Nguyễn Đình Thi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Góc Trái TimĂn chơi giải tríHoroscopeCuộc sốngGiới thiệu Chính Sách Riêng Tư

Đăng nhập Đăng kýTrang chủPhoto

ĐĂNG BỞI

thuyduongqn

  

Bàn về quan niệm thơ của Nguyễn Đình Thi

Thơ … tiếng hát bay lên ngút ngàn màu xanh của cây cỏ;

Thơ … tiếng hát chênh choang, xáo động trong hồn người;

Thơ – ai đã thăng hoa trong cảm xúc để dâng cho đời một chút dặt dìu, lan tỏa. Tiếng thơ trôi giữa cuộc sống, làm xanh những tâm hồn héo úa, làm mát những trái tim khô cằn, soi rọi vào thơ, ta thấy ta ở muôn màu cảm xúc.Hơn là “một thú vui cao cả nhất mà con người tạo ra cho mình” như cách nói của Mác, thơ ca tồn tại trong cuộc sống như một cách để muôn vạn người nói lên tiếng hồn mình, đó là nơi ta soi rọi vào tâm hồn, và bắt gặp ta ở nhiều cung bậc cảm xúc.

“Thơ là tiếng tình” (Diệp Tiếp), hẳn nhiên là vậy, thơ ca sẽ là gì nếu không phải là “tiếng nói của ti tình cảm” (L. Tônstoi), nhưng sẽ sai lầm biết bao nếu ta cho rằng thơ chỉ là cảm xúc thuần túy, trong thơ, chất chứa cả sự nghĩ suy, chất lấp lánh của trí tuệ. Bàn về chủ đề này, nhà thơ Nguyễn Đình Thi có một ý kiến rất đáng lưu tâm: “Thơ phải có tư tưởng, có ý thức, vì bất cứ cảm xúc, tình tự nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ. Nhưng tư tưởng trong thơ là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống. Tư tưởng của thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự”.

1. Tư tưởng trong thơNhà thơ Phôntan đã từng nói: “Bạn ơi hãy học suy nghĩ bằng trái tim – Và hãy học cảm xúc bằng lý trí”, phải chăng đó cũng là cách mà nhà thơ thể hiện tư tưởng của mình trong tác phẩm. Tư tưởng trong thơ – nó là một phần không thể thiếu của một bài thơ có giá trị, tư tưởng trong thơ không phải là những câu lập ngôn trần trụi, khô khốc, đọc bài thơ không phải lúc nào ta cũng thấy ngay cái tư tưởng của tác giả, tư tưởng có thể ví với một bộ xương của cơ thể hoàn chỉnh là bài thơ; Nếu cơ thể có cái da thịt bên ngoài thì dù có dệt gấm thêu hoa, bóng bẩy, đẹp đẽ đến đâu chăng nữa cũng chóng chết yểu, không có sức sống.Chúng ta yêu thơ Xuân Diệu đâu chỉ vì những câu chữ lung linh hay vì cái độ rung cảm sâu xa trước vẻ đẹp cuộc đời, thơ Xuân Diệu, bên cạnh những hình ảnh choáng lộn, chếnh choáng hơi men xuân tình về cuộc đời còn có cả một lời nhắn nhủ sâu xa rằng hãy biết yêu lấy cuộc đời, hãy quý tuổi trẻ và tận hưởng khi còn chưa quá muộn, khi đọc những câu:                             

 “Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,                  

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,                         

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.                     

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,   

Không cho dài thời trẻ của nhân gian”

Ta bỗng thấy thấm thía biết bao cái tư tưởng ấy, cái tư tưởng ham sống, ham yêu đến cuồng nhiệt mà đã có lần Xuân Diệu nói thành lời: “Tôi không muốn mất sự sống của tôi, không muốn nó rớt rơi, chảy trôi theo dòng ngày tháng, tôi đã ráng bỏ từng mảnh đời tôi trong hàng chữ để gửi đi, gửi cho người, cho người bốn phương” (lời tựa “Thơ - Thơ”).Tư tưởng trong thơ là cái đọng lại, cái lắng sâu, còn mãi dư ba khi dòng chữ cuối cùng đã dứt, niềm hứng khởi có thể mất đi, song, tư tưởng thì mãi còn đó.Nguyễn Đình Thi có lẽ đã thông qua cái kinh nghiệm, vốn trải của một nhà thơ mà nói rằng: “Thơ phải có tư tưởng, có ý thức, vì bất cứ cảm xúc, tình tự nào của con người cũng dính liền với suy nghĩ”. Điều đó thật đúng đắn biết bao, “Thơ là tấm gương của tâm hồn” (Tố Hữu), mà tâm hồn của con người thì đâu chỉ có cảm xúc, nó còn có cả sự suy tưởng, suy nghĩ hay nói cách khác là có cả tư tưởng nữa. Mà khi đã bật ra thành thơ, cái tư tưởng ấy sẽ không đượng phép đứng riêng rẽ, bởi như vậy nó sẽ quá trần trụi, nó phải quyện vào cảm xúc, và nói như Nguyễn Đình Thi, nó phải “dính liền” với cảm xúc. Sự “dính liền” này tinh tế đến nỗi người đọc đôi khi (nếu sơ ý) sẽ không nhận ra sự có mặt của tư tưởng, nhưng nếu đào sâu, tìm hiểu cặn kẽ, đi vào căn nguồn sâu xa của bài thơ, ta sẽ nhận thấy cái tư tưởng của tác giả. Thật ra cũng dễ hiểu thôi, trong cuộc sống, có hiểu thì mới cảm, và đã cảm thì càng muốn hiểu nhiều hơn; trong thơ cũng vậy; ta có ấn tượng trước tiên với cảm xúc của bài thơ, và từ ấn tượng ấy, ta muốn đi sâu để tìm hiểu cái tư tưởng.Người ta nói rằng thơ Chế Lan Viên là thơ của sự suy nghĩ, đọc thơ Chế Lan Viên ta phải động não nhiều để nhận ra cái tư tưởng của tác giả ẩn sâu, giấu kín. Khi đọc những câu thơ như: “Tổ quốc có bao giờ dẹp thế này chăng – Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc – Khi Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn – Khi Nguyễn Huệ cỡi voi vào Ải Bắc – Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng” có thể ta sẽ ngay lập tức bị ấn tượng với những hình ảnh hứng tráng, cảm xúc mạnh mẽ, nhưng dù thật cái tư tưởng thực của bài thơ là ca ngợi ngày độc lập của tổ quốc – thì lại không dễ tìm ra, và chính cái suy nghĩ sâu xa, chất chứa đó, mới là cái tạo ra sự hấp dẫn cho người đọc thơ Chế Lan Viên.Ta yêu thơ Xuân Quỳnh vì ở đó có một triết lí đơn giản mà sâu sắc: hãy biết quý những điều tưởng chừng bé nhỏ mà lại quý giá biết bao trong cuộc đời. Xuân Quỳnh viết về tình yêu hay tình mẹ con hay nhiều đề tài khác nữa, cũng luôn ẩn chứa triết lý này. Bài thơ “Sóng” là một ví dụ:                                         

 Cuộc đời tuy dài thế  

Năm tháng vẫn đi qua     

 Như biển kia dẫu rộng         

Mây vẫn bay về xa          

Làm sao được tan ra  

Thành trăm con sóng nhỏ 

Giữa biển lớn tình yêu 

Để ngàn năm còn vỗ 

Ôi, cái khát vọng ấy, khát vọng được vĩnh viễn hóa tình yêu thật giản dị mà lại lớn lao biết bao, ở đời ai chẳng muốn tình yêu là trường cửu, nhưng có mấy ai tin vào sự trường cửu của tình yêu? Thôi, thì ta cứ sống hết mình, dâng hiến mình làm trăm con sóng nhỏ để bập bềnh vỗ giữa biển lớn tình yêu… thơ Xuân Quỳnh mang cả hơi ấm của tình mẹ con:                

Mẹ nhìn con ngủ như hoa 

Con từ tay mẹ thơm ra cuộc đời     

Trong mơ con đã nhoẻn cười

Con mang tình mẹ ngày càng lớn lên

Tiếng thở của cuộc đời đấy! Ai bảo đời thường là tẻ nhạt? Chỉ có chăng là ta chưa chịu tìm ra sự mặn mòi của nó, ta sống chưa đủ sâu sắc để hiểu nét đẹp mộc mạc, đáng quý của đời thường.“Nhà thơ, ngay cả những nhà thơ vĩ đại nhất cũng đồng thời là nhà tư tưởng”, câu nói của Biêlinxki đã một lần nữa soi về tư tưởng trong thơ. Nhà thơ, họ đâu chỉ là “người điên, người mơ, người say” (Chế Lan Viên), bởi họ còn là “người cho máu” (Enxa Triôlê). Dòng máu ấy phải lành lặn, nó phải là cái tư tưởng đúng đắn thì mới được người đọc đón nhận, tư tưởng của một bài thơ làm nên sức sống của nó.Ta có thể lấy thơ Tố Hữu để chứng minh cho quan điểm “Thơ phải có tư tưởng, có ý thức” của Nguyễn Đình Thi. Nói đến Tố Hữu là nói đến nhà thơ chiến sĩ, thơ Tố Hữu mang nặng tư tưởng yêu nước, cách mạng, và có lẽ vì nền móng tư tưởng ấy mà thơ Tố Hữu có sức sống mãnh liệt. Cho đến bây giờ mà người ta vẫn không thể quên những câu thơ:                                         

Đi, bạn ơi đi! Sống đủ đầu,    

Sống trào sinh lực bốc men say,  

Đã vay dòng máu thơm thiên cổ 

Phải trả cho ta mạch giống nòi.

hay:    

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,  

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá  

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Đọc thơ Tố Hữu là ta đang nghe tiếng gọi của tổ quốc trong những ngày sôi sục đấu tranh, những vần thơ với tư tưởng yêu nước, yêu đời luôn gọi dậy trong tâm hồn mỗi người niềm rung cảm mãnh liệt.Nếu không có tư tưởng, liệu bài thơ sẽ như thế nào? Và câu trả lời là nó sẽ như một cây non èo uột, không thể sống quá lâu trong hồn người. Có những bài thơ cổ mà tác giả chỉ đơn giản làm mượn hình ảnh, sắp xếp cho đúng luật thơ, bài thơ vì bị bó buột trong những công thức nên tư tưởng thơ rất mờ nhạt, bài thơ của bà Ngô Chi Lan dưới đây là một ví dụ:                                        

Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ

Lẻ lẻ bên trời bóng nhạn thưa

Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm

Rừng phong lá rụng tiếng như mưa

Ta không tìm thấy ở đây một lòng yêu cảnh quê, tình quê như chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, có lẽ vì khái niệm “tư tưởng” thơ trong thơ xưa còn hạn chế, nhà thơ không nói được cái suy nghĩ riêng, cảm nhận riêng nên mới tạo nên sự chung chung, xa lạ đó.

2. Tư tưởng thơ dính liền với cảm xúc Thơ là cảm xúc, là “sự cảm nhận” (Xuân Diệu), điều đó đúng, nhưng thơ còn là tư tưởng, là nghĩ suy bởi người đọc không chỉ muốn nhìn ngắm cái vỏ bên ngoài mà còn muốn chạm vào cái cốt lõi của một bài thơ, bằng cái nhìn tinh tường, Nguyễn Đình Thi đã rất đúng đắn khi phát hiện và khẳng định “Thơ phải có tư tưởng, có ý thức”. Nhưng “ý thức” trong thơ, “tư tưởng” của thơ có gì là đặc biệt? Còn nhớ, nhà văn Nguyễn Khải có lần nói “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng đó là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy”. Nguyễn Khải có lẽ đã gặp Nguyễn Đình Thi ở quan điểm này, cả hai người đều đồng ý rằng “tư tưởng của thơ nằm trong cảm xúc, tình tứ”.Bài thơ là một tác phẩm nghệ thuật, mà đã là nghệ thuật thì phải đa người vào thế giới của những rung động, thế giới của cảm xúc, “Dù nói đến người, đến vật, đến việc cũng phải tràn trề tình cảm! Người ta đòi hỏi người thi sĩ phải nói bằng tất cả trái tim, linh hồn mình, càng dạt dào càng hay” (Xuân Diệu). Nhưng ngay cả trong lúc “say theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, thi sĩ cũng phải biết bộc lộ điều chiêm nghiệm, bộc lộ cảm quan, bộc lộ suy nghĩ, con thuyền cảm xúc cần có mái chèo tư tưởng để không trôi vô định, nó cần có sự định hướng.Đừng hỏi rằng khi đang dạt dào cảm xúc, liệu người ta có đủ “tỉnh táo” để mà suy nghĩ? Thực ra, tư tưởng là điều có sẵn trong mỗi con người, nó biểu hiện cách cảm nhận cuộc đời, cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh, nó nói lên anh là ai. Tư tưởng khi có cảm xúc chẳng những không bị nhạt nhòa mà còn nhờ cảm xúc trở nên thăng hoa, đẹp đẽ và sâu lắng hơn. Một khi cảm xúc đạt đến trình độ mãnh liệt, nó dần phôi thai thành lối nghĩ suy, cách nhìn riêng của nhà thơ về cuộc đời, tư tưởng trong thơ là cái mà nhà thơ thiết tha trao nhắn cho cuộc đời trong hơi men cảm xúc.Ngay Nguyễn Đình Thi, tác giả câu nói mà chúng ta đang bàn luận, cũng đã từng gửi gắm tư tưởng yêu nước, yêu đời trong dạt dào cảm xúc:                                         

Trời xanh đây là của chúng ta, 

Núi rừng đây là của chúng ta,

Những cánh đồng thơm ngát,

Những ngả đường bát ngát,

Những dòng sông đỏ nặng phù sa…

(Đất nước)

Hoàn thành trong không khí thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, bài thơ “Đất nước” mang hơi thở rào rạt nhựa sống của một đất nước tự do, ta nghe những câu thơ như có gió thổi lồng lộng, gió thời đại, gió của truyền thống ngàn năm “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất – Những buổi ngày xưa vọng nói về”… Lòng người như mở rộng, phơi phới những cảm xúc vui mừng, yêu thương… và cùng với đó là tư tưởng về “đất nước” rất sâu sắc, một dất nước từng đau thương, từng đứng dậy, một đất nước từ ngày xưa đến bây giờ vẫn chứa chan tình yêu sâu nặng, vẫn nóng hổi tinh thần yêu nước. Mạch cảm nhận xuyên suốt bài thơ đã hòa cùng cảm xúc để làm nên một bài thơ hay, đọng mãi trong lòng người đọc.“Từ bao giờ đến bây giờ, từ Hômerơ, đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại” (Hoài Thanh), sức sống đó của thơ có được vì thơ đã nói hộ con người những xúc cảm, thơ chan chứa nỗi lòng ta, và thơ, bằng tư tưởng của mình, còn “thanh lọc” (Arixtot) tâm hồn, mang đến cho ta những chân cảm.Khi đọc những câu thơ của Na Đim - Hát mét, ta vừa thấy một hiện thực thế giới đầy đau khổ do chiến tranh gây ra, vừa khơi dậy bao niềm thương cảm cho những số phận trẻ thơ bị chết oan uổng:                                         

 Mời năm trước, em còn sống đó,

Em chết hồi Hi-rô-si-ma,

Bây giờ em vẫn bảy tuổi thơ, 

Những em chết không còn lớn nữa,

Em gõ cửa, chính em gõ cửa,

Xin cho em chữ ký làm quà,

Để người ta không giết trẻ thơ,

 Để trẻ em được quyền ăn kẹo.

Ở những câu thơ ấy, vang vọng một niềm thương lẫn một sự suy nghĩ, và tư tưởng đã hòa nhập với cảm xúc để đẩy cho dư vang xa mãi trong lòng người.Những câu dân ca, những lời ca dao, tha thiết lòng ta từ ngày xưa mẹ hát, ca dao cũng là một loại thơ đặc biệt, loại thơ kết tinh tâm hồn và tư tưởng dân tộc. Ở ca dao đâu chỉ có yêu thương, giận hờn mà còn có cả những suy ngẫm, triết lý.Đôi ta như bạn xe thừngTrăm đứt, nghìn nối xin đừng quên nhau Lời ca ấu da diết lòng bởi cái lẽ thủy chung, sau trước, dẫu sống trong cuộc đời lắm lúc chia phôi nhưng tấm lòng thủy chung vẫn tìm về với nhau san sẻ, điều nhắn nhủ ấy quá mộc mạc, đơn sơ mà sao chan chứa lòng…Đọc ca dao để thấy ông bà mình nghĩ suy thật sâu sắc, dẫu cho cuộc đời lắm nỗi nhọc nhằn vẫn luôn mỉm cười lạc quan:Chớ than phận khó ai ơi,Còn da, lông mọc, còn chồi, nảy cây.Và nếu hỏi tình yêu nước đậm sâu khởi nguồn từ đâu, thì đó là những tình yêu đơn giản nhất; yêu đồng ruộng, yêu xóm làng, yêu cả những bức tranh quê hương thân thuộc:… Gió đưa cành trúc la đà,Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương,Mịt mù khói tỏa ngàn sương,Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.Tư tưởng của người Việt thể hiện qua ca dao đã một lần nữa chứng minh rằng “Tư tưởng của thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình tự”, cảm xúc đẩy tư tưởng lên cao, tư tưởng định hình cho cảm xúc, đó là hai điều không thể thiếu trong một bài thơ.

3. Tư tưởng ở trong cuộc đời“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” (Biêlinxki) câu nói nổi tiếng đó của nhà văn Nga đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa thơ ca và cuộc sống. Thơ bắt nguồn từ đời sống, thơ là bông hồng vàng mang lại hạnh phúc cho mọi người, bông hoa ấy được thi sĩ gom nhặt từ những hạt “bụi quý” để làm nên. Nếu là thi sĩ, từng nghĩ rằng ta khép cửa tâm hồn để nhốt mình vào cõi mộng, không! Hãy mở cánh cửa tâm hồn, giang tay ra với cuộc đời; “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép – Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia” (Chế Lan Viên).Thơ là đóa hoa mọc lên từ cuộc đời, vậy thì tư tưởng trong thơ cũng phải “là tư tưởng dính liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống” như cách nói của Nguyễn Đình Thi. Nhà thơ Xuân Diệu nhà thơ trần thế đầy hương hoa và sắc đẹp – dã bộc bạch rằng: “Thơ thọc sâu vào xương máu của cuộc sống không che phủ, giấu giếm, thì làm người đọc thấy thơ gần mình hơn, yêu thơ hơn”. Bởi lẽ chính bản thân thơ đã là một tiếng nói nóng hổi bay lên từ cuộc sống, thăng hoa thành nghệ thuật, nên cái nòng cốt của thơ là cái tư tưởng nhẹ nhàng ẩn giấu cũng đậm đà hương vị cuộc sống.Thật đáng tiếc rằng đã có lúc nhiều người làm thơ (vì họ chưa xứng đáng với hai tiếng “nhà thơ”) đã có tư tưởng lánh xa cuộc đời, họ, hoặc là trốn vào cái cảnh cao xa, khác vời ở cõi mộng, hoặc là tìm quên vào cuộc đời ô trọc. Đọc những câu thơ kiểu như:                                         

Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giá,

Một vì sao trơ trọi cuối trời xa,

Ở nơi ấy, tháng ngày tôi lẩn tránh, 

 Mọi ưu phiền, đau khổ với buồn lo.                                                                 

            (Chế Lan Viên)

hay:                                  

 “Say đi em! Say đi em! 

Say cho lơi lả ánh đèn

Cho cung bậc ngả  nghiêng, điên rồ xác thịt 

Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!”                                                                          

    (“Say đi em” – Vũ Hoàng Chương) 

Những câu thơ mang tư tưởng trốn đời, tiêu cực ấy có thể mang lại cho một lớp độc giả là các thanh niên thời trước một chút tìm quên trong u muội chứ không thể làm cho họ có rung cảm trong lành hay tư tưởng tốt đẹp, đó là những bài thơ nhanh chóng bị quên lãng…Nhưng nghệ thuật rồi vẫn cứ là nghệ thuật, có rũ bờ những thứ tầm thường để vươn tới cái tốt đẹp. Các nhà thơ cũ khi hớp nguồn ánh sáng trong lành của cuộc sống mới họ đã mau chóng nắm bắt được nhịp phát triển của thơ ca. Tư tưởng thơ của họ đã được làm mới đúng đắn, lành mạnh hơn, và nhà thơ Chế Lan Viên đã thừa nhận:                                          “Cuộc sống đánh vào thơ trăm ngàn lớp sóng                                          Chớ ngồi phòng ăn bọt bể anh ơi”Cùng với đó, ông đã hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân rộng lớn hơn, tươi đẹp hơn:                                          Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ.                                          Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,                                          Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa.                                          Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa… Còn Xuân Diệu, trước kia vốn đã yêu cuộc sống thì nay, lòng yêu ấy lại càng mạnh mẽ, phấn chấn hơn nhờ có thêm tư tưởng yêu nước:                                          Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,                                          Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu,                                          Cùng sống với cuộc đời chiến đấu,                                          Của triệu người yêu dấu, gian lao. Thơ phải là cuộc sống thì thơ mới bay cao, mới sống cùng năm tháng, tư tưởng thơ là thứ bật lên từ hơi thở cuộc sống đầy hối hả. Tôi tưởng thơ dù được diễn tả bằng cách nào: nhẹ nhàng hay dữ dội, cầu kỳ hay mộc mạc… vẫn phải là tư tưởng gần gũi với cuộc đời.Hai cuộc chiến đấu của dân tộc là một “kho sáng tác” vô tận cho các nhà thơ, nhưng điều quan trọng hơn, nhờ vào đó mà tư tưởng thơ của họ đã xít lại gần với cuộc đời, mang nhiều hơn tính nhân văn cao đẹp. Đó là tư tưởng thương yêu, đùm bọc lẫn nhau:                                          Đêm nay, rừng hoang sương muối,                                          Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới,                                          Đầu súng trăng treo                                                                             (Đồng chí – Chính Hữu)Là tư tưởng thương yêu con người, nhìn nhận sự mất mát, hi sinh. Trong “Cuộc chia ly màu đỏ”, Nguyễn Mĩ đã cho ta một bức tranh đầy màu đỏ, của khung cảnh, và của trái tim thắm hồng:                                          “ Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy                                          Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi                                          Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người,                                          Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp                                          Một làng xa giữa đêm gió rét…                                          Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi                                          Như chưa hề có cuộc chia li”Chiến tranh là chia lìa, là cách trở, nhưng lòng người nếu vẫn muốn gần nhau thì khoảng cách sẽ thu hẹp trong gang tấc, niềm tin ấy làm cho cuộc sống vẫn đau khổ vì chiến tranh trở nên tốt đẹp hơn…Và thơ ca trên công trường sau chiến tranh lại càng âm vang nhịp điệu cuộc sống:                                          “Công trường nhấp nhánh sao đêm,                                          Ngôi sao sáng nhất là em tự hào,                                          Đêm đêm sao sáng bạt ngàn,                                          Sao trời thua sáng thợ hàn sao em”                                                                             (Phan Thị Thanh Nhàn)Thực tế đã nói hộ cho thi sĩ: thơ phải gắn liền với cuộc sống để tồn tại. Thơ chính là tâm tình, là nghĩ suy… nen hơn hết, là cuộc sống.Tư tưởng thơ không phải muốn có thì vắt óc ra nghĩ mà có, nó phải là thứ mà con người - cụ thể là thi sĩ sống, cọ sát, nếm trải cuộc sống để bật lên thành suy nghĩ, do vậy, tư tưởng thơ mới dễ truyền đạt cho người đọc. Muốn làm thơ hay, bạn phải “yêu cuộc sống” nhiều lắm, và khi đã yêu nước, hãy đi vào nó, tìm tòi và bật lên thơ.Đã có nhiều  người về thơ, và mỗi một nhận định lại có một giá trị riêng của nó, với Nguyễn Đình Thi, nhận định của ông là điều rút ra từ thực tiễn sáng tác của bản thân nên có những điều thú vị riêng; khá hay và sâu sắc. Và dù rằng thơ ca là một tiếng nói rất mực trữ tình, song, tầm quan trọng của tư tưởng trong thơ cũng đáng ghi nhận, như một vế sóng đôi cùng cảm xúc để làm nên thơ, điều mà chúng ta vẫn yêu mến trong cuộc sống này./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro