CÁC KIỂU NHỊN ĐÓI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHÚNG

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng




Nhịn đói là phương pháp tự nhiên mạnh mẽ mà các nhà chuyên môn gọi là bảo bối của cách chữa bệnh dân gian.

Bệnh nào mà cái đói không chữa khỏi thì không thuốc gì chữa được.

Các kiểu nhịn đói khác nhau về mặt lượng và chất. Về lượng, đó là thời hạn thực hiện nhịn đói; về chất, đó là cách thức tiến hành nhịn đói. Chúng ta hãy xem xét cụ thể hai mặt đó.

1) Sự khác biệt về lượng (thời hạn nhịn đói)

Mỗi người muốn thực hiện việc nhịn đói đều nêu câu hỏi: cần nhịn đói bao nhiêu ngày để trở nên khỏe mạnh, trẻ trung, để có các khả năng đặc biệt?

Lý luận về các giai đoạn của quá trình nhịn đói và phục hồi sẽ cho phép giải đáp câu hỏi cần bao nhiêu thời gian để đạt kết quả dự tính? Nhịn đói có loại hoàn thành trọn vẹn và loại bị bỏ dở. Quá trình nhịn đói và phục hồi gồm ba giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn, trong dạng trường năng lượng và trong thể xác của con người diễn ra các quá trình đặc biệt làm tên gọi cho các giai đoạn đó.


2) Các giai đoạn nhịn đói

a. Giai đoạn thứ nhất

Gọi là "hưng phấn ăn uống", thường thường kéo dài 2 ~ 3 ngày. Con người dễ bị kích thích bởi mọi tín hiệu về thức ăn: ngửi thấy mùi thức ăn, nghe nhắc đến thức ăn, nghe thấy tiếng soong nồi bát đĩa, lập tức ứa nước bọt, cồn cào trong bụng, cảm giác buồn miệng muốn nhai, ngủ kém ngon, dễ cáu bẳn, tâm trạng thường là khó chịu. Đôi khi ở người có bệnh, các triệu chứng bệnh nổi lên rõ hơn. Thể trọng giảm nhanh (mỗi ngày sút tới 1 kg). Không khát nước lắm.
Ảnh hưởng của giai đoạn thứ nhất tới dạng trường năng lượng của con người.
Khi con người nhịn ăn và không đáp ứng cảm giác đói, thì bắt đầu từ giây phút đó diễn ra việc lập lại trật tự trong ý thức của minh. Con người cố chịu đựng, tuân thủ kỷ luật nhịn đói và bằng cách đó kiểm soát cảm giác mùi vị, cảm giác đói của mình.
Ngủ không ngon, dễ cáu bẳn v.v... ở giai đoạn này chứng tỏ có sự đấu tranh bên trong và bắt cảm giác phải tuân theo ý chí con người. Cứ hai, ba tháng lại nhịn đói vài ba ngày sẽ làm thay đổi thói quen của con người, tạo ra một nhân cách mới về chất.
Những người mà cảm giác đói, sự ghiền rượu, thuốc lá, ma túy khá nặng làm lu mờ phần lớn ý thức, thì thường nôn nóng, đỏng đảnh, đầy cảm giác thương hại chính mình. Họ trở thành nô lệ cho sở thích và cảm giác đói khi thỏa mãn đòi hỏi của chúng. Họ khó lòng nhịn đói, mặc dù nhịn đói sẽ đem lại cho họ nhiều cái lợi hơn cả.
Trong khi chịu đựng sức ép ghê gớm của cảm giác đói ở giai đoạn này (2 ~ 4 ngày đầu tiên), người ta sẽ không còn thèm rượu, thèm thuốc và ma túy nữa.
Giai đoạn "hưng phấn ăn uống" là một sự thử thách , phát hiện "rác rưởi" trong ý thức con người. Mọi cảm giác và ỷ nghĩ tiêu cực nảy sinh trong 2 ~ 3 ngày này đều là "rác. rưởi". Khi dọn sạch thứ "rác rưởi" ấy, con người trở nên mạnh mẽ hơn về mặt năng lượng, chống chọi hiệu quả hơn với bệnh tật và điều kiện bất lợi.
Ảnh hưởng của giai đoạn, thứ nhất tới các quá trình sinh lý
Giai đoạn "hưng phấn ăn uống" là một stress nhẹ đối với cơ thể. Stress này làm tích cực hóa trước hết "đại chỉ huy" chính của cơ thể người là vùng dưới đồi thị. Vùng này bắt đầu tiết ra những chất khác nhau có tác động đặc biệt đến cấc tuyến nội tiết để cơ thể thích nghi với sự tồn tại không có thức ăn.
24 giờ sau khi nhịn đói, tuyến yên tăng mạnh việc tiết ra hoócmôn hướng xôma - hoócmôn phát triển. Nó tích cực hóa hoócmôn tuyến tụy để tăng cường phân giải glucôgen trong gan, bảo đảm nuôi dưỡng cơ thể. Chính nó giải độc cho cơ thể qua tác động tốt tới tuyến giáp trạng.
Nếu việc nhịn đói kéo dài quá 24 giờ, vùng dưới đồi thị sẽ tiếp tục chỉ huy làm cho cơ thể thích nghi với cái đói bằng cách tiết ra các hoócmôn thần kinh mô. Các hoócmôn này tạo điều kiện thực hiện các phản ứng thích nghi của cơ thể nhằm giải độc, phục hồi hoạt động của hệ thống miễn dịch, của bộ máy di truyền, lớp bảo vệ tế bào; trung hòa hóa các dị ứng trong cơ thể v.v... Lúc này các thực bào tích cực hủy diệt các vi thể bệnh lý.
Trong 3 ~ 4 ngày đầu nhịn đói, lượng natri thừa được tăng cường đưa ra khỏi cơ thể qua nước tiểu, qua da, qua ruột..., tiếp sau natri là lượng nước thừa. Đồng thời sự trao đổi chất đạm được bình thường hóa, tất cả những cái đó làm cho mọi dạng phù nề do bất cứ nguyên nhân gì cũng đều phải biến mất.
Như vậy là trong vài ba ngày đầu nhịn đói, bạn đã làm thức tỉnh sinh lý của cơ thể mình,, tăng cường sự bảo vệ thực bào và miễn dịch, thải ra ngoài lượng natri và nước thừa. Bạn có thể khỏi những bệnh nào hoạt động vào giai đoạn này và sẽ mất đi 2 ~ 4 kg thể trọng.

b. Giai đoạn thứ hai

Gọi là "nhiễm axít tăng tiến". Nó bắt đầu từ ngày thứ 2 ~ 3 sau khi nhịn đói và chấm dứt bằng cơn nhiễm axít thứ nhất - vào ngày thứ 6 ~ thứ 10.
Từ ngày nhịn ăn thứ 3 ~ thứ 5, cảm giác, đói giảm đi, có khi mất hẳn, trong khi cảm giác khát tăng lên. Theo ghi nhận của bác sĩ Veger, trong số 40 người nhịn đói, chỉ có một người có cảm giác đói suốt thời gian nhịn đói. Nguyên nhân của hiện tượng này nằm ở trường năng lượng của con người và chứng tỏ có một ổ cảm giác đói rất mạnh mà người ấy không biết cách khắc phục như thế nào. Người ấy cứ luôn luôn nghĩ đến chuyện ăn uống, cho nên kích thích cảm giác đói. Khi đó bạn cần nghĩ tới đề tài khác. Nói chung thì cảm giác đói không hề hạ thấp hiệu quả của việc nhịn đói, chỉ gây thêm khó khăn mà thôi. Đôi khi, nhất là vào buổi sáng, một số người bệnh kêu nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, mệt mỏi. Các triệu chứng đó sẽ giảm hẳn hoặc biến mất sau khi đi dạo và uống nước suối khoáng. Lớp rêu màu trắng hoặc màu xám trên lưỡi nhiều thêm, môi và lưỡi khô, răng nhiều bựa, miệng có mùi axêtôn, da khô và tái. ở một số bệnh nhân: các triệu chứng bệnh mạn tính nổi rõ hơn. Mỗi ngày đêm giảm 300 ~ 500 gr thể trọng. Sau đó tình trạng của người bệnh thay đổi nhanh chóng, Bắt đầu giai đoạn thứ ba.
Ảnh hưởng của giai đoạn thứ hai tới dạng trường năng lượng của con người
Ở giai đoạn nhiễm axít tăng tiến, sức sống không còn hao tốn cho việc tiêu hóa, hấp thụ thức ăn, bài thải các sản phẩm phân hủy thức ăn, bây giờ bắt đầu "càn quét" tống khứ mọi thứ thừa và khác lạ ra khỏi cơ thể. Đó là lý do vì sao lớp rêu màu trắng hoặc màu xám trên lưỡi nhiều thềm, mồi và lưỡi khô, răng nhiều bựa - các triệu chứng đào thải chất xỉ.
Do mệt mỏi và bị nhiễm độc, người nhịn đói cảm thấy thương mình, muốn tiện nghi, không muốn chịu đựng khổ sở, ghen tị với những người xung quanh ("Tại sao mình khổ sở thế này, trong khi họ tha hồ nhởn nhơ?") v.v....
Triệu chứng nặng lên của căn bệnh nào đó chứng tỏ nó dang bị thủ tiêu và việc nhịn đói dang có kết quả tốt.
Khi dạng trường năng lượng của con người được giải thoát khỏi sức ép tâm lý và cảm giác, thì tâm trạng sẽ yên ổn, giấc ngủ trở lại bình thường, hết nhức đầu. Ngày thứ 4 ~ thứ 5 một số người có thể cảm thấy trong lòng hết sức dễ chịu, thời tiết và mọi người xung quanh đều đáng mến. Nếu trước khi nhịn đói người này hay cãi cọ khó chịu với người khác, thì bây giờ không hề có chuyện đó.
Ảnh hưởng của giai đoạn thứ hai tới các quả trình sinh lý
Từ ngày thứ 2 ~ thứ 3 sự tiết dịch của ống dạ dày - ruột thay đổi về chất. Axít clohydríc ngừng tiết ra. Thay vào đó, trong dạ dày xuất hiện các axít béo chưa no và chất đạm.
Các axít béo chưa no sẽ kích thích hoócmôn thần kinh mô túi mật, là thứ đè bẹp cảm giác đói. Bởi vậy, từ ngày thứ 3 ~ thứ 4, người ta không muốn ăn.
Ngoài ra các axit béo chưa no còn có tác dụng lợi mật. Mật được phát hiện khi nhịn đói ngay cả ở ruột già. Hiệu quả lợi mật mạnh mẽ tạo điều kiện làm sạch gan và túi mật khỏi lượng mật cũ, ứ đọng lâu ngày, phần nào hình thường hóa chức năng của gan mật.
Từ ngày thứ 7 ~ thứ 9 sau khi nhịn đói, dạ dày ngừng hoàn toàn việc tiết dịch tiêu hóa, thay vào đó là chất dịch tự phát, chất dịch này chứa nhiều prôtêin - sẽ được hấp thụ lại vào máu qua màng nhầy của dạ dày. Sự xuất hiện và việc sử dụng chất dịch tự phát này khi nhịn đói là một cơ chế thích nghi quan trọng giảm nhẹ việc mất prôtêin và bảo đảm cho cơ thể có nguồn axít amin thường xuyên làm chất liệu xây dựng và phục hồi prôtêin cho các cơ quan quan trọng nhất.
Xin nhấn mạnh một lần nữa: nếu trong thời gian nhịn đói người nào lại ăn thứ gì đó, dù với số lượng không đáng kể, thì người ấy cũng sẽ bị hiện tượng loạn dưỡng. Đó là vì việc định kỳ đưa vào dạ dày dù một số ít thức ăn cũng kích thích nhu động của dạ dày-ruột, khiến các tuyến tiêu hóa cứ tiếp tục hoạt động, cảm giác đói cứ tồn tại. Khi đó cũng phá vỡ quá trình trao đổi chất bình thường. Cơ thể không chuyển sang chế độ dinh dưỡng bên trong đúng lúc; các biến đổi bệnh lý trong tế bào có thể xuất hiện sớm hơn hẳn trước khi cơ thể sử dụng nguồn dự trữ bên. trong.
Khi nhịn đói trọn vẹn, người nhịn đói chỉ uống nước, thì không thấy có bất cứ hiện tượng loạn dưỡng nào cả. Cơ thể sẽ thích nghi trong một thời gian nhất định với chế độ dinh dưỡng bên trong (nghĩa là sống bằng dự trữ chất béo, chất đường, chất đạm, vitamin và muối khoáng của chính mình). Hóa ra là sự dinh dưỡng ấy đáp ứng mọi nhu cầu của cơ thể và có đầy đủ giá trị.
Trong giai đoạn thứ hai của quá trình nhịn đói, môi trường bên trong cơ thể được axít hóa bởi các thể xêtôn; axít cácboníc được tích lũy. Điều đó dẫn đến tổ chức lại bộ máy men (enzym) bên trong tế bào, khởi động những cơ chế trước dây không hoạt động. Bộ máy enzym ra sức phân hủy tất cả những gì khác lạ với cơ thể (cơ chế này hóa giải sự nhiễm độc), tức là tích cực hóa sự tự tiêu.
Vì giai đoạn này dã khởi động các. cơ chế dinh dưỡng đủ giá trị bên trong tế bào, nên không cần tích cực hóa hoócmôn phát triển nữa, mức độ tuyến yên tiết ra hoócmôn đó sau 5 ~ 7 ngày sẽ trở lại bình thường. Điều này chứng tỏ, rằng stress nổi loạn mấy ngày đầu tiên đã được thay bằng.-Sự ức chế của hệ thần kinh - toàn bộ cơ thể bắt đầu được nghỉ ngơi. Con người cảm thấy dễ chịu, không.chút căng thẳng, đó là tiền đề tốt đẹp để làm. sạch triệt để các mô và tế bào của cơ thể.
* Như vậy là sau khi trải qua giai đoạn nhiễm axít tăng tiến, con người đã tăng cường mạnh mẽ năng lực bảo vệ của cơ thể, hủy diệt hệ vi sinh gây bệnh, được giải thoát khỏi các chất xỉ đáng sợ nhất, phần nào làm tiêu tan các khối u nhỏ và mỏng; tạo ra sự nghĩ ngơi sinh lý cho hệ tiêu hóa và hệ thần kinh.

c. Giai đoạn thứ ba

Gọi là giai đoạn bù hoặc giai đoạn thích ứng. Nó bắt đầu sau khi qua cơn nhiễm axít, chấm dứt bằng việc làm sạch lưỡi; và xuất hiện cảm giác đói cồn cào. Độ dài thời gian của giai đoạn này cũng như hai giai đoạn trước, là tùy ở từng người, trung bình nó bắt đầu ở ngày thứ 6 ~ thứ 10, kết thúc ở ngày thứ 40 ~ thứ 70 hoặc muộn hơn. Nó tùy thuộc vào dự trữ mỡ trong cơ thể: càng nhiều mỡ thì càng dài.
Cần chia giai đoạn lâu dài này ra hai phần, phần thứ nhất bắt đầu từ cơn nhiễm axít đầu tiên và chấm dứt bằng cơn thứ hai, tức là từ ngày thứ 6 ~ thứ 10 đến ngày thứ 23 ~ thứ 25. Phần thứ hai của giai đoạn ba bắt đầu sau khi kết thúc cơn nhiễm axít thứ hai và chấm dứt bằng sự xuất hiện thèm, ăn mãnh liệt và bằng việc làm sạch lưỡi, tức là từ ngày thứ 23 - thứ 25 đến ngày thứ 40 ~ ngày thứ 70. Sự chênh lệch nhiều như trên là do thể trọng của những người nhịn đói rất khác nhau, có người nặng 60 - 70 kg, có người nặng 80 ~ 100 kg.
Ta hãy xem điều gì diễn ra trong cơ thể người ở từng phần của giai đoạn ba và cần áp dụng chúng để làm gì.
Phần thứ nhất của giai đoạn ba diễn ra như sau:
Ngày thứ 6 ~ thứ 10, trong vòng một ngày hoặc vài giờ, thường là ban đêm, trong tình trạng của người nhịn đói sẽ có bước ngoặt rõ rệt - cơn nhiễm axít. Cảm thấy khỏe hẳn lên, giảm, hoặc không còn chút mệt mỏi nào nữa, đầu óc tỉnh táo, các cảm giác khó chịu khác nhau trong cơ thể đều chấm dứt; những bệnh nặng lên vào giai đoạn hai nay biến mất. ở một số người nhịn đói, tình trạng tốt lên này diễn biến thành hình sóng, trong đó đỉnh sóng (lúc dễ chịu nhất) ban đầu ngắn, sau đó mỗi lúc một dài thêm. Lưỡi sạch rêu, miệng bớt tỏa ra mùi axêtôn, sắc mặt, khá hơn, mắt sáng long lanh. Mạch đập bình thường. Mức sút cân là thấp nhất mỗi ngày đêm 100 - 200 gr. Tâm trạng thường tốt hẳn lên, không còn lo sợ, bớt căng thẳng, chán nản. Tình trạng này tiếp diễn đến khi bắt đầu cơn nhiễm axít thứ hai, là khi sức khỏe giảm sút, các bệnh mạn tính bùng phát. Cơn nhiễm axít thứ hai kéo dài như cơn thứ nhất, nhưng các triệu chứng bệnh thì bộc lộ rõ rệt hơn.
Sau cơn nhiễm axít thứ hai, cơ thể người thực sự được phục hồi, dạng trường năng lượng của con người đậm đặc hơn, có quang phổ sáng rõ. Thể trọng giảm 50 - 100 gr mỗi ngày đêm, có khi ít hơn. Tình trạng này tiếp diễn cho đến khi trong cơ thể có các mô phụ có thể phân giải. Phần thứ nhất này kết thúc bằng sự xuất hiện cảm giác đói cồn cào và lưỡi được làm sạch (việc lưỡi được làm sạch có thể muộn hơn). Điệu này chứng tỏ đã chấm dứt quá trình nhịn đói chữa bệnh có lợi cho sinh lý, cần phải ăn uống trở lại. Nếu không sẽ bắt đầu cái đói bệnh lý với những diễn biến nguy hiểm hủy hoại không chỉ sức khỏe, mà cả sinh mạng con người.
Ảnh hưởng của phần thứ nhất giai đoạn ba tới dạng trường năng lượng của con người
Sức sống ở phần này thực hiện trước hết công việc phục hồi các chức năng và cơ cấu của cơ thể.
Dạng trường năng lượng của con người được làm sạch khỏi các thứ "rác" cảm giác phụ nhờ việc chịu đựng một cách có ý thức. Các ý nghĩ, ham muốn bệnh hoạn tác động tới ý thức con người không còn mạnh như ở giai đoạn một (giai đoạn hưng phấn ăn uống). Chúng cứ kiên nhẫn dụ dỗ, "thì thầm" với bạn, rằng bạn chịu đói như thế là giỏi lắm rồi, đủ lắm rồi, đã đạt nhiều kết quả rồi, nên ăn uống trở lại đi thôi. Nếu bạn nghe theo lời "thì thầm" ấy, các ý nghĩ kiểu đó sẽ bám rễ trong ý thức bạn và nảy mầm trong đó... Ví dụ bạn sẽ được giải thoát khỏi sự giận dữ, sự thương hại bản thân, nhưng bạn vẫn kiêu ngạo, cho mình là nhất, và cái đó sẽ dẫn bạn tới các tình huống xấu khác.
Ảnh hưởng của phần thứ nhất giai đoạn ba tới các quá trình sinh lý
Đặc điểm, sinh lý cơ bản của thời gian này là cơn nhiễm axít bù. Môi trường bên trong của cơ thể không còn thiên sang phía axít; những hệ thống làm cho cơ thể thích nghi với điều kiện sống mới lúc này hoạt động hết công suất, nhất là các tuyến nội tiết. Chính thời gian này sự tự điều tiết của cơ thể đạt tới đĩnh điểm, loại bỏ bệnh tật khỏi cơ thể.
Sau cơn nhiễm axít thứ nhất, việc bảo vệ bằng miễn dịch của cơ thể tăng vọt lên: Chỉ lúc này hoạt động tự tiêu (phân hủy các mô) mới diễn ra hết công suất, tiếp tục loại trừ các khối u, các ổ nhiễm trùng, các mô bệnh lý và các cơ cấu khác lạ khỏi cơ thể.
Nếu ở hai giai đoạn trước, tự tiêu các mô cơ thể là nguồn chất dinh dưỡng duy nhất, thì ở giai đoạn ba này, tự tiêu chủ yếu thực hiện chức năng bác sĩ phẫu thuật tự nhiên.
Do sự đổi mới bộ máy di truyền của các tế bào khi nhịn đói, mà những tế bào hoàn toàn mới được tạo ra, ở một: vài cơ quan xuất hiện các tế bào bổ sung. Kết quả là các tế bào già cỗi, thụ động bị loại bỏ; các cơ quan và mô của cơ thể được trẻ hẳn lại.
Ảnh hưởng của phần thứ hai giai đoạn ba tới dạng trường năng lượng của con người
Phần thứ hai của giai đoạn 3 bắt đầu từ cơn nhiễm axít thứ hai. Sự xuất hiện của nó gắn với các quá trình diễn ra trong dạng trường năng lượng của. con người.
Mỗi thứ bệnh có "gốc rễ" thông tin-năng lượng của nó, khi gặp điều kiện thuận lợi trong cơ thể sẽ chuyển hóa thành quá trình bệnh lý. Thông thường, phần lớn bệnh tật tiến triển trong điều kiện thối rữa. Khi nhịn đói, môi trường axít được tạo ra, bệnh tật mất "đất sống", phải ngừng hoạt động với các biểu hiện bên ngoài dễ thấy, song "gốc rễ" của nó thi vẫn còn. Nếu sau khi nhịn đói người ta cứ giữ nguyên lối sống như cũ, thì "gốc rễ" sẽ lại nhú mầm, bệnh tật sẽ trở lại.
Nếu cơn nhiễm axít thứ nhất loại trừ "thân, cành" của bệnh tật, thì cơn nhiễm axit thứ hai thủ tiêu "gốc rễ" của bệnh tật. Đó là do dạng trường năng lượng của con người được bổ sung dồi dào năng lượng sệ "đánh bật" thứ năng lượng khác lạ ra khỏi cơ thể. Người nhịn đói sau khi trải qua cơn nhiễm axít thứ hai thường thường được coi như đã khỏi hết mọi thứ bệnh.
"Chất xỉ trí óc" hầu như không hề có. Sau khi vượt qua giai đoạn ba, con người đã biến thành một nhân cách hoàn toàn khác. Bác sĩ Carington miêu tả cảm xúc của một người trải qua một đợt nhịn đói trọn vẹn như sau:
Một cảm giác bất ngờ và hoàn toàn trẻ trung, cảm giác nhẹ nhõm lạ thường và tràn trề sức khỏe xâm chiếm người nhịn đói, làm cho người ấy hài lòng, sung sướng và dồi dào sức sống.
Sức sống sau khi lập lại trật tự thông tin năng lượng trong cơ thể, ở cơn nhiễm axít thứ hai sẽ không phải hao tốn cho việc chống chọi bệnh tật nữa, mà bắt đầu được tích lũy trong cơ thể. Ánh quang phổ cơ thể người trở nên sáng rõ. Chính đây là thời gian cơ thể thu nhận các năng lực tiềm tàng. Ví dụ, một vài người sau đợt nhịn đói có khả năng đọc được ý nghĩ của kẻ khác, hoặc có "con mắt thứ ba", hoặc có "giác quan thứ sáu", hoặc có khả năng chữa bệnh cho kẻ khác v.v....
Ảnh hưởng của phần thứ hai giai đoạn ba tới các quá trình sinh lý
Đương nhiên, cơ thể càng ở lâu trong điều kiện cơn nhiễm axít bù, thì các quá trình chữa bệnh phục hồi trẻ lại diễn ra ở người đó sẽ càng lâu hơn.
Trong thời gian nhịn đói dài ngày, tế bào của một số cơ quan dinh dưỡng đổi mới hoàn toàn mấy lần. Như vậy, bộ máy di truyền lành mạnh được thiết lập, sẽ không còn khả năng dẫn tới các kiểu thoái hóa do đột biến hoặc rối loạn gien nào nữa. Đến lượt mình, điều này làm cho cơ thể ở trong trạng thái ổn định và tích cực cao nhất. Nói khác đi, con người sẽ ở trong trạng thái sinh lý của lứa tuổi 20 ~ 25, mặc dù tuổi thật là 40, -50, 60, 80 tuổi chăng nữa (hãy nhớ lại trường hợp Paul Bregg).
Độ dài phần thứ hai của giai đoạn ba ở mỗi người nhịn đói một khác. Nó kết thúc bằng việc xuất hiện cảm giác thèm ăn ghê gớm. Lưỡi sẽ không còn chút rêu nào (có khi điều này xảy ra muộn hơn). Lúc này một vài người ngủ kém ngon, hay nằm mơ thấy các món ăn ngon hoặc thấy dấu hiệu; kết thúc đợt nhịn đói. Từ giờ phút đó bắt đầu thời kỳ phục hồi, người nhịn đói sẽ ăn uống trở lại.
Đợt nhịn đói được coi là trọn vẹn, đầy đủ, khi trải qua cả ba giai đoạn; và sẽ bị coi là không trọn vẹn, không đầy dủ, khi người bệnh chưa đạt tới cảm giác đói ngấu đói nghiến, lưỡi chưa sạch hết rêu.
Nhịn đói phân đoạn (hoặc gián,đoạn) được hiểu là hàng loạt đợt nhịn đói gián đoạn, có độ dài thời gian từ cơn nhiễm axít thứ nhất đến cơn thứ hai, và chỉ có đợt nhịn đói cuối cùng mới trọn vẹn.
Nhịn đói gián đoạn được áp dụng trong trường hợp cần giải quyết các vấn đề sức khỏe nảy sinh. Ví dụ trong lúc bệnh kịch phát, thì thực hiện nhịn đói gián đoạn để bình thường hóa nhiệt độ và loại trừ các triệu chứng quá rõ.
Nhịn đói trọn vẹn rất ít khi được áp dụng để điều trị các bệnh mạn tính nặng và để tự hoàn thiện bản thân.
Nhịn đói gián đoạn thay thế cho nhịn đói trọn vẹn. Không phải khí nào con người cũng có thể chịu đựng nổi đợt nhịn đói trọn vẹn. Còn một loạt các đợt nhịn đói gián đoạn, cuối cùng cũng đem lại hiệu quả trọn vẹn, thì người nào cũng có thể chịu được, Khi đó, độ dài của đợt nhịn đói đầu tiên phải lâu hơn cơn nhiễm axít thứ nhất. Thời gian phục hồi dài đúng bằng thời gian nhịn đói. Đợt nhịn đói thứ hai phải có độ dài đạt tới cơn nhiễm axít thứ hai, còn thời gian phục hồi thì dài gấp rưỡi đến gấp đôi thời gian nhịn đói. Đợt nhịn đói thứ ba phải kéo dài tới khi xuất hiện cảm .giác đói ngấu đói nghiến và lưỡi sạch rêu. Trong một số trường hợp (khi cơ thể bị tổn thương nặng) phải thực hiện đến năm đợt nhịn đói gián đoạn, thậm chí sang năm sau phải lặp lại chúng cho khỏi hẳn. Trong thời gian phục hồi giữa các đợt nhịn đói, không được ăn những thức ăn chứa đạm động vật (thịt, sữa, phó Mát, trứng V.V..) Hiệu quả chữa bệnh của việc nhịn đói vẫn còn tiếp tục ở thời gian này.
Cần biết rằng, để chữa bệnh, để hoàn thiện trí tuệ và tinh thần, người ta sử dụng ba giai đoạn nhịn , đói (cho đến lúc xuất hiện cảm giác đói ngấu và lưỡi sạch rêu). Cấm áp dụng giai đoạn kiệt sức.


3) Thời kỳ phục hồi

Quá trình tác động của phương pháp nhịn đói kéo 1 dài không chỉ trong thời gian nhịn đói; mà cả thời gian cần thiết cho sự phục hồi sau đó. Bởi vậy, nhịn đói là giai đoạn thứ nhất làm việc với cơ thể mình, còn phục hồi sau khi nhịn đói là giai đoạn thứ hai.
Có một quy luật sinh học phổ biến là: sau khi chấm dứt quá trình ức chế, chắc chắn sẽ xảy ra quá trình hưng phấn. Quy luật này dã được I.p. Pavlov và các học trò của ông nghiên cứu, rồi diễn đạt bằng luận đề sau:
Quá trình suy kiệt (ức chế) càng-mạnh và sâu bao nhiêu, thì quá trình phục hồi càng mạnh và sâu bấy nhiêu.
Nói khác đi, đó là sự rèn luyện sức sống.
Nhịn đói tạo ra tình trạng suy kiệt - ức chế. Sau khi ngừng nhịn đói, sẽ có sự nâng cao khả năng phục hồi (sức sống) của cơ thể.
Đặc biệt đáng chú ý là sự tự đổi mới của các mô được bắt đầu từ ngày đầu tiên sau khi ngừng nhịn đói. Điều này khiến ta phải chú ý đặc biệt tới tầm quan trọng của thời kỳ phục hồi. Nhiều chuyên gia cho rằng hiệu quả áp dụng phương pháp nhịn đói phụ thuộc không chỉ vào bản thân việc nhịn đói, mà còn vào đặc điểm của thời kỳ phục hồi..
Từ ngày đầu tiên ăn uống trở lại, xuất hiện những tế bào ra sức tổng hợp AND. Những ngày tiếp theo, số lượng các tế bào ấy mỗi ngày một nhiều thêm.
Các nhà khoa học ở Viện nghiên cứu dạ dày ruột phát hiện rằng ở các bệnh nhân sau đợt nhịn đói 28 ngày, trong dạ dày xuất hiện các tế bào mới với chất nguyên sinh màu sáng, các tế bào này trong thời gian 20 - 30 ngày dần dần biến thành những tế bào làm nhiệm vụ bảo vệ dạ dày khỏi bị tổn thương. Sau nhiều đợt nhịn đói, ngay dạ dày của những bệnh nhân bị bệnh dạ dày nặng cũng như được "mạ thiếc" vậy.
Muốn thực hiện thời kỳ phục hồi đúng cách, cần có hiểu biết chuyên môn, nhưng chủ yếu là ăn uống thế nào cho đúng cách. Thức ăn của con người trải qua sự tiến hóa riêng, trong thời gian nhịn đổi, sự tiến hóa ấy diễn ra hai lần.
Chúng ta hãy xem xét quá trình từ lúc đầu, từ tế bào trứng tách ra. Ở giai đoạn ấy con người là một nhóm tế bào không nhiều lắm. Trong tuần lễ sống đầu tiên, "con người" được nuôi bằng những gì mà tế bào trứng tích lũy được trước đó. Đó là chất dinh dưỡng lòng đỏ trứng - mỡ, đạm và các sắc tố. Khi tiếp tục phân chia, tế bào của cơ thể người "ăn" trong vòng một tuần dự trữ lòng đỏ. Sự sống tiếp theo là nhờ cái màng đặc biệt của phôi thai - cái lá nuôi, mà các enzym của nó tiêu hóa các mô của cơ thể người mẹ và hấp thụ lấy chất dinh dưỡng. Tiếp đó nó được nuôi bằng máu - máu đem chất dinh dưỡng đến từng tế bào. Cuối cùng, khi con người ra đời, việc nuôi dưỡng được thực hiện thông qua ống dạ dày-ruột. Nói cách khác, đó là quá trình đi từ tế bào của cơ thể tới môi trường bên ngoài qua hàng loạt cơ chế - trung gian thích nghi (máu và cơ quan tiêu hóa).
Như vậy việc ăn uống của con người là sự nuôi dưỡng từng tế bào của cơ thể một cách cụ thể. Nhưng để sự nuôi dưỡng ấy xảy ra, cần phải bình thường hóa hoạt động của ống dạ dày-ruột (một cái kho thực phẩm), của máu (hệ thống phân phối vận chuyển) và các enzym ngay trong bản thân tế bào (người tiêu dùng thức ăn).
Trong thời gian nhịn đói, nhất là nhịn đói dài ngày, trong cơ thể người diễn ra quá trình ngược lại - từ môi trường bên ngoài đi vào tế bào. Ở giai đoạn thứ nhất của việc nhịn đói, ống da dày-ruột phải được cho ngừng hoạt động, ở giai đoạn thứ hai, trong môi trường chất lỏng của cơ thể (như máu, limfa v.v.,.) phải tạo nên một môi trường tích cực hóa các enzym bên trong tế bào (như ở cái lá nuôi). Giai đoạn thứ ba của sự nhịn đói là việc tiêu dùng tích cực tất cả những gì thừa và lạ trong cơ thể. Sau phần thứ hai của giai đoạn ba, việc dinh dưỡng của cơ thể giống như việc dinh dưỡng của tế bào trứng - tiêu, dùng chất dinh dưỡng dự trữ của bản thân tế bào. Nếu trong thời gian này không đưa chất dinh dưỡng từ bên ngoài vào, thì chẳng mấy chốc nó sẽ chết vì suy kiệt.
Quá trình ăn uống trở lại sau khi nhịn đói phải khởi động những cơ chế tiêu dùng thức ăn bị ngưng trước đó, và phải ngưng lại những cơ chế đã hoạt động trong thời gian nhịn đói. Dĩ nhiên việc đó cần đến không chỉ thời gian, mà cả các loại thức ăn đặc biệt giúp cơ thể tổ chức lại và nếu có thể thì kéo dài tác dụng hữu ích của việc nhịn đói. Nế.u coi nhẹ việc đó, thì có thể xóa sạch tác dụng chữa bệnh của việc nhịn đói, gây nguy hai cho mình, thậm chí có thể mất mạng. Vấn đề ăn uống trở lại sau khi nhịn đói sẽ được bàn ở phần sau. Còn ở dây chúng, tôi chỉ miêu tả những quá trình diễn ra trong cơ thể người vào thời kỳ phục hồi...
Các quá trình này cũng có thể chia làm ba giai đoạn, trong đó cơ thể người chuyển từ dinh dưỡng nội mô sang việc tiếp nhận thức ăn từ bên ngoài.

a. Giai đoạn thứ nhất

Gọi là giai đoạn "suy nhược" và có đặc điểm của nó. Về cơ bản các đặc điểm ấy lệ thuộc vào thời hạn nhịn đói, bởi lẽ cần phải khởi động sự tiêu hóa bên ngoài đã bị ngưng lại trong thời gian nhịn đói.
Nếu một người nhịn đói qua giai đoạn "hưng phấn ăn uống" - 2 ~ 3 ngày, thì sẽ không nảy sinh vấn đề tiêu hóa khi ăn uống trở lại. Có thể ăn uống y như trước lúc nhịn đói.
Nếu một người nhịn đói qua giai đoạn "nhiễm axít tăng tiến" – 6 – 10 ngày, thì khi ăn uống trở lại, cần làm hai việc sau: để cơ thể tống ra bên ngoài những chất xỉ dã được chuyển dịch trong thời gian nhịn đói, và "khởi động" việc ăn uống. Trong 6 ~ 10 ngày đó, chất xỉ ồ ạt đi vào máu. Nếu ăn ngay, thức ăn nấu chín và thức ăn nặng (như khoai tây bơ, thịt, pho mát, súp, bánh sữa v.v...), thì cơ quan tiêu hóa mới hoạt động trở lại không thể tiêu hóa trọn vẹn thức ăn, sẽ dưa vào máu các "bán thành phẩm", làm cho máu bị nhiễm bẩn. Các chất xỉ đã chuyển dịch khỏi chốn chúng từng lắng đọng nay phải trả trở lại các mô gân, mô mỡ v.v... Kết quả là người, ấy có thế bị đau hoặc bị những bệnh mà trước khi nhịn đói chưa hề bị. Các bệnh cũ thì có thể khỏi. Đây là hiện tượng chất xỉ bị đẩy từ chỗ này sang chỗ khác trong cơ thể.
Thức ăn sau 6 ~ 10 ngày nhìn đói phải là chất lỏng (nước ép từ rau quả, nước sắc cây cỏ có pha thêm mật ong), rau quả tươi, cũng có thể là rau luộc gần chín — trong 3 ~ 4 ngày đầu. Chớ ăn no. Để làm sạch lưỡi, trước mỗi bữa ăn nên nhai kỹ một mẩu bánh mì với tép tỏi, nhai thật kỹ rồi nhổ đi. Nhờ đó khoang miệng và lưỡi sẽ sạch và hồng. Rêu lưỡi trong mấy ngày này chứng tỏ có thể vẫn dang được tiếp tục làm sạch.
Bắt đầu từ ngày thứ 3 - 4 đến ngày thứ 6 - 10, bên cạnh thức ăn đã kể, cần bổ sung bánh mì đen, cháo gạo lứt nấu với tảo dẹp; và chỉ sau đó mới ăn uống như bình thường (tốt nhất nên theo như tập I của bộ sách Chữa bệnh không dùng thuốc). Tiêu chí để chuyển hẳn sang ăn uống bình thường là lưỡi hết rêu. Dấu hiệu đó chứng tỏ thời gian làm sạch tích cực sau khi nhịn đói dã chấm dứt.
Nếu bạn làm như thế, bạn sẽ tống khứ nốt chất xĩ ra khỏi cơ thể, sẽ khởi động từ từ hoạt động tiêu hóa,. tiếp tục làm sạch cơ thể và sẽ gầy bớt di.
Nếu nhịn đói qua giai đoạn "thích ứng" cho đến cơn nhiễm axít thứ hai - 23 ~ 25 ngày, thì việc tiêu hóa bên ngoài bị ngưng triệt để hơn, còn quá trình loại bỏ chất xỉ được thực hiện hết công suất. Trường hợp nhịn đói lâu như thế này, việc ăn uống trỏ lại phải rất thận trọng và phải biết cách. Nên bắt đầu từ nước rau ép pha nước cất. Hai ngày đầu uống nước rau ép pha 50% nước cất, hai ngày tiếp theo uống nước rau ép pha 1/3 nước cất, hai ngày tiếp nữa uống nước rau ép không pha nước cất. Nếu khồng có nước-rau ép, thì uống nước sắc cây cỏ; sau đó mới ăn dần cháo và chút bánh mì đen. Trước bữa ăn đừng quên nhai kỹ mẩu bánh với tép tỏi rồi nhổ đi.
Nếu sau khi nhịn đói cảm thấy rất thèm ăn, thì việc ăn uống ở thời kỳ phục hồi sẽ dễ dàng hơn. Một là cơ thể không bị nhiễm độc; hai là cơ thể tự "khởi động" việc tiêu hóa. Lời khuyên duy nhất trong trường hợp này là đừng ăn no và nên sử dụng thức ăn thực vật không qua tinh chế.
Người trải qua đợt nhịn đói trọn vẹn, lúc kết thúc quá trình nhịn đói sẽ cảm thấy hết sức thèm ăn. Lần đầu tiên uống chừng 100 ~ 200 gr nước rau ép đã cảm thấy rất no; nhung, chỉ nửa giờ sau dã lại đói meo. Cơn khát được thỏa măn hoàn toàn bằng nước rau ép. Lúc này người nhịn đói lại cảm thấy mệt mỏi hơn, vi một phần năng lượng phải tiêu hao cho việc tiêu hóa và hấp thụ thức ăn. Lúc đó nên đi nằm. Đại tiện thường bắt đầu sau hai, ba ngày. Trọng lượng cơ thể vẫn tiếp tục giảm sút (mỗi ngày 100 ~ 200 gr) trong một, hai ngày đầu.
Giai đoạn suy nhược của thời kỳ phục hồi được đặc trưng bởi sự hưng phấn của loại người có chất "Gió". Để khắc phục nó, cần hàng ngày xoa dầu ô-liu khắp cơ thể, tắm nước nóng.

b. Giai đoạn thứ hai

Gọi là giai đoạn "phục hồi mạnh mẽ", bắt. đầu khi cơ thể "khởi động" hệ thống tiêu hóa. Việc phục hồi chức năng tiêu hóa tùy thuộc vào thời gian nhịn đói trước đó. Nếu nhịn đói chỉ 2 ~ 3 ngày, thì giai đoạn này đến ngay tức thời; nếu nhịn đói 6 - 7 ngày, thì giai đoạn phục hồi bắt đầu từ ngày thứ 3 ~ 4; nếu nhịn đói 20 ~ 30 ngày, thì giai đoạn phục hồi bắt đầu từ ngày thứ 5 ~ 7; nếu nhịn đói trọn vẹn, thì nó sẽ .đến nhanh hơn - vào ngày thứ 4 ~ 6.
Cảm giác thèm ăn tăng nhanh. Bây giờ muốn thỏa măn, cần một số lượng thức ăn khá nhiều. Thể trọng tăng lên nhanh, ở mức tương đương như tốc độ giảm khi nhịn đói; có khi tăng cân nhanh hơn. Đồng thời thể lực cũng tăng dần, sức khỏe tốt lên, tâm trạng cũng vậy; các triệu chứng bệnh phần lớn biến mất. Huyết áp bình thường, mạch ổn định, đại tiện bình thường. Cảm giác .thèm ăn và tâm trạng thoải mái kéo dài lâu gấp rưỡi, gấp đôi thời gian nhịn đói.
Sai lầm lớn nhất và phổ biến của giai đoạn phục hồi này là không biết kiểm soát cảm. giác, thèm ăn. Cần ăn uống có chừng mực, có lựa chọn.
Thời gian nhịn đói càng dài, giai đoạn phục hồi mạnh mẽ càng lâu.

c. Giai đoạn thứ ba

Gọi là giai đoạn "bình thường hóa". Cảm giác thèm ăn trở nên vừa phải, tiêu hóa bình thường, Điều này chứng tỏ dã phục hồi hoàn toàn việc dinh dưỡng từ bên ngoài. Tâm trạng bình thản.

Đề phòng:

Trong giai doạm này dừng quá say sưa với các thức ăn thực vật tươi sống giàu chất balat, như bắp cải, cà rốt, lá rau. Điều đó dẫn tới việc tăng cường đáng kể các quá trình lên men và tạo nhiều hơi (khí hydro). Mà điều đó chính là tăng cường thể chất loại "Gió" và tất cả những gì bất lợi do nó gây ra (như đau lưng, lạnh trong người, chứng khó tiêu v.v...). Hãy cân bằng khẩu phần ăn gồm đủ các món cháo, rau, trái cây chứa chất balat. Đừng dùng thức ăn ướp lạnh, nhất là những người có thể tạng loại "Gió" và bị chứng đầy hơi.
Sự bắt đầu giai đoạn ba cũng tùy thuộc vào độ dài của đợt nhịn đói trước đó.
Căn cứ các biểu hiện của người nhịn đói trong giai đoạn nhịn đói và giai đoạn phục hồi, có thể biết hiệu quả của việc nhịn đói. Nếu biểu hiện rõ ràng và xuất hiện dúng lúc, thì việc nhịn đói lập tức đem lại hiệu quả chữa bệnh tốt nhất.

4) Phân loại các kiểu nhịn đói theo cách thức tiến hành

Thay vì sử dụng thuốc, tốt nhất bạn hãy nhịn đói một ngày.
Khi bị bất cứ bệnh gì, tốt hơn cả là nên nhịn ăn.
Như dã nói trước, các kiểu nhịn đói khác nhau về chất. Cơ sở của sự khác biệt về chất là cách thức tiến hành. Chẳng hạn, có thể tiến hành theo kiểu "cổ điển", có thể theo kiểu niệu liệu pháp (uống nước tiểu), có thể nhịn cả uống. Ngoài ba kiểu chính, có thể có nhiều cách -thức tiến hành trong từng kiểu, hoặc tổng hợp cả ba kiểu trong một qui trình. Ví dụ, hai ba ngày đầu nhịn ăn, nhịn cả uống, 5 ~ 10 ngày tiếp theo uống nước tiểu, 5 ~ 10 ngày sau nhịn đói theo kiểu "cổ điển".
Ngoài ra, mỗi trường phái nhịn đói (trường phái Nga - Iu. Nikolaev, p. Ivamov, A. Suvorin; trường phái Anh - H. Shellton,:P. Bregg: trường phái Pháp - I. Vivini; niệu liệu pháp kiểu Anh - D. Armstrong V. V...), mỗi bệnh viện thực hành có quan điểm và thủ pháp riêng của mình có thể trái ngược với trường phái khác. Mỗi trường phái có thể đưa ra những luận cứ quan trọng để bảo vệ quan điểm của họ. Tôi sẽ không giấu diếm các mâu thuẫn đó, mà chỉ bình luận về chung. Nhiệm vụ của bạn là dựa vào kinh nghiệm và đặc điểm của riêng mình mà lựa chọn cái gì thích hợp nhất với bạn.

a. Nhịn đói theo kiểu cổ điển

Nhịn đói kiểu cổ điển, thời hạn 20 ~ 30 ngày, được tiến hành ở đa số các cơ sở điều dưỡng ở nước Nga, theo chín qui tắc dưới đây.

Qui tắc thứ nhất

Để dễ bước vào quá trình nhịn,đói, người ta sử dụng một liều thuốc xổ (magiê hoặc muối hiệu "Barbara": tối thiểu 60 gr hòa với 300 ~ 400 mililit nước và uống một lần). Thuốc xổ được uống trước khi nhịn đói và nhằm hai mục đích sau:
Một là, khi làm sạch dạ dày và ruột sẽ nhanh chóng khởi động cơ chế chuyển sang chế độ dinh dưỡng nội mô.
Hai là, sẽ mất cảm giác đói nhanh hơn ở những người ruột chưa được làm sạch, 2 ~ 3 ngày vẫn cứ có cảm giác đói.
Hãn hữu, có khi thuốc xổ được sử dụng lần thứ hai sau vài ba ngày nhịn đổi, nếu người bệnh nhận thấy trong phân có nhiều cục cứt dê. Còn nhìn chung thì không nên uống thuốc xổ lần thứ hai, vì nó có thể làm rối loạn việc trao đổi ion trong cơ thể,, gây nôn ọe.
Lời khuyên: nếu bạn không muốn uống thuốc tẩy, thì hãy thụt tháo vài lần bằng hai lít nước.

Qui tắc thứ hai

Tuân theo chế độ uống nước. Trong thời gian nhịn đói kiểu cổ điển, mỗi ngày đêm hãy uống tối thiểu hai lít nước. Có thể uống nước ngay sáu khi-thuốc xổ bắt đầu có tác dụng. Thuốc xổ sẽ tăng cường việc đẩy natri và nước ra khỏi cơ thể qua đường ruột. Nếu người nhịn đói bị phù nề, thì trong hai ngày đầu chỉ cần uống chừng một lít. Chứng phù nề dù điều trị bằng thuốc không có tác dụng, dần dần cũng sẽ biến mất.
Nên hạn chế lượng nước uống vào cơ thể, khi người bắt đầu nhịn đói có nhiệt độ cơ thể cao hơn bình thường. Bằng cách đó, nhiệt độ sẽ giảm được 0,5 °c, và vài ba ngày sau sẽ trở lại bình thường.
Nếu nhiệt độ bình thường, cần uống nước để bảo đảm tốt sự phân giải mỡ. Người nhịn đói có thể uống tới 5 — 6 lít nước, mỗi ngày mà vẫn không có hiện tượng giữ nước trong cơ thể; sẽ chỉ đi tiểu nhiều hơn bình thường, và nước tiểu sẽ trong hơn mà thôi.
Có thể uống nước máy, nước đun sôi, nước lọc, nước cất nước tuyết tan, nước nóng, nước lạnh. Hiệu quả phòng bệnh và chữa bệnh không khác nhau là mấy khi thay đổi loại nước uống, nhưng nhiều người cho rằng uống nước tuyết tan thích hơn, còn nước lọc thì thải chất xỉ tốt hơn.
Từ ngày thứ 3-4 sau khi nhịn đói, những .người khó chịu đựng giai đoạn nhiễm axit tăng tiến nên uống thêm nửa lít nước suối khoáng. Chất bicácbônát trong nước suối khoáng sẽ làm dịu bớt sự phát triển của độ nhiễm axít.
Lời khuyên: Hãy uống nước theo nhu cầu, nhưng đừng nhiều hơn nhu cầu; nhiệt độ của nước uống là tùy thích.

Qui tắc thứ ba

Cần thực hiện chế độ vận động, cần đi bộ trung bình 15 ~ 20 km mỗi ngày ở nơi không khí trong lành, như ở vùng ngoại ô, ở trong rừng, bên hồ nước v.v... Ở thành phố thì nên chọn nơi đi bộ là công viên, nơi ít phương tiện giao thông qua lại.
Những người gầy gò thì không cần đi bộ nhiều, vì dự trữ mỡ của họ quá ít. Tuy nhiên họ cũng có thể nhịn đói tới 17 ~ 20 ngày. Những người thể trọng quá thấp (42 ~ 50 kg) hay bị bệnh mạn tính, có độ nhiễm độc rõ rệt. Họ chịu đựng khá vất vả đợt nhịn đói đầu tiên. Nhưng sau một hai đợt nhịn đói, họ sẽ tăng cân nhanh tới mức nhiều năm trước chưa bao giờ họ dạt được. Hiệu quả phòng bệnh và chữa- bệnh ở những người này thường đến sớm hơn ở những người béo mập. Nên nhớ rằng gầy ốm hoàn toàn không có nghĩa là không nên nhịn đói! Chỉ có điều là chỉ nên đi bộ ít hơn, dăm kilômét mỗi ngày.
Hoàn toàn không vận động là điều tối kỵ khi tiến hành nhịn đói, bởi vì trong trường hợp đó rất dễ bị tắc phân, hạn chế phần lớn hiệu quả giải độc của việc nhịn đội chữa bệnh. Người nhịn đói khi đó sẽ cảm thấy khó chịu, mệt mỏi, tim đập dồn và các triệu chứng ngộ độc khác.
Đi bộ tốt nhất là đến mức đổ mồ hôi, tuy điều này rất khó dạt, bởi vì khi nhịn đói, da rất khô.
Lời khuyên: Hãy thực-hiện chế độ vận động tùy sức, Mỗi đợt nhịn đói bạn hãy thực hiện theo cách mới, và điều gì không làm được ở đợt trước, thì đợt này sẽ làm được. Nếu lần đầu bạn chỉ nằm một chỗ, lần thứ hai đã có thể di dạo, thì sau đó bạn có thể tập luyện thể thao như thường.

Qui tắc thứ tư

Thực hiện chế độ tắm. Để thải chất xỉ qua da nhiều hơn, để bảo vệ da và chống da cũng như màng nhầy khỏi bị khô, mỗi ngày tối thiểu nên tắm một lần và mỗi tuần nên tắm hơi một lần.
Khi tắm không nên thường xuyên dùng xà bông, mỗi tuần chỉ nến dùng xà bông tắm một lần. Có thể dùng cái kỳ lưng kỳ cho da đỏ, lên.
Lời khuyên: Hãy chọn cách tắm nào thích hợp nhất với thể trạng (cơ địa) của bạn và từng mùa

Qui tắc thứ năm

Thụt tháo làm sạch. Cần tiến hành thụt chừng một ngày sau khi uống thuốc xổ. Thụt làm theo lối , thông thường. Sử dụng 1,5 lít nước đun sôi để nguội, nhiệt độ nước không được quá 36°C. Cho vài tinh thể thuốc tím vào nước, sao cho nó có màu hồng nhạt. Người bệnh nằm ở tư thế chổng mông, tự bơm nước vào trực tràng. Nếu quá táo bón, nên thụt tiếp và dùng nhiều nước hơn. Nếu người bệnh bị trĩ, ăn mòn, polip, loét ruột, thì nên thay thuốc tím bằng dung dịch bạc hà, hoa cúc hoặc nước lá khác. Thụt xong thường tắm.
Lời khuyên: Hãy dùng nước tiểu mà thụt; có thụt bằng nước tiểu hay không là tùy thời gian nhịn đói, mức độ bị dọng chất xỉ của cơ thể, thể tạng từng người, mức độ nặng của bệnh. Hai ha ngày nên thụt bằng nước tiểu một lần, cản cứ các chất được thải ra mà quyết định hôm sau có thụt tiếp hay không. Nếu chất xỉ quá nhiều, hãy thụt hai lần một ngày - sáng và tối. Nếu ít chất xỉ, thì thụt cách nhật hoặc cách vài ngày.

Qui tắc thứ sáu

Mátxa và tự mátxa. Sáng và tối nên tiến hành mátxa mạch mậu, lần lượt xoa bóp trong vòng 30 phút các phần khác nhau của tứ chi, từ cẳng chân lên vai, từ đùi lên nách, rồi xoa vòng tròn trên bụng. Lồng ngực nên để nhân viên xoa bóp hoặc bệnh nhân khác thực hiện việc xoa bóp

Qui tắc thứ bảy

Vệ sinh khoang miệng. Trong thời gian nhịn đói, một số lượng lớn chất xỉ được đưa ra khỏi cơ thể bằng đường phía trên - qua miệng và mũi. Lưỡi và vòm . miệng có rất nhiều rêu. Trong vòng 6 ~ 7 ngày hoặc hơn, mủ có thể sẽ tự chảy từ xoang trán và xoang hàm, từ các mô quanh răng ra miệng. Mủ và đờm ở cổ họng cũng được thải ra. Để dẩy các chất xỉ ấy di, cần súc miệng nước lạnh, nước lá sắc 6-7 lần mỗi ngày, trước khi uống nước.
Lời khuyên: Hãy súc miệng, rửa mũi, nhỏ nước tiểu của mình vào tai. Đó là cách làm vệ sinh tốt nhất.

Qui tắc thứ tám

Không mặc quần áo bằng sợi tổng hợp. Trong thời gian nhịn đói, không nên mặc quần áo bằng sợi tổng hợp là thứ cách ly cơ thể với môi trường bên ngoài, làm cho cơ thể không hấp thụ được qua da các điện tử tự do, cũng như không cho phép phục hồi trọn vẹn lớp bảo vệ da.
Khi người nhịn đói thay quần áo sợi tổng hợp bằng quần áo vải bông, sẽ lập tức cảm thấy dễ chịu và khỏe ra.
Lời khuyên: Hãy thực hiện lời khuyên này vào mọi lúc, không chỉ trong thời gian nhịn đói.

Qui tắc thứ chín


Không tiếp xúc với thức ăn. Nếu vi phạm qui tắc này sẽ hạ thấp hiệu quả phòng bệnh và chữa bệnh của việc nhịn đói tới 50%. Nên biết rằng con người nhận các bức xạ sóng phát ra từ các thứ thức ăn. Khi ở bên cạnh thức ăn, người ta bất giác hấp thụ bức xạ đó. Bây giờ thì bạn không còn ngạc nhiên, tại sao trong dịp Tuần chay của mình, Jésu Kitô lại lánh vào sa mạc. Ngài khuyên mọi người khi nhịn ăn hãy đến chỗ hẻo lánh, xa nhà cửa.
Hơn thế, trong thời gian nhịn đói, con người còn vô tình "hấp thụ" năng lượng của những người xung quanh; điều này cũng sẽ giảm bớt hiệu quả của việc nhịn đói. Phải làm sao để cơ thể sống chỉ bằng sức lực và năng lượng của mình.
Lời khuyên: Hãy thực hiện nghiêm chỉnh qui tắc này.

Sau khi tiến hành đợt nhịn đói đầu theo "kiểu cổ điển" (17 ~ 20 ngày), thoạt tiên uống nước rau quả ép, sau đó ăn chủ yếu các thức ăn thực vật.

Ngày đầu tiên ăn uống trở lại
Pha một lít nước rau quả ép với nửa lít nước cất hoặc nước tuyết tan; cứ mỗi giờ hoặc một giờ rưỡi uống một cốc. Nước cà rốt hoặc nước táo là tốt nhất, nhưng cũng có thể sử dụng các thứ rau, quả, củ khác. Trong năm ngày đầu tiên ăn uống trở lại, tuyệt đối cấm sử dụng muối ăn.
Ngày thứ hai ăn uống trở lại
Ăn 4 ~ 5 bữa các thứ rau, quả, củ đến mức độ chớm có cảm giác no. Rau chủ yếu là ăn sống. Voitovich khuyên những ngày mới ăn uống trở lại nhất thiết phải ăn nhiều tỏi (mỗi ngày 10 ~ 15 gr). Vị của tỏi sẽ kích thích tiêu hóa và có tác dụng sát trùng cho cơ thể. (Lời khuyên này rất thích hợp cho những người có thể chất thuộc loại "Nhầy").
Cuối ngày thứ hai có thể ăn củ cải đỏ luộc và khoai tây nướng hoặc hấp.
Ngày thứ ba ăn uống trở lại
Ngoài các thứ rau, quả, củ tươi, có thể ăn thêm trái cây khô ngâm mềm trong nước ấm và uống hai muỗng mật ong.
Ngày thứ tư ăn uống trở lại
Ăn 3 ~ 4 bữa; bổ sung món cháo nấu từ tiểu mạch, đại mạch, kiều mạch. Có thể cho vào cháo một chút, bơ. Cuối ngày thứ tư có thể ăn các loại hạt.
Ngày thứ năm ăn uống trở lại
Bổ sung các loại đậu, có thể bằng cách nấu cháo đậu.
Ngày thứ sáu ăn uống trở lại
Thêm món bánh mì. Sau đó chuyển sang chế độ ngày hai bữa theo nguyên tắc hai món một bữa và luôn luôn đổi món trong ngày, trong tuần, trong tháng, trình tự mỗi bữa như sau: uống (nếu thấy khát) trà, hoặc nước trái cây, hoặc sữa chua; tiếp đó ăn món xa lát hoặc rau luộc; có thể ăn trái cây; sau đó có thể ăn bánh mì, súp, cháo, khoai tây, thịt, phó mát, nhưng chỉ là một món thôi.
Án uống như vậy một tháng. Hạn chế việc sử dụng các món sữa vì khó hấp thu; hạn chế việc ăn trứng, thịt gà và các các thức ăn có nguồn gốc động vật. Tốt nhất là chỉ nên sử dụng thức ăn thực vật.

b. Nhìn đói theo kiểu niệu liệu pháp

Khác với "kiểu cổ điển" ở chỗ qui tắc thứ hai hơi thay đổi. Ấy là nên uống gần như toàn bộ lượng nước tiểu đi ra trong ngày. Nước được uống thêm đôi chút, chỉ là để pha loãng bớt nước tiểu,

Qui tắc thứ nhất

Có thay đổi đổi chút. Thay vì nước để thụt, hãy dùng gần một lít nước tiểu mới di và 100 ~ 500 gr nước tiểu cô đặc.

Qui tắc thứ hai

Mátxa - được thực hiện với việc sử dụng 1/2 đến 1/ 4 lít nước tiểu cô đặc, trong vòng 1-2 giờ.

Qui tắc thứ ba

Vệ sinh miệng, súc miệng và rửa mũi bằng nước tiểu mới đi (có thể thử dùng cả nước tiểu cô đặc).
Nhịn đói theo kiểu niệu liệu pháp có ưu điểm hơn nhịn đói theo kiểu cổ điển ở chỗ cơ thể được axít hóa nhanh hơn, được thải chất xỉ tốt hơn, thủ tiêu được hệ vi sinh gây bệnh và các khối u; rút ngắn được thời gian nhịn đói.

c. Nhịn đói theo kiểu nhịn cả uống

Chia ra hai loại - trọn vẹn và không trọn vẹn.
Khác với nhịn đói theo kiểu cổ điển ở qui tắc thứ hai - ở đây hoàn toàn không uống nước. Không uống nước sẽ phân giải mỡ nhanh hơn. Bản thân việc chịu đựng cái khát sẽ giúp bạn nhanh chóng giải thoát khỏi trường bệnh lý cảm giác. "Gốc rễ" của bệnh tật được đánh bật ra nhanh hơn nhiều.

Qui tắc thứ nhất

Tắm, không áp dụng trong kiểu nhịn đói thứ ba trọn vẹn này, trừ việc rửa ráy một vài bộ phận của cơ thể để giúp da thải chất xỉ tốt hơn.

Qui tắc thứ hai

Thụt tháo - hoàn toàn không áp dụng trong kiểu nhịn đói thứ ba này.

Qui tắc thứ ba

Vệ sinh khoang miệng, bị loại trừ hoàn toàn trong kiểu nhịn đói thứ ba loại trọn vẹn, chỉ được áp dụng cho loại không trọn vẹn và cũng chỉ súc miệng mà thoi.

Qui tắc thứ tư

Không tiếp xúc với thức ăn - ở kiểu nhịn đói thứ ba trọn vẹn còn phải kết hợp. với một qui tắc nữa, là không được tiếp xúc với nước. Nói khác di, không được uống nước, đã đành, mà còn không được cho nước tiếp xúc với các bộ phận thân thể.
Ưu điểm của kiểu nhịn đói kiêm nhịn uống so với kiểu cổ điển và kiểu niệu liệu pháp là nó đặt cơ thể vào điều kiện khắc nghiệt hơn. Bây giờ cơ thể sẽ phải tổ chức lại sao đó để khai thác trong bản thân mình không chỉ chất dinh dưỡng, mà.cả nước. Các mô của cơ thể sẽ được phân giải, nhanh hơn; quá trình axít hóa diễn ra trong thời hạn ngắn hơn, từ đó dẫn tới các hiệu quả như hủy diệt tất cả những thứ khác lạ, bệnh hoạn trong cơ thể, phát triển khả năng thích nghi và nhiều khả năng khác.
Điều đó là thử thách rất nặng nề đối với tinh thần của con người, bởi vì nó làm tăng vọt cảm giác bệnh lý và đòi hỏi một sự chịu đựng dẻo dai. Nhưng kết quả mà kiểu nhịn đói này đạt tới thì cao hơn hẳn hai kiểu trước.
Sau đây là một số dẫn chứng.
Ông A ở vùng Stavropol bị loét dạ-dày và rối loạn trao đổi chất, đã nhịn đói 10 ngày và quên rằng mình từng bị bệnh.
Ông B ở Crimé bị nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh xơ gan. Ông nhịn đói kiêm nhịn uống 10 ngày, ngày thứ 20 đã đi làm như bình thường.
Ông C ở Moskva từ nhỏ bị bệnh lao xương và hen suyễn. Ông nhịn đói 11 ngày và khỏi bệnh.
Hai mẹ con Sergei ở khu Crasnoiarsc nhịn đói hai đợt. Bệnh án của Sergei ghi rõ ràng: bệnh bạch cầu và bệnh saccôm limfô. Bà mẹ nuốt nước mắt, cố giấu không cho con biết hai căn bệnh chết người ấy, nhưng rồi các thầy thuốc cũng không buồn giấu, có lần Sergei nghe thấy cô y tá nói với bạn gái của anh: "Anh ấy trẻ thế mà chẳng còn sống được bao lâu nữa". Không biết bao lần chọc tủy, bao nhiêu thứ hóa chất và thuốc men dã đưa vào người anh, đủ để quật ngã cả voi. Anh khó nhọc lần được từ giường bệnh vào toa lét và trở ra giường. Người chỉ còn da bọc xương. Nhiều lần anh định tự tử cho xong.
Sergei quyết định nhịn ăn uống để chữa bệnh. Đợt thứ nhất anh chịu đựng được không lâu, nhưng kết quả đã làm kinh ngạc cả các thầy thuốc. Kết quả xét nghiệm máu cho thấy tiến bộ quả rõ, cơ thể anh như sống lại. Một tháng sau anh bắt đầu nhịn đói đợt hai. Nhịn ăn nhịn cả uống quả thật không dễ chút nào. Mẹ anh cũng, nhịn theo để động viên con. Kết quả thật ngoài sức tưởng.tượng: Sergei trước kia sợ từng luồng gió nhẹ, thì nay có thể tắm trong nước băng giá. Lực kế cho thấy sức bóp của hai tay phải và trái là 45 kg. Sergei không cần uống thuốc gì hết, anh ham hoạt động và vui sống trở lại.
Leonid Aleksandrovich tự kể về việc mình nhịn đói như sau:
Từ hồi khá trẻ tôi đã thường tự hỏi, cuộc sống là gì? Có người sống được 60, 70 tuổi, có người thọ đến 100 tuổi. Vậy bí quyết sống lâu là ở dâu? Tôi quyết định tự tìm hiểu lấy.
Tôi nghiên cứu giải phẫu, làm việc ở bệnh viện, say mê liệu pháp vi lượng đồng căn. Từ năm 1971 tôi. chuyển sang con đường tự nhận thức. Tôi quyết định sống theo nguyên tắc tạo thật nhiều khó khăn để mình phải vượt qua. Ngày ngày tôi luyện cho cơ thể quen với cái lạnh, cái bụng thì quen với cái đói. Sáng sớm, mùa hè cũng như mùa đông, bất kể thời tiết ra sao, tôi cũng đều dấp nước lạnh lên người. Nhịn ăn uống bốn năm ngày đối với tôi là chuyện thường. Tháng 3 năm 1981, lần đầu tiên tôi nhịn ăn uống 10 ngày. Tôi lấy hơi ẩm bằng cách thỉnh thoảng ngâm mình trong nước như ếch. Tôi giảm 20 kg thể trọng, và sau một tuần thì phục hồi. Tôi trẻ hẳn ra, tới mức nhiều người không nhận ra tôi. Đợt nhịn ăn uống dài nhất mà tôi trải qua là 18 ngày, vượt kỷ lục thế giới được ghi trong sách Guiness.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#detox