Lăng không biết gốc rễ. Tên trấn thủ Thuế giám Bốc Đắc Nghĩa mà chúng ta cắt cử ở Gia Hưng có trao cho tôi một phong mật hàm, nói rằng ba vị thuế giám trấn thủ ở Tô Hàng (Giang Tô, Tô Châu và Hàng Châu - ND) lén trưng thu gấp đôi thuế quan, toàn bộ cất cho bản thân dùng, hơn nữa hình như bọn chúng còn có những hành vi phạm pháp khác. Tôi vốn định răn đe bọn chúng một chút rồi thôi, nhưng chi bằng bây giờ chúng ta lấy sự việc này ra mà sử dụng.

Lão thấy mọi người đều có vẻ hơi khó hiểu, bèn vội giải thích:
- Chúng ta lập tức giao ty Thuế Giám ra, chỉ cần y vừa tiếp nhận, lập tức nhờ ngoại thần trình bức hàm này lên cho Hoàng Thượng. Y làm tổng quản ty Thuế Giám, vậy y có xử vụ án này hay không? Xử ư, thuế giám trong thiên hạ ai mà không giở trò phạm pháp. Mọi người sẽ đều e sợ, chúng ta chỉ cần xúi giục thêm một chút thì y sẽ không thu được thuế. Năm nay tiền bạc của triều đình tiêu hao như nước, thu không được thuế, triều đình sẽ không có bạc, không có bạc thì làm được chuyện gì đây?

- Y không quản nổi ty Thuế Giám, lúc ấy sẽ xử làm sao? Ha ha ha... nếu như công công của nội triều vi phạm pháp luật, ty Lễ Giám có quyền vạch trần tố giác. Vậy y không cai quản, dung túng cho mấy kẻ đó phạm pháp thì quan viên ngoại triều cũng không thể đứng nhìn. Chỉ cần chúng ta đệ trình chút chứng cứ, y sẽ tự xử trí thế nào? Huống chi... tôi nghe nói, ba đại thuế giám trấn thủ Tô Hàng đều giao du mật thiết với Thục Vương. Chỉ cần Dương Lăng dây vào...

Thục Vương - Chu Nhượng Hủ là người giàu có nhất trong số những phiên vương, đất Thục trù phú mà tám chín phần mười ruộng nương đều tập trung vào tay y. Vị phiên vương lắm tiền nhiều của này, Dương Lăng trêu nổi sao?

Phạm Đình hào hứng vỗ bàn khen:
- Hay! Kế này thật tuyệt. Chúng ta sẽ không tốn công sức bao nhiêu mà lại có thể khiến Dương Lăng biết được lợi hại của chúng ta. Vương công công! Đừng chần chừ thêm nữa, tiên hạ thủ vi cường đó!

***

Trên dòng sông nước chảy cuồn cuộn, một bầy nhạn lướt cánh bay qua nơi chân trời mênh mông. Hoa màu đã bắt đầu chín tới trên đôi bờ bình nguyên, những người nông dân cần cù đang phơi tấm lưng trần ngăm đen vung cào xới ruộng. Từng giọt, từng giọt mồ hôi của họ đang nhỏ xuống mảnh đất phì nhiêu.

Gió khẽ thổi qua khiến những bọt sóng nhảy lăn tăn trên mặt nước. Từng tiếng ca vang vọng hòa cùng thanh âm vui vẻ nói cười của những ngư dân đang tung lưới xuống sông.

Đại Vận Hà(5) có bờ Bắc ngăn kinh sư, bờ Nam kéo dài đến Hàng Châu. Song bởi hướng chảy vô thường, Đại Vận Hà này cũng không phải thẳng dòng từ Nam đến Bắc mà là nối liền hệ thống sông ngòi các nơi, cho nên dòng chảy quanh co uốn khúc, khi thì hướng Nam lúc thì hướng Đông.

Có chiếc khoái thuyền một cột, thân thuyền được sơn đỏ đang ngược dòng chạy lên. Thuyền chạy cực nhanh. Đây là một chiếc dịch thuyền (thuyền của trạm dịch) chở được khoảng sáu mươi người, đồng thời có khoang hàng để chở thêm một số vật phẩm trọng yếu. Loại dịch thuyền này khi thuận gió thì giương buồm, nghịch gió thì dùng chèo, trên thuyền có chuẩn bị từ tám đến mười hai mái chèo; dân gian thường gọi nó là "thuyền thoi con rết".

Trên sông nước, phàm là thuyền chài, thuyền buôn trông thấy con thuyền thoi màu đỏ của trạm dịch đều phải mau chóng tránh sang một bên. Quy định của quan phủ là mọi thuyền bè vận chuyển trên sông đều phải nhường đường cho khoái thuyền chuyên trách của trạm dịch.

Khoái thuyền chạy qua một cái ghềnh hình tam giác, chợt có người la lên:
- Dịch thừa đại nhân! Phía trước có ba chiếc thuyền lớn, mau báo đáy thuyền (những tay chèo ngồi ở đáy thuyền) giảm tốc nhường đường!

Đang rót rượu độc ẩm trong khoang, dịch thừa vận chuyển đường sông của Đức Châu, Sơn Đông là An Đạt Sung - An đại nhân nghe tiếng lật đật chạy lên đầu thuyền, cười mắng:
- Thấy ma cái con mẹ ngươi rồi à, thuyền chúng ta là thuyền gì chứ? Còn nhường đường cho người khác cái con mẹ gì, rắm cái con mẹ ngươi cứ đánh mãi thế.

Tên dịch tốt đứng đầu thuyền nọ đỏ mặt đáp:
- Đại nhân, nhưng mà thuyền này, chúng ta... chúng ta phải nhường đường cho người ta ạ!

- Hả?
An đại nhân vội vã vịn vào mạn thuyền, giương cặp mắt say xỉn lờ đờ nhìn về phía trước. Lão thấy trên mặt nước bao la, ba chiếc thuyền bốn buồm to lớn, một trước hai sau, giăng đủ mười hai cánh buồm, căng gió lướt đến. Sau thuyền là một dải sóng bạc, từ xa nhìn lại thấy khí thế thật kinh người.

Thuyền lớn chạy nhanh hơn chiếc khoái thuyền của trạm dịch gấp ba lần. Chiếc đầu tiên mới vừa rẽ qua khúc cong phía trước, trên thuyền trang trí hoa lệ, hai bên mạn thuyền cao lớn mở ra chi chít mấy chục ô cửa nhỏ chống chèo. Đầu thuyền dựng ba cột cờ cao sừng sững, chính giữa là một lá cờ thêu hoa văn hình rồng cuộn màu vàng óng ánh.

An Đạt Sung giật thót mình, men rượu lập tức vơi đi mấy phần. Long kỳ màu vàng cao quý của thiên tử, chỉ có nhân viên hoàng thất Đại Minh hoặc khâm sai phụng chỉ mới có quyền treo. Đây là thuyền của ai đến vậy?

Lại thấy hai bên long kỳ mỗi bên treo một lá cờ, bên trái là cờ tam giác lớn, đỏ thẫm như máu, chính giữa là hình phi hổ thêu bằng tơ đen, trông giống quân kỳ nhưng lại hơi khác một chút. Trên cột cờ bên phải là một lá cờ lớn màu xanh sẫm, trên viết một chữ “Dương" to bằng cái đấu.

An đại nhân tuy không biết người đến là ai, song lại biết quyền uy của đối phương vượt xa dịch thuyền của mình. Hắn khiếp sợ co chân đạp mông tên dịch tốt một cái, mắng:
- Con mẹ ngươi, còn không mau xuống dưới bảo giảm tốc à? Bay đâu! Bay đâu, mau xoay bánh lái nhường đường!

Khoái thuyền con rết vội vàng lái sang một bên. Chiếc thuyền lớn ấy chạy lướt qua bên cạnh làm dậy sóng khiến cho chiếc khoái thuyền con rết lắc lư không ngừng, An Đạt Sung đứng bên mạn thuyền thắc mắc nhìn theo lẩm bẩm:
- Đến hành cung(6) à? Là thần thánh phương nào rời kinh vậy?

Trên chiếc thuyền thứ nhất, chiếc rèm cửa khoang được vén lên, một công tử tuấn tú, hoạt bát mặc trường bào màu vàng lợt, đầu đội khăn công tử bước ra. Mặt y như thoa ngọc, mày đen mắt đẹp, trên đai ngọc bên hông đeo một chiếc miếng ngọc bội như ý, lắc lư theo bước chân y. Phong thái như cây ngọc trước gió, nổi bật hơn người.

Hai bên đầu thuyền là hơn chục nha sai mũ nhọn áo đen, hông đeo phác đao(*) trông thấy y bước ra lập tức sụp gối quỳ xuống hô:
- Tham kiến xưởng đốc đại nhân!

(*: một loại binh khí cũ, lưỡi dài, hẹp, cán ngắn, sử dụng bằng hai tay)

Vị đại nhân này chính là Dương Lăng, xưởng đốc Nội xưởng quyền thế ngút trời. Y mở rộng lồng ngực, đón một làn gió mới trong lành thổi tới, không khỏi phấn chấn tinh thần. Dương Lăng khoát tay cho bọn họ đứng dậy, đoạn hỏi:
- Đã đến đâu rồi?

Một nha sai bước lên chắp tay thưa:
- Xin đáp xưởng đốc đại nhân, phía trước ba mươi dặm là đến mười hai liên thành của Đức Châu. Khi nãy chỉ huy sứ Lưu đại nhân của Đức Châu vệ đã được quân dịch báo tin, Lưu chỉ huy sứ đã đến bên tàu cung nghênh đại nhân rồi ạ.

Rèm khoang lại được vén lên, một thị nữ vóc dáng cao gầy, mặc quần áo màu xanh sẫm từ trong khoang bước ra. Gió mát lướt nhẹ qua thổi ống tay áo nàng phất phơ, áo khoác sau vai càng khiến nàng như sắp bay lên. Người thị nữ này chải mái tóc búi chẽ đôi đại biểu rằng hoa kia chưa chủ, chiếc eo thon được buộc chặt có vẻ như mảnh mai dễ vỡ trước cơn gió mạnh. Chiếc áo mỏng bị gió thổi ép sát vào người, lộ ra đường cong chắc nịch và ưu mỹ của song nhũ.

Mặc dù mặc đồ thị nữ, nhưng dáng đi của cô con gái này nhẹ nhàng uyển chuyển. Với dáng đi và cử chỉ ấy, khí chất phong tình, trang nghiêm lẫn tao nhã ấy, e rằng nhiều tiểu thư khuê các cũng tự thẹn không bằng.

Nàng mang một chiếc áo khoác dài màu đen có viền đỏ trên khuỷu tay, bước đến cạnh Dương Lăng, khoác lên vai y, nhẹ giọng nói:
- Đại nhân! Sắp xế chiều rồi, gió to và lạnh, đừng đứng ở đầu thuyền, tránh nhiễm phong hàn.

Dương Lăng quay đầu nhìn nàng. Từ lúc rời kinh, dọc đường đi phong cảnh tự nhiên nối tiếp nhau không dứt khiến người con gái chưa từng rời kinh sư này nhìn mà không kìm được vui thích. Lúc này trong đôi mắt sáng trong hiền lành của nàng vẫn còn thấp thoáng niềm hân hoan.

Dương Lăng cười nói:
- Không sao! Trong khoang nóng nực, chơi cờ lại toàn thua cô, ra ngoài xem phong cảnh tươi đẹp này cũng vui vẻ thoải mái hơn. Có điều cô mặc đồ hơi phong phanh, hay là cô vào khoang đi. Ta bệnh còn có cô chữa trị, nếu cô bệnh ta thực sẽ không biết phải làm sao đây.

Cao Văn Tâm nghe vậy thì cười duyên, chỉ lấy hai bàn tay mảnh mai siết chặt áo khoác lại, vẫn đứng sau lưng y. Dương Lăng nhìn hoàng hôn nơi chân trời đã biến thành sắc vàng óng ả, thở ra một hơi thật dài rồi nói:
- Còn có ngày để rong chơi ư? Vùng Giang Nam giàu nhất thiên hạ, thuế trong nước sáu, bảy phần mười là ở nơi này, không ngờ ba đại thái giám trấn thủ đồng thời bị người ta tố cáo bất tài tham ô, lại đúng một ngày sau khi ta tiếp nhận ty Thuế Giám. Rõ ràng đây là một nan đề ty Lễ Giám đã đưa ra cho ta. Chỉ mong chuyến đi này có thể giải quyết được chuyện này. Bằng không... Giang Nam không ổn định thì làm sao ta nắm vững được ty Thuế Giám đây?

---



Chú thích:

(1) Tam Dương chỉ Dương Sĩ Kì, Dương Vinh và Dương Phổ, ba vị đại thần của vua Minh Anh Tông, phụ trách toàn bộ công việc nội các trong thời gian đầu.

(2) Ám chỉ Dương Đình Hoà, Dương Nhất Thanh và Dương Lăng.

(3) Lấy từ thành ngữ "Nhị đào sát tam sỹ" trích từ một điển cố thời Xuân Thu. Xin xem thêm ở đây http://www.tangthuvien.com/forum/sho...&postcount=138

(4) Liên doanh giữa nhà nước và tư nhân

(5) Con kênh đào dài nhất thế giới

(6) Cung thất bên ngoài kinh đô, để cho vua chúa trọ khi vi hành.

Chương 123: Nghe tiếng sóng đùa, bóc cua thưởng thức(1)

------------------------

Rời kinh lần này Dương Lăng dẫn theo ba trăm thân vệ(*), tất cả đều là những sỹ tốt kiêu dũng và thiện chiến trong quân doanh. Mỗi một người đều đeo phác đao, chủy thủ (dao ngắn); ba trăm người lại chia làm ba đội, mỗi đội đều trang bị nỏ liên hoàn, súng ngắn và cung dài. Trừ phi có binh biến, bằng không chỉ cần dựa vào ba trăm người này cũng đừng hòng ai đụng được đến một cọng lông măng của Dương Lăng.
(* Xin nhắc lại: thân vệ, thân binh là binh lính thuộc đội quân bảo vệ tướng lĩnh, gần như là gia binh)

Đây đều là những thị vệ do đích thân đại bộ đầu Ngô Kiệt của Nội xưởng tuyển chọn. Dương Lăng là linh hồn của Nội xưởng, tiền đồ của toàn bộ mấy ngàn người gắn liền với y, làm sao Ngô Kiệt dám lơ là?

Nếu không phải vì Dương Lăng cảm thấy như thế là huy động quá nhiều người, thực tình Ngô Kiệt muốn điều một ngàn nhân mã và lắp thêm mấy khẩu đại pháo lên thuyền của y.

Sử dụng hai chiếc chiến thuyền to lớn chở ba trăm quân, chiếc chiến thuyền thứ ba này là để chở hàng hóa của đám hào phú trong kinh đến phương Nam. Vương công quý tộc trong kinh sư nhiều vô số kể, những đại gia tộc này ít thì mấy trăm người, nhiều thì hơn ngàn người; ngoại thành Bắc Kinh có được bao nhiêu đất đai có thể nuôi sống được bọn họ chứ? Những gia đình này đã âm thầm bắt tay tham gia vào mậu dịch thương mại từ lâu, hơn nữa còn lợi dụng thế lực của gia tộc thường xuyên lên những con thuyền ”xuôi gió”(*) của triều đình.
(*: hàm ý là thuyền công, không bị tra xét dọc đường, chỉ giương buồm theo gió chạy thẳng (giống xe công, nhỉ?))

Hai ngày trước lúc khởi hành, con trai của Thành quốc công Chu Cương là Chu Hạ Nghĩa và phò mã Tiết Hoàn đã tìm đến nhà mời Dương Lăng vận chuyển hàng hóa dùm, đến nơi sẽ có gia nhân của phủ Thành quốc công tại chỗ tự tiếp nhận. Thành quốc công từng có ơn giúp đỡ Dương Lăng, cho nên yên tâm phái con mình đến, đoán y sẽ nể chút ân tình.

Còn Tiết Hoàn, từ sau khi nữ quan phủ công chúa Ninh Thanh bị đánh chết, nữ quan tân nhiệm lấy bài học đó làm gương, đã không dám quá khắt khe với phu thê hai người. Hai vợ chồng gặng hỏi nô bộc trong phủ nên biết Dương Lăng đã bênh vực giúp đỡ bọn họ, trong lòng lấy làm cảm kích, cho nên đưa hàng lên thuyền xuôi gió kiếm lợi chỉ là thứ yếu, cái chính là biểu đạt lòng biết ơn, kết thêm giao tình.

Dương Lăng nghe vậy đương nhiên đáp ứng ngay, hơn nữa việc này gợi cho y nhớ đến kế hoạch lôi kéo những kẻ quyền quý trong kinh. Y bèn chủ động gợi ý với các vị huân thần công khanh trong kinh rằng mình có thể giúp đỡ bọn họ chuyên chở hàng hóa. Thậm chí cả hai huynh đệ Thọ Ninh hầu và Kiến Xương hầu cũng mê tít cái lợi hậu hĩ mà một chuyến tuần sát phương Nam do chiếc chiến thuyền lớn có thể mang lại, đã mặt dày đưa đến năm xe đặc sản phương Bắc mà phương Nam đang khan hiếm.

Dương Lăng cũng không hề làm khó dễ bọn họ, vui vẻ tiếp nhận toàn bộ. Huynh đệ họ Trương thấy y không hề so đo những hiềm khích trước đây nên rất lấy làm cảm kích. Đương nhiên Dương Lăng có tư tâm, càng có nhiều người ràng buộc chung quyền lợi với y thì sẽ càng có ích cho kế hoạch sau này của y, những người này còn có thể vì thế mà sẽ trở thành ô dù cho y. Cùng với hoàng thân quốc thích, huân thần công khanh tạo dựng quan hệ là một chuyện vô cùng có lợi đối với y.

Hiện tại đám ngôn quan của Ngự sử đài giống như là đã ngủ đông, cả ngày không có chút động tĩnh gì. Nhưng Dương Lăng lại không vì vậy mà xem thường. Y đã cẩn thận bẩm báo trước cho thiên tử Chính Đức biết chuyện này, nói thẳng luôn là mình cũng vận chuyển lậu một ít hàng hóa, nhằm kiếm được một món tiền để mang ít vật quý hiếm ở phương Nam về dâng Hoàng Thượng để bày tỏ tâm ý.

Chính Đức nào biết Dương Lăng "nham hiểm" như vậy, nghe y bộc bạch tâm ý xong, dĩ nhiên cao hứng vô cùng. Dương Lăng dụ dỗ được Hoàng Đế làm đại thủ lĩnh của tập đoàn buôn lậu xong, bản thân cũng yên tâm, như vậy y không sợ lúc rời kinh sẽ bị người đâm lén sau lưng nữa.

Chiêu bài mà Dương Lăng sử dụng là mang danh nghĩa vừa lên nắm quyền ty Thuế Giám, phụng chỉ tuần tra nam Trực Lệ. Chuyện ba vị đại thuế giám của đạo(*) Giang Nam tham ô không được nhiều đại thần trong triều biết đến, nhưng y nghi ngờ rằng nhất định đã có người mật báo cho ba vị thái giám trấn thủ này. Ba vị đại thái giám giống như những ông vua ở bản xứ, sợ rằng bọn họ sớm đã vận sức thủ thế chờ đợi y, phải đối phó với bọn họ thế nào cho ổn thỏa đây? Hiện giờ Dương Lăng chẳng biết gì về tình hình cụ thể nên y cũng chẳng thể nào nghĩ ra được quyết sách cần thiết.
(*: đạo: đơn vị hành chính xưa, như là tỉnh hiện nay)

Chuyến đi Giang Nam lần này so với việc tranh chấp triều chính trong kinh sư càng phức tạp hơn. Nơi đó y lạ nước lạ cái, ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam đã lâu năm nên chắc chắn có rất nhiều tai mắt, thực lực lớn mạnh. Dương Lăng vẫn chưa quên việc đường đường một công chúa mà vẫn bị một nữ quan cỏn con mua chuộc nô bộc cả phủ đùa bỡn trong tay như thế nào. Cho nên y không dám đợi đến khi mình đến tận nơi, để ba đại thái giám chuẩn bị sẵn sàng rồi mới bắt đầu điều tra mà đã phái mật thám ngày đêm gấp rút chạy xuống Giang Nam giám thị hành tung của ba đại thái giám trấn thủ trước.

Cao Văn Tâm đứng một bên lặng lẽ quan sát Dương Lăng đang trầm tư. Cánh mũi y thẳng tắp, bờ môi rõ nét, lông mày tuấn tú thẳng tắp, vóc người cân đối. Ánh mắt của y lúc trầm tư toát lên một vẻ thâm trầm không cân xứng với tuổi tác của y, khiến người khác nhìn vào tim liền đập thình thịch.

Y có một ánh mắt và khí chất khác biệt so với những kẻ cùng lứa. Nhưng khi nghĩ đến bộ dạng ngại ngùng xấu hổ lúc mình châm cứu cho y, khóe môi của Cao Văn Tâm bất giác hé một nụ cười: sự ngượng ngùng của Dương Lăng đã khiến cho sự bối rối của nàng hoàn toàn biến mất. Bây giờ châm cứu đã trở thành tiết mục truyền thống biểu diễn sự xấu hổ của đại đô đốc Nội xưởng mà nàng thưởng thức mỗi ngày.

Ba mươi dặm đường thủy đã mau chóng bị vận tốc của những con tàu khổng lồ rút lại trong phút chốc. Đứng trên đầu tàu, Dương Lăng đã nhìn thấy bến thuyền cạnh hành cung phía xa xa. Trên bến thuyền còn có mấy chiếc thuyền nhỏ hơn một chút đang từ từ rời bến. Ngược lên những bậc thềm đá dọc bến thuyền không xa là một tòa hành cung nguy nga tráng lệ.

Ven con sông đào, cứ cách khoảng một ngày lộ trình đều phải xây một tòa hành cung để Hoàng Đế ngủ trọ mỗi khi rời kinh sư xuống Nam Kinh tuần hành. Thiên tử đi tuần đương nhiên không thể tùy tiện tìm bừa một quán xá nào đó mà nghỉ lại.

Tuy nhiên, những hành cung dọc đường này ngốn không ít tiền của: phải cử quân đóng giữ bên ngoài, bên trong phải có nô bộc chăm nom,… Chỉ riêng chi phí tu bổ mỗi năm đã rất kinh người, nhưng lại không được dùng vào việc gì.

Trừ đại đế Vĩnh Lạc năm xưa từng trọ lại nơi này, các đời hoàng đế về sau đều bị ràng buộc bởi những luật lệ oai nghiêm của thiên tử do chính mình lập ra nhằm phô trương thanh thế, đành bụng làm dạ chịu, cả đời phải tự giam mình trong Tử Cấm Thành như một chú chim hoàng yến bị nhốt trong lồng.

Người ta thường nói khắp dưới gầm trời không chỗ nào không phải đất của vua, nhưng mà ông vua này lại không có quyền tuần du giang sơn của mình. Hành cung cứ bỏ không như vậy, xây rồi sửa, sửa rồi lại sửa thêm, mỗi hành cung sẽ tồn tại hơn trăm năm. Cách hành cung không xa có xây mấy dịch quán. Người của hoàng gia, của các vương phủ lẫn các khâm sai đại thần vãng lai các nơi đều lợi dụng vị thế của bến thuyền này để đỗ thuyền và nghỉ ngơi tại đây.

Dương Lăng xoay người lại, Cao Văn Tâm thấy vậy lập tức thu lại nụ cười trên môi, nhún nhường cúi chiếc cổ thanh tú nho nhã như thiên nga xuống. Dương Lăng đã sớm tinh mắt nhìn thấy nụ cười nơi khóe môi của nàng. Trước đây vị đại cô nương này không hề dám chuyện trò đùa giỡn cùng y, nhưng kể từ lúc để nàng trị bệnh đến nay, ánh mắt lo sợ, cung kính thuở quen biết ban sơ ấy giờ đã dần không còn thấy nữa.

Đau lòng quá, thật nhớ những ngày đã qua quá đi. Dương Lăng vẫn cứ cảm thấy nụ cười mà nàng nhìn mình đã hơi khác với khi xưa, nhưng y đành chịu thôi: phụ nữ mà, xa cách với họ thì họ khiêm nhường, gần gũi với họ thì họ không cung kính. Cả ngày phơi mông cho người ta sờ tới sờ lui, y đâu còn vẻ tôn nghiêm để ra vẻ đại lão gia nữa?!

Dương Lăng hừ thầm một tiếng, nói với Cao Văn Tâm:
- Đi thôi, thu xếp mấy vật tùy thân một chút, chuẩn bị xuống thuyền rồi.

- Dạ, lão gia!
Cao Văn Tâm đáp một tiếng, vừa định xoay người, chợt nghe một tiếng “bình”, thân thuyền chợt lắc lư dữ dội, nàng kêu ối một tiếng rồi ngã nhào vào lòng Dương Lăng. Vốn Dương Lăng đã đứng không vững, lại bị nàng nhào vào lòng, thế là cả hai lập tức cùng ngã xuống sàn.

Không ít nha sai trên thuyền nhất thời không chú ý cũng ngã lăn, nhưng vừa ngã xuống, bọn họ liền lập tức búng người dậy, rút phác đao sáng choang ra một tiếng "keng", nhảy tới bên mạn thuyền quát lớn:
- Kẻ nào dám tập kích thuyền của xưởng đốc đại nhân?

Lúc này năm sáu tay nha sai khác cầm đao xoay người lại, dùng thân làm khiên vây hai người Dương Lăng vào giữa, cẩn thận nhìn khắp nơi. Dương Lăng thầm thất kinh: "Chẳng lẽ là Đông xưởng phái người đến ám toán mình?" Y căng thẳng quát lên:
- Đừng hoảng! Mau xem thử đã xảy ra chuyện gì?

Nằm sấp trong lòng Dương Lăng, Cao Văn Tâm giật mình phát hiện tay y đang đặt lên bộ ngực săn mẩy cao vút của mình, không khỏi vừa giận vừa thẹn. Nàng hơi tức giận trừng mắt nhìn lên nhưng lại thấy Dương Lăng đang ngước mặt lên trời ra vẻ xưởng đốc oai phong, chẳng những không có chút phản ứng gì với việc đang ôm nàng vào lòng, mà dường như y thậm chí cũng không ý thức được rằng bàn tay của y đang đặt lên bộ ngực căng tròn của cô nương nhà người ta. Trong lòng Cao Văn Tâm bỗng nhiên vô cớ lại dâng lên một nỗi thất vọng.

Quả bồ hòn này xem như là phải ngậm trọn làm ngọt rồi. Cao Văn Tâm hận ngứa cả răng nhưng lại không dám lên tiếng, đành vội cuống quýt lồm cồm bò ra khỏi người y. Lúc này chiếc thuyền lớn đã thăng bằng trở lại, một bách hộ đứng trên đài quan sát nhìn thấy tình hình phía dưới, sắc mặt khẩn trương tan đi, lập tức quát lớn:
- Đui mắt chó của ngươi rồi à, sao không biết nhường đường? Cũng không nhìn xem ai đang ở trên thuyền, làm đại nhân kinh hoảng, ta muốn lấy cái đầu của ngươi!

Bách hộ của Nội xưởng vừa dứt lời, liền nghe thấy bên dưới thuyền một giọng thổ âm Sơn Đông còn to gấp đôi gã hét lên:
- Con mạ mi, tay ta nọ sắp rách toác ra rồi ni. Ôi đau quá! Mi mù răng, lái thuyền kiểu chi rứa? Hở! Ôi mạ nó, Thiên sư mô? Trương thiên sư rơi đi mô rồi?

Giọng hắn khá to, Dương Lăng nghe rõ mồn một. Vừa nghe ba tiếng "Trương thiên sư" y cũng giật nảy mình, vội vàng bò dậy. Chạy đến bên mạn thuyền nhìn xuống, y thấy một chiếc thuyền hai cột cỡ nhỏ đã bị đụng vỡ nát đuôi, nước sông đang tràn ùng ục vào trong khoang thuyền, phần đuôi thuyền đã bắt đầu chìm xuống nước, mũi thuyền đang nhổng lên không.

Vài thuyền phu lực lưỡng như cột sắt đang chạy cuống cuồng khắp nơi trên thuyền tìm kiếm cái gì đó, nhất thời cũng không nhìn ra được ai là kẻ chửi bới vừa rồi. Chỉ thấy một văn nhân vóc người gầy gò, ăn mặc văn nhã đang ôm cột buồm kêu gào:
- Đừng tìm nữa, Thiên sư rơi xuống sông rồi, mau xuống dưới tìm đi!

Một thuyền phu có vẻ như là người cầm đầu đét mạnh đùi một cái, quát:
- Mả cha mi, mau nhảy xuộng!

Mấy đại hán thậm chí không thèm cởi bỏ y phục thi nhau nhảy "ùm" xuống nước.

Mấy tay thuyền phu tìm khắp bên đuôi thuyền bị chìm và đầu thuyền bị nhổng lên nhưng đều tìm không thấy. Dương Lăng dựa người vào đầu thuyền mình nhìn kỹ, thấy dưới mặt nước ở đầu thuyền nổi lên một búi tóc, liền vội kêu to:
- Ở đầu thuyền, ở đầu thuyền, mau lên, ai biết bơi? Mau nhảy xuống cứu người!

Tuy nha sai trên thuyền đều là người phương Bắc nhưng cũng có mấy gã bơi lội không tệ, chúng liền vội vứt phác đao, búng người phóng xuống nước, chỉ một lúc sau hai tay giỏi bơi lội đã lôi một người lên. Dương Lăng mừng rỡ hỏi:
- Tìm được Thiên sư rồi à?

Người được cứu mặc đạo bào màu xanh, mũ đạo sỹ không biết đã trôi đi đâu mất, mái tóc dài rối bù nhiễu nước ròng ròng che lấp khuôn mặt, hình như là đã hôn mê. Hai tay nha sai mỗi người một bên đang đạp nước dìu gã, gã thì lại không hề cựa quậy. Một tay nha sai lau nước trên mặt nói:
- Đại nhân! Người này là nữ, không phải là Thiên sư gì đâu.

Dương Lăng nghe vậy thì giật thót mình. Trước kia y từng nghe nói có đạo sỹ tà phái dùng nữ nhân làm lư đỉnh để luyện thái âm bổ dương gì đó, không lẽ đường đường Trương thiên sư cũng là loại rác rưởi này à?

Mấy phu thuyền rất giỏi bơi lội nghe thấy bên này hô lên, bèn ào ào bơi lại rồi cùng lặn xuống đáy sông. Rốt cuộc sau một hồi, ngoài ba trượng có một phu thuyền kéo một người mặc áo xanh lên, lớn tiếng gọi:
- Chộ ni, chộ ni!

Không kịp nghĩ ngợi nhiều, Dương Lăng liền vội kêu người ném dây thừng, trước tiên buộc Trương thiên sư và nữ đạo sỹ đã hôn mê bất tỉnh vào rồi kéo lên, sau đó lại kéo những người còn lại lên thuyền. Lúc này trên bến thuyền, Lưu chỉ huy của Đức Châu từ xa cũng đã trông thấy hai thuyền đụng nhau, vội vàng đích thân cưỡi thuyền chạy đến cứu viện.

Giờ đã biết tiểu đạo đồng bên cạnh Trương thiên sư là gái, hiển nhiên không tiện cấp cứu trước mặt người khác, Cao Văn Tâm vội kêu người ôm cô ta vào trong khoang, tự tay cứu chữa.

Lưu chỉ huy lên thuyền Dương Lăng, đại lễ cũng bỏ bớt, vội vã ra mắt Dương Lăng. Hai người cùng quây quanh Trương thiên sư mặt mày trắng bệch đang hôn mê bất tỉnh. Truyền thuyết Trương thiên sư lên trời xuống đất không gì làm không được, rất là thần thông quảng đại, ở tiên cung cũng có phẩm tước, nào ngờ Long Vương sông này lại chẳng thèm nể mặt gã, cứ thế mà cho gã uống nước no căng bụng. Dương Lăng và Lưu chỉ huy ngồi xổm một bên xem nha sai đang ấn bụng gã để cấp cứu, trong miệng gã không ngừng ộc ra từng ngụm nước trong.

Một lúc sau, Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Chiêm Chân Nhân Trương Nhạc Thạc mới yếu ớt tỉnh lại. Dương Lăng và Lưu chỉ huy sứ thấy vậy không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Vừa mở mắt ra, dường như cũng cảm thấy chuyện Thiên sư rơi xuống sông phải nhờ mấy thuyền phu vừa đè vừa ấn cứu mạng hơi mất mặt nên tuy lờ mờ chưa nhìn rõ người ở trước mặt, tiểu chân nhân đã cười ha hả nói:
- Bần đạo sớm đã bói được trong tháng chín sẽ gặp nạn nhập thuỷ, thì ra là ứng vào hôm nay. Ha ha ha...

Dương Lăng rờ mũi, trong lòng chửi thầm một câu: "Đồ bịp bợm!"

Y chợt nhớ tới trong khoang còn có một tiểu đạo cô xinh đẹp tên là Phù Bảo, không khỏi bồi thêm một câu: "Đồ dâm tặc!"

***********


Màn đêm sắp buông xuống, Trịnh bách hộ bước vào trong khoang thuyền. Nhìn thấy xưởng đốc đại nhân đang cùng Trương thiên sư ngồi đánh cờ tướng, hắn bèn vội đứng nghiêm một bên khom người đợi. Dương Lăng đang nhíu mày, căng mắt nhìn bàn cờ trước mặt, trầm ngâm thật lâu, như thể đang do dự.

Trịnh bách hộ lén đưa mắt nhìn, chợt phát hiện người thị tỳ dáng người cao thon, khuôn mặt xinh đẹp đang đứng duyên dáng sau lưng xưởng đốc hơi rướn người tới phía trước, như thể cũng rất hứng thú theo dõi bàn cờ, nhưng cánh tay ngọc ngà thon thả lại đang lặng lẽ viết chữ lên lưng đại nhân.

Ngón tay trắng nõn của Cao Văn Tâm viết lên lưng Dương Lăng không nhanh, hơn nữa nét viết không nhiều, Trịnh bách hộ nhìn thấy rõ mồn một là chữ "pháo hai bình một". Cô nương này vừa viết xong, liền thấy xưởng đốc đại nhân nhướng mày như mới vừa nghĩ được một nước cờ hay, nhặt pháo lên đập xuống cái chát, nước cờ quả nhiên linh hoạt, gọn gàng, định liệu trước mọi nước.

Trịnh bách hộ thầm đổ mồ hôi, liền vội chuyển ánh mắt để đại nhân đỡ xấu hổ. Nào ngờ hắn vừa chuyển mắt đi, lại trông thấy vị văn sỹ tuổi hơn ba mươi, thân hình gầy còm nhỏ thó đang mỉm cười đứng bên cạnh Trương thiên sư cũng đang đưa một tay viết chữ lên lưng Thiên sư. Trịnh bách hộ không khỏi ngạc nhiên nhìn Dương xưởng đốc và Trương thiên sư, không hiểu hai "con rối" này thực sự đang cố sức làm gì.

Mỗi khi đánh cờ thắng tay mê cờ nhưng kém cỏi như Dương Lăng, Cao Văn Tâm đều vui vẻ rất lâu, dường như nàng rất hả hê với việc khiến Dương Lăng nếm mùi thất bại. Nếu muốn nàng giả bộ thua Dương Lăng một ván để y vui lòng, còn lâu nàng mới đồng ý. Nhưng lần này mắt thấy Dương Lăng liên tục thua vào tay Trương thiên sư, vị đại cô nương này thực thấy khó chịu trong lòng. Cảm giác đó giống như con mình thì mình đánh được, chứ người ngoài thì dựa vào cái gì? Thế là nàng bèn giúp Dương đại lão gia ăn gian.

Trương thiên sư bị đánh cho tơi bời hoa lá suốt mấy ngày, sau khi rút ra kinh nghiệm xương máu, kỳ nghệ đột nhiên tăng vượt bậc. Cao Văn Tâm đoán là vị Liêu quản sự bên cạnh y đang âm thầm giúp đỡ, thế là lần này nàng cũng so tài cùng hắn, rốt cuộc thành: Dương xưởng đốc và Trương thiên sư minh tranh, còn tiểu thị nữ và Liêu quản sự ám đấu.

Cao Văn Tâm thấy đối phương đi nước cờ ấy, lập tức viết lên lưng Dương Lăng "mã hai thoái bốn", khoé miệng lộ ra một nụ cười, "song mã ẩm tuyền(2)"! Tập kích thành công rồi! Trong ba nước liên tục kế tiếp, nhất định có thể dồn chết đối phương. Quân của Trương thiên sư đang bị con pháo kềm chế nên không thể rút về cứu viện.

Liêu quản sự trợn mắt nhìn một hồi lâu, đoạn nhìn Cao Văn Tâm khẽ thở dài, không hề nói tiếng nào. Trương thiên sư hiểu ý, cười ha hả nói:
- Ta thua rồi!

Dương Lăng liếc Cao Văn Tâm một cái, nàng nháy mắt đáp lại. Dương Lăng phá ra cười to, lúc này mới quay sang hỏi Trịnh bách hộ:
- Chuyện gì vậy?

Giả vờ không nhìn thấy những cái liếc mắt qua lại giữa đại nhân và tiểu tỳ, Trịnh bách hộ khom người đáp:
- Đại nhân! Thuyền đã đến trấn Thượng Hải, đêm nay có cập bến ở đây không ạ?

- Hả? Đến Thượng Hải rồi à?
Dương Lăng ngạc nhiên, vội vàng vén rèm nhìn ra ngoài. Y thấy trên trời đầy sao, bên dưới một mảnh hoang vu, đan xen dọc trên bờ sông chỉ có lác đác vài quán rượu, nhìn ra xa xa cũng chẳng có mấy hộ gia đình, hoàn toàn không giống như thành phố phồn hoa trong ấn tượng của y chút nào. Dương Lăng không khỏi thất vọng hỏi:
- Nơi này chính là Thượng Hải à?

Liêu quản sự còn tưởng vị xưởng đốc đại nhân này chê nơi này nghèo kiết, bèn mỉm cười nói:
- Đại nhân! Tuy thôn trấn này nhìn hơi hoang vắng, nhưng thức ăn cũng khá là phong phú và đặc sắc. Chi bằng chúng ta cập thuyền lên bờ đi bộ một chút, cũng là giải lao cho thân thể đỡ mỏi mệt.

Dương Lăng đồng ý:
- Được, lên bờ đi bộ chút vậy.
Y nhìn quanh rồi hỏi Trương thiên sư:
- Lệnh muội đâu? Mời nàng ấy cùng đi ăn uống chút đi.

Trương thiên sư lắc đầu:
- Muội ấy đã nói hôm nay không khoẻ lắm, chúng ta không cần để ý đến muội ấy. Trở về ta mang chút thức ăn cho muội ấy là được rồi.

Sau lễ đại hôn của hoàng đế, vị Trương thiên sư đã lưu lại trong kinh thăm viếng thân hữu. Thân bằng quyến thuộc của Thành quốc công đông không kể xiết, mỗi nhà dự một bữa tiệc cũng mất hơn nửa tháng, hơn nữa Thiên sư hiếm khi đến kinh thành nên những thân hữu này không khỏi muốn mời y coi giúp phong thủy một chút, xem tướng một tẹo, lần lữa mất xấp xỉ gần hai tháng trời.

Trước ngày y lên kinh, phú hào ở Ngô Trung là Ngô Tế Uyên đã sớm phái quản sự trong nhà đi theo khẩn thiết mời thiên sư sau chuyến đi kinh sư sẽ đến Tô Châu một chuyến để cầu phúc cho Ngô lão thái gia. Nhà họ Ngô tuy cách xa Long Hổ sơn nhưng đã là tín đồ thành kính của Thiên Sư đạo. Hơn trăm năm trước, vào thời Chu Nguyên Chương khống chế Đạo giáo và Phật giáo cực kỳ nghiêm khắc, trên Long Hổ sơn nhang khói ảm đạm, đời sống gian nan, nhà họ Ngô đã lén phái người đến cúng dường tiền bạc và dầu mỡ tài trợ cho mấy trăm đệ tử Long Hổ sơn vượt qua khó khăn, có thể nói gia tộc họ là người có ơn rất lớn với Thiên Sư đạo.
(Ba_Van: tuy tác giả không nói rõ nhưng qua mạch truyện, chúng ta đoán biết vị quản sự của Ngô Tế Uyên chính là Liêu quản sự)

Đã có ngọn nguồn như vậy, tiểu thiên sư khó lòng từ chối tấm thịnh tình, đành phải đi theo hắn. Ai dè vừa mới rời khỏi bến thuyền của hành cung tại Đức Châu liền đã bị thuyền lớn của Dương Lăng đâm hỏng. Dương Lăng cũng thấy áy náy không thôi, thế là mời bọn họ lên thuyền đi cùng.

Nha sai hò lớn ra lệnh cho lái thuyền cập bến, bắt ván lên bờ. Cả bọn cùng xuống thuyền, chọn lấy một khách điếm nho nhỏ. Quả nhiên khách điếm nhỏ này có phong vị đặc sắc riêng: quán rượu lại là một chiếc thuyền be bé neo bên bờ sông, khẽ lắc lư theo nhịp vỗ của sóng.

Ở nơi này, trong thời tiết như vậy, muốn thưởng thức đặc sản đương nhiên là phải ăn cua. Liêu quản sự gọi bà chủ thuyền mặt mày niềm nở hâm cho hai bình rượu, rồi cười nói:
- Gió tây thổi, cua ngứa chân. Giờ là cuối thu, trời trong gió mát, chính là thời tiết để thưởng thức cua. Dương đại nhân! Thiên sư! Mời nếm thử đặc sản nơi này.

Tháng chín ăn cua mái, tháng mười ăn cua đực. Những chiếc khay bà chủ thuyền bê lên đều chất đầy cua mái lớn. Trước đây khi ăn cua, Dương Lăng đều chặt ra rồi cầm đũa chọc bừa một trận, nào biết phương pháp kỹ xảo gì? Mắt thấy Trương thiên sư và Liêu quản sự cầm cả con cua lên ăn một cách có quy trình hẳn hoi, bất giác y hơi lưỡng lự.

Tâm tư tinh tế, nhận thấy thần thái của lão gia khác thường, lập tức Cao Văn Tâm lanh trí cầm lấy một con cua, bóc mai, tách chân, khạy bỏ bọng và tai đi, lại dùng chân cua nhọn khảy bỏ yếm và ruột, đặt khối thịt cua trắng tinh thơm phức vào trong bát, trao cho Dương Lăng và mời:
- Lão gia! Món này không cần phải chấm dấm gừng, mùi vị nguyên chất càng thơm hơn, mời lão gia nếm thử một miếng.

Liêu quản sự thấy nàng thức thời hiểu chuyện như vậy, không khỏi tán dương:
- Đêm thanh hoa tỏ ý, canh vắng rượu rót đầy, đại nhân thật là tận hưởng trọn ý vị của đời người rồi!

(Nguyên văn: “深得个中三味”, “thâm đắc cá trung tam vị”. Trong văn hóa Phật Giáo, khi hiểu sâu sắc một sự việc hoặc một loại tình cảm thì được gọi là thâm hiểu một trong tam vị;
Tam vị có ý nghĩa thay đổi theo từng tôn giáo, từng nền văn hóa nhưng thường có nghĩa là linh thiêng, hoặc là tổng thể của vạn vật.)


Lời của Liêu quản sự tuy là khen ngợi, nhưng lại hơi lập lờ thân phận của Cao Văn Tâm(3). Cao Văn Tâm nghe vậy cảm thấy hơi bị khinh bạc, mặt không khỏi đỏ lên, có phần tức giận.

Dương Lăng thấy vậy liền vội lái qua chuyện khác, bảo:
- Khi nãy đánh cờ lại quên uống trà, bây giờ thấy khát khô cổ rồi. Nhà đò! Châm dùm ấm trà với.

Cao Văn Tâm nghe vậy bèn nhắc khẽ:
- Lão gia! Tuy cua có mùi vị thơm ngon, nhưng là thức ăn hàn, chốc nữa gọi bà chủ thuyền đem canh gừng pha mật đường uống mới tốt, vừa giải khát lại bổ người. Hay đừng uống trà vậy?!

Liêu quản sự lại cười nói:
- Đại nhân là người phương Bắc, cũng không thích rượu mà thích trà sao? Uống một chút cũng không sao đâu.
Vừa nói hắn vừa cẩn thận lôi từ trong ngực ra một chiếc túi vải, cười nói:
- Tiểu nhân mời đại nhân thưởng thức món trà ngon cực phẩm này. Một túi trà đây vẻn vẹn chưa tới một lạng (50gr - ND), mà trị giá bốn lạng bạc, tiểu nhân còn phải năm lần bảy lượt thỉnh cầu mới kiếm được. Hề hề, đúng thật là đồ tốt có tiền chưa chắc đã mua được à!

Nói đoạn hắn gọi chủ thuyền bảo đem chén tới, rồi nhón từng dúm nhỏ bỏ vào từng chén một.

Một lạng bạc đủ để một gia đình nông dân tiêu dùng suốt cả năm. Một lạng trà này lại có trị giá tới bốn lạng bạc, còn là nhờ vào quan hệ xin xỏ mới có được, vậy bình thường để mua được cần phải tốn bao nhiêu tiền bạc đây? Dương Lăng nghe mà kinh hãi, bất giác hỏi:
- Đây là trà gì vậy? Không ngờ lại mắc đến như vậy!

Liêu quản sự đáp:
- Đây là trà xuân (*) Long Tĩnh chánh gốc của Tây Hồ. Không giấu gì đại nhân, tiểu nhân hầu hạ ở Ngô phủ cũng tích góp được chút gia sản, có điều cho dù tiểu nhân chịu bỏ tiền, loại trà ngon cực phẩm này cũng khó cầu lắm cơ.
(*): loại trà tươi, được hái trước tiết Cốc Vũ (bắt đầu vào ngày 20 hoặc 21 tháng 4 dương lịch, kết thúc vào ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch- Ba_Van)

Dương Lăng nhớ hình như ở đời sau, trà Long Tĩnh được bán đầy đường, không lẽ hiện tại vì trồng trọt quá ít, cung cầu chênh lệch nên mới đắt như vậy sao? Bị Vu Vĩnh lây nhiễm nên bây giờ trong bụng y cũng là một bồ "thương nhân", vừa nghe có thứ có thể kiếm ra món lợi kếch sù, y liền hết sức chú tâm.

Dương Lăng lập tức mừng rỡ ra mặt, hỏi:
- Thứ này trồng quá ít hay khó trồng vậy? Liêu quản sự là người địa phương Tô Hàng, thế mà cũng khó mua sao?

Liêu quản sự cười đáp:
- Cho dù là phú thương bản địa ở Hàn Châu cũng đến tám chín phần mười cầu mà không được đó. Ha ha, Mạt Thanh Hà Mạt công công đã cho người suốt ngày trấn giữ vườn trà, một chỉ (5gr - ND) trà cũng không được phép mang ra. Phàm kẻ nào trộm hái lá trà đều bị đánh năm mươi gậy, cùm xích ba ngày thị chúng. Ngài nghĩ xem, còn ai uống được nữa chứ?

Mạc Thanh Hà? Mạc công công chủ quản thuế má cung ứng trà và thóc gạo lương thực? Đây chẳng phải là một trong ba thái giám trấn thủ mà mình muốn điều tra lần này sao? Lão ta chỉ phụ trách thuế má, cho dù trà này là trà cống phẩm thì cũng phải do Tri phủ Hàng Châu phụ trách trông nom và cai quản chứ nhỉ?! Sao lão ta lạm quyền, trực tiếp sai người đến tiếp quản vườn trà vậy?

Sinh nghi, nhưng mặt không hề đổi sắc, y ra vẻ bình thản hỏi:
- Trà Long Tĩnh tiến cống không phải do tri phủ Hàng Châu quản lý sao? Thì ra... Mạc công công cũng có quyền giám sát.

Liêu quản sự đắc ý đáp:
- Vườn trà sản xuất ra trà Long Tĩnh chính gốc chỉ có ở mấy vùng đồi núi như Tiên Nhân Xung, Hoàng Khê Giản, Ô Mai Tiêm và Mông Độ Loan, tổng cộng chỉ có mười mấy mẫu, một năm sản xuất được không đến ba bốn trăm cân, chỉ riêng dùng làm cống phẩm cũng đã không đủ rồi. Long Tĩnh được bán trên chợ đều là sản phẩm của mấy huyện lân cận Hàng Châu, giả mạo trà Long Tĩnh chính gốc, mùi vị thật sự kém hơn rất nhiều.

Mạc công công lo có người hám lợi, trộm trà tiến cống bán ra ngoài nên đã sai người giám sát những vườn trà này, ngay cả tri phủ Hàng Châu cũng không được dây máu ăn phần. Bây giờ mỗi năm toàn bộ trà xuân Long Tĩnh cực phẩm đều được dùng để dâng lên cho kinh sư và vài vương phủ. Qua mồng tám tháng tư, mới cho phép phủ Hàn Châu đem trà đặc sản ra bán để thu thuế. Cháu của tiểu nhân là quản sự thân tín dưới trướng Mạc công công, biết tiểu nhân thích uống trà nên khéo lời cầu xin Mạc công công, Mạc công công mới đưa cho bấy nhiêu. Mặc dù đây cũng không được tính là hàng cực phẩm của vua chúa, nhưng cũng chẳng thua kém bao nhiêu, mời đại nhân nếm thử.

Dương Lăng cười nhạt, trong lòng không để ý lắm. Nghe hắn khoác lác đến trời, làm như túi trà của hắn là vật thế gian khó cầu lắm ấy? Ở Đông Noãn các tại cung Càn Thanh y cũng đã uống không ít các loại trà xuân cực phẩm được dùng làm cống phẩm, so với loại trà này còn hơn một bậc, song đương nhiên y không cần phải khoe khoang những lời này với Liêu quản sự làm gì.

Y hờ hững tiếp lấy chén trà, mở nắp ra, dưới ánh đèn chỉ thấy nước trà trong vắt, màu sắc xanh biếc, bên trong trôi nổi vài lá trà. Một mùi thơm dịu nhạt bay lên thấm thẳng vào trong tim phổi. Ban đầu mùi hương thơm mát đó khiến cho người ta cảm thấy thanh nhã, sau lại cảm thấy mùi hương u nhã đó vấn vương không dứt, tuy không nồng nàn, nhưng lại giống như mùi thơm dịu của hoa cỏ đồng nội trong tiết xuân, lưu luyến mãi không rời.

Mặc dù màu sắc của chiếc lá trà trong chiếc chén thô kệch này và của loại cực phẩm trong cung giống hệt nhau, nhưng mùi hương lại hoàn toàn không thể so sánh. Cầm chén trà trên tay, bất giác Dương Lăng ngây người.





---



Chú thích:

(1) đây là một phong tục vùng Giang Nam, ngồi thuyền nhỏ trên sông, câu cua, hấp chín, lột cua ra ăn giữa trăng thanh gió mát, nghe sóng vỗ rì rào.

(2) hai Mã cùng uống nước suối, chỉ sức tấn công phối hợp của hai quân Mã - cũng là một đòn rất lợi hại

(3) chữ hoa trong câu thơ ám chỉ người con gái đẹp hoặc kỹ nữ; đó là lý do tại sao Cao Văn Tâm lại nổi giận.

Chương 124 Quỷ quyệt khó biết (phần 1)

------------------------

Liêu quản sự thấy Dương Lăng cầm chén trà có vẻ đăm chiêu, vội thấp thỏm dò hỏi:
- Đại nhân! Phải chăng... phải chăng loại trà này không hợp với khẩu vị của ngài?

- Hả? Ồ! Đâu có, đâu có! Loại trà ngon cực phẩm này lúc ở trên kinh sư bản đốc cũng chưa từng được thưởng thức. Thật là hương thơm nức mũi, toàn thân thư thái!

Dương Lăng thấy hắn hỏi dò, vội lấy từ trong ngực ra một chiếc khăn gấm trải lên bàn, giả vờ thèm thuồng nói:
- Liêu quản sự có thể san sẻ chút trà ngon cực phẩm này cho bản đốc ta được không? Uống xong nước trà này của huynh, khẩu vị của bản đốc đã bị nâng lên rồi, trà thường thật sự là nhạt nhẽo vô vị.

Y nói xong đưa mắt ra hiệu cho Cao Văn Tâm, Cao Văn Tâm vội lấy ra một thỏi bạc nhỏ không ít hơn mười lạng đặt lên bàn.

Liêu quản gia nghe y khen, bất giác có cảm giác được yêu mến mà áy náy. Hắn vui vẻ móc túi lấy túi trà nhỏ đó ra, hai tay đưa qua:
- Đại nhân nói như vậy hẳn là đại nhân rất thích loại trà này. Là người Hàng Châu, tiểu nhân cũng được vinh dự lây vậy! Ha ha, chút trà này chỉ là tâm ý nhỏ nhoi không tỏ được lòng tôn kính, xin đại nhân vui lòng nhận dùng tạm dọc đường. Đợi đến nơi rồi, chỉ sợ Mạc công công sẽ còn có phần lễ vật lớn cho ngài đó.

Dương Lăng âm thầm cười khẩy trong lòng: "Mạc Thanh Hà dối trên lừa dưới, dùng kém trám tốt, cả gan đánh tráo cả trà tiến cống cực phẩm. Hắn lại dám đưa trà tiến cống cực phẩm cho mình thấy ư?"

Liêu quản sự ra sức từ chối không nhận bạc của y, Dương Lăng đành kêu Cao Văn Tâm cất bạc lại, rồi nhận lấy túi trà trong tay hắn.

Một cơn gió ùa đến, thổi tung chiếc khăn tay của y đang đặt trên bàn . Liêu quản sự tinh mắt, liếc mắt nhận thấy đó là lụa cực phẩm Tô Châu, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ kêu lên:
- Chiếc khăn tay này của đại nhân thực đúng là cực phẩm à nha!

Hắn vừa nói vừa nhẹ nhàng nhặt chiếc khăn tay lên, quan sát cành hoa mai thêu màu rực rỡ bên trên, khen ngợi:
- Thêu thật khéo! Thiếu nữ Giang Nam tính tình đặc biệt dịu dàng, thông minh khéo léo, sở trường nhất là đường thêu bay bướm, ăn nói tế nhị. Nhưng muốn nắm vững thuần thục loại kỹ thuật thêu thùa này, có rất nhiều cô nương cho dù dốc sức cả đời cũng chưa chắc đã có thể nắm bắt được. Chiếc khăn lụa này thật sự là tác phẩm của bậc thầy chân chính, có tiền cũng chưa chắc mua được, không dễ kiếm đâu!

Chiếc khăn tay đó là của công chúa Vĩnh Phúc dùng để bọc cặp xuyến ngọc Bàn Long bị Dương Lăng thuận tay nhét vào ngực khi y vào hậu cung bắt trộm. Ban đầu y có ý định sẽ trả lại cho công chúa, nhưng chờ mấy ngày mà cũng không có cơ hội gặp lại nàng.

Dương Lăng chợt nhớ đến một minh tinh nổi tiếng ở thời hiện đại mà đã có không biết mấy trăm bộ giầy dép và quần áo, huống chi là đường đường một công chúa Đại Minh? Chắc chắn người ta cũng sẽ chẳng quan tâm đến một chiếc khăn tay, thế là y thuận tay cất trên người luôn. Nếu không phải vì chiếc khăn này là do y thuận tay vớ được mà lấy mang đi tặng Ấu Nương thì thực thẹn với lòng thì y đã sớm mượn hoa kính phật rồi.

Lúc này nghe Liêu quản sự nhận định chiếc khăn gấm bé xíu này quý giá như vậy, y lại hơi hối hận vì đã không đem nó tặng cho Ấu Nương. Nghe thế, Trương thiên sư nổi lòng hiếu kỳ bèn cầm lên quan sát kỹ rồi nói:
- Đúng rồi! Quả nhiên là vật phẩm chất lượng tốt nhất trong số lụa Tô Châu. Ha ha, có điều màu hoa này hơi loè loẹt quá, Dương đại nhân mang theo người không thích hợp cho lắm!

Thiên sư vừa cười vừa mở chiếc khăn tay ra. Nhìn thấy cành hoa mai cổ xưa dưới góc bên phải hơi có chút kỳ lạ, chàng ta nâng khăn lên nhìn cẩn thận. Đột nhiên phát hiện ra ý nghĩa sâu sắc trong đó, Trương thiên sư giật nảy mình, suýt nữa buông tay khiến chiếc khăn bay đi theo gió.

Màn đêm u ám, ánh đèn mờ nhạt, người khác không quá để ý đến đoá hoa mai ở góc khăn. Nhưng Trương thiên sư cả ngày nghiên cứu bùa chú, những cổ tịch đạo gia trên Long Hổ sơn hầu hết đều là vật trân quý từ thời thượng cổ, văn tự ghi trên đó đều là những thứ cực kỳ cổ xưa cho nên Trương Ngạn Thạc rất am tường về chữ triện cổ.

Chàng ta thấy hoa mai trên góc khăn đó không ngờ là bốn chữ triện thêu thành, tiếp đó lấy bốn chữ tiểu triện hình hoa mai hợp lại thành một bức hình hoa mai, nếu không biết những chữ đó thì thực sẽ không nhận ra. Quả nhiên là hao phí tâm tư, khéo léo vô cùng.

Nhìn kỹ chữ thêu đó thì lại là bốn chữ "Vĩnh Phúc Tú Ninh". Công chúa Vĩnh Phúc khuê danh là Chu Tú Ninh, lúc Trương thiên sư lập đàn cầu phước cho hoàng thất trong cung đã biết được tên nàng; lúc này nhìn thấy trên chiếc khăn tay có cả hai chữ Vĩnh Phúc và Tú Ninh, làm sao chàng ta không đoán được đây là vật kề thân của công chúa chứ?

Trương thiên sư kinh hãi đến tim đập thình thịch. Đừng nói là Dương Lăng đã cưới thê nạp thiếp, cho dù hiện giờ y chưa vợ cũng không được phép cùng công chúa ngầm tặng tín vật, thầm trao tâm tình. Chẳng lẽ... chẳng lẽ Dương xưởng đốc gan lớn trùm trời, dám tư tình với công chúa sao?

"Người khôn phải biết giữ mình, người khôn phải biết giữ mình!" Từ khi bá phụ bị lưu đày, Trương Ngạn Thạc và phụ thân đều cùng dè chừng cẩn thận mọi lúc mọi nơi, chỉ sợ sẽ chạm vào vảy ngược(1) của hoàng thất. Phát hiện chuyện bê bối này của hoàng thất, chàng ta lập tức ra vẻ điềm nhiên như không đưa trả lại khăn lụa, trong lòng âm thầm phát thệ: "Đời này tuyệt sẽ không để cho người khác biết được mình nhận ra các chữ triện hoa mai này!"

Mặc dầu đã đến thời đại này được một khoảng thời gian, cũng biết được chút ít cấm kỵ, nhưng Dương Lăng nào có thể gặp chuyện gì cũng lo trước tính sau giống như đang đi trên băng mỏng, cho nên y hoàn toàn không hề để ý gì cả. Y thoải mái cầm lấy chiếc khăn tay nhét vào trong người rồi cười nói:
- Đã vậy, bản đốc xin cảm tạ Liêu quản sự!

****************


Trương Phù Bảo mượn cớ thân thể không khoẻ, tắm rửa thay đồ, nhập định trọn một canh giờ mới cảm thấy tinh thần sảng khoái. Thấy mình hơi có linh cảm, nàng vội cầm lấy công cụ bói toán tự bói cho mình một quẻ. Đạo hạnh của nàng có hạn, bói mãi nhưng chỉ mới ra được câu đầu, lại giống hệt với lời bình mà phụ thân đã cho nàng. Trong lòng tiểu cô nương càng bứt rứt hơn.

Nàng biết đạo hạnh của anh trai cao thâm hơn mình một chút, cũng từng có ý muốn nhờ y bói toán nghiệm chứng cho mình. Nhưng cho dù quẻ bói này can hệ đến cả đời nàng đi chăng nữa, một tiểu cô nương mười ba mười bốn tuổi nào lại có da mặt đủ dày nôn nóng đi tìm anh trai bói tìm lang quân trong mộng tương lai cho mình chứ?

Trương Phù Bảo hai tay chống cằm, chơm chớp đôi mắt tròn xoe, trầm ngâm lẩm bẩm: "Bán luân minh nguyệt nhất giang thủy, bạch cốt sơn thượng địch hồng tiêu. Binh qua khởi thời xuân ảnh động, Lão Quân tượng tiền hứa lương nhân*."

*Tạm dịch:
Nửa vầng trăng sáng, một dòng sông
Trên Bạch Cốt sơn rửa lụa hồng*
Dáng xuân lả lướt thời chinh chiến
Hẹn chàng trước tượng Lão Quân trông
.
*(lụa hồng) cũng chỉ người con gái đẹp

Đọc đi đọc lại mấy lần nhưng ngẫm mãi không thông, Trương Phù Bảo căm tức vỗ bàn cằn nhằn:
- Cha thật đáng ghét! Con gái của mình mà cũng giả thần giả quỷ. Bói không ra thì thôi, bói ra được thì nói thẳng với mình cho xong, hại mình phải đoán tới đoán lui!

Nàng chán nản nhảy xuống giường, đẩy cửa sổ, ngước nhìn vầng trăng sáng tỏ trên bầu trời, hai con ngươi sáng ngời phản chiếu ánh trăng lấp lánh. Nàng si mê ngơ ngẩn hồi lâu, trong lòng thầm nghĩ: "Không thể là y, nhất định không thể là y. Y đã có thê tử, Bảo Nhi mình sao có số làm thiếp người ta được?

Cho dù y có tài ba hơn nữa mình cũng không thể gả cho y được, nhất định là mình nghĩ ngợi lung tung rồi. Nửa cái bánh nướng thế nào cũng không thể tính là nửa vầng trăng tỏ chứ? Vả lại mình ngã là ngã xuống sông đào, chứ đâu phải ngã xuống sông lớn, ngụ ý(2) đâu phải là ngụ ý theo kiểu này. Hơn nữa ba câu sau cũng không khớp với y mà!"

Nghĩ đến đây, dường như Trương Phù Bảo hơi yên tâm, nhưng lại nghĩ đến việc xảo hợp này có thể không liên quan đến y, không hiểu vì sao nàng lại cảm thấy hơi buồn. Nàng giậm chân, tự vả vào mặt mình, xấu hổ tự mắng: "Mi bao tuổi rồi mà lại đi bận tâm mấy cái chuyện này? Đồ nha đầu không có triển vọng!"

Nàng buồn bực mở cửa thuyền, thấy có một nha sai đang xỉa răng đi ngang qua, lúc này mới cảm thấy bụng đang trống rỗng, vội hỏi gã:
- Này, ăn tối rồi sao?

Bây giờ người trên thuyền đều biết nàng là con gái, cũng biết nàng là em gái của Trương thiên sư. Người ta là em gái của quốc sư, đám nha sai thực không dám vô lễ. Tên nha sai đó liền vội làm lễ rồi đáp:
- Vâng thưa tiểu thư, xưởng đốc đại nhân và thiên sư đã xuống thuyền đến ven sông dùng tối rồi ạ!

Nghe nói bọn họ xuống thuyền mà lại không gọi mình, Trương Phù Bảo không khỏi tức giận hừ một tiếng rồi nói:
- Dẫn ta đi. Ta cũng đói bụng rồi.

Ban đầu Cao Văn Tâm đứng cạnh Dương Lăng hầu cơm nhưng rồi bị Dương Lăng bắt ép ngồi xuống cạnh mình. Lúc này nàng vừa nhã nhặn ăn gạch cua, vừa nhanh nhẹn liên tục lóc thịt và gạch cua, kịp đưa cho Dương Lăng đang ngốn lấy ngốn để như bò nhai cỏ.

Lúc uống trà, Dương Lăng lại nhỏ nhẹ nhấp miệng uống từng hớp bát canh gừng pha mật đường nóng hôi hổi. Con thuyền nhỏ khẽ lắc lư, tiếng sóng vỗ rì rào như có như không, cả miệng ngát hương ngào ngạt, quả nhiên sảng khoái vô cùng.

Trương Phù Bảo bước xuống thuyền lớn, được tay nha sai nọ dẫn đến bên chiếc thuyền nhỏ, nhìn thấy bộ dạng nhàn nhã của mọi người, trong lòng càng thêm tức giận. Thế là cũng không thèm đợi bọn họ gọi xuống thuyền, nàng liền không hề khách khí mà chọn lấy một chỗ rồi phịch mông ngồi xuống.

Nàng vẫn mặc một bộ đạo bào nhưng mái tóc dài xõa tung, xinh đẹp thướt tha, trông hồn nhiên và đáng yêu vô cùng. Song khi nàng cầm lấy một con cua lớn lên ăn, tướng ăn lại giống hệt như Dương Lăng.

Chỉ nghe Liêu quản sự cười nói:
- Cho nên có câu “giọng Tô Giang dịu dàng”, vừa ngọt ngào vừa êm ái, lại nghe rất hay. Phụ nữ Tô Hàng nói chuyện luôn luôn nhẹ nhàng, ngọt ngào êm tai. Có người còn bảo, nghe bọn họ cãi nhau cũng là một loại hưởng thụ đấy!

Dương Lăng cười nói:
- Thế à! Ha ha, Hàng Châu ta đã đến một lần, có điều đó là rất rất nhiều năm về... À... về trước, vì đi vội nên chưa thưởng thức được phong thổ lẫn nhân tình nơi phố phường này.

Đang gặm cua, Trương Phù Bảo nghe bọn họ nói chuyện hào hứng sôi nổi, thậm chí anh trai mình cũng như đang thả hồn bay xa, không khỏi hừ một tiếng:
- Nghe nói khâm sai đại nhân điều quân ồ ạt xuống Giang Nam, chắc là có việc công cần làm chứ? Đại nhân ngồi đây ăn uống, trên bờ đã có mấy chục tên vệ sĩ lăm lăm vũ khí rồi. Chẳng lẽ ngài định đến Tô Hàng sẽ dẫn theo cả trăm người vào ngõ hẻm nghe cô nương người ta nói chuyện phiếm ấy à?

Dương Lăng nghe vậy hơi cảm thấy xấu hổ, Cao Văn Tâm thì lại mỉm cười.

Liêu quản sự thấy tình thế không ổn, liền vội đổi đề tài:
- Tiểu nhân nhiều chuyện rồi! Thực ra đại nhân đã đến đó thì đương nhiên là phải nhìn ngắm, thưởng thức phong cảnh vùng sông nước Giang Nam một chuyến. Nói đến phong cảnh, ngày mai chúng ta đến Hàng Châu rồi, những nơi phong cảnh đặc sắc ở Hàng Châu rất nhiều, đứng đầu chính là “Tây Hồ thập cảnh”(3). Phong cảnh ở Tây Hồ còn có rất nhiều câu truyện truyền thuyết, nổi danh nhất chính là về tháp Lôi Phong.

Liêu quản sự thấy vị đại tiểu thư Trương Phù Bảo này xuất hiện thì không còn dám nói về những nét đặc sắc của người con gái vùng Giang Nam nữa mà chuyển sang kể những câu truyện thần thoại. Đương nhiên Dương Lăng cũng biết câu truyện về tháp Lôi Phong nhưng không ngờ câu truyện mà Liêu quản sự kể lại không giống với những gì mà y đã biết.

Theo lời hắn kể, vào năm Thiệu Hưng đời Tống, trong Tây Hồ có yêu quái Bạch xà tu luyện ngàn năm và hầu gái do Thanh ngư (cá trắm đen) hoá thành, trong mưa gặp được một người mở tiệm thuốc tên là Hứa Tiên, hai người vì thế nảy sinh tình cảm, kết làm phu thê. Nhưng Bạch xà và Thanh ngư đều là yêu tinh hoá thân nên không biết lễ nghi nhân gian, thường xuyên làm mất thể diện Hứa Tiên, khiến y khó xử không thôi.

May mắn có vị cao tăng giỏi pháp thuật của Kim Sơn tự là Pháp Hải nhìn thấu nguyên hình của hai con yêu, ông đưa cho Hứa Tiên một chiếc bình bát có pháp thuật. Nhân lúc bọn họ không đề phòng, Hứa Tiên chụp chiếc bát lên đỉnh đầu hai yêu, hai yêu hiện nguyên hình và bị Pháp Hải bắt giữ. Thanh ngư định chạy trốn, bị Pháp Hải huỷ hết pháp thuật phải hiện nguyên hình. Bạch xà bị vị cao tăng đè dưới tháp Lôi Phong, vĩnh viễn không thể siêu sinh.

Liêu quản sự kể xong thì cười nói:
- Hoà thượng Pháp Hải còn từng để lại lời kệ rằng: “Tây Hồ thuỷ kiền, giang hồ bất khởi, Lôi Phong tháp đảo, Bạch xà xuất thế*.” Nước của Tây Hồ làm sao có thể cạn được chứ? Cho nên Bạch xà yêu cũng chỉ có thể vĩnh viễn bị đè dưới tháp Lôi Phong, nhận chịu hết mọi dày vò mà thôi.
* Tạm dịch:
Nước Tây Hồ mà cạn thì giang hồ sẽ không yên.
Khi tháp Lôi Phong sụp đổ cũng sẽ là lúc Bạch xà xuất hiện.

Chàng Hứa Tiên đó được cao tăng cứu giúp, từ đó một lòng hối cải, hành thiện tích đức. Về sau lại cưới vợ sinh con, con trai còn đỗ Trạng Nguyên, cũng xem như gia đình tích thiện rồi.

Trương Phù Bảo tính tình chất phác, nghe xong tức giận nói:
- Cái tên Hứa Tiên đó thực quá vô tình. Tuy Bạch xà là yêu tinh, nhưng đôi bên đều có tình cảm với nhau, lại chưa từng hại hắn. Hắn không quen với hành vi của người ta thì cũng nên niệm tình phu thê mà để người ta ra đi, cớ sao lại giúp tên hoà thượng ác độc khiến thê tử mình chịu khổ dưới tháp Lôi Phong? Bản thân thì lại bỏ vợ, cưới người khác, rồi còn con đàn cháu đống gì đó, hưởng hết vinh hoa phú quý! Như thế còn có thiên lý hay sao?

Chẳng ngờ kể câu truyện này cũng bị nàng mắng, Liêu quản sự không khỏi cứng mồm, đờ cả người. Trương thiên sư thấy vậy cười trách:
- Phù Bảo! Chẳng qua chỉ là một truyện thần thoại thôi, muội so đo làm gì?

Dương Lăng không ngờ câu truyện Bạch xà của thời này lại là một phiên bản như vậy, thế là y nhất thời cao hứng kể câu truyện mà mình được biết. Câu truyện về Thanh xà Bạch xà xuất thế, gặp Hứa Tiên trên cây cầu gãy, lên Nga Mi trộm thuốc cứu chồng, dâng lũ nhấn chìm Kim Sơn, đánh cho Pháp Hải bỏ chạy, được Dương Lăng rù rì kể lại, cảm động lòng người hơn câu truyện của Liêu quản sự gấp không biết bao nhiêu lần. Không những Trương Phù Ngọc nghe say sưa mà cả Cao Văn Tâm cũng lắng nghe đến mê mẩn.

Trương Phù Bảo nghe đến kết cục phu thê đoàn tụ, cùng bay về cõi tiên thì mặt mày rạng rỡ, khen:
- Câu truyện này mới hay.

Rồi nàng cầm một con cua lên, dương dương đắc ý nói:
- Vị Thanh Thanh cô nương đó dùng tam muội chân hoả đốt Pháp Hải, vậy là thần kỹ của đạo gia ta rồi. Ha ha, Pháp Hải bị đuổi đến lên trời xuống đất đều không xong, là trốn trong vỏ con cua này sao?

Dương Lăng lấy làm lạ: "Chẳng lẽ người thời này còn chưa phát hiện đường vân trong mai cua giống hình hoà thượng à?” Y vội cầm một con cua lên, bóc mai ra, quả nhiên vẫn nhìn thấy đường vân giống như hoà thượng đang tĩnh tọa, hình dáng thần thái đây đủ cả, kỳ diệu vô cùng.

Dương Lăng cười đưa cho Trương Phù Bảo nói:
- Cô xem này, lão Pháp Hải đó trốn trên thân con cua đã lâu, giống như Đạt Ma diện bích(4) nhiều năm, để lại cái hình này. Cô xem xem có phải là hoà thượng hay không?"

Trương Phù Bảo cầm lấy đưa lên ánh đèn nhìn kỹ, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ kêu lên:
- Quả nhiên có hoà thượng, quả nhiên có hòa thượng! Ca ca! Thì ra đây không phải là truyện thần thoại, nhất định trước đây thực sự đã có việc này đó!

Trương thiên sư, Liêu quản sự và Cao Văn Tâm ai nấy đều hết sức kinh ngạc tự bóc cua ra quan sát, nhìn thấy mà tấm tắc kêu lạ kỳ. Liêu quản sự cũng khoái chí nói:
- Không ngờ trên đời lại có chuyện kỳ lạ như vậy, trong mỗi con cua lại có một vị hòa thượng. Sao trước nay không ai chú ý nhỉ? Ha ha, thực là thú vị. Tiểu nhân là người Hàng Châu mà cũng chưa từng nghe qua chuyện này. Trở về đem chuyện này kể cho người ta nghe, nhất định trong chốc lát sẽ lan truyền khắp chốn.

Dương Lăng nghe vậy thì giật mình. Câu truyện này đã trải qua không biết mấy thế hệ bổ sung và hoàn thiện, rồi miễn cưỡng ráp vào một ít kỳ văn cổ tích mới trở thành phiên bản của đời sau. Mình nhất thời buột miệng kể ra, hắn lại muốn "xuất bản trước hạn"!

Cao Văn Tâm cũng chưa từng nghe câu truyện này, nhất thời cũng say sưa chìm trong câu truyện tình của Bạch xà và Hứa Tiên. Nàng cảm khái một hồi, dựa vào bóng khuất của ánh đèn lặng lẽ ngắm nhìn vẻ anh tuấn tiêu sái của Dương Lăng, trong lòng thầm nghĩ: "Bạch xà cảm động và ghi nhớ ơn cứu mạng của tiều phu, dám hoá thân thành người, gả làm vợ hắn. Mình... mình thân phận là nô tỳ, song thậm chí cả yêu tinh cũng không bằng, so ra cũng chỉ có thể xem như thị tỳ Thanh xà kia, vác khổ thay người, lo tới lo lui, rốt cuộc vẫn không thành chánh quả."

Cao Văn Tâm nghĩ đến đây, thầm mắng mình một tiếng: "Xì! Mi đang nghĩ bậy nghĩ bạ gì thế, Thanh xà người ta chưa từng có ý với tướng công nhà nàng ấy mà."

Nàng thấy không ai chú ý đến vẻ mặt của mình, không khỏi lại suy nghĩ tiếp trong lòng: "Thanh xà đó ra sức trả công không lời than oán như vậy, thật sự chỉ xuất phát từ tình cảm tỷ muội ư? Nàng ấy... nàng ấy có bao giờ thích vị công tử Hứa Tiên đó không? Nếu nàng ấy thổ lộ tình ý với Hứa Tiên, tiểu thư lại có tình như thủ túc với nàng, Hứa Tiên có sẽ... có sẽ cưới nàng về hay không?" (TheJoker: nếu là mềnh mềnh cưới ngay! Kết em này sau mỗi Ấu Nương thoai hix)

... ... . . .


Đêm đã khuya, gió đã trở lớn, mặt nước nổi lên những bọt hoa sóng trắng, từng đợt từng đợt vỗ vào con thuyền cá nhỏ bé. Dòng cảm xúc của Cao Văn Tâm cũng bắt đầu giống như con thuyền nhỏ trên sóng, dập dềnh chao đảo.

Vầng trăng như lụa, sóng khẽ vỗ bờ, gió thu nhẹ thổi, ánh mắt mông lung. Con tim không rượu cũng say.

****************


Xa giá nghênh đón quan khâm sai đã đợi trên bến thuyền từ lâu. Mặt trời còn chưa xế núi, thái giám trấn thủ lương trà* Mạc Thanh Hà, thái giám trấn thủ dệt may Tô Hàng kiêm chưởng quản ngự dụng long y** Lý Đại Tường cùng thái giám trấn thủ thuế quan thủy bộ Viên Hùng đã dẫn đầu đám người ra sông đón đợi.
(*: lương thực và trà
**: quần áo hoàng thất)

Dương Lăng là xưởng đốc Nội xưởng, chuyện y xuôi Nam tuần tra trưng thu thuế má không can hệ với Tam ty lắm, nhưng thân phận của Dương Lăng hiện tại không thể coi thường. Vì vậy Bố chánh sứ, Án sát sứ và Đô chỉ huy sứ của Chiết Giang cũng chạy đến nghênh đón. Tri phủ Hàng Châu Dương Vu Anh là chủ nhà song lại bị chen lấn, đẩy dạt sang một bên.

Do sứ giả mau mồm mau miệng rao truyền tin Trương thiên sư cưỡi thuyền quan của Dương đại nhân cùng đến Hàng Châu, đám đạo trưởng của mấy đạo quán lớn ở địa phương cũng rất cao hứng đến bến thuyền chờ đón tổ sư gia, chen lấn đứng cùng đám danh nhân thân sỹ của địa phương.

Điển sứ, tuần kiểm mặt mày căng thẳng đang chỉ huy hơn trăm nha sai duy trì trật tự.

Đoàn long kỳ màu vàng sậm vừa đập vào mắt, đám người liền bắt đầu nhốn nháo. Ba đại thái giám trấn thủ và các vị quan lại vén áo bào chậm chậm bước xuống thềm đá, đi đến đầu bến. Thuyền lớn vừa cập bờ, đội chiêng trống do đám thân sỹ tổ chức liền nổi nhạc ầm lên, pháo nổ đì đùng không dứt, khắp nơi nhất thời mịt mù khói pháo.

Đạp ván xuống thuyền, hai bách hộ dẫn hơn trăm tay nha sai bước xuống thuyền trước, chia thành hai hàng hình cánh nhạn. Dương Lăng và Trương thiên sư vừa sánh bước xuất hiện, lập tức trên bến thuyền tiếng tung hô loạn lên:
- Hoan nghênh đề đốc nội xưởng, thị vệ thân quân khâm sai Dương đại nhân!
- Vô lượng thiên tôn, đệ tử cung nghênh thiên sư pháp giá quang lâm!

Trông thấy cảnh hỗn loạn đó, Trương thiên sư và Dương Lăng không khỏi nhìn nhau cả cười. Trương thiên sư lần này đến Hàng Châu với thân phận cá nhân nên không muốn dây dưa với phía quan lại lắm; thiên sư chỉ chào hỏi chuyện trò cùng các vị quan lại đến nghênh đón một lúc rồi dẫn em gái mình đến gặp đạo nhân và tín đồ của các đạo quán ở địa phương.

Trước mặt Dương Lăng là một đám quan viên đang khúm na khúm núm túm tụm vây quanh y. Thuế giám lương trà Mạc Thanh Hà Mạc công công đi đầu bước lên phía trước, mỉm cười thi lễ:
- Khâm sai đại nhân đi đường mệt nhọc, thật vất vả rồi. Ty chức Mạc Thanh Hà cùng Lý Đại Tường, Viên Hùng và quan viên của Tam ty cung nghênh đại nhân.

Dương Lăng quan sát hắn. Vị đại thái giám Mạc Thanh Hà này tuổi trạc tứ tuần, vóc người cao to, dáng vẻ đường đường. Mặc dầu hắn là công công trấn thủ địa phương, phẩm hàm không bằng đám công công của ty Lễ Giám trong kinh, nhưng có lẽ bởi không phải hầu hạ dưới chân thiên tử nên ngực hắn ưỡn cao, không như đám thủ lĩnh Ty lễ giám đầy quyền lực nhưng lưng vai lúc nào cũng quen khom cúi; khí chất phong độ ấy trông thật bất phàm.

Hai thái giám phía sau lại không bằng anh bằng em. Thái giám trông coi dệt may Lý Đại Tường da thịt trắng bủng, mày đen mắt híp, thực có mấy phần ẻo lả. Còn Viên Hùng cai quản ty thuế quan, kiêm nhiệm giám quân sứ giám sát mấy ngàn quân của Long Sơn vệ lại gầy gò nhỏ thó, cằm nhọn má hóp, mặc bộ quan bào rộng thùng thình, như thể gặp gió thổi liền sẽ bay lên trời vậy.

Hai người cũng vội vàng bước lên ra mắt Dương Lăng. Không những Dương Lăng là khâm sai, là xưởng đốc Nội xưởng, mà sau này còn là lãnh đạo trực tiếp của ba người. Ba ông chúa đất địa phương này dĩ nhiên sẽ khom lưng uốn gối ra sức bợ đỡ y rồi.

Đợi ba người vỗ mông ngựa một trận xong, Bố chánh sứ ty Ngưu đại nhân mới cùng hai vị đại nhân khác bước lên, cười nói với Dương Lăng:
- Cung nghênh khâm sai đại nhân! Dương đại nhân đi đường vất vả, chúng tôi đã bày tiệc rượu ở lầu Túy Tiên tiếp đãi tẩy trần cho đại nhân rồi. Mời đại nhân sang ngồi kiệu, chúng ta đến nơi sẽ nâng chén kính lời, thỏa sức no say.

Tuy các vị quan to địa phương này không sánh bằng mấy vị thái giám nọ, nhưng Dương Lăng cũng không dám vô lễ với bọn họ, y bèn vội ôm quyền từ tạ:
- Bản đốc phụng chỉ tuần tra, các vị đại nhân trăm bề bận rộn mà vẫn đến nghênh tiếp, thực khiến tại hạ sợ hãi. Thật ra tại hạ đi đường mệt mỏi, lúc này mong muốn nhất là được tắm rửa một hồi, nghỉ ngơi cho khoẻ, thật sự không muốn làm phiền đến các vị đại nhân.

Mạc Thanh Hà nghe vậy vội cười nịnh:
- Xưởng đốc đại nhân! Lầu Túy Tiên nằm ngay dưới chân núi Cô Sơn*, cách hành dinh khâm sai của ngài chỉ có một dặm đường. Các vị đại nhân đều có lòng tốt, xin xưởng đốc đại nhân chớ nên khước từ.
(* thực ra chữ “sơn” đã là núi rồi, nhưng nhóm dịch vẫn giữ nguyên “Cô sơn” để đọc khỏi thấy trỏng trỏng, giống như vẫn giữ “sông Hoàng Hà” vậy)

Dương Lăng nghe hắn nói vậy cũng không tiện từ chối quá mức. Chén tạc chén thù trên quan trường vốn là chuyện nể mặt mũi nhau, nếu như anh không đi, mặc dù tiết kiệm được tiền bạc cho người ta nhưng chắc chắn trong lòng người ta cứ vẫn không vui. Y đành mỉm cười đáp:
- Nếu như thế thì làm phiền các vị rồi.

Mạc công công vui vẻ kêu người lên thuyền đưa hành trang của Cao Văn Tâm và Dương Lăng về hành dinh, còn mình và các vị đại nhân và những nhân vật danh tiếng địa phương đi cùng Dương Lăng. Chỉ kiệu quan không đã là mấy chục cái, phía trước có đoàn gõ chiêng dẹp đường, đoàn người cuồn cuộn thẳng hướng đến lầu Túy Tiên mà đi.

Lầu Túy Tiên là tửu lâu nổi tiếng và xa hoa nhất Hàng Châu, nằm ngay dưới chân núi Cô Sơn. Tuy những tửu lâu xa hoa của kinh sư cũng rường cột chạm trổ, nguy nga lộng lẫy như thế, nhưng luận về ý cảnh sẽ không thể nào sánh được với nơi này. Dương Lăng bước vào tửu lâu mà như đang đi vào một lâm viên. Hành lang bên trong đình viện rộng lớn uốn lượn khúc khuỷu quanh co, hoa thơm chim hót. Trong sân có vài căn gác nhỏ tinh xảo độc đáo, thi thoảng vẳng ra những tiếng đàn du dương.

Hàng người đi qua ba khu lạc viện, men theo con đường nhỏ rải đá trắng tinh, vượt qua một chiếc cầu nhỏ nên thơ, xuyên qua một khu rừng trúc mới đến một căn gác nhỏ. Những cây trúc cao lớn che chắn làm nổi bật căn gác nhỏ màu hồng trong đó. Trúc xanh đong đưa giam hờ căn gác trong sự thanh tao tĩnh mịch, khiến người ta cảm thấy vui vẻ thoải mái. Dương Lăng vừa trông thấy, thân thể đang mệt mỏi lập tức phấn chấn lên.

Khi nãy trong kiệu y vẫn chưa kịp ngắm cảnh sắc Giang Nam, giờ chỉ cần nhìn thấy một góc này quả nhiên đã tựa như tiên cảnh. Mọi người bước vào gác, phân ngôi chủ khách an tọa. Còn chưa kịp chuyện trò, một hàng thiếu nữ váy trắng vải xanh, tà áo tung bay đã bưng trái cây và trà thơm lả lướt đi tới.

Váy áo tung bay, dáng người tha thướt, mắt như thu thủy, mày tựa núi xa. Những người con gái này dung mạo tịnh không phải tuyệt sắc thượng thừa, song hiếm thấy chính là ngũ quan đều tinh xảo như nhau. Từng cái nhíu mày, mỉm cười, mỗi bước đi, dừng lại đều mang theo sự ung dung dịu dàng đặc trưng của người con gái miền sông nước.

Nếu nói lâm viên nhìn thấy khi nãy là một phong cảnh thoát tục, thì những người con gái thướt tha như liễu lay trong gió này há chẳng phải cũng u nhã như vậy ư?

Dương Lăng nhìn mà không khỏi lộ ánh mắt tán thưởng. Mạc Thanh Hà trông thấy bèn đưa mắt nhìn sang Viên Hùng ngồi đối diện mỉm cười, rồi nâng chén lên mời:
- Xưởng đốc đại nhân từ phương Bắc đến, tất nhiên tửu lượng không tầm thường. Rượu Giang Nam có vị nhạt tinh thơm, mời đại nhân uống cạn ba chén trước! Hôm nay chúng ta không say không về!



---



Chú thích:

(1) Rồng là một vật có thể đùa bỡn, thậm chí có thể cưỡi. Nhưng ở dưới cái cổ của nó có cái vảy ngược dài một thước ta (3 tấc). Ai động đến thì bị nó giết ngay. Các vị vua chúa cũng có cái vảy ngược, kẻ du thuyết không sờ phải cái vảy ngược của vua chúa thì mới có thể là người giỏi. (trích ký lục Tư Mã Thiên)
(2) nguyên văn Cơ Phong, là thuật ngữ thiền lâm, còn gọi là thiền cơ, là lời nói mang ngụ ý sắc bén, thâm ảo.
(3) Mười cảnh đẹp của Tây Hồ (西湖十景-Tây Hồ thập cảnh), được hình thành vào thời Nam Tống, chủ yếu nằm rải rác xung quanh Tây Hồ, thường được mô tả như sau:
Tô đê xuân hiểu: Buổi sáng mùa xuân trên đê Tô (do Tô Đông Pha đắp)
Liễu lãng văn oanh: Chim oanh hót trong bụi liễu
Hoa cảng quan ngư: Xem cá tại ao hoa
Khúc viện phong hà: Hương sen thổi nhẹ tại sân cong
Nam Bình vãn chung: Chuông chiều ở núi Nam Bình
Bình hồ thu nguyệt: Trăng mùa thu trên hồ yên bình
Lôi Phong tịch chiếu: Tháp Lôi Phong trong ánh sáng buổi chiều
Tam đàm ấn nguyệt: Ba đầm nước phản chiếu ánh trăng
Đoạn kiều tàn tuyết: Tuyết còn sót lại trên cầu gãy
Song phong sáp vân: Hai ngọn núi đâm vào mây (theo wiki)
(4) theo truyền thuyết, Đạt Ma sư tổ diện bích (quay mặt vào tường) tham thiền nhập định chín năm rồi viết nên Dịch Cân Kinh và Tẩy Tủy Kinh làm nên nền tảng võ thuật Thiếu Lâm, thế nên có câu "cửu niên diện bích" là vậy. Dương Lăng mượn câu nói này.

Chương 124 Quỷ quyệt khó biết (phần 2)

------------------------

Hành dinh của khâm sai nằm bên trong một trang viện. Cơ ngơi rộng lớn này là dinh thự của thuế giám Mạc Thanh Hà, chiếm gần một khoảnh (100 mẫu, khoảng 6,7 héc-ta), chia làm tiền viện và đông, tây khóa viện*. Bây giờ tây khóa viện đã được dọn dẹp sạch sẽ, tạm thời dùng làm hành dinh của khâm sai. (*: từ điển giải nghĩa khóa viện là nhà ngang, ta có thể hiểu là một dãy phòng nằm ở hướng đông và một dãy khác nằm ở hướng tây)

Cơ ngơi này vốn là một kiến trúc lâm viên trang nhã và tinh mỹ, khắp nơi đều là giả sơn, hành lang uốn khúc, ao cá, hoa cỏ. Chuyến đi này Dương Lăng chỉ mang theo một thị tỳ là Cao Văn Tâm, còn lại toàn bộ đều là nha sai nội xưởng. Mạc Thanh Hà hào sảng mang nửa số nhân viên phục dịch trong phủ mình như nha hoàn, bà hầu, đầu bếp, vân vân đẩy sang hầu hạ y, có thể nói là dốc đủ vốn liếng với vị khâm sai đến từ kinh đô này.

Hai chiếc kiệu được khiêng về Mạc phủ, dừng lại dưới hành lang trước gian thứ nhất. Hành lang uốn khúc kiểu kiến trúc Giang Nam này được xây theo kiểu chật hẹp nên dưới hành lang hơi có vẻ âm u, trên tường thỉnh thoảng có vài cửa vào nhỏ hẹp xây thẳng lên đến nóc, sơn cùng màu với bức tường. Nếu không để ý nhìn có thể sẽ không biết bên cạnh còn có một cửa ra vào, đẩy cửa mở ra sẽ xuất hiện một thế giới khác ở bên trong.

Dương Lăng và Mạc Thanh Hà lần lượt ra khỏi kiệu, lúc này bên ngoài đang lất phất mưa phùn. Mưa thu rả rích thấm ướt những chiếc lá của cây cỏ dưới hành lang khiến chúng sáng óng ánh. Mặc dù ngắm nhìn và lắng nghe tiếng mưa rơi tí tách, thấu được ý nghĩa sâu xa của trời thu mát mẻ tự nhiên ta sinh ra một cảm giác cô quạnh, nhưng quang cảnh này lại không hề mang vẻ điêu linh của cái thu sắp sang đông.

Mạc Thanh Hà cười nói với Dương Lăng:
- Đại nhân! Mời ngài về nghỉ ngơi tạm cho khỏe, ngày mai ty chức sẽ báo cáo với đại nhân về tình hình thuế má vùng Giang Nam.

Lúc tiếp rượu, Dương Lăng đã bị đám quan viên thân sỹ chuốt cho mấy chén, nay y đã cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ muốn leo lên giường uống chén trà xanh rồi nghỉ ngơi. Huống chi lúc y lên bờ đã dặn người bắt liên lạc với đám người Liễu Bưu vốn đã được phái đến nơi đây trước, cho nên nghe vậy y vội vàng gật đầu.

Đúng vào lúc này, một tràng cười êm tai vọng đến. Bên hành lang đối diện, một cánh cửa hẹp cao đến nóc có cùng màu sơn với tường đột nhiên mở rộng, một người con gái mặc áo xanh đang xoè cây dù bằng giấy dầu khom người nhanh nhẹn lách mình bước ra. Theo sau nàng ta là hai cô gái mặc áo hồng cũng đang cất tiếng cười đùa cùng bước ra.

Dương Lăng liếc mắt nhìn, y thấy đằng sau cửa hông đó lại là một hoa viên. Chỉ liếc nhìn qua khe cửa mà đã cảm thấy phong cảnh thật hữu tình, tinh tế và xinh đẹp tuyệt luân, tựa như cõi bồng lai.

Y lại nhìn ba người con gái nọ. Cả ba đềunđẹp đến nín thở khiến y ngẩn ngơ. Màu áo đỏ bắt mắt hơn, nhưng chỉ liếc một cái, ánh mắt của mọi người đều sẽ chỉ dừng trên thân mình của người con gái mặc áo xanh. Người con gái đó thực khiến người ta phải choáng ngợp.

Tường trắng cao cao, đường lát đá xanh màu đen nhạt, dây bìm bìm mọc dài dọc trên kẽ hở hành lang như thể đã im lìm tồn tại từ rất lâu về trước. Người con gái áo xanh hài đỏ một tay cầm cây dù giấy dầu màu vàng, một tay vén váy, mỉm cười duyên dáng từ trong vẻ cổ kính ấy lướt nhẹ ra.

Vẻ mỹ lệ, ống tay áo, con hẽm nhỏ. Độ sâu sắc ấy, sự tĩnh lặng của khung cảnh ấy cô đọng và súc tích tựa Đường thi, thanh nhã và thâm thúy như Tống từ. Có nàng nhẹ nhàng lướt qua, phong cảnh cổ kính dường như cũng hoà vào sự khẽ khàng, kiều diễm, mềm mại và ngọt ngào của nàng, bất giác trở nên ấm áp say lòng người.

Trông thấy kiệu quan, người con gái vui mừng kêu lên:
- Lão gia đã về rồi à?

Nàng thong dong đưa mắt nhìn sang. Trông thấy Dương Lăng, thoạt tiên nàng hơi ngẩn người, sau đó nàng vẫn vén váy, cầm dù đi giữa sắc xanh của những bồn cảnh chậu kiểng bước đến gần.

Giọt nước trên ngọn cỏ xanh lăn xuống theo bước chân êm ái của đôi hài đỏ. Trong khoảnh khắc ấy, Dương Lăng có ảo giác dường như nàng là một người ngọc bằng nước mặc y phục cũng bằng nước, đang bước trên dòng nước trong vắt.

Người con gái đi thẳng tới, đôi mắt sáng ngời như sóng nước thoáng hiếu kỳ liếc nhìn vẻ tự nhiên phóng khoáng của Dương Lăng, sau đó nhún người mỉm cười duyên dáng chào Mạc Thanh Hà:
- Lão gia!

Giọng của nàng trong như tiếng suối vỗ đá, êm ái, giòn tan. Khi nàng khẽ cười, dung nhan mỹ lệ chói ngời tựa ánh mặt trời, khiến cho hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Không ngờ thế gian lại có người như vậy! Dương Lăng không khỏi kinh ngạc tán thán tự đáy lòng.

Xét về sắc đẹp, Liên Nhi và Ngọc Nhi tuyệt không thua kém người con gái này, thậm chí còn hơn một bậc, nhưng vẻ phong tình của hai cô đem so với nàng, quả chỉ như những con nhóc ranh chưa đủ lớn. Khí chất thùy mị thành thục ấy của nàng do được hun đúc qua năm tháng, giống như ruợu ngon tinh chất, tuyệt không phải là sắc đẹp vốn có hay được huấn luyện mà có thể hình thành.

Người con gái Giang Nam dáng người cao thon, dung nhan thuần khiết như nước này, tuổi tác xem ra khoảng chừng hai bảy, nhưng sinh cơ và sức sống ấy lại khiến nàng trẻ đi ít nhất mười tuổi. Ngũ quan xinh xắn, cử chỉ dịu dàng của nàng khiến cho người ta không khỏi nghĩ tới vẻ đẹp của thiếu nữ giặt lụa, sóng xanh nước biếc, em bé hái sen(5).

Lúc đối diện với Dương Lăng, Mạc Thanh Hà luôn khoác lên vẻ mặt siểm nịnh và khôn khéo, nhưng khi nhìn thấy người con gái này, trong mắt hắn lại tràn trề sự dịu dàng và hạnh phúc. Hắn âu yếm:
- Trời đang mưa mà nàng nghịch ngợm trong vườn như con nít vậy. Mau ra mắt khâm sai Dương đại nhân đi!

Người con gái mỉm cười, đôi mắt tràn đầy sức sống lướt nhanh trên khuôn mặt anh tuấn của Dương Lăng một vòng, nhỏ nhẹ chào:
- Tiện thiếp bái kiến đại nhân!

Dương Lăng vội chắp tay, đưa mắt nhìn sang Mạc Thanh Hà, không biết nên xưng hô thế nào. Mạc công công cười lớn giới thiệu:
- Đây là tiện nội. Ngày thường ty chức quá cưng chiều nàng nên cô ta không biết nề nếp gì cả, lại khiến đại nhân chê cười rồi!

Dương Lăng nghe thế suýt nữa thì cắn lưỡi. Thái giám cũng có thể lấy vợ sao? Hơn nữa còn công khai táo bạo như vậy nữa? Đây là thế giới gì vậy trời?

Y lại nhìn vị mỹ nữ áo xanh tươi cười xinh đẹp, rồi nghĩ đến ông chồng thái giám của nàng ta, trong nháy mắt tất cả mọi linh phụ kiện trong đầu đều tan vỡ. Y cố gượng cười chào hỏi:
- Thì ra là Mạc phu nhân, thất kính thất kính. Ờm... bản quan đã hơn mệt rồi, bây giờ... bây giờ sẽ về phòng nghỉ ngơi.

Dương Lăng vội vã hàn huyên mấy câu, rồi lơ mơ đi theo gia đinh băng qua một cửa hông khác. Sau lưng vọng lại tiếng Mạc công công không thể chờ được nữa bắt đầu "dạy dỗ" vợ:
- Tiểu Lâu! Trời mưa mà nàng còn chạy nghịch trong sân, chẳng nết na gì cả, khiến khâm sai đại nhân chê cười kìa.

Tiếp sau đó là một tràng cười hờn mát rung động đến tâm can:
- Lão gia! Người ta có một mình buồn quá hà. Người tốt ơi, chàng về thì hay rồi, mau cùng người ta về phòng trò chuyện nào.

Dương Lăng tưởng tượng cảnh cánh tay ngọc ngà của nàng ta nhẹ nhàng thong thả quấn quanh cổ Mạc Thanh Hà, làm ra vẻ nũng nịu quyến rũ. Khi nãy còn thánh khiết như một dòng suối mát, thoắt cái đã có thể hoá thân thành một bát canh mê hồn*, khiến y càng cảm thấy khó hiểu: "Mạc Thanh Hà thực ra dáng vẻ đường đường, nhưng hắn... suy cho cùng là một thái giám mà. Thái giám cưới vợ, hai vợ chồng còn rất đằm thắm nữa, chuyện này là sao vậy nhỉ. Lẽ nào chuyện này không trái với chế độ sao? Ừm... quay về hỏi thử Văn Tâm cái đã." (*: thuốc lú)

Trong tiền viện, Mạc Thanh Hà dắt tay ái thê về phòng, đóng cửa lại. Nàng lập tức châm trà, hay tay bê đến trước mặt hắn, yêu kiều nói:
- Lão gia, mời dùng trà. Y chính là người lão gia nói do trong kinh phái đến điều tra đó sao? Hi hi, thật là một vị khâm sai trẻ tuổi.

Mạc công công đón lấy chén trà, thuận tay kéo bàn tay ngọc của nàng. Người con gái liền kêu lên một tiếng yêu kiều, nhẹ nhàng sà xuống ngồi lên đùi hắn, hai tay choàng qua cổ hắn.

Khuôn mặt xinh xắn của nàng khẽ ửng hồng, hơi thở cũng trở nên gấp gáp, nàng thỏ thẻ với Mạc công công:
- Đáng ghét! Lão gia mới vừa trở về lại muốn... lại muốn làm chuyện xấu gì đó?

Sắc mặt trầm tĩnh, trong mắt không hề chứa chút dục vọng, Mạc công công khoan thai nói:
- Tiểu Lâu! Người này niên kỷ tuy nhỏ, nhưng ta không thể xem thường. Trong triều đình, nội triều thì có mấy vị công công Vương Nhạc, Phạm Đình và Miêu Quỳ, ngoại triều có mấy vị đại học sỹ Lưu Kiện, Tạ Thiên và Lý Đông Dương, vậy mà chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi y đã có thể táo bạo nổi lên, đồng vai đồng vế với bọn họ. Người này có thể đơn giản sao?

Vị mỹ nữ tên gọi Tiểu Lâu dựa sát vào tay y hớp một ngụm trà, đoạn áp môi mình vào môi hắn dùng miệng làm chén mớm trà, sau đó vui vẻ cười nói:
- Nô gia chỉ tán thưởng dũng khí kháng chỉ cứu thê của y, chỉ tiếc cuối cùng y còn nạp thêm hai người thiếp đẹp về nhà. Nô gia nghe nói bên tây khoá viện còn có một vị cô nương xinh đẹp vào ở. Hừ! Y chỉ là một tên ngụy quân tử mua danh cầu tiếng!

Mạc công công cười nhạt, véo mạnh mông nàng một cái, nói:
- Nếu y thật sự là dạng người đó, vậy lại dễ xử. Phu nhân xinh đẹp của ta ra tay, còn không khiến y thần hồn điên đảo, xương cốt rã rời, mũ giáp tả tơi, ngoan ngoãn cúp đuôi về phủ ư!

Tiểu Lâu cố ý kêu lên một tiếng ngọt ngào, cắn chiếc môi đầy đặn hấp dẫn, bộ ngực cao vút phập phồng:
- Lão gia... chàng lại muốn người ta tiếp... tiếp...

Mạc công công nắm chặt cổ tay trắng ngần của nàng, thở dài:
- Tiểu Lâu! Nàng biết ta... ta không thể cho nàng... Ôi! Chỉ cần con tim nàng ở bên ta, những chuyện vui người vui mình, ta sẽ không ngăn cản nàng.

Miệng nói như vậy, song sâu thẳm trong đôi mắt hắn lại chợt lóe lên một sự đau thương sâu sắc.

Tiểu Lâu ôm lấy người hắn, nói:
- Lão gia! Đều do Tiểu Lâu nói sai rồi. Trong lòng Tiểu Lâu chỉ có một mình lão gia, mãi mãi vẫn vậy. Bất luận lão gia muốn Tiểu Lâu làm gì, chỉ cần có lợi cho lão gia, Tiểu Lâu... Tiểu Lâu đều vui lòng!

Mạc công công che dấu nỗi thống khổ, khoác lên bộ mặt vui vẻ rồi véo một cái lên bộ ngực mềm mại nẩy nở mê người của nàng, cười nói:
- Đương nhiên là nàng chịu rồi, tiểu tử đó vừa trẻ tuổi lại anh tuấn. Cái tuổi như sói này của nàng lại gặp con sói trẻ khôi ngô xuất chúng như vậy, còn không sướng như tiên ư?

Vẻ mặt của hắn rõ ràng là hết mực sủng ái người con gái áo xanh này, tình yêu đó tuyệt đối xuất phát từ chân tâm, tuyệt không giả tạo. Nhưng khi nói về việc nàng ta đi tiếp nam nhân khác, vẻ mặt hắn lại vẫn hết sức thản nhiên, thể như đã hoàn toàn chia tách tình yêu và dục vọng thành hai bộ phận bất đồng.

Tình cảm của người con gái tên là Tiểu Lâu ấy đối với hắn cũng như vậy; nghe hắn bàn chuyện để mình, là người vợ của hắn, đi quyến rũ người ngoài giao hoan như thế nào mà cứ như là giao tiếp uống rượu làm thơ bình thường, hoàn toàn không hề e ngại. Cặp vợ chồng có tình cảm kỳ lạ này thực sự khiến người ta không thể hiểu được.

Hai người trêu đùa một hồi, Tiểu Lâu lo lắng nhíu mày hỏi:
- Nhưng mà... lão gia khẳng định vị khâm sai này ít kinh nghiệm, không lo y đang giả heo ăn thịt hổ sao? Nghe nói ở trong kinh y phạm vào đại tội khi quân, nhưng sau cùng chẳng những bình yên vô sự mà còn hạ bệ được ba vị thượng thư nữa. Như thế, làm sao y là người không có chút thủ đoạn cho được?

Giờ y mới lên làm xưởng đốc, tiếp quản thuế giám các nơi khắp cả nước. Lần này y đến Giang Nam, không biết chừng chính là để giết người lập oai. Lão gia vẫn nên cẩn thận là hơn.

Mạc Thanh Hà mỉm cười ấm áp, đáp:
- Đó là lẽ đương nhiên. Giết người tuy có thể lập oai, nhưng trấn thủ sứ các thành các trấn trên thiên hạ ai ai đã không từng giết mấy mạng người? Ta thấy y vừa nhậm chức liền tìm đến chúng ta, ba đại trấn thủ sứ Nam Trực Lệ giao nộp nhiều thuế khóa nhất nước, sẽ không phải là vì chúng ta chậm giao thuế má, mà là muốn giở chút thủ đoạn vừa đấm vừa xoa. Chỉ cần ba người chúng ta bị y hàng phục, ty thuế giám ở khắp nơi trong nước sẽ tự xuôi theo chiều gió.

Tiểu Lâu lấy làm lạ hỏi:
- Nếu Hoàng Thượng đã hạ chỉ giao ty Thuế Giám cho y, sao lão gia không nương nhờ y sớm một chút, còn muốn đọ sức cùng y một phen là vì cái gì thế?

Mạc Thanh Hà cười ha hả đáp:
- Người đẹp ngoan của ta ơi! Đi nương nhờ người sớm thì đương nhiên có thể được trọng dụng, nhưng y có phải là người chủ có thể nương nhờ hay không? Nếu như nương nhờ nhầm người thì... Nàng thử nghĩ khi ty Thuế Giám trở về lại tay ty Lễ Giám, mấy vị công công trong kinh đó ăn chay sao? Cứ xem thử trước đi đã. Tuy thấy chúng ta ở địa phương muốn gió có gió, cầu mưa được mưa, quan lớn địa phương đều chỉ có thể lấm lét mà nhìn, nhưng trong mắt của đám quan lớn trong kinh này, chúng ta không phải chỉ là một con kiến có thể bị bóp chết bất cứ khi nào ư? Không thể không cẩn thận đâu...

Hắn thở dài một hơi, rồi phấn chấn tinh thần lại, ôm chặt lấy bờ eo thon của mỹ nhân trong lòng, cười nói:
- Mưa xuân nghe vẳng đêm lầu nhỏ, hoa hạnh rao dần sớm ngõ xa (6). Có nhân vật phong lưu đệ nhất Giang Nam như nàng đây, cho dù vị Dương xưởng đốc này thật sự là kẻ lợi hại, lão gia ta còn sợ y không chịu thu nhận ta hay sao? Ha ha ha, chỉ dựa vào đôi mắt làm say lòng người, thân thể quyến rũ này đây của nàng, trong thiên hạ có nam nhân nào mà không yêu thương say đắm nàng kia chứ?

Cùng với sự chòng ghẹo của hắn, trong căn phòng cất lên tiếng thở yêu kiều nhè nhẹ. Trong chốc lát, những tiếng rên khe khẽ lay động con tim từ trong phòng vọng ra, khiến cả cơn mưa thu giăng đầy trời cũng mờ mịt mang theo ý xuân.

Mãi đến lúc lên đèn, Mạc công công mới mở cửa phòng, quay đầu lại cười nói:
- Ta còn hẹn người khác gặp mặt. Bảo bối của lòng ta, nàng hãy mau thức dậy rồi tắm rửa thay đồ đi, giường bị nàng làm ướt hết rồi.

Một chiếc hài thêu hoa ném tới một cách yếu ớt, đập bộp lên cửa, đi kèm với tiếng rên rỉ liên tục khiến lòng người run rẩy là một giọng nói vô cùng quyến rũ cất lên:
- Quỷ tha chết chàng đi, bỏ rơi người ta dở lỡ, thật là khó chịu. Người ta vẫn còn muốn mà, hãy đổi cái giác tiên sinh* đi..." (*: dương cụ giả)

Mạc công công cười lớn rồi đáp:
- Cô nàng lẳng lơ ơi, một cục sắt cũng có thể bị nàng làm chảy không còn một mẩu đó.

Hắn vừa nói vừa đóng cửa phòng lại. Cửa phòng vừa đóng, nụ cười trên khuôn mặt hắn cũng như bị đóng lại, lập tức biến mất. Hắn đứng lặng im một hồi, nghe thấy trong phòng không có tiếng động gì, lúc này mới hài lòng mỉm cười, lặng lẽ xuống lầu, vòng trái rẽ phải, đi một hồi lâu mới vòng vào một phật đường.

Phòng ốc ở Giang Nam, cho dù là gia đình giàu có, cũng thường xây nhiều nhà nhiều cửa. Toàn bộ phòng sảnh,đình, lầu, bệ, gác nối với nhau bởi những dãy hành lang uốn khúc quanh co, khúc khủy. Nếu không quen nhà quen cửa, đi loanh quanh một hồi lâu chắc chắn sẽ bị lạc đường, thậm chí đến cửa ra vào cũng tìm không được.

Trong phật đường, trên hương án đốt hai cây đèn cầy, trên bồ đoàn có một người mặc đồ đen ngồi xếp bằng, hai tay đặt trên gối như đang nhập định.

Mạc công công vừa vào cửa, người áo đen lập tức búng người dậy, thân thủ cực kỳ linh hoạt. Mạc công công đóng cửa lại, mừng rỡ nói:
- Ngươi đến thật đúng lúc.

Âm điệu Giang Nam của người đó có vẻ hơi cứng, gã đáp cộc lốc:
- Nhận được lệnh Mạc gia triệu đến, ta lập tức khởi hành, một khắc cũng không trễ. Không biết Mạc gia muốn ta chạy đến ngay tức khắc là có gì dặn bảo?

Mạc công công ngoắc tay kêu người đó đến gần, to nhỏ thì thầm một hồi. Người đó nghe xong do dự nói:
- Y là khâm sai, làm như vậy có sẽ làm sự việc ầm ĩ lên không? Chỉ sợ đối với ngài và ta đều bất lợi.

Mạc Thanh Hà cười gian trá đáp:
- Ta chỉ muốn ngươi đề phòng chuyện chằng may. Nếu như Dương Lăng quả thật có chút thủ đoạn, đáng để ta theo, vậy ta tận tâm hiến sức cho y cũng không sao. Có điều ý đồ đến của y thực sự khó dò. Đây chỉ là đề phòng ngộ nhỡ, nếu y có lòng muốn bắt giết ta, vậy thì... Ngươi cũng nên biết, nếu như không có ta ở đây bảo vệ, chiếu cố, các ngươi khó mà sinh sống qua ngày. Cả vùng duyên hải còn có thể để cho các ngươi kiếm sống sao?

Người mặc đồ đen nọ chần chừ một lát, rồi nói:
- Được! Trong khoảng thời gian này chúng ta sẽ bày trận chờ địch. Nếu như Mạc gia cần đến, chỉ cần ngài ra lệnh một tiếng, bọn ta sẽ lập tức đem quân giết tới.

Mạc Thanh Hà nghe vậy cười lớn:
- Rất tốt! Các ngươi là nước cờ cuối cùng của ta. Nếu như Dương Lăng thức thời, vậy thì tốt cho ngươi, cho ta và cho mọi người. Nếu như y khinh người thái quá, các ngươi cứ việc mạnh dạn mà làm, cục diện hỗn loạn sau đó đương nhiên sẽ do ta thu dọn!

****************


Dương Lăng loạng choạng bước vào phòng ngủ, ngã vật xuống giường ợ một tiếng rồi nói với những gia bộc đưa y về:
- Được rồi, ta muốn nghỉ ngơi một lúc, các ngươi lui ra đi.

Hai gia nhân vâng vâng dạ dạ rồi lui ra, nhẹ nhàng đóng cửa phòng lại. Dương Lăng cảm thấy chăn đệm mềm mại lại thêm mùi thơm nhàn nhạt, khiến cho người nằm bên trên chỉ muốn say sưa.

Y khoan khoái rên lên một tiếng, áp gò má nóng hổi lên chiếc chăn bông mịn màng trơn truột. Rời khỏi cái giường cứng ngắc trên thuyền mà y vừa nằm ngủ, vốn y đã hơi choáng váng rồi, huống hồ y lại uống thêm mấy ly rượu nên giờ thật sự y chỉ muốn cứ vậy mà nằm ngủ.

Dương Lăng vừa muốn chợp mắt, chợt cánh cửa két một tiếng, mở ra. Dương Lăng hé mắt nhìn thấy Cao Văn Tâm bưng một cái khay bước vào, thế là y rên một tiếng, nhăn nhó khổ sở.

Cao Văn Tâm nhẹ nhàng đặt khay lên bàn, trở lại đóng chặt cửa, sau đó quay lại cúi xuống nhìn y. Người Dương Lăng đầy mùi rượu, Cao Văn Tâm không khỏi nhíu đôi mày thanh tú, dường như không quen với mùi rượu lắm. Nàng khẽ gọi:
- Lão gia, lão gia, dậy uống thuốc đi!

Dương Lăng rên một tiếng, nói:
- Văn Tâm tốt bụng ơi, tha cho tôi đi! Tôi váng đầu lắm, cô để tôi ngủ một lát, ngày mai hãy uống nhé, để mai hãy uống.

Dương Lăng trước nay chưa từng gọi thẳng tên nàng, Cao Văn Tâm nghe mà khuôn mặt xinh xắn đỏ bừng, lòng ngọt ngào như được rót mật. Dương Lăng xuống nước cầu xin khiến nàng nghe mà lập tức mềm lòng, hận không thể đáp ứng mọi chuyện với y được.

Nhưng mà liều thuốc này cũng là bài thuốc mà nàng khổ công tham khảo cổ tịch phối chế ra, nếu như tùy ý ngừng sử dụng, nàng cũng không biết có ảnh hưởng đến hiệu quả trị liệu hay không, nên đành phải cứng lòng, nghiêm mặt lại nói:
- Không được! Phu nhân đã căn dặn kỹ càng, tiểu tỳ phải hầu lão gia dùng thuốc, một ngày cũng không thể bỏ lỡ. Lão gia... người... người mau dậy đi mà.

Cao Văn Tâm nhỏ nhẹ dỗ dành khiến Dương Lăng nghe vậy, hết cách đành định bò dậy. Nhưng vừa rồi y nằm xuống đã thả lỏng toàn thân, nay thật sự là không muốn cựa quậy chút nào. Cao Văn Tâm thấy bộ dạng lười nhác của y, thở dài một tiếng, không biết làm sao đành ngồi bên giường nâng một chân của y lên, bắt đầu cởi giày cho y.

Trước giờ Dương Lăng không hề sai bảo Cao Văn Tâm như nô tỳ thật sự, nay thấy nàng làm như vậy liền vội giãy giụa ngồi dậy nói:
- Cứ để tôi tự làm cho, làm vầy coi sao được?

Cao Văn Tâm lườm duyên y, đáp:
- Cái gì mà được với không được. Lão gia nằm đi! Nhìn cái dáng vẻ của lão gia là đủ biết rồi, lão gia chịu uống thuốc sao?

Cao Văn Tâm cởi hai chiếc giày của y ra, lại tháo giây buộc vớ, giúp y cởi vớ, rồi nâng y ngồi dậy. Dương Lăng ngượng ngùng ngồi yên, Cao Văn Tâm quay về rót một chén nước mát, rồi đem mấy viên thuốc qua. Dương Lăng cầm thuốc nuốt ực, ghé qua tay nàng uống mấy ngụm nước, sau đó cởi áo ngoài rồi ngoan ngoãn leo lên giường nằm sấp.

Cao Văn Tâm bĩu môi mỉm cười hài lòng. Nàng đặt chén xuống, cầm châm lên, Dương Lăng đã tự giác kéo chiếc áo lên cao, để lộ phần dưới hông. Cao Văn Tâm ngồi bên mép giường, vừa vo ngân châm vừa nói khẽ:
- Lão gia! Lúc người đi dự tiệc, có một vị tự xưng là Hải Ninh Diêm Vận phó sứ Mẫn đại nhân đến hành dinh khâm sai này tìm, nói là bạn cũ của người. Vì lão gia không có ở đây, tiểu tỳ đã mời ông ta ngày mai quay lại rồi.

- Mẫn đại nhân? Ồ! Là Mẫn huyện lệnh!
Dương Lăng mửng rỡ, không kiềm lòng được bèn thẳng lưng lên. Cây châm trong tay Cao Văn Tâm thoáng cong lên, cũng không biết đâm trúng y chỗ nào tức thì bắn ra vài giọt máu. Cao Văn Tâm hoảng sợ, cầm cây ngân châm nhỏ máu, luống cuống chỉ biết kêu lên:
- Đâm vào chỗ nào rồi? Đâm vào chỗ nào rồi? Sao lão gia lại cử động lung tung vậy. Giờ biết làm sao đây? Giờ biết làm sao mới được đây?

Dương Lăng lại không cảm thấy đau mấy. Cảm thấy sau lưng lành lạnh, ythuận tay vuốt nhẹ, thấy máu dính đỏ cả tay, lúc này y mới giật mình. Nhưng khi thấy miệng Cao Văn Tâm dẹt ra, vẻ như sắp khóc đến nơi, Dương Lăng vội cười an ủi:
- E hèm! Xem cô kìa, chắc là không cẩn thận nên đâm trúng mạch máu rồi. Châm mỏng thế này, không có gì đáng lo đâu. Tôi đè mạnh một hồi sẽ lập tức ổn thôi.

Cao Văn Tâm hoảng hốt vất châm, cuống quýt lấy tay đè lên vết thương của y, vừa sợ hãi vừa lo lắng:
- Xem lão gia đó! Đang châm cứu mà sao lại cựa quậy chứ, ngộ nhỡ có mệnh hệ gì thì biết làm sao?

Dương Lăng cười nói:
- Vị Mẫn đại nhân đó là cố nhân của tôi lúc còn ở huyện Kê Minh, có ơn đề bạt tôi. Tôi nghe ông ta đến, trong lòng vui mừng quá cho nên có phần sơ ý đó mà. Ha ha, cô đừng sợ, không có gì đáng ngại đâu.

Y nói rồi mới nhớ rằng huyện lệnh Mẫn Văn Kiến của Kê Minh giờ làm quan ở Hải Ninh, có lẽ cách Hàng Châu cũng không xa. Lúc này nhớ đến lão ta, y không khỏi lại nhớ đến Tất Đô ty, Mã Ngang, còn Mã Liên Nhi nữa, không phải bọn họ đều ở gần đây sao?

Có nên đi thăm Mã Liên Nhi không nhỉ? Lòng Dương Lăng xao động, rồi y lập tức lại cứng rắn dằn lòng: “Thôi thì đừng đi vậy! Một con ma đoản mệnh như mình đã phụ ba vị cô nương tốt rồi. Nếu còn quyến luyến không quên người khác nữa thì cũng hơi quá vô sỉ đó!”

Dương Lăng đang trầm tư, Cao Văn Tâm đã cất giọng u uẩn trách móc:
- Gì mà không đáng ngại chứ! Về sau khi tiểu tỳ dùng châm, không cho phép lão gia cựa quậy nữa. Huyệt đạo dưới hông này là chỗ bình thường sao? Nếu đâm trật vào chỗ... chỗ đó...

Dở câu, vị cô nương như nàng không tiện nói tiếp nên đành chỉ nói đến đó rồi nuốt phần còn lại vào.

Dương Lăng cười ruồi vài tiếng, cũng không đáp lời, trong phòng nhất thời yên tĩnh trở lại. Sau một hồi, Cao Văn Tâm nhẹ nhàng dời tay, thấy không còn chảy máu nữa mới thở phào, đổi lấy cây ngân châm mới, rồi bắt đầu nhẹ nhàng se se trên huyệt đạo của y.

Dương Lăng nằm sấp tại chỗ, do dự một hồi chợt nhớ đã sớm phái Liễu Bưu dẫn người đến Tô Hàng nghe ngóng nội tình của ba vị thái giám trấn thủ, đến giờ vẫn chưa thấy gã xuất hiện, không nhịn được bèn hỏi:
- Đúng rồi! Hôm nay Liễu Bưu có đến không? Tôi phái y nghe ngóng sự tình mà không biết như thế nào rồi?

Cao Văn Tâm mắng yêu:
- Lão gia à! Đi đường thủy nửa tháng trời mà thân thể người không biết mệt sao? Bây giờ nghỉ ngơi trước đi đã, điều tra xử án không phải là chuyện một ngày nửa buổi đâu. Liễu Bưu đến thì đã đến rồi, đang lẫn vào trong đám thân vệ của người. Tiểu tỳ báo hôm nay lão gia tiếp rượu xã giao nhất định sẽ mệt mỏi, bảo y mai hãy bẩm báo tin tức với lão gia rồi.

Hôm nay trên buổi tiệc rượu Dương Lăng đã gặp ba vị thái giám trấn thủ và quan viên địa phương, ai nấy đều giống như kẻ khẩu phật tâm xà, khoe khoang việc cai quản ở Tô Hàng cũng giống như phong cảnh của nó, tất cả đều trở thành thiên đường của nhân gian. Trong cả bữa tiệc ngoại trừ uống rượu ăn thịt, ghi nhớ tướng mạo và danh tính của mấy viên danh quan đó ra, y chẳng thu hoạch được chút tư liệu có ích gì, một chút manh mối để xử án cũng không có nên y đang sốt ruột trong lòng.

Lúc này nghe thấy Liễu Bưu đã đến, y không khỏi hưng phấn, chợt thoáng nhổm người dậy, sốt sắng la lên:
- Như vậy sao được? Cô mau gọi y đến gặp ta!

Lưng y vừa nhổm lên, kim châm trong tay Cao Văn Tâm lại cong lên, may mà lần đâm này không hề chảy máu.

Vừa gấp vừa giận, Cao Văn Tâm quên luôn cả tôn ty trật tự, tính khí nữ thần y và đại tiểu thư quen được người ta nuông chiều thuở xưa lập tức phát tác. Nàng xếch ngược đôi mày liễu, vung tay ngọc vỗ mạnh một cái "chát" lên mông Dương Lăng, miệng quát khẽ:
- Lại cử động lung tung rồi! Lão gia nằm yên cho tôi coi!

---



Chú thích:

(5) đây đều là hình ảnh đẹp trong những bức tranh sơn thuỷ: cảnh hoa nở trên đá, suối ngọc nước chảy, ông già câu cá, thiếu nữ giặt lụa và em bé hái sen.
(6) “tiểu lâu nhất dạ thính xuân vũ, thâm hạng minh triêu mại hạnh hoa”. Đây là hai câu thơ trong bài “Lâm an xuân vũ sơ tễ” của Lục Du tự Vụ Quan hiệu Lục Phóng Ông (1125-1210), được xem là nhà thơ vĩ đại nhất Nam Tống. (Xin xem http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%A5c_Du)
Lưu ý Tiểu Lâu chính là tên vợ Mạc công công.

Chương 125 - Trong Hỏi Ngoài Tra

------------------------

Thấy y cứ cựa quậy mãi, Cao Văn Tâm không khỏi vừa giận vừa cáu, nhất thời lỡ tay vỗ mạnh, một tiếng "chát" giòn giã vang lên khiến chính nàng cũng sững sờ. Dương Lăng há hốc mồm, quay đầu ngạc nhiên nhìn nàng, một lúc lâu Cao Văn Tâm mới sực tỉnh. Nàng vội vàng quỳ xuống đất thưa:
- Tiểu tỳ vô lễ, xin lão gia trách phạt!

Đừng nói nàng chỉ là thị tỳ của Dương Lăng, cho dù là thê thiếp của y, bất kể là thân mật với trượng phu như thế nào cũng không được phép đánh vào mông của y, đó là hành vi cực kỳ vô lễ. Khi còn giúp người chẩn bệnh, Cao Văn Tâm từng nghe kể có vị cử nhân lớn tuổi đuổi vợ với tội danh là phẩm hạnh kém. Thực ra là vì trong lúc vui vẻ với trượng phu, người vợ hơi thất thố, bị cử nhân lão gia cho là bất kính nên đuổi đi, hại nàng ta xấu hổ nhục nhã mà tự vận.

Dương Lăng lại không có loại giác ngộ mà đại nam nhân nên có này, y chỉ bị hành động đột ngột của nàng làm cho ngây người ra thôi. Lúc này trông thấy nàng sợ đến độ môi trắng bệch, bản thân y lại cảm thấy áy náy, thế là y đành cười lớn rồi bảo:
- Là do tôi không phải, đột nhiên nhổm người nên cô trở tay không kịp. Ờm, lần sau khi xoa bóp, cô nhẹ tay một chút là được rồi.

Cao Văn Tâm thấy y hoàn toàn không hề nổi giận, còn vì mình mà bào chữa thành “xoa bóp” mới yên tâm. Nàng bẽn lẽn đứng dậy tiếp tục châm cứu cho y. Đến khi kéo quần lót y xuống để châm cứu, nhìn thấy mông y bị vỗ đỏ ửng cả một vùng, Cao Văn Tâm không khỏi lén le lưỡi. Không biết là cố ý hay vô tình mà mu bàn tay nàng xoa nhẹ vài vòng lên “vết thương”. Bàn tay ngọc ngà trơn nhẵn chạm vào thực là cực kỳ dễ chịu khiến Dương Lăng lâng lâng đắc ý.

Châm cứu xong, Dương Lăng lập tức chỉnh đốn lại y phục rồi bảo:
- Nha hoàn và nô bộc trong phủ hiện nay đều là người của Mạc công công, không thích hợp để tôi xử lý công vụ thường ngày cho lắm. Có cô ở bên cạnh tôi là đủ rồi, không cần người khác hầu hạ nữa. Ngôi nhà này nhất định phải hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của người chúng ta. Cô bảo Trịnh bách hộ mang đám nha sai tiếp quản tòa nhà, đưa toàn bộ người của Mạc phủ rời khỏi đây, sau đó kêu Liễu Bưu đến gặp tôi.

Cao Văn Tâm thấy sắc mặt y nghiêm nghị, đích xác y có việc công cần làm nên không dám ngăn trở thêm, bèn vội đáp lời. Nàng ra ngoài được khoảng uống cạn một tuần trà thì đám nha sai bắt đầu đứng gác rải rác khắp nơi trong dãy nhà, đuổi tất cả nha hoàn, nô bộc của Mạc công công ra khỏi căn dinh thự độc lập này, cả trong lẫn ngoài bố trí đầy thị vệ của Nội xưởng. Sau đó, cửa phòng mở ra, một người ăn mặc như nha sai bình thường chợt lặng lẽ đi vào.

Dương Lăng ngồi bên bàn, mới vừa rót đầy hai chén trà. Sau khi bị “đày đọa” một phen, men rượu của y đã vơi đi mấy phần, ánh mắt cũng đã tỉnh táo lại. Trông thấy Liễu Bưu bước vào, y khoát tay bảo:
- Không cần khách sáo, đến đây! Ngồi xuống rồi hãy nói!

Liễu Bưu chắp tay thưa:
- Dạ! Ty chức ra mắt xưởng đốc đại nhân.
Rồi bước nhẹ nhàng đến ngồi đối diện với Dương Lăng. Gần nửa tháng xa cách bỗng nhiên gặp lại Dương Lăng, nét mặt của hắn hơi lộ vẻ vui mừng.

Dương Lăng đẩy một chén trà qua, bảo:
- Những ngày qua vất vả cho Liễu thiên hộ quá! Huynh nghe ngóng được thế nào rồi?

Liễu Bưu thưa:
- Đại nhân! Ty chức vừa xuống tới Giang Nam liền lập tức tung mạng lưới thám thính, cho người giả làm người bán dạo và du khách dò thám tin tức xung quanh. Ba vị thái giám trấn thủ nắm giữ thuế má Giang Nam đã nhiều năm, tuy đâu đâu cũng có thế lực, nhưng cũng bởi vậy bọn họ không thể nào che giấu được những hành vi, công việc của mình.

Hắn nói đến đây, hiển nhiên hết sức tự hào với thành tích của bản thân cho nên vẻ mặt có phần tự kiêu. Hắn cầm chén trà lên nhấp một ngụm thấm họng rồi lôi trong ngực ra một quyển sổ nhỏ, nâng hai tay trao cho Dương Lăng:
- Đại nhân! Những gì ty chức điều tra được đều ghi ở trong này.

Trước tiên ty chức sẽ nói qua về viên trấn thủ thuế quan kiêm giám quân Long Sơn vệ sở Viên Hùng. Nhiệm vụ của Viên Hùng là lập trạm thu thuế trên những con đường vận chuyển thủy bộ giữa những quan ải và thành trấn trọng yếu. Ví dụ như trên tuyến vận chuyển đường sông, cách mỗi bốn mươi dặm lại cắt cử thuế sứ (nhân viên thu thuế - ND) ngăn sông chặn thuế, một chiếc thuyền đi ba bốn trăm dặm ít nhất phải bị chặn thu thuế năm sáu lần. Nhiều cửa tiệm tơ lụa, tạp hoá địa phương có quy mô nhỏ không kham nổi gánh nặng thuế khóa đã phải đóng cửa.

Dương Lăng nghe xong nhíu mày: "Thuế khoá quá nặng, nhìn ngắn hạn thì số thu có phần dồi dào, nhưng đây chỉ là cái lợi trước mắt, thực tế lại chèn ép sự phát triển của công thương nghiệp, về lâu dài sẽ rất có hại cho dân chúng và quốc gia. Viên Hùng cứ cách bốn mươi dặm lại lập một trạm thu thuế, rõ ràng đã vượt quá quy định của triều đình.

Có điều những phương sách này nhất định cũng đã được sự đồng ý của ty Lễ Giám, ta không thể dùng sai sót này để trừng trị hắn. Huống hồ chính là nhờ những món thuế khoá hà khắc phạm pháp và hợp pháp này cho nên mô hình vận chuyển của Nội xưởng mới được lan rộng, Nội xưởng mới phát triển nhanh chóng như vậy. Muốn hoàn thành mục tiêu cao xa hơn của mình, đành phải có những hy sinh tạm thời như thế này vậy!"

Y trầm ngâm hồi lâu, âm thầm tính toán một hồi rồi nói:
- Ừ, bản đốc đã ghi nhớ chuyện này. Hắn còn hành vi phạm pháp nào khác có thể buộc tội không?

Liêu Bưu mỉm cười, dường như sớm biết việc đó không đủ để trị tội Viên Hùng. Hắn trả lời như đã liệu trước:
- Có. Ty chức phái người đóng giả làm tiểu thương buôn bán rượu thịt, giao thiệp với quan binh của vệ sở Long Sơn. Trong lúc tửu hậu có nghe bọn họ cằn nhằn rằng quân lương bộ Hộ phân phát chỉ có bốn thành rơi vào tay bọn họ, số còn lại đều bị Viên giám quân và đám quan viên chỉ huy vệ sở tham ô cả.

Hơn nữa, trước đây quan binh vệ sở ai nấy cũng đều có đất đai của riêng mình, nhưng những năm gần đây đã sớm bị cường hào và tướng tá dùng thủ đoạn ép mua ép bán chiếm đoạt lấy. Việc này khiến cho rất nhiều quan binh vì cuộc sống của người nhà mà đành phải đào tẩu lưu vong.

Vệ sở Long Sơn vốn phải có 6500 người trú đóng, nhưng con số quan binh thực có hiện tại chỉ là 2800 người, vả lại đa số đều là quân già lính yếu; số còn lại đều bị lĩnh khống tiền lương lẫn trang bị. Thậm chí khí giới lại càng ít đến thảm thương, rất nhiều chiến thuyền đã không thể sử dụng được từ lâu, khi sắp có thượng quan đến kiểm tra sẽ trưng dụng tạm thuyền đánh cá bổ sung vào cho đủ. Đến lúc giặc Oa(1) tập kích thì chỉ có thể nghe thấy tiếng đã phải chạy dài. Tuyến phòng thủ bờ biển dài mấy ngàn dặm hầu như chỉ tồn tại trên giấy.

Dương Lăng nghe xong không nén được lửa giận, đập bàn chát một tiếng mắng:
- Không ngờ việc quân đội nội địa lại buông thả như vậy! Chẳng trách lúc ở kinh sư ta nghe nói cho dù chỉ vẻn vẹn mấy trăm tên giặc Oa cập bờ cũng có thể xông vào tập kích khắp nơi như chốn không người...

Nói đến đây y chợt nhớ đến một chuyện, lấy làm lạ hỏi:
- Có điều... Khi ta còn ở huyện Kê Minh, lúc giặc Thát đến tập kích, quân sỹ phương Nam được điều đến cứu viện đều đầy đủ quân số, vũ khí trang bị cũng không tệ, hình như... Liễu Bưu, huynh xác định tin tức do thám không nhầm lẫn chứ?

Liễu Bưu ngạc nhiên, đáp:
- Ty chức điều tra hết sức kỹ lưỡng, sẽ không có nhầm lẫn đâu. Vì phương Nam không bị cường địch như giặc Thát uy hiếp, giặc Oa có lên bờ cướp bóc một phen xong cũng đi ngay, hoàn toàn không dám ở lâu, cho nên việc phòng bị luôn luôn lỏng lẻo. Không biết quân phương Nam điều lên Bắc mà đại nhân nói đến là do ai chỉ huy vậy?

Dương Lăng trả lời:
- Ờ... Ta cũng không biết bọn họ thuộc đội quân của ai. Song ta nhớ đô ty dẫn binh tên gọi là Tất Xuân.

Liễu Bưu nghe vậy bật cười giải thích:
- Đại nhân! Chỉ huy sứ của vệ sở Long Sơn chính là Tất Xuân. Thật ra khi Nam quân được điều lên phía Bắc, để phòng ngừa triều đình nhìn ra sơ hở, quân sĩ được điều động thông thường đều là quân tinh nhuệ được điều động từ vệ sở các nơi bù vào cho đủ số. Vì việc này có lợi cho quân vệ sở mọi nơi ở Giang Nam, cho nên những tướng lĩnh ở đây cũng đều ủng hộ hết lòng. Đội quân của Tất Xuân mà đại nhân thấy nhất định là do vài đội quân vệ sở có sức chiến đấu mạnh nhất chắp vá lại.

Dương Lăng nghe xong ngẩn người một lát, rồi mới giận dữ mắng:
- Thủ đoạn giỏi lắm! Chuyện khác ta còn có thể tạm thời ẩn nhẫn, nhưng bọn họ tự hủy trường thành (ý là hủy hoại quân đội, lực lượng chính bảo vệ đất nước) thì chuyện này ta không thể nhẫn nhịn được. Ta sẽ khai đao với hắn trước, giết gà doạ khỉ, để vệ sở duyên hải bớt phóng túng một chút. Huynh hãy tiếp tục thu thập tình báo của bọn chúng, chú ý đừng bứt dây động rừng.

Liễu Bưu hào hứng đáp:
- Ty chức tuân mệnh! Lại nói về vị thứ hai, trấn thủ thuế giám dệt may Lý Đại Tường. Ngành dệt tơ của Tô Hàng được phân công cực kỳ chặt chẽ, hiện có các loại thợ chuyên môn như thợ sợi bông, thợ vải đoạn, thợ dệt; những đại phú thương mở phường dệt may còn thuê hàng loạt thợ thủ công nữ chuyên phụ trách kéo sợi, nhuộm màu, sửa máy*, thêu hoa.
(*: chắc chỉ là sửa chữa các dụng cụ dệt cổ xưa)

Tính tình của Lý Đại Tường lại không quá kiêu căng, nhưng dệt may Tô Hàng vang danh thiên hạ, thu lợi rất nhiều. Hắn ngầm sai thân tín đội lốt thương nhân, lợi dụng chức quyền ép giá thu mua, đầu cơ trục lợi nên kiếm được món lãi kết xù. Phú hào cả vùng Tô Hàng đều oán giận mà không dám nói ra.

Như dân chúng phủ* Tùng Giang, đa số đều theo nghề phụ là dệt vải, mỗi ngày được một xếp (cuộn); sản lượng vải vóc do ngàn vạn bá tánh sản xuất nội trong một ngày đã đủ hoàn thành kế hoạch. Tiểu dân vùng Gia Thiện lấy nghề kéo sợi làm kế sinh nhai, sản lượng càng lớn vô cùng. Nơi này có câu rằng “vải Tùng Giang mua hoài không hết, sợi Ngụy Đường thu mãi vẫn còn”. Toàn bộ những thứ vải vóc tơ sợi này đều bị hắn độc quyền ép giá thu mua, rồi lại tập trung chuyển bán khắp nơi. Bởi có thể thu được món lợi kếch sù từ trong đó rồi cho nên hắn tự nhiên không cần vơ vét đến nỗi bị người người căm ghét như Viên Hùng.
*phủ: đơn vị hành chánh trên huyện

Vả lại vùng Hồ Châu trồng dâu nuôi tằm, phần đông dân chúng Sơn Đông và Hà Nam trồng trọt cây bông vải. Bởi dệt may Tô Hàng cần rất nhiều nguyên liệu từ những địa phương này vận chuyển vào, mà Viên Hùng lại nắm giữ thuế quan, cản trở vận chuyển những món hàng này nên cực kỳ bất lợi cho sự phát tài của Lý Đại Tường, vì vậy giữa hắn và Viên Hùng có mâu thuẫn rất sâu.

Dương Lăng âm thầm gật đầu. Thật ra tập trung thu mua, tập trung vận chuyển, tập trung buôn bán đều có ích, ví bằng sự bóc lột của Lý Đại Tường không quá hà khắc, có thể chừa lại con đường sống cho dân chúng thì không cần thiết phải so đo với hắn về chuyện này trong giai đoạn hiện tại.

Suy cho cùng, tuy bản thân Dương Lăng nắm quyền thuế giám, nhưng không ai có thể tự thân trấn thủ mọi nơi trong cả nước, cuối cùng y vẫn cần phải dựa vào những người này làm việc cho mình. Nếu như triều đình không thể hoàn mỹ về mặt pháp chế và chế độ thì cho dù đổi cả một đám quan lại cũng chưa chắc những người mới đã liêm chính hơn bọn cũ. Muốn chính trị trong sạch, không phải là chuyện chỉ trù tính mà thành. Cho dù không có đám thuế giám chuyên quyền này đi chăng nữa, nhưng sờ sờ trước mắt là những món lợi to có thể kiếm chác dễ dàng như vậy, lẽ nào thay một đám quan tham thì sẽ hết tham quan?

Dương Lăng nghĩ đến đây bèn gật đầu nói:
- Ừ, người này mặc dù tham ô, nhưng tâm địa không tính là quá xấu, là người có thể lung lạc được. Đúng rồi, còn vị Mạc công công này thì thế nào?

Liễu Bưu cười thưa:
- Trong ba vị thái giám trấn thủ, người có thanh danh tốt nhất chính là vị Mạc công công này. Thuế ruộng Giang Nam được quy thành ngân lượng. Những năm đầu khai quốc, bản triều đã quy định bốn thạch thóc gạo phải nộp một lạng bạc; về sau tỷ suất quy đổi thay đổi lớn, mỗi thạch thóc gạo bị trưng thuế một lạng bạc. Thuế nông nghiệp nơi đây chẳng khác nào đã bị tăng thêm ba lần.

Dân chúng nói rằng:
"một mẫu ruộng công bảy đấu thâu,
trước đem sáu đấu nộp Hoàng châu,
chỉ chừa một đấu chờ khi cưới,
dân chúng lo âu đến bạc đầu".

Như vậy ta có thể thấy sự hà khắc của thuế khoá như thế nào! Nếu không phải Giang Nam trù phú, gạo cá được mùa, dân chúng đã sống không nổi từ lâu.

Bởi dân chúng phải vận chuyển lương thực ra ngoài bán đổi lấy ngân lượng mới có thể nộp thuế, vốn đã bị hao hụt khi vận chuyển lại còn bị tên Viên Hùng đánh thuế không ngừng, cho nên vận chuyển ra ngoài năm đấu, bọn họ có thể cầm tiền của ba đấu về đã coi như tương đối tốt đẹp rồi.

Sau khi Mạc công công trấn thủ Giang Nam, mỗi năm đến mùa thu hoạch hắn đều phái người dùng ghe thuyền quan phủ chủ động đến tận nhà dân thu mua. Tuy rằng hắn thu mua thấp hơn giá chợ một chút, nhưng so với thuế khóa và hao tổn dọc đường, bá tánh vẫn được lợi hơn là tự mình vận chuyển đến chợ bán, thành thử ai nấy đều vui vẻ bán cho hắn. Vì vậy thanh danh của Mạc công công rất tốt, dân chúng Giang Nam gọi hắn là thiện nhân.

Ngày đó trên thuyền Dương Lăng thấy Mạc công công gan lớn trùm trời, thậm chí cả trà tiến cống dâng cho hoàng thượng cũng dám đánh tráo, y cho rằng hắn chỉ là một tên hoạn không sợ chết, trong mắt chỉ có tiền mà thôi. Nào ngờ lại nghe báo hắn tốt bụng như vậy, y không khỏi lấy làm lạ hỏi:
- Nói như vậy, hắn là thanh quan ư?

Liễu Bưu cười ha hả đáp:
- Không thể xem là thanh quan! Suy cho cùng hắn làm như vậy cũng là vì muốn trục lợi cá nhân mà thôi. Lương thực nhiều như vậy, nếu mỗi thạch lương thực hắn đều kiếm chác được sơ sơ thì gom góp lại cũng đã được một ngọn núi vàng rồi. Có điều, cho dù nói thế nào đi chăng nữa thì dân chúng cũng được hưởng lợi. Những người dân này mặc kệ ngươi tham ô hay không tham ô, chỉ cần lúc cần kíp ngươi có thể chiếu cố bọn họ một chút, bọn họ đã cảm kích không thôi rồi.

Vả lại... Vì Mạc công công trông giữ cực nghiêm những loại vật phẩm quý hiếm, có giá cao như trà, hương liệu, dược phẩm, muối ăn, … thậm chí chịu trách nhiệm tổ chức dân công đi xây dựng công trình cũng không ít, cho nên phần ngân lượng hắn thu được cũng phong phú vô cùng. Chỉ là trong ba người, Mạc công công được xem là kẻ rộng rãi nhất. Nếu gặp năm tai ương, hắn còn thường xuyên dựng lều thí cháo cứu sống không ít nhân mạng, cho nên thanh danh cực tốt.

Dương Lăng đứng dậy, bước chậm rãi trong phòng vài bước, trầm tư hồi lâu rồi mới quả quyết ra lệnh:
- Được! Sáng sớm ngày mai huynh hãy điều động người của huynh đến chỗ Viên Hùng, điều tra hắn kỹ càng lại cho ta. Còn về phần ta thì... ha ha, bản đại nhân du hành Giang Nam chỉ phụ trách du sơn ngoạn thủy, những thứ khác sẽ không phụ trách. Ngày mai ta sẽ đến Sư Tử thôn uống trà.

Là tâm phúc của Dương Lăng nên Liễu Bưu đã sớm biết kế hoạch của y, nghe vậy bèn đứng dậy hỏi:
- Đây là đại nhân muốn đánh Viên, lôi kéo Lý, Mạc chăng?

Dương Lăng cười nói:
- Ha ha! Dù sao cũng không thể một gậy đánh giết hết thảy được. Nếu làm thế tất cả thái giám trấn thủ trong cả nước đều dở quầy cất sạp, triều đình không còn bạc để dùng, há chẳng phải sẽ lại đẩy ty Thuế Giám về tay ty Lễ Giám ư?

Tuy là nói như vậy, nhưng chuyện Mạc Thanh Hà tráo trà tiến cống vẫn đeo nặng trong lòng y, cho nên y muốn ngày mai đến thôn Long Tỉnh trên núi Sư Tử tự mình thị sát. Vào thời tiết này đương nhiên không có trà ngon gì, lần này y đi kiểm tra, một là muốn để ba đại thái giám trấn thủ bớt lo âu, cho rằng y cũng chỉ là hư trương thanh thế chứ tịnh không có ý xử lý bọn họ, hai là để bóng gió thăm dò ý tứ của Mạc Thanh Hà.

Liễu Bưu cười đáp một tiếng, vừa tính quay người lui ra, Dương Lăng chợt nhớ đến chuyện kỳ lạ mình vừa chứng kiến khi nãy, vội giữ y lại, hỏi:
- Liễu Bưu! Có chuyện này ta muốn hỏi huynh. Thái giám Đại Minh chúng ta... cũng có thể cưới vợ sao?

Liễu Bưu ngẩn người ra. Hắn đã âm thầm điều tra kỹ càng ba vị thái giám trấn thủ nên hiển nhiên biết rõ chuyện gia đình bọn họ như lòng bàn tay. Vì vậy, hắn chỉ hơi ngẩn người liền sực tỉnh, cười đáp:
- Phải chăng đại nhân đã gặp mặt phu nhân của Mạc công công rồi?

Dương Lăng kinh ngạc:
- Huynh cũng biết? Chẳng lẽ... Mạc công công vốn sau khi xuất gia... à… sau khi lập gia đình rồi mới tiến cung sao?

Liễu Bưu bật cười đáp:
- Đại nhân hiểu lầm rồi. Thật ra trong nội cung, việc thái giam cùng cung nữ kết làm phu thê cũng không phải là ít, có điều bọn họ không gọi là phu thê, mà gọi là "Đối thực" và "Thái hộ"(2), giữa khác giới có, giữa cùng giới cũng có nữa, chuyện này đã có từ xưa. Thời hoàng đế Hồng Vũ bản triều đã từng cấm đoán một đoạn thời gian, về sau rồi cũng buông trôi bỏ mặc. Bây giờ cho dù Hoàng Thượng, Hoàng Hậu có nghe nói đến cũng sẽ không can dự vào.

Những công công địa phương có quyền có thế không những có thể cưới vợ nhận con nuôi, mà vợ cưới về còn thường là con gái ngoan của những gia đình quan lại. Nhưng vị phu nhân của Mạc công công lại có xuất thân phong trần, nghe nói trước đây là đệ nhất danh kỹ của "Lầu Xuân Vũ" ở Giang Nam.

Dương Lăng nghĩ đến phong tình tuyệt thế của vị mỹ nữ ấy, không khỏi bật cười nói:
- Ta nói thật nhé! Hôm nay gặp cô ta mà ta giật cả mình, còn tưởng là đó là người vợ Mạc công công cưới về trước khi nhập cung, bằng không làm sao hắn có gan dám công nhiên dùng thân phận thái giám để cưới vợ như vậy!

Y vừa nói vừa nghĩ đến người con gái Giang Nam muôn vẻ phong tình ấy lại gả cho một tên thái giám, không khỏi lắc đầu thở dài, rất lấy làm tiếc rẻ.

Liễu Bưu thưa:
- Đại nhân! Ngài đừng thấy bọn họ là giả phượng hư hoàng(3) mà coi khinh, so với người thường thì những cặp vợ chồng thái giám này càng mặn nồng hơn nhiều. Về những cặp “thái hộ” trong cung, thường là một khi đôi lứa nên duyên thì sẽ kính trọng và yêu thương nhau cả đời không đổi. Nếu ngẫu nhiên có thái giám hoặc cung nữ thay lòng đổi dạ, đối phương thường sẽ đau khổ không thiết sống, thậm chí vì vậy mà thắt cổ tự vẫn, chuyện đắng cay này trong cung chẳng lạ lùng gì.
Đa số bọn họ nếu như có một người chết trước, đối phương cũng cả đời không kết duyên lần nữa mà sẽ đặt linh vị của đối phương trong phòng mình, mỗi khi đến ngày giỗ cũng đều thường khóc thương thảm thiết, khóc đến chết đi sống lại. Tình cảm của bọn họ... thật không phải là thứ mà người thường chúng ta có thể lý giải.
Có điều cưới vợ ngoài cung cũng có thể mặn nồng được như vậy hay không thì ty chức không biết.

Quả thật lúc ban đầu Dương Lăng cũng hơi khinh rẻ chuyện thái giám cưới vợ, nhưng nghe Liễu Bưu nói xong, y mới tỉnh ngộ. Những người đó mặc dù về mặt sinh lý đã không thể được gọi là đàn ông, nhưng về mặt tâm lý họ lại muốn hưởng cuộc sống của người bình thường; lòng mong muốn đó còn bức thiết hơn hẳn những người đàn ông bình thường. Kể ra cũng thật khiến người ta đồng tình.

Dương Lăng bỗng bật cười nói:
- Nghe được một câu của huynh còn hơn đọc sách mười năm, bản quan đã lĩnh giáo. Chỉ cần người ta đôi bên đều tình nguyện, chúng ta quả thực không nên vì hắn là thái giám mà ba lời bốn ý làm gì.




Chú thích:

(1) thời xưa người Nhật Bản thấp bé nên bị gọi là người lùn (oa nhân), giặc Oa là giặc lùn, chỉ hải tặc Nhật Bản.
(2) "Đối thực" chỉ cung nữ, "Thái hộ" chỉ thái giám
(3) Phương giả, hoàng dối. Cụm từ này xuất xứ từ Hồng Lâu Mộng, chỉ mối quan hệ vợ chồng hữu danh vô thực. Phượng là chim đực, hoàng là chim cái.

Chương 125 - Trong Hỏi Ngoài Tra

------------------------

Ngày hôm sau, quan viên bản xứ và thân sỹ địa phương lần lượt đến chính thức thăm viếng khâm sai đại nhân, nhất là những quan lại và thân sỹ hôm qua không có tư cách tham dự tiệc tẩy trần khoản đãi Dương khâm sai.

Đương nhiên tất cả những người đến viếng thăm đều không thể đi tay không: hoặc ngân phiếu, hoặc châu báu thư họa, hoặc đặc sản địa phương; dược liệu trân quý các loại cũng không ít. Dương Lăng cố ý tạo hình tượng một viên quan tham tiền hám lợi vô trách nhiệm, cho nên y không khước từ một ai.

Cao Văn Tâm không biết rõ nội tình, nàng không thích lão gia nhà mình biến thành kẻ cơ hội như vậy. Trong lòng bực bội song lại không tiện phát tiết, cho nên mặc dù được Dương Lăng sai ngồi làm "kế toán viên", nàng lại chẳng thèm đếm xỉa đến những kẻ biếu quà.

May mà những người này đều sớm hay rằng Dương Lăng lần này đến đây chỉ mang theo một cô tỳ nữ xinh đẹp này, hơn nữa nghe nói mỗi tối nàng thường xuyên len lén chui vào phòng khâm sai. Ai còn dám đối đãi với nàng như thị nữ chứ?

Giang Nam là địa phương đông đúc và giàu có nhất thiên hạ. Những phú hào đó đều có gia tài ức vạn, đến thăm viếng xưởng đốc Nội xưởng có quyền lực khuynh đảo triều đình nào dám tặng lễ vật tầm thường? Tuy không dám nói là kỳ trân dị bảo nhưng những món quà biếu tặng cũng đều đắt giá vô cùng.

Cao Văn Tâm đang ghi chép từng hạng mục, bỗng nhiên nha sai dẫn một thương nhân buôn muối vào. Không ngờ người này đem tặng bốn mỹ nữ gồm hai người Cao Ly và hai người Đông Doanh. Bốn nữ tử này dáng điệu tuy không xinh đẹp bằng Cao Văn Tâm, nhưng vẻ phong tình ngoại quốc ấy lại quả thực rất mới mẻ.

Cao Văn Tâm thật sự đã nổi giận, nàng mang bút lông xông thẳng vào phòng khách. Dương Lăng vừa mới tiễn một thương nhân buôn trà về, thấy nàng đang cầm bút lông, dáng điệu tức giận trông rất xinh đẹp, không khỏi cười hỏi:
- Sao vậy? Ai lại chọc cô giận à?

Cao Văn Tâm chua chát đáp:
- Lễ vật người ta tặng, tiểu tỳ đều sai người đưa vào trong kho. Giờ có người đến tặng bốn món vật sống, tiểu tỳ không biết có nên đưa lên giường lão gia hay không, cho nên phải đến xin ý kiến lão gia.

Dương Lăng đảo tròng mắt rồi cười nói:
- Đưa lên giường tôi à? Ha ha, có phải có người đến tặng mỹ nữ không? Đi đi đi, ra ngoài xem thử.

Y còn tưởng có người tặng mỹ nữ Giang Nam cho mình, khi ra ngoài nhìn thì lại là bốn nữ tử nước ngoài, đương nhiên nhận ra người đeo bọc vải nhỏ trên lưng là người Nhật Bản, bất giác ngẩn ra.

Đang cung kính chờ đợi khâm sai đại nhân triệu vào gặp, vị thương gia buôn muối trông thấy bốn tay nha sai đang vây quanh một vị công tử thiếu niên vận cẩm bào đai ngọc đi ra, vị mỹ nhân ghi chép sổ sách nọ đang cầm cây bút lông đi theo sau, môi cong như thoa mỡ, thì biết người đi trước chính là khâm sai đại nhân. Gã không khỏi có cảm giác được yêu mến mà lo sợ, bèn quỳ xuống cười nịnh nọt thưa:
- Thảo dân Đỗ Sách bái kiến khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nói:
- Bản quan xuôi Giang Nam chỉ là tuần tra tình hình thuế khoá địa phương thôi, thực không muốn làm phiền đến danh lưu thân sỹ địa phương. Đỗ tiên sinh đang bao bộn bề lo toan mà vẫn đến thăm viếng, bản quan thẹn không dám cáng đáng.

Tay thương gia buôn muối Đỗ Sách đó cười bồi đáp:
- Nào có nào có! Thảo dân may mắn gặp được đại nhân, đó vận tốt của thảo dân. À... thảo dân nghe nói đại nhân đi đường mệt mỏi, ngay cả nha đầu để sai vặt bên người cũng không có, cho nên đã cố công mua bốn thị tỳ tặng đại nhân để hầu hạ hằng ngày, xin đại nhân vui lòng nhận cho.

Đứng bên cạnh, Cao Văn Tâm ho khan hai tiếng. Dương Lăng nghe thấy trong lòng cười thầm, y cũng không tính sẽ xuống Giang Nam đem theo một đám mỹ nữ về biến nhà mình thành Đại Quan viên(4). Đang tính mở miệng từ chối khéo, y chợt nghe một giọng cười nói oang oang cất lên:
- Thì ra ông chủ họ Đỗ cũng đến rồi à? Chạy còn nhanh hơn ta! Ha ha ha, ông có tặng mỹ nhân thì cũng nên tặng cực phẩm một chút mới được! Nhớ khi xưa có vị tuyệt sắc giai nhân, đến ta thấy mà còn mê mẩn, âm thầm trao lòng cho Dương đại nhân mà Dương đại nhân vẫn năm lần bảy lượt từ chối khéo, sao đại nhân có thể để mắt đến mấy cô gái này?

Lời vừa dứt, liền thấy một vị quan văn râu ria xồm xoàm, hai tay chắp sau lưng, ưỡn bụng bước dài đến nơi. Dương Lăng ngước mắt nhìn, trông thấy đúng là huyện lệnh Mẫn Văn Kiến một đao chém chết vương tử Thát Đát ở Kê Minh khi xưa, liền vội chạy lên mấy bước, nắm chặt tay lão mừng rỡ chào:
- Mẫn đại nhân!! Đã mấy tháng không gặp, thật nhớ ông muốn chết.

Mẫn Văn Kiến vẫn trực tính như xưa, chỉ là bụng đã bự hơn một chút, lão vội cựa khỏi tay y, quỳ xuống làm lễ:
- Hạ quan Mẫn Văn Kiến ra mắt...

Dương Lăng ngăn đỡ lão dậy, trách:
- Mẫn đại nhân của ta ơi! Đến Giang Nam rồi, nhìn đại nhân nói chuyện cũng đã ra vẻ nho nhã, sao lại còn chú trọng đến những thứ lễ nghi rườm rà này nữa? Nếu không có ơn tri ngộ của đại nhân, sao có tại hạ hôm nay. Đại nhân cũng đừng khách khí như vậy nữa.

Mẫn Văn Kiến đứng thẳng người lên cười nói:
- Lễ nghi nào nên chú trọng vẫn cần phải chú trọng chứ! Ha ha ha! Từ lúc đại nhân đến kinh sư, thường có những tin tức khó tin lan truyền đến Giang Nam, Mẫn mỗ nghe kể xong lúc thì thấp thỏm lo lắng, khi lại vui sướng không thôi. Vốn dĩ còn tính chạy chọt khắp nơi để điều đại nhân đến Giang Nam. Giờ thực tốt quá, rốt cuộc đại nhân đã đến, nhưng lại không phải do Mẫn mỗ điều động, ha ha ha...

Thương gia Đỗ Sách bước tới cười nói:
- Hoá ra Diêm vận sứ đại nhân và khâm sai đại nhân là cố giao à! Thất kính thất kính.

Mẫn Văn Kiến nheo cặp mắt tròn như đậu xanh nhìn hắn rồi cười nói:
- Sao? Có phải là cảm thấy kính nể bản quan rồi không?

Lão lại liếc mắt sang bốn mỹ nhân ngoại quốc nọ, nói tiếp:
- Đừng bảo bọn họ ở đây nữa! Ngươi cũng được xem như là một nhân vật khôn khéo, không lẽ chưa từng nghe nói chuyện đương kim thiên tử hạ chỉ ban thiếp sao? Dương đại nhân có tầm mắt như thế nào? Mấy nha đầu non nớt này lọt được vào mắt đại nhân ư?

Dương Lăng bật cười nói:
- Mẫn đại nhân! Đại nhân đến Giang Nam mới có mấy tháng mà giờ đã xuất khẩu thành thơ rồi. Thật sự khiến người ta phải rửa mắt mà nhìn.

Mẫn Văn Kiến nghe vậy thì cười lớn:
- Không còn cách nào khác, không còn cách nào khác! Cả ngày nghe bọn họ nói những từ ngữ này nên lỗ tai ta cũng quen rồi, thế nào cũng phải nhớ được mấy câu.

Dương Lăng vừa chuyện trò cùng lão, vừa mời hai người vào phòng khách, rồi kêu người dâng trà tiếp đãi.

Thật ra vị thương nhân buôn muối nọ còn buôn bán thứ khác. Lần này hắn đến Hàng Châu là để tiếp nhận một lượng hàng hóa lớn từ trong kinh do thuyền quan Dương Lăng vận chuyển. Mắt thấy người đẹp mà mình đem tặng không hợp tâm ý của khâm sai đại nhân nhưng cũng không thể cứ đến tay không một chuyến như vậy. Phải biết rằng bấu víu được vào gốc cây to này, sau này có chuyện gì, chỉ cần đại nhân thuận miệng nói một câu thì hắn cũng được ích lợi không biết đến dường nào.

Nghĩ đến đây, ông chủ họ Đỗ lấy từ trong ngực ra một đôi khuyên tai trân châu, vốn là món quà lão mua từ Kim Lăng chuẩn bị tặng cho người thiếp xinh đẹp mà lão sủng ái nhất, hai tay dâng lên thưa:
- Là thảo dân lỗ mãng rồi! Bốn cô gái này chốc nữa thảo dân sẽ dẫn đi. Đôi khuyên tai trân châu này chính là chút lễ mọn, thật sự không tỏ được lòng kính trọng, đại nhân nhất định phải nể mặt cho.

Đôi khuyên tai trân châu đó được chế tạo xinh đẹp tinh xảo, trân châu bóng tròn chắc mẩy, kích cỡ đều đặn, màu sắc và ánh sáng thu hút người ta, đặt trong lòng bàn tay tỏa ra ánh sáng mượt mà thăm thẳm, vừa nhìn liền biết ngay nó là châu báu đắt giá vô cùng. Dương Lăng thuận tay nhận lấy rồi đưa cho Cao Văn Tâm, thấy nàng còn cầm bút, liền cười nói:
- Không cần ghi đâu, đôi khuyên tai này tặng cho cô đó.

Cao Văn Tâm đỏ mặt liếc y một cái rồi nhanh nhẹn xoay người đi ra. Vẻ vui mừng e thẹn hiện lên bất chợt ấy cực kỳ rung động lòng người. Ông chủ họ Đỗ bừng tỉnh, thầm nhủ: "Thì ra khâm sai đại nhân mê luyến người con gái này, khó trách y không nhận mỹ tỳ mình tặng. Tư dung của vị cô nương này quả thực hơn bọn chúng không chỉ là một bậc."

Hai người và Dương Lăng chuyện trò một hồi về chuyện nhà chuyện cửa. Tâm ý đã tặng xong, biết rõ rằng khâm sai đại nhân và Mẫn đại nhân xa cách lâu ngày mới gặp ắt có nhiều chuyện muốn thổ lộ, cho nên Đỗ Sách ngồi một lát thì đứng dậy cáo từ.

Tiễn Đỗ Sách về xong, Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến quay lại chỗ ngồi. Mẫn Văn Kiến mời:
- Đại nhân! Lần này xuôi Nam nhất định ngài phải tranh thủ đến Hải Ninh một chút đấy. Khoảng cách không quá xa, đến khi ấy để ta cũng được tận lễ chủ nhà.

Dương Lăng cười đáp:
- Nếu có cơ hội, tại hạ nhất định sẽ đi. Mẫn đại nhân ở Hải Ninh mọi thứ vẫn tốt chứ?

- Vẫn tốt, sự giàu có và sung túc nơi đây còn lâu phương Bắc mới sánh bằng, có điều quân đội nơi này so với biên quân của chúng ta thực thua kém quá xa. Nghe nói bây giờ phía bên kia biển, chư hầu các nơi của Nhật Bản đang làm loạn, thường có một vài võ sỹ và lãng nhân(5) thất thế không chốn nương thân bèn cấu kết với một số thuyền buôn đi đến chỗ của chúng ta cướp bóc khắp nơi.

Con bà nó chứ! Không ngờ là còn có một đám gian thương, cường hào, lưu manh, hải tặc của địa phương mật báo tin tức cho bọn chúng, dẫn đường cho bọn chúng, thậm chí còn trực tiếp tham gia cướp bóc.

Ta vừa đến Hải Ninh gặp đúng lúc phải giặc Oa đến tập kích quấy rối. May mà bản thân Diêm vận ty có đội ngũ hộ tống hơn ba trăm người, sức chiến đấu còn phải mạnh hơn quan binh một chút. Bọn giặc Oa đó lại không đông, bị ta dẫn người ra sức giáo huấn những tên ranh đó một trận, một cây Đại Khảm đao đã chém chết hơn hai chục tên. Hiện không còn thấy bọn chúng dám đến Diêm vận ty của ta sinh sự nữa.

Dương Lăng lại một lần nữa nghe đến hai chữ "giặc Oa" này, không kiềm lòng được bèn chú ý hỏi:
- Thế lực của những tên giặc Oa này lớn mạnh lắm sao?

Mẫn Văn Kiến cười khinh thường:
- Sức chiến đấu không bằng giặc Thát, nhân số lại chỉ là một đám giặc lang thang. Có điều đường bờ biển quá dài nên khó đề phòng cho xuể; hơn nữa quân đội nơi đây quá yếu, thông thường một đám giặc Oa khoảng trăm tên đổ bộ thì đã đủ để tung hoành ngang dọc rồi.

Ta nghe nói chư hầu các nơi ở Nhật Bản đang đấu đá tranh quyền lẫn nhau, trong tay đều thiếu bạc, cũng có chư hầu từng muốn thông thương buôn bán với Đại Minh chúng ta. Đáng tiếc số lượng bến cảng thương mại và hàng hoá giao dịch mà chúng ta cho phép lại quá ít, không thể thoả mãn nhu cầu của bọn chúng.

Bọn chúng chó cùng rứt giậu, bèn tổ chức luôn nhân mã rồi cấu kết với đám thương gia phạm pháp âm thầm buôn lậu. Nhược bằng bị thuỷ quân truy đuổi không buôn bán được thì đổi nghề chuyển sang làm cường đạo. Bọn chúng đến rồi đi ngay, trốn vào biển khơi, chúng ta thật không làm gì được bọn chúng.

Dương Lăng máy động trong lòng, thầm nghĩ: "Thì ra trong những hải tặc này có kẻ vì muốn làm ăn buôn bán hợp pháp không được mới đổi nghề làm hải tặc. Trước kia chỉ nghe nói giặc Oa tham lam tàn bạo, thường xuyên cướp bóc dân chúng vùng duyên hải chứ chưa hề được nghe ai nói đến nguyên nhân này.”

Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Muốn giải quyết những vấn đề này, xem ra phải thực hiện song song việc khơi thông và ngăn chặn mới được. Một mặt tăng cường sức mạnh quân sự, khiến bọn chúng phải e dè, không dám tuỳ tiện xâm phạm; mặt khác còn phải mở cảng thông thương hợp pháp, chủ động làm ăn buôn bán với chúng, đôi bên cùng có lợi, có gì là không tốt

Những hải tặc đó chỉ dựa vào cướp bóc thì có thể cướp được bao nhiêu thứ từ trong tay dân chúng chứ? Đa số chỉ đủ trám miệng bọn chúng mà thôi. Nếu thấy rõ những ích lợi có thể kiếm được, ắt những kẻ này sẽ lắc mình biến thành thương nhân ngay...

Nói đến đây, Dương Lăng chợt ngậm miệng: Chỉnh đốn quân đội là việc Nội xưởng làm được sao? Mở cảng thông thương? Văn thần trong triều không gật đầu, chính sách này có thể được thực hiện à? Chỉ quyền lực và quan hệ không thì không đủ, còn phải thay đổi tư tưởng và nhận thức của mọi người, còn quá nhiều điều kiện chưa chín muồi, cho nên toàn bộ những thứ này dứt khoát không phải là những điều mà hiện giờ y có thể làm. Y có cơ hội và thời gian đi làm mấy việc này sao?

Mẫn Văn Kiến nghe nhưng không hiểu những thứ này, thấy y nhíu mày lo lắng cho dân chúng Giang Nam, bèn vội cười nói:
- Đại nhân không phải lo lắng. Giặc Oa phần lớn đến từ biển, từ biển muốn đổ bộ ắt phải dựa vào sức gió; cho nên mùa nào nổi gió gì, lúc nào giặc Oa lên bờ, phần lớn đều phải theo qui luật, có muốn thay đổi cũng không được.

Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì bọn chúng sẽ không dấy lên được bao sóng gió đâu. Cùng lắm chúng chỉ cướp đoạt ít làng chài, cũng không có bao bản lĩnh. Ờ... thông thường là giữa tháng tư, tháng năm và tháng chín, tháng mười hằng năm là những tháng thích hợp để đi thuyền vượt biển, lúc đó giặc Oa sẽ chạy đến cướp bóc. Trước khi đến thăm đại nhân ta đã sai quan binh Diêm vận ty tăng cường phòng bị, chỉ cần qua hai tháng này, bọn chúng có muốn đến nữa cũng phải đợi đến tháng tư năm sau thôi.

Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến đang tán gẫu, Trịnh bách hộ chạy vào thưa:
- Khải bẩm xưởng đốc đại nhân, Mạc công công đã chuẩn bị xong kiệu xe, mời đại nhân cùng đến núi Sư Tử khảo sát.

Dương Lăng nghe vậy đứng lên, áy náy bảo:
- Mẫn đại nhân! Đại nhân và tại hạ xa cách từ lâu mới gặp lại, đáng lý tại hạ nên bày rượu cùng đại nhân chuyện trò cho thỏa thích một phen. Chỉ là hôm nay tại hạ đã cùng Mạc công công thoả thuận sẽ cùng đến núi trà tuần tra. Không biết Mẫn đại nhân trọ ở nơi nào, đợi tối nay tại hạ trở về sẽ lại cho người mời đại nhân đến, chúng ta cùng nhau nâng chén, không say không về.

Mẫn Văn Kiến cười hào sảng đáp:
- Với giao tình của hai ta, đại nhân còn nói những lời khách sáo này làm gì? Có điều đại nhân đường sá xa xôi đến đây, muốn gặp mặt một lần không dễ, cho nên ta mới tranh thủ thời gian chạy đến. Cha già bệnh tình nguy kịch, Diêm vận sứ đại nhân đã xin phép nghỉ về quê; ta thực không dám gác lại công việc quá lâu, cho nên hôm nay sẽ phải chạy về rồi. Nếu đại nhân có thể đến Hải Ninh tuần tra, chúng ta sẽ lại uống thoả thích một phen.

Dương Lăng hồ hởi:
- Được! Khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, tại hạ nhất định sẽ đến Hải Ninh.

Mẫn Văn Kiến chợt nhướng mày, cười giảo quyệt:
- Đã biết khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, vậy... có đi Kim Lăng không?

Dương Lăng ngẩn ra:
- Nam Kinh? Lần này tuần thị thuế khoá Giang Nam, hình như không cần đi Nam Kinh thì phải?

Y vừa đáp vừa thầm nghĩ trong lòng: "Đi đến đó làm gì nhỉ? Vương Quỳnh đang ở Nam Kinh, tuy rằng lão già ấy hận mình đến thấu xương nhưng thực ra bản tính không tệ, mình cũng không muốn làm khó lão, nhưng nếu đi đến đó khó tránh phải chạm mặt cùng lão. Con trai lão chết trong tay mình, đến lúc gặp lão cũng không biết sẽ xảy ra chuyện gì đây. Còn về phần Mã Liên Nhi... chậc!”

Mẫn Văn Kiến cười hắc hắc đáp:
- Lộ trình không xa quá, thật ra nhín chút thời gian đại nhân cũng có thể đi thăm Kim Lăng một lúc.
Lão mỉm cười nói tiếp:
- Lúc ta vận chuyển muối đến Nam Kinh, đã từng tình cờ gặp ái nữ của Mã dịch thừa. Cô nàng đó thực sự là nghĩa nặng tình sâu với đại nhân à! Nếu đại nhân phụ người ta, ngay cả ta cũng sẽ nhìn không vừa mắt đâu.

Lão vừa nói vừa rút từ trong ống tay áo một tờ giấy đã được gấp lại, nhét vào trong tay Dương Lăng:
- Đây là nơi ở của nàng ấy. Ha ha, ta đã hết lời trong chuyện này rồi, đi hay không đại nhân hãy tự quyết định.

Xử lý xong việc này, dường như Mẫn Văn Kiến hết sức vui vẻ, toét miệng cười đắc chí.

Dương Lăng tiễn lão ra khỏi cổng, trông thấy trước cổng đã có hai kiệu ngựa đang đậu, Trịnh bách hộ dẫn theo một ít nha sai, còn có thuế lại (nhân viên thu thuế) và một ít nô bộc của Mạc phủ đang đứng bên ngoài.

Dương Lăng cáo từ Mẫn Văn Kiến, dõi theo chiếc kiệu của lão từ từ đi xa. Y đứng dưới bức tường xanh mọc đầy dây leo, ngắm nhìn liễu xanh sông biếc cạnh bờ tường, ngẩn ngơ vuốt ve miếng giấy trong tay thật lâu.

Bồi hồi, y dường như nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mặc đồ trắng thướt tha mờ ảo, yểu điệu mảnh mai như một đoá thược dược, nhẹ nhàng bước ra từ trong nước, khuôn ngài ẩn chứa mối thâm tình, đang đi về phía y. Dáng đi thong thả ấy, cử chỉ không chỗ nào không quyến rũ ấy, khiến cho người ta phải thất thần.

"Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ,
Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ,
Chích duyên cảm quân nhất hồi cố,
Ngã tiện tư quân triều dữ mộ.
Hồn tuỳ quân khứ thiên nhai lộ,
Y đái tiệm khoan bất giác khốc,
Tích thán niên hoa như triều lộ,
Hà thời hàm nên sào quân ốc...
Tam thập lục luân minh nguyệt hậu,
Đương vi quân tác nghê thường vũ..."


Dịch thơ:

Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng
Trăng lặn mù tan đọng sương lan
Cảm lòng chàng một phen ngóng lại
Tim này nhớ ai bao ngày sang

Hồn theo chàng đến cuối chân trời
Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi
Xuân xanh tàn tận dường sương sớm
Khi nao hội ngộ hỡi người ơi

Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua
Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca...
(hieusol)

Dương Lăng khẽ ngâm hết câu thơ cuối cùng, nghĩ đến ba mươi sáu mùa trăng tỏ sau, mình và Mã Liên Nhi sớm đã người, ma hai ngả, đôi đường li biệt, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi bi ai. Y dằn lòng, vo chặt mảnh giấy ghi nơi ở của Mã Liên Nhi lại, đang định thuận tay vứt xuống sông, chợt nghe bên cạnh có tiếng người vỗ tay khen:
- Thơ hay! Thơ hay! Nếu như ty chức đoán không sai, đây hẳn là của một vị cô nương đa tình tặng cho đại nhân thì phải.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn, thấy Mạc Thanh Hà đang đứng bên cạnh vỗ tay mỉm cười, vị phu nhân xinh đẹp muôn vẻ phong tình cũng đứng cạnh bên, ánh mắt đầy vẻ kỳ lạ, hiển nhiên tán thưởng vô cùng.

Phong tục tập quán Giang Nam cởi mở, khác xa với kinh thành phương Bắc, vị phu nhân này của Mạc Thanh Hà cũng không quá kiêng kị. Lão gia nhà mình muốn đi đến núi Sư Tử, nàng ta liền tiễn ra đến cổng. Vừa nghe thấy Dương Lăng ngâm thơ, nàng không khỏi tán thưởng, cười nói với Mạc Thanh Hà:
- Lão gia! Từ sau khi nghe được bài thơ "Đào Hoa am" do tài tử Đường Dần(6) của Tô Châu sáng tác ở biệt thự Đào Hoa am vào tháng sáu năm nay, thiếp thân đã không còn nghe được bài thơ hay nào có ý cảnh như vậy nữa. Nếu như Dương đại nhân không chê, có thể cho phép thiếp thân chép bài thơ này lại hay không?

Mạc Thanh Hà chau mày vờ trách:
- Chớ nên vô lễ! Sao lại để cho đại nhân khó xử như vậy?

Dương Lăng cười nói:
- Việc này không sao!
Y vừa nói vừa thuận tay cất miếng giấy nọ vào ngực, rồi tiếp:
- Đợi bản đốc và Mạc đại nhân từ trên núi trở về, sẽ đọc lại cho phu nhân nghe là được.

Trước mặt vị "thái giám có vợ" này, Dương Lăng không tiện gọi hắn là công công, bèn đổi gọi thành đại nhân. Vợ chồng Mạc Thanh Hà nghe xong trên mặt lập tức lộ vẻ vui mừng. Mạc Phu Nhân tươi cười duyên dáng nói:
- Khi nãy thiếp thân chỉ chú ý đến ý cảnh trong thơ, chưa nhớ hết lời. Chỉ cần đại nhân ngâm lại một lượt, thiếp thân liền sẽ nhớ ngay.

Dương Lăng kinh ngạc nhìn nàng ta, không ngờ người con gái này học thức uyên bác, có khả năng xem qua là nhớ, thế là y liền đọc lại bài thơ một lượt. Mạc phu nhân chăm chú lắng nghe, sau đó không nén được vui mừng vỗ tay:
- Thiếp thân đã nhớ rồi, giờ thiếp thân sẽ về chép lại.

Nói đoạn cũng không cáo biệt, nàng dịu dàng như hoa xuyên liễu phớt, hạnh phúc dẫn hai nha hoàn quay trở vào phủ.

Mạc Thanh Hà chỉ biết cười nhìn theo bóng lưng nàng, rồi nói với Dương Lăng:
- Tiện thiếp trước giờ vẫn luôn không biết lễ phép, khiến đại nhân chê cười rồi.

Dương Lăng nói:
- Thẳng tính mà làm, ấy là chân nhân*. Tôn phu nhân tính tình bộc trực, không hề có tâm cơ, như vậy có gì là không tốt? Ha ha, bản quan phải tiếp với mấy vị khách nên ra hơi trễ, đã phiền đại nhân phải đợi lâu. Giờ chúng ta đến núi Sư Tử đi dạo thôi.
*(chân nhân vừa nghĩa là người đắc đạo vừa nghĩa là người sống thật)

Mạc Thanh Hà nghe y nói "đi dạo" núi Sư Tử, không khỏi cười lớn. Hai người cùng lên kiệu ngựa, Dương Lăng dẫn theo một trăm hai mươi nha sai, Mạc Thanh Hà cũng mang theo bốn mươi viên thuế lại, cùng chạy về phía núi Sư Tử.

Hàng Châu có Tây Hồ trong veo trang nhã, có bờ Phú Xuân trong xanh gợn sóng, có dòng Tiền Đường thủy triều lên thủy triều rút, có núi Nam Ngô, Bắc Cô, phong cảnh rất nhiều. Thật ra quang cảnh của Hàng Châu chủ yếu nằm ở những lâm viên và cảnh quan nhân văn của vùng Giang Nam êm dịu; có rất nhiều cảnh vật tự nhiên nhưng mang nặng dấu ấn của con người, nếu bỏ lớp ý cảnh đó đi thì cũng sẽ không còn gì hay ho nữa.

Chẳng hạn như ngôi mộ của Tô Tiểu Tiểu bên cạnh Tây Hồ. Nếu không phải vì nàng là danh kỹ Giang Nam phong lưu thiên cổ, có nhiều câu thơ ưu mỹ như:

"U lan lộ, như đề nhãn. Vô vật kết đồng tâm, yên hoa bất kham tiễn.
Thảo như nhân, tùng như cái. Phong vi thường, thuỷ vi bội..."*


được văn nhân mặc khách lưu lại, thì chỉ nhìn phần mộ đó thôi cũng sẽ chẳng thấy ý vị gì.

*Lan đọng sương, như giọt lệ, lấy gì kết đồng tâm. Trăng hoa đâu nỡ dứt?
Cỏ như tơ, thông che bóng. Gió là áo, nước điểm trang...


Quang cảnh Hàng Châu vốn không phải theo kiểu "nhìn núi ra thơ", núi Sư Tử lại hết sức tầm thường. Trong con mắt của người đã quen nhìn những ngọn danh sơn trên thế giới như Dương Lăng, nó càng cực kỳ nhạt nhẽo vô vị. Nhưng chính trên mỏm núi trông hết sức tầm thường này, lại sản xuất ra thứ trà ngon Long Tỉnh vang danh thiên hạ.

Ở Tô Hàng, núi Hổ Khâu vì suối mà có tiếng, ngọn Phi Lai vì Linh Ẩn tự mà nổi danh. Ngọn Sư Tử sơn này chính là nhờ trà Long Tỉnh mà vang danh thiên hạ.

Khi kiệu quan vừa lên núi, sớm đã có viên thuế giám phụ trách trông coi núi này dẫn người chạy vội ra nghênh đón, đưa hai vị đại nhân vào trong một căn nhà gỗ được xây dựa sườn núi.

Dương Lăng ngồi xuống chiếc ghế dựa bằng tre, cười ha hả:
- Tháng này, nếu ở phương Bắc thì sớm đã có gió thu hiu hiu, cây cối điêu linh rồi. Nơi này lại vẫn cỏ cây xanh ngát, hơn nữa khí trời vẫn còn thiêu đốt như vậy!

Mạc Thanh Hà đáp:
- Ở Giang Nam sông nước hãy coi như còn mát mẻ, xuôi Nam vào trong nội địa một chút sẽ càng nóng bức hơn. Người đâu rồi, mau dâng trà ngon lên cho đại nhân giải nhiệt coi!

Dương Lăng nghe hai chữ "trà ngon", không khỏi âm thầm cười nhạt. Y rờ bọc trà nhỏ cất trong người, chỉ đợi nước trà được bưng lên, nếm thử tư vị liền sẽ hỏi rõ Mạc Thanh Hà trước mặt mọi người. Có điều y có ý định thu phục Mạc Thanh Hà nên cũng không muốn làm quá, chỉ muốn răn đe áp bức hắn một chút, khiến hắn thần phục là được.

Một người con gái hái trà mặc áo màu xanh ngọc, váy vải hoa bằng sáp nhạt màu, eo thon thắt dây đai màu đen, tóc buộc khăn vải, trên gương mặt mang một nụ cười dịu dàng, nhẹ bước vào phòng, nhanh nhẹn pha một ấm trà, rồi dâng cho Dương Lăng và Mạc Thanh Hà mỗi người một chén.

Dương Lăng nâng chén trà lên, thấy lá trà vẫn đang xoay tròn trong nước như lưỡi con chim sẻ. Y liếc Mạc Thanh Hà, rồi thong thả ung dung đưa chén lên mũi ngửi thử, không khỏi lại ngẩn ra.

Mùi vị của trà này thơm nức mũi, giống hệt như mùi vị của loại cực phẩm hoàng gia mà lúc ở trấn Thượng Hải y đã thưởng thức. “Mạc Thanh Hà giấu riêng trà ngon, trà cung phụng cho cung đình so với thứ này kém hơn rất nhiều. Hôm nay ở trước mặt vị khâm sai từ trong kinh đến để điều tra như mình mà hắn lại không hề biết kiêng kị, thản nhiên dâng lên loại trà này. Chẳng lẽ hắn không sợ mình phát giác ra sự khác thường, hạch hắn tội khi quân sao?”

Dương Lăng thoáng ngẩn ra, ngước mắt nhìn Mạc Thanh Hà đang mỉm cười chờ y thưởng thức mùi vị, không dằn lòng được bèn hỏi:
- Mạc đại nhân! Trà này của đại nhân mùi hương ngào ngạt, thấm tận tâm can tỳ phế, quả thực là cực phẩm. Có điều... khi ở trong kinh bản đốc cũng đã từng uống ngự trà trong cung, trà tiến cống mà Hoàng thượng uống so với trà này của ngài kém hơn không chỉ một bậc. Không biết Mạc đại nhân giải thích thế nào đây?




Chú thích:

(4) Đại Quan viên là ngôi biệt thự do Giả Phủ xây dựng dùng làm hành cung cho quý phi thăm viếng trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, được dùng để ví như chốn Bồng Lai.
(5) tiếng Nhật là Ronin, nghĩa là "con người trôi dạt", một thuật ngữ chỉ những samurai vô chủ. (trích wiki)
(6) Đường Dần (1470 - 1523) là một danh hoạ, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh. Đường Dần tự là Tử Uý, Bá Hổ (nên còn được gọi là Đường Bá Hổ), hiệu là Lục Như cư sĩ, Đào Hoa am chủ, tự xưng là Minh triều Giang Nam đệ nhất phong lưu tài tử.
Bài Đào Hoa am

Đào hoa ổ lý đào hoa am
Đào hoa am lý đào hoa tiên
Đào hoa tiên nhân chủng đào thụ
Hựu trích đào hoa hoán tửu tiền

Tửu tỉnh chỉ tại hoa tiền tọa
Tửu túy hoàn lai hoa hạ miên
Bán tỉnh bán túy nhật phục nhật
Hoa lạc hoa khai niên phục niên

Đãn nguyện lão tử hoa tửu gian
Bất nguyện cúc cung xa mã tiền
Xa trần mã túc quý giả thú
Tửu trản hoa chi bần giả duyên

Nhược tương phú quý tỉ bần giả
Nhất tại bình địa nhất tại thiên
Nhược tương bần tiện tỉ xa mã
Tha đắc khu trì ngã đắc nhàn

Biệt nhân tiếu ngã thái phong điên
Ngã tiếu tha nhân khán bất xuyên
Bất kiến Ngũ Lăng hào kiệt mộ
Vô hoa vô tửu sừ tác điền.

Dịch thơ:
Lũng Ðào Hoa

Lũng Ðào hoa, am hoa một mái,
Trong hoa am tự tại tiên hoa.
Tiên hoa trồng cội đào hoa,
Chiết cành ta lấy đổi ra rượu nồng.

Khi tỉnh rượu ung dung kề cận,
Uống say nằm ngủ khểnh dưới hoa.
Tỉnh say ngày lại ngày qua,
Hoa tươi hoa rụng la đà tháng năm .

Chốn ngựa xe chẳng cần luồn cúi,
Ước nguyền rằng chết với rượu hoa.
Bụi xe dấu ngựa cao xa,
Cành hoa chén rượu cùng ta duyên nghèo.

Đem phú quý so đo đạm bạc,
Một đất bằng một ngất trời xanh.
Ngựa xe đem sánh thanh bần,
Người toan bận rộn, ta phần thong dong.

Người cười ta cuồng ngông khờ khạo,
Ta cười người điên đảo ngược xuôi.
Ngũ lăng phần mộ san rồi,
Không hoa không rượu cũng thời ruộng sâu. (Người dịch: Hạt Cát)

Chương 126 - Thủ thế chờ “bung”
----------------------------------------------

Mạc Thanh Hà kinh ngạc nói:
- Khâm sai đại nhân đã từng uống loại cực phẩm hoàng gia rồi ư? À, đúng rồi, Dương đại nhân là thần tử đắc lực bên cạnh hoàng thượng, đương nhiên là có cơ hội thưởng thức trà tiến cống cực phẩm rồi. Ha ha ha!

Hắn nói xong bèn mỉm cười khoát tay ra hiệu cho cô gái hái trà và đám thuế lại, trà giám của đỉnh Sư Tử lui hết ra ngoài.

Trịnh bách hộ chần chừ đưa mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng lại không tin Mạc Thanh Hà sẽ vì chuyện này mà dám công nhiên gây bất lợi cho mình, huống hồ những người mà mình dẫn theo ai nấy đều võ nghệ siêu quần, nhân thủ cũng hơn xa số người của Mạc thuế giám, vì thế y tuỳ ý khoát tay lệnh cho Trịnh bách hộ dẫn người đi ra.

Mạc Thanh Hà cầm chén trà lên, thong thả thổi những hoa trà đang trôi nổi trong chén tản ra, chậm rãi hớp một ngụm trà tỉnh rồi mới mỉm cười nói:
- Trà này của ty chức so với loại cực phẩm hoàng gia được tiến cống kỳ thật còn ngon hơn một bậc, khó trách đại nhân nếm xong lại sinh nghi. Có điều đây cũng không phải là bí mật gì, người trong nghề đa phần đều biết chuyện này.

- Ồ?
Dương Lăng xoay nhẹ chén trà, nghi hoặc hỏi:
- Trà tiến cống chẳng phải là loại trà ngon nhất à? Vì sao trà Long Tĩnh của Tây Hồ cung phụng hoàng gia đại nội lại không bằng loại trà mà ông giữ lại vậy?

Mạc Thanh Hà cười lớn đáp:
- Đại nhân có điều không biết, trà này chỉ có sản xuất ở mấy ngọn núi gần đây mới là trà cực phẩm chính tông. Lá trà ngon nhất bị ảnh hưởng rất lớn bởi khí hậu. Cho dù năm nay mưa thuận gió hòa, khí hậu thích hợp, có thể sản xuất ra một ít trà ngon cực phẩm, nhưng vận chuyển đường dài gặp phải mưa dầm liên miên, mùi vị cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng.

Hắn ngừng một chút rồi nói tiếp:
- Bởi vậy loại trà dâng cho hoàng thượng uống cần phải có mùi vị ổn định, phẩm chất như nhau. Trà tiến cống không yêu cầu phải ngon nhất, chỉ cần ổn định nhất là được. Bằng không nếu như năm nay hoàng thượng uống thấy mùi vị khác biệt, năm sau mùi vị lại hơi khác đi, cho rằng kẻ dưới làm việc không tốt, truy cứu xuống thì có đem chém toàn bộ người ở vườn trà này cũng sẽ không sinh ra trà mới đâu.

Hắn lại tiếp tục giải bày:
- Đây không phải là kẻ dưới bất kính với hoàng thượng, mà thực sự là không có biện pháp giải quyết. Trong kinh thỉnh thoảng vẫn có người dùng nhận thấy sự khác biệt giữa hai loại trà này, nhưng cũng chỉ cho rằng do trà mới được hái nên có mùi vị ngon hơn, sẽ không vì vậy mà sinh nghi. Ty chức hết sức kính ngưỡng Dương đại nhân, do đó không dám giấu giếm. Đương nhiên… danh tiếng thương cảm cho bá tánh của Dương đại nhân ty chức đã nghe từ lâu, cho nên cũng không đành che giấu.

Dương Lăng nghe mà ngỡ ngàng. Y cứ tưởng Mạc Thanh Hà giấu giếm trà ngon làm của riêng là vì trục lợi cá nhân, không ngờ bên trong lại có lý do này.

Mạc Thanh Hà cười khổ nói:
- Đại nhân à, những kẻ hầu hạ bên dưới như chúng tôi đây dựa vào thân phận sai dịch cho hoàng thượng để diễu võ giương oai, người người đều cảm thấy oai phong vô cùng, nào có ai biết muốn bình an vô sự chúng tôi cũng phải lao tâm khổ tứ chứ.

Hắn lại thở dài một hơi rồi nói:
- Nhưng cũng không còn cách nào khác. Ngoài việc không dám tiến cống trà không biết được phẩm chất ngon hay kém do bị ảnh hưởng của thời tiết, chúng tôi thực không dám giấu làm của riêng. Ngân lượng chúng tôi có được từ việc bán loại trà ngon cực phẩm này đều dựa theo số lượng mà nộp lên kinh sư. Đương nhiên… cũng không tránh được phải trích ra một ít biếu tặng cho quan trên, Vương công công và mấy vị thủ lĩnh của Ty Lễ Giám trong kinh. Mỗi năm ty chức đều phải hiếu kính chục cân trà ngon. Giờ đây ty chức thuộc sự quản hạt của đại nhân, thành thật bẩm báo, vẫn mong đại nhân thể nghiệm và quan sát tình hình bên dưới, thông cảm với những khó khăn của đám nô tài chúng tôi đây.

Dương Lăng nghe vậy cười khổ không thôi. Vốn tưởng là một vụ án khi quân to tát, hoá ra lại là một quy củ lớn được ước định mà thành trên quan trường: phàm là cống phẩm không thể bảo đảm chất lượng để cung ứng, thà giảm yêu cầu chất lượng của nó cũng không cung phụng cho đại nội, tránh để mặt rồng nổi giận ngược lại sẽ không hay.

Có điều Mạc Thanh Hà thẳng thắn bẩm báo như vậy cũng khiến y có nhiều hảo cảm hơn. Bất luận Mạc Thanh Hà giả vờ thật thà hay tâm tư bộc trực, ít nhất cũng chứng minh rằng hắn xác thực có ý muốn dựa vào mình. Dương Lăng cười ha hả, nâng chén hướng về phía Mạc Thanh Hà nói:
- Đa tạ Mạc đại nhân thẳng thắn nói cho hay, tháo gỡ nghi hoặc trong lòng tại hạ. Dương mỗ cũng hầu hạ quân chủ, đương nhiên hiểu được nỗi khổ của các vị đại nhân, nay đã biết được đầu đuôi trong đó, dĩ nhiên sẽ không trách móc.

Sau khi nghe xong tình hình do Liễu Bưu báo cáo, Dương Lăng đã quyết định sẽ khai đao lập oai với thuế giám trấn thủ Viên Hùng, chỉ là vụ trà tiến cống của Mạc Thanh Hà vẫn luôn là mối tâm bệnh vướng mắc trong lòng y. Nay đã biết được tường tận tình hình, y cảm thấy vô cùng thoải mái. Hai người uống trà trò chuyện, cảm tình đôi bên cũng thân thiết hơn không ít.

Sau khi đi hai vòng trong vườn trà trên sườn núi, xem như đã hoàn thành sứ mệnh thị sát, lúc hai người lên kiệu xuống núi, Mạc Thanh Hà bỗng đưa tay lên vẫy, thuế giám trông coi vườn trà vội vàng dẫn mấy người khiêng hai chiếc rương nhỏ sang. Dương Lăng nghi hoặc hỏi:
- Đây là…?

Mạc Thanh Hà cười nịnh nói:
- Đại nhân, trên núi này ngoại trừ lá trà thật sự không có thứ gì đáng giá cả. Trong một chiếc rương này là mười cân trà xuân Long Tĩnh cực phẩm, xin đại nhân cầm về thưởng thức. Nếu vụ thu hoạch trà năm sau gặp phải thời tiết không tốt, đại nhân sẽ không thể uống được thứ trà ngon như vậy đâu.

Dương Lăng biết nếu bây giờ đem loại trà xuân cực phẩm chân chính như vậy ra chợ bán cho phú hào Giang Nam, một lạng trà phải có giá mười lượng bạc. Một rương trà cỏn con này là cả ngàn lượng bạc, uống một ngụm e phải bằng phần ăn cả một tháng của bá tánh bình thường, thật sự là hơi quá xa xỉ.

Có điều nếu trước đây mọi người của Ty Lễ Giám đều đã quen tiếp nhận, bây giờ Mạc Thanh Hà vẫn chưa quy thuận, nếu như không nhận khó tránh sẽ khiến hắn sinh nghi, thế là y bèn tủm tỉm gật đầu.

Mạc Thanh Hà xoa tay nói:
- Còn chiếc rương này bên trong là bốn chiếc gối uyên ương. Lá trà trong gối tuy không phải là loại trà xuân cực phẩm hoàng gia, nhưng cũng là loại trà ngon hạng nhất. Một khi gối lên, mùi trà sẽ lan toả khắp người, lòng thanh mắt sáng, giúp ngủ ngon tốt nhất. Ha ha, xin tặng cho đại nhân và phu nhân.

Dương Lăng nghe nói là gối trà thì rạng rỡ mặt mày. Gối trà này hương thơm nức mũi, ba nha đầu trong kinh nhất định sẽ thích lắm, nhưng vừa nghe nói đến số lượng thì lại thoáng ngẩn ra: “Nếu là gối uyên ương, vậy Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi cộng lại mới có ba người, hắn tặng bốn cái là ý gì? Chẳng lẽ việc này cũng coi trọng ‘tặng lễ theo cặp’(1) ư?”

(1) Nguyên văn “hảo sự thành song”. “Thành song” ở đây nghĩa là “theo đôi, theo cặp”. Theo phong tục Trung Hoa, phàm tặng lễ mừng cho chuyện vui nào đó, lễ vật thường được tặng theo đôi, kị tặng đơn lẻ.


Dương Lăng ngước mắt nhìn, thấy trong mắt Mạc Thanh Hà ngậm cười, mặt bèn chợt nóng lên, biết rằng hắn đã nhận định Cao Văn Tâm sớm muộn gì cũng sẽ được mình cưới về làm thiếp. Y cũng không có cách nào giải thích, chỉ đành ậm ờ ưng thuận, sai người nhận lấy hai chiếc rương, sau đó hai người khởi kiệu rời khỏi núi Sư Tử.

Rời khỏi miệng núi, đầu tiên phải đi qua một thôn nhỏ mới có thể rẽ sang đường lớn về thành. Dương Lăng đang ngồi trong kiệu chợt nghe phía trước có tiếng người quát mắng, vội vén rèm kiệu lên nhìn. Chỉ thấy hai tên thuế lại đang giơ roi đuổi đánh một đứa bé ăn mặc rách rưới, nhìn cũng chỉ khoảng mười tuổi, liền giận dữ quát một tiếng:
- Dừng tay!

Hai tên thuế lại kia đang say sưa quất roi, hoàn toàn không nghe thấy. Trịnh bách hộ đi bên cạnh kiệu liền phóng tới một bước, chụp lấy roi da trong tay tên thuế lại, đẩy một cái khiến cho hắn lảo đảo, quát lên:
- Đại nhân có lệnh, ngươi không nghe thấy à?

Tên thuế lại đó quay đầu lại, nhìn thấy Dương Lăng đã xuống kiệu, bộ mặt hung thần ác sát lập tức đổi thành vẻ mặt tươi cười siểm nịnh, gật đầu khom lưng đứng sang một bên. Mạc Thanh Hà cũng xuống kiệu ngựa, vội vã chạy qua hỏi:
- Đại nhân, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Dương Lăng thấy đứa bé đó đã lùi về bên một sạp trà. Trông nó hết sức ốm yếu, thân thể gầy gò để lộ một cái đầu hơi quá khổ, đôi mắt to hiện lên vẻ lanh lợi cứng cỏi, có điều quần áo lại rách rưới, thân thể và mặt mũi trông rất bẩn thỉu.

Dương Lăng bước tới ngồi xổm xuống, đặt tay lên vai thằng bé, chỉ cảm thấy da bọc xương, gầy đến thảm thương. Y ôn hoà hỏi:
- Tiểu huynh đệ, đệ không phải là người bản địa à? Người nhà đệ đâu rồi?

Dương Lăng vừa bước tới phía trước, Trịnh bách hộ đã dẫn bốn tay nha sai đuổi theo sau. Thằng bé đó trông thấy năm đại hán oai phong lẫm liệt tay cầm đơn đao sau lưng Dương Lăng thì co rúm người lại không dám trả lời. Dương Lăng quay đầu lại nhìn, nhíu mày nói:
- Chỉ là một đứa bé, còn sợ bản quan bị hành thích sao? Đừng doạ thằng bé, các người lui ra chút đi!

Trịnh bách hộ vội dẫn người lùi ra mấy bước. Mạc Thanh Hà cũng bước qua, ngồi xổm xuống, ôn tồn cười nói:
- Nhóc con, vị đại nhân này là người tốt, đại nhân hỏi thì ngươi phải trả lời đàng hoàng, đại nhân mà cao hứng sẽ thưởng ngươi mấy văn tiền để mua mấy cái bánh bao thịt lớn ăn đó.

Thằng bé vừa nghe nói đến bánh bao thịt, cặp mắt liền sáng lên. Nó nuốt một ngụm nước bọt rồi mới ấp úng nói:
- Đại lão gia, cháu tên là Ôn Tiểu Hoa, là người ở trấn Tư Khẩu. Khi nãy đói bụng, trông thấy cây bên đường có quả dại nên định hái mấy trái xuống ăn. Vị đại gia đó… ông ta lấy roi đánh cháu.

Dương Lăng nhìn sang Mạc Thanh Hà. Mạc Thanh Hà nhướng mày nói:
- Trấn Tư Khẩu à? Đó là địa giới Tô Hàng mà, đứa nhỏ như ngươi một mình chạy đến nơi này sao? Người nhà của ngươi đâu?

Thằng bé rụt rè gật đầu đáp:
- Ừm! Người nhà cháu đều chết cả rồi, cháu phải đi ăn xin khắp nơi để sống qua ngày, đi hoài đi mãi thì đến nơi này.

Dương Lăng hỏi:
- Thế nào mà người trong nhà đều không còn vậy? Nơi đó đã xảy ra ôn dịch sao?

Mạc Thanh Hà lắc đầu nói:
- Chưa từng nghe nói có ôn dịch. Đứa nhỏ, nói cho ta biết người trong nhà ngươi làm sao mà chết hết vậy?

Thằng bé chớp đôi mắt to, rụt rè đáp:
- Ruộng nhà cháu ở kế bên sông, tháng năm nổi lụt ngập hết cả ruộng. Cha cháu bán nhà vào thành làm chút buôn bán nhỏ, nhưng mà vào thành cũng bị thu thuế. Cha… cha lén trèo tường nên té bị thương, mẹ cháu mới bán ruộng để chữa thương cho cha, nhưng bọn người lùn lại kéo đến, cướp tiền và đồ nhà cháu, giết chết cả cha mẹ cháu. Cháu phải… phải ăn xin khắp nơi.

Dương Lăng nghe mà cảm thấy xót xa trong lòng. Lúc này ông già mở quán trà bên đường nhận ra Mạc Thanh Hà, không nén được mừng rỡ kêu lên:
- Ngài là Mạc gia? Mạc đại thiện nhân!

Mạc Thanh Hà ngẩn ra, hỏi ngược lại:
- Ông nhận ra ta à?

Lão hán đó hưng phấn reo lên:
- Nhận ra chứ, nhận ra chứ. Mùa đông năm ngoái, Mạc gia bố thí cháo trong thành, lão đây đã từng đến trước phủ ngài xin miếng ăn đó. Cái đứa nhỏ không cha bị Trương quả phụ thôn chúng tôi tái giá bỏ rơi, đứa nhỏ tên là Thuỷ Sinh không có ai nuôi đó, không phải Mạc gia đã nhận nuôi sao? Ha ha, lão đây còn nhớ ngài mà. Đứa nhỏ này thật là đáng thương, lại có vẻ lanh lợi, không bằng Mạc gia ngài rủ lòng thương thu nhận nó đi.

Dương Lăng nhìn Mạc Thanh Hà, lấy làm bất ngờ nói:
- Mạc đại nhân thật không hổ được gọi là thiện nhân, hóa ra không chỉ bố thí cháo cứu người mà còn thu dưỡng cô nhi.

Mạc Thanh Hà còn chưa kịp nói mấy câu khiêm tốn, ông già nọ đã cướp lời nói tiếp:
- Mạc gia là người tốt, thành Hàng Châu ai mà không biết chứ? Mạc gia đã thu dưỡng mấy chục đứa nhỏ bơ vơ không nơi nương tựa. Thằng bé này hôm nay gặp được ngài thật đúng là phước đức tổ tiên à.

Mạc Thanh Hà nghe lão ta khen ngợi mình trước mặt Dương Lăng, dường như hơi không được thoải mái lắm, vội nói:
- Được rồi được rồi, cái ông lão này!

Hắn quan sát thằng bé tên là Ôn Tiểu Hoa mấy lượt, rồi khẽ gật đầu nói:
- Được rồi, ngươi hãy đi theo ta, thế nào? Ta sẽ tìm một chỗ cho ngươi, có ăn có uống, còn có thể học chút nghề.

Thằng bé rất lanh lợi, nghe xong vội vàng quỳ xuống, vui mừng phấn khởi đáp:
- Tạ ơn đại lão gia! Chỉ cần có miếng ăn, ngài sai cháu làm gì cũng được.

Mạc Thanh Hà không ngại nó bẩn thỉu, vừa cười lớn vừa xoa đầu nó, sau đó quay đầu gọi quản gia:
- Lão Lý, mang thằng bé này theo! Có mang theo thứ gì ăn không? Cho nó một chút lót dạ đi!

Dương Lăng vừa cùng hắn trở về, vừa nói:
- Mạc đại nhân đã thu nhận mấy mươi cô nhi à? Đây… đây thật là việc đại thiện đó. Có điều trong phủ nuôi dưỡng nhiều con nít như vậy cũng thật khó khăn cho đại nhân rồi.

Mạc Thanh Hà hơi đỏ mặt nói:
- Đại nhân quá khen rồi. Chúng ta… chà, chúng ta là người gì hẳn đại nhân cũng rõ, chỉ muốn làm chút việc thiện, kiếp sau có thể được báo ứng tốt mà thôi. Ty chức chỉ là giúp đỡ những đứa nhỏ này kiếm miếng ăn, cũng không giữ lại trong phủ mà nhờ người đưa đến hộ dệt bản địa làm ít việc vặt, đồng thời học chút tay nghề. Cũng vì nể mặt ty chức nên những hộ dệt đó không dám làm khó bọn chúng, cho bọn chúng một con đường sống mà thôi.

Đến đây Dương Lăng quả thật đã cảm thấy kính nể người thái giám này. Bất kể hắn có thật muốn tích âm đức để cầu thiện báo hay không, những việc làm và hành động ấy đã hơn biết bao kẻ đọc sách cả ngày ra rả vì nước vì dân, song lại chỉ biết nói suông. Tuy hắn không hiểu nhiều đạo lý lớn, nhưng lại thật sự làm được rất nhiều việc tốt.

Mặc dầu, lợi dụng sự tiện lợi của chức quyền hắn cũng thu được không ít chỗ tốt, nhưng hắn có thể nghĩ đến việc cứu tế dân chúng cùng khổ, đây đã là chuyện rất đáng quý rồi.

Tất cả hộ dệt của bản địa đều thuộc sự cai quản của thái giám dệt may Lý Đại Tường. Các hộ dệt may tập trung ở Tô Châu, cho nên nha môn của Lý Đại Tường cũng đặt tại Tô Châu. Dương Lăng và Mạc Thanh Hà trở về thành, không quay thẳng về phủ mà đến một cửa điếm nhỏ đặc sắc của địa phương. Hai người ngồi dưới gốc thuỳ dương, khoan thai đối ẩm, vui vẻ bình phẩm phong cảnh Giang Nam. Sau đó còn chưa dứt chuyện thì lại quyết định đi đến hộ dệt bản địa để quan sát.

Dương Lăng nhớ lúc nhỏ đọc sách, có nghe nói vào thời Minh hộ dệt Giang Nam thuê mướn thợ thuyền, đã có quy mô khá lớn, có hình thức ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Hộ dệt mà y đến tham quan lần này là một trong mười mấy hộ dệt lớn của Hàng Châu, tuy không lớn bằng hộ dệt Tô Châu nhưng cũng có mấy chục khung cửi, thuê mướn gần hơn trăm thợ nữ. Dạo một vòng bên trong, Dương Lăng có cảm giác rất giống với xưởng sản xuất dây chuyền công nghiệp hiện đại, không khỏi vô cùng hưng phấn.

Khi sắp ra khỏi cửa, y chợt nhìn thấy một thằng bé mập mạp độ mười một mười hai tuổi vác một bao sợi trắng đi vào. Vừa trông thấy có người ngoài, nó bèn đứng một bên cửa, đưa tay áo lên quệt mồ hôi đầy trán, chỉ đứng đó cười ngây thơ.

Mạc Thanh Hà cười chỉ vào thằng bé đó, nói:
- Thằng nhỏ này cũng không cha không mẹ, ty chức thấy tội nghiệp nên đã thu nhận rồi đưa đến đây. Ừm, đó là chuyện của mùa hè năm ngoái rồi.

Hắn lại cười nói:
- Ha ha! Không sợ đại nhân chê cười, người do ty chức đưa đến những hộ dệt này còn không dám không nể mặt. Bọn họ quyết sẽ không ngược đãi chúng, cho nên ty chức cũng chưa bao giờ đến thăm. Ty chức nhớ được thằng nhỏ này cũng bởi cái bướu to đấy của nó, bằng không quả thật không thể nhớ nổi.

Dương Lăng bèn đưa mắt nhìn, thấy thằng bé đó thân thể khoẻ mạnh rắn chắc, xem ra cuộc sống nơi đây quả nhiên không tệ. Có điều cổ nó vừa thô lại ngắn, bên cổ lại mọc ra một cái bướu thịt to dễ sợ màu đỏ tía, khiến người ta trông thấy liền có ác cảm.

Mặc dù Dương Lăng biết thân thế thằng bé này đáng thương, nhưng nhìn xong trong lòng cũng có cảm giác dị dạng, đừng nói là người khác. Nếu không vì Mạc Thanh Hà rủ lòng thương, phỏng chừng thằng bé này có muốn kiếm chút miếng ăn một cách chính đáng cũng sẽ không có ai dùng nó, chỉ có thể ăn xin cả đời. Đối với việc làm vĩ đại của Mạc Thanh Hà, trong lòng y không khỏi càng sinh ra một sự ngưỡng mộ.

Nhưng kỳ quái chính là, sao thằng nhóc đó gặp Mạc Thanh Hà mà vẻ mặt lại bình thường, không có vẻ gì như gặp được ân nhân vậy? Dương Lăng hơi động nghi ngờ, song lập tức nhớ ra thằng nhóc mập này mới chỉ gặp Mạc Thanh Hà một lần, trải qua lâu ngày một đứa bé làm sao nhớ rõ như vậy được, thế là lòng nghi ngờ lập tức tan biến.

Thằng bé mập mạp đó chỉ nhìn mấy vị khách cười ngây thơ, cũng không bước lên chào hỏi. Hộ dệt Cao Minh cười mắng:
- Tiểu tử ngốc, nhìn gì mà nhìn, mau mang đồ vào đi, đừng che mắt đại nhân!

Thằng bé mập đó nghe thấy liền vội vác bao sợi lên rồi chạy vụt vào.

oOo


Dương Lăng mặt đỏ như gấc đi vào Tây khoá viện. Cao Văn Tâm ngồi dí trong nhà cả ngày, nghe nói y trở về liền tung tăng ra đón, trông thấy vẻ mặt Dương Lăng quái dị, không khỏi ngẩn ra. Dương Lăng lúng túng đưa một cuộn giấy qua nói:
- Văn Tâm, đem cất cái này cẩn thận đi!

Cao Văn Tâm ngạc nhiên hỏi:
- Lại có người tặng lão gia thư hoạ của danh nhân gì sao?

Nàng vừa mở cuộn giấy ra nhìn, sắc mặt lập tức trầm xuống, chua chát nói:
- Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng… Quả là một bài thơ tình hay. Không ngờ lão gia nhà chúng ta còn là nhân vật hết sức phong lưu nữa, đến vùng Giang Nam sông nước không biết đã khiến bao nhiêu người con gái phải điên đảo thần hồn rồi.

Dương Lăng dở khóc dở cười bao biện:
- Bài thơ này… là tôi nghe được lúc ở cố hương. Mạc phu nhân thấy hay nên đã phỏng chép ra hai cuộn, cuộn này là tặng lại cho tôi. Cô đừng có nghĩ ngợi lung tung! Đúng rồi, cô thấy thư pháp của vị Mạc phu nhân này thế nào? Thật là khéo tay hay chữ nhỉ.

Cao Văn Tâm nào tin lời nói dối của y. Nếu như thật sự đường hoàng như vậy, cớ gì khi nãy sắc mặt lại lúng túng? Nàng nhìn thư pháp ấy một chút rồi hừ giọng nói:
- Chữ thì không tệ, nhưng cũng không thấy đẹp hơn chữ tiểu tỳ. Trái lại bài thơ này… ý nặng tình thâm, chẳng lẽ là của Ấu Nương tỷ tỷ tặng lão gia?

Dương Lăng đằng hắng hai tiếng, không đáp lời nàng. Khi nãy vừa trở về phủ, Mạc phu nhân liền hưng phấn cầm hai cuộn tranh ra. Nàng ta đã chép bài thơ thành hai phần giống nhau, một phần tặng cho Dương Lăng để tạ ơn.

Chuyện này vốn không có gì to tát, chỉ là không biết vì con gái Giang Nam phóng khoáng như vậy, hay vì Mạc phu nhân lăn lộn chốn thanh lâu nhiều năm, không biết chừng biết mực, lại chẳng hề kiêng kị áp sát đến trước mặt Dương Lăng, mở tranh thư pháp ra, duyên dáng tươi cười, chỉ chỉ trỏ trỏ.

Nếu như cử chỉ đó được đặt vào thời nay thì cũng không tính là gì, nhưng Dương Lăng ở niên đại này đã lâu mà vẫn chưa từng thấy phu nhân người nào không biết tránh hiềm nghi như vậy, cứ kề sát lại gần. Chỉ ngửi thấy làn gió thơm rười rượi, hơi thở như lan đã khiến y trở nên khó chịu bất an, thế mà Mạc Thanh Hà không hề cho đó là ngỗ ngược. Vì vậy y càng không thể nổi giận được.

Cuối cùng khi Mạc phu nhân thu cuộn tranh về, buộc lại rồi đặt vào tay y, ngón tay ngọc thon thả lại thuận thế lẳng lơ khều nhẹ lòng bàn tay y một cái, làm Dương Lăng sợ giật nảy tim. Y ngước mắt nhìn, đúng lúc trông thấy cặp mắt khiến cho hồn xiêu phách lạc của Mạc phu nhân liếc sang: yêu kiều, quyến rũ, răng trắng cắn khẽ môi hồng, tuy vẻ phong tình chỉ hiển lộ ra trong chớp mắt, nhưng lại như hòn đá ném xuống mặt nước yên ả, khiến lòng người nổi lên từng gợn sóng. Lúc này Dương Lăng mới hiểu được không phải nàng ta không câu nệ tiểu tiết mà là có ý quyến rũ mình.

Vẻ phong tình của mỹ nữ này, phong lưu mà không thấp hèn, tuy ở trước mặt trượng phu mình quyến rũ người khác, nhưng sức mê hoặc đặc biệt đó lại khiến người ta không thể nảy sinh chút ác cảm nào. Dương Lăng chỉ cho rằng nàng cưới phải ông chồng thái giám, khao khát xuân tình, đột nhiên có người đàn ông trẻ tuổi vào ở nơi này, mới khiến nàng ta suy nghĩ vẩn vơ. Thế là y không dám ngồi lâu, trò chuyện vài câu với Mạc Thanh Hà xong liền vắt giò lên cổ mà chạy.

Chuyện khó xử như vậy y đương nhiên không thể kể cho Cao Văn Tâm nghe. Nhìn thấy nàng vẫn còn chút giận dỗi, Dương Lăng vội cười ruồi nói:
- À… Văn Tâm này, chúng ta có phải nên uống thuốc châm cứu không?

Cao Văn Tâm duyên dáng lườm y một cái, nói:
- Không được, hay là lão gia người đi gặp Liễu thiên hộ trước đi rồi hẵng bàn! Đừng để khi châm cứu lại kêu ầm lên, đến lúc đâm cho cái lưng ngài thành cái sàng, trở về Ấu Nương tỷ tỷ mà không đòi mạng tiểu tỳ mới lạ đó.

Dương Lăng buột miệng cười nói:
- Vậy thì không sợ, chỉ sợ tôi kêu la trong phòng, bị đám nha sai nghe được lại hiểu lầm chúng ta…

Y nói đến đây chợt ngậm miệng lại, hối hận đến suýt nữa thì đã vả vào miệng mình: “Thằng khốn nạn này, rõ ràng không muốn gánh thêm nợ tình, sao còn ngứa miệng nhiều chuyện vậy! Mày nghĩ đây là đang trong công ty tám chuyện với đồng nghiệp nữ sao? Phụ nữ thời này chung tình lắm đó.”

Y còn ngượng ngùng xấu hổ, Cao Văn Tâm sao không thẹn đến đỏ bừng cả mặt. Thế nhưng nàng lại không hề có chút vẻ giận hờn nào, ánh mắt hết sức phức tạp, cũng không biết đang nghĩ gì. Nàng liếc Dương Lăng một cái thật sâu rồi nhẹ giọng nói:
- Tiểu… tiểu tỳ sẽ đi mời Liễu thiên hộ vào.

Trong khoảnh khắc, ngữ khí ấy càng mê ly và thuỳ mị không nói nên lời.

oOo


Quả thật phụ nữ mỗi khi ăn mặc trang điểm lại có một diện mạo khác. Cao Văn Tâm mặc một bộ phục sức phổ thông của con gái vùng Giang Nam, vẻ ung dung sang trọng hoàn toàn biến mất mà lại hơi giống như một cô con gái cưng vậy. Nàng vội vã chạy lên lầu, tay cầm vạt váy màu xanh lá, giậm mạnh đôi hài thêu màu đỏ, bực bội liếc Dương Lăng một cái rồi nói:
- Lần sau lão gia đừng tìm tiểu tỳ nữa, còn muốn người ta cười với hắn một cái, thật muốn ói quá!

Cao Văn Tâm dáng người thon cao, dung mạo trong veo như nước, lúc này giậm chân hờn dỗi, cả người toát lên phong thái xinh đẹp khiến người ta phải động lòng. Dương Lăng nhìn mà hai mắt sáng rực, liền vội gật đầu nói:
- Đương nhiên, đương nhiên, yên tâm, yên tâm, nếu không phải sợ đánh rắn động cỏ, tôi cũng không nỡ… A hèm, cô lánh ra sau một chút đi, để tôi xem thử tên háo sắc ngửi mùi mà tới này trông như thế nào.

Cao Văn Tâm hừ một tiếng, xoay người lánh ra phòng sau. Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng một gã đàn ông cười ha hả:
- Không tệ, không tệ. Ngươi không có gạt ta, cô gái này quả nhiên có mùi vị. Nhưng nói đến chuyện trước mắt, tiền quà cáp lão tử chỉ có thể chi ra mười lượng. Trong tay ngươi đã có thóc gạo, lát nữa ta về kêu quan ty vụ thu mua với giá cao là được. Lợi nhuận của ngươi không ít được đâu, ha ha ha…

Theo giọng nói, một gã quan quân mặt cáo, râu ngắn đen đúa đang cười híp mắt cùng với Liễu Bưu đóng giả thành một thương nhân đầu cơ tiến vào phòng. Hắn nhìn thấy trong phòng lại không phải khuê phòng thiếu nữ như trong tưởng tượng mà là một gian phòng khách không lớn, một công tử trẻ tuổi vận đồ trắng, thắt lưng xanh lam đang mỉm cười ngồi trên nghế dựa nhìn hắn, đứng sau lưng gã công tử đó là bốn hán tử mặc đồ đen, thân hình nhanh nhẹn dữ dằn, vẻ mặt âm trầm thì không khỏi sững sốt, lập tức đưa tay mò cán thanh đao giắt bên hông.

Dáng vẻ thương nhân của Liễu Bưu lập tức biến mất, y giơ chân đá một cái vào sau gối hắn, tiếp đó một thanh chuỷ thủ sáng choang đã kề lên cổ. Hắn chỉ nghe kẻ tự xưng là thương nhân có thóc gạo để bán, muốn dùng mỹ sắc để dâng tặng này lạnh lẽo quát:
- Ngồi bên trên chính là đề đốc nội xưởng, thống lĩnh thân quân thị vệ đại nội, khâm sai phụng chỉ kiểm tra thuế phú Giang Nam, Dương Lăng Dương đại nhân, còn không khấu đầu làm lễ!

Gã quan quân đó cảm thấy hồ đồ, khi nghe nói không phải là cường đạo giặc cướp, mối nguy hiểm mất mạng giảm đi nhiều, hắn mới trút bỏ được một nửa gánh nặng. Nhưng đường đường quan tổng đốc nội xưởng, khâm sai đại nhân, muốn gặp hắn không phải chỉ nói một câu là được sao, thần thần bí bí như vậy để làm gì? Nghĩ đến những chuyện vi phạm pháp luật và kỷ cương mà mình đã làm, hắn không kìm được mà túa mồ hôi lạnh, hoảng hốt bổ nhào về phía trước, run giọng nói:
- Hạ quan thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ, bái kiến Dương… Dương đại nhân…

Dương Lăng cúi người cười nói:
- Đinh thiêm sự, bản đốc mạo muội mời ngươi đến đây, ngươi có biết là vì chuyện gì không?

Thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ trán mướt mồ hôi hột, thần sắc hoảng sợ đáp:
- Hạ… hạ quan không biết.

Nội xưởng thành lập chưa lâu, có những thủ đoạn lợi hại gì hắn vẫn không biết, nhưng cực hình của Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ thì đã sớm có nghe qua. Nghe nói nội xưởng còn có chức trách đốc sát hai xưởng một vệ, vậy thủ đoạn có thể ít sao? Đinh Lâm đã làm ra không ít trò phạm pháp, cho nên vừa nói vừa không nhịn được run lên lập cập.

Dương Lăng thẳng lưng lên phất áo một cái, bắt chéo chân qua. Chiếc giày trắng như tuyết đung đưa trước trán Đinh Lâm. Y khoan thai nâng chén trà lên nói:
- Trịnh bách hộ, đọc cho hắn nghe!

- Ty chức tuân mệnh!
Trịnh bách hộ kính cẩn đáp một tiếng rồi bước lên một bước, liệt kê ra từng hành vi phạm pháp của Đinh Lâm như: ép mua ruộng đất của quan binh vệ sở, tham ô quân hưởng, thông dâm cùng thê tử của binh sỹ.

Đinh Lâm nghe mà mặt vàng như nghệ, Trịnh bách hộ còn chưa đọc hết, hắn đã bò lên phía trước, bi ai cầu khẩn:
- Hạ quan có tội, hạ quan đáng chết, xin đại nhân thứ tội, xin đại nhân khai ân cho!

Vừa nói hắn vừa dập đầu bồm bộp.

Dương Lăng đặt chén trà xuống, khẽ mỉm cười nói:
- Đinh thiêm sự, những việc này ta đều tra ra chứng cứ xác thực, tin rằng nếu cần nhân chứng, những quan binh được ngươi “đối đãi tốt” như vậy cũng sẽ vui vẻ đứng ra làm chứng. Bất cứ một điều nào trong đây đều đủ để lấy đầu ngươi, ngươi có gì để nói không?

Đinh Lâm run rẩy van xin:
- Dạ dạ, hạ quan biết, hạ quan đáng chết, xin đại nhân…

Dương Lăng ngắt lời hắn:
- Thường nói “xin người chi bằng tự xin mình”, nếu như Đinh đại nhân muốn đoái công chuộc tội, vẫn phải dựa vào bản thân mới được à!

Đinh Lâm nghe ra ẩn ý trong lời nói của y, hai mắt không khỏi sáng lên, vội ngẩng mặt sốt sắng nói:
- Xin đại nhân hãy chỉ điểm bến mê, hạ quan sẽ nghe theo tất thảy!

Dương Lăng bảo:
- Thật ra bản quan cũng biết, trong sáu huynh đệ ngươi chỉ có ngươi là theo nghề binh, gia tộc đông đúc hoàn toàn đều dựa vào một mình ngươi nuôi dưỡng, chỉ với chút bổng lộc đó quả thật không đủ để dùng. Còn về phần ngươi thông dâm với thê tử của sĩ tốt, âu cũng là đôi bên tình nguyện, mặc dầu tội không thể tha nhưng cũng có thể niệm tình. Nếu như ngươi chịu giúp bản quan làm ít việc, những tội lỗi này ta sẽ giúp ngươi thay đổi một chút, tự nhiên có thể chuyện lớn hoá nhỏ, chuyện nhỏ hoá không.

Đinh Lâm mừng rỡ nói:
- Đa tạ đại nhân khai ân! Không biết đại nhân muốn hạ quan làm… làm những việc gì?

Dương Lăng tập trung ánh mắt lại nói:
- Ta nghe nói chỉ huy sứ Tất Xuân Tất đại nhân của Long Sơn vệ thường hay mưu hại sĩ tốt vi phạm quân quy, sau đó bức ép sĩ tốt tướng vệ khoanh tay phục tùng, cùng với giám quân Viên công công chiếm dụng làm của riêng. Ngoài ra định mức trong quân là sáu ngàn năm trăm người, nay chỉ còn một phần ba, lại đều là người già yếu bệnh tật. Tất Xuân và Viên Hùng giấu giếm không báo, gạt chiếm quân hưởng, thậm chỉ ngay cả ngân lượng trích cấp để đóng thuyền cũng chảy vào trong hầu bao mỗi người. Giờ đây quân giới cũ hỏng, không thể sử dụng được. Thực có chuyện này không?

Đinh Lâm tuy là thiêm sự chỉ huy, nhưng quyền bính đều nằm trong tay Tất Xuân; Tất Xuân lại cấu kết cùng Viên Hùng, một tay che trời, căn bản không hề để hắn vào mắt. Hắn chỉ có thể vơ vét được một ít lợi trong đó, cho nên trong lòng sớm đã bất mãn với Tất Xuân. Nghe khẩu khí vị khâm sai này dường như muốn trị Tất Xuân và giám quân Viên công công, hắn không khỏi mừng thầm trong bụng.

Nhưng do lâu năm bị chèn ép dưới oai, hắn nhất thời vẫn không dám thổ lộ thật tình, cho nên không khỏi do dự. Dương Lăng thấy vậy hừ nhạt một tiếng, bảo:
- Nếu ngươi đã không thể thành thật với bản quan, vậy bản quan cũng chẳng muốn cứu ngươi nữa. Ngươi về đi!

Đinh Lâm không còn thời gian để suy nghĩ thêm nữa, lật đật nói:
- Đại nhân đừng trách, hạ quan thú nhận ngay đây!

Ngay sau đó Đinh Lâm lôi tất cả những chuyện xấu của Viên Hùng và Tất Xuân mà mình biết được lần lượt kể hết ra. Càng khiến người ta thêm căm phẫn chính là, ngoại trừ hơn năm trăm binh sĩ trong thân binh doanh của Tất Xuân là tinh nhuệ, còn lại toàn bộ đều không có sức chiến đấu. Vì thế lúc giặc Oa kéo đến, hắn cùng thân binh liền mỗi người một ngả, cố ý tránh né giặc Oa, để mặc cho bọn chúng cướp bóc.

Nếu luận năng lực chỉ huy và dũng cảm, Tất Xuân thực ra là một viên tướng kiêu hùng, bằng không lúc tập trung mấy tinh binh vệ sở chống giữ biên giới phía Bắc ngày đó, hắn đã không có gan chiến đấu trực diện với giặc Thát. Nhưng lần này nếu liều mạng chống chọi với giặc Oa, kẻ chết sẽ đều là quân tinh nhuệ của hắn. Xuất phát từ tư tâm, hắn thân mang trọng trách giữ đất nhưng lại để mặc giặc Oa cướp bóc, đợi đến khi bọn chúng rút lui mới gióng trống khua chiêng truy đuổi. Mỗi khi chạy không kịp, giặc Oa bèn vứt lại rất nhiều của cải cướp được, khi ấy Tất Xuân liền thừa cơ thu lượm bỏ vào trong túi mình. Tướng quân Đại Minh mà lại làm “bá vương hôi của”.

Dương Lăng nghe mà giận sôi lên. Đợi Đinh Lâm nói xong, một nha sai cúi đầu hí hoáy ghi chép ở góc phòng liền cầm một tờ giấy cung khai còn ướt mực đi qua. Đinh Lâm bất đắc dĩ phải lăn tay. Lúc này mới nghe Dương Lăng cười nhạt nói:
- Rất tốt, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt, hy vọng Đinh đại nhân có thể chân thành hợp tác với bản đốc. Những chuyện đại nhân vừa khai nhận bản đốc đã ghi chép vào văn kiện. Việc này còn phải nhờ Đinh đại nhân lợi dụng quan hệ để thu thập nhiều chứng cứ hơn, lúc đó bản đốc bắt người cũng hợp lý hợp lẽ.

Đinh Lâm nghe vậy thì ngẩn ra: “Hoá ra vị xưởng đốc đại nhân này đang gạt mình. Tuy y nghe nói có những chuyện này, song lại căn bản không có chứng cứ!”

Đinh Lâm hơi hối hận, nhưng hắn vừa mới lăn tay ký tên, giờ đã lên thuyền giặc, nếu muốn xuống, chỉ cần dựa vào tờ cáo trạng này Dương Lăng đã có thể bắt hắn vào nội xưởng tra khảo.

Lòng người như sắt, phép quan như lò, ai còn có thể giữ được bí mật dưới cực hình của xưởng vệ chứ? Cho dù Viên công công và Tất Xuân chịu cứu hắn, đến lúc ra được thì người cũng đã tàn phế. Đến nước này Đinh Lâm chỉ đành ảo não đáp ứng mà thôi.

Dương Lăng lại không phải là người dựa vào doạ dẫm để khiến người ta làm việc cho mình, thấy Đinh Lâm đã đáp ứng vội mỉm cười đỡ hắn lên, hứa hẹn phong quan một phen, vẽ ra cho hắn một tiền đồ đầy gấm vóc, đến khi Đinh thiêm sự đang ủ rũ lấy lại tinh thần mới thả hắn đi.

Đợi hắn đi khỏi, Liễu Bưu hơi thắc mắc hỏi:
- Đại nhân, xưởng vệ chúng ta bắt người, chỉ cần có chút manh mối thì không cần xin ý chỉ vẫn có thể bắt loại quan như Tất Xuân và Đinh Lâm này về tra khảo. Huống chi chúng ta ít nhiều cũng đã có chút chứng cứ xác thực, đại nhân cần gì phải phí công lợi dụng tên này cho phức tạp thêm?

Dương Lăng thản nhiên cười nói:
- Liễu Bưu này! Đinh Lâm… không đáng sợ. Tất Xuân… không đáng sợ. Viên Hùng… cũng không đáng sợ. Có điều, huynh cho rằng kẻ địch của chúng ta thật sự là bọn chúng sao?

Nói đoạn y lắc đầu, mỉm cười nói:
- Không đâu, đối thủ chân chính của chúng ta đang ở trong kinh đó. Thay vì nói mấy kẻ này là người mà chúng ta cần đối phó, nói chúng là một món vũ khí thì đúng hơn. Những kẻ ở trong kinh đang dùng bọn chúng để đối phó với chúng ta, chúng ta cũng đang dùng bọn chúng để đối phó với trong kinh. Ha ha, cho nên chứng cứ càng xác thực càng tốt, nếu như nhân chứng vật chứng đều vững chắc, cho dù bọn chúng muốn đặt điều thị phi cũng không có cớ mà vịn lấy.

Liễu Bưu nghe vậy khiếp đảm thất kinh:
- Phải rồi, sao lại quên lý do chúng ta đến Giang Nam nhỉ? Đây vốn là một ván cờ của Ty lễ giám và Đông xưởng lập ra, bọn chúng có thể ngồi yên nhìn Dương đại nhân đến giải ván cờ này sao? Giờ đây đối phó với mấy tên thái giám trấn thủ này thật ra là đánh một trận chiến, thắng thì sẽ giành được sự ủng hộ của mấy trăm vị thuế giám trong thiên hạ, làm yếu đi thực lực của Ty lễ giám và Đông xưởng, thua thì không chỉ mất một ty thuế giám, mà đến lúc đó thuế giám các nơi sẽ dùng mọi cách để gây khó dễ, e rằng con đường tiền tại và thế lực hiện giờ cũng sẽ đi tong.

- Đại nhân càng ngày càng có tâm kế à.
Liễu Bưu nhìn Dương Lăng một cách khâm phục, cung kính nói:
- Vậy thì chúng ta phải chờ Đinh thiêm sự lấy được bằng chứng rồi mới xử lý bọn chúng sao?

Dương Lăng lắc đầu nói:
- Không! Bây giờ cung đã lắp tên, không thể không bắn. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam đích thực có hành vi phạm pháp, nếu như một tên cũng không xử lý kỹ thì vẫn sẽ tạo cớ cho người ta. Tên Viên Hùng này nhất định phải bắt, có điều cái cớ của chúng ta không can hệ gì đến thuế phú, mà là bại hoại quân kỷ. Thân làm khâm sai, ta có trách nhiệm thuận tiện khảo sát, chưa phụng chỉ thì chưa thể xử lý được.

Y lại nói tiếp:
- Bây giờ cần lập tức phái người vào kinh đem sự tình bẩm rõ với hoàng thượng, xin chỉ lập tức bắt người. Việc này căn bản không che mắt được xưởng vệ, cho nên chỉ có thể xem ai nhanh hơn. Huynh hãy chọn mấy người cơ trí lập tức hồi kinh, trước tiên đến gặp Ngô đại bộ đầu, sau đó vào cung diện kiến thánh thượng.

- Vâng!
Liễu Bưu đáp một tiếng rồi vội xoay người đi ra.

Cao Văn Tâm từ sau vách tường nhẹ nhàng bước ra, chớp chớp mắt hỏi:
- Đại lão gia chuẩn bị quan binh bắt giặc à? Vậy… ngày mai huynh muội Trương thiên sư mời lão gia đến Tô Châu du ngoạn, lão gia có đi hay không?

Duơng Lăng duỗi lưng nói:
- Đi, tại sao không đi, tin tức trong kinh chuyển về nào nhanh như vậy chứ? Nơi này có Liễu Bưu trông coi tôi cũng rất yên tâm.

Trông thấy Cao Văn Tâm trong trang phục con gái Giang Nam, hai mắt y không khỏi sáng lên, giãn mày cười nói:
- Đẹp quá, mặc bộ quần áo này vào, trông thật giống giai nhân vùng sông nước. Tôi thấy cô cũng không cần thay nữa, ngày mai cứ mặc quần áo như vầy, kéo ống quần, để chân trần, chúng ta đến Thái Hồ chèo thuyền hái ấu. Học… học…

Đoạn y vỗ trán nói:
- Học ai ấy nhỉ?

Cao Văn Tâm thấy y không nhớ, nhịn không được bèn buột miệng nói:
- Là Tây Thi Phạm Lãi.

Dương Lăng vỗ tay nói:
- Đúng rồi, là Tây Thi Phạm Lãi.

Không phải là y cố ý dụ Cao Văn Tâm nói ra, mà vì y không biết cách phát âm chữ “Lãi”(2) của vị Phạm đại phu đó. Cao Văn Tâm vừa nói ra, y mới phát giác ví dụ này hơi không thích hợp. Ví quan hệ giữa mình và Cao Văn Tâm như Tây Thi Phạm Lãi, vậy thành ra cái gì đây? Cho nên nói xong y nhịn không được bèn bật cười.

(2) Chữ 蠡 (lãi) có hai cách phát âm là “lǐ” (thanh 3) và “lí” (thanh 2). Tên của Phạm Lãi là thanh 3.

Cao Văn Tâm đảo mắt, chỉ thấy Dương Lăng cười một cách xấu xa, Trịnh bách hộ và mấy tay nha sai đứng sau đều mím chặt môi, trông thì hết sức nghiêm túc, thế nhưng mặt người nào người nấy đều lộ vẻ kỳ dị, thế là không khỏi ngượng chín người, cả cổ cũng đỏ ửng lên.

Chương 127 Ngoại thành Cô Tô

------------------------

Từ khi nhà thơ Trương Kế thời Đại Đường thi rớt về quê, đêm cập bến Phong Kiều sáng tác bài "Phong Kiều dạ bạc"(1) nổi tiếng được mọi người yêu thích, tháp cổ Hàn Sơn cũng vì thế mà vang danh thiên hạ. Đã đến Tô Châu, thì sao có thể không đến chùa Hàn Sơn một chuyến chứ?

Phú ông Ngô Tế Uyên đất Tô Châu cung thỉnh Trương thiên sư đến phủ chúc phúc cho lão thái gia. Huynh muội họ Trương cũng mới đến Giang Nam lần đầu, nghe danh phong cảnh Thái Hồ đã lâu, có ý muốn ngoạn hồ, chèo thuyền hái ấu một chuyến nên đặc biệt sai người đến Hàng Châu mời Dương Lăng. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam quyền cao chức trọng, mà Dương Lăng lại đang trọ tại Mạc phủ, đương nhiên Ngô Tế Uyên sẽ không thể không đoái hoài gì đến vị Mạc công công trấn thủ Giang Nam này, vì vậy lão cũng mời vợ chồng Mạc công công đi cùng.

Thuyền quan rẽ sóng dọc theo con kênh cổ xưa. Khi đi qua chùa Hàn Sơn, huynh muội Trương thiên sư và Ngô Tế Uyên đã chờ sẵn trên bến Phong Kiều. Hôm nay Dương Lăng đổi sang mặc quần áo chẽn, nếu không phải vì cái đám nha sai đeo cung cầm đao bên cạnh là cái chiêu bài sống của y, thì với tướng mạo và cách ăn mặc bình dị này nhất định y sẽ bị người khác lầm tưởng là một vị công tử nho nhã phong độ.

Tuy sớm đã nghe nói vị khâm sai này tuổi còn rất trẻ, song khi trông thấy diện mạo của y, Ngô Tế Uyên vẫn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Vị phú ông Tô Châu này tuổi trạc ngũ tuần, tướng mạo hiền lành tao nhã. Mặc dù nhà họ Ngô mấy đời buôn bán nhưng sở hữu đất đai trong khu vực Tô Hàng cũng rất nhiều, con cháu Ngô gia cũng nhiều người thi đỗ làm quan, cho nên có thể xem họ Ngô là thế gia vọng tộc, hào phú đất Giang Nam.

Hôm nay Trương thiên sư là chủ, vị khách mời quan trọng nhất chính là khâm sai đại nhân; nhưng nói đến quen biết thì Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên quen biết hơn. Thế là Mạc Thanh Hà lập tức giới thiệu Dương Lăng với Ngô Tế Uyên, Ngô Tế Uyên thì giới thiệu huynh muội Trương thiên sư với Mạc Thanh Hà. Một đoàn người vui vẻ nói cười bước vào trong chùa Hàn Sơn.

Hôm nay Mạc Thanh Hà cũng đổi sang mặc một bộ thường phục. Hắn có vóc người cao lớn, dáng vẻ đường đường, thật không còn thấy bộ dáng của một thái giám. Hắn đứng cạnh Mạc phu nhân chan chứa phong tình, quyến rũ mê người thực cũng khiến cho người ta có cảm giác đó là một cặp trai tài gái sắc.

Nghe nói hôm nay khâm sai đại nhân từ kinh đô và thái giám trấn thủ Mạc công công muốn đến chùa tham quan, phương trượng chùa Hàn Sơn không dám sơ suất chút nào, sớm đã ra đứng đón ngoài cổng chùa. Lão hoà thượng tuổi quá bát tuần, râu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào, thân thể rất là tráng kiện.

Lão hòa thượng khoác cà sa màu đỏ thẫm, dẫn theo các trưởng lão, tri khách tăng và mười mấy tiểu sa di trong chùa cung kính nghênh đón nhóm người Dương Lăng. Tuy thanh danh vang dội nhưng thật ra chùa Hàn Sơn này rất nhỏ, đi hết một vòng cũng không mất bao thời gian. Vừa bước vào cổng chùa, đập vào mắt mọi người là một chiếc lư hương lớn, hương hoả cực thịnh, cắm đầy những cây nhang to bằng hai ngón tay do các tín đồ kính dâng, từ rất xa đã ngửi thấy mùi nhang khói nồng nặc.

Tuyệt đối không vì có khâm sai đại nhân quang lâm mà nhà chùa đuổi những khách hành hương khác ra ngoài. Có điều trông thấy đám nha sai xông thẳng vào chùa, đứng canh ở khắp nơi thì ai cũng biết là có nhân vật tai to mặt lớn đến, cộng thêm lão phương trượng ngày thường không dễ ra gặp khách lại đích thân tháp tùng giới thiệu cảnh chùa, những tín đồ nọ sớm đã thức thời mà tránh sang một bên.

Chủ yếu Dương Lăng chỉ tò mò về cái chùa Hàn Sơn này. Tuy nói rằng đến Tô Châu thì Viên Lâm(2) và chùa Hàn Sơn là những nơi phải tham quan, song trong tâm trí Dương Lăng thì Yến Tử Ổ(3) mới là nơi đáng đến nhất. Trương thiên sư có thân phận là bậc chí tôn của đạo gia, đến nơi thánh địa của Phật gia này cũng cảm thấy có phần bất tiện, còn Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên lại đã viếng thăm nơi này chán chê, nên tuy là lão phương trượng vô cùng ân cần, mọi người đều không cảm thấy hào hứng lắm.

Do đó mọi người chỉ cưỡi ngựa xem hoa, ngôi chùa vốn không lớn đi càng mau hết, mới nửa canh giờ, Dương Lăng đã đi đến sau chùa. Lúc vòng qua các tượng phật được cung phụng trong lầu gác ở đằng trước, y chợt trông thấy hai tăng lữ đang chắp tay quỳ trên bồ đoàn bái lạy. Ban đầu Dương Lăng còn tưởng đó là tăng nhân trong chùa đang tham thiền tụng kinh lễ Phật, nên bèn vội dừng bước. Song thấy bọn họ lại quỳ lạy phía sau tượng Phật, y lại cảm thấy có chút quái lạ.

Phương trượng vốn không nghĩ rằng khâm sai đại nhân sẽ đi đến hậu viện nhanh như vậy, cho nên không kịp gọi những tăng nhân ở hậu viện này tránh đi. Lúc này thấy bọn họ làm ảnh hưởng đến hứng thú tham quan của đại nhân, lão bèn vội vẫy tay ra hiệu tri khách tăng đuổi hai hoà thượng áo xám này ra ngoài.

Dương Lăng thấy tăng y hai hoà thượng đó mặc hơi khác với những tăng lữ khác trong chùa, sau lưng hai người lại đều đeo mũ rộng vành, tựa như đi đường xa mà đến, nhìn chung vừa cảm thấy hơi là lạ vừa lại cảm thấy hơi quen quen. Y nhíu mày suy nghĩ ngợi một lúc, chợt nhớ ra những tăng lữ mà y thấy trong truyện tranh Nhật Bản cũng ăn vận như vầy, y lấy làm lạ hỏi:
- Phương trượng đại sư, hai vị cao tăng này có phải là tăng nhân của quý tự không vậy?"

Phương trượng cung kính đáp:
- Khâm sai đại nhân! Hai vị tăng lữ này đến từ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản, đến bản tự để chiêm ngưỡng và thỉnh kinh Phật, tượng Phật.

Ngô Tế Uyên đứng bên cười nói:
- Đại nhân! Trong những năm Trinh Quán thời Đường chùa này có hai vị cao tăng đắc đạo, tên là Hàn Sơn và Thập Đắc. Về sau hoà thượng Thập Đắc đông độ (đi truyền đạo về phía đông đến) Nhật Bản, đã dựng nên một ngôi chùa "Thập Đắc" ở Nhật Bản, truyền đạo dạy kinh, rất được người bản xứ kính trọng. Vì vậy nếu có tăng lữ hoặc tín đồ Nhật Bản đến Đông Thổ, phần lớn đều sẽ đến chùa Hàn Sơn thăm viếng.

- Ồ?
Dương Lăng thấy phương trượng chùa Hàn Sơn và Ngô Tế Uyên bàn luận về Nhật Bản mà thần sắc lại thong dong, không hề có vẻ gì là phẫn hận, thì hơi lấy làm ngạc nhiên, song sau đó liền nhớ ra rằng lúc này Nhật Bản vẫn chưa gây ra tội ác tày trời với Trung Quốc*. Mặc dù giặc Oa làm nhiều điều ác ở vùng duyên hải, song đám hải tặc đó cũng là phường vô lại phạm pháp ở Nhật Bản. Huống hồ trong đó còn xen lẫn rất nhiều hải tặc Trung Quốc, cho nên người dân lúc này vẫn chưa vì vậy mà oán hận người Nhật. Thế là y cũng thoải mái tươi cười.
(*: tác giả nhắc đến những chuyện trong Thế Chiến thứ hai chăng?)

Y cất bước đến trước mặt hai hoà thượng Nhật Bản đang định lui ra điện nọ để chào hỏi. Nhìn trên tường, y thấy treo một bức tranh đã mờ, niên đại xem ra rất xưa, vẽ chân dung hai hoà thượng trông rất chấc phác, thậm chí có phần khôi hài. Phương trượng đại sư đi đến gần tươi cười:
- Đại nhân! Đây chính là chân dung của hai vị cao tăng Hàn Sơn và Thập Đắc đó.

Dương Lăng gật nhẹ, nhìn thấy bên trái bức tranh có hai hàng chữ. Hai câu đối thoại này rất nổi tiếng, y đã từng được nghe qua, có điều vẫn không biết xuất xứ từ đâu, lúc này trông thấy thì mới biết là lời của Hàn Sơn và Thập Đắc.

Y thuận miệng đọc:
- Người đời phỉ báng tôi, khi dễ tôi, làm nhục tôi, chê cười tôi, khinh rẻ tôi, căm ghét tôi, lừa gạt tôi, thì tôi phải xử trí thế nào?

Bên cạnh lập tức có người tiếp lời:
- Chỉ cần nhịn họ, nhường họ, mặc họ, tránh họ, chịu đựng họ, kính họ, không để ý đến họ, rồi chờ ít năm nữa ông hãy nhìn họ xem.

Dương Lăng kinh ngạc quay đầu, trông thấy đó là một trong hai vị tăng nhân Nhật Bản trẻ tuổi nọ đang chắp tay trả lời y. Dương Lăng không khỏi cười nói:
- Hoà thượng! Đúng là ông nhớ thật kỹ.

Được y khen ngợi, mặt vị tăng nhân Nhật Bản đó không khỏi lộ vẻ vui mừng, nói:
- Đa tạ đại nhân khen ngợi! Bần tăng Viên Nhân, là tăng lữ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản. Bần tăng còn nhớ Hàn Sơn đại sư từng hỏi: “Còn có bí quyết gì có thể tránh họ được không?” Thập Đắc đại sư đáp: “Bồ tát Di Lặc từng có bài kệ rằng: ‘có người mắng lão khờ, nói lão khờ còn tốt; có người đánh lão khờ, lão khờ tự ngủ khì. Phun nước miếng vào mặt, để nó tự khô luôn, mình cũng đỡ phí sức, họ cũng khỏi não phiền’..."

Bài kệ đó hơn ba trăm chữ, thế mà vị hoà thượng này nhớ rõ mồn một, đọc rõ ràng từng câu từng chữ, du dương trầm bổng. Phương trượng đại sư nghe xong vui vẻ vỗ tay khen:
- Thiện tai! Thiện tai!

Viên Nhân mỉm cười, cẩn thận chắp tay vái phương trượng, rõ ràng cũng có phần tự đắc. Ngô Tế Uyên đứng cạnh cười ha hả nói:
- Thập Đắc đại sư đông độ truyền kinh, quả nhiên thu được nhiều tín đồ, thật là công đức vô lượng.

Dương Lăng nhìn vị hoà thượng miệng đọc kệ ngữ cao tăng, mặt mày hoan hỷ, bèn nhớ đến đời sau cả nước bọn họ hoá thân thành cường đạo, đến Trung Thổ làm ra những hành vi phóng hoả đốt nhà giết người cướp của. Y không khỏi cười nhạt hỏi:
- Lời nói đó của Thập Đắc đại sư quả thực bao hàm phật lý diệu huyền, đại sư quả nhiên thuộc làu. Vậy ta hỏi đại sư, những gì đại sư thuộc... đại sư có làm được hết không?

Viên Nhân thoáng ngẩn ra, trầm ngâm một hồi lâu rồi mới cung kính đáp:
- Bần tăng không làm được.

Dương Lăng lại hỏi:
- Thế... quý quốc là quốc gia thờ Phật, chẳng hay có bao nhiêu người làm được?

Viên Nhân trầm ngâm thật lâu, mồ hôi túa đầy trán, song thuỷ chung vẫn không nói được tiếng nào. Dương Lăng mỉm cười ung dung nói:
- Cho dù có thuộc làu từng quyển kinh Phật, "Phật" đó bất quá chỉ là lời nói đầu môi. Khi nãy đại sư vừa nói... "ngộ đắc chân thường lý, nhật nguyệt vi lân bạn"(4). Lẽ chân thường ấy là ngộ ra như vậy ư?

Hoà thượng Viên Nhân trầm mặc một lát đoạn gập người vái sâu, rồi thản nhiên đáp:
- Từng chữ của đại nhân như lời cảnh tỉnh, bần tăng xin thọ giáo, đa tạ đại nhân chỉ điểm.

Dương Lăng cười nói:
- Không dám, ta chỉ nói bừa mà thôi. “Ngộ ra lẽ chân thường, lấy nhật nguyệt bầu bạn”! Ha ha, nhật nguyệt là ánh sáng, nếu như quý quốc thật sự giúp mọi người làm điều tốt, thì ánh sáng nhật nguyệt ấy... Triều đình Đại Minh(*) ta há không phải chính là bạn tốt láng giềng của quý quốc đấy ư?
(*): Dương Lăng chơi chữ: Chữ Minh明 gồm chữ nhật日 và chữ nguyệt 月 tạo nên.

Hoà thượng Viên Nhân nghe vậy bèn ngẩng đầu nhìn y, cảnh giác hỏi:
- Đại nhân nói vậy... có phải bởi vì quý quốc gặp nạn hải tặc mà trút giận sang nhân dân đất nước của bần tăng không?

Dương Lăng cười nói:
- Đại sư dám khẳng định trong đám "hải tặc" đó không có quân đội do các Mạc chúa hám lợi đen lòng phái ra, giả hải tặc làm ác ư?

Những chuyện này là bí mật được công khai, triều đình Đại Minh có rất nhiều người biết chứ đừng nói là Viên Nhân vốn đến từ Nhật Bản. Viên Nhân nghe vậy thì đỏ mặt, không dám mở miệng phản bác. Nhà sư suy nghĩ một chút rồi bảo:
- Nhưng... quý quốc đã có bao giờ từng biểu thị thiện ý không? Đất nước của bần tăng muốn chung sống hảo hữu cùng quý quốc, hỗ trợ cho nhau, nhưng quý quốc lại vô lý yêu cầu nước bần tăng phải dùng lễ bề tôi mà tiếp kiến.
Nếu dùng lễ bề tôi, thì quý quốc sẽ không tiếc ban thưởng. Mà tăng lữ nước bần tăng cũng phải thường xuyên vượt biển đến đây, mang theo bên người về được một ít, mất bao trắc trở vẫn không thể thoả mãn đủ yêu cầu của các tín đồ. Thế nhưng khi chúng tôi tình nguyện đưa ra nhiều tiền mua sắm, quý quốc lại cho rằng nước của bần tăng không chịu dùng lễ bề tôi mà gây khó dễ. Nếu không phải vì quý quốc hà khắc như vậy, chúng tôi... chúng tôi...

Nói đến đây, mặt nhà sư đỏ lên, rõ ràng cũng tự cảm thấy việc người ta không chịu mua bán với mình mà mình liền ra tay đánh cướp cũng quá vô sỉ, cho nên không thể nào nói xong cái lý do này.

Đương nhiên Dương Lăng cũng biết những nguyên nhân ấy. Năm xưa, khi y đọc lịch sử đã phát hiện quả thật người Trung Quốc xưa rất "đần", thà cầu danh chứ không cầu lợi. Nếu nước khác chịu tự nhận là bề tôi thì cho dù có đưa đến một sọt cỏ cũng hận không thể ban thưởng số hoàng kim gấp mười lần để biểu đạt sự khẳng khái lẫn hào phóng của thiên triều thượng quốc. Nhưng nếu đối phương không chịu xưng thần, thì cho dù có cuộc mua bán trăm lợi mà không hại thì cũng quyết không chịu giao dịch cùng, xem như là mình trừng phạt đối phương.

Y thấy hoà thượng Viên Nhân tuy trong lời nói có ý tức giận bất bình, nhưng mặt lại hiện vẻ xấu hổ, rõ ràng là hổ thẹn với hành vi của người nước mình thì bất giác có mấy phần hảo cảm với hắn. Y giãn mặt mỉm cười rồi nói:
- Lời đại sư nói, bản quan cũng biết một phần. Những việc này ta sẽ bẩm rõ với Hoàng thượng, cầu xin Hoàng thượng cho phép mở hải cảng thông thương, tăng cường giao lưu qua lại giữa hai nước. Chỉ có điều... những hải tặc đó của quý quốc, bất kể vì lý do gì, chỉ cần bọn chúng tới, chúng ta sẽ đập nát chúng ngay.

Nói xong, Dương Lăng lại thâm thúy nhìn chăm chú hoà thượng Viên Nhân dường như đang có điều đăm chiêu. Sau đó y cùng nhóm người Trương thiên sư và Mạc Thanh Hà chậm rãi quay về. Trông thấy Ngô Tế Uyên dường như có điều nghĩ ngợi, Dương Lăng không nhịn được bèn hỏi:
- Ngô tiên sinh vẫn còn đang nghĩ đến lời vị hoà thượng đó sao?

Ngô Tế Uyên giật mình thất kinh, liền vội chắp tay đáp:
- A! Phải... à không phải... thảo dân...

Dương Lăng cười nói:
- Ngô tiên sinh không cần phải kinh hoảng. Ngài là phú ông đất Tô Châu, có đất đai, có xưởng dệt và còn có cửa hàng, chắc hẳn hiểu những chuyện này hơn. Lần này bản quan đến Giang Nam chính là để kiểm tra việc thuế khóa. Không những bản quan chỉ tra xét sự thanh liêm của thuế lại mà cũng muốn hiểu rõ hơn về nguồn gốc thuế khóa và phương pháp gia tăng thuế khóa nữa. Tiên sinh cứ việc nói thẳng, bản quan quyết sẽ không trách tội.

Ngô Tế Uyên nhìn Trương thiên sư hỏi ý, thấy y gật đầu khích lệ mới bèn lấy hết dũng khí đáp:
- Đại nhân! Theo thảo dân thấy, thật ra... nếu như triều đình chịu mở cảng thông thương với Nhật thì chẳng những lợi cho bá tánh, mà thuế khóa của triều đình nhất định cũng sẽ tăng lên rất nhiều.
Hiện nay trong nước Nhật Bản chiến loạn liên miên, rất nhiều thứ bị thiếu hụt, ví dụ như tơ sống, vải bông, lụa gấm, thủy ngân, thậm chí là cây kim, dây xích, nồi sắt, đồ sơn mài, đồ sứ, thảm len, và cả dược liệu, đồ gia vị, vân vân,… đặc biệt là sách vở kinh điển của Phật giáo. Nhu cầu này rất cao, nếu bán được cho bọn họ, chúng ta có thể thu về lợi nhuận gấp mười lần đó.

Tuy Dương Lăng biết thông thương nhất định mang lại lợi ích cho đất nước, nhưng y cũng không ngờ những thứ không đáng giá này mang sang Nhật Bản lại được lãi lớn như vậy. Nếu như một số lượng lớn những vật dụng hằng ngày này được Nhật Bản tiêu thụ, vậy chẳng phải tiền bạc của Nhật Bản sẽ chảy như nước vào Đại Minh ư? Dương Lăng vẫn chưa quên việc xe hơi cùng đồ điện Nhật Bản tràn ngập thị trường Trung Quốc. Thì ra trong lịch sử cũng có lúc bọn họ điên cuồng theo đuổi hàng hoá Trung Quốc à. Cơ hội này sao có thể bỏ qua?

Dương Lăng nửa ngạc nhiên nửa hào hứng hỏi:
- Lại được lợi nhuận lớn như vậy sao? Ngô tiên sinh hãy nói rõ hơn một chút đi!

Ngô Tế Uyên thấy y mừng rỡ ra mặt thì càng tăng thêm dũng khí. Lão nghĩ ngợi một chút rồi đáp:
- Đại nhân đừng cho rằng thảo dân nói bừa. Thảo dân lấy ví dụ như nuôi tằm, lấy tơ, dệt lụa. Từ nuôi tằm con thành thành tằm có thể kéo tơ phải mất một năm, sau đó là sản xuất tơ sống, một cân chỉ có thể bán được năm sáu phân tiền. Trừ chi phí tiền vốn và thuế, phần còn lại phải cố gắng lắm mới có thể sống tạm qua ngày mà thôi.
Nhưng nếu vận chuyển được tơ sống sang Nhật Bản sẽ có thể bán được năm sáu lạng bạc, chênh lệch gấp cả chục lần đấy! Cho dù một cây kim ở đây mang sang bên chỗ bọn họ cũng có thể bán được bảy phân tiền, đúng là một vốn bốn lời à. Đương nhiên, bên đó bọn họ cũng có đồ tốt mà chúng ta cần, tỉ như đồng, hưu huỳnh, gỗ vang (tô mộc, danh pháp khoa học: Caesalpinia sappan, lõi rất cứng), vân vân… Chúng ta mua về gia công chế tạo một tí rồi bán lại cho bọn họ, lại kiếm thêm một khoản nữa.

Dẫu sao Ngô Tế Uyên cũng là thương nhân, nói một hồi thì sự sợ sệt e dè hoàn toàn tan biến, mặt mày lão hớn hở hẳn lên. Dù Dương Lăng nghe như thế nào cũng thấy giống như một phiên bản tình hình kinh tế hai nước Trung - Nhật vào khoảng thời gian nào đó ở đời sau, chỉ có điều là thịnh vượng hơn và cung cầu của song phương được đảo ngược lại, bèn không khỏi bật cười nói:
- Người Nhật cũng không ngu. Những Mạc chúa, tướng quân đó hối hả buôn bán với chúng ta như thế, không phải chỉ vì nhu cầu của người dân mà họ để tâm như vậy, đúng không?

Ngô Tế Uyên cười lớn nói:
- Đó là lẽ đương nhiên. Bình phong, quạt, hộp, nghiên mực của bọn họ được chế tạo tinh mỹ, phú ông bên chúng ta cũng vui vẻ trả giá cao để mua về. Nếu thông thương qua lại, triều đình còn có thể nhập một lượng lớn đao kiếm từ chỗ bọn họ. Chất lượng đao Nhật tốt hơn đao của chúng ta, bán lại ít nhất phải lời gấp ba lần.

Dương Lăng nghe xong lặng lẽ gật đầu. Đến lúc rời khỏi cổng chùa Hàn Sơn, y bỗng dừng bước, trịnh trọng nói với Ngô Tế Uyên:
- Làm phiền Ngô tiên sinh việc này. Không biết liệu ông có thể ghi cặn kẽ những việc mà ông biết, càng chi tiết càng tốt. Khi hồi kinh bản quan sẽ trình báo những việc này lên cho Hoàng thượng.

Ngô Tế Uyên trợn tròn cặp mắt nhìn y, mãi lúc sau mới hào hứng kêu lên:
- Đại nhân... Đại nhân nói thật đấy chứ? Đại nhân tự nguyện vì chuyện ích lợi của thương nhân này mà dâng lời lên Hoàng thượng sao?

Dương Lăng lắc đầu, nghiêm túc đáp:
- Đây không phải là chuyện ích lợi của thương nhân. Đây là việc quốc gia đại sự!

Ngô Tế Uyên nghe vậy, ánh mắt chợt lóe lên, đoạn lão vái Dương Lăng một vái thật sâu, trịnh trọng:
- Có câu này của đại nhân, Ngô mỗ nếu biết sẽ không tiếc lời, nếu nói sẽ nói ra hết. Thảo dân nhất định sẽ trong thời gian sớm nhất nhanh chóng thuật lại tỉ mỉ những gì mình biết để đưa cho đại nhân.

Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ, trong lòng cũng âm thầm quyết định. Về đến kinh thành bất kể thế nào y cũng phải tâu chuyện này cho Chính Đức, thuyết phục hắn thông thương giao lưu. Y cũng biết đám đại thần thủ cựu xưa nay vẫn một mực cho rằng thiên triều thượng quốc có thể tự cung tự túc, lấy thân phận bình đẳng mà thông thương cùng mọi rợ ngoại bang là việc làm mất mặt thượng quốc nên nhất định sẽ ra mặt can thiệp. Nhưng y cũng biết rõ tầm quan trọng và tất yếu phải xảy ra của việc mở cửa thông thương. Việc này nhất định phải làm. Chỉ cần làm tốt, để triều đình và bá tánh nếm chút lợi lộc của nó, đến khi nó phát triển lớn mạnh rồi thì không ai có thể ngăn cản được nó nữa.

Ngô Tế Uyên đứng thẳng lưng lại, vui vẻ cười nói:
- Thảo dân nói chuyện cả buổi, vất vả cho đại nhân phải nói đến việc công rồi. Hôm nay đại nhân tới để giải sầu, chuyện này để chốc nữa hẵng nói tiếp. Thảo dân đã đoán biết đại nhân nếu đã đi du ngoạn, điểm dừng đầu tiên phải là ngôi chùa cổ Hàn Sơn này rồi. Gần đây có một tiệm ăn chay Hàn Sơn, hương vị độc đáo, thảo dân đã đặt trước tiệc rượu, mời đại nhân đến đó thưởng thức trước một tí, sau đó chúng ta sẽ đi du ngoạn Thái Hồ ngắm cảnh thu tiếp nhé!

Mạc Thanh Hà thoáng ngẩn ra rồi bảo:
- Hôm nay đại nhân dùng thân phận cá nhân du ngoạn Tô Châu cho nên bản quan không thông báo cho tri phủ Tô Châu. Có điều bản quan đã thông báo cho Lý Đại Tường thết tiệc tẩy trần cho đại nhân ở lầu Sư Tử. Đại nhân xem...

Dương Lăng thoáng suy nghĩ rồi đáp:
- Thôi, bỏ đi! Vào thành chạy tới chạy lui sẽ lại lãng phí thời gian, hơn nữa đoàn người đông đảo này cũng không tiện phô trương thanh thế. Đi Thái Hồ xong, tối nay chúng ta hãy trọ lại một đêm rồi phải trở về Hàng Châu. Thôi đừng làm phiền hắn nữa.

Thật ra Dương Lăng định đi nhanh về sớm là muốn khi trở về sẽ đến Hải Ninh gặp Mẫn Văn Kiến một lúc. Song nếu nói cho Mạc Thanh Hà biết trước, nhất định hắn ta sẽ thông tri quan phủ Hải Ninh rằng có khâm sai giá đáo; bọn họ lại rầm rầm rộ rộ chuẩn bị tiếp đón tất sẽ khiến cho cái huyện Hải Ninh bé xíu loạn cả lên.

Cái cảm giác bị cả đoàn người tiền hô hậu ủng, mất hết tự do như lúc này đã khiến Dương Lăng nhức đầu không thôi rồi, y không mong khi đến Hải Ninh thì những người ở nơi ấy sẽ lại bày vẽ chiêu đãi như thể sắp lâm đại địch, cho nên không hề nói cho Mạc Thanh Hà hay. Mạc Thanh Hà nghe y nói muốn nhanh về Hàng Châu, ngẫm nghĩ nếu mình tỏ ý ngăn trở thì ngược lại sẽ giống như sợ y điều tra mình ở Hàng Châu vậy, nên hắn không nói gì thêm.

Tiệm cơm chay Hàn Sơn phía tây nhìn bến Phong Kiều, nam dựa chùa Hàn Sơn, Bắc kề dòng Phong Tân, tựa vào lan can uống rượu, lên lầu trông về phía xa, thoả sức thưởng lãm vẻ tú lệ của Cô Tô. Các món ăn như Phật Thiên Thủ, Công Đức Kim Thối, La Hán Trai, Bát Trân Hoà Hợp, Phỉ Thuý Cầu, Cua Xào Chay do nơi đây làm rất chú trọng đến việc chọn lựa nguyên liệu, màu sắc và mùi vị đều tuyệt vời, hương vị của nó đủ để "mượn giả làm thật".

Nơi ấy cũng không xa, đoàn người không ngồi kiệu, vừa nói vừa cười cuốc bộ mà đi. Ngô Tế Uyên dẫn mọi người đến tiệm cơm chay Hàn Sơn, đang tủm tỉm mời vào thì Liêu quản sự chờ sẵn ở đó chợt hổn hển chạy ra thưa:
- Lão gia! Xảy ra chuyện rồi. Tiểu nhân đã bao hết tiệm ăn này chờ khâm sai đại nhân quang lâm, nào ngờ lão gia Lý Quý câu cá ven sông trở về, khăng khăng đòi thưởng thức khẩu vị nơi đây một chút. Tiểu nhân đã nói rõ với hắn là nơi này đã được lão gia bao, song hắn vẫn không nghe...

Ngô Tế Uyên nghe vậy thì thoáng sững người, lão không ngờ đến đây mà còn chạm phải oan gia đối đầu là Lý Quý. Nhưng mà... Liêu quản sự này cũng thật không biết làm việc gì cả, chỉ cần nói mình bày tiệc là để chiêu đãi khâm sai đại nhân và Trương thiên sư, thì cho dù tên Lý Quý đó có to gan hơn nữa cũng lại dám ở đây sinh sự sao?

Ngô Tế Uyên hầm hầm nhìn Liêu quản sự. Lão vừa định cất lời trách mắng thì đột nhiên chú ý thấy Liêu quản sự vừa nói với lão vừa không ngừng nhìn sang Dương Lăng, lúc này mới sực hiểu ra ý tứ của hắn ta. Lão cười thầm trong bụng, lập tức đổi thành vẻ mặt khó xử nói:
- Vậy... tiệm này đã bị Lý Quý bao rồi à? Nếu vậy thì hơi có chút rắc rối rồi.

Nguyên lai họ Ngô đã cư ngụ ở nơi này hơi một trăm sáu mươi năm, sáu mươi năm trước đã trở thành phú hộ giàu có nhất Tô Châu. Mà cái tên Lý Quý này, lại là một vị nhà giàu mấy năm gần đây đột nhiên phất lên, là một phú hộ mới nổi chuyên cho vay nặng lãi, đầu cơ trục lợi.

Không ai biết lai lịch xuất thân của tên Lý Quý này, chỉ biết dường như khi hắn đến đã có sẵn nguồn vốn rất hùng hậu rồi. Mỗi khi gặp phải thiên tai nhân hoạ, nhất là sau mỗi lần giặc Oa đến cướp bóc, có mấy nông dân trả nổi nợ nần chứ? Khi đó, cùng đường bí lối, những người nông dân nghèo khổ đói khát này buộc lòng phải cầm cố đất đai mà trả nợ, từ nông dân trở thành tá điền cho hắn, một số người thì trở thành dân lang thang không nghề không ngỗng được các xưởng thủ công làm giấy, dệt tơ thuê mướn; một số thì vì tuổi già sức yếu không cách mưu sinh đành phải đi ăn xin, lang bạc khắp nơi.

Dựa vào thủ đoạn này, chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi Lý Quý đã mua gom được một lượng lớn đất đai của hai vùng Tô-Hàng, giờ đây nghiễm nhiên trở thành địa chủ lớn nhất hai châu Tô-Hàng. Gia nô tôi tớ của gã phải dùng con số hàng ngàn mà tính, nhà ở thì lầu cao cửa rộng, ra đường thì quần áo lụa là, thanh thế có vẻ đã vượt trội nhà họ Ngô.

Hành vi của gã hiển nhiên khiến thân sĩ Tô Châu khinh thường, cộng thêm người dân địa phương cũng có tâm lý bài ngoại, cho nên những thân sĩ này bèn tố cáo những việc làm xấu xa của Lý Quý với quan phủ. Nhưng không biết tên Lý Quý đó rốt cuộc có lai lịch thế nào, mà nha môn tri phủ tiếp nhận cáo trạng xong lại nhắm mắt làm ngơ.

Thế gia hào phú với mạng lưới quan hệ rộng lớn như nhà họ Ngô bèn phản ánh sự tình với Bố chánh sứ cùng nha môn ti Án Sát sứ, không ngờ cũng không hề có kết quả. Lúc này mấy đại gia tộc địa phương mới hiểu chỗ dựa của tên Lý Quý này nhất định vô cùng vững chắc. Bọn họ lật gã không đổ, lại sợ bị gã trả thù nên đành phải căn dặn người trong nhà bình thường bớt qua lại với tên ác nhân này.

Lý Quý làm mưa làm gió ở Tô Châu, gia nghiệp nhà họ Ngô lại khổng lồ, cho dù có muốn tránh cũng chẳng thể nào tránh hết được, cho nên không ít tôi tớ và quản sự trong nhà bị gã hà hiếp lắm lần. Gần đây Lý Quý lại bắt đầu dòm ngó đến sản nghiệp họ Ngô, quan hệ hai nhà như nước với lửa. Liêu quản sự cố ý không nói rõ khâm sai đại nhân muốn đến dùng bữa, chính là muốn mượn tay Dương Lăng để trút nỗi bực tức này.

Mạc Thanh Hà đứng bên cạnh nghe được chuyện, da mặt liền hơi dúm lại, không nén được giận bước lên cả tiếng:
- Lý Quý? Là cái tên thân hào địa phương không đáng giá đó à? Hừ! Bình thường ỷ vào mấy đồng tiền mà đã ngang tàng hống hách, lần này lại dám bày trò trước mặt cả khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nghi hoặc hỏi Ngô Tế Uyên:
- Lý Quý này là ai vậy?

Tuy thân phận thấp kém, nhưng Liêu quản sự từng ngồi cùng thuyền với Dương Lăng, quan hệ còn thân hơn cả lão gia của hắn, nên bèn vội tranh bước tới mấy bước, thêm mắm thêm muối kể lại thái độ đối nhân xử thế của Lý Quý. Dương Lăng nghe mà liên tục nhíu mày.

Mạc Thanh Hà cười ha hả nói:
- Trong số những kẻ giàu có ở vùng Tô Châu thì tên Lý Quý này là kẻ vi phú bất nhân nhất. Tuy gã chưa từng làm chuyện thương thiên hại lý gì, song chỉ mỗi bộ mặt nhà giàu mới nổi đó đã khiến người ta thấy ghét rồi. Hôm nay gã lại dám động chạm đến đại nhân, bản quan đang muốn nhân cơ hội này dạy dỗ gã, cũng là để khiến gã an phận một chút vậy.

Tuy Dương Lăng cảm thấy ghét Lý Quý, nhưng gã chưa hề có hành vi xấu xa trắng trợn gì, cho vay nặng lãi lại không phạm pháp, nếu chỉ vì gã va chạm với mình mà mình lại nghiêm khắc trừng trị gã, đến khi đám ngôn quan biết được, nhất định bọn họ sẽ dâng tấu hạch tội mình, cho nên y không muốn đa sự. Có điều nghe lời nói của Mạc Thanh Hà, Dương Lăng biết hắn ta sẽ không làm gì quá mức, nên chỉ cười cười không nói.

Mạc Thanh Hà thấy y cho phép, bèn quay đầu ra lệnh cho quản gia của lão:
- Lão Lý! Đập cái tên không biết điều đó một trận cho ta, bảo gã sau này bớt phóng túng lại mộ chút. Ngươi lôi gã ra xa xa đi, đừng làm mất khẩu vị của đại nhân.

Lý quản gia mỉm cười đáp một tiếng. Hắn vừa khoát tay mang theo mấy người bước tới trước cửa, cửa phòng chợt mở ra, một gã tráng niên tầm hơn ba mươi, mặt mày to béo đen đúa, chắp tay sau lưng, hất hàm ngạo mạn nói:
- Ngô lão gia mời nhân vật nào ăn chay thế? Thật ngại quá, hôm nay bản lão gia đã bao quán này rồi.






Chú thích:

(1) Phong Kiều dạ bạc (dạ: đêm, bạc: cập bến), tạm dịch "Đêm cập bến Phong Kiều", là bài thơ rất nổi tiếng của Trương Kế (张继). Tác giả sống vào khoảng trước sau năm 756 - đời vua Đường Túc Tông. Bài thơ Phong Kiều dạ bạc về sau đã được Khang Hữu Vi đời nhà Thanh khắc trên tấm bia lớn dựng trong chùa Hàn Sơn để cho người đời sau qua đây thưởng lãm.

Hán Việt:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bản dịch của Tản Đà:
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
(2) Tô Châu Viên Lâm hay còn gọi là Cô Châu là một kiến trúc lâm viên ở trong nội thành của Tô Châu, lấy khuôn viên tư gia là chủ đạo, bắt đầu từ thời Xuân Thu (514 trước Công Nguyên), hình thành thời Ngũ Đại, hoàn thành thời nhà Tống, hưng thịnh thời nhà Minh. Đến cuối thời nhà Thanh thì Tô Châu đã có hơn 170 vườn cây cảnh đặc sắc, hiện nay có hơn 60 nơi được bảo tồn hoàn chỉnh, có 19 nơi là vườn cây cảnh mở.
(3) tạm dịch "tổ én", là nơi cư ngụ của nhà Mộ Dung trong Thiên Long Bát Bộ.
(4) hiểu ra được lẽ chân thường (chân lý), mặt trời mặt trăng sẽ quây quần làm bạn, ý nói một khi hiểu ra lẽ phải thì anh sẽ tìm được ánh sáng (mặt trời và mặt trăng tượng trưng cho ánh sáng).

Chương 128 Chèo thuyền du ngoạn Thái Hồ

------------------------

Gã hán tử mập lùn, da dẻ đen đúa dương dương đắc ý nói xong, tròng mắt mới dần khôi phục lại vẻ bình thường. Chợt nhìn thấy quản gia của Mạc phủ đang đứng trước mặt, gã không khỏi thất kinh, mặt lập tức biến sắc.

Lý quản gia cười khà khà:
- Lý đại lão gia thực là oai phong! Lão gia nhà ta cũng định nếm thử đặc sản của quán Hàn Sơn này, xem ra sẽ uổng công một chuyến rồi.

Lúc này Lý Quý mới nhìn thấy ngoài cửa còn có mấy người đang đứng, trong đó gã chỉ nhận ra được Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà, vẻ mặt hai người đều như nhau, miệng mỉm cười, điềm nhiên quan sát.

Lý Quý chửi thầm trong bụng, biết mình đã trúng kế của Ngô Tế Uyên, hôm nay khó tránh bị mất sạch thể diện rồi. Nhưng Mạc Thanh Hà chủ quản việc thu thuế gạo thóc, mà gã là địa chủ đứng đầu hai vùng Tô – Hàng; có thể nói Mạc Thanh Hà tha cho gã một phần, ấy là được vạn gánh thóc gạo, căng với gã một phần, ấy là mất đi một số bạc lớn, cho nên gã không dám đắc tội với vị thần tài này chút nào.

Lý Quý lật đật bước ra khỏi cửa, cúi đầu khom lưng thưa:
- Mạc gia! Lão nhân gia ngài cũng đến à! Úi chao, tiểu nhân không biết là lão nhân gia ngài, mời ngài vào! Tiểu nhân đã lâu không gặp ngài rồi, muốn hiếu kính ngài cũng không có cơ hội nữa. Thực khó có dịp lão nhân gia ngài đến Tô Châu, xin để tiểu nhân thết tiệc tẩy trần cho ngài.

Mạc Thanh Hà nở nụ cười nhàn nhạt, đáp:
- Ăn đồ chay phải chú trọng đến ý cảnh, lời của Lý viên ngoại thực không thích hợp lắm.

Vị Lý đại viên ngoại này nhìn như kẻ thô kệch nhưng lại không thiếu thông minh. Gã hiểu ý Mạc Thanh Hà giễu gã người đầy mùi tiền, mặt không khỏi lúc trắng lúc đỏ, ngượng ngập nói:
- Phải phải phải! Tiểu nhân không biết Mạc gia còn mời khách, mời các ngài vào, tiểu nhân lập tức đi ngay. Khoản tiền này ngàn vạn lần lão nhân gia ngài hãy để tiểu nhân lo liệu, xem như nể mặt tiểu nhân vậy.

Thấy bộ dạng ảo nảo của gã Lý Quý đang hoành hành khắp phủ Tô Châu, trong lòng Ngô Tế Uyên hết sức hể hả. Lão thấy Lý Quý vẫn đang lấy lòng Mạc Thanh Hà bèn chen miệng vào:
- Không cần nhọc Lý viên ngoại tốn phí. Ngô mỗ đây đã mời các vị đại nhân đến du ngoạn Tô Châu, chút tiền này vẫn có thể trả được.

Lý Quý thấy Ngô Tế Uyên mở tiệc thết đãi Mạc Thanh Hà, hiển nhiên quan hệ đôi bên không nhạt, bên cạnh còn có một vị công tử tôn quý và một đạo nhân trông cũng không phải nhân vật tầm thường, nên càng không dám lộ vẻ kiêu ngạo. Mấy tên tay sai của gã tay áo xắn cao, mặt mày bặm trợn trong quán trà hùng hổ đi theo ra lúc này cũng đã phải rón ra rón rén. Lý Quý thấy Mạc Thanh Hà không thèm nhìn mình, vội ngượng nghịu khom lưng, mãi đến khi Ngô Tế Uyên mỉm cười mời đám người Dương Lăng vào quán xong, gã mới vội vã rời đi.

Lý quản gia được Mạc Thanh Hà căn dặn, nào dám dễ dàng bỏ qua cho gã, sớm đã mỉm cười theo sau. Đương nhiên "dạy dỗ" mà Mạc Thanh Hà nói không phải là sai người tẩn gã một trận; phỏng chừng khi đuổi tới nơi, sợ rằng Lý quản gia sẽ nả gã một món lớn, chưa khiến gã đau thịt buốt xương ba ngày thì chưa thôi.

Ngô Tế Uyên đưa mấy người vào nhã phòng, áy náy xin lỗi:
- Thảo dân không biết tên Lý Quý này sẽ đến, đã quấy rầy nhã hứng của các vị đại nhân, thật có lỗi quá.

Dương Lăng thấy trong quán ngoài đường đều có tuỳ tùng đứng gác, ngay cả ông chủ và tiểu nhị của quán cũng trở nên sợ sệt, y hơi nhíu mày nói: "Hôm nay chúng ta chỉ lấy cương vị cá nhân du ngoạn ngắm cảnh, làm to chuyện như vầy quả thật cũng không ổn. Tại hạ nghĩ... có thể hay chăng phiền Ngô tiên sinh chuẩn bị vài bộ y phục của bá tánh phổ thông, lát nữa chúng ta đến Thái Hồ du ngoạn, cứ đồ xe đơn giản là được. Về phần người của tại hạ thì chỉ cần chọn ra vài người đi theo là được, những người khác chờ trên thuyền. Có điều... phải phiền huynh muội thiên sư thay đổi y phục rồi."

Tuy lần này Trương thiên sư đi với tư cách là người tu đạo, song thật ra đó không phải là lễ nghi trọng đại gì, sau khi lập đàn tế tự thì thiên sư ăn mặc cũng không khác người thường là bao, cho nên không dị nghị gì về việc này. Trịnh bách hộ nghe Dương Lăng giao việc xong, bản thân đảm trách an nguy cho Dương Lăng nên gã không dám qua loa, liền vội tìm Liêu quản gia bảo hắn nhanh chóng thu xếp, còn bản thân gã chọn trong đám nha sai được hơn hai mươi người thân thủ cao cường, thông minh tháo vát, hỏi rõ Liêu quản sự về lộ trình du ngoạn, rồi chạy đến Thái Hồ chuẩn bị trước.

Mạc phu nhân nhẹ nhàng cởi áo khoác ngoài ra, thị nữ đứng bên cầm lấy rồi đứng hầu sau lưng nàng. Nàng cười duyên dáng ngồi xuống cạnh Mạc Thanh Hà, dịu dàng:
- Lão gia, đã lâu thiếp thân không đến Tô Châu, thiếp muốn ghé thăm Bố chánh sứ phu nhân một chút. Vả lại, không được ngồi trên thuyền lớn thiếp lại thấy chóng mặt, thiếp sẽ không đi Thái Hồ đâu.

Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang Dương Lăng và Trương thiên sư cười áy náy. Dương Lăng luôn cảm thấy hơi mất tự nhiên trước mặt nàng, giờ nghe nàng nói không cùng điđến Thái Hồ, trong lòng lại nhẹ nhỏm hẳn. Mạc Thanh Hà khẽ gật đầu, vỗ nhẹ tay nàng, nhẹ giọng bảo:
- Được, nàng cũng không cần về gấp, trên đường về ta sẽ cho người đi đón nàng.

Đoạn hắn quay đầu, nhỏ nhẹ nói với Dương Lăng:
- Chuyết nội (vợ nhà) và như phu nhân (vợ lẽ) của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân rất thân thiết, đến Tô Châu mà không ghé thăm thì không tiện tí nào. Hơn nữa chúng ta chèo thuyền du ngoạn Thái Hồ, nếu đi thuyền lớn thì mất hết ý vị, còn nếu đi thuyền nhỏ thì cô nàng lại hay chóng mặt, thôi không đi cũng được.

Dương Lăng nghe vậy bèn gật nhẹ đầu, thầm nghĩ: "Nghe nói vị Mạc phu nhân này là danh kỹ Giang Nam, không biết vị thiếp của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân có phải cũng là nhân vật trên chốn phong lưu không nữa."

Y vừa nghĩ vừa không khỏi ngẩng đầu liếc nhìn Mạc phu nhân, không ngờ cặp mắt sắc lẹm của Mạc phu nhân cũng đang "ngầm đưa tình" với y, thấy vậy Dương Lăng liền nổi da gà.

Vị Mạc phu nhân này tuy xuất thân từ chốn thanh lâu, nhưng lại không khiến cho người ta có cảm giác quyến rũ yêu mị, mỗi cái nhăn mày, mỗi một nụ cười của nàng đều vô cùng xinh đẹp thanh nhã. Hôm nay nàng vận váy lụa trắng thuần, càng tôn lên vẻ đẹp như đoá phù dung nổi trên mặt nước; mày ngài tựa núi xuân, mắt như đọng thu thủy, quyến rũ mê người.

Lúc cặp mắt như biết nói đó thuỳ mị nhìn người khác, cho dù không hề có ý khêu gợi sắc tình, cũng khiến người ta suy nghĩ vẩn vơ, càng huống chi ngày đó Dương Lăng từng bị nàng âm thầm trêu ghẹo, sao không chột dạ chứ?

Vừa lảng mắt tránh đi, lại trông thấy Cao Văn Tâm đang đứng đối diện, cặp mắt sáng ngời ấy cũng đang chằm chằm nhìn y không chớp. Cả người Dương Lăng càng mất tự nhiên hơn, như thể đã bị nàng nhìn trúng chỗ uý kị trong lòng.

Hôm nay Cao Văn Tâm quả nhiên mặc bộ đồ màu xanh biếc mà hôm qua Dương Lăng đã khen. Quần áo của con gái bình dân tràn trề phong thổ nhân tình của vùng Giang Nam sông nước khoác lên tấm thân thiếu nữ phương Bắc mang đậm khí chất thanh cao điềm tĩnh của nàng, càng toát lên một ý vị khác. Dẫu rằng tuyệt nhiên không thể đánh đồng với khí chất muôn vẻ phong tình như nước của Mạc phu nhân, song nó lại mang một nét đẹp thanh tao ngọt ngào khác hẳn.

Dương Lăng bất giác nhẹ giọng nói với nàng:
- Văn Tâm! Bản quan không cần người hầu hạ, cô cũng mệt rồi. Liêu quản sự, xin ông hãy bố trí một bàn tiệc rượu khác, để nàng ta... à... và hai vị thị nữ của Mạc phu nhân cùng ăn uống rồi nghỉ ngơi vậy.

Khâm sai đại nhân ngồi ghế đầu còn chưa mở lời nói câu chào hỏi hình thức nào mà đã sai người an bài cho thị nữ của y dùng bữa nghỉ ngơi trước rồi! Người thị nữ này thật sự là thị nữ đấy ư?

Ngô Tế Uyên nghe Dương Lăng dặn dò vậy, bèn quan sát kỹ lưỡng Cao Văn Tâm vài lượt. Tuy Cao Văn Tâm ăn mặc như một thị nữ nhưng đứng chung với hai tiểu tỳ của Mạc phu nhân nàng lại toát ra khí độ ung dung khuê các mà bọn họ thua kém cả vạn phần. Lão máy động trong lòng, không khỏi thầm nghĩ: "Phong độ và khí chất của vị cô nương này thật sự không giống nữ tỳ. Khâm sai đại nhân yêu mến nàng ta như vậy, chẳng lẽ bọn họ...?"

Ngô Tế Uyên nghĩ ngợi một chốc, cảm thấy không ổn thoả, hình như hậu lễ chuẩn bị ban đầu đã tính sót một phần, liền vội gọi Liêu quản sự lại, chum tay căn dặn khẽ thêm mấy câu.

**********************************

Trên Thái Hồ, non xanh nước biếc, phong cảnh hoàn toàn tự nhiên. Cảnh sơn thủy này dung hoà vẻ u nhã thanh tú cùng sự bao la hùng vĩ. Nước biếc bao la, khói sông bát ngát, núi non ẩn hiện, muôn hình vạn trạng.

Bốn người Dương Lăng, Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và Trương thiên sư hoá trang thành thư sinh ngoạn cảnh hồ. Trương Phù Bảo cũng thay một bộ quần áo thị nữ nhỏ nhắn, tóc bới ba búi, theo sau với dáng vẻ lanh lợi hoạt bát.

Tướng mạo nàng vốn đã vô cùng xinh xắn dễ thương, nay đổi mặc trang phụ nữ nhi, vẻ mặt thanh tú vui buồn đều đẹp ấy liền trông như tranh vẽ. Ngay cả Ngô Tế Uyên mấy ngày qua quen nhìn nàng vận trang phục đạo sỹ cũng sáng rỡ hai mắt.

Trịnh bách hộ mang theo bốn tay nha sai giả trang làm gia đinh, trong ngực thủ sẵn dao nhọn, trên vai gánh hộp đồ ăn, cảnh giác quan sát chung quanh. Thỉnh thoảng có nha sai cải trang làm du khách hoặc thuyền phu lặng lẽ đưa tay làm vài động tác, ra hiệu không có gì khả nghi.

Lúc này đã là buổi chiều, mặt trời không còn khốc liệt nữa mà đã hơi ửng đỏ. Cỏ lau lay động theo gió, bóng cỏ múa lượn đong đưa. Thi thoảng có cơn gió mát rượi thổi qua mặt hồ mang theo mùi vị tươi mát sảng khoái lùa phớt qua khuôn mặt âm ấm do ngà ngà men rượu của đám người Dương Lăng, khiến cho bọn họ cảm thấy toàn thân thư thái.

Đám nha sai do Trịnh bách hộ phái đến trước đã cải trang phân tán rải rác gần hồ chuẩn bị thuyền hái ấu. Tuy trên hồ có vài du khách, nhưng cũng đều là hai ba người chèo một con thuyền nhỏ, cử chỉ tiêu dao tự tại, nhìn không ra bộ dáng khả nghi nào.

Lúc này đang là mùa ấu nổi rộ, phía trước là mấy khoảnh sen, lá sen xanh biếc bát ngát bao trùm, thỉnh thoảng thấp thoáng những cánh sen trắng nõn hoặc phấn hồng và những củ ấu đã trưởng thành. Lá sen xanh biếc không hề có chút dấu hiệu khô héo điêu tàn, sắc xanh tràn trề một mảng. Có những chiếc lá sen xanh biếc làm nền, những đoá sen gần như bị che khuất lại càng thêm phần xinh đẹp.

Ngô Tế Uyên dẫn đoàn người đến ngồi nghỉ chân dưới một mái đình nhỏ, cười nói:
- Đại nhân thích yên tĩnh du ngoạn hồ, cho nên thảo dân cũng không dám quá khoa trương. Thảo dân đã kêu Liêu quản sự an bài vài chiếc thuyền lá* nhỏ. Hôm nay chúng ta chèo thuyền hái ấu, dập dờn trong sóng biển sen này một lát, đợi trở về bờ, chúng ta sẽ lại lột ít ấu tươi, nhắm rượu thoả thích một phen. Đại nhân thấy thế nào?
(*: thuyền thon hình chiếc lá)

Trong đám người này Dương Lăng có thân phận và địa vị cao nhất, đương nhiên trên mâm tiệc mọi người không ngừng kính rượu với y, cho nên mặc dù năm lần bảy lượt thoái thác, y vẫn phải uống đến gần say, ngực cũng hơi tưng tức, buồn nôn. Vừa nghe lên bờ rồi còn phải uống tiếp nữa, y không khỏi cười khổ sở không thôi.

Những khóm sen nơi đây mọc lan tới cả sát bờ. Trên bờ trồng một hàng cây dương liễu, hơn chục chiếc thuyền nho nhỏ được buộc vào đó. Liêu quản sự đã dẫn vài người đứng dưới gốc cây, thấy mấy vị đại nhân đã đến, hắn liền sai người tháo dây thừng buộc thuyền ra.

Ngay lúc này, từ trên hồ bỗng cất lên một giọng ca trong trẻo ngọt ngào, hát rằng:
- Đào hoa hồng lai dương liễu thanh,
Thanh thủy đường lý chủng hồng lăng,
Muội chủng hồng lăng ca chủng ngẫu,
Hồng lăng khiên đáo ngẫu ti căn.

Tạm dịch: Hoa đào đỏ cho liễu thêm xanh, trong ao nước biếc trồng ấu đỏ, em trồng ấu đỏ anh trồng sen, ấu đỏ nối gốc với sen anh.

Tiếng hát ngọt ngào đắm say lòng người, ca từ trong sáng tao nhã, mấy người Dương Lăng nghe xong bất giác đưa mắt nhìn ra hồ, thấy một chiếc thuyền hoa (thuyền trang hoàng rực rỡ để đón đưa du khách) đang lắc lư tiến về phía bờ bên này. Ở đầu thuyền là một người con gái thướt tha áo đỏ váy đỏ, thắt đai lưng màu hồng phấn, cặp chân trần trắng muốt như tuyết, đang vừa múa vừa hát.

Ở đuôi thuyền, thuyền phu đã ngưng chèo, đầu thuyền rẽ biển sen đỏ lá xanh như cắt ngang một tấm gương, khoan thai rẽ sóng vào bờ. Từ trong khoang thuyền, một thư sinh trẻ tuổi mặc áo chẽn xanh nhạt tay cầm chén rượu lảo đảo bước ra, cười nói với thiếu nữ áo đỏ :
- Bài hát thật hay, quả hợp để uống rượu. Chỉ là không biết Liên Nhi cô nương nối tình ấu đỏ là cho vị công tử nào vậy nhỉ?

Người thiếu nữ xinh đẹp áo đỏ như lửa cười khúc khích, giơ tay ném một hạt sen qua chàng công tử, cất giọng thân mật:
- Đương nhiên là Từ công tử chàng rồi, còn có thể là người nào chứ?

Khuôn mặt của vị công tử đã đỏ bừng, rõ ràng y đã say túy lúy. Nghe nàng nói xong y cất tiếng cười to, mắt lờ đờ ngoái đầu vào trong khoang thuyền bảo:
- Xem Liên Nhi cô nương thực biết nói nhiều câu hay. Có điều đã mở miệng hứa với ta, sao đêm qua ngủ trên giường hoa của nàng lại là Tử Úy huynh thế?

Vốn Cao Văn Tâm nghe giọng hát nọ rất lấy làm thích, nhưng nghe đoạn đối đáp này của bọn họ, nàng biết là mấy thư sinh phong lưu đang mời kỹ nữ thanh lâu du ngoạn trên hồ, không khỏi hơi nhíu mày, mặt lộ vẻ chán ghét.

Lúc này trong khoang lại có một người mặc áo xanh bước ra, tay cầm một chiếc quạt, tuổi độ bốn mươi. Trên nước da trắng trẻo đã lờ mờ có nếp nhăn, mặt ông tuy tươi cười, nhưng dường như từ trong nội tâm vẫn toát ra ngoài một dáng vẻ cô độc.

Ông cười phóng đãng hỏi:
- Sao thế, Xương Cốc mới ngủ với Linh Lung Nhi chưa được một tháng mà đã có ý với Liên Nhi của ta rồi sao?

Thiếu nữ áo đỏ tên gọi Liên Nhi chợt xoay eo thon, nhẹ nhàng lách khỏi bên thư sinh áo xanh nhạt rồi như én về rừng sà vào lòng thư sinh áo xanh, cười ngọt ngào:
- Nói đúng đó, Từ công tử thật không có lương tâm, uổng cho Linh Lung muội muội của thiếp nặng tình với y. Xem khi về thiếp mà không tố cáo y với Linh Lung mới lạ đó...

Thư sinh áo xanh ôm lấy eo nàng ta cười lớn. Lúc quay đầu nhìn lên bờ, vừa trông thấy Cao Văn Tâm, mặt thư sinh nọ chợt ngẩn ngơ. Ánh mắt của vị thư sinh áo xanh tuổi trạc tứ tuần này mờ mịt vì men rượu, nhưng khi ông nhìn kỹ người khác lại vẫn hết sức có thần.

Ánh mắt ông nhìn chằm chằm vào Cao Văn Tâm đang đứng trong đình, quan sát từ trên xuống dưới mấy lượt, trên mặt liền lộ vẻ thích thú, tán tụng:
- Đã lâu chưa từng gặp được cô gái có khí chất u nhã hơn người như vậy. Úi chà, còn là một thị nữ sao? Phủ Tô Châu này người nào lại dùng được thiếu nữ như vậy làm tỳ nữ thế nhỉ?

Ông đập quạt vào tay liên tục, mặt đầy vẻ tiếc hận, thiếu điều sắp đấm ngực giậm chân kêu gào một phen.

Trong khoang nghe tiếng khen ngợi, lập tức lại có hai thư sinh nhào ra. Đi đầu là một người râu ria xồm xoàm, mặc một trường bào màu xanh, chòm râu đen đúa dài chấm ngực, tay y cầm một chén rượu lớn, đủ để so với một chiếc bát con.

Hai người nhìn thấy Cao Văn Tâm, hai mắt lập tức sáng rỡ, thay nhau nói:
- Tử Úy có pháp nhãn, người được khen tất phải bất phàm. Úi chà, quả nhiên đoan trang xinh đẹp, có ý vị khác, đáng để cạn một chén to.

Cao Văn Tâm nghe bọn họ bình phẩm mình từ đầu tới chân, đôi mày lớn không khỏi cau lại. Nếu không vì trước mặt có tới mấy nhân vật có uy tín và danh tiếng, thân là tỳ nữ mà tùy tiện mở miệng sẽ làm mất mặt Dương Lăng thì nàng đã sớm phát tác với mấy thư sinh này rồi.

Ngô Tế Uyên thấy sắc mặt nàng không vui, trong lòng liền trở nên thận trọng. Khi nãy tại tiệm ăn chay Hàn Sơn lão đã tận mắt thấy khâm sai đại nhân cưng chìu nàng như thế nào. Ngô Tế Uyên không sợ nữ tỹ xinh đẹp này không vui mà sợ bọn họ chọc ghẹo khiến khâm sai đại nhân nổi giận. Lão liền vội bước lên một bước quát lớn:
- Hi Triết vô lễ! Không được ăn nói quàng xiên.

Thấy lão gọi thẳng tên tự người đó, xem ra đôi bên đã từng quen biết. Người râu rậm nghe thấy có người gọi mình, liền vội đưa tay lên che trán nheo mắt nhìn kỹ đối phương, đoạn khoái trá cười lớn:
- Hóa ra trước mặt là Ngô ông! Vậy thì tốt rồi, vậy thì tốt rồi! Trưng Trọng, mau lấy hộp tranh của huynh ra, ta muốn vẽ người con gái này, Ngô ông nhất định phải cho phép vãn sinh đấy nhé. Cùng lắm ta về tặng ông một bức tranh sơn thủy là xong.

Ngô Tế Uyên xấu hổ nói với Dương Lăng:
- A hèm... Dương đại nhân! Mấy vị đó là tứ đại tài tử của đất Ngô Trung, ngày thường quen thói phóng đãng, mong đại nhân chớ trách. Vị vận áo xanh tên là Đường Bá Hổ (*), thường ngày buôn tranh bán chữ để mưu sinh. Người này giỏi nhất là vẽ tranh mỹ nữ, có điều tầm mắt rất cao, thường luôn nuối tiếc không có nhân vật đáng để y đặt bút. Cho nên hôm nay trông thấy thị nữ của đại nhân phong tư xuất chúng, hắn nhất thời vui quá nên mới thất lễ, để thảo dân đuổi bọn họ đi là được.
(*) Xem thêm http://home.thuhoavn.com/?p=671
Ba_Van: Có lẽ tác giả nhầm; kẻ rau rậm tỏ ý muốn vẽ tranh là Chúc Chi Sơn chứ nhỉ!


Dương Lăng vừa nghe ba chữ Đường Bá Hổ, toàn thân không khỏi chấn động. Đường Bá Hổ! Nhân vật thanh danh hiển hách này không ngờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt y, Dương Lăng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nghe Ngô Tế Uyên muốn đuổi bọn họ đi, y liền vội kéo lại, vui vẻ bảo:
- Không sao, không sao! Ngô tiên sinh mau mời... mời mấy người bọn họ lên đây. Dương mỗ nghe danh tứ đại tài tử Giang Nam đã lâu, hôm nay được gặp mặt thật là có phước. Nếu đuổi bọn họ đi như vậy, thật sẽ tiếc lắm.

Ngô Tế Uyên không ngờ Dương Lăng cũng đã nghe danh của bốn tài tử Ngô Trung, nghe y tán thưởng như vậy, bản thân là người đồng hương, lão cũng có chút vẻ vang lây, bèn vội cao hứng gọi Liêu quản sự cho mời bốn người Đường Bá Hổ lên.

Bốn vị tài tử này bước vào đình, ra mắt Ngô Tế Uyên trước. Trong bốn người thì Chúc Chi Sơn lớn tuổi nhất, gia cảnh cũng giàu có nhất, qua lại với Ngô phủ rất thân mật, cho nên thoải mái nhất, đi tới chỉ cười hì hì làm lễ một cái, vẫn nâng chén rượu to đùng của y uống không ngừng. Văn Trưng Minh và Từ Trinh Khanh thì tương đối câu nệ hơn.

Dương Lăng quan sát kỹ bốn đại tài tử nổi tiếng gần xa này, nhận thấy Đường Bá Hổ mà y muốn kết giao nhất, khi nãy mặc dù vui quá mà không câu nệ hành vi và thái độ, nhưng sau khi bước vào đình, vừa nghe nói thị nữ đó không phải tỳ nữ của Ngô phủ mà là của vị công tử sang trọng mà ngay cả Ngô Tế Uyên cũng phải cung kính lễ độ, vẻ mặt ông liền lập tức trở nên cẩn trọng. Thần thái đó thật sự không giống với Giang Nam đệ nhất tài tử phong lưu phóng đãng như trong tưởng tượng của y, khiến Dương Lăng vốn mong được gặp "phong thái Đường Giải Nguyên"(1) một lần bèn cảm thấy thất vọng không ít.

Y không biết vị Đường Bá Hổ này trong truyền thuyết dân gian tuy là nhân vật phong lưu phóng đãng, không câu nệ lễ pháp, nhưng thật ra trong số tứ đại tài tử thì Đường Bá Hổ là người có số phận long đong nhất, cuộc sống vô cùng nghèo khổ. Trong lòng ông tuy ngông cuồng cao ngạo, căm ghét thế tục, nhưng do cuộc sống bức bách nên vẫn phải thường xuyên cúi đầu với người ta, nào còn phóng túng gì nổi chứ?

Vị Đường Giải Nguyên mười sáu tuổi đỗ tú tài, vừa vặn cùng độ tuổi mà Dương Lăng đỗ tú tài, nhưng vận mệnh lại kém xa. Mười chín tuổi ông cưới vợ là Từ Thị, trong nhà mở một quán rượu, sinh hoạt cũng thoải mái.

Thế nhưng về sau tai họa lại theo nhau ập đến. Đầu tiên phụ thân y trúng gió qua đời, mẫu thân vì quá đau buồn nên cũng ra đi theo, không lâu sau em gái lại chết ở nhà chồng. Tiếp đó vợ ông sau khi sinh xong thì sốt cao, vì bệnh mà qua đời, con trai ra đời được gần ba ngày thì cũng theo mẹ mà đi.

Liên tục gặp đả kích như thế, dưới sự giúp đỡ của những bạn bè tốt khó khăn lắm Đường Bá Hổ mới gắng gượng vui sống trở lại, cưới vợ mới là Hà Thị, lao tâm đọc sách. Nhưng khi ông vào kinh thi cử lại bị người ta vu cáo tội đút lót chủ khảo, bị đày vào đại lao. Tuy về sau được thả vì không tra được chứng cứ, song ông lại bị buộc cả đời không được làm quan.

Vị đại tài tử đa tài đa nghệ này dường như chịu phải lời nguyền của thần vận mệnh, gặp đả kích liên miên khiến ông cửa nát nhà tan, nghèo túng thất vọng, người vợ cũng chê nghèo mà bỏ đi, người em thì lại chạy ra ở riêng chỗ khác.

Đường Bá Hổ tán gia bại sản, thân không của nả, lang thang khắp nơi. Đến thời điểm này ông mới trở về Tô Châu được chưa đầy hai năm, cuộc sống mới vừa có chút khởi sắc. Ông tái giá với một kỹ nữ thanh lâu tên Thẩm Cửu Nương, mưu sinh bằng cách buôn tranh bán chữ.

Dương Lăng nghe ông nói muốn vẽ tranh cho Cao Văn Tâm, không khỏi vui mừng hết đỗi. Y nghĩ, được Đường Bá Hổ vẽ tranh cho là vinh hạnh tới dường nào, nên lập tức không ngần ngại mà đồng ý ngay.

Vốn Đường Bá Hổ thấp thỏm lo lắng y sẽ không chịu đáp ứng, lúc này thấy y gật đầu Đường Bá Hổ cũng lộ rõ vẻ vui sướng trên mặt. Sợ Dương Lăng đổi ý, ông liền vội vui vẻ gọi Văn Trưng Minh mang hộp vẽ tới, rồi lập tức trải sạp để vẽ cho Cao Văn Tâm.

Cao Văn Tâm thấy bọn họ cùng đi chơi kỹ nữ, trong lòng vốn đã không có hảo cảm, giờ lại bảo nàng đứng yên ở đó để người ta vẽ. Trong mắt người con gái xuất thân là tiểu thư khuê các này, việc đó tuyệt không phải là việc vinh dự gì, thế nên trong thâm tâm nàng cực kỳ không bằng lòng.

Dương Lăng thấy thần sắc nàng không vui, bèn bước đến gần nói nhỏ:
- Văn Tâm, chỉ là để người ta vẽ dung mạo thôi, có gì không vui vậy? Tranh vẽ của vị Đường công tử này rất là nổi tiếng đó. Hôm trước tôi đã có được thư pháp của Giang Nam đệ nhất danh kỹ, hôm nay nếu có thể có được tranh vẽ của đệ nhất tài tử Giang Nam này, tương lai sẽ có thể làm báu vật gia truyền. Dung mạo khí chất của cô, vạn người không có lấy một, đành phiền cô chịu khó đứng yên trong chốc lát để ông ta vẽ tranh. Nhiều năm sau lấy ra xem lại, sẽ có ý vị khác đó.

Y nói lời này tự đáy lòng, nhưng Cao Văn Tâm lại hiểu lầm thành ý khác. Nghe y nói muốn đem tranh vẽ mình làm báu vật gia truyền, để lại cho con cháu đời sau, cái ẩn ý đó... Vừa nghĩ đến đây, con tim nàng liền nhảy thình thịch như trống trận, thế là nàng vui vẻ đồng ý ngay.

Chúc Chi Sơn chỉ biết đứng ở một bên vuốt râu uống rượu. Hành động của vị tài tử luôn đóng vai nhân vật gây cười trong những truyền thuyết về Đường Bá Hổ trông cũng hết sức bình thường, không hề có vẻ gì điên điên khùng khùng cả.

Có điều tửu lượng của hắn thật sự kinh người, ban đầu còn thỉnh thoảng gọi thuyền phu lên thuyền rót thêm rượu cho, sau cùng cứ thế mà bê cả vò rượu lên, ngồi bên thành lan can tự rót tự uống.

Đường Bá Hổ đã sớm trải sạp ra, bắt đầu chăm chú vẽ chân dung Cao Văn Tâm. Văn Trưng Minh, Từ Trinh Khanh và nhóm người Dương Lăng cùng Mạc Thanh Hà cũng đều đứng sau lưng ông hiếu kỳ theo dõi. Trương Phù Bảo lại chê chán, kéo anh nàng cùng ra bờ sông chơi.

Bên này Đường Bá Hổ vừa mới phác thảo vài nét, Chúc Chi Sơn chợt như nghĩ đến điều gì, đột nhiên bỏ chén rượu, nhảy xuống thành lan can la lên quái gở:
- Hỏng rồi, hỏng rồi! Sao ta lại cũng tham dự theo chứ nhỉ? “Thập mỹ đồ” đó thật sự sắp hoàn thành rồi!
Rồi hắn giậm chân la lên:
- Ba trăm lạng ơi là ba trăm lạng! Tính sai rồi! Tính sai rồi! Lần này lão Chúc ta phải đền tiền rồi.

Đường Bá Hổ chỉ ngẩng đầu cười lớn một tiếng rồi lại cúi đầu tiếp tục vẽ tranh, vẻ mặt hơi đắc ý. Dương Lăng phảng phất nhớ dường như có cái "Cửu mỹ đồ"(2) gì đó liên quan đến Đường Bá Hổ, không khỏi lấy làm tò mò hỏi:
- "Thập mỹ đồ” gì vậy?

Văn Trưng Minh cười lớn:
- Hôm nay du ngoạn trên hồ là ý tưởng của lão Chúc. Chuyến đi du ngoạn hồ này hao mất ba trăm lạng, y thật sự đã tính sai rồi.

Thấy thân phận Dương Lăng dường như cực kỳ cao quý, nhưng tính tình ôn hoà, không hề có phong thái cao kỳ của con cháu thế gia quyền quý, hắn bèn cười cười giải thích:
- Dương công tử! Hi Triết huynh và Tử Uý huynh đã đánh cuộc, chỉ cần trong vòng một năm Tử Uý huynh có thể vẽ được mười bức tranh mỹ nữ, hơn nữa phải là mỹ nữ mà bốn người chúng ta đều công nhận, thì Hi Triết huynh sẽ thua Tử Uý huynh ba trăm lạng bạc.
Chỉ là mười mỹ nữ này thực khó kiếm à nha! Chùa Huyền Diệu ở Tô Châu có nhiều thiếu nữ tới lui nhất, Đường huynh thường hay đến nơi đó ngồi canh chừng, nhìn thấy tuyệt sắc giai nhân chân chính nào liền ghi nhớ kỹ trong lòng, sau đó vẽ lại. Nhưng mà tin tức này dần dần bị tiết lộ, nhà ai có nữ quyến định đến chùa dâng hương đều sai người đuổi vị đại tài tử này đi trước.
Kết quả là sau bảy tháng đầu tiên, Tử Uý huynh đã có thể vẽ được chín mỹ nữ, nhưng người thứ mười lại tìm mãi không thấy. Chúng tôi cứ tưởng rằng lần này Tử Uý huynh sẽ thua rồi, nào ngờ hôm nay lại có duyên gặp được vị cô nương của quý phủ đây. Ha ha, đây cũng xem như là ý trời, muốn Hi Triết huynh đưa bạc cho Tử Uý huynh tiêu dùng.

Dương Lăng nghe vậy cũng cảm thấy mắc cười, thì ra đám tài tử này cũng giống như những người bình thường khác, lúc ăn không ngồi rồi cũng lấy mỹ nữ ra làm đề tài câu chuyện, không ngờ còn dùng nó để đánh cuộc.

Y ngồi xổm bên cạnh Đường Bá Hổ, thấy bút pháp tuyệt diệu của ông hất lên móc xuống, bức tranh trong tay đã vẽ được sáu phần, tuy mắt mũi ngũ quan vẫn mới chỉ được hoạ phác đơn giản, vẫn cần phải chấm phá thêm, nhân vật cũng hãy còn chưa tô màu, nhưng một mỹ nữ sinh động như thật đã dần hiện ra trên trang giấy. Thấy vậy y không khỏi ngợi khen:
- Nhân vật của Đường huynh vẽ quả nhiên giống như đúc, bút lực quả thực bất phàm.

Đang vẽ say sưa, Đường Bá Hổ nghe vậy mặt liền tươi rói, đáp:
- Dương công tử quá khen! Mỹ nữ tập trung thiên địa linh khí, bản thân đã là một bức tranh sáng đẹp tuyệt luân, tại hạ chẳng qua chỉ lấy bút trong tay vẽ một phần vạn nét phong tình của họ mà thôi. Cái tĩnh của mỹ nữ thì thanh nhã u khiết, còn cái động của mỹ nữ lại bay bổng như hạc. Mái tóc, chân mày, cặp mắt, đôi môi, làn da, cần cổ, tấm eo, đôi chân, không chỗ nào không thể vẽ nên tranh. Vẻ đẹp ấy có thể họa vào thơ, có thể nhập vào trong tranh vẽ, có thể hoà vào rượu, còn có thể bước vào mộng nữa thay.

Dương Lăng không ngờ vị đại tài tử này nói đến mỹ nữ lại cũng có bài bản như vậy. Văn Trưng Minh cũng là cao thủ về hội hoạ, có nhận thức bất phàm về hội hoạ nên có thể lý giải được cái ý trong lời Đường Bá Hổ, vả lại hắn cũng cực kỳ sùng bái kỹ xảo vẽ chân dung của Đường Bá Hổ.

Lúc này thấy Dương Lăng tràn đầy thích thú, trong lòng hắn có cảm giác như gặp người đồng đạo, liền hào hứng nói với Dương Lăng:
- Dương công tử hãy đợi một chút, trên thuyền hoa có một bức tranh tuyệt diệu mà Tử Uý mới vẽ đêm qua, để tôi lấy cho công tử xem!

Đường Bá Hổ phong lưu phóng khoáng. Tuy ông đã cưới người bạn thân thiết chốn khuê phòng của Liên Nhi cô nương là Thẩm Cửu Nương làm vợ, nhưng vẫn thường lưu luyến chốn thanh lâu. Những cô nương này cũng mến tài nghệ của ông nên cũng chưa từng đòi tiền qua đêm, vị Liên Nhi cô nương này cũng là một người ái mộ ông.

Nàng mắt to môi đỏ, da trắng như mỡ, cũng là một mỹ nhân, tuy nhiên hôm nay Đường Bá Hổ vừa thấy Cao Văn Tâm liền miệng khen không ngớt, Liên Nhi tự thấy tư sắc thua người nên vẫn luôn đứng một bên, trề môi vẻ không vui lắm. Bây giờ nghe Văn Trưng Minh nói muốn lấy bức vẽ đêm qua, tuy tức giận, nhưng nàng vẫn không nén khỏi đỏ mặt, hung hăng trừng mắt với hắn, dường như có chút ngượng ngùng.

Văn Trưng Minh hấp tấp chạy về thuyền hoa lấy một cuộn tranh. Hắn trở vào trong đình, mới vừa giở cuộn tranh vẽ ra một nửa, một cơn gió lùa tới suýt nữa thổi rách bức vẽ. Văn Trưng Minh liền kéo Đường Bá Hổ nói:
- Tử Uý huynh ngừng một chút đi! Để Dương công tử kiến thức bức tranh phong nguyệt mà huynh vẽ ngày hôm qua một chút.

Văn Trưng Minh nói xong, liền đoạt lấy bàn vẽ trong tay Đường Bá Hổ, giở cuộn tranh trong tay ra đặt lên trên. Dương Lăng vừa nhìn thì thấy bức tranh đó tịnh không phải là tranh đen trắng, mà dùng thuốc màu sơn lên. Trong tranh vẽ một mỹ nữ khỏa thân dáng vóc nẩy nở rung động lòng người, người con gái đó nửa quỳ trên chiếc giường nhỏ, một dải lụa đỏ vắt ngang eo, một tay che chỗ xấu hổ, eo thon hơi trũng xuống, cặp mắt yêu kiều ngoái nhìn ra sau, trong nét mặt đó có thể lờ mờ nhìn ra người thiếu nữ chính là vị Liên Nhi cô nương nọ.

Phía sau là một nam tử đang nằm chồm sấp trên mông nàng trong trạng thái giao hợp, cạnh bên có lưu hai hàng chữ như rồng bay phượng múa: "Bán liêm thanh phong, nhất tháp minh nguyệt, bán tự hàm tu bán thôi thoát, hồi đầu đinh ninh khinh ta cá, bất tỉ tầm thường lãng phong nguyệt"*. Không ngờ bức tranh này lại là một xuân cung đồ kiều diễm mê người.
(* Tạm dịch: nửa mành gió mát, một mảnh trăng thanh, nửa như e ấp nửa như khước từ, ngoảnh đầu dặn nhẹ cho em, không như cảnh sắc gió trăng tầm thường)

Dương Lăng chưa từng nghe nói đại tài tử Đường Bá Hổ vẽ tranh xuân cung, y ngẩn người nhìn chằm chằm vào bức tranh, vừa chỉ tay vào vừa lắp bắp hỏi:
- Đây... đây là của Đường huynh vẽ sao?

Văn Trưng Minh cười đáp:
- Đúng vậy! Nét vẽ tinh tế tỉ mỉ, nhân vật sinh động có thần, tranh xuân cung mà Đường huynh vẽ không dưới trăm bức, song đây là bức vẽ mà tại hạ thích nhất, nên đã xin y. Tại hạ và Dương công tử tuy vừa gặp mặt nhưng như đã quen lâu, nếu như công tử thích, tại hạ xin tặng cho công tử, không biết công tử thấy thế nào?

Dương Lăng cười gượng:
- Ơ... Đệ nhất tài tử Giang Nam cũng vẽ loại tranh này sao? Ha ha, đúng là nằm ngoài dự liệu của tại hạ.

Từ Trinh Khanh cười nói:
- Nghe khẩu âm của công tử, đoán là người đến từ phương Bắc nên không biết tập tục phương Nam. Vẽ tranh này cũng không có gì cả, thật ra rất nhiều tiểu thư khuê các cũng sao đi vẽ lại tranh xuân cung này đấy. Có điều những bức được chính tay Tử Uý huynh vẽ ra đều có thể gọi là trân phẩm, khắp phố phường đều tranh giành đấy!

Đường Bá Hổ dường như cũng rất là hài lòng với bức tranh này, ông lấy bản vẽ lại, xoa nhẹ lên bức tranh cười nói:
- Nào chỉ ở phương Nam, cho dù vùng phụ cận kinh sư cũng học theo tập tục này đấy chứ. Đa số nữ tử khéo tay của Thiên Tân vệ đều tinh thông môn này, chẳng những thường ngày vẽ tranh, mỗi khi đến cuối năm còn vẽ tranh xuân cung đem ra chợ bán, bản địa gọi họ là "Nữ nhi xuân". Dương công tử đến từ phương Bắc, chẳng lẽ không biết chuyện này ư?

Cao Văn Tâm ngồi nghiêng trên lan can mái đình, nhìn chăm chăm vào khói sông trên Thái Hồ theo sự hướng dẫn của Đường Bá Hổ để cho ông ta vẽ. Nàng đã ngồi yên một hồi lâu nên cảm thấy vai và cổ hơi mỏi, vừa quay đầu cho mau huyết lưu thông đột nhiên nhìn thấy Dương Lăng và mấy thư sinh đang chỉ chỉ trỏ trỏ vào bức tranh, thậm chí Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà cũng đang đứng sau đám người kiễng chân lên xem.

Nàng tưởng bức chân dung đã vẽ xong rồi nên mừng rỡ đứng dậy, đi lại gần mọi người, vui vẻ hỏi:
- Đường công tử đã vẽ xong rồi à?

Cao Văn Tâm vừa hỏi vừa cúi đầu nhìn bức tranh, mặc dù nhìn ngược xuống, nhưng tổng thể bức tranh vẽ gì nàng vừa liếc mắt liền nhận ra ngay. Khuôn mặt xinh xắn của nàng liền thoáng trắng bệch, mặt cắt không còn giọt máu, liền tiếp đó lại đột nhiên đỏ bừng, cả người cũng phát run lên.

Nàng vạn lần không ngờ kẻ này lại dùng tướng mạo của nàng để vẽ ra một bức tranh sỉ nhục như vậy. Cao Văn Tâm giận đến choáng váng mặt mày, không chút nghĩ ngợi nàng vung tay tát bốp một bạt tai vào mặt Đường Bá Hổ, giận dữ mắng:
- Đồ vô sỉ!

Cao Văn Tâm mắng xong, hai hàng lệ đã không nén được mà trào ra. Điều khiến cho nàng đau lòng khôn xiết chính là: Dương Lăng chẳng những không nổi giận, mà không ngờ... không ngờ cũng hùa với người ngoài chỉ chỉ trỏ trỏ lên bức tranh. Nếu như y thật sự thích mình, xem mình như nữ nhân của y, sao y lại có thể đối xử với mình như vậy, mặc cho mình bị người ta khinh thị?

Nghĩ đến đây, Cao Văn Tâm đau lòng như cắt. Hai tay ôm mặt, nàng xoay người lao về phía bờ hồ.







Chú thích:

(1) vì Đường Bá Hổ đỗ giải Nguyên (đỗ đầu trong kỳ thi Hương) nên được gọi là Đường "Giải Nguyên"

(2) "Cửu mỹ đồ" kể về chuyện tình giữa Đường Bá Hổ và Thu Hương

Chương 129: Oan Gia Cưỡi Sóng Tới
------------------------

Ai nói phụ nữ "chân yếu tay mềm"? Cú tát của Cao Văn Tâm vừa giáng xuống tức thì má trái của Đường Bá Hổ lập tức "nở hoa". Đã bị người ta đánh còn bị mắng là bỉ ổi, đệ nhất tài tử Giang Nam phong lưu đa trí như ông cũng bị đòn đến sững người.

Dương Lăng trông thấy bộ dạng của ông ta như vậy, không khỏi thầm kêu may mắn trong lòng: may mà chỗ ngày đó Văn Tâm đánh chỉ là cái mông của mình, chứ nếu mặt mình bị ăn cái tát như vậy thì e rằng suốt ba ngày cũng đừng hòng gặp ai!

Điều Cao Văn Tâm đau lòng nhất chính là không ngờ nàng bị chính người nàng luôn quan tâm trong tâm tưởng đã quá khinh rẻ và sỉ nhục nàng đến thế. Lệ tuôn đầy mặt, nàng lao về phía bờ hồ, chỉ muốn trầm mình vào dòng khói sóng mênh mông cho kết thúc mọi chuyện từ đây.

Những thuyền phu đang kéo thuyền bên bờ hồ có một nửa là nha sai nội xưởng hoá trang. Vừa thấy người tỳ nữ luôn như hình với bóng với xưởng đốc đại nhân ôm mặt chạy tới, còn Dương khâm sai vừa đuổi theo vừa kêu to cứu người, lập tức có hai gã tráng niên cải trang thành ngư phủ sóng vai bước tới trước cản Văn Tâm lại, cười nói:
- Cô nương, xin dừng bước!

Cao Văn Tâm quát:
- Tránh ra cho ta!
Vừa quát vừa đưa tay đẩy. Tay còn chưa chạm ngực hai nha sai đó, eo thon chợt bị siết chặt, cả người đã bị nhấc bổng lên.

Cao Văn Tâm vừa sợ vừa giận, vùng vẫy kêu la:
- Thả ta ra, ngươi thả ta ra!

Ngoái đầu trông thấy chính Dương Lăng đang ôm eo mình nhấc bổng lên, lập tức hành động vùng vằng của nàng tức thì yếu đi vài phần, hai chân vốn đang dãy đạp về phía sau cũng buông lỏng xuống.

Thừa thế Dương Lăng bước thêm vài bước vòng ra sau một gốc liễu xù xì thấp bé đoạn đặt Cao Văn Tâm xuống, nói vội:
- Đại tiểu thư của tôi ơi! Cô gây náo loạn quá chừng rồi! Đã hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi!

Đám người Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và tứ đại tài tử đang đứng ở trong đình nhìn về phía cây liễu trông thấy mỹ nhân đáo để nọ chợt ló đầu ra dường như muốn bỏ chạy đi, ngay lúc đó hai cánh tay đột nhiên vươn ra, ôm lấy eo cô nàng kéo trở lại.

Sau đó, do gốc liễu che khuất tầm mắt nên cả bọn chỉ có thể nhìn thấy nửa bóng lưng của hai người. Họ thấy rõ phần bóng lưng của khâm sai Dương đại nhân - xưởng đốc Nội xưởng, thống lĩnh thân quân phụng chỉ tuần sát - thoạt khom thoạt thẳng như đang cúi người vái lạy, không ngừng xin tha thứ. Đám nha sai Nội xưởng thấy vậy, lòng chợt cảm thấy như bị kim chích, lập tức không hẹn mà cùng xoay người đi vờ như không thấy.

Vị tài tử râu dài họ Chúc cũng không uống rượu nữa. Hắn vuốt chòm râu dài, cố sức rướn cổ nhìn, chỉ thấy hai bóng người sau gốc cây ban đầu thì xô xô đẩy đẩy, tiếp đó càng lúc càng nhích gần lại nhau, cuối cùng trừ hai gót chân ra, cả bóng lưng cũng không nhìn thấy được nữa.

Bỗng một cơn gió thổi tới, hắn mới thấy một dải thắt lưng lụa tung bay sau gốc cây, áo choàng Dương Lăng khẽ lay động, bèn không khỏi đảo mắt nhướng mày, chớp mắt nói to:
- Đường Giải Nguyên mau lấy bút ra ! Lão Chúc thấy hình như sắp diễn xuân cung trực tiếp rồi.

Văn Trưng Minh huých khuỷ tay vào người y, mắng khẽ:
- Lo uống thứ rượu vàng quí hóa(*) của huynh đi. Ngô ông và khách quý của phủ ông ấy cũng đang ở đây đó.
(*):nguyên văn là “hoàng thang” (rượu vàng), cụm từ này được sử dụng với hàm ý chê trách người say sưa.

Từ Trinh Khanh cũng gượng cười nói:
- Vị tỳ nữ đó tuy không phải thiên kim thế gia vọng tộc nhưng xem ra cũng cực kỳ tự trọng tự ái. Lão Chúc hãy cẩn thận cái miệng, kẻo lại bị như Đường huynh...

Đường Bá Hổ nghe vậy bèn xoa cái má đang đau rát mà cười khổ một hồi. Xem ra mình đã ăn không cái tát này một cách oan uổng rồi, còn e rằng mấy bằng hữu to mồm không có lòng dạ này sẽ mang chuyện đi rêu rao khắp chốn một phen. Có điều bọn họ là người phóng đãng không chịu gò bó, tạm thời xảy ra một chuyện phong lưu ân ái cũng không thấy mất thể diện gì.

Dương Lăng vừa giải thích vừa dỗ dành. Hồi lâu, cũng không biết do chưa hết giận hay Cao Văn Tâm vẫn muốn được hưởng cảm giác dựa vào lòng y, bị Dương Lăng ôm chặt, nàng nép sát vào người y như một chú chim nhỏ, lại thút thít một hồi, rồi mới uất ức nói:
- Cho dù bọn họ và lão gia vừa gặp như đã quen lâu, cũng không có lý gì... đem tranh vẽ trộm rêu rao khắp nơi. Vị Liên Nhi cô nương đó xuất thân thanh lâu thì bọn họ sẽ phơi bày nàng ta với người khác một cách tuỳ tiện sao? Chỉ là ngang ngạnh phóng đãng thôi ư? Đó còn không phải là sỉ nhục người ta à? Con đường làm quan của bọn họ không thuận lợi nên mới vờ mượn tiếng phong lưu mà khinh nhờn thế tục, chung quy vẫn là khinh bạc, không giữ đức hạnh, không tuân thủ khuôn phép. Trong triều hiện đang có không biết bao nhiêu kẻ đang nhìn chòng chọc vào lão gia, muốn bươi móc tìm kiếm khuyết điểm của lão gia. Lão gia thật sự không nên kết giao thân thiết với bọn họ quá.

Lời Cao Văn Tâm nói rất có lý. Những hành vi phóng đãng của mấy tài tử này nếu đặt ở đời sau thì mọi người sẽ chỉ cảm thấy đó là sự phản kháng đối với lễ giáo phong kiến; ai nấy chỉ hăng say bàn về những chuyện phong lưu mà bọn họ mơ mộng, cho rằng ông trời ghen ghét bậc kỳ tài, khiến họ chịu phải cảnh bất công; mà không biết hành động sa ngã của bọn họ, tuy trong mắt người đương thời cũng tạo được những câu chuyện thú vị để mọi người say sưa bàn tán nhưng bọn họ cũng đã tự tuyệt hoạn lộ rồi: có đủ loại "kiến thức" này, làm sao còn có thể gặp mặt triều đình?

Nói trắng ra, hành vi của bọn họ là khoe mẽ, là hình ảnh không tao nhã. Mọi người có thể dùng nó làm đề tài chuyện trò trong những lúc trà dư tửu hậu, song không ai coi kiểu "minh tinh" này là rường cột của xã hội cả.

Tâm tình bị kích động lúc mới gặp tứ đại tài tử đã hơi bình phục, Dương Lăng đột nhiên tỉnh ngộ. Ví như mình si mê thanh danh đời sau của bọn họ mà đàng đúm cùng bọn họ, vậy há chẳng phải mình đang tạo cơ hội cho những kẻ đang nhìn mình chằm chằm như hổ đói muốn dồn mình vào chỗ chết sao?

Dương Lăng thở dài một hơi rồi nắm chặt cổ tay Văn Tâm, chân thành:
- Văn Tâm, cô nói đúng! Bất luận thế nào, với thân phận của tôi mà cùng bọn họ công khai thảo luận những thứ này như vậy thì quả là đã hơi khinh xuất mất rồi. Đến Giang Nam một khoảng thời gian, thoát khỏi những chuyện minh tranh ám đấu trong triều, tôi thật sự đã có hơi sơ ý rồi.

Cao Văn Tâm được y vừa dỗ dành vừa khuyên giải, biết rằng mình đã hiểu lầm, nộ khí trong lòng sớm đã tan đi, lại nghe y nói với giọng chân thành, ngược lại hơi cảm thấy áy náy trong lòng. Nàng đỏ mặt rụt tay về, mắng khẽ:
- Bị lão gia nắm đau quá đi! Tiểu tỳ đã không tính nhảy xuống hồ nữa, người còn kéo tiểu tỳ làm gì?

Dương Lăng bật cười ha hả, buông tay ra nói:
- Đi thôi, trở về thôi! Mấy người Mạc công công và Ngô tiên sinh nhất định đang lo lắng lắm đây.

Cao Văn Tâm cúi đầu, di di chiếc giày thêu trên mặt đất, ngượng nghịu:
- Tiểu... tiểu tỳ ngại lắm! Lão gia muốn du ngoạn hồ thì tiểu tỳ chờ lão gia ở đây là được rồi.

Dương Lăng cười nói:
- Loại thuyền nhỏ đó một chiếc chở được hai người. Hôm nay tôi chèo thuyền để cô rong chơi vui vẻ một ngày, có được không?

Cao Văn Tâm ngẩng đầu, mừng rỡ nhìn y, rồi lập tức chần chừ:
- Lão gia, tiểu tỳ chỉ là hạ nhân, lão gia... lão gia không cần phải khách sáo với tiểu tỳ như vậy.

Dương Lăng thở dài một hơi, đoạn cười trêu:
- Cao đại tiểu thư à, từ khi đón cô vào nhà đến giờ, cô nói xem, tôi có từng xem cô như tỳ nữ chưa? Còn dùng kiểu nói này với tôi nữa, cô sẽ tự thẹn với lòng thôi.

Khuôn mặt xinh xắn của Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng khẽ hé môi nhưng lại không nói được lời nào. Dương Lăng mỉm cười, xoay người đi về phía mái đình.

Dương Lăng cao đầu ưỡn ngực bước vào trong đình. Ngô Tế Uyên lật đật bước lên hỏi han:
- Đại... Dương công tử, à... Cao cô nương đã hết giận chưa?

Dương Lăng khoát tay, ra vẻ bất cần:
- Phụ nữ ấy mà, thật không hiểu ra sao cả! Bị tại hạ dạy dỗ cho một trận, giờ cô ta đã ngoan ngoãn hơn nhiều rồi.

Mạc Thanh Hà bật ho khan vài tiếng, cố nhịn cười, sau đó quay đầu đánh xoạt một cái về phía Thái Hồ, chắp hai tay sau lưng ra vẻ đang thưởng thức phong cảnh.

Dương Lăng vẫn không hay bộ dạng trốn sau gốc cây cúi đầu thi lễ của mình đã sớm bị người ta thu vào trong mắt, y quay sang Đường Bá Hổ cười áy náy:
- Đường huynh! Thật xin lỗi, tiểu đệ quản giáo không nghiêm, để tỳ nữ đó ra tay tổn thương Đường huynh, thật rất lấy làm hổ thẹn.

Đường Bá Hổ cười khan hai tiếng, đáp:
- Không sao không sao! Nếu không được tặng một cái tát này, Đường mỗ còn hòng thấy hình ảnh mê người như vậy được ư?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Hình ảnh gì? Đường huynh đã lại vẽ một bức tranh sao?

Đường Bá Hổ vội vàng nhoẻn cười đáp:
- Không dám không dám, không có không có, ờ... Có điều bức Thập mỹ đồ này, tại hạ đã có ý tưởng mới rồi, song cần phải chỉnh sửa một chút. E rằng khó có thể hoàn thành trong hôm nay...

Dương Lăng vội nói:
- Không vội không vội! Không biết Đường huynh vẽ tranh, một bức ra giá bao nhiêu? Huynh cứ việc về nhà vẽ, trở về tại hạ sẽ cho người đến lấy, ngân lượng văn tiền không thành vấn đề.

Đường Bá Hổ liền đáp:
- Dương công tử! Tuy bức tranh này mượn ý từ cô tỳ nữ của phủ công tử, nhưng nó lại là của tại hạ. Thập mỹ đồ này tại hạ quyết sẽ không bán lẻ, mong công tử lượng thứ.

Thời ấy còn chưa có bản quyền tranh chân dung, Đường Bá Hổ nói một cách đầy lý lẽ khiến Dương Lăng cũng không cảm thấy có gì không đúng. Y nghĩ tranh của Đường Bá Hổ giá trị liên thành, vậy nếu y muốn lấy cả bộ Thập mỹ đồ thì không biết phải tiêu tốn hết bao nhiêu bạc cho đủ? Nhưng y lại không muốn để bức tranh của Cao Văn Tâm bị kẻ khác mang đi.

Dương Lăng không khỏi do dự:
- Như vậy những bức Thập mỹ đồ này, không biết Đường huynh muốn giá bao nhiêu mới chịu bán ra?

Nhìn bộ dạng cung kính mà Ngô Tế Uyên đối đãi với y, Đường Bá Hổ đã sớm kết luận người này hẳn là công tử tôn quý rất có thân phận. Có thể khiến phú hộ số một Tô Châu kính cẩn nghe lời như vậy, nói không chừng y còn là hào phú kinh sư, cho nên ông nảy ý muốn kiếm chác một mớ. Đường Bá Hổ vừa chăm chú nhìn thần sắc của Dương Lăng, vừa ngập ngừng nói:
- Việc này à... Tập hợp Thập mỹ đồ rất ư không dễ, Đường mỗ cũng đã hao tốn gần một năm trời, cho nên giá bán ra so với bán lẻ từng bức tranh có đắt hơn một chút. Ít nhất cũng phải năm... năm...

Những bức mà Đường Bá Hổ dày công ra vẽ cùng lắm cũng chỉ rao giá hai mươi lạng. Mặc dầu Thập mỹ đồ khó kiếm, nhưng đòi đến năm trăm lạng thì bản thân ông cũng cảm thấy có phần quá cao rồi. Nhưng hiếm khi gặp phải một kẻ không tiếc bỏ tiền như thế này, nhìn Dương Lăng cưng yêu người tỳ nữ xinh đẹp nọ như vậy, khẳng định là một công tử phú gia thương hoa tiếc ngọc. Cơ hội này thật sự khó mà có được.

Ông vừa ngập ngừng đang muốn nói giá thì Ngô Tế Uyên nghe được, trong lòng đã sáng tỏ. Gần đây lão bị gã phú hộ mới nổi Lý Quý chèn ép kịch liệt, vậy mà Bố chánh sứ và tri phủ Tô Châu bình thường vẫn nhận của lão từng món bạc lớn ấy lại vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, nếu như lão có thể bấu víu vào cái gốc cây cao như Dương Lăng này, ai còn dám khi dễ Ngô phủ nữa chứ?

Nếu như Đường Bá Hổ ra giá thấp thì dù lão có mua tặng cho Dương Lăng cũng chẳng biểu lộ được lòng thành, thế là lão vội lật đật cướp lời:
- Năm ngàn lạng? Được, Đường Giải Nguyên hãy mau vẽ Thập mỹ đồ đi, ta sẽ lấy năm ngàn lạng bạc mua nó.

Nói xong lão cười nịnh với Dương Lăng:
- Đợi tôi nhận Thập mỹ đồ này rồi, sẽ cho người đem đến phủ tặng cho công tử.

Nghe vậy rất mừng rỡ, Đường Bá Hổ giơ bức tranh trong tay lên, nói:
- Được, vậy Đường mỗ sẽ tặng miễn phí bức “Nguyệt Dạ Hậu Đình Hoa”* này, đến lúc đó nhất định sẽ đưa đến quý phủ.
(*tạm dịch: Khúc nhạc Hậu Đình Hoa trong đêm trăng; Hậu Đình Hoa cũng là một vở kịch nổi tiếng, có nhiều phiên bản)

Dương Lăng nghe mà không biết nên khóc hay nên cười. Y gãi nhẹ mũi, ngắm bức tranh một lúc lâu rồi hỏi:
- Bức tranh này của Đường huynh là... Hậu Đình Hoa à? Ha ha, vị nhân huynh trong tranh che thật đến kín, thật sự là không nhìn thấy được gì.

Đường Bá Hổ vừa nghe Dương Lăng khơi ra khuyết điểm của bức tranh mình vẽ liền có phần nôn nóng, ông ra vẻ nghiêm túc nói:
- Vẽ là phải chú trọng đến cái đẹp của hàm súc, cái thần của ý cảnh. Công tử không thấy một tay của mỹ nhân che chỗ xấu hổ đó ư? “Có người ngư phu đến hỏi, Đào Nguyên giờ ở chốn nào?” Công tử còn chưa hiểu rõ ý sao?

Chúc Chi Sơn và hai người đàn ông háo sắc còn lại nhất tề đắc ý cười dâm, phụ họa:
- Chí phải, chí phải! Huống chi còn có câu này: “Quay đầu dặn nhẹ cho em, nào như trăng gió phong lưu bình thường...”, chính là kỹ thuật điểm mắt(1) đấy nhé!

Dương Lăng nghe vậy, trong lòng phát lạnh: "Đây là những đại tài tử của lòng mình à, thần tượng lớn đấy ư? Mấy người cũng... cũng thật... Khó trách sao mấy người không làm quan cho nổi, thì ra có bao nhiêu tài hoa mấy người đều dùng vào khía cạnh này hết cả rồi.”

***


Một mảng sen xanh bồng bềnh gợn sóng. Thấp thoáng gần xa, vài chiếc thuyền nhỏ đang chèo trong những khóm lá sen xanh biếc cao tới gối trên mặt nước mà nếu không đứng lên thì sẽ khó thấy được nhau.

Trịnh bách hộ và hơn hai mươi tay nha sai chèo trên những con thuyền nhỏ ra xa, bao quanh vùng này lại, đề phòng du khách xâm nhập. Huynh muội thiên sư một thuyền, Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên một thuyền còn Dương Lăng quả nhiên đã thực hiện lời hứa, tự chèo một chiếc thuyền nhỏ cùng Cao Văn Tâm dập dờn trong những con sóng sen liên miên bất tuyệt.

Cao Văn Tâm vui vẻ ngồi ở đầu thuyền, vốc nước hồ trong vắt rót lên những chiếc lá sen xanh ngát. Nước hồ chảy tràn, phần nước còn lại dần dần ngưng tụ lại thành những giọt nước nhỏ tròn trĩnh, xinh xinh. Thuyền trôi nhẹ về phía trước, những chiếc lá ấu rậm rạp gặp phải áp lực nước, tự động rẽ sang hai bên.

Từng đoá hoa ấu trắng tinh lung linh xinh xắn điểm xuyết giữa những bông sen đỏ lá xanh, trang nhã mà tươi mát. Cao Văn Tâm bươi gốc ấu ra, vui thích tìm từng trái ấu đỏ hồng, ngắt lấy bỏ lên váy, đã gom được hai vốc lớn.

Bỗng nhiên, một con cá lớn bị kinh động nhảy vọt lên khỏi mặt nước, vẽ thành một hình cung ngay dưới mắt Cao Văn Tâm, rồi quẫy đuôi đánh "ùm" xuống nước, bụi nước bắn lên tung toé một mảng, làm cho nàng giật nảy mình. Dương Lăng thấy vậy không nhịn được bèn cười to.

Cao Văn Tâm yêu kiều lườm y, nét mặt cực kỳ quyến rũ. Mái tóc đen mướt như gương trên trán hơi bị rối xoà, bọt nước trong vắt óng ánh thấm trên gò má trắng ngần diễm lệ, như thể từ trong da thịt tiết ra. Dương Lăng thấy vậy hai mắt sáng rực, y vừa tính mở miệng khen nàng nhưng lại kịp thời ngậm miệng lại.

Trông thấy vẻ mặt của y, khoé mắt Cao Văn Tâm thấp thoáng một tia hờn oán. Nàng cầm một củ ấu đỏ lên, cúi đầu ngâm khẽ:
- Lăng nhi cá cá tương y sanh, thu thủy hữu tình tổng giác lãnh. (- Tạm dịch: Ấu kia mỗi củ nương tựa vào nhau mà sống, làn thu thủy có tình mà sao vẫn thấy chán chường.)
Dịch thơ: Ấu kia sống tựa vào nhau, mắt ai sóng sánh mà sao đượm buồn. (TheJoker)

Miệng ngâm thơ, khoé mắt nàng lại trộm ngắm Dương Lăng.

Dương đại lão gia chân thành phối hợp, liền vội ra sức vỗ tay bôm bốp khen hay:
- Thơ hay, thơ hay...

Cao Văn Tâm hơi thất vọng: "Lão gia đang giả vờ hay thật sự không hiểu vậy? Không phải mười sáu tuổi y đã đỗ đầu kỳ thi tú tài của Tuyên phủ hay sao?"

Dương Lăng lại không hay biết Cao Văn Tâm đang mượn thơ khêu tình. Y vỗ tay xong nhưng thấy Cao Văn Tâm vẫn hơi phiền muộn không vui, bèn ngượng ngập buông tay nói:
- Chèo nãy giờ cũng hơi đói rồi. Tới đây, chúng ta ăn tí gì trước đi.

Cao Văn Tâm ngoan ngoãn đồng ý, gom mấy củ ấu lại, bước đến giữa thuyền ngồi xuống, đưa tay qua cầm lấy hộp đồ ăn sơn màu sáng bóng. Hộp đồ ăn tổng cộng có bốn tầng, nàng lấy từng món bên trong ra, đặt lên chiếc bàn nhỏ ở giữa.

Đáy loại hộp đồ ăn này của Ngô phủ làm bằng sắt, bên trong đặt than nóng, bên trên là một tầng cách thủy, cho nên để lâu như vậy mà đồ ăn trong hộp vẫn nóng hổi. Người miền Nam ăn uống luôn chú trọng đến sự tinh tế, mỗi loại đồ ăn trong hộp không nhiều, đại khái chỉ đủ vài miếng, song lại rất đa dạng. Đĩa đầu tiên là một miếng thịt vuông vức, dày cộp, thơm phức, béo ngậy, miếng da lợn lại óng ánh sắc vàng, khiến người ta vừa trông thấy đã phát thèm. Đó chính là một miếng thịt Đông Pha(2).

Món thứ hai là Tôm Bóc Vỏ Động Đình, dùng đặc sản "Hách Sát Nhân Hương"(3) của Động Đình Hồ nấu chung với tôm sông mà thành, sắc, hương, vị tuyệt cả. Giống như Chè Khoai Môn Hương Quế, Chả Giò Rán, Đậu Hũ Chiên Giòn, Bánh Bao Hấp, Vịt Kho, Lương Bung, món này thể hiện rõ đặc điểm văn hóa Đông Ngô: tinh, nhã, tế (tỉ mỉ), xảo (khéo).

Thuyền dập dờn trên sóng, hái sen giữa rừng hoa, cao lương mỹ tửu, lại có áo hồng thêm hương, cho dù không uống cũng say. Huống hồ chung quanh lá sen cao vút trên mặt nước, giữa nơi đây lại chỉ riêng mình cùng một mỹ nhân xinh đẹp khéo cười bầu bạn.

Nghĩ đến dáng vẻ giận dữ của Cao Văn Tâm khi nãy, Dương Lăng thầm nổi lòng "xấu xa", muốn "dạy dỗ" nàng một phen, nên y bèn giở điệu bộ lão gia ép nàng cũng phải uống mấy chén.

Cao Văn Tâm không thoái thác được, đành phải uống vài chén rượu. Rượu thuần thấm vào bao tử, hai má nàng ửng lên một màu đỏ xinh đẹp, thấy vậy Dương Lăng thầm đắc ý trong lòng. Nhưng đã ép người ta uống rượu, y cũng không thể không uống, kết quả là rượu trong chiếc bình bằng thiết đã được uống sạch trơn. Dương Lăng đã cảm thấy đầu nặng chân nhẹ mà Cao đại tiểu thư nhà người ta, mặc dù màu da như được phết thêm một lớp son, đôi mắt lại càng lúc càng sáng, lại không hề có vẻ gì là say. Lúc này Dương Lăng mới biết tửu lượng Cao đại tiểu thư khá cao, thế là y không khỏi ngầm kêu khổ.

Đây là lần đầu Cao Văn Tâm ở riêng cùng một chỗ với Dương Lăng, lần đầu cùng y chung bàn uống rượu, lần đầu được y ôm vào lòng, cũng là lần đầu được y dùng những lời lẽ ngọt ngào để dỗ dành. Thiếu nữ ôm ấp mối u tình này hạnh phúc không thể tả, sau khi uống rượu vào, lòng càng thêm vui vẻ.

Nàng cầm chiếc bình bằng thiết đã cạn lên, nhoẻn miệng cười duyên dáng với Dương Lăng:
- Lão gia mười sáu tuổi đã đạt công danh, là tài tử phương Bắc, hôm nay rượu đã cạn bầu, nô tỳ và lão gia dùng câu đối thế rượu, không biết ý lão gia thế nào? Ở đây nô tỳ có một vế trước (thượng liên), mời lão gia đối lại một câu nhé: Đề tích hồ, du Tây Hồ, tích hồ lạc Tây Hồ, tích hồ, tích hồ!* Lão gia, mời người đối lại.
*: chữ 'tích' (vật làm bằng thiết), 'Tây' (phía Tây) và 'tích' (luyến tiếc) đều có một âm đọc là 'xī'. Tạm dịch: Cầm bình thiết, dạo Tây Hồ, bình thiết rơi xuống Tây Hồ, tiếc thay cái bình, tiếc thay cái bình!

Dương Lăng vừa nghe phải đối câu đối thì giật nảy mình, người hiện đại có mấy ai học qua cái thứ này? Đến lúc nghe nàng tay nói mấy cái gì mà 'tích hồ', 'Tây Hồ', rồi 'tích hồ', y lại càng cảm thấy nhức đầu. Tuy y chưa từng nghe câu đối này, nhưng cũng nghe hiểu được cái khó của câu đối chính là cả ba từ đều đồng âm của từ 'Tây Hồ'.

Y không biết rằng năm xưa có người đã dùng câu đối này làm khó đại học sỹ Tô Đông Pha, khi ấy chính Tô Đông Pha cũng đã từng bị bắt bí. Y còn tưởng rằng đây là câu đối do Cao Văn Tâm nghĩ ra nên trong lòng bội phục không thôi.

Nghĩ ngợi thật lâu, cuối cùng y cũng nghĩ ra ba từ có phát âm na ná nhau, miễn cưỡng có thể lắp thành một câu, bèn nói với Cao Văn Tâm:
- Ờ... Tôi vừa nghĩ được một câu, song nếu so ý cảnh với vế trên của cô, thật sự kém hơn nhiều lắm. Bây giờ tôi đọc, cô không được cười đó.

Cao Văn Tâm nghe vậy trên mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Câu đối này từ khi ra đời đến nay đã mấy trăm năm, đã có không biết bao nhiêu tài tử hao tổn tâm tư tìm câu đối lại, kết quả cũng chỉ vì quá truy cầu từ phát âm tương đồng mà miễn cưỡng ghép thành một vài hạ liên (vế sau), song không có câu nào có được ý cảnh ưu mỹ như vế trước.

Lão gia nhà mình chỉ trong chốc lát đã có thể nghĩ ra vế đối, như vậy đã là vô cùng quý hoá lắm rồi, còn mong gì đến ý cảnh nữa.

Cao Văn Tâm vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, liền nói:
- Xin lão gia hãy mau đọc ra, tiểu tỳ rửa tai cung kính lắng nghe đây.

Dương Lăng cắn răng, rồi quyết đoán đọc:
- Hảo tỷ phu, sính tiết phụ, tỷ phu thất tiết phụ, ta phu, tỷ phu.
*Tạm dịch: Anh rể tốt, cưới tiết phụ, anh rể phản bội tiết phụ, ôi chồng, anh rể!
Ba chữ 'tỷ' (jiě), 'tiết' (jié) và 'ta' (jiē) đọc na ná nhau.


Cao Văn Tâm trợn tròn mắt, đôi môi xinh há ra, ngạc nhiên nhìn y thật lâu, không nói câu nào. Dương Lăng không khỏi ngượng ngùng:
- Cô thấy đó, tôi nói rồi, ý cảnh kém lắm...

Cao Văn Tâm đột nhiên xoay người lại, tựa người vào mạn thuyền, đưa ống tay áo lên che mặt, rồi đôi vai nàng rung lên bần bật không ngừng, con thuyền nhỏ cũng theo đó mà lắc lư qua lại. Sau cùng vị tiểu thư khuê các lâu nay vẫn luôn chú trọng đến phong thái này rốt cuộc cũng không đếm xỉa gì đến hình tượng nữa mà bắt đầu cất tiếng cười to.

Dương Lăng cứng người nhìn nàng, mặt lúc trắng lúc đỏ, sau một hồi lâu mới hậm hực nói:
- Cô xem! Đang uống rượu vui vẻ lại đòi đối này đối nọ cho bằng được, thật làm mất cả vui.

Cao Văn Tâm thấy y giận, vội vàng ngồi ngay ngắn lại, đôi môi mím chặt ra sức nhịn cười, nước mắt cứ ứa ra, người run lên bần bật như trúng sốt rét. Dương Lăng không khỏi giận quá hoá thẹn, đứng bật dậy, gắt:
- Cười đi, cười đi, cười cho chết tôi thì thôi.

Cao Văn Tâm thấy y đã thật sự giận dữ bèn không dám cười nữa, lật đật đứng dậy, nhỏ nhẹ dỗ dành:
- Lão gia! Nô tỳ xin nhận lỗi, lão gia đừng giận nữa.

Chiếc thuyền nhỏ vốn đã đang tròng trành, Dương Lăng đứng lên đột ngột, con thuyền lại càng nghiêng sang bên trái. Do Cao Văn Tâm đứng lên vội nên chân không vững, thiếu chút nữa đã ngã xuống sông.

Dương Lăng tuy tức giận nhưng thật ra là bởi câu đối của mình quá kém. Khi nãy y cho rằng có thể nghĩ ra ba từ gần âm, trong đó còn có một thán từ giống như chữ "tích hồ" (tiếc thay cái bình) là nhanh trí lắm rồi, như vậy đã là hiếm có lắm rồi.

Cho nên khi thấy Cao Văn Tâm bật cười lớn, y mới cảm thấy thật mất mặt. Giờ y thấy Cao Văn Tâm cuống cuồng nên đứng không vững chực ngã xuống sông, bèn vội đưa tay đỡ lấy. Cao Văn Tâm hốt hoảng nhào vào lòng y, mãi đến khi con thuyền chầm chậm ổn định lại, mới đỏ mặt mắc cỡ rời khỏi lòng y.

Lúc này Cao Văn Tâm vừa uống rượu xong, mặt ngọc đỏ bừng, tóc mây tán loạn, mày như liễu mảnh che lấp một mảng xuân quang, mắt sáng như trăng nằm nhởn nhơ trong nước hồ thu. Nhất thời Dương Lăng ngẩn ngơ nhìn ngắm.

Cao Văn Tâm đã đứng vững lại, nhìn thấy ánh mắt y, không khỏi khẽ cụp hàng mày đen mướt, thẹn thùng cúi đầu, song lại không nhịn được mà ngước lên liếc y một cái thật nhanh.

Một cái cụp mày, tình ý khôn kể xiết, mê ly hơn cả lời tỏ tình. Mày ngài nhướng trộm, ngầm tỏ ý đàn lang(4), lại là vẻ lay động hồn phách người ta biết dường nào. Biết rõ là không nên song Dương Lăng lại không thể dằn lòng, y nhịn không được bèn hôn trộm môi nàng một cái thật nhanh.

Bờ môi đỏ thắm của Cao Văn Tâm vốn đầy đặn và mềm mại, chỉ vừa được y hôn nhẹ, môi nàng lập tức trở nên ẩm ướt, cặp mắt sáng ngời của nàng cũng chợt sâu thẳm phảng phất như biến thành hai hũ rượu lâu năm, tinh thuần không gì sánh được.

Chiếc thuyền mui đen thong thả đong đưa, gió đưa đến hương sen thơm ngát, tuy chưa hề uống say song lúc này nữ thần y lại lờ mờ như muốn say, tựa như gởi tới Dương Lăng lời mời tình cảm nồng nàn.

Dương Lăng hôn xong, từ trong mỹ sắc bừng tỉnh lại, cuống quýt buông thỏng đôi tay:
- Văn Tâm! Tôi thật không phải. Chúng ta không thể... tôi thật không nên.

Sau khi say rượu, người ta khó tự kiềm chế tình cảm của mình. Giờ đây hôn xong một cái thoả thê, y mới giật mình phát giác đã phạm sai lầm lớn. Tình ý của Cao Văn Tâm với y, trong lòng y sớm đã biết rõ, và cũng đã luôn cảnh tỉnh mình đừng lún vào quá sâu. Nhưng trên chặng đường xuôi Nam này, bất tri bất giác lưới tình miên man của nàng lại sớm đã trói chặt lấy y.

Cho đến lúc này đây, Dương Lăng mới phát hiện thì ra con tim mình cũng đã thích nàng từ lâu, nhưng bởi nỗi khổ tâm của chính mình, y chỉ có thể giống như con cá mắc vào trong lưới, khổ sở vùng vẫy, khổ sở trốn chạy...

Dương Lăng trở về chỗ ngồi, cầm chén rượu lên, lòng ngổn ngang trăm mối, song lại phát hiện chén rượu đã cạn khô. Y không dám ngẩng đầu nhìn ánh mắt ai oán và thất vọng của Cao Văn Tâm đang ngồi đối diện, lòng chỉ thầm nghĩ: “Không thể lại gây thêm nợ tình nữa. Văn Tâm hiểu chuyện hơn mấy người Ngọc Nhi, mình... Không bằng tiết lộ cho nàng một ít chuyện của mình, cắt đứt ý niệm của nàng ấy vậy.”

Dương Lăng nghĩ đến đây, ngẩng đầu tính mở lời, phía trước bỗng nhiên có một giọng nói giòn dã yêu kiều vọng đến:
- Í, vừa mới thấy đứng ở gần đây mà? Ca à, đi tới trước chút nữa đi, này này, mấy người đâu rồi?

Dương Lăng nghe thấy tiếng nước cùng lá sen lay động, huynh muội Trương thiên sư đã chèo thuyền trôi tới, bèn nuốt lời định nói ngược vào bụng. Y thấy Cao Văn Tâm đang cúi đầu vân vê góc áo, dáng vẻ rất đáng thương, bèn vội nói với nàng:
- Văn Tâm! Tôi tự có nỗi khổ của mình, tuyệt không xem nhẹ thân phận của cô. Ôi... đợi đến lúc về đến Hàng Châu, tôi sẽ nói bí mật của tôi cho cô nghe thì cô sẽ rõ hết thảy.

***







Chú thích:

(1) trích từ thành ngữ "điểm mắt cho rồng" (hoạ long điểm tình), là kỹ thuật làm nổi bật nét chính của bức tranh (hoặc bài viết) khiến cho nó phong phú, sinh động hơn. Tích rằng Trương Tang Do vẽ bốn con rồng nhưng không vẽ mắt, vì lo rằng nếu vẽ mắt thì rồng sẽ bay mất. Mọi người không tin. Nhưng khi Trương lấy bút điểm mắt cho một con rồng thì sấm sét nổi lên, bức vách lung lay và con rồng có mắt bay vút lên, ba con kia vẫn ở yên chỗ cũ.
(2) một món ăn nổi tiếng trên thực đơn trong các nhà hàng ở Tô Châu, do nhà thơ nổi tiếng Tô Đông Pha chế biến.
(3) tên cổ của loại trà "Bích Loa Xuân" nổi tiếng. Vì trà được hái vào dịp tiết Thanh Minh, tiết Cốc Vũ nên có tên gọi là “Bích La Xuân “ và được liệt vào là một trong những vật cống phẩm.
(4) chỉ Phan An đời Tấn, sau được người con gái dùng gọi người con trai tuấn tú mà mình ái mộ.

Chương 129: Oan Gia Cưỡi Sóng Tới
------------------------
Người ta nói có qua có lại mới toại lòng nhau. Vui chơi thoả thích xong, khi đoàn người quay trở về, Mạc Thanh Hà cũng nhiệt tình mời huynh muội thiên sư đến Hàng Châu một chuyến. Lúc trước, khi vừa mới đến Hàng Châu, hai anh em này chỉ được những người ở các đạo quán nghênh tiếp một hồi rồi lại ngồi kiệu xe của Ngô phủ đi đến Tô Châu nên chưa hề được dạo chơi Tây Hồ, vì thế cả hai đều vui vẻ nhận lời đi ngay.

Dọc đường nhàn rỗi, Trương thiên sư và Mạc công công bèn ngồi trong khoang đánh cờ vây. Chớ thấy cờ tướng của Trương thiên sư kém cỏi mà lầm, cờ vây của y cao siêu vô cùng. Không biết đánh cờ vây, Dương Lăng nhìn một hồi cảm thấy nhàm chán bèn ra trước khoang ngắm nhìn phong cảnh một lát rồi trở về khoang mình.

Cao Văn Tâm đang ngồi một mình trong khoang đắm mình trong tâm sự, vừa thấy y trở về nàng liền vội đứng lên. Từ lúc dạo Thái Hồ trở về, hai người luôn cảm thấy không được tự nhiên khi ở chung một chỗ với nhau. Dương Lăng cười gượng gạo, nói:
- Tôi ngồi lâu ở bên ngoài nên cảm thấy hơi mệt, định vào khoang trong nghỉ ngơi một lát.

Cao Văn Tâm vẫn luôn mang nghi vấn trong lòng, không biết rốt cuộc y có bí mật gì (phụ nữ tò mò LOL) mà đã có thể tiếp nhận Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, lại có tình cảm với mình, thế mà lại khăng khăng không chịu tiếp nhận mình. Nàng rất muốn hỏi y ngay bây giờ, nhưng bản thân là con gái nên không tiện tỏ ra bức thiết quá mức. Thấy Dương Lăng vén rèm định vào trong, rốt cuộc nàng nhịn không được bèn mở miệng:
- Lão gia...

Dương Lăng dừng bước, quay đầu lại hỏi:
- Hử? Có chuyện gì vậy?

Mặt Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng lắp bắp:
- A... không có gì, chúng ta... chúng ta về thẳng Hàng Châu à?

Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Không, về đến Hàng Châu thì trời cũng khuya quá rồi. Chúng ta sẽ dừng lại giữa đường, đến Hải Ninh trọ lại một đêm, mai sẽ lại về Hàng Châu.

- Ồ...,
Cao Văn Tâm nghe đêm nay không thể nghe được bí mật mà mình rất muốn biết không khỏi thất vọng hỏi:
- Lão gia đến Hải Ninh có phải là vì muốn thưởng thức thủy triều Hải Ninh vang danh thiên hạ phải không?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Hải Ninh có thuỷ triều đáng xem sao? Tôi chỉ có nghe nói đến thuỷ triều sông Tiền Đường vang danh thiên hạ thôi.

Khoé miệng Cao Văn Tâm hơi nhếch lên song nàng lại không dám cười nữa, chỉ nói khẽ:
- Thuỷ triều Hải Ninh... chính là thuỷ triều sông Tiền Đường mà...

Dương Lăng hơi ngẩn ra, rồi cúi đầu ủ rũ:
- Thôi đi! Lão gia tôi coi như là đã mất sạch thể diện trước mặt cô rồi. Thuỷ triều sông Tiền Đường không gọi là thuỷ triều sông Tiền Đường mà lại gọi là thủy triều Hải Ninh gì đó, thật là mất mặt.

Mặc dù bụng đầy tâm sự nhưng Cao Văn Tâm vẫn bị y trêu đến bật cười phì, nàng vội khoan thai giải thích:
- Lão gia là người phương Bắc, lúc ở kinh sư cũng không rảnh nghe ngóng những chuyện đâu đâu này nên không biết cũng là thương, có gì mất mặt chứ? Có điều nên đi xem thủy triều sông Tiền Đường vào mười tám tháng tám, lúc ấy thủy triều mới tráng lệ; tuy bây giờ cũng có thủy triều nhưng kém hơn nhiều.

Dương Lăng đáp:
- Tiện thể ngắm xem một chút cũng được rồi. Chủ yếu tôi đi Hải Ninh là để thăm viếng Mẫn đại nhân một phen. Ông ấy là thượng cấp cũ của tôi. Tôi vừa đến Giang Nam ông ấy đã đến thăm tôi, tôi không ghé thăm lại ông ta thì khó tránh có lỗi với cố nhân.

Nói đến đây, y hơi ngừng lại rồi dịu dàng nhìn Cao Văn Tâm nhẹ giọng bảo:
- Tôi đi ngủ một lúc đây, không cần kêu người hầu hạ. Nếu cô mệt rồi thì cũng nghỉ ngơi đi.

Đột nhiên Cao Văn Tâm nhớ đến một chuyện định kể cho Dương Lăng hay. Nhưng nghĩ lại chuyện này không có quan hệ gì với Dương Lăng và mình, hơn nữa một người con gái lại đi kể những chuyện này thực cũng khó mở miệng, thế là bèn gật nhẹ đầu. Đưa mắt tiễn Dương Lăng về phòng xong, bản thân nàng cũng thu vén y phục rồi nằm lên giường, mở mắt nhìn lên mui thuyền, không ngờ lại nhớ đến việc kỳ lạ nọ.

Hôm nay Mạc phu nhân trở về từ nha môn của Bố chánh sứ, dáng điệu và vẻ mặt hơi khác thường. Mặc dầu người thường không thể nhận thấy sự khác biệt nhưng Cao Văn Tâm lại nhìn ra nguyên do. Nàng thấy vị Mạc phu nhân đó hai má đỏ bừng, mày mềm như nước, dáng đi dịu dàng mềm mại, không khỏi cả kinh trong lòng.

Với sự hiểu biết y học về cơ thể con người, nàng biết rõ khi dáng đi và vẻ mặt của một người phụ nữ đột nhiên xuất hiện dị trạng như vậy chắc chắn là cô nàng vừa mới trải qua một cuộc mây mưa.

Mạc công công là người đã bị hoạn, hắn lại đã cùng Dương Lăng chèo thuyền dạo Thái Hồ. Mạc phu nhân đi một mình từ nha môn Bố chánh sứ về, mặt mày tràn trề lạc thú giống như mới vừa giao hoan với người khác, chẳng lẽ thị ta không giữ đạo làm vợ, lén chồng vụng trộm hay sao?

Cao Văn Tâm vắt tay lên trán ngẩn ngơ suy nghĩ một hồi, rồi mới thở dài u uẩn: "Bỏ đi! Tuy rằng việc này tổn hại lễ giáo nhưng đó chỉ là chuyện riêng nhà người ta. Mình muốn kể cho lão gia nghe cũng ngượng mở miệng. Chuyện mình còn chưa đủ lao tâm sao, còn quản chuyện đâu đâu của người ta làm gì chứ?"

"Chao ôi... lão gia rõ ràng cũng... cũng có tình ý với mình, vì sao không chịu tiếp nhận mình vậy? Bởi vì mình đang là nô tì ư? Không! Không phải! Y không phải là người như vậy. Y nói là có bí mật, rốt cuộc y có bí mật gì mà lại khiến y không chịu tiếp nhận mình nhỉ?"

Cao Văn Tâm nằm trên giường, tai nghe tiếng nước rì rào, sóng lòng cũng dâng trào theo. Suốt chặng đường dài nàng cứ trằn trọc băn khoăn suy nghĩ không ngừng đến vấn đề này, thuỷ chung khó lòng yên giấc.

. . .

Dương Lăng đang khoác hờ chiếc áo khoác dài đen màu mực đứng trong đình Quan Triều (trạm xem thủy triều) dưới gò Trấn Hải, trấn Diêm Quan, huyện Hải Ninh. Cao Văn Tâm duyên dáng đứng sau lưng y; Mạc Thanh Hà, Mạc phu nhân, huynh muội Trương thiên sư, Diêm vận sứ Mẫn đại nhân cùng Chủng thiên hộ trú đóng tại đây và mấy diêm thương lớn của địa phương cùng đứng bên cạnh.

Mẫn Văn Kiến đứng nghênh sóng, há miệng cười to:
- Dương đại nhân! Thủy triều lớn ở Hải Ninh thời tháng tám cao đến mấy trượng, tiếng sóng như sấm rền, vô cùng hoành tráng, bây giờ ngài đến xem thì thủy triều không thể sánh bằng. Tuy nhiên hiếm khi đại nhân ghé thăm một chuyến nên thế nào ngài cũng phải xem một chút mới được.

Tuy rằng Mẫn Văn Kiến không hề có ý nghĩ bám vào quyền quý, nhưng giao tình hai người không nhạt. Hôm nay cố nhân đã làm quan lớn đến như vậy trong kinh sư lại đặc biệt đến đây thăm mình, trong lòng lão cảm thấy vinh hiển vui sướng cũng là thường tình, cho nên mặt mày rất là hớn hở.

Đến thăm Hải Ninh lần này, ngoài việc viếng thăm Mẫn huyện lệnh có ơn tri ngộ với mình ra, thật sự Dương Lăng còn có tính toán khác. Y đã phái người về kinh bẩm báo với Hoàng thượng về hành vi phạm pháp của Chỉ huy sứ Tư Tất Xuân của Long Sơn vệ và thuế quan trấn thủ Viên Hùng.

Thuở trước, lúc còn ở Kê Minh dịch y đã gặp Tất Xuân, biết rõ kẻ này tuyệt không phải là người dễ đối phó. Đặc biệt là đội thân binh bảo vệ gần hai trăm người của gã, ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến và còn hết lòng trung thành với Tất Xuân. Về phần Viên Hùng, hắn đặt trạm thu thuế khắp nơi, dưới tay có một đám lưu manh trộm cướp, cũng không thể nào là kẻ bó tay chờ chết. Tội danh hai kẻ này một khi được xác lập thì sẽ là đại tội tử hình, cho nên không thể không đề phòng bọn chúng chó cùng rứt giậu.

Lúc Dương Lăng chưa rời kinh đã nghe Ngô Kiệt báo cáo ở vùng Giang Chiết từng có quan tướng phạm vào tội chết bèn liều mình dẫn thân quân giết quan tạo phản, cướp quân nhu khí giới trốn ra biển gia nhập hải tặc. Nếu như Hoàng đế hạ chỉ giao Dương Lăng bắt người, y cũng không biết tướng lĩnh vệ sở phụ cận có phải cùng một giuộc với Tất Xuân hay không, cho nên để không rò rỉ tin tức, đương nhiên y không thể dùng người của bọn họ.

Nếu chỉ mang ba trăm thân quân của y tấn công vào đại doanh có gần ba ngàn người của Tất Xuân, vạn nhất Tất Xuân cả gan cương quyết chống lại thì chắc chắn y không đàn áp nổi mà e rằng còn bị cắn trả. Cho nên lúc trước khi nghe Mẫn Văn Kiến nói nơi đây có đội “hộ diêm binh” (quân bảo vệ việc vận chuyển muối; đồng thời kiểm tra, giám sát việc buôn lậu muối) khoảng chừng hơn ba trăm người, sức chiến đấu so với lính vệ sở bình thường còn cao hơn một chút, Dương Lăng liền lưu ý ngay.

Y phái Liễu Bưu nghe ngóng, biết được còn có một Thiên hộ sở đồn trú nơi này. Nói là Thiên hộ, thật ra cũng chỉ có hơn năm trăm người, quân số thiếu mất một nửa; nhưng lúc nguy cấp y vẫn có thể xin thánh chỉ giành quân đoạt soái của nó, để Mẫn Văn Kiến nắm đội quân này trong tay, phối hợp với y bắt Tất Xuân và Viên Hùng.

Lần này đến đây, Dương Lăng mượn cớ duyệt binh, yêu cầu Mẫn Văn Kiến và Chủng thiên hộ điều toàn bộ ba trăm hộ diêm binh và năm trăm quan binh vệ sở đến bên sông. Y dự định sau khi xem thủy triều xong sẽ cho bọn họ diễn tập, xem thử sức chiến đấu của bọn họ như thế nào.

Dương Lăng có trách nhiệm đốc sát văn võ bá quan, lại là thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng đế, nên dẫu rằng chưa xin thánh chỉ thì việc khảo sát chiến lực quân đội với quy mô nhỏ như vậy cũng không bị xem là vượt quá phép tắc.

Mạc công công bó ống tay áo đứng một bên, có phần không hào hứng gì. Lần này Dương Lăng đột nhiên thay đổi lộ trình, ghé Hải Ninh thăm viếng bạn bè mà không hề thông báo cho hắn biết trước nên trong lòng hắn ít nhiều có phần không vui; cộng thêm thủy triều tháng mười thua xa thủy triều tháng tám rất nhiều nên hắn cũng không có hứng thú để xem, vì thế hắn lui về phía sau tránh gió chứ không đứng ở phía trước.

Mấy diêm thương lớn đều nằm dưới sự cai quản của hắn, dĩ nhiên phải cùng đứng cạnh hắn, không ngừng chào hỏi Mạc gia này nọ. Mạc Thanh Hà cũng chỉ tiếp chuyện qua loa.

Người địa phương không có hứng thú mấy với thủy triều sớm của tháng mười. Nhưng mà lần này gần ngàn quan binh đang đứng thẳng tắp bên bờ sông chờ đợi kiểm binh. Đây đúng là cảnh tượng hiếm có, cho nên không ít người dân lẫn phú hộ trong trấn cũng chạy đến bờ sông tụ tập xem náo nhiệt. Trong chốc lát, khí thế ấy thực giống như lúc xem thủy triều tháng tám.

Gió mạnh dần lên, Mẫn Văn Kiến phấn khởi tinh thần, nói:
- Đại nhân xem kìa, thủy triều đến rồi.

Dương Lăng nheo mắt nhìn ra xa, từ chân trời phương đông của dòng sông mênh mông mơ hồ vọng đến âm thanh dồn dập. Nơi cuối tầm mắt có một đường kẻ trắng, theo âm thanh rì rầm mỗi lúc một to, đường kẻ trắng hoá thành một dải lụa trắng vắt ngang sông, cuồn cuộn kéo tới gần. Những tiếng rầm rầm như sấm nổ vang lên liên miên không dứt.

Mẫn Văn Kiến căng họng át tiếng thủy triều trên sông, cả tiếng:
- Dương đại nhân, Trương thiên sư! “Bảo Tháp Nhất Tuyến Triều”(5) ở Diêm Quan này hùng tráng lắm đó. Tiếc rằng hôm nay thủy triều hơi nhỏ, không đủ hùng tráng.

Lão nói hôm nay thủy triều hơi nhỏ, nhưng chỉ trong chốc lát nước sông đã dâng cao mãnh liệt. Trong khoảnh khắc, dải lụa sóng lớn màu trắng biến thành một bức tường nước sừng sững cao hơn mấy mét. Tiếng thủy triều như hàng vạn con ngựa tung vó phi nhanh, như sấm bên tai. Trông thấy cảnh tượng đặc sắc chưa bao giờ thấy qua này, Dương Lăng và Trương thiên sư đều vui vẻ hào hứng, khen không ngớt miệng.

Đỉnh triều đập vào đê, tung bọt sóng lên cao ngất. Đầu sóng trắng xoá như tuyết, tựa như núi tuyết non băng, khiến cho lòng người rúng động. Lúc triều sông vỗ vào trước đê, một tiếng sét gầm vang, đầu con sóng triều bất ngờ dựng thẳng, trong nháy mắt bụi nước ngập trời, ngọn gió mang chúng ào đến mọi người, đem đến một luồng không khí ẩm ướt, dễ chịu sảng khoái. Trương Phù Bảo thích thú chen đứng đằng trước thế là hứng trọn bụi nước, không khỏi nhếch nhác lui về phía sau khiến Dương Lăng và Trương thiên sư lớn tiếng cười to.

Trương Phù Bảo hậm hực hừm một tiếng, lấy ống tay áo của anh mình lau mặt, song lòng hứng thú xem thủy triều lại không hề giảm. Một khi sóng trước rút về, nó sẽ trở thành vật cản đối với sóng sau; từng cơn sóng triều va vào nhau, sóng trước bị ngăn, sóng sau lại bung lên, sóng này cao hơn sóng kia. Tuy không có sóng cả mạnh nhất làm rung động lòng người, nhưng cũng là những đỉnh sóng thẳng đứng, hùng dũng tung trào.

Dương Lăng thấy mặc dù sóng không cao lắm, nhưng hôm nay gió lớn thổi xuôi, luôn bắn những bụi nước li ti tới, y bèn cố ý đứng chếch phía trước Cao Văn Tâm, che chắn hơi nước cho nàng. Cao Văn Tâm nhận thấy tâm ý của y, trong lòng không khỏi cảm thấy ngọt ngào.

Triều dâng tuy nhanh, nhưng rút đi cũng chóng. Mấy người ở vùng khác như Dương Lăng chưa từng thấy thủy triều sông Tiền Đường nên xem còn chưa đã mắt, thủy triều đã bắt đầu có dấu hiệu rút đi.

Lúc này Trương Phù Bảo mới quay đầu cười nói:
- Dương đại nhân! Nhớ lúc ở trấn Thượng Hải đại nhân từng nói Bạch Nương Tử hô phong hoán vũ, nước ngập Kim Sơn. Khi ấy tiểu nữ vẫn không tưởng tượng ra cảnh tượng đó phải hùng tráng như thế nào. Hôm nay được thấy thủy triều như thế này, mới xem như trong lòng tiểu nữ có chút hình dung.

Dương Lăng nghe xong cười lớn:
- Nào chỉ vậy, nào chỉ vậy! Sóng ấy có thể ngập cả chùa Kim Sơn, đỉnh sóng há chẳng phải còn cao hơn núi ư? Cô hãy tưởng tượng trên đầu ngọn sóng còn có rất nhiều binh tôm tướng cá, con thì cầm giáo, con thì cầm chùy, đứng trên đầu ngọn sóng...

Y vừa chỉ vào nước triều sông vừa cười nói. Đang nói hăng say, nụ cười trên khuôn mặt y bỗng dưng cứng lại. Y kinh ngạc chỉ tay về phía xa hỏi:
- Đó là gì vậy?

Nhìn theo hướng ngón tay y, mọi người cùng thấy phía cuối dòng thủy triều liên miên đang lờ mờ xuất hiện vài chấm đen. Trương Phù Bảo kinh ngạc cười nói:
- Lạ quá, lạ quá! Chẳng lẽ thật sự có binh tôm tướng cá đến sao?

Nhờ thủy triều và gió lớn, những chấm đen đó di chuyển rất nhanh, trong chốc lát đã thấy rõ điểm đen to nhất là một chiếc thuyền buồm. Có cảm giác chiếc thuyền nọ hơi vuông, trên thuyền căng cánh buồm đen rất to.

Mạc Thanh Hà trông thấy thất kinh, vừa sợ vừa giận kêu lên:
- Thật đáng giận! Cờ Bát Phan Đại Bồ Tát, đó là thuyền biển của bọn người Oa, mau hộ tống đại nhân rời khỏi đây!

Lúc này Mẫn Văn Kiến cũng đã nhìn rõ ký hiệu trên thuyền, cả kinh kêu to:
- Quả nhiên là giặc Oa đến. Bà mẹ bọn nó, lần này lại có nhiều giặc đến như vậy! Mau lên, bảo hộ khâm sai đại nhân và thiên sư rời khỏi nơi này!

Bọn họ đứng trên cao nên nhìn được xa, những người dân đứng trên bờ đê dưới lầu chỉ thấy có hơn hai mươi chiếc thuyền từ xa xa đi tới, họ chưa nhìn rõ ký hiệu trên thuyền nên vẫn không vội không hoảng mà vẫn đứng bên bờ sông.

Dương Lăng thấy vậy, nào chịu tự mình bỏ chạy. Huống chi hôm nay y vừa khéo đã điều cả quan binh ty Diêm vận lẫn vệ sở đến để duyệt binh, mọi người đều cầm sẵn vũ khí. Mặc dù trong ba trăm thân quân của mình có hai trăm người đã theo thuyền quan về Hàng Châu, nhưng tùy thân cũng còn một trăm quân tinh nhuệ, sức chiến đấu giờ đây gần sánh với ngàn người. Đối phương có hơn hai mươi chiếc thuyền, lớn có, nhỏ có, lớn có thể chứa ba trăm người, nhỏ thì cũng bốn năm chục, áng chừng nhân số tổng cộng cũng không quá nhiều, chưa hẳn đã không thể đánh một trận.

Dương Lăng lập tức quát lớn:
- Không được hoảng loạn! Tất cả dân chúng và diêm thương trong đình lui xuống. Mẫn đại nhân, Chủng thiên hộ, lập tức ước thúc toàn quân, lập trận chặn địch. Trịnh Bách hộ, lập tức sơ tán bá tánh trên bờ.

Vị Chủng thiên hộ này cả người mặc khôi giáp sáng choang, vốn hôm nay gã định biểu lộ tài năng trước mặt đại nhân, nào ngờ lại gặp phải chuyện này. Trước kia chỉ có ba đến năm trăm tên giặc Oa đến bờ sông cướp bóc đã xem như rất nhiều giặc rồi. Lần này xem ra lại có cả ngàn tên giặc cướp trở lên, khiến gã sợ đến xanh mặt nhưng lại không dám tỏ ra sợ hãi, gã lật đật dạ một tiếng rồi xuống đình chỉnh đốn và tập hợp đội ngũ.

Mẫn Văn Kiến là tên lính điên do Tổng binh Đại Đồng - lão Đỗ điên - một tay nặn ra, thấy đánh nhau là hưng phấn khôn thôi. Khi xưa lão dám đơn thương độc mã đánh vào trong quân doanh Thát Đát, chém chết thân vương gia của bọn họ, thì làm sao thèm để ý đến mấy tên lùn này.

Lão cười ha hả:
- Mụ nội nó! Đã nói phải diễn võ cho khâm sai đại nhân xem, giờ đã biến thành động đao động thương thật rồi. Mỗ lập tức xuống dưới. Dương đại nhân hãy xem oai phong của đại đao ta đây!

Vừa nói lão vừa chạy thình thịch xuống lầu. Mạc Thanh Hà mặt mày tái mét, miệng méo xệch:
- Diệt trừ giặc Oa không phải là trách nhiệm của đại nhân. Đại nhân nên mau lánh khỏi đây một chút đi. Nếu đại nhân có mệnh hệ gì, ti chức vạn lần không đảm đương nổi đâu.

Dương Lăng liếc sang Cao Văn Tâm, bảo:
- Văn Tâm! Cô hãy cùng Mạc phu nhân và Trương tiểu thư mau chạy về trấn trước. Nếu như thủ không được, chúng ta sẽ lập tức dùng khoái mã rời khỏi đây.

Cao Văn Tâm ưỡn ngực đáp:
- Lão gia ở đâu, tiểu tỳ ở đó. Tiểu tỳ không đi!

Dương Lăng giậm chân quát:
- Làm chuyện vô nghĩa, chỉ là ngu xuẩn thôi! Cô ở lại thì có tác dụng gì? Cô xông trận giết giặc được sao?

Cao Văn Tâm hiên ngang đáp:
- Đại nhân là nho sĩ, chẳng lẽ xông trận giết giặc được sao? Người lâm trận không lui là vì muốn trấn định lòng quân. Còn tiểu tỳ là nữ nhân, lâm trận không lui, là vì muốn cùng... cùng đại nhân đồng sanh cộng tử!

Dương Lăng nghe thế sững người, nhất thời không đáp lại được. Mặc dù mặt hoa tái nhợt nhưng Trương Phù Bảo nghe Cao Văn Tâm nói như vậy, lại thấy tuy anh mình mặt mày căng thẳng nhưng cũng không có ý định đào tẩu, thế là cô bèn nổi dũng khí:
- Đại nhân không đi, ta cũng không đi. Trấn này có rất nhiều tín đồ của Thiên Sư đạo ta. Đêm qua khi chúng ta đến trấn, bọn họ đã quỳ lễ cầu phước với Thiên sư, vô cùng tôn kính. Nếu như hôm nay chúng ta lùi bước thì còn mặt mũi gặp lại bọn họ sao?

Lúc này, theo tiếng hò hét kêu gọi của nha sai Nội xưởng, dân chúng bên bờ sông đã biết xảy ra chuyện gì nên bắt đầu dìu già dắt trẻ, kêu cha gọi mẹ, vừa la vừa khóc tranh nhau xuống đê, chạy thục mạng về trấn.

Chủng thiên hộ triệu tập binh sĩ của gã lại, tập hợp phía bên phải bờ đê. Mẫn Văn Kiến vẫn mặc trang phục quan văn (xem ra lão này thích mặc đồ quan văn đánh giặc), vác cây đại đao vốn là chiêu bài của lão, dẫn một đám diêm binh ăn mặc lộn xộn đứng mé trái phía trước đê.

Những chiếc thuyền của người Oa nương theo nước sông đi thẳng vào bờ. Bọn chúng vừa hò hét vừa nhảy xuống thuyền, tụm ba tụm năm thành từng nhóm lao lên bờ. Dương Lăng thấy trang phục của bọn giặc Oa này hết sức hỗn tạp, có tên mặc Oa phục, có tên mặc Hán phục, có tên mặc áo bào văn sĩ, nhưng lại nhét vạt áo trong thắt lưng. Thậm chí còn có mấy tên mặc cả đồ phụ nữ, đủ thấy cuộc sống lăn lộn trên biển của đám giặc Oa này cũng chẳng tốt đẹp gì.

Mặc dù áo quần không đồng bộ, vũ khí trong tay cũng đủ loại mẫu mã, nhưng những tên hải tặc tạp nham này ai nấy đều hung hãn dũng mãnh, hành động cũng nhanh nhẹn vô cùng.

Nha sai nội xưởng chỉ có trăm người, trong đó có hai mươi cung tiễn thủ, toàn bộ đều đang đứng dưới đình Quan Triều không dám rời khỏi. Dù sao toàn bộ những nhân vật quan trọng nhất đều đang ở trên lầu, nếu lỡ có sơ suất gì thì bọn họ đều sẽ rơi đầu. Bây giờ đang có quân đội của vệ sở ở đây, bọn họ vui lòng lui về vị trí hậu bị, chỉ bảo hộ đại nhân.

Không ngờ giặc Oa mới vừa xông lên bờ, quan binh vệ sở đã có người hét lên một tiếng, không xông lên mà lại quay đít bỏ chạy.

Đứng trên đình thấy thế, lỗ mũi Dương Lăng thiếu chút nữa xịt khói. Lúc này số giặc Oa vừa đổ bộ không đông, chỉ cần một trận loạn tiễn chăm sóc hoặc giả trực tiếp đưa quân tập kích phủ đầu, đều có thể chiếm được tiên cơ. Chút đạo lý hiển nhiên này cũng không hiểu, đây là thứ quan binh gì vậy?

Không nén được giận dữ, Dương Lăng đập tay mạnh xuống thành lan can, lạnh lùng quát xuống đình:
- Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết không tha!

- Dạ! Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết không tha!
Trịnh bách hộ vung tay, mấy tay nha sai lập tức giương cung lắp tên, bắn thẳng vào phía tên quan binh vệ sở tranh chạy trước tiên. Loại tên do những nha sai này dùng đều là Nhiếp Hồn Hưởng tiễn (tiếng tên khiếp hồn), là loại tên mà Dương Lăng kiếm được từ chổ Cẩm Y vệ lúc y huấn luyện thân quân. Khi tên được bắn ra sẽ phát nên tiếng rít sắc bén, có hiệu quả chấn nhiếp hồn vía người ta.

Mấy cung tiễn thủ này đều là thần tiễn thủ trăm người chọn một, tên bay người ngã, khiến đám quan binh vệ sở đang chạy theo tên nọ đều sững sờ khiếp sợ. Đến khi nghe nha sai Nội xưởng giống như hung thần ác sát quát tháo bọn họ:
- Kẻ nào lâm trận bỏ chạy, giết chết không luận tội!
Cả bọn đành phải sợ sệt quay trở về.

Lúc này Mẫn Văn Kiến đã dẫn diêm binh xông lên tiền tuyến. Diêm binh của lão không có cung tên, chỉ có thể giao chiến trực diện với giặc Oa. Giặc Oa lập thành nhóm hai ba tên phối hợp rất ăn ý: trong lúc vờn quanh, chúng thường xuyên thừa lúc đối phương không đề phòng cả bọn cùng đột nhiên ra tay tấn công mãnh liệt.

May mà những diêm binh này chuyên hộ tống diêm đội, trèo non lội suối, thường hay chiến đấu cùng giặc sông cướp núi nên cũng giỏi quần công. Mặc dù sát khí tàn bạo hơi kém đối phương, nhưng có Diêm vận sứ Mẫn đại nhân vung cây đại khảm đao nặng mấy chục cân xông lên phía trước như một con mãnh hổ nên nhuệ khí cũng dâng cao vô cùng, do đó bọn họ vẫn có thể chống đỡ ngang ngửa với giặc, không hề lùi bước.

Thấy những quan binh vệ sở mặc dù đã quay trở lại nhưng vẫn co cụm sợ sệt, không dám tiến lên phía trước, Dương Lăng giận sôi máu. Lúc này lại không phải là lúc chỉnh đốn quân đội, y chỉ đành hô gọi Trịnh bách hộ:
- Trịnh bách hộ! Dẫn người của ngươi xông lên cho ta, bảo Chủng thiên hộ bắn tên yểm trợ!

Trịnh bách hộ nghe thế vội thưa:
- Đại nhân! Chức trách của ti chức là bảo vệ đại nhân, trước mắt bên cạnh đại nhân chỉ có hơn trăm thân binh này, ti chức không dám rời xa!

Dương Lăng cả giận, gắt:
- Nếu ngươi không đi, ta sẽ tự đi!

Hết cách, Trịnh bách hộ đành hậm hực giậm chân, giữ hai mươi cung tiễn thủ ở lại bảo vệ đình Quan Triều, còn bản thân bạt đao dẫn tám mươi tay lính khoẻ xông lên trước.

Vị Chủng thiên hộ đang đứng đực ở đó, nay nghe Dương Lăng truyền lệnh bắn tên mới như từ trong mơ bừng tỉnh lại, ra lệnh cho quan binh lập tức bắn tên.

Bọn họ bày trận phía rìa cùng bờ bên phải. Chỗ đó gần bờ có mấy tảng đá to, nước sông lại khá thấp nên chiến thuyền của người Oa không cập bến ở chỗ bọn họ. Hơn nữa bọn họ không hề chủ động công kích nên đám giặc Oa xông lên bờ chỉ tấn công diêm binh của Mẫn Văn Kiến và thân quân của Dương Lăng, tạm thời còn chưa "chiếu cố" đến bọn lính này.

Vì vậy bọn quan binh vệ sở dư dả thời gian chuẩn bị cung tên. Chỉ thấy mấy ông lính này dù đang căng thẳng song vẫn ung dung giương cung, lắp tên, kéo dây, bắn tên. Một tiếng "tách" vang lên, tên bắn ra hàng loạt, một trận mưa tên ùn ùn kéo đến bắn vào đám giặc Oa đang ào ào nhảy khỏi thuyền.

Ở trong đình, Dương Lăng thấy vậy cười to. Trận mưa tên này thể nào cũng có thể bắn chết và bị thương khoảng trăm tên giặc Oa, có thể gọi là "Cập Thời Tiễn Vũ"(6) rồi.

Cơn mưa tên đó bắn khắp các thuyền, ít nhất có một nửa bắn trúng người giặc Oa. Nhưng khi tên nhọn vừa chạm vào người chúng thì lại trượt xuống quần áo, có mấy mũi bắn trúng nón rộng vành của người Oa, cắm đong đưa trên đó mà chẳng hề gây thương tổn gì tới người. Phóng mắt nhìn khắp trận tuyến, dường như trận mưa tên này không làm cho tên giặc Oa nào bị thương cả.

Dương Lăng và Trương thiên sư đứng trên đình trông thấy mà sững sờ. Bọn họ há hốc mồm kinh ngạc nhìn cảnh tượng kỳ lạ này. Mãi lâu sau hai người mới đưa mắt nhìn nhau, sau đó đồng loạt nhảy dựng lên như thể bị lửa đốt mông, la lớn:
- Sao lại như vậy được! Chẳng lẽ bọn người Oa đều đao thương bất nhập sao?




Chú thích:

(5) do thủy triều tại đoạn đê biển phía Đông Nam trấn Diêm Quan huyện Hải Ninh là điểm đẹp nhất, thủy triều giăng thành một đường kẻ đặc sắc, nên mới có tiếng khen là 'Hải Ninh Bảo Tháp Nhất Tuyến Triều'.
(6) Trong tác phẩm Thuỷ Hử, Tống Giang có biệt hiệu là Cập Thời Vũ (mưa thuận, hay mưa đúng lúc). Ở đây tác giả mượn chữ để mô tả trận mưa tên đúng lúc.

CHƯƠNG 130: Đại Chiến Ven Sông Tiền Đường

Trận mưa tên của vệ quân không những hoàn toàn không hề có lực sát thương chút xíu nào mà ngược lại còn kích thích hung tính của giặc Oa[1] bộc phát. Hơn hai chục tên giặc Oa hò hét xông vào đám quan binh vệ sở[2]. Cầm đầu là một tên giặc Oa có thân hình khá thấp nhưng sức bật nhảy lại vô cùng kinh người, trên bãi sông cát lún mà gã vẫn nhảy nhót như bay.

Gã cầm trên tay một thanh Oa Đao[3] dài, đơn thương độc mã xông vào giữa đám quan binh kia, hống to một tiếng rồi bỗng nhảy bật lên, ánh đao như nước chảy bổ thẳng xuống. Đối mặt gã là một tên quan binh cầm thương, nhưng tên này không giơ thương lên để đâm, cũng không hoành thương để đỡ, mắt vừa thấy tên người Oa[4] đang xông đến này vô cùng hung hãn, hắn đã hét to một tiếng rồi vứt thương quay người tháo chạy.

Nhát đao của tên giặc Oa kia chém thẳng xuống từ vai đến lưng, bổ chéo tên binh sĩ muốn tháo chạy kia thành hai mảnh. Tiếp đó gã lại giống như một con ếch, vừa nhảy vừa tung người tả xung hữu đột giữa đội ngũ vệ quân, vung đao nhá trên phạt dưới, nhất thời chém giết làm trận tuyến của đám quan binh nhát gan kia rối loạn cả lên.

Lúc này đám giặc Oa cầm các loại vũ khí xếp thành một hàng dài rồng rắn từ phía sau cũng xông đến. Chủng Thiên tổng đứng ở phía sau vung đao quát lớn:
- Xông lên!

Thế nhưng khí thế đám quan binh đã bị đoạt mất. Bọn chúng hoàn toàn không còn ý chí chiến đấu, vừa thấy có người bị giết chết thì nhất tề hét to, đồng loạt quay người bỏ chạy về trấn, cuốn Chủng Thiên Tổng và mấy tên thân binh lùi về phía sau một khoảng.

Đám diêm binh ở phía kia chẳng qua chỉ ba trăm người, nhưng cũng chiến đấu ngang sức ngang tài với đám giặc Oa có cùng quân số. Còn năm trăm quân chính quy ở bên này chỉ phải đụng độ với hai mươi tên giặc nhưng chỉ vừa mới giao chiến với địch một hiệp, chỉ bị giết một tên lính thì cả bọn đã tháo chạy! Trong lòng Dương Lăng – người hoàn toàn không hiểu gì về quân đội Giang Nam - chỉ cảm thấy phẫn nộ, kinh ngạc đến cực điểm: “Sao có thể như vậy? Năm trăm người chiến đấu với hai mươi người thôi, dù đè cũng đè bọn chúng đến chết, mà chỉ giao phong một hiệp thì toàn quân đã tan tác tháo lui?”

Huyệt Thái Dương của Dương Lăng giật thình thịch, gân xanh trên trán cũng nổi lên, lúc này lòng hận thù với giặc Oa cũng không bằng sự phẫn nộ vì người của mình chẳng có chí khí. Dương Lăng quay người định xông xuống đình, Mạc Thanh Hà nhanh tay kéo y lại, vội vàng cản:
- Đại nhân! Quân tâm của vệ quân Giang Nam luôn rời rạc mà người Oa lại hung ác tàn bạo, cho nên mỗi khi gặp địch, thường thường vừa nhìn thấy địch thì họ đã sợ, không chiến đấu mà chỉ tháo chạy. Bây giờ vệ quân đã tháo lui, hoàn toàn không kịp chỉnh đốn đội ngũ, đại nhân tuyệt đối không được xông lên phía trước, nếu như ngài có mệnh hệ gì thì chúng tôi thật sự đi đời.

Dương Lăng nghe vậy thì đầu óc tỉnh táo trở lại, nhớ tới những lời mình giảng giải với chúng tướng khi mình dẫn quân luyện tập trong núi. Bây giờ bản thân mình đã làm chủ soái, thủ ở đây chỉ huy còn có tác dụng hơn hẳn việc làm một tên sĩ tốt xung phong đi đầu giết địch. Hơn nữa nếu như quả thật bản thân mình bị giết chết thì chí ít thân binh mà mình dắt đến cũng sẽ không còn tiếp tục tử thủ không lùi nữa.

Nghĩ đến đây Dương Lăng dừng bước lại, lao lên phía trước đình quát đám sai nha đang lắp tên vào cung sẵn sàng đợi địch ở phía dưới:
- Tất cả các ngươi lên đây cho ta!

Ở phía kia, hơn hai chục tên giặc Oa đang đuổi theo năm trăm tên vệ binh giống như thủy triều lên. Nhìn thân thủ của bọn chúng thì cũng chỉ có tên giặc Oa đánh tiên phong lúc nãy là võ nghệ cao cường, còn bọn ở phía sau đều bình thường, nhưng đám vệ quân sợ vỡ mật đều có ý nghĩ để người khác chịu chết còn mình thì tháo chạy. Rõ ràng là bọn lính chỉ cần lấy hết dũng khí quay lại chiến đấu thì đủ để lấy ưu thế số đông tiêu diệt đám giặc Oa này, nhưng bọn họ chỉ biết ôm đầu tháo chạy.

Làm cho Dương Lăng hơi ngạc nhiên là Chủng Thiên tổng thoạt nhìn có vẻ nho nhã kia lại không thoái lui. Gần hai chục tên thân quân do gã thống lĩnh bị quan binh quân mình xông vào làm rối loạn đội hình nên bất ngờ không kịp đề phòng bị bọn giặc Oa đuổi đến chém chết vài người. Nhưng tiếp đó gã lại vung đao dẫn quân xông lên.

Dương Lăng thấy vậy thần sắc không khỏi lộ ra vẻ vui mừng: Còn may, tuy rằng đám binh lính này không có chí khí, vị Chủng Thiên tổng kia cũng không biết chỉ huy tác chiến, nhưng ít ra còn biết tận trung làm tròn chức trách.

Do Dương Lăng được cử thẳng một lèo lên chức Tham tướng, hoàn toàn không phải từ cơ sở thăng tiến dần dần mà lên, nên y làm sao biết được vị Thiên tổng đáng thương này quyết chiến không lùi, nguyên nhân thực sự không phải là muốn làm tròn trách nhiệm gì, mà là bởi vì Dương Lăng – quan khâm sai - còn tọa trấn ở đây.

Quan binh của vệ sở vốn có trách nhiệm giữ đất, nếu như lâm trận tháo chạy thì còn có thể nói dối bên trên rằng thế địch quá mạnh, không thể không lùi. Nhưng hôm nay lại có một vị khâm sai đến đây, hơn nữa vị khâm sai này lại thủ ở phía trước không đi; nếu như Chủng thiên tổng bỏ quan khâm sai lại mà tháo chạy thì chắc chắn gã phải bị chém đầu cách chức.

Lùi cũng chết, không lùi cũng chết (trong lòng Chủng Thiên tổng vốn không cho rằng mình là đối thủ của đám giặc Oa hung tàn này), nhưng ít ra không lùi thì còn được tiếng tốt, người nhà cũng không bị liên lụy. Bởi vì vậy nên thần sắc Chủng thiên Tổng rất bi phẫn, gã vừa chửi thầm tám đời tổ tông của Dương Lăng trong bụng, vừa vung đao liều mạng với đám quỷ tử[6].

Còn nguyên nhân mà thân binh của gã cũng không lùi thì lại cũng giống như của gã. Theo luật pháp Đại Minh, nếu như tướng lĩnh chiến đấu hy sinh mà thân binh không việc gì thì tên thân binh đó cũng bị chặt đầu. Cho nên hai chục tên thân binh này cũng vừa chửi thầm tám đời tổ tông của Chủng thiên tổng vừa liều chết kháng cự.

Lúc nãy năm trăm quân bị hai chục tên giặc Oa lao vào đánh cho tan tác phải tháo chạy thục mạng, còn bây giờ hai chục chiến đấu với hai chục, trong lúc nóng lòng liều mạng, bọn họ lại có thể địch được với đám giặc Oa kia.

Dương Lăng thấy vậy trong lòng cũng hơi yên tâm, đợi hai chục tên sai nha lên trên đình, Dương Lăng chỉ về phia trước, hạ lệnh:
- Muốn bắt giặc, trước hết phải bắt tướng! Các người đừng có hoảng, nhìn thật kỹ cho ta, chọn đám người Oa cầm cờ, cầm quạt mà bắn cho ta.

Dương Lăng đứng ở trên cao, chỉ trong chốc lát y đã phát hiện đám giặc Oa lập thành từng nhóm ba hay năm người xông vào đội ngũ của đám Diêm binh chém giết, thoạt nhìn có vẻ hỗn loạn không ra chương pháp nhưng thực ra đằng trước luôn có một người cầm cờ có hình dáng kỳ quặc hoặc một người một tay cầm đao một tay cầm quạt. Chỉ cần bọn chúng vung cờ hoặc quạt lên, đám tiểu đội người Oa đều nhất tề hét lớn, thanh thế kinh người đồng thời múa tít vũ khí tấn công, đến lúc hơi mệt thì cùng chuyển sang đánh cầm chừng, vờn quanh thủ thế đợi hồi phục sức lực.

Đám sai nha nghe lệnh tiến lên phía trước đình, chuyên chọn những người có vẻ là thủ lĩnh của người Oa để hạ thủ. Ám tiễn của bọn chúng vừa chuẩn vừa độc, đám tiểu đầu lĩnh của giặc đang lớn tiếng hò hét vừa giết người vừa chỉ huy, thường thường không kịp đề phòng thì đã bị một mũi tên bắn trúng. Vốn tin pháp thuật, lúc nãy Trương Thiên Sư thấy cảnh đám người Oa bị trúng tên nhưng không hề bị thương tích gì thì kinh sợ vô kể. Bây giờ lại thấy đám người Oa cũng chỉ là người trần mắt thịt, cũng có thể bị giết chết như người thường, Thiên sư mới thở phào.

Lúc nãy Dương Lăng cũng giật mình sợ hãi, nhưng trong lòng y hoàn toàn không tin đám người Oa này biết thuật đao thương bất nhập gì. Nếu như bọn chúng thật sự biết loại công phu này thì hà tất còn phải mưu sinh trên biển nữa? Bọn chúng sớm đã có thể đánh thốc một mạch chiếm cả thiên hạ rồi.

Lúc này thấy đám thân quân của mình quả nhiên từng phát tên đoạt mạng bọn chúng, Dương Lăng càng tin vào phán đoán của mình. Chỉ là tại sao những phát tên của quan binh vệ sở lại không giết được bọn chúng thì y vẫn không thể hiểu được, thế nhưng lúc này cũng chưa có thể điều nghiên gì được.

Đầu lĩnh của đám giặc Oa này là một võ sĩ Nhật Bản sa sút tên Phì Tiền Thọ và một tên cướp biển Trung Quốc tên Trần Đông.

Đám giặc Oa này mỗi khi đến dịp xuân thu lại hóa thân thành hải tặc đến duyên hải cướp bóc, các mùa khác thì mua hàng từ những thương nhân phạm pháp Đại Minh vận chuyển về các vùng như Nhật Bản, Lã Tống[7]để kiếm chác những món lời lớn.

Gần một năm nay, chiến tranh tại đất Nhật Bản ngày càng kịch liệt, những lãnh chúa cần gấp một lượng hàng hóa và tiền bạc lớn để ổn định địa bàn của mình. Nhưng kể từ khi tướng quân Mặc Phủ Túc Lợi không còn xưng thần với Đại Minh, Đại Minh đã không còn khám hợp giao dịch[8] với Nhật Bản nữa. Các lãnh chúa, tướng quân bèn chỉ thị tay chân tham gia buôn lậu và làm hải tặc, cho nên bọn hải tặc thật sự đã bị giành mất mối làm ăn, khiến cho việc sinh nhai của bọn chúng ngày càng sa sút. Do vậy hai cánh hải tặc này bèn sát nhập với nhau để tăng cường lực lượng.

Kỹ thuật chế tạo thuyền chiến của bọn chúng vô cùng lạc hậu. Những chiếc thuyền đó đều dùng gỗ lớn đẽo thành hình vuông, khi đóng lại với nhau thì không dùng đinh sắt mà dùng các miếng sắt, không dùng các sợi đay và dầu trẩu để vá mà dùng rơm cỏ để chặn các khe hở, hoàn toàn không thể chống cự được thuyền lớn của quân Minh. Đặc biệt là chỉ cần thuyền Phúc[9] hay thuyền Quảng[10] tông nhẹ vào thì thuyền bè của bọn chúng sẽ vỡ tan như xác pháo. Không có ưu thế ở trên biển, bọn chúng chỉ biết lợi dụng đường duyên hải rộng lớn của Đại Minh để đi lại khắp nơi, lên bờ cướp giật.

Đây là chuyến ăn hàng lớn đầu tiên sau khi hai cánh đạo khấu này sát nhập. Vốn chúng nghĩ rằng lợi dụng thủy triều tấn công bất ngờ thì có thể cướp sạch Hải Ninh, không ngờ thuyền vừa mới cập bờ thì phát hiện quân Minh đã sẵn sàng chờ địch. Phì Tiền Hải và Trần Đông cũng thầm thất kinh, cho rằng âm mưu của mình đã bị lộ nên dừng thuyền chiến của hai người lại ở phía sau cùng, trước sau không dám dốc toàn bộ quân binh vào trận chiến để đề phòng bị trúng mai phục của quân Minh.

Hai người đứng trên đầu thuyền quan chiến, nhận thấy quân số của quân Minh trên bờ không nhiều, cách ăn mặc cũng không phải là quân đội chính quy, trong đám binh lính ăn mặc giống như Diêm binh còn có một người múa may một thanh đao lớn. Đại đao trên tay gã giống như cối xay gió, chỉ cần bị gã áp sát vào thì lập tức đao qua người chết, giống như hổ giữa bầy dê, tới đâu quét sạch giặc tới đó.

Phía trước Quan Triều Lầu có một nhóm quân binh áo xanh mũ nhỏ, toàn bộ dùng phác đao (đao thân dài hẹp bản, chuôi hơi dài, sử dụng bằng hai tay). Đám binh lính này tuy ít người nhưng ai ai cũng kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa cả đội ngũ xếp thành một hình tam giác nhọn, giống như một mũi tên cắm thẳng về phía trước. Phương thức chia thành từng nhóm năm ba người quấy nhiễu, phá hoại đội hình địch mà bọn giặc Oa thường dùng hoàn toàn không còn tác dụng khi đối kháng với đội quân này. Thỉnh thoảng binh lính ở phía bên trong tam giác lại thò ra một khẩu hỏa khí nòng ngắn để giết địch, loại hỏa khí này không phải là thứ hỏa khí mà binh lính vệ sở duyên hải được trang bị.

Binh khí chủ yếu của giặc Oa là đao và cung, thỉnh thoảng cũng có vài hỏa khí tầm thường thô sơ. Nhưng đám hải tặc này tương đối nghèo khó. Trên biển ẩm ướt, bảo dưỡng cung tên không dễ, hơn nữa độ chính xác và lực sát thương của các mũi tên thô sơ cũng không cao, mà gỗ và đầu mũi tên của loại tên thượng hạng cũng tương đối đắt đỏ, cho nên bọn này cũng không được trang bị nhiều cung tên. Nhưng trường đao của bọn chúng lại vô cùng lợi hại. Trường đao Nhật Bản mà bọn giặc Oa sử dụng dài khoảng một mét bốn, gần như là dài gần bằng chiều cao của bọn người lùn. Chiều dài và trọng lượng của loại đao này gần như gấp đôi bội đao mà quân Minh thường dùng, hơn nữa còn có thể dùng hai tay để sử dụng. Đơn đao của quân Minh chỉ có thể dùng một tay sử dụng, nên sức mạnh, tốc độ và độ dài đều thua xa hẳn. Hơn nữa đao Nhật bản được chế tạo bằng kỹ thuật bọc thép của Đường đao[11], còn quân Minh thì do giá của đao bọc thép đắt đỏ, ngoại trừ sĩ quan ra thì đao được trang bị cho binh lính chỉ có phần lưỡi được bọc thép mà thôi. Khi thực lực của hai bên ngang bằng thì dù chưa đánh cũng có thể biết được ngay ai thắng ai thua.

Tuy nhiên, hôm nay bọn chúng không may gặp phải thân binh của Dương Lăng đều sử dụng phác đao chuôi dài, bọc thép toàn bộ. Phác đao dài một mét ba, hầu như không ngắn hơn đao của bọn chúng, hơn nữa người dùng đao đều là quân lính tinh nhuệ của kinh thành trải qua huấn luyện của cao thủ dùng đao từ Thiếu Lâm Tự và Cẩm Y vệ.

Đám sai nha này hoàn toàn không thèm để ý đến sự khiêu khích dụ dỗ của bọn giặc Oa, nhiệm vụ của bọn chúng là bảo vệ Dương Lăng cho nên tuyệt đối không thể phân khai. Trận hình do tám mươi người xếp thành giống như một mũi tên nhọn, tám mươi thanh đao lúc lên lúc xuống, đao trận di chuyển không ngừng, xông xáo dọc ngang giống như một chiếc máy xay thịt trên bãi cát trước Quan Triều đình, chỉ cần lại gần là bị loạn đao chém chết. Có tên giặc Oa cầm trường đao định lấy dài để chống ngắn, nhưng còn chưa kịp lại gần, một tên sai nha ở phía trong đội hình đã rút súng ngắn bắn cho hắn “nở hoa khắp mặt”. Đám sai nha này mỗi khi di chuyển một vòng thì phía trong lại biến thành phía ngoài, vòng ngoài lại biến thành vòng trong. Sai nha ở phía trong thu đao đổi súng, vừa hồi phục thể lực vừa nhồi đạn dược sử dụng hỏa khí. Chính vì vậy bọn giặc Oa vốn chỉ được trang bị rất ít cung tên lập tức bị biến thành giống như quân Minh vệ sở mà trước đây bọn chúng từng đồ sát, hoàn toàn ở hẳn vào thế chịu đòn. Cho dù bọn hải tặc vốn dũng mãnh không sợ chết nhưng cũng không khỏi nảy ý định thoái lui.

Lúc này hai chục tên Thần xạ thủ bên cạnh Dương Lăng cũng phát huy hết mức tác dụng của những tay bắn tỉa. Bọn chúng vững vàng đứng ở nóc đình chỉ chú ý quan sát những tên giống như thủ lĩnh của giặc Oa, ngắm thật kỹ rồi mới bắn một phát tên. Bị mất thủ lĩnh, không chỉ chiến pháp của bọn giặc Oa hỗn loạn mà sự trấn áp về mặt tâm lý còn hơn hẳn sự sợ hãi với cái chết. Không đợi đại thủ lĩnh hạ lệnh, bọn chúng đã dần dần bắt đầu dồn dập thoái lui.

Tính đa nghi của người Oa vốn nặng, không chỉ Phì Tiền Thọ nghi thần nghi quỷ, mà đến hải tặc sinh trưởng tại Trung Quốc như Trần Đông cũng thầm sinh nghi, không rõ đám quan binh này có lai lịch như thế nào?

Phì Tiền Thọ thấy sức sát thương của viên quan văn cầm đại đao trong đội ngũ Diêm binh thực sự kinh người, quân Minh lại có ám tiễn bắn ra không ngừng, liền vẫy tay kêu người mang một cây cung cứng đến. Gã lắp tên vào cung, ngắm chuẩn Mẫn Văn Kiến, cũng muốn dùng ám tiễn bắn chết tướng lĩnh quân Minh.

Nhóm xạ thủ đứng trên đình thấy trên bãi cát không còn thủ lĩnh giặc Oa để ngắm bắn nữa bèn dần dần chuyển dịch mục tiên lên trên thuyền. Một tên chưởng ban (đội trưởng đứng đầu đám sai nha) quan sát thấy bọn giặc vây quanh hai người trên một con thuyền lớn đậu phía sau cùng, trong đó có một người đang giương cung lắp tên ngắm vào đám quân Diêm binh. Lập tức tên chưởng ban gọi một tên tiểu đội trưởng (dịch trưởng) lại, đổi lấy Bách Biến cung trên tay hắn. Loại cung này không phải là vũ khí trang bị cho quân đội phổ thông mà là một loại lợi khí do Cẩm Y vệ nghiên cứu chế tạo được: loại cung này có thể tùy ý tăng giảm dây cung, điều chỉnh sức mạnh của cung. Đổi lấy Bách Biến cung xong, tên chưởng ban lập tức điều chỉnh cung thành cung tam thạch[12], lắp một mũi tên lông điêu. Sử dụng hết sức lực toàn thân để kéo cung, hắn nhắm chuẩn vào trước ngực của tên đầu lĩnh người Oa đang giương cung kia bắn đi.

Tam thạch cung này rất hao tốn sức lực. Tuy đứng ở trên đình không bị bất kỳ uy hiếp gì nhưng cả hai chục người đều đã trải qua một thời gian dài phải cẩn thận ngắm chuẩn các tên thủ lĩnh người Oa rồi mới bắn tên nên lúc này cả bọn đều đã mệt đến mức tứ chi bải hoải, cả người rã rời. Tên chưởng ban này tuy trời sinh thần lực nhưng mũi tên vừa được bắn ra, cung cũng đã buông rơi xuống đất, cánh tay cũng rã rời.

Thanh đao trong tay của Mẫn Văn Kiến nặng đến bốn mươi cân, khi vung lên thì sức mạnh không phải chỉ có một hai trăm cân nữa. Nếu như triển khai thế đao mượn lực dùng lực thì đở phải tốn nhiều sức, cho nên để không bị bó chân bó tay cũng như để tiện sử dụng đao, lão vừa xông vào đám giặc Oa thì lập tức kéo dãn cự ly với đám Diêm binh thủ hạ của mình, tha hồ vung đao di chuyển chém giết. Cả bộ quan phục sớm đã bị vấy đầy máu tươi.

Phì Tiền Thọ đứng ở đầu thuyền giương cung nhắm tên vào Mẫn Văn Kiến. Nhưng Mẫn Văn Kiến đang xông pha chém giết không ngừng, thỉnh thoảng lại có tên người Oa chạy qua chạy lại chắn trước mắt hắn, cho nên rốt cuộc mũi tên của hắn vẫn còn chưa bắn đi được thì mũi tên của tên chưởng ban đã bắn tới. Vốn được ngắm vào ngực trái của Phì Tiền Thọ, nhưng khi tên rời khỏi dây cung thì hơi bị chấn động nên mũi tên liền bị mất độ chính xác, cắm thẳng vào vai của hắn.

Phì Tiền Thọ đang cảm thấy bả vai không còn sức để giương cung nữa bỗng một luồng lực lớn đẩy lùi hắn lại vài bước, lưng tông thẳng vào cột buồm một tiếng “bùng”. Lúc này hắn mới cảm nhận được một cơn đau thấu tim gan, nhìn lại thì thấy một mũi tên sắc cắm vào vai phải xuyên qua phía sau vai, chỉ còn lại một đoạn lông điêu ở trước ngực.

Phì Tiền Thọ đau đớn la to “Ay da”, tưởng chừng như ngất đi luôn. Trần Đông thấy vậy cũng hãi hùng, hoảng sợ ngồi thụp xuống, vội quát lớn:
- Mau, mau rút quân! Quân Minh đã đề phòng sẵn, lập tức rút binh.

Bọn giặc Oa xung quanh cũng giật mình kinh hãi. Chúng không ngờ khoảng cách xa như vậy mà quân Minh lại có thể bắn tên trúng đích, hơn nữa lực bắn lại uy mãnh bá đạo, có thể xuyên qua cơ thể con người, chứ không còn hời hợt như đám mưa tên lúc ban đầu. Hai tên lâu la vội vàng giơ ốc biển, nằm mọp trên mạn thuyền thổi lên “Tu tu”.

Sớm đã có ý rút lui nên vừa nghe tiếng ốc biển vang lên, bọn giặc Oa trên bờ cảm thấy như được đại xá, lập tức quay người tháo chạy, hộc tốc trèo lên thuyền, hạ buồm, thả mái chèo xuống, vội vội vàng vàng khua chèo trốn chạy.

Hai chục tên giặc Oa đuổi theo bọn vệ quân bỏ chạy khi nãy đã chiến đấu hồi lâu với bọn người Chủng thiên tổng, chém giết đến sức cùng lực kiệt, bị thương lẫn chết chỉ còn lại bảy tám tên, còn Chủng thiên tổng dẫn theo ba tên thương binh vừa chiến vừa lùi. Đến lúc gió truyền tiếng ốc biển thu quân đến, bọn giặc Oa định quay người tháo chạy thì thấy chiến thuyền lớn bên sông đã đi đến giữa sông.

Bây giờ đã là lúc thủy triều xuống, nước đang rút nên thuyền đi khá nhanh, hơn nữa bọn giặc trên thuyền cũng đang dốc hết sức lực để chèo, cho dù bọn chúng có chạy đến bên sông thì cũng không thể đuổi kịp để lên thuyền. Lúc này từ trong trấn lại vang đến tiếng reo hò inh ỏi. Thì ra đám diêm thương lớn trong trấn biết rằng nếu như giặc Oa mà đánh được lên bờ thì những người bị tổn thất lớn nhất chính là bọn họ, nay lẵng lặng quan sát một hồi thì thấy quân Minh có thể chống đỡ được giặc Oa liền dẫn theo gia đinh, người hầu mang côn, gậy, cuốc, xẻng… chạy ra bờ sông trợ chiến.

Tên giặc Oa kiêu dũng nhất kia giết được năm, sáu tên thân quân, trên người cũng bị trúng hai đao. Tuy gã bị thương không nặng nhưng lại không được băng bó nên mất máu quá nhiều, đầu óc sớm đã choáng váng, lúc này vung đao lên giống như vờn múa, không còn thấy cái vẻ uy phong giống như sát tinh khi mới xông lên bờ. Gã bị bọn gia bộc của đám diêm thương vây quanh dùng đòn gánh, cuốc xẻng đồng loạt đánh ngã. Nếu như Dương Lăng không muốn giữ lại vài tên còn sống, cho người đến ngăn lại thì gã đã bị đập chết tươi.

Đầu tiên Dương Lăng dẫn người ra bãi cát xem xét. Ngoại trừ xác chết và thương binh khắp nơi, ở trên bờ còn có hơn bốn mươi tên người Oa bị thuyền giặc bỏ lại, bị tám mươi thanh đao thép kiềm chế, hoàn toàn không còn sức lực để kháng cự.

Dương Lăng nhặt một mũi tên mà quan binh vệ sở đã bắn lên quan sát. Nhận thấy mũi tên đó nhẹ tênh không đầy một lạng, y mới chợt hiểu tại sao những mũi tên này hoàn toàn không thể khiến giặc bị thương. Đám quan binh của vệ sở thường ngày chểnh mảng luyện tập, không kéo nổi cung, không bắn được tên nên để đánh lừa người khác, bọn chúng chỉ còn cách chế loại tên nhẹ tênh này. Tên thì bắn xa được rồi, nhưng lại quá nhẹ nên hoàn toàn không có lực, hơn nữa bên bờ sông lại có gió thổi mạnh, nói là bắn tên thì không bằng nói là thổi xuống, làm gì có sức sát thương cơ chứ?

Coi như đã biết được khả năng chiến đấu của vệ quân Giang Nam, Dương Lăng chỉ còn biết lắc đầu. Y căn dặn thuộc hạ quét dọn chiến trường rồi đích thân dẫn mấy tên thân binh vội vàng đi về phía Chủng Thiên tổng. Lúc này Chủng thiên tổng mũ giáp xô lệch đang đứng ỳ một chỗ giống như đang nằm mơ, bắp tay bị trường thương đâm trúng, cả cánh tay nhuốm máu hồng nhưng tựa như gã không hề có cảm giác gì.

Từ trước đến nay, quan binh ở duyên hải sợ giặc Oa như sợ cọp. Sự sợ hãi đó phát xuất từ tận tâm can, vừa thấy bọn chúng thì thật là hồn bay phách tán, hoàn toàn không còn dũng khí để chiến đấu. Hình ảnh hai trăm tên giặc Oa đuổi hai nghìn quan binh chạy loạn khắp rừng khắp núi giống như sói đuổi đàn dê cũng không phải là cảnh hiếm thấy gì. Hôm nay, nhân số tương đương nhau lại có thể chiến đấu ngang sức với bọn chúng lâu như vậy, còn đích thân giết chết bốn tên giặc Oa, xem ra bọn chúng cũng chẳng phải tài giỏi gì, dũng khí và tự tin của Chủng thiên tổng lập tức tăng cao vùn vụt. Cũng đến lúc này gã mới bực tức nghĩ đến năm trăm tên binh lính khiếp nhược chỉ biết ăn chứ chẳng biết đánh chác gì của mình.

Dương Lăng đi đến trước mặt mấy tên người Oa bị đánh đến rách đầu chảy máu, nhìn chòng chọc vào tên người Oa một đao chém chết binh lính Minh, một mình xông vào trong đội hình của quân Minh, hỏi:
- Có biết nói tiếng Hán không? Thủ lĩnh của các ngươi là ai?

Tên giặc Oa khắp mặt đầy máu kia chỉ hung hãn lườm Dương Lăng, đứng ngạo nghễ không trả lời. Một tên gia bộc của đám diêm thương thấy gã ương ngạnh bèn vung cuốc đập mạnh vào sau đầu gối gã, quát:
- Không nghe thấy lão gia hỏi gì sao?

Cuốc đập vào sau đầu gối khiến một gối của tên người Oa đó dập mạnh xuống đất, nhưng gã lại lập tức nhẩy bật lên, cái chân cong lại hơi run rẩy, hiển nhiên là bị thương không nhẹ nhưng vẫn gắng gượng không quỳ. Dương Lăng giơ tay ngăn cản người dân vẫn còn muốn đánh gã, hạ lệnh:
- Trói bọn chúng lại, trở về tìm một người biết tiếng Oa đến, ta có điều muốn hỏi bọn chúng.

Lúc này Mẫn Văn Kiến mồ hôi nhã nhễ nhại vác thanh đại đao đã bị cong lưỡi chạy lại, hào hứng cười lớn:
- Sảng khoái, sảng khoái! Tháng năm vừa rồi, ta thống lĩnh ba trăm Diêm binh đánh lùi hai trăm tên giặc Oa đã cảm thấy mình uy phong lẫm liệt lắm rồi, không ngờ ngài vừa mới đến thì ta đã dùng ít thắng nhiều, ha ha ha… quả nhiên là phúc tướng của ta.

Lão nói đến đây bỗng chợt nhớ hiện giờ chức tước của Dương Lăng cao hơn mình rất nhiều nên không khỏi nhếch miệng cười miễn cưỡng. Dương Lăng quay về phía lão chắp tay vái, thán phục:
- Nếu như nói về xông trận giết địch, tôi thế nào cũng không thể bì được với uy phong của Mẫn đại nhân. Bảo đao của đại nhân hôm nay quả thật là đại khai sát giới rồi. Bọn giặc còn lại bên bờ sông đã được bắt giữ rồi, phải không?

Mẫn Văn Kiến trừng đôi mắt tròn như đỗ xanh, ngạc nhiên hỏi:
- Bắt giữ làm gì? Ta đã sai người giết hết bọn họ rồi, những ai vẫn còn chưa chết hẳn thì chém thêm một đao, nếu không phải sợ làm thối nước sông thì đã ném toàn bộ chúng xuống sông cho cá ăn. Trói mấy tên này làm gì? Mau chóng giải quyết luôn cho xong chuyện.

Nghe vậy, Dương Lăng sững sờ chẳng biết nói gì. Lúc nãy khi y đi đến đây, đám giặc Oa không kịp lên thuyền rút lui vẫn còn khoảng bốn mươi người, cộng thêm đám người bị thương ngã xuống đất chưa chết thì cũng không dưới một trăm người. Dương Lăng vốn định sai người bắt giữ toàn bộ, không ngờ Mẫn Văn Kiến tự thị sai người giết sạch. Dương Lăng đến từ hậu thế nên y cảm thấy ngược đãi tù binh là không nhân đạo, cho nên nghe vậy không khỏi lộ ra vẻ bất nhẫn, không hài lòng.

Trong đám diêm thương dẫn gia đinh, kẻ hầu chạy lại trợ giúp có một người trung niên tên Mai Xuân An. Đám diêm thương này ngoại trừ một số ít được kế thừa gia sản từ tay cha ông, phần lớn đều là dân khốn khó dần dần làm giầu từ buôn bán muối lậu, trở thành thương nhân đại lý cho triều đình bán muối, cho nên phần lớn đều khỏe mạnh, biết võ nghệ. Tuy Mai Xuân An có cái tên nho nhã nhưng lại có thân hình dũng mãnh uy vũ, nét mặt hung tợn.

Gã thấy Dương Lăng có ý không hài lòng, liền giả lả cười:
- Đại nhân nhân hậu, nhưng đám người Oa này tham lam thành bản tính, không biết hối cải. Thảo dân có nghe trưởng bối kể lại, trước đây khi bắt được giặc Oa đầu hàng, chúng ta cũng thả chúng đi, kết quả là bọn chúng trở về vẫn kéo đến chà đạp người dân của chúng ta rồi đánh cướp tài vật chở về nước, còn dẫn thêm càng nhiều người Oa đến gây tội ác. Cho nên bây giờ, bắt được người Oa đều phải giết chết. So với quân đội ôn hòa văn minh, quân đội dũng mãnh hung tàn càng khiến cho người ta phải kính sợ hơn.

Dương Lăng nhớ đến người Mỹ thả bom hạt nhân đồ sát hai thành phố Nhật Bản khiến cho người Nhật Bản sợ đến tận bây giờ; còn người Trung Quốc rộng lượng, thả phạm nhân chiến tranh của bọn họ về nước, đến bây giờ dù tóc bạc đã đầy đầu, phần lớn những người đó vẫn cổ vũ chủ nghĩa quân quốc, kích động hận thù, làm tổn hại người Trung Quốc. Y không khỏi cười khổ.

Mạc Thanh Hà chưa bao giờ thấy quân Minh anh dũng như vậy, lúc này cũng không khỏi nhìn nhận sức chiến đấu của thân quân của Dương Lăng với con mắt hoàn toàn khác hẳn. Hắn mỉm cười nói với Dương Lăng:
- Lần này Dương đại nhân đích thân chỉ huy, quân ta giành được thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt hơn bốn trăm tên tặc khấu. Ít ngày nữa tấu trình về Kinh Sư, tên tuổi của đại nhân sẽ vang dội khắp nơi, thật đáng vui mừng. Hạ chức xin chúc mừng đại nhân trước.

Mẫn Văn Kiến nghe vậy cũng rất phấn khởi. Lần này đích thân Dương Lăng tọa trấn, y là khâm sai, công lao này chẳng còn ai có thể giật mất. Thế nhưng lão hiểu rất rõ phẩm hạnh của Dương Lăng, biết rằng Dương Lăng quyết không tham công, anh hùng chống Oa lần này cũng sẽ có phần của mình. Lão không khỏi khấp khởi vui mừng:
- Đúng vậy! So với quân lính chính quy của chúng ta, vệ quân ở duyên hải kém rất xa, trước giờ chỉ biết bại trận chứ chưa hề biết thắng trận. Lần này đại nhân vừa đến thì nghịch chuyển càn khôn, công lao thật to lớn. Ái à, Chủng đại nhân! Không phải ta nói ngài đâu! Coi ngài thường ngày nho nhã, quan văn như ta trông giống võ tướng, còn võ tướng như ngài lại giống quan văn, nói một câu thật tâm, trong lòng lão Mẫn ta vẫn coi thường ngài. Thế nhưng hôm nay xem ngài thật là một tay hảo hán, lão Mẫn ta bội phục vô cùng!

Chủng thiên tổng nghe Mẫn Văn Kiến nói đến đỏ mặt, ngượng ngùng đáp:
- Mẫn đại nhân quá khen rồi. Mạt tướng… hổ thẹn quá. Binh lính dưới tay toàn là một đám vô dụng, vừa thấy giặc Oa đã hoảng sợ, thật là hổ thẹn.

Dương Lăng thấy nửa người hắn còn nhuốm đầy máu tươi nên cũng không nỡ khiển trách, đành phải an ủi:
- Bổn tướng khi còn ở phương bắc từng gặp một viên mãnh tướng họ Giang, đối mặt với đám thát tử còn lợi hại hơn bọn giặc Oa này mà y cũng có thể lấy một địch mười. Y từng nói lần đầu tiên ra chiến trường y cũng sợ đến hồn bay phách tán, phải nhờ vị thập trưởng[13] cứu y ra khỏi vòng vây. Qua lần chiến đấu này ngươi cũng nhìn thấy đấy, đám giặc Oa này cũng chả có gì lợi hại, chỉ cần không nhát gan sợ chiến thì bọn chúng cũng chả chiếm được ưu thế gì. Chỉ là… đám quân lính của ngươi … thật sự cần phải luyện tập cho tốt.

Chủng thiên tổng ngượng đến đỏ cả mặt, vâng vâng dạ dạ đáp:
- Vâng vâng vâng! Mạt tướng xin thọ giáo, mạt tướng xin tuân lệnh.

Mẫn Văn Kiến lưu lại một số quân binh quét dọn chiến trường; đám diêm thương cũng tự tổ chức dìu đám binh lính bị thương vào trấn trị thương. Sau khi thống kê, đám diêm binh kiêu dũng thiện chiến và hơi du côn kia do vũ khí không bằng người nên tử thương quá nửa, hoàn toàn không thương tổn gì chỉ còn lại một trăm bốn mươi người.

Về phía giặc Oa, ngoại trừ phải bỏ lại bốn mươi người và hơn trăm tên thương binh, còn có hai trăm sáu mươi người chết ngay tại chỗ, trong đó sáu phần là chết dưới đao, súng và cung tên của sai nha. Nhưng tám mươi tên kiện tốt xung phong đi đầu cũng tử thương gần ba mươi người làm cho Dương Lăng cảm thấy vô cùng hối hận. Nếu biết có chuyện như vậy, y đem toàn bộ ba trăm thân quân đến thì chiến công há chỉ có chừng đó.

Dương Lăng quay lại dinh thự lâm thời do thị trấn sắp sẵn, tìm được một người hiểu tiếng Oa. Y đang chuẩn bị đi đến căn phòng nhỏ phía tây – nơi nhốt bọn tù binh người Oa - để tìm hiểu tình hình của hải tặc thì mấy vị trưởng giả trong trấn được người dìu tìm đến. Vừa thấy Dương Lăng thì các vị lập tức dập đầu cảm tạ, cảm ơn khâm sai đại nhân đã tấn kích mạnh mẽ bọn giặc Oa, trừ hại cho nhân dân trong trấn; tiếp đó liền khóc sướt mướt yêu cầu khâm sai đại nhân làm chủ cho dân, xử tử hết tất cả giặc Oa.

Dương Lăng thấy mấy vị trưởng giả này đều đã bảy tám chục tuổi mà còn dập đầu vái lạy y, nên liền vội vàng đỡ bọn họ dậy. Nhưng muốn y đích thân ra lệnh giết chết tù binh, quả thực y không thể thốt ra lời được nên chỉ biết khó xử đưa mắt nhìn Trương Thiên sư. Những người già này đều tin phật tin đạo, nếu như Trương thiên sư ra mặt khuyên giải một hồi, có lẽ có thể khuyên được bọn họ ra về.

Trương thiên sư hội ý, tiến lên trước cúi đầu chào mấy vị lão nhân, nói:
- Các vị lão nhân gia, trời có đức hiếu sinh. Bây giờ những tên giặc Oa này đã thúc thủ chịu trói, nếu như nhất loạt xử tử bọn chúng thì không tránh khỏi tổn thương hòa khí của trời đất. Bọn chúng làm nhiều điều ác, Dương đại nhân sẽ không tha cho bọn họ. Để bọn chúng chịu tội trong lao ngục, có gì mà không được chứ?

Tuy Trương Thiên sư còn ít tuổi, nhưng quả nhiên mấy vị lão nhân gia này đều vô cùng tôn kính chàng, không dám thất lễ. Một ông lão khóc kể:
- Thiên sư! Đám giặc Oa này không còn nhân tính, cho dù có xử lăng trì cũng không thể chuộc được tội của bọn chúng, bọn chúng giết người phóng hỏa, đào mồ quật mả, việc xấu xa gì cũng làm. Năm trước giặc Oa đổ bộ, chính là ở Lão Diêm Thương[14], chúng đã ném một đứa bé mới tám tháng tuổi lên giường, dùng nước nóng để tưới, nghe tiếng nó khóc để mua vui, Thiên sư ơi…

Nghe vậy, một luồng khí lạnh từ chân bốc lên đỉnh đầu Dương Lăng. Vì sinh sống hay vì cầu tài mà giết người thì y còn miễn cưỡng chấp nhận; cường đạo mà, bạn còn mong bọn chúng phát lòng từ tâm sao? Nhưng hành vi mất hết nhân tính này, hoàn toàn là để thỏa mãn một loại dục vọng biến thái không còn nhân tính. Tưới nước sôi lên người một đứa trẻ vô tội chỉ để nghe tiếng nó khóc làm vui hay sao?

Da đầu Dương Lăng như muốn nổ tung, Cao Văn Tâm và Trương Phù Bảo nghe vậy đã tràn nước mắt. Ngay cả Trương thiên sư luôn miệng thiên đạo, nhân tâm cũng dựng đứng đôi chân mày, sát khí bừng bừng trong mắt, không còn chút nào hình dáng của một người tu đạo.

Một lão nhân khác lại kể:
- Không chỉ có thế! Buổi trưa bọn chúng ăn cơm ở một hộ gia đình, khi đi giết toàn bộ gia đình người ta, lấy máu ngâm rượu, nói là rất bổ cho cơ thể. Gia đình đó có một phụ nữ có thai, bọn chúng đánh cuộc là trai hay gái rồi mổ bụng lấy thai nhi để kiểm tra. Còn có một phú hộ ở đó, bị bọn chúng bắt cóc đòi tiền chuộc, tiền bạc trong nhà gom không đủ số lượng thì chúng cưa người thành từng mảnh trả về.

Sắc mặt của Dương Lăng tái xanh, run giọng:
- Không cần nói nữa, không cần nói nữa!

Ông lão trước lại kể lể tiếp:
- Đại nhân! Chúng ta coi bọn chúng là con người, nhưng bọn chúng không coi chúng ta là con người. Bọn chúng cướp của cải thì thôi, chứ giết người phóng hỏa như vậy, ngài nói xem không phải súc sinh thì là gì? Bọn chúng còn thích nhất là bắt sống đàn bà và trẻ em đẹp đẽ, ép buộc bọn họ làm những việc xấu xa, đến như lão già ta cũng không thể kể ra được à!

Dương Lăng chẳng thể nghe thêm được nữa, quay người bước vội về phía cửa. Y vừa bước đến cửa, Trương Phù Bảo từ trong phòng đã phẫn nộ hét lớn:
- Giết hết bọn chúng! Họ Dương kia! Nếu như ngươi còn định giữ mạng sống cho bọn chúng, ta… ta… ta ngày ngày sẽ vẽ bùa đọc chú trù yểm nhà ngươi!

Dương Lăng dậm mạnh chân, không hề quay đầu lại mà bước nhanh ra khỏi đại sảnh.

Trong một căn phòng nhỏ phía tây, mấy tên giặc Oa bị trói vào cột nhà, Dương Lăng sắc mặt âm trầm bước vào. Trịnh bách hộ và mấy tên sai nha thấy vậy vội đứng lên thi lễ:
- Đại nhân!

Dương Lăng gật gật đầu:
- Ừ, hôm nay nhờ có các ngươi. Ngươi nhớ thu nhặt cho kỹ thi thể của các tướng sĩ vì nước quên thân. Khi trở về kinh, bổn quan nhất định trợ cấp trọng hậu, các huynh đệ tham chiến hôm nay cũng nhất loạt được trọng thưởng.

Y nói xong quay đầu lại, ánh mắt quét qua người mấy tên giặc Oa kia, cuối cùng nhìn vào một gã đàn ông mặc một bộ quần áo phụ nữ người Hán, ánh mắt của hắn chạm vào mắt Dương Lăng thì run rẩy né tránh một hồi. Dương Lăng liền đến trước mặt hắn, hỏi:
- Thủ lĩnh của các ngươi là ai? Có bao nhiêu người? Thường ngày hoạt động ở đâu?

Người hiểu tiếng Oa do Dương Lăng gọi đến vội dịch sang tiếng Oa, tên đó nghe xong vẫn không nói một lời. Dương Lăng cười nhẹ, hỏi tiếp:
- Ngươi cho rằng bọn ta không biết dùng thủ đoạn lợi hại gì để đối phó ngươi phải không? Tưới nước nóng ư?
Ánh mắt lạnh lẽo của Dương Lăng đảo trên người hắn một lúc, nói tiếp:
- Nếu như lấy nước sôi tưới lên người ngươi, rồi dùng bản chải sắt sát muối chà qua xát lại, ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Hay là lấy miếng sắt nung nóng chọc vào chân ngươi…

Những thứ mà Dương Lăng vừa nói đều là thủ đoạn đối phó phạm nhân của Cẩm Y vệ. Người đứng bên cạnh còn chưa kịp dịch thì trên trán của tên mặc quần áo phụ nữ đã nhễ nhại mồ hôi lạnh, bỗng nhiên khàn giọng hỏi:
- Nếu như ta khai báo, đại nhân có tha chết cho ta không?

Dương Lăng sững người rồi tiếp đó nổi giận đùng đùng, lạnh giọng quát hỏi:
- Ngươi là người Hán?

Nghe Dương Lăng quát lớn, tên đó giật mình run rẩy một hồi, nhưng vẫn ngoan cố đáp:
- Đó là do tôi không còn cách gì để sống nên mới đi theo con đường này. Mấy người bọn chúng đều là người Oa thực sự, sẽ không chịu khai đâu. Nếu đại nhân đồng ý tha cho tôi, tôi mới chịu khai.

Ánh mắt của Dương Lăng đập vào chiếc áo phụ nữ mầu xanh nhạt trên người hắn. Y vân vê vạt áo của chiếc áo đó một hồi rồi hỏi:
- Bộ y phục này do ngươi ăn cướp? Chủ nhân của nó… cô nương kia thế nào rồi?

Sắc mặt của tên này biến đổi hẳn. Chiếc áo này là lúc lên bờ cướp bóc ở Phúc Kiến vào năm trước hắn đã lột từ trên người một thiếu phụ, người con gái đó… người con gái đó… Nhớ đến hình dạng khủng khiếp vào phút cuối của nàng thiếu phụ có dung mạo tương đối đẹp đẽ đó, hắn bất giác run sợ rùng mình.

Thấy hắn ấp úng định nói dối, Dương Lăng phải quay người đi, cố dẹp bỏ ý tưởng muốn bóp cổ hắn vừa thoáng qua trong đầu. Một lúc sau y mới gằn từng chữ từng chữ:
- Ngươi khai thật, ta sẽ để ngươi chết một cách thoải mái! Đây là điều kiện duy nhất! Ngươi không còn sự lựa chọn thứ hai!

Tên đó đờ người ra, nghiền ngẫm lại một lần lời nói của Dương Lăng, lúc này mới ngộ được ý nghĩa trong lời nói của Dương Lăng, ánh mắt bất giác lộ vẻ sợ hãi. Dương Lăng lành lạnh nói tiếp:
- Ngươi quyết định chưa? Ta không nhất thiết phải biết tình hình của các ngươi, nếu như ngươi không khai, ta sẽ không cho ngươi cơ hội thứ hai nữa đâu!

Mắt thấy Dương Lăng từng bước tường bước đi ra khỏi cửa, rốt cuộc tên hải tặc đã từng dùng nhiều cách kỳ lạ cổ quái để hành hạ người khác làm vui không nén được kêu lớn:
- Đại nhân dừng bước, tôi khai, tôi khai hết! Chỉ xin đại nhân cho tôi được toàn thây.

Tên đó đem những tình hình hắn biết lần lượt khai rõ ra hết. Thực ra thì tin tức hắn cung cấp cũng không có giá trị to lớn gì, đám giặc Oa này lẩn trốn khắp nơi, không có nơi ở cố định. Hiện giờ thủy sư nhà Minh cũng không đủ thực lực để ra biển vây bắt, nên muốn đối phó với bọn chúng, chủ yếu vẫn phải đợi bọn chúng vào đất liền cướp bóc để nghiêm trị, hơn nữa còn có thể dự đoán được: “Bọn chúng nhất định sẽ đến.”

Thế nhưng làm cho Dương Lăng ngạc nhiên là từ miệng người này y còn biết được nhiều điều liên quan đến nội tình của Nhật Bản. Mạc Phủ ngày càng suy yếu, đã không thể khống chế các lãnh chúa ở các nơi; hơn nữa các lãnh chúa, võ sĩ, thủ lĩnh ở các nơi cũng vô cùng mong muốn được giao dịch với Đại Minh để khuếch trương thực lực của bản thân.

Có một số thế lực có con đường bí mật riêng để buôn lậu từ Đại Minh cho nên cũng phản đối giặc Oa hoành hành gây ảnh hưởng xấu đến việc làm ăn của bọn họ. Hơn nữa những tập đoàn buôn lậu do chính phủ tổ chức này không những giao dịch ngầm với thương nhân duyên hải Đại Minh, mà còn cùng với Lã Tống, Nam Dương tìm được một tuyến giao dịch đường biển. Những thông tin này hiện giờ vẫn còn chưa dùng đến nhưng chưa chắc sau này sẽ không dùng đến, Dương Lăng đều thầm ghi nhớ cả trong lòng.

Càng làm cho Dương Lăng ngạc nhiên là tiền tệ thông dụng của Nhật Bản lại là tiền đồng của Đại Minh. Nhật Bản đã từng thử tự chế tạo tiền tệ, nhưng tiền đồng do bọn họ chế tạo lại có chất lượng rất kém, dùng không bao lâu thì đã bị mài mòn, nứt gãy, trở thành một đám bột đồng. Cho nên chỉ có thể lấy tiền tệ của Đại Minh làm tiền tệ thông dụng của nước Nhật Bản.

Sau khi gia tộc Túc Lợi không còn xưng thần với Đại Minh thì hai nước đã đoạn tuyệt giao dịch. Nhật Bản cần gấp một lượng lớn tiền đồng, nhưng không có cách gì để đạt được, mà một quốc gia không có tiền tệ thì tình hình thật là tệ hại không thể tưởng tưởng nổi, cho nên chính phủ chỉ có thể buôn lậu, thậm chí là làm hải tặc.

Dương Lăng nghe vậy sửng sốt một hồi. Y không ngờ tiền tệ khi ấy của Trung Quốc lại có thể hoàn toàn thay thế thay thế tiền tệ của một quốc gia khác. Sự hận thù và căm ghét đối với bọn giặc Oa hoàn toàn không còn nhân tính kia không làm Dương Lăng mất đi lý trí; y không cho rằng chỉ có chém giết mới là thủ đoạn duy nhất để giải quyết triệt để đám gieo họa trên biển.

Dương Lăng nghĩ thầm: “Giặc Oa trên biển nhất định cần phải đánh, nhất định phải nghĩ ra cách tiêu diệt bọn chúng. Nhưng không nhổ bỏ tận gốc mầm mống tai họa này thì tiêu diệt hết đám này sẽ lại tiếp tục xuất hiện một đám khác. Cần phải ổn định lâu dài, nhất định cần phải tiến hành cả khơi thông lẫn ngăn ngừa.”

Vốn Dương Lăng không nắm chắc sau khi về kinh sẽ thỉnh cầu được Hoàng thượng cho thông thương với Nhật Bản, bởi vì y không tự tin đủ sức kiềm chế sự cản trở từ trong triều đình, đặc biệt là ba vị đại thần trong Nội các. Y lờ mờ nhớ rằng trong lịch sử, khi Lưu Cẩn nắm quyền thì quyền lực của lão khuynh đảo triều đình. Nếu như triều đình do lão làm chủ, thì tên bất tài vô học chỉ biết thu gom tiền bạc này nhất định sẽ không cản trở giao thương hai nước, thế nhưng Dương Lăng không thể nhớ chính xác khi đó là lúc nào, y cũng không còn thời gian để đợi nữa. Nhưng bây giờ y lại có chút chắc chắn, nếu như dùng thủ đoạn kinh tế như thông thương để tiếp nối thủ đoạn chính trị, đám quan văn kia còn phản đối sao? Thông thương có thể làm cho hai nước hợp lực đả kích hải tặc, khống chế bọn chúng từ kinh tế. Hơn nữa để nỗ lực duy trì địa vị lãnh chúa, tướng quân bọn chúng sẽ không nảy sinh dã tâm nhòm ngó trung nguyên. Nếu như tiền tệ của bọn họ đều xuất phát từ tay của chúng ta thì một khi thật sự nảy sinh tranh chấp, chỉ cần ngầm chế tạo một lượng lớn tiền tệ đưa vào đất nước bọn chúng thì còn sợ chính phủ đối địch kia không sụp đổ sao?

Còn về tương lai sau này, bọn chúng có khả năng chế tạo tiền tệ của mình hay không, thậm chí kinh tế có phát triển mạnh hơn nữa hay không thì cũng không còn nằm trong những suy tính của Dương Lăng. Người ta không thể chỉ dựa vào lão tổ tông để hưng thịnh nhiều đời, bậc tiền bối xây dựng nên nền móng tốt cho ngươi, những việc còn lại tự nhiên hậu bối phải quan tâm.

Kinh sư như thế nào rồi, đã rời kinh được một tháng, mọi việc trong triều đều bình thường chứ? Đợi người được phái đi Kinh sư quay về thì sẽ biết. Dương Lăng cảm thấy hiện giờ mình có quá nhiều việc cần phải chạy đua với thời gian, hận rằng không thể lập tức kết thúc mọi việc lúc này, mau chóng về kinh thành, thế nhưng… có thể sao? Không thể xử lý mọi việc ở đây thì không thể hàng phục được Cẩm Y vệ của Đông Xưởng, không hàng phục được Cẩm Y vệ của Đông Xưởng thì làm gì có thực lực để kháng cự lại với ngoại triều, nhanh chóng thực thi chính sách?

Dương Lăng dừng bước, thở dài một tiếng, đưa chân bước ra khỏi cổng. Bỗng y dừng lại ra lệnh:
- Cho tên này chết một cách thoải mái, những người khác thì giao cho người dân trong trấn xử lý!








Chú thích:

[1]giặc Oa: (tức giặc lùn)chỉ hải tặc Nhật Bản quấy nhiễu cướp bóc duyên hải TQ thế kỷ 14-16.
[2]Vệ sở: Quân đội triều Minh thực thi biên chế “Chế độ Vệ Sở”, tổ chức quân đội có hai cấp Vệ, Sở. Một Phủ thì thiết lập Sở, nhiều Phủ thì thiết lập Vệ. Vệ thiết lập chỉ huy sứ, thống lĩnh binh sĩ năm nghìn sáu trăm người. Dưới Vệ có Thiên hộ sở (một nghìn sĩ binh), dưới Thiên hộ sở thiết lập Bách hộ sở (một trăm binh sĩ ).
[3]Oa Đao: Chỉ một loại đao Nhật bản được sử dụng từ cuối nhà Minh đến nhà Thanh. Loại đao này có ưu thế bổ, chém, công thủ đều được, có thể sử dụng bằng hai tay.
[4]người Oa: chỉ người Nhật Bản.
[5] nha sai(phiên tử) : phụ trách truy bắt tội nhân.
[6]Quỷ tử: cũng chỉ người Nhật Bản.
[7]Lã Tống: Chỉ đảo Lữ Tống thuộc quần đảo Philippin. Thời Tống Nguyên, các thương thuyền thường đến đây buôn bán. Thời Minh gọi đảo này là Lã Tống.
[8]Khám hợp tức giấy phép; thời Minh, nhằm chỉ việc nước ngoài đến TQ tiến hành triều cống, giao dịch. Sau khi sơ Minh thực hiện “hải cấm”, chỉ cho phép nước ngoài và triều đình tiến hành triều cống giao dịch theo quy định về địa điểm và thời gian. Thương thuyền của nước ngoài chở cống phẩm và thổ sản của mình đến TQ, sau khi triều đình nhà Minh thu nhận cống phẩm, thu mua thổ sản, họ dùng hình thức “Quốc gia ban tặng” để ban trả các vật phẩm TQ mà các lái thương nước ngoài cần. Thời hạn cống của các nước từ 3 đến 5 năm. Đối với Nhật Bản thì quy định 10 năm. Các thuyền cống nhất định phải có khám hợp do triều đình nhà Minh cấp phát.
[9]Thuyền Phúc: Một loại thuyền biển nổi tiếng trong “tứ đại cổ thuyền” của TQ xưa. Thuyền có đặc điểm: phía đầu nhọn, phần đuôi rộng, hai đầu vểnh lên. Hai bên mạn thuyền hướng ra ngoài, hai bên đều có ván bảo vệ. Đặc biệt đầu thuyền cao, kiên cố, có thể xung kích, thích hợp làm thuyền chiến.
[10]Thuyền Quảng: Một loại thuyền biển nổi tiếng trong “tứ đại cổ thuyền” của TQ xưa. Sản xuất ở Quảng Đông. Đặc điểm cơ bản: thuyền dài, đầu thuyền nhọn, trên rộng dưới hẹp.
[11]Một loại đao thời Đường. Là một trong hai loại đao nổi tiếng thế giới khi ấy cùng với Đao Damascus của Ả rập.
[12]Đơn vị trọng lượng, một thạch bằng 60 kg. Chỉ lực kéo cung, càng nhiều thạch thì càng cần nhiều sức lực.
[13] Thập trưởng: Một loại quân hàm thời cổ. Năm người có lập một ngũ trưởng, hai mươi người lập một thập trưởng, trăm người lập một bách phu trưởng, năm trăm người lập tiểu đô thống, một nghìn người lập đại đô thống, ba nghìn người lập chánh, thiên tướng, năm nghìn người lập chánh, thiên nha tướng, một vạn người lập chính, phó tướng quân.
[14]Lão Diêm Thương: Tên gọi của một vùng đất thuộc Hải Ninh.

CHƯƠNG 131: TÊN ĐÃ LÊN DÂY

Dương Lăng ở lại Hải Ninh năm ngày, mỗi ngày đều đích thân cùng Cao Văn Tâm bôi thuốc trị thương cho đám diêm binh và thân quân của mình, hơn nữa phái đám người Trịnh Bách hộ giúp đỡ Chủng Thiên tổng huấn luyện vệ quân.

Đao của vệ quân không bằng đao của giặc Oa mà tạm thời lại không có cách nào để giải quyết vấn đề này, Trịnh Bách hộ đành dốc hết tinh thần và sức lực để vệ quân tăng cường trang bị cho lực lượng cung thủ và lính đánh thương, cho dù huấn luyện nhất thời không thể thấy hiệu quả nhưng dù sao cũng đã dạy bọn họ phương pháp rồi, chỉ cần kiên trì luyện tập thì lâu ngày tự nhiên có thể thấy được hiệu quả.

Việc đám vệ quân này không chịu nổi một đòn thì nguyên nhân quan trọng nhất là lòng quân rời rạc, bây giờ Chủng Thiên tổng dựa vào việc dùng hai mươi người chiến đấu không thua đám giặc Oa có số lượng tương đương thì lòng tự tin trong chốc lát tăng lên nhiều, sau khi tiếp thu kinh nghiệm xương máu đã chỉnh đốn quân đội vô cùng nghiêm ngặt. Các biện pháp như thưởng phạt phân minh xem ra không đáng chú ý nhưng lại đang dần dần từng bước thay đổi đạo quân này.

Mấy ngày này, đám quan viên của Tam ty[1] và Tri phủ của hai vùng Tô Hàng cùng với danh sĩ thân hào nườm nượp kéo đến Hải Ninh để an ủi quan binh khiến vệ quân bỗng chốc tiếng thơm vang dội. Đây là trận đánh giặc Oa đặc sắc nhất hoành tráng nhất của các tỉnh khu vực duyên hải Giang Chiết Mân Lỗ[2], năm trăm quân binh chiến đấu với số giặc Oa đông gấp đôi mà làm cho giặc Oa để lại bốn trăm thi thể, kết quả chiến đấu này làm cho vệ, sở khắp nơi phải nhìn với con mắt khác mà dân chúng và đám phú thương chịu đủ nỗi khổ bị hải tặc quấy rối cũng được mở mày mở mặt.

Đám diêm binh kia đã được sự khao thưởng của Bố Chánh sứ, Chỉ Huy Sứ ty, đám con buôn đến thăm viếng này đều có gia tài bạc tỉ, ra tay cũng hào phóng, luôn miệng gọi tráng sĩ, động cái là rút túi tặng vạn lượng bạc ròng mà Dương Lăng không lấy một đồng, Mẫn Văn Kiến cũng không phải là tham quan ăn chặn cho nên mỗi một quan binh đều gom góp được một phần tài sản không nhỏ.

Tính lưu manh của đám diêm binh này rất nặng, bình thường trộm gà bắt chó cũng bị nhân dân bản địa chửi bới không ít nhưng lúc này lại thành anh hùng trong mắt của dân chúng, đi đến chỗ nào chỉ cần nói là quan binh của ty Diêm Vận thì dân chúng đều hết lòng kính nể, cho dù đến cửa hàng ăn bữa cơm thôi chủ quán cũng không chịu lấy tiền. Tình cảnh này lọt vào mắt đám quan binh vệ quân làm họ thật là vừa xấu hổ vừa thẹn. Chịu sự kích thích sâu đậm đó, bọn họ chỉ hận không thể làm đám giặc Oatháo chạy kia quay lại một lần nữa, để có cơ hội làm cho dân chúng biết bọn họ cũng là đàn ông, cũng không phải là đồ sợ chết.

Bố Chánh sứ đã sai người đem tin chiến thắng báo về kinh thành, Dương Lăng cũng bí mật viết một bản tấu chương, đem tình hình duyên hải hiện tại kể lại tỉ mỉ một lần rồi nhanh chóng chuyển về kinh thành. Y không lập tức bẩm báo với Chính Đức về dự định kia của mình bởi vì vị tiểu hoàng đế này thường làm việc mà không nghĩ đến hậu quả, nếu như tiểu hoàng đế thấy kiến nghị của Dương Lăng rồi lập tức vội vã thi hành rồi vạn nhất bị bách quan trong ngoài triều ngăn cản thì sau này Dương Lăng đề ra sẽ mất đi hiệu quả bất ngờ.

Cho đến tận ngày thứ năm, Dương Lăng chuẩn bị hai mươi cỗ xe lớn, dự định mang theo thương binh trở về Hàng Châu, Ngô Tế Uyên lúc này cũng phái Liêu Quản sự đến để động viên quan binh. Hắn đã đem cái lợi-hại, được-mất của việc giao dịch đối với nước ngoài ghi lại kỹ càng, cùng đưa tới còn có cả Thập Mỹ Đồ của Đường Bá Hổ. Dương Lăng đón Liêu Quản sự vào phòng khách rồi vui vẻ mở bức Thập Mỹ Đồ đã nghe danh từ lâu này ra thưởng thức.

Chín bức tranh khác trong Thập Mỹ Đồ đều là do vị đại tài tử họ Đường này nhìn trộm dung mạo các mỹ nữ Tô châu rồi vẽ nên. Thẩm mỹ của vị Đường Nguyên giáp này quả nhiên không tầm thường, chín người đẹp này muôn vẻ rạng ngời, tươi đẹp như hoa tựa nguyệt, ai ai cũng kiều diễm đến rung động lòng người.

Bức tranh thứ mười vẽ Cao Văn Tâm quả nhiên đã được sửa, trong bức tranh là một mĩ nhân nhỏ nhắn đứng dưới gốc liễu, lau sậy chập chờn quanh đó, khói sóng mênh mông ngoài xa, bên cạnh gốc liễu phía sau người hiện ra một cánh tay ôm lấy bờ eo nhỏ nhắn của nàng, mĩ nhân quay đầu lại nhìn, vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt còn chưa tan biến thì sự vui mừng đã trào dâng, biểu cảm e thẹn dễ thương được khắc họa sinh động như thật.

Nhìn dáng vẻ như giận như vui, nửa kháng cự nửa nghênh đón thì rõ ràng nhân vật chỉ lộ ra một cánh tay trên bức tranh là tình lang mà nàng đã mến mộ từ lâu. Có thể khắc họa nhân vật sinh động như vậythì kỹ năng vẽ tranh của Đường Bá Hổ quả thật xuất thần nhập hóa, Dương Lăng thích đến không muốn rời tay liền lấy hai sợi tơ buộc lại để làm kí hiệu.

Ngoại trừ Thập Mĩ Đồ, tất nhiên còn bao gồm bức "Nguyệt Dạ Hậu Đình Hoa" mà lão Đường tặng miễn phí, tuy đây là một bức Xuân Cung đồ (tranh khiêu dâm) nhưng lại được vẽ bởi Đường Bá Hổ, Dương Lăng sao nỡ lòng thiêu hủy nên chỉ vội vội vàng vàng nhìn thoáng qua rồi cũng buộc lại, đặt vào trong đống tranh kia.

Liêu Quản sự cười tủm tỉm nói:
- Khâm sai đại nhân, lão gia nhà tôi nói đại nhân chống Oa giành toàn thắng ở đây, giúp nhân dân Giang Nam trút được nỗi oán giận, thực là đáng vui mừng, cho nên sai tiểu nhân mang lợn, bò và tiền bạc tặng cho thân quân của đại nhân và diêm binh chống Oa, xin đại nhân kiểm tra và thu nhận.

Dương Lăng vội vàng xua tay nói:
- Liêu Quản sự, Ngô tiên sinh tặng những lễ vật này cho bản quan đã quá hậu hĩ, nếu lại làm cho Ngô tiên sinh tốn kém thì bản quan thực là thấp thỏm không thể yên lòng, những thứ kia có lẽ xin Liêu Quản sự mang về cho, ý tốt lần này của Ngô tiên sinh bản quan xin ghi nhớ trong lòng.

Liêu Quản sự không đồng ý, nói:
- Đại nhân, lão gia nhà tôi nhà to nghiệp lớn, có vô số sản nghiệp ở hai vùng Tô, Hàng. Oa nhân lộng hành khiến Ngô gia mỗi năm đều phải chịu ít nhiều tổn thất, hiện giờ đại nhân đả kích mạnh mẽ giặc Oalàm lão gia nhà tôi cũng được lợi không ít, các chiến sĩ ở tiền phương dùng sinh mạng đánh đổi thì biếu tặng một chút tiền tài cũng là phải, đại nhân không cần khách khí. Hơn nữa, các thân hào danh sĩ có tiếng ở hai vùng Tô, Hàng đều có bày tỏ rồi, huống chi mấy đời lão gia nhà tôi sinh sống ở Giang Nam nếu không bày tỏ gì với tướng sĩ há chẳng phải là bị dân chúng mắng chửi là làm giàu bất nhân, keo kiệt vô lương tâm sao? Tiểu nhân chịu sự sai khiến của lão gia, nếu như đại nhân không nhận thì tiểu nhân cũng chẳng có cách gì trình bày với lão gia, xin đại nhân hãy thành toàn cho tiểu nhân.

Dương Lăng bất đắc dĩ đành phải cùng y ra ngoài tiếp nhận lễ vật và bức hoành mà Ngô gia biếu tặng. Mới ra khỏi đại sảnh vừa hay thấy Cao Văn Tâm mới sắc thuốc và băng bó cho tướng sĩ bị thương trở về, Dương Lăng vội dừng bước, nói:
- Văn Tâm, Liêu Quản sự mới mang đến cho ta vài bức tranh, nàng hãy thu dọn chúng vào hòm, hôm nay sẽ khởi hành quay về Hàng Châu. Mấy bức tranh đó là tác phẩm lớn của Giang Nam tài tử Đường Dần, nàng đừng có làm hỏng chúng.

Cao Văn Tâm “dạ” một tiếng rồi trở vào đại sảnh thấy hơn mười cuốn họa quyển (tranh cuốn) xếp trên mặt bàn, nàng nghĩ tới trong mười bức Thập Mỹ Đồ kia có một bức tranh vẽ bản thân, cũng không biết cái người tự xưng là Giang Nam đệ nhất tài tử kia vẽ nàng thành hình dáng thế nào nữa liền vội vàng mở từng bức ra xem. Các cô nương trong Thập Mỹ Đồ đều là những người đẹp vạn người mới có một, mỗi người một vẻ, đoan trang dịu dàng, xinh đẹp hết mực.

Cao Văn Tâm nảy ra ý so sánh, thấy dung mạo bất phàm của các mỹ nữ kia khiến nàng càng thêm hồi hộp khi mở thêm một bức tranh nữa, thì ra là bức Xuân Cung Đồ mà nàng hiểu nhầm là cợt nhả nàng hôm đó, Cao Văn Tâm không kìm nổi đỏ mặt tía tai "xì" một tiếng, vội vội vàng vàng quăng nó vào trong đống tranh.

Khi nàng tìm thấy bức tranh vẽ mình, thấy dáng vẻ trong tranh dường như căn cứ vào tình cảnh Dương Lăng và nàng sau gốc liễu mà vẽ thành, nhất thời khuôn mặt thanh tú nổi hai áng mây hồng. Bức tranh này ngoài vẻ diễm lệ tuyệt luân còn làm cho người ta hồi tưởng liên miên, khắc họa kĩ càng hết mức thần thái thướt tha rung động lòng người của nàng. Nếu như luận dung mạo thì chín mỹ nữ kia chưa chắc kém hơn nàng, thế nhưng trong bức tranh có thêm cánh tay cùng với thần thái cúi đầu dịu dàng của nàng liền khiến cho bức tranh này vượt lên chín bức kia.

Cao Văn Tâm thấy vậy trong lòng vui mừng, cũng không khỏi nảy sinh một chút thiện cảm với tên thư sinh bất lương vẽ bức Xuân Cung Đồ kia, nàng mỉm cười rồi cẩn thận buộc lại bức tranh, quay sang chỗ khác lại nhìn thấy bức Xuân Cung Đồ vội vàng nhét vào đống tranh khi nãy kia vẫn còn chưa buộc lại liền đem hai sợi dây còn lại trên bàn buộc vào.

Nàng nghĩ tới lão gia của mình bình thường đàng hoàng chững chạc thì ra cũng thích những thứ như thế, trong lòng không khỏi vừa bực vừa buồn cười. Đáng thương cho vị đại tài tử họ Đường chỉ vẽ Xuân Cung Đồ mà chịu một cái tát oan uổng còn vị Dương lão gia này cất giữ bức tranh đó lại nhận được nụ cười thẹn thùng, nhưng ai bảo y là người trong lòng của mĩ nhân yêu kiều này nên đối xử mới một trời một vực như thế.

Cao Văn Tâm cầm bức Xuân Cung Đồ trong tay nghĩ tới vẻ hoan lạc vô biên mà khi nãy thoáng thấy trong bức tranh, liên tưởng nếu như mình có một ngày cùng lão gia… cõi lòng nàng run rẩy một hồi, tựa như bức tranh đó chính là vẽ bản thân và Dương Lăng liền không khỏi giống như bị bỏng tay mà vội vàng quăng bức tranh đó ra. Tình cảm ấp ủ của người con gái như thơ như mộng. Những cô gái mười tám, mười chín thời này phần lớn đã trở thành vợ, thành mẹ người từ lâu. Nữ thần y giống như trái đào đã chín mọng này làm sao không ngẫm mình xót phận, lòng xuân dập dềnh chứ.

***


Dương Lăng vừa mới quay lại Hàng Châu, Liễu Bưu đã vội vội vàng vàng tới gặp y. Khi chuyện chống Oa ở Hải Ninh đã truyền đến tai hắn liền làm cho hắn sợ đến hồn bay phách lạc, hai tên Bách hộ dẫn binh theo quan thuyền lớn quay về Hàng Châu bị y chửi rửa một trận thậm tệ. Nếu không phải khi tin tức truyền đến tình hình chiến đấu đã có kết quả, Đô Chỉ Huy sứ ty cũng đã nhanh chóng tăng cường phái quan binh của hai Vệ khống chế gắt gao cửa biển Hải Ninh để đề phòng bất trắc xẩy ra lần nữa thì hắn thật muốn vứt bỏ để tất cả lập tức đi Hải Ninh.

Bây giờ Dương Lăng đã quay trở về, việc cần hắn xử lý cũng đã có manh mối nên hắn vội vã từ Long Sơn quay về, gặp Dương Lăng rồi lại quan sát tỉ mỉ một hồi, thấy đại nhân quả nhiên không việc gì hắn lúc này mới yên tâm. Ở cùng với nhau lâu như vậy, con đường làm quan của Dương Lăng lên lên xuống xuống hắn đều ở bên cạnh, bây giờ không chỉ bởi vì tiền đồ của cá nhân đều buộc chặt trên người Dương Lăng mà hắn cũng thật sự rất có cảm tình với vị thượng quan này.

Dương Lăng qua chuyến đi Tô Châu, Hải Ninh này càng muốn kết thúc công việc ở Giang Nam sớm để mau chóng quay về kinh thành cho nên vừa mới thấy Liễu Bưu thì lập tức hỏi:
- Liễu Bưu, việc ta cần ngươi làm như thế nào rồi?.

Liễu Bưu nói:
- Đại nhân, Chỉ Huy Thiêm Sự Vệ Long Sơn Đinh Lâm đã lấy được chứng cứ quan trọng, thế nhưng tên tiểu tử này dường như khi ấy lại có ý hối hận, chần chừ không chịu giao ra, hạ quan nói với hắn rằng chứng cứ của hắn chẳng qua cũng chỉ thêu hoa trên gấm, chỉ cần binh lính của Vệ Long Sơn không đủ một nửa định mức, Tất Xuân tham ô bao năm nay số lương lộc thừa ra cũng đủ để chúng ta trừng trị hắn, tên tiểu tử này mới giao chứng cứ ra.

Nói rồi hắn lôi một bọc vải từ trong lòng ra, đưa cho Dương Lăng, nói:
- Đại nhân, đây là chứng cứ phạm pháp của Tất Xuân và Viên Hùng mà Đinh Lâm ghi lại, tất cả thời gian, địa điểm, những người có liên quan đều ghi rõ trong hồ sơ. Ngoài ra mật chỉ của kinh thành cũng đã đến tối qua.

Dương Lăng vừa nghe nói kinh thành có mật chỉ không kìm nổi bỗng dưng đứng bật dậy, hỏi vội:
- Ở đâu, mau đưa cho ta xem.

Liễu Bưu lật tay áo, cởi mảnh vải được bí mật buộc trên cánh tay, lấy ra một mảnh lụa vàng mềm mại, Dương Lăng vội vàng nhận lấy, mở ra để xem, không kiềm được mỉm cười, nói:
- Hoàng thượng trước nay luôn chuộng võ, ta đã đoán được rằng khi Hoàng thượng nghe nói Vệ, Sở bất tài hủ bại như vậy nhất định sẽ nổi giận đùng đùng, ha ha, Hoàng thượng muốn ta tùy cơ ứng biến, phụng chỉ trong thời gian thay vua đi tuần tra xét được toàn quyền xử lý mọi việc phạm pháp ở Giang Nam, có đạo thánh chỉ này thì chúng ta có thể danh chính ngôn thuận bắt người.

Dương Lăng vui mừng thu thánh chỉ lại, suy nghĩ một hồi, hỏi:
- Động tĩnh của Viên Hùng và Tất Xuân thế nào? Có phát giác ra hành động của chúng ta không?

Liễu Bưu cười nhẹ, nói:
- Chuyến đi Tô Châu này của đại nhân náo động ầm ĩ, cho dù bọn chúng có chút ngờ vực, lúc này cũng đã xóa bỏ dè chừng. Vậy đó, nếu nói về việc thu thuế má thì hắn xếp cuối trong ba tên Trấn Thủ Thái Giám, đại nhân đi kiểm tra Hàng Châu trước rồi lại đi Tô Châu đã thể hiện rằng đại nhân coi trọng nguồn gốc thuế má của lương thực, trà, hàng dệt hơn. Thế nhưng từ sau khi đại nhân đến đây thì Viên Hùng có phần giảm bớt bóc lột, hiện nay đã bãi bỏ bớt bốn phần trạm thu thuế, gần đây cũng luôn thu mình an phận thủ thường tại Vệ Long Sơn.

Dương Lăng cười lạnh một tiếng, nói:
- Đợi ta vừa mới rời khỏi, số bạc thiệt thòi trong những ngày an phận thủ thường này lại vơ vét gấp bội từ dân chúng về, hừ! Nhưng cũng không thể không quan tâm đến hắn, xa lánh hắn quá thì không khỏi làm hắn ngờ vực, nói cho hắn biết, năm ngày sau bản quan sẽ đến tuần thị Vệ Long Sơn.

Liễu Bưu hội ý, cười nói:
- Vâng, đại nhân cho hắn uống viên Định tâm hoàn này thì đảm bảo hắn sẽ yên tâm đợi đại nhân. Thế nhưng… khi nào thì chúng ta động thủ?.

Ánh mắt của Dương Lăng chăm chú, nói:
- Bắt đầu từ ngày mai, bổn quan muốn mở tiệc ba ngày đáp lễ quan viên, thân sĩ của Hàng châu để tặng cho y thêm một viên Định tâm hoàn nữa. Ngươi ngay trong đêm đi đến Hải Ninh, kế hoạch vạch ra trước đây thay đổi một chút, không cần phải tước đi binh quyền của Chủng Thiên tổng nữa, qua mấy ngày tiếp xúc bản quan cảm thấy người này còn có thể dùng được, chỉ cần giám thị chặt chẽ một chút là được. Sau ba ngày nữa, triệu tập vệ quân và diêm binh khởi hành lúc mặt trời lặn, ngay trong đêm đến Vệ Long Sơn, đến canh bốn bản quan muốn bọn họ xuất hiện ở đại doanh của Vệ Long Sơn!.

Liễu Bưu phấn chấn nói:
- Vâng, ty chức tuân mệnh, nếu như đại nhân không còn việc gì khác, ty chức xin được cáo lui.

Dương Lăng nghĩ một lát, bỗng nhiên hỏi:
- Đúng rồi, ta sai ngươi về kinh thành nhân tiện dò xét chút hành tung Nội đình và Ngoại đình, thế Ty Lễ Giám và Nội Các có động tĩnh gì khác thường không?

Liễu Bưu vỗ trán một cái, nói:
- Ty chức chỉ biết vui mừng suýt nữa quên mất việc này, ha ha, đại nhân yên tâm được rồi, đám quan viên trong triều hiện nay chẳng thể để ý đến đại nhân nữa, Đại Đương Đầu nói, hiện giờ Hoàng thượng đã bỏ buổi chầu trưa, chầu sớm cũng thường đến muộn khiến ba vị Đại học sĩ Nội Các vì việc này mà dẫn đầu văn võ bá quan can gián suốt ngày, thường xuyên nảy sinh tranh chấp với Hoàng thượng. Hoàng thượng sau khi kết hôn, đối với hoàng hậu và hai vị quý phi nương nương thập phần lạnh nhạt, thường xuyên lén lút chuồn đến Báo Phòng (phòng nuôi báo) chơi đùa, Hoàng thượng kêu bọn người Cốc Đại Dụng thu gom mười con báo nuôi ở đấy, phái ba trăm võ sĩ phụ trách nuôi dưỡng huấn luyện, các chi phí nuôi dưỡng khác không tính, riêng thịt nuôi báo mỗi ngày đã chi dùng sáu mươi cân, bởi vì chuyện này, Ngự Sử đài và Hàn Lâm viện mỗi ngày đều liên tục dâng tấu, triều đình cũng đau hết cả đầu vì việc Hoàng thượng xao lãng triều chính, chơi đùa lãng phí.

Dương Lăng lấy làm kinh hãi, nghi hoặc hỏi:
- Ta mới rời kinh thành chưa đầy một tháng, tại sao lại xảy ra nhiều việc như vậy? Hoàng thượng tuy rằng ham chơi nhưng nếu không có người xúi giục dụ dỗ thì cũng không thể hoang đường lệch lạc đến như vậy, Thế nhưng… Nội đình còn có đám người Vương Nhạc, Phạm Đình, bọn Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng cũng thuộc sự cai quản Ty Lễ Giám, sao dám làm xằng như vậy?

Liễu Bưu nhủ thầm: "Có một người bạn Xưởng Đốc của Nội Xưởng đang lên như mặt trời giữa trưa như ngài, bọn họ có gì mà không dám làm chứ?", thế nhưng hắn không dám nói ra lời nói này.

Dương Lăng cau mày nghĩ ngợi một lát, luôn cảm thấy trong một thời gian ngắn như vậy bọn người Lưu Cẩn dám to gan như vậy có chút không bình thường. Dương Lăng biết có đám người Vương Nhạc đè trên đầu, bọn Lưu Cẩn không có dã tâm thăng quan tiến chức nhanh, bình thường bọn chúng dỗ Hoàng thương chơi đùa chẳng qua cũng chỉ làm cho Hoàng thượng vui vẻ để kiếm chác chút lợi ích mà thôi, bây giờ bọn chúng làm như vậy chắc chắn sẽ dẫn tới sự căm ghét của các ngoại thần, bọn chúng không có to gan như vậy hay ít ra bây giờ là tuyệt đối không có, việc này nhất định có mờ ám.

Dương Lăng nghĩ đến đây, quả quyết nói với Liễu Bưu:
- Thông qua mạng lưới thông tin của chúng ta nói với Đại Đương Đầu, chú ý cặn kẽ mọi tin tức Nội đình và Ngoại đình, có bất kỳ động tĩnh nào đều phải kịp thời trình báo cho ta.

Liễu Bưu thấy sắc mặt của Dương Lăng nghiêm trọng cũng không dám cười đùa nữa liền vội vàng “dạ” một tiếng, thấy Dương Lăng dường như đang có tâm sự, bấy giờ mới cáo từ lui ra ngoài, sau khi xắp đặt xong mọi việc lập tức đi Hải Ninh.

Hiện giờ Dương Lăng đã không còn là dịch thừa Kê Minh non nớt nữa, cũng đã ít nhiều hiểu rõ một số âm mưu thủ đoạn đả kích đối thủ chính trị như ném đá giấu tay, gắp lửa bỏ tay người ở trong triều. Khi y rời Kinh thành thì lo lắng Nội đình và Ngoại đình[4] sẽ gây bất lợi với mình, bây giờ nghe nói hành vi khác thường của Chính Đức nhất thời cũng không đoán được nguyên do trong đó cũng không khỏi ngấm ngầm nảy ý cẩn thận, chỉ sợ rằng đây là âm mưu do đối thủ bày ra. Ban đầu, Dương Lăng muốn mau chóng trở về Kinh, bây giờ có sự cảnh giác này lại trở nên cẩn thận không dám manh động, sợ dẫm vào cái bẫy do đối phương bày ra.

Dương Lăng đợi cho Liễu Bưu rời khỏi, ngồi yên lặng đem những việc mình đã làm từ khi xuống Giang Nam đến nay để cân nhắc kỹ càng lại một lần, không phát hiện ra chỗ nào có thể để người khác tố cáo hãm hãi y, sự lo lắng trong lòng mới dần lắng xuống.

Lúc này bức rèm châu vang lên đinh đang, một thân hình thanh tú lặng lẽ tiến vào, Dương Lăng quay đầu lại chỉ thấy Cao Văn Tâm đứng ở bên cửa, liền cười nhẹ rồi nói:
- Mới sáng sớm đã phải châm cứu rồi sao?.

Cao Văn Tâm u oán liếc y môt cái, vị đại lão gia này quả thật không coi nàng như người hầu nhưng lại xem nàng như thầy thuốc tư nhân, lẽ nào không phải vì trị bệnh thì bản thân không thể đến gặp y sao?

Dương Lăng đứng dậy duỗi mình một cái, nói:
- Được rồi, mỗi ngày một lần châm cứu, bây giờ một ngày mà không châm cứu ta cũng thấy không quen. Ha ha, đúng rồi, cách trị liệu Khư Hư Kiện Thể này nhất định cần nửa năm sau mới phát huy tác dụng sao?

Tuy nói là có bàn tay ngọc mềm mại của Cao Văn Tâm xoa bóp cũng coi là một sự hưởng thụ, thế nhưng mũi châm cuối cùng trong mỗi ngày kia đều châm y thành "một cột chống trời", làm Dương Lăng phải nằm sấp ở đó yên lặng chờ "nhị đệ" tâm bình khí hoà, một ngày hai ngày còn có thể chịu đựng được, chứ ngày nào cũng vậy, lại không có mấy cô gái nhỏ như Ấu Nương, Tuyết nhi ở đây, điều này giống như uống một cốc Xuân dược, sau đó lại dùng nước lạnh tạt vào, ngày tháng dài lâu quả thật là có chút khổ sở không thể nói thành lời.

Khuôn mặt của Cao Văn Tâm ửng hồng, nàng nói dối Dương Lăng là phương thuốc làm khỏe cơ thể cho Dương Lăng thực ra là phương thuốc dùng để chữa trị bệnh vô sinh, dùng đến phương thuốc này thì chắc có chút tác dụng, còn như bây giờ có hiệu quả hay không thì cho dù nàng có là thần y cũng nhìn không ra được, liếc trộm vẻ mặt không tình nguyện của Dương Lăng, nàng chỉ biết bất đắc dĩ nói:
- Bẩm lão gia, đúng vậy, phương thuốc này không dùng đủ nửa năm thì hoàn toàn không có hiệu quả, cho nên lão gia nhất định phải kiên trì uống thuốc châm cứu mới được.

Dương Lăng bất đắc dĩ, nói:
- Được rồi, vào phòng trong dùng châm nào.

Dương Lăng nằm sấp trên giường, nhận thấy dáng vẻ muốn nói lại thôi của Cao Văn Tâm không nhịn được cười, nói:
- Ta nói mà, hôm nay sao lại châm cứu sớm như vậy, có phải nàng có điều gì muốn nói với ta không?

Cao Văn Tâm sững người, tiếp đó lại cúi đầu nói:
- Thị tỳ.... Thị tỳ không có điều gì muốn nói với lão gia... Thế nhưng... Có phải lão gia quên mất nói điều gì nói với thị tỳ?

Dương Lăng lấy làm ngạc nhiên hỏi:
- Ta có điều gì… A! Nàng nói là…

Y nằm sấp một lát, mới bất đắc dĩ nói:
- Đợi lát nữa châm cứu xong, nàng thay trang phục rồi cùng ta ra ngoài dạo chút nhé. Đến đây lâu như vậy, đi đến đâu cũng nói ngắm cảnh nhưng thực ra cũng chỉ là đón tiếp tiễn đưa người đến thăm. Cùng nàng chèo thuyền ngắm sen có lẽ là việc vừa ý nhất của chuyến xuống Giang Nam lần này, tý nữa chúng ta cùng đi dạo hẻm nhỏ ở Hàng Châu, khi ấy… ta nói cho nàng nghe.

Các hẻm nhỏ ở Hàng Châu, thực giống như các tài nữ dòng dõi thư hương của Giang Nam, làm cho bạn mới nhìn thoáng qua thì sững sờ về vẻ đẹp của nó, thế nhưng có đi lại bao nhiêu lần bên cạnh nó bạn cũng không thể nào đoán ra được bí mật u nhã, thần bí ẩn chứa trong đó. Vừa mới bước vào hẻm nhỏ, tựa như thoáng cái từ đô thị phồn hoa bước vào giấc mộng mờ ảo. Sự u nhã tĩnh lặng của nó làm cho bước chân của người đi đường không tự chủ được thả lỏng một chút.

Dương Lăng và Cao Văn Tâm cải trang giống như sĩ tử dạo bước trên con đường đá xanh, chầm chậm thong thả đi vào hẻm nhỏ, ánh mặt trời sau buổi trưa nhè nhẹ rơi rụng trên mái hiên ở hai bên. Ở hai bên hẻm, từng căn nhà tường trắng ngói xám lẳng lặng đứng sững sững. Những viên ngói xám đã nếm đủ sự xâm nhập của mưa gió, hiện ra một vẻ buồn bã tang thương.

Trong hẻm nhỏ rất yên tĩnh, thỉnh thoảng người đi đường qua lại cũng rất thong dong, nhàn nhã. Bốn gã hộ vệ cải trang thành người qua đường ở phía trước, cách nhau khoảng mười bước chân đang cẩn trọng quan sát khách qua đường mở lối cho bọn họ, đằng sau cũng có bốn gã giữ khoảng cách như vậy chậm rãi đi theo.

Đến được địa vị như ngày hôm nay của Dương Lăng thì nếu như muốn một mình ra ngoài đi dạo và hưởng thụ không gian riêng tự do tự tại luôn là điều vọng tưởng mà tình cảnh như bây giờ đã là sự nhượng bộ lớn nhất của Trịnh Bách hộ rồi, con người ta đạt được cái này thì phải mất đi cái khác.

Giữa dãy nhà tường trắng ngói xám có mấy cửa tiệm nhỏ, hoặc là tiệm may, hoặc là quán mỳ, hoặc là tiệm tạp hóa, phần lớn chủ nhân trong tiệm đều đang ngủ gật. Đằng sau dãy nhà bên trái của hẻm nhỏ là một con sông nhỏ êm đềm, những căn nhà này đều xây dựng tựa vào sông, cửa sổ phía sau trông ra chính là dòng nước chảy róc rách, bên ngoài bức tường thấp phía sau dãy nhà bên phải là một con đường cái, có vẻ đẹp kiều diễm khác lạ của "Tường lí thu thiên tường ngoại đạo, tường ngoại hành nhân, tường lí giai nhân tiếu". (bên trong tường là xích đu, bên ngoài tường là đường cái, ngoài tường có người đi lại, bên trong giai nhân cười)

Bước qua một cây cầu nhỏ thấp thoáng dưới gốc cây Du nghiêng ngả là một hàng hiên dài, sát bên trái là sông, bên phải đều là tửu lầu. Tửu lầu đều không lớn nhưng phong cách lại rất cao nhã, dường như là các quán xưa mấy trăm tuổi, các cột hiên trước cửa đều đã phai hết sơn mạ, các chấn song cửa sổ chạm trổ mang phong cách cổ xưa.

Dương Lăng dừng bước trước một tòa tửu lầu, nói với Cao Văn Tâm – đã cải trang thành một công tử tuấn tú:
- Đi nào, chúng ta lên lầu ăn một chút đồ.

Cao Văn Tâm cùng Dương Lăng vai kề vai đi dạo trong hẻm nhỏ tĩnh mịch, trong lòng vô cùng an nhàn chỉ muốn cùng Dương Lăng như vậy đi mãi, nghe Dương Lăng nói muốn lên lầu uống rượu nàng mỉm cười rồi dịu dàng gật đầu.

Trong tửu lầu không có khách, mà thực sự thì lúc này cũng ít có người ra vào các tửu lầu, ông chủ và tiểu nhị đều úp mặt ngủ gật trên bàn, sự nhàn nhã đó thật là làm cho người khác ngưỡng mộ. Tửu lầu ở ngay sát bên sông, trong lầu lúc này vẫn chưa có khách, hai người đi lên lầu hai rồi ngồi xuống vị trí gần cửa sổ, trước cửa sổ bày hai chậu cúc vàng nở rộ rực rỡ, ở phía trên treo một chiếc lồng chim trong có hai chú anh vũ đang hót véo von.

Dương Lăng kêu ông chủ giới thiệu vài món ăn, chỉ một lát rượu và thức ăn được bưng lên, thức ăn tinh xảo đẹp mắt như thịt chó hấp tương, cá tươi áp chảo, chân giò ninh măng, hạt sen chưng đường, hai vò hoàng tửu ấm, Dương Lăng chỉ biết vùi đầu ăn uống, Cao Văn Tâm có tâm sự trong lòng nên không ăn được, nàng chỉ nếm qua rồi thôi. Đôi mắt đẹp nhìn Dương Lăng chằm chằm, đợi y nói ra điều bí mật to lớn kia.

Dương Lăng thấy không thể tránh được nên đành phải bỏ đũa xuống, than nhẹ một tiếng, nói:
- Thức ăn ở đây tinh xảo, phong cảnh u nhã, lại có một người con gái tâm đầu ý hợp như nàng làm bạn, thật giống như thiên đường ở trần gian, chỉ tiếc là… thời gian mà ta có thể hưởng thụ không còn nhiều nữa.

Cao Văn Tâm cau hàng lông mày thanh tú lại, nghi hoặc hỏi:
- Lão gia, ngài… lời này của ngài có ý gì?.

Dương lăng cười bất dắc dĩ một cái, nhẹ giọng nói:
- Bởi vì .... tuổi thọ của ta chỉ còn lại một năm, một năm sau hồn về địa phủ, khi đó thế gian sẽ không còn ai là Dương Lăng nữa.

Cao Văn Tâm há đôi môi anh đào kinh ngạc sững sờ một lúc lâu, bất chợt nắm lấy cổ tay y. Bình thường nàng chỉ cần một ngón tay là đủ xem mạch cho người khác, lúc này người trong lòng nói ra những lời kinh hãi thế nên quan tâm quá tất loạn, trong lúc lo lắng mà dùng đến ba ngón tay.

Dương Lăng để mặc cho nàng nắm lấy cổ tay, ôn nhu nói:
- Nàng là một người con gái tốt, tình ý của nàng đối với ta, Dương mỗ chẳng phải là tượng đất tượng gỗ nên trong lòng sao lại không biết? Với thân phận cao quý của nàng, nếu như không phải trong nhà bỗng nhiên gặp phải điều bất trắc mà trầm luân thành tôi tớ thì cho dù nàng và ta có duyên gặp mặt cũng chẳng thể nảy sinh tình ý, điều này há không phải là ý trời sao?.

Rốt cuộc Dương Lăng cũng thẳng thắn thừa nhận nảy sinh tình cảm với nàng, nếu như đổi thành khi khác nói ra thì Cao Văn Tâm không biết phải vui mừng đến thế nào, nhưng bây giờ nàng chỉ muốn biết Dương Lăng có ám tật trí mạng nào nên phảng phất giống như không nghe, chỉ ngưng thần lắng nghe mạch đập của Dương Lăng.

Dương Lăng khe khẽ nói:
- Nếu như nàng đồng ý... ta và nàng kết thành huynh muội khác họ được không? Sau khi về kinh thành ta sẽ xin hoàng thượng xóa bỏ nô tịch cho nàng, nàng lớn hơn bọn người Ấu Nương mấy tuổi, biết nhiều hiểu rộng lại lanh lợi hơn nhiều, sau khi ta qua đời xin nàng trông nom bọn họ nhiều hơn.

Cao Văn Tâm kinh hãi nhìn y chằm chằm, run giọng nói:
- Ngài… mạch đập của ngài ổn định có lực, tuyệt không có bất kỳ chứng bệnh gì, tại sao lại nói như vậy?.

Cao Văn Tâm nhà tan cửa nát, từ sau khi mến mộ Dương Lăng đã coi y thành người thân nhất, là người duy nhất có thể nương tựa, lúc này kiểm tra không ra Dương Lăng có bệnh trên người nhưng y lại nói vô cùng nghiêm túc, tuyệt đối không giống như nói đùa làm Cao Văn Tâm lo lắng sợ hãi, trên trán đã toát mồ hôi.

Dương Lăng thấy vậy không nhẫn tâm, trở tay nắm lấy bày tay nhỏ ấm áp của nàng, khóe miệng nở một nụ cười khổ bất đắc dĩ:
- Không phải kiểm tra nữa, ta không có bệnh, đây là số mạng, nàng hiểu không? Diêm La kêu người ta canh ba chết, ai có thể sống đến canh năm? Văn Tâm, nàng được xưng là thần y, nhưng đã gọi là y thì chỉ chữa đuợc bênh thôi còn vận mệnh thì làm sao mà chữa đuợc.

Cao Văn Tâm lắp bắp nói nói:
- Lão gia, ngài... ngài nói mình chỉ còn một năm tuổi thọ, là .... là có người xem bói cho ngài? Thuyết tướng số có nhiều chỗ huyễn hoặc, ngài... ngài quá hồ đồ rồi , làm sao lại tin vào những thứ đó? A! Chẳng nhẽ là Trương Thiên sư bốc quẻ xem bói cho ngài?

Trên thế gian này ngoài trừ Trương Thiên sư thì còn ai khi xem bói dám nói thẳng tuổi thọ của người khác là như thế nào? Hơn nữa còn làm cho người ta tin tưởng không nghi ngờ? Cao Văn Tâm bỗng nhiên đứng bật dậy, định đi tìm Trương Thiên sư hỏi cho rõ ràng, Dương Lăng vội vã đứng lên, kéo lấy tay nàng:
- Không liên quan đến Trương Thiên sư, tóm lại là… đạo hạnh người này còn lợi hại gấp trăm lần Trương Thiên sư, muộn nhất tháng mười năm sau chính là lúc thọ chung của ta. Ba người Ấu Nương bọn họ ta đã thấy mặc nợ quá nhiều, nàng nói đi… ta làm sao lại có thể nhẫn tâm làm hỏng tuổi thanh xuân của nàng?.

"Sao lại có thể chứ?" Cao Văn Tâm nghe vậy vừa giận vừa lo, người xưa tuy rằng nói là tin vận mệnh nhưng cũng chưa nghe ai dám xem bói nói tuổi thọ của người khác còn lại mấy năm, nếu thật có người xem bói như vậy đoán chừng sẽ từ đại sự biến thành lừa đảo rồi bị quan phủ coi là "yêu ngôn hoặc chúng" mà đánh chết.

Lão gia rõ ràng là rất khỏe mạnh nhưng lại cứ khăng khăng tin tưởng vào những lời nói xằng bậy đó, thì ra lão gia không tiếp nhận nàng không phải là ngại tuổi tác của nàng lớn, cũng không phải ngại nàng có thân phận gia nô mà hóa ra là... hóa ra là… Cao Văn Tâm hận là không thể ngay lập tức tìm thấy người đã nói Dương Lăng chỉ còn lại một năm tuổi thọ để giáng cho y một cái tát thật đau.

Nàng bực tức giậm chân, nói:
- Không được, ta đi tìm Trương Thiên sư, nếu như ngài thật có mệnh hệ gì thì Trương Thiên sư sao có thể ngoảnh mặt làm ngơ? Đây rõ ràng là có người hồ ngôn loạn ngữ, cố ý ăn nói hù dọa.

Lúc này nàng cải trang thành con trai nhưng nhíu mày dậm chân thì lại là dáng vẻ yêu kiều của con gái, xem ra vô cùng dễ thương. Dương Lăng kiên quyết lắc đầu, nói:
- Nha đầu ngốc, ta là người dễ tin những lời không căn cứ sao? Không cần phải đi tìm Trương Thiên sư nữa, cho dù là y cũng chưa chắc đã xem ra được. Những lời ta nói đều không phải giả dối cho nên… ta quyết không thể tiếp nhận tình ý này của nàng.

Dương Lăng thấy nàng lo lắng đến sắp chảy nước mắt, vội cười đùa cợt nhả dỗ dành, nói:
- Hay là chúng ta đánh cược, ngày này năm sau nếu như ta chết rồi thì nàng phải cùng ta kết bái huynh muội trước linh vị của ta rồi sau đó yên phận xuất giá, nếu như ta không chết thì là ta đã dối lừa nàng, lúc đó… thì ta sẽ gả cho nàng được rồi, ha ha ha.

Cao Văn Tâm thấy dáng vẻ cợt nhả cười đùa của y cũng không biết là y nói thật hay giả. Nếu lời y nói là thật thì cái dáng vẻ vô lại muốn bị ăn đòn kia quả thực không giống. Còn nếu nói là giả… nhưng rõ ràng trong ánh mắt kia ẩn chứa một sự bi ai sâu đậm, sao mình lại thích một người như vậy?

Dương Lăng hít một hơi dài, lấy lại tinh thần, nói:
- Chúng ta bây giờ như thế này, làm một đôi hồng nhan tri kỷ có gì là không tốt? Chẳng mấy khi nàng cùng ta đơn độc đi dạo, nàng xem chỗ này… ý?

Dương Lăng chỉ ra ngoài cửa sổ, ngạc nhiên mở to mắt, sau đó đi tới vin vào cửa sổ nhìn xuống dưới. Cao Văn Tâm không hiểu ra sao, cũng vội đi theo. Chỉ thấy ở phía dưới của sổ là một con sông nhỏ nước chảy chầm chậm. Lúc này đang có một con thuyền Ô Bồng chầm chậm trôi đến. Trên đầu thuyền có một đứa trẻ mới lớn dáng vẻ chất phác khỏe mạnh. Chỉ là nhìn từ phía trên xuống thì trên gáy đứa trẻ đó có một cái bướu thịt lớn mầu tím đỏ, nếu như nhìn tỉ mỉ sẽ làm cho người thấy dựng hết tóc gáy.

Lúc này đứa trẻ đó đứng dậy, kêu lớn về phía sau:
- Cha, khi nào cậu từ Quảng Đông về? Cậu nói khi nào quay về sẽ mang cho con nhãn và vải, bây giờ đã ba tháng rồi mà còn chưa thấy quay về?

Người đàn ông khua chèo ở phía sau cười ha ha:
- Đứa nhóc ngươi chỉ biết thèm ăn, lớn như vậy rồi cũng nên hiểu chuyện đi, mẹ của con ở phường dệt nhà Cao lão gia rất vất vả, đừng có luôn cứ quấn lấy mẹ đòi mua quà vặt cho con ăn.

Dương Lăng hít một hơi lạnh.
"Đứa trẻ này… cũng không cha không mẹ, ta trông thấy đáng thương nên thu giữ nó lại đưa đến đây… à đúng, đó là việc mùa hè năm ngoái". Câu nói này của Mạc Thanh Hà giống như tiếng sét vang lên bên tai, Dương Lăng sững sờ nhìn theo con thuyền nhỏ nhè nhẹ trôi xa, trong lòng chỉ nghĩ: "Tại sao hắn lại lừa ta? Chẳng qua chỉ là thu giữ một đứa bé, ta lại không nói đến chuyện đi thăm những đứa trẻ đó, tại sao hắn lại phải tìm một thiếu niên đến giả vờ là đứa trẻ y thu nhận để lừa ta? Sợ ta nảy ý nghi ngờ như vậy, rốt cuộc hắn đã làm cái gì?’.

Dương Lăng bỗng nhiên bừng tỉnh quay người chạy xuống lầu, Cao Văn Tâm không biết đã xảy ra chuyện gì liền vội vàng đuổi theo người y nhưng chỉ mới xuống hai bậc cầu thang thì Cao Văn Tâm kêu một tiếng “ái a”, dẫm hụt một chân làm cổ chân bị trẹo, nàng đau đến sắc mặt tái nhợt phải dựa vào tay vịn mà đôi môi cũng run lên lẩy bẩy.

Dương lăng thấy thế vội vàng quay lại đỡ lấy nàng, tám gã nha sai khi nãy thấy lầu hai không có người liền chiếm lấy hai bàn ở lầu một, gọi đồ nhậu rồi canh gác, khi này thấy đại nhân vội vã chạy xuống lầu thì vội vàng bỏ đũa xuống rồi tiến lên trước nghênh đón.
Dương Lăng hạ thấp giọng nói:
- Nhanh, cử hai người đi theo con sông ở phía đằng sau kia, đuổi theo một con thuyền. Trên thuyền có một đứa bé trên gáy có mọc bứu thịt, đi theo họ về nơi ở và tra xét rõ mọi thứ về họ, mau đi.

Hai gã sai nha mau chóng dạ một tiếng rồi quay người chạy khỏi tửu lầu. Dương Lăng đỡ lấy Cao Văn Tâm hỏi:
- Nàng thế nào rồi?.

Vẻ mặt của Cao Văn Tâm đau khổ, nói:
- Đau quá, cổ chân trẹo rồi, thị tỳ… thị tỳ không đi được nữa.

Hai gã sai nha thấy đại nhân đỡ người đi xuống cầu thang không tiện nên muốn đỡ lấy Cao Văn Tâm từ tay của Dương Lăng, Cao Văn Tâm làm sao chịu để bọn chúng lại gần người mình, Dương Lăng bất đắc dĩ phải cúi người luồn một tay nâng hai gối của nàng rồi bế ngang nàng lên, hai tay của Cao Văn Tâm thuận thế ôm chặt lấy cổ y, tuy rằng chân đau như kim đâm vào tim nhưng khóe miệng đã khe khẽ nở một nụ cười ngọt ngào.

***


Nếu như người bạn gái của bạn bị trẹo cổ chân, bạn giúp nàng cởi giày tháo tất, xoa một chút rượu thuốc rồi sau đó sẽ như thế nào?

Đáp án rất đơn giản, không phát sinh bất kỳ việc gì hết, nàng ta sẽ thoải mái nói tiếng cảm ơn rồi sau đó lại thoải mái giơ tay ra cho bạn để bạn dìu nàng ta đi gọi xe, đợi cho nàng vào trong nhà thì không còn việc gì của bạn nữa.

Nếu như tại một thời đại đối với người con gái chân còn quan trọng hơn danh tiết, trinh tiết, nhiều người con gái đến thân thể đều trao cho đàn ông nhưng lại coi bàn chân của mình là bộ phận riêng tư không cho phép đàn ông chạm vào mà nói thì nàng ta chịu ngồi ở trên giường để cho bạn tháo giầy cởi tất, xoa nhẹ bàn chân nhỏ như bông sen, vậy điều đó có nghĩa gì?

Cao Văn Tâm biết điều đó có nghĩa gì cho nên nàng nhìn Dương Lăng lặng lẽ đưa tình, hé răng cắn nhẹ làn môi đỏ, đôi mắt phượng xinh đẹp quyến rũ khép lại như một sợi tơ.

Dương Lăng đang cúi đầu chăm chú giúp nàng xoa chân thì không biết, y chưa từng nghe qua câu nói "Đầu của đàn ông, chân của phụ nữ, chỉ được nhìn không được sờ", cho nên Dương Lăng không những sờ mà còn sờ tương đối tỷ mỉ.

Trong lòng Cao Văn Tâm, bắt đầu từ giây phút này, nàng đã hoàn toàn là người của Dương Lăng, cả đời cả kiếp này, không còn có thể gả cho người đàn ông thứ hai, còn Dương Lăng lại ngậm ngùi trong lòng: Bàn chân của Cao Văn Tâm thật đẹp, đây là đôi chân đẹp nhất mà y từng thấy, người phụ nữ có thân hình đẹp không dễ tìm, người phụ nữ có khuôn mặt đẹp càng khó tìm, còn người phụ nữ có đôi chân đẹp…”

Hai bàn chân của của Cao Văn Tâm nhỏ nhắn, gọn gàng, làn da trắng như tuyết, lóng lánh, hiện lên vẻ nhẵn bóng, thật là giống như vẻ trơn tru như ngọc, nét mềm mại như lụa, màu da trên mu bàn chân tựa như trong suốt, móng chân của mười ngón chân đều hiện màu hồng nhạt, giống như mười cánh hoa nhỏ.

Tào Thực có viết: “Lăng ba vi bộ, la miệt sinh trần” (nhẹ nhàng đạp sóng, áo phất bụi hồng - ND); Lý Bạch viết: “Phúc thượng túc như sương, bất chiếu Nha Đầu miệt" (bàn chân trắng trên đôi guốc gỗ, không đi vớ Nha Đầu- ND); đến như suốt ngày vì nước vì dân lo lắng âu sầu như Đỗ Phủ cũng từng viết: "La miệt hồng tảo diễm” (áo lụa màu đỏ tươi - ND), nếu như chưa từng thấy qua mỹ nữ có bàn chân thanh tú mềm mại mảnh mai đến thế thì sợ rằng cũng chẳng thể phát ra được cảm khái như vậy?

Cao Văn Tâm bị y xoa nhẹ đến rạo rực cả người, lòng xuân dập dềnh lại nhớ tới Dương Lăng năm lần bảy lượt khước từ tuyệt tình, coi tình cảm chân thành của mình như không có gì chỉ bởi vì một lý do đáng cười như thế làm nàng không khỏi lại có chút bực bội. Người con trai này, tại sao mình lại cứ khăng khăng thích y, thế nhưng nếu như đó chỉ là lý do vu vơ vậy không phải có nghĩa là chung thân đại sự của mình có hi vọng rồi sao?

Nàng cắn môi, không thoải mái vặn vẹo nửa người dưới, định hỏi hai người họ đã đến nước này rồi vậy khi nào y cưới mình về nhà, thế nhưng lời nói vừa đến miệng đã lại biến thành:
- Lão gia, thị tỳ… thị tỳ đỡ nhiều rồi, không phải lão gia nói Mạc công công là người biết điều nhất trong ba vị Trấn Thủ Thái Giám sao? Tại sao… Ái, có phải là hắn đem những đứa trẻ kia lừa bán cho người khác?

Dương Lăng nhè nhẹ lắc đầu, nói:
- Không phải, sự bóc lột của hắn tuy rằng không lợi hại nhưng ở Giang Nam này cũng có thể coi như là tiền vào như nước, lừa bán mấy đứa trẻ có thể kiếm được bao nhiêu tiền chứ? Ta thấy kỳ lạ là ở chỗ này, hắn không nhất thiết tính toán mấy đứa cô nhi, nhưng bây giờ xem ra, tung tích những đứa trẻ mà hắn thu dưỡng kia đích thực có vấn đề, thoạt nhìn việc này cũng nhỏ nhưng y ra sức che đậy, tất có chuyện lớn, ta nhất định phải tra xét kỹ càng việc này.

Cao Văn Tâm im lặng một lát, gắng sức hít một hơi vào lấy hết dũng khí quyết tâm nói:
- Lão gia, phần lớn giang hồ đạo sĩ cố ý nói bừa nói bậy để gạt tiền người ta thôi, một năm tuổi thọ cái gì chứ, làm sao mà tin tưởng được, thị tỳ… ngài.

Dương Lăng cười khổ nghĩ thầm chân tướng sự việc kia đích thực là kinh thế hãi tục, nếu như nói toàn bộ ra không chừng Cao Văn Tâm sẽ coi y thành yêu quái mượn xác hoàn hồn nên y làm sao dám nói ra, đành phải ậm ờ:
- Ta không phải là một người hồ đồ, nếu như không chắc chắn mười phần thì ta cũng sẽ không nói vậy. Văn Tâm… sinh mệnh của ta quả thật không còn nhiều nữa .... Ài, những rối rắm ở trong đó không nhắc đến cũng được.

Y nói rồi ngẩng đầu nhìn một cái thấy Cao Văn Tâm đỏ mặt, trong đôi mắt dưới hàng lông mi dài kia đầy vẻ tủi thân và u oán lại vội vàng cúi đầu xuống, thế nhưng vừa mới cúi xuống thì chiếc áo dài mềm mại dán sát vào người chậm rãi hiện ra cặp đùi thon dài tươi mọng kia của Cao Văn Tâm, chóp mũi còn thoảng mùi hương thiếu nữ nhè nhẹ, động tác hai tay nắm lấy bàn chân ngọc nõn nà kia của y cũng không khỏi trở nên ngập ngừng.

Cao Văn Tâm thấy y vẫn khờ dại tin vào lời nói của đạo sĩ chấp mê bất ngộ, trong lòng bực bội vô cùng: “Lão gia ngốc nghếch nói thì đường đường chính chính, được rồi, nguyên phối là Ấu Nương, ngài cưới rồi, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi là Hoàng thượng ban cho, ngài cũng cưới rồi, hiện giờ ngài còn… ngài còn… còn nói kết nghĩa kim lan, kêu ta gả cho người khác gì chứ, ta còn gả cho người khác được sao?”

Cao Văn Tâm nghĩ đến đây, cắn răng lẳng lặng rút một mũi kim châm từ trong búi tóc ra cầm trên tay. Dương Lăng đang cúi đầu thoa nhẹ cổ chân cho nàng, gáy ở ngay trước mắt nàng, chỉ cần nhè nhẹ châm một cái thần không hay quỷ không biết thì con người vô tình này đêm nay có thể trở thành lang quân của mình.

"Có nên châm xuống hay không?" Cao Văn Tâm tự hỏi, bàn tay nắm đuôi kim cũng khẩn trương toát mồ hôi ướt đẫm, lòng dạ nàng ngổn ngang đấu tranh không ngừng, trăm nghìn ý nghĩ xoay vòng trong đầu, bàn tay cầm kim châm kia run rẩy rốt cuộc không nhấc lên được.






Chú thích:

[1] Tam ty gồm Thừa tuyên bố chánh sứ ty, đề hình án sát ty, đốc chỉ huy sứ ty.
[2] Giang Chiết Mân Lỗ: Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Sơn Đông.
[3]Nội đình- Ngoại đình: là hai chế độ chính trị kìm chế lẫn nhau với quyền lực quân chủ là hạt nhân thời Minh.
Nội đình: tập đoàn chính trị với thành phần là hoạn quan (thái giám), gồm 12 giám, 4 ty, 8 cục. Trong đó, ty Lễ Giám là trung tâm quyền lực.
Ngoại đình: chỉ tập đoàn quan văn do Nội các, lục bộ thái thú, tuần phủ địa phương hợp thành. Trong đó, Nội các là trung tâm quyền lực.

CHƯƠNG 132: Niềm vui của cá [1]

Mũi châm run rẩy lẳng lặng tiến đến sát gáy của Dương Lăng. Cao Văn Tâm biết là mũi châm này vừa đâm xuống, Dương Lăng sẽ chỉ hơi cảm thấy tê ngứa giống như bị sợi tóc lướt qua nhè nhẹ, chắc chắn y không phát hiện có điều khác lạ, sau đó trong tình trạng tinh thần mê ảo, y có thể phát khởi dục tính mạnh mẽ. Sau khi đã quyến luyến một đêm xuân phong ngọc lộ, y còn có thể vịn cái cớ nực cười kia để từ chối bản thân mình sao?

Đáng thương cho nữ thần y, từ khi học được châm pháp "Kim Phụng Ngọc Điệp" tổ truyền của Cao Gia, nàng luôn dùng đến để cứu nhân độ thế. Lần phá lệ duy nhất là vì Dương Lăng, nàng đã thi triển tuyệt học làm cho người bình thường biến thành kẻ điên. Bây giờ nàng định phá lệ lần thứ hai muốn từ thiếu nữ biến thành thiếu phụ vẫn là bởi vì y, cũng không biết kiếp trước nàng đã thiếu nợ y bao nhiêu tiền chưa trả.

Thế nhưng lần này... cảm giác tội lỗi thật là nặng, trái tim của nàng đập như ngựa phi, mũi châm đó run lẩy bẩy, nếu cứ như vậy mà cũng có thế châm trúng huyệt đạo thì thật là quái lạ. Ngay lúc đó bỗng nhiên Dương Lăng thở dài nhẹ một hơi. Tuy tiếng thở dài này rất nhẹ nhưng Cao Văn Tâm vừa nghe thấy đã lập tức thu châm vào trong tay áo đánh "soạt" một tiếng, chột dạ hỏi:
- Lão gia... lão gia thở dài gì vậy?

Dương Lăng lại đổ một chút rượu thuốc vào lòng bàn tay, nhè nhẹ xoa bóp cổ chân cho nàng, mỉm cười nói:
- Chân của cô thật là đẹp! Tuy nhiều người là mỹ nữ, thế nhưng đôi chân cũng không bằng một phần vạn của cô. Đôi chân nhỏ nhắn rung động lòng người này nếu như ở... các nước phương Đông hải ngoại thì có thể tiền vào như nước.

Cao Văn Tâm là tiểu thư khuê các gia phong rất nề nếp, lại từng ở ty Giáo Phường cho nên sợ nhất là bị người khác so sánh với kỹ nữ. Nàng nghe vậy không khỏi biến sắc, cắn chặt môi, lúc sau mới cười một tiếng bi thương, sùi sụt:
- Tuy thị tì đã từng ở ty Giáo Phường, nhưng cũng biết tự tôn tự trọng, may mắn được lão gia cứu khỏi hầm lửa. Bằng không, nếu như thị tì bị kẻ khác lăng nhục thì tuyệt đối cũng không chịu sống tạm bợ trên đời nữa, sao lão gia lại dùng việc này để làm nhục thị tì?

Dương Lăng kinh hãi, cuống quít giải thích:
- Cô hiểu lầm rồi, đó là... phong tục tập quán của quốc gia đó không giống với Đại Minh, phơi bày bàn chân đẹp cũng giống như làm thơ vẽ tranh hiện giờ, ồ... Đó là việc có thể kiếm tiền một cách đường đường chính chính, trong lòng ta tuyệt không có ý làm nhục cô.

Làm thơ vẽ tranh để kiếm tiền? Giống như Đường Bá Hổ vẽ tranh xuân cung? Cũng chẳng phải là hạng người thấp hèn dùng để bán sao? Nghe y giải thích như vậy, Cao Văn Tâm càng thêm đau buồn trong lòng, không kiềm được vặn người nằm úp mặt lên đệm khóc rống lên. Dương Lăng không biết nên khóc hay cười, những người thời đại này đều có bệnh gì vậy nhỉ? Khen chân nàng đẹp mà cũng gặp nhiều rắc rối như vậy.

Y đứng dậy ra vẻ lão gia, hung dữ nói:
- Đừng khóc nữa! Ta chỉ thấy đôi chân tự nhiên của cô tuyệt đẹp, khen ngợi vài câu tận đáy lòng. Cô thanh cao thuần khiết, không ngại lấy cái chết để tỏ lòng, người khác không biết thì thôi chứ ta còn không rõ sao? Sao lại có thể coi thường cô chứ? Thật là...

Cao Văn Tâm vẫn còn đau buồn, nghe thấy Dương Lăng khen nàng thanh cao thuần khiết, một nỗi hổ thẹn bỗng dưng trào dâng từ nơi sâu thẳm của trái tim thiếu nữ: "Sao ta lại như vậy? Nếu dùng cách này để lừa gạt lão gia, sau này lão gia nổi lòng nghi ngờ thì sẽ coi ta là người như thế nào? Những người đàn bà ngoại tình trong tộc đều bị thả rọ trôi sông, ta làm như thế này há chẳng phải là nữ tặc hái hoa, không bằng cả cô ả hạ tiện kia sao?

Không! Ta cần phải tìm Trương Thiên sư, xin hắn đoán vận mệnh cho đại nhân. Dù có thích lão gia đến thế nào chăng nữa cũng cần phải đường đường chính chính, trong trong sạch sạch gả vào nhà họ Dương, không thể dùng loại thủ đoạn đê tiện này."

Dương Lăng thấy tiếng khóc của nàng đã yếu nhưng vẫn chưa dừng hẳn, hai vai y chùng xuống, mặt mày rầu rĩ đổi sang vẻ cầu khẩn, nói:
- Cô nãi nãi của tôi ơi, xin nàng nhỏ nhẹ một chút, người khác nghe thấy lại tưởng ta làm gì nàng!

Lúc này Cao Văn Tâm nằm sấp ở trên giường, chiếc áo khoác công tử kia dính sát vào người nổi bật cặp mông căng tròn chắc nịch. Câu nói "nhỏ nhẹ một chút"(*) vừa mới thoát khỏi miệng Dương Lăng, y đột nhiên nhớ tới cảnh Giang Nam tứ đại tài tử cười dâm đãng: "Quay đầu dặn nhẹ cho em" (*), không khỏi lén ngắm bờ mông vểnh cao của nàng.
(*) nguyên văn: “khinh ta cá”, mời xem lại chương 128

Cao Văn Tâm nghe y mềm giọng cầu xin, tuy trong lòng thất vọng vì y không hề ôm mình, nhưng cũng không dám vì được cưng chiều mà kiêu ngạo. Nàng quay đầu lại định nói chuyện, thì vừa kịp bắt gặp ánh mắt Dương Lăng đang lén lút ngắm nhìn thân thể mình, khuôn mặt ngọc không khỏi ửng đỏ. Dương Lăng thu ánh mắt, phát hiện đang bị người ta bắt gặp tại chỗ, y ngượng ngùng:
- Ta... ta xem... ta xem cổ chân của cô có sưng nhiều lắm không. Cô nghỉ ngơi cho tốt, ta ra ngoài trước, nếu như... nếu như quả thực là không tiện, để ta kêu Mạc Thanh Hà phái hai tì nữ đến chăm sóc cô.

- Đừng...!
Cao Văn Tâm vội vã ngồi dậy, quệt vội vệt nước mắt trên má:
- Ai biết Mạc công công có chủ ý gì, tốt nhất là không để người của hắn đến căn nhà ngang phía tây này, thị tì... thị tì không… không sao cả.

Dương Lăng "ừ" một tiếng, nói:
- Được, vậy cô nghỉ ngơi đi, chút nữa ta kêu người đem bữa tối vào phòng.
Nói rồi y không đợi Cao Văn Tâm trả lời, ỉu xìu xìu tháo chạy ra ngoài.

Cao Văn Tâm đờ đẫn nhìn bức rèm châu ở cửa phòng lay động không ngừng, một lúc sau mới thở dài thất vọng, nàng lấy cây kim châm từ tay áo ra, chầm chậm cắm vào búi tóc. Nghĩ tới ánh mắt nóng bỏng Dương Lăng nhìn mình khi nãy, trong lòng nàng không khỏi vừa mừng vừa ngượng. Phụ nữ vì người mình thích mà điểm trang, nếu như sớm biết y đang nhìn... nhìn mình, thì mình quay đầu lại muộn một chút để y nhìn cho thỏa.

Vừa nghĩ như vậy, Cao Văn Tâm cảm thấy lòng bàn chân được Dương Lăng sờ qua lúc nãy bắt đầu ngứa, một luồng khí nóng từ lòng bàn chân chầm chậm chạy lên tim, đến trái tim cũng bắt đầu ngứa. Bất giác, một nét thẹn thùng đã lặng lẽ phủ lên hàng chân mày, khuôn mặt của nàng…

***


Ngày hôm sau, Khâm sai đại nhân Dương Lăng mời đáp lễ danh lưu thân sĩ của Hàng Châu. Dương Lăng làm chủ, Tri phủ Hàng Châu Dương Mạnh Anh và Trấn thủ thái giám Mạc Thanh Hà bồi tiếp, bày tiệc rượu lớn tại "Lư viên" Tây Hồ, tức là một trong Tây Hồ thập cảnh: "Hoa cảng quan ngư".

Ba ông lớn cùng nhau mời khách, thật là thể diện biết bao, thân sĩ danh lưu của Hàng Châu cùng tụ tập lại, đều đáp lại lời mời mà đến. Dương Lăng mặt mày vui vẻ, nâng cốc chúc rượu từng bàn, nghe bọn họ nịnh hót công lao dẹp giặc Oa bảo vệ dân chúng của mình, trong vẻ khiêm tốn còn mang theo dáng vẻ đắc ý lâng lâng. Thỉnh thoảng có người hỏi thăm y về lộ trình, Dương Lăng đều đáp sau khi tuần sát xong vệ sở Long Sơn thì sẽ lập tức quay về kinh sư, do đó tiến hành bày tiệc cảm tạ sự khoản đãi thịnh tình của thân sĩ Hàng Châu trước.

Đang chúc rượu, đột nhiên Dương Lăng cảm thấy hình như có người đang nháy mắt ra hiệu với mình ở phía đối diện. Dương Lăng nhìn kĩ lại thì thấy đó là Hoàng Chi Ninh - chưởng ban thân vệ tùy thân của mình. Hôm qua hắn đi điều tra đứa trẻ đáng nghi kia, theo dấu đuổi đến một gia đình, dùng chút thủ đoạn nghe ngóng hàng xóm xung quanh, hắn dò xét được gia đình đó đã ở vùng này nhiều đời, phụ thân của đứa bé đó họ Triển, kiếm sống bằng việc dẫn khách du lịch, mẫu thân làm thợ dệt tại hộ dệt của Cao Minh phủ. Đứa trẻ này tuy có khuyết tật nhỏ nhưng lại là hậu duệ duy nhất của nhà họ Triển, cho nên hai vợ chồng đều nuông chiều bé vô cùng.

Vốn Dương Lăng còn ôm mối hy vọng mỏng manh rằng đứa bé đó có lẽ đã được người nhận nuôi sau khi được đưa vào phường dệt Cao phủ, bây giờ đã hoàn toàn không còn nghi ngờ gì nữa. Y lập tức ra lệnh cho Hoàng Chưởng ban dẫn người tìm cách điều tra cho rõ những cô nhi mà Mạc phủ đã thu nhận còn ở trong những phường dệt đó hay không?

Vốn đám người Hoàng chưởng ban được đề bạt lên từ thân quân của Dương Lăng và từ trong Xích Hầu doanh. Trước đây bọn họ đã từng học qua các kỹ thuật, phương pháp điều tra từ Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh, sau khi trở thành nha sai lại được Ngô Kiệt huấn luyện thêm nên bây giờ đều là cao thủ trong nghề này.

Cho dù Mạc Thanh Hà có thủ đoạn thông thiên đi nữa, nếu như có người thật sự muốn điều tra tung tích của những đứa trẻ kia thì hắn cũng không thể che giấu được mấy chục người còn sống sờ sờ kia, chẳng qua là trước đây không có ai hỏi han gì đến đám cô nhi đó mà thôi. Bây giờ Dương Lăng đã có ý điều tra thì chẳng mất bao công sức, bọn Hoàng Chi Ninh đã lấy được tin tức chuẩn xác, vội vã quay về bẩm báo với Dương Lăng.

Dương Lăng đưa mắt ra hiệu cho hắn, kêu hắn đợi ở trên cây cầu gấp khúc (khúc kiều) gần đó, còn y lại tiếp tục chúc rượu vài bàn. Thấy Mạc công công và Dương Tri phủ đang bị đám người quen biết kéo lại trò chuyện, y liền lặng lẽ đi lại chiếc cầu.

Đình, đài, lầu, các, hoa cỏ trong Lư viên sum suê, hoa tươi chập chờn khắp nơi, các khóm Mẫu đơn quý báu như "Quý phi túy tửu", "Kiều dung tam biến" nở ra những bông hoa tươi to bằng bát cơm, tỏa ra mùi hương thoang thoảng. Nước ở dưới cây cầu trong như gương, cá chép vảy vàng đông nghìn nghịt, chỉ cần có người bước tới, lập tức từ bốn phương tám hướng chen nhau đến, ào ào nhảy ra khỏi mặt nước, con này nhảy lên, con khác rơi xuống, giống như có người đang giặt một tấm vải hồng trên mặt nước.

Dương Lăng bước lên trên cầu, dựa vào lan can nhìn xuống nước, dáng vẻ tựa như say rượu cần nghỉ ngơi một lúc. Hoàng Chưởng ban cũng rất tinh tế, hắn giả bộ đi đến đỡ lấy y, sau đó nói nhỏ:
- Đại nhân! Theo điều tra của ti chức, Mạc công công trấn thủ Giang Nam đã năm năm. Nghe nói ba năm trước, sau khi hắn cưới đệ nhất danh kĩ của "Xuân vũ Hạnh hoa lâu" làm vợ, nghe theo sự khuyên nhủ của vợ đã làm nhiều việc thiện, xây đường đắp cầu, xây lán phát chẩn, còn thu nhận cô nhi đưa đến các phường dệt để làm thuê. Tính cho tới bây giờ, cộng thêm đứa trẻ vừa rồi thì đã thu nhận ba mươi lăm em rồi.

Dương Lăng gật đầu, hỏi:
- Bây giờ đám trẻ đó còn làm thuê tại các hộ dệt kia không?

Hoàng Chưởng ban lắc đầu, nhẹ giọng đáp:
- Tất cả đều không thấy nữa!

Dương Lăng giật mình, quay đầu lại, hỏi vội:
- Người đi đâu?

Hoàng chưởng ban báo cáo:
- Ti chức nghe ngóng tình hình của một đứa trẻ, đóng giả làm cậu họ xa của đứa trẻ đó từ Hiệp Bắc đến thăm nom, đến hộ dệt kia hỏi thăm. Theo như hộ dệt đó nói, đứa trẻ đó đến chưa đầy một tháng thì được người khác mua mất. Bởi vì đám trẻ đó chưa bán thân cho hộ dệt, hộ dệt đó sợ ti chức kiện bọn họ lừa gạt buôn người, liền nói số bạc đó chỉ là tiền ăn ở trong thời gian thu nhận đứa trẻ. Một phú thương Tô Châu vừa ý đứa trẻ đó, nói nó thông minh lanh lợi nên đưa về phủ làm bộc đồng, so ra còn tốt hơn việc mưu sinh tại hộ dệt nhiều.

Ty chức sợ rằng chỉ dùng kiểu thân phận này sẽ làm người khác hoài nghi, lại dùng các thủ đoạn mua chuộc để hỏi thăm các hộ dệt khác. Vô cùng kỳ lạ là đám trẻ đó ở chưa đầy một tháng thì đều bị người khác mua mất, càng kỳ lạ hơn nữa là người mua chỉ là một người, tên gọi là Lý Quý.

- Lý Quý? Cái tên này nghe quen quen...
Nghĩ ngợi một hồi, bỗng nhiên Dương Lăng nhớ tới tên Lý Quý đã gặp ở Hàn Sơn tự tại Tô Châu, không khỏi nảy lòng nghi ngờ. Gia tài của Lý Quý hàng vạn, tôi tớ hơn nghìn, gã muốn mua vài bé cô nhi cũng chẳng có gì là lạ, nhưng đáng nghi là tại sao lại trùng hợp như vậy, những đứa trẻ Mạc Thanh Hà nhận nuôi đều bị gã mua tất, hơn nữa tất cả đều là trong vòng một tháng. Gã kiếm tiền chủ yếu từ cho vay nặng lãi và kinh doanh đất đai, không có liên quan gì đến nghề dệt vải, dù cho mỗi tháng đều đến Hàng Châu một lần, nhưng cũng chẳng có lý do gì mà lần nào cũng đến các hộ dệt thu thập đám cô nhi không người chú ý kia.

Hơn nữa..., hôm đó thấy gã vô cùng kính sợ Mạc công công. Gã dùng lương thực để cho vay, dùng đất để siết nợ, nếu muốn phát tài thì đương nhiên phải chịu sự quản lý của Mạc Thanh Hà, cho nên bợ đỡ nịnh nọt hắn cũng không có gì là lạ. Nhưng nếu như vì gã muốn lấy lòng Mạc Thanh Hà nên mới thu nhận đám cô nhi do Mạc Thanh Hà thu nuôi thì cũng không có lý nào mà đã ba năm rồi vẫn còn chưa báo cho Mạc Thanh Hà biết!

Lại liên tưởng đến việc cố ý dùng cô nhi giả để giải thích lòng dạ mình của Mạc Thanh Hà, trong lòng Dương Lăng không khỏi chấn động, một ý nghĩ nảy nên: "Bất kể trong này có điều cổ quái gì, chắc chắn là Mạc Thanh Hà đã biết chuyện này từ lâu. Hơn nữa hắn cũng không dám để cho ta biết chuyện này, cho nên trên đường quay về hắn mới vội vã sai người tìm một em bé giả làm cô nhi trong hộ dệt. Chẳng trách sau khi về đến thành, chính hắn chủ động đề xuất mời ta đi xem xét tình hình dệt vải ở Tô Châu...”

Nghĩ đến đây, Dương Lăng lại hỏi Hoàng Chưởng ban:
- Tai mắt của chúng ta đã giăng đến Tô Châu chưa?

Hoàng Chưởng ban tự hào đáp:
- Bẩm đại nhân, mạng lưới tình báo của chúng ta phát triển nhanh chóng vô cùng. Ngài vừa xuống Giang Nam, thì Vu đương đầu liền lấy Giang Nam làm trọng điểm phát triển, hiện giờ mấy thành lớn ở Giang Nam đều đã có người của chúng ta đóng ở đấy.

Dương Lăng nghe vậy trong lòng rất vui mừng, y suy nghĩ một lát rồi cười lạnh:
- Được, lập tức tra xét tên Lý Quý kia! Không những điều tra tung tích của những đứa trẻ kia, mà còn cần phải điều tra lai lịch của Lý Quý. Chỉ trong thời gian vài năm ngắn ngủi mà tiền tài và quyền thế của gã đã đuổi kịp Ngô Tề Uyên - người giầu nhất đất Ngô có cả trăm năm lịch sử - xem ra có điều khả nghi.

Phần lớn các hào phú địa phương đều cấu kết với quan phủ, Ngô gia cũng không ngoại lệ. Nhưng tiền tài và quyền thế của Lý Quý bây giờ còn chưa sánh được với họ Ngô, mà hôm đó gã đã dám vô lễ như thế với Ngô Tề Uyên, chắc chắn sau lưng gã có chỗ dựa còn lớn mạnh hơn của Ngô gia. Cho nên ngươi cần phải cẩn thận khi điều tra gã, có bất kì tin tức gì đều phải lập tức báo cho ta biết.

Hoàng Chưởng ban gật đầu tuân lệnh. Đúng lúc này Mạc Thanh Hà mỉm cười bước đến, hỏi:
- Dương đại nhân, có phải ngài đã say?

Dương Lăng khoát tay ra hiệu Hoàng Chưởng ban rời khỏi, sau đó "ha ha" cười nói với Mạc công công - người làm cho y càng lúc càng không thể đoán được lòng dạ:
- Quả nhiên Hoa Cảng Quan Ngư đẹp hết chỗ nói. Lúc nãy bản quan uống rượu hơi vội, nay đã nghỉ ngơi được một lát, bây giờ cũng cảm thấy đở hơn rồi.

Mạc Thanh Hà nhìn lướt qua, thấy tên sai nha đỡ Dương Lăng lúc nãy đã lùi xuống nhưng không rời khỏi, vẫn đứng ở đầu cầu, hình như là tùy tùng phụ trách bảo vệ Dương Lăng. Nét nghi ngờ trong mắt lúc này mới tan biến, hắn vui vẻ đến bên Dương Lăng, vung tay rải một vốc thức ăn cá xuống nước. Đầu cá nhấp nhô, giống như một cơn sóng hồng dâng lên, đám cá đó chen nhau đến một chút nước cũng không nhìn thấy, nếu như thò tay vớt thì cũng có thể dễ dàng bắt được vài con cá chép.

Mạc Thanh Hà không kềm được than thở:
- Cá đã từng bị mắc câu thì sẽ không dễ bị lừa, nhưng cá nuôi trong ao, chỉ biết sự nuôi dưỡng của con người, hoàn toàn không hề cảnh giác với con người. Ở nơi giống như thiên đường này mà cởi trần bắt cá sẽ làm hỏng mất phong cảnh; bằng không hạ quan gần như muốn xuống dưới đó bắt vài con để nhắm rượu rồi.

Dương Lăng mỉm cười:
- Người chết vì tiền, chim chết vì mồi, đám cá bị trói buộc trong ao này rồi, thực ra muốn chạy cũng không chạy thoát được. Đã là như vậy, chi bằng tự vui với mình; suy nghĩ cho lắm lại là tự tìm phiền não.

Vừa nghe câu "người chết vì tiền, chim chết vì mồi", nụ cười trên mặt Mạc Thanh Hà không khỏi đông cứng lại. Vốn hắn đang định vung tay rải một vốc thức ăn cho cá, cánh tay hơi khựng lại, phần lớn thức ăn rơi thẳng xuống mặt cầu.

Dương Lăng nhìn thấy tất, nhưng vẫn ung dung thản nhiên nhìn đám cá đang vội bơi đến kia, dường như cảm khái vô cùng, nói tiếp:
- Đời người một kiếp, cỏ cây một mùa, không tính những năm tháng trẻ tuổi và thời gian xế chiều, thời gian dùng để ăn chơi đàng điếm, hưởng thụ vinh hoa còn có được bao nhiêu? Cho nên mới nói: “Đời người khi đắc ý thì cần phải vui sướng hết mình!”

Mạc Thanh vui mừng vô cùng, hắn cười vui vẻ tán thành:
- Lời nói của đại nhân làm thức tỉnh người trong mộng, ti chức thọ giáo rồi. Nghe nói đại nhân đi Long Sơn vệ xong thì sẽ quay ngược về kinh ngay; ti chức vốn định chuẩn bị một chút thổ sản để đại nhân mang về kinh, nhưng nghe nói đại nhân đã mua một ít rồi, trong nhất thời ty chức cũng không biết mua gì nữa. Một chút lễ mọn này xin đại nhân vui lòng nhận cho, dọc đường nếu đại nhân thấy thích thứ gì thì mua thứ đó, coi như là chút tâm ý của ti chức.

Dương Lăng đón lấy, thấy đó là một xấp ngân phiếu dầy cộm, đều là giấy bạc có hạn ngạch cao nhất – một vạn lượng bạc trắng. Y không khỏi cả kinh, đây là một hậu lễ rất to lớn, những đồ vật cao nhã mà đám thân sĩ danh lưu tặng cho, nhiều nhất cũng chỉ hơn vạn lượng, không bằng số lẻ của hắn biếu mình.

Lễ vật trọng hậu như vậy, nếu như trước ngày hôm nay thì Dương Lăng không dám nhận, nhưng lúc này y lại thản nhiên nhận lấy, vội vội vàng vàng đút vào trong tay áo, mặt mày hớn hở:
- Chuyến đi Giang Nam lần này, bản quan thấy Mạc đại nhân là người thanh khiết nhất trong ba vị Trấn Thủ, vì quốc gia thu thuế, không tiếc sức mình cúc cung tận tụy, bản đốc vô cùng hài lòng. Bản đốc trấn thủ Kinh sư, còn ở các địa phương khác phải nhờ cậy vào các vị trấn thủ. Giang Nam là vựa thóc của thiên hạ, là vùng đất trù phú giầu có và đông đúc, về sau còn phải nhờ vả đại nhân rất nhiều.

Những ngày này Mạc Thanh Hà cũng chẳng hề nhàn rỗi. Hắn đã nắm được thông tin về việc Nội Xưởng mở một con đường riêng, dùng vận chuyển đường biển, đường bộ để khai thác tiền tài, tin tức; nay thế lực Nội xưởng đã trải khắp khắp thiên hạ. Qua trận chiến Hải Ninh, hắn còn tận mắt thấy được sự lợi hại của Nội Xưởng và năng lực của Dương Lăng nên trong lòng đã quyết ý trung thành, cống hiến sức lực cho Dương Lăng, từ giờ sẽ đi theo hẳn Dương Lăng.

Chỉ là tất cả các quan lại giám sát việc thuế khóa trong cả nước, không có ai là không tham ô, có khác biệt cũng chẳng qua là tham ô nhiều hay ít mà thôi. Dương Lăng vừa mới rời khỏi Kinh sư thì hắn đã nghe ngóng được lúc trước Dương Lăng là thị độc của Thái tử, mỗi ngày đều đi bộ vào cung, làm quan cũng rất thanh liêm, sau này dân chúng kinh sư lại lan truyền rằng Dương Lăng vì dân chúng mà bị rơi vào tử lao, cho nên trong lòng hắn luôn kiêng dè Dương Lăng.

Dương Lăng vừa mới đến Giang Nam thì hắn thấy y mang theo một thuyền đầy hàng lậu, việc này đã khiến cho hắn rất đỗi kinh ngạc; sau đó lại thấy Dương Lăng thu nhận lễ vật, thu mua đặc sản Giang Nam, hình tượng Dương Lăng trong lòng hắn bị đảo lộn hoàn toàn. Hôm nay lại nghe thấy những lời kiến giải về tận hưởng lạc thú trước mắt này, hắn lập tức dâng hậu lễ chuẩn bị từ trước lên nhằm bày tỏ lòng trung thành.

Vừa nghe thấy lời nói có ý lôi kéo này của Dương Lăng, Mạc Thanh Hà lập tức lộ nụ cười, nói:
- Đại nhân quá khen! Ti chức đã ngưỡng mộ uy danh của đại nhân từ lâu, bây giờ lại là thuộc hạ của đại nhân, tự nhiên ti chức sẽ tận hết toàn lực, tận trung vì nước, đem sức lực phục vụ đại nhân, mong đại nhân cất nhắc nhiều hơn.

Dương Lăng cười "ha ha", vỗ nhẹ vào vai hắn, bóng gió:
- Điều này tất nhiên rồi! Chỉ cần Mạc công công đối đãi thành thật với Dương Lăng ta, vậy thì... Chỉ cần có Dương mỗ ta thì không thể thiếu Mạc công công ngài được.

Mạc Thanh Hà được y vỗ vai, thoáng chốc người đã nhẹ như bông, hắn cười nịnh:
- Đại nhân yên tâm! Đại nhân phong nhã hào hoa, tiền đồ tựa gấm, ti chức cam lòng làm lính hầu cho đại nhân, từ bây giờ cùng đại nhân vui buồn có nhau, phúc họa cùng chịu.

Hắn chỉ cá chép ở trong nước, nói tiếp:
- Hôm nay nói chuyện gan ruột với đại nhân, ti chức nhìn lại đám cá bơi lội trong nước này cũng cảm thấy khác biệt so với trước. Người khác cảm thấy con cá này ngu dại, thì ra bọn chúng mới thật sự hiểu ý vị của nhân sinh. Ha ha, ta không phải cá, sao biết được niềm vui của cá.

Dương Lăng mỉm cười tiếp lời:
- Ngài không phải tôi, sao biết được niềm vui của tôi?

Hai người cùng nhìn nhau, đồng loạt cất tiếng cười to...




Chú thích:

[1] Nguyên văn "Quan Ngư Chi Nhạc"
Xuất phát từ điển cố: “Bác không phải cá, sao biết được niềm vui của cá?”

Trang Tử cùng Huệ Tử dạo chơi trên cầu sông Hào.
Trang Tử nói: “Cá ra chơi thong thả, đó là niềm vui của cá.”
Huệ Tử hỏi: “Bác không phải cá, sao biết được niềm vui của cá?”
Trang Tử hỏi lại: “Bác không phải tôi, sao biết tôi không biết niềm vui của cá?”
Huệ Tử đáp: “Tôi không phải bác nên không biết bác đã đành. Nhưng bác vốn không phải cá, thì hẳn là bác không biết được niềm vui của cá.”
Trang Tử nói: “Xin nói lại từ đầu. Bác hỏi tôi sao biết được niềm vui của cá, thế là bác đã biết tôi biết rồi mà hỏi tôi. Tôi thì biết điều đó ở trên sông Hào nầy.”

Chương 133 - Đàn Ông Thật Khổ


Cao Văn Tâm đưa mắt quan sát Trương Phù Bảo đang mặc đạo bào nhưng lại để xõa mái tóc dài mượt mà đang đứng trước mặt. Nhận thấy đôi mày cô ta đẹp như tranh vẽ, khuôn mặt tràn ngập một vẻ đẹp non nớt ngây thơ, rõ ràng là một nha đầu còn chưa lớn hẳn, nàng dở khóc dở cười hỏi:
- Cô… liệu có ổn không? Chuyện này quan trọng, không biết Bảo Nhi cô nương có thể đưa ta đi gặp Thiên sư được chăng?

Trương Phù Bảo đang rảnh đến phát ốm, khó khăn lắm mới kiếm ra việc để làm, đời nào nàng chịu đưa Cao Văn Tâm đi gặp ca ca? Huống chi hiện giờ ca ca đã được một vị tín đồ giàu có là thương nhân bán trà Mai lão tiên sinh mời đi rồi.

Ngồi nghiêm trang trên ghế, cô nàng bày đầy các dụng cụ bói toán lên bàn, ra vẻ già dặn:
- Có gì mà không ổn? Đạo hạnh của tôi so với gia huynh cũng chẳng hề thua kém chút nào, hơn nữa… Thiên sư không tùy tiện gieo quẻ cho người khác đâu. Nếu tỷ tin tôi, tôi sẽ bói cho tỷ một quẻ, chúng ta quen nhau cũng là duyên phận, tiền quẻ khỏi phải trả. Còn nếu như không tin tôi… Vậy xin Văn Tâm cô nương hãy về đi. Cho dù tỷ gặp được gia huynh, huynh ấy cũng không chịu ra tay đâu.

Thấy Cao Văn Tâm có vẻ thẫn thờ ngẩn ngơ, Trương Phù Bảo chợt nở một nụ cười tinh quái để lộ hai chiếc răng khểnh đáng yêu, nói tiếp:
- Tỷ tỷ muốn bói nhân duyên hay sao? Ồ… Tuổi tác tỷ tỷ như vậy cũng sớm nên lấy chồng rồi, có điều nhìn vẻ mặt tỷ lại không giống như là sắp có chuyện mừng. Tỷ tỷ hãy đưa sinh thần bát tự cho tôi đi, để tôi bói thử một quẻ xem sao. Có điều phải thanh minh trước, tôi chỉ có thể bói được đại khái ngày giờ tỷ gặp hỷ sự chứ không xác định được người đó là ai đâu.

Cao Văn Tâm thẹn đến đỏ bừng cả mặt vì sau lưng nàng đang có hai gã nha sai theo hộ vệ. Lần này nàng đã cố sống cố chết nhất định đòi đi ra ngoài, nếu để bọn họ tưởng là vì nguyên nhân này, há chẳng phải nàng sẽ bị người ta cười đến chết mất sao?

Thì ra nàng thấy Dương Lăng bày tiệc tại Lư Viên để mời các bậc danh sỹ có tiếng ở chốn này bèn muốn lẻn ra khỏi phủ đi tìm Trương thiên sư hỏi quẻ xem sao. Tuy cổ chân nàng đã bị trẹo nhưng rượu thuốc do nàng tự chế lại rất hiệu quả, sau một đêm chân đã hết sưng, chỉ cần đi nàng đi chầm chậm là sẽ ổn.

Những người ở lại canh giữ Mạc phủ có ai mà không biết vị cô nương xinh đẹp này mỗi lúc đêm khuya vắng lặng đều thường ra vào phòng ngủ của Xưởng đốc đại nhân, nếu nói giữa hai người bọn họ không có quan hệ gì ám muội thì ai mà chịu tin chứ? Trong lòng những người này đều sớm đã coi cô thị nữ xinh đẹp như hoa ấy là tứ phu nhân. Nàng ta nằng nặc đòi đi gặp Trương thiên sư, người trấn giữ dinh thự là Hạ bách hộ ngăn cản hồi lâu mà chẳng được, chỉ đành phái một chiếc kiệu nhỏ cùng với hai thủ hạ đắc lực đi sát theo bên cạnh nàng.

Thấy vị Bảo Nhi cô nương này cứ khoác lác mãi, một mực vỗ ngực tự xưng là đã được chân truyền từ Thiên sư đời trước, Cao Văn Tâm đành ngồi xuống, ngoảnh đầu thấp giọng bảo hai gã nha sai:
- Phiền hai vị hãy ra ngoài cửa đợi ta, ta muốn… mời nữ chân nhân bói cho ta một quẻ.

Hai gã nha sai cho rằng vị đại cô nương này mong lập gia đình, nóng lòng muốn qua cửa để làm Xưởng đốc phu nhân. Mà con gái vốn e thẹn, bản thân mình đứng bên cạnh quả thực không thích hợp nên hai gã bèn y lời mà lùi ra ngoài cửa, đứng chờ ở hành lang.

Cao Văn Tâm lấy từ trong ngực ra một mảnh giấy, nàng còn chưa kịp nói gì thì Trương Phù Bảo vốn nóng lòng muốn khoe tài đã giật lấy, đưa tay ngăn không cho nàng lên tiếng, vẻ mặt ngạo nghễ bảo:
- Không cần phải nói! Thiên sư biết thiên cơ, mười phần cũng đúng được tám chín, đợi tôi nhất nhất bói ra cho tỷ.

Cô nàng có tâm khoe mẽ. Vốn chỉ cần dùng một loại công cụ chuyên bói việc nhân duyên là được, nhưng lúc này nào là tiền đồng, thẻ trúc, mai rùa, la bàn (đây là loại la bàn phong thủy dùng để bói toán, không phải la bàn chỉ hướng thông thường – ND.),… tất cả đều được cô nàng lần lượt lôi ra sử dụng, động tác thuần thục đẹp mắt, khiến Cao Văn Tâm nhìn mà nhức mắt choáng đầu nhưng lòng tin thì tăng lên vùn vụt.

Trương Phù Bảo càng tính động tác lại càng chậm lại, cuối cùng do dự nói không ra lời. Cao Văn Tâm không kìm được hỏi:
- Thế nào? Có gì không ổn sao?

Trương Phù Bảo ngẩng đầu lên, cặp mắt to tròn trong veo lấp lánh lén liếc nhìn Cao Văn Tâm, bụng nhủ thầm: “Hỏng rồi! Lần này thì thật mất mặt quá, hôm nay quẻ bói không linh. Rõ ràng người ta ngồi ngay trước mặt mình, nếu mình nói theo số mệnh thì tỷ tỷ này đã phải chết từ lâu rồi mà tỷ ấy không tát cho mình mấy cái mới là lạ.”

Trương Phù Bảo cười khan đáp:
- Hơ… Chuyện này… Hì hì hì! Tỷ muốn đoán việc nhân duyên phải không? Chuyện nhân duyên này là do trời định, duyên phận chưa tới biết cũng vô dụng, duyên phận tới rồi thì nửa kia khắc sẽ tìm đến cửa. Tùy tiện tiết lộ thiên cơ chỉ e vận mệnh sẽ vì thế mà biến đổi mất.

Cao Văn Tâm không kìm được trừng mắt bực bội, hơi bất mãn:
- Không phải cô đã nói thứ gì cũng đều có thể bói được hay sao? Sinh thần bát tự này không phải là của ta, mà là của Dương đại nhân, ta muốn... muốn nhờ cô bói xem đại nhân còn hưởng được bao nhiêu năm dương lộc.

Trương Phù Bảo cả kinh, cô nàng chợt nắm chặt lấy la bàn đứng bật dậy nhìn chằm chằm Cao Văn Tâm, khiến Cao Văn Tâm không khỏi thầm bủn rủn, cũng lật đật đứng dậy.

Sinh thần bát tự của Dương tú tài đã từng được đưa đến nhà họ Hàn khi hai bên hợp hôn (Một nghi lễ trong quá trình kết hôn ngày xưa, hai bên trao đổi sinh thần bát tự để xem có hợp với nhau không - ND.), do đó trong tay Hàn Ấu Nương vẫn còn giữ sinh thần bát tự của phu quân mình. Cao Văn Tâm tìm được phương thuốc chữa chứng “nội hư bất dục” của Dương Lăng trong thư tịch cổ, dựa theo yêu cầu của phương thuốc thì cần biết sinh thần bát tự của bệnh nhân.

Thời thượng cổ y thuật và thuật phù thủy vốn không được phân chia rõ ràng, do vậy trong y thuật thường xen lẫn một số pháp thuật bừa bãi, có một số thì cần căn cứ vào sinh thần bát tự để quyết định lượng thuốc và thời gian chữa trị. Cao Văn Tâm cũng không biết là việc đó có linh hay không, nhưng bốc thuốc cho người mà mình cực kỳ coi trọng thì tất nhiên nàng không dám sơ xảy. Do đó nàng cứ y theo sách mà làm, lén hỏi Ấu Nương về sinh thần bát tự của Dương Lăng.

Từ lúc vừa gặp Dương Lăng, nhìn tướng mạo của y, Trương Phù Bảo đã đoán định được rằng mệnh tướng của người này quái dị, nhất định là được người nào đó có đạo thuật cực cao đoạt xá tục mệnh (mượn xác hoàn hồn ) giúp cho. Nay có sinh thần bát tự của y trước mắt, cô nàng càng tin chắc vào nhận xét khi xưa của mình.

Nếu người bình thường mà nghe được chuyện này, nói không chừng sẽ coi kẻ được mượn xác hoàn hồn là yêu quái. Nhưng Trương Phù Bảo xuất thân từ Long Hổ sơn, cả ngày toàn nghiên cứu mấy chuyện về thần với quỷ. Nghe nói Gia Cát Lượng thời Tam Quốc đã từng dùng đèn thất tinh để cầu kéo dài dương thọ, đáng tiếc là bị Ngụy Diên xông vào trong lều, vô tình đá đổ ngọn đèn thất tinh nên ông thất bại trong gang tấc. Những chuyện như thế này Bảo Nhi cô nương đã từng được nghe nói rất nhiều.

Do đó Trương Phù Bảo không coi Dương Lăng như quái vật. Nàng chỉ ngạc nhiên vì không ngờ trên đời này lại có vị cao nhân thực hiện được môn pháp thuật trong truyền thuyết mà ngay cả cha nàng cũng không làm được như vậy.

Trương Phù Bảo nhìn Cao Văn Tâm hồi lâu, nhớ đến việc ca ca đã từng nói Dương Lăng quyền cao chức trọng, hơn nữa sau lưng còn có một vị đạo nhân đạo hạnh cao siêu, Long Hổ sơn không dây đến được. Nàng bèn vội xoa xoa khuôn mặt sớm đã cứng đờ, đổi sang bộ mặt tươi tỉnh ngọt ngào, cười híp mắt:
- Tỷ… Tỷ muốn tính thọ lộc của Dương đại nhân phải không? Mệnh cách của y quý lắm, còn về thọ lộc…

Cao Văn Tâm căng thẳng hỏi:
- Thọ lộc thế nào?

Trương Phù Bảo buồn bực ngồi trở lại ghế, đáp:
- Thọ lộc cực cao, chắc chắn sẽ sống rất thọ. Có điều tuổi tác cụ thể như thế nào thì chẳng ai có thể tính ra được.

Vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, Cao Văn Tâm vội hỏi lại:
- Cô chắc chắn chứ? Không có sai sót gì chứ?

Trương Phù Bảo bực bội đáp:
- Cụ thể thì tôi tính không ra, không phải đã nói mười phần thì đúng được tám chín rồi sao? Trên thế gian này ngoài chính phúc chính thọ ra thì còn có tai bay vạ gió, mệnh tướng chỉ có thể tính ra được cái chính phúc chính thọ ấy thôi. Vậy nên mới có câu thiên cơ khó đoán, lỡ có tai vạ bất ngờ xảy ra thì tôi cũng không dám đảm bảo.

Dương Lăng nắm quyền bình trong tay, đi đến đâu cũng có thị vệ bao quanh trùng trùng, có thể gặp phải tai vạ bất ngờ gì chứ?

Vốn Cao Văn Tâm cũng chẳng tin vào mấy lời quỷ quái của Dương Lăng, luôn cho rằng có người giả thần giả quỷ lừa gạt y. Bây giờ nghe được lời của Trương Phù Bảo, lập tức nàng giống như được uống thuốc an thần, cứ ngồi đó ngẩn ngơ thích thú một hồi lâu, hồn phách bay về nơi xa tít tắp, chẳng biết là đang nghĩ gì.

Đến khi tỉnh táo trở lại, nhìn thấy Trương Phù Bảo đang hai tay chống cằm, chớp chớp đôi mắt to tròn tò mò nhìn mình đang thả tâm hồn bay tận đâu đâu, nàng mới đỏ mặt nói:
- Vậy Bảo Nhi cô nương… Cô có thể theo ta trở về giải thích với đại nhân chuyện này được không? Đại nhân… Đại nhân không biết là nghe gã lừa đảo nào nói bậy, cứ luôn tin rằng bản thân chẳng còn sống được bao lâu nữa…

Trương Phù Bảo thầm nghĩ: “Y nghĩ như vậy thì lại càng đúng rồi! Chắc hẳn là vị cao nhân đã thi triển phép đoạt xá tục mệnh giúp y kia cũng không hoàn toàn tin tưởng vào đạo thuật của mình, không biết chuyện nghịch thiên cải mệnh có thể thành công hay không, do đó y mới có suy nghĩ này. Ồ… Con người y cũng không tồi, nhìn chẳng đáng ghét chút nào cả! Chà, cả ngày y cứ phải lo lắng như thế cũng thật đáng thương. Chỉ cần ta không vạch trần bí mật của y, cứ bịa bừa mấy câu rằng y phúc thọ song toàn, sống lâu trăm tuổi chắc là cũng không sao đâu. Nhưng không biết liệu ca ca có đồng ý hay không…”

Nghĩ đến đây, Trương Phù Bảo bèn cười nói với Cao Văn Tâm:
- Được rồi! Phần tôi thì không vấn đề gì cả, nhưng ca ca đã đi làm khách ở bên ngoài, đợi huynh ấy trở về tôi hỏi lại huynh ấy đã.

Đã biết được sự thực, Cao Văn Tâm cũng không ngại phải đợi thêm một thời gian. Nàng bèn đứng dậy tươi cười thi lễ:
- Đa tạ Bảo Nhi cô nương, vậy tôi xin cáo từ đây, hôm khác sẽ lại đến bái phỏng.

***


Có những người dù ở cạnh nhau cả đời cũng không thể trở thành bằng hữu cho dù giữa bọn họ chẳng có mâu thuẫn gì, đó là bởi giữa bọn họ thiếu một thứ mà cả hai cùng cảm thấy có hứng thú. Còn những người cùng chung chí hướng thì rất nhanh sẽ trở thành bạn bè tri giao của nhau.

Sau khi hai con người “cùng chung chí hướng” là Dương Lăng và Mạc Thanh Hà từ “Lư viên“ (Chính là “Hoa cảng quan ngư”, một trong Tây hồ thập cảnh) trở về Mạc phủ, bọn họ đã trở thành một cặp hảo hữu tri giao. Giữa hảo hữu với nhau thì chuyện gì cũng đều có thể mang ra bàn luận một cách vui vẻ, hai người nói từ phong tục Hàng Châu cho tới chốn quan trường ở kinh sư, nói từ đám mây trên trời cho tới bụi hoa bên đường, rồi lại nói tới những nữ nhân xinh đẹp…

Hì hì… Nếu vị thái giám lão huynh kia đã chủ động nói đến chuyện này rồi, sao còn phải xấu hổ làm gì nữa chứ?

Hiển nhiên Dương Lăng đã say, khuôn mặt anh tuấn đỏ bừng mang theo bảy phần tửu ý. Còn Mạc Thanh Hà thì cũng đã có mấy phần say, nhìn cái vẻ loạng choạng lảo đảo của hắn, dường như nếu không có vị quản gia họ Lý ở bên cạnh dìu đỡ thì chỉ e hắn đã đâm đầu ngay xuống rãnh rồi.

Vừa mới bước vào khu nhà Mạc phủ cổ kính, Dương Lăng đã dừng ở tiền sảnh cười bảo Mạc Thanh Hà:
- Hôm nay dốc gan dốc ruột đàm luận với Mạc đại nhân một phen, lại được cùng đại nhân đối ẩm, quả nhiên là sảng khoái vô cùng. Hiện giờ bản đốc đã chẳng thể uống thêm, xin phép được trở về nghỉ ngơi. Ngày mai còn có một lượt khách khác cần khoản đãi, Mạc đại nhân cũng nên chú ý nghỉ ngơi đi!

Dường như ngay cả mắt cũng không mở ra được nhưng Mạc Thanh Hà vẫn khoác lác:
- Ùi, Dương đại nhân, chúng ta nói chuyện đang vui, sao lại đi ngủ ngay thế chứ? Nào nào nào, hãy đến nội thư phòng của hạ quan ngồi chơi một chút, hạ quan có trà ngon cực phẩm dâng lên.
Nói đoạn bèn kéo tay Dương Lăng bước đi luôn.

Dương Lăng vừa đi vừa tò mò hỏi:
- Còn có trà ngon ư, chẳng lẽ lại ngon hơn cả loại trà cực phẩm mà ngài tặng ta lần trước à?

Mạc Thanh Hà cười khà khà đáp:
- Đại nhân chớ trách! Không phải là hạ quan không chịu dâng lên cho đại nhân, quả thực là trà này… trà này quá hiếm. Hạ quan cũng chỉ thỉnh thoảng mới uống thôi, nếu mà đem tặng cho đại nhân thì cũng chỉ tặng được một tí tẹo, không khỏi có vẻ bủn xỉn quá.

Dương Lăng nảy lòng tò mò, không kìm được hỏi gặn:
- Trà gì mà lại hiếm có như vậy?

Mạc Thanh Hà ghé sát tới bên tai y, nhỏ giọng:
- Trà này cũng là loại Long Tỉnh cực phẩm trước mưa, có điều… nó không phải là dùng tay hái. Hạ quan đã chọn ra những người trẻ tuổi xinh đẹp nhất từ trong số các vị cô nương hái trà, kêu bọn họ dùng răng và đầu lưỡi để hái búp trà, sau đó lại mời trà sư chế biến sơ qua một chút rồi đựng vào trong túi, cuối cùng thì đặt những cái túi đó vào trong ngực các cô nương kia để hong khô. Hà hà, cực phẩm đấy! Dùng miệng để hái trà nên suốt cả ngày cũng chẳng hái được bao nhiêu, do đó loại trà này ít đến đáng thương.

Lão thái giám này, thật biết hưởng thụ quá thì phải?

Kêu các thiếu nữ mười bốn mười lăm tuổi dùng cái miệng nhỏ xinh để hái trà, sau đó lại hong khô trà trên những bộ ngực thơm tho ấy. Tuy công nghệ này chưa chắc đã tạo ra được loại trà ngon hơn trà do các vị trà sư điều chế, nhưng mỗi khi uống trà lại nhớ đến những công đoạn kia, cái ý cảnh ấy thật là…

Cũng như người ta đồn rằng Churchill thích hút xì gà Cu Ba là bởi vì ông ta đã từng tận mắt chứng kiến những cô gái làm ở xướng sản xuất xì gà vén váy lên, quấn xì gà trên những chiếc đùi trắng nõn gợi cảm đến mê người, do đó ông mới say mê cái thứ xì gà mang theo mùi vị lãng mạn ấy. Mà là đàn ông, ai có thể kháng cự được sự lãng mạn kiểu này cơ chứ?

Dương Lăng không kìm được liếc nhìn Mạc Thanh Hà, vẻ mặt tràn ngập ngưỡng mộ:
- Mạc đại nhân thật lợi hại… thật lợi hại… Trà ở đâu vậy? Mau đưa bản quan đi xem thử một phen!

Hai người đi qua sân trước, sảnh giữa, sân sau, cuối cùng đi tới một ngôi lầu trang nhã, dọc đường hoa cỏ khắp nơi chẳng khác gì chốn tiên cảnh.

Giữa hồ giả sơn cao vút, đặc sắc tinh xảo, một ngọn tựa sư tử, một ngọn tựa chim ưng; quanh bờ hồ là những lùm trúc xanh biếc, xen lẫn bên trong là những khóm hoa trà rực rỡ sắc màu…

Trên bức tường chắn trước sân sau có khắc bốn chữ “Hoa Trúc Di Tĩnh”, bốn phía xung quanh bức tường gạch là những hàng mai lan trúc cúc được cắt tỉa gọn ghẽ, hàng lối thẳng tắp, tinh tế vô cùng.

Loại trang viện của nhà giàu này hai bên đâu đâu cũng có cửa, cũng chẳng rõ là rốt cuộc có bao nhiêu gian phòng, giữa trang viên thì đầy những ao hồ giả sơn, còn đá tảng kỳ dị trông như tổ ong thì nơi nào cũng có. Tùng la hán với những tán cây hình tròn cong mình uốn khúc leo cao, trên mặt nước là những lá sen xanh biếc, cùng kết hợp với những ngọn giả sơn tạo ra một khung cảnh an lành thảnh thơi vô hạn.

Tại tầng một của tòa lầu là một đại sảnh bọc lấy một tiểu sảnh, bố trí trang nhã hoa lệ; kề đỉnh phòng gần như là chen chúc những ô cửa sổ được trang trí tinh tế tỉ mỉ, toàn bộ đều được làm bằng hồng mộc đắt tiền.

Sát với bức tường trong tiểu sảnh có kê một chiếc giường nhỏ, trên giường có chăn, xem ra có lúc Mạc công công cũng ngủ lại đây. Đằng trước tấm bình phong là một chiếc bàn bát tiên cùng một chiếc bàn tròn, hai người đang ngồi trước chiếc bàn tròn đó. Mạc Thanh Hà gọi một người tì nữ xinh đẹp mặc bộ quần áo màu hồng đến, dặn dò mấy tiếng, người tì nữ đó bèn vội vàng đi pha một ấm trà.

Dương Lăng có dáng vẻ như đã ngà ngà say, nhưng từ khi y tình cờ nhìn thấy đứa bé kia thì quả thật đã nảy lòng cảnh giác với vị Mạc công công này. Hiện giờ y không biết đối phương mời trà rốt cuộc là có ý đồ gì nên trong lòng cũng thầm nhắc bản thân phải cẩn thận.

Lúc này Lý quản gia đã bước vào, đứng ở ngoại sảnh cung kính thưa:
- Lão gia, đợt bạc thuế đầu tiên đang chuẩn bị khởi hành vận chuyển đến kinh thành. Áp vận sứ đại nhân mời lão gia đến kiểm tra dấu niêm phong, ngài xem…

Dường như Nội thư phòng này của Mạc Thanh Hà có rất nhiều quy định, người tì nữ pha trà kia sau khi đưa trà vào liền lập tức rời đi, hiện giờ vị Lý quản gia mà hắn tín nhiệm nhất cũng chỉ có thể đứng ở ngoài chờ lệnh, không dám tùy tiện bước vào. Mạc Thanh Hà hơi chau mày, sau đó vỗ đầu với vẻ như chợt giật mình hiểu ra:
- Ái chà! Ta quên mất, hôm nay bắt đầu khởi hành hay sao?

Rồi hắn quay sang cười nói với Dương Lăng:
- Đại nhân! Ngài xuống phía nam tuần tra việc thu thuế, hạ quan cũng không thể làm đại nhân mất mặt được, bạc thuế năm nay đợt đầu tiên hạ quan sẽ giao đủ tám phần. Bây giờ thuyền sắp khởi hành, do thuyền bạc đi chậm nên cần đi trước một bước, đợi khi đại nhân vừa về đến kinh thì thuyền bạc cũng vừa kịp tới đó, hà hà…

Dương Lăng nghe vậy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, đây đúng là dấu hiệu tốt. Hiện giờ Thuế giám khắp nơi trong thiên hạ đều đang chờ đợi quan sát động tĩnh ở Giang Nam. Chỉ cần mở được một đột phá khẩu ở Giang Nam này, Thuế giám khắp nước sẽ cho rằng thế lực Đông xưởng đã mất, không còn ảnh hưởng gì nữa. Lần này bản thân mình xuống phía nam coi như là đã làm được một chuyện lớn. Không cần biết Mạc công công là người như thế nào, hành vi này của hắn rõ ràng là để tỏ ý muốn đi theo mình; chỉ cần thuyền bạc ấy được vận chuyển đi, tình thế sẽ thay đổi hẳn, đến khi đó dù hắn có hối hận cũng không kịp nữa.

Dương Lăng vội đứng dậy nói:
- Hay lắm, vậy thì mau đi làm đi, à nầy… Mạc đại nhân đã có việc công, vậy hôm khác chúng ta hãy lại uống trà tán gẫu, bản quan xin về Tây viện trước đây.

Mạc Thanh Hà vội cản:
- Đừng vội, đừng vội! Trà này tươi ngon lắm, pha rồi mà để lâu sẽ kém hương vị đi mất! Hà hà, xem ra đây là khẩu phúc của đại nhân rồi, bây giờ hạ quan lại phải ra ngoài, ờ…
Hắn do dự một chút, khi đi đến cửa thì chợt ngẩng đầu lên phía lầu trên gọi:
- Phu nhân! Mau mau xuống đây thay ta tiếp đãi đại nhân!

Dương Lăng sợ đến giật nảy mình, vội vàng đứng dậy thối thác:
- Mạc đại nhân còn có việc công phải làm, ta cứ tạm rời đi là được, Ơ… Trong tòa lầu này không có người nào khác, chỉ còn nữ quyến tiếp đãi thì e không được thỏa đáng lắm.

Mạc Thanh Hà ra vẻ khó xử:
- Bây giờ mà đại nhân rời đi, há chẳng phải là khiến hạ quan không làm tròn đạo đãi khách ư? Đại nhân bất tất phải đề cao thị, nói là phu nhân, nhưng chẳng lẽ đại nhân còn không biết hạ quan là người thế nào sao? Tiểu Lâu vốn là danh kỹ Giang Nam, cưới thị về nhà chẳng qua chỉ là để khoe mẽ với bên ngoài, có tính là phu nhân gì đâu chứ? Không có gì đáng ngại đâu…

Trong khi hắn đang nói, từ trên lầu chợt nghe một âm thanh trong trẻo yêu kiều vọng xuống:
- Lão gia, ngài phải ra ngoài hay sao?

Kế đó một đôi giày thêu màu đỏ nhẹ nhàng xuất hiện ở chỗ ngoặt trên cầu thang, chiếc váy xanh biếc đung đưa khe khẽ, một bóng người yểu điệu mỹ miều chậm rãi đi xuống lầu, chính là vị Mạc phu nhân tràn đầy quyến rũ.

Dương Lăng không khỏi ngượng ngập cung tay chào:
- Mạc phu nhân…

Nhìn thấy y, dường như Mạc phu nhân hơi ngẩn ra, sau đó cặp mắt hớp hồn cứ nhìn chăm chăm vào y không chớp, thị mỉm cười:
- Không biết Dương đại nhân tới đây, thiếp thân đã thất lễ rồi.
Vừa nói vừa nhẹ nhàng nhún người thi lễ.

Mạc Thanh Hà bảo:
- Phu nhân! Ta phải tới nha môn Thuế giảm để kiểm tra số bạc thuế chuẩn bị vận chuyển đến kinh sư. Ấm trà ngon vừa pha kia đang định dùng để giúp đại nhân giải rượu, nàng hãy ngồi lại đây cùng với đại nhân một lúc. À, Dương đại nhân bất tất phải gò bó quá, hạ quan đi trước đây.
Nói đoạn hắn bèn vội vàng theo Lý quản gia đi khỏi.

Dương Lăng nhớ đến chuyện Mạc phu nhân trêu ghẹo mình lần trước, trái tim không kìm được đập nhanh hơn, thầm nghĩ: “Không phải là Mạc Thanh Hà muốn dùng mỹ nhân kế với mình chứ? Nhưng hôm nay hắn đã hoàn toàn yên tâm về mình, quả thực không cần mình cắm giúp cho hắn một cái sừng to tướng như thế. Hắn là thái giám, vợ lại xuất thân là danh kỹ hàng đầu, chẳng lẽ hắn thật sự chỉ coi vợ như một món đồ trang trí nên mới không tôn trọng vợ như vậy?”

Mạc phu nhân thấy y đang ngẩn ngơ bèn khẽ đưa tay gạt nhẹ mấy sợi tóc vương trên trán, dáng vẻ thật sự là quyến rũ động lòng người đến cực điểm. Bàn tay thon đưa lên, ống tay áo xanh biếc trượt xuống để lộ ra một đoạn cổ tay trắng ngần.

Thấy Dương Lăng nhìn mình, Mạc phu nhân đung đưa lúng liếng ánh mắt, cười tươi:
- Đại nhân, hãy vào nhà ngồi đi! Trà này lão gia quý lắm đấy, nói là cái gì mà cực phẩm trong cực phẩm, bủn xỉn đến nỗi thường ngày không hề cho tiện thiếp uống thử. Hôm nay may được nhờ phúc của đại nhân.

Vừa nói thị vừa cất bước khoan thai đi thẳng tới. Đang đứng ở cửa, Dương Lăng cảm thấy một làn hương thơm cao nhã ập thẳng vào trong mũi nên vội lùi lại hai bước, đành xoay người ngồi trở lại ghế.

Mạc phu nhân đi tới bên cạnh y, nhẹ nhàng rót hai chén trà. Lẳng lặng liếc thấy Dương Lăng đang mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim tựa như một vị lão tăng nhập định, khóe miệng thị hơi nhếch lên, một nụ cười quyến rũ mà tà dị thoáng qua rồi chợt tắt. Thị yểu điệu nâng chén, hai tay dâng lên:
- Đại nhân, xin hãy nếm thử trà này xem mùi vị thế nào?

Thấy chén trà đã được đưa tới trước ngực mình, Dương Lăng đành phải dùng hai tay đón lấy. Y nhất thời không đoán được tâm tư của Mạc Thanh Hà, tuy biết đối phương chưa chắc và cũng không cần thiết phải hạ độc hại mình nhưng vẫn phải cẩn thận đề phòng, chỉ khẽ nhấp một ngụm nhỏ ra vẻ như đang thưởng thức.

Cặp mắt lãng đãng tràn ngập ý xuân của Mạc phu nhân cứ nhìn chằm chằm vào y, dường như đang chờ y bình phẩm, ngụm trà này lại chẳng thể nhổ ra, còn có thể ngậm đến lúc nào đây? Dương Lăng đành phải bấm bụng liều nuốt xuống. Trong bụng cũng không phát sinh cảm giác gì khó chịu, y mới thấy yên tâm.

Mạc phu nhân thấy vậy cũng nâng chén lên, nhưng đôi mắt hút hồn lại vẫn nhìn Dương Lăng không chớp, cặp môi hồng khẽ hé ra nhấp một ngụm trà rồi dịu dàng cười nói:
- Quả nhiên là trà ngon, chỉ là mùi vị này… cũng không có gì đặc biệt cả, đúng không Đại nhân?

Thị vừa mới cười, vẻ quyến rũ liền lan tỏa khắp nơi. Nụ cười này thật sự là lẳng lơ đến thấu tâm can, tựa như có thể câu hồn hút phách; lại kết hợp với giọng nói trong trẻo yêu kiều mang theo một chút vẻ dịu dàng kia, thật càng có vẻ ngọt ngào vô hạn.

Dương Lăng cũng không thể không thừa nhận nữ nhân này thật đúng là một vưu vật bậc nhất trên đời. Trong số các cô gái mà y từng gặp, có lẽ chỉ có Mã Liên Nhi khi lớn thêm một chút, phong vận thành thục thêm một chút là có thể so được với thị. Còn những cô gái khác đẹp thì có đẹp, nhưng lại căn bản không thể so được với cái vẻ quyến rũ trời sinh tỏa ra từ tận trong xương tủy kia.

Dương Lăng cười khan, đáp:
- Đúng vậy, trà này… thực ra…

Mạc phu nhân khom người xuống, thân hình càng lúc càng sáp đến gần Dương Lăng, cặp mắt câu hồn cứ nhìn chăm chăm vào y, khẽ cất tiếng:
- Thực ra trà này đích thực có một phong vị đặc biệt riêng, chỉ là cách uống của đại nhân không đúng. Đại nhân có muốn biết trà này cần phải uống như thế nào không?

Dương Lăng hơi thẳng người ra phía sau, đáp:
- Hiểu biết của Dương mỗ về loại trà này có hạn, mong Mạc phu nhân hãy chỉ giáo cho!

Mạc phu nhân nghe xong bèn lộ một nụ cười quỷ dị, vừa nâng chén trà lên miệng vừa nói:
- Sở dĩ trà này khác với trà thường, đó là bởi nó phải uống như thế này này!

Dứt lời, thị ngậm một ngụm trà trong chiếc miệng nhỏ xinh, đặt chén trà xuống, chậm rãi xoay eo thon, đột ngột ngồi ngay vào lòng Dương Lăng, tay phải ôm lấy cổ y, bờ môi tươi tắn động lòng người ghé sát tới môi y.

Dương Lăng sợ đến giật nảy người. Nhưng cặp mông căng tròn mềm mại đã ngồi xuống đùi y, trước mắt y lại là một cặp nhũ phong đầy đặn cao vút, nếu muốn đẩy ra thì phải đẩy vào đâu đây? Y chỉ đành vội vàng quay đầu né tránh:
- Mạc phu nhân, xin hãy tự trọng!

Tuy nữ nhân này cực kỳ xinh đẹp quyến rũ nhưng lại quá đê tiện. Nếu không phải Dương Lăng còn chưa biết được rốt cuộc Mạc Thanh Hà có phạm tội ác tày trời gì hay không nên chưa tiện trở mặt, lúc này y sớm đã phất tay áo đứng dậy, đẩy thị ra rồi.

Mạc phu nhân cũng không miễn cưỡng, thị tự nuốt ngụm trà, kế đó vòng nốt tay trái qua ôm lấy cổ Dương Lăng, giọng yêu kiều:
- Dương đại nhân! Ngài đang lo rằng khinh nhờn vợ của quan cấp dưới sẽ bị người ta tố cáo hay sao?

Thị thở ra một hơi buồn bã, hai hàng lông mi dài trĩu xuống, nói tiếp:
- Đại nhân! Ngài còn không biết lão gia… lão gia muốn ta đến hầu hạ đại nhân là có ý gì sao?

Thị đưa mắt liếc nhìn Dương Lăng, dáng vẻ nhu mì quyến rũ:
- Tiện thiếp vốn là nữ tử ở chốn trăng hoa, ngoài chút nhan sắc này ra thì chẳng còn sở trường gì khác. Lão gia… lão gia cưới tiện thiếp về chẳng qua chỉ là cho có mà thôi, nào có từng coi tiện thiếp như người vợ bao giờ! Ông ấy thành tâm muốn thân cận với đại nhân nên mới muốn tiện thiếp đến hầu hạ ngài, tuyệt đối không dám có ý đồ gì bất lợi với ngài đâu.

Mạc phu nhân vừa nói, vừa không ngừng cọ sát đôi mông căng tròn đầy đặn vào thân thể Dương Lăng. Tuy người thị rất nhẹ nhưng đôi mông mỹ miều đang ngồi trên đùi Dương Lăng dường như lại nặng đến lạ thường, từ đùi y không ngừng truyền lên cái cảm giác mềm mại mà đầy vẻ đàn hồi ở những nơi được cọ sát.

Nếu không phải cặp mông đầy đặn kia cách chỗ yếu hại còn xa và nếu không phải Dương Lăng đang ngồi khép đùi thì e rằng lúc này y đã phải lâm vào cảnh xấu hổ rồi.

Không thể nhẫn nhịn được nữa, Dương Lăng vươn người đứng dậy đẩy thị ra khỏi lòng, lạnh lùng nói:
- Xin phu nhân hãy tự trọng! Phu nhân là vợ yêu của Mạc đại nhân, Dương mỗ sao có thể làm những chuyện như thế này được? Cáo từ!

Dương Lăng chẳng phải là kẻ ngốc. Nếu Mạc công công không làm chuyện gì xấu thì lôi kéo được hắn đương nhiên là chuyện tốt. Nhưng nếu phải dùng phương thức hưởng thụ thê tử của hắn để thể hiện ý liên minh, cho dù không có điều kiêng kị gì về mặt đạo đức thì ít nhất cũng sẽ bị người ta nắm lấy điểm yếu; sau này khó tránh khỏi sẽ bị Mạc công công đem ra uy hiếp. Hơn nữa, trong nhà y còn có ba vị vợ đẹp thiếp xinh nên y vẫn chưa đến mức đói khát phải ăn vụng bừa bãi bên ngoài như thế này.

Lấy vẻ quyến rũ vô ngần của mình làm vũ khí, trước giờ Mạc phu nhân chưa từng gặp phải chuyện gì bất lợi, hoàn toàn không hề có người đàn ông nào có thể kháng cự được sự quyến rũ của thị cả. Hiện giờ Mạc Thanh Hà đã ngầm tỏ ý bảo thị hãy lên giường với Dương Lăng, nhất định là hắn sớm đã thăm dò kỹ càng về Dương Lăng rồi, y không phải là loại quan viên tham tiền háo sắc mới là lạ. Nhưng tại sao… y lại vẫn cứ giả bộ cự tuyệt mình như thế cơ chứ?

Mạc phu nhân hơi bất ngờ, đồng thời cũng nảy lòng háo thắng. Thị chợt bước tới chắn trước cửa, cười yêu kiều:
- Đại nhân là sủng thần của Hoàng thượng, là tổng đốc Nội xưởng, một tay che trời thì còn sợ cái gì chứ? Thiếp muốn cùng ngài nam hoan nữ ái triền miên một đêm, đó tuy cũng là một cách biểu hiện thành ý của lão gia nhà thiếp với đại nhân nhưng thực ra thiếp… thiếp cũng…

Thị cắn chặt môi, liếc nhìn Dương Lăng với vẻ thẹn thùng vô hạn, khuôn mặt ửng hồng:
- Một công tử trẻ tuổi anh tuấn bất phàm, phong lưu tiêu sái như đại nhân đây, tiện thiếp mới lần đầu nhìn thấy đã thầm ghi tạc vào lòng rồi. Đại nhân… ngài hãy thành toàn cho nô gia đi…

Vừa nói Mạc phu nhân vừa nhẹ nhàng đưa tay lên kéo dải áo, chiếc váy lụa màu xanh tựa như một bóng chim hồng lướt đi trên mặt nước, dán sát vào tấm thân mỹ miều vô hạn của thị trượt xuống dưới. Không ngờ trên người thị chẳng còn mảnh vải nào khác cả.

Bờ vai thon gọn mịn màng kia, bầu ngực đầy đặn rung rinh kia, cái eo thon không đầy một vòng ôm kia, cặp đùi trắng nõn thon dài thẳng tắp được khép chặt lại không để lộ ra khe hở nào ở giữa kia, còn cả chiếc gót ngọc đẹp đẽ kia nữa…

Trên tấm thân nõn nà mà mịn màng ấy nổi bật lên những đường cong nhấp nhô lên xuống chết người. Tuy thân thể thị đang trần trụi nhưng vẫn tràn ngập nét phong tình, tự nhiên cởi mở, cặp mắt như mọng nước đang nhìn Dương Lăng với những tình cảm chứa chan, khóe miệng hơi nhếch lên để lộ một nụ cười yêu kiều quyến rũ còn phảng phất mang theo một ít vẻ lẳng lơ…

Đằng sau một cái lỗ xuyên tường bí mật đang có một đôi mắt chăm chú quan sát thân thể hoàn mỹ không chút tì vết nào của thị. Ánh mắt dần trở nên nóng bỏng, đó chính là đôi mắt của Mạc Thanh Hà.

Một phụ nữ đẹp xiết bao, thật đúng là tác phẩm hoàn mỹ nhất của tạo hóa! Hơi thở của hắn dần trở nên dồn dập. Hắn rất muốn xách thương lên ngựa đích thân xông pha chiến trường nhưng lại không làm được, do đó hắn mới rất thích nhìn lén phu nhân của mình gian díu với người khác, và đây đã dần trở thành sở thích lớn nhất của hắn.

Khi nhìn người khác hoan hảo với Tiểu Lâu, hắn có thể tưởng tượng mình chính là kẻ đó, hắn có thể nhìn thấy cảnh xuân sắc vô biên khi người phụ nữ lẳng lơ đến tận xương tủy kia uyển chuyển rên rỉ dưới thân thể mình, lập tức… hắn sẽ lại có thể nhìn thấy, hắn sẽ có thể cảm nhận niềm vui sướng khi làm đàn ông.

Bởi vì hắn tin rằng tuyệt đối không có chính nhân quân tử nào có thể kháng cự được thân thể và dung nhan tuyệt thế của vị đệ nhất danh kỹ chốn Giang Nam. Loại quan viên áo mũ chỉnh tề như Bố chánh sứ đã không kháng cự được, loại quan viên tự xưng thanh liêm không yêu tiền tài như Án sát sứ cũng không kháng cự được thì loại quan viên mà nhà đã có ba thê thiếp, cả ngày chỉ nghĩ đến chuyện buôn lậu kiếm tiền như Dương Lăng lại có thể kháng cự được sao?

Lúc này Dương Lăng đã ý thức được rằng đây là một cái bẫy, một cái bẫy rất lớn! Y không biết rốt cuộc Mạc Thanh Hà có ý đồ gì? Rõ ràng mình đã nhận tiền hối lộ của hắn, tại sao hắn còn vội vàng dâng thê tử lên cho mình chứ?

Những đứa trẻ đã biến mất một cách kỳ quái kia, tên hào phú Lý Quý đất Giang Nam đột nhiên quật khởi kia, còn cả ánh mắt yêu thương sủng ái đầy vẻ chân thành của Mạc Thanh Hà khi nhìn Mạc phu nhân lúc y vừa mới đến Mạc phủ kia nữa… Bao nhiêu bức tranh thoáng qua trong óc y, nhắc nhở y rằng chắc chắn có một âm mưu to lớn trong chuyện này.

Nên làm thế nào đây? Cự tuyệt với vẻ đầy chính nghĩa, sau đó phất tay áo rời đi? Như thế hình tượng tham quan mà mình tốn công tạo dựng còn có thể khiến Mạc Thanh Hà tin tưởng được không?

Xuôi thuyền theo nước mà tiếp nhận thị? Thị vốn là nữ tử chốn trăng hoa, cũng chẳng có cái gì gọi là trinh thao danh tiết; một vưu vật tuyệt thế như vậy quả thực là có một mị lực khiến người ta không cách nào kháng cự nổi. Nhưng cho dù không bận tâm đến cảm giác của các vị phu nhân nhà mình thì chẳng lẽ từ nay mình lại phải trở thành con rối cho Mạc Thanh Hà thả sức giật dây hay sao?

Phải làm thế nào để đối phương không hoài nghi mà đồng thời vẫn có thể an toàn thoát thân đây? Thân thể yêu kiều quyến rũ của Mạc phu nhân đã tới gần, trông thật hấp dẫn vô cùng. Khuôn mặt thị nở một nụ cười ngọt ngào tự tin khiến người ta say đắm, cánh tay đã giang rộng tự lúc nào…

Đột nhiên, Dương Lăng chợt nảy ra một kế. Khuôn mặt tỏ ra vô cùng đau khổ, y xoay người lại vỗ mạnh lên bàn khiến cốc đĩa lung lay kêu vang không ngớt, sau đó nghiêm giọng quát to:
- Đứng lại! Đừng có tới đây!

Mạc phu nhân vạn vạn lần không ngờ được Dương Lăng lại có hành động như vậy. Thị cũng từng gặp những vị quan có tiếng thanh liêm hơn y nhiều rồi. Như vị ngự sử Giang Nam kia, một lão già tuổi quá lục tuần, dáng vẻ đạo mạo như một chính nhân quân tử, nhưng vừa thấy tấm thân trần trụi của thị rồi cũng chẳng giống như một con chó đực mà nhào tới sao?

Y… Y thật sự đứng đắn như vậy sao? Không phải lão gia đã từng điều tra về y rồi sao? Y tham tiền háo sắc, còn xưng huynh gọi đệ với một gã vẽ xuân cung đồ, y thật sự là chính nhân quân tử được sao?

Thị ngạc nhiên đứng lại, buột miệng hỏi:
- Đại nhân, ngài... ngài không thích ta? Chẳng lẽ Tiểu Lâu không xứng được quyến luyến với ngài một phen hay sao chứ?

Dương Lăng đau khổ chau mày lại, chậm rãi ngoảnh đầu đi, khóe miệng thoáng hiện một nụ cười nhăn nhó:
- Ta có một thị tì xinh đẹp theo hầu bên cạnh. Có phải phu nhân cho rằng giữa ta và cô ấy có điều gian díu gì, phải không?

Mạc phu nhân không biết vì sao y lại đột nhiên hỏi tới chuyện này, không kìm được ngạc nhiên há hốc miệng. Một mỹ nhân đang lõa thể mà khuôn mặt lại như thế, nhìn thật là vừa cổ quái vừa tức cười.

Thị hơi ngẫm nghĩ một lúc rồi lắc đầu đáp:
- Tiện thiếp đã gặp vị cô nương đó mấy lần. Cô ấy... gáy thẳng eo ngay, lông mày tụ mà không tan, còn cả tư thái khi bước đi nữa... Tiểu Lâu nhìn người đã nhiều, vị cô nương đó hẳn vẫn còn nguyên tấm thân xử nữ.

Nói đến đây thị chợt bụm miệng cười, yêu kiều cất tiếng:
- Đại nhân đã có ba phòng thê thiếp rồi mà còn sợ phải nạp thêm một phòng nữa sao? Cớ gì không tiếp nhận luôn vị cô nương ấy? Tư sắc của cô ta quả thực không tồi.

Dương Lăng đột nhiên ngẩng đầu lên trời cười ha hả một tràng dài. Tràng cười này không phải là giả mà là thật sự phát ra từ nội tâm: “Thật đúng là trời giúp ta rồi. Vốn còn tưởng Mạc phu nhân đã hiểu lầm giữa ta và Văn Tâm có gì nhơ nhuốc, ta không tránh khỏi phải mất công miệng lưỡi một phen. Nhưng giờ thị đã nhận ra Văn Tâm vẫn còn là xử nữ, như vậy lý do mà ta bịa ra sẽ càng đáng tin hơn rồi.”

Tràng cười như bị thần kinh của Dương Lăng khiến Mạc phu nhân ngẩn người, lắp bắp hỏi:
- Đại nhân… Đại nhân cười cái gì vậy?

Dương Lăng cười lạnh một tiếng, khóe miệng hơi co giật (vì nén cười), sau đó mới buồn bã giải thích:
- Phu nhân tưởng ta không muốn sao? Đại trượng phu ai mà chẳng muốn tam thê tứ thiếp, con cháu đầy nhà? Ôi, Mạc phu nhân…

Y ra vẻ “tham lam” liếc nhìn tấm thân mê người của Mạc phu nhân, nhưng ánh mắt lại không dám nhìn xuống chỗ hấp dẫn quá độ bên dưới, rồi vội vàng rời ánh mắt đi, ngẩn ngơ nhìn về ô cửa sổ nói tiếp:
- Hôm nay ta và phu nhân đã đứng với nhau ở đây thế này, quyết sẽ không bao giờ kể chuyện giữa chúng ta với người khác, do đó chuyện xấu này của ta cũng chẳng ngại nói cho phu nhân nghe. Phu nhân tưởng ta muốn nạp thiếp sao? Nếu không phải là Hoàng thượng ban hôn, ta sao chịu để bọn họ qua cửa chứ? Phu nhân có biết tại sao ta vì thê tử mà dám kháng chỉ không? Đó là vì ta có lỗi với cô ấy, cô ấy gả cho ta đã được hơn một năm nhưng vẫn còn nguyên tấm thân xử nữ vậy mà cô ấy chẳng hề oán hận ta chút nào. Sao ta có thể không yêu không thương cô ấy chứ?

Mạc phu nhân cả kinh trợn tròn mắt, đưa tay chỉ về phía y, lắp bắp:
- Ngài… Ngài… Thân thể ngài có tật kín…
Thị vừa nói vừa lùi lại, đột ngột nhặt chiếc váy dưới đất lên khoác vào người.

Một phụ nữ giống như thị, lại trải qua những chuyện như thế, căn bản không sợ bị nam nhân nhìn thấy tấm thân lõa lồ của mình, thậm chí là hy vọng được nhìn thấy dáng vẻ thần hồn điên đảo của nam nhân khi nhìn vào tấm thân ấy. Nhưng thị lại không muốn để cho một nam nhân không phải là đàn ông thực thụ nhìn ngắm mình.

Dương Lăng gật gật đầu đầy vẻ đau đớn, u sầu đáp:
- Phải! Cô nữ tì mà ta mang theo bên người đó vốn là con gái của Cao thái y bị chém khi tiên đế băng hà. Ta đã cứu cô ấy, mang theo cô ấy bên người chỉ vì muốn cô chữa giúp ta khỏi cái bệnh không tiện nói ra kia, nhưng… đến bây giờ vẫn chưa tiến triển chút nào. Ta… Ta…

Nói tới đây y chợt xoay người lao qua bên cạnh Mạc phu nhân, dáng vẻ hổ thẹn hoang mang chạy trốn ra khỏi đại sảnh.

Mạc phu nhân nắm chặt chiếc váy trên người, ngẩn ngơ đứng yên tại chỗ, một hồi lâu sau mới chợt khom người ôm bụng cười vang. Thị cười đến nỗi chảy cả nước mắt, không biết là đang cười Dương Lăng hay là cười chính bản thân mình.

Mạc công công đứng phía sau lỗ bí mật trên bức tường đang chờ xem kịch hay cũng ngây dại cả người. Thảo nào… thì ra là thế…, đáng thương, thật là đáng thương! Mình là một thái giám hàng thật giá thật, lẽ nào y lại không phải?

Là người chung cảnh ngộ, rốt cuộc Mạc công công đã hiểu được vì sao Xưởng đốc Nội xưởng vừa mới nhậm chức đã bắt đầu vừa nhận hối lộ vừa đi buôn lậu, liều mạng kiếm tiền như thế rồi.

Đúng thế, loại đàn ông không hoàn chỉnh như chúng ta thì ngoài việc nắm lấy tiền bạc, ngoài việc dùng tiền bạc để chứng tỏ mình là một kẻ có thể khiến người ta phải tôn kính ra thì còn có thể làm được gì khác nữa?

Đằng sau bức tường, hắn không kìm được cũng bật cười. Ban đầu là cười khe khẽ, sau đó cất tiếng cười rộ, tiếng cười pha lẫn nước mắt…

Chương 134 - Giương cung phải trái (Làm vài việc một lúc)

Dọc dường y đi, đám gia đinh nô bộc kinh ngạc liếc nhìn khâm sai đại nhân đang vội vã trở về khu nhà ngang ở phía tây với vẻ mặt đầy bi phẫn, không biết là đã xảy ra chuyện gì.

Vừa bước vào trong sân, vẻ mặt Dương Lăng chợt trở lại bình thường như làm ảo thuật. Nghĩ đến nét kinh ngạc, thương hại, khinh thường lẫn chán ghét trong đôi mắt của vị Mạc phu nhân quyến rũ vô ngần kia, y muốn cất tiếng cười lớn.

Dương Lăng vừa mới bước vào trong sảnh với nụ cười xấu xa trên mặt thì Cao Văn Tâm đã giống hệt như một con chim én vui vẻ lao vụt tới nghênh đón, hớn hở gọi to:
- Lão gia!

Dương Lăng kinh ngạc liếc nhìn nàng, tò mò hỏi:
- Chân cô khỏi rồi sao? Cớ gì lại vui vẻ như vậy?

Cao Văn Tâm hai tay nắm chặt, cười tươi đáp:
- Dạ! Chân đã hết sưng rồi, cũng không có gì vui vẻ cả, hì hì hì…

Dương Lăng nhìn khuôn mặt rạng rỡ của nàng lại nhớ đến cái khổ nhục kế của mình khi nãy, cũng không kìm được bật cười mấy tiếng, sau đó căn dặn Cao Văn Tâm:
- Văn Tâm! Nếu có người dò hỏi cô về tình hình sức khỏe của ta, cô hãy trả lời qua loa, mơ hồ một chút. Cô nói như thế nào không quan trọng, nhưng hãy tỏ ra ngập ngùng ấp úng, càng thần bí càng tốt.

Cao Văn Tâm ngẩn người, ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao? Ai muốn dò hỏi về sức khỏe của lão gia vậy?

Dương Lăng cười hà hà đáp:
- Thiên cơ không thể tiết lộ. Chưa chắc y đã dám hỏi, có điều không thể không đề phòng. Ôi… Hôm nay đi dự tiệc uống cũng hơi nhiều rồi, tôi đi nghỉ đây. Đúng rồi, hãy pha giúp tôi một bình trà nhé!

Vừa bước được hai bước, chợt y dừng chân cười hì hì liếc nhìn cái miệng đỏ tươi nhỏ nhắn của Cao Văn Tâm, hỏi:
- Cô có biết nên uống loại trà cực phẩm trong cực phẩm như thế nào không?

Tròng mắt hơi xoay chuyển, nàng đáp:
- Về trà đạo thì… nô tì cũng hơi hiểu biết, có điều quan trọng là sự chuẩn bị và quá trình pha chế, còn về cách uống… dường như chẳng được nhắc đến nhiều lắm. Không phải là đều dùng miệng uống sao?

Dương Lăng khẽ cười, nói:
- Không có gì! Cứ pha nhạt một chút, tôi về phòng trước đây.

Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ: “Cách này cũng hay thật, khi trở về mình phải tìm Ấu Nương thử xem sao. Nàng hay xấu hổ nhất nên trêu đùa mới càng thú vị.”

Nghĩ đến đây, y lại bất giác nhớ lại dáng vẻ tràn ngập phong tình của vị Mạc phu nhân kia, trái tim không kìm được cơn rung động: ”Không thể không thừa nhận, nếu chỉ xét đến phong vận, ả thật sự là tuyệt thế vô… Không đúng, còn có một người, đó chính là Liên Nhi…
Liên Nhi không những tướng mạo xinh đẹp, mà ngay cả thân hình cũng không có chỗ nào là không quyến rũ, nếu nàng lớn thêm chút nữa…
Ôi! Không biết bây giờ nàng có khỏe không? Ta đến Giang Nam gây ra những sự kiện chấn động lớn như vậy, nhất định nàng đã nghe nói tới rồi, liệu nàng có trách ta vì sao chưa đến thăm nàng không?”

Nghĩ đến đây, bước chân Dương Lăng bất giác trở nên nặng nề, sự vui vẻ vừa rồi lập tức tan biến sạch.

***


Ba ngày liền liên tục bày tiệc đãi khách, Mạc Thanh Hà một mực đi theo bên cạnh Dương Lăng. Từ sau lần thăm dò cuối cùng đó, Mạc Thanh Hà đã thật sự yên tâm hoàn toàn nên sáng sớm hôm sau đã bắt đầu cho chuyển bạc thuế về kinh thành.

Đội thuyền chở bạc khổng lồ khởi hành đi về kinh sư, cờ xí rộn ràng lại có quan binh hộ tống nên chẳng mấy chốc tin tức đã lan truyền đi khắp đất nước. Vị thái giám quản lý việc dệt may ở Tô Châu là Lý Đại Tường vừa được khoái mã báo tin, lập tức dứt khoát sai người vận chuyển bạc thuế đến kinh sư, tốc độ đội thuyền của Tô Châu còn nhanh hơn Hàng Châu một chút. Việc nịnh hót đã chậm hơn Mã Thanh Hà rồi, thuyền bạc nhất định phải đến kinh sư sớm hơn mới được, như vậy cũng coi như là gã đã tỏ rõ lòng trung với xưởng đốc đại nhân rồi.

Đến ngày thứ ba, mượn cớ mấy ngày nay uống rượu quá nhiều nên tửu lượng suy giảm, trên bàn tiệc Dương Lăng chỉ uống chút ít mà thôi. Mọi người đều biết ba ngày nay y liên tục thết tiệc đãi khách nên cũng chẳng nghi ngờ gì, vì vậy phần lớn mọi người đều chỉ kính rượu Mạc công công và Dương tri phủ, chuốc cho hai người say mèm.

Dương Lăng về phủ, chờ cho đám người Lý quản gia khiêng Mạc công công vào trong xong y mới đi nhanh về phía khu nhà ngang của mình. Vừa vào cửa gặp Cao Văn Tâm y đã hỏi:
- Liễu Bưu đã về chưa?

Cao Văn Tâm hơi ngớ người, đáp:
- Liễu thiên hộ vẫn chưa về. Có điều Hoàng chưởng ban đã từ Tô Châu trở về rồi, vẫn đang đợi lão gia đấy.

Dương Lăng hơi bất ngờ:
- Nhanh vậy sao? Tốt lắm, hãy đưa hắn tới gặp ta!

Dương Lăng đi đến cạnh chiếc chậu đồng ở góc phòng rửa tay rửa mặt. Đang lúc y lau rửa, hai hán tử mặc áo xanh đội mũ nồi theo lối nha sai chợt bước vào, quỳ một chân thưa:
- Tham kiến Xưởng đốc đại nhân!

Dương Lăng ngoảnh đầu lại, nhìn thấy một người là Hoàng chưởng ban còn người kia là Liễu Bưu, bèn bật cười:
- Khéo thật đấy, vừa mới trở về sao?

Liễu Bưu đáp vâng một tiếng. Đợi Cao Văn Tâm đón chiếc khăn bông từ trong tay Dương Lăng rồi bưng chiếc chậu đồng ra ngoài, hắn mới bước tới cười nói:
- Đại nhân, mọi việc đều ổn thỏa. Mẫn đại nhân nghe nói ngài muốn ông ấy cầm quân đi bắt người, lập tức vỗ vai thuộc hạ mà khen đại nhân nghĩa khí, có việc tốt thế này liền nghĩ tới ông ấy ngay.

Dương Lăng bật cười:
-Chắc hẳn Mẫn đại nhân làm quan văn rất đau khổ nên vừa thấy có đánh trận là lập tức hào hứng như vậy. Hà hà, chỗ Chủng thiên tổng thì sao?

Liễu Bưu đáp:
- Nhóm diêm binh đi theo đại nhân đánh thắng giặc đều được lợi rất nhiều, sớm đã khiến đám quan binh vệ sở kia thèm đến đỏ mắt. Tuy rằng tin tức hiện giờ chỉ có Mẫn đại nhân và Chủng thiên tổng biết, nhưng chắc hẳn tối nay sau khi hạ lệnh xuống, vệ quân sẽ không có ai là không vui mừng cả.

Hiện giờ nhuệ khí bọn họ cao vọt. Tuy rằng việc huấn luyện còn nhiều thiếu sót, đối phó với đám cướp biển khát máu thiện chiến kia có lẽ chưa được nhưng dùng để đối phó với đám quan binh Long Sơn vệ cũng bất tài y như thế thì nhất định là không có vấn đề gì.

Dương Lăng cười cười:
- Chớ nên sơ suất! Ta từng gặp Tất đô ty rồi, người này quả thực là một tướng tài, tuy rằng quân của y rất đỗi hủ bại, chiến lực thấp kém, nhưng thân binh của y ai nấy đều kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa gần như là tư binh của y, tuyệt đối trung thành đối với y. Những người lính này tuy nhân số chưa đầy ba trăm, nhưng nếu để bọn chúng chó cùng rứt giậu gây ra tổn thất nặng nề thì cũng không phải là chuyện hay.

Liễu Bưu gật đầu đáp:
- Vâng! Ti chức cũng đã nghĩ tới điều này, nên mặc dù Mẫn đại nhân ba lần xin đánh, nhưng ti chức đều nói với ông ta rằng diêm binh và vệ binh chỉ phụ trách việc bao vây để dọa dẫm và gây uy hiếp với quan binh ở vệ sở Long Sơn. Còn về thân binh của Tất Xuân… đã có ba trăm nha sai của chúng ta, việc đó còn chẳng phải là dễ như chẻ tre sao?

Dương Lăng nhớ lại cái khí thế không gì sánh nổi khi tám mươi tay đao kia càn quét trên bờ biển, không khỏi gật gật đầu, ngay sau đó lại nghiêm nghị hỏi:
- Đúng rồi! Trong vệ quân có tên nặng không? Đã giao cho diêm binh sử dụng chưa?

Thể lực của vệ quân thông thường đều rất yếu, hoàn toàn không thể kéo căng được cung cứng nên tên nặng thì chẳng bắn nổi ra xa, do đó bọn họ mới dùng đến cái loại tên nhẹ tênh để dối gạt cấp trên khi diễn tập.

Diêm binh không giỏi bắn tên, nhưng cả ngày phải xông pha nam bắc ứng phó với đám giặc cướp trên sông trên núi, do đó sức chiến đấu khá mạnh. Giao cung tên cho bọn họ thì cũng chẳng cần họ phải bắn chuẩn gì cả, cứ bắn tràn ra một lượt. Để đối phó với đám thủ hạ liều mạng của Viên Hùng thì nhất định loạt tên bắn bừa này cũng sẽ có hiệu quả đặc biệt.

Cũng khó trách Dương Lăng cẩn thận như vậy. Vốn y tưởng rằng bắt Tất Xuân sẽ khá khó khăn, còn Viên Hùng chẳng qua chỉ là đề đốc thái giám quản lý việc thuế quan ở Giang Nam, đến lúc đó cứ trực tiếp đến tận cửa bắt người là được. Chẳng ngờ tin tình báo do Liễu Bưu thăm dò được lại khiến y cả kinh.

Thủ hạ của Viên Hùng có tất cả là bao nhiêu người? Đến tận năm nghìn! Ngoài đám tay chân được phái đi khắp các nơi, lũ ngồi không kiếm miếng cơm trong nha môn thuế giám cũng còn lại tới hai nghìn, hơn nữa phần lớn đám này đều là dân lưu manh vô lại hoặc là tội phạm đang lẩn trốn, trong lòng căn bản chẳng có triều đình, cũng chẳng có vương pháp. Do vậy việc bắt giữ Viên Hùng đâm ra còn khó hơn cả bắt Tất Xuân.

Cho nên Dương Lăng mới muốn lặng lẽ giải quyết Tất Xuân, sau đó thì toàn lực đối phó với Viên Hùng.

Nhớ lúc xưa vị tổng giám thuế quan này rời kinh chỉ mang theo mười gã tùy tùng. Hắn muốn nắm quyền thu thuế nhưng lại không thể sử dụng người của quan phủ, vì thế chỉ đành chiêu binh mãi mã, thu nạp một đám côn đồ vong mạng vào dưới trướng.

Mười người mà hắn đem tới mỗi người chiêu nạp chừng hơn trăm tên thủ hạ, mỗi tên thủ hạ lại có ít nhất năm gã tùy tùng. Cứ tựa như là quả cầu tuyết càng lăn càng lớn, tất cả đám lưu manh vô lại, cướp của giết người ở vùng Tô Châu đều được bọn hắn thu nạp. Dù sao bọn chúng cũng là khâm sai, “miệng hô luật pháp, tay nắm kỷ cương”, nên quan lại địa phương cũng chẳng làm gì được.

Liễu Bưu gật đầu đáp:
- Tên quân dụng thì có, chỉ là trong vệ quân ngoài thân binh của Chủng thiên tổng ra chẳng còn mấy ai có thể sử dụng được; thuộc hạ đã kêu y đem cung tên phát hết cho người của Mẫn đại nhân rồi, đại nhân bất tất phải lo lắng nữa! Theo ti chức thấy, Viên Hùng vị tất đã dám phản kháng, người của hắn đều do hắn dùng tiền thu nạp lại, ai lại chịu thật lòng bán mạng cho hắn chứ? Chỉ cần một loạt tên bắn ào tới, hiểu được sự lợi hại của chúng ta thì bọn chúng sẽ tan vỡ ngay thôi.

Dương Lăng trầm ngâm:
- Mong là như vậy! Sáng sớm ngày mai giải quyết Tất Xuân xong sẽ lập tức đưa quân đi bao vây nha môn thuế giám.
Dứt lời y lại quay đầu qua hỏi Hoàng chưởng ban:
- Chuyện ở Tô Châu tra xét thế nào rồi?

Hoàng chưởng ban vội đáp:
- Đại nhân! Ti chức đã điều tra kỹ càng về Lý Quý. Những cô nhi đó sau khi rời khỏi thành Hàng Châu thì chẳng rõ tung tích, chưa từng xuất hiện tại Tô Châu, tựa như là đã hoàn toàn biến mất khỏi thế gian này, không còn ai biết bọn chúng đang ở đâu.

Hắn liếc nhìn ánh mắt của Dương Lăng, lại kể tiếp:
- Ti chức phụng mệnh điều tra lai lịch của gã Lý Quý kia, nhưng lại chẳng ai có thể nói ra rõ ràng. Ti chức hết cách chỉ đành phải công khai lộ diện, mượn cớ rằng có nha sai do Nội Xưởng chiêu mộ tại địa phương đã mang bạc bỏ trốn, sau đó đến chỗ quan phủ tra rõ tình hình hộ tịch, ngầm đọc tài liệu về Lý Quý… Lý Quý có nhà có đất, còn có một hãng thuyền buôn dùng để vận chuyển lúa gạo mua thấp bán cao, có lúc còn thay triều đình vận chuyển gạch vàng để tu sửa hoàng cung và đế lăng, lợi nhuận thu được khá lớn. Mà chủ nhân thật sự của tất cả những thứ ấy đều không phải là Lý Quý, mà là đại phú thương Đỗ Thanh Giang ở Kim Lăng.

Dương Lăng ngớ người:
- Thì ra là phú hào Kim Lăng muốn phát triển sản nghiệp tại Tô Châu sao? Vậy hắn hà tất phải giấu đầu hở đuôi, phái một con rối ra ứng phó với người đời như thế?

Hoàng chưởng ban thưa tiếp:
- Chuyện này có rất nhiều điều kỳ lạ. Khi đó ti chức đã lập tức phái người đến Kim Lăng điều tra, vừa hay người của chúng ta từ kinh sư tới đã đứng vững được ở Kim Lăng, nắm rõ tình hình của người này.

Việc làm ăn của Đỗ Thanh Giang cực lớn, nào là tiệm tơ lụa, tiềm cầm đồ, tiệm vàng bạc, tiệm lương thực, còn có mấy hãng xe ngựa và đội thuyền buôn lớn. Thậm chí ngay đến việc vận chuyển lương thực cho triều đình, vận chuyển các loại vật phẩm cấm kị để xây dựng hoàng cung và đế lăng như gạch vàng…, tất cả cũng đều thường tìm đến nhờ hắn vận chuyển.

Người của chúng ta đã từng thử liên lạc để bắt tay làm ăn với bọn họ. Có điều thế lực của Đỗ gia khá lớn, khi vận chuyển bọn họ hoàn toàn không phải lo lắng bị quan binh làm khó dễ nên họ cũng chẳng cần người của chúng ta ra mặt; do đó bọn họ bèn lên tiếng cự tuyệt thẳng thừng.

Nghe nói đại nhân muốn tra hỏi về căn cơ của Đỗ gia, người ở Kim Lăng bèn lập tức điều tra kỹ càng về Đỗ gia. Vị Đỗ Thanh Hà này vốn nghèo rớt mùng tơi, thời thiếu niên từng làm thuê tại một tiệm vịt muối, sau đó cưới người con gái tàn tật của chủ tiệm nên cuộc sống mới đở hơn một chút, có điều tại Kim Lăng vẫn chưa thể được coi là một nhân vật thực sự.

Về sau Đỗ Thanh Hà đột nhiên trở nên giàu có, mua nhà mua đất phát triển cực nhanh. Mọi người đồn rằng Đỗ Thanh Hà đã đào được bảo tàng mà năm xưa Thẩm Vạn Tam chôn giấu nên mới phát tài.

Tuy nhiên, có một lần Đỗ Thanh Hà mở tiệc sinh nhật mời các bậc danh lưu ở đất Kim Lăng, nhưng Nam Kinh tả đô ngự sự Kim đại nhân đã trả lại thiệp mời và không đến dự. Đỗ Thanh Hà thẹn quá hóa giận, trong lúc uống rượu đã mở miệng mắng lớn, vô ý lỡ lời, tiết lộ rằng huynh đệ của hắn ở ti Lễ Giám ghê gớm như thế nào, chỉ là quan lớn một tỉnh mà cũng dám không nể mặt hắn, Kim lão thất phu hiếp người quá đáng, sau này nhất định phải khiến cho lão ta biết mặt. Từ đó ở Kim Lăng mới bắt đầu lưu truyền rằng hắn có một người anh em ruột, là công công nắm quyền trong ti Lễ Giám.

Ti chức đã điều tra về hộ tịch của Đỗ Thanh Giang, lại tìm được người vợ cũ tàn tật đã bị Đỗ Thanh Giang bỏ, được biết hắn ta còn có một người anh em, năm mười hai tuổi vì gia cảnh bần hàn nên người này đã tự thiến mình nhập cung. Vì việc này mà người đó cảm thấy xấu hổ với liệt tổ liệt tông, nên chỉ giữ tên mà không giữ họ, đổi thành họ Mạc, chính là Mạc Thanh Hà!

Dương Lăng nghe đến đây thì lập tức ngẩn người ra, hồi lâu sau mới hỏi với giọng khó tin:
- Mạc Thanh Hà? Thái giám nắm quyền ở ti Lễ Giám? Mạc Thanh Hà… Chính là Mạc Thanh Hà này… Thì ra là thế… Thì ra là thế…

Liễu Bưu biết rõ rằng lần này Dương Lăng tới Giang Nam chính là để giải quyết việc ba đại thái giám trấn thủ đất này, khiến các thuế giám trong thiên hạ nhìn thấy rõ thủ đoạn của Nội Xưởng, cũng là cho bọn họ một viên thuốc an thần.

Hôm nay vừa trở về gã liền nghe nói về việc Mạc Thanh Hà đã cho vận chuyển bạc thuế về kinh, hiển nhiên hắn đã ngả về phía Dương Lăng rồi. Nếu quá hà khắc với hắn, thuế giám các nơi sẽ cho rằng Xưởng đốc khắt khe quá đáng, nhất định sẽ có người nảy dị tâm, do đó Liễu Bưu vội khuyên:
- Đại nhân! Thực ra quan viên và thuế giám các nơi lợi dụng chức quyền để mưu lợi cho gia tộc cũng là lẽ thường tình. Có câu rằng “nước quá trong thì không có cá”, thêm vào đó hắn còn cố gắng che giấu, lại cũng không phải loại người ngông nghênh kiêu ngạo, không biết nặng nhẹ. Chỉ cần hắn thành tâm làm việc cho đại nhân, đại nhân bất tất phải suy nghĩ quá nhiều làm gì!

Dương Lăng chậm rãi ngồi trở lại ghế, cười cay đắng:
- Hắn chỉ muốn kiếm tiền thì ta có thể không tính toán, nhưng còn những người kia thì sao? Những đứa nhỏ kia đã đi đâu mất rồi? Chuyện này mà không tra rõ, ta khó mà yên lòng được…
Nói tới đây y đột ngột nhảy bật dậy, hỏi Hoàng chưởng ban:
- Đứa nhỏ mấy hôm trước đâu? Chính là đứa nhỏ được đưa từ vườn trà về Cao phủ vào mấy hôm trước ấy, bây giờ nó thế nào rồi?

Hoàng chưởng ban gian nan nuốt một ngụm nước bọt, ngập ngọng:
- Đại nhân! Hôm trước ti chức đã báo cáo rồi… Những đứa nhỏ mà Mạc công công thu nhận hiện giờ đều đã biến mất, đứa nhỏ kia cũng…

Dương Lăng vỗ bàn đánh bộp, cười lạnh:
- Thật là to gan! Nếu không phải ngày đó bản quan ra ngoài tình cờ gặp được đứa nhỏ kia, có lẽ sẽ chẳng nghi ngờ chút nào. Rốt cuộc hắn đã làm gì những đứa cô nhi không cha không mẹ, không có ai hỏi đến kia chứ?

Liễu Bưu và Hoàng chưởng ban cùng đưa mắt nhìn nhau, nhưng chẳng ai có thể trả lời.

Cho dù Dương Lăng là kẻ ngốc thì cũng biết rằng chuyện này nhất định là có quan hệ với Mạc Thanh Hà, y chỉ tay về phía Hoàng chưởng ban hạ lệnh:
- Hơn ba mươi mạng người! Tung tích của hơn ba mươi đứa nhỏ chưa thể làm rõ, bản quan làm sao mà yên lòng bỏ qua cho Mạc Thanh Hà được đây? Ngươi hãy tìm người đóng giả họ hàng xa của đứa nhỏ đó, làm khổ chủ tố cáo Lý Quý, lấy đó làm nguyên cớ để tra xét hắn.

Liễu Bưu do dự một hồi, cung tay thưa:
- Đại nhân đã quyết ý muốn tra xét, vậy xin hãy nghe lấy một lời của ti chức chứ cứ thế này mà tra xét nhất định sẽ chẳng tra ra được gì đâu. Nếu Lý Quý cứ một mực khẳng định rằng đã đem bán đứa nhỏ ấy cho người khác, sau đó lại khai bừa ra mấy vùng đất hoang vu. Chúng ta muốn tìm chứng cứ thì phải cần tới mấy tháng, mà nếu đến lúc đó người chúng ta tìm được kia lại dùng lại kế cũ thì chẳng biết phải tra xét đến năm nào tháng nào đây…

Vừa nghe, Dương Lăng lập tức nhớ đến kế kéo dài thời gian mà khi xưa mình đã bày cho Mẫn huyện lệnh để đối phó với bọn chủ tiệm nhạc khí Vương Đại, Vương Nhị. Tuy rằng khá thô thiển, nhưng trong thời đại giao thông bất tiện này lại rất hữu hiệu. Y không khỏi chau mày hỏi:
- Vậy ngươi có kế hay gì không?

Liễu Bưu hơi nhếch miệng, cười lạnh:
- Gạch vàng của triều đình đều được sản xuất tại thôn Ngự Dao, trấn Nguyên Hòa ở ngoài thành Tô Châu, hãng thuyền của Đỗ gia chẳng phải chuyên môn thay triều đình vận chuyển thứ nguyên liệu cấm kị này sao? Vụ làm ăn này sao có thể thiếu phần của Lý Quý chứ? Chúng ta hãy phái người đến thôn Ngự Dao kiếm lấy một viên gạch mẫu về đây, sau đó trực tiếp đến lục soát Lý phủ, nói rằng có người tố cáo hắn cất giấu vật cấm. Nếu mà tìm được đứa nhỏ thì thôi, còn nếu không tìm được thì hãy vứt viên gạch kia vào trong nhà hắn, vu cho hắn tội khi quân. Trọng tội đó là phải chém đầu, đến khi ấy hắn lại chẳng ngoan ngoãn mà khai toàn bộ chân tướng sao?

Dương Lăng nghe vậy thì hơi do dự. Y chắp tay sau lưng chậm rãi đi lại trong phòng một lát, nhưng nhớ đến đứa nhỏ gầy khô như que củi nhưng lại thông minh đáng yêu mình đã gặp kia, cuối cùng y nghiến răng gật đầu quyết định:
- Hoàng chưởng ban hãy cứ làm như vậy đi! Không hành động thì thôi, hành động thì phải nhanh, phải độc! Mạc Thanh Hà là địa đầu xà ở đây, Viên Hùng có thể có đến năm ngàn nanh vuốt sao Mạc Thanh Hà lại chịu kém được? Không thể để hắn kịp phản ứng!

Kế đó y ngoảnh đầu qua bảo Liễu Bưu:
- Đêm nay sẽ xuất binh bắt giữ Tất Xuân, Viên Hùng. Khi trở về cần lấy cớ đề phòng nanh vuốt của hai kẻ này nổi loạn, tăng cường phòng vệ khu nhà ngang phía tây, không phải người của Nội xưởng quyết không cho phép tiến vào, đặc biệt phải phòng bị…

Y liếc nhìn qua phía Liễu Bưu, gã hiểu ý gật gật đầu, ôm quyền bẩm:
- Ti chức xin vâng lệnh!

***


Đội diêm binh và vệ binh Hải Ninh hành quân cực nhanh, dãy đuốc dài liên miên như rồng rắn uốn lượn. Thỉnh thoảng khi đi qua thôn trấn bọn họ lại gặp những phu tuần điểm canh hay là gã sắc lang vừa từ trong kỹ viện đi ra đang nheo mắt hồi tưởng cảm giác tiêu hồn vừa nãy, có lúc còn gặp con bạc bị đá ra khỏi sòng bạc. Tất cả bọn họ đều ngây người nhìn đại đội binh mã đeo cung cầm đao đang giơ cao ngọn đuốc lặng lẽ đi qua bên cạnh mình, một mảng sát khí ập thẳng vào mặt.

Nam quận có rất ít đội kỵ binh hoàn chỉnh, muốn gom đủ ngựa quân dụng thì khó vô cùng nhưng để kiếm được mấy trăm con ngựa mà cưỡi thì chỉ cần mượn từ phủ của các đại phú hào, đại diêm thương là được.

Mẫn Văn Kiến vừa chỉ huy toàn quân hành quân vừa ngầm chú ý hành vi của Chủng thiên tổng. Dương Lăng đã gửi mật thư nếu Chung thiên tổng lâm trận mà có hành động khả nghi thì lập tức giết không tha. Nhưng dọc đường ông thấy Chung thiên tổng có thần thái ung dung, dường như gã cảm thấy được làm việc cho khâm sai đại nhân là một điều cực kỳ vinh dự, còn hăng hái, hào hứng hơn ông mấy phần, gần như chẳng thể nhìn ra có gì khác lạ.

Lúc này Mạc Thanh Hà vốn say túy lúy vừa mới tỉnh lại trong Mạc phủ. Hắn vươn vai, day day cái trán vẫn còn hơi nằng nặng rồi ngồi dậy, vừa lúc một đôi tay nõn nà đưa tới một chén trà. Ngẩng đầu nhìn lên, đôi mắt kia vẫn nguyên nét dịu dàng như làn nước mùa xuân; chỉ cần nữ nhân này muốn, bất cứ lúc nào thị cũng có thể nở một nụ cười quyến rũ khiến nam nhân phải động lòng.

Mạc Thanh Hà cười bảo:
- Đã lâu lắm rồi chưa uống say đến mức này! Mấy ngày nay giải được nỗi lo, uống rượu cũng thấy sảng khoái.

Hắn đón lấy chén trà. Lúc này trà đã hơi lành lạnh, có điều đối với tình trạng khô miệng nóng người của hắn lúc này thì vừa hay có thể giải khát. Mạc phu nhân dịu dàng:
- Phu quân thì sảng khoái uống say túy lúy. Nhưng chàng có biết sắc trời vừa tối Dương đại nhân đã không từ mà biệt, vất vả dẫn hết đám nha sai đi mất, hiện giờ trong khu nhà ngang phía tây ngoài một tì nữ và hai mươi nha sai thì đã chẳng còn người nào khác nữa không?

Mạc Thanh Hà lập tức bị sặc trà. Hắn ho mấy tiếng, sau đó mới ngẩng đầu lên bừng bừng giận dữ hỏi:
- Khâm sai đại nhân đi đâu vậy? Chuyện lớn như vậy, sao nàng không gọi ta dậy chứ?

Mạc phu nhân chẳng hề sợ hãi, ả khẽ nở nụ cười, nháy nháy mắt với Mạc Thanh Hà, làm bộ tinh nghịch nói:
- Thiếp thân vốn cũng muốn hỏi y, chỉ là sợ vị khâm sai đại nhân đó không dám gặp thiếp… Thiếp kêu người nhà đi xem thử rồi, y dẫn người ra khỏi cổng thành phía tây, sát khí đằng đằng. Do đó thiếp nghĩ… tin tức này… Đợi sau khi lão gia tỉnh rượu nghe được liệu có phải là càng sảng khoái hơn không?

Mạc Thanh Hà lặng yên một lát rồi đột nhiên ngẩng đầu lên trời cười rộ. Hắn phát mạnh lên bờ mông đầy đặn của Mạc phu nhân, cười ha hả:
- Người hiểu ta chính là Tiểu Lâu! Ừm… Ta và Viên gia cộng sự nhiều năm, không thể không niệm tình xưa. Nàng hãy kêu người đi thu dọn phòng chứa củi ở nhà sau đi, trước khi khâm sai đại nhân về kinh chúng ta cũng phải tìm cho Viên gia một chỗ ở chứ, ha ha ha ha…

Khi cưỡi ngựa tới trấn Phong Diệp ở trước thung lũng Long Sơn, Mẫn Văn Kiến hạ lệnh cho toàn quân dập đuốc đi vòng qua trấn. Rời khỏi trấn đi tiếp ba dặm chính là thung lũng Long Sơn, bên trong thung lũng chính là nơi đóng trại của Long Sơn vệ sở. Cửa vào thung lũng có hình chữ “chi” (Tương tự chữ Z - ND.), Liễu Bưu đã qua lại nơi này nhiều lần, lại có viên chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm làm nội ứng, sớm đã biết khi rẽ đến lần thứ hai thì mới có trạm gác, hơn nữa bình thường người ở bên trong đều không ra ngoài, do đó thân vệ của Dương Lăng vẫn ung dung yên lặng chờ đợi ở chỗ rẽ thứ nhất.

Sắc trời lúc này đã biến thành màu trắng đục. Khi Mẫn Văn Kiến và Chủng thiên tổng dẫn theo sáu trăm binh sỹ đến nơi, các nha sai mặc áo xanh đội mũ đỏ, hông mang đao dài, lưng đeo trường cung sớm đã xếp thành ba phương trận (đội ngũ hình vuông). Bọn họ đứng nghiêm chẳng hề động đậy tựa như bị đinh ghim xuống đất, hơn nữa lưng mọi người đều thẳng tắp.

Hạng mục biểu diễn sở trường của những quan binh vốn là người của Thần Cơ doanh này chính là xếp hàng bày trận biễu diễn; bây giờ đã có kinh nghiệm chém giết trên chiến trường thì đội hình của bọn họ càng oai phong lẫm liệt, uy nghiêm vô cùng.

Sự trang nghiêm lạnh như băng sương, sự huấn luyện khiến toàn thể đội hình chỉnh tề như nhất này lập tức khiến khoảng không giữa bọn họ lan tràn những luồng sát khí đằng đằng, tuy nhìn không thấy nhưng lại có thể cảm giác được.

Đám diêm binh lưu manh sớm đã được thấy thủ đoạn lạnh lùng tàn khốc như tay đồ tề của tám mươi đao thủ nên lập tức thu lại dáng vẻ cười đùa cợt nhả, trở nên nghiêm túc vô cùng. Diêm binh bị tử thương nặng nề trong trận chiến vừa rồi, trước mắt vẫn chưa kịp bổ sung thêm người, nên ngoại trừ một bộ phận ở lại giữ nhà, lần này bọn họ chỉ phái ra một trăm người.

Một trăm diêm binh này đã được rèn luyện qua cuộc tử chiến với giặc lùn ở bên bờ sông Tiền Đường, tuy rằng thần thái bước đi vẫn còn hơi lỏng lẻo nhưng đã có được loại sát khí kinh người mà chỉ các chiến sỹ thường xuyên chinh chiến ở vùng biên giới phía bắc mới có.

Không khí trang nghiêm ấy cũng làm ảnh hưởng tới cả vệ quân, sắc mặt bọn họ đều trở thành nghiêm trọng. Trong thung lũng lúc này tập trung chừng chín trăm quan binh nhưng lại tĩnh lặng vô cùng, chỉ thỉnh thoảng mới có tiếng thở nhẹ của chiến mã vang ra.

Mẫn đại nhân và Chủng thiên tổng bước tới gặp gỡ khâm sai đại nhân trong bộ quan bào xưởng đốc, hai bên khẽ rì rầm với nhau vài câu. Sau đó ba trăm nha sai liền giữ nguyên hàng ngũ tiến vào thung lũng, ai nấy đều im lặng, chỉ nghe thấy tiếng bước chân loạt xoạt vang lên.

Tướng lĩnh các cấp lần lượt truyền xuống mệnh lệnh của xưởng đốc:
- Hai mươi người ở lại trông coi ngựa, những người khác hãy bám theo, không được phát ra âm thanh nào.

Trước trạm gác, bốn viên binh sỹ trực đêm đang đứng thẳng tắp, chỉ là khóe mắt lại lén liếc nhìn về phía thiêm sự đại nhân đang không ngừng đi đi lại lại, trong lòng cảm thấy hơi kỳ lạ.

Quân doanh này được đặt trong thung lũng, hơn nữa bây giờ không phải là thời chiến nên quyết không thể nào xảy ra việc quân địch tập kích được. Gọi là trạm gác chẳng qua cũng chỉ là cho có mà thôi, tối đến các binh sỹ trực gác đều chỉ ở trong nhà gỗ ngủ hoặc trò chuyện. Nhưng hôm nay còn chưa tới canh tư thiêm sự Đinh Lâm lại đột nhiên xuất hiện nói kiểm tra việc canh gác gì gì đó rồi lại còn không chịu rời đi, hại bọn họ cứ phải ngoan ngoãn đứng yên tại chỗ.

Đúng lúc đó, ngay chỗ rẽ trước mặt đột nhiên xuất hiện một đội nhân mã, một binh sỹ kinh hãi buột miệng kêu lên:
- Kẻ nào? Đứng lại! Không được đi tiếp!

Hai viên binh sỹ bên cạnh hoang mang cầm trường thương lên, một người khác thì đưa tay vớ lấy chiếc kèn lệnh bên hông. Lúc này sắc trời đã hơi sáng, vừa nhìn thấy lối ăn mặc của các binh tốt đang tiến đến Đinh thiêm sự không khỏi thở phào một hơi, gã cuối cùng cũng có thể yên tâm được rồi.

Đinh Lâm lập tức nghiêm giọng quát bảo:
- Hoang mang cái gì? Tất cả đứng trở lại cho ta, đây là binh mã của Dương đại nhân - thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng thượng, tổng đốc Nội xưởng, phụng chỉ khâm sai. Bản quan đã nhận được mệnh lệnh nên tới đây nghênh đón, các ngươi chớ có vô lễ!

Một loạt quân hàm khiến bốn binh sỹ đó ngây ra, tướng lĩnh cao cấp trong quân đã nói như thế rồi, chẳng lẽ còn sai được sao? Thế là bọn họ chỉ đành chĩa mũi thương xuống đất, tránh qua một bên.

Đinh Lâm vội vàng bước tới nghênh đón, quỳ một chân xuống thực hiện quân lễ với Dương Lăng:
- Hạ quan Đinh Lâm khấu kiến khâm sai đại nhân.

Dương Lăng vội vàng bước lên phía trước đỡ lấy gã, mỉm cười bảo:
- Đinh thiêm sự đúng là người đáng tin, rất tốt! Hôm nay ngươi giúp bản khâm sai bắt được lũ quan lại phạm pháp, sau khi về kinh bản quan nhất định sẽ bẩm báo với thánh thượng, xin ngài ban thưởng cho ngươi.

Đinh Lâm đã nghe nói về sự tích Dương Lăng đánh bại giặc lùn nên cực kỳ tin tưởng sức chiến đấu của đội thân quân của y. Lúc này gã vừa thấy đội quân trước mặt có tới mấy trăm nha sai Nội xương, đằng sau lại còn có một lượng lớn quan binh không biết là được điều từ đâu tới nữa, không khỏi cảm thấy hoàn toàn yên tâm, thần sắc cũng trở nên ung dung hơn nhiều.

Gã mừng rỡ trả lời:
- Đại nhân khoan hồng đại lượng, cho ti chức có cơ hội lập công chuộc tội làm sao ti chức dám không dốc hết toàn lực chứ.

Dương Lăng chỉ khẽ mỉm cười, cũng không khách sáo với y nữa mà đi thẳng vào việc:
- Tình hình trong quân thế nào?

Đinh Lâm đáp:
- Đại nhân đi tuần tra phương nam chủ yếu là vì vấn đề bạc thuế. Tuy Viên Hùng kiêm nhiệm chức giám quân Long Sơn vệ nhưng đại nhân lấy đó làm lý do đi thanh tra Long Sơn vệ thì không khỏi hơi khiên cưỡng, hạ quan vốn còn lo Tất đô… Tất Xuân nghi ngờ. May mà tin đại nhân ở Hải Ninh dựa vào tám mươi tay đao đại chiến với hơn ngàn tên giặc lùn, còn năm trăm vệ quân tại địa phương thì lại hoang mang bỏ chạy đã lan ra khắp nơi. Tất Xuân cho rằng đại nhân giận dữ vì sức chiến đấu của vệ quân quá kém nên mới tới thanh tra, chẳng hề nghi ngờ gì cả.

Đã tới bên cạnh Dương Lăng, Chủng thiên tổng nghe thấy lời của Đinh Lâm thì cảm thấy xấu hổ vô cùng nhưng đồng thời cũng cảm thấy còn may mắn: “Khi vệ quân tan vỡ bỏ chạy có bao nhiêu đôi mắt nhìn vào, hoàn toàn chẳng thể che giấu ai được. Tuy bản thân mình dẫn theo thân quân tử chiến không lùi nhưng cũng chẳng bù được cái tội trị quân không nghiêm, sau này ti đô chỉ huy sứ nhất định sẽ truy cứu chuyện này. Hôm nay có thể đi theo Dương đại nhân tới bắt Tất Xuân, Viên Hùng, lập được công lao, có Dương đại nhân nói giúp cho mình một câu thì nhất định sẽ có thể biến nguy thành an.”

Dương Lăng gật gật đầu hỏi:
- Ngươi đã thu xếp ổn thỏa cả rồi chứ?

Đinh Lâm đáp:
- Vâng, vì sợ rò rỉ tin tức nên ti chức không dám dùng quá nhiều người. Ti chức chỉ tìm tới năm người đều do một tay ti chức đề bạt; trong đó có hai người còn là thân thích của ti chức, tuyệt đối đáng tin.

Dương Lăng gật đầu nói:
- Tốt, lát nữa cứ y kế hành sự! Kêu người của ngươi dẫn nhân mã của Chủng thiên tổng khống chế vòng ngoài, bắt lấy binh sỹ trong tất cả các trạm gác, gây áp lực với sỹ tốt trong quân, đề phòng sinh biến! Ta sẽ phái hai trăm thân quân và một trăm diêm binh tập kích trung quân, nhân lúc đám quan binh trong năm cái lều lớn còn ngủ say chưa tỉnh mà tước vũ khí rồi bắt giữ bọn chúng! Ngươi thì theo ta dẫn một trăm thân quân tiến thẳng vào lều soái, đi gặp người bạn cũ kia!

Dứt lời y lại liếc nhìn bốn viên binh sỹ đứng không xa sau lưng Đinh Lâm, hỏi:
- Bọn họ là người của ngươi sao?

Đinh Lâm vội lắc đầu đáp:
- Bọn họ không phải là người của ti chức. Vì sợ kẻ khác hoài nghi, ti chức không dám dẫn người tới. Có điều bọn họ đều đang đợi ở gần đây, ti chức có thể gọi bọn họ ra dẫn đường bất cứ lúc nào.

Dương Lăng gật gật đầu, đưa mắt ra hiệu cho Trịnh bách hộ. Trịnh bách hộ lập tức dẫn theo bốn người bước tới, cười hì hì bảo:
- Bốn vị huynh đệ vất vả rồi. Trước mắt nơi này đã có bọn ta tiếp quản, các ngươi có thể đi nghỉ ngơi một chút rồi!

- A?
Bốn binh sỹ đó nghe thế thì ngẩn người, còn chưa kịp trả lời thì trên cổ đã bị một thanh đao sáng loáng kề sát. Nụ cười trên mặt Trịnh bách hộ thu lại, hắn lạnh lùng hạ lệnh:
- Trói lại, vứt qua một bên!

Tất đô ti vốn đã đón người mỹ thiếp được sủng ái nhất tới an bài tại trấn Phong Diệp ở phía trước, thường ngày đều ngủ lại trong trấn. Vì nhận được tin trong vài ngày nữa khâm sai Dương Lăng sẽ tuần tra Long Sơn vệ nên gã mới dọn trở vào ngủ trong doanh trại.

Dương Lăng chính là viên dịch thừa nhỏ bé ở trạm Kê Minh khi xưa, chuyện này tất nhiên gã sớm đã biết. Ngày đó tại Kê Minh mọi người đều biết gã vừa ý con gái của Mã dịch thừa, nhưng Mã Liên Nhi lại chẳng thèm để ý tới thể diện của gã, giục ngựa đuổi theo Dương Lăng đang phụng chỉ tiến kinh, khiến gã mất hết mặt mũi. Không những gã vô cùng căm ghét Mã Liên Nhi mà đồng thời còn cực kỳ thù hận Dương Lăng nữa.

Tiếc rằng trời chẳng thỏa lòng người. Sau khi vào kinh Dương Lăng liền đi theo bên cạnh thái tử, nhân cơ duyên này mà trở thành tân sủng bên cạnh thánh thượng, hiện giờ đã như mặt trời chính ngọ, trở thành đề đốc Nội xưởng. Ngoài việc thầm căm hận trong lòng ra thì gã cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ đành thở dài than rằng trời cao không có mắt.

Có điều gã cũng chưa từng nghĩ rằng Dương Lăng sẽ gây bất lợi gì cho bản thân gã. Dương Lăng tới đây là để tra xét việc bạc thuế, chẳng liên quan gì tới gã, hơn nữa hai người vốn không thù không oán. Gã làm sao có thể nghĩ tới việc giám quân của hắn - đồng thời cũng là thái giám trấn thủ thuế quan Giang Nam Viên Hùng - phạm tội, do vậy mà đối phương mò ra việc tham ô của hắn.

“Tu… Tu tu…” Tiếng kèn hiệu đột nhiên vang lên, sau đó là tiếng trống vang trời. Tất đô ti từ trong mộng giật mình tỉnh dậy, bừng bừng nổi giận:
- Ai gõ trống thổi kèn vậy? Chán sống rồi hay sao?

Thân binh Trịnh Đại Bằng vốn ngủ tại phòng ngoài, nghe thấy tiếng gầm của Tất đô ti liền hoang mang bò dậy, vội khoác áo chạy ra ngoài xem thử.

Lều soái ở trung quân là một khu vuông vắn, bốn phía được bao quanh bởi hàng rào gỗ cao bằng nửa thân người, ba phía phải, trái, sau bên ngoài hàng rào là năm ngôi lều lớn bao quanh lều soái tựa như quần tinh ủng nguyệt, ở trong đó là ba trăm thân quân được Tất Xuân đích thân đề bạt, tận bên ngoài nữa mới là nơi ở của các binh sỹ bình thường.

Trịnh Đại Bằng thấy năm cái lều lớn đều không có động tĩnh gì, còn đám binh sỹ canh gác xung quanh lều soái ở phía trước lều riêng của đô ti đang đứng trước ánh dương đầu tiên từ đằng đông chiếu tới mà chẳng hề động đậy, xem ra cũng chẳng có vấn đề gì. Hắn bèn vội vàng chạy vào báo:
- Bẩm đô ti đại nhân, bên ngoài không có dị trạng gì, binh sỹ trước lều soái vẫn canh gác cẩn mật…

Lời của hắn còn chưa dứt, đội trưởng đội thân binh Quan Thụ Anh đã vội vàng từ bên ngoài chạy vào. Lúc này Tất Xuân đang mặc quần áo, thấy hắn tiến vào bèn hừ lạnh một tiếng, vừa khoác chiến bào lên người vừa giận dữ trừng cặp mắt tam giác lên quát bảo:
- Đám khốn kiếp đó cả ngày ăn không chờ chết, ngay cả một chút kỹ luật quân đội cũng không hiểu nổi phải không? Không phải ta đã nói ngày kia khi khâm sai đại nhân tới thì mới có thể thổi kèn hiệu, gõ trống trận tập trung binh mã sao? Lũ khốn ngủ nhiều quá thành bệnh rồi chắc?

Quan Thụ Anh sắc mặt trắng bệnh thưa:
- Đại nhân, khâm sai đại nhân đã tới rồi.

- A?
Tất Xuân cả kinh, chiếc áo giáp vừa cầm lên rơi đánh bộp xuống đất, gã nghi ngờ hỏi:
- Y đến lúc nào? Sao ta lại không nghe thấy chút tin tức nào thế? Bây giờ y đang ở đâu?

Quan Thụ Anh đáp:
- Thuộc hạ cũng không biết y tiến vào quân doanh từ lúc nào, hiện giờ y đang ở trong soái trướng chờ đại nhân đấy!

Trong mắt Tất Xuân thoáng qua thần sắc kinh ngạc, sau đó gã chậm rãi khom người nhặt chiếc áo giáp lên, cẩn thận mặc vào người, trầm giọng cất tiếng:
- Tập hợp thân quân, xếp hàng chờ đợi trước lều soái, giờ bản quan sẽ đi gặp vị Dương đại khâm sai này.

Quan Thụ Anh cười nhưng còn khó coi hơn khóc, lắp bắp:
- Đại nhân! Khâm sai đại nhân dẫn người tới, không cho phân bua gì cả đã tước hết vũ khí của các huynh đệ, bây giờ mọi người đều bị giam giữ trong lều, ai dám phản kháng đều giết không tha. Dương… Dương đại nhân còn nhận ra thuộc hạ, do đó mởi thả cho ra, nói là kêu thuộc hạ đi mời đại nhân đến lều soái gặp mặt.

Tất Xuân tức giận đến nỗi sắc mặt lúc xanh lúc trắng, nghĩ bụng: “Mình tốt xấu gì cũng là chủ tướng trong quân, Dương Lăng làm vậy là có ý gì chứ? Muốn thể hiện oai phong? Có cần phải làm lớn như vậy không? Muốn bắt mình? Tội danh gì chứ?”

Tất Xuân căng thẳng suy nghĩ một lúc lâu. Tất nhiên bản thân gã đã từng làm những chuyện phi pháp, hơn nữa còn không ít, nhưng Dương Lăng phụng chỉ xuống Giang Nam không phải là để điều tra việc bạc thuế sao? Vệ sở ở Giang Nam vốn đã tệ như vậy rồi, y dựa vào cái gì mà đem gã ra khai đao, lại dựa vào cái gì mà vượt quyền làm vậy chứ?

Tất Xuân suy nghĩ hồi lâu mà vẫn chẳng thể nào hiểu rõ được vấn đề, thanh đao bên hông đeo lên rồi lại bỏ xuống, bỏ xuống rồi lại đeo lên. Đang lúc gã hoang mang lo lắng, bên ngoài cửa đã có người hô lớn:
- Ti chức là bách hộ Trịnh An Đức của Nội xưởng phụng lệnh khâm sai đại nhân kính mời Tất đô ti đến lều soái gặp gỡ!

Tất Xuân nghiến răng, vứt thanh đao lại lên bàn, rảo bước ra ngoài.

Trước lều soái là hơn hai mươi tướng tá ăn mặc chỉnh tề, khôi giáp mới tinh đang băn khoăn do dự từ từ đi vào lều soái, trong mắt bọn họ lúc này lều soái cứ tựa như là một con mãnh hổ đang há cái miệng to như chậu máu ra. Vừa bước vào, nhìn thấy mấy chục người ăn mặc theo lối nha sai của xưởng vệ đang đặt tay trên cán đao sát khí đằng đằng, người người đều không khỏi cảm thấy run sợ.

Họ thấy những nha sai đang tay giữ cán đao đó đều mang trường cung trên lưng hoặc là súng ngắn bên hông, có người còn có cả nỏ liên hoàn, loại Gia Cát thần nỗ có thể bắn ra năm phát liên tiếp, ở cự ly gần chắc hẳn không thể tránh nổi.

Năm thân tín mà Đinh Lâm tìm tới đều là những quan chức cấp thấp trong quân. Tuy phẩm hàm của họ không cao nhưng so với đám binh sỹ phải đứng gác đêm thì vẫn cao hơn nhiều; có bọn họ dẫn đường, đội quân của Dương Lăng tiến dễ như chẻ tre, tất cả mọi trạm gác đều bị xóa sạch. Đợi đến khi có tiếng kèn lệnh, trống lệnh tập hợp vang lên, các tướng sỹ hoang mang bò dậy thì những binh sỹ lạ mặt có trang phục giống hệt bọn họ đã canh giữ chắc chắn bên ngoài mỗi ngôi lều rồi.

Cùng là binh sỹ, nhưng lại có thể quát bảo ra lệnh cho đội quân khác kể cả một số viên quan chỉ huy, khiến đám sỹ tốt thuộc vệ sở Hải Ninh đều cảm thấy đắc ý vô cùng. Bọn họ không tin rằng đám sỹ tốt và tướng tá kia lúc này đã ở vào thế kém rồi mà còn dám tạo phản làm loạn, nên lại càng oai phong vô cùng, chẳng để ai vào trong mắt. Cái loại khí thế đó lại càng khiến người ta chẳng thể nhìn ra thực lực và gốc gác của bọn họ thế nào, lại càng khiến không ai dám khinh động.

Vệ quân Hải Ninh vừa tuần tra vừa cao giọng tuyên bố mệnh lệnh của khâm sai:
- Tất cả sỹ tốt phải ở trong lều chờ lệnh; những sĩ quan từ cấp bả tổng trở lên phải lập tức đến lều soái nghênh đón đại giá của khâm sai đại nhân. Kẻ nào dám không tuân lệnh, giết! Sỹ tốt nào dám tự tiện rời lều, giết! Kẻ nào dám phản kháng bỏ chạy, giết!

Đến khi vệ quân hô tới lần thứ ba, bắt đầu có những tướng tá lớn mật ăn mặc chỉnh tề lục tục bước ra ngoài lều, có điều để tránh hiểu lầm tất cả đều không dám mang theo binh khí. Khi hô đến lần thứ năm thì tất cả mọi tướng tá đều đã tập trung đến trước hành dinh của đô ti ở trung quân, dựa theo quan chức cao thấp mà run rẩy bước vào trong lều khấu kiến khâm sai đại nhân.

Trong lều soái bắt đầu từ chỗ soái án, mỗi bên đứng một hàng nha sai gồm bốn chục người, vươn dài xuống hai bên theo hình cánh nhạn, bao quanh khâm sai đại nhân đang ngồi sau soái án vào giữa. Giữa các nha sai là hai hàng người, hai vị tướng lĩnh đứng đầu là Lục Quý Vân, chỉ huy phó sứ Long Sơn vệ và chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm.

Lục Quý Vân là người thân tín của Tất Xuân, hắn không biết khâm sai đại nhân sáng sớm đến tập kích, khống chế tam quân rồi tập trung tất cả các tướng tá vào trong lều soái là có ý gì, trong lòng cực kỳ sợ hãi. Đinh Lâm thấy đại cục đã định, cả doanh trại đã nằm trong sự khống chế của khâm sai đại nhân nên trên mặt đầy vẻ đắc ý, còn mang theo nét cười nhàn nhạt.

Trên soái án có bày văn phòng tứ bảo, nơi góc bàn còn có một cái hộp làm bằng gỗ đàn hương, bên trong có cắm hai mươi cái hỏa bài lệnh tiễn.

Khâm sai đại nhân phong lưu anh tuấn đang ngồi trên chiếc ghế sau soái án, nghịch ngợm chiếc bút lông trong tay. Y không nói gì, trong lều soái cũng vô cùng tĩnh lặng. Hơn sáu chục người ở trong lều soái mà chỉ nghe thấy có những tiếng hô hấp nặng nhọc do bị kềm nén vang lên, khiến áp lực trong lòng mỗi người càng lúc càng nặng nề.

Đúng vào lúc này, bên ngoài lều soái có người hô vang:
- Bẩm khâm sai đại nhân, chỉ huy sứ Long Sơn vệ là Tất Xuân đô ti đã đến!

Lời vừa mới dứt, một vị tướng lĩnh mặc giáp nghiêm trang rảo bước vào, ngang nhiên đi tới trước soái án. Khi gã chỉ còn cách soái án không xa, hai viên nha sai ở bên cạnh lập tức bước ra giơ đao ngăn cản, miệng quát lớn:
- Phải hành lễ, chờ lệnh; không được đến gần!

Cơ thịt trên đôi má gầy khô của viên tướng lĩnh khẽ co giật, đôi mắt tam giác nhiều lòng trắng ít lòng đen hơi nhướng lên, dường như gã đã bừng bừng nổi giận. Đôi mắt ấy vừa nhướng lên gặp cặp mắt ung dung của Dương Lăng thì không khỏi run sợ cúi xuống. Sau một lúc do dự, gã bèn đưa tay kéo vạt dưới của chiến bào qua một bên, quỳ gối làm lễ:
- Hạ quan Tất Xuân, khấu kiến khâm sai đại nhân!

Chiếc bút lông đang xoay tròn trong tay Dương Lăng chợt dừng lại. Y đưa mắt liếc nhìn vị tướng quân giáp trụ đường hoàng đang quỳ trước mặt kia, chợt nhớ lại cái ngày mùa đông lúc hai người lần đầu gặp mặt.

Khi đó y đang ở giếng nước ven đường múc nước uống, nước giếng lạnh băng, trong gàu còn có những mảnh băng phập phù trôi nổi; một vị tướng quân khôi giáp chỉnh tề cưỡi chiến mã đi đến bên cạnh y, vênh mặt hất hàm chỉa roi ngựa vào mặt y mà hò hét.

Thời gian thấm thoắt thế sự vô thường, vừa chia tay chẳng bao lâu thì hiện giờ gã đã phải quỳ xuống dưới chân mình rồi. Dương Lăng cảm khái thở dài một tiếng, chậm rãi đứng dậy:
- Xin Tất tướng quân đứng dậy. Ngày đó chia tay ở Kê Minh, vốn tưởng ngài và ta sẽ chẳng có ngày gặp lại, không ngờ hôm nay trùng phùng lại ở trong hoàn cảnh thế này.

Chương 135 - Cái Khó Ló Cái Khôn



Tất Xuân chậm rãi đứng dậy, đôi mắt hơi cụp xuống, hờ hững nói:
- Hạ quan xin chúc mừng đại nhân một bước lên mây, quyền cao chức trọng. Nghe nói đại nhân muốn thị sát Long Sơn vệ, ti chức không dám sơ suất chút nào, đang cố gắng chỉnh đốn việc quân chờ đại nhân đến. Có điều không biết vì sao đại nhân còn chưa thông báo mà đã vào doanh khống chế thân quân của ti chức rồi sau đó mới triệu ti chức đến gặp là có ý gì?

Dương Lăng liếc nhìn qua hai bên chỉ thấy hơn hai chục vị tướng tá đứng nghiêm ở đó, ngay cả thở mạnh cũng không dám nhưng người người đều dỏng tai lên, hiển nhiên là rất quan tâm đến ý đồ của y khi đến đây lần này.

Y nở nụ cười mỉm, hôm nay tập kích Long Sơn vệ nhờ có Đinh thiêm sự làm nội ứng, lại ra tay trong lúc đối phương không đề phòng do đó chẳng cần động đến đao thương đã có thể giải quyết được Tất Xuân, trái tim vốn căng thẳng như đeo đá của y cũng nhẹ nhõm hơn nhiều, do đó thần thái cực kỳ ung dung. Dương Lăng thản nhiên liếc nhìn qua phía Liễu Bưu, Liễu Bưu lập tức hiểu ý bước lên trước một bước, cao giọng hô:
- Xưởng đốc Nội xưởng kiêm khâm sai đại thần Dương đại nhân phụng chỉ tuần tra Giang Nam, nhận được sự tố cáo của chỉ huy thiêm sự Long Sơn vệ là Đinh tướng quân, tra xét việc chỉ huy sứ của Long Sơn vệ là Tất Xuân cùng đồng bọn là phó sứ Lục Quý Vân cắt xén quân lương, cưỡng chiếm đồn điền, báo sai quân số, để khí giới hư tổn lại nhiều lần gian dối nhằm nhét đầy túi riêng khiến lòng quân oán hận, sỹ tốt khổ sở vô cùng, tội chứng xác thực. Trong thời gian khâm sai đại nhân tuần tra, tất cả những hành vi phi pháp về quân sự và chính trị ở Giang Nam đều quyền hỏi tới. Giờ xin vâng theo thánh dụ, lập tức bắt giữ Tất Xuân và Lục Quý Vân, mấy hôm nữa sẽ áp giải về kinh lĩnh tội.

Đám tướng tá phía dưới lập tức trở nên nhộn nhạo. Bọn họ sớm đã cảm thấy việc khâm sai đại nhân hôm nay đột nhiên vào doanh rồi lại động can qua như thế tuyệt đối chẳng phải là chuyện tốt gì, không ngờ lại đúng là muốn bắt người, hơn nữa còn là bắt cả chính và phó chỉ huy sứ.

Lục Quý Vân nghe xong không khỏi run lên, hắn và Tất Xuân vừa kinh hãi vừa tức giận. Chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm không ngờ Liễu Bưu lại nói ra tên mình ở ngay trước mặt mọi người như thế, sắc mặt không khỏi lúc trắng lúc đỏ: rõ ràng là khâm sai muốn giải quyết Tất Xuân, vậy mà lại nói là nhận được sự tố cáo của y rồi mới điều tra, lần này dù y có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng chẳng rửa được hết tội rồi.

Tất Xuân vừa kinh hãi vừa tức giận nói:
- Đại nhân cớ gì lại nói như vậy? Hạ quan một lòng trung với triều đình, đây rõ ràng… rõ ràng là Đinh Lâm và hạ quan bất hòa, cố ý trả thù, ngậm máu phun người. Đại nhân chớ nên nghe lời nói từ một phía của y!

Đinh Lâm nghe thế cũng chỉ đành hạ quyết tâm, nhảy ra nói:
- Tất đô ti, ngài đã từng làm những chuyện gì thì tự ngài rõ, việc ngài và Lục phó sứ đồng lõa với nhau tham ô quân lương chẳng phải là sự thực sao? Quân lương theo luật thì phải do vị quan thiêm sự ta quản lý, ngài dựa vào cái gì mà một tay nắm hết chứ? Khi ngài đi lên phía bắc thì quyền quản lý lại được giao cho gã họ Lục, sợ ta dính dáng vào…

Dương Lăng khoát tay ra hiệu cho y dừng lại, nói:
- Bản quan được nhiên sẽ không nghe lời từ một phía mà trị tội ai cả, ngươi muốn có chứng cứ sao?

Y vươn người đứng dậy, nói:
- Người đâu, đưa chứng cứ vào đây!

Lập tức có bốn viên nha sai bước vào trong lều, hai người bưng theo một chồng công văn rất dày, hai người còn lại thì khiêng một cái rương lớn, Dương Lăng chỉ tay vào một cuốn sổ nói:
- Đây là sổ ghi chép danh sách quan binh, bên trên ghi nhân số là 6539 người. Bây giờ bản quan sẽ kiểm tra thử, nếu nhân số không chênh lệch quá một trăm người, bản quan sẽ không tính là ngươi ghi khống để cắt xén quân lương.

Tất Xuân nghe xong lập tức mặt vàng như đất, chênh lệch một trăm người? Chuyện đùa, ngàn người còn là ít ấy chứ! Triều đình chính là dựa vào số lượng này để phát quân lương, Dương Lăng làm sao mà biết được? Làm sao lại có vẻ chắc chắn như thế?... Nhất định là tên cẩu tặc Đinh Lâm kia mật báo rồi! Vừa nghĩ hắn vừa hằn học trừng mắt nhìn Đinh Lâm một cái, dáng vẻ tựa như thể chỉ muốn xông lên cắn chết đối phương ngay.

Dương Lăng lại chỉ tay vào một cuốn sổ khác nói:
- Trong quân mỗi một binh sỹ được giao cho một suất ruộng, do quan phủ cung cấp trâu cày, nông cụ và hạt giống, đồng thời trưng thu lương thực theo từng suất, đây là chế độ đồn điền vệ sở. Hiện giờ phần lớn đất đai đều đã bị đám tướng tá cao cấp các ngươi phân chia, chỉ có một số đất cằn cỗi hoang vu là được giao vào tay binh sỹ, các ngươi cưỡng ép tước đoạt như thế, khiến các binh sỹ khó mà sống nổi nên không thể không đào ngũ, lưu lạc tha hương, đây cũng là Đinh tướng quân vu cáo sao? Có cần bản quan phải lần lượt chỉ ra từng chứng cứ không?

Tất Xuân sắc mặt trắng bệch, hai tay run rẩy, khí chất vững vàng đúng mực vốn có đã biến mất hoàn toàn. Dương Lăng thở dài khoát tay một cái, hai nha sai bưng công văn sổ sách liền đứng qua hai bên phải trái, hai nha sai phía sau thì đặt chiếc rương xuống đất, lấy ra một tấm lá chắn, tấm lá chắn đó vốn được làm bằng gỗ cứng rồi bọc sắt bên ngoài, nhưng hiện giờ nhìn mặt ngoài của nó đã rỉ sét, màu sắc thì cũ kỹ, bên trên còn hơi ẩm ướt và có rêu xanh, chẳng biết là đã bao lâu chưa được quét sơn và bão dưỡng rồi. Hai người giống như biểu diễn, một người cầm lá chắn, người kia rút thanh đao bên hông ra, một người chém một người đỡ, đao vừa chém xuống lá chắn liền vỡ tan, hệt như cắt rau vậy.

May mà hai người đã sớm có chuẩn bị, lực dùng đao vừa phải, lá chắn vừa bị chém vỡ là người cầm lá chắn liền thu tay lại ngay, sau đó lại thuận tay lấy từ trong chiếc rương ra một quả địa lôi. Dương Lăng cười lạnh nói:
- Hỏa khí trong quân nhất định phải bảo dưỡng hợp lý, ngươi đem bạc mà triều đình phát cho để duy tu xây dựng phòng chứa hỏa khí đi đâu rồi? Trong mười quả Thần Nha Hỏa Lôi này liệu có tới hai quả có thể nổ được không?

Tất Xuân ngẩng đầu lên trời thở dài một tiếng, nhắm hai mắt lại chẳng nói năng gì, Lục phó sứ tựa như con gà trống bị cắt tiết, ú ớ chẳng biết phải nói gì, sau đó đột nhiên quỳ đánh bộp một cái xuống đất, run rẩy chẳng nói lên lời.

Dương Lăng thở dài một tiếng, ngoảnh đầu lại bảo:
- Ngoài đội thân binh của ngươi, cánh quân này của Đại Minh ta có khác gì với một đám ăn mày chứ? Càng đừng nhắc đến ngươi… Ngươi khi đối địch với lũ giặc lùn thì còn đục nước béo cò… có vô số hành vi táng tận lương tâm!

Y khoát tay một cái, lập tức có bốn nha sai xông vào, ấn Tất Xuân và Lục Quý Vân xuống đất, trói thật chặt rồi lôi ra bên ngoài. Trong lều lúc này vô cùng tĩnh lặng, một số tướng lĩnh có chia phần trong việc này thì đều run lẩy bẩy, sắc mặt trắng bệch.

Sắc mặt Dương Lăng hòa hoãn hơn một chút, nói với chúng tướng:
- Ta biết các ngươi ít nhiều đều có chút hành vi phi pháp, có điều phần lớn là tình thế bức ép, sợ quan trên ghét bỏ nên không thể không vào hùa theo. Hiện giờ bản quan đã trừ bỏ kẻ thủ ác, những người bị bức ép phạm pháp bản quan cũng không truy cứu nữa.

Hơn hai mươi tướng tá nghe vậy đều mừng rỡ vô cùng, lập tức quỳ cả xuống đất, dập đầu tạ ơn:
- Bọn mạt tướng xin cảm tạ Dương đại nhân đã khai ân!

Dương Lăng khẽ mỉm cười, đưa mắt nhìn Đinh thiêm sự nói:
- Đinh tướng quân!

Đinh Lâm thân hình chấn động, vội bước ra nói:
- Có mạt tướng!

Dương Lăng nói:
- Trong quân không thể một ngày không có tướng, hiện giờ trong vệ sở Long Sơn phẩm hàm của ngươi là cao nhất, nhiệm vụ nặng nề này ngươi hãy tạm thời đảm nhận đi, đợi sau này trong kinh có thánh dụ ban xuống thì sẽ trở về chức cũ.

Đinh Lâm mừng rỡ vô cùng, vội quỳ xuống nói:
- Mạt tướng tuân lệnh!

Dương Lăng gật gật đầu, đưa ngón tay ra nói:
- Đại tội của Tất Xuân chính là đại công của ngươi. Hắn cắt xén quân lương, báo sai quân số, cưỡng chiếm đồn điền, để khí giới tổn hại, ngươi biết nên làm thế nào rồi chứ?

Đinh Lâm hơi ngẩn ra, ngẩng đầu lên nhìn thấy ánh mắt sắc bén của Dương Lăng, trong lòng không khỏi run lên, vội trả lời:
- Mạt tướng hiểu, mạt tướng sẽ lập tức đem quân lương bị cắt xén phát cho sỹ tốt, đo đạc lại đồn điền lần lượt trả về cố chủ, sau đó điểm lại nhân số báo cho ty đô chỉ huy sứ, chỉnh đốn lại tác phong quân đội, đồng thời cho duy tu sửa chữa các loại khí giới…

Dương Lăng tựa cười mà chẳng phải cười nói:
- Rất tốt, sau này bản quan sẽ phái người trở lại xem ngươi làm thế nào. Nếu có người dám cản trở hay gây khó dễ, bản quan nhất định sẽ làm chủ cho ngươi. Nhưng chỉ làm những chuyện này thôi vẫn chưa đủ, ngươi còn phải cầm quân cho tốt, khi giặc lùn tới thì có thể đại chiến một phen, đuổi bọn chúng trở về biển cả làm tôm cá. Đừng học theo Tất Xuân chỉ biết đi theo sau đít người ta mong nhặt lấy chút tài vật do đối phương vứt lại, đó đều là mồ hôi nước mắt, là nguồn sống của trăm họ, làm thế thật thất đức lắm!

Đinh Lâm và hơn hai chục viên tướng tá phía dưới đều mặt mũi đỏ bừng, mồ hôi tuôn ra cuồn cuộn nói:
- Vâng vâng vâng, mạt tướng tuân lệnh!

Dương Lăng đứng dậy nói:
- Đinh tướng quân, ngươi hãy ước thúc quân đội của mình cho tốt. Được rồi, bản quan phải lập tức đưa phạm nhân về thành.
Trước khi quyết định ra tay Dương Lăng đã phái người đi thương nghị với Đinh Lâm, chỉ cần Tất Xuân và Lục Quý Vân bị bắt thì trong tình huống như rắn không đầu, cho dù thân quân của Tất Xuân nhất thời không phục thì cũng không có dũng khí công khai phản kháng, huống chi Đinh Lâm ít nhiều cũng có một số thân tín, y tự tin rằng mình có thể giải quyết ổn thỏa chuyện này.

Dương Lăng cũng từng nghĩ đến việc điều quân ở Long Sơn vệ đi tiễu trừ Viên Hùng, nhưng nếu bây giờ sử dụng đến đội quan binh vốn lòng quân chưa vững này, trong loạn quân liệu thân tín của Tất Xuân có ngầm giở trò hay không thật sự là khó nói, do đó để cho an toàn, Dương Lăng quyết định chỉ cần Long Sơn vệ có thể giữ được sự ổn định là đã tốt lắm rồi, không dám hy vọng rằng bọn họ có thể có tác dụng gì khác cả.

Các tướng tá của Long Sơn vệ vội vàng lùi qua hai bên, bốn mươi nha sai bảo vệ Dương Lăng ở giữa nối đuôi nhau bước ra ngoài. Chỉ thấy hai người bạn cũ là Quan Thụ Anh và Trịnh Đại Bằng đang ngẩn ngơ đứng ngay ngoài cửa, trên hai chiếc xe tù tạm thời được trưng dụng là Tất Xuân và Lý Quý Xuân bị trói nghiến vào, vẻ mặt mịt mờ khôn tả, nhìn thấy Dương Lăng bước ra mới chợt cúi đầu xuống hằn học trừng mắt nhìn y, ánh mắt như thể muốn ăn tươi nuốt sống y vậy. Dương Lăng ngày trước từng xưng huynh gọi đệ với Quan Thụ Anh và Trịnh Đại Bằng, giờ đây thấy bộ dạng bọn họ như thế, trong lòng có chút bất nhẫn, do đó mới dừng chân lại, nhưng cũng không tới nói chuyện với bọn họ, chỉ nhỏ giọng bảo Đinh Lâm vốn đi ra theo sau mình:
- Trong vệ sở Long Sơn sức chiến đấu của đội thân quân của Tất Xuân là mạnh nhất, nên vỗ về chứ không nên đàn áp, đừng làm khó bọn họ quá, nên dùng ân đức để thu phục lòng người, bọn họ nhất định sẽ trở thành cánh tay đắc lực cho ngươi.

Đinh Lâm nào dám không theo, vội vàng lên tiếng:
- Vâng vâng, đại nhân yên tâm, lòng dạ hạ quan tuy không so được với đại nhân, nhưng cũng không đến nỗi không chứa nổi mấy tên thân binh, quyết sẽ không làm khó bọn họ.

Dương Lăng gật gật đầu, chậm rãi rời khỏi trung quân, Mẫn Văn Kiến và Trịnh bách hộ dẫn ba trăm sỹ tốt đi theo sau, bên cạnh những ngôi lều ở hai bên, binh sỹ của Chủng thiên tổng vẫn cầm đao cầm thương cẩn thận phòng bị. Đúng vào lúc này trong một ngôi lều ở phía xa có người hô lớn:
- Ta muốn gặp khâm sai đại nhân, ta muốn gặp khâm sai đại nhân.

Dương Lăng ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy trong một ngôi lều có một người binh sỹ chạy ra, vệ quân Hải Ninh đã ngăn y lại, mấy binh sỹ nóng tính còn đá y ngã lăn ra đất, sau đó đấm đá một trận. Không khí xung quanh lập tức trở nên náo động, thân quân dưới trướng Dương Lăng đều cẩn thận đề phòng, những binh sỹ có nỏ liên châu trong tay đều đã giơ cây nỏ lên ngang người, hướng đầu mũi tên về phía trước.

Dương Lăng lạnh lùng bảo:
- Chẳng qua chỉ là một người, còn sợ y làm phản chắc? Đưa y tới đây!

Tuy bị vệ quân Hải Ninh đánh cho một trận, nhưng người đó không dám phản kháng, sợ bị người ta hiểu lầm là thích khách mà giết chết, chỉ đành ôm đầu bảo vệ chỗ yếu hại, lớn tiếng kêu lên:
- Ta và đại nhân vốn có giao tình, chớ có đánh ta!

Nghe thấy thân quân của Dương Lăng lớn tiếng quát, đám lính Hải Ninh đó mới chịu dừng tay nhấc người kia lên, bẻ quặt tay y ra phía sau mang lại gần. Dương Lăng vừa nhìn thấy người đó, tuy mặt mũi đã sưng vù nhưng vẫn có thể nhận ra là Mã Ngang, không khỏi cả kinh. Y phải lo nghĩ việc bắt giữ Tất Xuân, Viên Hùng, bố trí người ngầm quan sát Mạc Thanh Hà, có nhiều việc phải quan tâm, không ngờ lại quên mất việc Mã Ngang đang ở trong quân của Tất Xuân.

Dương Lăng vội vàng bước lên hai bước, ra lệnh:
- Mau thả y ra! - Dứt lời liền đi tới nắm lấy tay Mã Ngang, nhìn khắp trên dưới bảo - Mã huynh, quả nhiên là huynh.

Mã Ngang vừa bị đánh cho một trận, nhưng thấy Dương Lăng đối với mình cực kỳ thân thiết, trong cơn mừng rỡ không khỏi quên hết nỗi đau đớn trên người, vội cười bồi nói:
- Khâm sai đại nhân, ta… tiểu nhân…

Dương Lăng vội cất tiếng:
- Mã huynh chớ nên nói như vậy, chúng ta quen biết đã lâu, xưa nay vốn xưng huynh gọi đệ, bây giờ huynh xưng hô như thế thật khiến tiểu đệ áy náy lắm!

Mã Ngang nghe y nói như vậy, lập tức mừng rỡ vô cùng. Xem ra Dương Lăng vẫn chưa quên em gái mình, bây giờ em rể mình đã là xưởng đốc Nội xưởng rồi, hà hà, lần này thì đúng là một bước lên trời.

Thì ra sau lần Mã Liên Nhi đắc tội với Tất Xuân, việc nạp thiếp không thành, Tất Xuân liền không thèm gặp y nữa. Y vốn là thân binh đắc sủng nhất, hơn nữa còn đã được thăng làm thập trưởng nhưng sau đó lại bị Tất Xuân tìm cớ giáng xuống làm tốt đen, cuối cùng thì bị đuổi đi nuôi ngựa.

Trở thành một binh sỹ nhỏ nhoi, lại rời xa tầm mắt của Tất Xuân, Tất Xuân cũng chưa từng làm khó gì y cả. Nhưng y vốn tâm cao khí ngạo, lại từng đọc qua thi thư, có một thân võ nghệ vậy mà giờ phải ở cùng với mười mấy người nuôi ngựa vốn chẳng biết chữ nhất bẻ đôi, suốt ngày bị người ta sai đi gọi lại, cuộc sống thật chẳng dễ chịu chút nào. Về sau dần dà nghe kể Dương Lăng ở kinh sư thăng quan tiến chức vùn vụt, Mã Ngang vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, em gái nhà mình quả nhiên là biết nhìn người, Dương Lăng này thật chẳng phải vật trong ao. Vốn dĩ y cảm thấy em gái mình tướng mạo tài năng đều thuộc vào hàng tuyệt phẩm, làm thiếp cho một tên dịch thừa không những thiệt thòi cho em gái mình mà hơn nữa còn làm mất hết mặt mũi của nhà họ Mã, nhưng bây giờ thì lại suốt ngày lo lắng thiệt hơn, sợ Dương Lăng sau khi vào kinh trở thành nhân vật ở trên muôn người, tầm mắt cũng cao hơn, sẽ không còn thích em gái mình nữa. Y vốn dự định đợi khi Dương Lăng đến tuần tra thì sẽ xin cầu kiến, thử thăm dò xem ý tứ Dương Lăng thế nào.

Nhưng hôm nay Dương Lăng không ngờ lại đột ngột xuất binh, sau khi khống chế xong Long Vệ quân mới vào trong lều soái, y cứ một mực chờ đợi cho tới bây giờ nhưng lại thấy Tất Xuân và phó chỉ huy sứ Lục đại nhân bị trói vứt trên xe, Dương Lăng thì chuẩn bị rời đi rồi. Mã Ngang sợ bỏ lỡ lần này thì sẽ không còn cơ hội gặp lại Dương Lăng nữa, bèn dứt khoát kêu lớn mà xông tới. Dương Lăng thấy làn da màu đồng cổ của Mã Ngang trở nên càng đậm hơn, nhưng khí thế hiên ngang ngày trước thì đã biến mất hoàn toàn, quần áo… cũng quả thực có chút mộc mạc, không kìm được ngạc nhiên hỏi:
- Mã huynh, không phải huynh được làm thân binh ở trong quân sao? Thế này là…?

Đinh Lâm thấy một tên tiểu tốt trong quân của mình không ngờ lại quen biết khâm sai đại nhân, trong lòng kinh ngạc vô cùng, nhưng Mã Ngang vừa mới vào Long Sơn vệ đã là phu nuôi ngựa, y căn bản chưa từng gặp bao giờ, cũng chẳng thể gọi ra tên nên không khỏi tò mò nhìn ngắm hai người.

Mã Ngang thấy chỉ huy thiêm sự Đinh Lâm cung kính đứng sau lưng Dương Lăng mà vị đại nhân bên cạnh kia bản thân cũng nhận ra được, không ngờ lại là Kê Minh huyện lệnh Mẫn đại nhân khi xưa, bèn thừa cơ lớn tiếng nói:
- Đại nhân, từ sau khi xá muội ngầm tự định chung thân với ngài, Tất Xuân trút giận sang ta, còn chưa tới Long Sơn vệ đã giáng ta xuống làm phu nuôi ngựa và làm nhục đủ điều. Hôm nay được gặp ngài ở đây, ta rốt cuộc cũng có lối thoát rồi, xá muội từ sau khi từ biệt đại nhân đến bây giờ vẫn đang ở nhà cũ tại Kim Lăng chờ đợi ngài…

Dương Lăng không khỏi đỏ bừng mặt, vội vàng ngắt lời y lại, nói:
- Mã huynh, Mã huynh, hiện giờ Tất Xuân đã bị bắt, chẳng bao lâu sau sẽ bị ta áp giải về kinh, Đinh tướng quân đã tạm thay chức chỉ huy sứ, ta nghĩ Đinh tướng quân nhất định sẽ không bạc đãi huynh đâu.

Đinh Lâm nghe nói đây là anh vợ của khâm sai đại nhân, lập tức nở nụ cười tươi rói, vội vàng nói:
- Chính thế, chính thế, mạt tướng đang thiếu một vị thân quân đội trưởng, còn chưa tìm được người nào thích hợp, nếu…
Mã Ngang nghe thế thì có chút sốt ruột, Dương Lăng và Tất Xuân không giống nhau, nước lên thì thuyền lên theo, đường đường là xưởng đốc Nội xưởng sao có thể để anh vợ làm một thân quân đội trưởng nhỏ nhoi ở vệ sở chứ? Y bèn vội nói:
- Đại nhân, nghe nói Nội xưởng vừa mới thành lập còn đang thiếu người, hiện giờ chiến sự ở biên cương phía nam cực ít, dốc sức trong quân chẳng bằng…

Mẫn đại nhân vội ngăn lời y lại, nói:
- Đại nhân, diêm binh hiện giờ tổn thất nặng nề, ba bả tổng dưới trướng ta chỉ còn lại một, đang rất thiếu người. Mã Ngang văn võ kiêm toàn mà ta cũng hiểu khá rõ về y, chi bằng xin đại nhân hãy giúp cho một chút để Mã Ngang tới dưới trướng của ta được chăng?

Dứt lời ông ta bèn bước lên phía trước, kéo tay Mã Ngang cười bảo:
- Lâu ngày không gặp hiền điệt, trông ngươi lại càng cường tráng hơn nhiều rồi - Kế đó lại kề sát đến bên tai y nhỏ giọng bảo - Đồ ngốc, ở trước mặt bao nhiêu người như thế ngươi bảo đại nhân làm sao có thể làm việc theo tình riêng được chứ? Trước tiên hãy tới trong quân của ta, chỉ cần lệnh muội không chạy ra khỏi cửa nhà họ Dương thì ngươi còn phải lo cái gì chứ?

Mã Ngang ngẩn ra, tới lúc này mới phát giác mình đã quá nôn nóng, y vừa chỉ rõ thân phận của Dương Lăng ra rồi, lại kêu Dương Lăng thu vén cho mình ở ngay trước mặt mọi người quả thực là không thích hợp, bèn vội ngậm miệng lại.

Dương Lăng thở phào một hơi, quay sang phía Đinh Lâm bảo:
- Mã Ngang là người quen của ta, y văn võ toàn tài, làm một mã phu quả không thích hợp, Mẫn đại nhân dốc sức cho triều đình mấy lần giết địch, trước mắt nhân mã đã tổn thất quá nửa, sỹ tốt thì dễ kiếm nhưng tướng tá khó tìm, Đinh tướng quân có bằng lòng buông người không?

Đừng nói là chỉ một Mã Ngang, cho dù có mang hết người hết ngựa đi Đinh Lâm cũng không dám không đồng ý, y liền vội vàng nói:
- Tất nhiên tất nhiên, vậy thì… Mã huynh đệ xin hãy theo Mẫn đại nhân tới Hải Ninh trước đi, thủ tục điều động hạ quan sẽ làm sau!

Mã Ngang có một thân võ nghệ, văn tài cũng tạm ổn nhưng bây giờ còn chưa chính thức nhậm chức, diêm binh cũng chẳng nhận ra y nên Dương Lăng không tiện để y tham ra vào việc bắt giữ Viên Hùng, bèn phái ra ba mươi quan binh vệ sở để y thống lĩnh, lệnh cho áp giải hai chiếc xe tù chậm rãi đi ở phía sau, còn bản thân thì dẫn theo đại đội nhân mã tiến nhanh về phía nha môn thuế quan.

Lúc này trời đã sáng rõ, ánh dương rạng rỡ vô cùng. Gần ngàn quan binh được điều động đã chẳng thể giấu được tai mắt người ta, bọn họ chỉ đành tiến thật nhanh hầu đạt được hiệu quả xuất kỳ bất ý.

Nha môn thuế quan của Viên Hùng cách Long Sơn vệ không xa, rời khỏi thung lũng đi qua trấn Phong Diệp chừng mười dặm về phía bên trái sẽ tới một nơi có tên là bến Lạc Nhạn, rộng chừng mấy chục dặm. Nơi này vốn chỉ có một bến đò, phía trước là hồ nước mặn, trong hồ có vô số hòn đảo, nước hồ thông thẳng tới biển rộng.

Viên Hùng đã xây dựng nha môn thuế quan ở trên bến Lạc Nhạn này, hiện giờ đám tay chân đi theo hắn càng lúc càng đông, xung quanh nha môn không ngừng được xây dựng thêm phòng ốc, đã dần dần hình thành một thôn trấn độc lập. Ngoài một con đường lớn ra, xung quanh toàn là những cây lau sậy cao đến đầu người. Viên Hùng bỏ thành trì không ở, chạy đến nơi này tự lập làm vương, thật cũng tiêu dao tự tại.

Đại quân vừa mới tiếp cận bến Lạc Nhạn lập tức tỏa ra theo hình cánh quạt rồi tiếp tục tiến đến gần nha môn thuế quan, đội ngũ cầm cung nỏ đi đầu, những người cầm đao thương đi sau. Bãi lau sậy này có diện tích cực lớn, từ xa nhìn lại rậm rạp như rừng, gần ngàn binh sỹ tỏa ra lập tức mất hết tung tích.

Bốn phía xung quanh nha môn thuế quan đều là lau sậy, nhưng lại có ba mặt giáp với đất liền, mặt còn lại thì chính là bến đò xuyên qua giữa bãi lau sậy. Dương Lăng sớm đã phái năm mươi nha sai cưỡi khoái mã tiến thẳng đến bên đò, mục đích chỉ có một, đó là phá hỏng tàu thuyền, như vậy cho dù Viên Hùng có ý chạy trốn thì cũng không thể dùng đường thủy nữa.

Dương Lăng dẫn theo mấy chục thân binh đi giữa bãi lau sậy, mùi thơm nhàn nhạt như mùi bánh theo làn gió ẩm ướt bay tới, khiến người ta đắm say.

Trong bãi lau sậy thỉnh thoảng cũng có dòng sông, nước sông rất nông, khi đại quân đi qua thỉnh thoảng lại làm lũ vịt trời, cò trắng sợ hãi bay vụt cả lên trời, còn có mấy con thỏ hoang, cáo chạy loạn khắp nơi, nhìn rất thú vị. Nhưng mọi binh sỹ đều biết rằng nha môn thuế quan có binh lực gấp đôi bản thân, ai nấy đều rất cẩn thận, do đó cũng chẳng có người nào còn tâm trạng mà ngắm nhìn.

Dương Lăng từng nghĩ đến việc bày tiệc rượu mời khách, giải quyết Viên Hùng mà không phải đổ máu chút nào, nhưng từ sau khi nảy lòng đề phòng với Mạc Thanh Hà thì chủ ý này liền bị bỏ qua. Y quả thực không thể nhìn thấu tâm tư của người này, nếu bản thân mà bày tiệc trong Mạc phủ thì Mạc Thanh Hà là nhân vật nhất định phải mời. Nếu chuyện này bị hắn phát giác mà hắn lại có quan hệ với Viên Hùng, thì chuyện nhất định sẽ thất bại, cho dù có bắt người thành công chỉ e hắn cũng sẽ phái người đi thông báo cho Tất Xuân, vậy là để lọt mất một nhân vật quan trọng rồi, còn nếu muốn đồng thời mời cả Viên Hùng và Tất Xuân thì lại không có cái cớ nào thích hợp.

Nếu xua quân tiến thẳng vào đại doanh của Viên Hùng, hắn nghe theo chỉ ý không phản kháng thì còn đỡ, nhưng nếu phản kháng mà người của bản thân bị bao vây hết trong đó thì khi ấy ai thắng ai bại thật là khó nói.

Do đó Dương Lăng quyết định lặng lẽ chỉ huy đại quân bao vây nha môn thuế quan, đám tay sai kia thường ngày phụ trách thu thuế, truy bắt những thương nhân bỏ trốn, trong tay có đao có thương nhưng không có cung tên, bao vây bọn chúng từ bên ngoài, có tên sắc trong tay, tuy người của đối phương nhiều, nhưng phần thắng ít nhất cũng đạt bảy thành trở lên.

Đại quân chậm rãi áp sát, từ xa đã có thể nhìn thấy nóc phòng của nha môn thuế quan, đúng vào lúc này chợt nghe có người quát lớn:
- Kẻ nào? Đứng lại cho ta, không được đến gần!

Dương Lăng nghe vậy thì ngẩn ra, lập tức nghĩ thầm:
- Chẳng lẽ tin tức đã bị tiết lộ rồi? Nếu không ty thuế quan sao lại đặt trạm gác bên trong bãi lau sậy này như thế chứ?

Y khoát tay một cái, thấp giọng bảo:
- Mau tăng tốc độ, tiêu diệt trạm gác kia!”

Đội nhân mã dàn hàng chữ nhất tăng nhanh tốc độ xông thẳng về phía trước, đúng vào lúc này chợt nghe “bùm” một tiếng vang lên, trong bụi lau sậy truyền ra âm thanh như tiếng chổi quét nhà, ngay sau đó lại có người kêu lên:
- Ôi chao, bọn chúng có súng, ta bị bắn trúng rồi.

Liễu Bưu kinh hãi đẩy Dương Lăng xuống đất, cao giọng hô lên:
- Nằm xuống, nằm xuống hết cho ta, bọn chúng sẽ không nhìn thấy chúng ta, cứ bò về phía trước, phải xông ra khỏi bãi lau sậy ngay rồi sau đó lập tức dùng cung tên hầu hạ bọn chúng!

Nghe thấy tiếng súng thì nằm sấp xuống đất, bò về phía trước chính là thủ đoạn phòng thủ mà khi ở trong quân Dương Lăng đã dạy cho y, lúc này vừa hay có thể dùng. Dương Lăng vừa kinh hãi vừa tức giận, lúc này đại quân chỉ cần xông về phía trước thêm hai trăm mét nữa là tới được nha môn thuế quan rồi.

Xung quanh nơi đó có hơn trăm mét được chặt sạch để làm dải đất trống phòng lửa, chính là tầm bắn hữu hiệu của cung tên. Chỉ cần đại quân bao vây được nơi đó, Viên Hùng chỉ còn nước bỏ tay chờ chết, vậy mà lúc này lại thất bại trong gang tấc, hắn rốt cuộc đã nghe được tin tức từ đâu đây? Không ngờ lại có sẵn an bài thế này. Trời ạ, nếu hắn đã sớm có chuẩn bị, vậy… đội quân tinh nhuệ được phái tới bến đò liệu còn có hiệu quả của kỳ binh không?

Vừa nghĩ như vậy, Dương Lăng lập tức lo lắng đến toát mồ hôi hột, nếu không phải có Liễu Bưu đang ra sức đè y, y đã lập tức nhảy ra ngay rồi. Thực ra Viên Hùng cũng chẳng phát giác ra được hành tung của y, chuyện này chỉ là trùng hợp ngãu nhiên, người cầm súng kia là một tay thuế quan đắc lực dưới trướng Viên Hùng, hắn ta dẫn theo mấy tên thân tín đi săn vịt hoang trong bãi lau sậy.

Không ngờ vừa mới đi được không xa, hắn đã nhìn thấy vịt hoang, cò trắng bốn phía bay lên tới tấp, dưới chân thì có thỏ hoang và cáo sợ hãi chạy tán loạn, nhìn thấy người liền hoang mang chạy qua hướng khác. Vị thuế quan này không phải kẻ ngốc, lập tức đoán được có người đang lén đến gần, hơn nữa nhìn thanh thế này còn không chỉ có một người, không kìm được kinh hãi bèn lớn tiếng hô lên.

Có một số binh sỹ dễ kích động thấy kẻ địch bắn súng thì lập tức bắt đầu bắn tên bừa bãi, những mũi tên ấy tuy không bắn trúng được tay thuế quan kia, nhưng lại dọa cho hắn sợ gần chết.

Súng của ty thuế quan không nhiều, tổng cộng chỉ có không quá năm mươi cây, mấy tên thủ hạ mà hắn mang theo có ba cây súng, lập tức bắn khắp bốn phía, ngăn cản người trong bãi lau sậy tiến về phía trước. Người của Dương Lăng ở trong bãi lau sậy chẳng nhìn thấy gì, đặc biệt là phần lớn quan binh đều không phải là quan binh của Thần Cơ doanh vốn đã được trải qua sự huấn luyện của Dương Lăng, nghe thấy tiếng súng bèn lập tức ngồi xổm xuống đất không dám tiến đi nữa.

Trong tình cảnh địch ta đều chẳng thể thấy nhau thế này, không có biện pháp bảo vệ nào hữu hiệu nên Liễu Bưu tuyệt đối không dám để Dương Lăng mạo hiểm. Dương Lăng hết cách, chỉ đành ra lệnh cho quan binh hô vang rằng khâm sai phụng chỉ đến bắt người, chỉ bắt kẻ thủ ác là Viên Hùng, những người khác không được phản kháng.

Tay thuế quan đó vội vã phái người trở lại nha môn, đem chuyện này bẩm báo cho Viên Hùng. Viên Hùng dẫn người xông ra, nghe nói là khâm sai đại nhân thì sắc mặt không khỏi biến đổi hẳn. Có người đưa lên một mũi tên được bắn ra từ trong bụi lau sậy, Viên Hùng vừa nhìn, quả nhiên là tên dùng trong quân, sắc mặt lại càng tái hơn. Hắn từng làm bao nhiêu chuyện ác trong lòng đương nhiên biết rõ, thấy Dương Lăng dùng đến quân đội lặng lẽ tiến đến đây, nhất định là đã có chứng cứ xác thực, bản thân dựa vào cái gì mà chống lại khâm sai cùng với quân đội chứ?

Viên Hùng sắc mặt trắng bệch, hồi lâu sau mới run rẩy ra lệnh:
- Đừng… Đừng bắn súng làm đối phương bị thương, đón khâm sai ra đây, ta muốn hỏi khâm sai đại nhân xem y dựa vào cái gì mà bắt người?

Trong lòng hắn còn ảo tưởng rằng có thể mua chuộc Dương Lăng, cứ tặng tiền tài và mỹ nữ nhiều một chút, chỉ cần khâm sai chịu buông tay vậy là chẳng phải mọi chuyện đều ổn sao?

Một gã thuế quan thân tín bên cạnh nghe vậy thì lo lắng vô cùng. Kẻ này có họ kép là Đông Phương, vốn là tam công tử của Đông Phương viên ngoại ở Tang Mộc trang bên bờ Thái Hồ, bởi vì thông gian với đại tẩu bị huynh trưởng phát hiện liền dứt khoát giết chết huynh trưởng rồi chạy đến Thái Hồ làm cướp. Hắn từng đọc sách lại có tâm kế, rất nhanh đã leo lên được chức đầu lĩnh.

Về sau vì quan binh càn quét quá dữ, hắn chẳng còn cách nào chỉ đành đi theo Viên Hùng. Người này hung tàn thành tính, ép người ta nộp thuế cực giỏi, rất được Viên Hùng tin tưởng. Cái gã cường đạo có giấy phép này hiện giờ sống rất ổn, bất luận là làm bao nhiêu chuyện ác thì quan phủ đều không dám bắt hắn, ngay đến nha sai nhìn thấy hắn cũng đều phải cung kính gọi một tiếng Đông Phương tam thiếu gia.

Ở nơi này không những kiếm được nhiều bạc hơn khi làm cướp, hơn nữa một số người nợ tiền thuế quá nhiều bị hắn bức ép cho chẳng còn cách nào chỉ đành đưa vợ và con gái tới cho hắn làm nhục, hiện giờ trong nhà hắn còn có một thiếu phụ khá có nhan sắc đã bị hắn giam giữ chơi đùa nhiều ngày, cuộc sống thế này cho dù đổi làm thần tiên hắn cũng chẳng chịu.

Cái tay khâm sai chó má gì đó mang người tới mà chẳng thông báo trước, lén lút mò đến cửa, trong giới thủy tặc ở Thái Hồ loại hành vi này rõ ràng là đã trở mặt ngươi chết ta sống, sao có thể cho đối thủ có cơ hội trở mình? Nếu bây giờ mà chịu nhận thua, Viên Hùng bị bắt thì bản thân coi như là chẳng còn gì.

Hắn lập tức kêu lên:
- Viên gia, ngàn vạn lần không được! Cái tên khâm sai gì đó lén lút mang người đến đây, hiển nhiên là chẳng có ý đồ gì tốt đẹp, thù này coi như đã kết rồi, nếu Viên gia mà chịu nhận thua thì chắc chắn sẽ trở thành cá thịt trên thớt của hắn thôi.

Đừng thấy thường ngày Viên Hùng diễu võ dương oai, trông ghê gớm vô cùng nhưng thực ra tâm kế và bản lĩnh so với rất nhiều tên tay sai vẫn còn kém xa, nghe vậy lập tức thẫn thờ nói:
- Nhưng… Nhưng y là khâm sai, hiện giờ y mang quân đến bắt ta, ta còn có thể làm gì được chứ?

Đông Phương tam thiếu gia cười gằn một tiếng, nói:
- Viên gia, hắn nói hắn là khâm sai, ai nhìn thấy chứ? Chúng ta chỉ nhìn thấy có một đám thủy tặc định tới đánh cướp nha môn thuế quan, chỉ cần giết sạch bọn chúng, hà hà, không phải Viên gia đã nói các công công ở kinh sư rất bất mãn với hắn sao? Đến lúc đó tặng cho các vị ấy một chút bạc, chúng ta lại đã giúp họ trừ một mối họa lớn, bọn họ lại chẳng bảo vệ cho chúng ta ư?

"Giết khâm sai?" Viên Hùng sợ đến giật nảy mình, việc này và giết quan tạo phản thì có gì khác biệt? Nhưng Đông Phương tam thiếu gia nói vậy cũng có đạo lý. Hắn tỉ mỉ suy nghĩ hồi lâu, ánh mắt dần hiện nét hung tàn. Đúng thế, các công công ở ty Lễ Giám coi gã họ Dương như cái gai trong mắt, căn cơ của hắn trong triều đình còn nông, chỉ cần giết chết hắn, có ty Lễ Giám và Đông xưởng chống lưng, thìcho dù là Hoàng Thượng đi chăng nữa cũng chẳng lẽ lại chịu vì một người đã chết mà trở mặt với tiền bạc sao?

Hắn do dự một chút rồi bảo:
- Ngươi có cách chứ? Không biết khâm sai mang bao nhiêu người tới đây, giết khâm sai là tử tội, lỡ mà không thành…

Đông Phương tam thiếu gia cười hà hà một tiếng, nói:
- Viên gia yên tâm, đây là bọn chúng tự tìm đường chết, chúng ta chẳng cần phí một binh một tốt nào cả cũng có thể đưa hết bọn chúng xuống đáy hồ làm bạn với tôm cá.

Lúc này những tên tay sai cầm súng còn đang bắn bừa bãi đi khắp bốn phía, Đông Phương tam thiếu gia chỉ tay vào bãi sau lậy bảo:
- Viên gia, chúng ta hãy phóng hỏa đốt con bà nó một cái, lau sậy xung quanh chỉ cần có lửa là sẽ cháy ngay, đến lúc đó bọn chúng tuyệt đối chẳng còn đường sống!

Viên Hùng nhìn bãi lau sậy rậm rạp kia, hơi có chút do dự, Đông Phương tam thiếu gia lại nói:
- Viên gia, dạ nhỏ há phải người quân tử, không độc đâu xứng bậc trượng phu, hãy làm đi thôi!

Viên Hùng giậm chân một cái, dùng giọng the thé gào lên:
- Thủy tặc giả mạo quan binh định đánh cướp ti thuế quan, chúng bay đâu, phóng hỏa cho ta, thiêu chết cái lũ khốn kiếp ấy!

Mấy người Dương Lăng đang ở trong bụi lau sậy, chợt thấy có khói bay tới, ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy khói đã mịt mờ, kèm với đó là những tiếng nổ lốp bốp loáng thoáng vang lên ở phía trước. Liễu Bưu thất thanh kêu lên:
- Không hay, Viên Hùng phóng hỏa rồi! Đại nhân, làm thế nào đây?

Dương Lăng cũng sợ đến giật nảy mình, vừa nghe tiếng súng đã dừng lại bèn vội vàng đứng dậy, nhưng y vừa mới đứng lên lại càng bị khói hun nhiều hơn, chỉ thấy ngọn lửa ở một trăm mét phía trước đã cháy bùng lên cao tới hơn trượng, lúc này gió lại đang từ mặt hồ thổi về hướng này, ngọn lửa có thể tràn thẳng tới.

Bãi lau sậy dày đặc thế này mà bốc cháy, sức người há có thể cản nổi? Dương Lăng không ngờ việc mình lợi dụng bãi lau sậy để áp sát nha môn thuế quan lại bị người ta phát giác, kế đó Viên Hùng lại dám phóng hỏa, vội vã kêu lên:
- Mau, mau rút lui, lập tức lùi lại phía sau!

Bọn họ đã đi vào bãi lau sậy này không dưới năm dặm, đi bộ làm sao có thể thoát ra được, khi lửa còn chưa cháy tới thì khói đã tràn đến rồi, làn khói dày đặc đó có thể hun cho người ta bất tỉnh, đợi khi lửa nóng cháy đến…

Các quan binh chỉ mới chạy ra được chừng ba trăm mét, khói đã theo gió cuồn cuộn tràn đến rồi, khiến mọi người bị sặc phải ho lên sù sụ, lập tức không chạy nổi nữa. Rất nhiều người đều dừng chân lại với tâm trạng tuyệt vọng, ngay cả một người trước giờ luôn lắm mưu nhiều kế dũng mãnh không sợ chết như Liễu Bưu cũng phải dừng lại, khuôn mặt đầy vẻ thê lương.

Dương Lăng gập người ho lên liên hồi, sau đó liền cắn chặt răng, tuyệt vọng nhìn trời, trong lòng thì hối hận không thôi: Bãi lau sậy liên miên này vốn là chỗ yểm hộ tốt nhất, nhưng bây giờ lại trở thành cái lưới chết chóc không cách nào tránh khỏi, nên làm thế nào đây? Gần ngàn mạng người chẳng lẽ vì sai lầm của mình mà phải vùi thân ở đây sao? Nhưng mình đâu phải thần tiên, chẳng lẽ còn có thể thay đổi hướng gió?

Hướng gió? Hướng gió! Dương Lăng ngẩn ngơ suy nghĩ một lát, chợt kêu lớn một tiếng, khuôn mặt đầy vẻ vui mừng nhảy lên bảo:
- Tất cả mọi người nghe đây, lập tức chặt lau sậy, làm thành một dải đất trống ngăn lửa cho ta, mau lên! Hãy lấy con sông nhỏ này làm ranh giới, lập tức động thủ!

Liễu Bưu tuyệt vọng nói:
- Đại nhân, ngài không biết sự lợi hại của ngọn lửa này, cho dù có chặt ra được một dải ngăn lửa rộng mấy chục trượng thì cũng vô ích, chỉ dựa vào đám khói kia cũng đủ hun chết chúng ta rồi.

Dương Lăng cười ha hả nói:
- Gió cần phải có lửa thổi tới, không có gió thì chúng ta tất nhiên sẽ sống được. Các ngươi mau mau động thủ làm ra một dải ngăn lửa đi, càng rộng càng tốt, bản quan tự sẽ có cách mượn gió đông!

Liễu Bưu bán tín bán nghi, nhưng thấy thần sắc trấn tĩnh của Dương Lăng, lập tức bị cảm nhiễm, lòng tin cũng khôi phục lại mấy phần, nhưng dù y có tin, gần ngàn quan binh kia liệu có chịu tin không?

Liễu Bưu chợt nghĩ ra một kế, lập tức rút đao ra hướng về phía hai bên phái trái hô vang:
- Mọi người lập tức chặt lau sậy, làm ra một dải ngăn lửa, khâm sai đại nhân từng học phép mượn gió ở chỗ Trương thiên sư, nhất định sẽ cứu được mọi người.

Nếu bây giờ hạ một đạo thánh chỉ xuống nói với những quan binh này rằng họ sẽ không chết, chưa chắc đã có người chịu tin, nhưng các nha sai với quan binh này vừa nghe nói khâm sai đại nhân đã từng học phép thuật ở chỗ Trương thiên sư, có thể mượn gió cứu người, lập tức không còn hoài nghi gì nữa. Còn chẳng phải sao, mấy ngày trước khi đại chiến với giặc lùn ở Hải Ninh, khâm sai đại nhân và Trương thiên sư đã đứng sánh vai bên nhau trên đài Quan Triều, thiên sư thần thông quảng đại, nếu đã từng dạy khâm sai đại nhân pháp thuật, mượn gió há lại chẳng dễ như trở bàn tay?

Tất cả mọi người đều liều mạng chặt lau sậy, mỗi người khống chế một mảng lau sậy rộng chừng một trượng xung quanh mình, các quan binh phía trước thì ra sức chặt, quan binh phía sau ôm những cây lau sậy đã bị chặt sát gốc tới chất thành một đống.

Khi chặt ra được một dải ngăn lửa rộng chừng sáu mươi mét, khói đã càng lúc càng nồng, càng lúc càng khó chịu, chui vào mũi vào cổ họng mọi người, khiến bọn họ chẳng còn sức mà chặt lau sậy nữa.

Dương Lăng chỉ tay vào một phía có lửa cháy bảo:
- Chỉ còn thiếu một bước cuối cùng nữa thôi, đem những cây lau sậy đã bị chặt đổ chất hết qua bên này, sau đó châm lửa đốt, bản khâm sai sẽ thi triển pháp thuật ngay đây.

Các quan binh đã chẳng còn tâm trí mà suy nghĩ xem vì sao mình lại phải châm lửa, làm như thế liệu có khiến bản thân chết nhanh hơn không, bọn họ dốc hết chút sức lực cuối cùng, nheo đôi mắt đã bị khói hun cho cay sè lại, liều mạng chất lau sậy tới chỗ mà Dương Lăng chỉ, sau khi châm lửa đốt thì bèn vội vàng chạy ngược trở lại.

Cổ họng của Dương Lăng cũng đã trở nên khản đặc, y cất giọng khàn khàn hô lớn:
- Mau truyền mệnh lệnh, tất cả mọi người cứ nằm sấp xuống, dùng nước sông thấm ướt quần áo rồi đưa lên bịt mũi miệng khi lửa chưa tan thì chớ có đứng lên!

Các quan binh khi chặt lau sậy sớm đã xé rách vạt áo nhúng nước rồi bịt mũi bịt miệng rồi, lúc này lại chạy tới bên bờ sông nhúng nước lại lần nữa, sau đó nằm sấp cả xuống bên bờ sông.

Có một số quan binh không yên tâm còn gắng kìm nén nước mắt mà ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy đống lau sậy vừa bị đốt cháy lửa bốc lên cao ngút trời, làn khói nồng đậm tràn đến lại càng khiến người ta khó thở. Nhưng tình hình này chỉ kéo dài trong khoảnh khắc, sau đó ngọn lửa không còn tràn về phía bên này nữa.

Hiện giờ tuy vẫn có gió nhẹ thổi về phía quan binh nhưng khói và lửa nóng lại đã tràn về phía ngược lại, dường như hai ngọn lửa có sức hấp dẫn đối với nhau, lập tức khiến khói ở nơi này nhạt đi không ít.

Người thời đó không biết mối quan hệ giữa sự lưu động của không khí và nhiệt độ, thấy hiện tượng quái dị này thì không kìm được vừa kinh ngạc vừa tò mò. Tuy vị khâm sai đại nhân kia cũng đang dùng vải che mặt mà nằm sấp xuống bên bờ sông, căn bản không giống như đang thi triển pháp thuật nhưng tất cả mọi người đều tin rằng khâm sai đại nhân thật sự đã thi pháp cứu mình, lòng tin cũng theo đó mà tăng vọt.

Viên Hùng đứng bên ngoài ty thuế quan thấy ngọn lửa nuốt chửng tất cả đang tiến về phía trước thì không kìm được cười lên ha hả. Xung quanh nha môn của hắn tuy có dải ngăn lửa nhưng một khi cả bãi lau sậy này đều bốc cháy thì cũng không thể kháng cự được những ngọn khói nồng đậm kia, may mà xung quanh bãi Lạc Nhạn này rất hoang vu, hơn nữa cũng chưa từng xảy ra tình trạng bốn phía đều bốc cháy do đó cũng không phải lo lắng tới điều này. Hiện giờ ba mặt đã cháy cả chỉ còn lại phía bên này là nơi đầu gió, đám quan binh kia ẩn nấp trong bãi lau sậy liệu còn có thể sống được sao?

Đúng vào lúc này, những ngọn khói nồng đậm đột nhiên bay tới cuồn cuộn, dọa cho Viên Hùng sợ giật nảy mình, hắn vội vã kêu lên:
- Chuyện gì thế này? Gió đổi hướng rồi sao?

Một tên tay sai bật cao người nhảy lên, hoang mang kêu lớn:
- Hỏng rồi hỏng rồi, Viên gia, chuyện lớn không hay, phía bến đò cũng đã bốc cháy, ngọn lửa đang tràn về phía bên này.

Viên Hùng cả kinh, vội vàng ngoảnh đầu lại nhìn, còn chẳng phải sao, một ngọn lửa nóng bỏng đang từ phía bến đò tràn thẳng tới với thanh thế kinh người. Lau sậy ở phía đó mọc tại nơi bùn lầy, nước ngập quá mu bàn chân do đó rất ẩm ướt, vừa bị đốt cháy liền bốc khói lên rất nhiều khiến người ta cay xè hai mắt, lửa vẫn còn ở xa nhưng cái cảm giác nghẹt thở thì đã tràn thẳng đến rồi…


Chương 136 - Bứt Dây Động Rừng



Lửa cháy ngợp trời, khói tràn khắp đất. Khu vực này toàn là lau sậy nên tuy rằng đốt vội nhưng lửa cháy lan cũng rất nhanh. Cái nóng trên mặt đất đủ để khiến người ta rát da rát thịt, gió nhẹ thổi qua, từng mảng từng mảng khói xoay tròn giữa không trung, chui vào mũi vào mắt người ta khiến nước mắt nước mũi giàn dụa.

Năm mươi nha sai Nội xưởng chậm rãi bước đi qua những chỗ bùn lầy, lau sậy đã bị đốt sạch, bên trên mặt nước nông được bao phủ bởi một lớp tro đen. Lúc này đám lau sậy trước mặt đã bị cháy sạch, biến thành một bãi đen ngòm, phía xa xa chỉ còn mấy trăm căn nhà của nha môn thuế quan là vẫn đứng sừng sững.

Trịnh bách hộ và mấy chục viên nha sai đều dùng khăn bịt mặt để tránh khói bụi, chỉ để lộ ra đôi mắt. Tuy trong chốn bùn lầy nhưng do mọc đầy lau sậy, gốc rễ bám chặt vào bùn đất, nên giày bọn họ bước trên những gốc rễ đó cũng không quá khó khăn, cuối cùng cả bọn cũng đến được chỗ đất rắn, phía trước đã gần sát với hàng rào bao quanh ty thuế quan. Trịnh bách hộ cầm đao đứng trước hàng rào cẩn thận quan sát bốn phía một vòng, từ trong đôi mắt đen lánh thoáng toát lên vẻ lo lắng khôn cùng.

Hắn quan sát một hồi rồi khẽ hô lên:
- Võ Dũng! Bọn bên trong chắc đã bị hun cho bất tỉnh cả rồi, ngươi hãy dẫn ba mươi người tiến vào trong, kẻ nào còn động đậy được thì hãy tiễn về trời luôn cho gọn!

Một người bịt mặt bên cạnh đáp lại một tiếng, sau đó lại do dự hỏi:
- Vậy… xưởng đốc đại nhân…

Trịnh bách hộ thở dài bảo:
- Ta sẽ dẫn người đi tìm thử xem sao, e là… e là lần này đại nhân lành ít dữ nhiều rồi…

Người bịt mặt đó giậm giậm chân cho những mảng bùn đất nặng nề trên chân rơi xuống, sau đó đột ngột rút đao, nghiêm giọng quát lớn:
- Ba mươi người theo ta vào trong! Ty thuế quan giết quan tạo phản, tội không thể tha, kẻ nào dám phản kháng: giết không luận tội!

Sau một tiếng “rõ” vang lên như sấm động, ba mươi tay tráng niên đồng thời rút đao, sát khí đằng đằng chém bung hàng rào, xông thẳng vào bên trong. Trịnh bách hộ biết nếu bọn hắn cứ tiến vào như thế này thì e rằng rất nhiều người vốn đang hôn mê bất tỉnh cũng vẫn sẽ bị giết chết, bèn há miệng ra định ngăn cản nhưng lời đến bên miệng lại nuốt trở vào. Nếu thật sự đại nhân đã vùi thân trong biển lửa, y há lại không hận chẳng thể giết sạch toàn bộ đám người trong ty thuế quan kia hay sao?

Trịnh bách hộ hừ lạnh một tiếng, vung chân đá bay một cây cọc gỗ vốn đã bị chém đứt, sau đó rảo bước đi vào, hai mươi tay nha sai còn lại theo sau y, đi xuyên qua dãy phòng ốc dày đặc xông thẳng về hướng đối diện. Dọc đường gặp phải những kẻ đã bị khói hun cho mặt mũi đen xì nằm hôn mê trên mặt đất, bất luận là có còn hơi thở hay không, các nha sai đã đỏ ngầu hai mắt đều tặng cho một đao gọn nhẹ, Trịnh bách hộ chỉ coi như chẳng thấy gì.

Trước đó Dương Lăng đã cho người đóng giả làm thương nhân đến nộp thuế, từng đến ty thuế quan thám sát hai lần. Nơi này bốn bề hoang vu vắng lặng nên nếu dùng phương thức khác tùy tiện đến gần, một khi bị người của ty thuế quan phát hiện thì khó tránh khỏi việc khiến người ta sinh nghi. Cũng chỉ có cách giả làm thương nhân mới an toàn hơn một chút.

Qua một phen điều tra tỉ mỉ, bọn họ phát hiện người của ty thuế quan thường ngày sau khi thu thuế về chỉ tụ tập ở bên trong mà đánh bạc chơi gái. Mười mấy con thuyền thu thuế trên bến đò chỉ để cho vài người giữ thuyền ở lại canh giữ, chỉ cần một số ít quan binh đột ngột tập kích cũng đủ sức phá hoại hết những chiếc thuyền nọ.

Quả nhiên, công tác chặt đứt đường đối phương rút lui của Trịnh bách hộ tiến hành rất thuận lợi. Sau khi phá hoại hết cột và cánh buồm xong, Trịnh bách bộ cho quân giữ chặt quanh bến đò. Vì trước mặt là một bãi lau sậy lớn nên nếu hắn vượt qua bãi lau sậy đến tập kích ty thuế quan thì người từ ty thuế quan trốn ra chỉ cần ẩn nấp hết vào trong bãi lau sậy, lúc đó năm mươi người của hắn hoàn toàn không thể lục soát hết được. Do đó hắn muốn chờ đợi ở bến đò để bắt những con cá lọt lưới, đồng thời phái thân tín là Võ Dũng đi tới ty thuế quan quan sát động tĩnh.

Võ Dũng ẩn nấp trong bãi lau sậy lẻn đến gần ty thuế quan, vừa kịp nhìn thấy cảnh thủ hạ của Viên Hùng nổ súng, sau đó còn phóng hỏa đốt người. Trong cơn kinh hãi gã bèn vội trở về hồi báo. Vốn Trịnh bách hộ nhờ tiêu diệt giặc cướp đắc lực, tích lũy quân công nên mới được làm quan tại Thần Cơ doanh, kinh nghiệm dã chiến mười phần phong phú. Sau khi trù tính một lúc, hắn bèn đưa ra mệnh lệnh chiến đấu hợp lý nhất: “Địch đã phóng hỏa, chúng ta ở phía đầu gió so với kẻ địch, chúng ta cũng phóng hỏa!”

Hiện giờ mấy chục người bọn y căn bản không thể nào cứu được tính mạng của Dương Lăng, cách duy nhất có thể làm bây giờ là lấy hỏa trị hỏa tiêu diệt Viên Hùng. Bằng không, đợi đến lúc Viên Hùng dẫn người đánh tới, chỉ e rằng ngay cả người báo thù cho xưởng đốc cũng chẳng có.

Nhóm Trịnh bách bộ xông đến dãy ngăn lửa ở phía bên kia, bắt gặp trên mặt đất nằm ngổn ngang rất nhiều người. Bởi vì khói tràn tới quá nhanh, vốn xưa nay ty thuế quan chỉ ra vào bằng đường thủy lại chẳng có ngựa mà dùng, do đó những người này không có đường thoát; bất luận là trốn vào trong phòng hay là trốn đến góc tường khe rãnh, phần lớn đều bị khói hun đến hôn mê.

Các nha sai đã giết đến đỏ cả mắt đang xách những thanh đao nhơm nhớp máu tươi định lần lượt chém chết bọn người đang nằm lăn trước mặt, Trịnh bách hộ đột nhiên kêu lớn:
- Dừng tay hết cho ta! Các ngươi nhìn… Các ngươi nhìn đằng kia kìa…

Trong giọng nói khàn khàn của Trịnh bách hộ toát ra một nỗi mừng rỡ đến điên cuồng, thậm chí giọng đã hơi run run. Vốn hắn đoán rằng đại nhân gần như không có hy vọng sống sót. Nhìn ngọn lửa vừa rồi, nếu người ở trong đó còn sống được thì quả thực là kỳ tích trong kỳ tích, do đó tuy vẫn mang theo một chút hy vọng mong manh mà xông tới nơi này, nhưng hắn đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng cho tình huống xấu nhất.

Nhưng khi đến đây y mới kinh ngạc phát hiện mảng lau sậy ở cách xa hơn một dặm vẫn còn chưa cháy. Tuy rằng trong lúc bị gió thổi đung đưa, những bông hoa lau theo gió bay lên trời đều có màu đen xì, còn mảng lau sậy kia trông chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc, nhưng đó quả thực là một mảng lau sậy.

Không ngờ mảng lau sậy đó vẫn còn chưa cháy, vậy đại nhân…? Trịnh bách hộ lê đôi giày nặng nề lao thẳng vào trong khoảng lau sậy đã bị thiêu cháy ra tro trong tâm trạng mừng rỡ điên cuồng, làm cuộn lên một mảng tro đen. Sau khi vất vả chạy tới bên cạnh mảng lau sậy chưa cháy nhưng đã bị hun khói thành đen ngòm, hắn thấy bên cạnh dòng sông nhỏ phía trước nằm dày đặc toàn người là người, nhìn trang phục thì rõ ràng là người của nha sai Nội xưởng và quan binh vệ sở.

Trịnh bách hộ tiện tay lật một người lên, gỡ chiếc khăn ẩm trên mặt y xuống. Người đó khắp người khắp mặt đều đầy tro đen, đầu tóc với lông mày đã chẳng thể nhìn rõ nữa, phần bên dưới chiếc khăn ẩm tuy sạch sẽ hơn một chút nhưng trong lỗ mũi cùng toàn là tro đen. Trịnh bách hộ đưa tay dò thử thấy vẫn còn hô hấp không khỏi lòng tin tăng vọt, hắn bỏ viên quân binh vệ sở đó xuống đất, đứng bật dậy gầm lớn:
- Lập tức tìm, lập tức tìm cho ta! Tìm được xưởng đốc đại nhân sẽ được trọng thưởng!

Không đợi hắn ra lệnh, các nha sai khác đã vội vã tìm kiếm khắp xung quanh. Nhóm người của Dương Lăng nhờ có ngọn lửa cháy ngược trở lại, khói cũng theo đó cuộn ngược trở về nên tình trạng bị hun khói còn nhẹ hơn người của ty thuế quan một tí. Tuy rằng cũng có người bị hôn mê, nhưng chỉ cần được gọi to một tiếng hay vỗ vỗ vào má vài lượt là đã dần dần tỉnh dậy, rồi kế đó họ bèn rửa mặt luôn bên dòng sông nhỏ kia, hồi phục lại thể lực rất nhanh.

Trịnh bách hộ đang tìm kiếm với tâm trạng vô cùng lo lắng, chợt một nha sai ở đằng xa điên cuồng kêu to:
- Ta tìm được xưởng đốc đại nhân rồi, ha ha ha ha, đại nhân vẫn còn sống!

- Ở đâu? Ở đâu?
Trịnh bách hộ cả mừng bèn cùng mấy viên nha sai ở gần đó vội vàng chạy tới. Tên nha sai đó đang ôm một người trong lòng, tuy rằng đã bị hun đen thui giống như ông táo, nhưng nhìn quần áo và tướng mạo kia thì vẫn còn có thể nhận ra được Dương Lăng.

Trịnh bách hộ đưa tay thử thấy vẫn còn hơi thở, bèn vội vàng xé vạt áo của mình ra nhúng xuống dòng sông, lau bừa trên mặt Dương Lăng một lượt. Nhờ có sự kích thích của nước, Dương Lăng từ từ tỉnh lại, y muốn mở miệng nói chuyện, nhưng lại cảm thấy cổ họng mình nóng như thiêu như đốt, không kìm được ho lên mấy tiếng dữ dội, rồi y bèn gạt lớp tro tàn nổi trên mặt nước ra mà vục lấy hai ngụm nước uống cho mát họng. Sau khi đưa tay lau sơ qua đám tro đen trên mặt và bên khóe mắt một chút, y mới đứng dậy đưa mắt quan sát tình hình xung quanh một vòng, hỏi:
- Sao ngươi lại đến đây? Người của Viên Hùng đâu?

Trịnh bách hộ mừng khấp khởi đáp:
- Đại nhân ở hiền gặp lành, vừa rồi thực khiến ti chức sợ chết khiếp. Đại nhân yên tâm, Viên Hùng phóng hỏa, hạ quan cũng phóng hỏa. Người trong ty thuế quan đều đã bị hun cho bất tỉnh cả rồi, dù còn có người tỉnh táo thì cũng chẳng phản kháng gì được.

Tinh thần phấn chấn, Dương Lăng vội hạ lệnh:
- Mau, dội nước cho tất cả mọi người tỉnh lại! Đến khống chế nha môn thuế quan nhanh lên, chớ để kẻ nào chạy thoát.

Đội quan binh da đen do Dương Lăng cầm đầu vội vàng đến ty thuế quan, ngăn cản ba mươi nha sai đang chém giết đến đỏ cả mắt kia lại, lệnh cho bọn họ cùng mọi người đi tịch thu vũ khí của đối phương, sau đó trói nghiến cả lại, đi tiếp nhận ngân khố. Bọn họ bất ngờ phát hiện trong số những người bị khói hun bất tỉnh còn có mấy chục phụ nữ. Sau khi dội nước cho tỉnh lại rồi tra hỏi một phen mới biết ngoài mấy kỹ nữ được bỏ tiền ra đưa về, còn lại đều là phụ nữ nhà dân bị ép phải dùng thân trả nợ hoặc là bị người của ty thuế quan dùng vũ lực cướp về. Như thế trong tờ cáo trạng dành cho Viên Hùng sẽ lại có thêm một tội lớn.

Khi lục soát ty thuế quan, tuy không ai dám động đến ngân khố nhưng đám tay sai gian ác của ty thuế quan có kẻ nào mà không vơ vét được một đống tài sản chứ? Những quan binh kia khi đi lục soát từng nhà đều tiện tay dắt dê nhét vào người không ít thứ. Dương Lăng đều nhìn thấy cả, nhưng đối với quân đội thời bấy giờ thì có thể yêu cầu cao đến đâu cho được? Thêm nữa họ lại đều là những người vừa mới vào sinh ra tử với mình nên Dương Lăng cũng chỉ đành nhắm mắt làm ngơ.

Không còn ty thuế quan chống lưng, án cũ án mới của lũ người gian tà thất đức này đầy ra cả rổ, tất nhiên sẽ có quan phủ lần lượt xét xử phán quyết.

***


Bên trong Mạc phủ, Dương Lăng tắm đi tắm lại bốn lượt, rốt cuộc màu của nước tắm cũng trong hơn nhiều. Da của y đã bị hun nóng đến nỗi chuyển thành màu đỏ rực, y cứ thế ngồi trong thùng nước, thoải mái nhắm hai mắt lại.

Phen bắt người lần này tuy gian nan nhưng gần như không bị tổn thất gì, dù sao cũng không phải động đến binh đao. Tuy đám Viên Hùng suýt nữa đã khiến bọn y toàn quân bỏ mạng, nhưng may mà ở trong tuyệt cảnh bọn y lại tìm được đường sống, thành ra không phí một binh một tốt mà đã bắt được Viên Hùng và toàn bộ lũ tay sai gian ác kia. Lúc này Dương Lăng đang suy nghĩ xem nên giải quyết những chuyện còn lại như thế nào.

Bởi vì hiện giờ đã nảy lòng nghi ngờ với Mạc Thanh Hà, Dương Lăng không dám đem nhốt Tất Xuân và Viên Hùng vào trong Mạc phủ. Vừa về đến Hàng Châu y bèn lập tức hạ lệnh cho chiếc thuyền quan vốn chở đầy hàng hóa và tiền tài áp giải hai gã phạm nhân này lên đường về kinh luôn. Hành động này của y đã khiến cho công công Mạc Thanh Hà vốn đầy hào hứng chờ được nghênh đón vị oan gia đối đầu Viên công công vô cùng thất vọng.

Hiện giờ Dương Lăng có quá nhiều việc cần làm, hơn nữa mỗi việc đều phải tùy cơ ứng biến, trước khi có thêm tin tình báo thì không có cách nào ra quyết định được. Rốt cuộc y vẫn còn chưa biết Mạc Thanh Hà có âm mưu gì không, nếu cứ tùy tiện ủy thác việc thu thuế ở Giang Nam cho hắn, mà người này lại không phải là hạng có thể nhờ cậy thì địa bàn khó khăn lắm mới giành được này coi như là đã giao lầm vào tay quân ác. Do đó nếu chưa điều tra rõ về Mạc Thanh Hà thì y không cách nào yên lòng về kinh.

Người của Viên Hùng đã bị một lưới bắt gọn nhưng ty thuế quan nhất định vẫn phải thiết lập. Trả lại nó cho bộ Hộ ư? Hoàng đế Chính Đức sẽ không đồng ý, tất cả những thuế giám khác cũng sẽ vì việc này mà coi y như kẻ thù. Như vậy thì phái ai đến trấn thủ thuế quan đây? Chuyện này nhất định phải suy nghĩ cho thật kỹ càng trước đã, hiện giờ bản thân mình đang nắm giữ ty thuế giám trong tay nên nhất định không thể giao quyền bố trí nhân sự cho kẻ khác.

Còn cả tình hình của Hoàng thượng gần đây. Có thể ảnh hưởng tới Hoàng thượng thì ngoài bản thân mình ra chỉ còn đám Bát Hổ, bọn họ có hành động kỳ lạ như thế là vì cái gì chứ? Là vì bản thân nắm giữ quyền cao cho nên nảy lòng ham mê chức tước, muốn nịnh nọt Hoàng đế để kiếm lấy một chức quan rồi dựa theo xu thế của lịch sử mà trở thành tám đại gian thần nhiều năm lũng đoạn triều chính, hay là còn có âm mưu gì khác nữa? Tại sao ty Lễ Giám lại ngồi yên không quản bọn chúng?

Dương Lăng suy nghĩ đến nỗi đau đầu, không kìm được khẽ thở dài một hơi, đột nhiên bên cạnh đưa tới một giọng nói dịu dàng:
- Lão gia, nước nguội chưa vậy? Có cần thêm nước nóng không?

Dương Lăng sợ đến nhảy dựng. Vừa mở mắt ra y đã thấy Cao Văn Tâm xắn hai ống tay áo để trần đôi tay trắng nõn đang đỏ bừng mặt đứng ở bên cạnh nhưng đầu nàng lại cúi gằm xuống đất, hoàn toàn chẳng dám nhìn y.

Dương Lăng vội vàng giật chiếc khăn bông vắt bên thùng nước tắm quấn nhanh qua eo, lắp bắp:
- Cô… Cô vào đây làm gì vậy? Để tự ta tắm lấy là được rồi.

Vốn Cao Văn Tâm đã hơi ngượng ngập. Dương Lăng vẫn đang ngồi trong thùng nên nàng cũng chẳng nhìn thấy gì cả, nhưng Dương Lăng luống cuống càng che càng hở như thế lại càng khiến nàng cảm thấy xấu hổ hơn.

Cao Văn Tâm thẹn thùng đáp:
- Nô tì… vốn phải hầu hạ đại nhân tắm rửa thay quần áo. Tỳ nữ đứng ở bên ngoài, đám nha sai múc nước đi ra đi vào thấy vẻ thanh nhàn của tỳ nữ đều ra vẻ rất kỳ lạ, hay là… để nô tì giúp lão gia cọ lưng nhé.

Dương Lăng cười khan:
- Không có gì, không sao cả đâu ! Quan tâm đến bọn họ làm gì chứ? Kẻ nào dám ăn nói linh tinh nào? Ta chẳng phải là thiếu gia xuất thân ở gia đình giàu có nên thực không quen với việc để phụ nữ hầu hạ tắm rửa. Cô… hãy đợi ta ở bên ngoài là được.

Cao Văn Tâm đang đỏ bừng hai má, nhìn vẻ mặt dường như nàng còn căng thẳng hơn cả Dương Lăng. Vừa nghe y nói như vậy nàng bèn lập tức thở phào một hơi, vội vàng thưa:
- Vậy… nô tì ra ngoài đây.

Mới đi được mấy bước, như chợt nhớ đến điều gì nàng bèn quay trở lại, ngoảnh đầu qua hướng khác mà vội vàng rắc một nắm linh tinh vào trong thùng gỗ.

Nhìn bộ dạng của nàng thật khiến người ta phải cảm thấy khó hiểu. Mỗi ngày nàng đều nhìn thấy cái mông của Dương Lăng một lần mà cũng chẳng hề sợ hãi, không biết tại sao lúc này Dương Lăng chỉ để lộ phần ngực và phần vai bên trên mặt nước thôi mà lại khiến nàng xấu hổ và thẹn thùng đến vậy.

Dương Lăng nhìn chăm chăm vào cái thứ nhòn nhọn đang trôi nổi phập phù giữa làn hơi nước mù mịt, tò mò hỏi:
- Đây là thứ thuốc gì vậy?

Cao Văn Tâm đáp:
- Đây không phải là thuốc mà là lá trà. Bỏ một chút vào… mùi sẽ thơm.

Dương Lăng khẽ cười, khoát tay bảo:
- Tốt lắm, lá trà vừa mát vừa thơm, vừa hay có thể trị được cái thân thể đang tràn đầy hỏa khí này của ta. Hà hà, đợt lát nữa tắm xong sẽ châm cứu nhé, hôm nay đã bôn ba cả ngày lại kinh sợ đến suýt chết, lâu lắm chưa có cảm giác thân thể rã rời như thế này rồi. Tiếc là Ngọc nhi không ở đây, cô ấy xoa bóp* tài lắm.
(nay là massage, còn gọi là đấm bóp)

Vốn Cao Văn Tâm một mực thẹn thùng không dám ngẩng đầu nhưng nghe y nói thế thì lại chợt ngẩng đầu lên, có vẻ không phục:
- Nô tì… Nô tì cũng biết xoa bóp, tay nghề của ngự y chuyên việc xoa bóp trong thái y viện cũng không so được với nô tì. Giờ nô tì đi chuẩn bị sẵn, đợi lát nữa sẽ xoa bóp cho lão gia.

***


Dương Lăng nằm sấp trên giường, được Cao Văn Tâm xoa bóp nên đầu óc y cứ mơ mơ màng màng. Trong phòng có đốt hương, ngửi vào rất dễ ngủ. Một cô gái xinh đẹp đáng yêu đang dịu dàng xoa bóp bả vai và tứ chi cho y.

Tuy nói là Ngọc Đường Xuân xoa bóp, nhưng thực ra gọi là mơn trớn vuốt ve thì càng xác đáng hơn, còn Cao Văn Tâm mới thật sự là tinh thông môn này. Trước tiên nàng dùng một chiếc lược ngọc nhẹ nhàng cạo thẳng một đường qua lớp áo mỏng từ gáy Dương Lăng cho tới tận chỗ thắt lưng, giúp cho mạch máu thêm thông thuận, sau đó mới nhẹ nhàng xoa bóp huyệt đạo và các đường kinh lạc. Dương Lăng cảm thấy toàn thân đều thoải mái, lâng lâng phiêu đãng tựa thần tiên.

Thời Minh chính là lúc thuật xoa bóp đạt tới đại thành, mà Cao Văn Tâm lại là cao thủ của môn này, Dương Lăng không kìm được khép hờ đôi mắt mơ màng, hàm hồ cất tiếng:
- Thoải mái quá, thế mà ta lại chẳng hay biết gì… Sau này mỗi lần châm cứu xong cô hãy xoa bóp cho ta một chút, được không?

Cao Văn Tâm đưa ống tay áo lên khẽ lau mồ hôi trên trán, mỉm cười:
- Được, nô tì còn biết nhiều loại thủ pháp lắm, vừa rồi… nếu lão gia để nô tì cọ lưng, nô tì cũng còn một bộ công phu học được từ trong Đạo Dẫn Đồ (Tên một cuốn sách dạy thuật dưỡng sinh bằng tranh vẽ - ND.), vừa hay có thể thi triển thân thủ.

Dương Lăng cười hà hà đáp:
- Nữ nhân thì làm gì mà có sức cọ lưng cho nam nhân chứ, nếu đổi lại thì còn nghe được… Ặc… À… Nếu dùng chân cọ thì còn nghe được.

Cao Văn Tâm đã nghe rõ y muốn nói gì nên không khỏi đỏ bừng hai má, nghĩ bụng: “Vị lão gia này cũng thật là… Nếu bảo y lớn gan thì không dúng, mới nói để tì nữ của mình hầu hạ tắm rửa mà đã có vẻ sợ hãi đến vậy; còn nếu bảo y nhát gan thì lại có những lúc y cứ hay nói linh tinh, cứ trêu ghẹo khiến cho người ta lòng dạ nhộn nhạo.
Nam nhân cọ lưng cho nữ nhân sao? Y… Y cọ cho mình…”

Cao Văn Tâm vừa nghĩ đến đây, ngón tay đang ấn xuống lập tức trở nên mềm nhũn chẳng còn chút sức lực nào, tựa như đã bị rút mất gân. Dương Lăng thấy ngón tay trên lưng mình đã trở nên mềm nhũn đâm ra cảm thấy nhồn nhột, không kìm được cười hà hà, hơi vặn người rồi bảo:
- Thấy chưa, ta đã nói nữ nhân sức yếu rồi mà… Được rồi, cô xoa bóp thế này càng lúc ta càng buồn ngủ, thôi ta ngủ đây.

Cao Văn Tâm hậm hực trừng mắt nhìn y, đưa tay làm động tác véo một cái sau lưng y, sau đó mới đứng dậy nhẹ nhàng buông rèm cho Dương Lăng. Khi đi đến trước bàn nàng chợt quay đầu lại hỏi:
- Lão gia! Bây giờ đám Viên công công đã bị bắt cả rồi, Có phải… có phải là chúng ta chuẩn bị về kinh ngay không?

Dương Lăng quay sang nàng, ngáp dài rồi đáp:
- Sao vậy? Muốn về nhà sao? Sắp rồi, sắp rồi! Có lẽ… mấy ngày nữa là sẽ có thể trở về thôi.

Cao Văn Tâm hơi do dự một lúc rồi hỏi:
- Vậy, mấy ngày này chắc không có việc gì chứ? Lão gia có cần… mời huynh muội Thiên sư đến phủ làm khách một chuyến không?

Dương Lăng hơi ngẩn người, sực tỉnh:
- A! Cô nói đúng, dạo gần đây huynh muội Thiên sư đều bị tín đồ của bọn họ mời đi làm khách, ta cũng quên mất chuyện này. Không mời lại bọn họ một lần thì quả là thất lễ, ừm! Lát nữa cô hãy phái người mang thiếp mời của ta đến gặp Thiên sư, xem y có lúc nào rảnh thì mời đến phủ hàn huyên một lúc.

Cao Văn Tâm mừng khấp khởi đáp:
- Vâng, đại nhân! Nô tì ra ngoài đây, lão gia hãy nghỉ ngơi cho khỏe!

***


- Ngươi nói cái gì? Người của Nội xưởng đã bắt Lý Quý?
Vốn hai ngày nay Mạc Thanh Hà luôn tràn đầy hưng phấn, mặt mũi tươi cười nhưng lúc này sắc mặt đã trở nên tái xanh, trong cặp mắt lấp loáng vẻ hung hãn. Hắn đưa tay túm chặt cổ áo Lý quản gia, gằn giọng hỏi.

- Đúng… Đúng vậy, lão gia! Nội xưởng bắt người, quan phủ địa phương cũng không thể hỏi tới. Tri phủ Tô Châu, thậm chí là Bố chính sứ đại nhân cũng đã phái người đi dò hỏi nhưng đều bị nha sai của Nội xưởng đuổi về, hiện giờ tình hình Lý Quý như thế nào chúng ta hoàn toàn không hề hay biết tí gì. Bọn họ cứ một mực khẳng định Lý Quý lén giấu vật cấm, một viên gạch vàng to tướng bày ngay ra đó, thật sự là trăm cái miệng cũng chẳng cãi nổi.
Lý quản gia mặt mày ủ rũ đáp.

- Bốp!
Một cái tát nặng nề giáng thẳng vào mặt Lý quản gia khiến cho gã xiêu người suýt ngã. Mạc Thanh Hà chỉ thẳng tay vào mặt gã mắng to:
- Khốn khiếp! Thường ngày em trai ngươi hung hăng kiêu ngạo, hoành hành khắp nơi; ta đã bảo hắn phải an phận một chút cho ta rồi mà vẫn không chịu nghe. Gạch vàng đó là vật cấm, thứ đồ như thế mà hắn cũng vơ vét về nhà như đồ quý hiếm là sao? Thế này còn chẳng phải là vác họa về cho ta hay sao chứ?

Lý quản gia ấm ức đáp:
- Lão gia! Đúng là có một số người thích vật hiếm lạ, người thu thập gạch vàng cũng không phải là không có, nhưng em trai tiểu nhân… ngoài vàng bạc ra thì nó chẳng thích cái gì khác, sao có thể đem cái thứ đó về nhà cơ chứ? Tiểu nhân cho rằng người của Nội xưởng cũng giống như Đông xưởng đang tìm cớ đổ tội cho nhà giàu để vơ vét tiền tài, nhưng đưa tiền đến nơi… tiền thì bọn họ nhận đủ nhưng người thì lại không chịu thả!

Mạc Thanh Hà giận dữ nhấc chân lên định đá gã, Mạc phu nhân chợt tha thướt bước đến ngăn hắn lại rồi bảo:
- Lão gia bớt giận, chuyện này có lẽ đúng là oan cho Lý Quý. Hiện giờ Nội xưởng vừa mới thành lập, xưởng đốc lại đang tuần sát Giang Nam chúng ta, cho dù người của Nội xưởng muốn vơ vét tiền tài của nhà giàu, liệu có dám làm ở ngay Giang Nam này không? Không có sự đồng ý của Dương Lăng, cho bọn chúng mười lá gan cũng chẳng dám!

Cặp mắt Mạc Thanh Hà lóe sáng, ánh mắt âm trầm nhìn ả một hồi, khuôn mặt dần trở nên đỏ rực:
- Ý nàng là… Dương Lăng đang có ý đồ với ta? Không thể nào, chuyện này không thể được! Dạ dày của y lớn đến đâu được chứ? Muốn một miếng nuốt trọn cả ba thái giám trấn thủ ở đất Giang Nam này sao, đến lúc đó còn ai chịu bán mạng cho y?

Mạc phu nhân cười lạnh:
- Y đi chơi Tô Châu, ngắm cảnh Hàng Châu, đến đâu cũng chỉ du sơn ngoạn thủy không màng chính sự, lão gia đã từng thấy y tra xét gì Viên Hùng chưa? Nhưng bây giờ Viên Hùng đang ở đâu rồi? Dưới tay hắn có năm ngàn tên tay sai không sợ chết, trời không thu đất chẳng quản, ai thấy mà chẳng đau đầu? Vậy mà chỉ trong một đêm, trước tiên Dương Lăng dùng kế rút củi đáy nồi bắt sống Tất Xuân, sau đó lại tập kích ty Thuế Quan, dùng một ngàn người đối phó với kẻ địch đông gấp mấy lần, dạ dày ấy liệu có lớn không?

Nghe xong, sắc mặt Mạc Thanh Hà trở nên trắng bệch, trên khuôn mặt xinh đẹp của Mạc phu nhân cũng hiện nét băng giá:
- Còn cả việc y đột nhiên đi tuần tra Hải Ninh nữa, trước đó lão gia có biết không? Người này nhìn bề ngoài thì rất tùy tiện, hình như chuyến đi Giang Nam chỉ là để ứng phó cho có mà thôi, nhưng ai biết trong lòng y rốt cuộc có ý đồ gì chứ? Bây giờ nghĩ lại… Nếu không phải là y đã nảy lòng đề phòng lão gia, tại sao Viên Hùng và Tất Xuân đều chẳng giữ lại ngày nào mà đã lập tức đưa ngay về kinh thành như thế chứ?

Mạc Thanh Hà sắc mặt lúc xanh lúc đỏ, hồi lâu sau mới giật dữ quát to:
- Ta đã quyết ý quy thuận y, y còn muốn dồn ta vào chỗ chết sao?

Mạc phu nhân khoát khoát tay, Lý quản gia vội biết điều lui ra ngoài. Mạc phu nhân đi tới bên cạnh Mạc Thanh Hà, thấp giọng hỏi:
- Lão gia, gã Lý Quý này có đáng tin không?

Mạc Thanh Hà hừ một tiếng, đáp:
- Kêu hắn đi vơ vét tiền tài thì còn được, nhưng bảo hắn liều mạng giữ bí mật cho người khác thì thà kêu lợn leo cây còn hơn. Có điều… cho dù Dương Lăng muốn đối phó với ta, nhưng không bằng không cứ thì y dám làm gì người của ta chứ?

Mạc phu nhân cười lạnh:
- Lý Quý là người của lão gia sao? Khâm sai đại nhân người ta nào có biết, y chỉ biết người này lén giấu vật cấm, phạm trọng tội đáng chém đầu. Còn đám người dưới tay lão gia, hừ! Có tên nào chịu đựng nổi sự tra tấn của xưởng vệ không?

Mạc phu nhân vừa nói tròng mắt vừa xoay chuyển một cách giảo hoạt, sau đó lại tiếp:
- Đám người trên biển kia… thế nào rồi? Nếu thực sự không được…
Đôi mày lá liễu của ả nhíu chặt lại, đưa bàn tay thon thanh tú lên cạnh cổ ra dấu chặt đầu.

Thân hình Mạc Thanh Hà đột nhiên run lên, hắn đưa tay bám vào chiếc bàn, ngay đến chiếc bàn đó cũng run lên theo. Mạc phu nhân cả kinh, vội bước tới đỡ hắn:
- Lão gia, lão gia sao vậy?

Mạc Thanh Hà phá lên cười ha hả, nhưng tiếng cười nghe thê thảm vô cùng, thần thái có chút điên cuồng. Hắn vừa cười vừa ngồi xuống ghế, chụp lấy một bình trà đập mạnh xuống đất, nghiến răng chửi bới:
- Hai nhóm hải tặc Phì Tiền Thọ, Trần Đông khốn khiếp ấy ta sớm đã nên tiêu diệt rồi mới phải! Chỉ vì có bọn chúng ở đó mới có thể giúp ta lừa gạt người đời nên ta mới tha cho bọn chúng. Không ngờ chuyện lớn của chúng ta lại bị hỏng trong tay bọn chúng…

Mạc phu nhân tò mò hỏi:
- Hai đám hải tặc chẳng ra gì ấy thì có liên quan gì với chúng ta chứ? Người của Tiểu Thôn Thứ Lang đâu? Kêu bọn chúng mang người giết thẳng vào Hàng Châu, có chúng ta làm nội ứng, chỉ cần giải quyết Dương Lăng ở trong đám loạn quân…

Đôi hàng lông mày thanh tú của ả nhướng lên, ả nở một nụ cười quyến rũ ôm lấy Mạc Thanh Hà cất giọng ngọt ngào nói tiếp:
- Dương Lăng mà chết thì Nội xưởng sẽ chẳng là gì nữa, đến lúc đó chúng ta lại giúp Đông xưởng trừ bỏ bớt thực lực của Nội xưởng. Lão gia… địa vị của ngài tại ty Lễ Giám còn có thể tăng thêm một bậc nữa đấy.

Mạc Thanh Hà mặt vàng như đất thở dài nói:
- Muộn rồi, muộn rồi, đúng là ý trời! Đây là trời muốn hại ta!

Hắn cười nhăn nhó đưa mắt nhìn phu nhân bên cạnh, nói:
- Người của Tiểu Thôn Thứ Lang không thể vào được nữa rồi. Ta chỉ để tâm tới việc ước thúc Tiểu Thôn Thứ Lang, nào ngờ đám hải tặc Phì Tiền Thọ bất tài ấy lại đi tập kích Hải Ninh vào lúc này, lại còn gặp phải khâm sai đại nhân nữa.

Từ sau khi xảy ra chuyện này, Đô chỉ huy sứ ti(1) đã cho một lượng lớn thủy quân đi phòng thủ tại tất cả các cửa biển đề phòng việc người Oa lại tới quấy nhiễu, khiến cho khâm sai về kinh sẽ vạch tội hắn phòng thủ bờ biển bất lực. Bây giờ muốn Tiểu Thôn Thứ Lang mạo hiểm tính mạng như thế để giúp ta sao?
Dứt lời hắn lại không khỏi lắc lắc đầu tuyệt vọng.

Vốn Mạc phu nhân rất điềm tĩnh, mãi cho tới khi nghe tới đây sắc mặt mới biến đổi hoàn toàn. Ả ngẩn người hồi lâu, sau đó mới khẽ nói:
- Lão gia, vậy chúng ta nên làm thế nào? Nhất định phải sớm trù tính sẵn kế hoạch mới được. Không có ai đến tra xét thì không sao, nhưng Dương Lăng đã động thủ rồi, Lý Quý lại là người không giữ được bí mật, những chuyện đó của lão gia… nhất định y sẽ biết được rõ ràng.

Giọng nói của ả toát ra vẻ lạnh lẽo đến thấu xương:
- Lén buôn lậu hàng hóa với người Oa, vẽ bản đồ và thông báo trước tình hình đóng quân cho bọn chúng, dẫn đường cho bọn chúng vào đánh cướp, sau đó lại bán chịu lương thực cho những gia đình đã bị cướp bóc sạch trơn, thừa cơ cướp đoạt ruộng đất của bọn họ. Chỉ một điều trong đó thôi cũng là tử tội rồi, huống chi còn có việc ăn óc của bọn trẻ kia nữa, hơn ba mươi mạng người đấy…

Mạc Thanh Hà đột nhiên nhảy bật lên, phần thịt trên hai má co giật liên hồi, nắm lấy tay ả nói:
- Tiểu Lâu ! Chi bằng nhân lúc sự tình còn chưa bại lộ, chúng ta hãy đi thôi, trốn đến nơi nào đó thật xa. Dù Dương Lăng có thần thông quảng đại đến cỡ nào đi chăng nữa thì cũng làm gì được ta chứ?

Mạc phu nhân ngớ người, ngạc nhiên hỏi:
- Trốn? Trốn đến đâu đây? Khắp thiên hạ này, có chỗ nào không phải là đất của nhà vua, chẳng lẽ lại trốn đến một chốn thôn quê bần cùng hoang vắng, giấu họ giấu tên mà sống hay sao?...

Mạc Thanh Hà lắc đầu:
- Không, chúng ta vượt biển trốn đến Nhật Bản. Với số tiền bạc đã tích lũy được, bất luận đi đến đâu chúng ta cũng có thể sống một cách tốt đẹp. Ở đó chúng ta sẽ giàu ngang vương hầu, Đại Minh còn có thể đuổi theo tới đó mà bắt ta được sao?





Chú thích:

(1): Đô chỉ huy sứ ti là thủ lĩnh quân sự tối cao của một địa phương lớn (ở kinh đô thì gọi là Chỉ Huy Sứ ti). Cùng bố chính sử ti, án sát ti gọi là tam ti, chia nhau lãnh đạo quân sự và chính trị, dân chính, hình ngục của địa phương.
Thời Minh có 13 Đô chỉ huy sứ ti.

Chương 137 - Xương Trắng Phật Đường



Mạc phu nhân nghe thế vội lùi lại hai bước, lắc đầu nói:
- Không, thiếp không đi. Nơi đó chiến loạn liên miên, Tiểu Thôn Thứ Lang là võ sỹ thân tín của Liễu Điền Đại Danh vậy mà lại phải mang quân đội ra biển đóng giả làm cường đạo, một nơi chiến tranh loạn lạc lại nghèo khổ vô cùng như thế, làm sao mà so được với Đại Minh của chúng ta? Chúng ta sao có thể đến cái nơi tồi tệ đó chứ? Hơn nữa… khi bọn họ có việc nhờ đến lão gia, lão gia nói gì họ cũng nghe cả, nhưng giờ đây chúng ta thất thế, lão gia không sợ họ nảy ý xấu, cướp đoạt hết tiền tài của chúng ta sao? Đến lúc đó thì cả tiền và mạng đều mất hết.

Mạc công công nghe xong chỉ biết giậm chân đấm ngực, đi đi lại lại tựa như con kiến bò trong chảo nóng, rồi đột nhiên hai mắt hắn sáng lên, bước tới nắm lấy đôi tay Mạc phu nhân vui mừng nói:
- Ta có cách rồi, chỉ huy sứ Hoàng Ứng Long say mê nàng đến thần hồn điên đảo, nàng đi cầu xin hắn, kêu hắn điều quân đội đi, như vậy người của Tiểu Thôn Thứ Lang chẳng phải sẽ có thể đánh vào Hàng Châu rồi sao?

Mạc phu nhân lẳng lặng nhìn hắn, nơi khóe miệng dần hiện lên một nét cười mang theo đôi phần giễu cợt và thương hại:
- Lão gia, đây là cách của ông sao? Thường ngày kêu Hoàng Ứng Long buông lơi cho thuyền buôn lậu của chúng ta thì y còn có thể làm chủ, nhưng bây giờ kêu y dùng cái mũ ô sa của mình để giúp cho chúng ta bình an, y chịu sao? Chỉ dựa vào việc tôi ngủ cùng với hắn... ha ha ha ha …

Tiếng cười giễu cợt đó khiến Mạc công công nổi giận bừng bừng, y vung tay tát cho Mạc phu nhân một cái thật mạnh khiến tiếng cười theo đó mà biến mất. Mạc phu nhân bị đánh cho ngã sấp xuống bàn, khóe miệng từ từ rỉ ra một dòng máu tươi.

Mạc công công thấy vậy thì không kìm được lộ vẻ bất nhẫn, vội bước tới ôm lấy Mạc phu nhân vào lòng, xót xa nói:
- Xin lỗi, Tiểu Lâu, ta không nên… Ta không khống chế được, ta không nên trách nàng, nhưng bây giờ chúng ta phải làm thế nào đây? Chúng ta phải làm thế nào đây?

Mạc phu nhân nhẹ nhàng đưa tay lên lau vết máu bên khóe miệng, trong mắt thoáng qua một nét lạnh lùng, rồi ngay sau đó trên mặt lại xuất hiện một nụ cười tươi tắn như hoa mùa xuân, dịu dàng nói:
- Lão gia, ông cũng bất tất phải lo lắng quá, thực ra nếu cứ liều mạng đến cùng, cũng chưa chắc đã không có cách nào.

Đôi mắt Mạc Thanh Hà lập tức sáng lên, vội vàng cất tiếng:
- Mau nói ra đi, Tiểu Lâu trước nay thông minh tuyệt đỉnh, chính là Gia Cát trong giới nữ nhi, cách của nàng nhất định có thể thực hiện, hãy mau nói cho vi phu được biết.

Mạc phu nhân chỉnh lại quần áo một chút, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, rót một chén trà nhẹ nhàng đưa đến bên môi, cười lạnh nói:
- Người còn quyền còn, người mất quyền mất, nhân lúc hắn còn chưa biết rõ ràng mọi tình huống hãy giết hắn luôn. Nội xưởng? Hừ, tường nghiêng rồi người ta chẳng tranh nhau vào xô đổ ấy chứ, chúng ta còn có gì nguy hiểm nữa đây?

Mạc Thanh Hà thất vọng nói:
- Sao có thể chứ? Mấy ngày nay khu nhà phía tây canh phòng cực nghiêm, Dương Lăng lại đóng cửa chẳng ra ngoài bao giờ. Người của hắn khi áp giải Viên Hùng, Tất Xuân về kinh đã đi mất một trăm, nhưng bây giờ vẫn còn tới hai trăm nha sai đấy. Khi ở Hải Ninh nàng cũng thấy rồi, thân binh của hắn chỉ tám mươi người mà có thể chặn được mấy trăm tên giặc lùn hung hãn, cho dù ta có gọi đủ được nhân thủ đến thì cũng chẳng thể giết vào bên trong. Hơn nữa cho dù có giết được vào bên trong thì thanh thế lớn như vậy còn có thể giấu được ai cơ chứ?

Mạc phu nhân nở một nụ cười yêu kiều, nói:
- Tại sao phải giấu người khác chứ? Chúng ta không những không thể giấu, còn phải làm cho thanh thế thật lớn, người biết càng nhiều thì chúng ta lại càng an toàn.

- Sao? - Mạc Thanh Hà nhìn Mạc phu nhân bằng ánh mắt nghi hoặc. Mạc phu nhân ghé sát đến bên tai hắn rì rầm một hồi, Mạc Thanh Hà nghe xong thì vừa kinh hãi vừa nhi ngờ nói:
- Kế này liệu có được không? Y chịu tin ta sao chứ? Nếu mà có sai sót gì, chúng ta… chúng ta ngay cả thời gian để bỏ trốn cũng không có.

Bờ môi tựa như cánh hoa của Mạc phu nhân hơi nhếch lên, như cười mà chẳng phải cười nói:
- Đương nhiên là được rồi, chúng ta đã nhìn nhầm hắn, vậy hắn cũng không phải là loại người trong dự liệu của chúng ta. Hai trăm cận vệ của hắn có thể chặn được một ngàn người Oa, nhưng vị tất đã địch lại hơn ngàn kỳ binh này của thiếp! Chỉ cần… Lý Quý một ngày không khai, hắn sẽ không có lý do gì không tin chúng ta!

***

Dương Lăng lơ ngơ mời huynh muội Trương thiên sư vào trong sảnh rồi dâng trà tiếp đãi. Vốn đã hẹn sẵn là ngày mai sẽ mời thiên sư đến dự tiệc nhưng hôm nay Trương thiên sư lại đột ngột đến thăm, Dương Lăng chỉ đành mời bọn họ vào nhà mà vẫn chưa đoán được họ đến đây là có ý đồ gì cả.

Trương thiên sư cười nói:
- Khâm sai đại nhân thịnh tình nồng hậu, vốn bần đạo muốn ngày mai sẽ đến cửa bái phỏng nhưng Long Hổ sơn lại phái người tới, chuyển lời của gia mẫu kêu huynh muội bần đạo mau chóng trở về, do đó hôm nay bần đạo mới mạo muội đến đây nói lời từ biệt với Dương đại nhân, sáng sớm ngày mai bần đạo phải cùng xá muội về núi rồi.

Dương Lăng dường như có chút tâm thần thảng thốt, nghe vậy bèn vội nói:
- Mấy ngày trước may được thiên sư dẫn đi dạo chơi khắp Tô Châu, nhưng bản quan vì công vụ rắc rối, mãi mà không có thời gian mời lại thiên sư, ôi, thật là xấu hổ!

Trương thiên sư cười hà hà nói:
- Sông núi còn có lúc tương phùng, chúng ta sớm muộn sẽ có ngày gặp lại thôi. Đại nhân là rường cột nước nhà, việc công mới là quan trọng. Sau này nếu đại nhân có tới Giang Tây xin hãy tới Long Hổ sơn của ta, bần đạo nhất định sẽ gắng tròn cái phận chủ nhà.

Cao Văn Tâm vốn đứng sau lưng Dương Lăng, nghe khẩu khí của Trương thiên sư dường như là đến đây gặp mặt nói lời từ biệt xong rồi sẽ lập tức rời đi ngay, bèn lo lắng đến nỗi chẳng để ý tới lễ nghi quy củ gì nữa, đứng đó chỉ tay về phía Trương Phù Bảo, rồi lại chỉ vào Dương Lăng, ra hiệu cho Trương Phù Bảo mau nói với Dương Lăng về chuyện đã thương lượng từ trước.

Trương Phù Bảo vốn đã nhắc chuyện này với huynh trưởng, Trương thiên sư nhìn thấy bộ dạng đỏ bừng hai má của Cao Văn Tâm, bất giác có chút tức cười, y hắng giọng hai tiếng, đang định bịa ra vài câu an ủi Dương Lăng, chợt Dương Lăng đã đứng dậy nói:
- Được được được, nếu bản quan có cơ hội đến Giang Tây, nhất định sẽ đến Long Hổ sơn bái phỏng. Lần này không thể cùng thiên sư du ngoạn Tây Hồ thật là đáng tiếc, đến lúc đó nhất định phải cùng dạo chơi Long Hổ sơn để bù đắp mới được, ha ha ha.

Trương thiên sư ngẩn ra, nghĩ bụng: “Vị Dương đại nhân này sao nôn nóng thế nhỉ? Ta còn chưa nói muốn đi cơ mà, y đã định tiễn khách rồi sao?”

Trương thiên sư dở khóc dở cười đứng dậy, nhìn thấy Cao Văn Tâm đang ở sau lưng Dương Lăng chắp tay niệm a di đà phật, chỉ đành dày mặt cười nói:
- Vậy thì tốt, à… bần đạo trước khi đi còn có mấy lời xin dâng, nghe nói đại nhân tin vào mấy lời vô căn cứ của kẻ thuật sỹ chốn giang hồ, cho rằng thọ lộc của bản thân đã…

Y vừa mới nói đến đây, chợt nghe bên ngoài vang lên một loạt những tiếng huyên náo, một nha sai vội vàng chạy vào, ôm quyền hành lễ báo:
- Bẩm Xưởng đốc đại nhân, bên ngoài có một đám loạn dân xông vào, nói là đại nhân muốn tăng tiền thuế Giang Nam thêm ba phần, còn nói đại nhân mượn cớ bạc ở ty thuế quan đã bị Viên Hùng tham ô hết, muốn kiếm các thương nhân thu lại một phen, bọn họ xông vào là tìm đại nhân là để lý luận.

Dương Lăng cả kinh, vội vàng xách áo chạy ra ngoài đại sảnh. Chỉ thấy lúc này cửa sân đã bị người ta đẩy ra, trăm họ mặc quần áo đủ mọi màu sắc tựa như nước thủy triều tràn vào, lớn tiếng kêu lên:
- Vốn tưởng y là quan tốt, nào ngờ so với Viên Hùng còn tham lam hơn, bọn ta chẳng thể sống tiếp nữa rồi, gã họ Dương kia ở đâu?

Các nha sai Nội xưởng nghe tin chạy đến nhìn thấy cảnh này thì vội vàng chặn trước người Dương Lăng, soạt một cái rút ra những thanh đao sáng loáng, hướng về phía trăm họ đang ào ào tràn vào trong sân quát bảo:
- Hành dinh của khâm sai, kẻ nào dám tự tiện xông vào đều là tội chết! Lũ điêu dân các ngươi, không muốn sống nữa sao?

Cũng thật có kẻ không muốn sống, trong đám người sục sôi, luôn có mấy gã chen giữa mọi người không thể nhìn rõ mặt mũi lớn tiếng kêu lên:
- Bọn ta bị ép cho không còn đường sống nữa rồi, thà bị một đao chém chết còn hơn là phải đói đến chết, muốn thu thuế tăng thuế chính là bởi tên cẩu quan Dương Lăng kia dâng lời gièm pha lên hoàng thượng, hãy giết hắn rồi xin hoàng thượng khai ân giảm thuế đi!

Dương Lăng giậm chân quát lớn:
- Là kẻ nào tung tin đồn nhảm thế? Bản quan không hề nói sẽ tăng thuế, các ngươi chớ có để kẻ xấu lợi dụng!

Đang lúc quần chúng bạo động thế này, có người chịu tin y mới là chuyện lạ, huống chi trong đàm người còn có kẻ không ngừng hét lớn:
- Chớ nghe hắn nói bậy, hắn đang muốn kéo dài thời gian, sau đó phái quân đội tới bắt chúng ta đấy, mau đánh chết tên cẩu quan này! Luật pháp chẳng phạt số đông, hoàng thượng sẽ không giết hết trăm họ ở Giang Nam đâu.

Đang lúc nói đã có kẻ dùng gạch đá ném tới, các nha sai Nội xưởng cả giận, có người giơ đao định chém, Dương Lăng vội kêu lên:
- Không được giết người, những người này rõ ràng là bị người ta lừa gạt nên mới tới đây, bên trong có không ít phụ nữ và trẻ nhỏ, giết người sẽ bị kẻ khác kiếm cớ nói càn. Người của Nội xưởng đao không được dính máu, nhất quyết chớ có giết người nào!

Những người dân kia vừa nghe vậy thì lại càng chẳng sợ hãi gì, dưới sự xúi dục của một số kẻ xấu bèn ào ạt tràn đến. Hai trăm nha sai trong sân toàn lực bước đến ngăn cản, nhưng người xông đến nào phải chỉ có một ngàn, ép cho bọn họ phải lùi lại liên tục, căn bản không thể cản trở.

Dương Lăng giậm giậm chân, mệnh lệnh cho mấy người nha sai:
- Mau, đi bảo vệ cho huynh muội thiên sư, tìm đường cho bọn họ rời khỏi nơi này, mau lên!

Đám người tràn đến đã đánh tan được sự ngăn cản của các nha sai, bắt đầu xông bừa vào trong chạy đi khắp nơi phá hoại, có người lao về phía Dương Lăng, có người thì lại thừa cơ chạy vào trong phòng cướp bóc tiền của.

Huynh muội Trương thiên sư vẫn còn đang ngây ra đó, mấy người nha sai vội vã bước tới, bảo vệ bọn họ vào giữa nói:
- Thiên sư, mau lên, chúng ta hãy tạm nấp đến phía sau!

Cao Văn Tâm thấy Dương Lăng đang chạy ngược trở vào trong, sợ hãi đến nỗi hoa dung thất sắc, vội chạy về hướng Dương Lăng mà kêu lên:
- Đại nhân, các ngươi mau đến bảo vệ đại nhân! Lão gia mau chạy đi!

Hoa cỏ mẫu đơn trong sân đã bị giẫm cho tan nát, đâu đâu cũng là người, nhưng trong lúc hỗn loạn thế này Dương Lăng lại càng an toàn hơn. Vừa rồi còn có người nhận ra Dương Lăng, nhưng lúc này thì chẳng ai có thể tìm ra y được nữa.

Cao Văn Tâm thấy Dương Lăng chạy dọc theo vườn hoa đến bên dưới mấy gốc tử đinh hương ở một góc, vừa mới đuổi theo được mấy bước, chợt thấy trước mặt có bóng người, bản thân bị một đại hán cầm đao chặn lại. Cao Văn Tâm thấy người đó là Trịnh bách hộ, vội vàng kêu lên:
- Trịnh đại nhân, mau đến bảo vệ khâm sai đại nhân đi!

Trịnh bách hộ khẽ mỉm cười, đưa tay ra kéo ống tay áo Cao Văn Tâm bước nhanh đi, nói:
- Đại nhân lệnh cho ti chức bảo vệ cô nương rời khỏi nơi này, xin cô nương hãy nhanh lên, đại nhân tự có các huynh đệ khác bảo vệ!

Sau lưng Trịnh bách hộ còn có bốn nha sai khác, trên đường bọn họ tay đấm chân đá đánh lui chín người cầm cuốc và gậy gỗ, bảo vệ Cao Văn Tâm vội vàng rời đi. Cao Văn Tâm bị Trịnh bách hộ kéo ống tay áo, nếu dùng sức giãy ra, chỉ e cả cánh tay ngọc sẽ bị lộ ra ngoài, hết cách chỉ đành đi theo phía sau y, vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại, cho đến khi bị kéo qua góc nhà không còn nhìn thấy bóng dáng Dương Lăng nữa mới thôi.

Huynh muội Trương thiên sư cứ thế lơ nga lơ ngơ để mấy viên nha sai bảo vệ chạy đến hậu đường, trong đám dân chúng phẫn nộ kia xen lẫn rất nhiều tên tráng hán vẻ mặt quỷ dị, chuyên cổ vũ xúi giục mọi người làm loạn. Mấy nha sai thấy có người dân cầm theo gậy gỗ và cuốc đuổi tới, bèn vội vàng quay trở lại ngăn cản, chỉ là bọn họ võ công tuy cao, nhưng xưởng đốc lại đã hạ lệnh không được giết người, trong tình trạng bị bó tay bó chân như thế làm sao mà cản nổi đối phương, chẳng bao lâu sau liền có một nha sai ngoảnh đầu lại hô lớn:
- Mau bảo vệ thiên sư rời đi, đừng để lũ loạn dân làm bị thương!

Ngay sau đó bèn có một nha sai chạy tới kéo tay Trương thiên sư chạy đi, Trương thiên sư vội vàng ngoảnh đầu lại hô lên:
- Bảo nhi, mau đi theo ta, ngàn vạn lần chớ để bị lạc nhau đấy!

Trương Phù Bảo vâng một tiếng, vừa mới xoay người lại định đi, chợt nhìn thấy Dương Lăng đang đứng sau một ngọn giả sơn, đang thấp giọng dặn dò mấy người ăn mặc theo lối gia đinh bình thường trong phủ. Mấy người đó sau khi chắp tay hành lễ liền rời đi ngay, Dương Lăng đưa mắt nhìn quanh bốn phía, vẻ mặt như cười mà chẳng phải cười, vô cùng quỷ dị.

Trương Phù Bảo lập tức nảy lòng nghi ngờ, thần sắc của vị Dương đại nhân này căn bản chẳng có vẻ gì là hoang mang sợ hãi, rốt cuộc y đang giở trò gì chứ? Trương đại tiểu thư gan lớn bằng trời, lòng hiếu kỳ cũng lớn, vừa nảy lòng nghi ngờ bèn không cách nào kìm được. Nàng chạy theo huynh trưởng vài bước, thấy nha sai kia kéo huynh trưởng đi xuyên qua một cái sân, dù có ngoảnh đầu lại cũng không nhìn thấy mình được nữa, Trương Phù Bảo bèn lập tức chạy ngược trở lại, đuổi theo hướng Dương Lăng vừa nãy.

Mạc Thanh Hà cho người loan tin ở khắp nơi, nói là Dương Lăng muốn tăng thêm tiền thuế. Một hai người nói mọi người còn không tin, nhưng mấy trăm người đều nói như vậy liền khiến rất nhiều người dân nổi giận. Anh hùng chống giặc lùn thì tất nhiên là đáng kính, nhưng nếu y không để cho trăm họ có một con đường sống thì trăm họ cũng vẫn phải tạo phản. Dưới sự xúi giục của những kẻ xấu không ngờ lại có tới một ngàn năm sáu trăm người tụ tập lại rồi tràn đến Mạc phủ nói lý lẽ.

Trong số bọn họ không thiếu những người chỉ là muốn đến hỏi rõ chân tướng hoặc là cầu xin khâm sai đại nhân khai ân, nhưng sau một phen cổ vũ xúi giục của những kẻ xấu xen lẫn trong đó, tình hình hiện giờ đã chẳng người nào có thể khống chế được, cả khu nhà ngang phía tây đều trở nên hỗn loạn vô cùng.

Mục đích của Mạc Thanh Hà là dùng những người này dọa cho Dương Lăng phải rời khỏi phạm vi bảo vệ của quan binh, căn bản không hy vọng những người dân ở đại sảnh kia có thể giết được Dương Lăng, do đó ngay từ đầu đã hạ lệnh phải gắng sức phá hoại, càng hỗn loạn càng tốt.

Nhân lúc đại loạn, Mạc Thanh Hà mặc thường phục mang theo mấy tên thân tín lẻn vào bên trong. Những kẻ được Mạc Thanh Hà phái đến từ trước ở lẫn trong đám người để quấn lấy các nha sai và phân tán sự chú ý của bọn họ không ngừng lén đưa tay ra hiệu với hắn, chỉ điểm hướng đi của Dương Lăng. Mạc Thanh Hà cứ theo đó mà tìm tới, Lý quản gia đột nhiên hô lên:
- Lão gia, Dương đại nhân ở kia!

Mạc Thanh Hà vừa nhìn, quả nhiên thấy ngay Dương Lăng đang dẫn theo hai thân binh vội vã chạy trốn men theo vườn hoa. Mạc Thanh Hà lập tức dẫn người bước tới, vẻ mặt đầy lo lắng bảo:
- Ôi chao đại nhân, thật là dọa chết khiếp ti chức, đám loạn dân này không biết nghe được tin đồn thất thiệt từ đâu, không ngờ lại dám xông vào trong phủ của ti chức để quấy nhiễu đại nhân, may mà đại nhân không việc gì.

Dương Lăng hậm hực nói:
- Nhất định là dư đảng của tên Viên Hùng đó tung tin đồn nhảm, sau khi về kinh bản quan quyết phải nghiêm trị hắn mới được.

Mạc Thanh Hà ngây ra, sau đó bèn vội gật đầu nói:
- Đúng đúng, nhất định là người của Viên Hùng làm loạn. Đại nhân mau đi theo ta, phía sau vườn hoa này có một cửa ngách thông đến căn phòng ở sau nhà của ta, thường ngày chẳng có mấy ai chú ý đến, nhân lúc đám loạn dân kia đang cướp bóc tiền tài, đại nhân hãy mau theo ta đến đó tạm tránh một chút.

Dương Lăng cả mừng, vội vàng chạy theo mấy người Mạc Thanh Hà trốn đi. Trên đường dù có người dân nhìn thấy quần áo của bọn họ, biết bọn họ là người trong phủ, nhưng phần lớn mọi người đều chỉ để ý đến việc cướp lấy cái bình này lọ kia, chẳng ai để tâm tới bọn họ cả, cho dù có mấy người đến sinh sự cũng bị thủ hạ của Mạc Thanh Hà và Dương Lăng đánh cho tơi bời.

Vừa mới đi qua vườn hoa, một gã hộ vệ đi phía sau của Mạc Thanh Hà đột nhiên túm lấy một người mà quát bảo:
- Ngươi là ai, tại sao lại lén lút bám theo sau bọn ta như vậy?

Dương Lăng ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy người đó mi thanh mục tú, ăn mặc theo lối đạo đồng, không khỏi cả kinh, vội vàng hô lớn: - Dừng tay, đó là người của Trương thiên sư! - Dứt lời bèn bước tới bảo:
- Không phải đã kêu cô và Trương thiên sư đi trước rồi sao, sao cô lại chạy đến đây vậy? Thiên sư đâu?

Trương Phù Bảo nào dám nói rằng mình thấy y khả nghi nên mới bám theo, nàng ấp a ấp úng đáp:
- Tôi… Thiên sư được nha sai cứu đi rồi, tôi bị loạn dân làm lạc mất, do đó… do đó mới trốn đến đây.

Dương Lăng còn đang định lên tiếng, Mạc Thanh Hà đã vội vã bảo:
- Đại nhân mau lên một chút, nếu có kẻ phát hiện và đuổi theo thì không hay đâu! - Nói đoạn hắn lại nhìn sang phía Trương Phù Bảo, cười nói: - Trương cô nương hãy đi theo bọn ta luôn đi!

Cánh cửa ngách đó thường ngày vốn luôn khóa chặt, chẳng biết là thông đến đâu. Lúc này Lý quản gia vừa mở cửa ra, chỉ thấy giữa hai ngôi nhà cao có một con đường nhỏ, bên trong quanh năm không thấy ánh mắt trời, âm u ẩm ướt, có điều cũng không có gì bẩn thỉu.

Đoàn người tiến vào trong con đường đó, Lý quản gia thì quay ngược trở lại khóa chặt cửa, Mạc Thanh Hà nói:
- Đại nhân, đám loạn dân đó biết tin đại nhân ở tại khu nhà phía tây, thế là chạy hết đến đó làm loạn, nơi này cũng coi như là yên tĩnh, để ti chức đưa ngài đến phật đường tạm tránh một chút đã. Ti chức đã phái người đi thông báo cho quan phủ rồi, đợi người của quan phủ tới đại nhân sẽ được an toàn rồi.

Ra khỏi con đường nhỏ đó, lại rẽ vòng vèo qua mấy căn nhà, Mạc Thanh Hà đẩy cửa một căn nhà ra, bước vào bên trong rồi ngoảnh đầu lại nói:
- Đại nhân mau vào đây đi!

Khu nhà phía đông mười phần yên tĩnh, bốn phía xung quanh chẳng có âm thành nào, loáng thoáng có thể nghe thấy tiếng ồn ào vẳng lại từ khu nhà phía tây. Dương Lăng đứng ngoài bục cửa quan sát tình hình một chút, thấy đây là một tòa phật đường, phía trước hương án bên trong có đặt một bức tượng Thích Ca cao bằng thân người.

Phật đường bình thường đều không xây thêm tầng hai ở bên trên, dù sao thì cũng không thể đi lại trên đầu phật đúng không nào? Nhưng một góc của tòa phật đường này lại có cầu thang, xem ra bên trên còn có tầng hai, trông thật có chút kỳ quái.

Hai gã gia đinh mà Mạc Thanh Hà mang theo cùng với Lý quản gia đã bước vào trong, còn Dương Lăng thì lại ung dung đứng ngoài bục cửa, tò mò ngẩng đầu lên thưởng thức kiến trúc ở tầng trên, Mạc Thanh Hà thấy thế thì lo lắng giậm chân nói:
- Đại nhân, mau vào đây đi, chớ để người khác nhìn thấy! Lỡ đại nhân có sơ xảy gì, ti chức không đảm đương nổi đâu.

Dương Lăng cười hà hà nói:
- Sợ cái gì chứ, bản quan thấy lũ loạn dân kia chẳng khác gì một lũ nhặng không đầu, vào trong phủ chỉ để tâm đến việc cướp bóc, còn có lòng nào mà đến hại ta chứ? Mạc đại nhân bất tất phải lo lắng quá!

Dứt lời y bèn cất bước vào trong, vừa vào liền tò mò đi đến chỗ cầu thang rồi bảo:
- Lạ thật, Mạc đại nhân đã thờ phật ở tầng một này, cớ gì lại còn xây thêm một tầng nữa? Không sợ bất kính với phật tổ hay sao?

Một cánh tay của Mạc Thanh Hà tựa như vô ý vịn vào một cái chân nến, nhưng thấy Dương Lăng sau khi vào không đi về phía trước mà lại chạy qua xem cầu thang, không khỏi có chút lo lắng, gượng cười đáp:
- Ồ, trên lầu chỉ xây một căn phòng nhỏ ở mé bên, chủ yếu là làm nơi để một chút hương nến mà thôi.

Dương Lăng ngoảnh đầu lại đưa mắt nhìn, hai viên thân binh vừa mới đi vào bèn lập tức xoay người, mang theo cả Trương Phù Bảo đi vòng tới sau lưng y. Mạc Thanh Hà đưa mắt ra hiệu cho Lý quản gia, hắn lập tức hiểu ý đi tới đóng cửa phòng lại.

Mạc Thanh Hà thấy Dương Lăng vẫn còn đang ngắm nghía cái cầu thang được điêu khắc tinh tế kia, bèn đi đến trước hương án nhặt một chiếc bồ đoàn lên khẽ phủi phủi bụi, đoạn cười bảo:
- Đại nhân, nơi này không có ghế, đại nhân hãy ngồi tạm xuống chiếc bồ đoàn này nghỉ ngơi một chút đi!

Dương Lăng chắp tay sau lưng xoay người lại, ánh mắt lạnh lùng nhìn hắn. Mạc Thanh Hà bị nhìn đến nỗi nụ cười trên mặt dần dần đơ ra, tới lúc này Dương Lăng mới chợt cười bảo:
- Hà tất phải ngồi trước phật chứ? Lẽ nào chiếc bồ đoàn này của Mạc đại nhân có gì đặc biệt hay sao?

Sắc mặt Mạc Thanh Hà biến đổi hẳn, không kìm được lùi về sau hai bước, gượng cười bảo:
- Ngồi trước phật cũng không tính là thất lễ, huống chi đại nhân còn thay thiên tử đi tuần. Chỉ là một chiếc bồ đoàn thay ghế mà thôi, có thể có gì đặc biệt được đây chứ?

Dương Lăng lắc đầu cười bảo: - Ta cũng không biết, có điều cũng có thể đoán… - Y vừa mới nói đến đây, Trương Phù Bảo đã tò mò đi tới nói:
- Hai người đang làm cái gì vậy, một chiếc bồ đoàn thôi mà cũng phải dùng đến ẩn dụ(*) như vậy sao?
(*: lời nói khi Thiền sư truyền đạo, truyền tâm ấn)

Sắc mặt Dương Lăng chợt biến đổi hẳn, vội nhào tới nghiêm giọng quát: - Chớ có đến đó! - Trương Phù Bảo bị tiếng quát lớn của y làm giật nảy mình, sợ đến nỗi ngây người tại chỗ.

Mạc Thanh Hà thấy Dương Lăng lao tới thì cả mừng, lập tức vứt chiếc bồ đoàn trong tay đi, chạy đến trước hương án ra sức kéo cái đế nến kia, chỉ nghe “cạch” một tiếng vang lên, trước hương án nứt ra một cái cửa hầm, hai miếng ván trượt hẳn xuống hai bên. Nơi Trương Phù Bảo đang đứng vừa hay là mép của miếng ván kia, chiếc ván vừa trượt xuống, nàng lập tức sợ hãi kêu ré lên một tiếng, cả thân hình cứ thể lăn xuống cái hố phía dưới.

Dương Lăng nhào tới chụp lấy cái cổ tay thon nhỏ của nàng, bản thân cũng bị nàng kéo lê đi trên mặt đất. Lúc này cả người Trương Phù Bảo đã rơi xuống hố, Dương Lăng thì bị kéo đi trên mặt đất hơn một thước ta rồi mới ghìm lại được, cánh tay kia đã bị cạnh sắc của cái hố cứa cho rách da rách thịt, máu tươi ròng ròng chảy dọc theo cổ tay của Trương Phù Bảo thấm đẫm cả ống tay áo của nàng.

Dương Lăng lúc này đã đau đến thấu tâm can, hai nha sai thấy vậy thì kinh hãi kêu lớn: - Đại nhân cẩn thận! - Nói rồi bèn lao nhanh tới.
Mạc Thanh Hà lúc này chợt điên cuồng kêu lên:
- Mau giết, giết hết bọn chúng cho ta! Giết một kẻ thưởng vạn lạng bạc!

Hai gã gia đinh tung người lao tới, ngay giữa không trung đã lấy ra hai thanh đoản kiếm sáng lấp loáng từ trong ống tay áo. Hai kẻ này tuy ăn mặc theo lối gia đinh nhưng đều là người trong giang hồ do Mạc Thanh Hà mời về, nếu xét tới võ nghệ thì nha sai Nội xưởng dưới trướng Dương Lăng sao có thể là đối thủ? Vừa mới giao chiến, hai tên nha sai đã lúng túng vô cùng, bị đánh cho phải lùi lại liên tục.

Đúng vào lúc này, phía sau phật đường chợt vang lên một tiếng thở dài khe khẽ, một nữ tử mặc áo trắng như tuyết, mặt đẹp tựa Quan Âm lẳng lặng bước ra, thướt tha đi tới trước mặt Mạc Thanh Hà. Mạc Thanh Hà nhìn thấy là ả thì vui vẻ cười lớn:
- Diệu kế của phu nhân quả nhiên đã thành công rồi, đợi giết xong Dương Lăng chúng ta sẽ đem vứt hắn về phía khu nhà phía tây, sau đó lại giết chết một vài tên loạn dân coi như giặc cướp, ha ha ha… Có ai biết được là ta chứ…

Lời của hắn còn chưa dứt, chỉ nghe hai tiếng súng “pằng pằng” vang lên, hai gã cao thủ giang hồ sắp đắc thủ đến nơi ôm ngực ngẩn ngơ lùi lại, máu tươi chảy ra từ giữa kẽ ngón tay.

Trên cầu thang xuất hiện hai người cũng ăn mặc theo lối gia đinh, mặt mũi cực kỳ xa lạ, mỗi người cầm một khẩu súng ngắn vội vàng đi xuống, họng súng vẫn còn đang bốc khói. Phía sau tiếp tục vang lên tiếng súng, lại thêm mấy người cầm súng xông xuống dưới.

Hai gã cao thủ kia thấy tình thế không hay thì nào còn để ý tới Mạc Thanh Hà nữa, lập tức tung người lao về phía cửa sổ. Hai kẻ này tuy đã bị bắn trúng nhưng thân thể vẫn rất linh hoạt, cú lao này lập tức khiến chấn song cửa sổ vỡ tan, nhưng sau khi lao ra ngoài và vừa mới đứng dậy, bọn chúng đã nhìn thấy trước mặt có một hàng người, bên tai vang lên tiếng xé gió “chíu chíu chíu” liên tiếp, mười mấy mũi tên đã găm vào trong cơ thể chúng rồi.

Mạc Thanh Hà thấy biến cố đột ngột xảy ra này thì cả kinh kêu lớn:
- Chuyện gì thế này? Lầu trên sao lại…
Hắn còn chưa kịp xoay người chất vấn, chợt cảm thấy bên hông truyền lại một cơn đau đến thấu tâm can.

Mạc Thanh Hà kinh hãi cúi đầu xuống, chỉ thấy một cánh tay thon thả mịn màng như ngọc, chính là cánh tay đã từng vô số lần mơn trớn vuốt ve hắn, lúc này đang nắm chặt một thanh đoản đao, đao đã đâm sâu vào hông hắn.

Mạc Thanh Hà trợn trừng mắt nhìn ả với vẻ khó tin, đưa tay nắm chặt vai ả, cất giọng khàn khàn nói:
- Tại sao? Tại sao?

Trong đôi mắt mỹ lệ như ngợp trong một làn nước mùa xuân đó lúc này lại toát ra một vẻ lạnh lùng mà xa lạ khiến trái tim hắn rét run.

Đại Lâu Nhi khẽ cất tiếng:
- Bởi vì… trốn đi theo lão gia, thực ra mới là con đường sống duy nhất. Nhưng tiện thiếp không muốn theo lão gia đến cái nơi quỷ quái đó sống một cuộc sống như bị lưu đày! Còn bởi vì… tiện thiếp không nắm chắc có thể khiến hắn trúng kế, hắn không chết lão gia nhất định phải chết, lão gia không muốn chết tiện thiếp đành đưa ngài đi chết.

Nét kinh ngạc trong mắt Mạc Thanh Hà dần dần biến thành lửa giận bừng bừng, hắn phẫn nộ gầm lên:
- Lão Lý, giết con tiện nhân này cho ta, giết ả cho ta!

Đại Lâu Nhi nắm chắc thanh đao, cổ tay xoay mạnh một cái. Mạc Thanh Hà kêu thảm một tiếng, thân hình đau đớn khom hẳn xuống, thở dốc từng hơi, nhưng đôi tay vẫn giữ chặt lấy hai vai của Đại Lâu Nhi, đôi mắt thì lại tràn đầy kinh ngạc liếc nhìn qua phía Lý quản gia trước nay vốn một mực nghe lời mình.

Tròng mắt Lý quản gia co rúm lại không dám nhìn hắn, nhưng vẻ hờ hững trên mặt lại hiển hiện rõ ràng. “Đây chính là Lý quản gia đã theo ta nhiều năm, một mực trung thành với ta đó sao?” Nghĩ tới đây Mạc Thanh Hà chợt nhìn chằm chằm vào Đại Lâu Nhi lạnh giọng:
- Ngươi… Ngươi đã mua chuộc gã rồi sao?

Đại Lâu Nhi đắc ý cười yêu kiều nói:
- Ông không phải là nam nhân mà còn có thể yêu ta, gã là nam nhân, tại sao lại không thể chứ?

Mạc Thanh Hà hét lớn một tiếng, hai tay đột nhiên bóp chặt lấy cổ họng Đại Lâu Nhi. Đại Lâu Nhi tuy là nữ nhân, nhưng so với nam nhân còn tàn nhẫn hơn nhiều, lập tức nhấc chân lên thúc mạnh đầu gối vào háng hắn.

Lý quản gia vừa rồi còn có chút sợ hãi lúc này cũng đột nhiên nhào tới, dốc sức gỡ đôi tay của Mạc Thanh Hà ra. Mạc Thanh Hà cười thảm nói với Đại Lâu Nhi:
- Được được được, ta cứ tưởng ngươi một lòng một dạ với ta, không ngờ… ngươi lại thích cái hạng thế này, ha ha ha…

Đại Lâu Nhi yêu kiều mỉm cười, ghé đến sát bên tai hắn nói:
- Không phải gã, tôi cho gã thân thể của tôi, gã trung thành với tôi chỉ là một cuộc giao dịch công bằng mà thôi. Ông dựa vào cái gì mà cho rằng tôi thật lòng yêu ông chứ? Nực cười, một nữ nhân nếu đã giao thân thể mình cho nam nhân khác rồi, còn có thể giao trái tim cho ông được sao?

Đồng tử Mạc Thanh Hà đã có chút rời rạc, hắn cố gượng cầm cự, oán hận truy hỏi:
- Vậy hắn ta là ai? Bố chính sứ? Chỉ huy sứ? Lưu tri phủ? Hay là Tào vận tổng đốc Hạ… Hạ…

Đại Lâu Nhi cười lạnh một tiếng, bên khóe miệng là một nét cười đầy vẻ giễu cợt:
- Đây chính là ông yêu tôi sao? Ông yêu tôi, do đó mới đem tôi tặng cho người khác để mưu cầu lợi ích cho ông sao? Người tôi ngủ cùng quả thực là quá nhiều rồi, ông cũng chẳng nói ra được là ai đúng không? Ha ha ha, tôi vốn là kỹ nữ, làm phu nhân của ông rồi, tôi vẫn là một kỹ nữ!

Vừa nói ả vừa đẩy Mạc Thanh Hà ra với vẻ đầy căm hận, lạnh lùng nói tiếp:
- Bất luận y là ai, chỉ cần ông biết y có hai chuyện hơn ông là được rồi. Y thích tôi, sẽ không đem tặng tôi cho người khác đùa giỡn! Không những y thích tôi mà còn có thể thực sự âu yếm tôi!

***


Đại Lâu Nhi đã lén hẹn gặp Dương Lăng, đem kế hoạch định lợi dụng dân biến rồi thừa cơ giết y của Mạc Thanh Hà báo cho y biết. Ban đầu Dương Lăng cũng không tin lắm, bởi vì Đại Lâu Nhi kiên quyết không chịu đem các tội trạng mà Mạc Thanh Hà phạm phải nói ra, lý do của ả là Mạc Thanh Hà vây cánh rất nhiều, nếu Dương Lăng không thể trừ bỏ hắn, hoặc là lỡ để hắn trốn mất, một nữ tử yếu đuối như ả nhất định phải suy nghĩ cho sự an toàn của mình. Lý Quý ở Tô Châu vẫn còn ôm ảo tưởng rằng Mạc Thanh Hà có đủ bản lĩnh cứu mình ra nên tạm thời vẫn chưa thể lấy được khẩu cung của gã. Vì vậy Dương Lăng không biết Mạc Thanh Hà rốt cuộc đã phạm phải trọng tội gì, không thể xác định được liệu hắn có thật sự bí quá hóa liều hay không, do đó cứ do dự không quyết.

Vì thế Đại Lâu Nhi bèn đề nghị y tương kế tựu kế, chờ Mạc Thanh Hà tự bộc lộ rõ mưu mô thì sẽ có lý do bắt người. Chỉ cần Mạc Thanh Hà bị bắt, Đại Lâu Nhi sẽ dâng tội chứng lên.

Dương Lăng đồng ý với chủ ý của ả, bèn lệnh cho người đóng giả làm gia đinh, khi Mạc Thanh Hà chạy đến dụ y vào chỗ mai phục thì người của y cũng đã được Mạc phu nhân dẫn đến phật đường tiêu diệt hết đám sát thủ mai phục ở đó rồi, sau đó đổi thành người của y.

Vừa rồi Trương Phù Bảo nhìn thấy có người nói chuyện với Dương Lăng ở vườn hoa, chính là đang bẩm báo với y rằng tất cả đều đã được xử lý ổn thỏa, do vậy Dương Lăng mới yên tâm theo Mạc Thanh Hà đến đây.

Nào ngờ huynh muội Trương thiên sư lại đến bái phỏng trước một ngày như thế, mà nha đầu nghịch ngợm này lại bám theo sau y. Dương Lăng sớm đã nghe Mạc phu nhân nói giữa phật đường có cơ quan bí mật, do đó mới cố ý đi vòng qua, nhưng Trương Phù Bảo đột ngột đến đây thì căn bản chẳng hay biết nội tình, do đó mới tùy tiện bước tới, vì cứu Trương Phù Bảo, cánh tay phải của Dương Lăng lúc này đã bị thương, máu tươi nhuốm đỏ cả áo trong áo ngoài của Trương Phù Bảo.

Nền đất phẳng chẳng có chỗ nào để bám vào, cánh tay phải lại đau đớn cực độ, Dương Lăng chỉ có thể miễn cưỡng nắm chặt lấy Trương Phù Bảo, căn bản chẳng có sức mà kéo nàng lên. Trương Phù Bảo bị treo giữa miệng hố, khi cơn kinh hãi vừa bớt đi một chút thì lại chợt phát giác phía dưới có một luồng khí hôi thối nồng nặc khiến người ta muốn ói bốc lên.

Trương Phù Bảo vội ngẩng đầu lên, chợt lại cảm thấy trên mặt ươn ướt mà nong nóng, chỉ thấy ống tay áo của Dương Lăng lúc này đã chuyển thành màu đỏ, rõ ràng là máu tươi của Dương Lăng vừa rơi xuống mặt nàng.

Máu tươi của Dương Lăng chảy dọc theo cánh tay nàng xuống dưới, nó âm ấm ươn ướt, đi qua nơi cổ, rồi lại tới bầu ngực vừa mới nhú lên, tiếp đó thì tới vùng bụng dưới, Trương Phù Bảo vừa xấu hổ vừa sợ hãi, đồng thời còn tràn đầy lòng cảm kích đối với Dương Lăng.

Nàng thấy cánh tay Dương Lăng đang run lên, xem ra đã không cầm cự được bao lâu nữa, bèn vội vàng đưa mắt nhìn quanh, muốn xem xem có chỗ nào có thể đặt chân rồi trèo ra ngoài được không. Nào ngờ nàng vừa mới cúi đầu, chợt phát hiện chỗ gần một trượng phía dưới loáng thoáng có những khúc xương trắng hếu, tuy rằng ánh sáng bên dưới rất mờ, nhưng người học đạo như nàng đối với thứ này vốn chẳng xa lạ, cái đầu lâu trên cùng của đống xương trắng kia còn được ánh sáng chiếu vào, mảng xương trắng hếu như toát ra ánh sáng lạnh ngắt đáng sợ kia hiện ra rất rõ ràng.

Trương Phù Bảo chỉ là một tiểu cô nương mười ba mười bốn tuổi, vừa nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ thế này thì thân hình lập tức mềm nhũn. May mà lá gan của nàng còn đủ lớn, tuy rằng trong lòng sợ hãi nhưng cũng không đến nỗi giãy giụa và kêu ầm lên, bằng không thì e Dương Lăng sẽ chẳng thể giữ nổi.

Hai thân vệ bên cạnh Dương Lăng là những người có võ công cao nhất được đặc biệt chọn ra từ trong các nha sai, chẳng ngờ khi gặp phải cao thủ giang hồ thật sự lại kém cỏi như vậy, căn bản không có sức hoàn thủ. Nếu không phải Liễu Bưu mai phục ở trên lầu nhìn ra có điều không ổn, không đợi Dương Lăng hạ lệnh đã xông xuống dưới, chỉ e mạng của hai nha sai này đã nguy rồi.

Lúc này đã giải quyết được hai tên cao thủ theo bên cạnh Mạc Thanh Hà, Liễu Bưu lập tức chạy tới đưa tay kéo Trương Phù Bảo lên. Trương Phù Bảo thấy mình toàn thân đều là máu, cũng không biết Dương Lăng có bị làm sao không, không kìm được lấy khăn tay từ trong ngực ra, vốn muốn băng bó cho y một chút, nhưng vừa nhìn thấy chiếc khăn tay đó cũng đã thấm đẫm máu tươi, lập tức sợ hãi vứt chiếc khăn tay đi, cất tiếng khóc lớn.
(Ba_Van: Mời độc giả xem lại bài thơ đoán lang quân của Phù Bảo, chương 124)

Liễu Bưu chẳng rảnh mà để ý đến nàng, vội vàng buộc chặt vết thương trên tay Dương Lăng, kế đó quay về phía đám thủ hạ tay cầm nỏ cứng vừa từ bên ngoài xông vào mà quát lớn:
- Mau đi đón Cao tiểu thư đến đây, con mẹ nó, các ngươi xông vào đây thì có ích gì?

Mấy nha sai đó không biết bên trong còn có bao nhiêu sát thủ, vừa mới bước vào trong cửa với vẻ thần dũng vô song, lập tức bị Liễu thiên hộ mắng đuổi ra ngoài, bèn hoang mang chạy đi tìm Cao Văn Tâm.

Mạc phu nhân thấy Dương Lăng và Trương Phù Bảo đã được các nha sai cứu lên, không kìm được liếc nhìn về phía Mạc Thanh Hà lúc này ánh mắt đã đờ đẫn vô thần, con ngươi nở to, nhưng vẫn đứng cứng đơ ra đó rồi nở một nụ cười quyến rũ mà hắn yêu thích nhất.

Thật nhẹ nhàng, thật dịu dàng, ả khẽ nói bằng giọng mà chỉ bản thân mới có thể nghe được:
- Lão gia, tiệp thiếp biết ngài ghét nhất là ăn óc người, vì tiện thiếp, thật sự đã khổ cho ngài rồi! Đáng tiếc… đã ăn ba mươi lăm bộ óc rồi mà vẫn chẳng có chút tiến bộ nào cả, xem ra cái phương thuốc này của tiện thiếp thật sự không có tác dụng rồi, may mà… lão gia cũng không cần dùng đến nữa.

Ả nhìn vào người chết, khẽ nói với giọng yêu kiều quyến rũ vô hạn:
- Giờ đây, xin lão gia hãy làm một chuyện cuối cùng cho tiện thiếp đi, tất cả mọi tội lỗi ngài sẽ gánh vác giùm tiện thiếp cả nhé!

Chương 138 - Hiến kế mong đắc sủng



Gã gia đinh mà Mạc Thanh Hà phái đi dựa theo lời lão gia dặn, đợi đến kha khá lâu mới vội vàng làm bộ hoang mang sợ hãi chạy đến nha môn tri phủ báo tin.

Dương tri phủ vừa nghe nói trong phạm vi quản hạt của mình mà có người dám tấn công hành dinh khâm sai lập tức sợ đến hồn phi phách tán, tức đến suýt hộc máu tươi: Cái lũ điêu dân đáng chết này, thế này chẳng phải là muốn hại ta sao?

Kế đó vị tri phủ đại nhân thi thư đầy bụng này lập tức vứt cây bút lông trong tay xuống bàn, giật lấy cây gậy đánh chó trong tay một gã nha dịch đứng gác rồi đích thân dẫn người xông tới Mạc phủ. Người đọc sách thời Minh đều tập bắn cung cưỡi ngựa, tuy phần lớn chỉ để khoe mẽ bên ngoài nhưng công phu cơ bản thì vẫn có. Dân chúng Hàng Châu thấy tri phủ đại nhân tay cầm gậy gỗ dẫn hết đám nha dịch trong nha môn chạy đi, dáng vẻ vội vã như một đám chó đói giành xương, cảnh tượng thế này thực là hiếm có liền không khỏi cảm thấy kinh ngạc vô cùng.

Dương tri phủ làm như thế này thực ra cũng có dụng ý, lỡ mà đám loạn dân làm khâm sai hoặc Mạc công công bị thương thì cái chức tri phủ Hàng Châu này e rằng hắn khỏi cần làm nữa, và lại có thể giữ được chức quan hay không cũng còn khó nói vô cùng. Hiện giờ bao nhiêu người nhìn thấy hắn đi trước sỹ tốt, hăng hái đến ứng cứu khâm sai đại nhân thì triều đình làm sao có thể phạt nặng được?

Người mà Dương tri phủ mang tới cũng thật không ít, nha sai, bộ khoái, dân binh, thậm chí cả những người làm việc viết lách trong nha môn cũng được kéo đi hết, tổng cộng phải tới gần ngàn người.

Hai hôm trước đây, sau khi Dương Lăng giao cho Dương Mạnh Anh hơn ba trăm tù phạm, dân chúng nghe nói Viên Hùng bị bắt xong bèn chạy đến nha môn tri phủ dâng cáo trạng kêu oan không ngừng.

Khâm sai còn ở đây chưa đi thì Dương Mạnh Anh tất nhiên không dám lười biếng. Mấy ngày nay tiếng trống kêu oan trước công đường chưa bao giờ dừng, giấy cáo trạng đã xếp cao mấy đống, có một số văn nhân bất đắc chí chuyên viết cáo trạng thay người ta còn dứt khoát dọn đến cổng nha môn làm việc.

Đám phạm nhân trái một nhóm, phải một tốp không ngừng được đưa lên giải xuống. Để đề phòng sơ sẩy, Dương tri phủ bèn tìm hết tất cả những người có thể dùng đến, cho canh gác tại nha môn và nhà ngục, do đó sau khi nhận được tin tức mới có thể mau chóng gom được nhiều người như thế.

Người của nha môn tri phủ vừa mới đến Mạc phủ bèn lập tức hò hét bắt người khắp nơi, thực đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Các nha sai Nội Xưởng khi đánh trận vốn có thể lấy một địch mười sau khi nghe thấy mệnh lệnh không được giết người bèn lập tức bó tay bó chân, chẳng có cách nào với những người dân này, nhưng người của nha môn tri phủ đối phó với dân chúng thì lại cực kỳ dễ dàng gọn ghẽ.

Nhất thời gậy roi không ngừng vung lên đánh xuống, xích sắt cùm gỗ lấp lánh sáng choang. Những người dân kia lập tức như chuột thấy mèo, người thì bỏ chạy người thì đầu hàng, chẳng mấy chốc cục diện đã được khống chế.

Chỉ vỏn vẹn trong một thời gian ngắn, cả khu nhà phía tây đã bị phá hoại tả tơi. Tri phủ dẫn theo tuần kiểm, điển hình (lính canh ngục?) hoang mang xông vào trong hậu viện, đang lúc tìm kiếm khâm sai khắp nơi thì viên nha sai được Liễu Bưu phái đi tìm Cao Văn Tâm cũng đã tới rồi.

Tuy vết thương của Dương Lăng không chí mạng nhưng vì mất máu quá nhiều nên sắc mặt y trắng bệch, mà cái bộ dạng nửa người thấm đẫm máu tươi đó quả thực có chút ghê người. Bọn Liễu Bưu đã đỡ Dương Lăng vào trong một ngôi nhà nhỏ gần đó, Cao Văn Tâm hay tin bèn lập tức mang theo thuốc vội vã chạy đến đây, lúc này đã chạy vào trong băng bó cho y. Liễu Bưu dẫn người canh gác chặt chẽ xung quanh ngôi nhà, không cho bất cứ người nào vào thăm.

Vốn đến để bắt loạn dân, kết quả là đến nơi rồi thì lại thành ra trấn thủ thái giám muốn hành thích khâm sai. Cái hố sâu đen ngòm trong phật đường kia, luồng khí hôi thối mà lạnh lẽo bốc lên kia khiến nơi này thật chẳng khác gì cánh cửa địa ngục, lại còn cả một đống xương trắng nữa khiến Dương tri phủ nhìn mà không khỏi sởn hết gai ốc.

Mạc phu nhân thấy quan phụ mẫu địa vừa tới, lập tức bước đến kể lại mọi chuyện, biến bản thân mình thành một người chẳng hay biết gì bị Mạc Thanh Hà lừa dối, trong lúc vô tình nghe thấy hắn và quản gia bàn bạc muốn gây bất lợi với khâm sai đại nhân, vì thế mới tìm Lý quản gia tới giảng giải đại nghĩa cho nghe, khiến Lý quản gia tỉnh ngộ đến tố giác với khâm sai chuyện này, qua đó cứu được tính mạng của khâm sai.

Quản gia Lý Phủ ở bên cạnh lập tức đứng ra chứng thực, hai kẻ bắt đầu người hứng người tung. Vốn dĩ mọi việc quả thực đều do Mạc Thanh Hà chủ mưu, hai người lại ra sức phóng đại công lao của mình, đem những lần trợ giúp Mạc Thanh Hà làm việc ác kể lại hết sức giản lược, đẩy mọi tỗi lỗi lên người Mạc Thanh Hà đã chết và Lý Quý đã bị bắt, nhờ thế thành ra công cao hơn tội rồi.

Thực ra quản gia Lý Phú cũng mới bị Đại Lâu Nhi mua chuộc hai ngày nay, sau khi cảm thấy cái cây lớn Mạc Thanh Hà đã biến thành một sợi dây mây có thể quấn chết người, Đại Lâu Nhi lập tức hạ quyết tâm dâng cho hắn “diệu kế” để dụ hắn bước vào con đường không có lối về này.

Muốn thực hiện những kế hoạch này, ả cần có một trợ thủ đắc lực giúp đỡ và người được ả chọn chính là Lý Phú. Tuy Lý Phú đã đi theo Mạc Thanh Hà nhiều năm, tỏ ra hết mực trung thành, nhưng Đại Lâu Nhi lại có thể nhìn thấu sự hèn nhát, tham lam của hắn ẩn giấu đằng sau cái lớp vỏ ngoài là một gã nô bộc trung thành ấy.

Ngày đó sau khi bày kế cho Mạc Thanh Hà, ả bèn đi tìm Lý Phú, dùng đạo lý để thuyết phục, dùng động tác để dọa dẫm, dùng tiền tài để hứa hẹn, cuối cùng còn không tiếc dùng nữ sắc để dụ dỗ, hoàn toàn nắm chắc tên thân tín đắc lực nhất này của Mạc Thanh Hà vào trong lòng bàn tay, sau đó mới bí mật cầu kiến Dương Lăng.

Ả có thể thấy rất rõ ràng lần này Dương Lăng đã hạ quyết tâm, Lý Quý quyết không thể cứu được nữa rồi, việc gã phải khai thật sau khi bị tra tấn là chuyện chẳng chóng thì chầy. Thay vì đồng quy vu tận với Mạc Thanh Hà, chẳng bằng ả ngả về phía Dương Lăng trước khi Lý Quý khai ra mọi chuyện.

Khi xưa lúc Đại Lâu Nhi vẫn còn vang tiếng gần xa ở Xuân Vũ lâu, Dương tri phủ cũng là khách trong màn của ả. Về sau Đại Lâu Nhi bị Mạc Thanh Hà nhanh tay rước trước về phủ, trong lòng Dương tri phủ vẫn lấy làm nuối tiếc vô cùng. Lúc này nhìn thấy ả khép nép yếu đuối, khóc lóc sầu thảm, Dương tri phủ nhìn mà xương cốt mềm nhũn, có lý nào lại không tin ả?

Mọi người ở chung quanh nghe nói Mạc Thanh Hà tư thông với giặc lùn, lợi dụng giặc lùn gây họa cho dân chúng rồi nhân cơ hội cho vay nặng lãi để chiếm lấy hơn mười vạn khoảnh ruộng tốt của dân; càng khiến người ta ghê sợ là hắn không ngờ lại ăn sống óc của mấy chục đứa nhỏ, làm cho ai nấy đều tái mặt.

Những bộ xương trắng hếu đầy rẫy bên dưới phật đường chính là hài cốt của hơn ba chục đứa cô nhi bị Mạc Thanh Hà hại chết. Bên bờ tường dưới đáy hố còn có một thi thể máu thịt bầy nhầy chưa bị chuột ăn hết, chính là xác của đứa cô nhi đáng thương được Mạc Thanh Hà mang về từ vườn trà. Viên ngỗ tác mà Dương tri phủ gọi tới để khám nghiệm tử thi khi nhìn thấy thảm trạng đó cũng không kìm được ghê tởm đến nỗi nôn mửa không ngừng.

Mạc Thanh Hà trong lúc làm trò chồng vợ giả với Đại Lâu Nhi, vô tình nghe ả nhắc đến việc ăn óc trẻ con có thể mọc lại cái thứ kia thì cho là thật. Hiện giờ hắn quyền cao chức trọng, nhưng mỗi khi nhắc đến khả năng của nam nhân thì hắn liền cảm thấy mình cũng chẳng bằng một tên hầu chuyên gánh phân. Nếu trên đời này thật sự có một phương thuốc kỳ diệu như thế, cho dù chỉ có cơ may thành công một phần vạn thì hắn vẫn không tiếc mọi giá mà thử một phen.

Đại Lâu Nhi trước đây là đệ nhất danh kỹ đất Giang Nam, là kỹ nữ hàng đầu của Xuân Vũ Hạnh Hoa lâu, tài tử danh sỹ tranh nhau tìm đến; lúc đó ít nhất ả còn có thể dựa vào thân phận hoa khôi mà lựa chọn nam nhân. Từ sau khi gả cho Mạc Thanh Hà, ả liền bị hắn dâng cho đám quan viên có quyền có thế để mua vui, so với lúc làm kỹ nữ còn cảm thấy nhục nhã hơn nhiều. vì vậy ả cũng mong cái phương thuốc cổ kia hiệu quả, nhờ đó ả không còn bị hắn cứ đưa đi đón về nữa.

Nhưng phương thuốc ấy quả thực rât thương thiên hại lý, Mạc Thanh Hà rất sợ bị oan hồn đòi mạng, do đó mới xây dựng tòa phật đường quái lạ này. Hắn đem thi thể của tất cả những cô nhi bị ăn óc vứt xuống dưới hố, bên trên xây dựng phật đường để siêu độ cho những vong hồn này.

Hắn lại sợ hành vi khiến người và thần đều căm phẫn này bị trời cao biết được, do đó mới xây thêm một tầng nữa bên trên phật đường, bố trí những thứ pháp khí loạn xạ mà chẳng biết là hắn thỉnh về từ đâu để ngừa trời cao tỏ tường mọi chuyện. Với sự tinh minh của Mạc Thanh Hà mà không ngờ cũng có thể thực hiện những chuyện ngu xuẩn và đầy mâu thuẫn như vậy, có thể thấy hắn tuy táng tận lương tâm, không sợ lòng dân phép nước nhưng vẫn còn biết sợ hãi quỷ thần.

Trương Phù Bảo ngẩn ngơ đứng trước ngôi nhà Dương Lăng đang ở, khuôn mặt trắng bệch chẳng còn hột máu. Trương thiên sư còn tưởng muội muội mình sợ hãi quá độ, không kìm được thở dài một hơi, nhẹ nhàng bước tới khẽ lau đi mấy giọt máu dính bên má nàng, dịu giọng bảo:
- Bảo nhi, quần áo muội đều dính máu cả rồi, chi bằng để ta kêu nha hoàn trong phủ đưa muội đi thay bộ quần áo khác nhé!

Trương Phù Bảo nghe xong bèn lắc đầu lia lịa, nói:
- Không! Muội… Muội ở đây đợi y, Dương đại nhân… vì cứu muội nên mới bị thương… Muội sao có thể yên tâm mà đi chứ?

Trương thiên sư bật cười nói:
- Vết thương của đại nhân chỉ là mất máu quá nhiều, không nguy hại đến tính mạng, muội lo cái gì chứ? Ồ… Cũng tốt, đại nhân đã bị thương, e rằng còn có vụ án của Mạc Thanh Hà phải xử lý, đợi lát nữa chúng ta hãy tới chào Dương đại nhân rồi đi, sau khi trở về rồi thay quần áo vậy.

Y cho rằng muội muội lớn rồi, ngại việc thay quần áo ở phủ của người khác, do đó mới đổi ý. Nhưng nào ngờ tiểu cô nương này đang lòng dạ rối bời, vừa thấy kinh sợ, vừa thấy lo lắng, đồng thời còn có một ý nghĩ mà nàng vừa không dám nghĩ tới lại vừa một mực không kìm được cứ muốn nghĩ tới cứ luẩn quẩn trong đầu: “Nam nhân này sẽ là phu quân mà mình bầu bạn cả đời sao?”

Nàng đã nhận ra được vị phu quân mà vận mệnh đã an bài cho mình. Nhưng người đó vẫn còn chưa hay biết, hơn nữa y lại đã có ba phòng thê thiếp rồi, bản thân quả thực không muốn gả đến phủ của y, nhưng không biết tại sao vận mệnh lại an bài như vậy, nàng có thể không hoảng loạn được sao?

Trong lòng Trương thiên sư cũng đang thở dài, Vì cứu muội muội mình nên Dương Lăng mới bị thương, tuy rằng không nguy hiểm gì đến tính mạng nhưng nếu ngày mai đi ngay thì dù thế nào đi chăng nữa cũng không hợp lẽ. E rằng phải để mẫu thân đợi thêm mấy ngày nữa vậy.

Lúc này Trịnh bách hộ đã từ trong phòng bước ra, mọi người thấy thế bèn vội vây lấy y mà hỏi han. Trịnh bách hộ ôm quyền chào khắp một vòng nói:
- Thiên sư, các vị đại nhân, khâm sai đại nhân mất máu quá nhiều nên thân thể hư nhược cần phải nghỉ ngơi một phen, do đó không thể gặp hết mọi người. Mời thiên sư và tri phủ đại nhân hãy vào trong nói chuyện.

Dương tri phủ chỉnh đốn lại quần áo, cung kính mời Trương thiên sư đi trước một bước, rồi bản thân đi theo sau. Hai người đã vào trong ngôi nhà ấy, Đại Lâu Nhi đứng một mình cạnh ngọn giả sơn bên bờ hồ, trong lòng có chút căng thẳng.

Ả lại suy nghĩ kỹ càng từ đầu chí cuối mọi việc một phen. Những việc mà Mạc Thanh Hà làm thì ngoài mấy tên thân tín ra chẳng có bao nhiêu người được biết, còn việc bản thân có tham gia và bày mưu vạch kế cho Mạc Thanh Hà hay không thì ngay đến Lý Phú cũng không hay biết, hiện giờ Mạc Thanh Hà đã chết rồi, chẳng còn chứng cứ gì khác, vậy đừng hòng có ai lôi được mình vào chuyện này. Ngẫm nghĩ tỉ mỉ thấy không còn sơ hở gì cả, lúc này ả mới thấy yên tâm.

Nghĩ tới khối tài sản khổng lồ của Mạc Thanh Hà, trong lòng ả lại có chút đau xót. Ruộng đất nhà cửa của Thanh Hà chắc chắn sẽ bị quan phủ tịch thu. Ngay cả đến chỗ của Đỗ Thanh Giang… Ai mà biết người của xưởng vệ có lần mò ra được gì không chứ? E là cũng chẳng giữ được rồi, đó là một gia sản khổng lồ đến cỡ nào cơ chứ

Đại Lâu Nhi thầm thở dài nghĩ bụng:
- Xem ra chỉ có hai mươi sáu vạn lạng ngân phiếu giấu trong hộp châu ngọc của mình là còn có thể giữ lại. Giờ đây Mạc Thanh Hà đổ rồi, sau này ta phải dựa vào ai đây?

Tuy Đại Lâu Nhi lắm mưu nhiều kế, thủ đoạn còn cao minh hơn Mạc Thanh Hà nhiều nhưng cho dù ả có lợi hại hơn đi chăng nữa thì cũng chỉ có thể đi theo sau lưng nam nhân. Thế giới này vẫn còn chưa cho phép nữ nhân được xuất đầu lộ diện, trừ phi ả cam chịu sống nốt phần đời còn lại trong bình lặng, cứ thế này mua lấy một ngôi nhà rồi ẩn cư.

Đại Lâu Nhi nghĩ tới hoàn cảnh của mình lúc này, không khỏi có chút mờ mịt: Bố chính sứ, chỉ huy sứ đều là quan lớn một tỉnh, bọn hắn tuy say mê mình nhưng có kẻ nào chịu thật sự bỏ ra cái gì chứ? Thân phận của mình bây giờ còn hèn mạt hơn cả lúc là danh kỹ Giang Nam, hiện nay là vợ của thái giám, mà gã thái giám đó còn là một tên ác ma ăn óc người.

Nếu bây giờ mà lén đến bái phỏng những đại nhân này thì bọn hắn chắc vẫn vội vã kéo mình lên giường chứ nhỉ? Nhưng khi ở trước mặt người khác thì sao, chỉ e lũ ngụy quân tử ấy sẽ tránh mình như tránh ôn dịch, Đại Lâu Nhi này chẳng lẽ phải cam chịu kiếp sống bình lặng từ đây sao? Có lẽ nửa năm, có lẽ một năm… sẽ chẳng còn ai nhớ đến mình nữa rồi.

Đại Lâu Nhi khẽ đưa tay vuốt ve bờ má vẫn còn mịn màng sáng bóng của mình, đột nhiên cảm thấy vinh hoa phú quý cũng giống như vẻ trẻ trung xinh đẹp này vậy, nhìn bề ngoài thì vẫn tràn đầy hào quang, nhưng bất tri bất giác đã trôi đi mất rồi, có muốn giữ lại cũng không được.

“Vậy đấy, đi theo Mạc Thanh Hà nhìn bề ngoài thì vinh quang vô hạn, nhưng mình đã có lúc nào được vui vẻ chưa? Mình cũng không còn trẻ nữa rồi, cứ nên tìm lấy một nơi sơn thanh thủy tú, tìm lấy một nam nhân tri kỷ hiền lành, hai người đuổi gió gọi trăng, gãy đàn ca hát cho đến hết kiếp này thôi.”

Đại Lâu Nhi cố gắng thuyết phục bản thân mình, đang lúc tâm thần hoảng hốt thì Trương thiên sư và Dương tri phủ đã đi ra khỏi ngôi nhà nhỏ kia. Dương tri phủ đi tới trước mặt ả, mỉm cười gọi:
- Phu nhân, phu nhân!

- Hả? - Ánh mắt Đại Lâu Nhi ngẩn ngơ trong chốc lát, rồi lại lập tức trở nên trong veo như thường, ngạc nhiên hỏi:
- Đại nhân đã ra rồi sao? Khâm sai đại nhân vẫn khỏe chứ?

Thân hình Dương tri phủ so với ả còn lùn hơn một chút, ánh mắt tham lam hau háu cứ nhìn chăm chăm vào hai ngọn đồi cao vút kia, nuốt một ngụm nước bọt rồi mới nói:
- Đại nhân là người tốt được trời trợ giúp, không có mối lo về tính mạng, chỉ là mất máu quá nhiều, hiện giờ không có tinh lực để gặp gỡ khách khứa. Vừa rồi khâm sai đại nhân đã lệnh cho bản quan tiếp nhận vụ án này, điều tra việc… tôn phu bán nước thông đồng với địch, tàn hại nhân mạng. Trong vụ án này còn nhiều điều đáng nghi, không biết có thể mời phu nhân đến nha môn một chuyến để bản quan hỏi kỹ mọi chuyện không?

Hắn thấy Đại Lâu Nhi hơi ngẩn ra một chút, vội cất tiếng an ủi:
- Phu nhân vì đại nghĩa diệt thân, cứu được khâm sai đại nhân, công lao rất lớn, tuy là gia quyến của người phạm pháp, nhưng cũng sẽ không bị trị tội, bản quan chỉ hỏi về các tình tiết trong vụ án mà thôi.
Dứt lời cặp mắt hắn lại không kìm được liếc về phía bờ eo thon kia của Đại Lâu Nhi.

Đại Lâu Nhi nhìn thấy cái vẻ lén lút ấy của hắn, không khỏi cảm thấy tức cười: Đám người này thật giống như một đàn chó, còn mình, chỉ cần nhan sắc chưa phai tàn, sẽ chẳng khác gì khúc xương trong miệng bọn chúng để bọn chúng giành đi giành lại. Hiện giờ Mạc Thanh Hà vừa mới chết, con chó ghẻ vốn không dám đến gần này lại chạy tới giành xương rồi.

Trong lòng ả vô cùng căm hận, hận không thể một dao đâm chết gã lùn bỉ ổi này giống như vừa rồi đâm Mạc Thanh Hà, nhưng trên mặt ả lại dần hiện nên một nụ cười ngọn ngào và vô cùng quyến rũ.

Đại Lâu Nhi lẳng lặng đưa tay lên, nhẹ nhàng gạt lọn tóc mai ra phía sau vành tai trắng ngần đẹp đẽ như đĩnh bạc nguyên bảo, dáng vẻ đoan trang tao nhã đến cực cùng. Nhìn làn da cổ mịn màng như ngọc của giai nhân, cặp mắt Dương tri phủ bất giác trở nên ngơ ngẩn.

Đại Lâu Nhi tới lúc này mới yêu kiều cười nói:
- Được chứ, vậy xin đại nhân hãy đợi một chút, tiện thiếp đi gặp Dương đại nhân xong sẽ lập tức theo đại nhân về phủ.

Dương tri phủ cười bảo:
- Không cần đâu, khi bản quan đi ra Liễu thiên hộ đã dặn dò nha sai, khâm sai đại nhân cần tĩnh dưỡng, không tiếp khách nữa.

Đại Lâu Nhi nói:
- Tiện thiếp biết chứ, có điều Dương đại nhân không gặp người khác chứ sao lại không gặp… Ôi chao… - Ả khẽ kêu lên một tiếng, đưa tay lên che miệng, dường như vừa nói lỡ lời, trong đôi mắt to đen láy thoáng qua một nét thẹn thùng mà hoảng loạn.

Dương tri phủ thấy dáng vẻ muốn nói lại thôi của ả thì lập tức nảy lòng nghi ngờ, cái bộ dạng ngạo nghễ đã rất lâu rồi chưa dám chưng ra trước mắt Đại Lâu Nhi kia được thu lại ngay. Rồi hắn nở một nụ cười ngượng ngập, còn hơi mang theo chút vẻ nhún nhường nói:
- Ồ… Khâm sai đại nhân còn có chuyện muốn hỏi phu nhân sao? À… Chuyện này… Đã như vậy, bản quan xin về phủ trước đây, nếu vụ án còn có chỗ nào không rõ, bản quan sẽ tới phủ hỏi han sau.

Đại Lâu Nhi cố nén nhịn nỗi xung động muốn cười vang: “Đây chính là quan sao? Người đời đều nói ta ti tiện, nói nữ tử thanh lâu bọn ta ti tiện, loại nam nhân này không ti tiện sao? Chỉ mới hoài nghi ta bám vào được một tên quan to hơn hắn, biển hiện của hắn với ta liền lập tức ti tiện hơn cả ả kỹ nữ ta đây. Bọn chúng bán còn triệt để hơn bọn ta nhiều!
Ta không cam tâm, dựa vào cái gì mà ta phải bị người khác ức hiếp? Ta có bản lĩnh để đứng ở trên người khác, tâm kế, dung mạo của ta cũng có mấy ai sánh kịp đây? Ta là Đại Lâu Nhi, ngoảnh đầu mỉm cười đủ khiến đất Giang Nam mưa xuân tràn khắp, Dương tri phủ chẳng phải cũng nhìn ta mà thèm nhỏ dãi đó sao? Trước giờ ta chưa từng thất bại… chưa từng… Duy có… Không, lần đó không thể tính là ta thua được, y thân thể có tật, nếu không…”

Một ý nghĩ vốn không muốn nghĩ tới lúc này lại đột nhiên xuất hiện trong lòng ả: “Lời của y có phải là thật không đây? Bề ngoài y vỗ về Mạc Thanh Hà, bên trong thì lại ngầm phái người đi bắt Lý Quý, lời mà y nói với ta liệu còn có thể là thật được ư?”

Càng là người tự ti thì lại càng khao khát vượt hơn người khác, Đại Lâu Nhi bị Dương tri phủ kích thích, trái tim vừa rồi vốn đã có chút ủ rũ nay lại lập tức bừng lên khát vọng về quyền lực và địa vị, ả bình tĩnh trở lại, khẽ mỉm cười nói:
- Đại nhân công vụ bận rộn, nếu còn có chuyện gì không rõ, chỉ cần phái nha dịch tới gọi một tiếng là được, tiện thiếp sao dám không tới phủ nha chứ? Còn bây giờ, tiện thiếp phải đi gặp Dương đại nhân trước đã… À, là khâm sai đại nhân!

Đại Lâu Nhi nói xong bèn ưỡn ngực ngẩng cao đầu, rảo bước thướt tha đi tới trước ngôi nhà kia, yêu kiều mỉm cười nói với Trịnh bách hộ:
- Xin đại nhân hãy vào bẩm giùm một tiếng, nói rằng Đại Lâu Nhi có chuyện quan trọng muốn trực tiếp bẩm rõ với khâm sai đại nhân.

Trịnh bách hộ biết kế hoạch khiến Mạc Thanh Hà tự hiện nguyên hình hôm nay toàn là nhờ công của Đại Lâu Nhi, ả nói có chuyện quan trọng cẩn bẩm báo thì y cũng không dám hàm hồ, bèn khách sáo cung tay nói:
- Phu nhân đợi một lát, ta đi bẩm với đại nhân ngay đây.

Dương tri phủ đứng cạnh ngọn giả sơn, thấy Đại Lâu Nhi thướt tha đi tới, chỉ khẽ nói có hai câu mà viên Trịnh bách hộ kia đã phải quay vào trong bẩm báo thì không khỏi cả kinh, ý nghĩ muốn ngầm độc chiếm Đại Lâu Nhi lập tức tan biến hoàn toàn.

Hắn vừa dẫn người quay trở về vừa thầm chửi rủa: “Con đàn bà lẳng lơ này, nói không chừng khâm sai đại nhân vừa mới tới thì đã bị ả câu dẫn, thảo nào ả lại không để ta vào trong mắt.” Nghĩ tới đây hắn lại bất giác nhớ đến kết cuộc của Mạc Thanh Hà, không khỏi rùng mình một cái: “Vị khâm sai đại nhân này điều tra Mạc công công chắc không phải là vì… Hồng nhan họa thủy, hồng nhan họa thủy, tránh đi thì hơn.”

Dương Lăng không biết Đại Lâu Nhi có tin tức gì quan trọng, bèn vội nói:
- Mời Mạc phu nhân vào đây.

Lúc này y đang để trần thân trên, tay phải đã được băng bó lại, nghe nói phải gặp khách nữ, Cao Văn Tâm vội cầm lấy chiếc áo dài khoác lên cho y, sau đó lại khoác cho y thêm chiếc áo choàng nữa vào và buộc cái nút trước ngực lại.

Đại Lâu Nhi bước vào phòng thấy Dương Lăng đang ngồi cạnh bàn, trên bàn còn nguyên một đống khăn vải dính đầy máu và hồ lô thuốc, bèn vội nhún người hành lễ, dịu giọng nói:
- Thân thể đại nhân vẫn tốt chứ? Vừa rồi còn sợ đại nhân thật sự xảy ra chuyện gì, tiện thiếp lo chết mất thôi.

Đại Lâu Nhi cử chỉ tao nhã đứng đắn, nhưng khi lọt vào trong mắt Cao Văn Tâm thì lại khiến nàng cảm thấy có chút giả dối. Đại Lâu Nhi từ nhỏ đã học những thủ đoạn này, cử chỉ phong thái đều chẳng khác gì những vị tiểu thư con nhà gia giáo. Nhưng một đằng khi học thì ôm lòng mua vui cho người khác, một đằng thì quả thực là khí chất tự nhiên, giữa hai bên vẫn có chút khác biệt, tuy người khác nhìn không ra nhưng chuyện này lại không giấu được đôi mắt của Cao Văn Tâm.

Nàng không kìm được lén bĩu môi nghĩ bụng: “Mặc kệ cô ta có phải là người ác hay không, nhưng tướng công nhà mình chết thì không lo, chạy tới lo cho lão gia nhà ta làm gì chứ? A… Đúng rồi, lúc ở Tô Châu…”

Đôi mắt Cao Văn Tâm hơi xoay chuyển một chút, nhủ thầm: “Nữ nhân này lẳng lơ như thế, nếu ả dám câu dẫn lão gia nhà ta thì ta sẽ đem việc nhìn thấy ở Tô Châu nói lại với lão gia. Nữ nhân này quyết chẳng phải là người tốt, dính vào chắc chắn sẽ xui xẻo.”

Dương Lăng cười bảo:
- Bản quan đang bị thương nên không tiện đứng dậy nghênh đón, thực là thất lễ! Phu nhân cũng bất tất phải khách sáo, đây là nhà của phu nhân, ta mà phản khách vi chủ há chẳng phải là nực cười lắm sao? Phu nhân mau mau ngồi đi, nếu không bản quan thật không biết phải chui xuống đâu cho hết thẹn!

Đại Lâu Nhi nhoẻn miệng cười, nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh, cặp mắt mỹ lệ ngước lên, vừa hay nhìn thấy Dương Lăng như đang có điều suy tư đưa mắt nhìn mình. Ả không kìm được giật mình đánh thót, có chút không được tự nhiên cười nói:
- Tiện thiếp có chỗ nào thất lễ chăng? Sao đại nhân lại… lại nhìn tiện thiếp như vậy?

Dương Lăng cười bảo:
- Ồ, chỉ là ta thấy phu nhân thân thể mảnh mai, vận quần áo trắng, tựa như bông hoa lê sau mưa, không ngờ lại dám giết người… Cho dù là nam tử cũng chưa chắc đã có được sự quyết đoán như phu nhân, thực khiến người ta có chút bất ngờ.

Đại Lâu Nhi nghe thế vành mắt lập tức đỏ hoe, nước mắt lưng tròng nói:
- Đại nhân đang trách tiện thiếp… trách tiện thiếp không giữ lại nhân chứng sống, hay là hiềm nghi tiện thiếp lòng dạ tàn độc, tự tay giết chết phu quân?

Dương Lăng nhìn bộ dạng ấm ức của ả không giống như đang giả bộ, tuy cảm thấy nói khóc là khóc thế này có chút không chân thực nhưng vẫn đưa tay ra theo phản xạ:
- Phu nhân hiểu… Ối chao…

Y đưa tay phải ra vốn là theo thói quen, không ngờ lại động vào vết thương, nhất thời đau đớn nhíu chặt đôi mày. Cao Văn Tâm hoang mang bước lên trước một bước, đỡ lấy cánh tay y nhẹ nhàng đặt xuống, cất tiếng quở trách:
- Lão gia… Nhìn ngài kia…
Nàng vốn còn muốn trách móc thêm vài câu nhưng đột nhiên nghĩ tới việc Mạc phu nhân vẫn còn ngồi ở đó thì lập tức dừng lời lại.

Nhưng giọng điệu động tác của nàng đều vô cùng thân mật đã không phải là thái độ của một nô tì với chủ nhân, với nhãn lực của một cao thủ chốn ong bướm như Đại Lâu Nhi có lý nào lại không nhìn ra chứ?

Cô ta chính là vị tiểu thư nhà họ Cao nổi danh nữ thần y ở chốn kinh sư? Cô ta phụ trách chữa trị tật kín của đàn ông cho Dương Lăng? Nếu Dương Lăng cũng là một nhân vật giống như Mạc Thanh Hà, giọng điệu và động tác của nữ tử này đối với y liệu có ngập tràn tình ý như thế không?

Đại Lâu Nhi lập tức hiểu ra mình đã bị Dương Lăng lừa rồi, không khỏi ngầm có thêm mấy phần cảnh giác: Người này còn nhỏ hơn mình sáu bảy tuổi ấy chứ, vốn còn tưởng y có thể ngồi lên chức xưởng đốc Nội xưởng hoàn toàn là nhờ thánh ân, bây giờ xem ra khả năng ẩn nhẫn của y quả thực hơn hẳn người thường, không thể coi nhẹ được.

Trong lòng Đại Lâu Nhi bắt đầu ngầm tính toán, kế đó bèn ngẩng đầu lên đưa mắt nhìn Dương Lăng, nói:
- Đại nhân, Mạc Thanh Hà đối với ngài thế nào, đối với tiện thiếp thế nào, ngài cũng không phải là không biết, lần trước chúng ta… lần trước chúng ta…
Nói tới đây khuôn mặt xinh đẹp của ả bất giác ửng hồng, dường như đang nhớ đến tình cảnh hai người trận trụi bên nhau, dáng vẻ thẹn thùng vô hạn.

Rồi ngay sau đó ả lại khẽ thở dài buồn bã:
- Tiện thiếp đối với hắn chỉ có một sự căm hận đến thấu xương, sao có chút tình ý nào được chứ? Tiện thiếp cũng không ngờ hai tên thị vệ theo bên cạnh hắn lại có võ công cao cường như vậy, sợ rằng đại nhân gặp sơ sảy gì, khi đó tiện thiếp cũng lâm vào cảnh vạn kiếp bất phục, do đó mới lỗ mãng ra tay, may mà thân quân của đại nhân cơ trí, lúc ấy cũng xông xuống dưới lầu…

Ả đã đem đảo lộn trình tự trước sau một chút, nhưng khi đó Dương Lăng chỉ để tâm đến việc chụp lấy Trương Phù Bảo đã rơi xuống hố còn thân binh của y thì vừa mới xông xuống dưới lầu, chỉ chú ý tới hai tên hộ vệ võ công cao cường kia mà toàn bộ sự tình lại chỉ xảy ra trong khoảnh khắc, một đao đó của ả là đâm vào trước hay đâm vào sau nào có ai nhìn thấy được, ai mà có thể nói ra rõ ràng đây?

Dù sao cũng từng trần như nhộng trước mặt đối phương rồi, chẳng cần phải giả bộ thục nữ nữa, Đại Lâu Nhi lớn mật nhắc tới chuyện kia, khiến Dương Lăng không khỏi đỏ mặt. Cao Văn Tâm nghe giọng điệu của Đại Lâu Nhi có chút ám muội, không khỏi nảy lòng nghi ngờ đưa mắt nhìn qua ngó lại hai người này, không biết lần trước bọn họ… bọn họ đã thế nào rồi.

Dương Lăng vội nói lảng sang chuyện khác:
- Bản quan chỉ cảm thấy hiếu kỳ vì phu nhân là một nữ tử yếu đuối mà lại có được lòng gan dạ như thế, không hề có ý gì khác, phu nhân chớ trách! Không biết lúc này phu nhân vội vã tới gặp ta là có chuyện gì quan trọng đây?

Đại Lâu Nhi nghe vậy liền ngây ra, ả vốn hận Dương tri phủ vừa thấy mình mất đi chỗ dựa đã lập tức muốn dùng quyền thế bức ép mình hầu hạ, do đó mới tùy tiện kiếm cớ, chẳng qua chỉ muốn dùng quan uy của Dương Lăng để thay mình trút cơn giận này mà thôi, nào có chuyện gì quan trọng muốn bẩm báo với y chứ?

Ả vội vã suy nghĩ một chút, sau đó đó tùy tiện kiếm cớ:
- Trong mật thất của Mạc Thanh Hà có giấu một lượng lớn tiền đồng, vì Oa quốc thiếu thốn tiền mặt, do đó hắn mới dùng bạc đổi lấy tiền đồng để đem đi trao đổi hàng hóa với người Oa, ở Đại Minh một ngàn văn tiền bằng một lạng bạc, nhưng đem đến Oa quốc mua hàng thì có thể mua được một lượng hàng trị giá một lượng hai. Tiện thiếp sợ đại nhân còn chưa biết hắn cất giữ một lượng lớn tiền đồng trong kho như thế là có ý gì, cho nên…

Dương Lăng cười hà hà nói:
- Đây cũng không phải chuyện gấp gì, sau này khi quan phủ kiểm kê tự nhiên sẽ phát hiện ra thôi, phu nhân nói với Dương tri phủ là được rồi, hà tất…

Đại Lâu Nhi lúc này chợt nảy ý đồ với Dương Lăng. Mỹ sắc đã không thể khiến y thần hồn điên đảo, vậy tất nhiên mình phải thể hiện một chút tài năng, sao có thể để y coi nhẹ mình được chứ?

Trầm ngâm trong chốc lát ả đã nghĩ ra được một lý do, bèn hé miệng cười nói:
- Đại nhân dạy rất phải, thực ra tiện thiếp đến đây… là muốn hiến kế cho đại nhân.

Dương Lăng hơi ngẩn ra, thu nụ cười lại hỏi:
- Hiến kế? Ý của phu nhân là…

Đại Lâu Nhi nói:
- Tiện thiếp biết đại nhân mới nhậm chức xưởng đốc, căn cơ ở kinh sư chưa vững, lần này tới Giang Nam chính là để có thể thuận lợi tiếp nhận ty thuế quan. Thuế khóa Giang Nam chiếm tới sảu bảy phần mười của thiên hạ; bình định được Giang Nam tất sẽ ổn định được đại cuộc. Hiện giờ ba đại thái giám trấn thủ đất Giang Nam đã mất hai người, tất nhiên thái giám trấn thủ các nơi sẽ lòng dạ xao động, nếu vì thế mà dẫn đến việc thuế khóa không ổn định thì triều đình tất sẽ loạn, người bất mãn với đại nhân e là sẽ nhân cơ hội này mà công kích.

Ả đưa cặp mắt mỹ lệ liếc nhìn Dương Lăng, thấy y nghe đến nhập thần, không khỏi tinh thần phấn chấn, tiếp tục nói:
- Tiện thiếp ngụ tại Giang Nam đã lâu, thường ngày lại hay nghe Mạc Thanh Hà nhắc tới một số chuyện về thuế khóa, do đó… cũng có một số kiến thức ít ỏi muốn nói với đại nhân, có lẽ là sẽ có chút tác dụng.

Từ sau khi bắt Viên Hùng thì Dương Lăng bắt đầu rầu rĩ vì không biết tìm đâu ra một trấn thủ thái giám thích hợp, tùy tiện tìm một người thì không khó, nhưng tiền thuế ở nơi này liệu có thể thu được đúng thời hạn và đủ số lượng hay không lại khó nói vô cùng. Bây giờ còn bắt liền một mạch hai người, điều cần suy nghĩ không chỉ là chọn người nữa, mà còn có lòng người.

Thuế giám các nơi nghe được tin tức này e là đều hoang mang sợ hãi, thời đại này lại chẳng có ti vi hay điện báo gì cả thì làm sao vỗ về bọn họ đây? Tiền thuế mà không thu về được, đừng nói là ty thuế quan sẽ quay trở về tay ty Lễ Giám mà e là ngay đến Nội xưởng cũng sẽ bị triệt bỏ.

Với tác phong nhổ cỏ nhổ tận gốc của Đông xưởng, bọn họ không thừa cơ đánh cho bản thân mình vĩnh viễn không thể trở mình mới là chuyện lạ. Làm sao có thể vỗ về thuế giám các nơi, làm sao để chọn ra hai người đảm nhận chức vị tối quan trọng này, đây là những vấn đề cấp bách mà y cần giải quyết ngay trước mắt.

Tìm ra chứng cứ để bắt bọn họ tuy khó nhưng lại chẳng có nhiều hậu quả cần phải suy nghĩ. An bài thuế giám mới tuy dễ nhưng động một chút là có thể ảnh hưởng đến toàn cục, lỡ mà xử lý không khéo thì công lao trừ gian diệt ác trước đó sẽ lập tức bị gạt bỏ ngay. Do đó Dương Lăng nghe ả nói xong bèn không kìm được dỏng tai lên truy hỏi:
- Ồ? Mạc phu nhân có diệu kế gì sao? Mau nói ra đi!

Đại Lâu Nhi yêu kiều nói:
- Thực ra hai chuyện này là một mà hai, hai mà một, giải quyết được vấn đề chọn người thì cũng sẽ giải quyết được vấn đề vỗ về lòng người. Thuế giám trấn thủ mới nhất định cần có năng lực tiếp quản thuế vụ, đồng thời còn phải tuyệt đối trung thành với đại nhân, vừa có tác dụng vỗ về thuế giám khắp nơi trong thiên hạ nữa, hơn nữa lại cần làm bật được tác dụng của việc đại nhân trừ gian lập oai lần này. Phải được một hòn đá trúng bốn con chim như thế thì chuyến đi Giang Nam này của đại nhân mới coi như là công đức viên mãn.

Dương Lăng vội cầm lấy chén trà đưa lên bên miệng, vui mừng nói:
- Dương mỗ mong được nghe rõ, xin phu nhân hãy chỉ giáo cho!

Đại Lâu Nhi nghe giọng y thân thiết hoàn toàn khác hẳn với thái độ vừa rồi thì cho rằng mình đã nhận được sự tán thưởng và lòng yêu thích của y, không kìm được mừng rỡ vô hạn, cười tươi nói:
- Chuyện này thì dễ thôi, đại nhân có thể điều thuế giám thuế quan, thuế lương từ các nơi nhỏ bé như Gia Hưng, Lệ Thủy tới, để bọn họ đổi sang trấn thủ nơi yếu địa Tô Châu, Hàng Châu. Bọn họ ở Giang Nam đã lâu, thông thuộc tình hình nơi này, chỉ cần nhậm chức là sẽ có thể thuận lợi tiếp nhận mọi việc, sẽ không ảnh hưởng gì tới tiền thuế năm nay đâu. Những người này một mực không được đề bạt, lúc này đột nhiên được thăng lên làm thuế giám trấn thủ vùng Giang Nam trọng địa thành ra đại nhân đối với bọn họ có cái ơn tiến cử, thêm vào đó Viên Hùng là cái gương của kẻ không nghe lời, chẳng lẽ bọn họ không trung thành với đại nhân mà đi trung thành với lũ người ở ty Lễ Giám sao?

Còn về những chỗ trống bỏ lại sau khi điều bọn họ đi thì cũng không thể sử dụng người ở kinh sư nữa, thứ nhất là thời gian không kịp, đợi đại nhân trở về kinh sư chọn người xong, rồi bọn họ lại đến đây nhậm chức, chiêu binh mãi mã, làm quen với tình hình, tất cả cứ tuần tự tiến hành e rằng cần phải tới tháng sáu năm sau mới xong. Hơn nữa phần lớn thái giám ở kinh sư đều là người của ty Lễ Giám, đại nhân không biết rõ gốc gác của bọn họ, một khi chọn nhầm người, chẳng phải là giao quyền bính lại cho ty Lễ Giám sao? Thuế giám của Đại Minh vốn đều do các công công đảm nhận, nhưng công công thì không phải chỉ kinh sư mới có…

Hai mắt Dương Lăng lập tức sáng rực lên, buột miệng thốt:
- Kim Lăng!

Hai mắt Đại Lâu Nhi nheo lại như hai vầng trăng khuyết, mỉm cười nói:
- Chính vậy! Do đó… việc chọn thuế giám này… đại nhân có thể lấy người từ Kim Lăng. Thái giám ở Kim Lăng toàn là người rảnh rỗi, bọn họ trước đây tranh sủng ở kinh sư thất bại nên mới bị đuổi đến đó dưỡng lão, ai nấy đều bất đắc chí, u uất vô cùng. Bọn họ có thể làm được việc lại quen thuộc phong thổ nhân tình chốn Giang Nam, một khi có cơ hội đi ra khỏi tòa cung điện mà bản thân vốn phải ngồi chờ chết ở trong đó kia, lại được nếm chút lợi lộc, nhất định sẽ một lòng làm việc cho đại nhân.

Việc đại nhân dùng người ngay tại chỗ để đảm nhận chức thuế giám sẽ giống như là một viên thuốc an thần đối với thuế giám trấn thủ các nơi, khiến bọn họ biết rằng chỉ cần ngoan ngoãn nghiêm túc làm việc, đại nhân sẽ trọng dụng bọn họ. Điều người từ Kim Lăng tới có thể giải quyết vấn đề trung thành của thuế giám mới nhậm chức, đồng thời còn là một lời cảnh cáo với thuế giám các nơi, nếu bọn họ cứ chân trong chân ngoài thì vẫn còn có rất nhiều người khác chờ đi theo làm việc và tận trung với đại nhân. Một khi được như vậy, đại nhân chẳng cần đích thân bôn ba khắp nơi mà vẫn có thể nắm chắc các thuế giám trong thiên hạ vào lòng bàn tay. Giang Nam mà ổn định, cục diện thiên hạ cũng sẽ ổn định thôi!

Dương Lăng mặt mày phấn chấn, nói chuyện với Đại Lâu Nhi càng lúc càng hợp, thật có cảm giác hận rằng gặp nhau quá muộn. Đại Lâu Nhi vốn có tài ăn nói lại cố ý lấy lòng, thần thái quyến rũ kia của ả khiến Cao Văn Tâm nhìn mà lòng dạ chua loét, hậm hực vô cùng, chỉ hận không thể móc cặp mắt cứ như thể đang bay đi bay lại kia của ả.

Cuối cùng Dương Lăng không ngờ còn mang theo vết thương mà đứng dậy đích thân đưa Đại Lâu Nhi ra ngoài cửa, nhìn ả đã thướt tha đi hẳn rồi mới trở lại trong phòng. Cao Văn Tâm lập tức không kìm được nói:
- Đại nhân, sao ngài lại đối xử với cô ta… Thân phận của cô ta… Nếu ngài mang theo cô ta bên cạnh, thanh danh sẽ…, hơn nữa ngài còn không biết, khi ở Tô Châu cô ta… Ôi ôi, tôi không nói được, dù sao cô ta cũng không phải người tốt!

Dương Lăng thấy Cao Văn Tâm trước giờ vốn luôn điềm đạm tao nhã mà lúc này cũng phải mặt mũi đỏ bừng, ngay đến cái cổ cũng như được nhuốm màu đỏ son, không kìm được cười hà hà nói:
- Sao cứ như là lão gia ta sắp rơi vào miệng hổ thế, có đáng sợ như vậy không? Có phải là vì nhìn thấy người ta xinh đẹp hơn cô không vậy? Ha ha ha!

Thấy bộ dạng chẳng hề bận tâm của y, Cao Văn Tâm không kìm được giậm giậm chân, lo lắng đáp:
- Ôi lão gia của tôi ơi, sao ngài lại hồ đồ như thế chứ? Vô duyên vô cớ mà lại xun xoe ân cần nếu không phải kẻ gian thì cũng là trộm cướp. Tiểu tỳ thấy đó không chỉ là miệng hổ thôi đâu!

Cao Văn Tâm thấy y vẫn cứ cười hì hà như cũ, không kìm được ngoảnh mặt đi, hậm hực lẩm bẩm: “Đúng là làm ơn mắc oán, người ta được mỹ nữ để ý đến, trong lòng vui mừng còn chưa kịp nữa kìa, mình thật là ngốc, hoàng đế không lo mà thái giám đã lo.” Nói một hồi nàng bất giác cảm thấy ấm ức, nước mắt không kìm được rào rạt tuôn rơi.

Không ngờ chỉ mới trêu chọc một chút thôi mà đã khiến giai nhân rơi lệ, Dương Lăng vội vàng bước tới hoang mang dỗ dành:
- Văn Tâm đại tiểu thư của ta ơi, cô được làm bằng nước hay sao vậy? Đừng khóc nữa đừng khóc nữa, ta chỉ trêu cô một chút thôi mà! Cô tưởng lão gia ta là kẻ ngốc hay sao, cô ta có phải là người tốt hay không thì liên quan gì đến ta chứ? Chỉ cần cô ta có ý kiến tốt là được rồi, đúng không hả nữ thần y có đôi tuệ nhãn của ta?


Quyển bốn - Chương 139: Trường Can Hành(1)

------------------------

Câu chuyện ở Tô-Hàng đã đi đến hồi kết.

Viên Hùng bị bắt, ty thuế quan bị trừ tận gốc rễ, năm ngàn tên thuế lại trong chớp mắt biến thành những kẻ nổi loạn giết quan tạo phản, bị tống vào trong ngục tối.

Mạc Thanh Hà vừa bị giết, tam đại phú hào đất Giang Nam là Mạc phủ đất Hàng Châu, Lý Quý của Tô Châu và Đỗ Thanh Giang vùng Kim Lăng cùng bị đám nha sai Nội xưởng không biết từ đâu chui ra một mẻ hốt sạch.

Không ai có thể ngờ rằng Dương Lăng mới vừa tiếp nhận ty Thuế Giám, căn cơ chưa vững mà lại dám tung ra một mẻ lớn như vậy, lại có thủ đoạn sét đánh như thế.

Lý Đại Tường hay tin sợ mất mật, lập tức đóng cửa không ra ngoài, lấy cớ thân mang trọng bệnh. Nhưng hắn vốn là ông chủ hệ thống cửa hiệu vải Lý Ký lớn nhất vùng Tô-Hàng, là nhà thu mua vải, sợi, tơ lụa lớn nhất vùng, mặc dầu bình thường hắn vẫn hay ép giá thu mua nhưng dân chúng cũng đã hình thành nên thói quen có hàng tất phải bán. Nay hắn đột nhiên ngưng mọi hoạt động khiến cho những người dân đã quen bán vải vóc cho cửa hiệu tơ lụa Lý Ký nhất thời chưa kịp thích ứng.

Những người dân kéo sợi dệt vải đợi hết mấy ngày nhưng những cửa hiệu tơ lụa Lý Ký vốn luôn mở cửa khắp nơi đều im lìm đóng kín. Bọn họ đành phải bảo đàn ông trong nhà gánh từng bao tải đến từng hộ dệt và cửa hiệu tơ lụa khác để chào hàng.

Nghe kể chuyện về Lý Đại Tường, Dương Lăng muốn khóc dở mếu dở. Không lẽ bây giờ sai người kêu hắn đến gặp mình? Vấn đề là cái mông của vị Lý công công này cũng chẳng "sạch sẽ" gì, sợ rằng thư mời vừa gởi đến, hắn không cuốn gói bỏ chạy thì cũng sẽ thắt cổ tự tử thôi, dám đến Hàng Châu mới là lạ!

Bằng không... hay là mình chủ động đi gặp hắn vậy? Có vết xe đổ của Viên Hùng, Tất Xuân và Mạc Thanh Hà, áng chừng kết quả cũng sẽ như vậy thôi. Nhưng bây giờ hai quan thuế giám mới vẫn chưa nhậm chức, nếu Lý Đại Tượng cũng "nửa đường đứt gánh" thì chẳng phải thế cuộc ở Giang Nam sẽ nguy hay sao?

Dương Lăng đang rầu rĩ, chợt có Trương thiên sư đến thăm để cảm tạ và từ biệt. Trông thấy Thiên sư, y lập tức nảy ra một ý hay, bèn thổ lộ tâm ý của mình với chàng ta và yêu cầu Thiên sư trên đường quay về nhà hãy dừng chân nghỉ tạm tại Tô Châu rồi cùng với phú ông Ngô Tế Uyên đến thăm Lý công công, bày tỏ chút thiện chí của mình muốn ban thưởng cho người có công.

Dương Lăng cũng không nói văn vẻ gì nhiều, đại ý là "lãnh đạo rất hài lòng với công tác thu thuế của Lý công công, có ý định đề xuất biểu dương và khen thưởng; còn chuyện hắn mở cửa hiệu lụa tơ này nọ, miễn là đừng hà khắc với bá tánh quá thì vẫn có ích cho sự phát triển kinh tế Giang Nam; đồng thời cũng hy vọng Lý công công chớ nên kiêu ngạo nóng nảy mà hãy nỗ lực không ngừng để trở thành tấm gương mẫu mực cho các thái giám thu thuế vùng Giang Nam."

Nói nhăng nói cuội khiến người ta tin tưởng chính là sở trường của Trương thiên sư. Chàng ta vừa nghe thì hiểu ngay vị Dương khâm sai này đã lập oai hơi bị quá đà khiến cho thuộc hạ cóng cả chân tay, bây giờ đã đến lúc y phải phong quan tước và phủ dụ thuộc hạ, bèn nén cười mà gật đầu chấp thuận.

Dương Lăng nói chuyện gạt Lý công công xong thì đến lượt Trương thiên sư mở lời gạt y.

Theo ngữ khí của Trương thiên sư thì tướng mạo Dương Lăng cực kỳ tốt đẹp, quan to lộc hậu, cả đời may mắn, … thật giống hệt mấy lời tán dương của những ông thầy bói mù. Mặc dù lời được thốt ra từ miệng Trương thiên sư song Dương Lăng vẫn hoàn toàn chẳng để tâm.

Trương thiên sư không dám tiết lộ cái bí mật đoạt xá tục mệnh của y. Thấy y cười cười tiếp nhận song mặt lại không hề tỏ vẻ tán thành, chàng ta do dự một lúc, cuối cùng đành phải đế thêm mấy câu:
- Bất kể đại nhân có muốn hoặc có nghĩ đến hay không, nhưng trong mạng của đại nhân đã được định trước là không ngừng có can qua, mà lộc phước và lộc thọ của người bị chết bất đắc kỳ tử sẽ dời sang người đại nhân, tăng phước thêm lộc cho đại nhân; đây gọi là số cưỡng lộc đoạt phước. Vận mệnh của con người là thứ kỳ diệu nhất, không thể tin tưởng hoàn toàn song cũng không thể không tin đâu.

Dương Lăng nghe vậy thì giật mình: "Lời này là có ý gì? Sao nghe giống như những câu ‘giẫm lên vai người khác mà đi’ và ‘lấy máu kẻ khác nhuộm đỏ mái nhà mình’ dùng để chỉ trích những tay gian thần như thế nhỉ? Cưỡng lộc đoạt phước?"

Vừa nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng chợt máy động: "Từ lúc mình đến thời đại này, ít nhiều mình cũng đã làm thay đổi số phận của những người chung quanh. Nếu như mình không đến, Ấu Nương có đập đầu vào quan tài mà chết không? Dân chúng của Kê Minh Dịch có phải chết không? Bọn Lý Đạc và Đới Nghĩa sẽ còn có thể sống không? Những người Mã dịch thừa, Bào tham tướng, Vương Cảnh Long, Mạc Thanh Hà sẽ thế nào? Vương Quỳnh, Hồng Chung có sẽ bị giáng chức bãi quan không? Tất Xuân, Viên Hùng có sẽ lê thân xiềng xích vào ngục không?"

“Có người thì vì mình mà sống, vì mình mà chết, có người thì do mình mà phát tài, vì mình mà gặp nạn, chẳng lẽ mình thật sự có số cưỡng lộc đoạt phước ư? Nghĩ cẩn thận lại một chút, từ khi đến thế giới này, cho dù không phải ý muốn của mình, song quanh người mình lúc nào cũng có phong ba nổi lên không ngừng, mỗi lần có người gặp xui xẻo hay thậm chí là phải chết đi thì quan chức và phúc lộc của mình lại tăng thêm một tí. Đó là số cưỡng lộc đoạt phước sao?"

Dương Lăng nghe xong thì lấy làm kinh hãi và nghi ngờ nên chột dạ nhìn Trương thiên sư, chỉ sợ người này thật sự thần thông quảng đại đã phát hiện ra chân tướng của mình.

Còn Trương Phù Bảo vẫn đang ngồi một bên lắng nghe chuyện, ra vẻ nhã nhặn không nói tiếng nào. Nhưng kẻ nói vô tâm người nghe cố ý, câu "không ngừng có can qua" vừa lọt vào tai, nàng bèn chợt nhớ đến câu "binh qua khởi thời xuân ảnh động"* trong bài thơ đoán lang quân, mặt lập tức ửng lên một áng mây hồng. (*: dáng xuân lả lướt thời chinh chiến)

Hôm nay Trương Phù Bảo định mượn cớ trong người không khoẻ để khỏi đến viếng Dương Lăng, nhưng y bị thương là vì nàng, nàng không đến tỏ lời cảm tạ thì coi sao được? Tuy Trương thiên sư tuổi còn nhỏ nhưng thân là Thiên sư trên Long Hổ sơn, trong việc đối nhân xử thế thì lễ tiết được xem trọng hàng đầu nên tuy rất mực yêu thương cô em gái mình nhưng chàng ta vẫn lôi nàng đi cho bằng được.

Hiện tại Trương Phù Bảo quả thật có phần hơi sợ gặp mặt Dương Lăng, hận không thể tránh y càng xa càng tốt. Nàng có phần mất tự nhiên hơi co người lại, trộm liếc Dương Lăng: "Cái tên này... chức quan đã to, người lại anh tuấn, nói chuyện cũng không thấy ghét lắm, nếu làm tướng công của người ta thì cũng không xem là thiệt thòi cho mình.

Nhưng mình là em gái của quốc sư, sao có thể làm thiếp của người khác cho được? Mỗi lần mẹ mình gặp mẹ cả đều phải nhún nhường cười bồi, phải để ý theo dõi ánh mắt, nét mặt của mẹ cả. Cái vẻ bị ức hiếp đó... Thế nào đi nữa thì mình cũng không thèm, dù y có tốt thế nào mình cũng sẽ không cần!"

Trong khi Dương Lăng vẫn mãi trầm tư: "Nếu như lời thiên sư nói là thật, vậy chẳng phải nói bởi mình đến đây thay đổi quá nhiều thứ, cho nên ngay cả quỷ thần cũng không cách nào nắm được vận mệnh của mình sao? Nếu như vậy... một năm sau mình có phải chết bất đắc kỳ tử không?"

Nghĩ đến điểm này, nhớ tới Trương thiên hết lòng thề thốt nói y sẽ phước lớn lộc to, mặc dù Dương Lăng vẫn còn bán tín bán nghi nhưng cũng giống như tâm lý của người sắp chết đuối bỗng vớ được cọng rơm, y thà tin rằng có còn hơn là tin rằng không.

Dương Lăng mừng rỡ nói:
- Nhờ lời tốt lành của thiên sư, nếu thật như lời thiên sư nói, Dương mỗ nhất định sẽ tự thân đến Long Hổ sơn, bái lạy Thái Thượng Lão Quân, kính dâng hương hỏa để tạ ơn.

Trương Phù Bảo vừa nghe đến bái lạy Thái Thượng Lão Quân liền bật nhổm dậy ra khỏi ghế như một quả bóng cao su, cuống quít xua hai tay phản đối:
- Ngươi đừng đi, ngươi đừng đi, không thể bái, không thể lạy, .... A?... A... a ha. Ha ha ha...

Trương Phù Bảo thấy Dương Lăng và anh đều kinh ngạc nhìn mình, bèn cười gượng gạo mấy tiếng rồi ngượng ngập lúng túng chống chế.

Trương thiên sư trợn mắt thầm nghĩ: "Xem ra hôm nay em gái mình bị bệnh thật rồi, mà bị bệnh không nhẹ à! Nếu tổng đốc nội xưởng đến làm lễ tạ thần linh thì sẽ được biết bao nhiêu là tiền bạc hương hỏa kia chứ? Đại gia đình Long Hổ sơn đều cần mình phụng dưỡng đó! Cái con nha đầu ngốc này, có chỗ tốt mà còn đưa cho người khác."

Trương thiên sư tức giận trừng mắt nhìn em gái, đoạn xoay người cười nói với Dương Lăng:
- Tiểu đạo biết đại nhân bộn bề công vụ, hơn nữa lần này tiểu đạo xa nhà quá lâu, gia mẫu đã thúc hối huynh muội tiểu đạo trở về núi rồi, cho nên sẽ không quấy rầy thêm nữa, nay phải cáo từ. Chỉ mong ngày khác có thể cung kính đón đợi đại nhân.

***


Tiễn huynh muội Trương thiên sư xong, Dương Lăng liền lập tức bắt tay vào giải quyết vấn đề chọn người trấn thủ lương thuế (thuế nông nghiệp) và quan thuế (thuế thương nghiệp). Dương Lăng không quen biết những thái giám trấn thủ ở các địa phương lân cận nên y vốn có ý muốn hỏi qua Tiểu Lâu. Nhưng kể từ sau ngày từ biệt ấy, ngoại trừ những lúc phối hợp cùng quan phủ kê biên tài sản thì nàng ta lộ diện một chút, còn những lúc khác Tiểu Lâu đều ru rú trong nhà, quyết không bước chân nửa bước vào nơi cư ngụ được trọng binh trấn giữ của Dương Lăng.

Ngày ấy khi thấy nàng ta phô vẻ nhu mì quyến rũ trước mặt Dương Lăng hệt như một thiếu nữ đưa tình, Cao Văn Tâm còn tưởng nàng ta sẽ không biết xấu hổ mà vẫn đến cám dỗ đại nhân. Hôm nay Dương Lăng đang làm khách trọ ở tây viện, nàng ta lại là chủ nhân duy nhất của đông viện, cái cớ để cho hai người tiếp xúc quả thật rất nhiều, khó mà đề phòng cho đặng, ngờ đâu nàng ta lại không xuất hiện nữa.

Dương Lăng đành phải sai người đi thỉnh giáo nàng, nhưng Tiểu Lâu không đến mà lại gửi một tờ hoa tiên* thơm ngát, trên đó liệt kê danh tính, tính tình và năng lực của hơn chục vị thái giám trấn thủ ở những vùng lân cận, như thể nàng sớm biết Dương Lăng sẽ hỏi chuyện này vậy. (*: loại giấy viết thư khổ nhỏ, có vẽ màu; được dùng để viết thư từ cho lịch sự)

Dương Lăng cũng không sao tin được nàng ta. Tuy rằng biện pháp mà Tiểu Lâu đề ra đích thực sẽ giải quyết được tình hình Giang Nam trước mắt, là biện pháp tốt nhất để tránh ty Lễ Giám mượn cớ công kích y. Nhưng sự điềm tĩnh ngày đó của nàng ta thật sự không giống với vẻ yếu ớt sợ sệt khiến người ta phải động lòng mà nàng ta biểu hiện ra bên ngoài.

“Tự cổ thanh lâu đa kỳ nữ.” Cho dù nàng ấy là nữ trung hào kiệt, nhưng khi đã lo sợ Mạc Thanh Hà trả thù, nàng ta ắt sẽ luôn nấp sau hậu trường, bởi vì ngày ấy đã cho thấy rõ ràng Mạc Thanh Hà không hề hoài nghi nàng ta.

Tại sao nàng ta lại muốn xung phong đứng ra đích thân bày binh bố cục từ đầu cho đến khi giết chết Mạc Thanh Hà? Biểu hiện của nàng ta quá ư là tích cực, hơn nữa không hề có đủ lý do để phải làm như thế. Nghĩ không thông được nguyên do trong chuyện này nên từ đầu chí cuối Dương Lăng vẫn cảnh giác với nàng ta.

Nhưng những biểu hiện trước mắt của Tiểu Lâu thì lại không thể chỉ trích gì được: nàng ta ru rú trong nhà không gặp người ngoài, lại còn chủ động hiến kế lấy lòng khâm sai, bày mưu vạch kế cho y. Nó cũng phù hợp với cảnh ngộ gia quyến phạm quan hiện tại của nàng ta: luôn phải cẩn thận lo lắng mọi bề, chỉ mong có thể tự bảo vệ mình.

Vì là quan khâm sai tiếp nhận mật báo từ nàng ta, thế nên dù trong lòng có nghi ngờ gì chăng nữa thì lúc này chẳng những Dương Lăng không thể chất vấn mà còn phải ra sức bảo vệ, thu xếp chỗ ở ổn thoả cho nàng ta để không bị kẻ khác lên án.

Sau khi nhận được ý tưởng của Tiểu Lâu, Dương Lăng cũng đã sai người đến các huyện phủ phụ cận âm thầm dò hỏi. Mặc dù tin tức đưa vội tạm thời chưa có những sự việc và nội dung chi tiết mà nàng ta đã nêu trong thư, song tham khảo một chút thì thấy có vẻ như Tiểu Lâu không hề nói dối.

Sau khi cân nhắc một hồi, Dương Lăng chọn trong danh sách ra hai vị thuế giám, sai người đến đó truyền lệnh hai người phải lập tức đến Hàng Châu nhậm chức. Thái giám của ty Thuế Giám trên danh nghĩa là khâm sai do Hoàng đế tự thân cắt cử, song trên thực tế đều do người phụ trách ty Thuế Giám điều phối, chọn lựa. Thuế khoá Giang Nam không thể bỏ trống lâu ngày được, do đó hiển nhiên y có quyền tiến hành an bài trước rồi mới về kinh xin thánh chỉ xác nhận sau.

Hai vị thuế giám tân nhiệm này sướng như lên mây, chạy không ngừng nghỉ tới Hàng Châu. Sau khi đưa thiếp đến phủ xin viếng thăm ông chủ mới là Dương Lăng xong, bọn họ lập tức bắt tay vào giải quyết ngay công việc: kiểm kê danh mục và các khoản thuế, lọc ra các loại thuế phụ thu, chiêu mộ nhân thủ,…làm việc hết sức ra đầu ra đũa. Tuy rằng hai người cố ý lấy lòng nên hơi có vẻ biểu diễn nhưng năng lực làm việc đích thực cũng không tệ.

Lý Đại Tường đang nhắm mắt chờ chết thì nhận được tin do Trương thiên sư mang đến, liền giống như ăn được tiên đơn hồi sinh, ba hồn bảy vía đều trở về. Có hai tấm gương một chết một sống là Mạc Thanh Hà và Viên Hùng trước mắt, còn có bọn thuế giám các phủ huyện lân cận giương mắt hổ nhìn chằm chằm, Lý Đại Tường quả thật không hề dám có chút ý niệm chần chừ quan sát nữa, mà quyết dốc lòng ra sức làm việc cho Dương Lăng.

Về phần Lý Quý, sau khi hay tin Mạc Thanh Hà đã chết, mất đi chỗ dựa cuối cùng hắn đành ngoan ngoãn cung khai tất cả, có điều khẩu cung của hắn đã không còn quan trọng nữa. Có những bằng chứng rõ ràng như Mạc Thanh Hà mưu sát khâm sai nên đã bị giết tại chỗ, phát hiện hàng đống xương trắng trong Phật đường, … đã đủ để trừ tận gốc thế lực Mạc Thanh Hà, không lưu lại một chút hậu họa nào.

Thấy cục diện Giang Nam đã ổn định, lúc này Dương Lăng mới hoàn toàn yên tâm. Hiện giờ người y phái về kinh dò thám động tĩnh trong triều đình vẫn chưa truyền tin về, y bèn ghi tỉ mỉ những chuyện xảy ra ở Giang Nam sai người đưa tin về kinh thành lần nữa, thưa rõ với hoàng đế Chính Đức rằng mình sẽ đi Kim Lăng trước, chọn bổ sung hai thuế giám xong rồi sẽ lập tức về kinh. Đồng thời y căn dặn người đưa tin sau khi về kinh nếu có bất kỳ động tĩnh gì cũng đều phải bẩm báo lại ngay.

Thu xếp mọi thứ xong xuôi, lúc Dương Lăng đang chuẩn bị lên đường đến Kim Lăng thì vị phu nhân Tiểu Lâu nhiều ngày không xuất hiện nọ bỗng lại lộ diện, xin cầu kiến khâm sai đại nhân. Dương Lăng sắp rời Mạc phủ nên cũng đang định gặp qua Mạc phu nhân, nghe nói nàng ta đến bèn vội nghênh đón vào phòng.

Tiểu Lâu lả lướt bước vào, cúi người thi lễ Dương Lăng. Hôm nay nàng ta mặc một bộ đồ bằng lụa gấm màu đen, mái tóc mượt mà đen nhánh chỉ cài một chiếc trâm bạch ngọc càng làm tôn thêm khuôn mặt tươi sáng và làn da như tuyết, nõn nà như vải tươi.

Bước chân nàng ta vốn nhẹ nhàng uyển chuyển, dáng đi như phiêu du trên sóng, như lăng ba vi bộ không nhiễm bụi trần. Nhớ đến hình ảnh nàng ta đạp cỏ trong mưa, duyên dáng ngó quanh lúc y mới đến Mạc phủ lần đầu, Dương Lăng không khỏi cảm thấy hơi ảo nảo: tuy rằng Mạc Thành Hà đáng tội chết nhưng hết thảy cũng đều do mình đến đây nên mới thành ra cớ sự như ngày hôm nay. Khi đó đón mình vào trong phủ, nhất định là Mạc Thanh Hà hoàn toàn không ngờ đến sẽ có ngày hôm nay. Nếu không nói đến công đạo thị phi, thiện ác đáo đầu thì mình thật sự có phần giống sao Quả Tạ (*).
(nguyên văn “tảo bả tinh”: sao chổi, ý mang điềm xấu)

Thấy Tiểu Lâu làm lễ với mình, Dương Lăng bèn đỡ hờ dậy, cười điềm đạm:
- Mời phu nhân ngồi. Vài hôm nữa bản quan sẽ phải lên đường, đi qua Kim Lăng để trở về kinh sư nên đang định đến chào từ biệt phu nhân.
Y vừa nói vừa vung tay về phía cửa gọi:
- Người đâu, dâng trà!

Lúc này Cao Văn Tâm đang thu thập dược liệu ở sau nhà nên không ở cạnh Dương Lăng. Đúng vậy, nàng đang thu thập dược liệu. Khâm sai đại nhân bị thương, thế thì quan viên, thân sĩ, danh sĩ địa phương đều phải bày tỏ thành ý một chút, phải không? Thế là các loại dược liệu ùn ùn không ngừng được đưa tới đủ để mở cả một hiệu thuốc, có điều chỉ có thể là một hiệu thuốc đặc biệt kỳ quặc thôi.

Những danh sĩ phú hào đó có ai biết về y thuật? Trong nhà cứ có dược liệu cổ quái nào tương đối hiếm thấy và có giá cao mà có thể mang ra biểu thị thành ý đều được sử dụng. Bọn họ chả quan tâm Dương Lăng bị thương chỗ nào, vướng phải bịnh gì, cho nên thuốc trị thương, thuốc bổ, thậm chí còn có cả xuân dược đều được mấy tay tài chủ địa phương dốt học mang đến tặng. Nói chung là muôn màu muôn vẻ, đa dạng đủ kiểu.

Trong mớ đó không thiếu những dược liệu trân quý hiếm thấy, dưới con mắt của thần y diệu thủ chân chính như Cao Văn Tâm, quả thực là có vô số "món vũ khí sắc bén" cầu được ước thấy. Nàng sao cam lòng để đám nha sai không thông thạo thu xếp loạn xạ cho được, thế là đành tự mình thu dọn.

Trong phòng khách chỉ có hai người, ngồi cách nhau bởi một chiếc bàn tròn. Hai người khẽ nghiêng mặt nhìn đối phương, ánh mắt vừa chạm nhau liền lập tức dời đi, vẻ mặt có phần lúng túng.

Hôm nay một mình trong phòng cùng với Tiểu Lâu, Dương Lăng chợt nhớ đến tình huống nàng lõa thân cám dỗ mình ngày ấy nên trong lòng không được thoải mái lắm. Tiểu Lâu cũng không hề giả vờ. Nếu đối diện với nàng là loại đàn ông dâm đãng vô sỉ thì nàng cũng sẽ không có gì phải cảm thấy lúng túng, nhưng hiện tại đối mặt với Dương Lăng, phàm là người còn có một chút liêm sỉ thì sao có thể thản nhiên như không được chứ?

Dương Lăng hai tay ôm gối, mắt dán về phía trước nói:
- Bản quan... ngày mai sẽ phải lên đường... Phủ đệ này là của cải bất nghĩa của Mạc Thanh Hà, cho nên... Một khi bản quan đi rồi, phủ Hàng Châu sẽ tịch biên luôn. Ờm... phu nhân đã có công tố giác với bản quan, cho bản quan biết được âm mưu hãm hại bản quan của Mạc Thanh Hà. Về tình về lý bản quan đều nên thu xếp chu đáo cho phu nhân rồi mới có thể đi. Không biết phu nhân có tính toán gì không?

Tiểu Lâu khẽ quay đầu sang, áo đen như màu tóc, cần cổ trắng mềm, trắng đến chói mắt. Nàng cười một tiếng hời hợt, khẽ đáp:
- Tiện thiếp còn phải đa tạ đại nhân quan tâm. Nhờ có lệnh của đại nhân, châu báu nữ trang và đồ trang điểm riêng tư của tiện thiếp mới không bị quan phủ tịch thu. Của cải tích góp... quả thật cũng được một con số không ít. Sau này... ha ha, nói chung không phải lo cơm ăn áo mặc là tốt rồi.

Lúc này có một nha sai đi vào, cũng không thèm dùng khay mà hai tay gã cầm hai chén trà đặt đại lên bàn, thưa:
- Mời xưởng đốc đại nhân dùng trà!
Nói xong, gã quay người đi ra luôn.

Thực ra không phải là gã bất kính với xưởng đốc, mà do những ông lính mù chữ này đều được điều từ bên Thần Cơ doanh qua, uống trà thì là uống trà, chứ có biết kiểu cách bên trong nó như thế nào đâu?

Dương Lăng thấy vậy thì dở mếu dở cười. Vừa mới nâng chén trà định làm động tác mời Tiểu Lâu thì chợt thấy dáng trang điểm nhạt, vẻ thanh cao của nàng, y liền nghĩ thầm: "Cô ta sẽ chịu chạm môi vào cái chén trà đã bị tên lính cầm ư?"

Ánh mắt Tiểu Lâu chợt loé lên. Nhìn thấy thần sắc của Dương Lăng, nàng không khỏi nhoẻn miệng cười, nhón lấy chén trà nhấp nhẹ một ngụm rồi bảo:
- Ha ha! Đại nhân đừng cho rằng tiện thiếp luôn ăn ngon mặc đẹp. Tiện thiếp đã từng ăn cơm thừa canh cặn của đám tửu khách ở lầu Xuân Vũ mười năm, thật sự không có nhiều quy củ như vậy đâu.

Dương Lăng thấy nàng không hề ngại ngùng nhắc lại những việc từng trải qua khi còn ở lầu xanh, tuy hình như là kể về những trải nghiệm thời thơ ấu chứ không phải là chuyện phong lưu ướt át một thời oanh liệt của nàng, nhưng y cũng không tiện bàn tiếp bèn "ờ" một tiếng rồi mượn cớ uống trà lảng tránh đề tài này.

Tiểu Lâu trộm liếc y. Hôm nay Dương Lăng mặc áo dài bằng lụa màu xanh thẫm, vạt áo và cổ thêu hình cây tùng, mái tóc đen mượt búi cao được thắt lại bằng dây lụa; mày đen mắt sáng, mày như tô mực. Dù là nàng là người lịch duyệt cũng hiếm khi gặp được nhân vật phong lưu như vậy, nàng không khỏi thầm khẽ thở dài: "Nếu như mình có thể trẻ thêm chục tuổi, lúc mới xuất đạo liền gặp được thiếu niên đắc chí, công tử văn nhã nhân phẩm xuất chúng như vậy, chắc hẳn đã tốt hơn nhiều nhỉ? Giờ thì...

Mình lớn hơn y sáu bảy tuổi, xuất thân thanh lâu đã đành, lại còn gả cho thái giám. Ngày đó mình dùng mỹ sắc dụ y nhưng y không mảy may rung động, tuy cũng vì do y kiêng kị Mạc Thanh Hà nhưng qua đó cũng có thể thấy được tầm mắt của y. Với thân phận của y, mình với tới được sao?”

Dương Lăng nhấp một ngụm trà, thấy nàng vẫn cầm chén trầm tư dường như có điều tâm sự bèn hỏi:
- Phu nhân đã tìm được chỗ ở chưa? Hôm nay cổng phủ có nha môn tri phủ trông coi, một khi bản quan đi rồi sợ rằng sẽ không thuận tiện ra vào nữa. Nếu như đã có chỗ ở mới, bản quan có thể sai người giúp phu nhân dọn đến.

Lúc này Tiểu Lâu mới sực nhớ mục đích đến đây của mình lần này, bèn vội đặt chén trà xuống cất giọng u uẩn:
- Tiện thiếp đến lần này chính là vì... chính vì việc này. Phủ Hàng Châu... tiện thiếp đã không thể yên ổn ở lại được nữa. Sau khi chuyện Mạc Thanh Hà ăn óc người lan truyền ra khắp nơi, dân chúng phố phường càng lúc càng ngoa truyền, giờ đây họ nói cứ như Mạc phủ là âm tào địa phủ không bằng.
Than ôi, trẻ Mạc Thanh Hà đem về đây đều là cô nhi, ngỗ tác nghiệm thi rõ ràng chỉ có ba mươi lăm bộ hài cốt, nhưng có mấy nhà mất con hiện nay đều một mực khẳng định là do Mạc phủ gây ra. Nếu không phải có quan phủ canh gác thì sớm đã có người xông vào phủ gây chuyện rồi.

Dương Lăng giật mình đánh thót. Loại hành vi như ác ma đó cũng đã khiến y căm ghét đến tận xương tủy. Nếu như Mạc Thanh Hà cả tin vào tà thuật, lầm nghĩ rằng ăn óc người có thể mọc lại dương cụ, vậy có phải Tiểu Lâu đã sớm biết chuyện này rồi không? Mạc Thanh Hà gây ra chuyện khiến cả người và trời đều căm phẫn như vậy, nhất định hết sức tin tưởng thứ tà thuật này. Vậy hắn sẽ giấu mà không đem khoe khoang với Tiểu Lâu sao?

Không hề đổi sắc mặt, Dương Lăng ung dung hớp một ngụm trà rồi khẽ thở dài:
- Đồng loại tương tàn, người ăn thịt người, thật sự là mới nghe lần đầu, đúng là khiến người và thần đều phẫn nộ à. Lúc bản quan nghe nói cũng sởn cả da gà. Trái lại phu nhân hiểu sâu biết rộng, thật sự đã điềm tĩnh hơn bản quan hơn nhiều.

Tiểu Lâu bật cười "phì" một tiếng, nói:
- Đại nhân đúng thật là văn nhân chỉ biết đọc sách thánh hiền, đương nhiên không thèm để ý đến những chuyện ghê rợn này rồi.

Tự cổ chí kim những chuyện này đâu phải là ít? Tạm khoan nói đến chuyện ăn thịt người để sinh tồn, Tề Hoàn công thời Xuân Thu là vua một nước, chỉ vì chán các món sơn hào hải vị mà ăn thịt trẻ con, lý do cũng chỉ để thoả mãn cho cái ham muốn của cái miệng mình. Người và thần đều căm phẫn ư? Thế mà ngay cả Khổng thánh nhân cũng khen ngợi Hoàn công là kẻ xứng đáng xưng bá chư hầu, khiến cho thiên hạ từ loạn đổi sang trị đấy.

Rồi nàng buông tiếng thở dài, nói tiếp:
- Thời mạt Tùy, Gia Cát Ngang và Cao Toản thi giàu, một kẻ thì giết đồng tử song sinh, một người thì giết chết mỹ thiếp hầu hạ của mình để ăn thịt. Vũ Ninh tiết độ sứ Trường Tòng Giản thời mạt Đường và hoàng thân Vương Kế Huân nhà Tống không kẻ nào ăn thịt dưới trăm người. Về phần bản triều...

Những chuyện ăn thịt người đầy tai tiếng có liên can đến hoàng thất bản triều mặc dù ai nấy đều biết nhưng dù sao thì trước mặt khâm sai triều đình Tiểu Lâu vẫn phải uý kị vài phần, lời định nói ra bèn lại nuốt trở vào, miệng khẽ nhếch một nụ cười nhạt. Nàng tiếp:
- Còn như từ xưa đến nay những kẻ quang minh chính đại "ăn thịt người" mà không ăn thịt người thì càng đếm không xuể(*). Tiện thiếp xuất thân vi hàn, chuyện kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu đã gặp quá nhiều rồi.
(*: ý là cướp bóc, bóc lột tàn tệ đồng loại, đưa đồng loại vào chỗ chết)

Trông thấy khuôn mặt vốn xinh đẹp cao ngạo như tiên của nàng chợt hiện lên một nỗi căm hận, Dương Lăng không khỏi cả kinh. Phát tiết sự căm phẫn xong, Tiểu Lâu mới giật mình phát hiện mình có phần thất thố liền vội vén tóc nhoẻn miệng cười, trông mỹ lệ vô ngần, nói tiếp:
- Những kiến thức này của tiện thiếp đều tích góp được từ trong cuộc sống bị người ta đọa đày ức hiếp mà ra. Sau khi nghe xong lời của đại nhân, nhất thời trong lòng có phần xúc động nên thật sự đã thất lễ.

Dương Lăng thấy nàng che giấu vẻ hỉ nộ của mình nhanh như trở bàn tay, một khi đã kiềm chế tâm tình thì nội tâm lại kín như bưng, tuy biết rằng đó là tay nghề nàng rèn luyện được khi còn ở thanh lâu song trong lòng vẫn thấy sợ. Y gượng cười đáp:
- Ờ... những người đó hoặc vì hư vinh hoặc vì hiếu kỳ, hoặc vì thèm muốn, đích thực càng đáng giận hơn so với mục đích của Mạc Thanh Hà. Chao ôi... chuyện vô lý như vậy mà cũng...

Y liếc nhìn Tiểu Lâu, không biết làm sao để mở miệng thảo luận về đề tài ông chồng thái giám của nàng có thể "đâm chồi" lại được hay không nên bèn đổi đề tài:
- Nếu như có dân chúng trút giận lây sang phu nhân, thật sự không thích hợp để ở lại bản xứ nữa hẳn là phu nhân muốn dời đi xứ khác?

Tiểu Lâu gật đầu đáp:
- Dạ! Tiện thiếp là giới nữ lưu lại không có thân nhân để nương nhờ, chỉ có thể rời khỏi chốn thị phi này lánh về nơi tha hương. Nay... tiện thiếp cũng không thể nuôi được nhiều nô bộc như cũ, nhưng nếu chỉ mang theo mấy tỳ nữ bên mình thì thuyền xe mệt mỏi cũng không sợ, e rằng chỉ sợ trên đường lại gặp phải kẻ xấu...

Vừa nói nàng vừa liếc ánh mắt long lanh về phía Dương Lăng. "Nếu như nàng ấy lúc nào cũng có biểu tình như vậy với người khác thì quả thật có không muốn gặp phải kẻ xấu cũng khó." Dương Lăng nhìn thấy mà hơi nổi da gà, trong lòng lờ mờ cảm thấy có điểm không ổn.

Y chưa kịp mở lời, Tiểu Lâu đã tranh nói trước:
- Kim Lăng là vùng đất phồn hoa, cường đạo trộm cướp cũng ít, nơi ấy lại không ai biết tiện thiếp. Tiện thiếp muốn dời đến Kim Lăng, cho nên… nếu có thể mượn quan uy của đại nhân, theo đội thuyền của đại nhân một chuyến thì mới có thể giảm bớt đi nhiều gian khổ.

Nói xong, Tiểu Lâu nhìn chằm chằm vào mắt của Dương Lăng, căng thẳng chờ đợi câu trả lời của y.

Tuy Tiểu Lâu chỉ nói là đi Kim Lăng song thật ra mục đích thật sự của nàng lại là đi kinh sư, nhưng chỉ sợ một khi nói thực mục đích của mình thì y sẽ cự tuyệt. Nàng đã suy tính kỹ mấy ngày nay: "Thân phận của mình hôm nay đã không như xưa, cho dù chỉ muốn làm thiếp của quan to đi chăng nữa cũng sợ rằng người ta vẫn sẽ rất uý kị, tìm mọi cách chối từ.

Mặt khác, khi Mạc Thanh Hà còn sống đã đắc tội với không ít quan viên. Lúc hắn còn sống thì những kẻ đó chẳng dám làm gì, thế nhưng nay hắn đã chết rồi, nếu như mình rơi vào tay những kẻ đó thì bọn chúng sẽ chà đạp mình ra sao?

Càng huống hồ vì lôi kéo Lý Phú, mình đã ước định dùng sắc đẹp để bồi đáp, hứa hẹn rằng chỉ cần diệt trừ được Mạc Thanh Hà thì mình sẽ cùng giường chung gối mà hầu tiếp hắn. Nay Mạc Thanh Hà vừa mới chết, khắp Đông viện vẫn đầy người của Nội xưởng, thế mà cái thứ không biết sống chết đó lại đòi mình lập tức "thực hiện lời hứa", hoàn toàn không sợ sẽ bị lộ ra sơ hở. Khước từ lấy lệ mấy lần, không ngờ hắn lại bắt đầu uy hiếp mình."

Tiểu Lâu là người tâm cao khí ngạo. Tuy Mạc Thanh Hà là thái giám, nhưng đã làm vợ của hắn thì nàng cảm thấy mình cũng được coi như là phu nhân chính thống, không còn là kỹ nữ thấp hèn nữa. Mỗi lần bị hắn ép đi "lấy lòng" đám quan to nàng đều cảm thấy rất là nhục nhã, bây giờ làm sao mà nàng chịu chiều theo tâm ý của Lý Phú chứ?

Huống chi kẻ này lại đần như vậy, sớm muộn cũng sẽ làm hư chuyện. Lý Quý bị lật đổ nên Lý Phú không còn thân nhân nào nữa, nàng đành mượn cơ hội lên Bắc để âm thầm tránh né cái mầm họa này. Đến nơi đất khách quê người nàng sẽ không khiến cho người khác chú ý, cũng không sợ "khổ chủ" xuất hiện đòi nợ.

Ngoài những dự tính này ra thì hy vọng lớn nhất của Tiểu Lâu chính là lúc đi cùng với Dương Lăng lên bắc, nàng sẽ có thể lấy lòng được vị tổng đốc nội xưởng nhân phẩm tuấn nhã, địa vị cao trọng này. Cho dù là hữu danh vô thực, không được thân phận gì đi chăng nữa thì so với những năm tháng phong trần mua vui đón cười như một con rối trước đây cũng đã khác nhau một trời một vực rồi.

Còn nếu như không thành công, thì với món nhân tình mà Dương Lăng đã nợ nàng, chỉ cần nàng bám theo cạnh y thì y sẽ không thể bỏ mặc làm ngơ. Có y chiếu cố mình sẽ có thể bình yên dời đến phương bắc. Về phần sau đó thế nào thì chỉ có thể từ từ rồi tính.

Dương Lăng nghe xong thì chần chừ một lát rồi bảo:
- Ừm... phu nhân muốn dời đến Kim Lăng à? Việc này... thuyền của bản quan nếu chở thêm phu nhân e rằng rất bất tiện. Hiện nay Nội xưởng đã thành lập cửa hàng thuyền và xe ở Tô Châu, bản quan có thể viết một mẩu giấy, phu nhân cầm lấy rồi đến tìm bọn họ, bọn họ nhất định sẽ có thể hộ tống phu nhân đến Kim Lăng an toàn.

Tiểu Lâu nghe y né tránh như vậy, trong lòng không khỏi có phần thất vọng nhưng vẫn cố cầu may, gượng cười nói:
- Từ đây đến Kim Lăng nhiều lắm chỉ mất hai ngày thuyền. Lúc này tiện thiếp chỉ muốn mai danh ẩn tích sống nơi tha hương, thật sự không muốn xuất đầu lộ diện. Hơn nữa... tiện thiếp cũng sẽ không ngồi thuyền của đại nhân mà chỉ thuê một chiếc thuyền khác theo sau đội thuyền của đại nhân. Đến Kim Lăng rồi... đến Kim Lăng rồi tiện thiếp sẽ không dám làm phiền đại nhân nữa. Như vậy có được không?

Dương Lăng thoáng do dự một chút, rồi gật mạnh đầu:
- Thôi được, Dương mỗ sẽ hộ tống phu nhân đi Kim Lăng! Phu nhân muốn thuê một chiếc thuyền phải không?

Tiểu Lâu thấy y đồng ý, mặt lập tức lộ vẻ mừng rỡ lộ ra một hàm răng đều tăm tắp, cười nói:
- Thưa phải! Đa tạ đại nhân thành toàn, vậy bây giờ tiện thiếp sẽ về sửa soạn hành trang.

Nàng hớn hở vái một lễ, bước được mấy bước chợt quay đầu lại cười nói:
- Đúng rồi, tiện thiếp vốn không tên không họ, lần này lên phương bắc cũng không thể dùng nghệ danh Tiểu Lâu được nữa. Tiện thiếp đã chọn cho mình một cái tên, gọi là Thành Khởi Vận, xin báo cho đại nhân được hay!

Lúc nàng quay đầu lại cười như có ánh nắng lướt qua, như khói hoa trong chớp mắt, sự rực rỡ trong chốc lát ấy làm cho người ta phải hoa mắt.

Dương Lăng thoáng cụp mắt, chắp tay, lúc ngẩng đầu lên thì nàng ấy đã đi xa rồi.

Khoé miệng Dương Lăng thoáng mím xuống, y lẩm bẩm: "Thành Khởi Vận... Thành... Khởi Vận. Thi thành khởi vận tam thiên thủ, linh lung tâm sự đãi thiên thành(1). Chỉ mong bài thơ này của cô không phải là loại thơ hư cỏ độc. Bằng không tôi sẽ không tiếc ra tay tàn độc diệt hoa đâu!" (tạm dịch: Ba ngàn bài thơ nên ý đẹp, long lanh tâm sự tùy ơn trời)

***


Thuyền vẫn đang rẽ sóng trên sông nhưng ban đêm con thuyền đi chậm hơn rất nhiều. Phía trước là một chiếc thuyền lớn mở đường, con thuyền của Dương Lăng nằm ở giữa, phía sau là một chiếc thuyền chở hàng nho nhỏ; mỗi đầu và đuôi thuyền đều treo hai dãy đèn đỏ để dò sông nước trong đêm.

Đứng bên mạn thuyền, Dương Lăng lặng lẽ nhìn lên bầu trời đêm, dịu dàng sờ chiếc đai ngọc y đang đeo trên người.

Chiếc đai ngọc đó là do Ngọc Đường Xuân tự tay may cho y trước ngày y xuống Giang Nam. Buộc dưới miếng ngọc bội vuông vức màu xanh da trời xinh đẹp đeo trước bụng là ba lọn tóc đen.

Đó là vật mà Hàn Ấu Nương mang đến căn dặn Ngọc Đường Xuân nhất định phải buộc vào ngọc bội. Ngọc Đường Xuân chỉ tưởng đó là tình ý mà Ấu Nương tỷ tỷ xưa nay luôn thẹn thùng e lệ biểu đạt với phu quân sắp đi xa của mình. Nhưng nội tình trong đó thì chỉ có Dương Lăng và Ấu Nương mới hiểu được.

Lúc này, một vầng trăng sáng treo trên không trung, mặt nước trông im lìm và tĩnh mịch, ánh đèn trên mấy con thuyền đánh cá lập loè hắt bóng bên bờ.

Gió mát thổi lướt qua mặt, dưới thuyền sóng vỗ rì rào, Dương Lăng dường như lại nhìn thấy chiếc áo tơi màu xanh thẫm bay phần phật trong gió, một thớt ngựa đỏ từ đằng xa dần dần phóng lại như ráng mây chiều, bên tai dường như vẫn còn văng vẳng tiếng ngân của mũi tên rung...

Dương Lăng hít thật sâu, rồi thở dài một hơi dằng dặc: "Đến Tô-Hàng mà không đi gặp nàng thì còn có thể miễn cưỡng giải thích được. Nhưng nếu đến Kim Lăng mà còn không đi thăm nàng ấy, Liên Nhi nàng ấy... có sẽ đuổi đánh đến tận nhà không đây?"

Dương Lăng khổ não vỗ nhẹ lên mạn thuyền lẩm bẩm: "Sợ là không thể không đi được rồi. Chậc! Xóm Trường Can ơi xóm Trường Can..."

Phía sau chợt có một tiếng cười khẽ:
- “Khi tóc vừa buông trán, hái hoa trước cổng chơi, chàng cưỡi ngựa tre đến, quanh giường tung trái mai. Trường Can cùng chung xóm, cả hai đều thơ ngây...” Lão gia là người phương Bắc, chưa từng bao giờ đến Kim Lăng, xóm Trường Can có thanh mai trúc mã(*) nào mà đợi người! Hẳn là lão gia đang nhớ... nhớ tới Ấu Nương muội muội, hay là bọn Ngọc Nhi và Tuyết Nhi vậy?
(*: chỉ đôi trai gái quen biết nhau từ thuở ấu thơ; cụm từ này xuất phát từ bài thơ Trường Can hành của Lý Bạch)

Dương Lăng quay đầu lại nhìn. Dưới bầu trời đầy sao sáng trong bóng tối mênh mang, Cao Văn Tâm đang cầm một chiếc đèn lồng yêu kiều khoan thai bước đến...






Chú thích:

(1) "Trường Can hành" (khúc Trường Can) là tên một trong hai bài thơ tình nổi tiếng của Lý Bạch.

Chương 140 - Người Đẹp Chốn Tam Ngô (1)

------------------------

Cố đô của lục triều (2) đã ở ngay trước mắt, con thuyền quan đã theo con kênh đào rẽ vào Trường Giang.

Dương Lăng bước lên đầu thuyền, dõi mắt nhìn ra xa. Trong ánh dương quang chói lọi nước sông dập dềnh vỗ tới, hai bên bờ hoa đỏ cỏ xanh, một khung cảnh tràn trề sức sống.

Bỗng có một tiếng sáo từ đâu đấy vọng đến. Tiếng sáo khi thì phấn chấn dồn dập như chim ca vượt hót, lúc thì trầm bổng du dương như lời thì thầm của người tình triền miên không dứt. Tiếng sáo thoạt có thoạt không, du dương êm ái tựa như đang quấn quít bên tai, thật khiến cho người ta có cảm giác vấn vương mãi.

Dương Lăng hướng mắt trông theo tiếng sáo thì thấy một thư sinh áo trắng đang đứng hiên ngang trên mũi đuôi thuyền, tay áo phất phơ theo gió, mắt cúi nhìn sáo, mím môi mà thổi, tuy không trông thấy rõ mặt nhưng gió sông phẩy qua, tay áo tung bay, phong thái phóng khoáng hơn người.

Dương Lăng thoáng ngẩn người, rồi lập tức sực tỉnh, bật cười nói:
- Vị Mạc phu... Thành cô nương này cũng thật là thức thời, cô ta cải nam trang sẽ giảm bớt rất nhiều lời ra tiếng vào cho ta. Liễu Bưu!

Liễu Bưu bước qua ôm quyền thưa:
- Đại nhân.

Dương Lăng nói:
- Nhiều nhất là một canh giờ nữa thì sẽ vào đến thành Kim Lăng rồi. Khi đến kênh đào vào thành thì huynh hãy sai người hộ tống thuyền nhỏ của Thành cô nương đi trước một bước. Để cho cô ta đi trước đi, chúng ta đợi một lát hẵng vào thành.

Liễu Bưu 'dạ' một tiếng, Cao Văn Tâm đưa mắt về sau liếc xéo vị 'công tử' đứng ở đầu thuyền nọ một cái, khoé môi không khỏi khẽ nhếch lên.

Trông thấy vẻ khinh thường của nàng, Dương Lăng cũng thầm hiểu, y biết nàng từ nhỏ đã được dạy dỗ thành tiểu thư khuê các chân chính, nếu không phải vô cớ gặp phải đại nạn trở thành tỳ nữ thì nàng và người con gái Tiểu Lâu kia quả thật như trời với đất, xa cách không biết bao nhiêu bậc. Trong lòng nàng quyết sẽ không có khả năng coi trọng loại con gái như Tiểu Lâu.

Quyền thế của Cao thái y tuy kém xa Mạc Thanh Hà nhưng ông lại có thân phận cao quý và thanh bạch. Cho dù Mạc Thanh Hà giàu nhất thiên hạ, quyền khuynh triều chính cũng không thể bằng được một phần nghìn ông ta chứ đừng nói đến người có thân phận đê tiện hơn như Tiểu Lâu.

Mà thôi, đằng nào thì vào thành rồi sẽ đường ai nấy đi, sẽ không còn cơ hội gặp mặt nhau nữa. Văn Tâm có khinh bỉ và coi thường nàng ta hay không, y cũng lười mà đi khuyên nhủ.

Thật ra danh kỹ thanh lâu như Tiểu Lâu, ngoài tướng mạo xuất chúng thì phần lớn đều tinh thông một nghệ thuật nào đó: hoặc thạo về thơ ca, hoặc giỏi về hội họa, hoặc thiện về âm nhạc, hay giỏi tài hùng biện. Thậm chí có người còn thuộc làu cả chiến sách binh thư.

Trình độ ấy so với rất nhiều tài tử đỗ cử nhân thì cũng không thua kém là bao. Thân là kỹ nữ thấp hèn nhất song lại tài hoa như vậy, nếu không phải vì Dương Lăng thủy chung vẫn nghi ngờ nàng ta có thể đã biết ít nhiều về những việc ác của Mạc Thanh Hà từ lâu, thậm chí rất có thể cũng đã tham dự vào trong đó để lấy lòng hắn thì với tính cách của mình y sẽ không kiên quyết chỉ đáp ứng hộ tống nàng ta đến Kim Lăng mà ít nhất cũng sẽ quan tâm an bài nơi ở cho nàng ấy. Nói cho cùng thì nàng ta là phụ nữ, xuất đầu lộ diện nhiều cũng có điều bất tiện.

Dương Lăng thở dài một hơi rồi đi đến bên mạn thuyền. Đang vịn vào mạn thuyền được ánh mặt trời sưởi ẩm, y chợt trông thấy phía trước có bảy nhánh sông đào thẳng tắp thông thẳng vào lòng Trường Giang, bảy nhánh sông này cũng không cách xa nhau lắm.

Dương Lăng lấy làm lạ bèn hỏi:
- Bảy nhánh sông đó là chỗ nào vậy? Sao ở nơi gần nhau như vậy mà lại đào đến bảy nhánh sông?

Liễu Bưu cũng không rõ nguyên nhân, vội ngoắc tay gọi gã hoa tiêu lái thuyền do phủ Hàng Châu phái tới. Gã lái thuyền nghe hỏi, vội cung kính thưa:
- Hồi bẩm đại nhân, đó không phải là sông mà là bờ đê, trong mảng rừng lớn phía sau chính là xưởng đóng thuyền Long Giang. Bảo thuyền (*)vượt biển viễn dương của Đại Minh chúng ta chính là được chế tạo ra từ nơi ấy đấy ạ.
(*) thuyền báu, ý xưng tụng

Dương Lăng kinh ngạc cả mừng, bèn vội hạ lệnh:
- Dừng thuyền, dừng thuyền, mau cập bến, bản quan muốn đến xưởng đóng thuyền xem một chút.

Lái thuyền lập tức liên lạc với thuyền lớn ở phía trước. Ba con thuyền lớn từ từ dừng lại bên sông hạ ván lên bờ, Dương Lăng chạy vội lên bờ đê. Liễu Bưu dẫn theo hơn hai mươi nha sai cùng theo xuống thuyền. Dương Lăng gọi gã lái thuyền ban nãy lại hỏi:
- Ngươi có quen thuộc nơi này không? Phía trước còn bao xa, có thể dẫn bản quan đi xem một chút hay không?

Lái thuyền đáp:
- Tiểu nhân thường hay đi thuyền ngang đây, tuy rằng chưa từng qua bên ấy nhưng nghe nói tiếp tục đi xuôi theo con đường này chỉ chừng một dặm sẽ đến xưởng đóng thuyền thôi. Nếu như đại nhân muốn đi xem, tiểu nhân dẫn ngài đi xem một chút là được.
Lúc này, một công tử áo trắng cầm cây quạt xếp đi đến, đứng cách hai trượng chắp tay hỏi:
- Có phải đại nhân muốn nghỉ ngơi ở đây một lát không?

Dương Lăng vừa liếc mắt nhìn, bất giác ngẩn người ra. Khi nãy trên thuyền y cho rằng người đứng trên đuôi thuyền thổi sáo(*) phía sau tất phải là Tiểu Lâu cải trang, vóc người cũng cực giống, nhưng bây giờ đứng ngay trước mặt nhìn kỹ lại thì thấy người công tử trẻ tuổi này đầu đội mũ bạch ngọc, mặt sáng như tranh, áo nhẹ kiểu công tử màu trắng bạc, lưng giắt ngọc bội hoa sen màu lục, ngoài ra không có bất kỳ trang sức nào khác.
(*) ở đây tác giả ghi tiêu nhưng hẳn nên là sáo theo như mô tả ở đoạn trên. TheJoker

Tuy vị công tử ấy môi đỏ răng trắng, trông vô cùng khôi ngô tuấn tú nhưng mày thanh mắt sáng, nào có mùi son phấn? Người này rõ ràng là đàn ông mà.

Dương Lăng chợt nhớ Tiểu Lâu có nói nàng muốn chuyển nhà đi xa, ngay cả gia bộc nam cũng không tiện mang theo, sao trên thuyền lại có nam nhân trẻ tuổi này? Chẳng lẽ bọn họ...

Y hoài nghi quan sát người con trai này, rồi chắp tay nói:
- Công tử từ trên chiếc thuyền sau mới xuống à? Không biết cao danh quý tánh...?

Vị công tử nọ bỗng tròn xoe đôi mắt phượng kinh ngạc nhìn y, sau đó bật cười, nhịn không được mà nói:
- Thảo dân họ Thành, nhờ được đại nhân quan tâm lại khẳng khái nhận lời mang thảo dân cùng đi đến Kim Lăng, sao đại nhân mới đi hơn một ngày đã... đã thành bậc quý nhân hay quên thế?

Dương Lăng nhìn nụ cười quyến rũ mê người của 'gã', nếu mà là nam nhân thì đã thành 'gay' mất rồi, lúc này mới sực tỉnh ngộ. Tiểu Lâu này thực là lợi hại, hơn nữa đây tuyệt không phải là thuật dịch dung gì. Sau khi nhận ra thân phận nàng, y quan sát lại dung mạo khuôn mặt, mặc dù khôi ngô tuấn tú nhưng diện mạo vẫn giống Tiểu Lâu đến tám phần.

Không ngờ nàng chỉ thay đổi cách ăn mặc, khéo léo chải chuốt và trang điểm một chút thì khuôn mặt và khí chất đã không còn nhìn ra chút vẻ phụ nữ nào, cho nên rõ ràng chưa thay đổi dung nhan song đã thấy như thể hai người khác biệt, ngay cả giọng nói cũng thay đổi rất nhiều, khiến cả mình cũng nhìn lầm.

Dương Lăng nghe nàng dùng giọng đàn ông nói chuyện liền ngạc nhiên cười nói:
- Thì ra là Thành công tử, thật trí nhớ kém quá, trí nhớ kém quá. Công tử mặc... ờm, thay vào bộ quần áo này, khiến cho bản quan nhất thời trông lầm, ha ha. À phải rồi, trên đường đi thuyền cũng hơi mệt rồi, bản quan nghe nói phía trước là nơi chế tạo bảo thuyền mà Trịnh Hoà sử dụng vượt biển phía Tây(*) năm xưa, cho nên muốn đi xem một chút ấy mà.
(*) nguyên văn “hạ tây dương”: đến đại dương phía tây

Cặp mắt thu thủy sáng ngời của Tiểu Lâu chăm chú nhìn y, vẻ rất hứng thú. Nàng nhìn Dương Lăng một cách đầy thân thiết nói:
- Đại nhân có hứng thú với xưởng đóng thuyền như vậy, chẳng lẽ cũng thích cuộc sống giương buồm đi xa, tung hoành trên biển ư?

Không đợi Dương Lăng trả lời, cặp mắt của nàng lại liếc về phía rừng cây xanh um rậm rạp nọ, rồi nói:
- Thảo dân có biết một ít chuyện về bảo thuyền của Trịnh Hoà, chẳng hay có thể kể cho đại nhân không?

Dương Lăng quả thực không muốn đi cùng với nàng, nhưng với cảnh đời mà y đã từng trải đến nay y vẫn chưa hình thành nên thái độ cao cao tại thượng, ỷ thế hiếp người, không hề quan tâm đến thể diện kẻ khác. Nay Tiểu Lâu đã chủ động đề xuất, y cũng không tiện cự tuyệt chỉ đành gật gù:
- Được, bản quan cũng chỉ đi xem cho biết một chút, nếu như Thành... công tử ngồi trên thuyền buồn chán, không bằng đi cùng bản quan vậy?

Tiểu Lâu mở chiếc quạt xếp trong tay ra đánh 'soạt' rồi lại thong thả gấp lại, nhướng mày mừng rỡ nói:
- Có thể được đi cùng với đại nhân, đó là điều hết sức vinh hạnh. Đại nhân, mời!

Dương Lăng nhẹ gật đầu, chỉ đành nhìn sang mấy người Liễu Bưu và Trịnh Bách hộ. Mấy gã thân tín này đều biết thân phận của Tiểu Lâu nên vừa thấy đại nhân nhìn về phía mình thì bọn họ lập tức rất không nghĩa khí mà đều ngoảnh mặt đi ngó trời ngó đất ngó cảnh quan chứ không nhìn vào mắt y.

Dương Lăng vốn chỉ trông mong bọn họ có thể 'âm thầm lặng lẽ' ngăn cách mình đi cạnh Tiểu Lâu, nay trông thấy 'phẩm chất đạo đức' đó của bọn họ thì không khỏi chửi thầm trong bụng rồi cắn răng bước qua kề vai sánh bước cùng Tiểu Lâu trên con đê bên cạnh bờ ruộng.

Tiểu Lâu sánh vai cùng Dương Lăng mà đi, dáng đi và cử chỉ không hề lộ ra chút phong thái nữ nhân. Dáng người mềm mại như nước trong lần đầu gặp gỡ nọ đã hoàn toàn không thấy nữa. Có thể thay đổi tướng đi và cử chỉ một người đến mức này, tuy biết là nàng nhất định đã được huấn luyện ở thanh lâu song trong lòng Dương Lăng vẫn cảm thấy kinh ngạc không thôi.

Tiểu Lâu vừa đi vừa nói:
- Đại nhân, năm xưa Trịnh công công bảy lần hạ tây dương, đi qua các phiên quốc như Cổ Lý, Lưu Sơn, Ma Lâm, Lạt Tát, Thiên Phương (3). Sự tích của ông ấy người Giang Nam chúng tôi khi nói đến đều có thể kể rõ như lòng bàn tay.

Dương Lăng gật đầu, nhìn hai hàng cây thân vừa người ôm cao ngất trời, tuổi đời ít nhất cũng phải đến mấy chục năm, hàng rừng cây mênh mông bát ngát song lại cách nhau tăm tắp như được con người trồng nên, thì không khỏi lấy làm lạ: người xưa cũng biết trồng cây gây rừng sao?

Tiểu Lâu thấy y chăm chú nhìn mấy gốc cây thì lập tức hiểu ý, nói:
- Những gốc cây ấy đều là do triều đình trồng vào năm Hồng Vũ, ban đầu định trồng cây trăm tuổi để sau này có thể dùng làm vật liệu đóng thuyền sẵn tại chỗ, song giờ lại mặc cho chúng sinh trưởng, không ai ngó ngàng đến nữa. Nghe nói xưởng đóng thuyền Long Giang hiện nay chỉ đóng mấy con thuyền hai cột và bốn cột nho nhỏ, vả lại nhu cầu về thuyền bè của triều đình có hạn, những thợ đóng thuyền gia truyền không sống nổi, đa số đều tìm kế mưu sinh khác ở ven sông...

Dương Lăng không khỏi lắc đầu thở dài nói:
- Đáng tiếc, thủy quân của Đại Minh ta năm ấy có thể xưng danh đứng đầu thiên hạ, thế mà bây giờ... Ôi! Lúc ở Hải Ninh ta thấy đám giặc Oa cưỡi vài con thuyền cũ kỹ mục nát mà vẫn từ ngàn dặm xa xôi đến cướp bóc, nếu như chúng ta có một đội thuỷ quân lợi hại thì nào còn có chỗ cho bọn chúng hung hăng?

Tiểu Lâu thấy y tỏ vẻ thất vọng, không khỏi cười mỉm, nói:
- Bây giờ Đại Minh cũng có thuỷ quân mà, chỉ có điều... có điều dùng để bình định lãnh hải, truy đuổi và tiêu diệt ngư dân và thương nhân phạm cấm lệnh rời bến ra khơi, thuyền đó chỉ có thể tuần tra ven biển, không chịu được sóng gió giữa biển cả đâu.

Dương Lăng nhớ lại thái độ của Ngô Tế Uyên đối với việc thông thương trên biển, dường như phong tục tập quán của thân sĩ và dân chúng vùng Giang Nam khá cởi mở, ý thức tiên tiến cho nên đa số đều có thái độ ủng hộ hủy bỏ lệnh bế môn tỏa cảng.

Sau khi trở về kinh, nếu như mình kiến nghị với hoàng thượng cho thông thương thì phỏng chừng trong triều sẽ gặp phải cản trở không nhỏ. nhưng nếu các tầng lớp giai cấp vùng Giang Nam giữ thái độ ủng hộ hủy bỏ lệnh bế môn tỏa cảng thì sẽ có thể tăng thêm sức thuyết phục cho mình.

Phần lớn người Tiểu Lâu tiếp xúc là danh sĩ Giang Nam, nhất định là rất hiểu biết về việc này. Hỏi thăm nàng ta để biết thêm một chút, việc thuyết phục hoàng thượng cũng nắm chắc hơn một phần.

Tuy nhiên y thấy Tiểu Lâu nói chuyện cẩn thận, rõ ràng có ý xem thường năng lực thuỷ quân Đại Minh nhưng lại không dám không kiêng dè mà nói thẳng; có lẽ chỉ khi nào mình tỏ rõ thái độ trước nàng ta mới sẽ thẳng thắng nói ra.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn nói:
- Đúng vậy, nếu mở cửa thông thương trên biển thì sẽ dân giàu nước mạnh, đồng thời mọi lúc đều có thể nắm được tình hình nước khác, tai mắt triều đình cũng sẽ không bị bưng bít. Như lúc này đây, con dân Đại Minh ta bị kềm hãm trong lục địa, rợ ngoại tuần tiễu trên biễn, đến khi thuyền biển của rợ ngoại có năng lực vẫy vùng ngàn dặm rồi thì hải phận kéo dài ngun ngút như rãnh trời của Đại Minh sẽ bị biến thành ngõ cụt thôi. Biên thùy phương bắc quanh năm bị giặc Thát quấy nhiễu, khó mà đề phòng cho đặng. Bờ biển dài dằng dặc này nào chỉ gấp mấy lần biên giới phía Bắc? Nếu như trên biển có giặc kéo vào thì dù có bố trí bao nhiêu quân đội cũng không thể nào bảo vệ được.

Tiểu Lâu cười nói:
- Đại nhân nhìn xa trông rộng, muốn đất nước giàu mạnh, không thể không để ý đến hải dương. Tài phú lấy từ trong biển, nguy hiểm cũng từ biển mà ra.

Dương Lăng kinh ngạc dừng bước, nhìn nàng nói:
- Hay! Nói rất hay! Một lời trúng đích - Y nói quanh co nửa ngày trời chẳng qua là muốn biểu đạt cái ý này, không ngờ người con gái này lại chỉ nói một câu giản dị mà ý lại sâu xa, trúng ngay điểm cốt yếu.

Tiểu Lâu mỉm cười nói:
- Đó không phải là lời của thảo dân. Thảo dân là phụ nữ... nào có kiến thức như vậy? Đó chính là lời mà Trịnh Hoà Trịnh công công năm xưa từng nói.

Dương Lăng nghe Tiểu Lâu nói trăm năm trước Trịnh Hoà đã có kiến thức và tầm nhìn xa như vậy thì không khỏi bội phục vị thái giám Tam Bảo này không thôi. Tuy ông ta là hoạn quan nhưng chỉ với phần kiến thức này thôi thì bao nhiêu học giả uyên thâm có thể sánh bằng ông ấy đây?

Đi qua rừng cây um tùm, mọi người thấy nơi nối tiếp bờ đê hiện ra vài xưởng đóng thuyền. Mỗi xưởng rộng từ mười đến ba mươi trượng không đồng đều, sâu vào độ một trăm sáu đến trăm bảy mươi trượng. Bên trong xưởng đóng thuyền trống không, cả một chiếc thuyền cũng không có. Trên xưởng có đập nước, cầu gỗ, thành đá, tuy nhiên nhìn khắp nơi đều là cỏ dại mọc um tùm, hoang vắng cô liêu, cả một bóng người cũng không có.

Dương Lăng thấy mà sững sờ, không dám tin bèn hỏi:
- Đây là xưởng đóng thuyền Long Giang à? Nơi đóng ra những chiếc bảo thuyền dài cả trăm mét đó ư? Không lẽ nơi này đã bị dỡ bỏ rồi sao? Sao ngay cả một người cũng không có?

Trịnh Bách hộ nghe vậy vội vàng dẫn theo mấy người tìm kiếm chung quanh, không lâu sau liền phát hiện một ông già tóc hoa râm đang ngồi xổm câu cá ở dưới xưởng. Trịnh Bách hộ vui mừng quá đỗi vội gọi lão ta lại.

Dường như đã lâu lắm rồi không thấy quan viên đến, ông già nọ trông thấy Dương Lăng được tiền hô hậu ủng rầm rộ, đoán hẳn phải là quan rất to, thế là ông lão sợ đến suýt ngất, vội vàng vất cần câu, lập tức chạy ù sang nghênh đón.

Dương Lăng nhíu mày hỏi:
- Ông lão, ông là người của xưởng đóng thuyền này à? Ta hỏi ông, xưởng đóng thuyền này có phải là đã dỡ bỏ rồi không? Sao không có lấy người nào đóng thuyền, cũng không thấy thợ thuyền nào cả?

Lão hán gật đầu khom lưng đáp:
- Đại nhân, tiểu nhân là quản đốc phường dây thừng, thợ đóng thuyền thế tập (gia truyền). Xưởng đóng thuyền này của chúng tôi không hề bị dỡ bỏ, nhưng nha môn Đô Thủy ty của bộ Công gần hai năm nay đã không có mệnh lệnh đóng thuyền nào. Đám thợ thuyền không có thuyền đóng, không có tiền công, mà dù thế nào vợ con cũng phải sống nữa. Cho nên... bình thường không có việc gì làm thì chở mấy chuyến đò, làm thuê làm mướn, phụ nữ con nít thì vào rừng trồng rau trồng cải thả dê. Nhưng chúng tôi cũng không dám tuỳ tiện bỏ bê xưởng đóng thuyền này, cho nên tiểu nhân đã cùng mấy quản sự của phường bánh lái, phường gỗ, phường buồm, phường mạn thuyền, phường thừng chão luân phiên trông chừng. Hôm nay đến phiên tiểu nhân cai quản, không biết đại nhân đây là...?

Nghe ngữ khí của lão, xưởng đóng thuyền này được phân công khá là tỉ mỉ, thậm chí thừng chão, buồm đều có xưởng chuyên môn phụ trách, đủ thấy quy mô không nhỏ. Có điều nhìn xưởng đóng thuyền giờ đây bỏ phế hoang vu, khắp nơi cỏ leo mọc rậm, trong xưởng có thể câu cá, nào còn bóng dáng xưởng đóng thuyền từng hạ thủy hạm đội Tam Bảo khổng lồ giương buồm rong ruổi vạn dặm?

Dương Lăng thấy lão quản đốc khúm núm khom lưng, áo quần cũ kỹ, đôi giày vải lộ cả ngón chân cũng không nỡ khiển trách lão. Y thở dài một hơi, thất vọng nhìn xưởng đóng thuyền to lớn đồ sộ, nhất thời không còn hứng thú dạo chơi nữa.

Lão quản đốc nọ không biết y có lai lịch như thế nào, thấy y thừ người như vậy cũng không dám mở lời, chỉ ngoan ngoãn đứng một bên. Dương Lăng định vào trong thành đá xem một chút, nhưng đi được vài bước, y bỗng dừng chân rồi quay người nói:
- Không cần nữa, bản quan đi đến nơi này chỉ là tùy ý ghé qua xem một chút. Giờ thì đi thôi.

Dương Lăng dẫn người lên đường quay về, lặng lẽ không nói tiếng nào, vẻ mặt hơi nghiêm trọng. Tiểu Lâu trộm quan sát thần sắc của Dương Lăng, rồi suy xét về thái độ của y, dần dần lần ra được chút manh mối.

Nàng dò hỏi:
- Thật ra vùng duyên hải chỉ có vài đám giặc Oa gây loạn, chưa đủ làm lay động đến căn cơ Đại Minh. Những tiểu quốc rợ ngoại trong bốn biển đó cũng không có thực lực xâm phạm giang sơn Đại Minh ta. Cớ chi đại nhân lại phiền lòng?

Tuy Tiểu Lâu có kiến thức, nhưng dẫu sao nàng cũng không thể nhìn xa đến như vậy. Nàng nào biết mấy mươi năm sau những phiên bang tiểu quốc không đáng lo trong mắt nàng đó sẽ bắt đầu không chút kiêng dè mà kẻ trước người sau nườm nượp kéo đến muốn thôn tính cái thị trường Trung Quốc này.

Nay dùng mọi biện pháp bọn họ cũng không thể đạt được giao lưu thương nghiệp với thiên triều thượng quốc. Sự xuất hiện đúng lúc của thuyền to pháo lớn sẽ tạo ra cho bọn họ cơ hội có được sức mạnh quân sự, khiến cho những quốc gia bé nhỏ này có thể xưng bá trên biển và bắt đầu xưng bá thế giới.

Đạo lý này phải đến mấy trăm năm sau, từ trong hàng loạt những bài học mất nước nhục nhã thì Trung Quốc mới hiểu ra được. Bây giờ ngoài Dương Lăng đến từ đời sau ra thì còn ai biết được bài học đó nó đau thương như thế nào, và cái giá phải trả to lớn biết bao nhiêu?

Xưởng đóng thuyền Long Giang mà hơn trăm năm trước đã đóng ra đại hạm đội xưng bá thế giới giờ đây chỉ còn lại một đống hoang tàn. Qua một hai trăm năm sau, một Trung Nguyên bừng bừng sức sống bây giờ có phải rồi cũng sẽ bước vào cảnh hoang vu lạc hậu hay không?

Dương Lăng sớm biết lệnh cấm biển của nhà Minh sẽ trực tiếp khiến cho sức mạnh trên biển của Trung Quốc suy yếu nghiêm trọng, gián tiếp tạo ra sự trì trệ về phát triển khoa học và kinh tế của cả quốc gia. Nhưng nhìn thấy cảnh tượng ngày hôm nay, y mới biết được rằng sự tình trước mặt đã nghiêm trọng đến mức độ nào.

Thêm mấy năm nữa, không chỉ xưởng đóng thuyền suy tàn mà e rằng ngay cả thợ thuyền có năng lực cũng sẽ tìm không ra. Những thợ thuyền gia truyền này lại không theo học trường lớp chuyên nghiệp, tay nghề của bọn họ đều là cha truyền cho con, con truyền cho cháu, từng đời truyền xuống. Nếu như không có thuyền để đóng, nếu như học đóng thuyền còn không kiếm đủ cơm ăn thì còn có ai mà dạy mà học nữa?

Suy nghĩ một chút về lịch sử mà mình biết, nếu không phải vì bây giờ triều đình cấm đi biển, cấm đóng thuyền thì Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục xưng hùng vùng biển Đông Á, vậy sẽ có thể luôn đảm bảo được sự văn minh tiên tiến thông qua tiếp xúc và va chạm với các quốc gia khác, không đến nỗi mấy trăm năm sau bỏ ra vô vàn ngân lượng mua chiến hạm thiết giáp mà vẫn bị Nhật Bản đánh chìm.

Nếu như hải quân Trung Quốc bây giờ đủ mạnh, chủ động khai thác mậu dịch hải ngoại và thuộc địa, vậy còn dám nói mấy trăm năm sau mấy quốc gia mà diện tích gộp lại còn không bằng Nam Trực Lệ (4) sẽ trở thành bá chủ trên biển không? Còn có chuyện dùng pháo đài thô sơ trên đất liền nghênh tiếp những cuộc công kích không chống đỡ được của chiến hạm hải quân nước ngoài không?

Hiện nay không chỉ triều đình tự mãn bảo thủ mà đại đa số các thương nhân và thân sĩ trong dân gian có chút tầm nhìn xa khi ra biển cũng không chủ trương mở rộng ra nước ngoài. Thật ra lực lượng này khá lớn, cho dù mình là hoàng đế, muốn thay đổi tình hình này e cũng gặp phải trùng trùng khó khăn, huống hồ hiện giờ ngay cả triều chính mình cũng không có tiếp xúc bao nhiêu.

Tuy mình biết kết quả phát triển của lịch sử nhưng điều đáng buồn chính là, cho dù là biết rõ song nhiều khả năng là mình sẽ chỉ có thể trơ mắt đứng nhìn bài học và tai ương diễn ra một lần nữa, nhìn cái thảm cảnh quốc gia dần dần trở nên suy nhược, máu chảy thành sông xuất hiện. Mình có thể nào ngăn chặn được nó không?

Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ ngợi, tâm trạng càng thêm nặng nề, cũng không còn tinh thần ngắm cảnh và trò chuyện cười đùa cùng Tiểu Lâu.

Tiểu Lâu tưởng rằng y vẫn là vì cái họa giặc Oa vùng duyên hải mà ưu sầu, nào biết được tâm tư người này đang trôi đến tận mấy trăm năm sau. Nàng thở dài một tiếng nói:
- Tục ngữ có câu 'dựa núi thì sống nhờ vào núi, giáp biển thì sống nhờ biển', muốn ép buộc dân chúng duyên hải đoạn tuyệt với biển cả là điều không thể.
Triều đình không cho phép, nhưng vì món lợi kếch sù, tất sẽ vẫn có phú thương dân gian tự lập đội nhóm giao dịch với ngoại bang. Nhưng thương nhân các nước hải ngoại đều có quân lực bảo hộ, hơn nữa đi biển rất không an toàn, những thương nhân đi biển này giao dịch cùng ngoại bang mà không có vũ khí sẽ không cách gì tự bảo vệ, nếu thành lập lực lượng vũ trang thì sẽ lại bị triều đình vì kiêng kị mà vây diệt. Kết quả... triều đình càng cấm biển, trừ biển, thương nhân đi biển chịu bao khốn đốn trong ngoài mà ra khơi làm giặc sẽ càng nhiều. Duyên do nhân quả trong đó, vốn là một nút thắt không thể gỡ, khó trách đại nhân cảm thấy khó xử.

Dương Lăng lắc đầu nói:
- Cũng không hẳn là vậy. Nếu như chúng ta không cấm buôn bán bằng đường biển, nếu không trói buộc thủy quân quanh quẩn trong nội địa, lại mở đường vượt biển thì có thể tháo gỡ được cái nút thắt đó không?

Tiểu Lâu giật mình, buột miệng hỏi:
- Làm vậy sao được?

Dương Lăng nhướng mày, trông như cười mà không phải cười, nói:
- Tại sao lại không được? Nếu cái nút thắt này là do con người thắt lại thì chỉ có thể do con người tháo gỡ nó. Vả lại cái nút thắt này sớm muộn cũng phải tháo ra, chỉ là nếu đợi đến ngày bị buộc phải tháo ra thì không biết sẽ có bao nhiêu người dân chịu phải tai ương. Dương mỗ nhận lộc của vua, san sẻ lo âu với vua, tại sao lại không thể thử tháo gỡ nó ra sớm chút nhỉ?

Sau khi Tiểu Lâu trở về thuyền của mình, thân hình và dáng điệu mới trở lại dáng vẻ nữ nhân.

Nàng bước vào khoan thuyền ngồi, khẽ thở dài một hơi. Một tỳ nữ xinh đẹp mặc đồ đỏ dâng lên chén trà, nhẹ nhàng đấm vai cho nàng, yêu kiều cười nói:
- Sao tiểu thư lại thở vắn than dài thế? Đều tại chính tiểu thư thôi, Giang Nam đệ nhất giai nhân thì không làm, khi không lại muốn cải trang thành nam nhân, vậy làm sao mà khiến y mê tiểu thư đây? Tiểu tỳ thấy tiểu thư là thấy một vị công tử anh tuấn tiêu sái, thiếu niên đầy triển vọng nên hơi bị choáng váng đầu óc rồi.

Tiểu Lâu khẽ lắc đầu, ánh mắt có phần mê mang:
- Nếu như y chịu mê ta, thì đã mê từ lâu rồi, còn đợi đến hôm nay ư? Nha đầu ngốc này, nếu ta thật sự ăn mặc nữ trang, y không lánh xa ta ngàn dặm mới lạ đó. Đạo hạnh của ngươi còn kém lắm.

Đúng lúc này, chợt có một người tiểu tỳ áo đỏ hầm hầm bước vào trong khoang nói:
- Tiểu thư, cái tên khâm sai đó thật không khách khí chút nào. Hắn vừa mới hạ lệnh cho thuộc cấp, một khi vào thành liền lập tức hộ tống chúng ta đi trước một bước. Hừ, nếu không phải nhờ tiểu thư giúp đỡ hắn thì chuyện ở Giang Nam hắn có thể được thuận lợi như vậy sao? Thật là đồ vong ơn bạc nghĩa.

Tiểu Lâu cười chua chát, thở dài nói:
- Thôi đi, người ta không ném đá xuống giếng, không mượn gió bẻ măng thì đã là chính nhân quân tử hiếm có rồi. Nếu đổi lại là người khác, hừ, cho dù trong lòng hắn chỉ mong sao nuốt trọn được ta thì trước mặt người khác còn không biết giả vờ muốn tránh xa để chứng tỏ mình trong sạch ư.

Nàng đảo mắt, suy nghĩ một chút rồi nói:
- Sở Yến, bảo nhà thuyền rằng, sau khi vào thành thì vượt lên thuyền quan của đại nhân mà vào thành trước. Còn nữa... đợi ta tạ ơn khâm sai đại nhân, nói không cần nhọc y sai người đưa tiễn nữa.

Tỳ nữ xinh đẹp tên là Sở Yến đó ngạc nhiên nói:
- Tiểu thư, không lẽ tiểu thư không tính... tính... có muốn tiểu tỳ dò hỏi hành dinh của y không?

Tiểu Lâu mỉm cười đáp:
- Không cần hỏi, Nam Kinh lục bộ, Vương Quỳnh đứng đầu. Bọn họ sẽ không ra nghênh đón khâm sai đâu. Nghênh đón Dương đại nhân hẳn sẽ là thái giám trấn thủ Nam Kinh Phùng công công. Phùng công công có tư dinh ở ngõ Ô Y, nghênh đón thượng quan tới tư dinh mình, đó là cơ hội đón tiếp lấy lòng. Cho nên... y hẳn sẽ trọ ở ngõ Ô Y.

Sở Linh cười hì hì nói:
- Vậy chúng ta cũng dọn đến ngõ Ô Y, để làm ra vở tài tử giai nhân ngẫu nhiên tương phùng.

Tiểu Lâu trừng mắt với cô nàng một cái, nói:
- Không, đừng chuốc phiền cho người ta. Chúng ta sẽ dọn đến phố Trường Can. Phố Trường Can cũng nằm ở phía nam thành, cách ngõ Ô Y lại không xa. Mấy năm trước ta nghe người ta nói rằng, nơi đó có một thuyền vương từng tung hoành trên biển đang ẩn cư, ta muốn đến tìm người này một chút.

Sở Yến lấy làm lạ hỏi rằng:
- Thuyền vương gì chứ? Còn không phải là hải tặc quy ẩn à. Mấy kẻ này kị nhất có người dò hỏi về quá khứ bọn họ, tiểu thư không phải tính dọn đến phương bắc sao, tìm hắn làm gì. Chẳng lẽ... lại muốn ra biển ư?

Tiểu Lâu thoáng cười nhạt, đứng dậy bước đến bên cửa sổ khoang thuyền nhìn ra dòng sông cuồn cuộn, khóe miệng hơi nhếch lên, nửa cười nửa không nghĩ thầm: “Lúc mi dùng sắc đẹp mê hoặc người, mi cảm thấy mình tâm cao khí ngạo, lấy đó làm sỉ nhục. Bây giờ người này không mê sắc đẹp của mi, thì phải xem thử mi có tài cán gì hay không. Xem ra y rất xem trọng việc dỡ bỏ lệnh cấm biển và bình định giặc Oa, nếu như mình có thể giúp y giải quyết cái vấn đề nan giải này... Ái chà, lâu rồi không động não, mới nghĩ một chút đã nhức đầu rồi. Từ từ mà nghĩ... từ từ mà nghĩ, mình không tin mình nghĩ không ra...”

* * *


"Lục đại đế vương quốc, Tam Ngô giai lệ địa." (Vùng đất xinh đẹp Tam Ngô, đất nước của sáu đời vua chúa)

Con thuyền quan của Dương Lăng đã đến ven bờ sông Tần Hoài. Thái giám trấn thủ Nam Kinh Phùng Thừa Thực cùng quan thủ bị Nam Kinh Quan Kiến Công, trấn phủ sứ Nam trấn phủ ty của Cẩm Y Vệ là Thiệu Tiết Vũ dẫn một đám quan viên thân sĩ đứng ở bến thuyền chờ đón.

Thuyền vừa vào thành Dương Lăng liền đã nhận được bẩm báo trấn phủ sứ đại nhân của Nam trấn phủ ty cũng đến bến thuyền chào đón. Tin tức này khiến y suy đoán cả nửa buổi.

Chuyến đi đến Nam Kinh của y và Cẩm Y Vệ không có liên quan với nhau. Tuy thế lực của Nam trấn phủ ty kém xa Bắc trấn phủ ty nhưng cũng là nha môn quan trọng trong Cẩm Y Vệ, nếu không được chỉ huy sứ Trương Tú của Cẩm Y Vệ gợi ý thì Thiệu trấn phủ với thân phận mẫn cảm như vậy sao dám đến nghênh đón chứ?

Tri thức quan trường của người Trung Quốc thật sự rất nhiều, phải bày một chiếc ghế như thế nào, rót một chén rượu ra làm sao, kính một chén trà như thế nào đều có thể hàm ẩn ngụ ý sâu xa. Đường đường trấn phủ sứ hạ mình đến đón, có phải đại biểu rằng vị đề đốc Cẩm Y Vệ Thiên Tân Trương đại nhân đó có ý với mình không?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng cũng hơi nóng lòng muốn biết. Nếu có thể tranh thủ được Cẩm Y Vệ, vậy đúng là thắng lợi thêm một việc nữa. Hiện giờ quá cần quyền lực đi, cần quyền lực tuyệt đối, cần rất nhiều người mang tâm nguyện của y bôn ba khắp nơi, ngấm ngầm thay đổi. Từ từ thay đổi đương nhiên là tốt nhất, nhưng lời của Trương thiên sư cũng không biết là thật hay giả. Nếu như bây giờ có thể làm thêm một việc vậy thì có lẽ nên làm cho tốt một chút.

Chiếc thuyền quan đầu tiên nhẹ nhàng chạy qua, đập vào mắt là lá cờ rồng màu vàng sẫm của thiên tử và là cờ to có chữ Dương cắm sừng sững trên đuôi thuyền. Thuyền quan cập bến, trên thuyền lần lượt đặt ván xuống bến thuyền, thuyền phu ném thừng xuống liền tự có bộ dịch chạy đến nhặt lên, buộc chặt vào cọc đá trên bến.

Thái giám trấn thủ Nam Kinh Phùng Thừa Thực tươi cười cùng Quan thủ bị và Thiệu trấn phủ bước tới đón. Người của ty tuần kiểm bố trí vừa âm thầm lẫn công khai rất nhiều người ở gần đó để đề phòng bất trắc.

Trong các thân binh do Quan thủ bị dẫn đến có một vị tướng tá cũng đang nhìn chằm chằm vào đầu thuyền, khi trông thấy bóng Dương Lăng, hắn không khỏi nở một nụ cười thân thiết.

Người này cao lớn rắn chắc, da dẻ ngăm đen, mặt mày sáng sủa, trông anh tuấn bất phàm, chính là huynh trưởng của Hàn Ấu Nương - Hàn Vũ. Lúc Dương Lăng còn chưa rời kinh đã an bài cho y đến phương nam nhận chức trong quân đội. Y là người do Xưởng đốc Nội xưởng tiến cử, mà phẩm hàm ban đầu lại không cao khiến cho quan viên địa phương thật sự khó xử.

Nếu an bài cho chức quan nhỏ tức là địa phương thu xếp không tốt, vậy là làm mất mặt Dương Lăng. Nhưng nếu đề bạt y làm quan to thì sẽ khó khiến cho nhiều người im miệng. Suy nghĩ kỹ một phen, Đô chỉ huy sứ bèn đưa y đến chỗ Thủ bị Kim Lăng là Quan Kiến Công làm thủ hạ. Tuy chỉ là một chức bách hộ nhưng làm quan ở cái chốn này lợi lộc không nhỏ, chắc hẳn cũng sẽ hợp với tâm ý của Dương Xưởng đốc.

Kim Lăng không giống với những nơi khác. Thái giám trấn thủ Nam Kinh, Nam trấn phủ sứ và Dương Lăng không có quan hệ thuộc chức, hơn nữa tuy rằng ở trước mặt Hoàng thượng có sự khác biệt về đối đãi thân sơ song địa vị lại ngang nhau cho nên Dương Lăng cũng không dám thất lễ. Sớm đã đứng trên đầu thuyền, ván thuyền vừa hạ y liền tươi cười đi đến nghênh đón ba người.

Lúc này phía sau bến thuyền, trên lầu ba của một tửu lâu rộng lớn khang trang hoa lệ, trong một căn phòng trang nhã phủ rèm bông màu xanh biếc, trên chiếc bàn cạnh cửa sổ bày biện các món ăn tứ sắc, bên cạnh là một bầu Trúc Diệp Thanh, một công tử trẻ tuổi khôi ngô tuấn tú đang ngồi.

Chàng ta mặc một bộ quần áo trắng tinh màu trăng non, thân thể cao thon mảnh dẻ, mái tóc đen mượt chỉ dùng trâm gỗ khảm vân hoa đính dây tua màu trắng tinh cài lên. Tuổi tác trông chỉ chừng mười sáu mười bảy, mặt như ngọc sáng, mắt tựa suối trong, chiếc mũi cao tinh xảo như ngà, còn có bờ môi hơi vểnh, dường như lúc nào cũng mang một vẻ tươi tắn nửa cười nửa không, trong vô ý liền có thể lộ ra một vẻ đẹp lả lướt làm say lòng người. Chàng trai xinh đẹp như thế, thật không biết sẽ làm say mê biết bao đại cô nương.

Trông thấy chiếc thuyền quan mang lá cờ lớn chữ Dương từ xa xa rẽ vào, chàng ta bỗng đứng bật dậy, dán người vào khung cửa sổ phủ rèm hồi hộp mở to cặp mắt ra nhìn. Thuyền đã cập bến, mỏ neo được thả xuống, chàng đã trông thấy Dương Lăng, Dương Lăng đang mỉm cười bước xuống thuyền.

Đã nửa năm không gặp... bỗng nhiên trông thấy, cảm giác như đã cách xa cả đời. Y đã khôi ngô tuấn tú hơn thuở trước, giữa hàng lông mày đã hiện lên thêm mấy phần thành thục và uy nghiêm, còn nữa... người y đã cao hơn, vóc người cũng săn chắc hơn, nhưng mặt mũi dung mạo lại vẫn quen thuộc với mình.

Người công tử trẻ tuổi chớp chớp hàng mi cong, một lớp sương mù nhanh chóng phủ trước cặp mắt trong veo. Từ từ, chầm chậm, lớp sương mù tụ lại thành hai giọt nước mắt long lanh trong suốt, từ trong cặp mắt đẹp như trăng nhỏ xuống, chầm chậm xuôi theo gò má trắng ngà không chút tì vết lăn xuống chiếc cằm thon rồi rơi xuống bàn.

Chàng ta khịt mũi, cố nén không để nước mắt trào ra thêm, ánh mắt đã hơi nhòe đi, lại cách bởi một lớp rèm, con người đang ở trong mắt cũng đã trở nên lờ mờ, giống như bóng dáng mà chàng ta đã vô số lần nhìn thấy trong mơ.

Có điều... người ấy khi đó nhìn không có rõ như bây giờ. Người ấy trong mơ nhìn không rõ tướng mạo, nhìn không rõ trang phục, chỉ nghe được hơi thở của y, mình nằm dựa vào lòng y, cuộn mình trong hố tuyết lạnh buốt nhưng tai, mặt, đều ép sát vào ngực y đến nóng bừng.

Người ấy bây giờ đã có thể nhìn thấy thật rõ ràng, y mặc chiếc áo vạt mở màu hồng cánh sen, bên trên chiếc đai ngọc giắt một miếng ngọc bội, ngọc bội khẽ đong đưa theo từng bước chân của y. Dưới chiếc áo dài lộ ra đôi giày đen đế mềm thêu hoa văn kim tuyến. Thật là một vị công tử anh tuấn phong lưu, thật khiến người ta động lòng, yêu thích...

Đợi chút, đằng sau là ai thế? Mỹ nữ áo xanh có dáng người xinh đẹp, cử chỉ nhàn nhã đó là ai thế?

Con mắt sáng ngời của người công tử trẻ tuổi giận dữ dời sang người Dương Lăng. Dương Lăng đang cười, đang hướng mặt về phía những kẻ ra đón mà mỉm cười, nụ cười của y... khuôn mặt của y... quần áo của y, sao nhìn lại muốn đập thế cơ chứ?

Một đám quan viên quây lại, che cái bản mặt đáng đánh đó của y vào trong.

Cao, thấp, mập, béo, trong chớp mắt một đám người đã bao phủ lấy bóng dáng của Dương Lăng. Vốn không muốn ngó cái bản mặt đáng ghét đó của Dương Lăng nữa nhưng khi không thấy được y, người công tử trẻ tuổi chợt trở nên nôn nóng. Chàng ta kiễng chân dán người vào rèm cửa để nhìn, nhưng ngoại trừ mấy cái đầu người ra, không còn thấy diện mạo của y nữa. Sau đó những cái đầu người đó vây quanh y đi về phía hàng kiệu quan đặt trên bến thuyền.

Công tử trẻ tuổi giậm chân, chụp lấy cái chén sứ trên bàn lên, nốc sạch một hơi chén rượu trong veo thơm ngát vào miệng, rồi dằn mạnh chén rượu xuống bàn, hừ một tiếng nói:
- Dương khâm sai, Dương đại nhân! Quan uy thật lớn, bản lãnh thật to, ta thật muốn xem coi lúc nào thì huynh mới chịu tới gặp ta. Hừ!





Chú thích:

(1) Tam Ngô: địa danh, thay đổi theo các đời Tống, Đường,... Phiếm chỉ vùng hạ du sông Trường Giang
(2) chỉ Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần

(3) 古里: Kozhikode: thành phố miền tây nam Ấn độ.
溜山: quần đảo Maldives nam Ấn Độ dương, tiếng hoa nay gọi là 马尔代夫. 溜山 có lẽ phiên từ tên cũ Lakshadweepa.
麻林: Malindi: thành phố nằm trên bờ biển nước Kenya, Phi châu.

天方: Mecca, thánh địa hồi giáo ở Saudi Arabia. Tên tiếng hoa là Mạch Gia (麥加). Thiên Phương có nghĩa là hướng thiên đàng, theo tín ngưỡng hồi giáo.

Đoán mò:
刺薩: tên đầy đủ: 蘇刺薩儻那: Surestan/suristan: tên xưa của vùng đất nay thuộc về Syria.

Cám ơn bạn Mumo về chú thích này.

(4) thời kỳ nhà Minh Trung Quốc gọi những địa khu lệ thuộc trực tiếp dưới kinh sư là Trực Lệ. Gọi khu vực Trực Lệ thuộc Bắc Kinh là Bắc Trực Lệ, thuộc Nam Kinh là Nam Trực Lệ.

Chương 141 - Người Đẹp Như Trăng Bên Bếp Lò

Nền đường Kim Lăng đều được lát bằng đá xanh, trông rất gọn gàng ngăn nắp. Các con phố lớn đều được quy hoạch chỉnh tề, hàng quán bên đường được dựng lên nề nếp và trật tự, rất náo nhiệt phồn vinh nhưng vẫn trong khuôn khổ.

Nếu chỉ đơn thuần so về độ phồn hoa, Kim Lăng (Nam Kinh) thật sự hơn hẳn kinh sư (Bắc Kinh).

Ngõ Ô Y nơi Dương Lăng đang ở là chỗ doanh trại Cấm Vệ Quân Thạch Thành của Tôn Quyền năm xưa đóng quân, bởi vì các binh sĩ này đều mặc y phục màu đen nên mới tạo nên tên ngõ. Từ khi danh tướng Tạ An và Vương Đạo thời Đông Tấn sống ở đây, rất đông quý tộc các đời sau đã dọn về ở nơi này, lầu cao đua nhau mọc lên san sát, vì vậy ngõ Ô Y nổi danh khắp thiên hạ.

Có điều bản thân con ngõ hẻm này không rộng lớn là bao, hơn nữa do những người cư ngụ ở đây đều là cao quan vọng tộc nên mặc dù không ai cấm nhưng dân thường vẫn tự giác lánh đi, do đó người qua kẻ lại trong con hẻm hẹp dài tĩnh mịch này càng thêm thưa thớt.

Dương Lăng và Hàn Vũ sánh vai ra khỏi con hẻm, đi dọc bờ sông Tần Hoài đến trước miếu Phu Tử. Dương Lăng vừa đi vừa kể lại chi tiết những chuyện đã xảy ra trong chuyến đi Giang Nam lần này.

Hàn Vũ nghe mà phấn khích không thôi, lúc nghe đến đoạn chống giặc Oa ở Hải Ninh hắn không khỏi nắm chặt nắm tay mà thở dài than tiếc:
- Tiếc quá! Nếu lúc đó mà huynh cũng có thể đứng trước thủy triều sông Tiền Đường thi triển thân thủ thì hay biết bao nhiêu.

Dương Lăng cười nói:
- Huynh làm quan ở cái nơi sung túc, trù phú như Kim Lăng này mà đã lên chức Bách hộ như vầy thì còn gì mà không tốt? Bây giờ đệ thân mang chức trọng, chẳng biết có bao kẻ nhiêu đang có ý đồ xấu với đệ. Điều chuyển các huynh đi để các huynh có thể yên thân gởi phận ở nơi khác, như vậy cho dù ngộ nhỡ có xảy ra chuyện gì thì đệ cũng yên tâm hơn.

Hàn Vũ chau mày bảo:
- Quan lộ hung hiểm, cái đó huynh biết chứ, tuy nhiên cùng lắm thì bãi quan cách chức, có mấy ai thật sự bị tịch biên diệt tộc đâu? Tuy rằng sống trong yên ổn vẫn lo nghĩ đến ngày gian nguy là tốt, nhưng đệ thường xuyên suy tính lo âu, lúc nào cũng nghĩ lỡ như thế này lỡ như thế nọ, em gái huynh trông thấy sẽ vui sao? Nếu đã như vậy, huynh thà thấy đệ làm quan viên không phẩm tước nhưng vẫn sống vui vẻ như lúc làm dịch thừa ở Kê Minh còn hơn.

Dương Lăng thở dài bùi ngùi: “Đúng rồi, lúc trước sống ở thành Kê Minh, dù chỉ ăn rau dầm tương, cơm canh đạm bạc nhưng nào phải lao tâm lo nghĩ nhiều chuyện như vầy? Lúc rỗi rãi thì châm trà, bế Ấu Nương lên đùi, tóc mai kề sát vành tai, tâm sự chút chuyện nhà chuyện cửa. Ngày đó thật là ấm áp và hạnh phúc, còn bây giờ thì sao?”

Dương Lăng dừng chân trước cầu Chu Tước, rầu rĩ nhìn dòng nước chảy dưới cầu. Bây giờ muốn rút chân từ bỏ sự nghiệp, điều đó còn có thể sao?

"Khi nghèo chỉ biết lo thân, giàu rồi lo cả thân nhân, mọi người." Câu này mình đã nghe từ lúc còn rất nhỏ, nhưng chưa bao giờ có cảm xúc sâu sắc như lúc này. Nếu như mình không hề có cơ hội rời khỏi Kê Minh, có lẽ mình sẽ an phận ở lại trong toà sơn thành đấy, cùng người con gái yêu thương của mình sống một cuộc sống tạm ổn cho riêng mình. Nhưng giờ đã bước lên vị trí này, có cơ hội để thay đổi lịch sử mà chẳng lẽ mình đành bỏ qua, lùi bước ư?!

Dương Lăng thở dài, ngại ngùng đáp:
- Đúng vậy! Từ khi vào kinh, thời gian đệ ở cạnh Ấu Nương càng lúc càng ít. Chỉ mong lần này về kinh rồi, đệ sẽ không phải bôn ba tứ xứ nữa.

Thấy y hơi sa sút tinh thần, Hàn Vũ bèn vỗ vai y cười nói:
- Huynh chỉ muốn đệ nghĩ thoáng một chút thôi! Thật ra những việc mà đệ đã làm vừa qua thực không tệ à, những chuyện oanh liệt này mà lan truyền về kinh thì đệ nghĩ Ấu Nương nghe xong sẽ vui hay không? Cái gì mà “tiếc hối chồng đi kiếm tước hầu” (1), phụ nữ mà, là như vậy đó! Chứ nếu đệ cứ cả ngày bám rịt bên người nó, nó sẽ chê là người chồng của mình sao không có bản lĩnh, không xuất chúng hơn người. Đến lúc làm quan rồi, nó lại trách đệ bận rộn công vụ, lạnh nhạt với nó. Đệ có thể thăng tiến, Ấu Nương sẽ không cao hứng sao? Đệ thử nói trong lòng Ấu Nương, đệ của bây giờ và một ông tú tài cả đời ru rú trong Dương Gia bình, ai sẽ khiến nó tự hào hơn?

Dương Lăng cười lớn:
- Nhị ca cùng đừng chỉ nói người khác! Bây giờ nhị ca cũng đã ổn định rồi, bao giờ mới rước vợ về đây? Giang Nam người đẹp như mây, chẳng lẽ không có ai lọt vào mắt huynh à?

Hàn Vũ cười nói:
- Huynh vẫn còn hứng thú với việc xông pha chiến trường, kiến công lập nghiệp mà! Nữ nhân ấy... đâu có đáng yêu như bảo đao bảo kiếm đâu. Chuyện lấy vợ đợi khi nào huynh muốn có con rồi hẵng nói đi.

Hắn vừa nói vừa vỗ vỗ vào cây bội kiếm giắt bên hông, nói tiếp:
- Nói thật nha, đệ thử nghĩ cách gì điều huynh ra cửu biên (2) hoặc duyên hải đi, chỉ cần có đánh đấm là được. Ở đây riết xương cốt mục hết cả rồi.

Dương Lăng nghe vậy trong lòng chợt máy động, bèn đáp:
- Được, nếu như huynh đã có ý nguyện này, đệ sẽ thành toàn cho huynh. Có điều cũng không cần phải vội làm ngay, chuyện này đợi sau khi đệ về kinh rồi hãy nói tiếp.

Dương Lăng sực nhớ sau khi về kinh, nếu xin được phép Hoàng thượng giải trừ lệnh cấm biển và thông thương với nước khác rồi, ngay sau đó nhất định sẽ cần đến một lực lượng thủy quân cường đại. Hàn Vũ văn võ song toàn nên hẳn là học kỹ thuật chiến đấu trên biển cũng không khó. Điều hắn vào thủy quân đào tạo bài bản, nói không chừng tương lai hắn sẽ trở thành một danh tướng thủy quân.

Nhưng mà ăn nói với Hoàng thượng thì dễ, cái khó chính là làm sao để bá quan gật đầu đây. Những đại thần trong triều không có mấy kiến thức về biển cả vẫn coi nó là thứ có cũng được không có cũng chẳng sao; bọn họ khinh thường hải dương, coi rẻ thông thương, xem trọng mặt mũi thiên triều thượng quốc hơn bất cứ thứ gì khác. Với quan niệm và ý thức của những bá quan văn võ thời này, có mấy ai có thể lý giải và tiếp thu những lý luận mà đời sau ai ai cũng biết chứ?

Có rất nhiều việc để làm thì không khó, nhưng khó là khó ở chỗ không ai muốn bắt tay vào làm. Cho dù có người muốn làm, những kẻ bảo thủ cũng sẽ dùng mọi thủ đoạn ngăn cản không cho anh làm, thậm chí trong lòng họ còn cho rằng mình đang giữ gìn chính nghĩa, đang làm điều tốt vì nước vì dân. Vừa nghĩ đến tình huống mà mình phải đối mặt sau khi hồi kinh, Dương Lăng không khỏi có cảm giác vô lực.

Chung quanh y luôn có mấy nha sai vận thường phục lặng lẽ đi theo sau. Liễu Bưu cải trang làm văn sĩ đột nhiên hiện thân phía trước, ngầm ra dấu với y. Dương Lăng hiểu ý, gật nhẹ đầu với gã.

Hiện nay y đang trọ ở tư dinh của thái giám trấn thủ Kim Lăng Phùng Thừa Thực. Tuy Phùng Thừa Thực rất cung kính lễ phép với y, nhưng trên danh nghĩa Phùng công công là người trực thuộc ty Lễ Giám ở Kinh sư, cũng được xem như là thân tín của Vương Quỳnh, cho nên Dương Lăng không thể không uý kị lão ta.

Vốn lần này y đi đến Kim Lăng không có chuyện gì quan trọng, cũng không có gì phải giấu giếm lão ta, nhưng việc Nam trấn phủ ty Thiệu đại nhân của Cẩm Y Vệ ghé bước nghênh đón khiến hy vọng liên minh cùng Cẩm Y Vệ của y tăng thêm mấy phần.

Nếu Cẩm Y Vệ có ý định muốn tiếp xúc với y, tất cũng sẽ tránh mặt Phùng công công Cho nên y mượn cớ mới trùng phùng anh vợ đã xa cách lâu ngày nên tự mình đưa tiễn xa như vậy chính là để có cơ hội tiếp xúc với Cẩm Y Vệ.

Ví bằng Cẩm Y Vệ đích thực có lòng kết minh cùng y, nhất định sẽ phái người âm thầm chú ý đến hành tung và chủ động bắt liên lạc với y. Việc ra dấu của Liễu Bưu vừa rồi đã chứng thực phán đoán của y.

Sau khi tiễn Hàn Vũ qua cầu Chu Tước, Dương Lăng chắp tay cáo từ. Liễu Bưu đi đến bên cạnh báo:
- Đại nhân! Nam trấn phủ ty phái người đến gặp đại nhân. Ty chức đã kiểm tra yêu bài (thẻ bài giắt lưng) của hắn, nhân thân có thể tin được.

Dương Lăng gật đầu rất nhẹ, hỏi:
- Thiệu đại nhân đang ở đâu?

Liễu Bưu mỉm cười, trỏ cán cây quạt xếp vào một chiếc thuyền đỏ dưới cầu. Dương Lăng hiểu ý, nở nụ cười:
- Ai cũng nói là cảnh sắc Tần Hoài rất đẹp. Đi thôi, chúng ta cũng đi mở mang kiến thức một chút.

***


Trường Can Lý nằm chếch phía nam thành, là nơi quan dân sinh sống xen kẽ, đồng thời cũng là địa điểm cuối đất Kim Lăng để những thân sĩ danh tiếng đón tiếp và tiễn đưa tân khách. Vì vậy đầu hẻm có vài quán rượu lẫn khách sạn, bán buôn rất tốt.

Trong hẻm còn có một vài người bán rong dựng quầy dựng sạp bán đặc sản Kim Lăng. Thương gia xuôi nam ngược bắc đến Kim Lăng rất đông, trước khi rời đi cũng muốn mang về nhà ít đặc sản, cho nên đời sống tiểu thương nơi đây rất là sung túc.

Nói chung, đây là nơi rồng rắn lẫn lộn, thành viên tương đối phức tạp. Đi vào sâu trong con hẻm là một ngõ cụt nhỏ bé, có một ngôi nhà tường trắng ngói tro, cửa sân sơn son chói lọi, xem ra là một hộ gia đình khá giàu có.

Lão Trương mở sạp bán đá ngồi trước ngõ hẻm, có lẽ đã lâu không có mối nào đến nhà nên đang thả người dựa tường phơi nắng. Đột nhiên lão trông thấy có hai người con gái áo đỏ, dáng người thướt tha đi tới. Dáng vẻ xinh đẹp của hai người lập tức cuo16n hút ánh mắt của lão.

Đó là một phu nhân và một tỳ nữ. Vị phu nhân đi trước có dung nhan cực kỳ xinh đẹp, mái tóc đen huyền, da trắng hơn tuyết, toàn thân váy đỏ, khoác hờ một chiếc áo choàng đơm hình hoa mai, dáng người thướt tha lả lướt, bước chân nhẹ lướt như tiên.

Lão Trương không nhịn nổi đánh ực nuốt một ngụm nước bọt: "Chậc chậc, ngày nào cũng mở sạp ở con hẻm này nhưng không biết đây là tiểu nương tử nhà ai, thật giống như tiên nữ hạ phàm vậy. Nếu mà bà nhà mình bằng được một nửa nàng ta thì mình thật sự đã sướng hơn tiên rồi."

Ông lão tiểu thương không dám dán mắt nhìn lâu vào mặt phu nhân người ta nên luyến tiếc cụp mắt xuống, chăm chú nhìn vào đôi hài cong nhẹ nhàng di chuyển, làn váy tung bay, đôi gót chân sen khẽ khàng lướt qua trước mắt.

Nhân cơ hội này, ông chủ sạp lại ngước mắt liếc nhìn một cái thật nhanh. Nhận thấy nước da trên khuôn mặt ấy mịn màng sáng bóng, còn sáng hơn cả đá vũ hoa (1) đang nằm chờ bán trong hộp của lão đến mấy phần. Vẻ đẹp đó, nhất là vẻ phong tình ấy, quả là hiếm thấy trên đời. Có lẽ cũng chỉ có Mã cô nương của quán rượu Trường Đình mới có thể phân cao thấp với vị giai nhân tuyệt thế này...

Hai người con gái áo đỏ đi đến trước căn nhà gạch xanh ngói nhỏ nọ. Nơi này trông đã cũ kỹ, rêu mọc xanh mướt khắp những nơi âm u trên bức tuờng mã đầu (2).

Người tỳ nữ áo đỏ bước lên đập chiếc vòng khoá vào cổng kêu mấy tiếng thùng thùng, liền theo đó có một gia bộc hé cửa ghé đầu ra hỏi. Lão Trương ngóng từ phía xa, thấy gia đinh nọ đối đáp mấy câu rồi đón tiếp hai mỹ nhân vào nhà.

Sau khi báo danh tính của mình là Thành Khởi Vận xong, Tiểu Lâu bình thản đứng trước bức bình phong chờ gia nhân chạy vào bẩm báo. Khi nhìn từ bên ngoài vào, căn trạch viện gạch xanh ngói nhỏ tường thấp này dường như không lớn lắm, song khi đứng trong sân nhìn vào tiếp thì lại thấy đình viện sâu hun hút, phía sau hình như có đến mấy dãy sân thông lại với nhau thành một cái sân dài.

Tỳ nữ áo đỏ xinh đẹp là Sở Linh, nàng lo lắng nhìn quanh một lát rồi khẽ giọng:
- Tiểu thư! Nhìn trạch viện này dường như đã cũ lắm rồi, vị Bành lão thái gia này thật sự là Sa Ngư vương tung hoành bốn bể à?

Thành Khởi Vận tự tin đáp:
- Muốn chứng minh cũng dễ thôi! Chỉ cần lão nghe xong cái tên ta bịa ra mà chịu ra mặt gặp ta thì chắc chắn là không sai rồi.

Sở Linh khẽ rúm người lại, hơi khiếp sợ:
- Tiểu thư, chúng ta... có phải là đã hơi lỗ mãng rồi không? Nếu như... nếu như chúng ta mời Dương đại nhân phái người đến thì sẽ ổn thoả hơn. Đây đều là những giang hồ hảo hán lưu vong, chúng ta... Chúng ta lại không có chỗ dựa nào.

Thành Khởi Vận cười nhạt một tiếng, đáp:
- Dương Lăng có thể sẽ hồi kinh bất cứ lúc nào, chúng ta không còn thời gian để bày kế nữa. Em đừng lo lắng, không có chỗ dựa cũng là một lợi thế. Con cá mập (sa ngư là cá mập) này giờ đã có con có cháu, đã mang gánh nặng gia đình. Em cho rằng lão trú ở nơi này khá lâu rồi, đã khổ tâm phát triển kinh doanh lại sẽ đành lòng tùy tiện vứt bỏ mọi thứ mà lưu lạc tha hương lần nữa ư? Không nắm rõ lai lịch của chúng ta, lão sẽ không dám làm gì chúng ta đâu. Nhất định phải giành được sự giúp đỡ của ông vua hải tặc này thì biện pháp của ta mới có thể thực hiện suôn sẻ được. Tuy lão ấy chưa hẳn đã tin một phụ nữ như ta, song cáo mượn oai hùm mà, lão đã bị ta nắm thóp (ý nói biết lão già là Sa Ngư vương) thì sẽ phải ngồi xuống hòa đàm thôi. Dù ta chỉ là một con tiểu hồ ly thì một con cá mập mắc cạn như lão cũng phải ngoan ngoãn hợp tác với ta thôi.

Trông thấy tên gia đinh nọ lật đật chạy trở ra, mặt mày cung kính, Thành Vận Khởi thoáng nhíu chiếc mũi nhỏ xinh, nhoẻn miệng cười khẽ, quả nhiên giống như một con tiểu hồ ly.

Bành lão thái gia có một cái tên rất tầm thường, gọi là Bành Phú Quý. Nghe nói lão vốn là người Kim Lăng, lúc lão còn chưa ra đời thì lão đã cùng cha mình dọn đến Đại Lý. Thoáng cái đã qua bảy mươi năm, dựa vào kinh doanh trà ngựa mà lão đã phát tài to, thế là bèn dẫn đám con đàn cháu đống áo gấm về làng, mua căn trạch viện ở Trường Can Lý này.

Xa nhà lâu như vậy, đương nhiên lão không còn bạn bè hàng xóm gì nữa, cho nên Bành lão thái gia chỉ ru rú trong nhà làm lão phú ông, rất ít khi qua lại với xóm giềng.

Bành lão thái gia đang cầm chùm nho trêu đùa cháu trai ở hậu viện, nghe gia bộc báo có hai vị nữ khách đến nhà cầu kiến thì không khỏi nhíu mày, kinh ngạc hỏi:
- Ở đâu lại có kiểu nữ nhân đoan chính tùy tiện đến nhà người khác bái phỏng! Có phải là lão tứ lại trêu hoa ghẹo nguyệt gì ở bên ngoài để người ta tìm tới cửa không?

Gia bộc đáp:
- Vị phu nhân đó nói… cô ta nhận sự nhờ vả của họ hàng xa của lão thái gia, có bức thư tay muốn tự thân trao cho lão thái gia ạ!

- Ủa?
Bành Phú Quý bỏ chùm nho vào khay, đưa đứa cháu cho gia nhân ở bên cạnh trông nom, ánh mắt loé lên vẻ lạnh lùng hỏi lại:
- Họ hàng xa, họ hàng xa nào?

Bành lão thái gia râu trắng tóc bạc, tuổi chừng bảy mươi, khuôn mặt đỏ bầm, nhưng vóc người vẫn còn tráng kiện, chân tay to chắc, động tác lúc đứng lên vẫn còn rất linh hoạt, vóc người cao lớn có khí thế uy mãnh vô cùng.

Tuy gã gia bộc này vẫn thường xuyên gặp Bành lão thái gia nhưng vẫn không khỏi mất tự chủ phải lui về sau một bước, bối rối đáp:
- Vị phu nhân đó nói người đó là cháu họ xa của ngài, tên là Bành Sa Vương.

Khuôn mặt đỏ bầm của Bành lão thái gia thoáng giật giật, đột nhiên hiện ra vẻ mừng rỡ xen lẫn ngạc nhiên như sực tỉnh ra, bảo:
- A!... À, thì ra là nó, đã lâu rồi không có tin tức gì, không ngờ đứa cháu trai này lại dò la được nơi ở của ta. Mau mời vào, mời vị khách quý đó vào thư phòng cho ta.

Bành lão thái gia không phải là kẻ đọc sách nên trên giá sách chỉ bày mười mấy gốc san hô trân quý mỹ lệ. Người con gái áo đỏ cực kỳ xinh đẹp nọ nhẹ nhàng bước vào trong phòng, làn thu ba tập trung lên người Bành lão thái gia, nhìn kỹ một chốc rồi mới nhoẻn miệng cười duyên dáng, đoạn chỉnh sửa trang phục rồi làm lễ:
- Tiện thiếp Thành Khởi Vận, ra mắt Bành lão thái gia.

Bành lão thái gia kinh ngạc quan sát nàng. Mặc dù đã nghe nói là một nữ nhân, nhưng lão lại không ngờ lại là một vị mỹ nữ yểu điệu như vậy. Đồng đạo ngày nay có nữ nhân trẻ tuổi phù hợp với dáng vẻ này sao?

Lão phất tay ra hiệu cho gã gia bộc lui ra rồi tự đi tới đóng chặt cửa. Lúc lão xoay người lại, ánh mắt bỗng trở nên dữ tợn dị thường, lạnh lùng nhìn chằm chằm vào vị khách không mời mà đến này.

Thành Khởi Vận vẫn giữ sắc mặt bình tĩnh, khoé miệng mang một nụ cười nhàn nhạt, đôi mắt không hề tỏ chút khiếp sợ dưới cái nhìn chăm chăm lạnh lẽo của vị vua hải tặc tay đầy máu tanh này, nàng còn chớp mắt làm duyên với lão.

Bành lão thái gia quan sát nàng kỹ càng một lượt rồi đột nhiên cười to. Lão trở về bên bàn ngồi xuống, nói:
- Mời cô nương ngồi. Nếu cô nương đã dò la được nội tình của ta, chúng ta cũng không cần phải giấu giếm gì nữa. Mọi người đều là giang hồ đồng đạo, lý ra nên giúp đỡ trông chừng lẫn nhau. Phải chăng cô nương đang thiếu tiền lộ phí? Nếu chỉ dăm ba trăm lượng bạc thì lão đây còn gom góp được, nhưng nếu là món tiền lớn thì, ha ha, cô nương, cô nghĩ rằng cô đã tìm được chứng cứ chứng minh ta là Sa Ngư Vương ư?

Thành Khởi Vận mỉm cười lắc đầu, đáp:
- Lão gia tử! Ông thấy ta có giống người đến nhà mượn danh để kiếm tiền không? Hôm nay ta đến đây nhưng không cần tiền của ông, ngược lại, ta đến là để đưa tiền cho ông. Chỉ cần ông giúp ta một việc, có lẽ... tương lai không lâu sau, lão gia tử ông sẽ có thể trở thành kẻ phú hộ giàu nhất Kim Lăng. Không biết món quà ra mắt này có đủ lớn hay không?

Bành lão thái gia nghe xong thì ngạc nhiên nhìn nàng một hồi lâu, rồi mới cười nhạt nói:
- Rốt cuộc cô là đồng đạo nơi nào? Lão phu tuổi tác đã cao, chỉ mong có được cuộc sống an nhàn. Mua bán càng lớn, cái giá phải trả càng cao. Cô muốn làm cuộc mua bán lớn gì, lão già đây không muốn nghe. Cô có lai lịch gì, lão già đây cũng không quan tâm, cô hãy về đi.

Thành Khởi Vận thu lại nụ cười trên mặt, điềm nhiên:
- Lão gia tử quá cẩn thận rồi. Ông yên tâm, việc này không hề có bất kỳ nguy hiểm gì. Tiện thiếp lần này đến thật sự là rất thành ý, ông chưa nghe nói rõ mục đích mà đã muốn đuổi khách đi sao? Ha ha, nếu không phải gần đây tiện thiếp muốn lên phương bắc, kỳ thực sẽ không vội vã đến gặp ông như vầy đâu...

"Lên phương bắc?" Bành lão thái gia giật mình, lão liếc nhìn trang phục của Thành Khởi Vận, váy áo đỏ rực, bên ngoài khoác áo tơi trắng tinh, đường cong lung linh trên thân người bốc lửa, bầu ngực cao vút cùng tấm lưng ong cực kỳ mê người, khuôn mặt kiều mị mỉm cười ấy, tuổi tác xem chừng tối thiểu cũng phải hai mươi. Lão chợt nhớ đến một người bèn đứng bật dậy, nghiêm mặt hỏi:
- Phải chăng cô nương do họ Dương phái đến?

Vừa đang định nói rõ mục đích lần ghé thăm này, Thành Khởi Vận nghe xong câu hỏi nhất thời không kịp phản ứng, nàng cũng chợt giật nảy mình, ngạc nhiên hỏi:
- Ông nói cái gì? Sao ông biết ta đến cùng với y?

Bành lão thái gia nghe vậy bèn ngửa mặt lên trời cười to. Lão vung bàn tay to như của Cự Linh Thần (5) vỗ mạnh lên bàn một cái bộp, mặt bàn vừa lật nghiêng, một cặp hổ trảo sắc bén ở bên dưới đã được rút ra. Lão lạnh lùng cười hắc hắc:
- Nương tử nhà họ Dương kia! Lão đây lăn lộn trên biển bất quá chỉ vì kiếm miếng cơm manh áo, cùng đám anh hùng lục lâm muốn lật đổ triều chính, khởi binh tạo phản các người như nước sông không phạm nước giếng! Lão phu nói lại một câu cuối cùng: ngươi đi con đường Dương Quan (6) của ngươi, ta qua cây cầu độc mộc của ta, chúng ta coi như hôm nay chưa từng gặp mặt. Bằng không, chúng ta hãy cùng phân cao thấp để Sa Ngư Vương ta lĩnh giáo công phu thật sự của Dương Khoá Hổ Hồng nương tử ngươi!

Thành Khởi Vận nghe xong nhất thời ngẩn người tại chỗ. Nàng vốn đã cân nhắc lời thuyết phục rất kỹ lưỡng, cho rằng Bành lão thái gia có điều kiêng dè nên quyết sẽ không dám động thủ đả thương nàng, còn điều kiện hậu đãi của nàng cũng nhất định sẽ có thể thuyết phục được lão thủ lĩnh hải tặc này.

Nhưng giờ trông thấy bộ dạng giương cung bạt kiếm sắp sửa động thủ của lão, nàng không khỏi ngạc nhiên hỏi lại:
- Nương tử nhà họ Dương nào? Rốt cuộc ông tưởng ta là ai?

***

Lư biên nhân tự nguyệt, hạo oản ngưng song tuyết, liễu diệp mi gian phát, đào hoa kiểm thượng sanh. (Người ở bên lò sáng tựa trăng, tay trắng như lê dáng chị Hằng, mày liễu đong đưa bao say đắm, mặt hoa ngàn vẻ lặng hồn anh).

Có ai không biết đệ nhất mỹ nữ của Trường Can Lý là Mã Liên Nhi của quán rượu Trường Đình chứ?

Quán rượu Trường Đình nằm sát rìa ngoài cùng của ngõ hẻm Trường Can Lý. Cách cửa quán không xa về phía trước là Trường Đình, chốn cỏ mọc xanh rì như nệm, là nơi đưa tiễn tân khách của Kim Lăng. Địa điểm tốt cho nên việc buôn bán của quán rất thịnh vượng.

Từ mấy tháng trước, sau khi cháu gái của ông chủ họ Mã từ phương Bắc quay về quê nhà thường xuyên đến quán phụ giúp, việc buôn bán của nhà họ Mã cũng càng lúc càng phất lên.

Không phải có câu “ngắm người đẹp, không ăn uống vẫn no” (7) hay sao! Mỹ nhân mặt xoan má đào, dáng người nhỏ nhắn như trăng, dù chỉ mặc áo vải váy thô vẫn trông xinh đẹp mê người, muôn phần dịu dàng tha thướt, khiến người ta nhìn mà thoả lòng vui mắt. Dùng sắc để nhắm rượu, rượu càng thêm nồng! Làm sao mà khách nhân không đổ xô vào quán như bầy ong?

Người Kim Lăng rất thích ăn thịt vịt. Vịt Quế Hoa* da trắng thịt mềm, béo mà không ngấy, hầu như quán rượu nào cũng đều có món vịt Quế Hoa ướp bằng hương vị độc đáo riêng của mình, xắt thành từng lát mỏng, ăn đến ngọt miệng thơm môi.

Lúc này, Mã Liên Nhi đang vận một bộ đồ xanh nhạt, bên chiếc eo thon mềm mại buộc tấm tạp dề xanh lam, cánh tay trắng muốt nõn nà cầm một con dao nhỏ sáng bóng như tuyết đang đứng trước quầy xắt từng lát thịt vịt một cách thành thạo rồi nhanh nhẹn cho vào trong chiếc dĩa trang trí hình những đóa hoa bằng men màu lam.

Đôi mắt xinh đẹp của nàng dán mắt vào con vịt muối (diêm thủy áp) đang biến nhỏ dần. Con dao nhỏ vung lên thoăn thoắt, như thể con vịt là gã thư sinh tiêu sái anh tuấn, quần áo trắng tươm đang đứng trước mặt.

- Liên Nhi, đã lâu không gặp.
Gã đàn ông đằng hắng, ngượng ngập mở lời.

- Xin lỗi, ta họ Mã! Làm ơn hãy gọi ta là Mã cô nương.

- Ờ.. ừm... Mã cô nương, chúng ta... đã lâu không gặp rồi nhỉ?

- Lâu lắm rồi sao? Sao ta chẳng cảm thấy vậy?

- Đương nhiên là lâu, đương nhiên là lâu. Tôi... tôi... tôi một ngày không gặp cô như cách ba thu đó.

Một tiếng cười "phì" phát ra như hoa đào hé nụ, khiến gã công tử đứng trước mặt lòng như dậy sóng, không kiềm lòng được mà định chạm vào tay nàng. Song cặp mắt thanh tú như mảnh trăng khuyết nọ chỉ khẽ liếc gã một cái, tay gã lập tức liền rụt lại, ngượng ngập nói:
- Liên Nhi, tôi... tôi...

"Cộp"! Con dao nhỏ bén ngọt chém xoạt xuống cái bàn gỗ một nhát, rung lên bần bật, khiến cho gã công tử giật nảy cả mình, không tự chủ được phải thối lui mấy bước. Mã Liên Nhi đanh mặt lại, giọng lạnh nhạt:
- Quan công tử! Ta đã nói rồi, đừng gọi ta là Liên Nhi. Ai còn dám gọi ta là Liên Nhi, ta sẽ cho kẻ đó được đẹp mặt đó!

Mã Liên Nhi vừa dứt lời, ngoài cửa chợt có người mặc trường bào màu cánh sen, chân mang giày đen đế mềm, khoan thai bước vào cất tiếng nhỏ nhẹ gọi:
- Liên Nhi, đã lâu không gặp!





Chú thích:

(1) Nguyên văn “hối giáo phu tế mịch phong hầu”, trích trong bài thơ Khuê Oán của Vương Xương Linh.
Mời xem lại chú thích chương 45.

Ôn Như Hầu Đặng Trần Côn lấy nguyên văn hai câu đầu trong khổ thơ:
Hồi thủ trường đê dương liễu sắc
Hối giáo phu tế mịch phong hầu
Bất thức ly gia thiên lý ngoại
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu.

Được nữ sĩ Đoàn thị Điểm dịch:
Lúc ngoảnh mặt ngắm màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Chẳng hay muôn dặm ruổi rong
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng? (Chinh Phụ Ngâm)

(2) Cửu biên: Xin nhắc lại đó là tên gọi chín điểm quân sự cần trấn giữ ở vùng biên tái bắc bộ thời Minh.
Sau khi nhà Minh được thành lập, quân Nguyên lẩn trốn ở biên tái phía bắc vẫn không ngừng quấy nhiễu, uy hiếp nghiêm trọng đến sự thống trị của nhà Minh. Để củng cố biên phòng khu vực bắc bộ, Minh thái tổ Chu Nguyên Chương nhiều lần phái tướng bắc chinh, đồng thời phân đất phong hầu cho các con là Chu Lệ, Chu Quyền đem trọng binh trú thủ biên tái bắc bộ. Minh thành tổ Chu Lệ vừa xuất quân ra sa mạc phía bắc, vừa bố trí trấn giữ vùng biên duyên, phái binh trấn thủ. Ban đầu thiết lập bốn cứ điểm trấn giữ ở Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Diên Tuy, kế tiếp lập trấn ở Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, rồi lại lập hai trấn ở Sơn Tây, Cố Nguyên, ấy là cửu biên.

(3) một loại đá tròn nhỏ, sáng bóng, có vân và màu sắc sắc sỡ, có nhiều ở Nam Kinh

(4) nguyên văn "mã đầu tường" hay còn gọi là "tường phòng lửa", "tường chắn lửa", được thiết kế nhằm ngăn lửa lan từ mái nhà này sang mái nhà khác. Do lối thiết kế có hình đầu ngựa nên gọi là "mã đầu tường"
Xem hình http://hi.baidu.com/kikasa617/album/...6a5c272ce.html

(5) Cự Linh Thần: tên một vị thần trên thiên đình, chiến tướng dưới trướng Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh, có thân hình cực kỳ cao lớn.

(6) nghĩa bóng chỉ tiền đồ thênh thang xán lạn.

(7) nguyên văn "tú sắc khả xan", nghĩa là vẻ đẹp có thể khiến người ta thưởng thức đến no nê.

Chương 142: Hay Không Thể Tả

------------------------

Quan công tử vừa nghe có kẻ khác gọi "Liên Nhi", trong lòng không khỏi mừng rỡ. Từ lúc đưa tiễn khách đến Trường Đình trông thấy diện mạo của Mã Liên Nhi vào tháng trước, vị Quan công tử này lập tức như thấy người trời, từ đó thường xuyên chạy ngược từ phía bắc thành về nam thành để ngắm nàng. Về sau hắn lại dò hỏi được vị cô nương này không cha không mẹ, hiện đang ở nhà của bác mình nên hắn càng thấy tiền đồ rộng mở, thế là dứt khoát đuổi người vợ đang bụng mang dạ chửa của mình về bên ngoại để an dưỡng, một lòng một dạ chạy đến đây theo đuổi giai nhân.

Trong số những tên háo sắc cả ngày si mê quấn quýt trong quán rượu Trường Đình mong mỏi được một lần nhìn thấy nhan sắc giai nhân thì tên họ Quan là kẻ tích cực nhất, giáp mặt cũng nhiều lần nhất, nên hiển nhiên biết rõ lợi hại của mỹ nhân điêu ngoa này.

Chỉ là đoá hồng này tuy nhiều gai song lúc nổi đoá thì dáng vẻ thật mười phần hấp dẫn nên càng khiến y vui vẻ mà chịu đựng và vẫn ôm lòng si mê. Hôm nay trông thấy vị mỹ nhân đang nổi sùng, không biết là tên háo sắc nào sắp bị xui xẻo rồi, nói không chừng từ đây sẽ giảm bớt một đối thủ cạnh tranh thì Quan đại thiếu gia sao không mừng ra mặt?

Quả nhiên cơn giận của Mã đại tiểu thư hôm nay khác xa lúc trước, con mắt của nàng trợn to, vành mắt giận đến đỏ bừng, cặp mắt đen láy đó lại càng lúc càng sáng lên. Hình như... hình như đã giận đến sắp khóc, khiến Quan đại thiếu gia hắn thấy mà đau nhói lòng.

Dương Lăng cũng đang ngẩn ngơ nhìn Mã Liên Nhi. Dáng vẻ thon thả của nàng vẫn mê người như vậy: bộ đồ xanh nhạt như màu lá, tôn khuôn mặt xinh xắn của nàng lên như một đoá hoa bách hợp thuần khiết, lung linh tươi mát, một viên ngọc sáng không tì vết.

“Nữ đại thập bát biến” (1), mới có nửa năm, nàng đã trở nên xinh đẹp hơn, lung linh như tiên nữ giáng trần. Nếu nói trước kia nàng là nụ đào chớm nở, thì giờ đây cánh hoa tươi mát đã thấm hơi sương lộ ra một chút sắc hồng, nhàn nhã và thành thục hơn trước mấy phần.Khuôn mặt xinh đẹp trắng mịn mang đầy vẻ si mê và thùy mị. Đây chính là người con gái phóng ngựa trên phố, cất tiếng cười vang khi xưa đó sao?

Dương Lăng muốn gặp nàng, lại sợ gặp nàng. Vốn còn nghĩ sẽ hơi mất tự nhiên, song đứng trước vẻ đẹp rạng rỡ của Liên Nhi y liền như người tuyết gặp phải lửa, chảy tan thành nước. Y xúc động sải lên một bước, nhẹ giọng gọi:
- Liên Nhi...

Cơ hội ra mặt vì mỹ nhân đã đến. Quan công tử sải lên một bước, xòe cây quạt thếp vàng ra rồi lại gấp lại, gõ lên vai Dương Lăng một cái, hết sức tiêu sái nói:
- Lão đệ à, khuê danh của Mã cô nương là để cho người ngoài tuỳ tiện gọi sao? Xin ngươi hãy tự trọng!

- Ngươi là ai? - Dương Lăng hỏi, song mắt vẫn nhìn về phía Liên Nhi. Miệng nàng thoáng dẹt lại, hình như sắp khóc, Dương Lăng trông thấy mà mềm lòng. Có những người con gái thật sự sinh ra đã có tướng mạo khiến cho chúng ta thấy là xót thương, khiến người ta nhìn là cảm thấy đau lòng.

Quan công tử ưỡn ngực, bung quạt đánh xoạt che trước ngực, ngạo nghễ nói:
- Bản công tử họ Quan, tên Quan, là chữ Quan trong quan quan thư cưu, tại hà chi châu.

Liễu Bưu có nghe Mã Ngang nói đến Mã Liên Nhi, lúc này vừa trông thấy người con gái này có nhan sắc vượt trội ba người thê thiếp xinh đẹp của Xưởng đốc đại nhân, và lại có dáng vẻ mờ ám tình chàng ý thiếp thì sao còn không đoán ra thân phận hai người. Gã nháy mắt với Trịnh bách hộ, hai người một trái một phải bước lên kẹp vị công tử tên là Quan Quan này nhấc bổng kéo ra ngoài cửa. Liễu Bưu cười hoà nhã nói:
- Quan Quan huynh, đã lâu không gặp nhỉ. Đi nào, chúng ta ra ngoài trò chuyện một chút.

- Này này, đừng có mà vin cớ kiếm giao tình với ta. Các ngươi là ai vậy? Tiểu Quan ta không nhận ra. Ta nói cho các ngươi biết, cha ta chính là Quan đại nhân thủ hộ Kim Lăng đó!

Ngoài cửa vọng lại tiếng cười của Trịnh bách hộ:
- Vậy thì khéo quá, sáng hôm nay chúng ta mới cùng uống rượu chung với Quan đại nhân. Đi nào, tìm một quán lớn, chúng ta uống tiếp mấy chén.

Mã Liên Nhi cắn môi, gọi một tên tiểu nhị lại:
- Tiểu Thất, trông quầy một chút.

Làm tiểu nhị có ai mà tai không nghe tám hướng, mắt không nhìn sáu phương (tai mắt tinh thông)? Tiểu Thất sớm đã nhận ra quan hệ giữa hai người không tầm thường, vị công tử này lại không giống như cái đám háo sắc đến quán gây loạn, hắn vội ngoan ngoãn đáp một tiếng.

Mã Liên Nhi cụp mắt, quay người lấy khăn lau tay rồi sau đó đi vòng qua cánh cửa mắc rèm ở phía sau. Dương Lăng đưa tay lên, song lại vội hạ xuống, trong lòng chỉ nghĩ: "Liên Nhi trách mình lâu như vậy mà cả tin tức thư từ cũng không báo cho nàng sao?"

Mã Liên Nhi thong thả bước đi, eo thon khẽ đưa, cái nhịp điệu khẽ khàng mà mê người đó như một nhành liễu nhẹ phất phơ trong gió xuân khiến người ta não lòng. Ánh mắt Dương Lăng không tự chủ mà bám theo.

Mã Liên Nhi đi đến cửa, đưa một tay lên vén rèm cửa bỗng lại cắn môi ngoái đầu nhìn một cái, ngọn gió thổi qua căn phòng đung đưa vài sợi tóc mai mềm mại, vuốt nhẹ gò má trắng ngần láng mịn của nàng. Đôi mắt ấy cũng sáng ngời như sao.

Dương Lăng thở dài, không tự chủ mà bước theo sau. Sau cửa là một hành lang dài, xuyên qua nó là một mảng cỏ xanh và bờ giậu be bé quây lại thành một cái sân con nằm sau căn phòng, mấy con gà con vịt đang nhàn hạ lang thang trong sân.

Mã Liên Nhi đứng dưới gốc phù dung, khắp người không chỗ nào không đẹp, giành hết vẻ tươi đẹp của những đoá hoa đỏ nở khắp trên cây.

Dương Lăng hít sâu vào một hơi. Với kiến thức của y và sự quen thuộc với Liên Nhi, mỗi lần trông thấy vẻ đẹp đấy vẫn đều rung động tâm tình, không kiềm chế được cõi lòng. Người con gái này thật xứng được gọi là "vưu vật tuyệt thế".

Y chậm rãi bước qua, một cơn gió thổi tới, ngọn cây lay động, vài đoá phù dung to bằng chiếc bát lào rào rơi xuống đất. Mã Liên Nhi vén váy lụa, xổm người nhặt nó lên, đặt vào trong bàn tay thanh mảnh trắng ngần.

Nhìn si mê một lúc, nàng mới nhẹ thở dài một tiếng, hỏi:
- Muội... thư muội nhờ Hàn đại ca gởi cho huynh huynh có nhận được không?

- Ừm! - Dương Lăng gật đầu lia lịa.

Mã Liên Nhi lại hỏi:
- Nghe nói... Hoàng Thượng ban thưởng cho huynh hai người thiếp, đẹp chứ?

- Ừm!... Ờ... có điều, không đẹp bằng muội - Dương Lăng ngập ngừng đáp.

- Sao lại thế được? Của Hoàng Thượng ban thưởng mà, Hoàng Thượng ban thưởng mà huynh còn chê ư?(*)
(*) Câu này có nhiều nghĩa tuỳ theo ngữ cảnh. Đây là câu mà Chí Tôn Bảo nói với Tử Hà lúc hai người ở chợ. Đại khái Chí Tôn Bảo nói là lương duyên ông trời sắp đặt thì còn sợ gì.

- A... - Đây là câu Dương Lăng dạy cho nàng lúc kể cho nàng nghe "Đại Thoại Tây Du", nghe nàng nhắc lại, y cảm thấy mình như chợt quay về cái đêm đông ấy, hai người tự nguyện dựa sát vào nhau, kể chuyện cho nhau nghe để chống đỡ cái giá lạnh trong hố tuyết. Một cảm giác ấm áp chợt ùa vào lòng, cảm giác xa cách và ái ngại lập tức tan biến, y không kiềm được liền mỉm cười vui vẻ.

Mã Liên Nhi lại không cười, tiếng cười Dương Lăng chưa dứt, nàng lại chợt hỏi:
- Huynh đến Giang Nam có ghé qua Tô Châu phải không?

- Ừm, có ghé, du lịch qua vài nơi.

- Hình như Tô Châu cách Kim Lăng không xa lắm thì phải nhỉ? Dương đại nhân.

- Ặc...- Dương Lăng bỗng cảm thấy người nóng ran, trán muốn túa mồ hôi.

Mã Liên Nhi chậm rãi ngẩng đầu, cặp mắt to tròn xinh đẹp hơi nheo lại:
- Huynh đến Kim Lăng mang theo một cô nương xinh đẹp, chắc không phải là thu nhận ở Tô Hàng đó chứ? Tô Hàng thật đúng là nơi sản sinh ra mỹ nữ nhỉ.

Dương Lăng thở phào, liền vội giải thích:
- Nàng ấy là lang trung của huynh, là người chữa bệnh cho huynh - Trừ Mã Liên Nhi ra, những người con gái bên y không ai dám nói chuyện thẳng tuồn tuột với y như thế này.

Có lẽ đây là thói quen nàng có được do lớn lên ở biên tái, song Dương Lăng nghe xong lại cảm thấy thân thiết vô cùng, có cảm giác như được tắm trong gió xuân. Nhưng mà cái cảm giác nguy hiểm trùng trùng khi nãy thật khiến y thiếu chút hít thở không thông. Cuối cùng thì hôm nay cũng đã có cơ hội để chứng tỏ sự trong sạch.

- Gì cơ? - Mã Liên Nhi không nỡ bức hiếp y nữa. Nàng không thèm đoái hoài gì đến hình tượng nữa mà chạy bổ qua, nắm lấy tay y, mở to đôi mắt nhìn y từ trên xuống dưới, lo lắng hỏi:
- Huynh bị bệnh hả? Bao lâu rồi, sao lại bị bệnh chứ? Huynh bị bệnh gì, mau nói cho muội nghe.

- À... ờ... việc này... ha... ha... - Dương Lăng khó xử, chỉ đành xấu hổ cười trừ. Tuy rằng cá tính của vị đại cô nương trước mặt này không giống cô nương tiểu thư con nhà người ta, nhưng cũng không cách nào giải thích chuyện này cho nàng ấy.

Mã Liên Nhi bỏ tay y ra, trừng mắt oán giận nói:
- Chắc là bị mắc bệnh của vua chúa(*) rồi chứ gì?
(*) ND không rõ ý của Mã Liên Nhi nhưng đoán cô nàng trêu Dương Lăng hoang dâm vô độ nên chỗ ấy bị bệnh

Không biết phải giải thích thế nào, Dương Lăng đành đỏ mặt ấp úng "nhận tội". Tuy Mã Liên Nhi ăn nói bạo dạn thẳng thắn, nhưng cũng không khỏi có phần xấu hổ, nàng ngẩng đầu liếc Dương Lăng một cái, rồi lại cúi xuống thật nhanh, thỏ thẻ:
- Vị nữ thần y đó nói... nói là trị khỏi được chứ?

Dương Lăng trả lời cứng nhắc:
- Ừm... Nàng ấy nói sau hai tháng thì sẽ có thể... à không phải, không phải... là sẽ bình thường.

Mã Liên Nhi liền đỏ mặt, vờ như không hiểu sự mập mờ trong lời nói cải biên của y. Nàng vân vê đai lưng, quấn nó quanh ngón tay mình, rồi lí nhí nói:
- Có phải là muội ngang ngược lắm không? Thật ra... thật ra sau khi nghe được chuyện huynh vì Ấu Nương muội muội mà kháng chỉ bất tuân, muội đã biết... biết rằng mặc dù huynh làm quan to nhưng con người huynh tịnh sẽ không thay đổi. Đêm đó muội đã khóc rất nhiều, khóc đến... muội vui, rất vui, muội biết muội đã không chọn lầm người. Những kẻ trong thiên hạ dù có yêu thê tử đến mấy thì cũng chẳng có ai xem trọng thê tử mình hơn cả Hoàng đế? Muội... muội thật sự rất nhớ huynh, ngày nào cũng mơ thấy huynh.

Nàng sụt sịt mũi, nước mắt đã chảy xuống thành dòng:
- Muội chỉ giận huynh, huynh làm quan to như vậy ở trong kinh, thông qua trạm dịch gửi thư đi khó lắm à? Huynh đã đến Giang Nam, còn đến Tô Châu chơi, mà lại không thể đến Kim Lăng gặp muội một chút sao?

Nàng ngẩng đầu lên, hai mắt đẫm lệ, run run hỏi:
- Dương đại ca, muội chỉ muốn biết, trong lòng huynh có Liên Nhi không?

Nàng căng thẳng nhìn vào khuôn mặt anh tuấn quen thuộc của Dương Lăng, chiếc đai lưng thít ngón tay đến tím tái, đầu ngón tay đã đỏ bầm.

Mắt nàng nhoè đi, bóng hình y cũng trở nên mơ hồ. Người con trai mơ hồ đó đột nhiên cởi đai lưng, khiến cho Mã Liên Nhi đang tràn ngập bi thương giật nảy mình. Nàng lùi về sau mấy bước, khiếp đảm trợn tròn cặp mắt đẫm lệ, giọng hốt hoảng:
- Huynh... huynh làm gì vậy?

Dương Lăng cởi đai lưng ra, tháo miếng ngọc bội quấn trên đó xuống, rút ba lọn tóc đen được thắt lại bằng một sợi dây đỏ ở mặt sau ra, cười gượng gạo. Hiện tại y vẫn không biết rốt cuộc lời nói của Trương thiên sư có thật hay không nên lần này đến gặp Liên Nhi, y định bụng sẽ cố giữ chút khoảng cách để cô nương nhà người ta không lún quá sâu vào hố tình. Nhưng nào ngờ... lời yêu thương không tiện nói ra, lời làm người ta tổn thương thì có đánh chết y cũng không dám nói, thế mà mới chớp mắt y đã bị chìm vào tình cảm dịu dàng và những giọt nước mắt của Liên Nhi.

Mã Liên Nhi dụi mắt, nhìn kỹ ba lọn tóc dài ấy, song lại không cầm lấy mà chỉ cúi đầu bẽn lẽn.

- Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ, vù tuỳ nguyệt ẩn không lưu lộ. Chích duyên cảm quân nhất hồi cố, sử ngã tư quân triều dữ mộ… Liên Nhi, thật ra Dương đại ca... Dương đại ca...

Mã Liên Nhi vẫn cúi đầu, song khoé môi đã không nén được mà nhoẻn một nụ cười ngọt ngào. Nàng đột nhiên lao vào lòng Dương Lăng, ngượng ngùng nói:
- Muội biết, muội biết, muội biết cả rồi, huynh không cần phải nói ra.

Dương Lăng cứng người, Mã Liên Nhi tựa vào ngực y, cánh tay mềm mại siết chặt eo y. Sau thoáng do dự Dương Lăng ôm lấy vòng eo yêu kiều nhỏ nhắn của nàng. Một cảm giác "hoa nở trong đêm" mập mờ nhanh chóng bao phủ lấy con tim hai người.

Thật lâu sau, Mã Liên Nhi mới thở dài, nũng nịu hỏi:
- Dương đại ca, lần này đến Kim Lăng huynh ở lại được bao lâu?

Dương Lăng đáp:
- Huynh... bố trí hai thuế giám xong thì phải chạy về kinh ngay nên cũng chỉ ở hai ngày này thôi. Trong triều... xa cách hơn một tháng đã xảy ra rất nhiều chuyện rồi. Huynh không thể không... không sớm quay về.

- Ừm! - Dường như chỉ dựa vào lòng y thôi thì Mã Liên Nhi đã vô cùng hạnh phúc rồi, nàng ngoan ngoãn ngật đầu, khẽ thỏ thẻ:
- Liên Nhi hiểu rồi, Liên Nhi thích được ôm huynh, được nghe huynh kể những câu chuyện ly kì, nhưng muội cũng thích nghe người ta kể chuyện huynh kháng chỉ cứu thê, kể chuyện huynh khẩu chiến với đám hủ nho, kể chuyện huynh ngăn việc dời lăng, kể chuyện huynh bình định giặc Oa, trừ gian thần lộng quyền, mỗi lần nghe xong muội đều cảm thấy rất vui, chỉ bởi vì... đó chính là nam nhân của muội.

Đoạn nàng ngẩng đầu, ánh mắt chứa đựng tình ý miên mang, giọng xa xăm:
- Nam nhi tốt có chí tại bốn phương. Phu quân của Liên Nhi không phải là một nam tử hán chỉ biết khoe tài anh hùng chốn quê nhà yên ả. Liên Nhi sẽ không cản trở huynh. Có điều... có điều còn hai năm nữa mới có thể ở chung với huynh...

Mã Liên Nhi lưu luyến ngắm đôi mày y, mắt y, môi y, rồi si mê nói:
- Liên Nhi không tiện đến Kinh sư thăm huynh. Nếu... nếu được, mỗi năm huynh có thể đến thăm muội một lần thì cũng đủ rồi. Dù không đến được thì một phong thư của huynh là đủ rồi.

Dương Lăng đã bị "hạ gục" bởi ánh mắt chứa đầy cảm xúc ấy, không tự chủ mà gật đầu:
- Huynh đáp ứng muội, nếu có cơ hội huynh sẽ đến thăm muội. Nếu không thể rời kinh, vậy thì... huynh sẽ sai người đưa thư cho muội.

Mã Liên Nhi đảo làn thu ba, ánh mắt loé lên vẻ mê hoặc, ngón tay đặt nhẹ lên môi Dương Lăng, trong lòng thầm nghĩ: "Bên người huynh có Ấu Nương muội muội, còn có hai con hồ ly tinh do tên Hoàng đế xấu xa nọ ban thưởng cho. Hai năm đằng đẵng, nếu bên cạnh huynh lại xuất hiện thêm mấy nữ nhân, huynh có sẽ quên muội không? Mã Liên Nhi mình cắt tóc tỏ lòng, dùng ba mũi tên đính ước, lang quân hiếm có như vậy, còn lâu mới khoanh tay nhường lại cho đám chim oanh chim yến đó. Mình phải... mình phải... phải có được huynh ấy trước."

Dương Lăng ngắm khuôn mặt xinh xắn của nàng. Mọi đường nét ngũ quan trên khuôn mặt Mã Liên Nhi đều được phân chia rõ ràng: má đào trơn bóng như ngọc đẹp, cặp mắt trời sinh quyến rũ, hàng mày đen cùng mi cong hình cánh quạt hiện rõ đường cong ưu mỹ, đẹp khiến người ta nín thở. Dương Lăng lại không để ý thấy vẻ kì lạ bỗng loé lên trong mắt nàng.

- Di di(*) không biết xấu hổ, đi ôm nam nhân - Mã Liên Nhi vừa tính mở miệng nói chuyện, một giọng nói trẻ con chợt cất lên. Hai người giật nảy mình, lật đật tách nhau ra rồi cùng quay lại thì chỉ thấy một bé gái độ bảy tám tuổi đang đứng ở cửa sân hiếu kỳ vỗ tay cười.
(*) .

Cô bé trông trắng trẻo xinh xắn, tóc búi hai bên(2), buộc lại bằng tua chuỗi ngọc màu đỏ, còn thõng thêm hai cái đuôi sam, trông đáng yêu vô cùng. Nó mặc chiếc áo gấm xinh màu hồng nhạt, chân mang đôi giày nhung trẻ con thêu hình đầu cọp ở hai bên.

Mã Liên Nhi đỏ mặt, đi tới cúi xuống bế đứa cháu gái lên, dọa dẫm:
- Còn nói bậy, nói bậy nữa là di di sẽ không mua đường (kẹo) cho con ăn nữa.
Áo nàng tuy rộng, song lúc hai tay cử động, y phục bị kéo căng khiến vòng eo nhỏ xíu mềm mại và đường cong tuyệt mỹ của bộ ngực hiện rõ mồn một, khiến Dương Lăng nhìn mà gợn sóng lòng, bèn vội dời ánh mắt đi.

Ánh dương quang của buổi chiều tà ấm áp chiếu lên làn da trắng mịn ửng hồng của nàng khiến nó được phủ lên một quầng sáng nhàn nhạt. Nàng cười khúc khích trêu đứa bé, rồi chợt quay đầu, khuôn mặt trái xoan trắng mịn được phớt lên những vầng đỏ hây hây, ánh mắt đong đưa. Nàng nói:
- Bá phụ vẫn chưa biết thân phận huynh, muội... bây giờ muội cũng không tiện nói. Hôm nay gặp được huynh, muội thấy rất vui. Huynh... ngày mai có thể đến thăm muội nữa không? Muội muốn cùng huynh lên núi một lần nữa. Lần đó là núi tuyết, lần này là Tê Hà(3), lên núi Tê Hà xem lá phong, chỉ có... muội và huynh, được không?

***


Trên tường mã đầu (*), một khóm tường vi khẽ lay trong gió thoảng, trong mái đình tám cạnh, một lão già râu trắng vận trường bào màu đen tuyền đang nhìn về phía dãy căn lầu gác gạch xanh ngói nhỏ nối nhau chập trùng, ngón tay vuốt râu của lão hơi run rẩy.
(*): Đã chú thích ở chương trước.

Cư ngụ bên trong chốn trạch viện cách một con phố dài đó là kẻ thù giết con của lão, cái tên gian nịnh dùng lời ngon ngọt mua chuộc lòng người, thao túng nội đình, mê hoặc quân thượng ấy. Lão thực muốn lập tức chạy qua chém chết cái tên gian thần đó, trừ hại cho triều đình, báo thù cho nhi tử lắm nhưng lão không thể manh động vì hiện giờ còn chưa phải lúc; với quyền thế và địa vị Dương Lăng lúc này, ai có thể giết được hắn chứ?

Một gia bộc lặng lẽ đi đến. Vương Quỳnh quay đầu lại, điềm nhiên hỏi:
- Hắn về rồi à?

Lão bộc vội đáp:
- Dạ, đầu tiên hắn đến sông Tần Hoài, lên thuyền hoa của cô nương hồng kỹ(*) tên Khả Khanh, mãi đến trưa mới trở ra, sau lại đến một quán rượu ở Trường Can Lý. Sau khi hắn rời khỏi, tiểu nhân đã nghe lỏm được khách nhân trong quán tán gẫu, hình như quán rượu đó có vị cô nương vô cùng xinh đẹp. Sau khi hắn vào liền dẫn cô nương đó ra hậu viện, nghe nói công tử của quan thủ bị cũng thích vị cô nương này đã bị thủ hạ của hắn dùng quan uy doạ dẫm, kết quả thậm chí nhà cũng không dám về, mà chạy thẳng tới nhà nhạc phụ hắn để "tránh gió".
(*) kỹ nữ bán thân, như hồng quan nhân

Vương Quỳnh cười khinh miệt một tiếng, lạnh lùng nói:
- Nguỵ quân tử mua danh chuộc tiếng, cái đồ háo sắc quái đản. Hừ! Tìm cớ đến Kim Lăng, còn chẳng phải để vơ vét tiền tài ư - Đoạn lão phất tay nói:
- Lui xuống đi, không cần phái người theo dõi hắn nữa.

Vương Quỳnh xoay người lại, trông về phía tư dinh của Phùng công công cười khẩy: kẻ này tuổi trẻ, dựa vào xum xoe nịnh nọt, quyền bính lại càng lúc càng nhiều, trong triều lại kết giao với một đám tiểu nhân nịnh bợ. Kẻ này tương lai nhất định sẽ là mối họa của Đại Minh.

Chỉ tiếc là ba đại học sỹ nuông chiều kẻ ác, không nhân lúc tên gian nịnh này còn chưa mọc đủ lông cánh mà trừ khử hắn, làm ngơ nhìn lực lượng của hắn càng lúc càng lớn thể nào cũng có ngày nhất định bị nó hại. Nay Hoàng thượng bị hắn làm cho u mê, bá quan lại không nhận ra được khuôn mặt thật của hạng Vương Mãng (4) này, mình cũng chỉ đành ép dạ cầu toàn kết minh với nội đình, mượn lực lượng của chúng để đối phó với hắn thôi.

"Ha ha ha, Dương Lăng à Dương Lăng, ngươi cứ ngang ngược càn rỡ thêm mấy ngày đi, lão phu đã bố trí tử cục cho ngươi ở trong kinh rồi. Mọi việc đều đã chuẩn bị, chỉ chờ ngươi về kinh chịu chém thôi!" Vê râu nhìn dãy lầu gác trong tư dinh của Phùng công công, Vương Quỳnh không khỏi đắc ý mà cười.

Trong tư dinh của Phùng công công, Dương Lăng đang kinh ngạc nhìn Thành Khởi Vận bỗng dưng mạo muội đến nhà, lấy làm kỳ lạ hỏi:
- Mạc... Thành cô nương, mới một ngày không gặp, tay cô sao lại bị thương rồi?

Thành Khởi Vận nhìn cánh tay trái bị băng trắng của mình cười khổ, nơi đó vẫn còn đau âm ỉ, nàng cau đôi mày lá liễu, yếu ớt nói:
- Cũng may là chỉ bị thương, nếu không phải tiện thiếp kêu lên kịp thời thì sợ rằng bây giờ đã biến thành thây ma rồi.

Dương Lăng cả kinh hỏi:
- Trị an Kim Lăng kém đến thế sao? Có bắt được tên côn đồ không? Có muốn bản quan phái người giúp cô không?

Thành Khởi Vận thở dài đáp:
- Không thể bắt được, người này đối với đại nhân vô cùng quan trọng. Không phải là đại nhân luôn suy nghĩ tìm cách huỷ bỏ lệnh cấm biển, tăng cường thuỷ quân ư? Có điều muốn thuyết phục triều đình thay đổi quốc sách, sợ rằng chỉ với oai của đại nhân, mặc dù rất được vua yêu mến, quyền cao chức trọng, chắc cũng không dễ phải không?

Dương Lăng máy động thần sắc, cảnh giác hỏi:
- Thành cô nương nói vậy là ý gì, chẳng lẽ cô có biện pháp?

Thành Khởi Vận mỉm cười quyến rũ đáp:
- Tiện thiếp chỉ biết chọc cho nam nhân vui, có chút bí quyết đầu cơ trục lợi, có điều... Hi hi, nói lời khó nghe, xin đại nhân chớ trách, triều đình Đại Minh thực giống như một nam nhân to xác thích được nữ nhân chiều chuộng. Ở xưởng đóng thuyền Long Giang tiện thiếp thấy đại nhân đau lòng khổ não, lo lắng u sầu nên có lòng san sẻ lo âu với đại nhân. Sau khi trở về thuyền cân nhắc suy nghĩ, thiếp quả có nghĩ ra một biện pháp để thuyết phục triều đình. Đại nhân muốn biết không?

Dương Lăng cả mừng, y chớm bước tới một bước, chợt nghi hoặc dừng lại, nhìn Thành Khởi Vận hỏi:
- Khoan hãy nói biện pháp của cô có dùng được hay không, cô giúp ta như vậy, là có dụng ý gì?

Thành Khởi Vận tập trung ánh mắt chứa đầy tình ý miên man lên người Dương Lăng, dịu dàng đáp:
- Từ dạo loã thân gặp đại nhân đó, tiện thiếp đã không còn dám đùa giỡn trước mặt đại nhân nữa, đành nói lời ngay tiếng thật với đại nhân vậy. Từ lúc gặp được đại nhân, thiếp đã khắc mối thâm tình với đại nhân rồi, mặc dù quá khứ của thiếp nghĩ lại thấy thẹn, nhưng hôm nay thật lòng muốn đi theo đại nhân. Cho dù không danh không phận, chỉ cần có thể đi theo bầu bạn lâu dài, vậy đã quá mãn nguyện rồi. Tận tâm tận lực như vầy, bất quá là vì lấy lòng đại nhân mà thôi.

Dương Lăng nhíu mày, không vui nói:
- Thành cô nương, xin đừng nói đùa nữa. Cô nương hao phí bao tâm sức, tất có mưu đồ. Nếu không nói rõ, Dương mỗ thể nào tin được cô nương?

Thành Khởi Vận bật cười, trao y một ánh mắt quyến rũ, rồi cười thật tươi nói:
- Trong những vị quan mà tiện thiếp từng gặp, đại nhân là nhỏ tuổi nhất, song điệu bộ làm ra vẻ ông cụ non này thì lại không ai bì được. Đại nhân hỏi thiếp có mục đích gì ư?

Đoạn nàng thu lại vẻ tươi cười, ánh mắt mê mang, cất giọng xa xăm nói:
- Nói trắng ra, tiện thiếp cũng không biết. Tiện thiếp cũng không biết là mình sống vì người khác hay là sống vì mình nữa. Nếu nói là vì người khác, thật ra còn không phải vì để mình có được cuộc sống tốt hơn sao? Nếu nói là vì mình, sao chuyện gì làm cũng để lấy lòng kẻ khác, bản thân sao lại vẫn vui vẻ thế? Tiện thiếp còn nhớ, khi ở Xuân Vũ lâu, thiếp hận nó, song cũng phụ thuộc vào nó, vì nó mà dùng mọi cơ mưu để mê hoặc người khác. Theo Mạc công công rồi, thiếp hận hắn, song vẫn phải dựa dẫm vào hắn, vì hắn mà ép mình tươi cười. Tiện thiếp thấy mình rất kiên cường, nhưng bây giờ khi thật không còn nơi nương tựa nữa, thì lại rất sợ, không biết mình nên làm gì mới phải. Thiếp... thiếp nói vậy đại nhân nghe có hiểu không?

Dương Lăng nhìn nàng một cách tò mò. Người con gái dung nhan tuyệt sắc, mưu cao kế lắm, tự tin kiêu ngạo có thể thoải mái nói chuyện cười đùa trước mặt nam nhân này vậy mà lại có loại tâm lý kỳ lạ này.

Có điều y lờ mờ có thể giải thích được, sự kiên cường và mưu trí của người con gái này phải luôn được đặt trên nền tảng của sự lệ thuộc thì mới phát huy được hết mức. Giống như một dây leo nở đầy hoa tươi, khi nó trèo bám vào một thân cây khô, mọi người chỉ để ý đến vẻ mỹ lệ và tác dụng của nó, như thể thứ mà nó dựa dẫm vào căn bản không đáng nhắc đến. Song một khi không còn thân cây khô đó nữa, nó sẽ chỉ có thể ngã bò trên đất, bị giày xéo và coi thường, không ai chú ý đến sự hấp dẫn của nó nữa.

Người con gái này đã quen với cuộc sống như vậy, cũng đã quen có chỗ dựa, làm khách lấn chủ để bộc lộ hết vinh quang. Nhưng nếu thực dứt nàng ra khỏi chỗ dựa đó thì nàng sẽ không biết phải làm thế nào.

Loại tâm lý lệ thuộc này hình như y đã có nghe giảng trên lớp tiếp thị. Một người có mạnh mẽ hơn đi nữa, một khi đã hình thành loại hành vi giống như ám thị tâm lý thì sẽ rất khó để thoát ra.

Giống như một ví dụ mà thầy giáo y đã kể: có một người khi nhỏ từng trải qua cuộc sống vô cùng khổ cực, luôn phải chịu đói, về sau sau khi trở thành tỷ phú, trong nhà y khắp nơi lúc nào cũng đầy ắp đồ ăn. Y đi đến đâu, du thuyền, máy bay, hay xe hơi, đều muốn những nơi mà y nhìn thấy phải bày đầy đồ ăn. Chỉ có như vậy y mới có cảm giác an toàn, mặc dù với sự giàu có của y căn bản y không phải lo đến vấn đề này.

Người thường rất khó giải thích loại hành vi không phù hợp với lý trí thông thường này. Có lẽ có thể gọi nó là một loại tâm lý biến thái? Nhưng quả thật có một số người trông càng thành công, càng thành đạt hơn so với người thường lại càng có trạng thái tâm lý trông hết sức đần độn này, hơn nữa còn ảnh hưởng đến hành vi và lựa chọn của bọn họ.

Thành Khởi Vận nói xong thì bản thân nàng cũng giật mình. Muốn làm cho Dương Lăng tín nhiệm thì nàng có thể tuỳ tiện bịa ra cả trăm lý do khiến y tin, sao đột nhiên lại nói ra lời này. Nói dối dễ khiến người ta tin hơn, giờ đi nói thật, y chịu tin mới lạ.

Nàng cảm thấy hơi hối hận, hỏi:
- Đại nhân... có phải là không tin lời thiếp?

Dương Lăng định thần lại, đáp:
- Lý do của cô thật khó mà tin được, có điều chính bởi nó quá khó tin, cho nên bản quan tin lời cô nói là thật lòng. Được rồi, nói biện pháp của cô cho bản quan nghe đi. Nếu đã nhận ân tình này của cô, về sau nếu như có yêu cầu, chỉ cần không phạm phép nước, không trái công đạo, Dương Lăng nhất định sẽ đáp ứng.

Thành Khởi Vận đang hối hận, nghe được lời này thì mừng đến nhảy cẫng lên. Nàng nhướng cao chân mày, ánh mắt lộ vẻ ngạc nhiên, nói:
- Lời này là thật ư? Đại... đại... đại nhân thật khác với những kẻ khác đó.

Dương Lăng bật cười nói:
- Sao lại không thật? Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy.

Thành Khởi Vận thấy y đã đáp ứng với mình, đang rất vui mừng, nghe nói vậy không nhịn được mà cắn môi liếc xéo, lộ ra vẻ quyến rũ đến thấu xương, nũng nịu trêu chọc:
- Đại nhân không phải là có bệnh kín à? Còn chỗ nào xem là đại trượng phu chứ?

Dương Lăng nghe mà mặt nóng rần, thẹn quá hoá giận nói:
- Thành cô nương, thân phận của cô bây giờ đã không như trước nữa, nói chuyện xin hãy tự trọng. Dương mỗ không thích thấy loại - nữ - nhân - này!

Thành Khởi Vân lập tức thu lại vẻ mặt phóng đãng, khoát lên một vẻ mặt nghiêm túc và thuần khiết, kính cẩn nói:
- Dạ, đại nhân, vậy tiện thiếp sẽ nói ý tưởng của mình cho đại nhân nghe thử, xin đại nhân nghiên cứu xem có thể thực hiện hay không.

Khi nàng giở vẻ mặt dâm tà thì lẳng lơ đến thấu xương, còn khi nghiêm mặt lại thì lại thực trong sáng thuần khiết, khiến ngay cả Dương Lăng vốn biết bản tính của nàng mà cũng không thể nhìn ra chút sơ hở. Y không khỏi cảm thấy dở khóc dở cười, nói:
- Cô... Thành cô nương, cô thực là...

Thành Khởi Vận bật cười khanh khách, rạng rỡ như hoa xuân, nàng cảm thấy dường như trêu chọc Dương Lăng là một chuyện vô cùng thú vị. Nàng ngồi đó, vui vẻ khôn xiết, nói:
- Không phải đại nhân muốn bộ dạng này sao? Xin nói cho đại nhân biết, biểu lộ vẻ mặt như vậy, không đại biểu nữ nhân đó là nữ tử như vậy. Vừa nãy... vẻ mặt vừa nãy chẳng lẽ lại không mê người à?

Đối với nữ nhân như vậy, làm mặt nhà quan không được, làm mặt quân tử cũng không xong, Dương Lăng đành bực bội hừm một tiếng, nói:
- Mau nói ra biện pháp của cô cho bản quan nghe đi. Có phải là còn muốn ký khế ước với bản quan hay không?

Thành Khởi Vận khéo cười duyên dáng nói:
- Tiện thiếp không dám, phương pháp của thiếp thực chất còn phải nhờ cậy tới lực lượng của đại nhân. Chỉ có điều, thời khắc quan trọng, cho một đội kỳ binh thình lình xuất hiện sẽ thu được hiệu quả, kế sách này...

Dương Lăng nghe xong kế sách đó không khỏi ngỡ ngàng nhìn nàng thật lâu mà không nói gì. Thành Khởi Vận bị y nhìn cho trở nên thấp thỏm không yên. Tuy rằng nàng tự nhận mình đa mưu túc trí nhưng suy cho cùng chưa bao giờ tham dự vào đại sự triều đình. Biện pháp mà nàng tự cho là nhất định có thể thực hiện nhưng bây giờ Dương Lăng nghe xong lại có bộ dạng như vậy, chẳng lẽ thật sự rất hoang đường, rất trẻ con ư?

Dương Lăng nhìn nàng một hồi, nhắm hai mắt lại không nói lời nào. Thành Khởi Vận cũng không dám cười đùa nữa, ngẩn ngơ nhìn vào khuôn mặt của y. Dương Lăng nhắm mắt suy nghĩ đủ thời gian một nén nhang tàn, vẫn không lộ biểu tình gì, một lời cũng không nói.

Trên khuôn mặt của một Thành Khởi Vận luôn ẩn nhẫn tài năng xuất chúng dần lộ ra vẻ lo lắng sốt ruột. Nàng đang định mở miệng, đột nhiên trông thấy khóe môi Dương Lăng nhếch lên. Dần dà, y đột nhiên bật cười ha hả:
- Ha ha ha, không ngờ Thành cô nương lại nhìn thấu triệt như vậy. Đứng ngoài cục nhìn vào, chính trị chính là một vở kịch, diễn cho người coi, diễn cho mình coi, diễn cho bá tánh thiên hạ coi. Ha ha ha ha, vở kịch này của cô trông có vẻ hoang đường, kỳ thật cái lý do cấm biển cấm buôn, vứt bỏ bờ biển chạy dài ngàn dặm ra khỏi quốc thổ hiện tại chẳng lẽ lại không hoang đường à?

Y bỗng mở bừng hai mắt, hỏi:
- Cô xác định, việc này có thể làm được sao?

Thành Khởi Vận đang ngơ ngác nhìn y, không tự chủ mà hỏi ngược lại:
- Đại nhân cảm thấy có thể làm được không?

Dương Lăng gật đầu:
- Hay không thể tả.

Thành Khởi vận nghe xong, khuôn mặt cũng tràn trề niềm vui, nàng vui sướng nói:
- Nếu đại nhân có thể làm, vậy thiếp sẽ dễ thôi. Có đại nhân chống lưng, thiếp đứng ra làm trung gian thì tin rằng việc này sẽ dễ như trở bàn tay. Chỉ cần làm được việc này, trong triều cũng có thể thực hiện được trôi chảy.

Dương Lăng lắc đầu nói:
- Không, không cần cô làm trung gian, việc này bản quan không tiện xuất hiện. Cô quen thuộc Giang Nam, lại đa mưu túc trí, bản quan phái người cho cô dùng, do cô xử lý, thế nào?

Thành Khởi Vật trỏ vào mũi mình, cả kinh nói:
- Thiếp? Thiếp là nữ nhân mà.

Dương Lăng không đồng ý:
- Nữ nhân thì sao chứ? Hiện tại bản quan thật sự đang thiếu nhân thủ, trong tay trừ một đám binh sĩ chỉ biết hô đánh hô giết, chỉ có hai người có thể dùng được, đáng tiếc thật sự không thể để bọn họ rời kinh. Còn về chuyện nữ nhân không thể xuất đầu lộ diện, nếu cô cảm thấy không tiện thì cứ dịch dung mà làm là được rồi. Cho dù người ta nhận ra cũng không sao, ai sẽ bóc mẽ chuyện này chứ? Ở hải ngoại và tương... ừm, rất nhiều nữ nhân cũng có thể đảm đương công việc như nam nhân. Không phải là cô muốn bản quan chống lưng cho cô sao? Đại sự có bản quan làm chủ, cô còn sợ gì? Chẳng phải hôm nay một con cá mập mà không biết bao nhiêu hán tử mày râu trông thấy phải e sợ ba phần cũng đã bị cô khuất phục đó sao? Chỉ không biết Thành cô nương có nguyện ý chịu khuất thân vào Nội xưởng không?

Thành Khởi Vận ngơ ngẩn nhìn y một hồi lâu, đoạn cúi đầu nâng trà nhấp một ngụm, khoé môi lộ một nụ cười nhàn nhạt, khẽ giọng đáp:
- Nếu như đại nhân đã tin tưởng tiện thiếp, tiện thiếp không thể không theo.

Dương Lăng cười bảo:
- Tốt, có điều đây chỉ là mở đầu, theo ước đoán của bản quan, cho dù kế này thực hiện trôi chảy, triều đình cũng sẽ không bỏ dỡ hoàn toàn lệnh cấm, chúng ta cần phải nắm lấy chổ hở Giang Nam này, giống như Hoàng Hà thoát đê, khoét cho nó càng lúc càng lớn, để cuối cùng không thể vãn hồi, không ai có thể cứu vãn. Do đó, bản quan để cô lại Giang Nam, chính là chờ sau khi triều đình cho phép, với lợi thế quen thuộc Giang Nam, lợi dụng chút thủ đoạn, lôi kéo từng danh sĩ, thân sĩ và quan viên Giang Nam về..

Đang cúi đầu cười nhẹ, Thành Khởi Vận vừa nghe câu này sắc mặt bỗng trắng bệnh, bàn tay cầm chén trà chợt siết chặt lại, một lúc lâu sau mới thả lỏng ra, khoác lên một nụ cười quyến rũ, chầm chậm ngẩng đầu đáp:
- Dạ, tiện thiếp chỉ có tấm thân nhơ nhuốc này, vẫn có thể dốc sức vì đại nhân, lôi kéo một đám háo sắc được...

Dương Lăng sững người, giận mắng:
- Cô nói gì vậy?! Lấy sắc dụ người?! Thật đâu ra cái lý này, chẳng lẽ cô chỉ có thể nghĩ ra được cách đó sao? Dùng sắc chiêu dụ lấy một đổi một, mỗi bên có mưu cầu, dầu rằng có thể thành công nhưng bất quá chỉ là lợi dụng lẫn nhau, một khi gặp phải nguy nan thì phủi tay liền tan rã. Cô cho rằng mình có thể mê hoặc khiến người ta vứt bỏ cả tính mạng mình sao? Huống chi loại hành vi hèn hạ này tuyệt đối không được phép xuất hiện trong Nội Xưởng của bản quan. Bản quan không phải là Mạc công công, Thành cô nương nhớ kỹ.

Khuôn mặt cắt không còn giọt máu của Thành Khởi Vận bỗng đỏ bừng, mãi một lúc sau nàng mới ấp úng nói:
- Tiện thiếp... đã hiểu nhầm ý đại nhân rồi. Vậy ý của đại nhân là...?

Ánh mắt Dương Lăng máy động, y trầm tư nói:
- Theo bản quan nghĩ, kế này tuy hay, bất quá chỉ có thể đánh cho bọn họ trở tay không kịp. Nếu như bọn họ nghĩ thông suốt thì khó tránh việc họ sẽ quay lại cắn trả, mở rồi cấm lại cũng không phải là không thể. Cho nên một khi được triều đình cho phép thì cần phải khai sáng đám thân sĩ, danh sĩ xã hội và quan viên đó, thu hút bọn họ, cho bọn họ được chút lợi lộc trước. Phần lớn thân sĩ giàu có Giang Nam cho dù trong nhà ruộng vườn vạn khoảnh thì đều kiêm cả nghề buôn bán cho nên họ sẽ là những đối tượng dễ tiếp nhận nhất. Có bọn họ lôi kéo, lòng trục lợi của đại gia tộc của những thân sĩ ấy sẽ dần dần được dẫn dắt từ ruộng đất chuyển sang mậu dịch thông thương. Kẻ làm quan ngày nay mấy ai không phải xuất thân từ thế gia quyền thế? Cả gia tộc bọn họ bị cột chung với chúng ta, bọn họ còn có thể phản đối à?

Thành Khởi Vận ngó y một hồi, trên mặt dần nở ra một nụ cười. Nàng nhẹ nhàng đứng dậy, bước tới một bước, sụp lạy Dương Lăng:
- Cao kiến của Đại Nhân, ty chức xin được tuân mệnh!





Chú thích:

(1) tạm dịch “Gái lớn mười tám lại đổi thay”, chỉ sự phát dục chính thức của phụ nữ giai đoạn trưởng thành lần hai (lần đầu là từ 13-15 tuổi).
(2) giống con Pucca (xem hình: http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:A...dY34BnZ-BIrdsk)
(3) Núi Tê Hà cùng Hương Sơn- Bắc Kinh, núi Nhạc Lộc- Hồ Nam và núi Thiên Bình -Tô Châu, là bốn thắng cảnh thưởng thức lá phong đỏ nổi tiếng của Trung Quốc. Ở Nam Kinh có một câu nói "Xuân Ngưu Thủ, Thu Tê Hà", chỉ hai địa điểm đạp thanh, mùa xuân đến núi Ngưu Thủ, còn mùa thu thì đến núi Tê Hà. Vào cuối thu, rừng phong bạt ngàn ở Tê Hà nhuộm một màu đỏ rực, do màu lá đỏ như ráng chiều nên người ta mới đặt tên như vậy. (theo baidu)
(4) Vương Mãng (45 TCN - 6 tháng 10 năm 23) là vị Hoàng đế duy nhất của nhà Tân (新朝) trong lịch sử Trung Quốc. Từ vai trò ngoại thích trong triều đình nhà Hán, Vương Mãng đã từng bước lên nắm những chức vụ cao nhất, thao túng việc triều chính và cuối cùng cướp ngôi nhà Hán. Tuy nhiên chỉ sau 16 năm, triều đại nhà Tân mà ông sáng lập đã sụp đổ cùng cái chết của ông. (theo wiki)

Chương 143 - Dưới cây phong lá đỏ.

Cứ vậy, Dương Lăng cùng Thành Khởi Vận lại nghiên cứu kỹ càng kế sách do nàng đưa ra một hồi. Sắp xếp và sửa đổi một số chi tiết cùng thời gian thực hiện, sau đó Dương Lăng gọi Liễu Bưu vào, bảo gã rút một phần nhân lực ở cửa hàng ngựa xe của Nội Xưởng đặt tại Kim Lăng ra giao cho Thành Khởi Vận chỉ huy, nếu thiếu thì rút người ở những nơi khác về bổ sung.

Dương Lăng cười nói với Thành Khởi Vận:
- Thành cô nương! Bắt đầu từ hôm nay, tôi bổ nhiệm cô làm Nhị đáng đầu(1) của Nội xưởng. Trước mắt tôi tạm thời phân trước cho cô hai mươi người, cô tự thành lập ty Hải Vận, do chính cô phụ trách. Trước khi triều đình đồng ý giải trừ lệnh cấm biển, số người này cũng đủ cho cô dùng. Sau này, khi lệnh cấm biển được giải trừ ắt cô sẽ cần nhiều người hơn, đến khi đó cô có thể chiêu mộ thêm từ Nội xưởng hoặc ngay tại Giang Nam.

Tuy Dương Lăng hâm mộ tài năng của Thành Khởi Vận, nhưng hai bên biết về nhau quá ít. Nhưng nay nếu y âm thầm cài người thân tín bên cạnh nàng ta để giám sát hoặc quản thúc nàng quá chặt thì với sự thông minh lanh lợi của mình, nhất định nàng ta sẽ phát hiện, khi đó nội bộ khó tránh khỏi lục đục.

Thay vì làm như vậy, tốt nhất là y cứ thật tâm tin tưởng nàng ta, buông tay để nàng ta tự làm. Hiện giờ thực lực Nội xưởng chủ yếu rải rác ở các cửa hàng ngựa xe, tài nguyên và thu thập tình báo đều tập trung ở đây. Ty Thuế Giám mới rơi vào tay y, người trợ giúp chính cho y sau này vẫn sẽ là thuế giám các nơi, chỉ cần bọn họ thành tâm quy thuận thì y sẽ có thể nhanh chóng tiếp nhận một nguồn lực lượng khổng lồ có sẵn.

Nắm được hai lực lượng này trong tay, y sẽ có thể nắm chắc Nội xưởng trong tay mình. Hiện tại Thành Khởi Vận, Vu Vĩnh và Hoàng Kỳ Dận đều là Nhị đương đầu, nhưng quyền lực lại không giống nhau. Nếu tự gầy dựng nên ty Hải Vận thì lực lượng nàng ta nắm trong tay cũng chỉ giới hạn chừng đó thôi.

Như vậy, chỉ khi nào ty Hải Vận được thành lập và đủ lớn mạnh thì thực lực của nàng ta mới lớn mạnh hơn. Mà ty Hải Vận không có quyền lực chính trị, quyền tư pháp lẫn quyền bắt người, sẽ hình thành riêng một hệ thống khác với thủy quân. Điều này sẽ bảo đảm rằng Thành Khởi Vận phải dựa vào Nội xưởng thì quyền lợi của nàng ta mới được bảo vệ, do đó sẽ trói buộc nàng ta vào cùng y trên cùng chiếc chiến xa này.

Thành Khởi Vận cũng rõ dụng ý của Dương Lăng. Có điều nàng mới vừa quy thuận làm môn hạ của y mà Dương Lăng đã chịu trọng dụng nàng như vậy, trao cho nàng tránh nhiệm lớn như vậy là đủ chứng minh rằng y rất xem trọng nàng rồi. Còn về phần y có tâm đề phòng nàng thì thật ra nàng thấy đó là cũng là lẽ bình thường, vì vậy không hề mảy may phật lòng.

Dương Lăng lôi trong người ra một lệnh bài giắt hông bằng ngà trao cho Thành Khởi Vận rồi bảo:
- Không phải Sa Ngư vương vẫn còn nghi ngờ cô đó sao? Thành đáng đầu cứ cầm tín vật của bản quan mau chóng liên hệ cùng lão ta, chuẩn bị mọi việc. Bản quan sẽ ở lại Kim Lăng thêm vài ngày, đợi có tin tức chính xác của cô xong mới sẽ hồi kinh.

Có Liễu Bưu ở bên cạnh, Thành Khởi Vận cũng trở nên nghiêm túc, cung kính giữ lễ, không dám nói cười ngả ngớn nữa. Nàng bước lên một bước, nén đau đưa tay tiếp nhận lệnh bài từ trong tay Dương Lăng rồi cung kính đáp:
- Ty chức tuân lệnh. Bây giờ ty chức sẽ trở về chuẩn bị, quyết không phụ kỳ vọng của xưởng đốc đại nhân.

Trong căn phòng yên tĩnh, Dương Lăng trở lại ngồi vào ghế, nhắm mắt ngẫm nghĩ kỹ lưỡng lại những sự việc hôm nay một lần nữa: biện pháp do Thành Khởi Vận đề ra cùng với tin tức mà y nghe được từ Trấn thủ sứ Nam trấn phủ ty Triệu Tiết Vũ và những diễn biến trong kinh. Những việc này, tuy có người cung cấp tin tức cho y, có người bày mưu vẽ kế cho y, nhưng người đưa ra quyết định cuối cùng chỉ có thể là y. Một khi phán đoán sai lầm, cái giá phải trả sẽ là muôn đời không gượng dậy nổi, sao y dám không cân nhắc đắn đo, suy nghĩ cho cẩn thận chứ!

Y chợt ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, hai vai lập tức hơi trĩu xuống, một đôi tay thon thả ấm áp đang nhẹ nhàng xoa bóp cho y. Dương Lăng thở dài thườn thượt, song lại không mở miệng nói gì.

Cao Văn Tâm không khỏi lo lắng hỏi:
- Lão gia, có phải là người mệt lắm không? Có muốn lên giường nghỉ ngơi để nô tỳ xoa bóp một lát không?

Dương Lăng khẽ lắc đầu đáp:
- Đợi đến tối châm cứu xong rồi hãy tính đi.

Y trầm mặc hồi lâu, ngẫm nghĩ kỹ càng về những lời mà Thiệu trấn phủ đã nói trên chiếc thuyền hoa hôm nay, cuối cùng bèn đưa ra quyết định. Y vỗ nhẹ lên mu bàn tay Cao Văn Tâm, cao giọng:
- Gọi Trịnh bách hộ vào gặp bản quan.

Trịnh bách hộ lật đật chạy vào đại sảnh, thi lễ:
- Đại nhân cho gọi ty chức?

Dương Lăng gật nhẹ đầu, đứng dậy bảo:
- Phái người thông báo cho Thiệu trấn phủ sứ rằng bản quan muốn gặp y, vẫn tại chỗ cũ.

Dương Lăng dõi theo bóng lưng Trịnh Bách Hộ đang vội vã rời đi, không nhịn được thở dài sườn sượt: "Đúng là thế sự khó lường. Trương đại nhân ơi Trương đại nhân! Lúc trước ông lựa chọn rồi đề bạt tôi vào Cẩm Y Vệ, nhất định sẽ không nghĩ rằng hôm nay tôi lại sắp trở thành đối thủ của ông phải không?"

***


- Cái gì? Nhị đáng đầu! Tiểu thư người... người lại có thể làm quan ư? Tiểu thư không nói chơi đó chứ?
Sở Vân và Sở Linh, hai cô nàng mỹ nữ Giang Nam, đồng thanh kinh ngạc ồ lên, chiếc miệng anh đào há to thật to.

Thành Khởi Vận ngồi nghiêm chỉnh trên ghế hai chân giạng ra như đàn ông, chiếc lưng ưỡn thẳng, oai nghiêm lườm bọn họ, lạnh giọng mắng:
- Tiểu thư gì? Dám vô lễ với bản quan như vậy sao? Người đâu rồi, lôi bọn chúng xuống đánh nát mông ra cho ta!

Nói xong nàng bật cười khanh khách, rút chiếc lệnh bài Dương Lăng đưa ra lắc lắc trước mặt hai thị nữ, cười nói:
- Các ngươi nghĩ đây là giả hử? Ta cũng tưởng rằng đang nằm mơ. Phụ nữ làm quan, vị Dương khâm sai này... ta thật sự nhìn không thấu.

Sở Vân và Sở Linh mừng rỡ chạy đến bên nàng, sờ mó chiếc lệnh bài. Sở Vân vui sướng nói:
- Thật hả? Phụ nữ cũng có thể ra mặt làm việc, cũng vào triều làm quan được à? Dương đại nhân đúng thật là giỏi, nghĩ đến thứ người khác không dám nghĩ, làm điều kẻ khác không dám làm. Thảo nào tiểu thư lại coi trọng y như vậy.

Sở Linh đảo cặp mắt đen lúng liếng, cười hì hì trêu:
- Tiểu thư! Có phải là khâm sai đại nhân tuấn tú đó đã bị người mê hoặc rồi không? Tiểu thư có thể khiến y sung sướng như tiên, đương nhiên y mặc cho tiểu thư muốn làm gì thì làm rồi!

Thành Khởi Vận thoáng đỏ mặt, hơi giận, trách móc:
- Hai người các ngươi tuy xuất thân thanh lâu, thân phận thấp hèn, nhưng dẫu gì thân thể vẫn còn trong sạch. Kiểu nói đùa như vậy sau này không được thốt ra nữa!

Sở Linh không biết tại sao hôm nay tiểu thư lại thay đổi thái độ đối với những lời tiếu lâm mặn vốn trước đây nàng ta không hề kiêng kị gì. Cô ta bèn lè lưỡi, ngoan ngoãn dạ một tiếng.

Sở Vân hỏi:
- Tiểu thư! Có phải người đã đem chuyện Dương Hổ mưu phản báo cho Dương đại nhân hay nên y mới trọng dụng tiểu thư như vậy?

Thành Khởi Vận lắc đầu nhè nhẹ, mày ngài hơi nhíu lại, thở dài xa xăm:
- Dương Hổ muốn tạo phản, hiện đang chiêu binh mãi mã, ra sức tích trữ tiền bạc và lương thực. Đây không phải là việc có thể hoàn thành trong một sớm một chiều. Hiện tại không vội, đợi giải quyết xong việc cấm biển hẵng báo vậy.

Thật ra hôm nay khi đi gặp Dương Lăng, nàng đã không định báo chuyện này cho y hay. Nàng nghĩ nam nhân trên đời chỉ có hai loại, một là thứ gọi là chính nhân quân tử coi thường thân phận nàng, hai là loại mê rượu mê gái thèm muốn nhan sắc nàng.

Nàng vẫn cho rằng mình dựa dẫm vào Dương Lăng cũng chỉ là lợi dụng lẫn nhau. Nàng vốn xem việc tay lục lâm thảo khấu Dương Hổ ở phương bắc âm mưu tạo phản là một vốn cược quan trọng, hoàn toàn không định báo cho Dương Lăng ngay. Việc Dương Lăng cảm khái giao trọng trách cho nàng đã nằm ngoài dự liệu của nàng, trong lúc xúc động nhất thời nàng cũng từng định thố lộ tất cả. Nhưng cuối cùng lòng đa nghi đối với nam nhân cũng giúp lý trí của nàng chiến thắng, khiến nàng nuốt cái bí mật này vào lòng. Dương Lăng có phải là kẻ mà nàng có thể gởi gắm hay không, nàng vẫn cần phải quan sát thêm mới biết được.

Thành Khởi Vận suy tính một hồi, đoạn đứng dậy dặn dò:
- Linh Nhi giúp ta thay thuốc, Vân Nhi đi lấy bộ y phục nam nhân kia lại. Bây giờ dẫn theo một đám nam nhân bên người, thực không tiện lấy thân phận phụ nữ để gặp người khác. Ta phải lập tức đi gặp Bành lão thái gia một chút, phải mau chóng giải quyết xong chuyện này.

***


Tình hình căng thẳng của một hồi phong ba sắp kéo đến trong kinh sư, phỏng chừng chỉ có tiểu Hoàng Đế đang ham chơi đến quên ngày quên tháng mới không cảm nhận thấy. Nội xưởng tuy mới vừa được thành lập, song há lại không có tai mắt? Chẳng qua Ngô Kiệt hành sự cẩn thận, chưa nhận được tin tức tình báo chính xác, lão quyết không dám báo những tin tức vô căn cứ cho xưởng đốc, vì vậy lão đang cố gắng tăng cường nhân lực, dò bắt mọi động tĩnh trong triều.

Dương Lăng dùng thủ đoạt sét đánh lật đổ ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam, thuế giám các nơi trong thiên hạ tự cảm thấy đã không thể dựa dẫm vào Đông xưởng được nữa, hiện đang lần lượt bày tỏ thái độ thuần phục Dương Lăng, tiền thuế bị các nơi khất lại mấy tháng nay đã bắt đầu lên đường vận chuyển về kinh. Trông thấy tình hình này, Phạm Đình của Đông xưởng và Trương Tú của Cẩm Y Vệ đứng ngồi không yên. Vừa khéo lúc này Vương Quỳnh lại chủ động liên lạc với bọn họ, hiến cho bọn họ một "tuyệt hậu kế"(1). Hai người liền coi đó như là của báu, lập tức theo kế mà làm, bí mật lên kế hoạch chuẩn bị trong kinh sư.

Nhưng Bắc trấn phủ sứ Mâu Bân lại không cùng tư tưởng với Cẩm Y Vệ đề đốc Trương Tú. Tài năng và quan hệ của hắn không dưới Trương Tú nên vốn có phần không phục gã. Hiện giờ Trương Tú lại hạ lệnh cho Cẩm Y Vệ phối hợp toàn diện, hết lòng phục tùng Đông xưởng, càng khiến hắn ta hết sức bất mãn.

Miêu Quỳ của Tây xưởng sớm đã nhìn thấu dã tâm của hắn nên cũng từng thử lôi kéo hắn ta. Nhưng Mâu Bân biết rõ thế lực Tây xưởng kém xa Đông xưởng cho nên vẫn luôn thản nhiên ung dung, không cự tuyệt mà cũng chẳng đồng ý. Mãi đến khi Miêu Quỳ rốt cuộc đành phải lật bài tẩy ra, tiết lộ Tây xưởng đã liên thủ cùng Nội xưởng, thì sau khi cân nhắc một hồi, Mâu Bân mới quyết chí liên minh với Tây xưởng và Nội xưởng chung tay diệt Trương trừ Phạm.

Hắn cũng không biết tường tận về kế hoạch đối phó Dương Lăng của Phạm Đình và Trương Tú, nhưng từ hành động của hai người hắn cũng thấy được bọn bọ đang nhắm vào Dương Lăng. Vì vậy liên minh vừa được lập, hắn liền lập tức liên lạc với hảo hữu của hắn là Nam trấn phủ sứ Thiệu Tiết Vũ hiện đang bất mãn với địa vị của mình, hứa hẹn rằng chỉ cần mình ngồi lên vị trí Đề đốc liền sẽ đề bạt hắn lên làm Bắc trấn phủ sứ.

Hai nhà có dã tâm nên kết hợp với nhau rất ăn ý, nhưng kế hoạch này đương nhiên không thể thiếu người có thực lực mạnh nhất là xưởng đốc Nội xưởng Dương Lăng. Để tránh tai mắt Đông xưởng, hắn và Miêu Quỳ không dám xuôi nam để liên lạc với Dương Lăng mà thông qua những con đường bí mật của mình, mỗi bên tự trao thư tay cho Thiệu Tiết Vũ, bảo hắn cấp tốc tiếp xúc với Dương Lăng.

Lần trước Dương Lăng được Thiệu Tiết Vũ hẹn gặp, nghe hắn nói ý định liên minh cùng điều kiện lật đổ họ Trương của Mâu Bân, y nhất thời còn hơi do dự. Y có ngày hôm nay, có thể nói toàn bộ đều nhờ vào việc Trương Tú cho y làm Bách hộ của Cẩm Y Vệ từ lúc y bắt đầu nhậm chức dịch thừa. Tuy rằng Trương Tú có dụng tâm riêng, song suy cho cùng thì lão cũng có ơn đề bạt y. Không có lão ta, thì không có ngày mình thăng quan tiến chức vùn vụt như hôm nay.

Mãi đến khi Thành Khởi Vận chạy tới gặp y, đề ra kế sách thuyết phục triều đình giải trừ lệnh cấm biển thì y mới cảm thấy nhiệm vụ cấp bách hiện giờ là phải nắm giữ quyền lực thật lớn, mà chướng ngại số một hiện nay chính là Đông xưởng và Cẩm Y Vệ. Mâu thuẫn giữa đôi bên đã không thể hòa giải được nữa nên y mới đành đưa ra quyết định.

Y bí mật hẹn Thiệu Tiết Vũ, âm thầm lập ra “kế phản công” để ba nhà Tây xưởng, Nội xưởng và Bắc trấn phủ ty liên thủ đối phó với Đông xưởng và Cẩm Y Vệ. Giờ đây Đông xưởng và Cẩm Y Vệ đang khua chiên gióng trống chuẩn bị đối phó y, y cũng hạ lệnh cho Nội xưởng chuẩn bị thật tốt để ứng biến, đồng thời ngấm ngầm rút tay chân đắc lực các nơi về kinh. Tây xưởng và Bắc trấn phủ ty cũng đang âm thầm chuẩn bị hết thảy. Một hồi phong ba bão táp sắp nổi lên, mà nhân vật then chốt dấy lên hồi phong ba này chính là Dương Lăng. Tất cả mọi người và mọi bố trí đều đang đợi y, đợi y hồi kinh.

***


Sáng sớm, Dương Lăng mặc áo chẽn đi giày vải, chỉ mang theo mấy tay nha sai cưỡi hai chiếc kiệu xe chạy đến quán rượu Trường Đình đón Liên Nhi cùng du sơn trên ngọn Tê Hà. Từ sớm tinh mơ, Liễu Bưu đã phái một đám nha sai thám xét toàn bộ núi Tê Hà một lượt, sau đó vây quanh dưới chân núi. Lần du sơn này, trừ phi có người từ trên trời rơi xuống, bằng không Dương Lăng cũng đừng hòng tìm thấy bóng ai khác.

Núi Tê Hà có ba ngọn, Phượng Tường là ngọn cao nhất, đỉnh núi chọc trời. Ngọn phía đông tên gọi Long sơn, ngọn phía Tây trông như hình con cọp đang nằm. Trên núi, rừng phong rừng bách nối nhau mọc thành dãy bạt ngàn.

Dương Lăng và Mã Liên Nhi ngồi xe đi đến chân ngọn phía tây. Ngửa mặt lên nhìn, chỉ thấy khắp núi phủ một màu lá đỏ, từng gốc cây phong dựa sát vào nhau như những ngọn lửa đang bùng cháy, khiến cho người ta nhìn mà thanh thản tinh thần.

Mã Liên Nhi có ý trung nhân bầu bạn, suốt đường vui sướng khôn thôi. Nàng nhảy xuống xe, lấy một hộp thức ăn ở trên xe xuống, rồi kéo tay Dương Lăng:
- Dương đại ca! Ngọn núi này không cao, phong cảnh lại rất đẹp, chúng ta lên núi tìm một chỗ có phong cảnh tao nhã cùng uống rượu ngắm lá phong được không?

Dưới chân núi, hai người cải trang làm tiều phu khẽ đưa tay ra hiệu với Dương Lăng, Dương Lăng nhìn thấy thì khẽ mỉm cười, đoạn bảo Trịnh bách hộ:
- Các người tạm thời hãy chờ dưới núi. Bản quan sẽ cùng Liên Nhi cô nương lên núi du ngoạn một chút.

Sơn đạo quanh co khúc khuỷu, hai bên là rừng phong rậm rạp đan xen cao thấp, lập loè sắc đỏ, lộ ra muôn vẻ phong tình. Lá đỏ như ráng chiều, như gấm tía, hoà lẫn vào bóng nâu cam của những gốc bách, trông càng thêm rực rỡ muôn màu.

Dương Lăng xách hộp đồ ăn của Mã Liên Nhi, vừa chậm rãi leo núi vừa cùng nhau chia sẻ những chuyện trải qua sau khi hai người chia tay. Lúc này mặt trời đã chói lọi lên cao. Lá phong đỏ kết hợp với ánh dương quang chiếu rọi càng trở nên rực rỡ chói loà. Sắc đỏ thắm phủ hết nửa bầu trời xanh. Mã Liên Nhi ngắm nhìn cảnh đẹp rực rỡ như ráng chiều, nhất thời ngơ ngẩn.

Dương Lăng mỉm cười liếc nhìn nàng. Hôm nay Liên Nhi mặc váy và áo tuyền một màu xanh nhạt, đầu tết ba búi được buộc bằng ba vòng hoa màu xanh lá, tuy nàng trang điểm giản dị song trông càng quyến rũ.

Dương Lăng trông thấy vẻ vui sướng hạnh phúc của nàng, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp. Thật sự là cô nàng điêu ngoa khả ái này có được bao ngày không lo không nghĩ, có cuộc sống vui tươi hạnh phúc? Có thể khiến cho nàng vui được như vậy, chuyến đi Kim Lăng này của mình cũng xem như không uổng.

Mã Liên Nhi ưỡn bộ ngực căng tròn đón lấy cơn gió dịu dàng, vẻ mặt như cũng đã ngà say. Giai nhân mười sáu xuân xanh bắt đầu chớm có bộ dạng của phụ nữ trưởng thành. Váy áo may vừa khít với người, đai lưng trắng tinh thít chặt eo thon, ngực nàng trông cũng đã đầy đặn hơn. Dương Lăng nhìn "cảnh đẹp" trước mắt mình, dằn lòng không được phải cầm lấy tay nàng, một cảm giác dịu dàng êm nhẹ len lỏi vào trong tim.

Mã Liên Nhi quay đầu lại, yêu kiều:
- Dương đại ca! Chúng ta vào rừng, ngồi uống rượu ngắm lá phong đi.

Dương Lăng mỉm cười nói:
- Được, hôm nay hết thảy đều nghe theo Liên Nhi tiểu thư an bài vậy.

Mã Liên Nhi vừa cười thẹn thùng vừa liếc y, giọng đầy thâm ý:
- Đó là tự huynh nói đấy nhé, Dương đại nhân! Không được nuốt lời đâu.

Trên mặt đấy là lớp lá rụng dày xốp đã tích tụ lâu năm. Chậm rãi đi dạo trong khu rừng đỏ rực, ấm áp và ôn hoà, bên cạnh là một mỹ nhân thanh tao xinh đẹp, toàn thân toát ra mùi thơm dìu dịu. Đó là sự thoải mái dễ chịu biết dường nào? Dương Lăng không khỏi khẽ gật đầu, vui vẻ đồng ý.

Đằng sau tảng đá to bị che khuất, vài gốc phong đỏ rậm rạp vây lại thành một vùng riêng tư nho nhỏ. Mã Liên Nhi vén váy chui vào bên trong, cầm lấy hộp đồ ăn từ trong tay Dương Lăng, lấy ra một tấm lụa trắng tinh gấp ngay ngắn trải lên thảm lá xốp mềm, rồi duyên dáng ngồi lên.

Dương Lăng nhìn phong cảnh xinh đẹp chung quanh một vòng, khom người bứt một cọng cỏ xanh rồi mỉm cười:
- Lúc ở Ngũ Sách Lĩnh, chúng ta chui vào một hố tuyết sưởi ấm. Lúc đó tối như bưng, rét căm căm, phong cảnh hôm nay lại giống như thiên đường. Ý vị thật không thể nào so sánh được.

Mã Liên Nhi đang bày rượu và từng món đồ ăn trong hộp ra, nghe thấy lời này thì nhẹ nhàng đáp:
- Dương đại ca, trong lòng Liên Nhi lại vẫn nhớ mãi không quên cái đêm hôm ấy... Chỉ cần có huynh bên cạnh, cho dù ở đâu Liên Nhi cũng cảm thấy như ở thiên đường.

Dương Lăng xúc động lặng lẽ đưa mắt nhìn nàng. Người con gái Liên Nhi dịu dàng xinh đẹp thẹn thùng đó đang nhìn y với ánh mắt chan chứa thâm tình. Làn da nàng như bông tuyết chớm rơi, hàng mày liễu như núi xa trong bóng chiều. Bị Dương Lăng nhìn chằm chằm, khuôn mặt trắng nõn dần dần ửng đỏ.

Nàng quay đầu để che giấu sự thẹn thùng, lấy từ trong hộp ra hai chén rượu, rót thứ rượu Trúc Diệp Thanh xanh nhạt mà thơm ngát vào chén rồi khẽ khàng đặt lên trên nắp hộp.

Hai người ngồi đối diện nhau, Mã Liên Nhi cúi đầu nâng chén. Chén rượu tinh xảo bằng gốm trắng làm tôn lên bờ môi đỏ mọng của nàng. Dòng rượu xanh nhạt chầm chậm trôi qua cặp môi đỏ trông kiều diễm vô cùng, khiến Dương Lăng nhìn mà trong lòng gợn sóng. Rượu chưa uống mà y đã ngấm mem say.

Mề vịt xào măng khô, vịt muối, Thủy Bát Tiên*, đậu hũ rán mỡ, từng món ăn ngon miệng tinh xảo được bày ra. Rượu uống chưa mềm môi, đôi gò má Liên Nhi đã nhuốm màu hồng đào. (*: món rau củ hấp truyền thống vùng Giang Tô, gồm có củ niễng non, củ sen, cần tây, hạt súng, củ từ, mã thầy, rau nhút, củ ấu. Xem hình minh hoạ: http://www.takungpao.com/upload/2010-12-12/zm-43.jpg)

Nàng mở ngăn dưới cùng, thận trọng lấy ra một chiếc bánh mật, tình tứ nói với Dương Lăng:
- Dương đại ca, huynh có biết không... Muội... muội không biết nấu món bánh gì cả. Bởi vì huynh đến cho nên muội... muội đã học làm bánh mật. Định là để dành nó đến Tết mới ăn. Nhưng Tết đến muội sẽ không thể ở cạnh huynh, bỏ nó đi thì không nỡ. Sang năm mới, khi huynh và Ấu Nương muội muội ăn Tết bên nhau, hãy coi như... muội cũng đang ở bên cạnh, được không?

Nói đến đây, mắt nàng đã rơm rớm nước. Cảm động với tâm ý của Liên Nhi, Dương Lăng cầm lấy chiếc bánh, cắn một miếng thật to.

Liên Nhi hồi hộp nhìn y, hỏi:
- Mùi vị có được không?

Cái món bánh mật này chỉ cần dùng đúng nguyên liệu, đạp bột thật kỹ thì mùi vị đã không tệ rồi, còn gì mà lại ngon với chả không ngon? Nhưng Dương Lăng nào nỡ làm phật ý mỹ nhân mà gây chuyện mất vui chứ?

Y nuốt miếng bánh xuống, lại cắn thêm một miếng nữa, ậm ờ khen:
- Ừm, mùi vị rất thơm. Liên Nhi quả nhiên thông minh khéo tay. Muội học từ ai vậy?

Liên Nhi vui sướng đáp:
- Ừm ừm, muội hỏi nơi các chị dâu, rồi chạy về... Tối qua muội làm cả đêm, nghe nói phải đạp kỹ bột hấp thì ăn mới ngon được, thật mệt chết muội luôn đó. Huynh thích ăn là được rồi, ha ha.
Vừa nói nàng vừa đấm nhẹ chân mình, cặp mắt vui vẻ híp cong lại như vầng trăng.

Dương Lăng cười lớn:
- Nghe muội nói hình như là đã làm không ít hả? Đạp thứ này đúng là mệt thật.

- Huynh cũng biết làm bánh mật sao? Đúng đó đúng đó! Nguyên cả một cái bồn to, thứ bột đó lại dính nữa, dính chặt vào chân, muội muốn nhấc lên cũng nhấc lên không nổi, thật sự mệt đổ cả mồ hôi. Sau nửa đêm mới tắm rửa được, rồi lại mất thêm nửa ngày để rửa chân.

- Ờ? Hả? Ừm...
Cảm thấy hơi khó hiểu, Dương Lăng dè dặt hỏi:
- Muội làm như thế nào vậy? Không phải là lát một tấm vải bố sạch bên trong bồn gỗ, sau đó đổ bột hấp lên trên, quấn lại, rồi mới mang ủng vào đạp sao? Sao lại dính chân?

- Ớ?
Mã Liên Nhi do dự đưa một ngón tay lên miệng, thắc mắc:
- Lát vải bố gì? Muội... muội chỉ đổ bột vào trong bồn gỗ, sau đó đi chân trần vào đạp... Giày... giày bao cái gì(*)?
(*)Nguyên văn “sáo hài”: ủng, MLN không hiểu, tưởng là giày được bao bằng vật gì đấy.

Dương Lăng cười phì một tiếng phun cả miếng bánh mật trong miệng ra. Y cười thất thanh:
- Ôi trời ơi, muội để chân trần mà đạp thẳng lên bột bánh mật hả? A ha, ha ha, ha ha ha...

Mã Liên Nhi lập tức đỏ bừng mặt:
- Muội... muội đâu biết... Nhưng mà muội... chân muội đã được rửa rất sạch trước đó, rất rất sạch!
Nàng ngượng ngùng phân bua.

Dương Lăng liền vội gật đầu:
- Đương nhiên rồi, đương nhiên rồi! Chắc chắn sẽ không có mùi gì đâu. Huynh ăn cũng chẳng thấy có mùi, thật đó.

Mã Liên Nhi quýnh lên, nhân có men rượu nàng co hai chân lại, cởi giày thêu ra, lột đôi vớ lụa trắng tinh, để lộ một đôi bàn chân nhỏ nhắn mềm mại trắng phau, duỗi ra trước mắt Dương Lăng nói:
- Huynh xem, thật sự là sạch lắm lắm. Muội đã mất cả đêm, huynh... huynh đừng chê muội nhé? Cùng lắm thì, muội... hôm nay muội sẽ về làm lại.

Chân của Liên Nhi thon thả xinh xắn, bàn chân trắng hồng nhẵn mịn, năm ngón chân tinh xảo khép vào nhau, mu bàn chân mềm mại, mắt cá chân tròn trịa xinh xinh, da thịt trắng phau, óng ánh.

***


Nàng không dám nhìn Dương Lăng trong khi nói chuyện, khuôn mặt nóng bừng ấy đang hồi hộp kề sát vào Dương Lăng, hơi thở còn thoang thoảng chút men rượu. Dương Lăng giật mình kinh hoảng, liền vội la lên:
- Muội nói gì vậy? Muội uống say rồi à Liên Nhi? Không được đâu, muội sẽ hối hận đó, nhất định sẽ hối hận đó.

Mã Liên Nhi cố lấy hết dũng khí run run thổ lộ tâm tình:
- Phải, muội hối hận, hối hận vì đã không sớm trao thân cho huynh. Muội... muội không muốn đợi lâu đến hai năm như vậy. Sau khi huynh quay về, huynh sẽ có thể cùng Ấu Nương muội muội sinh em bé mà muội lại phải đợi huynh thêm hai năm. Muội muốn trao cho huynh, muội muốn có huynh, ngay bây giờ...

Vòng hoa buộc ba búi tóc trên đầu được giật nhẹ xuống, lập tức suối tóc đen nhánh và bóng mượt tuôn xuống. Mã Liên Nhi bất chợt trở mình ngồi dậy, sà vào ngồi trong lòng Dương Lăng, dũng cảm nhìn thẳng vào mắt y, ánh mắt trong vắt như trăng rằm:
- Liên Nhi yêu huynh. Ông trời đã đưa huynh đến Giang Nam, nếu muội còn phải uất ức khổ sở đợi chờ huynh thêm hai năm nữa, lúc đó muội mới sẽ thật sự hối hận!

Nàng bỗng rút tuột chiếc đai lưng, kéo hai vạt áo ra hai bên. Loáng cái, trước mắt Dương Lăng hiện ra đôi gò tuyết trắng ngần, đính lên hai nụ đào hồng xinh xắn. Như một nữ vương cao cao tại thượng, Mã Liên Nhi cúi đầu, buông từng chữ:
- Dương Lăng, đừng để muội hận huynh. Muội muốn huynh yêu muội ngay bây giờ!

Cặp nhũ hoa nàng không lớn, nhưng hình dáng ưu mỹ tựa búp măng, căng tròn vừa tay, mịn màng mà trơn láng như gốm sứ. Đầu nhũ hoa săn chắc đính hai nụ anh đào mềm mại chực nở. Khuôn mặt nàng đo đỏ, cặp mắt long lanh như được phủ bởi một lớp sương mù.

Hồn phách Dương Lăng như nổ tung, dục vọng của nam nhân bị dồn nén từ lúc rời kinh đến nay bị dáng vẻ diễm lệ mê người của nàng làm cho bừng tỉnh. Ý chí của y cũng bị sự dũng cảm và cương quyết của Liên Nhi phá vỡ trong chớp mắt. Khoái cảm của thị giác lập tức ùa vào trong lòng như sóng vỗ dập dờn, khiến lửa dục trong y bừng cháy phừng phừng, hạ thể đã cứng lên như sắt.

Dương Lăng lập tức ôm choàng thân hình yêu kiều động lòng người trước mặt, lật nằm đè lên trên. Thân thể mảnh mai của Liên Nhi ngã lên mặt cỏ mềm mại. Một khóm cỏ xanh cùng vài mầm lá non kế bên khuôn mặt trắng ngần khẽ lay động vì hơi thở từ đôi môi hồng của nàng.

Ánh dương quang len qua những tán phong đỏ rực chiếu xuống, gió thổi bóng lay, ánh nắng rực rỡ vuốt ve thân hình thướt tha mê người của nàng. Cặp tuyết lê xinh tươi trắng ngần như ngọc bị Dương Lăng xoa nắn đã bắt đầu căng lên, hai nụ đào nhỏ ửng hồng săn lại, mềm mại vô cùng.

Mã Liên Nhi nhìn y trong sự thẹn thùng vô hạn. Khi Dương Lăng đưa tay cởi bỏ xiêm áo của nàng, nàng hơi căng thẳng chụp lấy tay y, rồi lập tức bỏ tay ra, quay mặt đi để che giấu ánh mắt của mình.

Da thịt nàng thơm ngát, trơn nhẵn như ngọc, tấm thân ngọc ngà được phơi bày trọn vẹn trong tiếng rên rỉ thẹn thùng. Cặp chân trắng phau ngượng ngùng quíu lại. Nhìn thấy dáng vẻ trêu ngươi này, mọi kiên trì của Dương Lăng đều biến sạch trơn.

Có lẽ y sẽ hối hận, nhưng nếu bây giờ y còn có thể đứng dậy bỏ đi thì không biết y có sẽ hối hận hơn không?

Đường cong của tấm thân mỹ lệ ấy uyển chuyển mượt mà, đẹp đến mê người. Liên Nhi ngượng vô cùng, nàng chợt rên lên một tiếng, thoáng lật người lại, mái tóc đen tuyền tú lệ xoã tán loạn trên cần cổ mịn màng và bờ vai trơn truột của nàng. Vòng eo thon thả làm nổi bật đường cong mỹ lệ của bờ mông nở nang mềm mại đến tột cùng. Khe rãnh hình cung tao nhã giữa hai bờ mông tròn cao ngất khiến cho lòng người ngất ngây, như thể đấy là chốn bồng lai có thể đưa người ta bay vào tiên cảnh.

Ánh mắt Dương Lăng bắn ra lửa tình ngùn ngụt, giọng y khàn khàn:
- Liên Nhi, muội không hối hận chứ?

Liên Nhi chợt xoay người lại ôm ghì lấy người y, mắt nhắm nghiền, gật mạnh đầu, giọng chan chứa yêu thương:
- Liên Nhi hối hận, hối hận là huynh đã đến sớm hai tháng, không thể để Liên Nhi... để Liên Nhi hoài thai em bé cho tướng công mình. Muội yêu huynh, muội còn muốn huynh cho muội... cho muội một đứa con. Đứa con của huynh và của muội...

- Ôi...! Liên Nhi...

Hai thân thể vuốt ve mơn trớn nhau dần dần tự nhiên tạo nên một tư thế thích hợp nhất, cứ như nước chảy sẽ thành dòng. Một tiếng rên kèm theo hơi thở run rẩy cất lên, hai chân của Liên Nhi bỗng căng cứng, ngón chân quắp vào trong lòng bàn chân, cặp đùi thoáng run rẩy kịch liệt, rồi lại chầm chậm thả lỏng.

Nàng nhắm mắt lại, hàng mi dài hoảng sợ rung rung, hai tay bấu chặt lấy lưng Dương Lăng, miệng thở không ra hơi, song trên khuôn mặt lại tuôn tràn hạnh phúc: cuối cùng nàng đã trở thành nữ nhân của Dương đại ca, sẽ không còn ai có thể thay đổi mối quan hệ này.

Nàng bỗng cắn răng, ôm chặt lấy lưng Dương Lăng. Dương Lăng hơi không đành lòng, nhưng vẫn từ từ hoàn toàn tiến sâu vào trong thân thể tình nhân trong tiếng kêu rên yêu kiều của nàng...

Rất, rất lâu sau, trong sự dịu dàng của Dương Lăng, qua khỏi cơn đau, Liên Nhi dần có một cảm giác vô cùng kỳ diệu. Eo thon của nàng bắt đầu chuyển động phối hợp với động tác của y...

Rất, rất lâu sau, trong tư thế nửa quỳ, Dương Lăng gác đôi chân trắng nõn của nàng lên vai, đôi bàn chân mảnh dẻ khẽ đong đưa trên không trung; cảnh tượng ấy còn rực rỡ hơn lá phong phủ đầy trên núi.

Một cơn gió thoảng qua, vài chiếc lá đỏ nhẹ lay theo gió rơi xuống, phủ lên đôi mắt đang nhắm nghiền của nàng, che đi sự xấu hổ, phủ lên ngọn đồi mơn mởn của nàng, che đi nụ anh đào tươi thắm.

Dưới cây phong lá đỏ, một tấm thân trắng như tuyết chìm trong màu đỏ tươi diễm lệ; loáng thoáng nghe được tiếng rên rỉ du dương...





Chú thích:

(1) Đáng đầu: cấp chỉ huy trong xưởng, vệ. Nhân viên cấp thấp gọi là “phiên tử”, có vai trò tương tự như “nha sai” dưới quyền quan phủ, quan huyện. Phiên tử báo cáo và nhận lệnh từ đáng đầu, như đội trưởng. Trong Nội xưởng, chức "đáng đầu" lại khá to, những viên Thiên hộ cũng chưa được xem là đáng đầu.

Hiện nay, bản dịch đang dịch “phiên tử” là nha sai, chúng tôi sẽ thu xếp chỉnh lại.

(2) Kế tuyệt hậu: đây là một kế sách thâm hiểm và ác độc, khiến cho đối thủ tuyệt tử tuyệt tôn, lực lượng đối thủ bị tiêu diệt sạch.

Chương 144 - Thượng, trung, hạ sách

---

Cơn gió khẽ thoảng qua, dịu dàng lướt nhẹ lên cánh tay tình nhân, ánh mặt trời rộn ràng và ấm áp như dải lụa bao phủ lấy đôi tình nhân đang mê say trong sự dịu dàng của nó.

Mã Liên Nhi kiệt sức nằm cuộn tròn lên người y, tay chân lười chả buồn động đậy, xiêm áo đắp bừa trên người, làn da trắng nõn lờ mờ ẩn hiện.

Một chiếc váy lưới che trên đầu hai người, bên trong là một mảng mông lung. Hai người xa nhau rồi lại gần nhau, cả thân thể cũng gần gụi đến hoà vào nhau. Đôi bên không trông thấy rõ dung mạo đối phương, mập mờ như cái đêm trên ngọn núi tuyết đó.

Mùi đất hoà lẫn với mùi thơm cỏ xanh bị dập nát chậm rãi len lỏi vào trong cánh mũi. Dương Lăng nhẹ nhàng vuốt ve bờ mông đầy co dãn của Mã Liên Nhi. Nơi ấy bị nhành cỏ cấn vào, hằn những dấu vết hồng nhạt. Làn da trắng ngần cùng những vết tích ấy làm cho người ta hết sức say mê.

Liên Nhi nằm trong lòng Dương Lăng, thở yếu ớt, mãi lâu sau mới như tỉnh lại từ trong mơ nũng nịu nói:
- Phu quân, cuối cùng Liên Nhi đã trở thành người của huynh rồi. Huynh... huynh còn ở lại Kim Lăng được bao lâu? Lúc này đã nỡ bỏ rơi người ta rồi sao?

Dương Lăng khẽ thở dài nói:
- Không đâu, huynh định... huynh có thể ở lại thêm năm sáu ngày nữa!

- Lâu vậy à? - Liên Nhi mừng rỡ reo lên, sung sướng ôm chặt lấy Dương Lăng sau đó rúc đầu vào lòng y mà thẹn thùng cười khúc khích.

Bộ ngực mềm mại non nớt khẽ rung rinh, cạ vào người y khiến Dương Lăng cảm thấy ngực mình nhồn nhột. Y vô thức chộp lấy quả tuyết lê vươn cao ấy khiến cho Liên Nhi lại rên lên một tiếng.

Dương Lăng thấp giọng hỏi:
- Muội cười cái gì?

Mã Liên Nhi nũng nịu:
- Dương đại ca không có lương tâm gì hết. Lúc đầu thì vội vã đòi về kinh, bây giờ... bây giờ như vầy rồi thì lại có thời gian nhàn rỗi.

Giọng nói trêu đùa dịu dàng đáng yêu đó khiến Dương Lăng cảm thấy nao nao trong lòng, song lại không muốn giải thích cho nàng. Y vốn thương tiếc cho nàng, cảm thấy mắc nợ nàng, tuy rằng Trương thiên sư đã có nói trước nhưng giờ đây hai người đã phát sinh ra mối quan hệ này, y vẫn có cảm giác hơi sợ và lo lắng. Có cơ hội làm cho nàng vui lên một chút như vậy cũng tốt, cho dù nàng nghĩ rằng mình ở lại là vì nàng.

Dương Lăng vuốt ve thân thể nàng, nhỏ nhẹ hỏi:
- Chuyện của huynh và muội, bá phụ có biết chưa?

Mã Liên Nhi gật đầu "ưm" một tiếng rồi đáp:
- Lúc đầu thì chưa biết, nhưng hôm qua huynh vừa đi thì bá bá đã đến hỏi muội, nghe muội nói ra thân phận của huynh xong, lại biết muội đã từng đính ước chung thân với huynh từ trước người chỉ thở dài, cũng không nói gì thêm.

Dương Lăng cũng thở dài rồi nói:
- Bây giờ muội và huynh thực chất đã là phu thê, sau khi quay về huynh sẽ mang sính lễ đến nhà muội. Hiện giờ muội chưa thể thành thân vậy xác định danh phận trước cũng tốt.

Mã Liên Nhi cất giọng u uẩn:
- Hay là... đợi thêm một ít lâu đi. Cho dù anh muội có xấu xa hơn đi chăng nữa thì suy cho cùng huynh ấy vẫn là người thân duy nhất của muội. Vì việc của muội mà huynh ấy... huynh ấy đã bị Tất đô ty trừng trị rất thảm. Huynh ấy có gửi thư nói về chuyện được huynh đề bạt, trong lòng huynh ấy cũng rất hối hận về chuyện trước đây. Muội tính... đợi huynh ấy về sẽ để huynh ấy tiếp nhận sính lễ. Huynh trưởng như cha mà.

Dương Lăng ừm một tiếng. Hai người nhất thời không nói gì, chỉ có hơi thở phả nhẹ lên làn da của đối phương.

Một lúc sau, bỗng có người gọi inh ỏi:
- Xưởng đốc đại nhân! Dương đại nhân, đại nhân đang ở đâu vậy?

Dương Lăng giật nảy mình, hoảng hốt ngồi bật dậy:
- Bọn họ lên núi làm gì vậy?

Y vừa ngồi dậy, váy lưới che trên đầu liền bị kéo ra, Mã Liên Nhi bị ánh nắng chiếu vào liền nhắm mắt lại. Một cơn gió khẽ thoảng qua mang đến một cảm giác mát rượi, nàng mới phát hiện người mình không có một mảnh vải, thế là không kiềm được xấu hổ trách:
- Á! Xem huynh kìa, mau quay mặt đi, không được nhìn. Muội... để muội mặc quần áo đã.

Cần cổ trắng ngà của Liên Nhi quyến rũ lạ thường, vẻ thẹn thùng khẽ trách càng mang muôn sắc phong tình. Tiếc rằng lúc này Dương Lăng cũng không có thời gian mà thưởng thức, y vội chộp lấy áo bào tròng vào. Liên Nhi nén đau ngồi dậy, cố chống người mặc lại quần áo vào.

Hai người trộm đưa mắt nhìn nhau. Trông Dương Lăng còn đỡ, Mã Liên Nhi thì tóc tai toán loạn, mặt như thoa sáp hồng, đuôi mày khoé mắt chan chứa xuân tình, đôi mắt đào long lanh ánh nước. Chỉ cần không phải là người mù thì ai cũng sẽ nhìn ra chuyện gì vừa xảy ra.

Mã Liên Nhi hoang mang lo lắng, chén đĩa cũng không màng đến chỉ cuộn tấm lụa trắng lấm tấm vết đỏ lại, vội vã nhét vào trong hộp đồ ăn rồi cầm lên.

Dương Lăng cố lấy can đảm kêu to:
- Ta đang ở đây, đã xảy ra chuyện gì?

Vừa nói y vừa ngoắc tay gọi Mã Liên Nhi rồi bước ra trước dẫn đường.

Liễu Bưu đang dẫn theo mấy người tìm kiếm loạn khắp nơi như một đám nhặng cụt đầu, trông thấy y hiện thân thì mới yên tâm.

Mã Liên Nhi thẹn thùng bước ra theo sau, Liễu Bưu lại như không thấy, y vội vã bước đến bên Dương Lăng bẩm:
- Đại nhân, đại đáng đầu chạy cả đêm từ trong kinh đến, nói có chuyện cực kỳ quan trọng muốn gặp đại nhân. Khi nghe nói đại nhân đang ở trên núi Tê Hà, ông ấy liền chạy đến đây ngay một khắc cũng không đợi, hiện cũng đang tìm đại nhân khắp núi đó.

Dương Lăng nghe xong, mặt liền biến sắc. Hiện nay Nội xưởng phát triển nhanh chóng, Ngô Kiệt tọa trấn kinh sư quả thật không thể rời nơi đó một khắc, ông ta đột nhiên lại chạy đến đây thì trong kinh nhất định đã xảy ra chuyện lớn rồi.

Dương Lăng lập tức nói:
- Mau, ta ở đây đợi huynh, lập tức tìm ông ta cho ta.

Liễu Bưu và mấy tay phiên tử chia nhau ra chuyển sang tìm kiếm Ngô Kiệt. Liên Nhi trông thấy sắc mặt của Dương Lăng, vội bước tới hỏi:
- Dương đại ca, đã xảy ra chuyện lớn gì à?

Dương Lăng nghiêm sắc mặt gật đầu, đoạn áy náy nói:
- Liên Nhi, đại đáng đầu từ trong kinh chạy suốt đêm đến đây, e rằng phải có sự tình trọng đại. Huynh...

Mã Liên Nhi lập tức hiểu ý, nàng cúi đầu vén mái tóc mai tán loạn, ngọt ngào mỉm cười nói:
- Sao vậy? Hiện tại không thể cùng người ta đầu gối tay ấp, tỏ lời đường mật thì cảm thấy áy náy rồi à? Có việc công thì cứ đi làm, (huynh coi) Liên Nhi là đứa con gái không hiểu chuyện sao?

Mặc dù Dương Lăng hơi lo lắng song nghe lời này cũng không nhịn được mà bật cười. Y nhẹ nhàng ôm lấy Liên Nhi, khẽ nói:
- Không hổ là phụ nữ của Dương Lăng huynh. Huynh vẫn còn mấy ngày mà, đợi lo xong công việc thì mỗi ngày sẽ đến bầu bạn với muội.

Mã Liên Nhi đỏ mặt gật đầu, trong lòng ngọt ngào đê mê. Lúc này từ xa có người kêu lên:
- Đại nhân, ty chức đến rồi.

Dương Lăng quay đầu lại thấy Ngô Kiệt chân đi như chạy, Liễu Bưu thoải mái bước sát theo sau, những phiên tử khác cũng chạy chậm theo sau.

Ngô Kiệt tuy đã ngũ tuần song lại giỏi võ, chạy vội lên núi mà mặt vẫn không đỏ, hơi thở không loạn. Ông chạy đến trước mặt y, trông thấy Mã Liên Nhi ánh mắt không khỏi chăm chú lại.

Ngô Kiệt quanh năm bôn ba tái ngoại, là thủ lĩnh tối cao Cẩm Y vệ ngoài quan ngoại nên bản lĩnh ghi nhớ và nhận biết người hết sức siêu phàm. Cho dù một người có tướng mạo tầm thường nhất, chỉ cần để ông ta gặp qua một lần thì mấy năm sau cũng đừng hòng thoát khỏi ánh mắt ông ta huống hồ là mỹ nhân như Mã Liên Nhi đây.

Có điều mặt lão lo lắng, trong lòng rõ đang có việc quan trọng nên lúc này cũng không khách sáo với Mã Liên Nhi nữa. Ngô Kiệt vội vòng tay bẩm với Dương Lăng:
- Đại nhân, ty chức chạy từ trong kinh đến đây là có việc quan trọng muốn bẩm với đại nhân...

Dương Lăng hiểu ý, y quay lại nói với Mã Liên Nhi:
- Liên Nhi, huynh kêu người đưa muội về trước, xử lý công việc xong huynh sẽ đi gặp muội.

Mã Liên Nhi ngoan ngoãn đáp lời, đoạn đi theo hai tay phiên tử xuống núi trước. Dương Lăng kéo tay Ngô Kiệt ngồi xuống một tảng đá, hỏi:
- Lão Ngô, trong kinh đã xảy ra chuyện gì?

Ngô Kiệt xua tay, phiên tử chung quanh lập tức tản ra. Lúc này Ngô Kiệt mới nghiêm giọng nói:
- Xưởng đốc đại nhân, sau khi đại nhân rời kinh, đám người Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành và Cốc Đại Dụng nếu không phải là tìm mấy món đồ lạ về mê hoặc hoàng thượng thì là đưa hoàng thượng du ngoạn khắp nơi, xao nhãng chính sự. Đầu tiên là ngừng Kinh Duyên và ngọ triều, sau đó cả tảo triều cũng bị gián đoạn. Đám đại học sỹ Nội các và bá quan trọng triều vì chuyện này mà không ngừng dâng sớ. Bởi vì đại nhân có quan hệ rất tốt với những thái giám này, trong phố phường đã bắt đầu truyền miệng rằng mấy thái giám đó đều là do đại nhân xúi giục cố ý mê hoặc Hoàng thượng, khiến Hoàng thượng bỏ bê chính vụ, còn nói đại nhân mang đầy dã tâm, làm vậy là để tiếm mưu đoạt quyền.

Ty chức lấy làm lạ bèn mua chuộc một tên tiểu thái giám bên cạnh Hoàng thượng thì mới dò la được gần đây trong cung có một đám thái giám nương dựa vào tám người bọn họ, cả ngày khuyên dụ bọn họ rằng Dương đại nhân là bề tôi tin tưởng của Hoàng thượng giờ đã trở thành thần tử có địa vị cực cao, hưởng mọi vinh hoa phú quý. Mấy người bọn họ cũng là người được Hoàng thượng tin yêu, chỉ cần làm cho hoàng thượng vui vẻ một chút thì cũng sẽ có thể mò vét được một tước vị oai phong.

Mấy kẻ này ham lợi mờ mắt không ngờ lại tin đó là thật, cả ngày vắt óc đi tìm trò vui lấy lòng Hoàng thượng, nay đã bị văn võ cả triều coi như cái gai trong mắt phải nhổ đi thì mới thoải mái. Bọn họ bị dao nhọn kề cổ rồi mà vẫn không hay. Kỳ quái là, những thái giám này đều là những chấp sự trong cung, quyền lực không thua gì đám người Lưu Cẩn, nếu muốn nương dựa vào bọn họ thì sớm đã dựa dẫm vào rồi, sao lại trùng hợp đúng lúc đại nhân vừa rời kinh bọn chúng liền lập tức cùng nhau nương nhờ, còn cùng nhau làm ra hành động này? Đây rõ ràng là...

Trong lòng Dương Lăng đã nhẹ nhõm bớt, y cười nhạt một tiếng, tiếp lời:
- Đây rõ ràng là thượng ty giơ tay, hạ quan uống rượu(1), Hạng Trang múa kiếm, ý tại Bái Công(2).

Ngô Kiệt thoáng ngẩn người một chút, rồi mới vui mừng cười nói:
- Đại nhân đã nhìn ra rồi à? Từ xưa đến nay trong triều tranh đấu, rất ít ai nhắm trực tiếp vào mục tiêu cuối cùng mà ra tay để lộ thực lực và mục đích của mình. Thủ đoạn thường dùng của những quan viên này là đầu tiên tìm cách ra tay với những tiểu nhân vật có quan hệ mật thiết với đối phương mà lại không quá nổi bật, lấy đó làm cái cớ. Đến khi sự tình càng lúc càng nghiêm trọng, đến khi đối thủ chân chính phát hiện ra được nguy hiểm thì cả triều đình và dân chúng cũng đã ở vào tình thế không thể nghịch chuyển, lúc này mới là lúc chân tướng được vạch trần.

Mà Đông xưởng và Cẩm Y vệ lại không thông thạo thủ đoạn này. Bọn họ xưa nay dùng thế ép người, cường hoành bá đạo, cùng lắm là dùng mấy thủ đoạn vu cáo hãm hại. Trước giờ ty chức đều hết sức quen thuộc với thủ đoạn hại người của bọn họ cho nên căn bản không nghĩ loại thủ đoạn thâm hiểm quanh co thận trọng này có thể được bọn họ nghĩ ra. Ty chức lo rằng trong triều có kẻ khác muốn gây bất lợi cho đại nhân nên luôn bí mật cho điều tra chuyện này.

Mấy ngày trước có mấy phiên tử phát sinh xung đột với người của Đông xưởng trong quán rượu bị người của chúng bắt đi, tung tin nói là không thấy Đại đáng đầu của Nội xưởng ra mặt nhận lỗi thì tuyệt sẽ không thả người. Bởi đại nhân vắng mặt cho nên ty chức nguyện đa sự, hay tin liền đã tự thân chạy đến. Không ngờ... trong lúc tranh cãi, vị Đới Nghĩa Đới công công đứng ra điều đình cùng ty chức đó lại lén nhét một cuộn giấy cho ty chức. Ty chức trở về xem, thì ra nội dung viết bên trong chính là việc Đông xưởng và Cẩm Y Vệ âm thầm hợp tác tính kế đại nhân. Nội dung trong thư này cùng với âm mưu mà ty chức đoán ra không ngờ lại trùng hợp, ty chức cũng không dám có chút chậm trễ nên mới vội chạy đến đây gặp đại nhân.

Dương Lăng ngẩn ra một hồi lâu, rồi mới lẩm bẩm:
- Đới Nghĩa? Ồ... lão ta sớm đã bất mãn với Vương Nhạc và Phạm Đình, tin tức tiết lộ hẳn không phải là giả, vả lại lão ta cũng không có lý do gì mà gạt ta. Trong thư lão ấy nói những gì?

Ngô Kiệt đáp:
- Nguyên văn trong thư của Đới Nghĩa ty chức vẫn còn nhớ kỹ. Đới Nghĩa nói rằng: "Kế của Đông xưởng và Cẩm Y Vệ là: dụ đám người Lưu Cẩn và Trương Vĩnh làm ác, kích động mọi người giận dữ mà đổ tội cho Dương Lăng. Dương Lăng hồi kinh, bá quan dâng sớ xin chém, hoàng thượng tất sẽ không cho. Bèn lại xin bỏ tù Dương Lăng đợi tra xét, hoàng thượng tất sẽ cho. Đến lúc Cẩm Y Vệ phụng chỉ bắt người, cho tinh nhuệ của xưởng vệ mai phục trong ngoài, lấy cớ Dương Lăng kháng cự mà giết gấp, đồng thời chặt bỏ vây cánh. Cậy thế mà diệt tiếp tám tên thái giám Lưu, Mã, Trương. Nội đình trừ gian, ngoại đình tạo thế, thì đế vương chi tôn cũng không thể phán tội được, thiên hạ sẽ được yên ổn vậy."

Dương Lăng nghe xong liền đứng bật dậy bước tới mấy bước, giận đến trán nổi gân xanh. Ngô Kiệt lẳng lặng đi theo không nói tiếng nào. Dương Lăng nhìn mảng rừng phong đỏ bừng như lửa ở trước mặt, ngực phập phồng kịch liệt một trận rồi mới dần dịu lại.

Có gì mà tức giận chứ? Bản thân đã đến thời đại này thì phải tuân thủ quy tắc của trò chơi hiện tại. Bọn họ tàn nhẫn nhổ cỏ tận gốc, mình cảm thấy nó ác độc nhưng trong mắt bọn họ nó lại là thủ đoạn hết sức đương nhiên.

Triều đại như vậy, chẳng lẽ còn mong có thể "bỏ phiếu dân chủ" cho những bất đồng về chính trị như trong xã hội dân chủ hiện đại sao? Muốn đánh đổ đối thủ thì phải quyết một trận sống mái. Cái gọi là quan lộ hiểm ác, há chẳng phải chính vì nguyên do này ư?

Y thở dài thườn thượt, đoạn bình tĩnh nói:
- Đại đáng đầu đi đường mệt mỏi, đi thôi, chúng ta về phủ uống tạm vài chén rồi tiếp tục thương thảo kỹ lưỡng.

Trong mắt Ngô Kiệt thoáng loé lên vẻ tán thưởng, đoạn chắp tay đáp:
- Dạ, ty chức tuân mệnh.

Trong sảnh nhỏ, hai người đối ẩm, Liễu Bưu ngồi tiếp rượu ở cuối bàn. Hai người này đều là nhân vật thượng tầng của Nội xưởng, gã không khỏi có điều uý kỵ.

Dương Lăng cầm đũa chau mày, trầm tư thật lâu, đồ ăn trong miệng nhạt thếch: kế này của Đông xưởng không thể nói là không độc à. Chuyện Bát Hổ giao hảo với y ai nấy đều biết, còn về phần Bát Hổ có phải bị y xúi giục hay không căn bản không cần chứng cứ xác thực. Tin đồn nơi phố chợ đã tương đương với kỹ xảo định hướng dư luận của đời sau rồi, chỉ cần y không đưa ra được chứng cứ phản bác là đủ rồi.

Nếu như bá quan trong triều và thân sĩ danh tiếng đều đứng về phe đối lập với y vậy Đông xưởng và Cẩm Y Vệ sẽ đột ngột thừa lúc y hồi kinh, chưa phát hiện ra kế hoạch của bọn họ mà bất ngờ ra tay, trong một đêm trừ tận gốc tinh nhuệ của Nội xưởng. Cho dù sau đó hoàng đế biết được sự tình cũng sẽ không thể xoay chuyển tình thế, càng vô pháp giáng tội một người nào.

Khó xử nhất chính là trong nhất thời khó mà nghĩ ra được cách để phá giải kế sách này. Dư luận nằm trong tay ai? Chính là nằm trong tay kẻ đọc sách, mà quan văn trong triều lại là thành phần cốt lõi của những kẻ đọc sách. Cái thứ vũ khí làm gì cũng thuận lợi này lúc nào cũng nằm trong tay bọn họ, ngay cả hoàng đế cũng sợ nó như sợ cọp. Mình đi biện bạch với ai đây? Nực cười! Cho dù y có miệng dẻo mua được lòng người (3) thì sao đấu lại trăm ngàn cái miệng chứ?

Không thể giải trừ hiểu lầm của bá quan thì về mặt đạo lý y sẽ luôn rơi vào thế hạ phong. Đừng nói là về kinh đề xuất chính sách giải trừ cấm biển, thông thương lợi dân, ý đồ thay đổi vận mệnh Đại Minh sợ rằng sau này làm gì cũng khó khăn, lúc nào cũng phải nơm nớp lo sợ.

Dương Lăng thở dài, trông thấy Ngô Kiệt và Liễu Bưu cũng mặt mày nặng trĩu, không khỏi mỉm cười an ủi:
- Không cần quá lo lắng, bọn chúng vẫn còn xem thường lực lượng của chúng ta, không biết ty Lễ Giám có người của chúng ta, lại không biết nội bộ Tây xưởng và Cẩm Y vệ cũng có người liên kết với chúng ta. Bọn chúng muốn dùng thế sét đánh mà đánh trộm chúng ta? Bây giờ chúng ta đã biết việc này còn bọn chúng biết mình mà không biết người thì liệu nắm được mấy phần thắng chứ?

Ngô Kiệt gật đầu nói:
- Ty chức hiểu rồi, giờ đây chúng ta đã biết kế hoạch của bọn họ lại nắm trong tay lực lượng mà bọn họ không biết, vậy họ muốn bất ngờ tập kích tiêu diệt tinh nhuệ của Nội xưởng thì đó thật là chuyện nực cười. Nhưng mà hiện tại chúng ta đã rơi vào thế bất lợi, trừ Đông xưởng và Cẩm Y vệ ra thì quan viên thù địch với chúng ta cũng càng lúc càng nhiều. Nếu không giải quyết việc này thì về sau nó sẽ trở thành một mối hoạ vô cùng lớn. Xưa nay chỉ có đạo lý ngàn ngày làm giặc, nào có đạo lý ngàn ngày phòng giặc đâu.

Dương Lăng gượng cười, lại hỏi:
- Văn võ bá quan nói sao? Chẳng lẽ bọn họ dễ dàng đứng hết về phía nội đình sao?

Ngô Kiệt suy nghĩ một chút, trên mặt lộ ra chút an ủi, đáp:
- Cũng không hẳn vậy, Lục Bộ trong triều thì chí ít có bộ Lễ và bộ Hộ bảo trì trung lập, phần lớn võ tướng cũng có khuynh hướng nghiêng về phía Xưởng đốc. Ngoài ra, sau khi chuyện Xưởng đốc đại nhân lấy sức một địch mười đẩy lui giặc Oa trước Hải Ninh triều được truyền về kinh, lại có thuế giám các nơi kịp thời giao nộp thuế khoá triều đình lên kinh thì một số quan văn ở Ngự sử đài và Hàn Lâm viện cũng rất tán dương đại nhân. Lực lượng này tuy quá bé để có thể ảnh hưởng đến thế cuộc song rõ ràng cũng đã sinh ra tác dụng nhất định. Theo tình hình mà ty chức quan sát thấy thì ý kiến của ba vị đại học sỹ cũng không thống nhất. Đại học sỹ Lý Đông Dương dường như vẫn chờ đợi, không như hai vị đại nhân Lưu, Tạ bày tỏ rõ thái độ căm ghét đại nhân.

Trong lòng Dương Lăng dấy lên một tia hy vọng. Lý Đông Dương rất có uy danh, bá quan trong triều có đám người chỉ nghe theo ông ta như là thiên lôi sai đâu đánh đó. Nếu ông ta không tán thành với việc đối phó mình, vậy thì mình có thể tách từ trong "tập đoàn quan văn" ra một phần lực lượng. Tuy rằng không thể chuyển hoá phần lực lượng này thành sự trợ giúp cho mình nhưng chỉ cần bọn họ bảo trì trung lập thì như vậy áp lực dồn lên hoàng thượng sẽ giảm đi rất nhiều. Lợi dụng tình thế tế nhị này cộng thêm lực lượng tiềm ẩn mà mình nắm trong tay hẳn sẽ có thể cùng Đông xưởng phân cao thấp.

Đúng vào lúc này, một phiên tử chợt chạy đến bên cửa, chắp tay báo:
- Bẩm Xưởng đốc đại nhân, có Nhị đáng đầu xin cầu kiến.

Ngô Kiệt ngạc nhiên đứng dậy, kinh ngạc hỏi:
- Nhị đáng đầu? Là Hoàng lão hay là Vu Vĩnh? Không phải là ta đã bảo bọn họ nghiêm thủ kinh thành không được tự ý rời khỏi nửa bước sao? Lại đã có chuyện gì xảy ra rồi?

Dương Lăng cười nói:
- Ngô lão chớ kinh hoảng, đây là một vị thuộc hạ mà bản đốc mới vừa thu nhận, đang giúp bản quan xử lý một việc lớn. Có điều bây giờ xem ra nếu không thể giải quyết mối họa ngầm trong kinh thì việc này cũng chỉ có thể trì hoãn lại.

Y thở dài một tiếng, đặng bảo:
- Cho mời Thành nhị đáng đầu vào.

Thành Khởi Vận đội khăn tím, đeo đai xanh, vận áo dài lụa màu xanh, cải trang làm một thư sinh tuấn tú như thoa ngọc khoan thai sải bước vào đại sảnh. Đang định hành lễ với Dương Lăng thì nàng chợt trông thấy trong phòng còn có hai người đang đứng liền không khỏi ngẩn ra.

Liễu thiên hộ thì nàng nhận ra song lão già diện mạo quắc thước, mắt ẩn thần quang nọ thì lại rất lạ mặt. Thành Khởi Vận tò mò trộm liếc lão một cái, ánh mắt khẽ cụp xuống. Trông thấy người này đang đứng sau lưng Dương Lăng lại đứng còn cao hơn Liễu thiên hộ nửa bước, trong lòng lờ mờ có điều hiểu ra. Nàng mỉm cười chắp tay nói:
- Ty chức tham kiến đại nhân. Vị này là...

Dương Lăng đang trọng dụng nàng, Ngô Kiệt lại không phải là người không thể gặp, nếu cứ giấu giấu giếm giếm, thì sau này biết gặp nhau thế nào? Cho nên y thoải mái mỉm cười nói:
- Thành đáng đầu, vị này chính là Ngô Kiệt Ngô đại đáng đầu, chính là thượng cấp trực tiếp của đáng đầu, mau bước lên ra mắt đi.

Thành Khởi Vận thầm nghĩ: "Hóa ra là ông ta. Người mà Dương đại nhân chọn quả nhiên bất phàm, cho dù không có ý gì với mình nhưng đàn ông lần đầu gặp mình mà ánh mắt bình tĩnh lãnh đạm như vậy quả thật là hiếm thấy."

Trước đây nàng tiếp xúc phần lớn là đám háo sắc, đã thấy nhiều những vẻ mặt thèm thuồng của những kẻ đó, cũng đã quen mỗi khi gặp đàn ông thì sẽ xem xem đối phương có để ý đến tướng mạo của mình hay không trước rồi từ đó đoán ra tính cách người đó.

Nàng lại quên lúc này nàng đang mang diện mạo đàn ông. Mặc dù Ngô Kiệt liếc mắt liền nhận ra ngay nàng là phụ nữ có dung nhan không tầm thường nhưng dung nhan rất có quan hệ với việc vận trang phục nam hay nữ và có trang điểm hay không. Với kiến thức của Ngô Kiệt đương nhiên sẽ không cảm thấy kinh ngạc với tướng mạo hiện tại của nàng.

Thành Khởi Vận bước lên trên, dùng lễ hạ quan để bái kiến lão, tác phong và cử chỉ lại rất có phong độ nam nhi. Ngô Kiệt mỉm cười đỡ nàng dậy song lại liếc mắt sang Dương Lăng một cái đầy thâm ý.

Người con gái này có tài năng gì thì lão vẫn chưa được chứng kiến nhưng quan sát kỹ lưỡng thì thấy người con gái này tuy ra sức cải trang song ánh mắt lanh lợi, ngũ quan tinh xảo, rõ ràng là một mỹ nhân.

Tuy rằng quan viên Nội xưởng không nằm trong quan chế (biên chế) của triều đình nhưng cũng chưa từng nghe nói có phụ nữ nào làm quan. Dương Lăng trọng dụng một người con gái như vậy làm lão không tránh khỏi hơi có suy nghĩ lệch lạc.

Thành Khởi Vận làm lễ ra mắt xong, mỉm cười lui về hai bước đoạn cất tiếng thưa với Dương Lăng:
- Đại nhân, ty chức may mắn không làm nhục mệnh. Điều kiện của chúng ta hậu hĩnh, họ Bành lại không phải mạo hiểm gì cho nên sau khi trông thấy lệnh bài của đại nhân thì đã khẳng khái đồng ý đáp ứng trợ giúp việc này. Theo lời lão ta, nội trong một tháng sẽ có thể chuẩn bị xong xuôi, còn cụ thể chừng nào lên kinh thì vẫn do đại nhân quyết định ạ.

Vừa nói nàng vừa đưa tay vào trong áo rút ra tấm lệnh bài ngà voi nọ, cung kính dâng lên hai tay. Dương Lăng cầm lấy lệnh bài đã nằm êm ấm trên người Thành Khởi Vận, trên đó còn vương chút hương thơm nhàn nhạt.

Dương Lăng không khỏi thoáng do dự, y trao lại lệnh bài cho nàng, nói:
- Hiện thời cũng không làm kịp lệnh bài cho đáng đầu, Thành nhị đáng đầu cứ tạm thời cầm lấy lệnh bài này, rồi sau sẽ thông cáo hiểu dụ Nội xưởng nói rằng đó là tín vật của Thành nhị đáng đầu là được.

Thành Khởi Vận vui sướng nhận lấy lệnh bài nhét trở vào trong người. Dương Lăng trầm ngâm một chút rồi nói:
- Việc chuẩn bị hãy cứ để lão ta tiếp tục làm, có điều việc vào kinh tạm thời chưa vội. Bây giờ trong kinh đang có chuyện lớn, việc này ta tạm thời cũng chưa thể lo tới được.

Thành Khởi Vật cả kinh, sắc mặt tươi cười lập tức biến mất, nàng chần chừ một lúc, đoạn hỏi:
- Tìm lý do bảo lão ta từ từ chờ thì không thành vấn đề. Có điều... sắc mặt đại nhân nghiêm trọng như vậy phải chăng trong kinh đã xảy ra việc lớn gì rồi sao? A! Ty chức lỗ mãng rồi, nếu không tiện... - nàng vừa nói vừa trộm liếc nhanh Dương Lăng một cái.

Với tính đa nghi của nàng nếu không để nàng biết rõ chân tướng thì nàng sẽ ngứa ngáy trong lòng cho nên nàng cũng không suy nghĩ gì liền hỏi ngay, lời ra đến cửa miệng thì mới sực nhớ rằng mình vừa gia nhập Nội xưởng, chức vị tuy cao song chưa lập được công gì mà trước mắt còn khó lấy được sự tín nhiệm của Dương Lăng. Nếu thật sự có việc lớn gì thì Dương Lăng không tiện nói với nàng cũng là lẽ thường, hỏi như vậy chẳng phải tự làm bẽ mặt mình ư?

Dương Lăng lại có suy nghĩ khác. Vừa rồi y đã phân tích thực lực của đôi bên trong triều, phe mình thân đơn thế cô, tuy ở vào thế yếu nhưng hơn ở chỗ là đã biết được kế hoạch của đối phương mà đối phương lại không biết thực lực tiềm ẩn của mình, hơn nữa bá quan văn võ lại không hề đồng lòng. Nếu Đông xưởng và Cẩm Y vệ không được ngoại thần toàn lực ủng hộ trên mặt đạo nghĩa và dư luận thì sẽ không dám động võ mà mạo hiểm tội "tạo phản".

Y đã chuẩn bị thông tri cho Tây xưởng và Bắc trấn phủ ty âm thầm phòng bị, trước khi vào kinh y sẽ rêu rao âm mưu của xưởng vệ ra ngoài. Chỉ cần làm lớn chuyện này để mọi người đều biết, âm mưu biến thành dương mưu thì bọn họ có muốn mượn cớ giết người cũng sẽ phải cân nhắc miệng lưỡi thế gian.

Cho nên ngoại trừ chuyện của Tây xưởng và Trấn phủ ty tạm thời không thể nói, những chuyện khác cũng không có gì phải giấu giếm, hơn nữa lúc này lại vừa vặn cần đến sự thông thạo của Thành Khởi Vận.

Y nhìn sang Ngô Kiệt, mỉm cười nói:
- Ngô lão, ông nói cho Thành đáng đầu nghe đi. Thành đáng đầu đa mưu túc trí, nói không chừng sẽ có thể nghĩ ra cách hay để ứng phó đó.

Thế là mọi người lại quay trở về bàn ngồi, Ngô Kiệt thuật lại tình hình trong kinh cho vị Nhị đáng đầu này một lượt. Thành Khởi Vận nghe mà mắt loé sáng kỳ lạ, khẽ nghiêng đầu trầm tư thật lâu không nói lời nào.

Dương Lăng thấy vậy, không nhịn được bèn chồm người về phía trước, trầm giọng hỏi:
- Đông xưởng và Cẩm Y Vệ như hổ đói rình mồi, tình thế nguy cấp, không biết Thành đáng đầu có đối sách gì không?

Thành Khởi Vận khẽ mỉm cười, đưa mắt liếc Dương Lăng một cái, dịu dàng đáp:
- Nếu như đại nhân không hay không biết mà cứ thế về kinh, vậy đúng là cửu tử vô sinh. May mắn có chuyến đi Kim Lăng này thành ra tìm lành tránh dữ. Bây giờ nếu như ta đã biết căn nguyên của bọn họ vậy có gì mà nguy cấp đây?

Dương Lăng không những đã thấy nàng trong trang phục phụ nữ mà cả tấm thân nàng cũng đã thấy sạch trơn, vì vậy ở trước mặt Dương Lăng nàng vô thức không cảnh giác đề phòng, cho nên vừa rồi mới không kìm lòng được mà lộ ra vẻ quyến rũ của nữ nhi.

Dương Lăng ngượng ngùng rờ mũi. Thành Khởi Vận mỉm cười duyên dáng định nói tiếp chợt thấy ánh mắt kỳ dị của Ngô Kiệt và Liễu Bưu mới sực tỉnh. Nàng hơi lúng túng ho khan vài tiếng rồi nói:
- Chắc hẳn đại nhân đã có sẵn tính toán trong lòng. Ty chức nghĩ ra được ba kế, có lẽ chỉ là vẽ rắn thêm chân, nói ra thực sẽ bêu xấu trước mặt hai vị đại nhân mà thôi.

Ngô Kiệt cả kinh, thất thanh thốt lên:
- Cái gì? Lại có những ba kế? Thành đại nhân xin hãy mau nói thẳng.

Thành Khởi Vận nheo mắt lại, cất giọng nham hiểm:
- Nó bất nhân, ta bất nghĩa, ngăn cách ở giữa là một ty Thuế Giám giàu nứt đố đổ vách. Chúng ta và Đông xưởng không còn khả năng nói chuyện hoà bình vậy tại sao không lấy đạo nó trả lại cho nó? Thế nên thượng sách này của ty chức chính là tiên phát chế nhân (4)!

Nàng trầm ngâm một chút, đoạn nói tiếp:
- Ở trước mặt Hoàng thượng, đại nhân thì gần mà Đông xưởng thì xa cho nên bọn chúng dùng thế, cậy thế bá quan lấy thế lớn mà ép chí tôn, vì vậy bất lợi thuộc về đại nhân. Chúng ta có thể thừa lúc thế chúng chưa thành, bí mật lẻn vào kinh gặp mặt thánh thượng, tiên phát chế nhân đoạt thế của chúng. Thậm chí... có thể mạo hiểm hơn chút nữa. Nội xưởng có chức trách đốc sát Đông xưởng và Cẩm Y Vệ, tại sao bỏ nó mà không dùng? Chúng ta có thể không cần nhận thánh chỉ mà trực tiếp đến Đông xưởng xét người, bắt người!

Dương Lăng và Liễu Bưu nghe xong không khỏi thất kinh. Liễu Bưu đã thất thanh nói:
- Không được, dốc hết toàn lực, trao quyền cho người khác như vậy há chẳng khéo quá hoá vụng ư?

Thành Khởi Vận bật cười nói:
- Đương nhiên không phải là làm ầm ĩ lên. Hiện nay bọn chúng đang bí mật tính kế Xưởng đốc thì trong lòng tất sẽ có quỷ, chỉ cần chúng ta khiến bọn chúng sinh ra ảo tưởng rằng đại nhân muốn xuống tay trước với chúng thì có thể ép chúng động thủ trước để tạo cho chúng ta một cái cớ.

- Về phần tội danh...- Thành Khởi Vận mỉm cười rồi nói:
- Năm xưa khi Lý Quảng tại triều, muốn được điềm lành thì điềm lành bỗng không ngừng xuất hiện ở khắp nơi. Giờ đây Đông xưởng đổ rồi, tin rằng đại nhân chỉ cần nói bóng gió một tiếng thì thuế giám các nơi nắm giữ tội chứng liên quan đến Đông xưởng nhất định cũng sẽ đua nhau trình lên. Thậm chí... chúng ta có thể tìm gán luôn cho Đông xưởng hàng loạt những tội chứng mưu phản. Có thì là có, không có vẫn là có. Một khi đã có tội chứng vậy mọi chuyện sẽ do Nội xưởng quản, bá quan văn võ còn có thể nói gì đây? Nếu không sợ rơi vào cái vũng lầy Đông xưởng ấy thì cứ việc lao đầu vào đi.

Dương Lăng nghe xong mà hít một hơi khí lạnh, nổi da gà: "Người phụ nữ này thật thâm độc quá đi. Tim đủ đen, thủ đoạn cũng đủ ác độc. Nếu nàng ta mà là đàn ông thì đã có thể gia nhập triều chính rồi. Chậc! Người nào mà đối địch với nàng ta nhất định sẽ không có được cuộc sống yên bình."

Dương Lăng biết rằng nương tay nhân từ cũng phải tuỳ thời tuỳ lúc. Hiện giờ người ta đã mài dao xoèn xoẹt, mình mà còn mang lòng dạ đàn bà thì khi đó không những tự hại mình mà còn hại cả mấy ngàn huynh đệ cực khổ theo mình.

Đến lúc ấy đối thủ sẽ khâm phục lòng nhân từ của mình à? Sợ rằng sẽ chỉ cười mình ngu xuẩn. Chẳng lẽ mình muốn học Viên Sùng Hoán (5), cả thịt cũng để cho lão bá tánh ăn để rồi mai sau đổi lấy một tiếng thở dài, một lời sám hối của bọn họ? Huống hồ có ai mà hiểu được lý tưởng của mình? Biết đâu, sợ sau khi chết đi rồi ngay cả sự thanh bạch cũng không được trả lại.

Nhưng nếu như làm theo cách của Thành Khởi Vận, trong mắt quan văn thì mình sẽ là tên gian thần lộng triều chính gốc, dù có thêm lý do gì nữa cũng không thay đổi được. Hôm nay trong triều vẫn còn một bộ phận quan viên có khuynh hướng nghiêng về phía mình, liệu rằng cũng sẽ đẩy bọn họ ra luôn ư? Đã đến lúc phải đi nước này rồi sao?

Y do dự một lát, rồi khẽ lắc đầu, hỏi:
- Thế còn trung sách thì sao?

Nhìn thấy cử chỉ của y Thành Khởi Vận không khỏi khẽ thở dài, trong lòng hơi thất vọng song lại có chút nhẹ nhõm. Trên lý trí, nàng rất hy vọng Dương Lăng là một người quyết đoán, tàn nhẫn vì đạt mục đích mà không từ thủ đoạn. Chỉ có người như vậy mới có tiền đồ, mới đáng để nàng theo phò.

Nhưng có một loại tình cảm kỳ diệu trong lòng lại khiến nàng thà nguyện Dương Lăng là người có tình có nghĩa, hơi khờ dại chịu thiệt về mình. Chính nàng cũng không thể giải thích được tại sao mình lại có loại tâm lý mâu thuẫn này.

Nàng cắn nhẹ môi, nói tiếp:
- Trung sách, chính là lấy tiến làm tiến. Nhược bằng đại nhân chịu cắt đứt giao tình với Tám thái giám thì sau khi vào kinh phải lập tức tạo nên thanh thế lớn, tốt nhất là làm cho ai ai cũng biết, công khai can gián, ra sức xin Hoàng thượng thuận theo bá quan, chém gian nịnh, chỉnh triều cương, diệt trừ tám vị thái giám mê hoặc quân thượng. Bọn họ không quyền không thế, lại không được ân sủng như đại nhân nên hành động này nhất định có thể giải quyết xong trong một lần.

Huống hồ còn có văn võ bá quan trong triều, bọn họ há dám vì tư lợi mà không đứng ra ủng hộ đại nhân trong thời khắc này ư? Vì vậy, tội danh mà văn võ bá quan và Đông xưởng và Cẩm Y vệ khổ tâm gán ghép cho đại nhân ngược lại sẽ trở thành công tích của đại nhân. Đại nhân trở thành người vì bá quan mà xin lệnh vua, cho dù bọn họ biết rõ trong lòng thì trên danh nghĩa ít ra cũng phải cùng tiến thoái với đại nhân, trong thời gian ngắn sẽ không cách nào công khai ra mặt hãm hại đại nhân được. Có điều kế này tuy ổn thoả hơn thượng sách song lại chỉ có thể giải nạn trong nhất thời. Chừng nào còn lưu mối lo lớn là Đông xưởng bên mình thì chừng ấy vẫn sẽ là một tai họa.

Liễu Bưu chợt chen miệng vào nói:
- Đại nhân!

Dương Lăng ngước mắt lên, chỉ thấy Liễu Bưu thoáng đỏ mặt, hơi ngượng ngập nói:
- Ty chức cảm thấy... cảm thấy thượng sách của Thành đại nhân rất đáng để mạo hiểm thử!

Dương Lăng bình tĩnh nhìn y, thoáng trao đổi ánh mắt với Ngô Kiệt rồi thản nhiên hỏi tiếp:
- Ồ, vậy... còn hạ sách thì thế nào?

- Hạ sách... - Thành Khởi Vận cười gượng một tiếng, lấy làm bất đắc dĩ nói:
- Hạ sách à, vậy chỉ có thể tới nước nào thì hay nước đó thôi. Hạ sách này chính là trước khi đại nhân hồi kinh liền công bố âm mưu của Đông xưởng ra ngoài. Bọn chúng kiêng kị miệng lưỡi mọi người, lại không biết đại nhân có đối sách gì cho nên kế hoạch trừ khử đại nhân của chúng sẽ không thể thực hiện được nữa, do vậy đại nhân sẽ có thể an toàn hồi kinh. Tuy nhiên một khi kế hoạch này không thành thì bọn chúng ắt sẽ tìm cách khác để đả kích đại nhân. Quan hệ giữa tám thái giám và đại nhân nhập nhằng không rõ, cái ô danh này sẽ vẫn là một cái cớ để chúng uy hiếp đại nhân. Hơn nữa sĩ khí và lực lượng trong triều ngoài triều lại không hề hao tổn gì, như vậy hậu quả về sau thế nào sẽ khó mà lường trước được.

Hoá ra diệu kế mà mình nghĩ ra trong mắt của Thành Khởi Vận lại chỉ là hạ sách mà thôi. Dương Lăng không khỏi âm thầm cười khổ. Y đứng dậy, nặng nề cất bước đi lại trong phòng.

Lý trí và tình cảm, lợi hại lẫn thiệt hơn không ngừng được y tính toán và cân nhắc trong lòng: "Trong triều tối thiểu vẫn còn một vị đại học sỹ, hai vị thượng thư, một đám quan văn và đại bộ phận võ tướng là đứng về phía trung lập. Để tự bảo vệ mình thì không thể không theo đuổi quyền lực lớn mạnh hơn nữa, nếu như thật sự dùng đến thượng sách của Thành Khởi Vận thì khi ấy bọn họ sẽ nhìn mình với con mắt như thế nào? Có thật đã đến nước đường cùng phải sử dụng đến bạo lực rồi không?”

Dương Lăng suy nghĩ, lưỡng lự. Ngô Kiệt, Thành Khởi Vận và Liễu Bưu nín thở hồi hộp nhìn y chằm chằm, chờ đợi y đưa ra một quyết định.

Dương Lăng dừng lại trước tấm bình phong, ngắm cảnh non xanh nước biếc như tiên cảnh trên đó mà lòng lại rối bời như canh hẹ, nhất thời cũng chẳng lần ra được manh mối gì.

Ngay lúc này, ngoài cửa đột nhiên có một phiên tử áo đen mũ đỏ chạy xộc vào khuỵu một gối xuống đất, cất cao giọng tâu:
- Khải bẩm Xưởng đốc, thượng thư bộ Lễ Kim Lăng Vương Quỳnh Vương đại nhân sai người đến cầu kiến!



Chú thích:

(1) đây là trò oẳn tù tì uống rượu. Khi uống rượu, hai người cùng giơ ngón tay ra cùng lúc rồi đoán số, ai nói đúng là được, nói sai bị phạt uống rượu, cả hai người đều nói sai thi hoà. Câu này dùng chỉ thủ đoạn sử dụng kẻ trung gian để kiềm hãm đối phương.

(2) nguyên văn "Hạng Trang vũ kiếm, ý tại Bái Công". Hạng Trang là một võ tướng, em của Hạng Vũ. Còn "Bái Công" là Lưu Bang. Ý của câu thành ngữ này chỉ trong bữa tiệc Hồng Môn, Hạng Trang mượn tiếng ra múa kiếm trợ hứng, và muốn nhân cơ hội này giết chết Lưu Bang. Nay thường dùng để ví về người bề ngoài thì có lý do chính đáng, nhưng thực tế lại có dụng ý khác.

(3) nguyên văn "thiệt xán liên hoa" chỉ kẻ mồm mép lanh lợi, nói lời hay chữ tốt làm cho người ta vui. Điển cố này trích từ sự tích về cao tăng Phật Đồ Trừng dâng hương niệm chú khiến chậu nước nở sen, mang đến hân hỉ cho mọi người.

(4) đánh phủ đầu để kiềm chế đối phương

(5) Viên Sùng Hoán (tên tự: Viên Tố và Tự Như; 6 tháng 6 năm 1584 – 22 tháng 9 năm 1630) là một danh tướng chống Mãn thời Minh. Tuy xuất thân là một văn thần, đỗ Tiến sĩ, nhưng người ta biết ông nhiều với tư cách là một chỉ huy quân sự, từng nhiều lần đánh bại quân Hậu Kim đầu thế kỷ 16. Ông bị Vương Vĩnh Quang cùng đồng đảng dâng tấu biểu vu cáo cấu kết và tư thông với giặc Kim và xử tử tội. Đau đớn nhất cho ông là kể cả những người dân chúng kinh thành mà ông hết lòng bảo vệ, cũng cho rằng Viên Sùng Hoán cấu kết và dẫn đường cho giặc Kim vào xâm lược nên ai cũng hận ông đến tận xương tủy. Sau khi ông thọ hình trước cổng thành, nhiều người đã tranh giành thân xác ông như muốn ăn tươi nuốt sống để thỏa nỗi thù hận. Nỗi oan của Viên Sùng Hoán kéo dài hơn 100 năm. Trớ trêu thay, vị vua công bố sự thật và xuống chiếu minh oan cho ông lại là con cháu của đối thủ không đội trời chung: Hoàng đế Đại Thanh Càn Long, cháu năm đời của Hoàng Thái Cực. (trích từ wiki)

Chương 145 - Tức Nước Vỡ Bờ

------------------------

Nếu như sông Tần Hoài là cảnh sắc êm ả dịu dàng thì bến Đào Diệp chính là chiếc giường thêu cẩm tú trong cảnh sắc dịu dàng ấy. “Bến đò Đào Diệp nước mênh mang, trên bờ lầu gác dưới thuyền ngang. Kẻ đến người đi tranh nhau tới, thuyền hoa ca hát khúc an nhàn.” (Hán Việt: Đào diệp độ đầu thủy du du, ngạn hạ du thuyền ngạn thượng lâu; quy khách hành nhân tranh độ cấp, ca thuyền họa phảng mãn trung lưu.)

Nơi đây tiếng sênh ca (1) từ những tửu lâu, kỹ quán vọng lại quanh quẩn khắp bên tai khiến cho người đi ngẩn ngơ nhung nhớ. Trên mặt nước du thuyền lui tới như thoi đưa, đèn đóm sáng choang. Trong thuyền hoa (thuyền vẽ hình, trang trí dùng để đưa du khách ngoạn cảnh) có giai nhân Giang Nam, có nhạc công thượng đẳng, khiến cho du khách ai nấy đều mê mẩn quên hết trời trăng tháng ngày.

Tuy trời đã tối, trên bến đò những người bán rong vẫn cất cao tiếng rao mời rượu nhạt, đồ chín và các món ăn vặt. Nơi đây có thể gọi là một trung tâm giải trí thương nghiệp thành thị.

Từ đầu những năm Hồng Vũ, từ khi Chu Nguyên Chương hạ lệnh xây dựng mười sáu lầu quán mang những cái tên Đạm Yên, Kinh Tùng, Trọng Trạch, Lai Tân… và phổ biến việc nuôi dưỡng quan kỹ (2) cho đến nay, Kim Lăng luôn nồng mùi son phấn trăng hoa: luyến đồng (3) cợt nhả khách làng chơi, kỹ nữ tài giỏi tranh nhau đua tài khoe sắc. Những quan lại cùng thân sĩ, danh sĩ "chơi gái không quên lo việc nước, lo nước không quên kiếm gái chơi" cũng chạy theo xu thế này.

Trên lầu Đạm Yên, Nam Kinh cấp sự trung Đới Tiễn chau mày hỏi khẽ:
- Vương đại nhân! Dương Lăng chịu đến sao?

Vương Quỳnh cười nhạt, đưa mắt nhìn mọi người chung quanh rồi bảo:
- Hôm nay có các đại quan của Nam Kinh Lục Bộ, các vị đồng liêu ở Ngự Sử đài, Bố chánh ty và Thủ bị doanh liên danh* mời y đến dự tiệc, nếu y còn làm bộ làm tịch không tới thì đó không phải là Dương Lăng nữa rồi. (*cùng ký tên)

Từ khi bị giáng khỏi kinh sư, tóc lão đã bạc thêm mấy phần, nếp nhăn trên mặt cũng nhiều hơn nhưng thần sắc lại trầm ổn và kiên quyết hơn trước. Khi "đạo đức lễ giáo" mà lão xưa nay vẫn luôn cho là có thể giải quyết mọi vấn đề lại không thể đẩy tên gian nịnh vào chỗ chết, thậm chí còn không nhận được sự hưởng ứng của đông đảo quan viên triều đình thì lão mới biết giờ đây lễ nhạc suy đồi, đã không thể chỉ vẻn vẹn dựa vào di huấn của thánh nhân là có thể "trị quốc bình thiên hạ" được nữa.

Người lão phái đi nghe ngóng tin tức trong kinh đã trở về. Lão đã biết Dương Lăng kết giao với huân thần (bề tôi có công) lẫn công khanh và những bậc quyền quý trong kinh, giúp bọn họ chuyển lậu hàng hoá; nghe nói hắn còn vận chuyển một số lượng lớn vật phẩm tinh xảo của dị quốc về kinh dâng cống cho Hoàng thượng. Kẻ này nếu không phải là phường gian nịnh thì cớ chi phải lao tâm khổ tứ như vậy?

Kẻ này vừa mới thành lập Nội xưởng liền bắt đầu kết giao với quyền thần, vơ vét tiền tài; nhìn thủ đoạn ở Giang Nam và trước mặt Hoàng thượng của y là biết y là kẻ dã tâm bừng bừng. Kẻ làm đại sự thì không câu nệ tiểu tiết, vì đại nghĩa tiếc chi chút nghĩa khí nhỏ nhặt? Vì tập thể tiếc gì bản thân? Nếu lúc này mà không trừ khử y, đợi y mọc đủ lông đủ cánh thì đại thế đã mất rồi.

Mượn sức Đông xưởng chỉ là việc bất đắc dĩ. Nhưng nếu muốn không để chúng mượn thế vùng lên thì bá quan trong triều phải nhận lĩnh vai trò chủ đạo trong quá trình trừ gian. Nhưng lúc này bá quan văn võ lại không thể đồng tâm hiệp lực, rất đông quan viên thậm chí ngay cả Lý đại học sỹ vẫn bàng quan đứng ngoài nhìn, mà kế sách của mình đã như tên lắp nỏ, không thể không bắn. Từ khi nghe người trở về báo tình hình trong kinh, lão đã quyết định phải gặp Dương Lăng một lần. Lúc này không thể không đặt thêm một quả cân cuối cùng lên trên bàn cân được nữa.

Ngự sử Nam Kinh là Tưởng Khâm hừ một tiếng, giọng không vui:
- Đạo bất đồng bất tương vi mưu (4). Tuy Dương Lăng quyền cao chức trọng, nắm quyền tuần sát Giang Nam, song chúng ta không cần thiết phải để ý tới hắn. Nếu không phải là nể mặt Vương lão đại nhân thì Tưởng mỗ quyết sẽ không đến.

Bạc Ngạn Huy cùng là Ngự sử với Tưởng Khâm, nghe vậy thì giật nhẹ tay áo lão, khẽ trách:
- Luận chính nghĩa, chẳng lẽ ông so được với Vương thượng thư? Luận thù riêng, chẳng những Vương đại nhân vì Dương Lăng nên bị giáng khỏi kinh sư, mà con của đại nhân còn bởi Dương Lăng mà bỏ mạng, không lẽ lại không căm hận Dương Lăng như chúng ta? Ngày nay nội thị làm loạn, có thể thuyết phục được Hoàng thượng cũng chỉ có Dương Lăng. Vương thượng thư dẹp bỏ ân oán cá nhân, thiết rượu khoản đãi y còn không phải là vì giang sơn xã tắc, bá tánh lê dân ư? Ông xem đó, lòng dạ ông không bằng phần vạn của thượng thư đại nhân mà còn ở đây nói xằng nói bậy.

Tưởng Khâm bực bội hừ một tiếng, thấy mọi người trên bàn tiệc đều không nói gì thì lại khẽ đáp:
- Nói là nói vậy, nhưng Tưởng mỗ nghe nói đám nội thị được xưng là Bát Hổ và Dương Lăng vốn là bè lũ, thậm chí việc mê hoặc thánh thượng cũng là ý của Dương Lăng, việc này trong kinh ai nấy đều sớm đã biết. Vương đại nhân muốn thuyết phục Dương Lăng trừ gian, há chẳng phải là bảo hổ lột da ư?

Bạc Nhan Huy thở dài một hơi, đáp:
- Thật ra... Tôi cũng không ôm hy vọng gì, mọi chuyện cứ thuận theo số trời vậy.

- Khâm sai Dương đại nhân đến!

Dương Lăng leo vội lên lầu, liếc nhanh thì thấy ngoài quan thủ bị Nam Kinh là Quan đại nhân ra, những người còn lại y đều không nhận ra, song nhìn vào quan phục của những vị quan ngồi đầy trên bàn tiệc thì rõ ràng đều mang dáng dấp "quan chức cấp cao của chính phủ", bèn vội mỉm cười ôm quyền nói:
- Các vị đại nhân đợi đã lâu, Dương mỗ tới trễ, xin thứ lỗi, thứ lỗi!

Y đích thực đã đến hơi trễ. Ngay khi nhận được thiếp Vương Quỳnh mời y đến dự tiệc, quả thực Dương Lăng đã lưỡng lự một lúc lâu. Vương Quỳnh vì y mà bị giáng chức, vì y mà mất con, có thể nói bất luận là công hay tư hai người đều có thù sâu như biển; lão mời mình đến dự tiệc là muốn diễn tuồng gì đây?

Liễu Bưu đã quen với những thủ đoạn mưu sát, hãm hại và vu khống nên ý kiến đầu tiên của gã là y vạn lần không thể đi. Vương Quỳnh rõ ràng đã bày Hồng Môn yến (5), chắc lão già đó kiên quyết đồng quy vu tận, nói không chừng sẽ cho thủ hạ ẩn nấp để lóc thịt xưởng đốc đại nhân đây.

Ngô Kiệt xin xem thiếp mời, thấy mặt sau ghi chi chít tên một đám quan viên, thì cũng đoán không ra dụng ý của Vương Quỳnh. Ở trước mặt đông đảo quan viên như vậy mà hành thích khâm sai ư? Cho dù Vương Quỳnh không sợ chết, nhưng mưu sát khâm sai là tội lớn tru di cửu tộc, lão ta dám sao? Trừ phi lão ta muốn tạo phản.

Tương tự, Thành Khởi Vận cũng không rõ trong bình hồ lô của Vương Quỳnh có chứa thứ thuốc gì. Nhưng hôm nay những người liên danh mời Dương Lăng một cách gấp gáp thế này là toàn bộ quan lớn của cả Kim Lăng, nếu như y không đi thì chẳng khác nào đắc tội với hết thảy quan viên thành Kim Lăng cả. Sự phát triển của Dương Lăng trong tương lai sẽ lấy phương nam làm nền móng, mà những người này ngoại trừ Lục Bộ không gánh vác trách nhiệm gì lớn còn những quan viên khác đều nắm thực quyền ở Nam trực lệ, y sao có thể không đi?

Cuối cùng bọn họ thỏa thuận lập tức cho phiên tử chạy gấp đến Đạm Yên dò xét kỹ trong ngoài một lượt, xác định hoàn toàn không có mai phục gì. Lúc đó họ mới dám phái mười người thông minh tháo vát, võ nghệ siêu phàm lén giấu dao nhọn, cải trang làm kiệu phu và tùy tùng theo y đến dự tiệc.

Kinh sư Lục Bộ lấy bộ Lại làm đầu. Nam Kinh Lục Bộ đều là những chức quan nhàn hạ, nên phải dựa theo lai lịch và danh vọng mà sắp chỗ ngồi. Dương Lăng là khâm sai, Vương Quỳnh thì đức cao vọng trọng, đương nhiên hai người bọn họ cùng ngồi vào vị trí chủ tọa của bàn trên.

Dương Lăng miễn cưỡng ngồi cùng một bàn với Vương Quỳnh. May mà các quan viên khác cũng biết ân oán cá nhân giữa hai người nên tiệc rượu vừa được dọn ra, bọn họ bèn lôi kéo Dương Lăng cùng tham gia nói chuyện phiếm.

Những đại nhân già này bụng đều đầy thi thư, nói chuyện gió trăng cũng không thô tục như người bình thường. Tuy rằng Vương thượng thư rất coi trọng lễ giáo, nhưng là chú trọng đến triều cương và nhân luân. Còn chơi gái là chuyện phong lưu ân ái, không tổn hại gì đến đạo đức cá nhân, bản thân lão Vương còn có năm thê thiếp, nhỏ nhất mới chỉ hai mươi hai, cho nên bọn họ đương nhiên không kiêng kị gì. Do đó bầu không khí dè dặt cẩn trọng ban đầu tự nhiên nhanh chóng biến mất.

Dương Lăng không biết dụng ý của Vương Quỳnh nên trong tiệc không dám uống nhiều. Uống đã ngà ngà, Dương Lăng mới nói với mấy vị đại nhân cùng mâm:
- Lần này Dương mỗ xuôi nam là để xử lý chút việc nhỏ của ty Thuế Giám, vốn không dám làm phiền các vị lão đại nhân. Hôm qua tại hạ cùng Phùng công công trấn thủ Nam Kinh đã thỏa thuận xong quyết định điều động nhân sự, đang định mấy ngày tới đây sẽ lặng lẽ trở về kinh thành, song không ngờ lại làm nhọc công các vị đang bộn bề trăm công nghìn việc đến uống rượu. Dương mỗ xin kính tiếp mọi người một chén.

Tuy rằng phần lớn các quan viên đều khinh thường y nhưng quan trường là vậy, nói chuyện với bạn thân hảo hữu ở sau lưng thì vẻ mặt đầy căm phẫn nhưng lúc giáp mặt thì lại tươi rói như hoa. Ai trèo lên đến vị trí cao như vậy cũng không dễ, dám vì đại nghĩa mà đắc tội với tâm phúc của Hoàng đế thật sự có được mấy người? Vừa thấy Dương Lăng nâng chén, mọi người liền vội nâng chén đáp cùng.

Vương Quỳnh nhấp nhẹ một ngụm, hờ hững cười nói:
- Đại nhân lần này xuôi nam có thể nói là công đức viên mãn à nha! Đã khuất phục được ba vị thái giám trấn thủ Giang Nam, ty Thuế Giám cũng đã là đồ trong túi của đại nhân rồi, trong triều đã có thể tự mình giở quyền cước.
Còn trong quân đội, vốn đại nhân đã rất có uy danh. Lại thêm lần này ở Hải Ninh chống giặc Oa, quân chính quy không địch lại giặc Oa hung hãn mà Dương đại nhân chỉ dựa vào gần trăm vệ binh đã chống lại ngàn quân, như thể bọn chúng dâng tặng hậu lễ cho đại nhân vậy. Trong chớp mắt thanh danh đại nhân vang dội, có thể nói là danh tướng của Đại Minh rồi.
Theo lão phu thấy, tương lai đại nhân tay nắm binh mã thiên hạ giữ cõi chống giặc, đảm đương triều chính, hàng phục bốn rợ (6) cũng không phải là việc khó, tiền đồ không thể lường nổi đâu à.

Dương Lăng cười gượng gạo, rồi bình tĩnh đáp:
- Đại nhân khen nhầm rồi, diệt trừ mấy viên thái giám trấn thủ phạm pháp cũng không tính là thành tích gì. Vả lại tinh nhuệ của Đại Minh ta chính là mười hai đoàn doanh kinh sư, nha sai của Nội xưởng vốn xuất thân từ Thần Cơ doanh nên đương nhiên việc đối phó một đám giặc Oa trên biển là việc không khó rồi.

Vừa nói y vừa trộm liếc Vương Quỳnh một cái thật sâu: "Vương Quỳnh đang khen mình à? Bề ngoài thì giống như khen mình văn võ song toàn, nhưng nói mình vừa đương văn lại đương võ, còn hàng phục bốn rợ, sao câu nào câu nấy đều như đâm chọc thế nhỉ?"

Vương Quỳnh cười ha hả:
- Dương đại nhân quá khiêm nhường rồi. Thân là cận thần của thiên tử, lại có tài cán như vậy, thì có gì mà khó? Tuy nhiên...,

Ánh mắt lão chợt ngưng lại, thần sắc trở nên lạnh lùng, nghiêm nghị:
- Thiên tử tuổi nhỏ, gần đây trong triều có một đám bề tôi gièm pha mê hoặc Hoàng thượng, khiến Hoàng thượng lơ là công việc triều chính, xao nhãng việc học. Bá quan trong triều ai nấy đều lo âu, lê dân thiên hạ cũng hoang mang thấp thỏm. Dương đại nhân rất được Hoàng thượng tin yêu, không biết sau khi về kinh, đại nhân sẽ định liệu việc này như thế nào?

Lão vừa hỏi câu này, bốn bề lập tức im phăng phắc, rất nhiều người vểnh tai lên chờ nghe câu trả lời của Dương Lăng. Dương Lăng thấy ánh mắt Vương Quỳnh sáng quắc, trong lòng không khỏi ngơ ngác. Chẳng lẽ hôm nay Vương Quỳnh vứt bỏ thù xưa, hy vọng mình có thể khuyên bảo Hoàng thượng sao?

Dương Lăng thoáng suy nghĩ rồi đáp:
- Thân là bề tôi, Dương mỗ tự có trách nhiệm khuyên nhủ Hoàng thượng. Hồi kinh rồi, Dương Lăng đương nhiên sẽ dùng lý lẽ nói cho Hoàng thượng hiểu, xin Hoàng thượng quan tâm đến việc triều chính hơn.

Vương Quỳnh cười lạnh:
- Lục khoa, Thập tam đạo (7), thậm chí là ba vị đại học sĩ Nội các không biết đã dâng bao nhiêu bản sớ mà có khuyên được Hoàng thượng hồi tâm đâu? Chỉ là mấy tên nội thị nhỏ nhặt không đáng kể, đại nhân đang nắm quyền bính trong tay, chẳng lẽ không thể diệt trừ gian nịnh, thanh lọc bề tôi nhơ bẩn bên cạnh thánh thượng sao?

Nghe xong lời thẳng thắn như vậy, Dương Lăng không khỏi giật mình thất kinh. Nhưng suy đi nghĩ lại, nếu trong tấu chương đám ngôn quan và đại thần nội các còn dám trực ngôn yêu cầu Hoàng thượng giết Bá Hổ, thậm chí còn đang âm thầm bày kế tiền trảm hậu tấu nhằm giết chết tên "quyền thần" là mình đây, thì trên bàn tiệc này, Vương Quỳnh dám công khai xúi giục mình diệt trừ Bát Hổ cũng không có gì là lạ.

Nếu y theo kế Vương Quỳnh, ấy chính không bàn mà hợp với trung sách của Thành Khởi Vận, chẳng qua cấp tiến hơn một chút mà thôi. Có điều... y nhớ rất rõ, trong lịch sử đám người Lưu Cẩn rất có tiếng tăm, mình có thể giết được bọn họ không? Hơn nữa bá quan văn võ sẽ vì việc này mà từ bỏ ý niệm tiêu diệt mình sao?

Chỉ với mớ kiến thức và lý luận tiên tiến vượt thời đại của mình thì đừng hòng mơ mộng đả thông được tư tưởng những kẻ cầm quyền ở thời đại này. Từ xưa đến nay đã bao giờ thiếu những kẻ ngoài lòng thì vờ vịt thương tiếc nhau, trên triều thì lại là đối thủ sống mái đâu? Nếu thật sự mình giết Bát Hổ rồi, Hoàng đế tất sẽ sinh ác cảm với mình, thế lực thù địch trong cung thì không chút bị tổn hại, mà ngoài cung thì những kẻ nắm đại quyền sẽ vẫn là trở lực, khi đó bốn bề thọ địch, muốn tự bảo vệ mình cũng khó.

Dương Lăng cười khổ một tiếng, không biết trả lời thế nào, đành nói:
- Đại nhân! Hoàng thượng tuổi nhỏ, ham chơi vốn dĩ tính trời, tại hạ cho rằng chỉ cần hướng dẫn đúng đắn, để Hoàng thượng giảm thiểu vui chơi cũng được rồi. Huống hồ quốc có quốc pháp, Dương mỗ sao có thể xông vào trong cung diệt trừ Bát Hổ chứ? Tạo phản ư?

Vương Quỳnh cười lạnh:
- Thế thì có khó gì? Một phạm nhân bị cùm xích vào ghế không thể cựa quậy mà còn có thể vì mưu đồ hành thích quan viên mà bị giết, chết rất quang minh chính đại, không oan không uổng, thế mà đại nhân lại không có biện pháp xử chết mấy tên nội thị đó sao?

Dương Lăng đứng bật dậy, mặt tím tái, trong lòng thầm nghĩ: "Chẳng lẽ việc mình giết Vương Cảnh Long đã bị lão phát hiện manh mối rồi sao? Không đúng, hiểu con không ai bằng cha, đứa con trong lòng lão vẫn là một thư sinh văn nhã, cho dù không nắm được chứng cứ trong tay, lão cũng vẫn cứ cho rằng mình đã sắp đặt giết chết con của lão."

Khó khăn lắm Dương Lăng mới mở miệng được:
- Vương đại nhân nói vậy là có ý gì? Cái chết của lệnh công tử đã sớm có kết luận của bộ Hình. Nếu không phải vì đại nhân và lệnh công tử tận lực bức bách thì sao đến nông nỗi này?

Mọi quan viên biết hôm nay Vương Quỳnh muốn thuyết phục Dương Lăng hồi kinh trừ gian, tuy cảm thấy suy nghĩ của lão hơi ngây thơ, nhưng thực cũng hy vọng lão có thể thành công. Nào ngờ vừa nhắc đến cái chết con mình, Vương Quỳnh lại liền không giữ được bình tĩnh như vậy.

Thượng thư bộ Công ngồi bên vừa đứng dậy định khuyên giải vài câu, Vương Quỳnh đã chậm rãi đứng lên, cười gằng nói:
- Lão phu vốn vẫn không tin, nay xem ra lời đồn trong kinh rằng Bát Hổ bị ngươi xúi giục quả nhiên không giả. Đương nhiên là ngươi không nỡ diệt trừ tai mắt của mình rồi!
Tuổi nhỏ ham chơi? Thiên tử là vua của một nước, sao có thể giống những kẻ tầm thường khác chứ? Ngươi dụ dỗ Hoàng thượng ham mê những bàng môn kỹ xảo, rõ là có dị tâm, nhằm mưu quyền loạn chính. Bề tôi gian nịnh như ngươi, chỉ cần ngày nào lão phu còn một hơi thở, thề sẽ khuyên bảo bá quan đồng loạt trừ khử tên gian nịnh nhà ngươi và đám Bát Hổ đó!

Nói đoạn Vương Quỳnh vung tay lên, một cái bạt tai rõ to giáng mạnh vào mặt Dương Lăng. Bạt tai này rất mạnh, mũ mão của Dương Lăng bị đánh văng đi, bàn tiệc lập tức trở nên hỗn loạn.

Khuyên giải, can ngăn, hả hê, nhất thời mọi thứ trở nên náo loạn. Đám phiên tử nãy giờ vẫn canh giữ chặt chẽ dưới lầu nghe tiếng huyên náo ở trên lật đật xông lên mới tách hai bên ra được. Đám Ngự sử Tưởng Khâm vội vã cáo lỗi rồi kéo Vương Quỳnh ra về.

Đám người Đới Tiễn và Tưởng Khâm đi theo kiệu quan Vương Quỳnh thẳng đến trước phủ của lão. Vương Quỳnh bước xuống kiệu, cơn giận trong người dường như vẫn chưa nguôi, trông thấy mấy vị hảo hữu đang lo lắng nhìn mình, lão không khỏi cười lớn trấn an:
- Các vị lão hữu không cần phải lo, cho dù Dương Lăng có tài giỏi thế nào đi nữa thì y có thể làm được gì lão phu chứ? Y dám giết lão phu sao?

Đới Tiễn cười gượng:
- Lão đại nhân nói rất đúng, nhớ năm xưa đại học sĩ Lý Đông Dương cầm roi ngựa vụt quất Thọ Ninh Hầu Trương Hạc Linh là hoàng thân đang rất được ân sủng ở ngay đầu phố kinh sư. Chỉ có điều... Ôi! Chúng tôi sớm biết khuyên bảo Dương Lăng hướng thiện chẳng khác nào bảo hổ lột da, làm nhọc đại nhân kết thêm thù mới với y. Với quyền lực của tên gian nịnh này, nếu y ôm hận trả thù, đại nhân thật sẽ khó lòng mà đề phòng đấy.

Vương Quỳnh cười ha hả:
- Lão phu tuổi đã quá thất tuần, tiền đồ và tính mạng đều đã ở cuối bờ, cớ chi phải tiếc đắc tội với một tên gian thần lộng quyền? Sợ nó làm gì! Nào nào nào, chúng ta vào phủ cùng nhau uống trà làm thơ!

Vương Quỳnh vừa kéo Đới Tiễn, Tưởng Khâm, vừa cười ha hả với Bạc Ngạn Huy, cất bước đi về phía cổng phủ. Bốn chiếc đèn đỏ chói treo dưới cạnh cổng chiếu sáng choang. Vừa mới ngước đầu, chợt Tưởng Khâm thấy có một vệt màu đen vụt lướt qua khoé mắt, mang theo tiếng gió rít sởn người; Vương Quỳnh đi bên cạnh lão đã đứng sững lại.

Tưởng Khâm ngoái đầu nhìn lại, lão thấy hai mắt Vương Quỳnh mở trừng trừng nhìn thẳng về phía trước, cơ mặt thoáng co rút, cặp mắt già nua đùng đục bị ánh đèn hắt vào, trong mắt lão như có hai ngọn lửa đang bùng cháy. Giữa cổ họng lão... giữa cổ họng lão đã bị một mũi tên đen sì, nhọn hoắc cắm vào.

Tưởng Khâm hơi kinh ngạc, rồi lập tức cùng Đới Tiễn đồng thanh la lớn:
- Vương đại nhân!... Vương đại nhân? Bắt thích khách, mau bắt thích khách!

Thị vệ hay tin chạy lập tức bạt đao xông về phía góc tường. Trong ngõ trống trơn, nơi đó chẳng có đến nửa bóng người.

***


Đám người Quan thủ bị trông thấy yến tiệc hôm nay đã trở nên nông nỗi này, ai nấy cũng cảm thấy mất sạch thể diện, trừ những kẻ quen biết hoặc muốn dựa dẫm vào Dương Lăng, phần lớn đều ngượng ngập cáo từ ra về.

Tuy rằng Dương Lăng tuổi trẻ bốc đồng, nhưng Vương Cảnh Long quả thật bị y bày kế giết chết. Trông thấy Vương Quỳnh râu tóc bạc phơ, tuổi quá thất tuần, mặc dù bị lão tát đến chảy máu môi nhưng y lại không hề có ý nghĩ muốn trả thù; tuy vậy y cũng không còn mặt mũi nào mà ở lại nơi này nữa. Thấy Quan thủ bị và mấy quan viên bu lại khuyên giải, Dương Lăng bèn gượng cười đối đáp bọn họ vài câu rồi vội vã xuống lầu đánh kiệu về phủ.

Ngô Kiệt, Thành Khởi Vận và Liễu Bưu vẫn đang chờ trong sảnh đợi tin tức của y, trông thấy đại nhân vác một bên má sưng vù trở về thì sợ giật nảy cả mình. Cao Văn Tâm đang chờ trong hậu sảnh nghe tin cũng vội chạy ra. Thời này không có đá cục chườm lạnh để mau tan vết sưng bầm, Cao Văn Tâm bèn dùng khăn nóng đắp lên mặt, nhẹ nhàng hóa giải vết bầm. Trông thấy nàng đau lòng như vậy, nếu bên cạnh không có đám người Ngô Kiệt đang đứng chờ e rằng Vương Quỳnh đã bị y chửi mắng té tát rồi.

Đường đường tổng đốc Nội xưởng mà bị người ta tát ngay trước mặt đám đông, chỉ sợ ngày mai chuyện này sẽ lan truyền khắp Giang Nam, biến thành trò cười cho cả thiên hạ. Chuyện mất hết mặt mũi như vậy, sao hai nhân vật chóp bu của Nội xưởng là Ngô Kiệt và Liễu Bưu không phẫn nộ cho được?

Dương Lăng kể lại chuyện vừa xảy ra xong, thấy bọn họ giận đến tím mặt, y đang định an ủi vài câu thì lại thấy Thành Khởi Vận đang khom lưng nhìn mình, trong mắt thoáng vẻ khôi hài, vừa thấy y chuyển ánh mắt sang, nàng mới thoạt dời mắt đi. Nhưng bờ môi cong cong vênh vểnh chưa kịp thu về vẫn đã để lộ ý định ban đầu của nàng.

Dương Lăng thấy vậy không khỏi trừng mắt nhìn nàng. Thành Khởi Vận hé miệng cười nói:
- Chỉ mong cái tát này có thể khiến cho đại nhân tỉnh ngộ. Nếu như ai cũng có thể dùng đạo lý để giải thích cho thông suốt thành kiến của con người, thì trên đời này đã bớt được biết bao chuyện thị phi rồi. Tự cổ chí kim, những bề tôi danh tiếng muốn có thành tựu cao ai mà không hết lòng đàn áp đối thủ của mình? Lẽ nào bọn họ không muốn được mọi người tin tưởng phục tùng, vạn dân yêu mến ủng hộ rồi mới đi thực hiện sách lược của bọn họ à? Không phải là họ không mong muốn như vậy, mà thật sự không thể thực hiện được thôi.
Còn nếu muốn dùng lý phục người, lấy đức phục người thì cứ ngoan ngoãn ở nhà mà đọc sách đi. Không xắn tay vào làm thì có nói mấy trăm năm cũng vẫn có người không hiểu như thường. Thay vì như vậy, khi nắm quyền lực trong tay thì cứ ra sức thực thi, chỉ cần đại nhân thật sự làm việc có hiệu quả, lúc đó người không tin phục cũng sẽ dần tin tưởng và nghe theo, kẻ vẫn không phục cũng sẽ không thể không thuận theo xu thế, vậy là đủ rồi.
Giờ đây cùng lắm chỉ là một cái tát, có diệu thủ của Cao cô nương, một hai ngày rồi cũng sẽ hết. Nếu đó là một đao kề cổ thì đại nhân sẽ làm thế nào? Ba kế sách của ty chức, vẫn mong đại nhân suy nghĩ kỹ.

Dương Lăng cười khổ một tiếng, thầm nghĩ: "Mình là ai? Trong triều không có căn cơ, ngoại thần thì coi mình như dị loại, nội đình hục hặc với nhau, bên trên còn có Hoàng đế, mình có thể mặc sức làm càn sao? Muốn kiến tạo đặc khu mà dùng thực tiễn để nói chuyện à? Căn bản không có cái thuyết địa lí chính trị (8) đấy đâu. Muốn dùng thượng sách của cô, trừ khi tôi nắm hết quyền lực trong tay, thanh tẩy lại toàn bộ thế lực triều đình. Làm như vậy sẽ gây ra biến động lớn tới cỡ nào?"

Dương Lăng còn chưa trả lời, ngoài cửa một tên "mũ đỏ" lại hối hả chạy vào bẩm:
- Xưởng đốc đại nhân, có Quan đại nhân thủ bị Kim Lăng cầu kiến!

Nghe báo, Dương Lăng ngẩn cả người. Quan Kiến Công mới vừa rồi còn dự tiệc cùng mình nay sao đột nhiên lại chạy đến làm gì?

Dương Lăng đưa mắt ra hiệu cho Ngô Kiệt và Thành Khởi Vận, hai người hiểu ý lánh ra sau bức bình phong. Chỉ sau khoảnh khắc, phiên tử đã đưa Quan thủ bị vội vã chạy vào. Khi nãy trên bàn tiệc vị tướng quân này còn bận thường phục bằng tơ lụa, thế mà loáng cái lại đã khôi giáp chỉnh tề.

Dương Lăng thấy vậy, biết đã xảy ra chuyện lớn liền vội nghênh đón:
- Quan đại nhân, đại nhân là...?

Quan thủ bị lật đật hành lễ, rồi báo:
- Ty chức đang dẫn doanh thủ bị, Ngũ thành binh mã ty và Tuần kiểm ty lục soát toàn thành. Tiện đi qua quý phủ cho nên tự thân đến thông báo một tiếng, rất mong đại nhân ước thúc thủ hạ, hôm nay chớ nên ra đường.

Dương Lăng cả kinh hỏi:
- Lục soát toàn thành? Đã xảy ra chuyện gì?

Quan thủ bị nhìn y thật sâu, đoạn khẽ giọng:
- Vương đại nhân, Lễ Bộ thượng thư Vương Quỳnh, khi nãy trong lúc hồi phủ đã gặp phải thích khách.

- Cái gì?
Dương Lăng ngỡ ngàng, mãi một lúc sau mới hỏi:
- Vương thượng thư... Ông ta hiện ra sao rồi?

Quan thủ bị cụp mắt khẽ thở dài một hơi, đáp:
- Một mũi tên xuyên họng! Vương đại nhân... ông ấy đã chết rồi.

Quan thủ bị còn căn dặn thêm vài điều gì đó nhưng Dương Lăng đã hoàn toàn không nghe thấy gì nữa. Song cái liếc mắt đầy thâm ý của lão trước lúc rời khỏi lại giống như một mũi kim đâm vào tim y. Vương Quỳnh đã chết, mà lại là ngay sau khi vị khâm sai đại nhân có thù cũ hận mới này đến Kim Lăng, mới vừa phát sinh xung đột với lão xong thì lão chết!

Ngô Kiệt và Thành Khởi Vận đã bước ra khỏi bình phong, đứng hai bên nhìn y. Ngây người một hồi lâu, Dương Lăng mới lạnh lùng bảo:
- Trịnh bách hộ đâu, gọi hắn đến gặp ta!

Trịnh bách hộ bước vào đại sảnh, mù mờ hỏi:
- Đại nhân, đại nhân có gì căn dặn?

Dương Lăng lao qua túm áo gã, tím mặt gặng hỏi:
- Chính ngươi phái người giết Vương Quỳnh phải không?

Trịnh bách hộ hộ tống y đến lầu Đạm Yên. Nếu Vương Quỳnh đã chết, có đến tám chín phần là đám binh sĩ này thấy y chịu nhục, muốn trút giận cho y mà đã ám sát Vương Quỳnh. Đúng là quá vô pháp vô thiên rồi.

Trịnh bách hộ hoảng đến giật thót mình, run sợ kêu:
- Vương Quỳnh chết rồi? Sao lại thế được? Không phải vừa rồi ông ta còn... còn... Đại nhân, ty chức luôn theo cạnh đại nhân, không có mệnh lệnh của đại nhân làm sao ty chức dám ám sát đại thần trong triều? Tổng cộng mười người chúng tôi cùng theo đại nhân trở về, không thiếu một người. Chắc chắn Vương Quỳnh không phải do người của chúng ta giết!

Dương Lăng buông tay ra, ngơ ngơ ngẩn ngẩn:
- Là ai? Là ai muốn giết Vương Quỳnh?

Thành Khởi Vận chưa từng thấy vẻ mặt này của y. Tuy biết y vốn nóng tính nhưng bình thường nàng còn dám đùa cợt một tí với y, còn lúc này thấy y giận dữ đến thế nàng cũng cảm thấy rét trong lòng. Chần chờ một chốc, rồi nàng mới khẽ nhắc nhở:
- Đại nhân! Ai muốn giết Vương Quỳnh thì tự có nha môn Kim Lăng điều tra, chuyện này không liên quan đến chúng ta. Vương Quỳnh đã chết, tin tức sẽ mau chóng đưa về kinh sư, chúng ta phải làm thế nào? Lúc này đại nhân không thể không nhanh chóng quyết định được đâu!

Dương Lăng chấn động trong lòng. Không sai, một khi Vương Quỳnh chết đi, hết thảy quan viên vẫn đang đứng ngoài quan sát đều sẽ cùng chung kẻ thù địch là y. Lúc này cho dù mình có tài của Tô Tần (9) ba hoa xích thố đến như thế nào, cho dù nói cho Giang Hà* chảy ngược cũng sẽ không có mấy ai chịu tin. Bây giờ tất cả mọi đường lui đều đã bị chặn kín, trừ một ngọn núi đao đó ra, mình đã không còn con đường nào khác để đi.
(*Trường Giang và Hoàng Hà, chỉ sông lớn)

Chống lại Đông xưởng và Cẩm Y Vệ thì thế nào? Chống lại toàn bộ văn võ triều đình thì đã sao? Bây giờ mình còn đường lui ư? Mình phải ứng chiến! Không thể không chiến!

Thần sắc Dương Lăng dần dần trở nên bình tĩnh. Y quay đầu lại, đôi mắt dưới ánh sáng của ngọn nến trông như hai đóm ma trơi âm u. Y cất giọng lạnh lẽo sai bảo:
- Trịnh bách hộ! Căn dặn thuộc hạ: đêm nay toàn bộ huynh đệ không được phép rời khỏi cổng phủ một bước, chuẩn bị thật tốt để ly khai bất cứ lúc nào.
Ngô lão, Thành nhị đáng đầu, Liễu thiên hộ! Theo ta vào thư phòng!





Chú thích:

(1) các sênh ngày xưa được làm bằng quả bầu, khoét 13 lỗ, trong có máng đồng, thổi thành tiếng. Sênh ca là loại nhạc cụ này.

(2) kỹ nữ phục vụ quan chức.

(3) đĩ đực

(4) Câu này có xuất xứ trong Luận Ngữ, chương Vệ linh Công, nguyên văn như sau: "Tử viết: Đạo bất đồng bất tương vi mưu" (子曰:‘道不同,不相为谋’ ), ý nói người không cùng chí hướng, tư tưởng và nghề nghiệp thì không thể cùng đàm đạo hay mưu nghiệp được.

(5) xem chú thích về "Hạng Trang múa kiếm, ý tại Bái Công" ở chương trước.

(6) Thói “đại bá” của người Hoa: nguyên văn "Tứ di", biếm chỉ "nam Man tây Nhung đông Di và bắc Địch", bốn nước cạnh Trung Quốc; sau chỉ chung các nước lân bang.

(7) Lục khoa chỉ sáu khoa Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công. Thập Tam đạo thuộc Giám Sát viện.

(8) Thuyết Địa lí Chính trị là học thuyết chính trị xuyên tạc các tư liệu của khoa học địa lí để luận chứng cho chính sách đối ngoại của chủ nghĩa đế quốc nhằm bành trướng và thống trị thế giới. Ở thế kỉ 17, có tư tưởng cho rằng đời sống xã hội được quyết định bởi môi trường địa lí [Môngtexkiơ (C. de Montesquieu), Tuyêcgô (A. R. J. Turgot)]. Tư tưởng ấy phần nào có tác dụng tiến bộ vì chống lại quan niệm tôn giáo cho rằng Thượng đế quyết định tất cả. Nhưng từ giữa thế kỉ 19, thuyết địa lí đã thoái hoá thành TĐLCT. Những đại biểu chính của thuyết này trong thế kỉ 20 là Haoxhôfơ (K. Haushofer) ở Đức, Mackinđơ (H. J. Mackinder) ở Anh, Xpychmen (Spykman) ở Hoa Kì. Kết hợp với chủ nghĩa chủng tộc, TĐLCT làm cơ sở tư tưởng cho chủ nghĩa phát xít đòi "không gian sinh tồn cho dân tộc Đức" ở Châu Âu, đòi thiết lập "khu vực thịnh vượng chung" lấy đế quốc Nhật làm trung tâm ở Châu Á.

(9) Tô Tần cùng với Trương Nghi là hai nhà thuyết khách nổi tiếng thời Chiến Quốc, tương truyền cả hai đều là học trò của Quỷ Cốc tử, là đông môn của Tôn Tẫn, Bàng Quyên.
Tô Tần đưa ra thuyết hợp tung để chống Tần, còn Trương Nghi đưa ra thuyết liên hoành để phá thế hợp tung, đặt cơ sở cho nhà Tần thống nhất Trung quốc.

Chương 146 - Nếu muốn tương tư chớ giết người

Không ngờ vị Xưởng đốc đại nhân xưa nay luôn do dự thiếu quyết đoán này đến lúc phải cương quyết lại hạ quyết tâm tàn nhẫn như vậy, xem ra khó tránh một hồi gió tanh mưa máu rồi. Thân là đại đương gia Nội xưởng, ngoài việc cùng tiến với Dương Lăng lão cũng không còn đường lui. Nếu đã bị người ta ép đến mức kẻ sống người chết, vậy thì... ngươi chết, ta sống đi!

Ngô Kiệt cung kính chắp tay nói:
- Dạ! Ty chức tuân mệnh, đêm nay Ngũ thành binh mã ty khoá thành truy bắt hung thủ, tuy ta có thể rời khỏi nhưng sẽ thu hút tai mắt kẻ khác. Kim Lăng là thành buôn đông đúc, lão ta sẽ không giam hãm được quá lâu đâu. Sáng sớm ngày mai, ty chức sẽ nghĩ cách rời khỏi, lập tức chạy về kinh chuẩn bị.

Dương Lăng gật đầu, díp mắt trầm tư và nói:
- Hoàng thượng tuổi trẻ bốc đồng, muốn thuyết phục người tịnh không khó. Những quan viên đó không dám điều binh, có thể dùng được bất quá chỉ có xưởng vệ. Muốn đối phó bọn chúng...

Dương Lăng cười tự tin, nói:
- Lấy cố tình đánh vô ý, lấy có phòng bị đánh không phòng bị, muốn dập bọn họ sẽ dễ như trở bàn tay. Chỉ cần Hoàng thượng gật đầu thì sẽ không bị chỉ trích là phản loạn. Ta không sợ làm lớn chuyện, nếu phải nói khó, chính là khó ở chỗ không thể để cho thiên hạ hỗn loạn. Nếu sau thủ đoạn lôi đình mà không thể làm cho mưa tan gió dịu, mau chóng ổn định thế cuộc thì sự phản công của bọn chúng sẽ đủ biến chúng ta từ kẻ thắng lợi trở thành tù nhân.

Thành Khởi Vận nghe xong kế hoạch của y, hai má không khỏi đỏ lên, như thể tranh chấp quyền lực và giết chóc khiến nàng nghe cảm thấy hưng phấn vô cùng.

Nàng nhìn Dương Lăng cười nói:
- Đại nhân, nói đến lòng người, đại nhân không hiểu thấu bằng ty chức. Ty chức vốn lo lắng rằng tiêu diệt mấy vạn nhân mã xưởng vệ sẽ muôn phần gian khó, nếu như để cho bọn họ đắc thủ trước, (khi ấy) hoàng thượng một cây khó chống, sẽ không vì mấy người chết mà đắc tội thêm với toàn bộ văn võ triều đình. Nếu như đại nhân đã có thủ đoạn đối phó với xưởng vệ, vậy trong triều đình lại không cần phải lo.

Đôi mắt đen lay láy của Thành Khởi Vận lộ ra một tia mỉa mai, nàng nói:
- Đám đại nhân đó không có cha mẹ vợ con à? Không mong thăng quan tiến chức sao? Muốn bọn họ cầm bút trợ oai, ai nấy đều là trung thần, nếu thật sự muốn bọn họ quên mình vì nghĩa, vậy thì ít lắm, ít lắm. Tự cổ thắng làm vua thua làm giặc, đừng thấy lúc này đây số người dâng sớ động tí là một trăm, hai trăm người. Hừ! Sau khi sự việc thành công rồi, cho dù đại nhân bãi miễn cả ba đại học sĩ, số kẻ chịu dâng sớ bảo vệ bọn họ quyết sẽ không quá ba mươi người. Ty chức dám lấy đầu ra đảm bảo.

Thành Khởi Vận không hài lòng, nói tiếp:
- Phú quý phải mưu cầu trong nguy hiểm. Chúng ta có bảy phần thắng, còn hối hận gì chứ? Thật ra việc này có thành công hay không, mấu chốt nằm ở hai điểm: thứ nhất là Hoàng thượng, và thứ nhì là xưởng vệ. Cho dù một mình đại nhân thuyết phục không được Hoàng đế, có Bát Hổ trợ giúp, hoàng thượng cũng không thể không gật đầu, không phải đại nhân nói hoàng thượng tín nhiệm nhất là chín người đại nhân sao? Có hoàng thượng cho phép rồi, chúng ta sẽ liều sức với xưởng vệ. Biện pháp vừa rồi của đại nhân, ty chức đã suy tính kỹ rồi, chỉ cần không để lộ ra sơ hở gì, trong một đêm sẽ tóm gọn Đông xưởng và Cẩm Y vệ, vậy thì đại sự sẽ định thôi.

Nàng khẽ mỉm cười, thở dài một tiếng nói:
- Lúc ấy đại nhân còn lo lắng gì nữa? Bá quan trong triều ư? Vũ khí của bọn họ chính là một cái miệng, một cây bút. Bây giờ ty chức xem như đã hiểu rõ cái gì gọi là "tú tài tạo phản, ba năm không thành" rồi.

Dương Lăng khoan thai nhìn nàng. Hiện tại y đã không còn là một dịch thừa nho nhỏ ở Kê Minh nữa, khi y trèo lên đến đỉnh cao của quyền lực, tự nhiên chung quanh y sẽ hình thành nên một lực lượng khá vững mạnh, một đám người để y sai bảo. Dựa theo quyền lực và ảnh hưởng của y, loại lực lượng này tất nhiên sẽ không ngừng khuếch đại.

Y lo lắng chính là quan viên trong triều. Bọn họ đã hình thành một đoàn thể quyền lợi, cũng giống như Ngô Kiệt, Vũ Vĩnh và mình vậy. Cho dù hai người này không theo mình cũng vị tất đã được đối phương tiếp nhận, nên cả hai chỉ có thể một lòng theo mình làm mà thôi.

Cũng như vậy, nếu như Tam Công, Lục Bộ, Cửu Khanh và toàn bộ văn võ cả triều đều đồng lòng, nếu đồng loạt gạt bỏ đi hết thảy vậy thì triều chính sẽ do ai quản lý đây? Với quan hệ và uy danh trong triều của ba đại học sĩ, nếu bọn họ kiên trì phản đối chính mình thì liệu sẽ chỉ có hai ba mươi người theo bọn họ đến cùng sao? Lời ấy của Thành Khởi Vận y thật sự không dám tin.

Thành Khởi Vận thấy y vẫn lo lắng về triều đình, bèn lên tiếng:
- Một năm trước đại nhân vẫn còn là một tú tài ở Kê Minh, nói đại nhân có tài thống lĩnh Nội Xưởng, phò tá đế vương, đại nhân có tin không? Muốn đảm nhiệm thái giám trấn thủ Giang Nam thì phải có thủ đoạn, có năng lực. Đại nhân điều hai người vốn là thái giám trấn thủ địa phương nhỏ đến nỗi ngồi ở đằng đông huyện có thể thấy rõ đằng tây huyện, không phải hai người này vẫn quản lý đâu ra đấy, không kém gì bọn Viên Hùng đó ư? Không phải không có người tài, mà là không cho hắn cơ hội thì ai biết hắn có tài cán gì?

Yến Vương Tĩnh Nan có được thiên hạ, vẻn vẹn chỉ dùng một trợ tá của vương phủ mà thay thế toàn bộ bá quan văn võ cả triều mà Hồng Vũ đại đế để lại cho Kiến Văn đế, vậy thì bọn họ không thể trị được thiên hạ sao? Đại nhân thật sự tin rằng không có ba đại học sĩ thì trời sẽ sập sao? Thời kỳ phi thường thì giở thủ đoạn phi thường, nếu như đại nhân cứ nhìn trước ngó sau, mang dạ đàn bà thì chi bằng lập tức hồi kinh, từ quan hồi hương vậy. Tin rằng số quan viên muốn đuổi tận giết tuyệt đại nhân sẽ không quá ba mươi người, ty chức cũng lấy đầu ra đảm bảo điều này.

Đúng vậy! Lời nói của Thành Khởi Vận khiến cho y sáng tỏ, cho dù người phản đối nhiều hơn con số mà cô ta nói, thì tình thế cũng không hẳn sẽ quá nghiêm trọng. Đã bao giờ thấy trên chính quyền trung ương thay đổi quyền lực, thì thị trưởng, huyện trưởng cũng "sục sôi chính nghĩa" mà từ chức hoặc tạo phản theo? Yến Vương Tĩnh Nan đoạt được giang sơn, những kẻ đọc sách đó có thể dày mặt mà tiếp tục làm quan địa phương cho ông ta, vậy mình tiêu diệt Đông xưởng, bãi miễn mấy triều thần lại không phải là ngoại tộc vào nắm quyề, thì có thể có bao nhiêu người chịu đứng ra phản đối?

Dương Lăng nghe xong cảm thấy sảng khoái, không khỏi cất tiếng cười to, cười xong y chỉnh đốn lại y phục rồi nói:
- Được! Đã như vậy, tiền đồ của Nội xưởng và tính mạng của Dương Lăng sẽ giao cho các vị vậy! Ngô lão, Thành đáng đầu y kế hành sự. Sáng sớm ngày mai Liễu thiên hộ giúp bản quan liên lạc với Thiệu trấn phủ, trước khi đi bản quan muốn gặp y một lần, bây giờ các người đi nghỉ đi.

Đưa mắt tiễn ba người lần lượt rời khỏi phòng, Dương Lăng lập tức thu lại nụ cười trên mặt, lặng lẽ đứng yên thật lâu, sau đó mới phất tay tắt nến trên bàn rồi chậm rãi đi đến phòng mình.

Cao Văn Tâm đang ngồi trên đầu giường chờ y. Nàng cũng nhìn ra tình hình không thích hợp, trông thấy Dương Lăng vác bầu tâm sự đi vào liền rụt rè đi tới giúp y cởi quan phục hệt như một cô vợ hiền dịu.

Châm cứu, xoa bóp, Cao Văn Tâm làm càng nhẹ nhàng, càng quan tâm hơn trước song thuỷ chung không dám mở lời. Mãi đến khi nàng mệt đến hơi thở càng lúc càng nặng, Dương Lăng mới chợt xoay người lại, nắm lấy cổ tay nàng. Cao Văn Tâm khẽ kêu "a" lên một tiếng rồi ngã người ngồi lên đầu giường.

Nàng không biết Dương Lăng có dụng ý gì không khỏi vừa thẹn vừa sợ, trống ngực bỗng đập liên hồi. Dương Lăng trở mình ngồi dậy, lại trầm ngâm một lát, rồi mới áy náy nói:
- Văn Tâm, tôi biết một thân y thuật của cô từ trước đến nay đều là trị bệnh cứu người. Thật đã làm khó một người con gái như cô vì tôi mà lại phá lệ.

Cao Văn Tâm không biết y nhắc đến chuyện này để làm gì, không khỏi lắp bắp nói:
- Lão gia, người... sao người lại nói vậy? Tiểu tỳ làm vậy là vì cứu lão gia...- Nói đến đây, nàng chợt nhớ lại lần đầu hai người chạm mặt cũng là ở trên giường, khi đó mình chỉ mặc áo lót váy lót, tấm thân ấy cũng bị y thấy cả liền không khỏi đỏ mặt lên.

Ngừng một chút, nàng mới cúi đầu, thấp giọng nói:
- Tiểu tỳ không biết những đạo lý to lớn ấy, và cũng không muốn biết. Tiểu tỳ chỉ biết, lão gia là... là người quan trọng nhất trong lòng tiểu tỳ, vì lão gia... cho dù phải lên núi đao, xuống biển lửa, cho dù sau khi chết đi có bị đày xuống mười tám tầng địa ngục thì tiểu tỳ cũng cam tâm tình nguyện.

Dương Lăng nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng, người Cao Văn Tâm thoáng run rẩy, đôi mắt long lanh ngước lên nhìn y với vô vàn tình ý. Dương Lăng khẽ nói:
- Tôi biết, cô là người mà tôi tin tưởng nhất, cho nên... tôi muốn giao cho cô làm một việc.

Ánh mắt y loé lên, đoạn nói tiếp:
- Sau khi tôi rời kinh, đã có người ở trong kinh bày kế hiểm hòng đối phó với tôi. Lẽ ra... vẫn có một bộ phận văn võ bá quan trong kinh là nghiêng về phía tôi, cho nên tôi vốn định nhân nhượng để khỏi phiền. Nhưng mà Vương Quỳnh vừa chết đi, tôi có biện bạch cũng không thể biện bạch, có tránh cũng không thể né được, đã không thể hòa bình với bọn họ nữa.

Tim Cao Văn Tâm thoáng run rẩy mãnh liệt, đôi mắt có phần mờ mịt: "Lão gia muốn mình đi hạ độc giết người sao? Trời ơi... nhiều người như vậy... Nhưng mà... Bọn họ thì có liên quan gì đến mình chứ? Lúc cha mình bị chém đầu đã có ai đứng ra cứu giúp không? Lúc mình bị tống vào ty Giáo phường có ai giúp đỡ mình không? Lão gia muốn giết người, nhất định là do bất đắc dĩ, người bị người ta bức đến đường cùng mà thôi."

Cao Văn Tâm cắn răng, nén lệ gật đầu dứt khoát, rồi ưỡn ngực nói:
- Lão gia, người cứ yên tâm, vô luận người sai tiểu tỳ đi làm gì, cho dù người muốn tiểu tỳ đi giết Hoàng đế thì tiểu tỳ cũng sẽ không hề do dự. Nếu trốn không thoát... thì tiểu tỳ sẽ nuốt độc tự sát, tuyệt không liên luỵ đại nhân.

Dương Lăng ngẩn người, nhìn nàng hồi lâu rồi chợt ôm lấy chiếc eo mượt mà nhỏ nhắn kéo nàng vào lòng. Cao Văn Tâm cảm nhận được tâm ý của Dương Lăng, y ôm nàng thật chặt, không giống như lần đầu ôm nàng trong bụi liễu ở Thái Hồ lần trước.

Trong lòng Cao Văn Tâm cảm thấy rất ngọt ngào, nàng mơ màng nghĩ: "Vì người mình yêu, cho dù xương tan thịt nát thì có là gì? Có điều... có lẽ mình sẽ không được ôm chàng nữa. Thật muốn để chàng ôm mình, thật muốn gọi chàng một tiếng tướng công. Đáng tiếc..."

Lòng nàng dậy sóng rồi cũng vòng tay ôm chặt lấy Dương Lăng. Thật lâu sau Dương Lăng mới đè nén tâm tình, kề tai nàng nói:
- Chuyện này giao cho người khác chỉ sợ sẽ chùn lòng, huynh chỉ có thể để muội đi làm. Bắt đầu từ ngày mai, muội sẽ giúp huynh để ý tới Tiểu Lâu. Muội chỉ là một nữ tử yếu đuối, sẽ không khiến cô ta hoài nghi. Nếu cô ta có dị động gì thì với châm pháp của muội, muốn giết cô ta thật dễ như trở bàn tay.

- Gì cơ? - Cao Văn Tâm kinh hãi rời khỏi lòng y "người muốn giết không ngờ lại là... cô ta?" Cao Văn Tâm kinh ngạc nói:
- Lão gia, người... lúc nãy người... muốn giết là ả sao?

Dương Lăng gật nhẹ đầu, nói:
- Không phải là nhất định phải giết, chỉ là muốn muội theo cạnh cô ta, chú ý đến mọi hành động của cô ta. Ngày mai, cô ta sẽ giúp huynh làm một chuyện lớn nhưng cô ta mới vừa gia nhập Nội xưởng, vốn lại từng cùng một giuộc với Mạc Thanh Hà, huynh thật không biết cô ta có mấy phần thành ý và thực lòng. Chỉ cần cô ta hơi khởi dị tâm thì đại sự của huynh sẽ hỏng. Giao chuyện này cho người của Nội xưởng làm sẽ không tránh khỏi khiến thuộc hạ chùn lòng. Huống hồ... cô ta thật sự là một mỹ nhân, nếu có lòng dụ dỗ, đám đàn ông đó... có thể vì sắc mà phản bội không thì có trời mới biết, vì vậy đành phải phiền muội vậy.

Cao Văn Tâm mừng rỡ khôn nguôi: "Chàng... giao chuyện này cho người ngoài, sợ sẽ làm chùn lòng thuộc hạ, mà không sợ chùn lòng thị nữ như mình ư? Trong lòng chàng đã coi mình là người gì rồi?"

Cao Văn Tâm vừa mừng vừa thẹn liếc y một cái, rồi khẽ gật đầu.

Lúc này Dương Lăng mới nói:
- Vương Quỳnh vừa chết, lúc này vội vã ly khai cố nhiên sẽ khiến người hoài nghi. Nhưng nếu chúng ta không đi thì điều nhơ danh này huynh cũng sẽ không thể nào rửa sạch. Sáng sớm mai, huynh sẽ bí mật đi gặp Thiệu trấn phủ sứ trước, sau đó lập tức lên đường hồi kinh. Kế hoạch của huynh là...

***


Khâm sai sắp hồi kinh rồi!

Thậm chí vẻ mặt của Phùng công công và Quan thủ bị chạy đến tiễn y đi cũng mang vẻ lạ thường. Nhưng Dương Lăng không có thời gian để quản, y vẫn giữ vẻ thản nhiên. Không phải là vì những lời an ủi vô nghĩa kiểu "thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc" (1) mà bởi vì y biết, tin tức Vương Quỳnh bị ám sát nhất định sẽ được sớm truyền đến kinh thành, đám quan văn đó không làm ầm lên mới lạ.

Y vốn đã không có ấn tượng tốt trong lòng bọn họ. Sau khi đảm nhiệm chức Xưởng đốc, vừa mới ra khỏi kinh sư liền đã tịch biên gia sản của Mạc Thanh Hà, tiêu diệt năm ngàn nhân mã của Viên Hùng, người như vậy sẽ tạo cho người ta một ấn tượng gì? Dù rằng chuyện này được khen nhiều hơn chê nhưng hình tượng Dương Lăng dám nghĩ dám làm, ra tay tàn nhẫn đồng thời cũng đi sâu vào lòng người, lại cộng thêm thù cũ hận mới với Vương Quỳnh, đám người đó không làm ầm lên mới lạ.

Cho nên y nhất định phải chạy đua với thời gian, chạy về kinh với tốc độ nhanh nhất. Bằng không chỉ sợ y vừa về đến kinh thành, còn chưa kịp làm gì thì thánh chỉ đã đến rồi.

Song người ngoài nhìn vào thì lại thấy dường như Dương Lăng có chỗ dựa cho nên không sợ gì, hoặc do ngu xuẩn nên không nghĩ đến ảnh hưởng của việc này đối với y. Sau khi cùng Phùng công công và Quan thủ bị nói lời tạm biệt, y ung dung trở về thuyền quan, hai chiếc thuyền lớn khoan thai hướng về phương bắc...

***


Quán rượu Trường Đình.

Vừa đến ngọ liền đã có khách nhân đến quán uống trà bàn tán về chuyện thượng thư Vương Quỳnh của bộ Lễ bị người ta hành thích. Hiển nhiên, thứ mà những bá tánh bình dân này quan tâm đến hơn cả chính là sự ly kỳ và giật gân của việc quan to triều đình bị giết, ngay cả mấy kẻ đọc sách tuy cố ý tỏ ra vẻ thở than tiếc nuối, trên mặt cũng lờ mờ lộ ra sự hưng phấn trong lúc kể truyện truyền kỳ tự bịa này

Rõ ràng trong mắt bọn họ, danh sĩ và trung thần còn không được người ta yêu mến bằng một huyện lệnh tốt, thanh liêm có thể mang đến ý nghĩa thực tế cho quê nhà và cuộc sống của bọn họ. Thật ra việc này cũng không có gì là lạ, sự hiểu biết của dân chúng về triều đình chẳng qua là dựa vào những lời truyền miệng, mà truyền miệng đương nhiên cũng là về những giai thoại thú vị, chứ một kẻ chỉ rập theo khuôn phép của học phái Đạo Lão như Vương thương thư thì được bao nhiêu người dân đen quen tiếng biết tên?

Dưới ngòi bút của sử quan, cảnh đời của những vị thanh quan chết oan được vạn dân than khóc ấy đại để không khác mấy so với những tác phẩm tuyên truyền về hoa sen(*), đơn giản chỉ là sự ảo tưởng. Trừ phi vị thanh quan đó thật sự lăn lộn khắp đầu đường xó chợ, từng trải qua nhiều sự việc thực tế.
(*) ý nói tô vẽ mọi thứ toàn một màu hồng, che đi các việc không tốt .

Con dao trong tay Mã Liên Nhi gọt chậm lại, nàng lắng tai nghe lời trò chuyện của mọi người, khẽ nhíu mày.

Ngũ thành binh mã ty khống chế tin tức rất chặt chẽ, quan viên các bộ ở Nam Kinh cũng không phải là ngốc, không ai rêu rao chuyện xảy ra ở bữa tiệc đêm qua ra ngoài để khiến cho phố phường mò đoán lung tung. Thành thử ngoại trừ huyên thuyên nào là tên thích khách nọ tiễn pháp như thần ra sao, lấy một địch trăm, thoát khỏi tay của Ngũ thành binh mã ty như thế nào như thể bọn họ đã tận mắt chứng kiến, thì đám sĩ tử văn nhân này không hề kể ra được thứ gì có giá trị cả.

Nhưng Mã Liên Nhi nghĩ đến hận cũ giữa Vương Quỳnh và Dương Lăng, trong lòng không khỏi thầm nhủ: "Mặc kệ Vương Quỳnh chết vì cái gì, e rằng những quan viên thích bắt gió bắt bóng trong kinh đó sẽ lại ào ạt viết sớ làm khó Dương đại ca thôi."

Nàng mím môi, cuối cùng đưa ra quyết định. Nàng bỏ dao xuống, kéo tạp dề lên lau tay, rồi gọi lớn:
- Đại bá, con ra ngoài một chút, đại bá kêu người trông quầy nhé.

Bên trong đáp lại một tiếng. Mã Liên Nhi đang định đi, thì thấy trước cửa xuất hiện một người đàn ông mặc quần áo chẽn. Người thời đó đều mặc áo dài, áo đuôi ngắn và quần dài. Đa số những người mặc áo cộc tay đều là những người buôn bán nhỏ như bán dạo hoặc buôn ngựa.

Liên Nhi vốn không để ý, không ngờ sau khi người đó vào quán, nhìn quanh mấy lượt, thì lại đi thẳng đến chỗ nàng, lúc đến gần gã nhỏ giọng nói mấy câu:
- Mã cô nương, Dương đại nhân muốn gặp cô trong rừng thông.

Mã Liên Nhi thoáng ngẩn ra, nhìn hán tử đó, song lại không nhận ra gã. Người nọ mỉm cười nói: "Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ", nói đoạn đưa mắt nhìn quanh vài lượt, rồi như thể quán rượu này cao cấp quá, không nỡ bỏ tiền dùng bữa, bèn ngượng ngập lui ra.

Mã Liên Nhi thầm lấy làm lạ: "Sao Dương đại ca lại mờ mờ ám ám như vậy, lúc này không tiện đến gặp mình sao? Trong rừng thông... trong rừng..." Mặt nàng hơi nóng lên, đoạn chùi sạch tay, cởi chiếc tạp dề xanh rồi lặng lẽ lách ra khỏi quán rượu.

Vờ dạo lung tung một hồi, thấy không có ai chú ý, Mã Liên Nhi bèn bước nhanh hơn, rảo nhanh đến mé tây Trường Đình. Đi đến bên một bụi thông thấp lùn, nàng thấy hơn mười người bán dạo vóc người vạm vỡ trong trang phục kỵ mã đang ngồi trên cỏ, cạnh bên là mười mấy thớt ngựa được buộc dưới gốc cây đang khoan thai gặm cỏ. Mã Liên Nhi thoáng lưỡng lự. Tuy rằng người đó đã nói ra bí mật mà chỉ có nàng và Dương Lăng mới biết song đột nhiên gặp gỡ một người con trai tại một nơi bí ẩn thì sao mà không sợ?

Lúc này trong rừng chợt có người cất tiếng gọi:
- Liên Nhi, lại đây!

Giọng nói này rất quen thuộc với nàng, Mã Liên Nhi mừng rỡ ngẩng đầu trông thấy Dương Lăng đang đứng trong rừng gọi nàng, tức thời mừng rỡ khôn nguôi, nàng vội chạy vào trong rừng, nhìn thấy Dương Lăng vận áo chẽn thô sơ thì không khỏi cười trìu mến nói:
- Huynh... sao lại ăn mặc như vậy?

Đầu nàng chợt loé linh quang, sực tỉnh:
- Huynh... sắp hồi kinh ư?

Dương Lăng im lặng gật nhẹ đầu, nói:
- Lần trước ra đi, huynh không nói cho muội biết. Lần này, bất luận thế nào huynh cũng phải gặp muội một lần trước.

Mã Liên Nhi thoạt chau hàng mày đen, lo lắng hỏi:
- Trong kinh đã xảy ra chuyện lớn sao? Có người gây bất lợi cho huynh, phải không?

Dương Lăng giật mình. Y vốn còn định giải thích một phen, nào ngờ nàng thấy trang phục của mình liền đã đoán ra hết thảy. Ánh mắt Mã Liên Nhi càng lộ vẻ lo lắng, nhịn không được bèn kéo tay y, run giọng nói:
- Huynh... huynh cải trang như vậy, sự tình đã nguy cấp đến dường nào rồi?... Muội...

Sự tình liên quan đến an nguy của Dương Lăng, giọng nói của nàng đã bắt đầu hơi run rẩy.

Dương Lăng nhìn nàng, có người vợ vừa thông minh lại xinh đẹp như vậy nói chuyện thật dễ. Y vốn định giấu diếm một chút, tránh khiến nàng lo âu nhưng giờ thì không tiện nói dối rồi.

Dương Lăng thở dài một tiếng, nói thẳng:
- Trong kinh có một số đại thần sớm đã muốn gây bất lợi cho huynh, hôm qua Vương Quỳnh bị người ta ám sát, chuyện này thể nào cũng sẽ đổ lên đầu huynh tình thế hết sức căng thẳng. Nội xưởng vừa được lập, nếu huynh không trở về ắt sẽ khiến lòng người không yên, trên dưới há sẽ chịu ra sức cống hiến? Huống hồ hiện tại trừ huynh ra cũng không ai có thể chủ trì đại cuộc. Cho nên... chậc, vốn đã đáp ứng với muội, giờ lại sẽ thất hứa rồi.

Mã Liên Nhi cười trách:
- Huynh còn nói dông dài làm gì, cần phải đi nhanh. Binh quý thần tốc, cướp được một phần tiên cơ là thêm được một phần thắng, lúc này còn dây dưa chậm trễ vậy là Liên Nhi hại huynh rồi.

Dương Lăng hớn hở gật đầu, bỗng y thò tay vào trong người, nghe có tiếng leng keng vui tai y đã lấy ra hai chiếc lắc (vòng tay) màu vàng đen khảm chuỗi ngọc xanh rồi nắm lấy bàn tay trắng ngần của Mã Liên Nhi, giúp nàng mang hai chiếc lắc vào.

Ánh mặt trời chiếu lên cổ tay nàng, chiếc lắc lấp lánh ánh đen càng tôn lên làn da như sương như tuyết. Chuỗi ngọc xanh rạng ngời chói lọi, chỉ với tay áo màu xanh biếc được kéo lên non nửa để lộ cổ tay thon thả trắng ngần, mà đã đẹp khiến người ta hồn xiêu phách lạc.

Mã Liên Nhi cắn môi, trân trọng vuốt ve chiếc lắc ấy, đoạn nàng chợt xoay người nói:
- Đúng rồi, chuyện trong triều đình, Liên Nhi không giúp được huynh, nhưng cũng không thể làm hại huynh được! - Nói rồi, một dòng nước mắt còn óng ánh sáng ngời hơn kim cương thuận theo gương mặt ngọc ngà của nàng rơi xuống.

Theo quy định của triều Minh, phụ nữ làm thiếp không được đeo lắc, xuyến. Cha của Mã Liên Nhi vốn là tiểu lại không phẩm tước, nay lại là một giới bình dân. Dương Lăng đeo cho nàng cặp lắc, mặc dầu chưa đưa đại lễ đến hỏi, điều đó đã tỏ rõ tấm lòng, thừa nhận nàng là phu nhân của Dương Lăng rồi. Danh phận của nàng rốt cuộc đã được xác định, trong lòng sao lại không vui?

Dương Lăng đứng trầm mặc một chút rồi chợt xoay người rảo bước ra khỏi rừng, nhún mình lên ngựa. Kỵ sĩ thấy vậy bèn tháo dây cương lần lượt nhảy lên yên, nhất thời móng ngựa gõ kêu lộp cộp, tiếng ngựa hí vang.

Dương Lăng đưa tay xuống bên yên ngựa lấy chiếc mũ dưa đội lên đầu rồi kéo vành mũ sụp xuống thật thấp, tay trái cầm cương, tay phải cầm lấy roi, quay đầu nhìn vào trong rừng một lần nữa.

Chỉ thấy trong rừng thông, Mã Liên Nhi như đóa hoa đào rực rỡ đã lau nước mắt, mỉm cười rạng rỡ:

"Phúc trung sầu bất nhạc, nguyện tố lang mã tiên. (Trong lòng sầu não không vui, nguyện làm roi ngựa cho chàng.)

Xuất nhập hoàn lang tí, điệp toạ lang tất biên. (Được nằm trong tay chàng, ngồi kề bên gối chàng.)


Thiếp chúc phu quân kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công! Chớ để tương tư lại giết người."

Dương Lăng lòng tràn dâng hào khí, chỉ nhìn Liên Nhi thật sâu một lần nữa, đoạn quay đầu vụt mạnh roi lên đùi ngựa, dẫn hơn mười thiết kỵ tung vó phóng đi.

"Nếu tương tư không được giết người vậy thì Dương mỗ sẽ giết tương tư! Kinh sư, Dương Lăng ta trở về đây!"





Chú thích:

(1) thanh cao hay hèn hạ là tự mình biết và người khác biết, không cần phải tạo vẻ.

Chương 147 - Cuộc chiến bên ngoài

Thân là đại tổng quản phủ Nội vụ, những công việc mua sắm bình thường đã không còn cần Mã Vĩnh Thành phải tự thân xuất hiện; nhưng hôm nay việc mua bán hơi lớn, hôm qua tiệm lụa Thành Ký lớn nhất kinh thành xưa nay luôn cung ứng nhu cầu về tơ lụa cho đại nội hoàng cung lại đột nhiên đưa tin muốn nâng giá do chi phí vận chuyển tăng.

Như vậy một năm sau số tiền chiết khấu mà Mã Vĩnh Thành chắt bóp ra từ trong đó nào sẽ chỉ giảm đi vạn lượng? Điều này làm cho lão Mã giận đến sôi gan. Nhưng ông chủ thật sự chống lưng cho cửa tiệm này là Thành quốc công Chu Cương, Mã Vĩnh Thành có tiền mà không có quyền cho nên thực không dám gây sự với lão ta, vì vậy sáng sớm đã lên kiệu chạy đến Thành Ký định bụng dò hỏi hàm ý của nhà họ Chu.

Mã Vĩnh Thành xuống kiệu, ngạo nghễ bước vào trong tiệm. Lão là khách hàng lớn nhất của Thành Ký cho nên tuy có câu nói rằng “tiệm lớn ép khách” nhưng ông chủ tiệm cũng không dám chậm trễ, vội vã mỉm cười đón lão vào phòng khách nội sảnh.

Mã Vĩnh Thành ngồi trên ghế mũ quan (1), bắt chéo chân, nâng chén hớp một ngụm trà thơm, rồi cười nhạt hỏi:
- Thành chưởng quỹ, ta và ông làm ăn cũng không phải mới một ngày hai ngày, sao giá cả nói đổi là đổi vậy? Chúng ta thẳng thắn với nhau nhé, lượng tơ lụa này hẳn là do thuyền quan của Dương đại nhân ở Nội xưởng giúp ông mang về đúng không? Ta đã tính sơ cho ông, e rằng phí vận chuyển chẳng những không cao, mà thậm chí còn bớt được ít nhất năm vạn lượng đấy, vậy việc tuỳ tiện nâng giá này là từ đâu mà ra vậy? Không biết là ý của Chu lão công gia hay là chưởng quỹ ông tự chủ trương nhỉ?

Thành chưởng quỹ cười nịnh nọt đáp:
- Lão Thành tôi nào có lá gan đó chứ? Từ lúc hoàng hậu nương nương và hai vị quý phi tiến cung, nhờ Mã gia chiếu cố mà buôn bán của cửa tiệm chúng tôi càng lúc càng lên, lão Thành nhờ vả ngài còn không kịp, nào dám tuỳ tiện nâng giá chứ?

Rồi lão ta nén giọng, nói nhỏ:
- Nâng giá chẳng qua chỉ là cái cớ, thật ra có người muốn gặp Mã gia cho nên mới nói như vậy, làm phiền Mã gia cực khổ một chuyến, tiểu nhân quả thực áy náy.

Nói đoạn Thành chưởng quỹ nhét vào lòng bàn tay Mã Vĩnh Thành một tờ giấy. Mã Vĩnh Thành nhìn kỹ, thấy đó là tờ ngân phiếu ba ngàn lượng, lập tức vui vẻ cười ha hả:
- Xem ông kìa, có chuyện gì thì cứ gọi một tiếng không phải là được rồi à. Không nể mặt ông thì ta cũng không dám không nể mặt mũi Chu lão công gia mà. Ha ha ha, là ai muốn gặp ta vậy? Nếu là cống dâng vào trong cung thì cũng dễ xử lý, ta gật đầu một cái là được thôi. Có điều ta phải cảnh cáo trước, những đồ dâng lên cho các vị nương nương dùng nếu là đồ không đáng giá thì đừng làm mất mặt ta.

- Ha ha ha. Mã công công, không biết ta thì có đáng giá hay không? - Rèm cửa chợt được vén lên, Dương Lăng mỉm cười bước ra.

Mã Vĩnh Thành kinh ngạc đứng bật dậy, nước trà vẩy cả lên người. Lão kinh ngạc kêu lên:
- Dương... Sao ngài... Không phải là ngài vẫn đang ở Giang Nam sao?

Dương Lăng khoát tay với Thành chưởng quỹ, Thành chưởng quỹ hiểu ý bèn khom lưng nói:
- Hai vị thong thả trò chuyện, lão Thành ra ngoài tiếp khách đây.

Thành chưởng quỹ vừa rời khỏi phòng, Dương Lăng liền sầm mặt, cười nhạt với Mã Vĩnh Thành và nói:
- Ta đang ở Giang Nam sao? Nếu như ta về muộn hơn vài ngày thì chỉ có thể chờ dọn xác ông rồi. Mã Vĩnh Thành, ông chết đến nơi rồi mà còn không hay biết họa lớn đã ập đến rồi ư?
***

- Dương Lăng đã đến đâu rồi? - Phạm Đình hỏi một tên phiên tử đứng trước mặt, trên mặt có vẻ hào hứng.

Trương Thọ nghe phiên tử trả lời xong thì không khỏi sững ra:
- Thiên Tân vệ? Hắn muốn dừng thuyền ở Thiên Tân vệ ư? Khốn kiếp, thuyền quan của hắn đã rẽ vào nội hải tại sao không bẩm báo sớm một chút? Phạm công công, ông nói Dương Lăng đang có ý gì vậy, chẳng lẽ... hắn đã có cảnh giác với hành tung của chúng ta?

Phạm Đình cười lớn nói:
- Nội xưởng cũng có tai mắt mà, nếu như không có phát hiện ra gì thì mới là lạ đó. Nhưng vậy thì đã sao? Cái tên ngu xuẩn này trong triều không hề có căn cơ, chỗ dựa duy nhất là Hoàng thượng thế nhưng hắn không cấp tốc hồi kinh xin Hoàng thượng cứu giúp mà lại bày đặt giương đông kích tây, bày kế nghi binh này nọ, thật đúng là tự tìm đường chết.

Đới Nghĩa vờ cúi đầu uống trà, trong lòng lại hơi lo lắng: "Dương đại nhân đang làm cái quỷ vì vậy? Chẳng lẽ Ngô đại đương gia không truyền tin tức của mình cho y sao? Mình đã nói là Cẩm y vệ và Đông xưởng hợp mưu mà y còn chạy đến quê nhà của Cẩm y vệ, chẳng phải là tìm chết ư? Không đúng, Dương Lăng đâu có ngu ngốc đến vậy..."

Trương Thọ thấy sắc mặt lão nặng nề, bèn hỏi:
- Đới công công cũng cảm thấy có gì không đúng à?

Đới Nghĩa thoáng giật mình, bèn vội đáp:
- Đúng vậy, một người gặp phải nguy hiểm thì phản ứng đầu tiên chính là tìm đến người đáng tin cậy và có khả năng giúp đỡ hắn nhất mới phải. Hắn lại thủng tha thủng thỉnh chạy đến Thiên Tân vệ để làm gì?

Trương Thọ lắc đầu đoạn vỗ tay một cái, một đáng đầu rón rén bước vào. Trương Thọ hỏi:
- Người phái đi theo dõi phủ Uy Vũ bá có phát hiện ra điều gì lạ thường không?

Đáng đầu nọ cung kính đáp:
- Bẩm Trương gia, không hề có động tĩnh gì. Ty chức chẳng những cho tăng cường chú ý đến người ra vào Dương phủ và toàn bộ đám người trong ấy, mà ngay cả rau thịt mà Dương phủ mua về cũng đã phái người mỗi ngày tra hỏi. Nếu như Dương Lăng về phủ, cho dù hắn che giấu giỏi cỡ nào thì toàn bộ Dương phủ cũng không thể không để lộ bất cứ dấu vết gì.

Trương Thọ gật nhẹ đầu, trầm ngâm một chốc rồi nói:
- Bất luận hắn có về phủ hay khong, nếu hắn dùng kế kim thiền thoát xác lặng lẽ hồi kinh, nhất định sẽ vào cung để gặp Hoàng thượng. Người được phái đến cửu môn (*) phải tăng cường phòng bị, chú ý tất cả những ai ra vào hoàng cung. Còn nữa, bảo mấy tên nhãi hầu bên Hoàng thượng phải gia tăng chú ý lên mười hai vạn lần, bất kể là Hoàng thượng gặp ai, nói những gì, đều phải lập tức hồi báo.
(*) chỉ chín cổng thành Bắc Kinh.

- Dạ! - Đáng đầu nọ đáp một tiếng, rồi vội vàng lui ra.

Vương Nhạc đang nằm dựa hờ trên đầu giường. Do tuổi đã cao, tinh thần cũng không tốt, nãy giờ lão đã ngủ được một lúc.

Lão Vương Nhạc dụi mắt, run rẩy ngồi dậy nói:
- Xem bộ dạng như lâm đại địch của các ngươi kìa, chẳng phải là Vương Quỳnh đã bị y giết hay sao? Lúc này toàn bộ ngoại đình hẳn là cũng đã nhận được tin rồi, sẽ còn có ai đứng về phía hắn chứ? Khi tiên đế còn tại thế, ngài sợ nhất là phải nghe lời can gián của bá quan. Đương kim Hoàng thượng còn nhỏ lại không có chủ kiến, còn có thể chống đỡ nổi tấu chương đè xuống như núi ư? Chỉ cần Hoàng thượng hạ ý chỉ thì Dương Lăng còn không bó tay chịu trói sao.

Vị Vương công công này không tài không cán, lại không có dã tâm, nhưng cũng chính vì vậy mới được vua Hoằng Trị uỷ thác trọng trách. Lão cư xử độ lượng không hề chuyên quyền, có đầu lĩnh trên danh nghĩa như lão toạ trấn ở trên, đám người ai nấy có dã tâm riêng như Phạm Đình và Trương Thọ mới có thể sống chung hoà thuận không tranh chấp với nhau, cho nên những người này rất mực kính trọng lão.

Nghe Vương Nhạc nói vậy, Phạm Đình cười lớn nói:
- Không thể không cẩn thận đâu à lão gia, đương kim Hoàng thượng thật không thể so được với tiên đế. Tiên đế chỉ mới tảo triều trễ có hai lần đã bị bá quan trách mắng cho một trận phải vâng dạ mà hạ chiếu tự trách. Nhưng đương kim Hoàng thượng thì sao? Ngừng Kinh Diên, bỏ ngọ triều, tảo triều thích thì đi không thích thì dẹp. Bá quan khuyên nhủ tới tấp như tuyết rơi, Hoàng thượng lại nhắm mắt làm ngơ bỏ hết ngoài tai, có bao giờ để ý tới đâu.

Lão vừa nói vừa nheo mắt lại, rồi cười nham hiểm nói:
- Về phần bá quan trong triều thì...Chỉ có đám mọt sách Ngự Sử đài và Hàn Lâm viện mới thật sự tin vào cái “diệt trừ gian nịnh”, “duy trì chính nghĩa” gì đó thôi. Thứ mà đám lão già lăn lộn lâu năm trên quan trường đó thật sự quan tâm đến là một khi bọn họ không còn gây được ảnh hưởng với Hoàng đế, không khống chế được Hoàng đế nữa thì rất có thể những quốc sách và và chính sách mà bọn họ tự cho là đúng ấy sẽ bị Hoàng thượng vì nghe theo những lời của đám tân sủng này mà bãi bỏ. Đáng tiếc là bọn họ lại không thèm kết giao với đám người mới (tân sủng) này cho nên mới phải nghĩ cách trừ khử chúng đi.

Trương Thọ mỉm cười phụ hoạ:
- Đúng vậy! Trong đám nội thị, kẻ lôi kéo Hoàng thượng ăn chơi không chỉ có Bát Hổ và Dương Lăng. Tuy bọn chúng chỉ cần nịnh hót dù chưa lập được tấc công lao gì mà đã một bước lên mây nhưng cũng chưa từng làm chuyện gì quá ác. Cho dù bọn chúng ác thì liệu có ác hơn loại như Mạc Thanh Hà và Viên Hùng không? Ngoại đình vắt óc ra trăm phương ngàn kế như vậy là bởi bọn chúng phát giác rằng Dương Lăng không phải là bạn đồng hành của bọn chúng, và Hoàng thượng cũng không còn bị bọn chúng khống chế được nữa. Cho nên bọn họ muốn diệt trừ Dương Lăng và Bát Hổ không phải vì chúng làm quá nhiều điều xằng bậy mà là để phát ra một tín hiệu cảnh cáo: Những kẻ có dã tâm muốn lật đổ quan văn và gây ảnh hưởng đến Hoàng đế đều phải cút xa, để Hoàng đế kiến thức được lực lượng của chúng mà ngoan ngoãn đi làm một Hoàng đế "tốt" theo sự an bài của chúng.

Kiến thức của hai người Lý Vinh và Hà Đại Xuân thua xa Phạm Đình và Trương Thọ, nghe xong những lời phân tích này thì cảm thấy rất sốt ruột. Lý Vinh nói:
- Quan tâm đến việc bọn chúng xuất phát từ mục đích gì làm gì, chỉ cần chúng cùng chung mục tiêu với chúng ta là được rồi. Hiện nay Dương Lăng đã nắm ty Thuế Giám, đám thủ hạ của chúng ta biết ăn gì, uống gì đây? Chỗ lão Phạm còn đỡ chứ chỗ của ta quả thực càng lúc càng túng quẫn, chỉ cần sớm thu thập được cái tên ranh con này là mọi chuyện ổn thỏa.

Phạm Đình cười giễu cợt nói:
- Tầm nhìn hạn hẹp! Ông còn chưa hiểu sao? Nếu như lấy chúng ta làm phụ, lấy bá quan làm chủ khiến Hoàng thượng hạ chỉ chém Dương Lăng và Bát Hổ thì ngoại đình sẽ có thể phô trương thanh thế, Hoàng đế sẽ hoàn toàn nằm trong tay bọn chúng rồi. Khi đó Dương Lăng và Bát Hổ sẽ trở thành tấm gương cho chúng ta, chúng ta sẽ thành như một cây đao đã qua sử dụng, bất cứ lúc nào bọn chúng cũng có thể vứt bỏ vào kho, giải giáp quy điền (*). Nếu như ...khà khà... Dương Lăng chết ở trong tay chúng ta trước, vậy thì sẽ khác.
(*) cởi giáp về quê, ý nói thiên hạ thái bình, mọi thứ đã xong xuôi)

Lúc này Hà Đại Xuân mới hiểu ý, bèn nói:
- Như vậy xem ra bất luận ngoại đình có xin được Hoàng thượng hạ thánh chỉ hay không thì chúng ta đều phải tranh tiêu diệt Dương Lăng và Bát Hổ trước rồi.

Phạm Đình gật đầu nói:
- Đúng vậy, ngoại đình lợi dụng chúng ta, chúng ta cũng không phải không đang lợi dụng ngoại đình. Không có bọn chúng hăm doạ và chống đỡ, nếu chúng ta tự ý giết chết Dương Lăng và Bát Hổ thì sẽ phải dè chừng bị Hoàng thượng trừng trị, song giờ thì không phải lo về vấn đề này nữa. Ông xem, tin Vương Quỳnh bị giết vừa truyền vào kinh thì ba đại học sĩ cũng không thể đàn áp được sự kích động và phẫn nộ của đám ngôn quan Hàn Lâm. Bọn họ vốn định chờ thời cơ tốt nhất mới ra tay, đường đường chính chính trở thành công thần lớn nhất diệt trừ gian nịnh. Nhưng những bá quan vốn luôn theo sau nghe bọn họ sai bảo giờ lại muốn thúc giục bọn họ phải lập tức xin hạ chỉ giết người rồi. Ha ha ha...

Vương Nhạc thấy lão ta đắc ý cười to, chợt kinh hãi thốt lên:
- Phạm Đình! Không phải Vương Quỳnh là do ngươi giết đó chứ?

Phạm Đình trông thấy mọi người dùng ánh mắt nghi ngờ nhìn lão thì không khỏi biến sắc la lên:
- Công công, lời này cũng chỉ có chúng ta nói cho nhau nghe trong phòng này thôi, nếu để truyền ra ngoài là chết đó. Nếu nô tài có gan ám sát Vương Quỳnh, chi bằng trực tiếp sai người ám sát Dương Lăng, hà tất còn phải mượn sức của ngoại đình để trấn áp, để tránh bị Hoàng thượng giáng tội làm gì?

Vương Nhạc yên tâm nói:
- Vậy thì tốt, vậy thì tốt, vạn lần không thể làm ra chuyện đó. Công phu lần ra manh mối của đám ngoại đình đó không giống như nha sai chúng ta đâu, nếu để chúng nắm được sơ hở thì... Nhớ năm xưa Lý Quảng rơi đài, toàn bộ những nội quan mà ngoại đình nhìn không vừa mắt đều bị quy là bè đảng của Lý Quảng hết. Chậc! Phải nói là một mẻ hốt sạch sành sanh.

Đúng vào lúc này, một đáng đầu vội vã chạy vào bẩm báo:
- Bẩm công công, thám mã thứ bốn mươi tám chuyển cấp báo về.

Phạm Đình lộ vẻ kích động nói:
- Mau lấy cho ta xem!

Lão tháo xi niêm phong trên tin báo, xem lướt qua một lượt, rồi cười khẩy nói:
- Dương Lăng quả nhiên không ngu, hắn dùng kế minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương (2). Theo tin mới nhất thì thuyền của hắn đi được nửa đường rồi cập vào bờ lúc nửa đêm, hơn bốn mươi người xuống thuyền rồi chạy thẳng đến kinh thành bằng đường bộ, hiện đã đến địa phận Thương Châu rồi.

Lý Vinh vội hỏi:
- Xác định chứ? Có tận mắt trông thấy Dương Lăng không? Hay đó cũng là kế nghi binh của hắn?

Phạm Đình do dự một chút rồi nói:
- Kiệu Dương Lăng ngồi đích thị là kiệu tám ngựa (3), tốc độ chậm hơn so với cưỡi khoái mã mấy phần. Thám mã chưa từng thấy Dương Lăng xuống xe, có điều thấy hắn thi thoảng dừng chân nghỉ ngơi và mua đồ ăn tại thị trấn ven đường. Người của chúng ta xác nhận từng nghe trong xe có người phân phó hành động. Vẻ mặt của đám người đi theo âm thầm bảo vệ đó cung kính tự nhiên, nếu tùy tiện tìm một tên tiểu tốt giả mạo, thì đám phiên tử mới rời khỏi quân doanh không lâu, kẻ nào kẻ nấy đều ương bướng dữ dằn đó, sẽ không lý nào không để lộ chút sơ hở.

Đới Nghĩa âm thầm thất kinh, lão cầm lấy phong thư xem một chút rồi nói hộ cho Dương Lăng:
- Vậy cũng chưa chắc. Nghe nói Dương Lăng biết cách dùng binh, quân kỷ nghiêm minh, lúc chống giặc Oa tại Hải Ninh đã lấy một chọi trăm. Những binh sĩ đó nếu đã nhận nghiêm lệnh của hắn thì ai dám vì trong xe không có Xưởng đốc mà sẽ tuỳ ý làm càn chứ? Nếu như tên thiên hộ và hai bách hộ mà Dương Lăng tín nhiệm nhất đều ở trên thuyền vậy thì khả nghi lắm. Nếu hắn thật sự bỏ thuyền dùng xe thì sao có thể không mang thân tín theo bên mình?

Phạm Đình cười nói:
- Nữ tỳ lúc nào cũng như hình với bóng của hắn cũng ở trong xe, nghe nói nữ tỳ xinh đẹp đó có quan hệ mờ ám với hắn, hằng ngày thường hay ra vào phòng hắn. Chiếc kiệu xe bé xíu đó chỉ có thể ngồi sát với nhau, hắn nỡ để người con gái yêu mến của mình và người đàn ông khác kề tai áp má hơn chục ngày sao?

Đới Nghĩa nghe vậy không khỏi kinh ngạc, Hà Đại Xuân sốt sắng nói:
- Như vậy không phải tốt lắm sao? Nay Vương Quỳnh chết đi, Dương Lăng đã bị bao người chỉ trích, bá quan trong kinh không còn ai dám bảo vệ cho hắn nữa thì hiện tại phải mau chóng sai người chặn đường, thừa lúc hắn đang thân cô thế bạc mà tiêu diệt là tốt nhất!

Ánh mắt Trương Thọ chợt loé lên, lão nói:
- Chính vì không có gì khả nghi nên mới càng đáng nghi. Nếu hắn đã có cử động này, vậy rõ ràng đã cảm giác được hành động của chúng ta. Hắn xuất thân là tú tài, có gan chỉ vẻn vẹn dẫn mấy mươi tên hộ vệ hồi kinh ư?
Theo ta thấy, người thì vẫn nên phái đi, tuy nhiên mặt khác cũng nhờ Trương Tú về Thiên Tân vệ chuẩn bị trước, hai bên quăng lưới thể nào cũng sẽ bắt được con cá to thôi. Còn về phần trong kinh thì... cứ giao cho bá quan trong triều làm khổ hắn đi.

***


Bá Châu của Hà Bắc, vùng đất kế bên thiên tử mà lại lắm đạo tặc.

Ba bốn chục kỵ mã bảo hộ một chiếc kiệu xe tám ngựa đang phóng băng băng trên đồng không mông quạnh. Lúc này sắc trời chạng vạng, những con ngựa hồng hộc thở ra hơi thở nóng rực, hiển nhiên trong đêm đã không biết đi hết bao nhiêu con đường. Trên vùng hoang vu mọc đầy cỏ lau nhưng thưa thớt hơn bãi Lạc Nhạn rất nhiều.

Kiệu xe không lớn, ngựa phóng nhanh khiến nó không ngừng lắc lư nhưng trên chỗ ngồi đều lót đệm dày nên tuy rằng xóc nảy song lại không đến nỗi khiến người ta bị xóc đến rã người. Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận cải nam trang đang ngồi đối diện với nhau.

Thành Khởi Vận vận trang phục giống hệt Dương Lăng, khuôn mặt được trang điểm anh tuấn văn nhã, cặp mày, nhìn từ xa trông giống Dương Lăng đến năm phần. Trên nóc kiệu xe treo một ngọn đèn dầu (dầu cá). Đặt giữa hai người là một bàn cờ đá nam châm, hai người đang bày ra bố cục, đã đánh được hai trăm mười bốn nước.

Cao Văn Tâm cầm quân đen đi trước, hai bên đều đã đặt bố cục Tinh Tiểu Mục (4). Lúc đầu Cao Văn Tâm còn thủ vững đánh chắc đủ đấu một trận, đáng tiếc trong ván nàng thấy rồng lớn (5) của đối phương khó tránh kiếp nạn thì mừng rỡ khổ tâm vắt óc bày ra một nước hay hòng giết sạch rồng lớn của đối phương. Kết quả rồng lớn vận cao, nàng chỉ lo để mắt đến nó mà không nghĩ đến những nước khác, thế là rồng lớn còn chưa giết được mà thế cờ đã loạn.

Cao Văn Tâm trông thấy quân mình đã hoàn toàn tan rã, ở góc trái bên dưới cờ đen mất đi cơ sở, bên trên cờ sống đang bị chèn ép, bên phải tuy có thể đánh một trận nhưng nếu phát triển nơi đó thì con rồng lớn mà mình vất vả vùng vẫy trong ván sẽ bị Thành Khởi Vận nuốt mất, thật sự không còn sức để đánh thắng. Nàng nhìn một hồi lâu đành phải đẩy bàn nhận thua.

Cao Văn Tâm tự xưng kỳ nghệ cao minh nhưng dọc đường lên bắc đánh với Thành Khởi Vận mấy chục hiệp mà chưa từng thắng được một ván, quả thực trong lòng có phần chán nản.

Thành Khởi Vận đắc ý cười nói:
- Đời người như cờ, phải biết nhìn xa. Ta thấy cô nương đánh cờ thường hay lấy giết rồng làm vui, thật ra đó là sự cố chấp. Đánh cờ là để thắng chứ không phải là ham muốn khoái lạc nhất thời. Kỳ nghệ của cô vốn không tệ, có điều chưa từng suy xét toàn cục, thường vì để đánh ra một nước cờ hay mà không tiếc mọi giá thành ra vì ngọn mà bỏ mất gốc đi.

Tuy Cao Văn Tâm khinh bỉ hành động và việc làm trong quá khứ, thậm chí là hành vi liếc mắt đưa tình với Dương Lăng của Thành Khởi Vận, song dọc đường trong xe chỉ có hai người, nàng không thể lúc nào cũng xụ mặt.

Huống hồ việc Thành Khởi Vận bí mật lên bắc lấy thân làm mồi toàn bộ đều là vì Dương Lăng; mà Văn Tâm lại có trách nhiệm giám sát nàng ta nên nếu lúc này mà gây chuyện bất hoà thì quá coi nhẹ đến đại cuộc rồi, cho nên ngoài mặt vẫn khách khí với nàng ta, nghe Thành Khởi Vận chỉ điểm xong nàng chỉ hừ một tiếng không phục mà cũng không đáp lại. Nàng đấm nhẹ lên tấm lưng đã mỏi nhừ rồi dựa lên đệm lót.

Thành Khởi Vận mỉm cười nói:
- Vào thị trấn ở phía trước nghĩ ngơi tiếp vậy. Hôm qua chúng ta đột nhiên chạy cả đêm, qua trấn mà không vào, nếu có kẻ truy đuổi thì lúc này hẵn đã bỏ rơi bọn chúng rồi.
Chợt nghe ở đằng trước có tiếng người quát:
- Dừng lại, nha môn tuần kiểm tra xét những kẻ buôn lậu muối. Dừng xe xuống ngựa, trình giấy thông hành, tiếp nhận kiểm tra!

Hai người ngã chúi về phía trước, bánh xe rít lên ken két kéo lê thành một vệt dài trên đường. Thành Khởi Vận liền vén tấm rèm kiệu dầy cộp lên, một cơn gió tươi mát lùa vào, mang theo cái hơi lạnh đìu hiu của tiết thu.

Ánh nắng của buổi sớm tinh mơ tựa như phủ lên khuôn mặt trắng ngần không tì vết của nàng một lớp sương lạnh, Thành Khởi Vận quát:
- Kẻ nào đó?

Một nam tử áo xám đeo cung cầm cương chạy đến trước xe cúi người bẩm:
- Đại nhân, là nha sai xét muối của ty tuần kiểm. Chúng ta sẽ đưa yêu bài đuổi chúng đi hay là đút chúng ít bạc ạ?

Thành Khởi Vận nghe vậy trong mắt liền loé lên sự lạnh lùng, lập tức dấy lòng nghi ngờ. Mạc Thanh Hà đốc sát thuế khoá trà lương gạo muối cho nên nàng hiểu đám thuế lại này vô cùng. Nha sai của ty muối phần lớn là phường lưu vong, không khác mấy với những tên thuế lại ức hiếp lương dân bá tánh vậy mà sáng sớm tinh mơ chúng lại chịu chạy đến nơi dã ngoại hoang vu bố trí mai phục để tra xét buôn lậu muối ư?

Nàng đẩy cửa kiệu rồi khom lưng nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy trước bụi lau khoảng mười trượng về phía trước có hơn mười tên thuế lại đang đứng, trông trang phục, côn bổng, binh khí quả thực là thuế lại đúng chuẩn, hơn nữa tên nào tên nấy đang nhàn nhã chuyện trò, có tên thậm chí vứt cả đao và côn trên mặt đất, nói là tra xét muối lậu nhưng đại khái cũng không thấy nhiều người cho lắm, Thành Khởi Vận khẽ thở phào một nhẹ nhõm. Nàng vừa quay đầu định căn dặn thủ hạ mấy câu thì khoé mắt đột nhiên loé lên, nàng bất chợt quay đầu lại phóng mắt vào trong đám lau sậy. Ánh nắng từ sau lưng chiếu tới hắt về phía trước, trong bụi lau chợt lấp loé mấy tia sáng.

Thành Khởi Vận lập tức khom người rút vào trong kiệu, quát:
- Cẩn thận mai phục, quay đầu về hướng tây, thông qua Bảo Định chạy đến hồ Bạch Dương.

Chưa dứt lời, hai mũi tên nhọn hoắc đã cắm "phập, phập" lên cửa xe cạnh nàng. Thành Khởi Vận sợ hãi, đứng không vững mà ngã bệt xuống cạnh Cao Văn Tâm, ngây ra đó một hồi, sắc mặt mới thoắt một cái đã biến thành trắng bệch.

Tuy nàng rất có khí phách của đại tướng nhưng nói cho cùng nàng cũng chưa từng xông pha chiến trường, hai mũi tên nhọn hoắt bay sát qua người khiến nàng thoạt đầu giật mình, về sau nghĩ tới mới thấy sợ.

Cao Văn Tâm cuống quýt chồm tới kéo cửa kiệu lại, bên ngoài liên tục có tiếng thét mắng, tiếng ngựa hí vang, chiếc xe chợt quay đầu, xốc nảy khiến hai người con gái ngã chúi vào nhau, rồi rầm rập phóng điên cuồng về hướng tây.

May mà Thành Khởi Vận kêu lên sớm, bốn mươi người mà nàng dẫn theo này vốn đều là thân quân, nhanh nhạy cơ cảnh, thạo nhất là hộ vệ và phản kích, vừa nghe nàng kêu lên liền đã lăm lăm cung trên tay, lúc này vừa phóng ngựa về hướng tây vừa giương cung bắn tên vào trong rừng sậy để áp chế mai phục. Mười tên "thuế lại" cầm đao thương ở phía trước căn bản đuổi theo không kịp khoái mã, không hề mang đến tí uy hiếp nào cho bọn họ, cho nên bọn họ cũng không thèm để ý.

Chỉ trong chớp mắt nhánh nhân mã này đã nhanh chóng biến mất trong rừng lau mênh mông. Một mảng lau sậy phát ra tiếng xào xạt, có hơn sáu mươi người từ trong đó bước ra. Một tên đáng đầu đội mũ nhọn mặc quân phục toàn xanh, mang giày quan thắt dây nhỏ màu trắng đưa mắt nhìn theo chỗ xe ngựa đã biến mất, sắc mặt lo lắng.

Một tên đóng giả thuế lại sợ sệt nói:
- Cầu đáng đầu, ti chức nghe bọn chúng nói chạy đến hồ Bạch Dương, chúng ta có đuổi theo hay không?

Cầu đáng đầu trừng mắt với hắn bảo:
- Xông vào đám lau sậy này còn nhìn thấy được ai sao, đi đâu mà đuổi? Hừ, bên đó cũng đã bố trí thiên la địa võng, để tên họ Dương hắn chui đầu vào đi.

Tên đóng giả thuế lại ngượng ngập nói:
- Lúc nãy rõ ràng bắn trúng mấy tên thế mà tên lại rơi xuống đất, xem ra phiên tử Nội xưởng chúng đều mặc giáp dệt bằng tơ vàng. Nhìn thuật cưỡi ngựa của bọn chúng, tiễn thuật lại bất phàm liệu người bên đó có đối phó nổi không?

Cầu đáng đầu cười gằn nói:
- Càng tiếp cận kinh thành thì người của chúng ta càng đông. Lần này phái ra hai vạn nhân mã, các con đường lớn nhỏ và cửa ải hiểm yếu vào kinh toàn bộ đều đã bị phong toả, cho dù họ Dương hắn biết rõ là đầm rồng hang cọp thì sao có thể không xông vào? Chỉ có bấy nhiêu người, có tài giỏi hơn chăng nữa thì cũng có ích rắm gì. Ha ha ha ha...

***


Đội kỵ mã ra khỏi hơi mười dặm, Thành Khởi Vận đã khôi phục lại sắc mặt, nàng giở bản đồ ra nhìn một hồi rồi bỗng vén rèm lên nói:
- Dừng lại, quay về Tiểu Chúc Trạch, nghỉ ngơi một canh giờ rồi đi tuyến Ngọc Mã Đài.

Cao Văn Tâm nhìn vào tấm bản đồ một chút rồi nói:
- Đi về hướng tây liệu có khiến bọn chúng nghi ngờ không?

Thành Khởi Vận yêu kiều đáp:
- Có hết sức cẩn thận thì bọn chúng mới cho rằng đại nhân đang ở trên xe. Đường vào kinh có hàng ngàn hàng vạn, tưởng dễ chặn chúng ta vậy sao? Sau khi Đông xưởng nhận được tin tức thì đã không ngừng điều động nhân mã từ trong kinh ra, điều động càng nhiều, đại nhân càng dễ hành sự. Bọn chúng có bày quân khắp nơi cũng không tạo thành uy hiếp gì với chúng ta. Nếu thật sự đến lúc bất khả kháng chúng ta sẽ quay đầu chạy ngược trở về Thạch Gia trang.

Cao Văn Tâm thấy nàng nói một cách hào hứng, như thể rất thích cái cảm giác vênh mặt hất hàm, nắm trong tay quyền lực to lớn này, thì không khỏi nhìn nàng bằng một ánh mắt kỳ quái.

Thành Khởi Vận nói đến say sưa. Nói xong trông thấy vẻ mặt quái dị của Cao Văn Tâm thì bất giác ngẩn ra hỏi:
- Cô nhìn ta làm gì vậy?

Cao Văn Tâm hỏi:
- Cô thích cái cảm giác này lắm à?

Thành Khởi Vận hỏi ngược lại:
- Như vậy thì có gì là không tốt?

Cao Văn Tâm hít vào một hơi rồi khẽ thở dài đáp:
- Thế giới này chưa từng có nữ nhân nào ra ngoài làm việc. Cô có thể làm quan được bao lâu đây? Đến lúc cô năm mươi, sáu mươi rồi thì cô sẽ chuẩn bị như thế nào? Không có người đàn ông nào, không có đứa con nào, cô sẽ sống dựa vào quyền lực và đống tiền vàng lạnh lẽo cả đời sao?

Thành Khởi Vận mờ mịt nhìn nàng, trong mắt dần dần hiện lên một sự sợ hãi, giống như có một món đồ nào đó nàng cần phải nắm bắt mà bây giờ mới bàng hoàng phát hiện rằng nó đã mất rồi. Có điều vẻ mê mang đó chỉ thoáng xuất hiện trong chớp mắt, nàng đã liền khôi phục lại vẻ thông minh và giảo hoạt trước đây.

Nàng mỉm cười duyên dáng với Cao Văn Tâm và nói:
- Ta biết cô luôn mang lòng cảnh giác với ta. Ta càng có biểu hiện tài giỏi, càng có dã tâm thì cô càng kiêng kị. Cô đang lo hôm nay ta lập đại công, chiếm được sự tín nhiệm của Dương đại nhân thì sẽ được đằng chân lân đằng đầu, sau sẽ lại có ý nghĩ quá phận, thậm chí... một ngày nào đó sẽ đối phó với Dương đại nhân giống như đối phó với Mạc Thanh Hà vậy; cho nên cô mới khuyên ta hãy sớm ngày yên phận nữ nhân đi, đúng không?

Cao Văn Tâm lạnh lùng nhìn nàng, không nói gì.

Thành Khởi Vận khẽ thở dài, dùng ánh mắt khiêu khích nhìn Cao Văn Tâm, khoé môi mang theo nụ cười cô độc, nói:
- Trước giờ ta luôn đóng kịch, bắt đầu từ khi hiểu chuyện thì đã diễn kịch rồi, với người khác cũng vậy mà với Mạc Thanh Hà cũng vậy, ta có từng coi hắn là người thân bao giờ? Chỉ vì hắn treo cái tấm biển "trượng phu của ta" thì ta sẽ phải một lòng một dạ với hắn sao?

Cao Văn Tâm truy vấn:
- Vậy cô tận hiến sức lực với lão gia nhà ta thì sao? Cũng là đóng kịch ư?

Thành Khởi Vận hé môi, mắt chợt sáng lên, vẻ mặt rạng ngời ấy khi cười mang theo chút dịu dàng và xinh đẹp, đôi mày kiếm được tô như của nam nhân vẫn không thể ngăn trở vẻ dịu dàng như nước được phơi bày.

Cao Văn Tâm không khỏi rũ rèm mi để tránh nhìn nàng. "Người con gái này, đóng giả nam nhân rồi mà vẫn có thể mê người như vậy sao?"

Chóp mũi Thành Khởi Vận hơi chun lại, tựa như làn sóng biếc lăn tăn trong gió xuân, đôi môi cắn chỉ phả ra một hơi khoan thai, lả lơi nói:
- Nô gia đang bán mạng cho đại nhân đây này, cô nói có phải là ta đang đóng kịch không?

Khi nãy Cao Văn Tâm nhất thời bộc lộ cảm xúc, lúc này đã cảm thấy hối hận. Người con gái này coi đời người như trò đùa, lấy việc trêu đùa làm cuộc sống, lời nói ra lúc hư lúc thật thì ai mà nhìn ra được chân ý của nàng ta. Nếu như lúc này đây mình nói nặng lời, ép nàng ta dứt bỏ ý niệm, gây bất lợi cho lão gia thì chẳng phải mình sẽ khóc không kịp ư?

Thế là nàng chợt máy động linh cơ, cố làm ra vẻ ghen tuông nói:
- Hừ! Cô đẹp lắm sao? Lão gia nhà ta mới không thèm để ý đến cô đó.

Thành Khởi Vật bật cười khúc khích. Tâm tư vừa lo lắng vừa bảo vệ cho người trong lòng của người con gái ở trước mặt này nàng sao mà nhìn không ra? Chậc! Lúc mình còn trẻ… lúc nào không phải là "lúc còn trẻ"? Nàng lặng lẽ nhìn Cao Văn Tâm, rầu rĩ thầm nghĩ: "Mình thật sự đã già rồi sao? Như nàng ta đã nói, mình còn bao nhiêu xuân xanh và mỹ mạo để lãng phí đây? Vân Nhi và Linh Nhi sớm muộn rồi cũng sẽ gả cho người ta, đến lúc mình từ từ già đi, sẽ cô độc lẻ loi một mình...”

Chính vào lúc này, ngoài xe chợt có tiếng ngựa hí, có người la lên:
- Xưởng đốc đại nhân, phía trước có người chặn đường, là phiên tử(*) Đông xưởng. Hai, tám, chỉ có mười bốn tên, có muốn giết sạch bọn chúng không?

Trong khoảnh khắc Thành Khởi Vận đã lại khôi phục vẻ mặt lạnh lùng tàn nhẫn coi mạng người như cỏ rác. Nàng nghiêm giọng quát:
- Không chừa một tên, giết!

Đáng thương cho mười mấy tên phiên tử đó, bọn chúng vốn không phải là chủ lực của Đông xưởng mà chỉ là nhân viên ngoại vi được phái trấn thủ ở phụ cận, do chỉ để đề phòng chuyện vạn nhất mà bọn chúng tạm bị bắt đến đây canh giữ mấy con đường nhỏ hiếm có khả năng có người chạy qua này.

Sáng sớm nhận được nghiêm lệnh từ trong kinh, dịch trưởng Triệu Tứ Nhi bị ép phải chui ra khỏi chăn êm nệm ấm của quả phụ Lạc thị dẫn người chạy đến nơi đường núi hoang vu này. Đang ngoác miệng chửi mắng thủ hạ, hắn chợt nghe thấy tiếng vó ngựa vang lên như sấm, trong rừng lau đột nhiên có một đội nhân mã lao ra. Bởi khoảng cách đôi bên gần như vậy, cho nên cái câu "Xưởng đốc đại nhân" mà người đi đầu cao giọng kêu lên lẫn cái câu "không chừa một tên" của một giọng nói lạnh lùng không chút dung tình trong khoang xe phát ra nọ hắn đều nghe rõ mồn một.

Triệu Tứ Nhi rùng mình một cái. Hắn vừa giơ thanh Cửu Hoàn Cứ Xỉ(*) Đại Khảm Đao lên,, một thớt ngựa đen đã lao đến trước mặt. Trên ngựa, một khuôn mặt đằng đằng sát khí đang chòng chọc nhìn hắn.
(*) Khảm đao răng cưa chín lỗ; nguyên văn Ngưu Nhĩ, tra mãi chả hiểu là gì, thấy có cái Cứ Xỉ là răng cưa nên đoán chắc nó. Xem hình: http://daoyj.com/Storage/FCKPro/Files/九环锯齿大砍刀.jpg)

Ánh đao xoay một vòng như dải lụa trắng, đầu người bay lên không trung, máu nóng bắn tung toé lên bụng ngựa, bốn chiếc vó ngựa đã đạp lên thân thể hắn lướt qua.

Đây thuần túy là một cuộc đồ sát một phía. Đám phiên tử lủi trốn vào trong đám lau sậy hai bên bị những tử thần trên lưng ngựa này chém giết từng mống một. Hai tên phiên tử cuối cùng khiếp sợ, vừa la hét vừa chạy như điên về phía triền núi đá trụi lủi ở bên trái.

Nơi đó chiến mã khó leo, nhưng tiếng cung vang lên lanh lảnh, trong khoảnh khắc hai tên nọ đã bị tên cắm đầy mình như con nhím, thân người ngã xuống, mũi tên lại gài vào trong khe đá, giữ cho cái xác không tài nào lăn xuống.

Trong khoảnh khắc, ba mươi thớt khoái mã đằng trước xe lao như cuồng phong về trước, không hề dừng nghỉ.

Lúc kiệu xe chạy qua, thân thể nát bấy của Triệu Tứ Nhi đã bị những cái vó ngựa to bằng cái bát đạp lún vào trong đất bùn, là phẳng như mặt đất. Cao Văn Tâm không trông thấy cảnh tượng thảm khốc đó, nàng chỉ thấy hai "con nhím" nhuốm đầy máu trên triền núi nọ thì đã không nén nổi cảm giác buồn nôn rồi.

Rèm xe liền bị nàng vội vã kéo xuống, Thành Khởi Vận bĩu môi khinh thường, cười nhạo:
- Nếu cô mà rơi vào tay bọn chúng thì sẽ không chỉ chết đơn giản như vậy đâu, chuyện gì xảy ra hẳn là cô có thể tưởng tượng được mà. Nếu hôm nay đổi lại là cô thì cô sẽ không đưa ra mệnh lệnh như vậy à?

Cao Văn Tâm giận dữ la lên:
- Giết thì cũng giết rồi, tại sao phải ra tay tàn khốc như vậy. Bọn họ là binh sĩ lão gia mang ra ngoài, ta biết bọn họ không có ác độc như vậy, có phải là do cô gợi ý không?

Thành Khởi Vận cụp hờ mí mắt, hời hợt đáp:
- Đương nhiên rồi! Bởi vì bản quan muốn lập oai.

Đoạn nàng đưa một ngón tay thon thả trắng ngà ra vẽ một vòng trên tấm bản đồ da bò, điềm nhiên nói:
- Ta muốn biến nơi này thành chiến trường trục lộc(6), hấp dẫn càng nhiều người trong kinh càng tốt. Khi đông người thì ta sẽ chạy, ít người thì ta sẽ giết.

Rồi nàng khẽ mỉm cười, cất giọng say sưa:
- Tuy nhiên, chiến trường quyết định thắng bại không phải là ở nơi này mà là kinh sư. Bên phía Dương đại nhân lúc này đây hẳn là còn đặc sắc hơn nữa...









Chú thích:

(1) vì hình dạng loại ghế này rất giống như chiếc mũ của quan lại nên mới có tên ấy. Xem hình: http://www.9tiancao.com/UploadFiles/...1342324369.jpg
(2) trích trong Tam thập lục kế. Tích rằng Hàn Tín vờ sai người đi sửa đường sạn đạo, vốn mất rất nhiều công sức thời gian, khiến Tam Tần yên trí rằng quân Hán còn lâu mới ra được cửa ải. Nhưng thực ra Hàn Tín dẫn đại quân đi theo đường Trần Thương đi qua huyện Cố Đạo đánh úp Ung Vương Chương Hàm. Nghĩa bóng chỉ ngoài mặt thì làm việc này, nhưng lại lén lút thực hiện việc khác.
(3) nguyên văn bát kí (tám con ngựa kí); ngựa kí ngày đi ngàn dặm mà không mệt, chỉ chung ngựa tốt.
(4) một bố cục của cờ vây, gọi là hoshi-komoku (hoshi là tám điểm đen quanh bàn cờ, gọi là sao; komoku là các điểm nằm kế bên sao và gần biên, tiểu mục là điểm 4-3, tinh là điểm 4-4). Xem hình và chú thích: http://wiki.igo.is/diag/e0d93b3561ae...4e8909c6b7.png
- san san: đánh vào tọa độ 3 3 (điểm c)
- komoku: đánh vào tọa độ 4 3 (điểm a)
- hoshi: đánh vào tọa độ 4 4 hay chính là đánh vào các sao đó bạn (điểm b)
- mokuhazushi: đánh vào tọa độ 5 3 (điểm d)
- takamoku: đánh vào tọa độ 5 4 (điểm e)
(5) nhiều quân cờ gom lại gọi là rồng, vì vậy khi bị mất một số quân lớn người ta gọi là "chết rồng".
(6) trục lộc là đuổi theo hươu, chỉ nơi mà thiên hạ cùng nhau tranh giành. Người xưa dùng hươu để chỉ giang sơn (Tích từ thời Hán-Sở tranh hùng)

Chương một trăm bốn mươi tám - Khoác Vỏ Tiểu Nhân

Bến cảng Thiên Tân.

Nhìn từ xa đã có thể thấy được lá long kỳ màu vàng sẫm của thiên tử.

Phương bắc vào tháng mười một đã rất lạnh. Hôm nay tiết trời âm u, mây đen giăng kín, lá cờ phần phật trong gió táp. Nhìn lá cờ chữ "Dương" to lớn ở xa xa, khoé miệng Trương Tú thoáng lộ một nụ cười chua chát.

Kẻ này được mình một tay nâng đỡ, vốn nghĩ rằng có thể gây dựng cho Cẩm Y vệ và Đông xưởng một người thân tín bên cạnh tân đế. Nào ngờ vận làm quan của y lại thuận lợi phi thường, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi mà y đã "phản khách vi chủ", uy hiếp đến quyền lợi của mình. Mình có thể lệ thuộc vào Đông xưởng, nhưng sao có thể khom lưng uốn gối trước mặt thuộc hạ cũ chứ?

Lão đưa mắt nhìn quanh, trên hai chiếc tàu chiến lớn cập trên bến tàu là bốn khẩu hỏa pháo được phủ kín bằng vải bố dầy cộp, chuẩn bị một khi Dương Lăng tháo chạy sẽ bắn tan thuyền của y. Đằng sau bức tường sau lưng lão là bốn mươi tay Cẩm Y vệ cầm nỏ, mười tay cầm súng đang mai phục, chỉ cần Dương Lăng vừa lộ diện bọn chúng sẽ lập tức đồng loạt khai hoả, cho dù y có bản lĩnh cỡ nào cũng đừng mong sống sót. Còn như hai ngàn tên Cẩm Y Vệ tinh nhuệ mai phục ngoài bến cảng là nhằm chuẩn bị vin tội danh phản loạn để tiêu diệt hai trăm thị vệ của Dương Lăng.

Những việc còn lại sẽ là chuyện của đám quan văn triều đình. Lão có thể tưởng tượng được khi mình đưa hơn hai trăm thi thể đã thối rữa không còn nhìn ra hình dạng về kinh, đám quan viên đó sẽ gán bao nhiêu tử tội cho Dương Lăng, kẻ có miệng mà đã không thể giải bày này.

Trương Tú thở ra một hơi thật dài. Trong lòng lão căm ghét cái đám quan văn này không thôi. Cảm giác này hình thành từ sự bất đồng về lập trường và lợi ích đôi bên, tuyệt đối sẽ không vì đôi bên có việc cùng hợp tác mà thay đổi.

Thuyền đã cập bờ, Trương Tú cười nhạt, chắp tay sau lưng nhìn tấm ván trên thuyền đang chầm chậm hạ xuống: rốt cuộc kẻ tự tìm cái chết đã đến.

Lão là thượng cấp cũ của Dương Lăng, nay tuy không còn quan hệ bề trên và thuộc hạ song địa vị lão cũng không hề thấp hơn y. Thấy lão đến đón chào, nhất định Dương Lăng sẽ chủ động xuống thuyền nghênh tiếp. Chỉ cần y vừa đạp chân xuống đất, hai trăm thanh nỏ thép sẽ găm đầy người y.

"Cộp", tấm ván hạ xuống đất, cơ thịt Trương Tú thoáng rút lại, giống như trông thấy Dương Lăng cả người đầy máu, trố mắt kinh ngạc nhìn lão rồi ngã lăn quay xuống đất.

Trên đầu thuyền xuất hiện một bóng người chạy "cộp cộp" xuống thuyền. Từ thật xa người đó đã chợt quỳ một gối xuống đất, ôm quyền thi lễ:
- Ô kìa, Trương đề đốc sao lại đến vậy? Hạ quan Liễu Bưu bái kiến đại nhân.

Trương Tú vốn cảm thấy người này rất quen mặt, vừa nghe gã tự báo tên họ mới nhớ ra đây là một tên hiệu uý nho nhỏ trong Cẩm Y Vệ, nay lại đã trở thành Thiên hộ của Nội xưởng. Lão đưa tay đỡ hờ, hỏi:
- Thì ra là ngươi à? Đứng lên đi! Dương đại nhân đâu, sao không thấy y?

Liễu Bưu tươi cười bước tới nghênh tiếp, rồi gật đầu khom lưng đáp:
- Dương đại nhân phải vội vào kinh gặp Hoàng thượng, giữa đường đã xuống thuyền đi đường bộ rồi. Ha ha ha! Đại nhân không phải người ngoài, hạ quan cũng không sợ ngài biết, có vị đại nhân nào làm việc mà không tiện đường mang theo chút hàng lậu chứ?
Trên thuyền toàn bộ đều là hàng hoá phương nam, mấy ngày trước đã chuyển vào kinh một thuyền rồi. Nếu lại đưa mấy thứ này vào kinh nữa, sẽ rất dễ khiến cho người khác chú ý cho nên mới đỗ ở bến Thiên Tân. Chốc nữa tiểu nhân sẽ thông báo cho thương gia bản địa đến nhận hàng trước, nghỉ lại hai ba ngày rồi mới sẽ về kinh.

Trương Tú thầm nghĩ: "Quả nhiên y giương đông kích tây, âm thầm đi đường bộ." Lão lướt mắt nhìn, thấy trên thuyền lưa thưa lớt thớt cũng không thấy mấy người, Trương Tú cười nhạt, khoát tay nói:
- Nếu đã như vậy thì ngươi đi làm việc đi! Bản đốc cùng Dương đại nhân lâu ngày không gặp, ta vốn định đãi rượu để chuyện trò, giờ đành phải đợi vào kinh mới nói tiếp vậy.

Liễu Bưu nhìn theo bóng lưng lão, cũng thở dài tự đáy lòng: "Tai ách do Trời thì còn tránh được(1). Trương đại nhân ơi Trương đại nhân! Ông vội vã hồi kinh đưa tiễn tiền đồ tính mạng của mình như vậy, ấy là tự làm tự chịu, đừng trách ti chức không độ lượng nhé.”

Đi khỏi một hồi, Trương Tú ám thị cho cung tiễn thủ mai phục hai bên rút lui. Chỉ huy thiêm sứ Hạ Lạc thấp giọng hỏi:
- Đại nhân! Không thừa cơ xử lý bọn chúng à?

Trương Tú trừng mắt:
- Để bọn chúng buôn bán đồ vật của chúng đi. Dương Lăng không có mặt trên thuyền, xử lý mấy tên tôm tép này thì có ích gì? Mà ngược lại còn bị người ta nắm thóp cho!

Lão suy nghĩ một lúc, rồi quay đầu nhìn đám phiên tử nhàn nhã trên thuyền, thấp giọng căn dặn:
- Nhiều người rối mắt. Ta mang hai ngàn người chia làm bốn tốp về kinh tụ hợp với nhân mã của Bắc trấn phủ ty. Chỉ cần Dương Lăng vừa chết, sẽ lập tức xin thánh chỉ san bằng Nội xưởng. Nơi này giao cho ngươi, chú ý động tĩnh trên thuyền.

* * *


Rốt cuộc tin tức ngay sau khi Vương Quỳnh đấu khẩu cùng Dương Lăng trên bàn tiệc thì gặp phải độc thủ cũng được dịch trạm truyền vào kinh sư. Quan viên Đốc Sát viện, Hàn Lâm viện và Lục Bộ khí thế sục sôi, ùn ùn tề tụ trong phủ đại học sĩ Lưu Kiện.

Chiếc kiệu nhỏ của Lý Đông Dương dừng trước cửa phủ. Vừa bước vào sân, quan viên các bộ liền đã vây quanh ông, nhao nhao kêu gào:
- Lý đại học sĩ! Dương Lăng xem thường vương pháp, không kiêng nể ai; giống hung bạo này không trừ, triều đình sẽ không yên đâu. Lý đại nhân, ngài phải chủ trì công đạo cho Vương lão thượng thư à!

Mặt nặng như chì, Lý Đông Dương liên tục chắp tay vái chào mọi người, chân vẫn bước thẳng đến thư phòng của Lưu Kiện, trông thấy ngoài thư phòng đã có Lục Bộ Cửu Khanh đang ngồi. Những người này lại vẫn bình tĩnh, thấy lão chỉ hơi gật đầu.

Lý Đông Dương gật đầu chào rồi bước vào trong thư phòng. Lưu Kiện và Tạ Thiên đang buông thõng hai tay ngồi đối diện nhau, không ai mở miệng nói một lời nào.

Thấy ông bước vào, Lưu Kiện mới chậm rãi lên tiếng:
- Tân Chi, ông nghe nói rồi chứ?

Lý Đông Dương gật đầu nhè nhẹ, đáp:
- Có nghe, nhưng mà... Cho dù Dương Lăng có ngang ngược hơn đi nữa, liệu y sẽ vì tranh cãi mà hành hung giết người, mưu hại trọng thần triều đình không?

Tạ Thiên cười khổ một tiếng, nói:
- Ai sẽ thanh minh cho y đây? Là ông, hay là tôi? Kẻ này vốn là hạng người chúng ta cần phải loại trừ, giờ đây mọi người khí thế bừng bừng, chúng ta vốn là kẻ đứng đầu bá quan, nếu như lúc này dừng lại hoặc thay đổi phương hướng thì chính chúng ta cũng sẽ bị bọn họ giẫm dưới chân thôi! Tình hình... đã không còn do chúng ta khống chế được nữa.

Trong mắt Lý Đông Dương loé lên hai đốm lửa nhàn nhạt, ông trầm giọng:
- Đông xưởng còn nóng lòng muốn giết Dương Lăng hơn cả ông và tôi. Tôi chỉ hoài nghi...

Lưu Kiện kiên quyết:
- Vương lão thượng thư bị giết đã là sự thật không thể chối cãi, hung thủ không phải Dương Lăng thì là Đông xưởng. Nhưng lúc này đây, thời và thế như vậy, chúng ta còn có thể khai chiến với Đông xưởng sao? Huống hồ ai sẽ thuyết phục bá quan đây? Nếu như áp chế bọn họ, làm cho mọi người nổi giận thì e rằng ông và tôi... đều sẽ tự rước lửa thiêu mình đấy.

Lý Đông Dương không nói gì. Ông cũng biết mặc kệ là ai đã giết Vương Quỳnh, một người muốn làm nên đại sự đều phải thuận theo thời thế mà diệt trừ Dương Lăng trước. Về phần Đông xưởng... một khi Dương Lăng bị diệt trừ, quyền thế ngoại đình sẽ lên cao, sau đó từ từ thu thập bọn chúng cũng không muộn. Lúc này mà muốn khai chiến với cả hai mặt thì thật không khôn ngoan chút nào.

Tạ Thiên vịn bàn nói:
- Khi nãy, tôi cùng Lưu đại nhân đã bàn bạc qua với Lục Bộ Cửu Khanh. Chỉ cần ông cũng đồng ý, chúng ta sẽ liên danh dâng sớ cầu xin hoàng thượng giết Dương Lăng, trừ Bát Hổ. Ý ông thế nào?

Lý Đông Dương trầm ngâm hồi lâu rồi cười khổ sở, giọng yếu ớt:
- Giờ đây, chúng ta còn có thể lựa chọn phương cách khác hay sao?

* * *


- Hoạn quan, hoạn quan! Chẳng lẽ triều đình đều do hoạn quan gây hại sao? Xưa nay số triều thần gây chuyện xấu xa chiếm đến sáu bảy phần, vậy mà lúc nào cũng lôi hoạn quan ra nói!
Chính Đức đang ngồi trên long án, vừa giở một bức tấu chương ra xem sơ một lượt thì đã giận dữ quẳng đi. Rải rác khắp thư phòng toàn là những bức tấu chương đã mở. Ở trên hắn ném, ở dưới hai tiểu thái giám quỳ mọp sát đất, trán mướt mồ hôi.

Lúc này, một tên tiểu thái giám run rẩy khẽ giọng:
- Hoàng... Hoàng thượng, đại học sĩ nội các có tấu chương khẩn.

- Trình lên đi!
Chính Đức đỏ mặt hổn hển, nghe nói lại có tấu chương thì hắn không khỏi phẫn nộ vỗ bàn đánh bộp.

Tấu chương vương vãi đầy trên mặt đất. Tên tiểu thái giám nọ cũng không dám sơ ý đạp lên, đành phải lập tức nhón chân lách qua lách lại như múa đến bên cạnh Hoàng thượng, trình lên một quyển tấu chương dày cộm.

Chính Đức vừa giở ra xem, liền không khỏi sững người. Đại học sĩ Hoa Cái điện, đại học sĩ Cẩn Thân điện, đại học sĩ Vũ Anh điện, các bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Công, Hình, còn có Đô Sát viện, Thông Chánh sứ, Đại Lý tự, Lục Bộ Cửu Khanh, ngự sử của Lục khoa thập tam đạo... phía sau là một dãy các loại tên tuổi bút tích. Chính Đức đã không thể tiếp tục xem được nữa.

Trước mắt hắn dường như đang có mấy trăm cái đầu chen chúc, kêu gào với hắn:
- Giết Dương Lăng, trừ Bát Hổ, thanh lọc bầy tôi bên cạnh vua! Bằng không chúng ta sẽ giũ áo từ quan, giao cho ngươi cái giang sơn to đùng như vầy để ngươi tự đi mà quản lý lấy!

Chính Đức đặt mông ngồi phịch xuống ghế, buồn rầu nhìn về phía trước. Trong điện, mấy tên tiểu thái giám nhận thấy thần sắc Hoàng thượng không tốt, lập tức hành động đã nhẹ lại càng nhẹ nhàng hơn, thậm chí thở cũng không dám thở mạnh.

Khuôn mặt béo tròn tươi cười của Cốc Đại Dụng ở ngoài cửa nhìn vào một lúc, sau đó lão rón rén bước vào, vẫy tay ra hiệu cho mấy tên tiểu thái giám trong điện. Như được đại xá, mấy tên này lật đật lui ra.

Cốc Đại Dụng bước đến bên cạnh Chính Đức, nhún nhường mỉm cười hỏi:
- Hoàng thượng lại vì chuyện trong triều mà ưu sầu à? Không phải là còn có đám lão thần của Lục Bộ Cửu Khanh sao? Bọn họ đều là thần tử mà tiên hoàng để lại cho người, một lòng trung thành. Hoàng thượng tuổi còn nhỏ, có việc gì cứ giao cho bọn họ làm là được rồi. Đã ăn bổng lộc của triều đình, có lý nào lại không san sẻ lo âu cho vua chứ?

Chính Đức ngơ ngác đưa mắt nhìn lão:
- Đại Dụng, ngươi đến rồi à?

Cốc Đại Dùng khom lưng thưa:
- Dạ, lão nô đã sai người ở Báo phòng (phòng nuôi báo) thuần phục thêm được hai con báo, định để khi Hoàng thượng lo phiền về quốc sự có thể đến đó tìm vui...

Đoạn lão trộm liếc nhìn những tấu chương chưa được nhặt lên, khoé mắt thoáng giần giật, rồi đổi giọng:
- Từ nhỏ, Hoàng thượng đã được lão nô hầu hạ, khi đó mỗi khi thấy người cười, trong lòng lão nô như có hoa nở vậy. Giờ đây mắt thấy người lên làm Hoàng thượng rồi, là thiên tử Đại Minh, chủ của cả thiên hạ, ấy vậy mà lại không vui vẻ gì, trong lòng lão nô...

Lão vừa nói mà vừa không nén được lệ rơi, bèn vội quẹt nước mắt, tự trách:
- Lẽ ra lão nô phải làm cho người vui, thế nào lại khóc rồi. Lão nô đáng chết, lão nô đáng chết!
Vừa nói lão vừa vả mạnh vào miệng mình mấy cái.

Chính Đức nhìn thấy, bỗng nhiên đứng bật dậy khóc lớn. Thấy vậy, Cốc Đại Dụng vội vã quỳ mọp xuống đất dập đầu lia lịa:
- Lão nô đáng chết! Lão nô đã làm cho Hoàng thượng không vui!

Chính Đức kéo lão dậy, khóc nấc:
- Đại Dụng, đứng lên cho trẫm. Trẫm còn nhớ, lúc trẫm còn nhỏ nghịch ngợm trèo cây, ngươi đứng dưới gốc cây cầu xin ta leo xuống, sợ đến túa cả mồ hôi. Trẫm vừa trượt tay ngã xuống là ngươi đã lao tới đỡ cho trẫm. Giày của trẫm cào một vết dài trên cổ ngươi, máu chảy ròng ròng, thế mà ngươi chỉ cố ôm trẫm mà kêu lên "Thái tử gia bình an vô sự". Trẫm... trẫm...

Rồi hắn lại khóc rống lên, đập bàn gào lên như một con thú bị nhốt trong cũi:
- Nghĩ ra mấy trò chơi cho trẫm, làm cho trẫm vui, sao lại thành gian thần thập ác bất xá(2) chứ hả?

Nước mắt giàn giụa, tiểu hoàng đế lại than trách:
- Còn Dương thị độc nữa, bọn họ nói y tham quyền tự quyết, dã tâm bừng bừng, ta khinh! Bọn họ mù hết rồi hay sao, công việc đó không phải là trẫm kiên quyết phái cho y sao? Thậm chí là đường đường chức thượng thư mà y cũng không chịu làm, còn nói y dã tâm bừng bừng?

Chính Đức kể tiếp, giọng nhão nhoẹt:
- Trẫm muốn dùng người của mình, lại không để y can dự triều chính, vậy mà cũng không được sao? Vậy mà cũng không được sao? Bọn họ ức hiếp trẫm như vậy, hở một tí là dọa bãi quan không làm. Rốt cuộc bọn họ muốn trẫm phải như thế nào đây?

Khoé mắt Cốc Đại Dụng giần giật, lão cười nịnh:
- Hoàng thượng đừng khóc! Hoàng thượng đừng gào thét! Người là thiên tử, mọi người trong thiên hạ đều phải nghe người. Nếu bị nhìn thấy há sẽ chẳng khiến người ta chê cười ư?

Lão chưa dứt lời, lời nói của lão nào chỉ như dầu châm vào lửa, Chính Đức vừa nghe liền lập tức nổi giận quát:
- Ai nghe trẫm chứ? Ai nghe trẫm chứ? Toàn là trẫm phải nghe bọn họ, trẫm giao toàn bộ quốc sự cho bọn họ, vậy mà vẫn chưa đủ.
Trẫm muốn ăn gì, mặc gì, lúc nào thì ngủ, lúc nào thì dậy đều phải nghe theo bọn họ. Ngươi nói thiên hạ là của trẫm ư? Ngay cả ở trong cung đây, bọn họ cũng quy định nơi nào trẫm có thể đi, nơi nào không thể đi. Thiên hạ này rốt cuộc là của ai?

Thấy Chính Đức nổi cơn tam bành, Cốc Đại Dụng cũng không dám khích thêm, bèn rụt rè tâu:
- Hoàng thượng bớt giận. Bọn họ dâng tấu chương cũng không phải là một lần hai lần, người cứ phong hoàn(3) lại cũng được rồi, chớ để tổn hại đến thân thể mình.

Chính Đức lau nước mắt, rồi cầm quyển tấu chương trên bàn lên, cười như mếu:
- Phong hoàn? Lần này Tam công của Nội Các, Lục Bộ Cửu Khanh, bá quan văn võ bức trẫm đến thoái vị đến nơi rồi, ngươi muốn trẫm phải làm sao đây?

Ngoài cửa, đám người Lưu Cẩn sớm đã lặng lẽ đứng chờ ở đấy. Nghe đến đây, rốt cuộc cả bọn đã tin việc văn võ cả triều có ý định chém đầu tất cả bọn họ mà Dương Lăng kể là thật, và việc mình được những thái giám quản sự nọ tâng bốc quả thật chính là gian kế của Đông xưởng.

Trước đó Dương Lăng cùng Mã Vĩnh Thành ngồi chung một kiệu bí mật vào cung, hẹn mời Bát Hổ bàn về việc này. Không ngờ tám tên thái giám kiêu ngạo quyền lực ngút trời trong lịch sử này lại nhát như cáy, vừa nghe mình đã khiến cho mọi người phẫn nộ liền sợ cụp cả đuôi. Mấy ngày nay mặc cho đám thái giám quản sự nọ ba hoa khoác lác ra sao, bọn họ cũng không dám xúi giục Chính Đức rời cung nữa, chỉ mong sao các triều thần có thể tha mạng cho bọn họ.

Giờ nghe nói thậm chí cả Tam công và Lục Bộ Cửu Khanh đều ra mặt, tuy rằng bọn họ không có học nhưng cũng biết rõ mức độ nghiêm trọng của tình hình. Bọn họ bèn giở chiêu "chúi nhủi" bò vào, rồi theo cách Dương Lăng dạy cho mà vừa tru khóc vừa kể lể, nào là đã hầu hạ mọi việc ỉa đái của Chính Đức từ lúc hắn còn bú tí thế nào, rồi tận tâm tận lực làm cho hắn vui ra sao.

Tên nào tên nấy khóc lóc kể lể như đỗ quyên than mất nước, thực khiến kẻ thấy đau lòng, người nghe rơi lệ. Hoàng đế Chính Đức cũng không thèm nghĩ vì sao bọn họ lại hay tin mà chạy đến đây, hắn nghe mà chỉ thấy đau lòng, càng khóc lớn: trừ Tiên hoàng ra, có thể nói những kẻ trước mặt này là những người gần gũi với hắn nhất. Đám đại thần kia nói bọn họ giống như là yêu ma quỷ quái mặt xanh nanh vàng thì làm sao mà vị thiên tử trẻ tuổi này chịu tin kia chứ?

Dương Lăng lặng lẽ đứng bên ngoài, thấp giọng hỏi Miêu Quỳ:
- Đã khống chế hết mọi người rồi chứ?

Miêu Quỳ gật nhẹ đầu, đáp:
- Dương đại nhân yên tâm. Bắt đầu từ bây giờ, những người bên cạnh Hoàng thượng đều đã có thân tín của Ngự Mã giám bố trí theo dõi sít sao, đừng hòng có ai tiếp cận với bọn chúng. Có điều... nếu như Hoàng thượng vẫn không đưa ra quyết định thì làm thế nào? Chúng ta đã ra tay, nếu lại xếp cờ dẹp trống* tất sẽ khiến cho bọn chúng chú ý.
(*: ý nói đình chỉ mọi hoạt động)

Dương Lăng khẽ thở dài một hơi rồi đáp:
- Hoàng thượng còn nhỏ, phải dựa vào văn võ cả triều để trị vì giang sơn. Muốn người mạo hiểm chấp thuận lời từ quan của tất cả bá quan, quả thực là làm khó cho người.

Rồi y thoáng nhếch môi cười nhạt:
- Tuy nhiên... Dương mỗ cũng là người sớm đã lăn lộn trên quan trường. Ngoại trừ quyền lực thì quan trường lớn và quan trường nhỏ cũng chẳng có gì khác biệt. Bọn họ có thể xin từ quan, Hoàng thượng có thể không đồng ý.

Nghĩ đến hiện trạng những học sinh cực khổ đọc sách mười năm vào kinh thi cử, nhớ đến khung cảnh Nghiêm Tung vì để vào được trường thi mà dập đầu như giã tỏi, Dương Lăng khẽ nhếch mép khinh thường:
- Công danh và lợi lộc không dễ có. Ta thấy số người biết thời biết thế ở lại tiếp tục làm quan chắc chắn sẽ chiếm đa số, tiếp theo sẽ lung lạc bọn họ thêm một chút nữa. Chỉ cần chúng ta cầm chân được những người làm việc cụ thể, trực tiếp xử lý công việc thì khi đó mấy vị thượng thư, mấy vị học sĩ có muốn đi thì cứ để bọn họ đi đi thôi.

Lúc này Lưu Cẩn thấy Hoàng thượng chỉ lo khóc rống mà không có vẻ gì là có biện pháp để chống lưng cho bọn họ, bèn lau nước mắt bẩm:
- Hoàng thượng! Việc trong cung của người, sao ngoại thần lại biết tận tường như vậy? Đó là vì có ty Lễ Giám, Đông xưởng và Cẩm Y Vệ chống lưng đằng sau đó. Bọn họ vốn phải là tai mắt của người, nhưng lại đi làm thám tử cho ngoại thần, đem kể toàn bộ những chuyện của người cho bọn họ biết, kích động ngôn quan làm khó Hoàng thượng!

Nguỵ Bân vội hùa theo:
- Phải đó Hoàng thượng! Nô tài đích thân nghe thấy Vương Nhạc Vương công công nói với ba vị đại học sĩ rằng: ”Hoàng thượng nhỏ tuổi, các vị tiên sinh thấy Hoàng thượng có chỗ nào không đúng thì cứ nói thẳng, không cần phải sợ.”

Chính Đức vừa nghe thì giận đến run người:
- Tên... tên nô tài to gan!

Mã Vĩnh Thành vì vụ đánh chết nữ quan nọ mà sinh ra hiềm khích với Dương Lăng. Song đó chỉ là việc nhỏ, giờ đây đã cùng ngồi trên một con thuyền, nếu chìm thì cùng chìm, nếu vượt qua được thì sẽ cùng vượt qua, cho nên lão cũng cật lực phối hợp mọi người, kể tội:
- Hoàng thượng! Phạm công công của Đông xưởng thường kêu nô tài đi hỏi Hoàng thượng mua những thứ gì, sau đó kể lại cho ngoại đình. Ngay cả nội khố (4) là của riêng Hoàng thượng mà bọn họ cũng nhúng tay vào, bọn họ còn để Hoàng thượng vào trong mắt không?

Sắc mặt Chính Đức trắng bệch, hắn lạnh lùng nói:
- Thường có câu "một đời vua một đời thần". Nhưng từ lúc trẫm kế vị đến nay có đụng đến chúng không? Các ngươi theo trẫm lâu năm, thế mà đến giờ cũng chưa từng ngồi lên chức vị quan trọng nào trong nội đình. Trẫm chỉ có mỗi Dương Lăng là quan viên trẫm tự thân đề bạt, lại là lập ra Nội xưởng mới, cũng chưa từng đoạt quyền của chúng. Bọn chúng lại đang làm cái gì vậy?

Trong đám người này thì Trương Vĩnh là kẻ đọc sách nhiều nhất, trông thấy Hoàng thượng sắp mất kiên nhẫn, lão bèn ôn tồn tâu:
- Hoàng thượng! Người còn nhớ vở kịch đèn chiếu mà lão nô và Khâu Tụ diễn cho người xem không? Bọn họ đang liên kết đại thần trong triều, khi dễ Hoàng thượng nhỏ tuổi, muốn biến Hoàng thượng thành con rối gỗ đó.
Bọn họ dắt tay người, thì người sẽ động tay, bọn họ dắt chân người, thì người sẽ động chân. Tóm lại, bọn họ muốn Hoàng thượng làm cái gì, Hoàng thượng sẽ phải làm...

"Bộp!" Một quyền đấm mạnh lên mặt bàn, sắc mặt Chính Đức đã từ đỏ chuyển thành tím ngắt, ngực hắn phập phồng lên xuống, gân xanh hằn rõ trên trán, hơi thở hổn hển như ống bễ lò rèn. Một lúc lâu sau, hắn mới cất giọng khàn khàn nói:
- Lòng dạ ấy thật đáng chém! Các ngươi nói thử xem trẫm phải làm sao đây?

Nghe đến câu này, Dương Lăng khép hờ mắt: "Cuối cùng Hoàng thượng đã bị thuyết phục rồi. Một câu này đã hỏi ra, hồi phong ba lớn sẽ không thể tránh nữa, mình cũng đã bị quy kết là gian thần lộng quyền, còn ai hiểu cho mình đây?
Nhưng... sao mình lại nhất định phải làm cho người ta hiểu chứ? Kỳ hưng dã bột yên, kỳ vong dã hốt yên(5), mình cũng chỉ là một quân cờ bị vận mệnh sắp đặt đến nơi này mà thôi. Mình phải giở thủ đoạn chớp giật nhưng vẫn giữ tâm địa Bồ Tát, chỉ cần mình không thẹn với lòng còn mặc kệ người khác nhìn mình như thế nào!"
Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn mở mắt, ánh mắt trở nên kiên nghị.

Lưu Cẩn vừa nghe Chính Đức nói vậy, tinh thần bất giác phấn chấn, bèn vội bò tới phía trước tâu:
- Thân khuyển ưng chó ngựa sao có thể tổn hại đến chính sự chứ? Xưởng vệ là do Hoàng thượng người lập ra, muốn dùng ai loại ai, còn không phải bởi một câu của người ư?

Nghĩ đến một dãy tên dài dằng dặc trên quyển tấu chương nọ, dũng khí xuất phát từ sự phẫn nộ khi nãy của Chính Đức không khỏi vơi đi mấy phần. Hắn lo sợ:
- Nhưng mà... Bọn họ nắm giữ mười hai đoàn doanh, sẽ gây bất lợi với trẫm không? Hơn nữa... những quan viên ngoại đình đó, nếu thật sự đều giận trẫm mà đi, vậy... vậy trẫm sẽ phải làm sao?

Trương Vĩnh mỉm cười đáp:
- Hoàng thượng yên tâm! Dương Lăng Dương đại nhân nhận lệnh của người, đốc sát (quản lý và giám sát) bá quan, vẫn luôn tận trung với chức vị, không dám có chút lơ là. Nghe nói nội đình và ngoại đình liên thủ bức bách Hoàng thượng, y đã chạy suốt đêm ngày về kinh, xả thân hộ giá. Dương đại nhân tất có kế hay.

Vừa nghe, liền như có được phương cách giải quyết vấn đề, Chính Đức kinh ngạc mừng rỡ reo lên:
- Dương thị độc hồi kinh rồi à? Y đang ở đâu? Mau! Mau gọi y vào gặp trẫm!

Từ dưới bóng râm cửa cung, Dương Lăng lách người bước ra, rảo bước về phía trước. Y vừa vén áo bào định nghiêng người quỳ xuống, Chính Đức đã ôm chầm lấy y, giọng run run mừng rỡ:
- Dương thị độc, Dương thị độc! Khanh thật đã trở về rồi. Trẫm bị bọn họ ức hiếp đến khổ, có khanh ở đây trẫm không phải sợ nữa.

* * *


Bắc trấn phủ ty.

Hoàng hôn vừa buông xuống, Trương Tú đã dẫn năm trăm tên Cẩm Y Vệ chạy về đến nơi. Mâu Bân vội vã ra nghênh đón:
- Đại nhân! Sao muộn thế này mà đại nhân còn chạy từ Thiên Tân vệ đến đây vậy?

Trương Tú thấy lão vận quân trang thì không khỏi thoáng ngẩn ra, hỏi:
- Không phải là ngươi thường hay mặc thường phục trong nha môn sao? Mới vừa đi ra ngoài à?

Ánh mắt Mâu Bân thoáng lóe lên, lão đáp:
- Đâu có! Mấy ngày nay tình hình căng thẳng, ti chức nào dám lơ là. Từ lúc đại nhân đến Thiên Tân vệ để chờ thuyền của Dương Lăng, trong kinh ti chức lúc nào cũng gối giáo mà chờ. Thế nào rồi ạ, có bắt được Dương Lăng không?

Trương Tú khoát tay, ra hiệu cho năm trăm tên Cẩm Y vệ nọ giải tán vào trong các phòng xá sau hậu viện nghỉ ngơi, rồi vừa bước vào trong phòng vừa thở dài:
- Ngươi xem ta giống như đã bắt được y lắm sao? Y chọn đi đường bộ, có điều Đông xưởng đã phái ra gần hai vạn năm ngàn người bày thiên la địa võng dọc đường. Y muốn vào kinh, trừ khi lắp cánh mới bay về được thôi!

Trương Tú đã quen thuộc từng ngóc ngách trong thư phòng của Mâu Bân cho nên không chút câu nệ bước thẳng vào, rồi đi ra sau bàn ngồi. Thấy Mâu Bân bước theo vào nhưng lại đứng cạnh cửa, lão không khỏi cười lớn:
- Không phải là ngươi chưa từng làm đại sự, không cần phải căng thẳng như vậy. Đâu phải chúng ta chưa từng bắt quan lớn nhất nhị phẩm đâu? Huống gì đây chỉ là con chó nhà có tang Dương Lăng!

Mâu Bân cười nói:
- Quan lớn nhất nhị phẩm của triều đình, ti chức đương nhiên đã từng bắt, nhưng ti chức lại chưa từng bắt Đề đốc Cẩm Y vệ bao giờ, sao có thể không căng thẳng chứ?

Trương Tú nghe vậy lập tức đứng bật dậy, không chút suy nghĩ liền chụp lấy thanh bội kiếm treo trên tường. Chỉ nghe một tiếng "choang", lưỡi kiếm ngân lên, tiếng ngân dằng dặc rung lên còn chưa dứt, Trương Tú đã cầm kiếm búng người phóng qua chiếc bàn, nhẹ nhàng như én lượn trên mặt nước.

Ngẩng đầu nhìn lại, Tiền Ninh đã từ ngoài cửa lách vào, trên tay cầm hai cây nỏ thép, mỉm cười nhìn lão. Nỏ đã lên dây, trên nỏ lắp một loạt những mũi tên đen nhánh. Lúc này bức bình phong bên trong cũng đổ rầm xuống, bốn tay Cẩm Y Vệ cầm nỏ đang đứng phía sau. Trương Tú thấy vậy thì không khỏi chán nản buông tay.

Mâu Bân dằn đao cười nói:
- Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt. Đại nhân rốt cuộc cũng đã thức thời. Huynh đệ một nhà cả, đừng động đao động thương làm tổn thương hoà khí là tốt nhất. Lúc này ti chức chỉ hy vọng người của Đông tập sự xưởng cũng biết thức thời, bằng không sẽ khiến người của ngoại đình nhìn vào chê cười.

Trương Tú vừa kinh hoảng vừa giận dữ, quát to:
- Mâu Bân, ngươi muốn tạo phản hay sao? Dám bắt giữ bản quan! Trong Đông tập sự xưởng lúc này đang có tám ngàn phiên tử đồn trú, chỉ với một ngàn nhân mã của ngươi mà cũng dám lấy trứng chọi đá ư?

Mâu Bân tặc lưỡi:
- Đại nhân! Ti chức vừa khen ngài thức thời, sao giờ lại đã hồ đồ rồi. Đông xưởng ấy à, dĩ nhiên tự có vị Dương đại nhân lắp cánh bay về kinh đi bắt quân phản nghịch đó rồi. Ti chức nào dám tranh công đầu với y chứ?

Trương Tú lùi về sau mấy bước, kinh hãi thốt lên:
- Y... y đã về kinh rồi?

Mâu Bân nhìn lão ta bằng ánh mắt thương hại:
- Không biết mình không biết người thì sao có thể thắng được đây? Ti chức cũng mới vừa biết đây thôi. Dương đại nhân đổi ngựa không đổi người, cải trang làm thương nhân buôn ngựa từ Kim Lăng đi vội suốt ngày đêm, đã về kinh được năm hôm rồi!

Trương Tú nghe vậy, sắc mặt lập tức trắng bệnh. Mâu Bân thở dài một tiếng rồi quay người thong thả bước ra khỏi phòng, khoan thai:
- Tiền Ninh! Tuyên khẩu dụ của thánh thượng đi!

Mâu Bân bước ra khỏi phòng khách, nghe tiếng của Tiền Ninh vẳng lại bên tai:
- Điều tra được Đề đốc chỉ huy sứ Trương Tú của Cẩm Y vệ cấu kết với ty Lễ Giám và Đông xưởng mưu hại đại thần, có ý đồ làm loạn. Nay hạ lệnh lập tức bắt giữ, chờ ngày thẩm vấn!

Chú thích:

(1) nguyên văn "Thiên tác nghiệt, do khả hoạt" trích trong Kinh Thư "Thiên tác nghiệt, do khả vi. Tự tác nghiệt, bất khả hoạt". Ý nói "hoạ do ông trời gây ra thì mình còn tránh được, chứ tội do mình gây nên thì mình sẽ phải gánh lấy (chết)."
(2) nguyên chỉ mười tội ác không thể tha thứ thời phong kiến. Bao gồm: mưu phản, đại nghịch, phản quốc, ác nghịch, bất đạo (tàn ác, hung bạo...), đại bất kính (trộm đồ, dối gạt vua), bất hiếu, bất mục (mưu giết, bán người thân), bất nghĩa, loạn luân. Sau chỉ chung các tội ác tày trời.
(3) niêm phong trả lại thì gọi là phong hoàn. Thường dùng cho chiếu, sắc.
(4) nội đình có kho riêng, để vua trực tiếp chi dụng, gọi là nội khố
(5) tạm dịch "nơi ấy bỗng dưng hưng thịch, nơi ấy bất chợt diệt vong", ý nói sự thay đổi giữa thịnh vượng phồn vinh và diệt vong mất nước luôn không ngừng thay đổi. Câu này được trích từ trong "Tả truyện", chép rằng: "Vũ, Thang tội kỷ, kỳ hưng dã bột yên; Kiệt, Trụ tội nhân, kỳ vong dã hốt yên." (tạm dịch: Vua Vũ vua Thang tự trách bản thân, nơi ấy bỗng chốc thịnh vượng phồn vinh; vua Kiệt vua Trụ trách tội người khác, nơi ấy đột ngột suy tàn diệt vọng."

Chương 149 - Chém đầu đoạt doanh

------------------------

Lúc này, kế hoạch phản kích đã chính thức bắt đầu.
Kế hoạch đó đã được Dương Lăng cùng nhà thiên tài về mưu mô là Tiểu Lâu và nguyên Thiên hộ của Cẩm y vệ là Ngô Kiệt bàn bạc suốt một đêm, lại được Nam trấn phủ ty Triệu trấn phủ và Xưởng công Tây xưởng Miêu Quỳ giúp cho hoàn thiện.

Cao Phượng và La Tường đã âm thầm báo tin cho Thái hậu, Hoàng hậu, các Quý phi và các công chúa, các nhân vật quan trọng của hoàng thất, mượn danh nghĩa Thái hoàng thái hậu triệu kiến xem kịch mà tập trung toàn bộ vào trong Từ Ninh cung. Ba trăm quan binh Đằng Tương doanh của Ngự Mã giám rút đao, lắp cung, thương kích rợp trời, vây quanh bảo hộ Từ Ninh cung.

Trong Tây Noãn các ở cung Càn Thanh, cứ cách ba bước lập một trạm, năm bước xếp một đội, hoàng đế Chính Đức ngoài mặc long bào, trong khoác nhuyễn giáp ngồi ngay ngắn. Mắt thấy binh tướng trang nghiêm nhất nhất tuân theo mệnh lệnh do mình đưa ra, lòng hiếu chiến trong máu hắn đã chiến thắng nỗi khiếp sợ. Hắn vỗ về thanh bảo kiếm khảm rồng nạm vàng trên long án, khuôn mặt anh tuấn hào hứng đến đỏ bừng, vô cùng khoái chí chỉ huy ngàn quân ra chiến trường giết địch.

Tướng chỉ huy của bốn vệ doanh Đằng Tương, Vũ Tương, Tả Vệ và Hữu Vệ thuộc Ngự Mã Giám phụng tướng lệnh của Miêu Quỳ lần lượt chạy đến bốn cổng thành. Miêu Quỳ tự thân cầm ba trăm người chạy đến ty Lễ Giám.

Tuy ty Lễ Giám khống chế nội đình, quản thúc Đông xưởng, Cẩm y vệ và mười hai đoàn doanh nhưng trong đại viện lại chỉ có khoảng trăm tay thái giám tay không tấc sắt. Vũ lực trong cung hoàn toàn nằm trong tay Miêu Quỳ. Hoằng Trị an bài như vậy là để giúp cân bằng nội hoạn (nội quan, thái giám), nay quả nhiên đã phát huy tác dụng.

Lúc trời vừa nhá nhem, do phiên tử Đông xưởng đang trắng trợn lùng bắt Dương Lăng ngoài kinh thành nên để thu được tin tức kịp thời thì đám đại thái giám Trương Thọ và Lý Vinh đều đã tề tụ trong phòng Vương Nhạc.

Trương Thọ đang hào hứng kể:
- Quả nhiên ngoại đình đã liên danh dâng sớ, bức Hoàng thượng giết Dương Lăng, trừ Bát Hổ, hiện vẫn chưa có tin tức gì đưa ra song số tấu chương mà bá quan trình lên sau buổi tảo triều phỏng chừng đã đủ khiến Hoàng thượng luống cuống tay chân rồi. Một khi tấu chương của Lục Bộ Cửu Khanh được dâng lên thì Hoàng thượng không hoang mang lúng túng mới lạ. Đợi Dương Lăng chết đi, chúng ta sẽ lập tức thông tri cho ba đại học sĩ cùng Phạm Đình đồng loạt vào cung, dâng cái đầu người bê bết máu lên tất đại sự sẽ định. Vương công công, ngài xem đến lúc đó ta sẽ xử lý Nội xưởng như thế nào đây? Ty Lễ Giám đã có mấy vị công công khác giúp đỡ nên cũng sẽ không có chuyện gì lớn. Chúng ta không thể lại trao cái “thanh đao” Nội xưởng sắc bén đó cho người ngoài đâu à.

Lý Vinh vừa nghe liền lấy làm không vui:
- Trương công công túc trí đa mưu, sao có thể rời khỏi bên cạnh Vương công công chứ? Vương công công, chi bằng cái Nội xưởng này hay là giao cho ta đi, lão gia nói sao?

Mặc dù Vương Nhạc hiền lành nhưng cũng nghe biết được mấy thân tín này lại đang tranh quyền đoạt thế. Lão nhíu mày mắng:
- Bây giờ tranh cái gì mà tranh hả? Dương Lăng còn chưa chết mà, đến lúc đó rồi hẵng nói...

Lão thấy Lý Vinh như đang có điều muốn nói, bèn bảo:
- Nội xưởng cũng như là Đông xưởng, là cơ hội để qua lại với ngoại đình bên ngoài nhiều hơn. Trương Thọ có kiến thức và nhãn lực hơn, biết ăn nói, ta thấy hay là giao Nội xưởng cho Trương Thọ đi. Về phần ngươi... thì qua Tây Xưởng vậy.

Lý Vinh giật mình buột miệng thốt:
- Tây xưởng? Ý công công là cũng muốn tóm cả Miêu Quỳ ư?

Vương Nhạc "ừm" một tiếng, nói:
- Miêu Quỳ lâu nay vẫn luôn an phận, chưa từng gây ra chuyện gì, ban đầu ta vốn còn không cảm thấy Tây xưởng của hắn có tác dụng gì, nên không đụng đến hắn. Lần này thu thập Dương Lăng, Đông xưởng đã phái ra hơn hai vạn người, thế mà đến giờ vẫn chưa bắt được hắn ta. Ta mới nghĩ, nếu như Tây xưởng nằm trong tay chúng ta thì chúng ta có còn phải động đến can qua như vậy không? Chỉ cần hắn vừa bước vào trong cung, chúng ta liền sai Ngự Mã giám chém hắn không phải là xong ngay sao? Cho nên, hay cứ giao cho Miêu Quỳ chức quan nhàn nhã nào đó để dưỡng lão đi. Nhân mã của bốn vệ này trong cung vô cùng quan trọng, phải thu về tay.

- Ha ha ha ha... - Một tràng cười quái gở truyền vào, Miêu Quỳ luồn tay vào trong tay áo, ngang nhiên sải bước tiến vào, cặp mắt díp lại thành một đường, loé lên vẻ lạnh lùng sắc lẹm, cười mà như không cười, nói:
- Ai nói Vương công công già cả hồ đồ chứ? Đầu óc ấy vẫn còn minh mẫn lắm.

Hà Đại Xuân từ bên giường nhảy xuống, giận dữ mắng:
- To gan! Ngươi dám nói với Vương công... - Vừa nói đến đây tròng mắt lão đột nhiên trợn trừng, âm thanh nghẹn lại trong cổ không thốt ra được nữa.

Mấy người ngồi khuất trong nhìn không thấy bên ngoài, song lão vừa nhảy xuống giường đã trông thấy ở trước cửa hai tên tiểu thái giám vốn đang canh cửa giờ đang nằm dưới đất, một quan binh của Vũ Tương vệ đang lau lưỡi đao bê bết máu lên thân thể tên tiểu thái giám đó. Trong phòng ngoài có bảy tám người đang đứng, tất cả đều là binh sĩ Ngự Mã giám tay cầm đao, mặt đằng đằng sát khí.

Hà Đại Xuân không khỏi hoảng sợ lùi lại mấy bước, lắp ba lắp bắp:
- Ngươi... ngươi... ngươi làm gì vậy?

Miêu Quỳ mỉm cười nói:
- Làm gì? Đưa quân đến dâng cho Vương công công đó! - Đoạn lão sầm mặt, lạnh lùng quát:
- Người đâu, bắt tất cả lại!

Bảy tám gã quan binh như hổ như báo xông vào đè bốn đại thủ lĩnh thái giám xuống đất, ngay lập tức có người cầm dây thừng trói bọn họ lại. Miêu Quỳ phủi áo thi lễ với Vương Nhạc đang kinh hãi đến nỗi mặt vàng như nghệ rồi mỉm cười nói:
- Vương công công, phụng khẩu dụ của Hoàng thượng, ty Lễ Giám khi quân phạm thượng phải lập tức bắt tất cả. Xin công công hãy giao Hổ phù ra.

Vương Nhạc giận đến run người, vừa trỏ Miêu Quỳ vừa thở hổn hển mắng:
- Ngươi... ngươi nói láo! Cái đồ lá mặt lá trái nhà ngươi, bình thường ở trước mặt ta thì khúm na khúm núm như con như cháu... Là ai chống lưng cho ngươi mà lại dám bắt ta?

Miêu Quỳ ưỡn lưng, lạnh lùng cất tiếng:
- Chống lưng cho ta... là đương kim Hoàng thượng!
Vương Nhạc đang ngồi bên trong giường, không mặc áo dài bên ngoài, Miêu Quỳ nhìn thấy trên thắt lưng của chiếc áo dài màu xanh nhạt của lão đeo một xâu chìa khoá bèn bước tới giật xuống rồi vứt nó cho một tên binh sĩ.

Vương Nhạc gầy nhom còm cõi, đi đứng cũng đã lẩy ba lẩy bẩy, bị Miêu Quỳ vốn xuất thân quân đội giật một cái liền té sấp xuống giường. Miêu Quỳ trỏ vào cái tủ đồng thau được lau chùi bóng loáng ở đầu giường rồi bảo:
- Mở nó ra cho ta!

Tên sĩ tốt nọ cầm xâu chìa khoá tới, tra thử mấy cái, "tách" một tiếng chiếc tủ đã mở ra. Hắn lấy từ trong tủ ra một chiếc hộp gấm bọc vải sa tanh vàng, bê đưa cho Miêu Quỳ. Miêu Quỳ vội vã đón lấy nó, cẩn thận tháo tấm vải bọc rồi mở ra. Chỉ thấy bên trong là một cái ấn vàng vuông vức, Miêu Quỳ cầm lên xem qua rồi lại đặt về chỗ cũ, buột chặt lại, cẩn thận nhét vào trong người.

Cái gọi là Điều Binh Hổ phù, chỉ là cách gọi ấn tín điều binh trong thời cổ đại, hình dạng của nó đã sớm bị đổi thành ấn tín, mà không phải là Hổ phù hai mảnh ghép lại nữa.

Thượng Bảo giám nắm giữ ngọc tỉ, ty Lễ Giám nắm giữ ấn tín điều binh của mười hai đoàn doanh và kinh doanh. Đây là một lực lượng hùng hậu, cho dù trong đó chỉ có một ít người thề tận trung với ty Lễ Giám thì hành động điều binh của bọn Vương Quỳnh vẫn sẽ khiến cho nhóm Dương Lăng lâm vào một cuộc khổ chiến chênh lệch về lực lượng.

Hơn nữa việc ty Lễ Giám có được sự ủng hộ của ngoại đình hoặc có thánh chỉ hay không nhiều lắm cũng chỉ để cho việc điều binh có thêm lý do chính đáng về mặt pháp chế mà thôi. Cho dù Hoàng đế cương quyết không chịu hạ chiếu thì ty Lễ Giám vẫn có thể điều binh, vẫn có thể dựa theo nguyện vọng của mình để thanh lọc cận thần, diệt Bát Hổ, giết Dương Lăng mà viết nên đoạn lịch sử này như thường. Cho dù là Hoàng đế cũng không thể không chấp nhận sự thật này.

Mà Nội xưởng và Tây xưởng lại nằm ở thế bất lợi về mặt chính trị, vì không có thánh chỉ nên bọn họ phải đề phòng việc bị ngoại đình mượn chuyện này làm cái cớ để phản công. Bây giờ bắt giữ các thủ lĩnh của ty Lễ Giám, giành lại Điều Binh Hổ phù, thì mới tính là đã hoàn thành "hành động chặt đầu". Bước tiếp theo là phong tỏa cung điện nghiêm ngặt.

Thở ra một hơi dài, Miêu Quỳ quát thân tín:
- Áp giải tất cả bọn chúng đi, canh giữ nghiêm ngặt!

Đám thị vệ lôi mấy vị đại thái giám mặt vàng như nghệ ra ngoài. Thân binh được Miêu Quỳ dặn dò từ trước nên cố ý trói Đới Nghĩa lại thật chậm, đợi khi mấy người kia bị đẩy đi ra ngoài rồi mới đỡ lão dậy.

Miêu Quỳ khoát tay ra hiệu cho mấy tên sĩ tốt lui ra ngoài trước, sau đó mỉm cười nói:
- Đới công công, oan ức cho công công rồi. Dương Xưởng đốc bảo ta biểu thị lòng cảm kích với công công.

Lúc này Đới Nghĩa mới biết Dương Lăng đã nhận được mật tín của mình, vậy thì hành động hôm nay nhất định xuất phát từ mưu kế của Dương Lăng rồi. Lão không khỏi hân hoan:
- Xưởng công đã biết thân phận của ta rồi à? Vậy thì tốt quá, sao... ông cũng trói ta lại vậy?

Miêu Quỳ khẽ cười, nói:
- Hiện tại Đới công công vẫn phải đóng giả làm tù phạm một chút, tảo triều ngày mai công công phải...

* * *


Kỳ quan Hà Lục Bảo bước lộp cộp xuống chỗ tường giấu quân (1), ngâm nga một giai điệu dân gian, hắn đang muốn đi giải. Vừa mới rẽ xuống, hắn chợt thấy cánh cổng cung vừa dày vừa nặng trịch đang được đóng lại, phát ra âm thanh két két. "Ầm" một tiếng, cổng đóng sập lại, cầu treo hạ xuống, đập nước đóng lại, Hà Lục Bảo thấy vậy thì không khỏi giật mình buột miệng hỏi tướng quân giữ cổng Triệu Minh Đạt:
- Triệu tướng quân, lúc này mới đầu canh (*), sao đã đóng cổng cung lại rồi?
(*) Đêm 5 canh, ngày sáu khắc; mới đầu canh là mới chạng vạng
Triệu Minh Đạt nghiêm trang nói:
- Phụng thánh dụ, khoá chặt cổng cung, không có đặc chỉ của Hoàng thượng thì ngoại thần không được đi vào, nội quan không được đi ra, những chuyện khác ngươi không cần phải biết, trở về vị trí của ngươi đi!

Tim của Hà Lục Bảo đập "thịch" một cái - "Hoàng thượng hạ chỉ đóng khoá cung điện lại? Đang xảy ra chuyện gì thế?” - Gã nhìn cánh cổng cung đóng chặt trên đập nước, biết rằng đã không cách nào để truyền tin cho người của Đông xưởng nữa. Không biết bên ty Lễ Giám...

Gã gượng cười, trên khuôn mặt mang theo chút hoảng loạn, nói:
- Ồ, ta đi tiểu tiện một chút, sẽ trở về ngay!

Triệu Minh Đạt mỉm cười rồi khoát tay, bốn thị vệ cầm đao tức thì xuất hiện. Triệu Minh Đạt cười nói:
- Hà huynh, thánh dụ đã có dặn, bản quan không thể không cẩn thận hành sự. Bốn người các ngươi đi theo Hà tướng quân, sau đó cùng Hà tướng quân quay về.

Hà Lục Bảo đảo mắt tìm cách để có thể thoát ra, nhưng vừa ngước mắt nhìn thì cánh cổng thứ hai cũng đang chậm rãi đóng lại. "Ầm" một tiếng, cổng đã được đóng chặt, một tia nắng chiều tà chiếu lên cánh cổng màu đỏ thẫm khiến cho những ụ đồng trên cánh cổng loé lên những tia sáng âm u và lạnh lẽo. Gã không khỏi thở dài một hơi rồi tuyệt vọng đi đến chỗ nhà xí ở góc tường.


Ty Lễ Giám soạn chỉ, nếu Hoàng thượng đồng ý đóng ấn lên thì gọi là thánh chỉ, nếu Hoàng thượng tự thân soạn chỉ, sau đó đóng chồng quốc tỉ lên thì được gọi là đặc chỉ. Hoàng đế Chính Đức cầm cây bút lông sói soạn ra ba thánh chỉ rồi dùng ngọc tỉ đóng lên, sai rằng:
- Trương Vĩnh, Đại Dụng, hai người các ngươi mỗi người cầm một thánh chỉ chạy nhanh đến chỗ Thành quốc công và Tào quốc công truyền chỉ, bảo hai vị quốc công lập tức tiếp quản doanh kinh sư, sẽ do hai người các ngươi làm giám quân.

Cái "khúc xương cứng" Đông xưởng này khó mà gặm nổi, tuy rằng phiên tử chủ lực đã bị dụ ra khỏi kinh nhưng Đông xưởng vẫn còn mấy ngàn nhân mã. Nếu không thể đoạt lấy doanh kinh sư, đến lúc bắt Đông xưởng ngộ nhỡ có tướng lĩnh lòng mang dị tâm trực tiếp tham chiến hoặc có kẻ mượn chiêu bài tham gia trấn áp bạo loạn mà đục nước béo cò thì rất có thể sẽ từ chính biến thành binh loạn.

Mấy ngàn phiên tử cộng thêm mấy vạn binh sĩ ở kinh thành đủ khuấy cho thành Bắc Kinh long trời lở đất. Nếu như trong hỗn chiến lại có mấy tên loạn binh thừa cơ xâm nhập vào trong phủ đệ của vương hầu công khanh cướp của giết người thì bất kể Dương Lăng có thành công hay không cũng sẽ khó tránh được cái tội tày trời ấy.

Hai vị Thành quốc công và Tào quốc công một lòng trung thành, lúc còn trẻ lại đều từng lĩnh quân, rất có uy danh trong quân đội. Hơn nữa hai người này xưa nay giữ thân trong sạch, không qua nhiều lại với bá quan trong triều.

Để bọn họ ra mặt nắm quyền tiếp quản doanh kinh sư, có thêm Trương Vĩnh và Cốc Đại Dụng làm giám quân sẽ đủ để trấn nhiếp nhân mã của kinh doanh. Dương Lăng cũng không quá hy vọng đám nhân mã trước kia vốn thuộc về ty Lễ Giám sẽ có thể mau chóng quy thuận rồi ra mặt tiêu diệt Đông xưởng hộ. Chỉ cần bọn họ án binh bất động, bảo đảm kinh sư không loạn vậy thì đã đại công cáo thành rồi.

Có điều y lại không ngờ Hoàng thượng tự cho mình là thông minh lại sai Trương Vĩnh và Cốc Đại Dụng làm giám quân, nghe xong tuy hơi kinh ngạc nhưng rồi cũng cảm thấy bình thường. Hoàng thượng vừa mới lên ngôi, lại chẳng hề quen với hai vị lão thần đó, nếu không phái thân tín bên mình trông coi thì trong lòng hắn nhất định sẽ không yên.

Về phần chia một bát canh cho Bát Hổ trong chuyện này, đó âu cũng là chuyện bất đắc dĩ. Lúc này nếu ôm hết mọi quyền lực về mình gạt Bát Hổ ra khỏi vòng tròn quyền lực như vậy thì rất không sáng suốt và hoàn toàn cũng là chuyện không thể được.

Toàn bộ tinh nhuệ của Nội xưởng đều đã sớm trở về ngoại thành phía tây chờ lệnh. Vừa về kinh, Ngô Kiệt đã dựa theo kế hoạch của Dương Lăng an bài mọi thứ. Một khi bên này (Miêu Quỳ) đoạt được binh quyền của kinh doanh vào tay thì Dương Lăng liền sẽ phát động cuộc chiến cuối cùng với Đông xưởng.

Trận chiến này vô cùng quan trọng. Nếu như Dương Lăng thất bại thì Phạm Đình thế nào cũng quyết dẫn quân đi ép vua, và lựa chọn duy nhất của Chính Đức sẽ là phóng thích đám người Vương Nhạc, ngoan ngoãn làm theo yêu cầu của ngoại đình và Đông xưởng: diệt trừ Bát Hổ. Đã bị dằn mặt như vậy, sau này mọi thứ chỉ có thể phó mặc cho bọn chúng an bài.

Chính Đức biết cuộc chiến này sẽ không dễ dàng như đối phó với ty Lễ Giám và đoạt lại binh quyền của kinh doanh. Hắn cầm thánh chỉ, song lại lo lắng nhìn Dương Lăng nói:
- Dương thị độc, Phạm Đình của Đông xưởng trẫm giao cho khanh đó. Đáng giận là doanh kinh sư và mười hai đoàn doanh bị ty Lễ Giám quản lý lâu năm, trẫm không dám dùng quân của bọn chúng. Chỉ với năm ngàn binh mã của khanh, trẫm lo là... khanh có đối phó được với tám ngàn nha sai Đông xưởng không?

Cung đã giương không thể rút tên lại, lúc này chỉ có đánh một trận, còn có lựa chọn thứ hai sao? Nhưng sao y có thể nói với Hoàng thượng những lời nhụt chí này? Dương Lăng đành tự tin mỉm cười nói:
- Hoàng thượng yên tâm, vi thần đã có tính toán. Đêm nay xông pha lâm trận tuyệt không phải lo, có điều ngày mai tảo triều chỉ có một mình Hoàng thượng đơn độc chiến đấu ngàn quân, vi thần lo rằng...

Hoàng đế Chính Đức nhướng cao mày, lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói:
- Ái khanh yên tâm, trẫm không sợ bọn họ!

Hắn ngừng lại một chút, rồi ngượng ngập nói:
- Nhưng mà... ái khanh phải trở về sớm một chút đó!

Vì sự tình cấp bách, Hoàng thượng đặc chỉ cho phép cưỡi ngựa trong cung. Trương Vĩnh và Cốc Đại Dụng cất đặc chỉ do hoàng đế Chính Đức tự tay viết, dẫn tám thị vệ đeo đao lập tức lên ngựa rời cung. Từng cánh cổng cung đóng chặt sau lưng bọn họ, trong hoàng cung là một khung cảnh đầy sát khí.

Sau khi rời khỏi hoàng cung, Trương Vĩnh và Cốc Đại Dụng liền gọi thuộc hạ một tiếng, rồi dẫn sáu người chia nhau chạy đến phủ đệ của Thành quốc công và Tào quốc công. Dương Lăng đã cải trang làm thị vệ lẫn vào trong nhóm, nay dẫn một tay thân binh nhanh chóng đi đến Bắc trấn phủ ty.

Đối với bố cục kiến trúc và phân bố binh lực bên trong Đông xưởng, Cẩm y vệ rõ như lòng bàn tay. Trong mật thất, Mâu Bân cầm một tấm bản đồ có ghi chú chi tiết mọi kiến trúc bên trong Đông xưởng đang giải thích rõ cho Dương Lăng thì nghe người tấu rằng Đề đốc Trương Tú đã dẫn người chạy đến kinh sư.

Dương Lăng nghe xong thì hơi lấy làm ngạc nhiên. Trong kế nghi binh của Dương Lăng có sắp đặt thêm một tầng nghi binh hư hư thật thật khiến cho Cẩm y vệ và Đông xưởng không thể không chia quân ra hai hướng, với hy vọng sẽ đẩy Trương Tú ra ngoài, đợi đến khi đại cuộc trong kinh sư đã định thì lão ta cũng sẽ không thể giở được trò gì ở Thiên Tân nữa.

Dương Lăng lại không lo lắng cho an nguy của đám người Liễu Bưu lắm. Ngô Kiệt và Liễu Bưu hiểu rất rõ về Trương Tú, Trương Tú này xưa nay luôn mang lòng kiêng kị quan văn ngoại đình, hai bên có thành kiến rất sâu. Hôm nay hợp tác làm đồng bọn nhưng ngày mai có thể thành tử địch trên chính trường. Tuy là lần này bọn họ vì diệt trừ Dương Lăng mà tạm thời liên thủ nhưng lão quyết sẽ không bằng lòng để ngoại thần nắm được điểm yếu, cho nên chỉ cần Dương Lăng không ở trên thuyền, không có cớ thì lão quyết không dám giết hơn trăm nha sai trên thuyền.

Nhưng theo lý mà nói, bên kinh sư có mấy vạn nhân mã của Đông xưởng cũng không kém gì lão, cho dù lão có nghi ngờ Dương Lăng dùng thuyền quan để che mắt và đi đường bộ cũng không có lý gì ngay trong hôm ấy lão đã trở về kinh sư rồi.

Mâu Bân mỉm cười nói:
- Lạ lắm phải không? Chắc là Đề đốc đại nhân lo rằng sau khi Đông xưởng lấy được đầu của đại nhân rồi, lúc xun xoe ton hót với đám quan văn sẽ giảm bớt đi phần công lao của mình - rồi lão nhanh chóng mặc giáp trụ vào, nói:
- Bản quan đi nghênh tiếp Trương đề đốc, xin Dương đại nhân chờ trong chốc lát.

Dương Lăng đưa mắt tiễn lão đi, sau đó cẩn thận nhìn lại tấm bản đồ nọ một hồi, rồi ngước đầu hỏi:
- Đã phái người quay về rồi chứ?

Một thân binh bèn đáp:
- Dạ, đến lúc chong đèn chắc sẽ đến nơi, có điều... chưa vào Cao Lão trang mà Đông xưởng đã thiết lập rất nhiều trạm gác. Bình thường bọn thuộc hạ ra vào đều phải tìm cớ để lọt qua nhiều lần thẩm tra. Bây giờ bọn chúng đã không hề nể nang mà lùng bắt đại nhân ở ngoài kinh cho nên sợ rằng bọn chúng sẽ trực tiếp ngăn cản, không biết người của chúng ta có thể trở về núi hay không?

Dương Lăng mỉm cười nói:
- Việc đó không cần phải lo lắng, ta và đại đáng đầu sớm đã thương định kế sách...

Y vừa nói đến đây, Mâu Bân đã bước trở vào. Dương Lăng đứng dậy cười hỏi:
- Trương đại đề đốc đã tự chui đầu vào lưới rồi à?

Mâu Bân cười đáp:
- Không hề đổ máu!

Rồi lão nhìn vào đồng hồ nước và nói:
- Lão ta dẫn về năm trăm hiệu úy vừa vặn có thể cho ta sử dụng. Nha môn trấn phủ ty này đêm nay người không lầu trống, Xưởng đốc đại nhân có thể rảnh rang tay chân rồi.

Dương Lăng gật nhẹ đầu, nói:
- Tốt! Một khi người của bản quan bắt đầu, xin đại nhân theo kế mà hành sự, nhớ phải để ý đến các vị quan viên, không để bọn họ trao đổi tin tức còn phải đề phòng có người đến phủ của bọn họ làm loạn. Nhân thủ của đại nhân có hạn, vẫn nên cẩn thận mới được.

Mâu Bân cười nói:
- Không sao, nhân mã của bản quan vẫn còn dư sức trông chừng những đại thần đó. Đêm nay cho dù bên Đông xưởng có chém giết rầm trời thì bản quan vẫn có thể bảo đảm Lục Bộ Cửu Khanh và văn võ cả triều đều sẽ biến thành kẻ đui, người điếc!

Trăng sáng trên cao rắc xuống thứ ánh sáng bàng bạc như lụa mỏng, mặt đất như được lát bởi một lớp sương mờ.

Tây giao kinh thành, hơn mười thớt khoái mã đang phi băng băng đến, vó ngựa như sấm.

Lúc này sắc trời mờ mịt, khó mà thấy rõ cảnh vật, thấy ngựa phi nhanh như vậy, đám mật thám mai phục bên ngoài Cao Lão trang không khỏi giật mình. Mắt thấy ngựa phi càng lúc càng gần, sắp sửa xông vào trong thôn trang, một tên đáng đầu liền lập tức quyết định dứt khoát, lớn tiếng quát:
- Ngăn bọn chúng lại!

Hai tên phiên tử lập tức vung đao chặt đứt hai sợi giây thừng. "Rào rào", một cây đại thụ bị đốn từ trước đổ rầm xuống đường. Tên đáng đầu Đông xưởng nọ cầm đao bước lên, quát:
- Ai đó? Đêm khuya phóng ngựa định đi đâu? Đông xưởng phụng mệnh làm việc, hãy mau mau xuống ngựa chịu tra xét!

- Ha ha ha ha... - một kị sĩ trên ngựa cất giọng cười lớn, đoạn cầm cương quay ngựa tại chỗ mấy vòng, rồi đột nhiên thò tay vào ngực, sau đó chỉ nghe vang lên mấy tiếng "chát chát", liền thấy trong tay gã kị sĩ loé lên mấy đốm lửa, tên phiến tử đứng đằng trước không khỏi hoảng sợ lùi về mấy bước.

Một ngọn lửa được nhóm lên, theo sau đó, chỉ thấy đóm lửa loé lên, trong ánh lửa đỏ lập loè, tên phiên tử thấy rõ một "cây gậy ngắn" xù xì trong tay gã kị sĩ đó bỗng kêu "phụt" một tiếng, một vệt lửa phóng thẳng lên bầu trời đêm, rồi phát ra tiếng nổ lớn trên không trung. Cả bầu trời rực rỡ những màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng, như loài thu cúc xinh đẹp nở bừng trong không trung.

Mấy tên phiên tử đều ngẩng đầu nhìn lên, sắc màu rực rỡ và tươi đẹp ấy từ từ biến mất, trong mắt bọn chúng còn sót lại vẻ sáng rực của ngọn lửa ấy, nhất thời nhìn không rõ bầu trời đầy sao. Chợt lại nghe trong màn trời đêm tĩnh mịch nổ vang một tiếng "đùng", một ngọn hoa lửa tuyệt đẹp từ trong Cao Lão trang bay vút lên trời. Tiếp theo, trên đỉnh núi phía xa lại loé lên một tia sáng, song bởi cách quá xa cho nên thoạt trông chỉ thấy giống như những ngôi sao lớn nhỏ không còn vẻ diễm lệ nọ.

Tên đáng đầu thoáng ngẩn ra, rồi liền kêu lên thất thanh:
- Pháo bông truyền tin!

Kỵ sĩ trên ngựa mỉm cười nói:
- Đúng vậy!

Đáng đầu đó liền giơ đao hét lớn:
- Mau! Giết bọn chúng rồi về bẩm báo... - Lời còn chưa dứt, cổ họng hắn bỗng run lên, khí lực toàn thân trong nháy mắt dường như bị người ta rút đi hết, cả người ngã oặt xuống đất.

Kỵ sĩ trên ngựa lạnh lùng quát lớn:
- Chỉ bằng mấy tên tiểu nhân vật chuyên chặn đường thẩm tra như các ngươi ư? Tất cả đừng có mà lộn xộn, bằng không Gia Cát thần nỏ của ông đây sẽ không dung cho các ngươi đâu! Quay đầu mở to cặp mắt chó của các ngươi ra mà nhìn đi!

Nhân số của đám phiên tử mai phục này có hạn lại không đông bằng những kỵ sĩ dạ hành này, lúc này thấy đối phương cũng không chút nể nang gì mà đã ngang nhiên động thủ, trong lòng tự nhiên là khiếp sợ, nghe xong liền ngoan ngoãn quay lưng lại nhìn. Chỉ thấy phía xa trên núi, một hàng người di chuyển uốn lượn như một con rồng lửa. Con rồng đỏ rực ấy đang lao xuống núi với một tốc độ cực nhanh.

Ngô Kiệt mặc áo đen mũ đỏ, vận y phục của đại đương gia còn mấy người Bành Kế Tổ và Liên Đức Lộc thì lại vận một thân giáp trụ chỉnh tề của Thần Cơ doanh khi xưa. Năm ngàn tinh binh ngoài đao kiếm cung nỏ và súng hoả mai thì phần lớn mỗi người còn đeo một cái túi căng phồng, cũng không biết là dùng để làm gì.

Đại quân tác phong nghiêm chỉnh, hàng ngũ chỉnh tề, ai cũng cầm đuốc, thần sắc lẫm liệt, sát khí đằng đằng, ngựa thồ đi phía sau cùng còn kéo theo mười khẩu pháo nhỏ. Những người này cầm thánh chỉ yêu cầu mở cổng Tây thành, băng ngang qua con đường lớn của kinh sư rồi tiến thẳng về phía Đông tập sự xưởng.

Mấy ngày nay, phiên tử Đông xưởng không ngừng gây hấn khiến người của Nội xưởng mỗi khi ra vào đều chịu đủ lăng nhục ức hiếp. Nếu không phải vì mấy người Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh và Dương Nhất Thanh nhiều lần trấn áp, những binh sĩ cao ngạo bất thuần này đã sớm xung đột với Đông xưởng rồi.

Nay phụng lệnh diệt trừ Đông xưởng, những quân tinh nhuệ Thần Cơ doanh mắt đặt ở trên đầu này ai nấy đều dâng trào sĩ khí. Bọn họ xuất thân là quân chính quy lại được trang bị vũ khí tiêu chuẩn đầy người nào thèm đặt cái đám nha sai Đông xưởng chỉ oai phong vô cùng khi hà hiếp bá tánh kia vào mắt chứ. Đông xưởng có chuẩn bị hay không trong mắt bọn họ đều chẳng khác gì đàn gà đàn chó. Con rồng lửa mang theo sĩ khí ngất trời cuồn cuộn đánh thẳng đến Đông An môn.





Chú thích:

(1) nguyên văn "tàng binh tường", chỉ nơi quân sĩ có thể ẩn náu trên tường thành.

Quyển bốn - Dương Lăng xuống Giang Nam - Chương 150: Công Tôi Anh Hưởng

------------------------

Bên trong đại sảnh vắng vẻ và trống trải của Bắc trấn phủ ty, Dương Lăng đang ngồi nghiêng người trên chiếc ghế vịn bằng vàng lót da bạch hổ bên dưới bức mãnh hổ hạ sơn. Mười tay thiết vệ đã hộ tống y vào kinh đang đứng sừng sững ở hai bên, bất động như núi.

Khẽ nhấp một ngụm trà Vũ Tiền cực phẩm do những thiếu nữ hái trà vùng Giang Nam dùng lưỡi ngắt xuống rồi dùng ngực mềm hong khô, Dương Lăng mãn nguyện ngồi vắt chéo chân. Tuy y luôn âm thầm cảnh tỉnh mình phải đề phòng tính nóng nảy, ngăn ngừa lòng ích kỷ, nhưng cái cảm giác nắm đại quyền trong tay thực rất thoải mái.

Chẳng phải đúng như câu "tỉnh ta cầm kiếm giết người, say ta ngã gối kề đùi mỹ nhân" ư? Nhắc tới mỹ nhân, đang ngồi chống cằm trên chiếc ghế da hổ mềm mại Dương Lăng chợt nhớ đến Tiểu Lâu và Cao Văn Tâm. Hai cô chỉ mang theo bốn mươi tay hộ vệ lại phải thu hút hơn hai vạn bốn ngàn phiên tử như cọp như sói của Đông xưởng, sẽ không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn đấy chứ?

Trong lòng y có chút bất an. Nhưng nghĩ đến những con đường lớn nhỏ dẫn đến kinh sư có đến hơn ngàn nhánh, Đông xưởng lại không thể sử dụng đến quan phủ và quân binh địa phương nên số quân chia ra canh gác mỗi nơi cùng lắm cũng chỉ vài chục người. Bốn mươi vệ sĩ được tuyển ra từ trong trăm người đó hẳn có thể bảo vệ hai cô được bình an vô sự, huống hồ còn có Thành nhị đáng đầu túc trí đa mưu có thể tuỳ cơ ứng biến.

Nếu thật sự khó khăn, cả bọn vẫn có thể lui về Thạch Gia trang, nơi đang có một vệ binh mã trấn giữ, Thiên hộ trưởng lại là em vợ của Nam trấn phủ sứ Thiệu Tiết Vũ. Hiện tại hai xưởng đang ngầm sống mái với nhau nhưng đều không được quyền sử dụng quân đội, hơn nữa Tiểu Lâu đang mang tín vật của Thiệu trấn phủ bên người, nếu rút về cố thủ trong Thạch Gia trang thì bọn họ sẽ vẫn có thể được che chở. Một khi đại cục trong kinh đã định, đám phiên tử Đông xưởng sẽ phải rủ nhau “đi ngắm cảnh” (về vườn, về hưu - ND) tất cả, bọn họ sẽ không còn gặp nguy hiểm gì nữa. Nghĩ đến đây, Dương Lăng bình tĩnh trở lại.

Người thị vệ báo tin thứ tư lại chạy vào trong sảnh, thực hiện quân lễ rồi báo:
- Bẩm xưởng đốc đại nhân, Đại đáng đầu đã dẫn quân tiến vào Đông An môn.

Ánh mắt Dương Lăng loé lên, y đưa chén trà sang một bên, một phiên tử vội đưa tay đón lấy. Dương Lăng ngồi thẳng lưng dậy, trầm giọng hỏi:
- Bên Đông xưởng có động tĩnh gì không?

Thị vệ thưa:
- Lúc vừa lên đèn thì phiên tử ra vào hãy còn đông, nhưng trong vòng nửa canh giờ sau bọn chúng đã đóng chặt cổng lớn, không thấy động tĩnh gì nữa.

Dương Lăng suy nghĩ một chút rồi hỏi tiếp:
- Đám mật thám do Đông xưởng phái đi giám sát Cao Lão trang thì sao? Không có ai trở về sao?

Thị vệ nọ mỉm cười, đáp:
- Dạ! Nhân mã của Đại đáng đầu hành động thần tốc, toàn bộ đám thám tử Đông xưởng phát hiện thấy tình thế không ổn định quay về báo tin đều đã bị người của chúng ta âm thầm xử lí sạch sẽ rồi ạ!

Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ. Ngoài cửa vang lên tiếng giày lộp cộp, Ngô Kiệt và Bành Kế Tổ sải bước tiến vào. Dương Lăng mừng rỡ, không đợi hai người bái kiến liền vội chạy tới đỡ dậy hỏi luôn:
- Ngô lão! Bành huynh! Mọi việc ổn thoả chứ?

Ngô Kiệt cung kính đáp:
- Dạ! Mọi thứ đã thu xếp theo đúng bố trí của Xưởng đốc đại nhân, hai vị đô ty Liên Đắc Lộc và Phùng Đường đang bày binh bao vây Đông xưởng.

Bành Kế Tổ cười tươi roi rói:
- Đại nhân! Từ khi đại nhân rời kinh, chúng tôi thực đã nếm không ít đau khổ từ đám nhãi nhép đó, trong khi đó chúng ta lại nắm quyền quản lý và giám sát chúng nó. Đừng nói là chúng binh sĩ, ngay cả ti chức cũng tức muốn rách phổi đây. Rốt cuộc lần này đã có thể thu thập bọn chúng rồi.

Dương Lăng mỉm cười, hỏi:
- Những thứ đó đã chuẩn bị ra sao rồi?

Bành Kế Tổ phình bụng ưỡn ngực đáp:
- Dạ! Đã sai người chất vào trong sân rồi. Ti chức đã giữ lại ba trăm người để nghe lệnh. Có điều... phiên tử Đông xưởng bình thường chỉ phụ trách thu thập tình báo, phụng lệnh bắt người, vũ khí phần lớn là đao và thương, thậm chí cung nỏ cũng chẳng được mấy cây. Ai cũng nói Đông xưởng có rất đông người giang hồ giỏi khinh công. Bọn chúng có phi thân giỏi cỡ nào, chẳng lẽ có thể địch lại trường cung nỏ cứng, hoả súng đại pháo của chúng ta sao? Đại nhân chuẩn bị những thứ này để làm gì?

Dương Lăng cười bảo:
- Hiện tại Đông xưởng vẫn còn tám ngàn phiên tử, trong đó có không ít hảo hán được chiêu mộ từ trong chốn giang hồ. Nếu chúng muốn trực tiếp chiến đấu cùng với quân đội chúng ta thì đúng là lấy trứng chọi với đá, nhưng nếu bọn chúng thừa lúc hỗn loạn đào tẩu thì cũng không dễ chặn lại. Chúng ta phải vây chặt bọn chúng ở trong Đông xưởng, không thể để chúng tẩu thoát, trốn chạy ra khắp nơi.
Hơn nữa, chiến tranh mà, dĩ nhiên thương vong càng ít càng tốt. Binh vô thường hình, dĩ quỷ trá vi đạo(1), không nhất định phải liều mạng chém giết!

Y vừa vỗ vai Bành Kế Tổ, vừa cười lớn nói tiếp:
- Hôm nay diệt trừ Đông xưởng, bản đốc sẽ dùng "Hoá học chiến", "Hoả khí chiến", "Công tâm chiến", và "Tuyên truyền chiến" là chính. Cất cây đại đao của huynh đi, theo bản đốc lên nóc nhà xem náo nhiệt một chút!

Bành Kế Tổ thấy khó hiểu bèn hỏi:
- Hoá học, tuyên truyền gì vậy? Sao ti chức cầm quân đã nửa đời người mà chưa bao giờ nghe nói tới?

Lúc ở Kim Lăng, mới nghe nói đến mấy danh từ này Ngô Kiệt cũng thấy lạ cho nên đã hỏi qua Dương Lăng, nay lão cười giải thích với Bành Kế Tổ:
- Ngươi đã thấy Phi Thiên Thần Hoả Độc Long thương trong quân rồi đúng không? Hoá học chiến mà đại nhân nói cũng có hiệu quả thần kì như Độc Long thương vậy.

Phi Thiên Thần Hoả Độc Long thương mà quân Minh phát minh có khi buộc thêm hoả tiễn dưới mũi thương (giáo), lúc lâm địch sẽ châm hoả tiễn, phóng tên giết giặc. Nếu như quân địch trốn trong hang động, nhà cao, còn có thể buộc thêm cái loại thuốc hun cay, đốt xong ném vào khiến kẻ địch bên trong hôn mê hoặc phải chạy ra ngoài. Được Ngô Kiệt giải thích xong, Bành Kế Tổ mới vở lẽ.

Tuy nhiên công dụng của loại vũ khí này không nhiều, uy lực không lớn, cho nên theo thói quen Bành Kế Tổ không hề nhớ đến trận chiến này là chiến đấu trong thành, rất thích hợp để sử dụng loại vũ khí này, tránh xung đột trực tiếp quy mô lớn.

Dương Lăng có được sáng kiến này xuất phát từ chuyện y bị khói hun cho mụ người ở bãi Lạc Nhạn lần trước. Lần đó y bị sặc đến chết đi sống lại nên vẫn nhớ như in. Lần này y để binh sĩ mỗi người mang theo một bao lớn, chẳng những chứa đầy rất nhiều thứ dễ bốc khói, cay sặc người, mà còn nhờ Cao Văn Tâm kê đơn thuốc, chuẩn bị thêm rất nhiều dược liệu gây choáng váng tinh thần, khiến người ta bủn rủn chân tay, trở nên yếu ớt.

Dương Lăng leo lên trên nóc nhà. Các căn nhà bình thường phương bắc đều có nóc chĩa lên, căn này cũng không ngoại lệ, về sau vì bọc nóc của Tứ Hợp viện lại mới hình thành một cái sân thượng gỗ. Trên con phố lớn này chỉ có hai tòa nhà là Bắc trấn phủ ty và Đông tập sự xưởng, không có ai nguyện làm hàng xóm láng giềng với bọn họ nên con phố hết sức vắng vẻ trống trải, thích hợp cho nhân mã Nội xưởng ra tay.

Hai tòa nhà được ngăn cách bởi một khoảng đất trống. Ánh trăng mông lung như nước, Dương Lăng lờ mờ nhìn thấy rất đông quan binh đã bao vây chung quanh Đông xưởng. Nội xưởng ít người mà sân trong của Đông xưởng lại rất rộng, nếu bọn họ cứ khiên cưỡng đánh vào chắc chắn vòng vây sẽ xuất hiện khe hở. Còn nếu cứ thủ bên ngoài như vầy thì sẽ kín như bưng, đảm bảo chắc chắn không một ai lọt thoát ra ngoài.

Dương Lăng khẽ gật đầu ra hiệu, Bành Kế Tổ vẫy một tên phiên tử đến gần, lấy cung của gã bắn một phát tên lệnh, mũi tên xé gió lao đi mang theo tiếng còi sắc nhọn. Phía Dương Lăng đang thuận gió, rất đông quan quân bắt đầu châm lửa lên các bao tải đã được mang đến chất đầy trong sân, bưng chúng chạy lên vứt qua bức tường cao hơn một trượng. "Hoá học chiến" bắt đầu.

Trong căn phòng nhỏ bên trái đại sảnh, Phạm Đình đang ngồi dưới tấm hoành phi khắc bốn chữ "Tinh Trung Báo Quốc", mặt nặng như chì không nói tiếng nào. Toàn bộ bảy đại đáng đầu đều ngồi phía dưới. Trước mặt Xưởng công, những tên ác quan giết người không chớp mắt này lại trông ngoan ngoãn như những con mèo, hoàn toàn không còn vẻ ngang tàng hung ác của ngày thường.

Phạm Đình trầm lặng thật lâu rồi mới u ám nói:
- Trong cung hạ đập kéo khoá sớm trước hai canh giờ, chúng ta đã phái ra bốn toán nhân mã, thế mà cũng không thám thính được chút tin tức gì. Các ngươi nghĩ xem rốt cuộc trong cung đã xảy ra chuyện gì vậy?

Đại đáng đầu Tống Sĩ Tuấn do dự một lúc rồi đáp:
- Xưởng công! Hôm nay Tam công Cửu khanh cùng hơn trăm quan viên cùng liên danh dâng sớ ép Hoàng thượng diệt trừ Dương Lăng và Bát Hổ, hoàng cung lại đột ngột bị phong toả, có phải là vì Hoàng thượng hoảng sợ, nhất thời lại không biết nên ứng phó thế nào, nên mới...

Cặp mắt ti hí của Nhị đáng đầu Ba Long loé hung quang, hắn không hề khách khí mà ngắt lời lão đại:
- Đại đáng đầu, sợ rằng không phải thế đâu! Cho dù Hoàng thượng phong toả cung điện, người của ty Lễ Giám cũng không thể không có cách gì truyền tin ra ngoài. Huống hồ phòng nào cung nào trong hoàng thành cũng có người của chúng ta bố trí.
Hiện tại trong hoàng cung không hề có động tĩnh gì. Người của chúng ta ở khắp bốn cổng đã dùng mọi cách để liên lạc, vậy mà bên trong không hề cất tiếng đám lời. Theo ti chức thấy, e rằng không phải là ty Lễ Giám không có tin tức truyền ra, mà là có muốn cũng không đưa ra ngoài được.

Quan viên của Tập sự xưởng không được sắp xếp theo phẩm hàm và tước vị trong triều đình mà toàn bộ đều do Xưởng chủ tự thiết lập. Phạm Đình không lập chức đáng đầu ngang cấp, mà sắp xếp trước sau theo đúng thứ tự tên gọi. Tứ đáng đầu Cam Kính Đường nghe vậy thì chột dạ, không dám tin bèn hỏi:
- Sao có thể như vậy được? Hoàng thượng có gan lớn như vậy sao? Nội đình và ngoại đình đã liên thủ, ngài còn dám bất chấp mà bắt giam các vị công công ty Lễ Giám sao? Hơn nữa... ngài có quân để dùng sao? Miêu Quỳ của Tây xưởng cũng không phải là kẻ ngốc, há sẽ chịu nghe lệnh hành sự?

Phạm Đình có phần đăm chiêu:
- Thiên tử trẻ tuổi, tâm cao khí ngạo, cũng không phải là không thể có hành vi bất chấp hậu quả. Nếu ngài hạ nghiêm lệnh, Miêu Quỳ lại không phải là đồng bọn của chúng ta, lão ta dám không phụng chỉ à?
Ờ..., để đề phòng bất trắc, lập tức phái thêm một ít thám mã quan sát động tĩnh trong kinh, những người khác đều phải ở lại phòng thủ trong xưởng, không được manh động.

Lão cười lạnh một tiếng rồi nói tiếp:
- Cho dù Hoàng thượng nắm giữ cung thành thì sao chứ? Đến sáng sớm mai nếu cổng cung vẫn không mở, chúng ta sẽ lấy danh nghĩa dẹp biến loạn trong cung mà dùng vũ lực xông vào.

Lục đáng đầu Chu Khởi Phượng lưỡng lự:
- Xưởng công! Có phải là Bát Hổ đã nghe tin, cảm thấy cùng đường bí lối cho nên xúi giục Hoàng thượng phong toả cung điện không? Hay là... Dương Lăng đã bí mật hồi kinh rồi?

Phạm Đình thoáng ngẩn ra, trầm ngâm một chốc rồi lắc đầu:
- Không có đâu! Chúng ta vừa nghe nói Vương Quỳnh bị giết liền đã lập tức ngầm bố trí nhân thủ, nếu như Dương Lăng hồi kinh, bấy nhiêu mật thám ở chỗ Nội xưởng, phủ Uy Vũ Bá và cả bên trong hoàng cung há đều có thể bị qua mặt hết ư? Hơn nữa, Nội xưởng bị chúng ta khiêu khích mấy ngày nay đều chùn lại, không hề có động tĩnh gì, cũng không giống như đã có chủ định gì cả...

Miệng thì nói vậy, song thần sắc lão vẫn hơi có chút bất an, không đợi nói xong thì bỗng đứng dậy ra lệnh:
- Cấp tốc hạ lệnh triệu hồi toàn bộ nhân mã đã phái ra ngoài kinh về. Còn nữa, Khởi Phương! Ngươi hãy lập tức đi đến Trấn phủ ty một chuyến, xin Trương đề đốc và Mâu trấn phủ điều động Cẩm Y Vệ các trấn chung quanh hồi kinh. Hôm nay chúng ta lấy thế Thái Sơn để áp đảo, chẳng cần phải quản nhiều như vậy, hãy cứ để Dương Lăng tự bước vào chốn đầm rồng hang hổ này đi.

Chu Khởi Phượng đứng dậy đáp:
- Dạ, ti chức tuân lệnh!

Hắn vừa dứt lời, bên ngoài bỗng vọng vào một loạt tiếng huyên náo, có người vừa ho vừa la to:
- Cháy rồi! Đi lấy nước! Đi lấy nước! Khói nhiều quá, khụ khụ khụ...

Phạm Đình nạt lớn:
- Cháy ở đâu? Mau đi xem thử!

Hai đáng đầu liền vội đứng bật dậy xông ra ngoài. Ra đến đại sảnh, trong không khí dần tràn ngập một mùi khói nhàn nhạt. Khói tuy nhạt song lại cay xé mũi, Thất đáng đầu Sa Hồng Húc bịt mũi chạy ra ngoài. Gã thấy một đám phiên tử đang chạy ngược chiều gió về phía nơi khói bay đến, bèn vội hỏi:
- Cháy ở đâu vậy? Khụ khụ khụ...

Lúc này gã đã bị khói xông cho nước mắt đầm đìa, sặc ho một trận, đầu óc choáng váng. Vốn xuất thân là hải tặc, thỉnh thoảng Sa Hồng Húc cũng đi hái hoa, lén lút trộm hương cướp ngọc. Nay đã lâu không đụng đến nghề cũ nên hơi sơ ý, lúc này gã mới phát hiện khói này quả thực không giống như hoả hoạn, mới chợt cảnh giác la lớn:
- Không xong! Có người thả khói độc, hãy mau phòng bị, đề phòng... khụ khụ... có người đánh... khụ... vào...

Trên con đường lớn trước cổng Đông An, phía bên kia đường là mười khẩu đại pháo dàn thành hàng ngang. Nòng pháo đen ngòm đang chĩa vào cổng chính của Đông xưởng. Nhị đáng đầu Phùng Đường vẫn mặc quân phục giống như lúc còn trong Thần Cơ doanh, trầm tĩnh nhìn cánh cổng đóng chặt trước mặt, quát lớn:
- Đại pháo chĩa ngang, lắp Thực Tâm* đạn, thuốc súng mười thành! (*: loại đạn đặc ruột)

Đạn thủ (người phụ trách lắp đạn vào pháo - ND) ôm quả cầu sắt to đùng lắp vào trong nòng pháo. Hoả d4ược thủ (người phụ trách nhồi thuốc súng- ND) dùng cây chày gỗ dài dầm thuốc súng. Pháo thủ điều chỉnh đại pháo, châm lửa, mười tiếng nổ dữ dội liên tiếp phát ra. Viên đạn sắt đen xì và nặng trịch được bắn đi, gỗ vụn, gạch vụn vỡ văng tung toé. Cánh cổng sừng sững cao lớn của Đông xưởng ở trước mặt đổ sầm, tường gạch hai bên cũng sụp quá nửa.

Một nửa cánh cổng lớn bằng gỗ lê dày nặng bị bắn tung lên trời, rơi xuống con hẻm vắng vẻ cách nửa dặm bên ngoài vỡ tan tành. Hai con sư tử đá ngồi chồm hổm cũng bị ảnh hưởng, bị đập trúng biến dạng hoàn toàn.

Loại đạn đặc ruột này có tầm bắn xa, lực sát thương trực tiếp nhỏ, vốn chuyên dùng trong công thành chiếm đất, là thứ vũ khí lợi hại để xuyên phá công sự tường thành. Ở cự ly gần như vậy, uy lực của nó càng được phát huy kinh người hơn. Khói bụi mù trời, song lờ mờ đã có thể thấy một đám phiên tử đang đứng đờ người ở phía trước và trong đại sảnh của Đông tập sự xưởng.

Cung nỏ thủ ở hai bên chỉa những mũi tên nhọn dày đặc vào trong tập sự xưởng, song lại không thấy ai xông ra. Đám phiên tử Đông xưởng giết người không chớp mắt đấy chưa từng thấy uy lực của thứ trọng pháo này, càng không nghĩ rằng sẽ có ngày dùng thân thể bằng xương bằng thịt của mình để đối diện với sự uy hiếp của nó. Phơi mình trước họng của những khẩu đại pháo, đám phiên tử quên cả việc chạy trốn, cứ đứng đực người ra đó mà nhìn.

Đối với tình huống trước mắt, Phùng Đường vẫn làm như không thấy, vẫn tiếp tục chấp hành cẩn thận mệnh lệnh Đại đáng đầu giao cho, cao giọng quát:
- Đại pháo chĩa lên, lắp Phích Lịch Khai Hoa đạn*, thuốc súng chín thành!"
(*: tên gọi của loại đạn nhồi các mảnh vụn kim loại. Xem hình tại http://image5.club.sohu.net/54/88/ca...45_640_480.jpg)

Mặt đất run chuyển, mười viên đạn Phích Lịch Chấn Thiên như tiên nữ tán hoa bay qua những tên phiên tử đang đứng ngẩn người, đập trúng các nơi trong xưởng, phát ra những tiếng nổ long trời. Lúc này đám phiên tử đứng trước cổng mới như tỉnh giấc mơ, cùng thét lên một tiếng rồi lập tức chạy tán loạn, vừa gào khóc vừa tìm đường thoát thân trong đám khói cay sặc sụa.

Dưới mệnh lệnh của Phùng Đường, dàn pháo lại chĩa ngang lần nữa. Đạn bắn lần này là "Cuồng Phong Bạo Vũ". Loại đạn trái phá mà tầm bắn xa nhất chỉ có một dặm này là món vũ khí hỏa pháo có sức sát thương kinh khủng nhất của Đại Minh, với vô số những viên bi hợp kim mạ sắt nhỏ được nhồi vào trong nòng pháo. Nếu có giang hồ hảo hán như "Vân Trung Hạc" hay "Phiên Thiên Diêu Tử" gì đó dám can đảm xông ra, gã không bị biến thành con "chim lửa" ngay tức khắc mới lạ.

Sau khi Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh được đổi lại thành quan binh Nội xưởng, không những bọn họ không còn được phân phối hoả khí tác chiến cỡ lớn, mà còn phải trả lại những vũ khí hạng nặng như trọng pháo. Lúc còn làm thân quân của Hoàng đế, Tả Tiêu quân đã đưa trọng pháo đến Cao Lão trang. Không lâu sau đó Tả Tiêu quân được đổi lại thành Nội xưởng, nhưng Dương Lăng lại đang bận "mở mang bờ cõi" nên cũng không rảnh giao trả lại những vũ khí hạng nặng. Thần Cơ doanh vì ngại thân phận của y trước mặt Hoàng thượng cho nên cũng không dám chủ động gõ cửa để đòi, vì vậy lúc này trọng pháo đã phát huy tác dụng rất lớn.

Có điều đây đã là số đạn dược cuối cùng, lúc diễn võ trong núi đã hao phí quá nửa.

Song sau phen uy hiếp này, đã không còn ai dám có ý định chạy trốn bằng cổng chính nữa.

Trong khoảnh khắc cổng chính bị phá huỷ, đám người Hồng Sa Húc đã dìu Phạm Đình vội vã chạy trốn, tập hợp một đám tàn binh chạy về chỗ khói bốc dày đặc. Những loại thuốc Trung y có tác dụng gây mê đã bị lửa đốt nóng nên dược tính giảm đi rất nhiều, đã không thể khiến đám người này bị hôn mê nhưng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến sự linh mẫn của bọn họ, cộng thêm những dược liệu gây cay mắt rát họng kia. Một đám phiên tử đầm đìa nước mắt nước mũi, ho đến rách phổi còn chưa tìm được nơi phát ra đám cháy thì đã bị đám phiên tử Nội xưởng leo lên đầu tường dùng loạn tiễn bắn lui trở về.

Đó là nghiêm lệnh của Dương Lăng: cố gắng tối đa giảm thiểu mức tử thương của quân ta tới mức thấp nhất, cố hết sức tránh giáp chiến trực tiếp, không cho bọn chúng cơ hội để chạy thoát.

Một trận đại pháo bắn tan cổng chính của nhà mình, ngay sau đó là một trận mưa tên khiến cho phe ta tử thương vô số, song ngay cả bộ dáng của đối phương thế nào bọn chúng cũng không nhìn thấy. Khói cay càng lúc càng dày, song bọn chúng lại không biết kẻ địch là ai, không biết kẻ địch có bao nhiêu người, không biết mục tiêu của kẻ địch là gì.

Vũ khí không bằng người, sĩ khí kém hơn xa, lần đầu tiên đám phiên tử Đông xưởng ngang tàng luôn cho rằng thiên vương lão tử là nhất, còn mình là nhì này phát hiện nếu như có người dám vượt qua quyền uy của bọn chúng thì bọn chúng sẽ hoàn toàn không chịu nổi một đòn.

Phạm Đình vừa dùng khăn ấm che mũi miệng, vừa khom lưng run rẩy hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy? Chẳng lẽ Hoàng thượng đã điều binh đến rồi ư? Là Kinh doanh hay Đoàn doanh? Cái đám Tổng binh và Tham tướng vô sỉ đó ăn đồ chúng ta, lấy đồ chúng ta, thế mà lại động thủ thật rồi.

Ba Long vội hiến kế:
- Xưởng công! Chúng ta tập trung nhân mã đánh từ phía nam ra ngoài, con hẻm đó rất hẹp, đi xuyên qua rừng cây, chỉ cần ra khỏi khu rừng là sẽ vào nơi dân cư. Khụ khụ khụ... cho dù quân đội chúng có đông hơn cũng đừng hòng bắt được chúng ta.

Bên trong Đông xưởng còn tám ngàn tên phiên tử, nhưng trận chiến này Dương Lăng lấy tâm lý chiến làm chủ, chỉ công kích kịch liệt, không một người nào để lộ thân phận và ý đồ, điều này đã gây ra áp lực tâm lý nặng nề cho đám người Phạm Đình, khiến bọn họ chỉ có thể nghĩ đến điều xấu mà không có bất kỳ ý định phản kháng nào.

Tống Sĩ Tuấn vừa nghe liền luôn miệng khen hay, nói thêm:
- Xưởng công! Hiện tại khói dày đặc khắp nơi, muốn tổ chức nhân mã phản kích cũng không được, hay là tập trung càng nhiều người càng tốt để xông ra ngoài trước rồi hẵng tính tiếp đi.

Trên quan trường Phạm Đình quỷ kế đa đoan nhưng lại không có kinh nghiệm ứng phó với tình cảnh này, trong lòng lão đã không có biện pháp gì, nghe vậy vội vàng gọi các đáng đầu cấp tốc chỉnh đốn nhân mã, trong chốc lát đã tập hợp được hơn ba ngàn người, cầm đao kiếm xông về phía tường viện phía nam.

Khói lan đến nơi đây đã nhạt dần, đám phiên tử lèm nhèm nước mắt liền phấn chấn tinh thần. Dưới tường viện phía nam có ba cửa, ngày thường đều được khoá chặt, chỉ cần chém đứt khoá sắt xông ra khỏi con hẻm nhỏ là sẽ có thể "tái sinh".

Một khoảng đất trống, vốn là diễn võ trường của phiên tử Đông xưởng, song lúc này lại xuất hiện một dãy đuốc cháy chỉnh tề. Đuốc cháy nằm trên tay người. Gần trăm người ăn mặc kỳ quái đứng nghiêm trước mắt bọn chúng, ánh lửa soi sáng khuôn mặt lạnh lùng và nghiêm nghị của bọn họ.

Đám phiên tử từ xa chạy đến đã thấy một hàng người cầm đuốc trên tay, kẻ nào kẻ nấy đều có thể hình to béo cồng kềnh, một người mà to bằng ba. Chạy đến ngoài trăm mét mới phát hiện những kẻ đó đầu đội mũ sắt, trên lưng đeo một cái thùng lõm mặt, thân thể lắp vừa khớp vào chỗ lõm ấy.

Phía bắc có tên nhọn, cổng chính có hoả pháo, bọn họ vốn cũng không hy vọng cổng nam sẽ không có phục binh, nhưng chạy ra khỏi đây sẽ là ngõ hẻm rừng cây, là con đường sống có hy vọng nhất để thoát khỏi tay đám sát thần đáng sợ này. Đám phiên tử mắt đỏ lè giơ đao sắt trong tay, liều mạng hò hét xông về phía chỉ có khoảng trăm người đó.

Khoảng cách càng lúc càng gần, gần trăm người cầm đuốc nọ đột nhiên đồng loạt xoay lưng lại. Trong sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng xen lẫn niềm vui sướng không thể diễn tả thành lời, đám phiên tử Đông xưởng chen nhau điên cuồng xông tới.

Không biết từ đâu chợt loé lên một ánh lửa, rồi ánh lửa thứ hai, rồi thứ ba. Hàng trăm, hàng ngàn hoả tiễn dày đặc, đuôi phun lửa như sao băng, thẳng có, vòng có, nghiêng có, từ các góc độ khác nhau ùa tới như bầy ong vỡ tổ.

Trong bóng đêm, sao băng rợp trời, đó là cảnh sắc lãng mạn và huy hoàng cỡ nào?

Nhưng sự huy hoàng ấy lại đến để đoạt lấy mạng người. Những tên xông pha lên đầu đứng mũi chịu sào lập tức bị loạn tiễn xuyên thân, thân thể bị mấy chục mũi tên bắn trúng. Do đuôi hoả tiễn vẫn không ngừng đẩy về phía trước cho nên những thân thể từng xông lên phía trước bị đẩy bay ngược về phía sau.

Một tên phiên tử đang cầm đao sắt, trợn tròn mắt nhìn đồng bọn bên cạnh mình buổi sáng còn cùng nhau ức hiếp người, buổi trưa còn cùng nhau chơi gái, buổi tối còn cùng nhau uống rượu, nay mắt, miệng, cổ họng, bụng chỗ nào cũng cắm những mũi tên đang cháy phừng phừng bay ngược về sau. Tiếng thét vỡ mật còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, một mũi hoả tiễn đã bay vòng cắm xuyên vào huyệt thái dương của gã rồi xuyên ra ngoài.

Một cái thùng gỗ hết sức bình thường, nguyên liệu có thể lấy ngay trên núi, sai thợ thuyền trong quân chế tạo, đằng trước là một tấm phản ngăn đục lỗ. Đây là loại hoả tiễn được Dương Lăng lấy cảm hứng từ "Bách Hổ Tề Bôn tiễn"(*) của quân đội lúc luyện binh ở hậu sơn Cao Lão trang cải tiến thành. Giá thành rẻ, dễ chế tạo, dễ mang theo, dùng xong thì bỏ đi, đơn giản là loại vũ khí "dùng một lần rồi bỏ". (*: xem hình http://www.ljhis.com/uploads/allimg/...55103195-3.jpg)

Mặc dù hoả tiễn giải quyết được khuyết điểm nhồi thuốc chậm của súng hoả mai, song số lượng hoả tiễn mang theo có hạn, tầm bắn không xa, độ chuẩn xác lại càng không đáng nói tới. Tính luôn khả năng mang vác của binh sĩ, mỗi thùng chỉ được trang bị 75 mũi tên, song đó lại là món vũ khí cực kỳ lợi hại dùng trong những trận loạn chiến như vầy.

Đợt hỏa tiễn vừa xong, hơn một ngàn tên ngã xuống mặt đất, trên xác của một số phiên tử vẫn còn hoả tiễn đang cháy lập loè. Đám phiên tử vốn có thể cầm thanh sắt nóng rực đâm vào chân phạm nhân, nhìn người ta gào thét điên cuồng, nhìn mỡ người chảy nhỏ từng giọt mà vẫn cười nói tự nhiên nay đã kinh hoảng đến ngây người rồi; bọn đao phủ thích nhất là lấy nước sôi rưới lên người phạm nhân rồi dùng bàn chải sắt chà cho tróc thịt lòi xương nay đã kinh sợ đến ngây người rồi.

Nỗi sợ hãi tột độ ngược lại sẽ làm cho con người ta mất đi mong muốn trốn chạy. Khi những cặp mắt đờ đẫn trông thấy những kẻ cầm đuốc nọ bỏ rương xuống đất, vất đuốc rồi chạy vào trong bóng đêm, chủ nhân của chúng chợt thét lên một tiếng hét thảm khốc, càng lao nhanh về phía trước hơn.

Những tên phiên tử đáng thương đó giống như người phụ nữ bị một con sâu nhỏ dồn ép vào đường cùng, trong lòng tuy vô cùng hoảng sợ, hận không thể lập tức tránh xa nó, song lại không tự chủ được mà điên cuồng đạp bẹp dí nó.

Song, dưới bóng đen của bức tường cao trước mặt, một dãy đuốc khác lại cháy bừng lên, đám người vội vã chạy về đã nấp vào trong chỗ tối. Đứng nghiêm trước mắt bọn phiên tử là một hàng người sắp thành hình chữ ĐINH (丁) khác, trên lưng của mỗi người cũng đeo một cái thùng.

Rốt cuộc đám phiên tử Đông xưởng đã suy sụp tinh thần, bọn chúng lập tức quay đầu chạy ngược về. Nếu như có người cho dù chỉ hơi cản đường bọn chúng, cản trở bước chân tháo chạy của bọn chúng, những cây đao sẽ điên cuồng chém về phía trước. Bọn chúng không có dũng khí ngoái đầu lại, nhưng trong đầu vẫn hiện lên những hình ảnh hàng vạn mũi tên cùng bắn, là những bóng người bị tên nhọn bắn nát người nát mặt, bắn cho chết không toàn thây.

Nỗi sợ hãi lan nhanh như ôn dịch, tốc độ chạy trở về của đám phiên tử còn nhanh gấp đôi lúc bọn họ xông lên. Những đám phiên tử khác nghe tin cùng trốn chạy đến phía nam còn chưa kịp thấy gì thì đã bị bộ dạng trông như ma quỷ và những tiếng kêu la quái dị không phát ra thành tiếng của bọn họ hù cho sững người, bèn cũng điên cuồng chạy ngược trờ về.

Vào lúc này, vô số âm thanh từ bốn bề đồng loạt quát to:
- Tuân thánh dụ, Nội xưởng bắt người, không giết những kẻ đầu hàng!

Phiên tử Nội xưởng xông vào Đông xưởng bắt người chỉ vẻn vẹn có bốn trăm tên. Hơn sáu ngàn phiên tử Đông xưởng mặt cắt không còn hột máu, như những con cừu non ngoan ngoãn nghe lời. Một người Nội xưởng bắt giữ mấy chục, thậm chí hơn cả trăm phiên tử Đông xưởng, thế mà không tên nào có ý niệm kháng cự.

Dương Lăng ngồi thẳng người trên sân thượng nha môn Cẩm Y Vệ nghe Liên Đức Lộc chạy lại hào hứng bẩm báo chiến quả.

Bàn Kế Tổ cười lớn:
- Đại nhân! Ti chức cũng lường trước bọn Đông xưởng không phải là đối thủ của chúng ta, song không ngờ bọn chúng lại không chịu nổi một đòn như vậy. Mẹ nó, đừng thấy Đông xưởng hô hào hung hãn, thật giống mụ đàn bà trói gà không chặt quá đi, đàn ông muốn ra sao thì sẽ ra sao, bọn chúng chỉ có thể hứng chịu.

Thấy Dương Lăng hết sức hài lòng với chiến quả, Liên Đắc Lộc bèn cũng góp vui:
- Chỉ có thể “hứng chịu”? Chỉ có thể hứng chịu thì chỉ có thể hứng chịu cái tốt, ít nhất thì người ta không cần phải lo lắng cho cái sự “bất lực” của chính mình. Ha ha ha ha..., lão Bành ông cũng đừng có đắc ý, nếu không nhờ diệu kế của Xưởng đốc đại nhân, chỉ dựa vào một trận “cày bừa” của ông, không chừng chỉ làm trò cười cho cái đám đàn bà Đông xưởng rồi đấy.

Hai người nói xong thì ôm bụng cười ngặt nghẽo. Dương Lăng nuốt không nổi kiểu nói đùa thô tục này bèn đứng dậy, quay sang bảo với Ngô Kiệt nãy giờ yên lặng đứng một bên:
- Ngô lão! Việc còn lại giao cho ông, mọi thứ đều ngầm chuẩn bị đầy đủ rồi chứ?

Ngô Kiệt gật đầu đáp:
- Đại nhân yên tâm! Chắc chắn sẽ để người của Đông xưởng thấy nó được lục lấy ra từ phòng của Phạm Đình.

Dương Lăng gật đầu, siết chặt chiếc áo khoác trên người và nói:
- Tốt! vậy việc ở Đông xưởng sẽ giao cho ông, bây giờ ta sẽ đi về tụ hợp với Thành nhị đáng đầu.

Ngô Kiệt khẽ cười hỏi:
- Lúc đại nhân "trọng thương" hồi kinh, có muốn thông báo để các phu nhân đến nghênh đón không?

Dương Lăng dừng bước, suy nghĩ một chút rồi cười đáp:
- Khỏi đi, không cần phải diễn vở kịch đó, già quá sẽ hoá non.

Bành Kế Tổ và Liên Đắc Lộc sớm đã được Ngô Kiệt căn dặn sau khi diệt trừ xong Đông xưởng, đại nhân còn phải bí mật rời kinh, cho nên vừa thấy Dương Lăng đứng dậy bèn vội đến gần đưa tiễn. Dương Lăng dặn dò:
- Bành huynh! Liên huynh! Đêm nay dẫn quân trú đóng ở Đông xưởng, sự vụ trong kinh sẽ phải phiền đến các người rồi.

Dương Lăng đang bước xuống thang gác, chợt nghe Bành Kế Tổ trên sân thượng tàn bạo hạ mệnh lệnh xuống cho thân quân bên cạnh:
- Đi! Theo lão tử đến Đông xưởng, chú ý đến ánh mắt của ta mà hành sự. Kẻ nào đáng biến mất thì khiến cho hắn biến mất luôn, làm gọn ghẽ một chút!

Dương Lăng dừng bước vịn lan can, ngẩng đầu nhìn vầng trăng tỏ trên trời, thở dài dằng dặc: "Thật chết tiệt! Cuối cùng vẫn phải vung đao giết người. Sống trong chốn quan trường này mà muốn được yên ổn, nói dễ vậy sao?"





Chú thích:

(1) “Binh vô thường hình” chỉ việc dùng binh không phải là việc một khi đã hình thành thì không thể thay đổi, mà phải vận dụng tuỳ theo hoàn cảnh. “Binh vô thường hình, dĩ quỷ trá vi đạo” nghĩa trong chiến tranh tình huống luôn thay đổi, vận dụng sự xảo trá mới là lẽ phải. Trích trong “Tôn Tử - Kế”

Chương 151: Kẻ nhàn ngoài cuộc

------------------------

Trong kinh, an nhàn và ít bị ảnh hưởng bởi hồi náo loạn này hơn cả là những người dân không liên quan; khi bọn họ nghe thấy tiếng súng giật mình chạy ra khỏi nhà thì lại bị bọn Cẩm y vệ đột nhiên xuất hiện khắp phố lớn ngõ nhỏ đuổi về như đuổi vịt. Chờ hơn nửa canh giờ không thấy có thêm động tĩnh gì, bọn họ liền yên tâm cởi quần áo leo lên giường ngủ tiếp.

Thế nhưng, tuy đêm nay không có người gõ mõ, không có tiếng trống canh thúc giục người ta dậy sớm chầu triều vậy mà số quan viên có thể ngủ lại chẳng có mấy ai.

Đại học sĩ Lưu Kiện đầu đội mão quan, lưng thắt dây đai, quan phục chỉnh tề ngồi lẫm liệt trong phòng khách, hai cây nến đỏ thếp vàng đã cháy hết, tim nến chập chờn như ông lão gần đất xa trời, thoạt mờ thoạt tỏ, có thể chìm vào trong chiếc chén đồng đầy sáp bất cứ lúc nào.

Rất lâu sau, từ cánh cửa đóng chặt bỗng vang lên mấy tiếng gõ "cốc cốc". Lưu Kiện mở bừng hai mắt, quát:
- Không phải ta đã nói không được đến quấy rầy ta rồi sao? Có phải là Cẩm y vệ đến bắt người không? Bảo bọn chúng tự đến mà gọi ta!

Lão quản gia ngoài cửa rụt rè khẽ giọng đáp:
- Lão gia, Cẩm y vệ trên đường phố đều rút đi hết rồi. Bây giờ... đã đến lúc chầu triều rồi ạ.

Lưu Kiện thở phào nhẹ nhõm, ngỡ ngàng đứng dậy: "Cẩm y vệ đã rút đi rồi à? Không ai đến bắt mình ư?"

Đêm qua nghe tiếng pháo nổ đùng đoàn ở Đông An môn, Lưu Kiện cả kinh liền leo lên lầu gác trong nhà trông về phía xa, vừa đúng lúc loạt đại pháo thứ hai của Phùng Đường phát xạ, mấy căn phòng bị đạn bắn tung, bốc cháy.

Lưu Kiện trông thấy Đông tập sự xưởng xảy ra chuyện thì vội bảo gia nhân ra ngoài quan sát song lại bị Cẩm y vệ đuổi về. Lưu Kiện nghe vậy liền biết không hay, bèn lập tức mũ áo chỉnh tề ngồi trang nghiêm trong phòng khách chờ Hoàng thượng đến bắt người. Không ngờ lúc ánh dương ló dạng, Cẩm y vệ lại rút đi.

Chuyện gì xảy ra vậy? Chẳng lẽ không phải Hoàng thượng bị tấu chương can gián của bá quan làm cho nổi giận mà ngang tàng bắt giết trung lương ư?

Lưu Kiện cảm thấy mù mờ hồi lâu, lòng tự tin dần quay trở lại: "Thiên tử tuy tuổi còn nhỏ, song cũng biết lấy giang sơn xã tắc làm trọng. Y há dám lỗ mãng như vậy? Cho dù pháo lửa oanh kích Đông xưởng là Hoàng thượng bắt người thì nhất định cũng chỉ là giết gà doạ khỉ, lấy đó để đe doạ bá quan. Ta thân là người đứng đầu trong ba đại học sĩ đương triều, là trọng thần được tiên đế uỷ thác lại há có thể so đo công danh lợi lộc cá nhân mà không đoái hoài đến giang sơn Đại Minh? Hoàng thượng có thể không có Đông xưởng nhưng không thể không có những người như chúng ta, bằng không lấy ai giúp ngài gánh lấy giang sơn đây? Quyền lực của ngài có thể đối phó Đông xưởng nhưng có thể đối phó với lòng son dạ sắt của văn võ cả triều không? Ta phải lập tức chạy vào cung tập hợp bá quan dâng tấu trừ gian. Thành bại được thua, hoạn lộ và vận nước đều sẽ phụ thuộc vào lần hành động này."

Lưu Kiện ưỡn ngực, khôi phục lại vẻ uy nghiêm trước đây, đằng hắng một tiếng, rồi cao giọng quyết đoán:
- Lấy cái hốt(*) của lão phu, chuẩn bị kiệu vào chầu!
(*) thẻ bằng ngà, bằng ngọc hoặc bằng tre của quan lại, khi vào chầu sẽ cầm hốt bằng hai tay

***

Bậc ngọc thềm rồng, ngói vàng mái đỏ, cột đá cẩm thạch có đôi rồng quấn quanh. Cổng chào chạm rồng trổ phượng nguy nga sừng sững lộ ra cung điện uy vũ và trang nghiêm. Lúc tia nắng ban mai đầu tiên rọi lên nóc điện Phụng Thiên son vàng lộng lẫy cũng là lúc bá quan vào chầu.

Trên cầu Kim Thuỷ, dẫn đầu là ba vị đại thần tóc bạc phất phơ, áo dài ống rộng, tay cầm hốt ngọc hiên ngang cất bước. Ở hàng thứ hai là Lục bộ Cửu khanh đầu đội mũ ô sa vuông, bận quan phục đỏ thắm. Tiếp đó là những quan viên mặc áo bào xanh lá và xanh lam. Từng hàng người trang nghiêm tiến thẳng vào trong cung điện.

Chỉ sau một khoảng thời gian trao đổi ngắn ngủi ngoài Ngọ môn, tập hợp tin tức mỗi bên có được thì các quan viên đã biết đại khái tình hình cụ thể về những gì xảy ra ở Đông xưởng và trong cung, trong lòng ai nấy đều hiểu được vị Hoàng đế trẻ tuổi xưa nay chỉ biết bướng bỉnh ham chơi đã giành động thủ trước rồi.

Thiên tử nổi giận, vậy thì đã sao? Hoàng thượng dù bắt một đám tôi tớ của xưởng vệ cũng chẳng phải không dám động đến một cọng lông măng của bá quan văn võ đó ư? Kẻ sĩ chính là chỗ dựa của xã tắc. Hôm nay tảo triều, bá quan đồng tâm hợp lực nhất định phải ra sức khuyên can, không trừ được gian nịnh thề không bỏ qua.

Trên điện Kim Loan, đối mặt với cái ngai vàng trống rỗng, bá quan trang nghiêm đứng yên, sĩ khí dâng cao, đón đợi tiểu hoàng đế thăng triều...

Mặt trời đã lên cao ba con sào, bá quan nãy giờ đang kiềm nén lửa giận nay đã chờ đợi mệt mỏi lắm rồi, đội ngũ đã mất đi sự chỉnh tề, không ít người lặng lẽ đổi tư thế đứng để gót chân đỡ đau. Khí thế dần lặng tiêu tán.

Đám người bắt đầu trở nên mất trật tự, Tạ Thiên bực mình lớn tiếng nói với thái giám đứng hầu:
- Đã quá giờ tảo triều rồi, xin giục Hoàng thượng mau chóng thăng điện!

Như thể đã đợi bá quan sốt ruột phải giục mình từ lâu, Ngự tiền thái giám Điền công công đáp một tiếng, bước ra từ sau điện, chậm rãi bước lên thềm rồng, hất cây phất trần, từ tốn đưa mắt nhìn bá quan trên điện một vòng rồi cao giọng tuyên:
- Hoàng thượng thăng điện, bá quan tiếp giá!

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế! - Tiếng hô vang rền rung chuyển ngói điện như thật lòng muốn ra oai phủ đầu Hoàng thượng.

Trong vòng một đêm, niềm tin đánh tan thế lực cường đại vốn không biết phải đối phó thế nào của vua Chính Đức càng thêm vững chắc, y càng thêm tin tưởng lời phán đoán và căn dặn của Dương Lăng trước khi ra đi. Cái khí thế biển gầm núi lở đó chẳng những không thể khiến y chùn bước mà ngược lại còn khơi dậy ngạo khí của y.

Trai muốn đẹp thì mặc đồ đen (1). Hôm nay bá quan đến đông đủ như vậy, vua Chính Đức lại mặc một bộ thường phục rồng lượn màu đen làm tôn lên khuôn mặt anh tuấn của y.

Y khoan thai bước ra, tự nhiên điềm tĩnh bước lên thềm rồng trong ánh mắt dò xét của bá quan. Nhìn các bá quan đang khấu đầu quỳ gối trên đại điện, lần đầu tiên y thật sự cảm thấy mình đứng trước mặt bọn họ mà không cần phải sợ miệng lưỡi sắc bén của bọn họ.

Hoàng đế Chính Đức bước ra đằng sau long án, thong thả ngồi xuống, chậm rãi quét cặp mắt sáng ngời một vòng rồi hất hàm với Điền công công, khoé môi nở nụ cười nhẹ.

Điền công công hiểu ý bèn bước lên trước một bước, cao giọng tuyên:
- Bá quan bình thân. Mời ba vị đại nhân của Đô Sát viện, Đại Lý tự và Thông Chánh ty bước lên nghe chỉ!

Các vị đại thần đứng dậy. Quan viên Tam ty trong Cửu khanh thoáng ngẩn ra, ngỡ ngàng bước lên phía trước, vén áo bào quỳ xuống và hô:
- Thần tiếp chỉ!

Điền công công tuyên:
- Thánh dụ, Vương Nhạc của ty Lễ Giám và các thái giám thủ lĩnh đố kị người tài, vì mưu đoạt ty Lễ Giám mà bịa đặt phỉ báng, hãm hại đại thần. Phạm Đình của Đông xưởng tiết lộ cơ mật, sau lại mưu đồ gây loạn, Hoàng thượng đã hạ chỉ lệnh cho Tây xưởng, Nội xưởng và Ngự Mã giám dẹp loạn. Nay giao phạm nhân cho Tam ty thẩm vấn, Tây xưởng, Nội xưởng giám sát thẩm tra. Khâm thử!

Bá quan nghe vậy bèn xôn xao cả lên. Điền công công lạnh nhạt đảo mắt, quát lớn:
- Yên lặng! Kẻ nào còn ồn ào vô lễ, sai võ sĩ điện tiền trục xuất khỏi cung!

Quan viên các viện Tam ty đưa mắt nhìn nhau. Hoàng thượng bất thình lình hạ chỉ sai bọn họ đi xét án, bọn họ lại không thể thương nghị với các vị quan viên trên kim điện, bèn đành phải tuân theo:
- Chúng thần tiếp chỉ!

Điền công công lại tuyên:
- Thánh dụ, đám người Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng của Nội giám có công tố giác và dẹp loạn. Lập tức phái Lưu Cẩn nắm giữ ty Lễ Giám kiêm Đề đốc binh mã Đoàn doanh, Cao Phượng làm thái giám giữ ấn, La Tường làm thái giám chấp bút, Khâu Tụ và Nguỵ Bân làm thái giám chấp hành, Trương Vĩnh làm Đề đốc binh mã Kinh doanh, Cốc Đại Dụng nắm giữ Đông tập sự xưởng, Mã Vĩnh Thành nắm giữ phủ Nội vụ. Nay hiểu dụ bá quan!

Lý Đông Dương vừa nghe thì lòng liền trĩu xuống, Hoàng thượng đã hốt hết quan viên Nội đình trong một mẻ.

Ngoài tội hãm hại vu cáo đại thần trong triều, không ngờ còn gán thêm tội danh mưu phản không thành, tách biệt bọn chúng và chuyện diệt trừ Dương Lăng cùng Bát Hổ ra hoàn toàn. Cho dù có người muốn cầu xin gỡ tội cho bọn chúng cũng sẽ phải suy nghĩ thật kỹ thiệt hơn trong đó.

Đáng lo hơn là toàn bộ Đề đốc ty Lễ Giám và tứ đại thủ lĩnh thái giám đều đổi thành người trong đám Bát Hổ, Kinh doanh và Đoàn danh cũng nằm trong tay bọn chúng. Ty Lễ Giám này cai quản tất cả những việc lễ nghi, luật phát và canh phòng gác cổng trong hoàng thành.

Quan trọng hơn nữa là bọn chúng coi quản tấu chương trong ngoài và ngự tiền khám hợp (2), so với việc "Phê hồng" (3) những phiếu nghĩ (*) của Nội các, thực quyền của nó còn lớn hơn cả Thủ phụ (người đứng đầu) Nội các. Bây giờ muộn hạch tội bọn chúng đã là chuyện không thể.

(*) Phiếu nghĩ là tấu chương mà quan lại các nha môn trung ương và địa phương được Nội các căn cứ theo những điều luật điển chương và pháp quy có liên quan thay mặt xử lý sơ bộ, để chuẩn bị cho vua tham khảo. Xem hình http://a1.att.hudong.com/53/86/01300...1865047877.jpg

Từ lúc nào mà thủ đoạn của Hoàng thượng lại cay độc như vậy? Dựa vào mấy tên Bát Hổ ngu đần đó có thể nghĩ ra được biện pháp này sao? Lý Đông Dương cùng Tạ Thiên và Lưu Kiện lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau, không hẹn mà cùng nghĩ đến một người.

Đã không thể trừ Bát Hổ, hôm nay chỉ có thể tránh mũi nhọn, công kích một cá nhân của bọn chúng, chỉ cần tạo ra một kẽ hở thì mọi chuyện vẫn rất có hy vọng. Lưu Kiện quyết định dứt khoát, cũng không kịp bàn bạc với Tạ Thiên và Lý Đông Dương đã lập tức bước ra khỏi hàng tâu luôn:
- Hoàng thượng, thần có tấu! Dương Lăng của Nội xưởng phụng chỉ tuần sát phương nam, dùng thuyền quan trữ riêng hàng hoá để chuyển bán kiếm lời, lại còn thu nhận đút lót vô tội vạ. Để che đậy tội lỗi, y nguỵ tạo xảo trá, mang lòng dâm ô, lại còn lạm sát đại quan triều đình mà y ghét. Nay y đã hồi kinh, xin Hoàng thượng cũng giao Dương Lăng cho Tam ty trừng phạt để diệt trừ mầm hoạ.

Hoàng thượng Chính Đức nhếch mép, nghĩ bụng: "Mấy tên này quả nhiên chưa từ bỏ ý định", y thoáng yên lặng một chút, rồi từ tốn phản bác:
- Lưu đại học sĩ, Dương Lăng tiện đường thay phủ Nội vụ khuân chuyển một ít vật phẩm hoàng gia mua sắm mà thôi, việc này đã bẩm báo cho trẫm từ lâu, cớ sao lại nói trữ riêng hàng hoá, chuyển bán kiếm lời? Còn về phần thu nhận đút lót thì đó đều là để che mắt phạm quan đang bị điều tra. Những thứ đó hiện đều đã được nộp vào đại nội rồi. Chuyện Dương Lăng dùng diệu kế vạch trần Mạc Thanh Hà và Viên Hùng hai thái giám trấn thủ bại hoại triều cương tội ác tày trời, khanh không thể không biết chứ? Đại học sĩ là người đứng đầu Nội các, nói phải có chứng cứ mới được.

Lưu Kiện nghe vậy thì hơi cứng họng. Số lượng hàng hoá trên ba chiếc thuyền đó của Dương Lăng thật sự khổng lồ, mới chuyển có một thuyền vào trong kinh mà đã chất biết bao xe lớn xe nhỏ, cuồn cuộn đưa vào phủ của ai thì lão biết rõ rành rành. Nhưng đó đều là hoàng thân quốc thích, công thần huân khanh, chẳng lẽ có thể nêu tên cả đám ra à? Về phần đồ lậu mà Dương Lăng tự mang riêng cho bản thân y, nếu Hoàng thượng muốn che giấu cho y thì còn tra xét ra được sao?

Tạ Thiên lập tức rời khỏi hàng tâu:
- Hoàng thượng! Thần nghe nói Vương thượng thư bộ Lễ của Kim Lăng vừa tranh cãi với Dương Lăng thì liền bị mưu sát ngay trong đêm đó. Dương Lăng rất đáng bị hiềm nghi, nên lập tức bắt y truy vấn, tra rõ sự thật mới phải.

Vua Chính Đức mặt tựa cười mà không phải cười, y khẽ thở dài một tiếng rồi nói:
- Nghe nói? Lại là nghe nói! Ở đây trẫm lại có bằng chứng, rằng một đám nô tài của ty Lễ Giám vì hãm hại Dương khanh nên lập kế sát hại Vương thượng thư rồi giá hoạ cho Dương khanh. Chuyện này có khẩu cung của Đới Nghĩa ở ty Lễ Giám và phong thư lục xét ra được từ chỗ của Phạm Đình. Trẫm đang muốn Tam ty cùng tra vụ án này một lượt, nếu Tạ ái khanh hứng thú chi bằng cũng đi dự thẩm án vậy.

Lại là một đòn trời giáng, Tạ Thiên cũng cứng họng đứng ngây ra đó. Trong lòng lão vốn cũng hoài nghi đó là độc kế Đông xưởng nhằm lôi kéo được nhiều quan viên hơn, có điều vì tình thế cấp bách cho nên lão không thể không vịn theo.

Lòng mang nặng quan niệm bảo thủ, Tạ Thiên hiển nhiên hết sức tin tưởng lời nói này của Chính Đức, thế là trong nhất thời cũng không biết nên che giấu lương tâm, hy sinh Vương Quỳnh mà tiếp tục hãm hại Dương Lăng để bảo toàn đại nghĩa, hay là nên báo thù cho vị đồng liêu chết oan này cho tận nghĩa riêng.

Bá quan trên điện thì như bùng nổ, bất chấp thất lễ trước mặt quân vương. Không ngờ từng là đồng minh lại chính là hung phạm lập mưu hãm hại Vương thượng thư. Không lẽ những lời đồn đãi liên tục đó thật sự là gian kế của Đông xưởng? Một bộ phận quan viên bắt đầu đã bị dao động, cái khí thế kiên cường thề trừ gian diệt nịnh đó đã mất sạch sành sanh.

Lý Đông Dương cụp mắt lại, hít một hơi rồi ghìm giọng hỏi:
- Hoàng thượng! Đông xưởng cách xa ngàn dặm, sao có thể biết Vương thượng thư sẽ bày tiệc mời Dương Lăng trước đó? Sao lại biết đôi bên sẽ trở mặt trên bàn tiệc? Việc này quá sức lạ kỳ, chỗ đáng ngờ trong đó rất nhiều, có thể tuyên triệu Dương đại nhân lên điện để hỏi một chút chăng?

Hoàng thượng Chính Đức chau cặp mày kiếm, khuôn mặt tuấn mỹ chợt bùng lên một sự phẫn nộ, y cao giọng:
- Chỗ đáng ngờ rất nhiều? Tại sao Trương Tú của Cẩm y vệ lại bày mai phục ở Thiên Tân vệ? Tại sao Đông xưởng lại phái ra hơn hai vạn phiên tử chặn mọi nẻo đường về kinh? Bọn chúng năm lần bảy lượt ngăn cản Dương khanh hồi kinh, rõ là vì trong lòng có quỷ nên sợ điều ác mình làm bị bại lộ!

Đoạn y đập bàn, cả giận quát:
- Dương khanh hiện vẫn còn đang trên đường về kinh, vừa nãy trẫm đã hạ chỉ lệnh cho Lưu Cẩn dẫn quan binh Thần Cơ doanh đi trước để tiếp ứng. Nếu như Dương khanh có gì sơ xuất, trẫm nhất định sẽ bắt đám nô tài đó đền mạng!

"Dương Lăng vẫn chưa hồi kinh?" Lý Đông Dương nghe mà cả kinh. Bắt giữ một đám quan viên Nội đình quan trọng của ty Lễ Giám, bí mật điều binh tiêu diệt Đông xưởng, đàn áp các Doanh của cả Cửu thành, chẳng lẽ một loạt những hành động vừa thận trọng vừa hiểm độc này đều là chủ ý của đương kim Hoàng thượng?

Kế hoạch mà ty Lễ Giám và bọn họ ngầm thoả thuận là trong khi Dương Lăng đang trên đường về kinh thì bá quan sẽ dâng sớ can vua, kế tiếp lấy tội danh chống lại lệnh bắt giữ mà giết chết Dương Lăng. Đông xưởng đột nhiên thay đổi kế hoạch, tận sức tận lực ngăn cản Dương Lăng hồi kinh, chẳng lẽ thật sự bởi vì trong lòng có quỷ ư?

Lý Đông Dương là Thái phó của hoàng đế Chính Đức nên biết rất rõ tính tình của vị tiểu hoàng đế này. Tiểu hoàng đế thông minh dũng cảm, nhưng tuyệt đối không có loại cơ trí này, sẽ không thể có thủ đoạn này.

Nếu như Dương Lăng vẫn chưa vào kinh vậy thì hành động đêm qua ắt phải xuất phát từ gợi ý của Bát Hổ. Chẳng lẽ tám cái tên hoạn quan chỉ biết gièm pha nịnh hót này lại giả chó để ăn hổ: đầu tiên cố ý kích cho bá quan phẫn nộ, kế đó dẫn dụ Đông xưởng giá hoạ Dương Lăng để di dời ánh mắt của bá quan, đồng thời ép Dương Lăng phải ngồi cùng thuyền với bọn chúng, sau cùng đến lúc mọi người không để ý đến tác dụng của bọn chúng nữa thì đột ngột ra tay đoạt lấy quyền hành?

Lý Đông Dương thạo về bày mưu vạch kế cho nước mà lại kém về tính kế cho bản thân, nào có thể nhìn rõ được âm mưu quỷ kế vô cùng tinh tế này. Lão càng nghĩ càng cảm thấy có lý.

Kẻ có lợi nhất trong hồi biến cố này chính là Bát Hổ. Dương Lăng chẳng những không được chút lợi lộc nào mà dưới sự vây bắt của hơn hai vạn nhân mã, có thể sống trở về hay không vẫn còn khó nói đây. Lẽ nào Dương Lăng và chúng ta đều đã bị lợi dụng, trở thành con cờ trên bàn cờ mặc cho người ta bố trí rồi sao?

Rồi như thể chưa nguôi cơn giận, Chính Đức hổn hển đứng dậy, nói:
- Hôm qua ty Lễ Giám gây loạn trong cung, hai vị lão nhân gia Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái hậu cũng bị hoảng sợ, trẫm phải đến hậu cung thăm viếng. Nếu như các khanh có chuyện quan trọng thì để sớ lại chờ duyệt đi. Thoái triều!

Cũng không đợi đám quan dập đầu bái lạy, hoàng đế Chính Đức bèn bước xuống ngự thềm rồi lách vào sau bình phong mất dạng.

Lưu Kiện ngạc nhiên quay người lại, lão thấy mấy trăm ánh mắt đều tập trung lên người đợi lão đưa quyết định. Lão là lãnh tụ của bá quan, bày ra trận địa to lớn như vậy nếu chỉ tố cáo một tiếng rồi bỏ qua thì uy tín của lão sẽ rớt sâu ngàn trượng, thanh danh trong giới học sĩ quan trường cũng sẽ mất sạch.

Nội đình bị san bằng với tội danh gây loạn, không hề liên can gì với tội danh mà bọn họ cáo buộc cho Dương Lăng và Bát Hổ. Lão đã không thể tiếp tục bước trên con đường "trừ gian" này được nữa.

Nhưng hiện tại Bát Hổ nắm quyền lớn trong tay, mất đi sự phối hợp của Nội đình liệu lão còn có thể buộc tội được sao?

Từ trong ánh mắt của rất nhiều quan viên, lão đã nhìn thấy một sự xa lạ, đã không còn đó sự tín nhiệm mù quáng, một người hô trăm kẻ dạ, cùng tiến cùng lùi nữa. Thái độ của rất nhiều người đối với Dương Lăng đã bị dao động.

Công khai lên án Dương Lăng dường như khó mà có được lý lẽ chính đáng nữa. Lên tiếng phê phán Bát Hổ đang bừng bừng khí thế, quyền bính trong tay, có công xả thân dẹp loạn lại là một quyết sách chính trị hết sức ngu xuẩn, bảo lão làm sao làm đây?

Lưu Kiện lộ một nụ cười chua chát nơi khoé môi: sức mạnh là con dao hai lưỡi, nếu không thể làm người bị thương tất kẻ bị thương sẽ là mình. Lão dựa vào phẩm chất và uy đức mới có được sự tín nhiệm của bá quan. Muốn bảo vệ phẩm chất và uy đức này thì lão sẽ không thể "biết khó mà lùi" chỉ bo bo giữ mình được.

Sức mạnh từng khiến lão có thể hô mưa gọi gió một thời giờ lại đang đẩy lão, đẩy lão lên một vực thẳm chính trị mà đạo nghĩa không cho phép quay đầu...

Mỹ tửu hà bạn hiểm tượng sanh, sầu sát nhân, tiền vô tiến lộ, hậu vô thối lộ...(*)
(*) trích trong bài "Dải cờ đỏ trên trái đất" của nhà thơ cách mạng Nguỵ Nguy 魏巍. Tạm dịch: Đang uống rượu ngon bên sông bỗng gặp phải cảnh hiểm nguy, lo đến chết lòng người, phía trước không lối đi, đằng sau không lối thoát...

***

Dương Lăng cùng Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm đang trên đường hồi kinh.

Y rời kinh ngay trong đêm song không ngờ lại không theo kịp tốc độ truyền loan của tin tức Đông xưởng bị tiêu diệt mà sáng sớm ngày hôm sau mới bắt đầu truyền ra khỏi kinh. Đám phiên tử Đông xưởng vừa hay tin liền hoang mang lo lắng không biết phải làm sao, thế là cái đám phiên tử Đông xưởng vừa ra khỏi kinh thành diễu võ giương oai, ngông cuồng tự đại bèn cúp đuôi ảo não chạy về.

Giữa đường, đám người giang hồ vừa được thu nạp gần đây bắt đầu lén bỏ đi, lại chui vào núi rừng (*) để kiếm ăn.
(*) nguyên văn Tam sơn Ngũ nhạc, thành ngữ phiếm chỉ các ngọn danh sơn hoặc các nơi

Lúc Dương Lăng tìm được bọn họ, bốn mươi tay thị vệ chỉ còn lại hai mươi sáu người, quá nửa đã bị thương. Chiếc xe ngựa vốn cực kỳ hào hoa và chắc chắn cũng long tróc trật trẹo, lắc lư sắp rã, cắm vương vãi khắp trên mui xe là những mũi tên lông đuôi diều hâu, có thể suy ra bọn họ đã trải qua bao nhiêu trận chiến tàn khốc.

Trông thấy vậy tim Dương Lăng muốn nhảy khỏi lồng ngực, cuống quýt nhảy xuống ngựa chạy đến bên xe. Cưỡi ngựa suốt một ngày một đêm, đi được đến đây y cũng đã không còn chút sức lực, vừa thấy Cao Văn Tâm nghe tiếng chạy ra khỏi xe và bình an vô sự, y liền gần như thoát lực mà khuỵu xuống.

Cao Văn Tâm lật đật chạy tới, cũng mặc kệ đang có nhiều người xung quanh như vậy bổ nhào vào lòng Dương Lăng, không cầm được mà nước mắt tuôn đầy hai má. Nàng không sợ vì Dương Lăng mà chết, song có thể sống để gặp lại y đã khiến nàng mừng đến rơi lệ.

Thành Khởi Vận cũng hờ hững bước tới mấy bước rồi mới mỉm cười dừng lại, môi hé mở, khuôn mặt hiện lên một nụ cười dịu dàng nhàn nhạt. Thì ra cái cảm giác suýt chết lại được trùng phùng khiến người ta xúc động như vầy.

Kế hoạch của bọn họ vốn rất chu đáo, duy chỉ quên có một điểm: đó là chiếc xe ngựa. Tiểu Lâu và Cao Văn Tâm đều không biết cưỡi ngựa, hơn nữa ngồi trong xe kín đáo chắc chắn cũng an toàn hơn. Nhưng mà một chiếc xe ngựa chắc bền lại do bảy tám con ngựa kéo phóng băng băng tròng trành xóc nảy cả ngày trong đồng không mông quạnh, không đường không lối thì tuổi thọ của nó còn được bao nhiêu chứ?

Vì cái sơ suất nhỏ xíu này nên thiếu chút nữa tính mạng của bọn họ đã bị chôn vùi. Chạy chầm chậm thì bánh xe còn quay được, song khi phóng nhanh thì bánh xe thực sự không quay kịp, chiếc xe chẳng khác nào bị tám thớt ngựa kéo trượt trong bùn đất. Chỉ cần cứ tiếp tục như vậy khoảng chừng hai dặm nữa thì cả chiếc xe sẽ bị long ra.

Ban đầu Tiểu Lâu hạ lệnh rút quân, lui vào gia nhập với quan binh vệ sở ở Thạch Gia trang, giữa đường lại không thể không dừng lại, bị phiên tử ở mấy lộ tập hợp đồng loạt truy đuổi theo đến, thế là hai bên triển khai giáp chiến.

Khó khăn lắm bọn họ mới vừa đánh vừa lui về được đến nơi này, cách vệ sở còn có năm dặm bỗng nghe từ xa lại có tiếng vó ngựa dồn dập, còn tưởng lại có đại quân nha sai Đông xưởng đuổi đến, nhìn kỹ lại thì thấy là nhân mã của Dương Lăng nên không khỏi mừng như điên.

Dương Lăng cũng đã mệt mỏi đến rã rời, buộc lòng phải chui vào trong chiếc xe ngựa mà đi đường cứ lắc qua lắc lại như múa ương ca (*) đó, chuẩn bị đến thị trấn phía trước mới đổi xe mới.
(*)ương ca: loại hình vũ đạo dân gian lưu hành chủ yếu ở vùng nông thôn miền bắc Trung quốc, có vùng còn biểu diễn câu chuyện, dùng chiêng trống đệm nhạc, có vùng cũng biểu diễn câu chuyện nhưng giống như hình thức ca vũ kịch

Hai mươi sáu tay thị vệ sức tàn lực kiệt, ai nấy trên người ít nhiều đều mang thương tích, nhưng có như vậy thì sau khi về kinh mới thích hợp để "triển lãm" cho người ta xem. Dương Lăng đành phải nhẫn tâm mang bọn họ cùng gấp rút lên đường, đợi khi về kinh rồi mới nghỉ ngơi dưỡng thương thật tốt.

Mấy ngày đêm qua dù có lúc tạm thời thoát ly khỏi sự truy đuổi của địch, tránh được vào vùng hoang dã nhưng Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm vẫn chưa hề được ngon giấc, cặp mắt đã thâm quầng. Dương Lăng nhìn thấy mà đau lòng, bèn ôm lấy vai Cao Văn Tâm, nhẹ giọng bảo:
- Văn Tâm, dựa vào vai huynh nghỉ một chút đi, đợi đến thị trấn phía trước đổi xe lớn rồi muội nghỉ ngơi cho khoẻ.

Cao Văn Tâm kề sát y như vậy, lại được y dịu dàng quan tâm như thế chỉ cảm thấy mọi cực khổ trải qua đều xứng đáng cả, lúc đầu nàng chỉ dựa vào vai Dương Lăng để nghỉ ngơi nhưng dần dần bị chiếc xe đong đưa qua lại, cơn buồn ngủ kéo đến, nàng từ từ ngã vào lòng y mà ngủ một cách ngon lành.

Thành Khởi Vận ngồi bên kia Dương Lăng, thấy y cẩn thận từng li từng tí ôm Cao Văn Tâm vào lòng, che chở vỗ về thì trong mắt không khỏi hiện lên vẻ hâm mộ. Đến khi Dương Lăng quay đầu qua, vẻ mặt của nàng lại thoắt cái đã khôi phục sự bình tĩnh.

Dương Lăng mỉm cười nói với nàng:
- Nhị đáng đầu cũng nghỉ ngơi một chút đi, ba dặm tới sẽ có một thị trấn nhỏ, đến nơi đó chúng ta sẽ nói chuyện tiếp.

Được người ta xưng hô bằng chức quan vốn là một việc mãn nguyện biết dường nào, nhưng lúc này đây Thành Khởi Vận lại không cảm thấy vui tai chút nào, trong lòng hơi có chút mất mát. Nàng gượng cười, lại nghĩ rằng Dương Lăng đã chạy được đến nơi này vậy đại cuộc trong kinh tất đã định, lòng thích công danh lợi lộc của nàng thoáng lại đã chiếm thượng phong.

Nàng phấn khởi hỏi:
- Đại nhân, đại cuộc trong kinh có phải đã định rồi không?

Dương Lăng gật nhẹ đầu đáp:
- Ừm, những kẻ nào có thể động tay đều đã bị chặt mất tay đi, còn những kẻ có thể động mồm mép đó cũng không đáng lo, sau khi trở về kinh chậm rãi tiêu khiển là được.

Thành Khởi Vận nghe xong lời nói dí dỏm của Dương Lăng thì không khỏi nhoẻn miệng tươi cười. Nàng đưa những ngón tay búp măng như ngọc tháo mũ quan ra, búi mớ tóc mai xoã rối khi trốn chạy lên rồi nhét vào lại trong mũ.

Do thói quen lâu năm, tuy rằng mới vừa trải qua cuộc huyết chiến sinh tử, thân thể lại mệt mỏi rã rời song lúc ngửa cần cổ cao vút trắng mịn, cử chỉ ấy vẫn vô cùng ưu nhã, động tác của mười ngón tay cũng tao nhã tựa hoa lan.

Đang đội mũ quan lại, trong lúc ánh mắt di chuyển nàng chợt thấy Dương Lăng đang nhìn động tác của mình, khuôn mặt liền nóng rần rồi vội mỉm cười che giấu:
- Đại nhân, ty Lễ Giám có quyền "Phê hồng", ngày trước mỗi khi Mạc Thành Hà nhắc đến chức quan của ty Lễ Giám thì hâm mộ không thôi, vị trí cao quý đó sẽ đủ để đối chọi với ngoại đình, cũng là vị trí quan trọng nhất mà lần hành động này bỏ trống. Lúc đại nhân hồi kinh không hề bàn bạc và xác định những nhân tuyển cho vị trí này, vậy bây giờ do ai làm vậy?

Dương Lăng nói:
- Là một nội giám hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng lúc người còn làm thái tử, tên là Lưu Cẩn, lúc rời cung ta và Hoàng thượng đã bàn bạc và quyết định chuyện này. Tiêu diệt Đông xưởng xong sẽ do lão ta đảm nhiệm chức ấy.

Thành Khởi Vận vui mừng nói:
- Ồ? Là người thân cận từng theo hầu khi Hoàng thượng còn làm thái tử à? Vậy là người đắc lực rồi, chúng ta có một người như vậy bên cạnh Hoàng thượng, sau này hành sự sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Dương Lăng suy nghĩ một chút rồi lắc đầu nói:
- Người này... cũng không hẳn là người của chúng ta.

Thành Khởi Vận vừa nghe liền sốt sắng, buột miệng hỏi:
- Sao chứ? Như vậy sao được? Một khi quyền rơi vào tay, nếu như lão cũng bừng dã tâm cùng chúng ta tranh quyền thì làm sao? Lẽ ra đại nhân phải nên nắm ty Lễ Giám trong tay mới phải.

Dương Lăng nhướng mày nói:
- Vậy trừ khi bản quan lập tức vung đao tự thiến.

Thành Khởi Vận tuy không sợ "đồ mặn" song nghe vậy cũng hơi ngượng ngùng mắc cỡ, nàng đỏ mặt nói:
- Ý ty chức là... đáng lẽ đại nhân nên giao ty Lễ Giám vào tay một người chịu nghe lời người mới phải.

Dương Lăng thở dài rồi đáp lại:
- Ta còn không hiểu cái lý lẽ này sao? Nhưng trong nội giám ta vốn không quen biết mấy người, nếu đề xuất bừa một ai đó thì cô nghĩ Hoàng thượng sẽ chịu để gã đảm nhiệm chức vụ trọng yếu như vậy ư? Vị trí quyền lực bị bỏ trống, mấy kẻ hầu hạ cận kề Hoàng thượng đó nhất định sẽ muốn lấp vào, nếu cùng chúng tranh quyền đoạt lợi sẽ khiến chúng biết chúng ta đang đề phòng, cho nên thà cố tỏ ra hào phóng vậy.

Thành Khởi Vận không nói gì, một hồi sau mới hỏi:
- Sau khi đại nhân vào kinh dường như đã lo nghĩ chu toàn, kế hoạch lại đã thay đổi một chút, vậy Đoàn doanh và Kinh doanh thì sao? Chắc cũng không nằm trong tay người mà đại nhân có thể khống chế hoàn toàn phải không?

Nghe trong ngữ khí của nàng mang theo chút quở trách, Dương Lăng giải thích:
- Những người này ít nhất trước mắt sẽ không làm khó chúng ta, tương lai nói không chừng cũng sẽ có tác dụng lớn. Không phải là ta không muốn khống chế mà hoàn toàn là không có người thích hợp để tiến cử.

Đoạn y khẽ thở dài một hơi, giọng xa xăm:
- Lúc bản quan và Hoàng thượng thương nghị về những nhân tuyển này, ta mới đột nhiên phát hiện ra rằng ta vốn không có bao nhiêu người có thể dùng được. Ta thăng tiến quá nhanh, giống như một gốc cây mọc lên vội vã. Trong khoản thời gian ngắn ngủi này ta vốn không kịp tạo ra mạng lưới quan hệ cho chính mình. Rễ của ta quá nông vẫn chưa thể bám chặt vào đất, cành của ta cũng quá yếu vẫn chưa thể chịu được phong ba. Nếu ôm hết thảy quyền lực vào trong tay mình thì vinh quang vô tận của ngày hôm nay chưa hưởng được mấy đã biến thành dao sắc kề cổ.

Ánh mắt chợt loé lên, y khẽ giọn:
- Cây cao gió cả (4). Chỉ có biến những kẻ này thành một khu rừng thì chúng ta mới có thể an toàn ẩn nấp trong đó rồi từ từ phát triển.

Dương Lăng nói xong thấy Tiểu Lâu không đáp lại thì quay đầu nhìn nàng, chỉ thấy nàng đang dùng ánh mắt thú vị nhìn y, bèn hỏi:
- Cô nhìn gì vậy?

Tiểu Lâu nhoẻn miệng cười duyên, ngọt ngào nói:
- Đại nhân nói phải đó, đầu năm đại nhân mới bắt đầu làm quan, cuộc sống vẫn còn rất dài mà. Ty chức... không nên nóng vội như vậy.

Đã lâu Dương Lăng không nghe nàng dùng giọng nói ngọt ngào như vậy, mà quả thực y cũng không hiểu nàng đang nói gì.

Y cảm thấy không được thoải mái bèn vặn người, chợt nghĩ đến cái kỳ hạn một năm mà chính mình lúc này cũng đang rất mơ hồ, thế là lại thở dài một hơi.

Tiếng thở dài của Dương Lăng vừa dứt, vầng trán sáng mịn của Tiểu Lâu đã dựa lên vai y, thở hắt ra một hơi dài rồi nhẹ nhàng nói:
- Đại nhân, ty chức cũng rất mệt rồi, xin mượn vai người dùng một chút.





Chú thích:

(1) nguyên văn "Nam yếu tiếu, nhất thân tạo". Màu đen là màu của sự oai nghiêm, nên thường được dùng trong trang phục đàn ông.
(2) đối chiếu hợp ấn. Thời xưa, công văn được đóng dấu ở chính giữa, xé đôi, đương sự mỗi người giữ một nửa, gọi là khế, đến khi cần dùng thì sẽ ghép lại, đối chiếu mối ghép con ấn, làm bằng chứng.
(3) Công văn của quần thần tấu lên do hoàng đế đích thân phê duyệt, những thứ khác thì do quan viên Ty lễ giám mô phỏng theo nét bút trên tấu chương của Nội các mà sao chép, hoặc phụng chỉ sửa đổi, rồi dùng bút đỏ phê lên, gọi là "Phê hồng" (phê bằng bút đỏ).
(4) nguyên văn "Mộc tú vu lâm, phong tất tồi chi": cây trong rừng mà quá nổi bật thì sẽ bị gió thổi gãy. Ý nói một người mà xuất chúng thì sẽ bị ghen ghét và đố kị.

Chương 152 - Bá gia hồi phủ ("Ngài" bá tước về nhà)

Vì Dương Lăng đã đến nên Thành Khởi Vận không cần phải mặc y phục của xưởng đốc nữa. Do nàng không biết cưỡi ngựa, lại thêm dáng vóc và tướng mạo của nàng dù cải trang thế nào cũng khó thể giống mấy tên thị vệ thô kệch dũng mãnh nên nàng đành phải mặc một bộ quần áo của Cao Văn Tâm, cải trang làm tỳ nữ được thuê để hầu hạ cho Dương Lăng đang bị thương.

Áo thị tì màu xanh ống bó, khoác thêm áo chẽn* màu hồng phấn bên ngoài, hai búi tóc đen nhánh xoã ra sau vai, trước trán mềm mại một lọn tóc ngắn. Tuy không son phấn, song nàng vẫn duyên dáng xinh đẹp tuyệt trần. Dáng người yểu điệu, dung mạo yêu kiều, cặp mắt như nước mùa xuân rung động lòng người, thuần túy là một người con gái mười tám mười chín tuổi. Tuổi tác của những người phụ nữ đẹp vốn rất khó đoán, huống chi nàng lại là vưu vật trời sinh cực kỳ xinh đẹp và quyến rũ.
(*: Xem hình: http://img6.itiexue.net/892/8928246.jpg)

Khắp người Dương Lăng quấn băng trắng tinh, chỗ nào cũng có vết máu. Quả thực Cao Văn Tâm đã hóa trang hơi quá, khiến người ta vừa nhìn không thể nào biết y bị thương nặng cỡ nào.

Thành Khởi Vận mỉm cười bôi phấn lên mặt Dương Lăng, rồi nghiêng đầu hài lòng quan sát. Ừm... khuôn mặt tiều tuỵ, sắc mặt trắng bệch, thêm cái thân băng trắng bê bết máu, thực khiến "mình trông thấy mà đau lòng" quá đi.

Nàng khẽ cười, má phải hiện lên lúm đồng tiền be bé, rồi trêu Dương Lăng:
- Đại nhân mà vác bộ dạng này lên kim điện, chắc chắn sẽ khiến không ít bá quan trông thấy mà hả giận. Nhưng nếu để vậy mà hồi phủ, chắc chắn phu nhân sẽ đau lòng lắm đó.

Hai má của Mã Liên Nhi khi cười đều có lúm đồng tiền xinh xinh, còn Thành Khởi Vận thì chỉ có má phải mới có. Tư sắc của hai người đều là tuyệt sắc trong số những mỹ nữ mà Dương Lăng đã từng gặp, duyên dáng yêu kiều, khi cười muôn phần xinh đẹp.

Nhưng vẻ xinh đẹp quyến rũ của Mã Liên Nhi thể hiện rõ ràng qua từng lời nói, nét mặt, hơn nữa phong thái cử chỉ trời sinh đã quyến rũ, ngay chính nàng cũng không thể che giấu được.

Cho dù là lúc nàng ôm lòng đau thương, lệ châu lã chã, dung mạo ngũ quan vẫn mang một vẻ vô cùng quyến rũ. Vì tướng mạo như thế nên khi nàng thổ lộ bi thương với người không biết rõ tính tình của nàng thì sẽ rất khó khiến cho người ta tin được sự thành tâm của nàng. Lúc mới quen biết, cũng bởi hình dáng yêu kiều đó mà Dương Lăng không coi trọng lắm những lời thổ lộ thâm tình của nàng.

Thành Khởi Vận thì lại muôn vẻ phong tình: xinh tươi có, nhàn nhã có, thuần khiết có, ngây thơ có, khờ khạo có, quyến rũ mê người có. Bất luận hoá trang thành bộ dáng gì, các loại thần thái sắc mặt ấy đều chẳng những rất giống, mà còn rất thật.

Có điều một người phụ nữ dù có ngụy trang thế nào đi chăng nữa, nhưng nếu cô ta đã từng đứng trước mặt một người đàn ông trong tư thế lõa lồ thì có lẽ ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng người đàn ông ấy vẫn là vẻ tiêu hồn đó. Những vẻ mặt khác tuy vẫn có thể che mắt người đàn ông song sẽ rất khó có thể khiến con tim bị mê hoặc. Cho nên Dương Lăng không hề bị lung lạc.

Y ngước cặp mắt "vô thần" lên, hỏi:
- Thế nào? Giống không? Mấy lão gia hỏa đó đều là những kẻ sõi đời trên chốn quan trường, có thể gạt được các lão ấy không?

Thành Khởi Vận yêu kiều đáp:
- Ti chức hóa trang đại nhân như thế đủ để che tai mắt người ta rồi. Mấy vết thương do bàn tay khéo léo của Cao cô nương tạo ra càng giống in như thật. Có điều... ti chức thấy đại nhân lo lắng quá rồi, khi đại nhân hồi kinh sẽ không có tên quan nào dám bắt đại nhân cởi áo khám nghiệm vết thương đâu. Ai mà dám không thức thời như vậy chứ?

Dương Lăng khẽ chau mày, lo lắng:
- Hiện tại ta không lo Hoàng thượng có thể chống đỡ với áp lực của bá quan hay không! Theo lý mà nói, Hoàng thượng nắm giữ Đoàn doanh, Kinh doanh và Nội đình, lại đổ cái vụ án phức tạp không đầu không mối đó cho Đông xưởng. Khí thế của bọn họ đã yếu, nội bộ ắt cũng bắt đầu có kẻ nảy sinh dị tâm, rất khó mà đồng tâm hiệp lực. Ta sợ là sợ Ngoại đình thấy dịp mà lui, từ đó tạm ngừng công kích, tìm cơ hội khác. Lúc này quyền lực chính đang nằm bên phía Hoàng thượng, Ngoại đình lại có quyền lực về ngôn ngữ. Nếu như thực lực của bọn họ không hề bị tổn hại thì sau này Nội đình và Ngoại đình có thực lực tương đương; lúc đó hai bên sẽ không ngừng tranh đấu, đó cũng không phải là việc ích nước lợi dân.

Thành Khởi Vận thoáng nở một nụ cười chế nhạo:
- Đại nhân yên tâm! Đám quan đó trong lòng đều tự cho mình là môn đồ của thánh nhân, đừng thấy bọn họ cả ngày mồm miệng lúc nào cũng là giang sơn xã tắc mà lầm, bọn họ yêu tiếc cái danh lợi cá nhân còn hơn rất nhiều. Những quan viên khác vẫn có thể lựa chọn tiến hoặc lui, nếu ba đại học sĩ cứ cố sống cố chết đòi can gián thì bọn họ sẽ mất hết thanh danh thôi.

Nàng nói đến đây bỗng chợt nhớ đến điều gì, bèn khéo cười duyên dáng liếc Dương Lăng rồi khe khẽ nói tiếp:
- Người đọc sách mà biết tuỳ cơ ứng biến, không ngại phải thích ứng, không so đo danh dự cá nhân cũng chỉ có một mình Dương đại nhân ngài thôi.

Nghe giọng điệu của nàng có vẻ mềm mỏng, bất giác Dương Lăng ngước mắt lên nhìn. Y thấy Thành Khởi Vận đang tủm tỉm cười như đố, chân mày khoé mắt toát lên vẻ quyến rũ của phụ nữ trưởng thành, gò má màu bông tuyết thơm tho như được phết lên một lớp son phấn dịu nhẹ, làn thu ba lưu chuyển đang chăm chú nhìn mình, bèn chợt hiểu ra nàng đang ám chỉ điều gì, thế là khuôn mặt cũng bất giác nóng rần.

Đang tạo vết thương giả trông rất thật trên đùi Dương Lăng nhưng nãy giờ Cao Văn Tâm vẫn chú ý đến cuộc đàm thoại của hai người. Trông thấy vẻ mặt kỳ lạ của bọn họ, nàng cảm thấy dường như giữa hai người có một điều bí mật không thể tiết lộ cho người ngoài, ánh mắt nàng không khỏi lộ vẻ kỳ quái.

Nhưng nàng vẫn khôn khéo quay đầu đi, không nói gì cả. Tuy nàng vụng về, không cơ mưu trí trá nhưng cũng biết lần này lão gia nhà mình được bình an vô sự là phần lớn dựa vào mưu kế của Thành Khởi Vận.

Vả lại trong trận đánh quan trọng nhất, nhờ có Thành Khởi Vận lấy thân làm mồi thu hút hơn hai vạn phiên tử Đông xưởng rời kinh, mới bảo đảm cho Dương Lăng giải quyết Đông xưởng một cách gọn gàng sạch sẽ, không gây nên đại loạn trong kinh sư; tránh tạo cơ hội cho Ngoại đình nắm thóp.

Mấy ngày đêm vừa qua nàng ấy ăn uống kham khổ, Cao Văn Tâm đều để ý thấy hết. Lấy thân làm mồi, bọn họ mấy lần suýt lọt vào vòng vây trùng điệp của phiên tử Đông xưởng nhưng đều nhờ Thành Khởi Vận bình tĩnh chỉ huy chạy đông chạy tây trên mảng bình nguyên này, đùa bỡn với thiên quân vạn mã, đến khi người ngựa mệt nhoài, không còn sức chiến đấu nữa thì mới hạ lệnh rút về vệ sở.

Nay tình thế trong kinh biến hoá lạ kỳ, nguy hiểm của lão gia vẫn chưa được giải trừ, Tiểu Lâu tài hay kế giỏi gặp được dịp này như cá gặp nước, trợ giúp cho lão gia rất lớn, sao mình có thể bất chấp đại cuộc mà hẹp hòi ôm lấy thành kiến cá nhân chứ?

Một người con gái thông minh rất khó vứt bỏ thành kiến cá nhân để tiếp nhận một người con gái khác, song sẽ có thể vì người đàn ông trong trái tim mình mà ép lòng giao hảo với người ta.

Lưu Cẩn dẫn ba ngàn Kinh quân tiếp đón Dương Lăng ở Cố An. Mặc dầu sớm biết Dương Lăng bình an vô sự, song khi vừa chui ra khỏi xe trông thấy bộ dạng Dương Lăng, lão vẫn bị hù cho nhảy dựng. Dương Lăng đang nằm bên trong một chiếc xe ngựa, Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm cưỡi một chiếc xe ngựa khác, những thương binh khác cũng đều xuống ngựa đổi sang ngồi xe, ai nấy đều ngủ say như lợn chết.

Dương Lăng ngồi dựa lên chiếc đệm dựa, trông thấy Lưu Cẩn vận một bộ áo bào màu xanh da trời của đại thái giám, mặt mày rạng rỡ, dáng vẻ hân hoan, thì không khỏi mỉm cười hỏi:
- Trong kinh mọi thứ ổn thoả cả chứ?

Lưu Cẩn đáp:
- Khắp nơi bên ngoài kinh sư đều là loạn binh của Đông xưởng, Hoàng thượng lo đại nhân mang theo ít người, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì không hay, cho nên sáng sớm vừa nhận được tin liền đã lệnh cho ta dẫn quân rời kinh để đón đại nhân, lúc đó bá quan vẫn chưa thượng triều đâu. Có điều ta bảo bọn người Khâu Tụ bất cứ khi nào có tin tức gì đều phải truyền báo ngay. Vừa nãy mới có tin tức đưa đến, nói rằng đại học sĩ nội các Lưu Kiện và Tạ Thiên đã lại dâng sớ xin chém đầu ta và bọn người Đại Dụng, bằng không sẽ từ quan. Khà khà... Hoàng thượng không nói nhiều lời, đã chấp thuận rồi! Ha ha ha...

Cũng có thể nói dâng sớ can gián xin từ quan cũng giống như bưng trà tiễn khách vậy. Bưng trà lên không phải là để kính trà, mà là ngầm tỏ ý mời khách ra về. Xin từ quan cũng không phải là có ý muốn từ quan, mà là nhằm biểu đạt quyết tâm của mình, giống như cò cưa trả giá, là một sự mặc cả giữa Hoàng thượng và đại thần, cố gắng đạt được một quyết định chung. Nào ngờ tiểu hoàng đế Chính Đức quá có cá tính đi, thậm chí cả thông lệ quan trường là giữ lại một lần y cũng bỏ qua, cho chuẩn tấu luôn!

Lưu Cẩn mặt tươi roi rói, rõ là đắc ý vô cùng, cười xong mới nghiêm mặt lại, cảm kích nói với Dương Lăng:
- Dương đại nhân! Ta và đám người lão Trương, lão Mã, và Đại Dụng rất là cảm kích ngài đó. Dương đại nhân chẵng những đã cứu mạng chúng ta, mà hôm nay chúng ta thăng tiến như diều gặp gió cũng đều nhờ vào sức lực của đại nhân, thật sự cảm kích không thôi.

Bọn họ đảm nhiệm chức vụ gì, Dương Lăng không hề có ý kiến gì cả, chẳng qua lúc Chính Đức hỏi tới thì gật đầu tán thành mà thôi. Y nhớ rằng trong lịch sử mấy vị nhân huynh này hình như đều không được chết tử tế cả. Hôm nay mình đề cử bọn họ tuy có thể mua được chút giao tình, song ai biết ngày sau có sẽ bị liên lụy hay không?

Có điều là tám tên tù mù về chính trị ấy rõ biết văn võ cả triều dâng sớ can gián muốn giết bọn họ, song lại vẫn ù lì tưởng rằng đám quan văn chỉ dọa dẫm, có Hoàng thượng sủng ái mình thì sẽ bình an vô sự. May là có Dương Lăng hiến chút kế mọn: ngoại đình can gián giết Dương Lăng không thành, thế nào cũng lùi bước mà quay sang khai đao với bọn họ. Nay tính mạng không lo, còn bởi vậy mà được quyền cao chức trọng, đích thực là nhờ ơn huệ Dương Lăng ban cho.

Dương Lăng nghe nói Lưu Kiện và Tạ Thiên can gián bị cho bãi quan, lập tức hỏi tới:
- Vậy Lý Đông Dương thì sao?

Lưu Cẩn dương dương tự đắc:
- Lý Đông Dương vừa nghe nói ta làm Nội tướng, cai quản Đoàn doanh, thì rắm cũng không dám đánh nữa là. Kẻ nhát gan như vậy, có gì mà phải sợ?

Lý Đông Dương là kẻ nhát gan?! Ông ta mà nhát gan thì đã không dám chặn kiệu của đại ca hoàng hậu là Thọ Ninh hầu Trương Hạc Linh đang rất được ân sủng rồi rút roi quất hắn rồi. Dương Lăng khẽ lắc đầu, nghĩ ngợi một chút rồi mới hỏi tiếp:
- Bá quan trong triều có phản ứng gì?

Lưu Cẩn trợn mắt:
- Phản ứng gì hả? Chuyện này thì ta cũng không được nghe nói gì cả, chắc hẳn... là sẽ đưa tiễn bọn họ thôi.

Dương Lăng nghe mà dở khóc dở cười. Y biết rằng gã Lưu Cẩn này tuy là người có tâm kế song lại là "lính mới" chốn quan trường, kiến thức về chính trị vẫn không bằng Cốc Đại Dụng đã lăn lộn trong Đông xưởng một khoảng thời gian. Chưa từng trải qua tôi luyện cho nên kinh nghiệm quan trường vẫn còn rất ấu trĩ, mình có cùng lão thương lượng cũng chẳng ra được gì.

Y bèn dịch chiếc đệm dựa lên một chút, rồi ngẩng đầu trầm tư:
- Hai vị đại học sĩ nội các từ quan, chỗ trống này do ai trám vào vậy?

Lưu Cẩn lúng túng:
- Thiên hạ có nhiều quan viên như vậy, còn lo không có người để làm à? Đại nhân hà tất phải vì chuyện này mà lo lắng!

Dương Lăng thở dài:
- Hiện nay nội đình đang nằm trong tay công công, nhưng ngoại đình thì sao? Nếu như nội các không có ai chịu nói chuyện với chúng ta, đại học sĩ tân nhiệm vẫn cứ đối địch với chúng ta, chẳng lẽ sẽ lại kêu Hoàng thượng loại bỏ thêm một đám người nữa sao?

Lưu Cẩn lập tức thông suốt, liền ngộ ra lợi và hại trong đó, không nhịn được bèn hung hãn bảo:
- Không sai! Đây là cơ hội tốt, là dịp để đuổi hết đám lão già nhìn chúng ta không vừa mắt đó đi! Còn Lý Đông Dương nữa, phải cho lão ta từ chức luôn, toàn bộ đổi thành người của chúng ta hết.

Dương Lăng lắc đầu:
- Phải giữ Lý Đông Dương lại, trung tâm triều đình không có một lão thần có kinh nghiệm thì sao mà vận hành? Chỉ cần an bài thêm vài nhân tuyển thích hợp mà sẽ không làm khó chúng ta thì Lý đại học sĩ cũng sẽ chẳng làm gì được.

Thật ra Dương Lăng còn có suy tính khác. Giờ đây Lưu Kiện và Tạ Thiên đã từ chức, tuy Lý Đông Dương bị tổn hại thanh danh nhưng dưới tình huống không còn chọn lựa khác thì bá quan văn võ trong triều vẫn sẽ phải tôn ông làm lãnh tụ, những người khác đều không đủ tư cách cho nên không ai có thể đảm đương nổi trách nhiệm này.

Có Lý Đông Dương kiềm chế ngoại đình thì nội đình và ngoại đình mới có thể cân bằng, ngăn ngừa một nhà độc đoán, và mình cũng mới thể hiện giá trị của mình, tranh thủ lấy gạo trong đám lửa (ý nói chớp thời cơ trong khi loạn lạc, nhiễu nhương). Hơn nữa, chính sách của mình mong muốn ban hành thì thúc ép cũng được mà thuyết phục cũng tốt, chỉ khi nào có được sự ủng hộ của Lý Đông Dương thì mới có thể bảo đảm đám quan viên chấp hành sẽ không bằng mặt không bằng lòng mà dở trò mà làm trái đi.

Lưu Cẩn không đoán được nguyên nhân và hệ quả trong đó, nghe y nói xong thì gật gù:
- Đại nhân nói đúng! Có điều... sợ là về kinh rồi Hoàng thượng sẽ hỏi nên để người nào tiếp nhận chức đại học sĩ đó. Dùng ai mới ổn đây?

Hai người bốn mắt nhìn nhau, vẻ mặt đều có phần khó xử.

Những người mà Lưu Cẩn quen biết thì ngoài thái giám ra cũng chỉ có thái giám. Đúng rồi, quê nhà ở Thiểm Tây còn có một người anh biết làm ruộng. Còn Dương Lăng, người mà y quen biết không ít, song lại không có mấy giao tình, kẻ đủ tư cách làm đại học sĩ càng hiếm. Đến lúc cần dùng thì lại có ít người quá.

Những gian thần khác đều là một đám người đầy dã tâm, muốn loại trừ trung thần để mưu quyền đoạt vị, cài người thân tín vào chỗ trống. Còn hai gian thần này thì lại vì việc giao chiếc ghế trống cho ai mà phát sầu.

Hai người nhất thời không nói gì, chỉ nghe tiếng bánh xe lộc cộc, tiếng ngựa hí vang. Dương Lăng vờ như đang nhắm mắt dưỡng thần, trong đầu lần lượt lọc những nhân tuyển có thể nghĩ ra. Lưu Cẩn lại hết sức tin rằng "không có lợi không dậy sớm" (*), rất mau thôi sẽ có một đám người quây đến bên mình.
(*): có chức quyền sẽ có người xu nịnh.

Dương Lăng nói rất đúng, khó khăn lắm mình mới leo lên đến vị trí Nội tướng (thủ lãnh tất cả quan chức xuất thân là hoạn quan), không thể tạo cho người ta cơ hội chèn ép mình lần nữa. Nhất định phải mau mau đề bạt thân tín, gom hết toàn bộ hai mươi bốn giám của Nội đình vào trong tay.

***

Tại trường đình tiễn khách bên ngoài cổng bắc kinh sư, Mã Văn Thăng, Hàn Văn, và Vương Hoa cùng gần trăm quan viên bày rượu tiễn hai vị đại học sĩ Lưu Kiện và Tạ Thiên hồi hương. Thể theo chế độ triều Minh, bất luận quan to thế nào, một khi bãi chức thì không thể tiếp tục ở lại trong kinh thành được nữa.

Có điều đại thần hồi hương cũng rất được triều đình ưu đãi, ban sắc yên ủi, cho phép gia quyến dùng trạm dịch công để về quê, quan địa phương chiếu theo qui định mà cung cấp lúa bạc và phu dịch hằng tháng. Hoàng đế Chính Đức không hề bủn xỉn, cũng chiếu theo thường lệ mà ban thưởng những ưu đãi này cho hai vị đại thần về quê.

Gió thu quạnh hiu, đồng nội điêu linh, Lưu Kiện nhìn khung cảnh thê lương trong cánh đồng bát ngát, vuốt râu cười với các vị đồng liêu hảo hữu đến đưa tiễn, nói:
- Lúc tháng ba lão phu còn cùng gia nhân đi đến nơi này đạp thanh(*), thế mà nay đã là một mảnh khô vàng rồi."
(*)Thanh Minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh (Nguyễn Du)


Các đại thần lặng lẽ nhìn thủ phụ (người đứng đầu) nội các mặc áo vải bình dân, ủ rũ không nói gì. Tạ Thiên bùi ngùi thở dài:
- Mặt đất thê lương còn có ngày xuân về, mắt thấy giang sơn xã tắc không biết suy đồi trong tay kẻ nào, gian nịnh đương quyền, triều chính tàn suy. Lão phu có lỗi với sự ủy thác của tiên đế, thực rất xấu hổ và ân hận.

Mọi người nghe vậy không khỏi lặng lẽ thở dài. Đô thiêm sự Lữ Xung oán giận đấm vào lòng bàn tay mình một cái rồi nói:
- Than vãn suông thì có ích gì chứ, chi bằng liên lạc bá quan, can gián lần nữa, cùng lắm thì chúng ta cùng từ quan về quê mà thôi. Mọi người thấy thế nào?

Ánh mắt sáng quắc của Lữ Xung quét quanh, có quan viên xoa tay phụ hoạ, có người lại giả bộ ngó lơ hoặc vờ nâng chén uống rượu để tránh ánh mắt lão. Lữ Xung thấy vậy thì giận lắm.

Lão đang định nói tiếp, Lưu Kiện đã mỉm cười bảo:
- Thôi, thời gian chính là mệnh trời, có lẽ Đại Minh ta phải trải qua kiếp nạn này. Thiện ác ắt có báo ứng, ông trời có mắt, bốn mùa xoay chuyển tuần hoàn, cho dù tuyết có che hết màn trời thì cuối cùng vẫn sẽ có ngày xuân về. Đám gian nịnh đó có thể càn rỡ làm liều được bao lâu chứ?

Một vị đại thần diện mạo đen đúa, tinh thần quắc thước bước lên một bước nói:
- Thủ phụ đại nhân, Lữ đại nhân nói đúng đấy. Bá quan chúng ta dâng sớ can gián lần nữa, chưa hẳn đã không có sức đánh một trận, cớ sao hai vị đại nhân lại dâng sớ một mình, để cho gian nịnh chèn ép?

Lưu Kiện đưa mắt nhìn, thấy người đó là Dương Nhất Thanh lúc trước quản lý mã chính(1) ở Thiểm Tây, mới được mình điều về kinh thăng chức lên làm Hữu đô ngự sử được nửa tháng, thì không khỏi lấy làm an ủi mà cười bảo:
- Ứng Ninh* có chí hướng như vậy, trong lòng lão phu an ủi vô cùng. Nay bát hổ thế mạnh, lão phu và Tạ lão thân ở địa vị đó, biết rõ không thể nhưng cũng phải làm. Mọi người hãy nên giấu bóng ẩn mình, tích góp lực lượng, đợi khi bệ hạ giác ngộ thì hãy ra tay tóm hết một lượt, đừng bắt chước hai người lão phu nhé.
(*: tên tự của Dương Nhất Thanh, ông lấy hiệu là Thúy Am)

Dương Nhất Thanh mới ở Thiểm Tây về, không hề có ấn tượng gì với Dương Lăng, sự tích về quan viên triều đình mà dân gian bá tánh truyền tụng đa phần chỉ là giai thoại. Dương Lăng vào kinh chưa được một năm, chuyện khiến người ta kinh ngạc nhiều không sao kể xiết, tuy y có lắm tiếng xấu trong giới học sĩ nhưng ấn tượng trong chốn dân gian lại rất tốt. Trước nay Dương Nhất Thanh không hề có kiểu cách nhà quan, ông* thường hay hoà mình cùng bá tánh, cho nên cảm nhận về y cũng không tệ.
(*: Chính Đức kế vị năm 1506, tính ra Dương Nhất Thanh cũng được hơn 52 tuổi, lớn hơn Dương Lăng nhiều, nên gọi ông vậy)

Nghe xong lời của Lưu Kiện, ông không khỏi thở dài tiếc nuối, thầm nghĩ:
- Lúc bát hổ gây hoạ trong kinh, Dương Lăng ở tận Giang Nam, nếu nói y sai khiến thì không khỏi có phần hơi gượng ép. Nay xem mưu kế vững chắc của bát hổ, cùng với khẩu cung của Đới Nghĩa ở ty Lễ Giám và thư tín lục ra được từ trong phòng của Đông xưởng Phạm Đình, có thể thấy Dương Lăng cũng là bị người ta lợi dụng mà thôi. Nếu như bá quan trong triều dốc toàn lực công kích bát hổ, lôi kéo Dương Lăng đang nắm quyền Nội xưởng làm trợ thủ, thì đâu đến nỗi thất bại thảm hại thế này?

Những lời oán trách này đương nhiên ông không tiện thốt nên lời. Ngay vào lúc này, chợt có ba thớt khoái mã lướt nhanh từ trong cổng thành ra. Ngựa phi đến gần, vị quan văn cưỡi trên con ngựa đi đầu chính là Lý đại học sĩ Lý Đông Dương, hai người đi sau là hộ vệ của ông.

Hôm nay hai vị bạn tri giao cáo lão về quê, ông cũng muốn đến sớm một chút để đưa tiễn, nhưng hiện tại toàn bộ công việc Nội các đều đổ lên đầu ông. Mãi đến lúc này mới vừa xử lý xong một số công văn quan trọng, ông bèn lập tức xin phép nghỉ để rời cung, phóng nhanh ngựa tới.

Một số quan văn võ vốn bản thân không dám mạo hiểm bị bãi quan để dâng sớ can vua thế mà khi trông thấy Lý đại học sĩ thì lại lộ ra vẻ khinh nhờn. Lý Đông Dương trông thấy song không hề để tâm, ông đi xuyên qua đám người bước thẳng vào trong đình, thở gấp:
- Lưu đại nhân! Tạ đại nhân! Tôi đã đến trễ một bước.

Lưu Kiện châm ba chén rượu, cười nói:
- Tân Chi đến thật đúng lúc, hiện nay gánh nặng đè trên người mỗi một mình ông, tôi còn lo ông không được rỗi rãi nữa đấy. Nào nào nào, ba người chúng ta cùng uống chén này, sau này có muốn ngồi chung uống rượu, e rằng sẽ không còn mấy cơ hội nữa đâu.

Lý Đông Dương nâng chén lên, thương cảm:
- Hai vị đại nhân là rường cột của nước nhà, Đông Dương vốn còn hy vọng cùng hai vị đại nhân phò trợ ấu chủ cho vẹn ơn uỷ thác của tiên đế. Nào ngờ nay mới được nửa năm, hai vị đã phải rời khỏi kinh sư, chỉ còn lại mỗi mình Đông Dương, nhìn tình cảnh mà thật xót thương cho thân phận mình.

Tạ Thiên cầm chén lên nhưng lại trút rượu xuống đất, cười khẩy:
- Có gì mà xót thương chứ? Nếu như ông không tham luyến quyền thế, cứ cùng hai người chúng tôi nhất tề dâng sớ, không phải đã có thể cùng nhau ra đi sao?
Nói rồi ông xoay người, chắp tay nhìn cánh đồng hoang vu ngoài trường đình mà không thèm ngoảnh đầu nhìn lại một lần.

Sắc mặt Lý Đông Dương thoáng trắng bệch, ông không ngờ nỗi khổ tâm của mình chẳng những không được nhiều đại thần hiểu, mà ngay cả người bạn già như Tạ Thiên đây cũng hiểu lầm mình tham mê quyền lực. Cho dù có lòng muốn giãi bày thì biết bắt đầu từ đâu đây?

Gió thổi lộng vào trong đình, lòng nặng trĩu u sầu, Lý Đông Dương gượng cười chua chát đưa chén rượu lên uống cạn. Bá quan chung quanh cùng quan sát ba vị đại học sĩ trước đây luôn cùng tiến cùng lui bằng ánh mắt phức tạp, mỗi người mang một cảm nhận riêng.

Lý Đông Dương đặt chén rượu xuống, quệt mép râu dính rượu, cười một tiếng bi thương, đang định nói thêm với Tạ Thiên mấy câu trong lòng thì một loạt tiếng vó ngựa dồn dập bỗng vang lên. Hơn ba mươi tay kỵ sỹ cưỡi khoái mã phóng như bay từ trong kinh thành đến, nhìn trang phục của người trên ngựa thì chính là thị vệ thân quân của Ngự Lâm quân.

Lữ Xung không kiềm được hưng phấn reo lên:
- Không lẽ Hoàng thượng đã ân hận, muốn giữ lại hai vị đại học sĩ rồi sao?

Bá quan nhôn nháo một hồi. Thậm chí điềm tĩnh như Lưu Kiện và Tạ Thiên vậy mà hơi thở cũng bắt đầu gấp lên. Song Ngự lâm quân ruổi ngựa đến gần lại không hề dừng lại mà chạy thẳng qua luôn. Bá quan không khỏi tiu nghỉu như đưa đám.

. . .


Cuối cùng hai vị đại học sĩ cũng phải lên đường, ngựa của trạm dịch kéo xe đến trước mặt, gia quyến cùng gia nhân đều đã lên xe, Lưu Kiện và Tạ Thiên đưa tay tạm biệt các vị đồng liêu, hai bên đang bịn rịn lưu luyến thì hơn ba mươi tay binh sĩ Ngự lâm quân cưỡi ngựa nọ lại chạy rì rì về, phía sau cờ bay phấp phới.

Trong đám cờ xí ấy, ngoại trừ quân kỳ của Kinh doanh, mặc dù đa phần là được chế tạo tạm thời song ngọn cờ rồng màu vàng sẫm của thiên tử và ngọn cờ to mang chữ Dương trong tay những người cầm cờ rõ ràng biểu thị rằng khâm sai phụng chỉ Dương Lăng đã về kinh.

Bá quan đưa ánh mắt phức tạp nhìn chăm chăm vào đội ngũ ấy. Chiếc xe đi đầu là xe ngựa của Lưu Cẩn, lão vén rèm kiệu, ngồi nghiêm trang hào sảng, mắt không ngó nghiêng, mép môi nhếch một nụ cười khinh miệt.

Chiếc xe ngựa thứ hai chính là kiệu xe của Dương Lăng. Dương Lăng đã nghe quan binh Ngự Lâm quân đến nghênh tiếp bẩm báo rằng phía trước đang tiễn đưa hai vị đại nhân Lưu, Tạ rời kinh. Do dự lần lữa nhiều lần, bản thân y thật sự không có lập trường để xuống kiệu gặp mặt hai người. Tay y giơ đến bên bức rèm rồi lại thả xuống, miệng mở ra rồi lại ngậm vào. Trong lúc trù trừ, xe ngựa đã chầm chậm chạy qua trước mặt mọi người. Dương Lăng thở dài chán nản rồi chậm rãi nhắm mắt lại.

Học sĩ Lư Sĩ Thâm của Hàn Lâm viện nhìn chằm chằm vào chiếc kiệu xe của Lưu Cẩn rời xa, đột nhiên bước ra khỏi đám người, quét mắt vào chiếc kiệu xe của Dương Lăng vừa mới chạy ngang, cao giọng mắng:
- Kẻ gian nịnh kia! Trước hổ thẹn với tiền nhân, kế xỉ nhục với chính mình, dẫu có qua trăm đời, vẫn sẽ bị mắng thậm tệ. Trời trăng sáng tỏ, lòng dân như gương, làm người thì hãy tự suy ngẫm lấy cho cẩn thận!

Dương Lăng nghe xong, khoé miệng nở một nụ cười khổ sở: "Mượn danh chính nghĩa thì có thể tuỳ tiện gán tội cho người khác, động tí là dâng sớ hặc cho tội danh ‘có lẽ có’(*) để giết người ta sao? Ngoại đình và Nội đình mấy người cứ vì ‘Đạo nghĩa’ với ‘Lẽ phải’ mà cãi nhau đi, tôi xin kiếu. Miễn là tôi làm tốt việc của mình, không có lỗi với lịch sử và lương tâm là đủ."
(Nhắc lại: thời Tống, Trung Quốc, gian thần Tần Cối đang giữ chức Thừa Tướng vu Nhạc Phi là mưu phản, Hàn Thế Trung bất bình bèn hỏi Tần Cối buộc tội có căn cứ gì không, Tần Cối trả lời "có lẽ có". Về sau cụm từ này được dùng theo ý nghĩa bịa đặt, không có căn cứ)

Tạ Thiên nhìn theo đoàn xe nối nhau liên miên không dứt, đoạn ngửa mặt lên trời thở dài sườn sượt:
- Một triều vua một triều thần(*). Thôi, chúng ta đi thôi!
(*: Ý là vua mới dùng người mới)

Đội xe dịch cùng Kinh quân xen lẫn vào nhau dần rời xa, bá quan lặng lẽ đứng im bên ngoài trường đình, dõi mắt theo hướng đoàn xe đi cho đến khi nó mất hẳn nơi chân trời.

Từ đó, hai nhân vật phong vân của triều đại Hoằng Trị rút lui khỏi võ đài chính trị, nhóm quyền lực mà vua Hoằng Trị để lại cho Chính Đức đã bắt đầu tan rã...

Người dân trăm họ thì hào hứng truyền bá nhau về cuộc chiến đặc sắc giữa Đông xưởng và Nội xưởng, chỉ có người trong giới học sĩ mới quan tâm đến việc ra đi của hai vị đại học sĩ và cơn sóng ngầm bắt đầu nổi trong triều đình, cho nên bọn họ cũng chú ý đến việc Dương Lăng trở về hơn.

Dương Lăng được khiêng vào điện Bảo Hoà, bộ dạng thê thảm trông như sắp chết của y đã xua tan lòng nghi ngờ của đông đảo quan viên đối với y. Thường ngày hoàng đế Chính Đức rất thích xem đào kép diễn kịch, lúc này thấy mình giống như đang hoá trang lên sân khấu bèn nổi tính trẻ con, hăng hái nhập vai mà diễn.

Hắn "nổi giận đùng đùng" quát mắng đám Cửu khanh Lục bộ vừa đưa tiễn Lưu Kiện và Tạ Thiên về:
- Các ngươi xem đi, trẫm phái Dương khanh tuần thị thuế khoá Giang Nam. Dương khanh tận trung chức vị, chẳng những thuế khoá các nơi nộp lên kịp thời, so với thời điểm này năm ngoái còn nhiều hơn một thành, mà mấy tên thuế giám phạm pháp cũng đã bị trừng trị. Trung thần như vậy mà là gian nịnh ư?

Đoạn Chính Đức bước vòng qua long án, đi đến bên Dương Lăng căn dặn:
- Dương khanh hãy về phủ nghỉ ngơi cẩn thận! Khỏi hẳn rồi hãy lại tiếp tục ra sức làm việc cho trẫm!

Hắn vừa nói vừa cuối người tự quan sát "thương thế", song lại lén bấu tay Dương Lăng, nói khẽ:
- Mấy ngày nay ái khanh không tiện vào chầu, chốc nữa ta sẽ lại đến thăm khanh, nhớ kể cho ta nghe chuyện đánh hải tặc tiếp.

Dương Lăng ngước mắt nhìn, thấy Chính Đức đang tinh nghịch nháy mắt với y, bèn vội ho khan mấy tiếng để che vẻ buồn cười. Rồi sợ dây dưa hồi lâu sẽ bị người ta phát hiện, y bèn vờ ra vẻ yếu ớt đáp:
- Dạ, vi thần tuân chỉ! Vi thần xin cáo lui trước.

Dương Lăng bị ngăn trở ở ngoài thành, nên hiển nhiên mọi chuyện xảy ra trong kinh không liên can gì đến y. Y về nhà nghĩ dưỡng, nhìn bộ dáng thoi thóp như thể có nằm nửa tháng một tháng cũng không dậy nổi đó, sẽ khó mà gây được ảnh hưởng gì đến việc thay đổi nhân sự và đấu đá quyền lực trong triều.

Trong chính trị không có chuyện vô duyên vô cớ mà đi công kích người ta. Dõi mắt nhìn hai tướng quân vạm vỡ khiêng Dương Lăng ra khỏi đại điện, sự chú ý của các đại thần đã hoàn toàn đặt vào Nội đình đang nắm quyền "Phê hồng" và "chiếc ghế trống quyền lực" mà hai vị đại học sĩ ra đi để lại. Còn "kẻ đầu têu" Dương Lăng đã an ổn tránh khỏi trung tâm cơn bão, lui vào sau hậu trường.

Xe đến trước phủ Uy Vũ bá, Dương Lăng không dằn nổi sự kích động trong lòng, mấy lần muốn nhảy xuống xộc vào trong nhà. Nơi đó là nhà của y, nơi có những người con gái mà y yêu thương nhất. Nhất là Ấu Nương, khi mở mắt ra, nàng là người đầu tiên mà y nhìn thấy, người con gái nhỏ nhắn mặc cho phú quý bần cùng hay sinh lão bệnh tử cũng đều nguyện trọn đời gắn bó cùng y.

Chẳng lẽ bởi "gần quê nên lòng bỗng sợ"(2)? Con tim Dương Lăng đập thình thịch, ngực nóng rần, chỉ muốn lập tức gặp ngay mấy người con gái yêu kiều còn kiên cường hơn cả mình nhưng lại coi mình như trời đất của họ.

Đến khi Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm đều đã xuống xe, đứng thướt tha dưới bậc thềm đá, ngoái đầu nhìn y, Dương Lăng mới tỉnh dậy khỏi cơn mê, liền vội la ầm lên:
- Mau, mau khiêng ta xuống xe!

Lúc này bên người tuy đều là người của mình, nhưng dầu gì thì cũng đông người nhiều mắt, ngộ nhỡ chuyện mình tự bước xuống xe mà bị người ta nhìn thấy rồi lan truyền ra thì sẽ rất phiền phức. Vở kịch này vẫn phải diễn cho đến khi vào trong nhà mới được.

Thành Khởi Vận chỉ đi một mình theo đến kinh sư, hai người thị nữ thân cận tình như tỷ muội đã không biết cưỡi ngựa, cũng không rành võ nghệ nên đã ở lại Kim Lăng.

Tuy nàng là Nhị đáng đầu của Nội xưởng, song để cho một người con gái một mình vào ở trong quân doanh sẽ có nhiều bất tiện. Hơn nữa bản thân y đã yên ổn hồi kinh, còn phải cùng nàng bàn tính đại sự, cho nên Dương Lăng thu xếp cho nàng ở trong nhà mình, chuẩn bị ba ngày sau sẽ sai người hộ tống nàng trở về Kim Lăng để chuẩn bị thuyết phục bá quan đồng ý giải trừ lệnh bế môn tỏa cảng.

Móc khoá cổng được mở ra. Khi lão quản gia trông thấy Cao tiểu thư của chủ cũ, sắc mặt liền lộ vẻ vui mừng, nhưng khi thấy Dương Lăng nằm dài trên sạp gỗ, thì không khỏi thất kinh chạy qua hỏi thăm:
- Lão gia, người bị sao thế này?

Thấy một đám dân làng và con nít đang tò mò đứng xem ở đằng xa, Dương Lăng bèn xua tay bảo:
- Đi! Đi vào trong rồi hẵng nói!

Mấy ngày trước Đông xưởng giám sát quanh đây rất nghiêm, Nội xưởng đã phái một lượng lớn nhân thủ âm thầm bảo hộ, hơn nữa còn căn dặn người trong phủ không được tuỳ tiện ra ngoài. Do ngại ba vị phu nhân lo lắng, bọn họ đã phong toả tin tức về Dương Lăng hết sức nghiêm ngặt, cho nên người trong phủ Uy Vũ bá chỉ biết Nội xưởng và Đông xưởng trở mặt, đại nhân vẫn đang tuần tra ở Giang Nam, còn chuyện hỗn loạn đến long trời lở đất trong kinh thì bọn họ lại không hề hay biết gì.

Dương Lăng gọi hai thị vệ thân tín khiêng y vào phòng khách. Vào đến cổng tròn dẫn vào hậu viện nơi nữ quyến ở, y mới nhảy tót xuống, vừa cởi mớ băng vải quấn kín mít trên người vừa cười nói:
- Lão quản gia chớ nên lo lắng! Lão nhớ căn dặn người trong phủ, bảo bọn họ kín miệng một chút. Nếu như có ai hỏi thì nói là lão gia ta bị trọng thương, những chuyện khác đừng kể bậy bạ.

Lão quản gia sống lâu thành tinh, tuy không biết rõ nội tình nhưng cũng hiểu lão gia an bài như vậy tất có dụng ý. Lão là người đã từng trải qua cảnh tan cửa nát nhà, hơn nữa từ khi làm quản gia phủ Uy Vũ bá, quyền thế và địa vị đã khác xa khi xưa cho nên vô cùng trân quý cuộc sống hiện tại.

Mấy ngày qua, biết có người làm khó nhà họ Dương, bụng lão cũng rất lo lắng không yên, nay thấy lão gia bình an về nhà, trong lòng lão vui sướng khôn thôi. Lão bèn rối rít vâng dạ, rồi lật đật chạy đi căn dặn nhà bếp hôm nay chuẩn bị vài món ăn thịnh soạn.

Trong lúc Dương Lăng tháo vải băng ra, Cao Văn Tâm cũng sớm đã mở bọc quần áo mang theo, lấy ra một bộ đồ xanh (đồng phục của thị tỳ), đứng trong cổng tròn mặc vào, sau đó dẫn hai người vào trong sân.

Cả ba vừa vòng qua một hành lang uốn khúc thì một thị nữ đang bê chậu nước cũng vừa vặn đi tới. Trông thấy Dương Lăng đi tới trước mặt, cô nàng mừng rỡ há hốc miệng, rồi quăng chiếc chậu bằng đồng xuống cái rầm, đoạn quay người chạy vụt đi. Một tràng tiếng la chói tai "Lão gia về phủ rồi!" trong nháy mắt đã vang vọng khắp hậu viện.

Dương Lăng thoáng ngẩn người, nhìn thấy bộ dáng vui mừng đến thất thố của người tỳ nữ đó, y không khỏi lắc đầu cười khổ. Nhưng thật sự, cái cảm giác được kẻ hầu người hạ của phủ mình có cảm giác thân thiết với mình cũng rất ấm áp.

Thành Khởi Vận đi theo sau, kinh ngạc nhìn cái cảnh này, hàng mày đen khẽ nhíu lên: hạ nhân Dương phủ sao lại không có phép tắc gì hết thế này? Cho dù là những hộ gia đình lớn bình thường ở Giang Nam cũng rất xem trọng lễ nghi, có hạ nhân nhà ai dám càn rỡ như vậy chứ? Thực đáng phải trừng trị một phen.

Dương Lăng bước tới lượm chiếc chậu đồng lên. Mới vừa bước được mấy bước đến dưới hành lang treo đầy những chùm nho tím đỏ, bóng một người con gái xinh đẹp áo màu xanh biếc đã lướt nhanh đến:
- Tướng công! Tướng công...

Trong lòng Dương Lăng dâng trào hạnh phúc. Mặc dù rời kinh đã gần hai tháng, nhưng giọng nói ấy vẫn thân thuộc biết dường nào. "Tướng công", đó là lối xưng hô độc nhất của Ấu Nương với mình, chỉ có nàng ấy mới gọi mình như vậy.

Dương Lăng giang hai tay ra, chiếc chậu đồng lại rớt choang xuống đất lăn sang một bên. Một thân thể mềm mại cùng một mùi thơm nhàn nhạt bổ nhào vào lòng y.

Thành Khởi Vận lại ngơ ngác một lần nữa: cô ta đường đường là tam phẩm Cáo Mệnh phu nhân, phong thái, cử chỉ, lời ăn tiếng nói đều phải chú ý đến lễ nghi, sao lại như vậy được... Thật đáng... thật là... thật sự là... khiến người ta cảm động. Trong lòng nàng chợt có phần hâm mộ.

Khuôn mặt xinh đẹp vừa hờn vừa vui, cái miệng chúm chím đầy đặn lúc nào cũng vênh vểnh, đôi mày cong đen nhánh mê người, cặp mắt quyến rũ như sao trời đang tuôn trào những giọt lệ châu trong vắt. Trên khuôn mặt thanh tú tràn ngập niềm vui lẫn hạnh phúc vô bờ.

Dương Lăng tham lam ngắm nhìn khuôn mặt xinh xắn của nàng, nhẹ nhàng vuốt ve gò má mịn màng:
- Ấu Nương... vợ của ta...

Lại một tiếng thì thầm khắng khít yêu thương như chim yến nỉ non: "Tướng công...", tiếng gọi còn chưa ngưng, Dương Lăng đã ôm chặt lấy bờ eo thon của nàng, hôn lên cánh môi nàng một cái thật nồng nàn. Một tiếng "ưm" khẽ cất lên, âm thanh hết sức ngọt ngào, dịu dàng thật lòng.

- Lão gia!
Trong tiếng gọi yêu kiều, hai mỹ nhân tựa như tiên tử trong mây đang nâng tà váy trắng tinh dịu dàng chạy tới. Trông thấy hai người đang ôm nhau hôn, bọn họ tức thì dừng lại, nhẹ nhàng bước đến gần, khẽ gạt những giọt nước mắt hạnh phúc rơi trên gò má. Đằng sau nữa là một đám tỳ nữ mừng rỡ hân hoan...

"Trời ạ, y đường đường là Bá tước, là Tổng đốc nội xưởng oai phong lẫy lừng mà! Cho dù có sủng ái thê tử, cũng không nên trước mặt đông người..." Thành Khởi Vận nhìn sang Cao Văn Tâm. Cao Văn Tâm cũng đang cười, cười khe khẽ, mắt lấp lánh.

Thành Khởi Vận cắn môi, nhẹ nhàng khom người nhặt chiếc chậu đồng đang lăn lốc lên đặt cẩn thận dưới giàn nho, chợt như cắn phải một quả nho chua chua ngòn ngọt, nước nho trôi theo cuống họng thấm vào lòng, mùi vị thực khó tả.





Chú thích:

((1) Chức quan quản lý việc chăn nuôi, huấn luyện và mua sắm ngựa cho triều đình
(2) Nguyên văn "cận hương tình khiếp". Người xa quê lâu năm, bặt vô âm tín, đến khi trở về, càng về đến gần, lòng càng nóng vội, chỉ lo quê nhà đã xảy ra chuyện không hay. Thành ngữ này dùng để chỉ tâm trạng phức tạp của người xa quê lúc trở về.

Chương 153 - Tình ý ngọt ngào

Vào thời Đại Minh, có người đàn ông nào dám biểu đạt tình ý của mình với người yêu bằng một nụ hôn thật dài, thật triền miên trước ánh mắt chăm chăm của thiên hạ chứ; ngay cả Thành Khởi Vận nhìn thấy mặt cũng đỏ bừng, tim đập thình thịch. Lúc này Dương Lăng mới quyến luyến rời khỏi đôi môi mềm mại và mọng nước của Hàn Ấu Nương.

Ấu Nương đáng thương bị phu quân của mình ôm hôn cuồng nhiệt, đôi môi mềm non nớt đã hơi sưng lên; mắt hạnh mê li, má đào ửng đỏ, cả người nhũn ra. Thường nói "tiểu biệt thắng tân hôn", từ sau khi hai người thật sự "đôi lứa yêu nhau" thì đây là lần đầu tiên bọn họ chia cách nhau lâu như vậy, tất cả mọi tương tư và lưu luyến đều đã được bồi đáp bằng nụ hôn dài này.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nhìn vẻ hạnh phúc và mỹ lệ đến cực điểm ấy của Ấu Nương tỷ tỷ mà hâm mộ vô cùng. Niềm vui mừng khôn xiết khi hay tin phu quân trở về đã dần được khống chế, hai người kiềm nén khát vọng muốn được Dương Lăng ôm chặt vào lòng, chỉnh đốn lại trang phục, nhún người làm lễ rồi khẽ giọng thưa:
- Thiếp thân ra mắt lão gia.

Dương Lăng mỉm cười, rảo bước đi qua. Ngọc Đường Xuân vừa ngước ánh mắt kinh ngạc của mình lên thì Dương Lăng đã ôm lấy vòng eo thon của nàng hôn đánh "chụt" lên đôi môi như cánh hoa của nàng một cái, sau đó cũng ôm Tuyết Lý Mai vào lòng hôn môi nàng một cái rõ to.

Hai người con gái yêu kiều dễ thương tròn xoe đôi mắt. Bọn họ là thiếp à nha, hơn nữa trước lúc Dương Lăng rời kinh cho dù có lén lút thân mật hơn thì vẫn thờ ơ bày ra dáng vẻ lão gia khi có mặt Ấu Nương. Lúc nào mình cũng đã có phước được lão gia... được lão gia sủng ái như thế vậy?

Trong chớp mắt, cặp mắt như thu thủy đã ứa đầy những giọt lệ hạnh phúc. Rốt cuộc bọn họ đã dám vượt khỏi thân phận thiếp thất ở trước mặt chính thất và đám tỳ nữ rồi. Bọn họ lấy dũng khí ôm Dương Lăng, hôn nhẹ lên má y một cái rồi mới đỏ mặt lui lại, vừa thẹn thùng vừa sung sướng nhìn đấng lang quân yêu mến của mình.

Lần này Dương Lăng rời kinh đã nhiều lần lấy thân mạo hiểm, bốn lần thoát hiểm cầu sinh nên càng thêm yêu quý mọi thứ thuộc về mình. Nay đã trở về đến nhà, trông thấy những người đã cùng mình chăn gối triền miên, sáng chiều chung sống, cuối cùng cũng gỡ được mối khúc mắc sau cùng.

Mặc kệ y chỉ còn một năm thọ mệnh hay không, mặc kệ chướng ngại tâm lý một vợ một chồng của y, bọn họ đều là thân nhân của y, là những người vợ mà tính mạng và hạnh phúc cả đời đều gởi gắm vào y. Đã đến cái thời đại này thì phải vứt bỏ những quan niệm giá trị mà trước đây y bị ràng buộc. Y có trách nhiệm làm cho người thân của y được hạnh phúc.

Y cất tiếng cười vang:
- Đi, cả nhà chúng ta đi vào rồi trò chuyện tiếp!

Cả nhà đi vào rồi trò chuyện tiếp? Cao Văn Tâm cắn nhẹ môi, bước chân trở nên nặng nề. Thành Khởi Vận liếc thấy thần sắc của nàng, thầm nghĩ: "Dù sao cả hai cũng đều giả trang làm thị tỳ, nàng ta đi thì mình cũng đi, nàng ta bất động mình bất động là được."

Tuy bản thân Hàn Ấu Nương vẫn chỉ là một tiểu cô nương mười sáu tuổi nhưng những ngày qua lo liệu, giải quyết và quản lý sự vụ trong phủ, nàng đã rất có phong phạm của nữ chủ nhân. Trông thấy Văn Tâm tỷ tỷ do dự, nàng không khỏi vừa giận vừa mừng liếc người tướng công có phần thất thố của mình một cái rồi bước tới kéo tay Cao Văn Tâm, mỉm cười duyên dáng:
- Tỷ tỷ trở về rồi à? Muội muội nhớ tỷ lắm. Vị tỷ tỷ này là...?

Ánh mắt nàng vừa đảo qua, trông thấy diện mạo hết sức xinh đẹp của Thành Khởi Vận thì trong mắt cũng không kiềm được một sự kinh ngạc và ái mộ: “Người con gái thật đẹp, hình như... chỉ có Liên Nhi tỷ tỷ mới sánh được với cô ta. Chẳng lẽ là...?”

Ánh mắt nàng loé lên, nhìn sang phu quân dò hỏi. Thành Khởi Vận thông minh biết dường nào liền gập người thi lễ, mỉm cười đáp:
- Hạ quan Thành Khởi Vận, bái kiến đại phu nhân, hai vị phu nhân.

- Hạ quan? - Ba người Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai cùng kêu lên, kinh ngạc nhìn lấy cử chỉ trang nhã của nàng, nhất thời không nói nên lời.
- Trừ thời Võ Tắc Thiên lên làm vua thì trong triều khi nào có con gái làm quan vậy? Cô ta nói là hạ quan?

Dương Lăng cười giải thích:
- Vị Thành cô nương đây là Nhị đáng đầu của Nội xưởng ta. Chức quan của Tập sự xưởng là do Xưởng đốc lập ra, nhân viên là do Xưởng đốc bổ nhiệm, không bị hạn chế bởi phẩm tước của quan viên triều đình. Thành cô nương rất có tài thao lược, lại băng tuyết thông minh cho nên ta mời đến Nội xưởng làm quan, cũng là cánh tay đắc lực của ta. Ha ha, Ấu Nương, tướng công suýt bị kẻ gian bày kế sát hại ở Giang Nam, nếu không nhờ Thành cô nương đây tiết lộ tin tức thì e rằng hôm nay ta và nàng đã không thể gặp nhau rồi.

Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghe mà giật mình kinh sợ, cũng vì vậy mà hết sức cảm kích Thành Khởi Vận. Hành động của Dương Lăng tại Giang Nam được đám thương nhân đi lên phương Bắc truyền bá đã trở nên vô cùng kì diệu: chống Oa ở Hải Ninh triều, đoạt quân doanh Long Sơn vệ, mượn gió trên ghềnh Lạc Nhạn, từng câu từng chuyện gần như đã biến Dương Lăng thành thánh thần.

Có điều chuyện trong phủ họ Mạc người ngoài không biết rõ, tin tức sau khi Dương Lăng đến Kim Lăng hiện vẫn chưa được truyền đến, bọn họ cũng không biết đã gặp phải đại nạn gì, nói chung nay thấy y bình yên vô sự trở về thì tâm tình thấp thỏm lo âu cuối cùng đã vơi đi.

Vừa nghe người con gái xinh đẹp làm quan này là ân nhân cứu mạng tướng công thì Hàn Ấu Nương lập tức bước tới nhún người thi lễ, nói:
- Hàn thị cảm tạ ân đức của đại nhân với nhà họ Dương của thiếp thân.

Thấy Ấu Nương thi lễ, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai cũng vội vàng nhún mình theo ở phía sau. Thành Khởi Vận vận đồ nữ tỳ màu xanh song lại được gọi là đại nhân, nhất thời cũng không biết nên đáp lễ quan hay đáp lễ thị nữ, do dự một chút nàng mới chắp tay đáp lễ:
- Dương phu nhân khách sáo rồi.

Một đàn "oanh yến" ríu rít vây quanh Dương Lăng đi vào. Vào đến phòng khách ở nhà sau, y nói với Ấu Nương:
- Ấu Nương, Thành đại nhân là thân nữ nhi, ở trong quân doanh có rất nhiều bất tiện, mấy ngày nữa còn phải trở về Kim Lăng làm một việc quan trọng mà ta có vài chi tiết còn phải thương nghị cùng cô ta, chốc nữa nàng hãy sắp xếp chỗ ở cho Thành đại nhân nhé.

Hàn Ấu Nương mỉm cười dịu dàng đáp:
- Vâng, vậy để Thành đại nhân chịu khó ở tạm trong căn phòng ngủ tại thư phòng ở gian trong nhé, cũng tiện để mọi người bàn việc công.

Đang nói, nàng bỗng trông thấy đám nha hoàn và thị vệ cũng túm tụm đi vào trong phòng, bèn phì cười bảo:
- Chạy cả vào làm gì? Văn Lan, tỷ hãy mang người bố trí căn phòng cho Thành đại nhân một chút.

Cao Văn Lan tươi cười đáp một tiếng, rồi bảo đám thị nữ:
- Đi ra hết đi, lão gia vừa mới về phủ, còn phải nghỉ ngơi một lát.

Đám thị tỳ cười hì hì lui ra ngoài, Cao Văn Tâm liếc Dương Lăng một cái thật sâu rồi cũng lặng lẽ lui ra. Hàn Ấu Nương trông thấy tính mở miệng gọi nàng, sực nhớ Thành Khởi Vận còn ở trong phòng thì ngậm miệng lại, nói với Dương Lăng:
- Tướng công! Mấy ngày nay nghe nói Đông xưởng và Nội xưởng xảy ra tranh chấp. Bắt đầu từ ba hôm trước, số người ẩn nấp quanh phủ chúng ta càng đông hơn, thiếp thật lo cho chàng.

Có người ngoài ở đây, cho nên nàng không tiện tự xưng là "Ấu Nương", bất quá Dương Lăng cũng đã nói nhiều lần rằng nàng không cần phải tự xưng là "thiếp thân" gì cả, nên Hàn Ấu Nương bèn ngoan ngoãn sửa lại thành "thiếp".

Dương Lăng biết mấy ngày nay nhân thủ tăng cao, nhất định là vì Nội xưởng lo lắng có người gây bất lợi cho người trong phủ nên âm thầm tăng cường phái người bảo vệ. Ấu Nương không biết nội tình, mấy ngày nay chắc lo cho mình hết sức thì áy náy nắm tay nàng, nhẹ nhàng bảo:
- Không phải tướng công đã về rồi đó sao, đừng lo lắng nữa. Lần này tướng công xuôi nam nhắc đến thực là kinh tâm động phách, tối nay tướng công sẽ kể rõ cho nàng. Chẳng phải nàng thích nhất là nghe tướng công kể chuyện sao?

Hàn Ấu Nương thích nhất là được nghe y kể chuyện, nghe y rủ rỉ rù rì kể những mẩu chuyện ly kỳ, nhất là sau lúc hai người thân mật. Thường ngày Hàn Ấu Nương chăm sóc chu toàn cho Dương Lăng, duy chỉ sau mỗi lúc hai người yêu đương, biết rõ là y buồn ngủ rã rời song vẫn không thể kiềm lòng mà thích được nép vào trong lòng y như một chú mèo, trò chuyện câu được câu chăng.

Lúc này vừa nghe tướng công nói như vậy thì khuôn mặt Hàn Ấu Nương không khỏi nóng rần, nàng thoáng rụt tay về, chột dạ liếc mắt nhìn về phía Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai. Hai cô bé ấy tuy sớm biết lão gia có tình ý sâu đậm với phu nhân nhất, đêm nay trở về đoán chắc sẽ muốn ngủ cùng giường với nàng song vẻ mặt vẫn không kiềm được chút thất vọng và hờn oán.

Dương Lăng xuôi theo ánh mắt Ấu Nương trông thấy vậy thì không khỏi ho khan mấy tiếng rồi nói:
- Ừm... lần này về, tướng công tạm thời không cần phải vào triều đình giải quyết việc công, ít nhất sẽ ở nhà một tháng.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai vừa nghe, ánh mắt thoáng chốc liền sáng rỡ.

Thành Khởi Vận ngồi một bên, nhìn thấy biểu tình của gia đình này thì nàng chỉ nén cười như thể cảm thấy rất là thú vị.

Tỳ nữ dâng trà lên, Hàn Ấu Nương tự tay châm cho Thành Khởi Vận một chén, rồi lại rót dâng cho tướng công một chén. Dương Lăng nhấp một ngụm trà, chợt trông thấy ở góc phòng có chất mấy chiếc rương to, bèn ngẩn ra hỏi:
- Đó là gì vậy?

Hàn Ấu Nương cười đáp:
- Thiếp cũng không biết nữa, là của Liễu Thiên hộ vận chuyển từ Thiên Tân vệ về, vừa mới đưa đến sáng nay. Nghe nói có thư hoạ châu báu, dược liệu gấm tơ, có một số thứ là để dâng lên cho Hoàng thượng. Thiếp vẫn chưa kịp cất vào trong kho nên chất tạm để đó.

Dương Lăng ờ một tiếng, đoạn đặt chén trà xuống rồi bước qua xem. Cao Văn Tâm rất cẩn thận, trên mỗi tờ niêm phong ở mỗi rương đều ghi chép tỉ mỉ chủng loại đại khái vật phẩm trong rương. Nhìn thấy trên chiếc rương trên cùng ghi chữ "châu báu", Dương Lăng bèn thuận tay xé niêm phong, mở nó ra, thấy một chiếc rương nhỏ được đặt ngay chính giữa, bên trong đều là báu vật trân quý được lựa chọn kỹ lưỡng, y liền bê nó lên bàn rồi mở ra.

Ánh sáng lấp lánh rực rỡ lập tức thu hút ánh mắt mọi người. Bên trong chiếc rương này đều là châu báu do Mạc Thanh Hà biếu tặng, hơn nữa Thành Khởi Vận nay có thể nói đã là thuộc hạ thân tín của y, Dương Lăng đương nhiên không cần phải che giấu. Y lấy ra một chiếc vòng đeo cổ bằng bảo thạch óng ánh màu lam nhàn nhạt và đôi khuyên tai cùng màu đưa cho Ngọc Đường Xuân và nói:
- Bộ trang sức này nghe nói là từ Thiên Trúc, vì da nàng rất trắng, cho nên ta cố ý chọn nó tặng cho nàng.

Khuôn mặt Ngọc Đường Xuân thoáng hiện lên một sự vui mừng, nàng nhận lấy chiếc vòng đeo tay rực rỡ sắc lam và cặp khuyên tai đó, đôi mắt phượng miên man tình ý thẹn thùng liếc Dương Lăng một cái, khẽ giọng nói:
- Tạ ơn lão gia.

Chiếc vòng đeo tay bằng bảo thạch rực rỡ sắc lam thăm thẳm ấy chẳng những có kiểu dáng tinh xảo mà chất liệu làm vòng hiển nhiên cũng cực kỳ đắt giá. Ngọc Đường Xuân dung mạo diễm lệ, nước da như ngọc, dáng người lại thướt tha, eo thon như nguyệt, lúc ở Thì Hoa quán từng được vinh là "giai nhân nhất xuất, mãn thất sanh xuân" (*). Cặp bảo thạch màu lam rực rỡ như thế quả nhiên tôn nàng lên nhất. Chỉ là khi đeo lên tay, làn da mịn màng liền toát ra một màu lam nhàn nhạt khiến cho bàn tay ấy tựa như trong suốt.
(*) người đẹp bước ra, cả phòng xuân nở.

Phụ nữ ai chẳng thích châu báu, đặc biệt là trang sức đeo vào làm tăng thêm vẻ đẹp như vậy. Ngọc Đường Xuân lòng liền nở hoa, mừng vui khôn xiết. Tuyết Lý Mai khẽ mím môi, tuy biết rõ trong hộp châu báu này đương nhiên cũng có phần của mình song nàng vẫn như một đứa bé, cặp mắt xinh xắn nhìn về phía phu quân như ai như oán.

Dương Lăng lại lấy ra chiếc vòng đeo cổ. Chiếc vòng bằng bảo thạch đỏ như mã não, nhỏ như anh đào, châu tròn ngọc sáng khiến người ta nhìn mà mờ mắt. Chính giữa chiếc vòng không ngờ lại treo một viên hồng ngọc hình trái tim rất to. Nếu đeo lên cổ, hồng ngọc hình trái tim xinh đẹp loá mắt ấy lót nền giữa khe ngực muốt như tuyết thì sẽ quyến rũ biết dường nào?

Tuyết Lý Mai nhất thời nhìn đến ngẩn ngơ. Dương Lăng mỉm cười nói:
- Hoa mai trong tuyết (*), nay có thể nói là đúng với tên rồi nhỉ?
Nghe vậy, mặt Tuyết Lý Mai lập tức đỏ bừng.
(*) Tuyết Lý Mai nghĩa là hoa mai mơ trong tuyết, mai mơ có màu đỏ, thuộc giống hồng.

Nàng trời sinh tướng Bạch Hổ(1), chỗ ấy trắng mịn đến mê người, khe ấy đỏ tươi chói lọi, hai bắp chân tròn lẳng như ngọc trụ lại trắng như tuyết non, mềm như đậu hũ. Lúc trong khuê phòng Dương Lăng thường lấy câu "hoa mai trong tuyết" ra trêu nàng.

Lúc này nghe Dương Lăng lấy cái bí mật riêng tư giữa hai người ra trêu mình, nàng không khỏi quýnh cả lên vội chộp lấy chiếc vòng hồng ngọc ấy, cũng không thèm cảm ơn lão gia mà lại vừa mừng vừa ngượng lườm y một cái song trong ánh mắt trong veo lại chứa chan sự ngọt ngào.

Lời ân ái giữa hai người đương nhiên chỉ có thể hiểu ngầm, không thể nói ra, người ngoài dĩ nhiên không hiểu được. Dương Lăng bị vẻ thẹn thùng của nàng kích thích khiến cho con tim gợn sóng, trong lòng cũng nóng lên. Y cười bảo:
- Trong rương còn có mấy bộ áo chẽn, áo ghép và váy lụa, đều là vân hoa nổi Tô Châu và gấm Tứ Xuyên thượng phẩm. Ta mua cho Ấu Nương và các nàng mỗi người một bộ, các nàng đi lấy đi.

Sắc mặt của Tuyết Lý Mai quả nhiên đỏ rực như hoa mai trong tuyết, nàng yêu kiều “dạ” một tiếng rồi thong thả đi đến chỗ chiếc rương nọ. Phòng ngủ vẫn chưa được thu dọn xong, Thành Khởi Vận đành phải ngồi trong sảnh, mắt thấy Dương Lăng chia tặng lễ vật cho hai người thiếp thất nên không tiện đặt ánh mắt lên bàn liền lảng nhìn sang chỗ khác.

Hàn Ấu Nương không biết rằng vì Thành Khởi Vận cũng từng tặng lễ vật cho Dương Lăng cho nên Dương Lăng mới không e ngại gì. Nàng thấy tướng công mở hộp báu trước mặt Thành Khởi Vận, thầm nghĩ: "Vị cô nương này là ân nhân cứu mạng của tướng công, lại là thuộc hạ đắc lực của chàng, nhưng nàng ấy là thân nữ nhi nên tướng công đương nhiên không tiện tặng lễ vật cho nàng ấy. Thân là phu nhân mình nên bày tỏ ý với thuộc hạ thân tín của trượng phu một chút."

Hàn Ấu Nương lấy một sợi dây chuyền trong hộp ra. Đây là một sợi dây chuyền bằng vàng ròng, trên đính trang sức bằng vàng hình lá liễu, mỗi chiếc lá liễu bằng vàng được khảm một viên đá mắt mèo, mỗi khi lắc nhẹ trông rất mê người. Hàn Ấu Nương mỉm cười nói:
- Tỷ tỷ, về công tỷ là thuộc hạ của tướng công nhà muội; về tư, chúng ta chỉ lấy thân phận tỷ muội kết giao, sợi dây này hãy xem là lễ vật muội đây tặng cho tỷ tỷ, mong tỷ tỷ nhận cho.

Dương Lăng thấy sợi dây đó phải dài hơn dây chuyền đeo cổ bình thường một chút, kiểu dáng lại khá hoang dã, nghĩ rằng đó là trang sức đến từ ngoại bang dị vực. Mặc dù y rất thích viên đá mắt mèo hấp dẫn đó song vẫn cảm thấy không thích hợp để đeo lắm, chỉ xem nó như một món châu báu có giá trị nên cất giữ mà thôi. Lúc này thấy Ấu Nương định đem tặng nó cho Thành Khởi Vận, y nghĩ bụng: "Với tầm mắt của vị cô nương này, chưa hẳn đã để ý đến món châu báu này đâu, song dù sao Ấu Nương cũng có lòng tặng cô ta, mình cũng không tiện hoán đổi."

Y vội cười bảo:
- Đúng đó, Thành cô nương đừng khách sáo, chỉ là một món trang sức mà thôi, cô nương hãy nhận đi.

Thành Khởi Vận vốn định khước từ, nghe Dương Lăng nói như vậy, bèn mỉm cười, đưa hai tay nhận lấy sợi dây vàng, nói với Ấu Nương:
- Ty chức tạ ơn phu nhân.
Nói xong liếc ánh mắt quyến rũ về phía Dương Lăng, thầm nghĩ: "Thả hỉ thả ưu tam nguyệt kiều, tá phong kinh đãng tiểu man yêu(*). Vị đại nhân này và phu nhân đây có biết nó là đồ trang sức đeo trong người mà chỉ khi trong khuê phòng mới bày ra tặng cho con gái người ta hay không, sao lại tặng cho mình đồ như vậy?"
(*) tạm dịch “khấp khởi mừng lo ba tháng trọn, yêu kiều mượn gió đẩy eo thon”.

Lúc này Cao Văn Lan nhẹ bước tiến vào, khẽ giọng báo:
- Lão gia, phòng của Thành cô nương đã thu dọn xong rồi ạ.

Dương Lăng duỗi người rồi nói:
- Đi đường vất vả quả thật cũng hơi mệt rồi, cô cũng về phòng nghỉ ngơi trước đi. Khi nào đến bữa ta sẽ bảo mấy người Ngọc Nhi tiếp cô uống mấy chén. Ngủ ngon nhé.

Thành Khởi Vận uyển chuyển đứng dậy, Hàn Ấu Nương liền nói:
- Thiếp đưa cô nương về phòng nhé. Văn Lan, sai người đun nước chưa vậy? Chốc nữa đưa vào trong phòng lão gia và phòng của Thành cô nương nhé.

Thành Khởi Vận sinh tại vùng sông nước Giang Nam, lại rất ưa sạch sẽ, mấy ngày nay không được tắm rửa, cả người đang cảm thấy khó chịu, nghe vậy thì không khỏi mừng rỡ nói:
- Đa tạ phu nhân. Đại nhân, vậy Ty chức xin phép về phòng trước.

Dương Lăng gật đầu, thấy Ấu Nương đưa Thành Khởi Vận cùng rời khỏi, bên kia Tuyết Lý Mai đã lôi ra được mấy bộ đồ tinh mỹ khéo may, chất liệu thượng thừa ở trong rương, thích đến không nỡ rời tay, cười nói:
- Các kiểu hoa văn lão gia chọn thật khéo, màu sắc của bộ y phục này rất là đẹp.

Dương Lăng cười nói:
- Vốn định mua vải chất liệu tốt về may nhưng Văn Tâm đã biết vóc người của mấy nàng cho nên mời thợ may Tô Hàng may tạm mấy bộ luôn. Nàng đem qua đây, bên trên có ghi họ đó, lát nữa về phòng thử mặc xem như thế nào.

Tuyết Lý Mai ôm đống quần áo ra, hỏi:
- Lão gia, những bức tranh cuộn này là do cổ nhân đời trước vẽ ra sao?

Niềm đam mê thư hoạ của Ngọc Đường Xuân hơn xa Tuyết Lý Mai, nghe vậy thì không khỏi mừng rỡ chạy lại nói:
- Có thư hoạ của cổ nhân sao? Cho tỷ xem với.

Lúc này Dương Lăng mới chợt nhớ đến "Thập Mỹ Đồ" và bức tranh xuân cung nọ của Đường Bá Hổ. Hai người con gái này đều là người đầu kề gối ấp với mình, trong phòng lại không có người ngoài nên y bước tới vỗ bốp lên bờ mông mềm mại mà vểnh cao của Ngọc Đường Xuân một cái. Ngọc Đường Xuân kêu "á" lên một tiếng, ôm mông quay mặt lại, cặp mắt nóng bỏng ngượng ngùng liếc Dương Lăng.

Dương Lăng hôn lên gò má thơm của nàng một cái rồi cẩn thận lấy từ trong rương ra hơn mười cuộn tranh vẽ, dương dương đắc ý nói:
- Những bức thư hoạ này tuy không phải là đại tác phẩm của danh hoạ trong sử sách cổ đại song người này lại là Giang Nam đệ nhất tài tử, mấy trăm năm sau ắt sẽ trở thành một đại danh hoạ. Bức thư hoạ này ấy à...

Đoạn y cười khà khà, đưa mắt ngắm hai người ái thiếp như hoa như ngọc của mình, rồi cười gian xảo nói:
- Bức thư hoạ này là "Thập Mỹ Đồ" do vị Đường đại tài tử nọ phỏng theo mỹ nữ mà vẽ ra. Còn có một bức... hề hề hề, hai nàng cầm về phòng xem đi, dăm bữa nữa lão gia và mấy nàng cũng thử làm giống vậy, nhỉ?

- Thập Mỹ Đồ? - Hai cô nàng tiểu mỹ nhân nghe vậy lập tức lấy làm không phục. Chẳng lẽ mỹ nữ Tô Hàng hơn xa chúng ta sao? Hơn nữa lão gia nói chuyện thần bí như vậy, rốt cuộc là thứ gì vậy nhỉ.

Thậm chí Tuyết Lý Mai đang nóng lòng muốn thử mấy bộ đồ chất liệu mới nọ cũng vất chúng sang một bên, tò mò ghé lại. Hai người giở một bức tranh ra, chỉ thấy trong tranh vẽ một người con gái áo hồng, mắt nhìn xinh đẹp sống động như thật, như muốn xé tranh bước ra.

Hai người con gái không khỏi kinh ngạc tán thán một hồi. Phải biết thời đó tranh vẽ truyền thần (2) rất nhiều song rất ít người có thể vẽ được nhân vật giống hệt người thật. Lối vẽ tranh tinh vi (3) không nhiều, nhân vật được vẽ chi tiết tỉ mỉ và sống động như vậy lại càng hiếm. Hai người bọn họ không biết người con gái trong tranh có phải vốn có bộ dáng như vậy hay không song vẽ tướng mạo giống hệt người thật như vậy đã là hiếm thấy rồi.

Quan sát cẩn thận thêm một lát, vị mỹ nữ đó tuy vô cùng diễm lệ nhưng không hề xuất sắc hơn hai người, thậm chí còn kém một phần, bọn họ không khỏi thấy nhẹ nhõm trong lòng.

Dương Lăng quay về ngồi trước bàn, vừa hớp trà vừa tủm tỉm cười chờ bọn họ giở đến bức xuân cung. Nghĩ đến "mảnh ruộng" trắng hồng như gò tuyết của Ngọc Đường Xuân, tim y liền đập thình thịch, không nhịn được mà có ý nghĩ xấu xa: "Mấy cô nàng này đều vẫn còn quá ngây thơ, chỉ mới xuất giá, mình lại xót các nàng ấy không chịu nổi "thảo phạt", nên vẫn chưa thử cái mùi vị khác lạ ấy. Giờ trêu bọn họ một chút, nói không chừng..."

Dương Lăng đang gian giảo nghĩ ra những ý tưởng xấu xa, Ngọc Đường Xuân bỗng lẩm bẩm:
- Bức tranh này sao lại buộc hai sợi dây vậy, lại còn khoá lại nữa, mở không ra.

Dương Lăng vừa nghe, trong lòng liền máy động. Bức tranh được buộc hai sợi dây đó là vẽ y và Cao Văn Tâm. Y bèn lật đật đứng dậy đưa ngón tay lên xuỵt một tiếng bảo:
- Nhỏ một chút, tháo móc khoá ra, bức đó là... e hèm, là do Đường đại tài tử Giang Nam nhất thời đa sự đã vẽ lão gia và Văn Tâm. Ừm... chỉ là tác phẩm được vẽ ra trong lúc nhàm chán thôi, đừng để Ấu Nương thấy.

- A! Vẽ lão gia và Văn Tâm tỷ tỷ? - Hai người con gái liền vội tháo móc khoá, chậm rãi giở bức tranh ra. Hai người đứng đối diện với chiếc rương cho nên Dương Lăng cũng không thấy thần sắc hai người. Đợi một hồi thấy hai người chẳng nói chẳng rằng thì gượng cười nói:
- Bức tranh này là trên đường đi Thái Hồ gặp được tứ đại tài tử Giang Nam, sau đó Đường Dần nhìn trộm bọn ta, nhất thời cao hứng mà vẽ ra.

Giọng Ngọc Đường Xuân khẽ run run hỏi:
- Bức tranh này thật sự là vẽ... vẽ lão gia và Văn... Tâm tỷ tỷ?

Dương Lăng đáp:
- Đúng vậy, có phải không thấy rõ mặt bên không? Ta vẫn thấy khá rõ mà.

Tuyết Lý Mai lý nhí hỏi:
- Người phía sau... phía sau này đúng là lão gia ư?

Nhớ tới cái tát mà Cao Văn Tâm cho Đường Bá Hổ ăn nọ, Dương Lăng liền cười bảo:
- Không phải ta thì còn ai vào đây? Nếu đổi lại là người khác thì đã bị nàng ấy tát cho lộn nhào từ lâu rồi.

Hai người con gái nhìn bức tranh xuân cung đó, vừa muốn nhìn lại vừa không dám nhìn. Thân thể của người thiếu nữ trong tranh yêu kiều phơi phới; vẻ thành thục và dáng vẻ ấy thực có mấy phần giống Cao Văn Tâm. Người thiếu nữ ấy để loã nửa thân, ngang eo vắt một dải lụa hồng, tuy thoạt trông không giống lắm, có lẽ vì bút lực của người vẽ có hạn song sắc xuân dạt dào nơi mi mắt ấy lại sống động như thật.

Hai người con gái từng nghe nói đến "Hậu đình hoa", cũng đã từng trông thấy tranh xuân cung, nghĩ thầm: "Trời ạ, Văn Tâm tỷ tỷ sao lại... lớn gan như vậy. Tuy rằng phu nhân đã chấp thuận song tỷ ấy vẫn chưa gả vào mà, thế mà dám cùng với lão gia như vậy... như vậy... Chẳng những bị người ta nhìn lén, còn vẽ ra nữa. Thật ngượng chết đi."

Hai người mặt đỏ bừng, tai nóng rần, tròn mắt nhìn bức tranh hồi lâu. Tuyết Lý Mai lặng lẽ xem câu đề mục "ngoảnh đầu dặn nhẹ cho em, không như cảnh sắc gió trăng tầm thường" (*) mà tim đập thình thịch: "Lão gia nói muốn cùng chúng ta thử làm một phen... Thì ra lão gia thích tư thế này ư?"
(*) xem lại nguyên văn ở chương 128.

Hàn Ấu Nương thu xếp cho Thành Khởi Vận xong, bèn trở về phòng khấp khởi thông báo:
- Tướng công, nhà bếp đã đun nước rồi, chàng hãy về phòng tắm rửa một chút đi.

Hai người Ngọc Đường Xuân nghe thấy tiếng của Ấu Nương vội cuống quít cuộn bức tranh lại rồi vất vào trong rương. Lúc quay đầu lại nhìn Dương Lăng thì má đào đỏ ửng một vùng, mày ngài mịn màng cong vút, trong mắt lờ mờ sương nước.

Dương Lăng tuy cảm thấy hai người vợ bé nhỏ của mình có vẻ kỳ lạ nhưng vẫn nghĩ rằng bọn họ giúp mình giấu Ấu Nương cho nên trong lòng không yên; nhưng mà bức tranh ấy đốt bỏ đi thì không nỡ, giữ thì lại sợ Ấu Nương sẽ lại hối y cưới Cao Văn Tâm mà không hề nghĩ đến điểm khác.

Y đứng dậy, nháy mắt với hai người đẹp bé bỏng của mình:
- Hai người các nàng đều giỏi nấu nướng, hãy xuống bếp làm mấy món khoái khẩu cho lão gia đi. Đã hai tháng rồi không ăn đồ trong nhà, quả thật hơi thèm rồi.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa mắt nhìn nhau, lật đật dạ một tiếng rồi nối bước líu ríu ra ngoài.

Ấu Nương thở dài cười nói:
- Lúc tướng công không có nhà, ngày nào bọn họ cũng nhắc đến chàng. Nay đã về rồi sao lại giống như là sợ gặp chàng ấy nhỉ?

Dương Lăng đi tới ôm lấy chiếc eo mềm mại của nàng, trìu mến bảo:
- Vậy còn nàng thì sao? Nhớ ta như thế nào, là nhắc đến ta, hay là nhớ ở trong lòng?

Hàn Ấu Nương vẫn chưa quen âu yếm ở bên ngoài, ngoại trừ khi nãy mới gặp tướng công nhất thời thất thố quên mất lễ nghi thì lúc này nàng đã khôi phục lại vẻ đoan trang e thẹn, nàng thấp giọng nói:
- Tướng công...

Bàn tay dịu dàng của Dương Lăng lần trên người này dần dần lên đến bộ ngực săn mẩy. Y kề tai thủ thỉ:
- Có phải là lúc nào cũng giữ trong lòng mà không chịu nói ra, sợ mấy người Ngọc Nhi chê cười phải không, cô vợ bé bỏng của ta?.

Hàn Ấu Nương khẽ kêu lên một tiếng ngã vào trong lòng rồi ôm chặt lấy eo y, thì thầm nỉ non:
- Ừm... ừm... nhớ lắm, lúc nào cũng nhớ, vừa ngóng đợi những việc vẻ vang chàng làm, vừa mong mỏi chàng sớm trở về. Tướng công, người ta nhớ chàng muốn chết thôi, chàng có nhớ người ta không?

Những lời bộc bạch mộc mạc và thâm tình của Hàn Ấu Nương là những lời xúc động lòng người nhất, khiến người nghe rung động đến tâm can: "Phải rồi, mình chính là chỗ dựa của nàng ấy, là ông trời trên đầu nàng ấy, nếu như lần này không sống được để trở về, nàng ấy hẳn sẽ đau lòng muốn chết. Mình sợ chết nên không hề nương tay với những kẻ muốn đẩy mình vào chỗ chết cũng chẳng phải là vì không muốn người mình yêu thương đau lòng ư?"

Y ôm chặt lấy Ấu Nương, hôn nhẹ lên đôi môi nàng, rồi khẽ bảo:
- Đi, giúp tướng công tắm rửa được không?

Mặt Hàn Ấu Nương nóng bừng như lửa đốt, liền vội lắp bắp nói:
- Tướng công, thiếp... thiếp chỉ giúp chàng chà lưng có được không? Đợi đến tối... đến tối mới... có được không? Bằng không mấy người Ngọc Nhi sẽ cười đó.

Dương Lăng biết lúc ở nhà cha con Hàn lão thường hay tận tâm dạy bảo nàng, rằng con gái phải có dáng dấp phụ nữ trưởng thành, đừng mang lối sống hư hỏng vào trong nội viện. Nay ông bố vợ đã mang ông con út đến Tuyên phủ song những lời ấy lại đã đóng rễ trong lòng Hàn Ấu Nương.

Y cũng không muốn làm khó ái thê của mình liền giả vờ nổi giận vỗ vào bờ mông tròn trĩnh đẫy đà đầy đàn hồi của nàng một cái rồi mới kề tai trêu ghẹo:
- Được, vậy thì đợi đến tối vậy. Bảo bối nhớ tướng công hai tháng, đêm nay tướng công sẽ trao hết tương tư của hai tháng đấy cho nàng, mong rằng nàng sẽ có thể nhận hết.

Trong chớp mắt, đôi mắt thuần khiết ấy của Hàn Ấu Nương dừng như cũng trở nên mơ màng, toát ra vẻ phong tình của thục nữ, nàng khẽ cắn môi, xấu hổ cúi đầu. Không ngờ nàng lấy dũng khí gật đầu, sau đó phì cười rồi bụm mặt chạy ra ngoài.

***


Dương đại lão gia chưa bao giờ kêu thị nữ giúp y tắm rửa, hôm nay vốn định kêu vợ yêu của mình tắm rửa cho, tiếc là thân thể y dẫu sao cũng đã bị cấm dục lâu ngày, đôi bàn tay nhỏ nhắn mềm mại ấy vừa mới chạm vào người thì y đã chịu không nổi. Cuối cùng y chỉ đành kêu Hàn Ấu Nương đỏ mặt lắp bắp cười thẹn ra ngoài rồi mới yên phận chui vào trong thùng tắm.

Dương Lăng tắm rửa thoải mái xong, chỉ cảm thấy cả người nhẹ nhõm. Từ lúc trở về thời cổ đại, y cũng đã quen với việc để tóc dài, thả cho mái tóc dài đen nhánh rũ ra sau vai, mặc một bộ đồ lót trắng tinh đặt ở trên giá, khoác thêm một chiếc áo dài mới toanh màu tím, xỏ đôi giày mỏng đế mềm vào rồi sảng khoái bước ra khỏi phòng.

Hàn Ấu Nương đang ngồi chờ ở gian ngoài, trông thấy tướng công bước ra nàng liền vội tiến đến đón. Thấy trên trán y có mấy giọt nước lăn xuống, nàng bèn đưa tay lau nhẹ cho y, rồi nói:
- Tướng công, sao không nằm nghỉ một tí đi, chàng chạy về kinh một mạch như vậy nhất định là đã mệt.

Dương Lăng cười đáp:
- Không nằm đâu, rời nhà lâu như vậy thật sự là rất nhớ nàng. Chúng mình đi dạo chung quanh chút đi, chỗ đất ở hậu viện vẫn chưa trồng gì hết phải không? Ở nhà không có gì để tiêu khiển, nàng có buồn không?

Da của Dương Lăng vốn trắng nõn anh tuấn bất phàm, mới tắm thay quần áo xong nên da ửng hồng, mũi cao mắt sáng, môi đỏ răng trắng hệt như một vị công tử tiêu sái. Hàn Ấu Nương vừa si mê nhìn dáng vẻ anh tuấn của tướng công mình vừa dịu dàng cười nói:
- Dạ không, thời tiết này không trồng được hoa màu gì nên Ấu Nương và mấy người Ngọc Nhi ngồi trong nhà học cầm kỳ thi hoạ. Nhưng bất kể là làm gì thì trong lòng lúc nào cũng cảm thấy trống trải.

Nàng cầm lấy tay Dương Lăng, áp nhẹ lên gò má bóng loáng của mình, khẽ nói:
- Cái cảm giác ấy thực không giống với khi có chàng ở trong nhà. Cho dù chàng cả ngày dậy sớm đi chầu nhưng người ta biết tối đến chàng lại sẽ về, trong lòng cũng bình thản. Khi chàng không còn ở trong kinh nữa, người ta vừa nghĩ đến thì trong lòng lại cảm thấy mất mát rối bời, hại người ta học gì cũng đều bị bọn Tuyết Nhi chê cười là ngốc.

Dương Lăng an ủi bảo:
- Ừm, tướng công cũng vậy, không có nàng ở bên cạnh tuy rằng bận bịu bao việc song vẫn như thiếu mất thứ gì. Nếu lần sau tướng công có phải rời kinh thì nhất định sẽ nghĩ cách mang nàng theo để nàng cùng ở cạnh ta.

Hàn Ấu Nương vui sướng gật đầu, ngọt ngào thỏ thẻ:
- Bánh cảo tiễn người đi ngược gió. Để thiếp đi làm cho chàng một bát ăn trước lót dạ. Đêm nay có khách, chàng đừng uống rượu ngay sẽ làm hại dạ dày.

Dương Lăng mỉm cười ừ một tiếng, rồi chợt nhớ mớ châu báu nọ vẫn còn để trong phòng khách, y vội nói:
- Nàng kêu người đem rương cất vào trong kho đi, chốc nữa ta sẽ lựa ra lễ vật tặng Hoàng thượng rồi nàng gói lại cẩn thận.

Hàn Ấu Nương đã bước đến cửa, cười vâng một tiếng rồi nói:
- Biết rồi đại lão gia, thiếp đã kêu Văn Lan đưa vào kho rồi. Chàng hãy nghỉ ngơi cho khoẻ đi, chốc nữa thiếp sẽ trở lại.

Dương Lăng sực nhớ Thành Khởi Vận được thu xếp một căn phòng ngủ đặt trong thư phòng ở gian trong, y là chủ nhân nên đi thăm một chút mới phải đạo, thế là cũng đi theo ra, tiến thẳng vào thư phòng ở gian trong.

Băng qua phòng khách, nội sảnh, xuyên qua sân vườn, vừa mới đi đến cổng sân bên phải y liền trông thấy bốn nha hoàn đang gánh thùng tắm đi ra. Dương Lăng cười hỏi:
- Thành cô nương đâu, tắm rửa thay đồ xong chưa?

Hai thị tỳ thấy là lão gia đến vội đáp:
- Dạ, lão gia, Thành cô nương đang xem sách trong thư phòng ạ.

Dương Lăng ồ một tiếng, rồi đi vào thư phòng phía trong. Chỉ thấy trong phòng không có người, trên bàn được đặt một quyển sách, y vừa đi vào vừa gọi:
- Thành cô nương...

Rèm cửa vừa được vén lên thì thấy trong phòng có một mỹ nhân yêu kiều, tóc xoã ngang lưng, hai tay giơ cao, cổ tay trắng ngần đưa lên không trung thành một tư thế kỳ quái, chiếc eo thon mảnh khảnh như cành dương liễu khẽ lượn theo một tư thế uyển chuyển lạ kỳ, trông vô cùng quyến rũ.

Eo nàng được quấn bởi sợi dây bằng vàng ròng nọ, những viên đá mắt mèo lấp lánh mê người, những chiếc lá vàng phát ra tiếng kêu vui tai, càng khiến bờ eo trắng ngần và mềm mại đang đong đưa của nàng trông mê hồn khôn tả. Vẻ đẹp đến choáng ngợp ấy thoạt trông thực giống như một yêu nữ lấy nước làm da, lấy rắn làm xương vậy.

Nàng đang múa ở trong phòng, trên người chỉ mặc đồ lót màu lụa đào, nơi giữa bụng thấp thoáng một làn da trắng nõn. Dương Lăng vội vã buông rèm ra đứng ngoài cửa, tiến không được mà lùi cũng không xong. Do dự một hồi lâu, y mới ngập ngừng cất tiếng:
- Thành cô nương, ta có thể vào không?

Rèm cửa được vén lên, Thành Khởi Vận đã mặc bộ váy đơn màu xanh vào, má hơi ửng đỏ bước ra. Ở khu nhà riêng này ngoài Dương Lăng thì chỉ có phụ nữ, nàng vốn không ngờ Dương Lăng sẽ đến gặp nàng vào lúc này. Sau khi tắm xong, nàng cầm sách thuốc xem bừa một chốc cảm thấy hết sức nhàm chán, chợt nhớ đến sợi dây thắt lưng quý báu mà Dương phu nhân tặng cho liền trở về phòng ngủ đeo vào múa thử một lúc.

Nàng chưa bao giờ đeo loại dây lưng nọ song lúc đi cùng Mạc Thanh Hà đến dự tiệc tại phủ của một vị đại phú thương thì thấy vũ kỹ mà phủ người nọ trả giá cao mua về đã đeo sợi dây lưng đó múa kiểu múa gợi tình kỳ lạ của dị quốc.

Vốn múa giỏi, Thành Khởi Vận chỉ nhìn một lần liền đã nắm thuộc lòng những động tác chính của điệu múa đó. Nàng cũng không biết sợi dây lưng này có phải là của vị phú thương nọ vì muốn lấy lòng mà tặng cho Dương Lăng hay không. Nay vật đã qua tay nhiều người rồi rơi vào tay nàng, khó tránh khiến nàng nổi tính trẻ con rồi tự nhảy tự múa trong phòng như một đứa trẻ; đang cảm thấy động tác hơi không được tự nhiên, không được ăn khớp lắm thì không ngờ lại bị Dương Lăng nhìn thấy.

Vóc người uyển chuyển ấy đã được che bởi bộ đồ xanh ống bó, song vầng ửng đỏ trên khuôn mặt dỗi hờn của nàng vẫn chưa tan, cái nhìn khẽ hờn khẽ giận trong ánh mắt long lanh như sóng nước ấy khiến vẻ phong tình của nàng càng thêm rung động lòng người. Nàng lúng túng hất mái tóc, hé đôi môi nho nhỏ cười mỉm:
- Đại nhân và phu nhân đã lâu không gặp, ty chức không ngờ đại nhân lại tới đột ngột, thật sự đã thất lễ.

Dương Lăng cười khổ nói:
- Việc này... là ta mạo muội thất lễ mới đúng. Ừm... sợi dây đó, thì ra là đeo trên hông à?

Thành Khởi Vận đỏ mặt quở giọng:
- Đại nhân còn nói nữa! - Lời vừa thốt ra nàng mới giật mình phát hiện ngữ điệu ấy lại giống như đang làm nũng với người ta, thế là không khỏi giận chính mình. Nàng đến bên bàn đọc, đổi ngôi mình từ khách sang chủ, mời:
- Mời đại nhân ngồi.

Dương Lăng ngồi xuống ghế đối diện, chỉ thấy Thành Khởi Vận mặt không thoa phấn, miệng chúm chím anh đào, nhớ đến vẻ khêu gợi của nàng ban nãy thì không dám ngước mắt nhìn thẳng mà chống tay lên gối, đưa mắt nhìn lên giá để sách cổ nói:
- Vẫn chưa đến giờ cơm tối, nên ta định đến thăm cô một chút, thuận đường dẫn cô đi dạo trong vườn luôn.

Dường như đang nén cười, Thành Khởi Vận nói:
- Ty chức là thuộc hạ của ngài, không thể xem như khách, đại nhân không cần khách sáo như vậy."

Thấy Dương Lăng câu nệ, vẻ mất tự nhiên của nàng cũng tan biến, nàng lấy hai ngón tay nhặt quyển sách trên bàn rồi cười mỉm, trên má lại hiện lên cái lúm đồng tiền xinh xinh, nói:
- Đại nhân quả là học rộng, thậm chí "Động Huyền Tử" cũng đã xem qua, lại còn đánh dấu nhiều chỗ nữa. Bội phục bội phục.

Dương Lăng nào có biết "Động Huyền Tử" là cái quỷ gì, có điều vừa nghe tên sách cũng biết ắt phải là điển tịch của Đạo gia liền gượng cười ra vẻ lành nghề bảo:
- Ồ, thỉnh thoảng xem một chút mà thôi. Nhà Phật thuyết giảng về tu kiếp sau, kiếp sau hư vô mờ ảo, cho dù có tái sinh thì ký ức vẫn không trở lại, theo ta thấy cũng chỉ là một người xa lạ có chung cái xác mà thôi, cho nên ta vẫn thờ tu kiếp này của Đạo gia hơn. Ha ha ha...

Thành Khởi Vận nghe y ngồi đó nói năng lung tung, rõ ràng là đọc một trong tứ đại bảo điển của nghệ thuật phòng the thế mà dám phán bậy phán bạ là tu kiếp này kiếp nọ gì đó thì không khỏi phì cười. Nàng che miệng nín cười, làm ra vẻ nghiêm trang rồi gật đầu phụ hoạ:
- Đại nhân đang tuổi thiếu niên, Động Huyền tam thập kỹ lấy hoan lạc làm chủ, quả hợp với tôn chỉ "tu kiếp này" của đại nhân đấy. Nếu mà lớn hơn chút nữa thì phải nên đọc "Tố Nữ Kinh", Tố Nữ cửu pháp thì lại lấy dưỡng sinh làm chủ đó.

Dương Lăng giật mình, "Động Huyền Tử" thì y chưa từng nghe nói đến song "Tố Nữ Kinh" thì quá nổi tiếng rồi, sao y có thể chưa nghe, chẳng phải đó là thuật phòng the đấy ư? Chẳng lẽ quyển "Động Huyền Tử" này cũng là ... chết cha, Cao lão thái gia học cái gì vậy, để cái thứ này trên giá sách làm gì?

Y nào biết mọi thứ đều là do Cao Văn Tâm vì để chữa dứt chứng vô sinh của y, nên đã mang một trong những cổ tịch đến để đọc tham khảo. Sau khi suy nghĩ tỏ tường, y liền nhấp nhổm như ngồi phải đống lửa. Đang không biết nên trả lời thế nào, Cao Văn Lan chợt chạy vào bẩm:
- Lão gia, thì ra là người đang ở đây. Trong thành có vị đại nhân già đến thăm người đó.

Dương Lăng ngớ người hỏi:
- Là ai vậy?

Cao Văn Lan đáp:
- Là Thị lang bộ Lại tên Tiêu Phương đang đợi lão gia tại phòng chính, còn mang theo một phần hậu lễ nữa. Lão quản gia nói người đó là quan to lão không dám tuỳ tiện khước từ nên bảo tiểu tỳ nhanh chóng đi báo cho lão gia.

Dương Lăng giật mình thất kinh, vội nhổm dậy hỏi:
- Là Tiêu đại nhân ư? Ta sẽ đến phòng chính gặp ông ta ngay.

Thành Khởi Vận chợt ho khan một tiếng, buông giọng chậm rãi:
- Đại nhân, ngài đang bị trọng thương không dậy nổi đó.





Chú thích:

(1) nữ nhân mà nơi ấy không có lông thì gọi là Bạch Hổ.
(2) "truyền thần" theo tiếng Hán có nghĩa là truyền lại cái thần của người được vẽ, cái "thần" đó chính là cảm xúc, là sự tinh tường trong từng nét vẽ của họa sĩ.
(3) lối vẽ chú ý về miêu tả chi tiết bức vẽ


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro