B

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Giữa muôn vàn khát khao trần trụi với đời thì được hòa cùng nỗi vui với thiên nhiên, tình yêu và cái đẹp là khát khao mãnh liệt nhất, và thi ca có cả ba, và những nỗi niềm mãnh liệt ấy luôn là dòng chảy mãnh liệt trong Nguyễn Tuân, chình điều ấy đã tạo nên một lối duy mỹ trong cuộc đời đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân, miễn là đồ Nguyễn Tuân ăn, rượu Nguyễn Tuân uống thì đều là những thứ thượng phẩm, những thi vị khó có trên đời, "nếu anh ăn đến cái kẹo thứ hai, liệu vị nó có ngon hơn không" với Nguyễn Tuân đứng nói đến số lượng mà tự bản thân phải nhận được thứ hương sắc trong từng món đồ dẫu cho chúng nhỏ nhặt đến nhường nào. Quả thực như vậy qua từng trang văn của Nguyễn Tuân ta lại thấy những con chữ kiêu ngạo ,ngông nghênh với đời, nhưng lại làm say lòng biết bao đọc giả và tùy bút "Người lái đò Sông Đà" đã khẳng định tên tuổi của Nguyễn Tuân trên văn đàn Việt Nam, tái hiện một Tây Bắc đang tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng tiếng hát hứng khởi, bằng nét nghệ thuật độc đáo, cùng con từ sắc lẹm Nguyễn Tuân đã đem một dòng Sông Đà với tính cách hùng vĩ, hung bạo trong hồn thiêng núi sông nơi thiên nhiên đã nâng niu từng bờ đá, từng dòng thác, từng vẻ đẹp tuyệt mỹ của tây bắc đã gửi gắm.

        Đi qua một cuộc cách mạng tháng tám, trước cách mạng tháng tám cái đẹp, cái nghệ thuật với ông chỉ tuôn trào trong những người nghệ sĩ, và con chữ Nguyễn Tuân lúc ấy chính là những dòng ca ngông nghênh cái tôi to lớn, đem cái tôi của mình đi trên mặt trận văn chương "vang bóng một thời", hay những chuyến vi vu khắp tận cùng đất bể, Nguyễn Tuân đã xem cuộc đời như một chuyến du hí xê dịch không ngừng để khẳng định cái tạng của mình trong văn chương, hay xê dịch đễ tìm lấy lại quê hương trong mình, tìm lại quê hương trên mảnh đất quê hương bấy giờ vẫn nằm trong tay thực dân. Nhưng sau cách mạng tháng tám ánh nhìn của Nguyễn Tuân đã từng bước thay đổi, phong cách văn chương của ông đã thêm nhiều hơn những niềm tin yêu với thời đại, nhiều thêm tình yêu quê hương đất nước con người và sáng tác bậc nhất của Nguyễn Tuân đó chính là tùy bút Sông Đà. tại những thước phim tây bắc, Nguyễn Tuân đã tìm gặp được "thứ vàng mười đã qua thử lửa" hiện hữu trong vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ cùng nét đẹp trong tâm hồn con người, đã được nhìn rõ dưới lăng kính của Nguyễn Tuân là một con Sông Đà vừa trữ tình vừa ngọt ngào nhẹ nhàng cũng đầy nét hung bạo đã làm nổi bật lên hình tượng của người lái đò, với tùy bút đã cho Nguyễn Tuân thoải mái mà đem cái ngông của mình đem vào trang văn, cho từng con chữ phủ gió phiêu đãng giữa không trung mây trời con chữ trở thành tác phẩm tiêu biểu khi nhắc đến thể  loại tùy bút.

"Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu"

Mượn lời thơ của Nguyễn Quang Bích để nói nên tính cách ngang ngược của con Sông Đà, "mọi dòng sông đều chảy về hướng đông chỉ có Sông Đà chảy theo hướng bắc" tái hiện nơi thượng nguồn một hình ảnh thác đá Sông Đà tạo nên từ các thạch thủy trận, dưới ánh nhìn nhạy cảm như thấu đạt hết tất thảy Nguyễn Tuân đã dựng hình bằng con chữ, bằng những âm thanh hình ảnh vô cùng đặc sắc, biến Sông Đà không vô tri vô giác mà tựa một sinh thể có hơi thở, sự sống, có tâm địa. Dòng sông có những lúc trữ tình là đẩy đưa, tâm tình tựa như những người cố nhân khó chiều, người tri âm, tri kỷ gắn bó sâu sắc. Lúc lại hung bạo tựa như con quái thú muốn nuốt chửng những con người tiến vào địa bàn của nó. Đặc biệt phải kể đến chính là những khoảng hung bạo của chúng Nguyễn Tuân đã lý giải cho điều ấy, bởi Sông Đà bắt nguồn từ trung quốc đi qua một vũng núi hiểm ác rồi nhập tịch vào việt nam, trưởng thành mãi lên thì đến ngã ba trung hà hòa nhập vào sông hồng, hay chính Sông Đà nạn nhân đầy khổ đau của bọn thực dân Pháp, chúng dày xéo, chà đạp lên con sông đổ lên nó thứ mực đen đúa, thậm chí đặt tên Sông Đà trong bản đồ là Sông đen, ngang ngược chia cắt sông đà thành nhiều mảnh khiến cho dòng sông tức giận và càng trở nên hung bạo hơn. Qua những kinh nghiệm, kiến thức của mình Nguyễn tuân đã lý giải cho những nỗi niềm của con sông, khẳng định vai trò vị thế của một người theo đuổi nghệ thuật đầy nghiêm túc.            
           
          Khi trái tim người nghệ sĩ cùng khối óc nghiên cứu đã mang đến  nhiều trải nghiệm khác biệt, cho người đọc chiêm ngưỡng thước phim dựng  bằng con chữ với phong cách quay điệu nghệ ở khung cảnh thiên nhiên cảnh đá bờ sông dựng vách thành nơi Sông Đà hùng vĩ, những vách trận nghịch nghịch chỉ khi đến giữa trưa, mặt trời gọi nơi đỉnh đầu thì nơi ấy mới có ánh nắng "hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá, mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời" những vách đá cao hun hút được miêu tả dưới ánh nhìn khác biệt, vách đá tựa nhưng một bức tường thành bao trọn dòng Sông Đà, bao trọn những nét trữ tình mộng mị tựa như hàng rào chắn bảo vệ người tình của mình, khiến cho mặt trời cũng tò mò mà ghé thăm, ngó nhìn. Một công trình kiến trúc thiên nhiên hàng thập kỷ qua được Nguyễn Tuân đặt tả những góc quay đầy tài tình, giữ trọn đước nét hùng vĩ của dãy núi "có chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu" đem thước phim thêm tính hàn lâm những thành chẹt tựa như yết hầu của ngươi con trai qua đó nói lên độ hẹp của khúc sông, những vách đá dựng thẳng đứng và dòng chảy hẹp được nhìn nhận qua những chi tiết tiêu biểu và lối liên tưởng đầy bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ đầy khác lạ với đời sống hiện đại ("ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ các tầng nhà thứ mấy nào vừa phụt đèn điện") nhiều lần ngồi trong khoang đò" đi qua nhiều quảng mưa nắng, Nguyễn Tuân trọn trao tâm tình của mình cho một mùa hè, thời điểm nóng ấm nhất tại vùng tây bắc giá, rực rỡ những ánh nắng ban trưa nhưng không thể soi vàng một màu nắng cho dòng Sông Đà thêm nét ấm áp, Cảm giác lạnh lẽo u uất chiếm trọn quảng sông ấy, biến thiên nhiên Sông Đà không chỉ âm u lạnh lẽo giờ đây ngya giấc chính ngọ cũng không vơi bớt cảm giác ấy, càng làm rõ hơn về những điều quái gở ở dòng Sông Đà "vừa tắt vụt đèn điện" đầy đột ngột, không lường trước, con thuyền chảy trôi trên dòng sông qua từng khúc sông, những ánh sáng lập lèo khi có khi không, đột ngột, nhưng cũng đầy nhịp nhàng, câu thơ liên tục không ngắt ngứ đưa người đọc đến dòng liên tưỡng liền mạch. Vào mùa nước lũ, khúc sông ấy tựa như lưỡi hái tử thần sẵn sàng cướp lấy mạng sống của bất cứ người lái đò nào dám đặt chân tới. Những sự nguy hiểm cứ tầng tầng lớp lớp được tô vẽ điểm, bên cạnh những đá dựng vách thành còn thêm những hình ảnh so sánh liên tiếp "đứng bên bờ sông bên này bờ nhẹ tau ném hòn đá qua bên kia. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia", không dùng như miêu tả hoa mỹ chỉ đơn giản gợi tả từng nét đơn thuần cũng đã đủ để độc giả nghẹt thở với những khúc sông khúc khủy và những khoảnh đá nơi đây, kết hợp nhiều giác quan cùng những phép so sánh độc đáo, diễn tả hành động "nhẹ tay" cùng động từ "nhảy vọt được xuất hiện đầy  đặc biệt trong câu văn, một bên nhịp nhàng của con người, một bên thì con nai con hổ có thể nhảy vọt từ bờ bên kia , từ đó có thể thấy những vách thành dựng nhỏ hẹp lại gián tiếp tạo sự gợi hình gợi tả cho bản tùy bút. Con người ta khi đứng giữa lòng Sông Đà cũng thật đầy nhỏ bé, giữa những vách thành cao vút, nhưng lại tựa như tìm được cảm giác tồn tại ở giữa những khúc sông hẹp, lần lược đưa người đọc tiến tới nhiều liên tưởng nhiều nét dụng ngôn đầy mới lạ, những màn thiên biến vạn ngữ đầy tài tình, nhiều liên tưởng, ví von đặc sắc của người nghệ sĩ.  Những con sông nhỏ đổ ra biển lớn, những ánh lửa nhỏ tạo ngọn lửa lớn, từ những điều nhỏ gặp nhau trong tùy bút, hòa trộn đầy đủ phong cách độc đáo khó tìm từ ai khác của Nguyễn Tuân. Sự đối lập giữa cái hè oi bức nhưng lại lạnh rát da rát thịt, thiên  nhiên hoang sơ  và những ngôi nhà nơi phố thị, tầng cao hun hút, giữa hai bờ bên này bên kia tựa hai thế giới đối lập nhưng lại được trung hòa nhờ cái nỗi niềm tươi vui, hào hứng của loài muôn thú, tất cả như hòa quyện thành một thế giới thiên nhiên riêng dưới ngòi bút uyên bác, tài hoa. Chưa dừng lại những vách thành, thành chẹt, nhỏ hẹp thì con Sông Đà hung bạo còn ở những "ghềnh sông-mặt ghềnh hát loóng. Những dòng chảy nhịp nhàng trong tùy bút, như tăng thêm uy lực cho dòng sông, sư hung hãn được đẩy lên cao trào "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô cuồn cuộn gió gùn ghè suốt năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ suýt..", nước không róc rách, gió không thổi hiền hòa, sóng cũng không dạt dào tình cảm mà giờ đây tất cả những điều ấy như được tô điểm thêm trăm nghìn lần sự bạo tàn, trở thành tay sai trung thành cho dòng Sông Đà, tàn phá không kể ngày đêm "xô" "cuồn cuộn" chuyển động từng lớp này đến lớp khác vừa dồn dập mạnh mẽ được phép điệp, cùng nhân hóa nâng lên triệt để, gió như rít từng cơn nghiến răng cach cách của những gã đòi nợ, kết hợp thanh điệu với những thanh trắc liên hòi từ Sông Đà nước và gió đặt cạnh nhau tựa như thiên nhiên vùng tây bắc đang rít từng cơn tức giận với những kẻ không danh phận ké đến khúc Sông Đà, đắm chìm trong những giao hưởng liên hồi, nơi mặt ghềnh tháng lólong được miêu tả linh hoạt hơn, một phần câu văn như bị chặt đứt ra thanhfnhieeuf phân khúc, ngắn, gọn, diễn đạt bằng điệp từ cũng điệp cấu trúc và tăng tiến, dồn dập gấp gáp như sự chuyển động của gió lớn Nguyễn Tuân đã mang đến cho người đọc những ngôn từ và cách diễn đạt không trùng lặp.

Dành đời cho nghệ thuật, cho cái đẹp và rồi văn Nguyễn Tuân trộn trong đó là biết bao quá trình lao động nghệ thuật dài dẳng, đem đến những ấn tượng về sự hung bạo những hút nước khủng khiếp ở quãng tà mường vát, phía dưới sơn la. nơi "trên sông bỗng có cái hút nước, có hút nước như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", những cái hút nước xoáy mạnh tạo nên những âm thanh òng ọc được Nguyễn Tuân miêu tả tựa như tiếng sặc của cái cống cái, cái hút nước tựa như một sinh thể có hơi thở, phát ra những tiếng kêu hung tợn khiến không một ai dám bén mảng gần nơi hút nước ấy, thuyền qua phải thật vững tay thì mới có chạy trốn thật nhanh để không bị cuốn vào hút nước ấy, trong trang tùy bút của Nguyễn Tuân gã quái vật không nhân nhượng cho bất cứ kẻ nào, đã có những chiếc thuyền bị nhấn chìm trong cái hố nước ấy, thuyền trồng cây chuối giữa dòng rồi mất hút, lúc sau chỉ còn lại xác vụn ở khuỷu sông dưới. dường như mỗi khi đi qua khúc sông này những cảm giác về cái chết hiện hữu đầy rõ ràng, và là lời đe dọa cho những người khinh suất coi thường con Sông Đà, ta cũng nhanh chóng hiểu rằng cái "nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là nhữ cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống" hai chữ nghênh ngang vô ý là lời nhắc nhẹ của tác giả cho những người lao động nơi mảnh đất tây bắc giá rét nơi mà nhà thơ đã trải nghiệm từng chút một cái lạnh buốt da buốt thịt nhưng lòng vẫn ấm nhờ sưởi cái thứ lửa giữa tình cảm người với người.

Phối hợp nhịp nhàng giữa tả và kể cùng các thủ pháp nghệ thuật đầy độc đáo đã góp phần tạo nên những liên tưởng rõ ràng trong lòng người đọc đất là cái tinh hoa của ngòi bút Nguyễn Tuân, tái hiện từng khúc sông khác nhau với những nguy hiểm rình rập khác nhau, thử thách con người, chỉ những người lái đò cừ khôi nhất mới có thể vượt qua quãng sông ấy. Nguyễn Tuân không chỉ là người diễn viên mà con là người đạo diễn với những góc quay tả thực đầy táo bạo, đầy những liên tượng nghệ thuật thú vị, đem đến những góc quay cận nét nhất, cho người đọc nhìn rõ được những cái hố nước sâu, xoáy tít, một nét liên tưởng độc đáo trong tùy bút người lái đò Sông Đà. "tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào cái thuyền cả mình và máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà" sự đối lập trong cảm giác sợ hãi và sự táo tợn dũng cảm của anh quay phim như thể hiện được sự trân trọng tác giã gửi đến anh quay phim, ở những góc nhìn nghệ thuật khác nhau, vì cảm hứng nơi những người khán giả mà  anh quay phim không phải một ngư dân, hay tay lái đò lành nghề mà dám ngồi lên khoang thuyền ấy, khoẳng khắc thước phim đổ ngược xuống đáy Sông Đà là một khoảnh khắc kì diệu, vì nghệ thuật ta tiến tới tất cả, sẳn sàng cùng mạng sống của mình giành giật lấy nhau để có thể đem tới những thước phim đầy lột tả, để rồi từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành, người qauy phim đã nhìn thấy khoảng khắc chênh nhau cả một cột nước cao đến vài sào, con thuyền lắc lư trên quảng sông xoay tits của cái thuyền "cái máy lia contre plongee lên một mặt giếng" đã nhìn thấy những gì ddwoj nhất,  tựa như một cái "thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một ánh thủy tinh khôi đúc dày , khối pha lê xanh như sắp vỡ vụn tan ụp vào máy của người đang quay và cả người xem. Tác giả mải mê với cái xanh ngắt của dòng sông ấy tựa như trầm mê trong hương rượu quý, càng đi sâu vào có lẽ sẽ ko tốt, nhưng ko ngừng được bản thân trầm luân vào. Một đời đi mới từng chân trời góc bể những nét đẹp tinh túy nhất, nhỏ nhặt nhất, đem cái đẹp muôn đời ấy gửi vào trong trang văn mà đem cho đời cái hương đặc sắc. Nguyễn Tuân coi góc quay phim ấy, cái giếng xoáy nước xoay tít tựa như "chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê khổng lồ vừa rút lên cây gậy đánh phèn". Từng liên tưởng nối lớp liên tưởng cùng những biện pháp tu từ đầy ấn tượng, chính Nguyễn Tuân cùng ngòi bút của mình đã đem đến những trải nghiệm đầy mới lạ trong thơ văn, khám phá từng cung bậc cảm xúc để r người đọc ngẩn ngơ với vẻ xanh ngắt của "khối pha lê xanh" ẩn sâu trong môi hút nước Sông Đà.
Như một mê cung ngập tràn những mật thất, càng đi càng tỏ, nhu cách Nguyễn Tuân đã nói "nguy hiểm của Sông Đà ko chỉ có thác đá, qua đó khẳng định sức mạnh đáng gờm của thác đá nơi Sông Đà. Cũng thể hiện được sự quan sát nhạy bén tỉ mỉ của nhà văn trong các dung tác phẩm, tựa như nhà biên kịch tài tình, bởi qua từng thước phim được hiện hữu ấy ta thấy một Nguyễn Tuân với đôi mắt tinh tường nhìn ngắm những thác đá đội bóng từ xa, "còn xa lắm mới đến cái thác dưới", khi bóng hình chỉ mới mờ mờ nhưng đôi tai nhà thơ đã cảm nhận nó đang tới gần "réo gần mãi lại réo xa mãi lên" đầy sống động, không trực tiếp lm chồng cây chuối ngược như cái hút nước đã làm, mà thác đá ấy tựa như một quý cô ủy mị, nhưng đầy ngang tàng, lại đầy thu hút khiến người ta không thể rời mắt, nhưng lại chẳng dám tiến gần bởi những tiếng uy nó tạo ra tựa như đang "oán trách" "van xin" rồi "khiêu khích" "giọng gằn mà chế nhạo" có đủ mọi tâm trạng, mọi loại thất thường, âm ương tựa như một sinh thể đang sống và tồn tại, dường như suốt ngần ấy năm dòng thác vẫn không ngừng hờn dỗi những người đi qua nó. Nguyễn Tuân nghe lấy tiếng gọi tinh thần giữ chọn từng cảm xúc trong người, những tiếng lòng khẽ rung, rồi con Sông Đà ấy lại rống lên nhg tiếng như muốn lấy lại sự chú ý của mình : "thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa đang đổ lửa, đang phá tuôn rừng lửa, rừng lữa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng", tiếng rống oai hùng cả một vùng trời như cách mà quang dũng đã từng nói trong vùng trời tây tiến "chiều chiều oai linh thác gầm thét, đêm đêm mường hịch cọp trêu ngươi" tiếng rống không kể ngày đêm, nó muốn cho người ta biết rằng nó không đê bắt nạt, và Nguyễn Tuân đã dựng hình tựa như một bộ phim chiến trinh khung cảnh hỗn độn đến vô ngần, từ những tiếng thét trâu mộng một rừng trời rực lữa, tre nứa rừng vầu đg ko ngừng là những phép vận dụng tài tình từ âm thanh hình ảnh cho đến những phép so sánh đầy liên tưởng, Sông Đà ngay quãng sông này đây tựa như một con quái vật  đầy hung bạo, không ngán chừng bất cứ một ai, sự hung hãng lẫn đầy táo bạo cũng đã được Bằng Việt miêu tả:
"con khủng long vương dài hai trăm mét cây số dốc
quật nát những rừng già khoét lõm những hang sâu"
tựa như với kẻ thù truyền kiếp,dẫu có đứng từ xa trông thấy bóng con người thì con Sông Đà cũng đã gầm thét, chế nhạo và khiêu khích những bóng hình có ý định tới gần, nhưng qua ánh thơ của Nguyễn Tuân những âm thanh ấy thành những bản giao hưởng của thiên nhiên đầy hào hùng và tráng kiện với nhạc khí hùng hồn gồm những đá, những sông những suối nối tiếp tạo nên một bản tráng ca đầy mãnh liệt cao cả, thể hiện trọn vẹn tính ương ngạnh khó chiều của thiên nhiên Sông Đà.

Ngòi bút cực tả đã khắc họa được những âm thanh góp đoạn thêm hãi hùng, rùng rợn cho bức tranh về một con quái vật to lớn giữa dòng sông, khéo léo gọi từng tiếng kêu trong trang văn, dùng lửa tả nước, dùng rừng tả sông, dùng hình ảnh dựng âm thanh, từ những nét độc đáo đầy ấn tượng thông qua việc khắc họa hình tượng Sông Đà Nguyễn Tuân đã một lần nữa khẳng định ngòi bút của mình trên thi đàn. Những cảnh thiên nhiên tây bắc như được gói gọn với những sóng bọt, đá sông, từng cơn sóng được gió giương cao, rồi ào ào vỡ xuống mặt đá, tạo nên những vết hằn trên phiến đá, thể hiện tình tự lặp đi lặp lại thường xuyên của những cơn sóng, đặc biệt kết hợp "chân trời đá" cùng tính từ "trắng xóa" nối tiếp chất chồng từng lớp lên nhau, khiến cả trên trời dường như cũng ngã một màu trắng xóa thể hiện, Vận dụng lần lược các thuật ngữ quân sự, võ thuật thể thao như thạch trận, cuộc giáp lá cà dàn trận địa, hàng tiền vệ, boong-ke, pháo đài...; một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn, dồn dập: mặt sông rung tít lên...nước thác reo hò... hất hàm...hò la... ùa vào... bẻ gãy...đá trái...thúc gối... đội thuyền... túm thắt lưng... đánh đến miếng đòn độc hiểm nhất...đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm... khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người với thiên nhiên. Sự ác liệt còn được tô đậm thêm bởi những âm thanh mãnh liệt của một trận nước vang trời thanh la não bạt... Có lúc thác đá được động vật hóa để làm tăng thêm sự hung hãn hoang dại trong hình ảnh dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Thậm chí, sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá sông Đà còn được nhà văn đẩy lên đến mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần sông, thần đá. á sông Đà cùng với nước với sóng với gió sông Đà được miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc: Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi ngàn năm mai phục, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để nhổm cả dậy vồ lấy thuyền. LÀm gì có hòn đá nào lại giống nhau, thiên nhiên đã tạo nên chúng bằng những thứ phép nặn, ghép, xẻo, đầy ngẫu nhiên nhưng trong ánh nhìn của Nguyễn Tuân, ông tin đây chính là sự phù phép có chủ đích, bởi chúng lần lượt được phân cao thấp, cấp bậc, có những tướng, có những võ sĩ, có cả những địa bàn để ẩn nấp để giăng bẫy đánh lừa con người dám đi qua chốn đây hác đá sông Đà còn vô cùng xảo quyệt khi dụ chiếc thuyền của đối phương, khi dàn sẵn trận địa sẵn và nhất là khi bày thạch trận mai phục và tấn công con người: Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông; vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử... cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn; còn một trùng vây thứ ba nữa...bên phải, bên trái đều là luồng chết... luồng sống lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác...
Như vậy, bằng sự độc ác và nham hiểm, sông Đà từng bước dồn những người lái đò vào con đường chết. Thực tế, đã có không ít người lái đò phải bỏ mạng nơi đây.

: Ngôn ngữ giàu chất tạo hình, những câu văn dài, những từ ngữ giàu sức biểu cảm. Với kiến thức phong phú, uyên thâm về các lĩnh vực địa lý, lịch sử, thể thao, quân sự, điện ảnh, ..., Nguyễn Tuân đã khắc họa một cách chân thực hình ảnh một con sông Đà hung bạo, kẻ thù số 1 của con người.
    Sông Đà là những trải nghiệm rong ruổi trên con chữ "khi thì trang văn nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng khi thì thánh thót trầm bổng khi thi xô bừa bãi như ném ra trong cơn say chếch choáng, khinh bạc đấy nhưng bao gio cũng tài hoa. Dưới lăng kính thời đại Nguyễn Tuân đã họa lên bức tranh thiên nhiên đầy hùng vĩ, dùng biện pháp nghệ thuật xây dựng một Sông Đà đầy tính người. Khép lại trang văn của tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà" người đọc như nhìn thấy cả một vùng trời hoa mộng, trở thành một dấu ấn đậm nét trên văn đàn, giữ vẹn nguyên những giá trị ban đầu.

Sông Đà TRỮ TÌNH:

thân bài:

cùng với chủ nghĩa xê dịch mà đi lên với Nguyễn Tuân mà nói "không gì thiệt thòi bằng trung thành với một chỗ ở", văn chương Nguyễn Tuân dừng lại ở chữ "ngông" nhưng là một cái ngông đầy tài hoa, uyên bác, một cái ngôn đứng bên lề thời đại mải miết đi tìm lấy vẻ đẹp trong vang bóng một thời cho tới thêm vào trong cái ngông ấy chính là tình yêu thương con người, quê hương đất nước qua tập tùy bút Sông Đà và nổi lên bần bật giữa đời một bản giao hưởng rợp thanh âm cuộc đời "người lái đò Sông Đà" tác phẩm là bản lề nghệ thuật của Nguyễn Tuân, chuyển biến đầy mạnh mẽ từ "nghệ thuật vị nghệ thuật" sáng 'nghệ thuật vị nhân sinh", thiên tùy bút với áng văn riêng đã tự tạo cho thế sự một bức chân dung Sông Đà hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên tây bắc, đưa người đọc đến một chiều không gian khác của quãng thượng nguồn nơi đà giang. Nhà văn đã miêu tả tính cách trữ tình, vẻ đẹp thơ mộng của Sông Đà phía hạ lưu trong chất thơ đầy thì bị, đậm sâu được vận dụng đầy tinh tế.

Thơ chẳng tới trong đời nghệ sĩ nếu chỉ mặc nhiên sống không đoái hoài, vaf câu văn con chữ cũng chẳng thể tự thoát lên nếu phó thác sai người, và văn chương đi cùng hiện thực người nghệ sĩ phải vừa sống vừa viết để đem đến con chữ đời. Nguyễn Tuân cũng vừa nhìn vừa viết, vừa thu hết tất thảy những cảnh sắc hiếm thấy để ngưng thả vào trong trang văn những góc máy điệu nghệ như một nhà đạo diễn tài tình. Con Sông Đà không chỉ độc mỗi vẻ hung bạo mà còn là một nét hùng vĩ đầy thơ mộng, trên góc độ từ trên tàu máy bay "dòng chảy uốn lượn tựa như "cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình" nếu ở thượng nguồn, Sông Đà là thước phim mang rợ sẵn sàng đánh chén những con thuyền không xin phép, con sông như hiện hữu của bài đồng giao "núi cao sông hãy còn dài - năm năm báo oán đời đời đánh ghen" ngồi trên góc nhìn xuống người nghệ sĩ như có như không quen với cảnh đá nơi đây "từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình" một đại dương đã, từng rất hâm dữ, khó tính sẵn sàng nuốt trọn lấy biết bao con người thì khi nhìn từ góc máy này, những góc đá kia tựa như một đại dương lờ lờ thoát ẩn thoắt hiện trong mây trời quang, vừa lãng mạn lại vô cùng nên thơ.

Dòng sông trong mắt của nhà văn là một mỹ nhân với dáng hình yêu kiều, diễm lệ với áng tóc trữ tình mềm mại, duyên dáng "con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình:  điệp ngữ tuôn dài tuôn dài kết hợp cùng biện pháp so sánh, liên tưởng như khắc họa một nét đẹp trong khoảng mờ sương khói đầy lãng mạng. Điệp ngữ "tuôn dài tuôn dài" kết hợp cùng thủ pháp so sánh, liên tưởng đã khắc họa một nét đẹp như họa như thơ "ẩn hiện" trong làn sương khói mờ ảo. Một áng tóc với cách nhìn như họa như thơ tạo nên nét dung dị đầy thi vị kết hợp cùng sự "trữ tình", tạo nên cảm giác nối tiếp, dài vô cùng tận. Một áng tóc dài ẩn hiện vô cùng kín đáo, vừa phô diễn được nét mềm mại, yêu kiều, tựa như áng tóc người con gái cài hoa lên tóc, thì dòng sông giờ đây điểm xuyết trên mái tóc mình những "hoa ban hoa gạo bung nở và cuồn cuộn mù khói mèo đốt hương xuân". Dòng sông không chỉ có lúc hung bạo mà còn là những nét đẹp trữ tình đầy sống động, trên dòng Sông Đà Giang qua động từ "bung nở". Thiên nhiên hoa cỏ giờ đây chan hòa cùng nhau để tôn vinh lên những sắc màu dòng sông, chính nó đã xúc tác cho cảm xúc con người cho ta nhìn đời bằng ánh mắt dịu dàng thơ mộng ngất trời . Từ "cuồn cuộn" của làn khói theo sau động từ "bừng nở" của hoa ban, hoa gạo lại tạo ra sự tiếp diễn của sức sống tràn đầy nơi thiên nhiên và con người bên dòng chạy của những tháng ngày xây dựng cuộc sống mới. Qua đó ta thấy được Nguyễn Tuân đã cao tay khi kết hợp những từ ngữ đơn giản thành thứ vật mà con người ta có thể đưa tay để lần mò. Chình như dòng văn như từ hồn đúc ra Nguyễn Tuân như có như không gợi cho ta nhớ đến mái tóc "chị hoài" "Một mớ tóc trần quấn rất chắc ấy đổ từng xuống như một trận mưa rào đen nhánh. Rồi mớ tóc mây dài như một sải rưỡi ôm lấy gáy, ấp lấy bả vai. Cái người nào trong suốt một cuộc đời mà không ngắm được một mớ tóc cho tử tế, thì cái thẩm mỹ quan của người ấy còn lung lay lắm" hay phải chăng chính lúc ngăm ngắm nhìn dải tóc ấy mà thẩm mỹ của Nguyễn Tuân như được nhân lên gấp bội để cho một dòng chảy Sông Đà cũng óng ả tựa mái tóc người thương. Cách thức miêu tả của Nguyễn Tuân như thõa nghĩa cho tất thảy những tâm tình, đã khẳng định được vẻ đẹp của Sông Đà làm say mê người nghệ sĩ bỡi vì chính nó vẻ đẹp của  tình yêu quê hương Đất Nước, sau cùng chính là sự gắn bó của con người cùng với thiên nhiên nơi đây. Nhà văn đã thay đổi cái vẻ đẹp "vang bóng một thời" từ những vẻ đẹp cao quý nhưng chỉ cô tịch, lặng lẽ giờ đây chính là những cái đẹp bình dị giữa ánh nắng đời thừa.

       Cùng một ý tưởng, cùng một đề tài những mỗi nhà văn lại có cách viết cho "ngọn cỏ sau nhà cũng thành lạ" (trương công quý) khác nhau, điều ấy mang phần khẳng định cho tay cầm bút, sự sáng tạo cùng tận tâm với con chữ. Chính điều ấy đã khẳng định cho Nguyễn Tuân một trang văn thiên nhiên kiệt xuất, tạo nên thử sức hút độc đáo khi biến con Sông Đà quen thuộc trở "thành lạ" qua những góc nhìn mới mẻ đầy đa dạng của sự chuyển màu theo mua nơi dòng sông. Vẻ đẹp trữ tình của lòng sông tây bắc hiện lên đầy bay bổng lãng mạn: "tôi đã say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà" ánh nhìn say sưa đã bộc bạch trọn vẹn hết những gì trân quý nhất mà nhà văn đã gửi vào cho dòng "độc bắc lưu" . Lòng người quyến luyến nơi bên bờ Sông Đà, những thay đổi dòng sông trong từng quãng, từng cung bậc tính cách. Dòng Sông Đà theo đó mà mang biết bao cảm xúc nỗi niềm mong mỏi của những người lữ khách để rồi khiến nhà văn phải nhìn đầy đắm say. gửi lòng mình vào bốn mùa xuân hạ thu đông dễ bắt trọn từng khoảnh dập diều đầy quyến luyến. Qua từng câu văn, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc. Một vẻ đẹp biến đổi đầy tinh tế theo mùa, khiến lòng người như mang mác nhiều nỗi khắc khoải khác nhau trào dâng và len lỏi trong từng miền xanh yên.

Sắc xuân quấn lấy sông đà, nhuộm thước sông một gam màu xanh ngọc bích xanh tươi, ánh màu ấy hiện lên trong ánh nhìn của một màu nước đẹp đầy dịu dàng. ánh xanh ngọc bích trên thước sông Đà, anh nước trong vắt soi rọi lòng người, thứ song mát màu ngọc ních này trước đây bị thực dân pháp gọi với cái tên coi thường là Sông đen, nhưng giờ đây sắc sông không chỉ xanh một màu ngọc bích mà còn có dòng chảy êm đềm, cùng ánh sáng chan hòa rực rỡ xanh ngọc là màu xanh êm dịu, vừa có màu lại vừa có ánh như có ánh sáng tỏa ra từ bên trong, đẹp đẽ và cao quý. Bằng sự trải qua nhiều thứ vị trên đời, chính Nguyễn Tuân cũng phải công nhận sắc xanh của nước sông Đà về mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo và đẹp như thế, còn các dòng sông khác như sông Lô, sông Gâm mang màu xanh canh hến. Qua đó thể hiện rõ tâm  thế thưởng thức, tôn vinh của Nguyễn Tuân đối với sông Đà.Nêu mặt nước sông Đà lúc chín xuân khiến lòng người mê mẫn, đắm chìm trong màu xanh ngọc bích thì mùa thu của mặt nước sông Đà khiến người ta cảm nhận những sức mạnh tiềm tàn đang ẩn chứa dưới mặt sông, hỡi Sông đà lúc vào thu tựa như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về, cái sắc đỏ không chỉ được cảm nhận ở phương diện thị giác mà còn là ở tâm trạng mà chỉ những tâm hồn đa sâu đa cảm mới hiểu được
Qua hai thư mùa trong năm Nguyễn Tuân như đưa ra bằng chứng đầy đanh thép phản pháo lại cái tên Sông đen mà thực dân Pháp đã gọi con sông đà.à ngay cả khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng trữ tình của dòng sông, hình ảnh về một sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm nhận của một nhà văn luôn say mê những cảm giác mạnh.

Hiểu được nhân sinh vốn lắm đổi thay, và nghệ thuật cùng đời sống luôn song hành chẳng tách rời, nên Nguyễn Tuân chẳng bao giờ gò mình lại trong chiếc ao tù của chính mình mà luôn cố gắng đi xa để tìm, để kiểm những thứ mới, thứ đẹp góp vào hồn văn. Nguyễn Tuân với cuộc hành trình với con chữ, nhưng một cánh buồm to bự, đầy đam mê nhiệt huyết trước một đại hải trình. Qua góc nhìn từ bờ bãi Sông Đà con người ta như được hòa mình vào thứ gì ấy đẹp đẻ chân thành mang tên "cố nhân", một tiếng "Sông Đà gợi cảm" cũng đã đủ để dẫn dắt người đọc đến những khoảng không gian tình nghĩa nhớ thương đầy da diết. Sông Đà ngay khắc này đây khác với cái hung bạo ngay khúc thượng nguồn, hạ nguồn, Sông Đà ngay khúc này đây đằm thắm đầy dịu dàng như một người tri âm tri kỷ làm khơi gợi những nỗi nhớ mãnh liệt trong suốt những tháng ngày xa cách, đã tuôn trào đầy mạnh mẽ.

Một đà giang vươn đầy những lãng mạng của sắc nắng trên Sông Đà. Người trôi thuyền thấy dòng sông trước mắt tựa như qua một loáng chói mắt "như trẻ con chiếu gương vào mắt mình rồi chạy". Từ láy "loang loáng" đã gợi hình những tia nắng ấm áp. Chính sự lấp ló thoáng qua đã chói rọi nơi tâm thức nhà thơ hiện lên vẻ bồn chồn khi lâu lắm mới gặp lại người bạn quen. Trong ánh sáng lóe lên vài khắc, sắc nước Sông Đà đẹp dịu dàng thi vị, đẹp trong sáng hồn nhiên. khơi gợi trong nhà văn một hình ảnh thơ đường thi " yên hoa tam nguyệt há dương châu" Nguyễn Tuân đã phủ áo bào lên câu chữ cho chính dòng sông vẻ cổ kính cùng với sự rực rỡ của sắc xuân qua trường liên tưởng đến câu thơ "thiên cổ lệ cú" của đại thi hào lý bạch. Tựa như lạc vào vườn bích thủy bình yên. Đà giang, dường như không chỉ chảy trong không gian mà còn chảy trong cả dòng thời gian bất tận, đằng đẵng, kéo về một thời Đường xa xăm, phồn thịnh. Dưới ngòi bút như của một danh họa thời cổ, Nguyễn Tuân đã vẽ nên những gam màu cho những tháng ngày ấy thêm nét lung linh, huyền ảo, thêm sự ấm áp sinh động tất cả tạo nên một đà giang hùng vĩ.

Vẻ đẹp của bờ bãi Sông Đà lại gợi đến thế giới thần tiên trong khu vườn cổ tích. Từng "bờ Sông Đà , bãi Sông Đà. chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà" quyện nên từng khung cảnh, từng chút tải vào tâm trí người lữ khách vẻ đẹp của đà giang được miêu tả bằng nhiều từ ngữ nối tiếp, rợn ngợp trong câu thơ chính là những từ ngữ khoe trọn sắc xuân rợn ngợp của mảnh đất linh hồn này. Điệp ngữ "Sông Đà" được lặp lại cuối mỗi câu  như tô lên phần phấn khởi reo vui cùng người lữ khách qua khoảng,  lòng phấn khởi trước cảnh chuồn chuồn bươm bướm nhẹ bẫng, du dương. Ta nhớ cảm giác những cánh én chao lượn trong khoảng chiều tà, nhớ tiếng sẻ con ríu rít trên những cành cây mỗi khi trở về quê hương. Lòng người cũng rợn  ngợp những thanh âm ấy, nhà văn đã thể hiện những vui sướng, hạnh phúc trong cả những khoảnh khắc gặp lại người bạn cũ- Sông Đà. "chao ôi, trông con sông, vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Hình ảnh ẩn dụ "nắng giòn tan" gợi lên trong đáy mắt người ngắm nhìn những cơn nắng trong tháng ba nhẹ trong veo cháy bỏng cả một bầu trời. Tính từ "gion tan" chảy tràn, mở ra một đoạn trường âm thanh rộn ràng tươi mới trong cảnh vật. Với thủ pháp so sánh liên tưởng, nhà văn đã ví niềm vui "như nối lại chiêm bao đứt quãng". một giấc chiêm bao về sự hòa hợp, đợi chờ lặng lẽ của thiên nhiên và con người. Nhà văn đã cảm nhận tình cảm gắn bó của mình với đà giang, cái chất "đằm đằm ấm ấm" thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian "ở rừng đi núi đã hơi lâu", Sông Đà dẫu có lúc "lắm bệnh lắm chứng" nhưng trong chốc lại dịu dàng, chốc lại hung bạo, gắt gỏng, nhưng đối với Nguyễn Tuân, dòng chảy vẫn tựa như một "cố nhân"  tri kỷ, nặng nghĩa, nặng tình, luôn thủy chung đợi chờ nhà văn trở lại, luôn để lại trong lòng thi nhân những rung cảm đầy bồi hồi, để lại trong miền ký ức những đầm ấm biết bao nhớ thương trong hiện tại, và biết bao mong đợi trong tương lai.

văn chương bao giờ cũng là những thanh âm cuộc đời, là những tiếng vang vọng của biết bao rung cảm trên trần thế, và trong trang tùy bút của Nguyễn Tuân chính là những rung cảm trần thế từ miền quá khứ hoang sơ còn vọng lại. Câu văn "thuyền tôi trôi trên Sông Đà" toàn vần bằng phủ trong nó chính là cảm giác yên ả, thanh bình. Điệp âm "t" đã tạo nên sự cộng hưởng đầy tinh tế, tạo cho khúc văn thêm tính tráng ca, như một khúc ngân dài rót vào tai người thưởng thức những mật ngọt cuộc đời, chầm chậm trôi trên chiếc thuyền ngắm nhìn cảnh ven sông lặng tơ", hệt như một thời lí trần, khoảng sông cũng lặng tờ như thế. "lặng tờ" là im lặng tuyệt đối, vắng vẻ tới mức tính không một bóng người. Xưa kia Hồ Xuân Hương viết câu thơ: "trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ" cũng để mô tả khung cảnh tiêu sơ, tĩnh lặng nhưng thấm thía nỗi đau chơi vơi. "lặng tờ" trong trang văn của Nguyễn Tuân mang đậm không khí trang nghiêm cổ kính, thiêng liêng trang trọng ẩn chứa đằng sau những trạng thái bình tâm lẳng lặng ngắm cảnh vật qua cái nhìn của người lữ khách

trong quan hệ với con người, sông Đà là một người bạn tri âm tri kỉ, là nơi chia sẻ mọi buồn vui, nó mang đến cho người đọc những cảm xúc vừa chân thành, vừa mãnh liệt, vừa hết sức nhân văn, đó là tính trữ tình toát lên từ tâm hồn, tính cách của dòng sông nơi hạ nguồn.

Ở điểm nhìn cận cảnh, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp tĩnh mịch, hoang sơ qua cảm thức hoài cổ về thế giới thần tiên cổ tích: "bờ sông hoang hoải như một bờ tiền sử. bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa" bờ tiền sử và nỗi niềm cổ tích là hai cụm danh từ. "tiền sử" gợi lên khoảng cách xa xưa nhất của lịch sử, thời kỳ chưa đc sử sách ghi chép nhằm nhấn mạnh sự hoang sơ tại bờ sông nơi đây. Vẻ hồn nhiên được so sánh tựa như "một nỗi niềm cổ tích" đem đến cho người đọc những hình dung, những liên tưởng. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian gợi mở không gian để thời gian như được thơ mộng hóa, trừu tượng hóa cảnh vật. Nhà văn không dựa vào trực giác để so sánh vẻ đẹp đôi bờ Sông Đà với những hình ảnh hữu hình, cụ thể  mà dùng những liên tưởng, tưởng tượng giàu chất thơ để đem đến những liên hệ tài hoa và mới mẻ. Nghĩ thêm về thời đại xô bồ, nhiều xoáy vần biến chuyển hiện nay. Văn chương một phần mang sứ mệnh cao cả, một phân nuôi dưỡng thần hồn trong con người ta sự "tĩnh" sự tĩnh: "tĩnh lặng" "tĩnh mịch" trong trang văn Nguyễn Tuân cũng từ đó  mới ra những chiều hướng trong sự kết nối, của sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Nhìn chung, văn chương cho chúng ta những khoảng lặng để soi chiếu chính mình như thế, để biết rằng "thế giới cần nâng niu quá đỗi. ta sống trong đời lại thô ráp làm sao"

  Sự êm ái nơi con Sông Đà xuôi dòng cảm quan của tác giả, như mang đến một dòng sông tràn đầy những nhựa sống cuộc đời, đầy tươi mới khi miêu tả về thảm thực phẩm bên bờ sông. Nhìn ngắm "một nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa", thưởng thức bức tranh thiên nhiên "cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp" đầy sức sống, tươi non, mơn mởn, tượng trưng cho sự sinh khởi những điều mới, những sự tươi mới đang dần được hiện lên tạo nên một khúc ca nồng nàn với những ca từ trong veo. Những mầm xanh cựa mình trong nắng mới, mùa cũ ngã về trời đông, vươn mình trở thành hình hài mới của đất nước. Cuộc đối thoại giữa ông khách Sông Đà và con vật "lành" hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi xương" cho thấy vẻ đẹp trữ tình thơ mộng, giả định vừa thực vừa ảo nhưng chính cái mơ hồ ấy góp phần làm nhòe đi thực tại, tạo ấn tượng về thiên nhiên hai bên bờ sông.

Cảnh vật hiện lên trong trang tùy bút của Nguyễn Tuân là những nét riêng đầy sống động, được chạm trổ đầy tinh tế thông qua những đường nét, từ những "con hươu đầy thơ ngộ" đến hình ảnh "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng bạc như rơi thôi" từ âm thanh "một tiếng còi xương" đến "tiếng cá đập nước sông" càng làm nỗi bật lên tiếng hân hoan, niềm vui reo hò trong suốt dọc hành trình đường đi. Nhà văn Nguyễn Tuân đã vận dụng linh hoạt nghệ thuật so sánh kết hợp cùng thủ pháp lấy động tả tĩnh. Tất cả đã gợi lên không gian tĩnh mịch đến độ người ta có thể lắng nghe được những chuyển động khe khẽ như tiếng cá quẫy đuôi dưới mặt nước, một tiếng cá đập nước thôi cũng đủ khiến người ta giật mình, "đuổi mất đàn hươu vụt biển". Trong cái âm thanh ngắn ngủi ấy, đã đem đến những cảm nhận về sức sống tràn đầy trong lòng thiên nhiên Tây Bắc.

Những khung cảnh ven bờ sông, những ngô nương mới nhú, những cỏ  gianh đồi núi đang ra những nõn búp, con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương.. chỉ bằng những hình ảnh nhỏ ấy Nguyễn tuân đã tạo nên nét trữ tình cho dòng sông Chỉ vài chi tiết nhưng đã tạo ra ấn tượng về sự non tơ, mỡ màng, về sự tươi mới và sức sống nội tại trong bản thân mọi sự vật, hiện tượng. Các cảnh vật đã nối tiếp nhau tạo nên bức tranh nên thơ, đẹp đẽ, yên bình., Mượn lời  thơ của Nguyễn quang Bích, tản đà để  tô điểm cho nét trữ tình của dòng sông mà chẳng cần tô vẽ thêm bớt. Tác giả đã ngầm khẳng định, chính vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Phối hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, với việc sử dụng lối hành văn đầy biến hóa độc đáo và giàu sức gợi tả, với việc vận dụng tri thức tổng hợp của những loại hình nghệ thuật khác nhau, sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cao Nguyễn Tuân đã miêu tả, bộc lộ cảm xúc và xây dựng thành công hình tượng dòng sông Đà trong hai sắc thái hung bạo và trữ tình. Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của mình trong những trang viết tài hoa uyên bác của mình khi miêu tả dòng sông. sử dụng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp nhàng, có lúc hối hả, gân guốc, có lúc chậm rãi trữ tình

        Nhìn Sông Đà trong bình diện tương lai, từ tư thế và tâm thế của nhân vật khách, nhà văn thể hiện một tấm lòng nhiệt thành, một cảm giác tĩnh tại, giao cảm hòa hợp cùng với thiên nhiên, tất thảy tựu trung lại trong từng câu từng chữ của nhà thơ. Một tiếng "còi xúp-lê" của tuyến đường sắt phú thọ- yên bái-lai châu. Chi tiết này lại càng nhấn mạnh thêm cho những khát vọng ước mơ vươn lên của vùng tây Bắc xa xôi, vẻ đẹp nơi thác đá Sông Đà đã được  hiện lên, vẻ đẹp đã đi cùng năm tháng trải qua biết bao phiến đá cuộc đời, những cảnh đẹp đối lập cùng bao những cạm bẫy bờ sâu nhưng vẫn ánh lên trong lòng người nghệ sĩ những thứ tình gia diết. Nhìn dòng sông chảy "lững lờ" nhà văn cảm thấy nó như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc". Dòng sông vẫn lững lờ trôi "như đang nghe giọng nói êm êm của người xuôi, và con Sông Đà trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi en thắt mình dây cổ điển". Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa cho thấy một tình yêu thương núi Sông Đà diết, một ánh nhìn đằm thắm nồng hậu, từng chút một đặt Sông Đà lên trang tùy bút một nét đẹp trữ tình, một ánh nhìn thân mật và qua mỗi dặm đường, nhà văn lại càng thấy sự gắn bó của lòng mình với tình yêu nơi thiên nhiên tổ quốc.

TRÙNG VI THẠCH TRẬN


Nguyễn Tuân cẩn trọng từng bước ngắm nhìn từng  hòn đá, giữa khúc "mặt sông trắng xóa" để tải vào lòng người đọc những thước phim sống động làm nổi bật rõ lên những hòn. Tính từ "trắng xóa" đã tô đậm cho kì được sự mênh mông không biết đâu là bờ của sóng thác. Mặt sông dường như chẳng lúc nào chẳng chỗ nào tại khúc sông này yên lặng. Chúng không thôi gào thét cùng bát ngát những đá. Người ta hãi hùng vì sóng thác và còn kinh sợ bởi bãi đá Sông Đà. Lộ ra dưới những con sông kia là choáng ngợp những đá. "Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này". Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, sự giao tranh ấy đặc biệt được Nguyễn Tuân miêu tả bằng những trùng vi thạch trận..

         Ở trùng vi thạch trận đầu tiên Nguyễn Tuân đã đưa người đọc tới những phép nhân hoá tài tính, dựng lên một đội quân hùng dũng nào là từ những đá hòn, đá tảng, đá tiền vệ, đã bày ra những thạch trận với bốn cửa tử một cửa sinh, nhà văn đã dùng điệp để tô đậm cho đội quân đá ngày "mai phục" "nhổm cả dậy" "đứng ngồi nằm tùy theo sở thích" "ăn chết" "canh cửa" "hất hàm" cộng hưởng với những động từ và nhiều tính từ làm bật lên tính hung bạo ngỗ ngược nhăn nhúm méo mó. Ở phía hàng tiền vệ, Nguyễn Tuân miêu tả hai hòn đá đứng hai bên bờ thoạt nhìn như là sơ hở của khúc sông, nhưng nó tựa như những lơ xe kêu gọi những con thuyền tiến tới tuyến giữa. Chính nơi đây ta đã bắt gặp được thứ vũ khí bí mật của trùng vi thạch trận này đây chính là những "sóng nước" nó như một lưỡi hái của tử thần trực tiếp tiêu diệt những con thuyền dám tiến tới trận địa. Nguyễn Tuân đã thu hết đòn đánh của thứ vũ khí tự nhiên này vào mắt và rồi để lên mặt chữ hiện hình các chiêu thức, khi thuyền tiến tới khúc sông này  mặt sông hò vang quanh con thuyền như thể chào đón, nhưng sự thật chúng tựa như  những sinh thể có toan tính tiến lên bẻ gãy những mái chèo trên tay những người lái đò, và rồi khi cướp lấy được vũ khí sinh tồn của người lái đò nó lần lược "đá trái", "thúc gối" vào lần lượt những chỗ nhạy cảm "bụng","hông" của chiếc thuyền, hoặc thậm chí có thể ác liệt hơn khi chúng dội lên thuyền và Nguyễn Tuân coi con sóng ngay lúc này như một sinh thể bám vào thuyền đưa tay " túm lấy thắt lưng ông lái đò" với toan tính lật ngửa người lái đò giữa trận địa, trực tiếp hạ gục đối thủ. Không thứ gì trong trận địa là dịu dàng những luống nước cũng " vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò". Trong trận chiến này, những sóng nước chính là những tuệ binh mà con sông gửi đến để thăm dò người lái đò, chúng chẳng hề nhân nhượng với những "tay mơ" qua khúc sông này, chẳng kể kẻ mới hay người cũ, chúng vẫn ra đòn đầy ác liệt từ những trận đấu đầu tiên. có thể nói Nguyễn Tuân đã mở rộng về ngôn từ cùng kiến thức sâu rộng trên mọi bình diện cuộc sống dường như đều có dấu chân trải của ông, dụng một khối quân sự từ những con chữ, một tần số đậm đặc để cực tả đá nước Sông Đà.

Nối tiếp những trận ải "trùng vi thạch trận" thứ hai, đá nucows Sông Đà tăng thêm phần khó khăn khi tăng thêm nhiều cửa tử "dòng thác hùm beo hộc thế mạch" 'tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và của sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn, dòng thác hùm beo hộc tế mạch trên khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". tại trận địa này. Nếu trùng vi thạch trận đầu tiên con Sông Đà muốn thăm dò người lái đò, thì giờ đây khi đã vượt qua được những tuệ binh "sóng nước" "luồng nước" thì chúng muốn cùng những chiếc thuyền quyết tử tới cùng.  vượt qua từng bọn sóng nước nơi cửa tử vẫn không ngớt những khiêu khích,, Nguyễn Tuân như kể lại khung cảnh khi ấy, bội phục với ý chí "quyết tử" cùng với người lái đò của những hòn đá tại nơi đây qua chi tiết "cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tỉnh vi nhất. Chúng giống như mụ phù thủy luôn tìm cách tiêu diệt con người.Vận dụng thủ pháp nhân hóa ngoại hình của những tảng đá phủ rêu xanh, với Nguyễn Tuân thì giờ khắc này đây những hòn đá, những binh lính tinh nhuệ của Sông Đà bắt đầu dè chừng người lái đò qua "gương mặt xanh lè thất vọng". Việc vận dụng những động từ mạnh liên tục tựa như nhấn mạnh liên tục trên trang văn cộng hưởng cùng những phép nhân hóa giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng sông nước tăng thêm sức mạnh cho Đà giang, đưa người đọc vào những choáng ngợp của con Sông Đà.

     chặng thứ ba những cửa ải được giảm bớt nhưng không vì thế mà bớt đi những nguy hiểm bởi giờ đây bên trái hay bên phải đều là cửa tử, cái luống sông ở chặng ba này lại ở ngay giữa những bộn đá hộ vệ của con thác, tại đây những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Con Sông Đà như một loài thủy quái đầy tinh quái, chúng hung hăng bạo ngược đầy tàn bạo, khi mưu mô bày ra không biết bao nhiêu những thạch trận để gây khó dễ cho những người muốn đi qua chúng, không chỉ mang một tâm địa xấu xa, con Sông Đà còn mang một bộ mặt xấu xí với những hòn đá mặt đứa nào cũng trông "méo mó", "ngỗ ngược", "nhăn nhúm". LÀm gì có hòn đá nào lại giống nhau, thiên nhiên đã tạo nên chúng bằng những thứ phép nặn, ghép, xẻo, đầy ngẫu nhiên nhưng trong ánh nhìn của Nguyễn Tuân, ông tin đây chính là sự phù phép có chủ đích, bởi chúng lần lượt được phân cao thấp, cấp bậc, có những tướng, có những võ sĩ, có cả những địa bàn để ẩn nấp để giăng bẫy đánh lừa con người dám đi qua chốn đây, thách thức như những "anh, chị". Sự hung bạo ngay lúc này đây được Nguyễn Tuân dựng lên đầy rõ ràng, sự vênh váo của chúng như biến hình thành khối. Những sông không phải khúc sông nào cũng hiền từ đón người, nhưng những hiểm khúc ấy chỉ nằm trong cái tĩnh lặng của dòng sông, chỉ đặt riêng ở Nguyễn Tuân một dòng sông với những hiểm ác tự do di chuyển, tự do đánh lừa những kẻ dám bén mảng tới khúc sông.

        Dưới ngòi bút viết ra hoa của mình Nguyễn Tuân đã dựng hình lại một cách rõ ràng vẻ đẹp man dại, sức mạnh, huyền bí của Sông Đà dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Qua đó thể hiện được tim năng to lớn của Sông Đà khi chúng được chinh phục một cách cẩn thận đầy kỹ lưỡng. Nếu Nguyễn Tuân gọi người lái đò là thứ vàng mười đã qua thử lửa thì Sông Đà chính là thứ "Vàng Trắng"  của Đất nước chúng ta, thứ nặng lượng của những khúc sông chảy xiết khiến Nguyễn Tuân nghĩ ngay đến những tuabin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của Sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

Ngày mai chiếc đập lớn nối liền hai khối núi
Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên
Sông Đà gửi ánh sáng đi muôn ngả
Từ công trình thuỷ điện lớn đầu tiên.
Tùy bút người lái đò không là nơi an ủi những suy tư mà tùy bút người lái đò Sông Đà là nơi cho ta thả hồn bay nhảy trên những con chữ, là nơi nương náu cho những kẻ yêu mê cái đẹp, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân. 'ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sang tao.." bằng ngòi bút tinh tế, kiến thức uyên bác, cùng những lối dụng từ đầy táo bạo Nguyễn Tuân đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên sông nước Sông Đà vô cùng độc đáo, Sông Đà trong trang văn Nguyễn Tuân có nhiều hơn cả hai tiếng thiên nhiên , Sông Đà còn là một tác phẩm nghệ thuật vô giá, ta thấy được một Sông Đà hung bạo như một loài thủy quái, con sông ẩm ương như có mối thù ngàn kiếp với con người tựa như câu đồng dao "núi cao sông hãy còn dài-năm năm báo oán đời đời đánh ghen" đến với những tác phẩm Nguyễn Tuân bao lần là từng ấy lần ta được đắm chìm trong vẻ đẹp tựa ánh hoàng hôn cuối trời, hay ánh bình minh ban mai, từng ấy thứ chảy trong tùy bút của Nguyễn Tuân tạo nên thứ xúc cảm đáng quý qua đó cũng nhìn nhận ra ánh mắt nâng niu, trân trọng của Nguyễn Tuân dành cho đất nước, cho thiên nhiên quê hương, một tiếng lòng thanh khiết, một tâm hồn thanh cao:
'mạch nước Sông Đà tim róc rách
ngàn mây non Tản mắt lơ mơ"

    Sông Đà là những trải nghiệm rong ruổi trên con chữ "khi thì trang văn nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng khi thì thánh thót trầm bổng khi thi xô bừa bãi như ném ra trong cơn say chếch choáng, khinh bạc đấy nhưng bao gio cũng tài hoa. Dưới lăng kính thời đại Nguyễn Tuân đã họa lên bức tranh thiên nhiên đầy hùng vĩ, dùng biện pháp nghệ thuật xây dựng một Sông Đà đầy tính người. Khép lại trang văn của tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà" người đọc như nhìn thấy cả một vùng trời hoa mộng, trở thành một dấu ấn đậm nét trên văn đàn, giữ vẹn nguyên những giá trị ban đầu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ggfc