Thanh cung mười ba triều (bản dịch, full) 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 60

RA ĐI CHẲNG HẸN NGÀY VỀ

Chủ nhân họ Lương thấy ông khách quý của mình một thân cô quạnh buồn bã, bèn vắt óc nghĩ cách giải buồn cho khách. Số là ở Quảng Châu vào đầu tháng giêng thường có những thuyền hoa nhởn nhơ trên sông Châu Giang, vui nhộn hết chỗ nói. Trai thanh gái lịch phô quần diện áo, khoe phấn đua hương, nườm nượp suốt ngày đêm. Tiếng tơ đồng nỉ non thánh thót, tiếng sáo thổi vi vu như đưa hồi vào cõi mộng, không lúc nào ngừng. Trong đám nhà trò con hát cũng có nhiều ả xinh, Lương bèn gọi tới hầu hạ ông khách quý trong chiếc ghe tứ động.

Chiếc ghe tứ động được trang trí hết sức lịch sự, trang nhã có khoang trong kết hoa tươi thắm, cửa sổ treo đèn đỏ rực. Ông khách chễm chệ ngồi bên trong. Lương gọi dọn tiệc, rồi viết bức hồng tiên, tuyên triệu hết những danh hoa trong xóm chị em tới. Ông khách quý được suy tôn lên ghế nhất cầm trịch, năm bẩy chục em út quây chung quanh để bồi tiếp, mua vui.

Thôi thì phấn hương, thôi thì oanh yến - chiếc ghe bỗng biến thành một nơi khoe sắc phô thanh xưa nay ít thấy. Ông khách tuy tay hữu ôm, tay tả bế nhưng thực ra chẳng có một cô gái nào được ông để lại mắt xanh. Một lát sau, ông lấy cớ ra ngoài, rồi nhân đó biến luôn vào khoang sau mất dạng.

Không ngờ, nhờ đó, ông mới được nghe tiếng nỉ non than khóc hình như của một người con gái. Ông theo tiếng khóc lần tới, thì ra ở khoang chót tận sau lái có một cô gái đang bị mụ đầu lột truồng như nhộng, đánh tới tấp, nằm lăn trên sàn ván. Chiếc roi trong tay mụ đầu càng vụt càng nhanh, chẳng tiếc thương gì làn da non mịn trên tấm thân như ngọc như ngà, chỉ vài phút sau đã thấy máu bật ra từng vết dài khắp mình. Ông khách nhìn cảnh tượng, động lòng bất nhẫn, thốt lên một tiếng "đáng thương" rồi bước lẹ tới giật lấy chiếc roi của mụ dầu, bế xốc nàng lên, đưa ra khoang trước.

Khoang trước lúc đó đã đầy nghẹt các cô. Ông khách bất chấp, thản nhiên lùa tay vào trong túi lấy khăn tay ra, vừa lau nước mắt cho nàng, vừa hỏi tên họ. Người con gái nằm trong lòng ông vừa thút thít vừa trả lời:

- Tên em là Tiểu Yến. Từ khi cha mẹ bán em vào chiếc thuyền hoa này, thường bị mụ đầu đánh mắng, bảo em lạnh nhạt với khách khiến không đắt hàng.

Ông khách nghe nàng nói, nhìn kỹ gương mặt của nàng, dù đầu bù tóc rối, mặt mũi lọ lem nhưng vẫn xinh đẹp tuyệt trần. Ông liền mở chiếc áo tràng bào đang quàng lấy người nàng ra thì, trời ơi, cả một tấm thân tuyệt đẹp lồ lộ hiện Ta trước mắt khiến ông cầm lòng không được, bèn đưa tay vuốt ve làn da mịn màng, nõn nà còn hằn những vệt roi rớm máu.

Tiểu Yến xấu hổ, vội kéo vạt áo che kín thân mình đôi má hồng lên, nguýt ông khách, thì thào bên tai ông:

- Đừng làm thế, người ta cười chết.

Nhưng, khì nàng quay đầu nhìn một lượt thì chủ nhân họ Lương, và năm bảy chục cô đào kia đã rút lui từ lúc nào, bỏ lại họ một mình, tha hồ trò chuyện.

Thế rồi từ đó, ông khách đâm mê luyến Tiểu Yến, đi cũng có đôi, nằm cũng có đôi, luôn một lèo hơn tháng trời, chẳng thèm ra khỏi cửa khoang ghe nữa.

Lúc này, Tiểu Yến đâu có còn là Tiểu Yến ngày nọ. Nàng tô điểm lộng lẫy, vàng ngọc đầy mình, suốt ngày quấn quýt bên ông khách vô danh, có hành tung, kỳ dị. Đôi trai tài gái sắc ân ái muôn phần đằm thắm. Thường chỉ có ông Lương đến gặp đôi phút, nói đôi ba lời rồi lại đi, chứ tuyệt nhiên chẳng có kẻ nào dám tới quấy phiền họ.

Ngày tháng thoi đưa, chớp mắt đã xuân đi hạ tới. Ông khách quý bỗng bảo muốn trở về Bắc. Hỏi ông về Bắc là về đâu, ông chẳng chịu nói. Ông chỉ dặn dò chủ nhân họ Lương đem ba vạn lạng bạc chia làm ba: một vạn lạng thì tậu một biệt thự rộng rãi đồ sộ bên dòng Châu Giang, trồng cây, ươm hoa thật trang nhã một vạn lạng thì cấp cho người đẹp Tiểu Yến để giúp nàng hoàn lương và lấy tiền chi dụng hằng ngày, còn một vạn lạng thì cấp cho chính ông Lương.

Lúc lâm biệt, chú nhân họ Lương hỏi ngày nào trở lại, ông khách đôi mắt bỗng đỏ hoe và nói bằng một giọng hết sức cảm động.

- Ta đi lần này hành tung vô định. Nếu việc ta làm thành công thì bằng rày sang năm ta trở lại. Quá hạn đó, ta e kiếp này không có dịp gặp bọn ngươi nữa.

Ông nói đoạn quay sang thì thầm với Tiểu Yến:

- Ta với nàng yêu thương nhau đã bao ngày tháng thế mà họ tên ta nàng cũng chưa được biết. Thôi để ta: nói cho nàng nghe. Tên ta là Dân Đê, nếu nàng có nhớ đến ta, thì lúc vắng người, nàng cứ gọi đến tên ta tức là ta đã biết rồi đó.

Tiểu Yến nghe xong, khóc lóc thảm thiết, nhiều lần đến ngất đi. Thế rồi giữa lúc nàng đau khố tới cùng cực, Dân Đê dứt áo ra đi.

Người đẹp Tiểu Yến ở trong biệt thự nhớ nhung chờ đợi đã ba năm mà Dân Đê vẫn mất tăm chẳng thấy trở về. Mãi sau nàng mới đem tên họ của người khách nói cho chủ nhân họ Lương hay, lúc đó mới biết Dân Đê chính là anh em với đương kim hoàng đế. Lương giật mình hoảng sợ, từ đó không bao giờ dám nhắc tới chuyện này nữa.

Về sau Dân Đê, Dân Dĩ, tuy không biết rõ tung tích nơi đâu nhưng vẫn còn đôi ba tin tức có thể truy tìm. Tin tức này phát xuất từ một vị tú tài thanh bạch người phủ Cương Đức tỉnh Hà Nam, họ Trang tên Tuân. Trang Tuân đã có mấy đời tổ phụ giữ trọng nhiệm về giáo dục. Thân phụ là Trang Sĩ Hiếu đậu cử nhân từ lúc còn rất trẻ, chính Trang Tuân cũng đã đỗ tú tài Tuân sớm tối mong mỏi công danh phú quý, một ngày mai bay bổng với đời. Ngờ đâu Tuân chỉ đỗ có một lần tú tài đó rồi thôi. Khi Tuân hai mươi tuổi, cha mẹ lần lượt qui tiên. Tuân vốn là người không biết lo liệu gánh vác gia đình, thành thử miệng ăn núi lở, phong bao lâu cả một sản nghiệp của cha ông để lại đã thấy có bề khó giữ. Tuân quyết tâm lập chí, cố theo đuổi sự nghiệp văn chương, nên tinh thực hiện kế sách "dìm thuyền đập nồi", bán cho kỳ hết mấy mẫu bạc điền, xách gói ra đi. Tuân lên kinh đô, bỏ một số tiền quyên lấy đanh nghĩa giám sinh để vào trường thi múa bút so văn, ai ngờ Tuân thi luôn ba khoa, rớt vẫn hoàn rớt, vẫn lại ông tú xác xơ như xưa. Từ đó, buồn chán nghiệp văn lại thêm túng đói Tuân lưu lạc đến nơi kinh thành, ngày ngày thổi sáo giải buồn ngoài chợ Ngô. May cho Tuân là có ông chủ quán của một khách điếm nọ giúp cho một chỗ ngồi trước cống điếm để bói toán kiếm ăn độ nhật.

Ngoài cửa Địa An môn, khách khứa đi lại đông đảo, quang cảnh vô cùng náo nhiệt. Đây cũng là nơi bọn thái giám trong cung nội lai vãng hằng ngày. Bọn này vốn có tính mê tín. Bởi thế cứ mỗi khi có chuyện gì khó xử, lo lắng là lại tới hỏi Trang Tuân. Điểm đặc biệt là trong đám thái giám, người phủ Chương Đức tỉnh Hà Nam chiếm một phần lớn. Do đó, Tuân chơi thân với bọn này, hằng ngày nhắc lại những điều xa xưa nơi quê hương bản quán. Thế rồi không biết từ đâu, một truyền mười, mười truyền trăm, tới tai tên trùm thượng y giám là thái giám Lưu Vĩnh Trung. Trung với Tuân vừa là đồng hương lại vừa là bà con thân thuộc của nhau. Trung nghe bọn đàn em thường nói tới Tuân, bèn nhân lúc rỗi rảnh chạy ra cửa Địa An môn tìm. Từ xa, Trung đã thấy Tuân với chiếc bàn con dùng làm nới bói toán, kê cạnh cổng khách điếm.

Trung bước nhanh tới, gọi lớn:

- Tuân đại ca!

Tuân nghe có người gọi mình vội ngước đầu lên nhìn, thấy Trung hơi quen quen nhưng vì lâu năm không gặp nên nhất thời không nhận nổi. Tuân ngờ ngợ một lát rồi mới sực nhớ, vội cười nói:

- Túc hạ có phải Lưu nhị ca của Lưu gia trang ta không?

Lưu thái giám gật đầu, cười khà khà, ra chiều mừng rỡ.

Trang Tuân vội dọn dẹp đồ lề rồi dắt tay Trung kéo vào quán hàn huyên. Trung khoe với Tuân mình được làm tồng quản thượng y giám, ngày ngày được gặp mặt thái tử và được thái tử tin dùng. Trung còn khoe trong cung hoa lệ ra sao, đồng bọn đông đảo như thế nào, xoay tiền kiếm lợi đủ cách ra sao, khiến Tuân nghe mà đầy thèm khát.

Qua ngày hôm sau, tổng quản thái giám Lưu Vĩnh Trung lại mời thầy bói Trang Tuân tới gặp tài Đại bằng lan tửu lẩu.

Nhậu được một lát Tuân hỏi Trung:

- Đồng bọn của nhị ca ở trong cung có bao nhiêu người?

Trung tổng quản bóp trán suy nghĩ một chập rồi nói:

- Ước tính có tới hơn hai ngàn.

Rồi Trung vừa bấm đốt ngón tay, vừa tính vừa kể:

- Tại Càn Thanh cung, có hai viên tổng quản, bốn viên thử lãnh với hai mươi bốn tên thái giám; ba viên thủ lĩnh quét dọn với tám mươi sáu tên quét dọn. Lại Chiêu Nhân điện có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái giám. Tại Hoàng Đức điện có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Mậu Cần điện có một viên thủ lĩnh với chín tên thái giám. Dưới sáu gác chuông đánh hiệu có mười bốn tên thái giám, sáu viên thủ lĩnh chấp sự với sáu mươi sáu tên thái giám. Tại phòng ngự trà có hai viên thủ lĩnh với năm mươi hai tên thái giám; hai viên thủ lĩnh đưa rước vua lên kiệu xuống kiệu với ba mươi bảy tên thái giám. Tại Khôn Minh cung có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám. Tại Đông Noãn điện có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Tây Noãn điện có hai tên thủ lĩnh với chín tên thái giám: Tại Giao Thái điện có hai tên thủ lĩnh với năm tên thái giám. Tại Duyến Chi cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Trường Xuân cung có hai tên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại Vĩnh Thọ cung có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Đức Khôn cung có hai viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại Vĩnh Hoà cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Khải Trường cung có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái giám. Tại Thừa Kiến cung có hai viên thủ lĩnh với mười lăm tên thái giám. Tại Hàm Phúc cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Sư Tú cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại Canh Long cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Cảnh Nhân cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại gần cứa Quang Tả môn có sáu tên thái giám. Tại Ngự thư phòng, có hai viên thù lĩnh với mười tên thái giám. Tại Cổ đông phòng có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Nam thư phòng có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại thư phòng của các hoàng tử có mười lăm tên thái giám. Tại Tây thư phòng có năm tên thái giám. Tại Phiên thư phòng có bốn tên thái giám, tại Kinh sự phòng có một viên thủ lĩnh với hai mươi sáu tên thái giám, sáu tên ngự tiền thái giám, mười hai tên đợc thanh thư thai giám. Tại Càn Thanh cung có hai viên thủ lình với tám tên thái giám. Tại Nhật Tinh môn có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Nguyệt Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Nội Tả môn có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám. Tại Nội Hữu môn có hai viên thủ lĩnh với hai tên thái giám. Tại Cảnh Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám. Tại Long Phúc môn có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Cơ Hoá môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Đoan Tắc môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám. Tại Cần Quang tả môn có bảy tên thái giám. Tại Dưỡng Tâm điện có hai viên thủ lĩnh với hai chục tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo (coi việc quét dọn) với mười hai tên thái giám đã tảo năm tên thái giám tiễn tượng (thợ làm tên) năm tên thái giám án ma, hai thái giám thiết tượng (thợ sắt), hai tên thái giám học thuốc tây, một tên thái giám hoa tượng (thợ vẽ) mười tên thái giám điểu thương. Tại Dưỡng Tâm lộ phòng có ba tên thái giám. Tại phòng khăn áo có một viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại đại điện nuôi chim ưng có hai viên thủ lĩnh với hai mươi bốn tên thái giám. Tại phòng nuôi chó lớn, chó bé có hai viên thủ lĩnh với ba mươi tám tên thái giám. Tại phòng nuôi bổ câu có năm tên thái giám. Tại ngự hoa viên có ba viên thủ lĩnh với năm chục tên thái giám. Tại Bắc Tiêu hoa viên có hai tên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Đại Khung điện có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám. Tại Trung Chính điện có mười bốn tên thái giám. Tại Khâm An điện có hai viên thu lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám. Tại phòng bếp nước có một viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám. Tại phòng củi đuốc có một viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám. Tại phòng lò sưởi có hai viên thủ lĩnh với mười bảy tên thái giám. Tại sở Triệu Tường có hai viên thu lĩnh với mười bốn thái giám. Tại thư phòng có sáu tên thái giám. Tại Ngộ Hỉ sơ có hai viên thủ lĩnh với mười ba tên thái giám Tại sở nội có một viên tổng quản chín viên thu lĩnh với năm mươi ba tên thái giám. Tại Vĩnh An đình, có ba viên thủ lĩnh với hai mươi lăm tên thái giám. Tại Nam phủ tây lộ, có ba viên thú lĩnh với ba mươi tám tên thái giám. Tại Nam phủ trung lộ, có ba viên thu lĩnh với mười lăm tên thái giám. Tại Nam Huân điện có một viên thủ lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám. Tại Ham An cung có hai viên thủ lĩnh với bốn mươi tên thái giám. Tại Phật đường ở Từ Ninh cung có hai viên thủ lãnh với tám tên thái giám; còn có hai viên thủ lĩnh Lạt ma với ba mươi tên thái giám, hai viên thủ lĩnh tụng kinh với mười sáu tên thái giám, hai viên thủ lĩnh giữ cửa với mười hai tên thái giám, hai viên thủ lĩnh hoa viên với bốn tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo với mười hai thái giám đã tảo. Tại Ninh Thọ cung có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám. Tại Dục Khánh cung có bốn viên Diện thượng thủ lĩnh với sáu mươi tên thái giám; còn có một viên thủ lĩnh coi chim ưng với mười lăm tên thái giám; một viên thủ lĩnh gác cổng với mười một tên thái giám; một viên thủ lĩnh phòng chó với ba mươi tên thái giám; hai viên Chấp sự thủ lĩnh, với mười tám tên thái giám; hai viên thủ lĩnh phòng trà với hai mươi hai tên thái giám, năm tên thái giám điểu thương; một viên thủ lĩnh đã tảo với hai mươi tên thái giám, một trăm tên thái giám duệ tiền (trước vua), một trăm thái giám A Ca hạ, lại một trăm lẻ hai tên thái giám A ca hạ, sáu mươi tám tên thái giám A ca hạ, lại tám mươi thái giám A ca hạ nữa. Tại kho đông có sáu thái giám A ca hạ, lại kho tây có bốn tên thái giám A ca hạ…

Lưu tổng quản kể một hơi, thao thao như nước chảy khiến Trang Tuân nghe đến đầu nặng mắt hoa. Đợi cho Trung tạm ngưng Tuân mới lên tiếng nhờ vả.

- Trong cung nội đã dùng tới không biết cơ man nào thái giám như vậy, thì thêm một tiểu đệ có lẽ cũng chẳng nhiều gì. Tiểu đệ cầu mong nhị ca đưa giúp vào cung làm một tên thái giám, để khỏi phải đói rét vất vả như nay ở ngoài đời.

Trung nghe Tuân nói xong, không khỏi vỗ tay xuống bàn đến bốp một cái rồi phá lên cười bảo:

- Cái ông Trang lão gia này quả thật hồ đồ quá sức! Thiến dái đâu có phải chuyện đùa! Lão gia tuổi tác như thế kia e rằng chết thì phí đi. Nếu lão gia muốn làm ăn thì tớ giúp cho việc này: Số là nơi đây, bọn tớ có cái món thầu áo long bào, thường giao dịch thơ từ với bọn hãng dệt Giang Nam. Nếu không ngại cái chuyện phải vào luồn ra cúi thì lão gia hãy nhận làm một tên chạy cờ đi đã rồi ta tính.

Trang Tuân nghe xong, sướng đến mê người, vội ngỏ lời cảm tạ. Từ đó, Tuân trở thành viên thư ký cho Lưu tổng quản.

Phàm những tin riêng đi lại giữa Trung và các quan tỉnh phủ đều do tay Tuân viết giùm. Tuân được Trung chiếu cố nên chẳng bao lâu tình cảnh của Tuân đã mát mặt, khỏi phải lo sinh kế nữa. Tuy nhiên, Tuân vẫn thèm thuồng vì chưa được biết cung điện thế nào, du ngoạn thích thú ra sao, bởi thế Tuân thường nói với Trung nhờ y đưa vào cung chơi một phen cho biết. Lưu tổng quản chẳng khó dễ gì với Tuân, vui lòng ngay, nhưng bảo chờ khi có cơ hội tốt đã.

Sau đó ít hôm, áo long bào của xưởng dệt Giang Nam đã đưa tới. Trung bèn đem mười tám thái giám đến gia môn nội phủ để lĩnh về. Nhờ dịp tốt đó Trung bảo Tuân cải trang thành thái giám, đeo lính bài, trà trộn vào bọn mười tám tên thái giám kia, cũng vác kiện áo long bào, lần lượt đi hàng một tiến qua cửa Càn Thanh mà vào cung. Qua khỏi cửa cung, Tuân thấy tường vách cao nghệu, cung điện nguy nga đồ sộ, sắc ngói vàng xa tít tắp, nào gác hoạ thêu hoa, nào mái cong, cột chạm, bất cứ cái gì cũng làm cho Tuân mắt hoa đầu choáng.

Qua khỏi Càn Thanh môn là đến Càn Thanh cung. Bước vào cung, Tuân thấy về phía đông toà môn lâu treo tấm biển khắc ba chữ Hoàng Dực điện, về phía tây cũng một toà môn lâu treo tấm biển Chiêu Nhận điện về phía bắc là một cổng lớn, mặt đông đề ba chữ Đông thư phòng, mặt tây đề ba chữ Tây thư phòng, bên trong thấp thoáng bóng người mặc triều phục đi lại. Ngoài cổng, bốn, năm tên thái giám đang đợi chờ.

Khi thấy Lưu tổng quản đi tới bọn thái giám tiến lên đón rước, cười cười nói nói. Đoàn người đi quanh về ngả Tây thư phòng. Sau Tây thư phòng có một dãy tịnh thất ở phía bên kia bức tường, trên cao viết mấy chữ Nam thư phòng, bên trong có tiếng người nói chuyện. Đoàn người vác những kiện áo long bào vẫn đi tiếp. Họ rẽ về dãy hành lang phía tây, rồi qua dãy hành lang phía bắc. Nơi đây cũng có mấy căn nhà trên có tấm biển đề mấy chữ Phiên thư phòng. Lưu thái giám đưa đoàn người xuyên qua Nguyệt Động môn đến ba căn phố trệt, bảo một tên đỡ mấy kiện áo trên vai thay cho Tuân rồi dặn Tuân ngồi chờ nơi đây…

Trang Tuân theo lời dặn của Lưu tổng quản, lẻn vào trong căn phố trệt, tựa cửa sổ ngồi xuống, phóng tầm mắt nhìn qua song cửa. Tuân chỉ thấy bọn thái giám tụm năm túm ba kéo nhau qua phía trước cửa sổ, có bọn thì vội vã hấp tấp, có bọn lại đủng đỉnh như không phải lo bận điều gì, miệng thì thào bàn tán với nhau, cũng có kẻ tay cầm những cái hộp nhỏ đi qua đi lại. Tuy vậy, bọn nào cũng chỉ thì thào trò chuyện chứ đố ai dám cười to nói lớn.

Giữa lúc đang nhìn ngắm đến xuất thần, Tuân cảm thấy như có bàn tay ai vỗ nhẹ vào vai mình. Tuân vội quay đầu lại thì ra là Lưu tổng quản. Lưu lúc đó tay không. Tuân biết Lưu đã làm xong mỏi việc. Tuân theo Lưu tồng quản ra khỏi cản nhà trệt rồi qua cửa Nguyệt Hoa môn, đối diện Nguyệt Hoa môn là một một toà đại điện trên đề Mậu Cần điện phía trong có đủ ngai vàng trướng gấm hết sức trang nghiêm. Tuân và Lưu tống quản lại quanh Càn Thanh cung. Đối diện cung cũng có một cung điện lớn, treo màn gấm sặc sỡ trên cỏ tấm biển đề "Khôn Ninh cung". Về phía hành lang mặt đông có một toà đại điện gọi Đông Noãn điện. Về phía hành lang mé tây có một toà đại điện gọi Tây Noãn điện. Thẳng về phía bắc là toà Khâm An điện. Đi vòng qua Khâm An điện thì đến Ngự hoa viên và cửa Thành Võ. Trung và Tuân, một thái giám thực, một thái giám giả, hai người không đi vào cửa này mà lại quanh về phía đông mà ra. Trước hết họ qua Chung Tuý cung, sau đó xuyên qua Tràng Xuân cung. Cảnh Nhân cung, Cảnh Dương cung, Thừa Kiến cung, Diên Hỉ cung rồi trở lại Chiêu Nhân điện như cũ.

Nghỉ một lát, Lưu tổng quản lại đưa Trang Tuân theo Tư Đức điện quanh về ngã Dực Khôn cung, rồi Vĩnh Hoà cung, Hàm Phúc cung, Vĩnh Thọ cung, Khải Tường cung, Sử Tú cung, xem cho kỳ hết mọi cung, mọi điện. Thực là nhà cửa san sát, lâu đài rực rỡ, không thể tả xiết cái cảnh phú quý hoa lệ.

Trang Tuân đi tới đâu, miệng khen lấy khen để tới đó. Nhưng Trung xua tay bảo Tuân im lặng, bởi vì trời lúc này đã quá ngọ, vào giấc nghỉ trưa: Dọc đường hai người ít gặp bọn thái giám và cung nữ.

Khi xem xong khắp nơi trong cung nội, Trung và Tuân bước qua cửa Thần Vô tới Ngự Hoa viên. Trong vườn, đình, đài thấp thoáng hoa cỏ tốt tươi, tiếng chim hót líu lo vang lên bên tai càng làm cho du khách thêm phần thú vị. Nơi đây năm bước một lầu, mười bước một gác, quả đúng như thế thật!

Giữa lúc hai người đang đi sâu vào nơi muôn tía nghìn hồng thì bỗng phía sau, một tên tiểu thái giám vừa chạy theo vừa gọi Lưu tống quản:

- Trương tổng quản có câu chuyện muốn nói với lão gia đấy?

Lưu tổng quản nghe đoạn vội dừng bước rồi vừa chỉ tay vừa bảo Trang Tuân:

- Lão gia cứ đi về phía trước, xuyên qua khóm cây kia, tới một toà đại sảnh quay mặt ra cả bốn phía, ngồi đợi một lát. Tại hạ đi chắc không lâu sẽ trở lại ngay.

Nói đoạn Trung quay đi. Tuân thong thả bước ra khỏi những lùm hoa, quả nhiên thấy một toà đại sảnh bốn mặt đều có cửa, có bao lơn bao quanh và có đặt rất nhiều chậu cảnh, bồn hoa. Bước vào đại sảnh Tuân thấy trên vách tường bốn mặt đều vẽ phong cảnh rất u nhã, chen lẫn những bài thơ, chữ viết đẹp như cắt. Tuân vốn người đọc sách, hễ thấy chữ, thấy thơ là thích, là quý, bèn gắn mũi vào tường, đọc hết bài thơ này đến bài phú nọ.

Giữa lúc mê mải đọc, Tuân bỗng nghe có tiếng quát từ xa vọng lại, Tuân giật mình, ngẩng mặt lên nhìn qua ngách cửa sổ, thấy máy tên nội giám đang khiêng một cỗ noãn kiệu đi tới trong kiệu là một người đàn ông có vẻ oai võ đáng sợ. Tuân nghi là hoàng thượng giá tới, hoảng hồn bạt vía, cảm thấy đôi chân bỗng mềm ra như bún, muốn run mà run không nổi, muốn bước để trốn mà bước không xong. Nhưng rồi thấy giữa sảnh có một chiếc sập lớn, Tuân gắng hết bình sinh lết vào dưới gầm sập, để tai hướng ra ngoài nghe ngóng.

Một loạt tiếng giầy lộp cộp bước từ ngoài vào. Rồi một người leo lên ngồi trên sập. Trong sảnh lặng lẽ như tờ, ngoài những tiếng sột soạt của bộ quần áo mới chạm va vào nhau. Một phút im lặng đi qua…

Tuân bỗng nghe người ngồi trên sập cất tiếng nói:

- Đem bọn chúng lên đây cho ta.

Tiếng nói của người này hết sức lớn, có một âm hưởng dữ tợn. Tiếp đó, có vài ba người khác xuất hiện. Rồi những tiếng xích sắt rổn rảng vang trên nền nhà. Ba người vừa mới xuất hiện, bị bắt quỳ trên nền gạch. Trong đó có một người tỏ vẻ quật cường hết sức, mặc cho bọn thị vệ tả hữu quát bảo y quỳ xuống mà y vẫn không chịu. Đã thế y lại còn lớn tiếng quát rầm lên:

- Dân Trinh! Mi là một đứa lòng lang dạ sói, vô cùng hiểm độc! Ta với mi vốn anh em cốt nhục chứ chẳng xa lạ gì! Mi cưỡng chiếm ngai vàng làm hoàng đế, việc đó ta chẳng thèm nói tới làm chi. Vậy mà đến tính mạng bọn ta, mi cũng chẳng chịu dung tha, nhất định mưu hại cho kỳ được. Ta hỏi mi, chứ hai vị ca ca Dân Dị, Dân Đường tội gì mà mi bắt gọi là chó là heo? Đã thế mi lại còn giam cầm tù đầy họ, còn ta, tên Dân Đê này, từ lúc phụ hoàng còn tại thế ta đã từng nắm binh mã nam chinh bắc phạt, lập biết bao công lao cho triều đình, nay không luận công hành thưởng chăng nữa, cũng không đến nỗi phải tù đầy giam câm như một tên tử tội. Ta nói để mi biết cái ngai hoàng đế mi đang ngự chính là của ta chứ đâu phải của mi. Mi mãi thông với quốc cữu Long Khoa Đa lẻn đến sửa chiếu chỉ, đổi câu: "truyền vị thập tứ hoàng" ra "truyền vị vu tứ hoàng tử" để cướp ngôi báu của ta. Mi tưởng những hành động gian lận xảo trá đó dễ không ai biết chăng? Hừ! Hừ! Dân Trinh! Mi rồi đây chết khó toàn thây đó.

Người, ngồi trên sập bị kẻ kia chửi bới một phen quá xá, bất giác máu hoả bốc lên, ra lệnh:

- Bất tất nói nhiều! Bay đâu! Đem hoá chúng thành tro ngay cho ta!

Bọn thị vệ tả hữu dạ ran, vâng lệnh. Tuân ghé mắt, thấy một vật gì như cái chiếu trải trên mặt đất, được cuộn lại mở ra mấy lần trong chốc lát rồi chỉ nghe bọn thị vệ báo cáo rằng ba thân vương đều đã hoá thành tro cả. Người ngồi trên sập cười nhạt mấy tiếng, đứng dậy. Mấy tiếng quát ồm ồm nổi lên như khi tới, tức thì bọn nội giám lại ghé vai khiêng chiếc kiệu thoăn thoát bước đi, nhẹ nhàng thanh thản như không có chuyện gì xảy ra.

Trang Tuân nằm dưới gầm sập, thấy cái cảnh khủng khiếp quá đến nôi y đâm ra như ngớ ngẩn. Mãi tới khi Lưu tổng quản quay về nơi đại sảnh, tìm thấy y dưới gầm sập kéo ra, thấy y ngây ngây ngốc ngốc, miệng cứ lập bập nói mãi câu "Làm tôi sợ đến chết, đến chết mất" thì chẳng hiểu ra sao cả, Lưu tổng quản vội đưa Tuân về khách điếm, miệng y vẫn cứ lảm nhảm không thôi: "Làm tôi sợ đến chết mất".

Từ đó, Tuân đâm ra điên thật, hễ gặp ai là y nói câu "Làm tôi sợ đến chết mất".

Lưu tổng quản tới thăm Tuân đôi ba lần, cho mời cả danh sư tới bắt mạch hốt thuốc cho Tuân. Nhưng thuốc đổ vào miệng Tuân chỉ như nước đố vào lỗ cống, thoáng cái đã tiêu đi đi mất mà bệnh vẫn hoàn bệnh. Lưu tổng quản đành chịu chẳng biết làm cách nào hơnl, chỉ còn biết nhờ người đưa y về quê dưỡng bệnh. Thương thay cho Tuân, điên luôn một lèo mười lăm lăm trời, đến khi Ung Chính hoàng đế đã chết, Tuân mới dám đem câu chuyện khủng khiếp trên nói ra cho người ngoài biết.

Chỉ vì Khang Hi hoàng đế có dạ khoan hồng nên Ung Chính mới sinh lòng độc, lại còn hành xử quá đáng đối với các hoàng tử cùng bà con thân thuộc như vậy. Thủ hạ của Chính đã đông, tai mắt lại lắm. Chính ngài cũng thường cải trang thành kiếm khách, vi hành ra ngoài điều tra. Dù cho ai ngồi trong phòng kín đến đâu chỉ cần có nửa câu phỉ báng hoàng đế, tức thì cái sọ của người đó lập tức bay mất. Từ khi Ung Chính hoàng đế thu được, cái gọi là Huyền trích tử rồi lại được vị quốc sư truyền thụ Chú ngũ Lạt Ma thì ngài muốn giết ai là được ngay. Ngài chẳng cần động thủ mà chỉ cần niệm câu thần chú, tức thì Huyết trích tử đi lấy ngay đầu người ấy đem về cho ngài.

Cần nói thêm về cái gọi là Huyết trích tử. Đấy là một trái cầu tròn làm bằng thép luyện, bên trong gài hơn mười lưỡi dao bén nhọn như hình cánh chim, mỗi khi cơ quan hoạt động tức thì những lưỡi dao đó xoay tròn như vành bánh xe, xoay tít. Câu thần chú niệm vừa xong, chiếc thiết cầu đó được ma lực điều động, bay vút lên không, tìm tới chỗ người sẽ bị giết, ngoạm cái đầu người đó vào giữa rồi bay về nộp chủ. Giết người không thấy, máu, biến hiện không tung tích quả là một vật hết sức quái đản, xưa nay chưa từng thấy. Ung Chính hoàng đế nhờ cái vật quái dị đó đã bí mật giết chết bao nhiêu người không, tính xuể

Nói đến tài, trinh thám của ngài thì không một ai là không bội phục. Vào năm Ung Chính thứ sáu, đúng ngày rằm tháng một, các nha môn lớn nhỏ trong kinh thành thảy đều an nhàn vô sự Quan lại lớn bé ai cũng đều về nhà uống chén rượu đoàn viên với gia đình và vui hưởng ngày lễ Nguyên tiêu. Nha môn của nội các vốn không có cư xá cho các quan viên, nên chỉ còn lại có hơn bốn mươi người, cả thầy cả tớ, lo giải quyết công văn qua lại. Tối hôm đó, ngay cả bọn nhân viên này cũng chuồn đi đâu hết, duy chỉ có một người họ Lam ở lại để lo liệu việc đèn nhang. Gia đình họ Lam ở xa, mãi tận miền Phù Dương tỉnh Triết Giang. Lam ngồi một mình buồn, lại thêm trăng sáng vằng vặc trên không nên đối cảnh sinh tình, động lòng nhớ tới quê hương. Để giải buồn, ông đi mua ba can rượu Thiệu Hưng, thái một mâm thịt bò để ngay giữa đại sảnh, vừa ngắm trăng vừa nâng chén. Rượu đã chếnh choáng, nghĩ tới tình cảnh lìa xa gia đình đã tám năm trời đằng đẵng, công việc trong nha môn nội các thảy đều lo liệu hết sức cẩn thận, thế mà chẳng được thăng quan tiến chức gì, ông thở luôn một lúc đến ba tiếng dài lê thê…

Giữa lúc buồn nản đến cực độ ấy, Lam bỗng thấy một đại hán thân hình cao lớn, vẻ mặt oai nghiêm, mình mặc bộ đồ đen, chân đi một giày đăng khoái. Lam nhận lầm đại hán vừa tới ra người gác tại cổng nha, bèn mời cùng ngồi đánh chén với mình cho vui. Đại hán chẳng khách sáo gì, tiếp lấy ly rượu Lam mời, nốc một hơi cạn sạch. Xong đại hán nọ cất tiếng hỏi tên, phẩm hàm chức tước của Lam. Ông Lam liền cười bảo:

- Nói làm gì đến quan chức! Đệ chỉ là một tên cung sư hạng bét nơi đây thôi!

Đại hán nọ lại hỏi giữ việc gì thì Lam đáp:

- Chuyên thu phát công văn giấy tờ.

Đại hán nọ lại hỏi bọn đồng sự có bao nhiêu thì Lam đáp:

- Có bốn mươi sáu người.

Đại hán nọ hỏi thêm cả bọn bỏ đi đâu hết thì Lam đáp:

- Họ đi xem hội, tìm vui hết ráo rồi!

Đại hán nọ lại hỏi tại sao không đi chơi với họ thì Lam nghiêm mặt đáp:

- Đương kim hoàng thượng đối với công vụ rất nghiêm khẩn. Nếu cả bọn đí cả, vạn nhất có chuyện gì, thử hỏi ai gánh chịu trách nhiệm?

Đại hán nọ nghe câu nói này xong thốt lên lời khen, rồi uống tiếp ly rượu nữa, lại hỏi:

- Người ở đay đã bao năm rồi?

Lam đáp;

- Đã tám năm.

Đại hán nọ lại hỏi: "Lương lậu bao nhiêu?" thì Lam cười buồn:

- Hai trăm lạng mỗi năm.

Đại hán nọ hỏi có muốn làm quan không, Lam đáp với giọng chán nản:

- Sao lại không muốn? Đệ chỉ nghĩ mình không có phúc phận nên đành để ngoài tai việc đó đấy thôi?

Đại hán nọ hỏi muốn làm quan gì thì Lam bỗng vén tay áo, vỗ phịch một cái xuống bàn, nói:

- Quan lớn thì đệ chẳng màng chi. Đệ chỉ mong được làm chức quan thuế bến sông tinh Quảng Đông.

Đại hán nọ hỏi chức quan thuế có lợi gì thì Lam giải thích.

- Làm quan thuế, chỉ cần nói riêng về bổng lộc, mỗi năm đã có tới năm trăm lạng bạc rồi. Bọn thuyền buôn xuất khẩu kính biếu hằng ngày nữa, lợi ấy cũng không nhỏ đâu.

Đại hán nọ nghe xong biết vậy, chẳng hỏi gì thêm, đứng dậy từ giã ra đi.

Thế rồi qua ngày hôm sau, một đạo thánh chỉ hạ xuống điều động Lam Lập Trung, một viên chức nhỏ bé, tới giữ chức quan thuế tại bến sông tỉnh Quảng Đông. Khắp triều văn võ ai cũng phải ngạc nhiên về việc điều động một nhân viên hạng chót mà phải hoàng thượng đặc giáng thánh chỉ như vậy. Thực ra việc này chỉ riêng có Lam Lập Trung là biết được mà thôi.

Chuyện đáng cười nhất là sau khi Trung được đi nhận chức mới thì không biết bao nhiều kẻ tới xun xoe lấy lòng Trung.

Hồi đó, có một vị đại thần tên gọi Vương Vân Cẩm vốn là tân khoa trạng nguyên. Ung Chính hoàng đế rất trọng Vương, bởi vậy văn võ khắp triều ai nấy đều lon ton chạy tới xu phụng ông. Cứ mỗi ngày bài chầu trở về, ông lại thấy xe ngựa đứng nghẹt cả cổng. Vương trạng nguyên chẳng ham thích gì, duy chỉ khoái có trò đánh bài lá. Những lúc rỗi rảnh, ông tổ chức ngay tại nhà một vài cuộc đỏ đen với đôi ba người bạn đồng liêu chẳng phải để ăn thua mà là để giải trí. Có một bận, bài. Ông ù lớn. Ông bày lên bàn để tính tiền. Bỗng một trận gió ào tới, quét tất cả phần bài của ông xuống đất. Mọi người vội tụt xuống đất lượm bài lên nhưng khi xét thì thiếu mất một cây bài. Vương trạng nguyên biết vậy, chẳng cần kiếm, cho người nhà lấy một cây bài khác thế vào, lại đánh tiếp.

Qua ngày hôm sau, trạng nguyên Vương Vận Cẩm vào chầu, Ung Chính hoàng đế hỏi ông tối qua ở nhà có thú gì tiêu khiển không thì Vương trạng nguyên cũng nói thực là chơi bài. Ung Chính nghe xong cười khà khà nói:

- Vương Vân Cẩm thực chẳng nói dối trẫm.

Sau đó lại hỏi thêm:

- Trẫm nghe nói nhà ngươi ăn một ván bài khá lớn nhưng bị gió quét đi mất một cây bài, nhà ngươi hình như bực mình lắm. Thế hôm nay đã tìm thấy chưa?

Vương Vân Cẩm nghe đoạn sợ quá, chỉ còn cách dập đầu tâu:

- Tâu thánh thượng Thánh thiên tử xét rõ muôn dặm. Cây bài bị gió quét đi nay thần vẫn chưa tìm ra.

Ung Chính hoàng đế lúc đó thò tay cầm lấy cây bài đặt lên long án từ lúc nào, giơ lên nói:

- Vương Vân Cẩm! Nhà ngươi xem có phải cây bài này không?

Vương nhìn xem thì đúng là cây bài mất hôm qua, vội đập đầu tâu "phải".

Ung Chính hoàng đế nói tiếp:

- Trẫm đã tìm giùm cho nhà ngươi rồi. Vậy nên về nhà ngay mà chơi tiếp đi.

Nói đoạn ngài đứng dậy lui trào.

Từ khi xảy ra chuyện này, văn võ khắp triều anh nào anh nấy sợ Ung Chính hoàng đế một phép, cho tiền cũng chẳng giám thì thào bàn tán lấy một nửa lời về triều chính. Và cũng từ đó, Ung Chính hoàng đế mới được gối cao ngủ kỹ, khỏi lo chuyện âm mưu này nọ. Hằng ngày, ngài ở miết trong cung vua, nô đùa với bọn cung tần mỹ nữ.

Hồi này ngài đã đưa con gái của Quý Tả Lãnh lên làm Quý phi. Ngoài ra, ngài còn phong cho bốn cô nữa được ngài sủng ái lúc bình nhật cũng vào chức đó. Tuy nhiên, trong số mấy quý phi này chỉ có nàng họ Quý là được ngài sủng ái nhất, cứ mỗi lần bãi chầu lui cung là ngài lại tìm nàng để trò chuyện vui đùa với nhau. Nàng quý phi họ Quý lại có cái duyên đặc biệt là hễ nheo mày cười lại khiến cho ai cũng phải mê hồn lạc phách, tấm thân của nàng lại tròn trĩnh, mũm mĩm mịn mát như tơ, từ làn da đến thớ thịt, nhất nhất cái gì cũng có thể gây được những khoái cảm mê ly. Thành thử hoàng đế nhà ta chẳng ngày nào quên được nàng, đến nỗi ngài phải tặng nàng biệt hiệu "ôn nhu tiên tử".

Vị Đại Lạt ma Tây Tạng nghe nói nhà vua khoái việc phong lưu chơi bời, liền cho Tiểu Lạt ma mang tới cho ngài một lọ thuốc hoàn Acotô. Acơtô là một loại thuốc kích dục, uống một vài viên thì được chứ nếu uống nhiều vào sẽ phát cuồng. Lúc trước Đại A Kha Dân Nhung sở dĩ phát điên đến chết là chỉ tại uống thuốc này quá nhiều.

Ung Chính hoàng đế từ khi được thuốc này, quả đã trở thành vô địch về khoản mây mưa. Càng sướng, càng khoái, ngài càng biết ơn vị Đại Lạt ma. Cũng chính vị này đã có công lớn trong việc giúp ngài mưu đoạt ngai vàng, bởi vậy ngài tin cậy lắm. Để tạ lại tình tri ngộ, Đại Lạt ma nhà ta truyền thụ cho hoàng đế khá nhiều "bí thuật". Trước đấy, hoàng đế đã sai xây cất một toà cung điện trên núi Tây Sơn trong đó có một ngôi miếu Lạt ma. Nhưng đến nay muốn cho tiện việc qua lại sớm chiều để vấn kế, ngài truyền lệnh xây cất một toà cung điện khác ở ngày sau hoàng cung.

Phủ Nội vụ phụng mạng hoàng đế ra lệnh tập hợp hết những tay thợ khéo ở kinh đô, một mặt cho nội giám đi về vùng Giang Nam kiếm gỗ. Hoàng đế còn đặc phái một vị Lạt ma sung chức Khâm sai đại thần cùng lo về việc này. Vị Khâm sai này tới Giang Nam, cậy uy thế của hoàng đế, tham nhũng, nhiễu hại quá tệ tới đâu là bắt người ta phải "biếu kính" y tới đó, bắt cả quan địa phương phải kiếm gái cho y. Khi tin đồn ra ngoài, một truyền mười mười truyền trăm, nhiều bà đẹp như mộng, nhiều cô còn nguyên xi, vội vàng đem mình vàng tới tự dâng hiến. Số phụ nữ tình nguyện quá đông đến nỗi vị Lạt ma xài không xuể. Y lại nghĩ cách làm tiền, đặt ra cái lệ là hễ vợ con của các nhà quan mà muốn vào hầu thì phải có lễ đưa vào trước, ít thì một trăm lạng nhiều thì một ngàn lạng. Cả vùng Giang Nam, đàn bà con gái bị tên Lạt ma này làm ô uế chẳng biết bao nhiêu mà kể, y lẩn quẩn ở đây ăn tha hồ chơi, mãi tới năm sau mới về kinh.

Công việc xây cất bắt đầu. Năm sáu trăm tay thợ khéo làm việc liên miên ba năm, toà cung điện Lạt ma mới hoàn tất. Ngày khánh thành chính là ngày vị Đại lạt ma kia thu nạp Ung Chính làm đệ tử và phong cho tước vị "Mạn thù sư lợi Thái Tông hoàng đế". Sau đó vị Đại Lạt ma đưa hoàng đế đi xem điện. Trong điện khắp nơi đắp những pho tượng phật, tượng nào tượng nấy kỳ hình quái trạng đủ kiểu, trông ghê khiếp đến rợn người. Ngay giữa quỉ thần điện, ở phía trong, có đắp một tượng thần ác ma cao hai trượng, mặt chó, đầu mọc hai sừng, tay ôm một nữ thần tuyệt đẹp như ôm con kỹ nữ, còn chân thì đạp lên trên mình một đám gái đẹp, thân thể loã lồ.

Ung Chính hoàng đế thấy vậy, trong lòng khoái thích lắm. Ngài bèn đặt tên cho toà cung điện này là Ung Hoà cung, lấy cái ý Ung Chính hoàng đế qui y Lạt ma giáo. Đồng thời, ngài ra sắc lệnh cho trong cũng như ngoài thành phải xây cất miếu Lạt ma đúng theo kiểu cách ở cung Ung Hoà.

Từ đó, bọn Lạt ma đắc thế tên nào cũng làm quan đâm ra hoành hành bất pháp. Trong kinh thành hồi đó có một câu đồng dao như sau:

Muốn có được chức kinh quan,

Cắt râu, cạo tóc đi làm Lạt ma!

Ung Chính hoàng đế cho rằng ngài đã báo đáp phần nào công lao của vị Đại Lạt ma đã từng giúp ngài cướp đoạt ngai vàng. Ngài cũng không quên công lớn của quốc cữu Long Khoa Đa và Ngạc Nhĩ Thái và cả Trương Đinh Ngọc. Ngài bèn hạ chỉ sai cất một toà lâu đài rộng lớn ở phía bắc phố chợ cho Ngạc Nhĩ Thái, bên trong trưng bày toàn đổ ban thưởng của nhà vua. Chỉ nguyên có một toà phủ để ban thưởng đó, hoàng đế cũng tốn mất tới bốn vạn lạng bạc. Hoàng đế còn phong cho Ngạc Nhĩ Thái làm Văn Đoan công. Mặt khác, ngài cũng phong cho Trương Đinh Ngọc làm Văn Hoà công, lại còn cho làm tể tướng nắm tất cả những việc quân quốc đại sự. Trương Đinh Ngọc nói điều gì hoàng đế không bao giờ không chuẩn y. Khi Ngọc chết, ngài còn đem cả bài vị vào nhà Thái Miếu cúng kiềng. Ân sủng như thế kể đã đến cực điểm.

Ngoài mấy vị kể trên, còn một kẻ được hoàng đế kính trọng ghê gớm nữa. Đó là Miên Canh Nghiêu. Qua năm thứ hai, Nghiêu cùng với Nhạc Chung Kỳ bình định xong Thanh Hải, Tây Tạng, hoàng thượng xuống chỉ phong cho Nghiêu tước Công đệ nhất đẳng, ngay cả đến thân phụ Nghiêu năm đó đã lớn tuổi mà cũng được mang tước đó và còn gia hàm thái phó. Nhạc Chung Kỳ cũng được Phong tước Công đệ tam đẳng. Hoàng đế còn trao chức Thiểm Cam tổng đốc cho Nghiêu, giục ban sư về trước để đáo nhiệm.

Đại tướng Miên Canh Nghiêu tiếp được thánh chỉ, lập tức diễu võ dương oai, ban sư về kinh. Bọn quan huyện, quan châu suốt dọc đường đón rước, ngựa trước ngựa sau, nườm nượp như nước chảy. Đối với đại tướng họ Miên thì bọn này chỉ như bùn, như đất dưới chân, chẳng có nghĩa lý gì hết. Quan viên tại các tỉnh, trấn thì từ hàng tuần phủ trở xuống, võ thì từ tướng quân trở lui, kẻ nào thấy Nghiêu mà chả sợ đến toát mồ hôi.

Chỉ cần một lời nói nhỏ đắc tội khiến đại tướng quân trừng mắt lên là đủ để cho kẻ kia sợ đến mất mật. Tuy nhiên, nói sợ thì sợ thật nhưng lòng họ oán hận không nguôi, kẻ nào cũng chỉ chờ dịp báo thù.

Nghiêu đại tướng có một tên tâm phúc làm chức trung quân quan tên gọi Lục Hổ Thần. Thần thấy đại tướng của mình tác oai tác phúc khó tránh được tai hoạ, nhân lúc vắng vẻ bèn vào thực tâm khuyên can mong Nghiêu dè dặt canh chừng.

Nghiêu lúc đó quá chén, chếnh choáng say, nghe lời Thần bất giác thẹn quá hoá giận, liền vỗ bàn đập ghế mắng:

- Tao đây đã thế hoàng thượng đánh lấy cả giang sơn này ngài thấy tao còn phải sợ huống hồ mi. Mi là cái thá gì mà dám dạy bảo cả tao?

Mắng xong, Nghiêu quát: "Chém!", tức thì đao phủ thủ cháy tới trói Thần lại, đẩy ra ngoài viên môn. May số Thần chưa chết nên gặp được Nhạc Chung Kỳ đang bước vào trướng.

Thần vội hô cứu mạng và nhờ Kỳ nói giùm Nghiêu. Ngày thường quân lệnh của Nghiêu một khi đã ra là đố kẻ nào dám cản, ngoại trừ Kỳ, bởi chi có Kỳ là được Nghiêu kính trọng mà thôi.

Cuối cùng vì nể mặt Kỳ, Nghiêu tha chết cho Thần, quân tiền phong lúc đó đã tới Lư Cầu Kiều, Nghiêu bèn phạt Thần làm tên lính canh gác dưới cầu.

Miên, Nhạc hai vị tướng quân chỉ huy đại đội binh mã tiến thẳng về kinh. Tin báo về tới cung. Ung Chính hoàng đế hạ chỉ cho Miên đại tướng đóng quân lại ngoài thành tạm nghỉ.

Hoàng thượng muốn xuất thành đích thân tới khao quân.

Hồi đó đang vào tháng sáu, trời nắng như thiêu như đốt, Ung Chính hoàng đế cỡi loan xa có tiền hô hậu ủng, xuất thành.

Mặt trời gay gắt trên không. Hoàng đế ngồi trong loan xa, mồ hôi chảy thành giọt đầy mình. Khi ra khỏi thành, ngài bỏ xe lên ngựa. Ánh mặt trời lúc này càng nóng dữ. Tả hữu thị vệ, không một kẻ nào là không toát mồ hôi dầm dề. Chạy một lúc, cả đoàn vào nghỉ trong một khu rừng cây cao lá rậm. Phía dưới bóng cây có vây màn trướng bằng vải đoạn vàng. Chính giữa là chiếc ngai vàng của hoàng đế. Ung Chính hoàng đế xuống ngựa, bước tới toạ ngồi chỉnh chện. Bọn thái giám kẻ cầm quạt thì quạt lẹ, kẻ cầm khăn thì làu vội, kẻ dâng trà mát thì dâng nhanh.

Một lát sau bỗng mọi người nghe quân lệnh vang tới. Ai cũng biết đó là dấu hiệu của Miên đại tướng đã tới. Ung Chính hoàng đế bước ra khỏi trướng, nhảy lên mình ngựa đứng đợi.

Ngài phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy phía trước mặt cờ quạt thành hàng thẳng tắp, đao kích chĩa lên trời tua tủa, toàn thể quân đội đứng im phăng phắc dưới mặt trời nóng bỏng, đến nỗi con ruồi bay cũng nghe tiếng. Quân sĩ mặt đổ mồ hôi tí tách thế mà chẳng kẻ nào dám lau. Đội quân tiền phong tiến tới trước mặt hoàng đế hành lễ rồi tách ra hai bên phải trái để lộ ở chính giữa một cây cờ đại, trên mặt thêu một chữ "Miên" rất lớn.

Rồi, Miên đại tướng quân đầu đội mũ trụ mình mặc áo giáp, cưỡi ngựa đứng dưới ngọn cờ cao nghệu. Về phía hoàng đế thì hai bên, văn từ thượng thư, thị lang, võ từ cửu môn đề đốc trở xuống, đều chiếu theo phẩm trật mặc tiến y mãng bào, kẻ nào kẻ nấy bị nắng thiêu, mồ hôi chảy ra thấm ướt cả mấy lần áo. Miên đại tướng quân cùng Nhạc tướng quân vừa thấy hoàng đế ngự giá tới, vội nhảy xuống ngựa, lom khom quỳ làm đại lễ. Sau đó, nào tổng binh, đề trấn, nào trấn hiệp, đô thống, tất cả, các quan dưới trướng Nghiêu đều lần lượt tiến lên triều kiến.

Hoàng đế truyền lệnh ban yến. Miên đại tướng theo, chân hoàng thượng bước vào trướng chia phận vua tôi ngồi xuống.

Rồi cả bọn vương công đại học sĩ bối lặc, bối tử đều ngồi cả hai bên bồi yến. Cửu môn đề đốc, binh bộ thượng thư củng các võ quan tại kinh đô thì bồi tiếp Nhạc Chung Kỳ và bọn quan viên xuất chinh ở phía ngoài trướng. Ly, tách chạm nhau rổn rảng. Vua tôi vào tiệc, thật là vui vẻ. Trong bữa tiệc, hoàng đế cũng nói tới chuyện giết Dân Dị, Dân Đường. Miên Canh Nghiêu nghe xong, bất giác mình ớn da gà, miệng tuy không nói ra nhưng trong lòng cũng phải ghê khiếp cái tâm địa hiểm độc của nhà vua mà tự nhủ từ nay về sau cũng phải lưu ý đề phòng đôi phần. Hoàng đế lại hỏi tới bọn anh hùng hảo hán xuất chinh ra sao thì Miên đại tướng hồi tấu:

- Thần vâng mật chỉ của hoàng thượng nên khi tới Thanh Hải, Tây Tạng, bắt được vợ con của tướng giặc, thấy đứa nào cũng đẹp bèn đem thưởng hết cho họ làm vợ. Ngay đến em gái của mẹ La Bốc, thần cũng gả luôn cho tên giữ Huyết trích tử nữa. Hiện nay cả bọn đều bị nữ sắc làm mê luyến, tự nguyện ở lại biên ải cho tới già chứ không đòi về kinh sư nữa.

Ung Chính hoàng đế nghe xong cười nói:

- Quốc cữ diệu toán, thật ít người kịp.

Ngài nói tới đây thì tiệc cũng vừa chấm dứt. Miên Canh Nghiêu đứng dậy cáo từ:

- Vị thần vì quân vụ bận thân, chẳng đám ở lâu thêm nữa.

Hoàng đế tỏ thái độ ân cần, đích thân đưa Nghiêu ra ngoài trướng. Ngài ngẩng lên thì thấy toàn thể quân đội đông hàng ngàn vạn vẫn y nguyên giáp trụ, đứng thẳng tắp, im phăng phắc dưới mặt trời như thiêu như đất. Ánh nắng chiếu vào mặt kẻ nào kẻ nấy sạm lại, thế mà chẳng một ai nhúc nhích, cử động. Hoàng đế thấy vậy trong lòng lấy làm bất nhẫn, bèn quay sang bảo nội giám:

- Người truyền dụ xuống bảo chúng hãy cởi bỏ áo giáp ra.

Tên nội giám vội chạy ra, lớn tiếng hô vang:

- Hoàng thượng có chỉ: binh sĩ các người hãy cởi bỏ áo giáp ra!

Chẳng ngờ tên thái giám hô luôn một hơi đến ba lần mà cả đoàn quân sĩ hình như điếc cả, vẫn đứng im phăng phắc, không động cựa. Tên thái giám chẳng biết làm cách nào khác, đành quay về tâu lại với hoàng đế.

Lúc đó, Miên Canh Nghiêu đang nói chuyện với hoàng đế nên chẳng để ý tới việc truyền dụ của ngài. Đến lúc hoàng đế nghe tên thái giám hồi tấu mới biết thánh chỉ của mình chẳng ăn thua gì, bèn bảo Miên Canh Nghiêu:

- Trời nắng quá! Đại tướng hãy truyền lệnh cho binh sĩ cởi giáp cho đỡ nóng.

Miên Canh Nghiêu nghe lệnh, vội rút trong bọc ra một cây cờ hồng nhỏ, rồi chỉ một cái phất, tức thì những tiếng rổn rảng, rầm rập vang động một phương trời, ba vạn người ngựa đã nhất tề cởi bỏ hết áo giáp khiến một khu đồng trống rộng rãi bỗng đầy ngộn, nào giáp nào trụ, cao như một trái núi.

Ung Chính hoàng đế thấy cảnh tượng đó, bất giác giật mình đánh thót một cái. Ngài nghĩ bụng, ví thử kẻ kia nhất đán biến tâm thì tính mạng mình hẳn đã nằm trong tay hắn rồi.

Ngài càng nghĩ càng bồn chồn trong dạ. Miên Canh Nghiêu lúc đó lấy làm đắc ý lắm. y tâu:

- Trong quân chỉ biết có quân lệnh chứ không biết có hoàng mệnh. Xin bệ hạ xét rõ cho.

Ung Chính nghe xong lời nói này của Nghiêu lại càng cụt hứng bội phần. Ngài im lặng, chẳng nói chẳng rằng. Nghiêu nhìn thấy nét mặt nhà vua bỗng trở nên nghiêm nghị, không vui, thì lòng đã đoán rõ vài phần. Y vội cáo từ hồi dinh.

Từ đó về sau, Ung Chính hoàng đế đối với Miên Canh Nghiêu bề ngoài tuy tỏ vẻ kính trọng đặc biệt nhưng bề trong lại theo dõi từng bước. Ngài truyền lệnh cho triều thần thu xếp một toà phủ đệ cực kỳ rộng lớn hoa mỹ cho Nghiêu ở kinh đô. Đồng thời mật phái rất nhiều tay chân thám giám sát nội tình trong phủ đại tướng quân…

Hồi 61

MIÊN CANH NGHIÊU, MỘT DỮ TUỚNG

Hạn kỳ nán lại kinh đô đã mãn, đại tướng quân Miên Canh Nghiêu bèn từ biệt hoàng thượng, phó nhiệm Thiểm Cam tổng đốc. Dọc đường có quan địa phương đón tiếp đầy đủ. Trong đoàn còn có mấy tay thám tử của hoàng đế trà trộn vào và sau này nhất cử nhất động của Miên đại tướng, chúng đều báo mật về kinh cả. Thế mà Miên chẳng biết gì, cứ y như người nằm ngủ trong trống. Miên đại tướng cậy mình là một vị công thần trụ cột, hơn nữa lại vừa mới bình định được Thanh Hải, Tây Tạng, cho nên trời thì cao, hoàng đế thì xa Nghiêu đâm ra ỷ thế làm càn. Trước đây đã có nói qua tinh lực của Nghiêu quả thật hơn người. Cứ mỗi tối, trước khi ngủ, thế nào Nghiêu cũng phải có năm, bảy cô gái vạm vỡ, lực lưỡng thay phiên nhau hầu hạ. Vô phúc đêm nào mà không có gái đô vật thì đêm đó đừng hòng Nghiêu ngủ được. Thực ra, thì Nghiêu cũng có năm thê, bảy thiếp, bà nào, cô nào cũng mắt phượng mày ngài, phấn điểm son tô, nhưng trước mắt Nghiêu, đó chỉ là những bức tranh để ngắm, để khen, để ve vuốt tí tẹo cho vui vậy thôi.

Đến năm Miên đại tướng làm Thiểm Cam tổng đốc thì đã nhiều tuổi, tinh lực xem đã suy giảm đáng kể. Bởi vậy Miên đã có phần thua sút trong những cuộc chinh chiến trên giường.

Hơn nữa, bọn gái đô vật của Nghiêu cũng đã trên dưới ba mươi cả, Nghiêu thấy hết khoái nên đâm ra chán ghét, bèn đem phân phát hết cho bọn đàn em dưới trướng rồi cho người đi lùng khắp miền Thanh Hải, Tây Tạng bắt bọn gái Hồi trẻ măng về thay thế. Chưa đầy nửa năm mà Nghiêu đã vét về được hơn mười cô vừa trẻ vừa khỏe hết chỗ nói. Từ đó Nghiêu suốt ngày nọ sang đêm kia hú hí với bọn gái Hồi.

Qua năm thứ ba, Miên đem đại đội người ngựa xuất tuần các miền Thiểm, Canh, Thanh, Tạng. Khi tới miền Tây Ninh, có một vị tạng cổ bối lặc tên gọi Thất Tín ra đón rước: Nghiêu có cái tính tệ nhất là môi khi tới địa phương nào, y thường bắt không những chức sắc mà còn cả quyến thuộc của bọn này ra tiếp rước, rồi thấy có bà có cô nào trông vừa mắt là y chọc ghẹo, làm nhiều điều thương luân bại lý, mất cả thể thống.

Bọn quan lại địa phương tự nghĩ thân hèn phận mọn đành nhẫn nhục chịu đựng, dám giận mà chẳng dám nói năng, hành động gì.

Lần này Nghiêu đại tướng tới Tây Ninh. Tất nhiên, bọn chức sắc địa phương lại phải đem đủ vợ con thân thích ra đón rước. Đám phụ nữ vùng này chẳng có mống nào ra hồn, song lại có con gái của Thất Tín tên gọi là Giai Đặc cách cách đẹp như tiên nga giáng thế. Giai Đặc cách cách vừa duyên dáng, quyến rũ lại vừa quý phái đài các, khiến Miên mới trông thấy đã mê tơi. Đêm hôm đó Nghiêu đặt giường ngủ trong phủ của Thất Tín. Nửa đêm Nghiêu thức giấc dậy, ao ước tới người đẹp Giai Đặc như muốn điên lên được. Nghiêu bèn gọi tên tiểu đồng tâm phúc, giao chiếc quân lệnh cho hắn, bảo vào nhà trong truyền gọi Giai Đặc cách cách ra thị tẩm (hầu hạ để giúp giấc ngủ được yên ổn). Giai Đặc cách cách nhìn thấy quân lệnh, phần sợ hãi, phần thì cũng ưa thích cái oai danh của vị đại tướng quân, nên nàng theo đứa tiểu đồng lẻn ra nhà ngoài bầu bạn với Nghiêu đại tướng một đêm cho biết mùi phong lưu của cuộc đời. Không ngờ chỉ một đêm đó thôi mà hai người đâm ra cảm nhau, gần như không muốn rời nhau ra nữa.

Qua ngày hôm sau, Thất Tín bối lặc biết chuyện thì ván đã đóng thuyền, hơn nữa ông cũng sợ cái thế lực ghê gớm của quan đại tướng quân nên đành giao viên ngọc minh châu của mình cho Miên Canh Nghiêu. Nghiêu được người đẹp Giai Đặc, mười phần sủng ái. Suốt dọc đường tuần tiễu biên cương, Nghiêu đem người đẹp theo ở lỳ trong trướng, quên phứt luôn bọn gái Hồi cướp vét về từ mấy năm trước. Nghiêu muốn làm đẹp lòng người đẹp bằng cách phô trương cái thế lực khủng khiếp của mình, bèn truyền lệnh bắt quân môn đề đốc là Phú Ngọc Sơn phải canh cửa thổi tù và phía ngoài để giữ yên cho hai vợ chồng y vui giấc điệp. Đường đường một vị đề đốc mà nay phải thổi còi canh đêm thì còn gì là thể diện của quan triều đình nữa chứ? Vậy mà Sơn cung phải vâng lệnh. Bên ngoài quân môn đề đốc Phú Ngọc Sơn thổi tù và gác cổng vất vả chừng nào thì bên trong, Nghiêu đại tướng ôm người đẹp Giai Đặc hú hí thú vị chừng nấy.

Nghiêu cùng người đẹp nằm trong trướng, đêm đêm nghe tiếng tù và "á um, á um" lúc cao lúc thấp, lúc xa lúc gần, lòng lấy làm sung sướng lắm. Giai Đặc cách cách nghe tiếng tù và, bèn hỏi ai thổi ở bên ngoài. Nghiêu sướng đến phát điên, ôm ghì người đẹp vào lòng rồi cười nói:

- Chỉ có cưng của ta ngủ trong này mà ta phải bắt quân môn đề đốc đứng ngoài giữ cửa đấy!

Giai đặc cách cách không tin, giẩu mỏ bảo:

- Thiếp chẳng tin đâu! Có ai làm tới đề đốc đại nhân mà lại chịu đi canh cửa cho tướng quân bao giờ?

Nghe câu nói như chế giễu mình, Nghiêu bực mình bảo nàng:

- Nàng không tin ư? Để ta cho gọi vào cho nàng xem.

Nói đoạn Nghiêu bảo tên tiểu đồng ra gọi Phú đề đốc vào trình diện. Tên tiểu đồng ra ngoài một lát rồi đưa vào một người. Nghêu nhìn xem thì không phải đề đốc Phú Ngọc Sơn mà chỉ là một tên tham tướng thủ hạ của Sơn thôi. Nghiêu hỏi Phú đề đốc đi đâu, tên tham tướng biết nguy rồi, vội quỳ nói:

- Phú đề đốc có chút việc gấp phải về trướng một lát. Bởi vậy ông cho gọi tiểu chức gác thế.

Miên Canh Nghiêu nghe đoạn cười nhạt một tiếng quát lớn:

- Tên Phú Ngọc Sơn này quả to gan thật. Hắn lại dám trái quân lệnh, bắt chém cả cho ta!

Lời nói còn chưa dứt, đao phủ thủ đã xông vào, bắt ngay tên tham tướng kéo ra khỏi dinh. Một lát sau, đã thấy đưa vào hai cái đầu vừa bị cắt, máu còn chảy tong tong, một cái của viên đề đốc, còn cái kia của viên tham tướng. Nghiêu hạ lệnh cho đem đi…

Từ khi giết viên đề đốc Phú Ngọc Sơn thì các tay thủ hạ của Nghiêu xem ra có phần bất phục. Song Nghiêu vẫn như người nằm trong trống chẳng hiểu gì, cứ điềm nhiên giữ cái thói tác oai tác quái như cũ.

Hôm đó, Nghiêu đi tuần biên cảnh trở về, ở trong nha môn quan tổng đốc. Con trai cả của Nghiêu tên Miên Bân đã được phong tử tước, đứa thứ nhì tên Miên Phú được phong đệ nhất đẳng nam tước. Cả hai cậu trai này đều có quân sĩ trong tay, đóng quân ở bên ngoài.

Miên Bân được tin cha giết Phú đề đốc, gây nhiều hờn oán, bèn tự ý quay về dinh xin bái kiến Nghiêu:

- Cha con chúng ta hoàn toàn trông vào lòng quân: Lòng quân mà tan thì nguy hiểm muôn phần. Nay cha giết mất Phú đề đốc là người vô tội, lòng quân thực đã có nhiều kinh hãi.

Bân nói chưa xong Nghiêu đã đùng đùng nổi giận, quát lên như sấm:

- Nghiệt súc! Mi dám đổ dầu vào lửa, xúi giục bộ hạ mưu hại cha mi à? Ta phải giết mi trước đã.

Tiếp đó là tiếng gầm "Trói lại" vang dậy, làm tung cả mấy cánh rèm che ngoài cửa sổ. Bốn, năm tên gia tướng dữ như cọp hung hăng như sói, ùa vào trói gô lấy Bân. Vợ Bân là Vu phu nhân lúc đó nấp đằng sau tấm bình phong nghe trộm, thấy Miên làm dữ tính giết chồng mình, hoảng hồn bạt vía, chạy như điên vào nhà trong, quỳ xuống trước mặt mẹ chồng kêu khóc van cầu bà cứu mạng chồng. Trần thị chỉ sinh hạ có mỗi mình Bân, nghe chuyện cuống lên. Phiền cho bà là đã từ lâu hai vợ chồng gần như tuyệt sạch ân tình, tự đi van xin, bà cho rằng ăn thua gì, liền nghĩ ngay tới vị giáo sư ở trong nhà là Vương Hàm Xuân tiên sinh, vì bà biết Nghiêu chỉ kính trọng có vị tiên sinh này mà thôi. Tiên sinh họ Vương nói gì là Nghiêu nghe ngay, không hề từ chối. Cho là đắc sách, hai mẹ chồng nàng dâu Trần thị vội đứng dậy, có bọn a hoàn nâng dắt, hối hả chạy ra phía sau đại sánh, quanh về ngả thư phòng.

Lúc đó, ông giáo Vương Hàm Xuân đang dạy học cho đứa con út của Nghiêu là Miên Thành, bỗng thấy hai mẹ con Trần thị mặt mày rũ rượi, lệ tràn đôi mi, hối hả chạy vào rồi cùng quỳ xuống, van nài ông đi cứu mạng cho Miên Bân. Vương tiên sinh vò đầu bứt tóc, thoạt tiên chẳng hiểu chuyện gì, sau khi nghe Vu phu nhân, vợ Bân, lược thuật câu chuyện, mới ba chân bốn cẳng chạy vội lên đại sảnh. Ông bước vào cửa sảnh thì thấy đại công tử Miên Bân đang bị bốn tên gia tướng trói điệu ra ngoài, mặt mày ủ dột, cúi gầm như không muốn nhìn ai nữa. Vương Hàm Xuân vội cản lại, rồi chạy vội vào đại sảnh.

Ông thấy Nghiêu mặt hầm hầm, đang ngồi sau án thư. Nhưng lạ một nỗi là đang giận dữ như vậy mà vừa thấy ông, Nghiêu lại vui vẻ, đứng lên để rước ông vào. Vương Hàm Xuân ngồi xuống, trước hết nói vài câu thăm hỏi rồi mới dần dần đưa tới câu chuyện của Miên Bân, dùng lời lẽ hết sức ôn tồn, khuyên giải một hồi, rồi thêm:

- Đại công tử vốn là người con hiếu thảo. Hắn sợ kẻ bộ hạ âm mưu ám toán đại tướng quân nên mới dám nói thẳng để can gián ngài đó thôi.

Bình nhật Miên Canh Nghiêu rất tin và nghe Vương tiên sinh. Giờ cũng vậy, sau khi nghe lời can gián của ông, Nghiêu bất giác giật mình tỉnh ngộ, vội truyền lệnh tha ngay. Miên Bân khỏi chết vội vào tạ ơn cha và ông giáo họ Vương rồi ra sau viện bái kiến mẫu thân.

Trên đại sảnh, Miên Canh Nghiêu sai bày tiệc khoản đãi Vương.

Số là cha của Nghiêu tên Miên Hà Linh, vốn giàu cỏ, gia tài bạc triệu, thế mà vào hồi ba mươi tuổi chỉ sinh có một đứa con trai tên gọi Miên Hi Nghiêu rồi thôi. Đằng đẵng mười năm sau, ông đã tứ tuần mà bà nhà vẫn đực ra đấy, chẳng đẻ đái thêm gì nữa. Ông buồn lắm. Nào ngờ qua năm sau, bà bỗng có bầu và sinh hạ Miên Canh Nghiêu.ỏng sướng hết chỗ nói, cưng Nghiêu hết mức. Nghiêu lên tám vẫn chưa đi học, ông bèn mời một ông giáo bụng đầy ắp chữ nghĩa cho Nghiêu nhập môn. Nào ngờ, Nghiêu vốn được cưng chiều đâm ra lếu láo, vừa hung dữ vừa thô lỗ, chẳng thèm học, chẳng thèm đọc sách, hễ thấy ông thầy là mở mồm chửi. Ông thầy tức quá bỏ đi. Một hơi sáu bảy ông thầy khác được mời về nhà đều chịu chung cảnh ngộ.

Ngày tháng qua mau, Nghiêu càng ngày càng lớn, trời sinh lại được cái xương rắn như đồng, gân bền như thép, thành thử về sau gặp thầy chẳng thèm chửi nữa mà đánh thẳng tay. Nhiều ông thầy bị thoi vào mặt, bị đá vào hông đến vỡ mày vẹo háng, tức quá chỉ còn biết chửi rầm lên rồi xách khăn gói ra đi. Từ đó về sau, chẳng còn có thầy nào dám bén mảng tới nhà Nghiêu để dạy học nữa. Thế là Miên Canh Nghiêu tha hồ chạy nhảy rong chơi, làm cho cả cái trang viên lớn rộng của gia đình náo loạn cả lên. Tường Nghiêu cũng phá. Nhà Nghiêu cũng đập. Cây cối Nghiêu cũng chém, chặt sạch tiêu. Bất cứ cái gì Nghiêu thấy thích là làm, bất chấp ngay cả bố mẹ. Nghiêu đã mười hai tuổi mà chữ nhật là một vẫn chưa biết, chữ đại là lớn vẫn không hay. Ông già Miên Hà Linh thấy con như vậy lấy làm chán nản, buồn bã vô cùng.

Một hôm, ông Linh đem con ra ngoài cổng dạo mát, bỗng thấy một thầy tướng tay lắc xâu chuông, từ xa tiến lại. Khi tới gần, thầy tướng bỗng ngừng bước, nhìn vào mặt Miên Canh Nghiêu xem kỹ một lát rồi bảo:

- Chà! Quả thực là một vị đại tướng quân!

Hồi 62

MỘT PHƯƠNG PHÁP DẠY TRẺ KỲ TUYỆT

Thầy thì phán thằng bé có số đại tướng nhưng Miên Hà Linh đâu có tin, bèn gặng hỏi. Thầy tướng xem đi xem lại đôi ba lần rồi cả quyết nói:

- Ghê thật! Làm đẹp mặt cho gia đình sau này chính là nó! Nhưng làm tan cửa nát nhà lại cũng là nó! Nó cần phải đọc nhiều sách thì may ra mới thoát khỏi hoạ này!

Nghe thầy tướng nhắc đến chuyện đọc sách, ông Linh chạnh lòng, thở dài nói:

- Thằng bé này hư hỏng quá rồi. Nó lại kỵ nhất là việc đó.

Thầy tướng nói:

- Thưa lão ông, nếu lão ông tin mà uỷ thác, vãn sinh sẽ xin cố giúp cho cháu trở thành người văn võ toàn tài.

Miêu Hà Linh bèn mời thầy tướng về nhà nghỉ lại. Đêm đó thầy tướng bèn đem lai lịch của mình cũng như cách thức giáo dưỡng thằng bé kể cho ông Linh nghe. Ông phục hết chỗ nói, muốn thầy tướng nhận ngay Nghiêu làm học trò. Thầy bảo:

- Hãy khoan! Xin lão ông xuất ra cho hai vạn lạng bạc giao cho vãn sinh lo liệu mọi thứ đã.

Ông Linh không do dự chút nào, tức tốc làm theo, còn cho quyền thầy tuỳ nghi sử dụng. Từ đó về sau, toàn gia họ Miên đều gọi thầy tướng là tiên sinh.

Tiên sinh nọ lấy tiền xong, chẳng thèm nói tới chuyện dạy dỗ gì Nghiêu hết. Ông đem số tiền mua một miếng đất trống ở đằng sau Miên gia trang, mướn rất nhiều thợ gấp rút xây cất một toà hoa viên tráng lệ với nhiều cây cối xum xuê hoa lá ở trung tâm, ông lại cho xây một thư viện chứa đầy sách.

Cuối đông năm đó, toà hoa viên mới được xây cất xong. Chung quanh, ông lại cho xây hai lần tường vây kín, chỉ để một cái cửa nhỏ ở về hướng tây nam thông ra ngoài mà thôi.

Thế rồi tiên sinh nọ chọn đúng ngày mười sáu tháng giêng năm sau, là ngày lành tháng tốt, khai tâm cho tên học trò duy nhất Miên Canh Nghiêu của ông.

Hôm đó, Miên Hà Linh cho mời thân bằng cố hữu tới dự bữa tiệc đãi tiên sinh. Rượu xong, chính Miên Hà Linh đưa Miên Canh Nghiêu tới để làm lễ nhập môn. Ông Miên chắp tay lạy tiên sinh nọ ba lạy rồi gởi lời ký thác, xong cáo từ quay về. Tiên sinh nọ tiễn Miên Hà Linh ra khỏi hoa viên bằng cái cửa nhỏ duy nhất nọ, rồi sai thợ hồ xây bít luôn lại, chỉ trừ có một cái lỗ nhỏ đủ để đưa cơm nước vào trong mà thôi.

Toà hoa viên xây cất tráng lệ cho nên Miên Canh Nghiêu bị nhốt bên trong mà cũng không lấy làm buồn chán lắm. Nghiêu tung tăng chạy nhảy, rong chơi suốt ngày, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng ai thèm nói tới. Vị tiên sinh khả kính nọ thì suốt ngày ngồi trong thư viện, tay không rời sách, cũng chẳng thèm để ý tới Nghiêu, cũng chẳng bao giờ bắt Nghiêu mó đến bút giấy. Nghiêu được hoàn toàn tự do, khoái lắm, thế là cứ việc chạy nhảy suốt ngày trong hoa viên, không có chỗ nào là không đạp chân tới. Nhưng có điều lạ là Nghiêu chẳng bao giờ bén mảng tới thư phòng, chẳng bao giờ chuyện trò lấy nửa lời với tiên sinh nọ. Thư phòng đối với Nghiêu dường như là một cấm địa mà chính Nghiêu tự nhủ phải chừa ra.

Càng được tự do, Nghiêu càng thấy khoái. Nghiêu cởi hết quần áo, ở truồng nồng nỗng, nhảy đại xuống ao bơi lội, bắt cá. Lại có lúc Nghiêu leo lên cây hái trái ăn, phá tổ chim chơi.

Mùa xuân, Nghiêu lấy sáo ra thổi vang lên. Mùa hè Nghiêu vác cần ra ao câu cá. Mùa thu, Nghiêu đuổi ve, bắt dế suốt ngày. Mùa đông Nghiêu nghịch tuyết rỡn cười. Một năm có bốn mùa thì không mùa nào là Nghiêu không có cái thú để tiêu khiển. Chơi những trò đó chán rồi, Nghiêu lại có lúc cuốc đất, đào hố, trồng cây…, thôi thì đủ trò của một thằng nhỏ mười hai, mười ba, nghịch ngợm khôn ranh.

Nghiêu tự do tự tại như vậy được một năm, thì tường đổ, vách xiêu, hoa tàn, nước cạn, thậm chí những trụ đá xây hết sức vững chắc cũng bị Nghiêu đập gục xuống hết. Không chỗ nào là còn lành lặn dưới sự tàn phá của Nghiêu. Riêng toà thư viện đã trở thành cấm địa đối với Nghiêu thì quả thực Nghiêu không bao giờ đụng tới. Tiên sinh nọ thấy Nghiêu phá phách đến quỷ khốc thần sầu như vậy mà vẫn mặc, chẳng thèm "hừ" lên một tiếng nhỏ nào.

Ít lâu sau nữa, Miên Canh Nghiêu chơi nghịch đã chán hết mọi chỗ mọi trò rồi, bèn liều lĩnh mò vào thư phòng tính chuyện quấy phá. Để "lấy đà", cu cậu mặt hầm hầm, mắt trợn ngược lên, làm oai quát bảo:

- Mau mở cửa ra cho ta! Ta muốn ra khỏi nơi đây.

Tiên sinh nọ mặt lạnh như tiền, đáp:

- Khu vườn này không có cửa. Mi muốn ra cứ việc nhảy qua tường mà ra.

Nghiêu thấy tiên sinh nọ không chịu, liền xắn tay áo giơ cao quả đấm, thoi mạnh một cú vào mặt ông. Chỉ thấy ông quắc mắt lên giơ bàn tay ra chộp ngay lấy cánh tay Nghiêu, văn mạnh. Nghiêu la lên oai oái và giẫy đành đạch. Tiên sinh quát lớn:

- Quỳ xuống!

Nghiêu sợ đau, lúc này chẳng quỳ cũng chẳng được. Tiên sinh thả tay, Nghiêu vội lủi đi, mất hút.

Luôn một lèo, hơn mười ngày, Nghiêu trốn biệt, chẳng dám bén mảng đến thư phòng. Mùa thu đã lại về, phong cảnh có điều tiêu sơ Nghiêu không còn thấy cảnh đẹp nữa, liền lẻn tới thư phòng, thấy tiên sinh nọ đang cúi đầu xem sách. Nghiêu rón rén lại bên bàn, đứng một lúc rồi bỗng mở miệng nói:

- Này lão kia, một toà hoa viên rộng lớn thế mà ta chơi cũng đã chán rồi. Cuốn sách nho nhỏ kia, sáng xem đến tối, tối xem đến sáng. Có gì hay trong đó mà lão xem mãi thế?

Tiên sinh nghe Nghiêu nói xong, cười lên khà khà, bảo:

- Thằng nhỏ, mày biết gì! Cuốn sách này còn có những cảnh trí rộng lớn bằng vạn lần khu vườn kia, suốt đời cũng khó xem hết được, mày không biết, thật đáng tiếc!

Miên Canh Nghiêu nghe xong bảo:

- Lão thử nói ta nghe có gì vui trong đó?

Tiên sinh lắc đầu:

- Thầy mày chẳng lạy mà lại dám bảo nói cho mày nghe hở? Đâu có dễ thế chú bé.

Nghiêu nghe đoạn dựng ngược đôi mày, giơ thẳng cánh tay đập cái rầm xuống mặt bàn, quát.

- Lạy! Lạy cái con khỉ ấy à! Đừng hòng!

Quát xong, Nghiêu khoát tay làm bộ, huênh hoang bước ra khỏi phòng. Tiên sinh mặc kệ, chẳng thèm gọi lại.

Lại hơn mười ngày sau, Nghiêu quả đã chịu hết nổi, bèn chạy vào thư phòng, quỳ xuống đất lạy thầy và nói:

- Xin thầy dạy cho con với.

Tiên sinh nâng Nghiêu dậy, bảo ngồi xuống. Bộ sách đầu tiên mà ông dạy cho Nghiêu là bộ Thuỷ Hử. Ông đem những chuyện trong Thuỷ Hử ra kể. Nghiêu nghe khoái bằng chết, thôi thì khoa chân múa tay, lắm lúc như điên như dại. Tiên sinh giảng tiếp Tam Quốc Chí, rồi Tống Nhạc Phi, rồi những chuyện anh hùng, hiệp khách ly kỳ khác. Sau nữa, ông giảng tới binh thư, sử ký kinh điển, rồi các loại sách về khoa học.

Những lúc rỗi rảnh, ông lại dạy cách dương cung bắn tên hạ cờ, dần dần về sau dạy đủ mười tám ban võ nghệ, không một ban nào là không đến độ tinh vi. Ông còn dạy cả cách ra quân bày trận, phép chạy trên tường, bay trên mái nhà. Thế rồi, sau tám năm công phu đằng đẵng, ông dạy Nghiêu thành một người văn võ toàn tài. Đến lúc đó ông mới bảo Nghiêu phá tường mà ra.

Miên Canh Nghiêu trở về nhà, bái kiến phụ thân. Ông Miên Hà Linh sau tám năm không gặp, nay thấy con trở về với toàn tài văn võ, bản lãnh phi thường thì làm sao chẳng mừng. Ông vội tới lạy tà tiên sinh nọ. Tiên sinh chỉ chào rồi cáo từ ra đi mặc cho cha con họ Miên khẩn khoản lưu lại. Tiên sinh nọ chỉ dặn đi dặn lại Nghiêu có một câu "cấp lưu dũng thoái" (nghĩa là đi thì cho nhanh mà về thì cũng cho lẹ).

Đến lúc này, đại tướng quân Miên Canh Nghiêu phú quý đã tột bực. Mỗi lúc nhớ tới vị thầy xưa, Nghiêu lại thấy kính trọng vô bờ. Cũng bởi lẽ đó nên Nghiêu hết sức kính trọng Vương tiên sinh hiện dạy học cho con mình.

Ông Vương Hàm Xuân tuy không phải là một ông thầy văn võ toàn tài như tiên sinh thuở nọ nhưng ở trong nhà họ Miên, ông luôn tỏ ra ngay thẳng trung hậu, nên được Nghiêu tin cậy ký thác mọi việc cho. Ngoài việc dạy cho cậu út học, ông còn trông coi cả việc nhà cho Nghiêu. Những lúc nhàn rỗi, Miên thường tới gặp ông để trò chuyện.

Vương tiên sinh vốn nhân hậu nên khi thấy Miêu đại tướng quân giết chóc quá nhiều thì lòng ông không yên. Phải cái Miên tính nóng như lửa, việc khuyên can nhiều khi cũng chẳng dễ dàng gì. Trong nhà đã có hai đầu bếp, một hầu gái mất mạng vì ông khiến ông suốt đời không thể nào quên được. Cứ mỗi khi nằm, ông lại giở cuốn kinh Kim Cương ra tụng niệm, mong siêu sinh tịnh độ cho những oan hồn đã chết vì mình. Ông nguyện rằng công quả này sê không bao giờ sao nhãng, cho mãi tới khi ông chết. Gia nhân thứ nhất họ Hồ, làm cho Miên đã bốn năm. Một hôm, Miên mời khách dự tiệc. Trong bữa có món đặc biệt tên gọi "Nguyên quần", do Miên bảo làm.

Ông thầy Hàm Xuân bữa đó ngồi ghế nhất. Khi gia nhân dâng bát Nguyên quần, ông không biết món gì liền hỏi thì Miên giải thích đó là món thịt ba ba cắt ở chung quanh cái viền thịt trên lưng ba ba. Giải thích xong, Miên bèn lấy thìa múc lên đãi khách.

Ông tiếp lấy miếng thịt. Miên hỏi mặn nhạt ra sao, ông chưa kịp đáp, chỉ nhíu đôi lông mày, lắc nhẹ cái đầu một cái. Không đáp kịp chỉ tại miếng thịt nóng quá, khiến đầu lưỡi của ông gần như tê đi, không nói được. Miên thấy thế cho là ông chê món ăn không ngon, bèn khẽ hất đầu ra hiệu cho đám thị vệ túc trực bên ngoài. Một lát sau, ông thấy một tên thị vệ chạy từ ngoài vào, tay bưng chiếc mâm sơn đỏ, trên phủ một tấm khăn đỏ. Tên thị vệ quỳ xuống, miệng bẩm lớn:

- Hồ nhà bếp nấy món không ngon. Nay đã chém đầu đem nộp.

Nói đoạn thị vệ giở tấm khăn đỏ ra. Ông thấy một cái đầu người vừa mới cắt xong, máu đang còn ứa. Tân khách trong tiệc, người nào người nấy ghê quá, quay mặt không dám nhìn , ông hỏi tại sao thì Miên đại tướng giải thích:

- Bản chức thấy tiên sinh nhíu đôi mày, biết món ăn không ngon nên đã bảo nô dịch chặt đầu tên nhà bếp.

Ông vừa nghe đoạn, bất giác chồm dậy, luôn miệng nói:

- Tội quá! Tội quá!

Rồi ông giải thích lý do tại sao lại nhíu đôi mày và lắc đầu Miên đại tướng mới vỡ lẽ nhưng đâu thèm để ý, chỉ cười xoà một tiếng coi như xong.

Hồ nhà bếp chết rồi, ít lâu sau lại đến Tiền nhà bếp. Anh nhà bếp họ Tiền này biết rõ lý do cái chết của người đi trước cho nên hết sức cẩn thận: Cứ mỗi bữa định nấu món gì, Tiền nhà bếp lại tới hỏi Vương gia sư trước đã. Sự khôn ngoan ấy đã giúp cho anh ta được yên ổn, không xảy ra chuyện gì.

Vương tiên sinh vốn người Hàng Châu. Một hôm, ông nhớ tới món đậu hũ xứ Hàng, liền bảo Tiền nhà bếp làm cho một nồi. Miên đại tướng thường ngồi ăn với Vương tiên sinh, khi thấy chén đậu hũ, đột nhiên cả giận quát:

- Đậu hũ là món tồi tệ nhất, tại sao dám đem đãi tiên sinh? Bay đâu? Chém!

Ông thầy họ Vương nghe quát, hoảng quá, vội bảo món đậu hũ chính là do ông bảo làm. Miên đại tướng không ngờ món này ngon thật, bèn dặn Tiền đầu bếp bữa nào cũng phải có một chén cho Vương tiên sinh. Vương ăn mãi cũng chán nhưng không dám nói. Về sau Tiền nhà bếp bận việc nhà xin cáo về, một anh bếp mới tới nghe nói Vương thích món đậu hũ liền bắt chước anh bếp cũ làm theo. Miên đại tướng nếm thử, không ngờ đậu hũ vừa đắng vừa mặn, thế là đùng đùng nổi giận, quát chém, khiến Vương tiên sinh vội can mà không kịp.

Ít lâu sau, Tiền nhà bếp xong việc nhà, trở lại bếp nhà Miên. Y lại chế món đậu hũ, mùi vị thật hết sức ngon thơm.

Vương tiên sinh lấy làm lạ, bèn cho gọi tới hỏi xem thì mới biết rằng: Cứ mỗi nồi đậu hũ phải lấy một trăm bộ óc cá mè trộn vào mới được ngon thơm như vậy.

Vương nghe xong luôn mồm nói:

- A di đà phật! Anh bếp mới nọ thật là oan, như thế thì làm sao anh ta biết được! Thôi từ mai anh bỏ cái món đó đi nhé!

Ít hôm sau, Miên Canh Nghiêu lại nghĩ ra một món nhậu đặc biệt. Ngài cho mời một số tân khách tới dự tiệc. Vương tiên sinh lần này cũng vẫn ngồi ghế nhất. Rượu được vài tuần, Miên truyền lệnh bưng ra. Người ta thấy bọn gia nhân vội vã sắp đặt, cứ trên mỗi bàn đặt một cái bếp hoả than, trong nòi nào xáo gà, nào vây cá sôi sùng sục, khói bốc nghi ngút. Trước mỗi thực khách, chúng để tiếp một cái mâm đầy đủ đồ gia vị, một cái dùi bạc, một con dao bạc, một cái thìa bạc. Khách khứa chẳng ai hiểu ra sao.

Đợi một lát, lại thấy bọn gia nhân đặt trước mặt mỗi thực khách một cái lồng nhỏ bằng gỗ, bên trong nhốt một con khỉ nhỏ, đầu nhô lên trên chóp lồng, chìa hẳn ra bên ngoài, cứng ngắc không thể cựa quậy, y như bị cùm chặt vào đó, còn cổ thì bị khoá chặt vào những thanh lồng, khiến khỉ ta không thể thò lên thụt xuống được. Bầu không khí ồn ào trong bữa tiệc bỗng dưng biến mất. Mọi người im lặng, đợi chờ một sự lạ nào đó sắp xảy ra.

Miên đại tướng quân động thủ trước. Ngài cầm dùi bạc, giơ cao lên, đập mạnh vào sọ con khỉ, thủng thành một lỗ lớn. Đoạn, ngài cầm thìa bạc thọc vào sọ khỉ, múc óc ra, nhúng nhúng vào nồi hoả than rồi bỏ vào miệng, ăn hết sức ngon lành. Xong ngài lại lấy con dao bạc cắt cái sọ khỉ khác bỏ vào nước đang sôi.

Nhiều thực khách thấy cách ăn của Nghiêu cũng bắt chước theo. Thế là cả bữa tiệc rùm lên vì tiếng kêu la thàm thiết của lũ khỉ, tiếng đập đôm đốp của dùi, tiếng xẻo tiếng cắt xoèn xoẹt của dao. Rồi tiếng người khen ngon, kẻ khen tuyệt, ồn ĩ cả lên.

Vương gia sư ngồi trên ghế nhất nhìn cử toạ, thấy mặt mũi tối sầm lại. Ông thác cớ nhức đầu, rút lui về phòng, thiếu điều nôn thốc nôn tháo.

Bữa tiệc kéo dài mãi tới mặt trời gác núi mới tan. Tính ra đến gần một trăm con khỉ đã thiệt mạng. Nghiêu đại tướng quả được một bữa mãn nguyện. Ngài vào thư phòng thăm Vương tiên sinh, cũng vừa lúc con a hoàn dâng trà lên cho Vương.

Ông đứng lên để đón Nghiêu, không ngờ trật tay nghe đánh choang một tiếng, chiếc chén ngọc đã rớt, bể tan trên mặt đất, còn nước trà bắn tung tóe lên cả áo quần mình. Ông lấy khăn, vừa cúi xuống lau những giọt nước trà trên quần áo, tai đã nghe thấy tiếng gió vút, vội ngẩng lên thì đã thấy đầu con a hoàn bị Nghiêu chém đứt, lăn lông lốc trên sàn nhà.

Vương tiên sinh lúc này không nhịn được nữa, đành phải lên tiếng khuyên can Nghiêu. Ông còn nói thêm:

- Người đời thường nói công cao át cả chúa, đó là điều không lợi Đại tướng quân ở nơi đây, nhất cử nhất động e khó qua được tai mắt của hoàng thượng. Thiết tưởng đại tướng quân nên làm nhiều điều nhân đức, cố kết lòng quân mới phải.

Giữa lúc Vương tiên sinh đang can gián Nghiêu, từ bên ngoài bỗng trình vào một phong văn thư. Nghiêu mở xem, nhận ra là thư của tâm phúc từ kinh gửi tới. Đọc chưa xong, hùng khí của Nghiêu vốn cao đến vạn trượng, bỗng thấp hẳn xuống chỉ còn độ vài gang. Nghiêu lắp bắp nói:

- Hỏng rồi Hỏng rồi!

Vương tiên sinh tiếp lấy thư, xem qua, bất giác cũng phải nhíu đôi lông mày lại, mặt lộ vẻ buồn thảm vô hạn…

Hồi 63

HUỶ DIỆT CÔNG THẦN

Thì ra khi Miên Canh Nghiêu đáo nhiệm, nhất cử nhất động của Nghiêu đều có thám tử của Ung Chính hoàng đế đặt ngầm chung quanh tâu báo thường xuyên về triều. Thế rồi Đô ngự sử dâng sớ cực lực lên án Nghiêu. Trong thì sáu bộ Chính Khanh, ngoài thì tuần phủ, tướng quân, tất cả dâng sớ hạch tội Nghiêu, có mấy điều rất nguy hiểm như: âm mưu phản loạn, coi thường nhân mạng, cưỡng dâm phụ nữ, giết hại đề đốc.

Miên Canh Nghiêu xem xong thư, biết tính mạng mình khó toàn, bèn sửa soạn ngay đêm đó chút đồ tế nhuyễn. Rồi giao cậu nhỏ Miên Thành cho Vương tiên sinh đem về phương nam dạy dỗ để giữ lại giòng máu cho họ Miên. Vương tiên sinh vừa đem Thành ra đi thì thánh chỉ từ Bắc Kinh tới/

Thánh chỉ nói:

"Gần đây Miên Canh Nghiêu cử bậy tên Hồ Kỳ Hằng làm tuần phủ lại dung túng bọn Kim Nam Anh nhũng nhiễu lê dân trại Nam Bình rồi dùng lời lẽ che đậy, tâu báo về triều.

Nghiêu lại còn dấu giếm triều đình cả việc dàn đói ở các vùng Thanh Hải, Mông Cổ, thật không thế tha thứ được. Miên Canh Nghiêu trước đâu có đến nỗi đó. Hoặc y cậy mình có công cho lên kiêu láo, hoặc y chém giết quá nhiều cho nên hôn am. Con người đã như vậy thì làm sao còn có thể giữ chức Xuyên Thiểm tổng đốc. Trẫm xét Miên Canh Nghiêu còn có thế luyện tập được cho quân sĩ, bởi vậy trẫm điều động y bổ sung chức tướng quân tỉnh Chiết Giang và Hàng Châu. Còn ngôi tổng đốc thì Phân Uy tướng quân Cam Túc đề đốc kiêm lý tuần phủ Nhạc Chung Kỳ mau tới Tây An đảm nhận. Ấn tín của Phủ Viễn đại tướng quân thì gửi về kinh. Ấn tín của Phân Uy tướng quân nếu thấy vô dụng thì cũng gửi về kinh luôn".

Nhạc Chung Kỳ chơi thân với Miên Canh Nghiêu, nên khi được tin này, Kỳ vội tới Tây An tiếp thu ấn tín, đồng thời lấy lời an ủi và giúp Nghiêu dâng sớ xin được bảo toàn. Kỳ còn sai một trăm tên thân binh hộ vệ cho Nghiêu ở dọc đường.

Nghiêu và Kỳ hai bên gạt lệ chia tay nhau.

Khi tới Nghi Trưng thuộc tỉnh Giang Tô, Nghiêu thấy trước mình có hai đường thuỷ - bộ: đường thuỷ xuôi về nam thẳng tới Hàng Châu còn đường bộ ngược lên bắc dẫn tới Bắc Kinh.

Nghiêu tự nghĩ mình từng đã đem hết tâm lực ra để giúp hoàng đế nay chi bằng tới Kinh điện cầu chút ân huệ, biết đâu ngài chả nghĩ tới công trạng thuở nọ mà cho hồi nguyên chức. Nghĩ vậy Nghiêu tự ý thảo sớ trong đó có hai câu như sau: "Nghi trưng thuỷ bộ chia đường. Thần tới đây yên lặng đợi sắc lệnh của thánh thượng" (Nghi trưng thuỷ lục phân trình. Thần chì thử tĩnh hậu luôn âm). Hai câu này, đối với Nghiêu, bất quá chỉ là mong hoàng thượng hồi tâm chuyển ý. Nào ngờ Ung Chính hoàng, đế xem xong tờ sớ, lại càng nghi Nghiêu còn ý phản loạn, muốn đem quân về kinh để uy bức ngài. Thế là ngài giao ngay tờ sớ cho nha môn lại bộ duyệt xét.

Từ xưa, người ta thường nói: dậu đồ bìm leo. Huống hồ Miên Canh Nghiêu ngày thường uy phúc tự chuyên, đắc tội rất nhiều với quan trường cho nên cả bọn này chúng khẩu đồng từ, cùng nói Nghiêu đã được ân huệ lớn mà còn cuồng vọng làm nhiều điều bất pháp đến thế, tội thật cực lớn, và xin hoàng đế cách chức Nghiêu tức khắc, truy hồi những ân thưởng đã ban. Tiếp đó, dân cư dọc bên đường cũng đầu đơn gửi về triều đình bướm bướm, tố Nghiêu nhiễu loạn dân lành. Điều này rõ ràng là do kẻ thù Nghiêu xúi bảo.

Ung Chính hoàng đế xem đơn, tức giận đến cùng độ, chỉ nội một đêm mà ngài hạ đến mười tám đạo chỉ dụ, giáng luôn một lèo vị Xuyên Thiểm tổng đốc phủ viên, đại tướng quân uy danh hiển hách là Miên Canh Nghiêu xuống mười tám cấp, biến thành một tên lính canh giữ cổng thành Hàng Châu tại cửa Võ Lâm. Đến nước này, Miên Canh Nghiêu cũng đành cam chịu, đem theo vài tên lính già, đến Hàng Châu lâm quan giữ cửa thành, hễ thấy các quan lớn trong thành ra hay từ ngoài vào thì phải sửa mũ, xốc áo để tiếp rước và đưa tiễn. Cửa Võ Lâm lại náo nhiệt đông đúc nhất, mỗi ngày ra vào không biết bao nhiêu vị quan. Nhưng cái điều thú vị nhất là tướng quân Hàng Châu lúc đó chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là thủ hạ của Nghiêu, trước đây đã từng làm quan trung quân, suýt bị Nghiêu giết, xin mãi mới toàn mạng, chi bị giáng xuống làm tên lính gác dưới gầm cầu.

Vị tướng quân đó, chính là Lục Hổ Thần.

Uất hận vì Nghiêu hại mình, Lục Hố Thần tìm cách chui luồn cửa khác. Sau ba năm, Thần lại lên tới chức đề đốc. Thần nghe nói Nghiêu bị tội, phát lạc tại Hàng Châu làm quan giữ cổng thành, liền hết sức vận động để được làm tướng quân Hàng Châu, thật là "oan gia đường hẹp". Thần vừa đáo nhiệm có một hôm, liền chỉnh đốn toàn quân tiến vào thành. Quan viên văn võ đều đứng tại cổng thành đón tiếp, duy chỉ có mình anh quan giữ cổng Miên Canh Nghiêu là tự do tự tại, coi như không có chuyện gì. Nghiêu mặc áo, bào vào rồi xếp bằng ngồi nhìn mặt trời. Khi Lục Hổ Thần đi qua trước mặt, Nghiêu vẫn chẳng thèm để ý. Thần nổi giận đùng đùng, quát lớn:

- Miên Canh Nghiêu! Mi có nhận ra ta đây không? Tại sao mi không quỳ lạy?

Nghiêu nghe xong, nhìn Thần cười lạt nói:

- Mi bảo ta ư? Chính ta mới bảo mi phải quỳ ngay xuống!

Thần ha hả cười lớn:

- Ta đường đường là một vị quan đầu phẩm, thế mà mi dám bảo ta phải quỳ trước một tên canh cửa? Ha ha! Ha ha!

Nghiêu lại bảo Thần:

- Mi không quỳ trước một tên canh cổng, nhưng nếu thấy hoàng thượng, chắc mi quỳ chứ?

Thần gật đầu bảo:

- Cái đó tự nhiên!

Nghiên không vội gì, từ từ đứng dậy bảo Thần:

- Mi có thấy ta ngồi trên cái gì không?

Thần liếc mắt nhìn xem, thì ra đó là cái Long điếm(1) cũ mà Khang Hi hoàng đế đã thưởng cho Nghiêu, Nghiêu còn thò tay vào bọc lấy tấm vạn tuế bài ra đật lên trên Long điếm, xong rồi quát lên một tiếng lớn:

- Lục Hổ Thần! Quỳ xuống!

Thần lúc đó ngoan ngoãn như một con cừu non, vội quỳ xuống đất, làm lễ Tam quy cửu khấu. Thấy Thần hành lễ xong, Nghiêu mới đem vạn tuế bài cất đi!

Việc nhục nhã không ngờ này càng làm cho Thần căm thù Nghiêu. Thần về tới nha môn, ngay đêm đó dâng sớ về triều tố Nghiêu có năm tội đại nghịch, chín tội khi võng, mười sáu tội thiện chuyên, mười tám tội tham vàng, sáu tội kỵ khắc, mười lăm tội xâm thực, bốn tội tàn nhẫn, cộng tất cả là chín mươi hai tội và chiếu luật thì phải xử lăng trì.

Bản tấu này quả đã là một Thôi mệnh phù đòi mạng Nghiêu. Một đạo thánh chỉ ban xuống đại ý nói:

"Cô nghĩ cái công bình định Thanh Hải của Miên Canh Nghiêu khi giao cho thông lĩnh bộ quân A Tê đồ giám nên Cô cho Nghiêu tự xử lấy. Miên Phú (con trai thứ hai của Nghiêu ỷ thế cha, không điều gì ác mà không làm) lập tức đem chính pháp. Miên Hà Linh (cha Nghiêu), Miên Hy Nghiêu (anh Nghiêu) hãy đoạt lại tước vị, cho miễn xử phấn. Còn gia sản của họ Nghiêu thì tịch biên sung công hết".

Đạo thánh chỉ này ban xuống tức là toàn gia họ Nghiêu tan tành rồi! Việc này tuy do tội kiêu ngạo của Nghiêu gây ra nhưng thực cũng do cái thâm ý của Ung Chính hoàng đế muốn huỷ diệt công thần mà có. Mặc dầu đã loại bỏ được Miên Canh Nghiêu, nhưng còn có quốc cữu Long Khoa Đa, Đại học sĩ Trương Đinh Ngọc và tướng quân Ngạc Nhĩ Thái, ba người này trước đây đã cùng hoàng đế mật mưu hành sự, cho nên ngài lúc nào cũng canh cánh bên lòng, muốn trừ cho bằng hết.

Khổ cái là ngài không tìm ra được nguyên do nào.

Hồi đó, phàm các vị quan lớn được triều đình cho ra ngoài tức thì hoàng đế sai một người thân tín ngầm sung vào hàng mạc hữu(2) hoặc làm một kẻ thân tuỳ để giám sát cử chỉ và hành động của vị quan đó mật báo về cung. Trong số quan ngoại phóng này, có vị tổng đốc Hà Đông tên Điền Văn Kính.

Kính vốn tương đắc với bọn đại thần Ngạc Nhĩ Thái và Lý Mẫn Đạt. Khi được ngoại phóng, Lý Mẫn Đạt có tiến cử một vị mạc hữu tên gọi Ổ Sư Gia cho Kính, nhắn với Gia là người do Đạt tiến cử, nên Kính đặc biệt xem trọng và thường bàn bạc mọi chuyện với Gia.

Một hôm, Gia hỏi Kính:

- Minh công có muốn làm một vị danh thần không?

Trước câu hỏi đó, Kính đương nhiên gật đầu.

Gia lại nói:

- Minh công đã muốn làm một vị danh thần, thì tôi đây cũng muốn làm một kẻ danh mặc.

- Làm một danh mặc là làm thế nào?

Gia đáp:

- Xin minh công giao cho đại quyền, mọi việc khỏi cần phải hỏi tới làm gái:

- Kính hỏi lại:

- Tiên sinh muốn làm việc gì vậy?

Gia đáp tiếp:

- Tôi tính thay ngài dâng một bản tấu chương. Ngài không cần phải đọc. Bản tấu chương này sẽ giúp ngài đạo công cáo thành.

Kinh thấy Gia nói có vẻ chắc chắn lắm bèn gật đầu ưng chịu. Thế là ngay đêm đó, Ổ Sư Gia thức trắng, cố viết cho kỳ xong bản tấu chương rồi xin Kính gửi đi.

Bản tấu chương về tới triều, Ung Chính hoàng đế mở xem thì thấy đó là bản đàn hặc quốc cữu Long Khoa Đa. Bản tấu chương tố cáo Đa bênh che Miên Canh Nghiêu; lại huênh hoang chứa ngọc điệp, âm mưu nhiều chuyện bất pháp…

Hoàng đế xem xong bản tấu thấy rất hợp với ý ngài, ngài bèn hạ chỉ tước bỏ hết quan tước của Long Khoa Đa, giao cho Thuận Thừa quận vương là Tích Bảo nghiêm hình thẩm vấn.

Long Khoa Đa vốn là một nguyên, huấn đại thần, khi thấy hoàng đế bỗng trở mặt, đời nào chịu. Bởi thế lúc Thuận Thừa quận vương lấy cung, Long Khoa Đa cứ oang oang chửi bới.

Đa lại còn vạch ra hết cả những chuyện xưa, khi Ung Chính còn là một quận vương, mưu hại thái tử ra sao, tự cải di chiếu thế nào… không sót điều gì. Tố mãi đến lúc đã mới thôi.

Thuận Thừa quận vương thấy Long Khoa Đa khi quân đến vậy, không dám hạch hỏi nhiều thêm nữa, bèn một mặt tống Đa vào lao, một mặt nghi tấu, nói Đa phạm toàn trọng tội, xin chém lập tức.

Đông Thái Phi được tin này, vội đích thân tới khẩn cầu Ung Chính tha mạng cho anh. Lúc đó, hoàng đế cũng nghĩ tới công lao thuở trước, tha cho Đa tội chết và hạ một đạo dụ, nói:

"Long Khoa Đa vốn một cựu thần tiên triều. Trẫm nghĩ tới đó nên tha cho tội chết. Đa phải cất một ngôi nhà ba gian ở phía ngoài Sướng Xuân viên và tự giam mình viễn tại đây. Vợ con khỏi tội chết gia sản khỏi bị tịch biên".

Chuyện này xảy ra, Ung Chính hoàng đế lại nhẹ thêm được một phần tâm sự. Cũng từ đó, Điền Văn Kính oai danh nổi lên cao ngất. Hoàng thượng truyền dụ ghi công, lại thưởng thêm khá nhiều trân bảo phẩm vật. Còn Ổ Sư Gia được Kính tặng một ngàn lạng bạc.

Gia thấy tổng đốc trọng dúng mình, đâm ra làm tàng. Y chiếm độc quyền kiện tụng, cưỡng dâm phụ nữ, không có gì bậy mà y không làm. Tin đồn đến tai tổng đốc, Kính lập tức loại Gian ra khỏi nha môn. Y bèn làm một toà nhà ở ngay trước cống nha, suốt ngày chỉ rỡn chơi, hỏi liễu tìm hoa.

Một điều hết sức kỳ lạ là từ khi Điền Văn Kính đuổi Ổ Sư Gia đi rồi mời một vị mặc hữu khác thay thế, thì mỗi lần dâng sớ tấu việc, Kính đều bị bác hồi, có khi lại còn bị truyền chỉ trách mắng là khác. Kinh đâm hoảng, đành nhờ người tới mời Ổ Sư Gia vào nha như cũ, nhưng Gia làm cao, không thèm tới. Mãi về sau, nhờ người trung gian cố sức giàn xếp, Gia mới đưa ra hai điểu kiện: một là làm việc ở nhà, khỏi cần phải vào phủ, hai là mỗi ngày tổng đốc phải trả công cho y một nén vàng. Bởi muốn giữ yên ngôi vị. Điền tổng đốc chẳng còn biết làm cách nào, đành phải nhất nhất đáp ứng điều kiện của Gia. Và Gia cũng từ đó, hôm nào thấy trên bàn tại nhà riêng có nén vàng thì y làm việc, còn hôm nào không thấy là y gác bút ngay. Đến khi Điền Văn Kính qua đời người ta vẫn thấy ân điển của hoàng đế còn trọng hậu. Thánh chỉ hạ xuống ban thuỵ cho Kính là Đoan Túc, được xây cất đền thờ ở trong thành Khai Phong và nhập tự trong đền Dư Tinh hiền lương từ. Sau đó ít lâu Ổ Sư Gia bỗng biến mất, chẳng ai còn thấy tung tích đâu nữa. Thì ra đó chính là người của hoàng đế sai tới để giám sát hành động của tổng đốc Điền Văn Kính.

Hồi đó có một vị án sát sứ tỉnh Phúc Kiến tên gọi Vương Sĩ Tuấn tiến kinh bệ kiến. Khi ra về, Tuấn được Đại học sĩ Trương Đinh Ngọc tiến cử một thân tuỳ. Người này tỏ lòng hết sức trung thành. Ngày tháng thoi đưa, đã ba năm trôi qua, Vương Tuấn nhân có việc cần, muốn lên kinh thỉnh huấn thì người thân tuỳ nọ trước đó ba hôm cũng xin cáo từ ra về. Tuấn giữ lại bảo:

- Nhà ngươi ở kinh. Ta cũng muốn tiến kinh. Bọn ta cùng đi một chuyến có phải tiện không?

Người thân tuỳ nọ tươi cười nói:

- Xin nói thực để ngài rõ: tôi vốn chẳng phải kẻ thân tuỳ nào cả mà chính là người của hoàng đế đặt ngầm nơi đây đề coi xét hành vi của đại nhân đấy! Đến nay đã ba năm qua, tôi nhận thấy án sát sứ quả là người thanh chính, cho nên tôi về kinh trước, thế cho đại nhân mà tâu báo hoàng thượng đó thôi.

Vương Sĩ Tuấn nghe xong, hoảng hồn bạt vía, chỉ còn biết chắp tay hướng về phía người thân tuỳ nọ mà lạy lấy lạy để, miệng lắp bắp:

- Mọi… điều… nhờ lão ca chiêu liệu giùm cho với…!

Tin này đồn ra ngoài, tức thì bọn quan viên ngoại nhiệm, anh nào anh nấy nơm nớp lo sợ, lúc nào cũng đề phòng có kẻ dò xét mình. Kẻ lo sợ nhất lại chính là Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đinh Ngọc. Hai vị đại thần này, qua vụ án Long Khoa Đa, đều rõ dụng ý của Ung Chính hoàng đế. Họ cảm thấy nguy và cùng tìm cách thoát hiểm. Trương Đinh Ngọc vốn tinh ranh khôn khéo, vội dâng sớ cáo lão về quê. Hoàng đế giả đò giữ lại. Sau thấy Ngọc cố nài nỉ, hoàng đế mới chuẩn tấu. Lúc tiễn hành, ngài ban yến ở Sùng Chính Điện. Giữa buổi tiệc, ngài dùng ngự bút, viết một câu đối tặng Ngọc đem về nhà treo. Câu đối như sau:

Văn trị nhật trong sáng

Ơn trời xuân mênh mang

Ngọc về lại hoá hay. Hoàng đế muốn mua lòng y nên thường lấy tiền bạc trong nội khố thưởng cho. Mỗi lần thưởng như vậy có đến cả vạn lạng. Trong khoảng mười năm, ngài thưởng tới sáu lần. Nhiều lần Ngọc dâng sớ từ tạ, nhưng thánh chỉ hạ xuống nói:

- Thân phụ ngươi thanh bạch truyền gia. Ngươi tuân theo gia huấn nên tuyệt không có chuyện ăn hối lộ. Trẫm không đành lòng thấy ngươi túng quẫn.

Trương Đinh Ngọc không còn cách gì từ chối, bèn xây cất một toà Tứ Kim viên (Vườn cho vàng), mục đích tỏ lòng cảm kích ân điển của hoàng đế. Ngọc có một người thị tên gọi Diêu thị, tuổi trẻ ở goá mà có mưu trí. Nàng xét thấy thủ đoạn huỷ diệt công thần của Ung Chính hoàng đế, biết ngài là con người lật lọng phản trắc nên bảo rõ cho Ngọc hay rồi chuyển hết đồ tế nhuyễn của riêng tây, gia tài của Ngọc về nhà riêng của mình.

Quả nhiên vài năm sau, không ngoài sự dự liệu của Diêu thị, hoàng đế hạ thánh chỉ sai tổng đốc Lưỡng Giang tra xét gia sản của Ngọc, tịch biên và sung công. Anh em bạn hữu của Ngọc sợ bị liên luỵ, bèn quyên góp mười vạn quan tiền đem đặt vào nhà Ngọc, đợi tra xét. Về sau Lưỡng Giang tổng đốc đem mười vạn gia tài của Ngọc sung vào Giang Ninh khố.

Tuy nghe cuối cùng có thánh chỉ ban xuống trả gia sản lại nhưng Ngọc cũng chẳng dám lĩnh về nữa…

Mưu toan huỷ diệt công thần của Ung Chính chưa phải đến đây là hết, nó còn gây tai hoạ cho nhiều người sau này nữa.

Chú thích:

(1) Vật dùng lót chỗ ngồi cho Hoàng đế.

(2) Người giúp việc trong trướng

Hồi 64

NHỮNG CÁI ÁN VĂN TỰ

Lại nói ông thầy Vương Hàm Xuân đem cậu nhỏ Miên Thành, con thứ ba Miên Canh Nghiêu, ngày đêm gấp rút đăng trình. Trên đường về, ông được tin Nghiêu bị giáng xuống chức tướng quân Hàng Châu. Vài hôm sau, ông lại nghe luôn một lúc mười tám đạo thánh chỉ, giáng Nghiêu mười tám cấp, làm một tên quan giữ cổng thành. Rồi khi về tới nhà, ông lại được tin Nghiêu đã chết và nhị công tử đã bị chính pháp. Tiểu công tử được hung tin của cha, nhưng không dám khóc, không dám mặc hiếu phục. Ông Xuân đổi họ tên cho nó, gọi là Hoàng Tồn Niên.

Gia đình Vương Hàm Xuân ngụ tại một phố nhỏ thành Dương Châu. Khi về tới nhà, Xuân không còn thấy ba căn phố trệt xưa kia nữa mà lại là một toà nhà rộng lớn có lầu cao mái dài, còn trong nhà thì Vương phu nhân mặc toàn lụa là gấm góc, con ăn đứa ở từng lũ, ngựa nhốt đầy cả chuồng.

Thấy lạ, Xuân hỏi vợ mới biết rằng ba năm về trước, đại tướng quân Miên Canh Nghiêu đã cho người tới làm nhà cho ông, lại còn cho vợ ông một món tiền lớn là hai mươi vạn lạng bạc tuỳ ý sử dụng. Nay đã đem tiểu công tử họ Miên về nhà riêng cũng đem tất cả nhà cửa, tiền bạc giao lại cho y. Nhưng Hoàng Tồn Niên nhất định không chịu nhận. Ông không biết làm cách nào nữa. Về sau Vương phu nhân nghĩ ra một cách là đem gả cô con gái Bích Vân cho Tồn Niên, đồng thời để Niên ở rể luôn.

Lúc này, ông Vương Hàm Xuân còn được tin Quốc cữu Long Khoa Đa đã bị giam giữ. Trương Đinh Ngọc xin lui về hưởng già, ông thở dài nói:

- Chim bay hết thì cung bị gác. Thỏ khôn chết thì chó bị thịt! Đó chính là sự đáp ứng xứng đáng cho các công thần. Quả thực là quá ác độc!

Lại nói Ung Chính hoàng đế thấy những kẻ đối đầu với mình đã chết hết, những tay công thần đã bị diệt sạch rồi thì ngài hẳn được thư thái trong lòng, tha hồ gối cao ngủ kỹ mới phải chứ? Chưa, bởi vì ngài vẫn còn một điều đáng ngại là con trai của thái tử Dân Nhung tên gọi Hoằng Triết, đem theo vợ con hiện cư ngụ tại Trịnh gia trang ngoài thành Bắc Kinh. Ngài sợ Triết rắp tâm báo thù cho cha, bởi vậy thường sai bọn tay chân tới nhà Triết để dò xét. Dân Nhung trước đây bị giam ở trong lao, sau đó lại bị Ung Chính sai người đánh thuốc độc chết thử hỏi Hoằng Triết là con sao không ôm hận phục thù, tất nhiên nhiều khi không khỏi buột miệng oán trách. Vợ của Hoằng Triết là phu nhân Qua Nhĩ Giai người rất hiền. Bà thường hay khuyên chồng ăn nói nên giữ gìn cẩn thận, kẻo khó thoát nguy.

Không ngờ những lời oán hận của Hoằng Triết, Ung Chính hoàng đế đều đã biết rõ cả. Một hôm, bỗng có hai tên nội giám mang theo năm, sáu chục lính xông vào phủ, bắt hai vợ chồng Triết điệu về kinh, và đưa vào trong cung. Ung Chính hoàng đế thăng điện, đem hai vợ chồng Triết ra, đích thân thẩm vấn. Ngài vừa nhìn thấy Triết, vụt nhớ lại những lời chửi bới oán hận, bất giác cơn giận bốc cao đến mấy trượng.

Định hạ lệnh xử ngay, bỗng ngài liếc thấy cô cháu dâu, tức là phu nhân Qua Nhĩ Giai, quỳ bên cạnh Triết có một sắc đẹp quả là tuyệt, da ngà mặt hoa, duyên dáng, quyến rũ, thân dài mà đầy đặn. Ung Chính gần đây nghe lời bọn hoà thượng Lạt ma chơi gái, đã có một sự từng trải đặc biệt về đàn bà.

Ngài liền hỏi cô cháu dâu bao nhiêu tuổi thì được biết tuổi mới ba mươi. Tuổi ba mươi là cái tuổi lửa tình đang vượng.

Đứng trước sắc đẹp của mỹ nhân, ngài chẳng còn để ý tới việc khác Ngài không thèm hỏi tội Hoằng Triết nữa, vội bước xuống bảo toạ, đích thân giơ tay nâng bà Qua Nhĩ Giai đứng dậy. Ngài quên luôn đó là cô cháu dâu của ngài, dắt tay chạy tuốt vào thâm cung…

Qua ngày hôm sau, một đạo thánh chỉ ban xuống, tha cho Hoằng Triết trở về Trịnh gia trang, đã thế lại còn phong cho Triết làm quân vương nữa. Hoằng Triết nghĩ rằng, cha thì bị người giết, vợ thì bị người cưỡng đoạt, mình còn mặt mũi nào sống trên đời nữa. Bởi vậy nhân lúc vắng người, Triết lấy cây bảo kiếm kề vào cổ và chỉ với một nhát, vong hồn đã theo cha về suối, vàng.

Ung Chính hoàng đế từ khi cướp được cô cháu dâu, ngày đêm vui thú mây mưa chẳng thiết gì tới việc khác. Ngài cao hứng đến mức đem bà Qua Nhĩ Gia và quý phi tới cung Ung Hoà để xem ngày "Phật mừng" (Hoan hỉ phật). Hôm đó vị quốc sư của ngài cũng đem bọn sư Lạt ma tới cung Ung Hoà để "nhảy phật" (khiêu phật), thành thử ngài được một bữa vui thoả thích. Nhảy phật là gì vậy? Đây là một nghi lễ của bọn sư Lạt ma Tây Tạng thời đó. Cứ mỗi tháng họ chọn một ngày đại cát để đưa một số đông nữ đệ tử vào cung Ung Hoà, trước hết cởi bỏ hết quần áo ở phòng ngoài rồi vào cung bắt đôi mà giao cấu dưới tượng phật. Bọn nữ đệ tử này quá nửa đều thuộc con nhà quan, cô nào cũng xinh đẹp cả. Vả lại, nếu không đẹp thì đâu có được vào.

Từ đó trở về sau, Ung Chinh hoàng đế cứ khi nào rảnh lại đến Ung Hoà cung để du hí, quên phứt chương trình huỷ diệt công thần của ngài.

Cách sau đó ít hôm, bỗng có viên tổng đốc Chiết Giang tên là Lý Vệ bí mật dâng sớ nói Giang Tây học chính là Tra Tự Đình ra đề thi trong có bốn chữ "Duy dân sở chỉ" quả là có dấu hiệu phản nghịch. Lần này Đình ra đề thi hai chữ "Duy chỉ" (rút ngắn bốn chữ Duy dân sớ chỉ) lây hai chữ "Ung Chính", niênhiệu của hoàng đế mà bỏ mất cái đầu, là để trù ếm hoàng đế, rõ là một kẻ đại nghịch bất đạo.

Ung Chính hoàng đế đọc xong tờ sớ, đột nhiên nổi giận đùng đùng, tức khắc hạ dụ cách chức Tra Tự Đình, bắt giải cho Hình bộ giam xét hỏi, Một đạo chỉ ban xuống cho Lý Vệ như sau:

"Tra Tự Đình vốn là viên đại thần hành tẩu trong nội đình, về sau được giữ chức nội các học sĩ. Nhận thấy Đình ăn nói dối trá, lại có tướng ác dữ khiến ai thấy cũng phải cho rằng tâm thuật của y không ngay. Triều đình nhân khuyết chỗ, bất đắc dĩ phái y đi Giang Tây, nay xét lại đề thi có bốn chữ "Duy dân sở chỉ" thì đúng là y có ý oán hận. Đình đã có ý xấu đó tất nên bình nhật phải có bút tích ghi chép, cần phải tới nơi tra xét. Việc tra xét này giao cho Chiết Giang tổng đốc Lý Vệ cấp tốc thi hành!"

Lý Vệ được chỉ ý, liền đem mấy chục tên thân binh, hùng hùng hổ hổ kéo tới nhà Tra Tự Đình khám xét. Bà Tra lão thái thái, tức là mẹ Đình, sợ quá ngất đi. Vợ Đình là bà Chúc phu nhân thấy thế vội quát mắng bọn thân binh không được hỗn, rồi đưa tất cả gia đình lớn nhỏ ra ngoài.

Lý Vệ lục lọi tra xét mãi, suốt cả buổi mà chẳng thấy giấy má, thư từ, chữ nghĩa, trước tác gì tỏ ý phản nghịch cả. Mãi sau, Vệ tìm được một cuốn nhật ký cất trong rương sách. Vệ cầm về nha môn, bắt chước kiểu chữ của Đình viết thêm vào nhiều chuyện hoang đường nguy hại cho Đình rồi gởi về Kinh.

Thế là một đạo thánh chỉ hạ xuống ghép Tra Tự Đình vào tội phản nghịch, tức khắc đem chính pháp. Người con trai cả Tra Tự Đình cũng bị xử chém. Còn gia thuộc của Đình thì bị sung quân lên mãi Hắc Long Giang, khiến một dòng họ quan sai đang yên ấm, đang sung sướng bỗng chốc tan tành.

Tại sao Lý Vệ lại thù hận Tra Tự Đình đến thế? Câu chuyện chỉ do cô tiểu thư mà ra. Đình có đứa con gái tên gọi Thiếu Vân, năm đó mười bảy tuổi, dung mạo tuyệt đẹp, lại phải cái hết sức đa tình. Ngoài ra Đình còn nuôi một đứa trẻ mồ côi, con của một người bạn, tên gọi Từ Ngọc Thành… Ngọc Thành lớn lên cũng hết sức bảnh trai, chơi rất thân với Thiếu Vân. Thế rồi hai cô cậu đã ngầm ước việc chung thân với nhau.

Việc này, bà mẹ của Vân cũng đã biết. Càng lớn, Thành càng khôi ngô tuấn tú lại chịu khó chăm học, mới mười sáu tuổi đã đỗ tú tài. Còn Vân, sắc đẹp đồn dậy trong ngoài, ai biết cũng trầm trồ khen ngợi.

Hồi đó, Lý Vệ với Tra Tự Đình là bạn thân với nhau. Vệ nhờ người đánh tiếng cầu hôn Thiếu Vân cho con trai mình.

Đình về nhà bàn tính với vợ, Chúc thị mới đem nỗi niềm tâm sự của con gái nói cho chồng biết. Đình vốn cưng con gái, không muốn gây đau khổ cho con, bèn cứ nói thực ra và cự tuyệt bên họ Lý. Không ngờ, Vệ bèn đem lòng thù oán, lúc nào cũng chỉ tìm sơ hở của Đình để trả hận. Đình là người có tính cao ngạo, không chịu chiều đời thì làm sao bảo ông ta chịu khuất được. Rồi cũng từ đó, đôi bên nhạt nhau, và từ nhạt đến thù kể cũng chẳng bao xa. Trước đó vài năm, chính Đình đã dâng sớ tố cáo Vệ nhưng vì mả nhà Vệ còn vượng nên chẳng thể lay chuyển được y. Lần này, đến lượt Vệ báo thù. Đình bị giam trong lao Hình bộ, chỉ còn đợi có thánh chỉ xuống là chính pháp. Uất ức quá, Đình tắt thở ngay trong lao.

Ấy thế mà Ung Chính hoàng đế cũng chẳng tha, vẫn bắt mang Đình ra băm xác để thị chúng. Tiểu thư Thiếu Vân theo mẹ là bà Chúc thị bị sung quân lên miền Hắc Long Giang, dọc đường chịu không biết bao nhiêu là đói rét khổ cực, may nhờ được Từ Ngọc Thành chung tình, lo liệu giúp đỡ, hai mẹ con nàng mới được yên ổn tới nơi. Thành đem sở học ra để dạy học nuôi thân, đồng thời nuôi sống cả hai mẹ con Thiếu Vân.

Sau khi án văn tự xảy ra, Ung Chính hoàng đế rất lưu ý tới trước tác của bọn văn thân. Ngài dặn dò đám đại thần tâm phúc sục sạo tra xét khắp nơi… Thế rồi, chỉ ít hôm sau, một án văn tự khác lại đến. Đó lấ cái án Lục Mai Sinh. Sinh vốn là một nhân viên cung sự của bộ Lễ. Nhân vì xét tâm lý của các vị vương thỉnh cầu phong vương kiến địa, Sinh bèn sáng tác mười bảy Thiên "Thông giám luận", nội dung nói chế độ phong kiến hữu ích như thế nào! Chế độ quân quyền tệ hại ra sao? Có kẻ muốn thủ lợi bèn đem văn bản của Sinh đến mật cáo với Thuận thừa quân vương Tiểu Bảo.

Thuận thừa quân vương được uỷ thác của Ung Chính hoàng đế nhưng chưa tìm ra được vụ nào, nay vớ được bản văn "Thông giám luận" này chẳng khác gì vớ được vàng. Nắm được bằng chứng chắc chắn, Vương quan trọng hoá vấn đề lên, rồi viết sớ tâu:

"Thông giám luận" chỉ là những lời lẽ của kẻ bất bình. Những lý lẽ trình bày về cái hay cái lợi của triều đình đều láo xược tỏ ý mỉa mai rõ rệt tội thật khó dung".

Ung Chính xem tờ sớ, nổi giận đùng đủng, lập tức hạ chỉ kết án Lục Mai Sinh tà thuyết loạn chính, chém đầu tức thì.

Lục Mai Sinh vừa bị giết xong, chẳng ngờ hai vụ án văn tự khác lại xảy ra, gây náo loạn cả trong ngoài. Vụ thứ nhất tại Chiết Giang, do bộ sách "Tây chinh tuỳ bút" của Uổng Cảnh Kỳ. Nội dung của bộ sách này có nhiều lời lẽ phỉ báng triều đình hoàng thượng, ca tụng Miên Canh Nghiêu. Viên địa phương quan tra ra, vội báo lên triều đình. Một đạo thánh chi ban xuống hạ lệnh chém đầu Uổng Cảnh Kỳ, đồng thời phát vãng vợ con Kỳ lên Hắc Long Giang sung quân. Thứ nhì là vụ thị lang Tiền Danh Thế, vốn là tri gia của Miên Canh Nghiêu. Nghiêu còn sống, Thế sáng tác rất nhiều thơ văn ca tụng. Những bài này sau cũng bị quan địa phương phát giác và cấp báo về kinh. Lại một đạo thánh chỉ ban xuống kết tội. Thế là xuẩn nịnh quyền quý, lập tức cách tuột chức tước, may mà thoát khỏi tội chết.

Ung Chính hoàng đế dùng những thủ đoạn độc ác như vậy, tưởng rằng sẽ đàn áp được lòng người. Ai ngờ, hoàng đế càng hung ác bao nhiêu thì nhân tâm càng phẫn nộ bấy nhiêu, khiến ngài lại càng ăn ngủ không yên bấy nhiêu.

Nhân một hôm nhàn rảnh, Ung Chính hoàng đế chợt nhớ tới tên đại đạo Ngư Xác vẫn chưa trừ được. Đây là một mối lo lớn lúc nào cũng nơm nớp trong đầu. Ngài được tin Ngư Xác thường xuất hiện tại Hổ Vi Sơn, vùng Hoài Bắc, đánh cướp bọn khách thương qua lại, bèn hạ một mật chỉ cho tổng đốc Lưỡng Giang là Vũ Thành Thuỵ tới truy nã và nếu bắt được lập tức chính pháp Ngư Xác.

Vũ Thành Thuỵ vốn là một tay cừ khôi trong việc dẹp cướp. Thuỵ nhận thánh chi, lập tức cho tay chân bí mật dò thám và được tin Xác ở ngay trong Hổ Vi Sơn, cũng lại biết Xác chỉ đánh cướp của bọn tham quan ô lại, gian thương, ác bá mà thôi. Lúc trước Xác được Khang Hi hoàng đế mời về triều để bảo vệ thái tử Dân Nhung. Về sau, khi thái tử bị phế, Ung Chính hoàng đế đã có lần mời Xác về giúp, nhưng vì cảm, kích ân đức của thái tử, Xác không chịu, đem người con gái tên gọi Ngư Nhương vào ở trong Hổ Vi Sơn chuyên ra tay nghĩa hiệp giúp dân chúng địa phương dẹp bỏ những chuyện bất bình. Do đó dân tình thảy đều cảm kích và hàm ơn Xác.

Nay được tin triều đình ban lệnh truy lùng Xác, ai nấy đều vội đi báo tin ngay, Xác nghe xong chẳng đổi sắc mặt, chỉ đem Ngư Nhương tới gửi một người bạn tên gọi Cầu Nhiêm Công.

Cách vài hôm tổng đốc Lưỡng Giang đích thân tới gặp Xác. Gặp Thuỵ, Xác chẳng thèm úp mở gì, kể toạc ra Ung Chính là người tàn bạo ra sao và mình một đời hành hiệp thế nào cho Thuỵ nghe. Thuỵ cho Xác biết về vụ thánh chỉ ban xuống. Xác tuyệt nhiên không chút sợ hãi, tự mình chạy tới nhà lao Giang Minh chịu giam cầm. Thế rồi vài ngày sau, trên giới giang hồ đồn rầm lên rằng tên đại đạo Ngư Xác đã bị Lưỡng Giang tổng đốc điệu từ lao ra chính pháp rồi.

Tin tức này loan đi, truyền đến tai cô con gái Ngư Nhương khiến nàng khóc đến chết đi sống lại mấy lần. Và cũng từ đó, nàng quyết chí báo thù cho cha, theo Cầu Nhiêm Công luyện tập võ nghệ để chờ dịp hạ thủ. Đó là việc trong tương lai, ta hãy nán lại ít lâu.

Lại nói Ung Chính hoàng đế sau khi đã giết được Ngư Xác thì trong thiên hạ coi như không còn ai là đối thủ nữa.

Lòng ngài vô cùng khoan khoái. Nào ngờ chẳng được mấy hôm, Tứ Xuyên tổng đốc Nhạc Chung Kỳ mật tấu Tăng Tính người Hồ Nam kết đảng mưu phản. Ung Chính hoàng đế nghĩ uy vũ của mình đến thế mà vẫn còn có tên Tăng Tính nào đó còn dám mưu đồ nọ kia thì lạ thật. Phải dùng hắn làm tấm gương cho kẻ khác mới xong. Ngài bèn phái ngay hai viên đại thần, một Mãn một Hán, tới Tứ Xuyên hợp lực với Nhạc Chung Kỳ để tra xét và dẹp bỏ vụ này.

Tăng Tính là ai mà dám đối đầu với Ung Chính hoàng đế như vậy? Xin thưa: Tăng Tính hiệu là Bô Trạch, vốn là một kẻ sĩ có sở học uyên bác của tỉnh Hồ Nam. Tính thấy các vua quan nhà Thanh áp bức dân Hán quá đáng, trong lòng phẫn hận, thường có ý nghĩ tập hợp bạn bè cùng chí hướng khởi nghĩa, đuổi người Mãn, khôi phục lại Trung nguyên.

Một hôm, Tính gặp Trương Hy cũng ngụ trong xóm. Hy vừa mượn được cuốn sách bình luận về thời cuộc do Lã Văn Thôn sáng tác, nội dung quá nửa nói về sự khác biệt giữa Hoa và Di (Hoa là Trung Hoa, Di là những quốc gia nhỏ chung quanh Trung Quốc như Mông, Mãn v.v…); cũng nói cả về sự giao tỉnh giữa vua tôi phải như bạn hữu; lại nói cả đến việc dọn dẹp bọn ngoại bang để cứu Trung Quốc, đó là sứ mệnh của người quân tử. Tóm lại suốt cuốn sách, chỗ nào cũng có lời lẽ bài xích người Mãn. Tính xem xong, không khỏi vỗ bàn khen tuyệt.

Lã Văn Thôn hiệu là Lưu Lương, vốn một văn nhân nổi tiếng đất Hồ Nam. Học trò của Thôn rất đông, đều là những người thành đạt cả. Khang Hi hoàng đế biết danh tiếng của Thôn, bèn phái người tiến cử Thôn ứng thí vào Bác học hồng tư khoa. Thôn trong lòng ghét cay ghét đắng người Mãn, bảo Thôn làm quan nhà Thanh sao được. Thôn liền cắt tóc đi tu, rồi trốn biệt vào rừng sâu làm hoà thượng. Con trai Thôn là Lã Nghi Trung, cũng người có chí khí. Trung nối chí cha, bèn cùng bọn môn sinh của cha mình như Nghiêm Hồng Lục, Thám Tại Khoan, kết thành hội nhóm rồi đem tác phẩm của cha sao chép thành nhiều bản để phân phát cho cả hội cùng đọc.

Trương Hy vì thế cũng sao được một bản cất trong nhà. Khéo thay hôm đó Tăng Tính bắt gặp, xem xong lấy làm khoái, bèn hỏi Lã Nghi Trung hiện ở đâu thì được Hy cho biết đang ở ngay trong thành. Thế là ngay đêm đó, Tính bắt Hy đưa tới gặp Trung cho bằng được. Sau đó Trung cũng mời Tính đến gặp một số anh em của mình. Từ đó, hai bên hợp một thành một đảng lớn.

Tính một hôm nói với mọi người là có biết Tứ Xuyên tổng đốc Nhạc Chung Kỳ và kế hoạch của mình là dùng ba tấc lưỡi thuyết Kỳ dấy binh ở Tứ Xuyên, trong khi bọn Tính nổi đậy ở Hồ Nam để hưởng ứng. Tất cả nghe xong vỗ tay cho là diệu sách và sửa soạn lên đường đi Tứ Xuyên dụ thuyết…

Hồi 65

NỮ HIỆP LÃ TỨ NƯƠNG

Tăng Tính cùng bọn Trương Hy lên đường đi Tứ Xuyên gặp Nhạc Chung Kỳ. Tính thuyết Kỳ:

- Ngài vốn là con cháu của Nguyên soái Tống triều Nhạc Phi thuở nào. Còn đương kim hoàng đế Mãn Thanh lại chính là con cháu Kim Ngột Truật lúc trước. Hiện ngài làm tổng đốc thống lĩnh đại binh, đứng trước thù nhà nợ nước, lẽ nào ngài không báo đền?

Mới đầu, Kỳ nghe lời Tính nói, lòng cũng có vẻ cảm động. Nhưng khi nhớ tới cái chết của Miên Canh Nghiêu, Kỳ bất giác giật mình, lòng lạnh hẳn đi. Sau một hồi đàm luận, Kỳ biết rõ rằng Tính chỉ là một anh tú tài làm phản, chẳng có chút thực lực nào. Kỳ lập tức biến kế, một mặt giả đò lập thệ kết minh với bọn Tính, một mặt ngầm tống đạt công văn cho tuần phủ Hồ Nam dặn y canh chừng bọn Lã Nghi Trung. Rồi đích thân Kỳ gửi một tập hồ sơ mật lên kinh.

Mấy hôm sau, người ta thấy hai vị quan lớn do Ung Chính hoàng đế phái tới Tứ Xuyên, bắt tất cả bọn Tăng Tính, Trương Hy. Khi bị đem thẩm vấn, Tăng Tính chẳng thèm giấu giếm, công khai bộc lộ tâm trạng của mình. Hai vị Khâm sai liền áp giải cả bọn can phạm tới Hồ Nam. Trong khi đó, tuần phủ Hồ Nam cung đã bắt Lã Nghi Trung cùng bọn gia nhân và môn sinh như Thầm Tại Khoan, Nghiêm Hồng Lực.

Bọn Khâm sai cứ tình vậy vào tâu. Thánh chỉ của hoàng đế truyền xuống nói bọn Tính và Hy bị Lã Văn Thôn dùng tà thuyết cám dỗ, chi là tòng phạm được gia ơn phóng thích, chỉ có Lã Nghi Trung mới là tên đại nghịch bất đạo, tức thì trảm quyết chết thảy toàn gia. Lã Văn Thôn còn bị quật mồ, thây đem băm nát. Bọn môn sinh Thẩm, Nghiêm đều nhất luật xử trảm. Cái án tày trời này giết chết một trăm hai mươi ba người, đến nỗi bách tính kẻ nào kẻ nấy hoảng hồn bạt vía, oán giận khôn nguôi.

Gia đình họ Lã bị giết gần như chẳng sót một ai. Giữa lúc hỗn loạn, may chỉ còn lại một đứa con gái nhỏ của Lã Nghi Trung mà thôi. Đứa bé gái nhà họ Lã này tên gọi Lã Tứ Nương, là con gái thứ tư của Lã Nghi Trung, gọi Lã Văn Thôn là ông nội. Năm đó nàng mới mười bốn tuổi. Lúc tuần phủ Hồ Nam phái binh tới bắt toàn gia thì nàng đang ngồi chơi bên hàng xóm, mãi sau mới biết, vừa khóc vừa tính chạy tới nha môn thăm hỏi cha mẹ. Người con gái hàng xóm vốn đa mưu vội can ngăn và ngầm đem nàng gửi vào gia đình họ Chu ở trước cổng nhà Lã Văn Thôn. Chu ông, nhà có vườn rộng, thường nuôi tới hơn trăm tráng đinh. Mỗi khi rỗi rảnh. hết việc đồng áng, bọn này thường mời thầy về dạy võ nghệ cho họ. Ngay cả Chu ông cũng nhân đó học năm ba miếng võ chơi. Ông thầy võ hồi đó đã hơn sáu chục tuổi, thân hình cao lớn, hai bên cằm mọc hai chòm râu dài, phất phơ trước gió.Ông đi quyến, múa kiếm vẫn còn vững chãi, nhanh nhẹn lắm.

Lã Tứ Nương ở trong nhà Chu công, thường núp sau bức bình phong xem trộm cảnh tập võ. Tuy chỉ là một đứa con gái mười bốn tuổi nhưng nàng lúc nào cũng nhớ tới mối thù cha mẹ. Nàng giận mình là đàn bà con gái yếu ớt, thường thắc thỏm không biết cách nào để trả mối huyết hải oan cừu này. Thấy có thầy tới dạy võ, nàng lấy làm mừng, cho là dịp may đã đến với mình.

Một hôm, Chu công đang cùng ông thầy võ già ngồi uống rượu ở nhà trước, bỗng một cô gái chạy từ sau tấm bình phong vụt ra, quỳ xuống trước mặt ông thầy, miệng nói:

- Xin người thu con làm đệ tử?

Người con gái đó chính là Lã Tứ Nương. Lúc đầu, ông thầy già không muốn nhận nhưng nàng cứ quỳ mà khẩn khoản mãi, lệ nhỏ ròng ròng. Chu công thấy nàng thành tâm đồng thời sợ nàng lỡ lời lộ ra là con gái Lã Nghi Trung bèn vội nhận nàng là em gái mình và cùng xin hộ với nàng. Ông thầy võ tưởng thật mới chịu thu nhận.

Từ đó, Lã Tứ Nương theo bọn tráng đinh luyện tập võ nghệ. Nàng sẵn mối căm thù hun đúc, hơn nữa có trí thông minh, thân thể lại mềm dẻo nên chăng mấy lúc tài nghệ đã vượt hẳn bọn con trai. Ông thầy võ rất lấy làm mừng, rồi từ đó ông đặc biệt chú ý tới nàng, đem hết bản lĩnh của mình truyền dạy cho.

Ba năm qua, Lã Tứ Nương võ nghệ đã tới chỗ cao cường. Đánh quyền, múa kiếm, kinh công… thảy đều thông thạo. Ông thầy lại dạy cả nàng phép "luyện khí" và phi kiếm, thường chỉ đệ tử chân truyền của chùa Thiếu Lâm mới được truyền thụ.

Ba năm sau, Lã Tứ Nương không còn có môn võ gì mà nàng không biết, không hay, không tinh. Nàng có thể vận nội lực gắn chặt lưng mình vào vách tường mà lên xuống tuỳ ý. Nàng cũng có thể giấu phi kiếm dưới cườm tay, phóng ra xa, lấy đầu người một cách lẹ làng, thần diệu. Bản lĩnh này trong phái Thiếu Lâm chỉ ba người có được: người thứ nhất là Thiếu Lâm Tăng, người thứ nhì là Ung Chính hoàng đế và người thứ ba là Cầu Nhiêm Công. Ông thầy võ truyền thụ võ nghệ cho Lã Tứ Nương chính là Cầu Nhiêm Công đó.

Cầu Nhiêm Công vốn cũng giận Ung Chính hoàng đế quá độc ác, giết chết bao bạn hữu và đồ đệ của mình, nên ông đã kết thân với bọn hảo hán trên giới giang hồ, ngầm mưu việc chống lại nhà Thanh. Nay được một nữ đệ tử xứng đáng, lòng ông sung sướng quá, bèn đặt cho Tứ Nương một cái tên là Hiệp Nương. Ông khuyên nàng nên lấy điều nghĩa hiệp làm trọng. Ông bảo nàng:

- Bản lĩnh của con ngày nay, trừ Thiếu Lâm Tăng ra, có thể coi như số một rồi đó.

Lã Tứ Nương học được một bản lĩnh tuyệt luân như vậy đáng lý phải mừng mới đúng, đằng này nàng vẫn đau khổ ngấm ngầm, trong lòng lúc nào cũng nhớ tới cái chết thảm khốc của cha mẹ. Nàng có cả một bầu tâm sự não nề, nhưng chẳng biết thổ lộ cùng ai. Nhất là lúc đó nàng đã trưởng thành, nỗi niềm thầm kín của người con gái mười tám, đôi mươi quả đã có những phút xốn xang, hồi hộp, khó nói nên lời. Lòng nàng hoạ chỉ có Chung Dung Kính, con trai của Chu công, mới hiểu được. Và cũng vì vậy, Kính hết dạ chiếu cố tới nàng.

Chu Dung Kính thua Lã Tứ Nương hai tuổi. Tuy vậy, chàng luôn tỏ ra người lớn trước nàng. Kính để ý tới Tứ Nương kể từ lúc nàng đặt chân tới nhà chàng. Nào khi ăn khi uống, nào những chuyện ấm lạnh mà bọn gia nhân không kịp xét tới, chàng đã ngầm thu xếp cho nàng hết sức đầy đủ và cẩn thận. Gặp những mùa có trái ngon, hoa đẹp, chàng đều mua, đưa vào phòng cho nàng. Tuy tình nặng như thế nhưng Kính chẳng bao giờ đám chọc ghẹo, cười cợt nàng. Có điều lạ là nàng tuy đẹp như hoa mai trước gió, như bông hạnh nở bên tường nhưng tính tình lại lạnh như băng. Nàng vẫn biết Kính hết dạ chung tình với mình, bao bọc mình nhưng nàng phải cố tâm thoát khỏi lưới tình chỉ vì nàng còn chất chứa trong lòng một mối huyết hải thâm thù.

Trong lòng nàng cũng vấn vương xao động, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra nghiêm nghị, lạnh lùng. Có lúc nàng quá thương tâm, chỉ còn biết khóc, khóc đến không còn nước mắt. Thật đáng thương cho một người con gái chưa đến tuổi thành niên đã chẳng may gặp cơn gia biến, bơ vơ giữa cõi đời. Nhiều đêm, vào lúc canh khuya vắng lặng, nàng thức giấc nghĩ tới mối chung tình của Dung Kính rồi miên man nghĩ đến số kiếp khổ sở của mình mà buồn bã ê chề. Nàng úp mình trên gối ấm ức khóc mãi không thôi.

Cứ mỗi đêm nàng khóc và qua ngày hôm sau, đôi mắt nàng đỏ ngầu, thì Dung Kính lại lén ra mua một chiếc khăn tay mới, đặt trên gối của nàng.

Ít lâu sau, chàng và nàng đã đến lúc nín nhịn không nổi nữa liền thổ lộ chân tình cho nhau. Thế rồi cứ mỗi lần gặp Tứ Nương, Dung Kính lại khuyên nàng nên cẩn trọng thân thể. Nàng thấy chàng vừa nói đến chuyện đó thì liền lấy tay áo che mặt, quay gót chạy đi.

Có một hôm, trời hết sức nóng nực. Chàng và nàng bất ngờ gặp nhau dưới hiên nhà. Chàng nhìn vào mặt nàng và hỏi:

- Tối qua chị lại khóc phải không? Chị nên bỏ qua mọi việc. Cha mẹ chị đã mất cả. Tôi lại vì điều trai gái tỵ hiềm mà không thể an ủi chị được. Chẳng may chị khóc đến sinh bệnh thì tôi còn biết làm sao đây?

Lúc đầu thoạt nghe, nàng bất giác mặt đỏ tía tai, xấu hổ không biết để vào đâu, nhưng về sau bỗng đôi hàng lệ của nàng cứ lã chã như những hạt châu rơi xuống. Nàng vội quay mặt đi, chạy một mạch về phòng đau đớn oà lên khóc Nàng nghĩ tới mối tình tha thiết của Kính. Nhưng nàng không thể vì tình yêu của chàng mà quên đi việc lớn của mình! Bởi vậy nàng nghĩ tốt hơn hết là nên sớm ly khai với chàng. Nghĩ tới đây, nàng liền quyết định là ngay tối hôm đó, nàng sẽ ra đi.

Trời tối, trăng trong gió mát như gợi lòng khách giang hồ, Lã Tứ nương nai nịt gọn gàng phi thân nhảy qua bờ tường rồi loáng một cái đã mất hút. Đây là lần đầu tiên nàng được nếm mùi vị chốn gió sương. Nàng đi đã xa, đưa tay sờ vào túi, mới biết khi ra đi chẳng đem theo chút tiền bạc nào. Làm sao bây giờ? Nàng đành lột vàng, tháo xuyến ra bán lấy tiền lộ phí. Nàng nghĩ ra được một cách kiếm tiền. Nàng thuê hai người giúp việc, rồi với một chiếc thanh la, kiếm chỗ mãi võ.

Một cô gái vừa trẻ vừa tuyệt sắc thì ai mà bỏ qua được. Thế là cả phố cả phường đổ xô lại để xem người đẹp hơn là xem võ nghệ. Rồi thì anh nào anh nấy đua nhau ném tiền tặng thưởng cho nàng đến dốc cạn cả hầu bao. Nàng lại đi tìm chỗ khác để đánh thanh la chiêu khách. Cứ thế nàng độ nhật sinh nhai trên đường, bất giác đã hơn một tháng.

Hôm đó, nàng tới địa phận Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Phủ Thái Nguyên vốn là một nơi thị tứ náo nhiệt, khách thương qua lại rất nhiều. Những chàng công tử thấy Tứ Nương một mình mãi võ, đều cho là nàng mượn cớ kén chồng. Nhìn vào khuôn mặt xinh đẹp, thân hình óng chuốt của nàng, chàng nào cũng lắc lém, tít mắt khen tuyệt. Tức cười nhất là có mấy cậu dại gái võ vẽ đôi chút quyền cước, cả gan nhảy lên đài tỉ võ với nàng để được mong động chạm đôi chút cho hả nỗi thèm thuồng.

Tứ Nương đọc rõ tâm địa bụng chúng, liền đặt ngay điều kiện như sau: hai bên tỉ võ đều phải bỏ tiền đặt cuộc năm chục lạng bạc, ai thắng sẽ lấy cả. Tiền thì chúng có thừa, bèn nhận lời ngay. Nàng còn giả bộ kém cỏi, vờn đối thủ mãi rồi mới kín đáo, bằng thế võ hiểm, quật ngã. Những tên khác hí hửng đua nhàu vào đấu như thiêu thân lao vào lửa. Thực ra chúng chỉ mong được chút hương thơm của nàng rồi thì đù đau, dù mất tiền cũng vui lòng. Nàng chỉ việc bỏ tiền vào túi sau mỗi chiêu thức nhẹ nhàng và kín đáo. Chỉ một buổi nàng đã được tới năm trăm lạng bạc. Nàng sợ quan phủ sở tại đem lòng ngờ vực, bèn rời Thái Nguyên qua Sơn Đông.

Dọc đường, còn thiếu gì kẻ mắc vào cái lưới nhan sắc mà hiểu kính tiền lộ phí cho nàng.

Một hôm nàng tới Thiên Tân, theo lệ thì nàng thường kiếm chỗ sau khu Chiêu khách tỉ võ, nhưng khi vừa tới, nàng bỗng thấy một vị hoà thượng vừa lớn, vừa mập mạp, tay bưng hai trăm lạng bạc lớn tiếng nói:

- Này nàng! Ta đem hai trăm lạng bạc này đánh cuộc đây! Nếu nàng thắng ta thì khỏi nói, hai trăm lạng bạc này tất nhiên về tay nàng rồi. Nhưng nếu ta thắng thì chỉ cần từ nay nàng bỏ nghề mãi võ, theo ta về chùa làm một mụ hoà thượng bà bà là xong.

Lã Tứ Nương vừa xấu hổ vừa giận, lập tức đem tuyệt chiêu Kim cương quyền của sư phụ truyền thụ ra đối phó. Không ngờ nhà sư giao thủ với nàng được có môi một chiêu bỗng quát lên một tiếng "Ngừng tay!" rồi bảo:

- Đúng là sư muội của ta rồi! Khỏi cần giao đấu nữa, hai trăm lạng bạc này ta giúp sư muội đem theo lành lộ phí. Sư muội miễn thứ cái tội lỗ mãng cho ta nhé.

Nói đoạn nhà sư vòng tay từ biệt, quay gót đi luôn. Lã Tứ Nương được hai trăm lạng bạc của nhà sư, cũng bỏ nghề mãi võ luôn. Nàng lẻn vào thành Bắc Kinh, mướn một căn nhà trọ và một đứa tớ gái giúp việc trong nhà. Hồi ấy, khắp kinh thành Bắc Kinh chỗ nào cũng đầy rẫy bọn trinh thám của hoàng đế dò xét tình hình dân chúng. Thấy nàng có hành tung bất minh, chúng đã tới tra hỏi đôi ba lần. Nàng coi bộ tình hình có vẻ không ổn, bèn tới ở trong một toà cổ miếu, tường xiêu mái sụp, ngày đêm làm mồi cho mưa nắng. Giữa lúc cô tịch âm thầm dó, nàng bỗng thấy một bóng người cao lớn nhảy vút qua đầu tường, để rơì tấm thân nặng ước trăm cân xuống đất nhẹ nhàng như một chiếc lá rụng. Nàng vội búng ra một kiếm. Không ngờ lưỡi kiếm vừa phóng ra đã bị đại hán nọ tiếp gọn trong lòng bàn tay mình.

Dưới bóng trăng mờ, nàng định thần nhìn kỹ thì chẳng phải ai xa lạ, mà chính là sư phụ nàng. Cầu Nhiêm Công, với bộ râu dài trắng như cước đang phất phơ trước gió, khà khà cười lớn, rồi bảo nàng:

- Thật là đi rách cả đôi giầy sắt mà chẳng thấy. Nay gặp được con quả chẳng phí công tí nào!

Nói đoạn, Cầu Nhiêm Công nắm lấy tay nàng chạy ra khỏi miếu thì đã thấy có một người con gái khác đang đứng chờ.

Lại nói Lã Tứ Nương lén bỏ Chu gia ra đi, đối với kẻ nào khác chẳng nói làm chi nhưng đối với Chu Dung Kính thì quả là nỗi đau khổ lớn nhất rồi. Suốt ngày Kính bỏ ăn, bỏ ngủ như cuồng như điên. Phụ thân của Kính thấy vậy, bất nhẫn lắm. Ông nghĩ Tứ Nương đi phen này hẳn chỉ là tới Bắc Kinh để báo thù. Bởi vậy, ông nói sự thể cho Cầu Nhiêm Công biết và muốn Công đi Bắc Kinh trợ giúp nàng.

Chu Dung Kính nằng nặc đòi đi theo. Cầu Nhiêm Công còn có một nữ đồ đệ tên Ngư Nhương, cũng kéo đi luôn. Thế là ba người thu xếp hành lý lên đường. Đi tới đâu, Cầu Nhiêm Công dò la tin tức tới đó và nghe được khách bộ hành đồn đại có một cô gái tuyệt đẹp, bản lĩnh cao cường đi mãi võ khắp nơi. Công nghĩ người con gái đó phải là Lã Tứ Nương chứ không còn ai. Nhưng khi tới Bắc Kinh thì Công lại bặt tin nàng. Công suy nghĩ cẩn thận, cho rằng Tứ Nương rắp tâm mưu đồ đại sự thì tất nhiên là phải tìm nơi hoang vắng mà ẩn náu cho nên bặt tin nàng là vậy. Công liền đi kiếm một khách điếm vào trọ. Thế rồi đêm, vào lúc canh khuya tứ bề vắng lặng. Cầu Nhiêm Công đem theo Ngư Nhương, phi thân nhảy lên nóc nhà, đi tìm Tứ Nương. Hôm đó Công nhảy vào toà cổ miếu và đã tìm được nàng, dắt ra giới thiệu với Ngư Nương đứng đợi ngoài cổng. Tứ Nương thấy Ngư Nương tuổi suýt soát với mình, và dung nhan cũng chẳng thua mình, tự nhiên thân với nhau ngay. Nàng hỏi Ngư Nương lên kinh làm gì thì Ngư Nương kể cho nàng chuyện cha mình là Ngu Xác bị hoàng đế bắt tội chết, nàng lên kinh tìm cách báo thù.

Hai người cùng một chí lại càng thân nhau hơn. Nhưng người sung sướng nhất đời lúc này phải kể Chu Dung Kính. Chàng nắm lấy tay áo nàng, khẩn khoản khuyên nàng chớ lên mạo hiểm, e nguy đến tính mạng. Nàng nào có nghe Kính song cũng tự nhủ:

- Dung Kính đối với ta quả thật chung tình. Ta e rằng trên thế gian này khó có thể tìm ra một người thứ hai như vậy. Phen này, nếu lo xong việc lơn ta sẽ cùng chàng tính chuyện trăm năm.

Hồi này, nàng đã có sự lịch duyệt trên chốn giang hồ không còn e lệ rụt rè như xưa, nên bèn thành thực bày tỏ nôi niềm tâm sự cho Kính nghe:

- Tấm thân này vốn dĩ là đã là của chàng rồi. Song hiện thiếp còn muốn mượn chàng để dùng vào việc lớn đã. Sau khi trả thù xong, chàng muốn thế nào thiếp sẽ theo như thế! Còn lúc này quả thiếp không thể nào tuân theo lời chàng được.

Mấy lời khiến Chu Dung Kính nghe xong vừa mừng vừa lo, chẳng biết khuyên nhủ ra sao nữa.

Cầu Nhiêm Công mướn một căn nhà ngoài cửa Tây Tiên môn cho cả bốn thầy trò làm chỗ cư ngụ lâu dài. Công nói thác đây là một gia đình có cha, có con trai, con dâu đầy đủ. Nhờ đó không có một ai nghi ngờ gì cả.

Hồi này, Ung Chính hoàng đế cũng đã được bọn thám tử cho biết là trong kinh thành có một số đông thích khách đang tìm cách hành thích ngài. Hoàng đế vội hạ mật lệnh phòng bị khắp nơi, canh chừng đủ chốn, một mặt ngầm dặn bộ binh nha môn tra xét kẻ ra ngườì vào nghiêm mật.

Lễ Tế trời đã tới. Khâm thiên giám chọn được ngày tốt, mời hoàng đế xuất thành đi làm lễ. Ung Chính nghe phong thanh bên ngoài nhiều chuyện đáng ngại, đã có ý không đi.

Nhưng ngài nghĩ lại, cho rằng nếu nằm mọp trong cung không dám thò cổ ra ngoài thì cũng làm sao khiến chúng lộ mặt ra mà bắt. Hơn nữa bách tính thấy ngài bỏ cả tế lễ sẽ bàn tán cười chê thêm phiền. Ngài đành liều mạng một keo, tức thì truyền chỉ bày giá tế trời, một mặt điều động thị vệ để hộ giá xuất cung.

Hôm đó các đường phố đều có bộ quân canh gác, Cửu môn đề đốc cho người ngựa phòng bị tra xét suốt dọc đường. Từng đội tay cầm đao thương sáng quắc, đứng dọc theo con lộ, nước chảy cũng khó thông. Hai bên đường, dựng lên nhũng tấm thiên mạn trướng năm sắc rực rỡ, chạy mãi tới trước mặt Thiên đàn (đàn cao để tế trời).

Từ trong hoàng thành đi ra, từng cặp loan nghi từ từ tới trước đàn, rồi tiến lên phía trên. Các quan lớn văn võ khắp triều chia hai hàng đứng thăng tắp hai bên. Ung Chính hoàng đế bước từ trên xe loan dư xuống. Đội lính thị vệ vây kín lấy ngài, rầm rộ đưa ngài lên đàn cao. Trên mặt đài có đầy đủ đồ tế lễ.

Ung Chính hoàng đế tính quay mình trở xuống. Bỗng ngài nghe có tiếng động phát ra từ tấm màn Thiên mạn, ngài vội búng ngón tay một cái, tức thì một đạo bạch quang bay vụt tới đó. Và chỉ vài giây sau đó, một cái đầu con hồ ly từ trên cao rớt phịch xuống đất. Hoàng đế nhìn thấy rõ rồi, lòng hết lo ngại. Bọn thị vệ tả hữu đều đồng thanh hô vạn tuế…

Đứng sau Ung Chính hoàng đế lúc bấy giờ có Ngạc Nhĩ Thái. Hoàng đế quay lại cười bảo Thái:

- Trẫm nghe nói có một bọn thích khách đang tính mưu sát trẫm. Hôm nay, trẫm thử một chút thủ đoạn để cho bọn chúng biết mà liệu, chớ dại mà nhảy vào lưới, chui vào rọ.

Nói xong, ngài cười nhạt một tiếng, càng khiến Ngạc Nhĩ Thái mắt đổ hào quang, toàn thân toát mồ hôi lạnh, miệng chỉ còn biết dạ liên hồi.

Ung Chính hoàng đế về tới cung, dù sao lòng cũng buồn bã chẳng vui. Ngài nhớ lại thuở trước, khi còn học võ tại chùa Thiếu Lâm, có một vị hoà thượng mặc áo vải sắt, bản lĩnh coi như đứng bậc nhất trong môn phái. Y cũng có tài búng kiếm đầu tay. Nếu y còn sống, lại ngả theo kẻ thù của ta xúi giục, không nguy hại cho ta lắm sao? Ta không đề phòng không được.

Nghĩ như vậy, Ung Chính hoàng đế liền cho gọi Ngạc Nhĩ Thái vào cung cùng nhau thương nghị. Thái nói:

- Thần nghe đồn tên trọc ấy hiện đang ở Giang Nam, hoành hành bất chấp, chắc chẳng có kẻ nào xúi bảo nổi hắn ta. Đúng ra, ta phải bắt hắn mà giết đi để trị hại cho dân ấy chứ!

Ung Chính hoàng đế nói:

- Bọn hảo hán trước kia hiện chẳng còn ai. Biết sai ai đi làm cái việc này cho được.

Thái cố moi tìm trong óc, bỗng sực nghĩ ra tướng quân Nhạc Chung Kỳ năm nọ có nói tới một vị sư tên gọi Đại Nham hoà thượng, hiện đang trụ trì tại chùa Thiên Ninh. Thái bèn tâu với Ung Chính, xin hoàng đế hạ một mật chỉ xuống cho Tô Châu phủ đài, bảo đi mời Đại Nham diệt trừ nhà sư mặc áo vải sắt. Ung Chính nghe tâu, lấy làm đắc ý lắm, khen phải luôn mồm. Thái lui ra khỏi cung, vội thực hiện kế hoạch đã định.

Hồi đó, Thiết bố sam hoà thượng (nhà sư mặc áo vải sắt) đang trụ trì tại một ngôi chùa lớn trên núi Nga Mi, tỉnh Tứ Xuyên. Tên trọc này thường phái bọn đệ tử xuống núi chặt lấy đầu người để cung cấp cho y mỗi ngày ba bộ óc. Đám dân quanh vùng liên tục thấy mất đầu người trong đêm khuya, kẻ nào kẻ nấy kinh hồn táng đởm, trốn chạy sạch, đến nỗi thôn xóm vắng tanh, chẳng còn lấy một bóng người.

Về sau, tên trọc mặc áo vải sắt này bỗng lại trở chứng, đòi ăn thai nhi còn trong bụng mẹ. Y lại phái đệ tử xuống núi, mò vào nhà người, nếu thấy có đàn bà chửa tức thì hãm hiếp rồi mổ bụng lấy cái thai nhi đem về. Bọn đồ đệ của y tên nào cũng thuộc loại dâm ác kinh người, không ai dám ngăn trở chúng cả.

Hồi đó Bạch Thái Quan ở nhà rỗi rảnh, nghe nói phong cảnh núi Nga Mi tỉnh Tứ Xuyên hữu tình xinh đẹp, liền tới du lãm. Vốn tay giang hồ lịch duyệt nên khi tái xuất, Quan thường chỉ thích đi đêm. Quan hôm đó ngẫu nhiên tới một thôn phường. Trời đã vào khuya. Quan đi qua một căn nhà thấp lè tè, có mái che sát xuống phía trước. Bên trong ngọn đèn vàng nhạt còn leo lét cháy, phóng ánh sáng lờ mờ qua chiếc cửa sổ lọt ra ngoài. Bỗng Quan thấy một bóng người lượt qua, mà bóng ấy dường như có cái đầu trọc. Bạch Thái Quan trong lòng lấy làm nghi hoặc: tên trọc này đang đêm lẻn vào nhà người thì ắt hẳn "phi đạo tắc dâm" chứ không thể là người lương thiện được. Nghĩ vậy Quan liền dừng bước nghe ngóng, thì bỗng phía trong có tiếng đàn bà khóc rồi tiếng van nài cầu khẩn:

- Thầy tha cho tôi đi! Đau đến chết mất!

Bạch Thái Quan lại càng nghi, bèn giở tài nghệ, cậy mở cửa phòng rồi lẻn vào, thấy một người đàn bà còn trẻ, nằm trần truồng trên giường, và tên trọc đầu đang dùng tay làm gì đó nơi bụng dưới của người đàn bà. Bạch Thái Quan đùng đùng nổi giận, tóm ngay lấy cổ áo tên trọc xách bổng lên như một con gà rồi ném huỵch xuống đất. Tên trọc ngã quay đơ, không thể ngồi dậy nổi. Quan tức thì giơ cao nắm đấm to bằng cả cái tô canh, cứ mặt tên trọc mà nện xuống. Lúc này đã có nhiều người nghe động mà chạy tới. Họ can Bạch Thái Quan ngừng tay, và quát hỏi tên trọc kia. Hắn vội khai việc này thật chẳng do tại tôi. Sư phụ tôi buộc phải đi lấy cho bằng được cái thai nhi nên mới xảy ra nông nỗi.

Bạch Thái Quan hỏi:

- Sư phụ mi là ai?

Tên sư đáp:

- Là Thiết bố sam hoà thượng.

Trên giới giang hồ, Quán đã được nghe đồn về Thiết bố sam, nên bảo:

- Thật là một tên dâm ác. Để ta hỏi tội hắn!

Trời cũng vừa sáng. Quan ăn no rồi áp giải tên sư trọc ra đi, bảo một người trong xóm dẫn đường.

Bọn Quan đi mãi tới lúc mặt trời lặn mới tới chân núi Nga Mi. Quan thấy trước mặt có một nhà sư đang ngồi hóng mát dưới gốc cây đại thụ bèn cho rằng cũng một hạng như tên trọc bị bắt, liền quát lớn:

- Thằng trọc kia! Đừng hòng chạy!

Quát vừa xong, Quan nhảy vọt tới. Hai tay kình địch đấu đã hai mươi hiệp mà vẫn chưa thấy bên nào thua sút, trái lại càng đánh càng hăng. Giao đấu đã đến lúc một mất một còn, nhà sư bỗng nhảy ra ngoài vòng chiến, hỏi Quan:

- Mi có phải môn đồ của tên sư mặc áo vải sắt đó chăng?

Quan đáp:

- Ta tới để bắt thằng trọc đó đây! Có phải mi là đồ đệ của hắn không?

Nhà sư kia cũng nói;

- Ấy chính ta cũng tới để bắt thằng trọc đó.

Quan bụng bảo dạ, đánh nhau mãi té ra mới biết tay phải đánh tay trái, bèn hỏi:

- Hảo hán vâng lệnh ai tới đây vậy?

Nhà sư kia, tức Đại Nham hoà thượng, nghe hỏi bèn lấy tay vỗ đánh phạch một cái vào ngực, rồi vừa chìa ngón tay ra vừa bảo Quan:

- Ta vâng lệnh của phủ đài Giang Tô, dám hỏi hảo hán vâng lệnh ai mà tới?

Bạch Thái Quan bèn đem chuyện gặp tên trọc đang hành sự ở trong xóm kể một lượt cho Đại Nham nghe.

Đại Nham nghe xong, nổi nóng, chửi um lên:

- Thằng trọc khốn kiếp! Mi đã làm bại hoại cả qui củ của nhà Phật ta!

Quát xong, sư Đại Nham tuốt cây yêu đao đến soạt một tiếng và người ta chỉ thấy ánh kiếm loáng tròn một vòng, tức thì đầu tên trọc kia đã lăn lông lốc trên mặt đất. Đại Nham hành động mau lẹ lạ lùng, đoạn quay ngoắt lại, giơ tay vẫy vào đám rừng một cái, tức khắc nhảy ra đến mười lăm, mười sáu đại hán. Đại Nham đem bọn đại hán chạy lên trên núi.

Lên tới cửa sơn môn, Đại Nham cùng Bạch Thái Quan chia làm hai đường đánh thốc vào trong. Quan muốn chiếm thượng phong, tung người bay lên nóc nhà trước. Sư Đại Nham cắt cử bọn đại hán tuỳ tùng xong, đích thân tới mở cửa sơn môn, tiến vào hỏi Thiết bố sam. Tên tăng giữ cửa thấy Đại Nham cũng là một nhà sư nên không nghi ngờ gì, liền đưa vào nội viên, mời ngồi tạm trong phòng khách rồi bước vào trong trình chủ.

Sư Đại Nham ở phòng khách ra hiệu cho bọn đại hán theo vào rồi theo gót tên tăng lần bước mãi vào trong, cả hai loanh quanh bước qua mấy căn phòng rộng thì tới một gian, ngay chính giữa có đặt một chiếc giường tre, trên có một tên trọc to lớn, mình trần trùng trục đang ngồi cạnh một cô gái má trát đầy phấn, đang gãi lưng cho y. Lại còn một cô gái nữa đang bưng một chén trà dâng tới. Cô gái này thấy tên tăng giữ cửa bước vào liền dừng lại, nói to lên:

- Sư phụ! Có người tới đó!

Lão mập trọc nghe gọi liền quay lại, thấy đằng sau tên tăng giữ cửa còn có một nhà sư, liền chỉ tay hỏi:

- Lão kia là ai vậy?

Sư Đại Nham không để cho lão trở tay kịp, bước lẹ tới xuất thủ, túm ngay một chân y và giữ chặt lấy. Thiết bố sam vốn bản lĩnh cao cường, vội phóng đôi cước uyên ương tung vào mặt Đại Nham vừa để tháo gỡ ngón cầm ná thủ, vừa tấn công đối phương. Sư Đại Nham thấy lão trọc bị bắt chân trái tức thì hắn phóng chân phải đá ngược lên, biết đó là môn đệ phái Thiếu Lâm nên vội buông tay ra.

Thiết bố sam liền đứng bật dậy, đưa tay lên đầu giường kéo ra một chiếc áo vải, đánh vụt tới. Thật là kỳ quái, khi chiếc áo vải đã nằm trong tay lão trọc liền, biến thành một cây gậy sắt khi vung lên nghe vù vù rợn cả tóc gáy. Chính nhờ chiếc áo vải này mà thiên hạ phong cho y cái danh hiệu "Thiết bố sam".

Bọn đại hán thấy cuộc đấu đã mở màn, vội vàng tham chiến. Họ xông cả vào, vây lấy Thiết bố sam.

Lão trọc vung chiếc áo vải sắt chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, tung hoành khắp bốn mặt. Hai bên ác đấu đến hàng giờ rồi mà bọn Nham vẫn không tới gần được y. Tuy nhiên, cậy đông người, bọn Nham vây chặt vòng này tới vòng khác khiển Thiết bố sam cũng khó lòng thoát thân. Y đang định phi thân lên nóc nhà để thoát đi, không ngờ có một tiếng gầm vang rồi từ trên nóc, một bóng người nhảy vút xuống như một con đại bàng, thẳng cánh giáng một đao xuống đỉnh đầu Thiết bố sam. Chiếc đầu trọc của y chẳng khác gì một trái dưa bị chẻ làm đôi, lưỡi dao còn đi ngọt xuống tới mãi cổ mới chịu ngừng. Thế là Thiết bố sam chỉ trong nháy mắt đã lìa đời. Dân chúng khắp các thôn phường chung quanh được tin Thiết bố sam đã chết, kẻ nào kẻ nấy mừng rơn như chính mình vừa được cứu sống, bèn đem thây y chặt thành trăm miếng, mang về nhà rán mỡ đất đèn.

Bạch Thái Quan chẳng thèm từ biệt Đại Nham hoà thượng, nhảy vút lên mái nhà bỏ đi mất dạng. Tổng đốc Tứ Xuyên Nhạc Chung Kỳ vội đưa sư Đại Nham về nha môn, mời ở trong một tịnh xá để cung dưỡng. Mấy hôm sau, thánh chỉ từ Bắc Kinh đưa tới, thưởng Đại Nham hoà thượng một vạn lạng bạc, Nhạc đại tướng quân còn phái tài quan hộ tống nhà sư về nam, đồng thời gửi mấy chục đạo trát lệnh cho các quan địa phương dọc đường phải chuẩn bị xe thuyền để đón đưa cẩn thận, không được sơ sót.

Đại Nham hoà thượng về tới Dương Châu, bèn mua gạch mua gỗ, xây cất thánh điện, cạnh điện làm một toà Ngô viên (Vườn ngô), trong vườn kiến thiết một toà Hoa nghiêm đường hết sức tráng lệ. Tất cả những sở phí xây cất đều do các thân hào địa phương quyên giúp. Từ đó sư Đại Nham ngày ngày thường hội khách tại Hoa nghiêm đường uống rượu, luận bàn kinh sử.

Hồi 66

HAI ĐẠO BẠCH QUANG TRONG CUNG CẤM

Tại Dương Châu hồi đó có ba tay anh chị cậy mình có sức khỏe hơn người, chuyên doạ nạt dân chúng. Một tên gọi Nguỵ Ngũ, giỏi cưõi ngựa lại hiểu được tiếng ngựa. Mấy năm trước, có một vị Long Sơn tổng binh tới Dương Châu duyệt binh, bỗng đàn ngựa trong tàu thảy đều hí vang lên. Nguỵ Ngũ nghe đoạn bảo mọi người:

- Quan tổng binh này ba tháng nữa thì chết.

Vị quan tổng binh này về nhà bỗng nhiên ba tháng sau chết thật.

Tên thứ hai gọi Trương Âm Nguyên, rất giỏi múa song đạo Khi Nguyên đã múa lên rồi thì dù có nước tạt cũng không lọt tới người y giọt nào tới mấy chục người cũng chẳng thề gần y được. Tên thứ ba gọi Tiết Tam, thường sử dụng một cây cung cứng nặng tới năm mươi thạch. Hồi đó người Dương Châu thường gọi bọn này là Nguỵ Mã, Trương Đao, Tiết Ngạch Cung.

Từ khi Đại Nham hoà thượng tới Dương Châu, ba tên này thường tỏ vẻ không phục, thỉnh thoảng lại tới kiếm chuyện song đều bị Đại Nham đánh cho liểng xiểng. Chúng không còn mặt mũi nào ở lại nữa, bèn kéo nhau đi mất dạng.

Một hôm Đại Nham hoà thượng tiễn khách từ phương trượng đi ra, vừa tới chỗ bực thềm, bỗng một chiếc ly hương bằng đồng bay vụt tới. Đại Nham mắt lẹ tay nhanh đón bắt ngay được Thì ra Tiết Tam tới báo thù. Không ngờ, Tiết Tam khi ném cái lư hương, dùng sức quá nhiều nên miệng hộc máu ra lênh láng, hối hả chạy về nhà, hộc máu tiếp mấy keo nữa thì chết.

Trương Âm Nguyên giận lắm, xách song đao tới Hoa Nghiêm đường quyết đấu với Đại Nham hoà thượng. Mới được có vài hiệp. Trương đã bị Đại Nham chặt mất một cánh tay. Còn lại có mình Nguỵ Ngũ.

Ngũ biết nếu đem tài sức mà đánh thì không thể thủ thắng, bèn rắp tâm dùng mưu. Y dò biết Đại Nham bị hắc lào cùng mình nên mỗi buổi sáng khi thức dậy thường lấy nước nóng tắm rửa, liền nhè đúng lúc đó cùng bọn lâu la tông cửa nhảy vào khoa kiếm chém tới. Đại Nham hoà thượng tay không, toàn thân lại trần như nhộng, thử hỏi làm sao mà địch nổi.

Tuy có giết được nhiều tên, nhưng cuối cùng Đại Nham vẫn bị Ngu chặt mất một chân, chết ngay trong phòng tắm.

Tin Đại Nham hoà thượng chết báo tới kinh đô, Ung Chính hoàng đế tuy ngoài mặt tỏ vẻ thương tiếc, nhưng bên trong lại mừng thầm, cho rằng hạng người có bản lĩnh như vậy còn sống trên đời chỉ là một mối lo cho ngài. Những tay võ nghệ cao cường như Đại Nham mà giá như đều chết cả, chỉ còn lại bọn giá áo túi cơm thì có còn gì để cho ngài phải sợ nữa.

Từ đó, Ung Chính hoàng đế lại mải vui như cũ, chẳng thèm đề phòng gì nữa.

Lại nói Lã Tứ Nương ngụ trong kinh thành ngày ngày dò la tin tức, song chưa tìm được một cơ hội nào để hạ thủ, thành thử trong lòng bực dọc hết sức. Chu Dung Kính và Cầu Nhiêm Công khuyên nàng hãy nên nhẫn nại đợi thời cơ. Hồi đó, khắp kinh thành đồn rầm lên rằng Bảo Thân vương sắp làm lễ Đại hôn. Bảo thân vương chính là cậu bé mà hoàng hậu Nữu Cô Lộc sai mụ quán gia đánh tráo ở nhà Trần Thế Quan hồi trước, đặt tên là Hoàng Lịch, càng lớn càng tỏ ra khôi ngô tuấn tú, tính tình lại ôn hoà, nói năng linh lợi. Trong bọn hoàng tử anh em chẳng một ai được cả người lẫn nết như Lịch. Ung Chính hoàng đế tất nhiên không biết vụ trao đổi kia, cho nên yêu quý Lịch hết sức đặc biệt.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc được biết Hồ Bắc tướng quân Thường Minh có một cô con gái xinh đẹp tuyệt trần. Vợ Thường Minh là Quách Nhĩ Ngạch vốn ở cạnh nhà hoàng hậu. Lúc nhỏ tuổi, hai bên rất thân nhau. Về sau, bà Quách thường được hoàng hậu tuyên triệu vào cung chơi và cũng rất yêu quý cô con gái của bà, vẫn thường cho nào là khăn tay, nào là đồ trang sức, nào những món cần dùng linh tinh không biết bao nhiêu mà kể! Khi Thường Minh đem gia đình đi Hồ Bắc để nhận chức tướng quân thì hoàng hậu vẫn nhớ tới bà Quách và cô con gái cưng của bà, nên thường nhắc tới gia đình nhà họ Thường trước mặt Ung Chính hoàng đế. Nhân vui câu chuyện, Ung Chính bảo:

- Hậu đã yêu quý cô con gái nhà này thì chi bằng cưới cho thằng Hoàng Lịch, có phải lúc nào cũng được gặp mặt không?

Lời nói đó khiến bà Nữu Cô Lộc tỉnh ngộ. Thế rồi, chờ đến năm đúng tuổi làm lễ Đại hôn cho Bảo Thân vương, bà giục Ung Chính hoàng đế hạ thánh chỉ định việc hôn lễ, phong con gái Hồ Bắc tướng quân Thường Minh làm Phú Sát phúc tấn. Một mặt, điều động Thường Minh về kinh làm quân sư đại thần, mặt khác giao hai vị đại thần thân tín là Ngạc Nhĩ Thái và Sử Dĩ Trực làm ông mối. Ung Chính đem khu vườn Viên Minh mà Thánh Tổ đã thưởng cho ngài, thưởng lại cho Bảo Thân vương để đôi tân hôn hưởng tuần trăng mật.

Hôm đó khắp vườn treo đèn kết hoa rực rỡ, tiếng đàn sáo vang lừng. Người ta rước cô dâu Phú Sát vào vườn Viên Minh làm lễ giao bái. Bảo Thân vương thấy bà phúc tấn Phú Sát xinh đẹp tuyệt trần thì không còn muốn rời xa nửa bước. Hoàng hậu Nữu Cô Lộc thấy con và dâu thương yêu nhau như vậy cũng lấy làm sung sướng trong lòng.

Không ngờ vui lắm lại buồn nhiều, ở đời có chuyện gì là hoàn toàn cả đâu! Số là từ khi Bảo Thân vương cưới vợ, Ung Chính hoàng đế thấy trong người không được mạnh như xưa.

Bệnh căn chỉ là do ngài đam mê sắc dục quá độ mà ra. Thường mỗi ngày ít ra cũng phải có hai nàng phi luân phiên hầu hạ thì ngài mới yên giấc được. Lúc đầu, ngài còn nhờ thuốc hoàn A Tô Cơ của nhà sư Lạt ma để miễn cưỡng chống đỡ, nhưng về sau thuốc này xem chừng cũng trở thành vô dụng. Thì ra ngài đã đến lúc liệt bại hoàn toàn rồi. Bọn phi tần được sủng ái đêm nào cũng tìm đủ kiểu để kích thích ngài nhưng ngài chẳng động cựa gì được nữa.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc liền đuổi hết bọn phi tần, đích thân mình ở bên cạnh hầu hạ thuốc men cho hoàng đế. Bên cạnh ngài còn có hai viên ngự y, một người họ Thái, một người họ Phương, luân phiên túc trực ngày đêm trong cung để xem mạch hốt thuốc. Nhờ đó bệnh tình của Ung Chính ngày một, thuyên giảm. Đột nhiên bọn thái giám trong cung nội một hôm la hoảng và đồn rầm lên rằng, suốt dãy cung Trường Xuân, cung Chung Tuý đêm nào cũng nghe tiếng chân chạy nhảy trên mái ngói, rồi lại có tiếng mở đóng cửa, tiếp đó, bọn thái giám thị vệ ở các cung Dực Khôn, cung Vĩnh Hoà cũng đồn rằng cứ mỗi đêm trên nóc nhà thường thấy có hai đạo bạch quang bay đi bay lại và đã có vài cung nữ bị giết tại Thiên Cung. Chẳng mấy chốc những tin quái đản này đồn dậy khắp trong ngoài, khiến cả một toà hoàng thành rộng bát ngát, người đông như kiến mà kẻ nào cũng hoảng hồn bạt vía.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc vội sai bọn thị vệ bốn mặt truy tầm nhưng tuyệt vô tung tích. Thế mà tin đồn vẫn càng ngày càng dữ. Thậm chí, bọn thái giám và cung nữ ở các cung Diên Hy, cung Thừa Kiền, cung Cảnh Dương, cung Cảnh Nhân, Cung Hàm Phúc, cung Vĩnh Thọ, cung Khải Tường, cung Sử Tú còn thấy hai đạo bạch quang kia không chỉ bay đi bay lại trên nóc nhà nữa mà ngay ở cả trong nhà, mỗi khi họ chợt tỉnh giấc trong đêm trường thanh vắng.

Ung Chính hoàng đế lâm trọng bệnh nằm trên giường, được những tin đó, biết rằng có duyên cớ, nhưng chẳng tiện nói ra. Hồi đó, Sử Dĩ Trực thống lĩnh quân Dũng Kiện, vốn là người thân tín hoàng đế. Đoàn quân Dũng Kiện do các tướng quân ở các tỉnh tiến cử về Kinh, toàn là những tay hảo hán có đủ kỳ tài dị năng, luyện tập thành thục cả. Đoàn quân này gồm có bốn ngàn người. Ung Chính hoàng đế thấy cung nội mất an ninh, bèn truyền Sử Dĩ Trực vào cung, bảo đem toàn bộ quân Dũng Kiện vào, túc trực khắp các nơi mọi chốn.

Thành thử cung cấm thình lình đầy nhóc thêm bốn ngàn quân nữa. Lạ thay, đạo bạch quang cũng chẳng thấy, mà tiếng động, tiếng vang gì cũng tắt lịm luôn. Sức khỏe của Ung Chính hoàng đế càng ngày càng khá hơn, cuối cùng ngài đã nhờ Hoàng hậu dìu ngồi đậy, và đi lại được như thường. Thấy ngài mạnh rồi, bà Nữu Cô Lộc mới trở về cung riêng. Tính ra Ung Chính hoàng đế bệnh mất mấy tháng mới khỏi.

Trong lúc ngài nằm liệt giường, Bảo Thân vương cũng đem cả phúc tấn hằng ngày vào cung thăm hỏi bệnh tình. Đến khi khỏi bệnh, ngài nhớ tới con và dâu, cặp vợ chồng trẻ đang tuần trăng mật yêu thương nhau, nên nói thác ra là đi dưỡng bệnh để tới vườn Viên Minh với con. Bọn phi tần sủng ái cũng được đem theo để hầu hạ. Cô dâu Phú Sát đã đẹp đã xinh lại khéo chiều chồng nên Ung Chính hoàng đế càng lấy làm mừng. Ngài ngâm viết tên Bảo Thân vương vào di chiếu.

Vườn Viên Minh quả là vĩ đại. Chu vi xấp xỉ bốn mươi dặm, bên trong đầy những ao, hồ lớn, câ những khu vườn cây rất rộng, rất âm u. Ngoài ra, còn có nhiều trái núi nhỏ, nhiều ngôi tháp cao có đủ hoa cỏ bốn mùa, có nhiều cây trái quanh năm.

Bảo Thân vương cùng vợ là Phú Sát, suốt ngày bắt bướm tìm hoa, đùa giỡn với nhau. Lúc đầu, cặp vợ chồng trẻ này còn trong tuần trăng mật, gắn vào nhau như keo sơn, như nhựa dính, chuyên tìm những nơi vắng vẻ có hồ, có núi u tĩnh để tìm vui, đuổi hết bọn cung nữ và thái giám hầu hạ cho khỏi vướng mắt. Nhưng về sau, hai người chơi mãi rồi chán, cảm thấy cũng có lúc buồn. Bảo Thân vương tuy có cả một bọn phi tần, thị nữ, nhưng đối với vương, chẳng ai đẹp bằng Phú Sát, cho nên vương chẳng thèm để ý tới ai. Vương thường tự nhủ: một khu vườn nổi tiếng như Viên Minh mà không có người đẹp để làm bạn thì uổng quá. Phúc tấn thì đẹp đấy, nhưng nàng không có bạn, thành thử cũng thấy thiêu thiếu cái gì đó. Từ đó, vương để tâm đi tìm một người đẹp đem về để làm bạn với vợ mình.

Có mấy tên thái giám tinh ý, biết được nỗi lòng của Bảo Thân vương, nên thường lẻn đưa vương ra khỏi vườn Viên Minh đi tìm gái. Suốt một giải Nam Trì Tử đầy rẫy thanh lâu, Vương lui tới đây tìm khoái lạc, thích thú lắm. Hằng ngày vương nói thác là đi đọc sách tại nhà Hàm Đức thư ốc nhưng toàn là đi tìm gái. Vương rất lấy làm khó chịu bởi vì phụ hoàng hiện ở trong vườn Viên Minh, cứ mỗi buổi sáng phải mang thân tới thỉnh an. Do đó, vương nảy ra ý kiến là kiếm mấy kỹ nữ đưa vào Viên Minh. Thực ra, trong bọn này, có khá nhiều cô đẹp và duyên dáng. Điều kỳ lạ là chẳng có cô nào chịu vào với vương cả. Vương đành chỉ còn có cách thỉnh thoảng lẻn ra mua vui, chỉ cần qua mắt được hai người là bà Phú Sát và phụ hoàng là yên chí.

Bao nhiêu chuyện phong lưu khoái lạc đó, vương đã giấu được khá lâu rồi. Một hôm vương chui từ cái ổ yên vui ra thì trời vần còn sớm. Hơi men chếnh choáng, vương lẻn vào phòng ngủ của bà Phú Sát. Trong phòng im lặng như tờ. Hai con thị nữ nằm ở bên ngoài đang ngáy khò khò. Vương mặc kệ chúng không thèm đánh thức, lê bước vào phòng, có ý muốn xem người đẹp của mình lúc nằm ngủ đẹp đến thế nào. Vương bỏ giầy ra, nhón chân bước đến bên giường. Vương lấy làm lạ là hôm nay dưới chân giường lại có hai đôi giầy gấm thêu hoa thò ra ngoài màn, rõ ra rằng trên giường hiện có hai người đàn bà nằm ngủ. Vương thấy Phú Sát, phúc tấn của vương, còn người kia vương không nhận ra được là ai, thuộc gia tộc nào. Hai người đẹp đó đang mơ màng giấc điệp, tay ôm lấy lưng nhau, mặt kề sát mặt nhau, hơi thở đều đều. Bảo Thân vương ghé mặt sát xuống giường nhìn kỹ, bất giác thần hồn bay bổng mãi tận trời xanh. Thì ra người đàn bà nằm cạnh vợ vương có một sắc đẹp tuyệt trần khiến vương say như vừa nốc cả chục vò rượu quý. Mặt nàng trái xoan, đôi mày cong vút như lá liễu, cái mũi dọc dừa thon thả, đôi má ửng hồng như trái đào chín, đôi môi đỏ thắm mọng, khẽ hé ra như đang nở một nụ cười hàm tiếu. Nhưng chỗ hấp dẫn nhất đối với vương phải là cái cổ trắng như ngọc như ngà, buông loã xoã mớ tóc mây đen óng ánh. Mỹ nhân lại còn khéo cài một bông cúc đỏ lớn vào lọn tóc khiến màu trắng của nước da nơi cổ càng đẹp thêm. Tay nàng thon thon, mũm mĩm như búp măng, còn đang cầm chiếc khăn tay màu hồng nhạt. Thật là vô cùng quyến rũ, nhất là cái thế nằm duyên dáng và khêu gợi trên chiếc giường thất bảo vây màn bát tiên.

Bảo Thân vương ngắm nhìn người đẹp một lúc lâu, bất giác lòng xao xuyến. Vương liền khẽ kéo cái khăn trong bàn tay người đẹp, đưa lên mũi hít một hơi dài. Hương thơm phưng phức bay thốc vào mũi, vương bất giác cảm thấy tim mình đập mạnh, máu trong huyết quản như sôi lên. Vương không chịu nổi nữa, cất vội chiếc khăn hồng vào bọc, rồi cúi thấp hẳn xuống, đặt ngay cái mũi sát vào làn da trắng như ngọc của người đẹp, vừa hôn vừa hít một hơi thật mạnh, rồi vội chạy ra sau giường nấp trốn.

Người đàn bà bị vương hôn, giật mình tỉnh dậy khẽ lên tiếng gọi bà Phú Sát:

- Này em! Này em!

Bà Phú Sát nghe gọi, giật mình tỉnh giấc, bèn cười nói:

- Bọn mình nói chuyện rồi ngủ lúc nào không hay biết chị nhỉ?

Người đàn bà nọ nói:

- Này em? Trong nhà này có mèo hoang thì phải. Chị đang nằm ngủ, bỗng nghe một con mèo nhảy chồm lên giường hít một cái mạnh vào má chị. Chị giật mình tỉnh dậy thì nó đã nhảy đi.

Giọng nói của người đẹp nghe thật êm ái và lôi cuốn, khiến Bảo Thân vương nấp ở phía sau như phát cuồng lên. Vương đánh liều vọt ra, cười nói:

- Thật đúng quá! Chú mèo hoang chính là ta đây!

Nói đoạn vương liền chắp tay lạy người đẹp luôn mấy cái khiến người đàn bà nọ phải vội vàng hoàn lễ. Vương quay mặt về phía bà Phú Sát bảo:

- Lúc đó, ta tưởng vị thái thái này là mình cơ, nên định ghé sát vào tai mình để gọi dậy. Nhưng khi nhìn kỹ lại mới biết lầm, ta vội chạy trốn ra sau giường. Không ngờ vị thái thái này ăn nói quả lợi hại, chửi ngay ta là mèo hoang. Chửi là mèo hoang ta xin chịu, nhưng đáng phục nhất là ông trời già kia. Mình đã là người đẹp, thế mà vị thái thái này còn đẹp hơn, có lẽ chẳng phải người trần mà chính là người tiên, có phải không mình?

Được Bảo Thân vương tâng bốc lên tận mây xanh, người đàn bà nọ làm sao mà chẳng sung sướng, đôi má ửng hồng lên, chỉ cúi đầu ngồi mân mê tà áo, chẳng nói được câu nào.

Bà Phú Sát nghe chồng nói vậy, liền chẩu môi cười nói:

- Này ông vương gia của tôi ơi! Ông đã có lần nào thấy mèo hoang đâu mà khi nghe chị tôi chửi đã vội vơ vào mình. Đây là chị tôi. Ngày trước, khi còn ở nhà, hai chị em chơi đùa vui vẻ biết bao nhiêu. Nhưng từ lúc ông xách tôi vào cái vườn này thì chị em tôi đành chịu cảnh phân ly. Nhớ tôi quá chị tôi mới lẻn vào thăm, không ngờ lại chạm trán ông. Ông đã bảo nàng là tiên trên trời, thì hãy mau tới bái kiến đi. Bái kiến xong rồi thì phải bước đi ngay đấy nhé!

Bảo Thân vương không ngờ được bà Phú Sát nói cho nghe bấy nhiêu lời, vội bước tới hành lễ, miệng nói:

- Thưa chị! - rồi hỏi thêm - Thưa chị, chị tên gì nhỉ?

Người đàn bà nọ, đứng hẳn người lên, hai tay vẫn còn mân mê mớ tóc mây buông xoã xuống đôi vai, miệng cười chúm chím, đáp:

- Tôi là Đổng Ngạch. Chồng tôi tên Phó Hằng!

Bảo Thân vương vỗ tay cười lớn nói:

- Anh Phó Hằng tôi tu đã đến mấy kiếp mà lấy được một người đẹp như tiên nga giáng thế như vậy nhỉ?

Lời tán tụng đó lại càng làm bà Đổng Ngạch thẹn thùng, đỏ mặt đến mang tai. Sợ chị mình quá xấu hổ, bà Phú Sát vội đẩy chồng ra ngoài phòng, đóng ập cửa lại. Người ta chỉ còn nghe thấy một tràng cười ầm ĩ đầy thích thú của vị vương gia có cái máu đa tình. Đổng Ngạch cũng cáo từ Phú Sát, ra khỏi vườn Viên Minh về nhà.

Bảo Thân vương từ khi gặp Đổng Ngạch, lúc nào miệng cũng nhắc tới tên người đẹp đã được dịp tặng lén một cái hôn.

Rồi cũng từ đó, vương chẳng thèm ra phố, tới các chốn thanh lâu nữa. Hết ngày này đến ngày khác vương chỉ ngồi lì, mơ tưởng đến hình dáng yêu kiều của người đẹp, cơm lắm bữa chẳng muốn ăn, ngủ lắm đêm chẳng thành giấc…

Hồi 67

UNG CHÍNH HOÀNG ĐẾ BỊ CHẶT ĐẦU

Từ ngày gặp người đẹp Đổng Ngạch, Bảo Thân vương không lúc nào là không nhớ tới cái khuôn mặt xinh xắn duyên dáng ấy. Mũi vương hình như lúc nào cũng còn ngửi thấy mùi hương kỳ lạ của phấn hoa phảng phất trên chiếc má trắng nõn nà như tuyết của người đẹp. Đối với vương, chi có phấn ấy, hương ấy mới thật là hương là phấn. Vương thường bảo phúc tấn của mình cho người đi mời bà chị vào vườn Viên Minh chơi, để lòng vơi được niềm mong nhớ.

Nàng Đổng Ngạch vốn người tinh ranh. Hễ thấy Bảo Thân vương bén mảng vào cung thì vội lánh mặt ngay, khiến vương càng muốn gặp hơn, càng mơ tưởng nhiều hơn. Đáng tiếc cho vương là đã bao ngày tháng rồi mà vẫn chưa có cơ hội tốt nào để "liều mình" một chuyến cho thoả nguyện. Bà Phú Sát cũng hiểu lòng vương nên mỗi khi Đổng Ngạch tới thăm đều cho đưa vào phòng kín để trò chuyện với nhau, không cho vương được gặp mặt.

Bảo Thân vướng đã lâu không được gặp mặt nàng Đổng Ngạch, trong lòng nóng nẩy chẳng khác gì kiến bò trên chảo rang. Vương có một thái giám còn nhỏ tuổi tên gọi Tiểu Phú Tử, rất lanh lẹ. Thấy vương gia có bầu tâm sự não nề, Phú Tử thì thầm hiến kế, như vậy, như vậy… quyết rằng vương gia sẽ được như nguyện. Bảo Thân vương nghe kế sách của Phú Tử, luôn miệng khen rồi giục Phú Tử mau thực hiện diệu kế.

Tiểu Phú Tử vâng lệnh Bảo Thân vương, trước hết tới quán Thanh Hương trong rừng trúc ở giữa vườn Viên Minh đặt giường bày kinh rồi cho hai tên tiểu thái giám cùng hai thị nữ kéo một cỗ xe tới nhà Thương Minh mời nàng Đổng Ngạch. Nàng Đổng Ngạch thấy bà Phú Sát thường cho thí nữ lại đón, nên không nghi ngờ gì cả, bèn chải qua mái tóc, trang điểm lại chút ít rồi lên xe cho chúng đưa đi.

Đúng lệ thì xe phải dừng lại ngoài cổng Tảo Viên, để cho tám tên tiểu thái giám khác khiêng kiệu đưa vào vườn. Đằng này cỗ xe loanh quanh hết ngả này tới ngả khác, đi đã khá nhiều đường đất. Gặp mùa hạ, trời nóng bức oi ả, ai nấy đều mồ hôi nhễ nhại.

Xe chở nàng Đổng Ngạch vào sâu trong vườn, ngang chỗ có cây cối xum xuê, gió mát vi vu thổi. Nàng cảm thấy khoan khoái dễ chịu, ngồi trên xe mắt ham ngắm cảnh đẹp, bất giác tới một nơi hết sức mới mẻ lúc nào không biết. Cỗ xe đứng lại. Hai thị nữ đỡ Đổng Ngạch bước xuống. Nàng đưa mắt nhìn quanh, thấy bốn bề toàn là rừng trúc vây quanh một toà trang viện nhỏ. Tai nàng nghe tiếng gió thổi vào khóm trúc ngân nga như một điệu nhạc nhẹ nhàng thanh thoát.

Cả bọn tiến vào trang viện. Một phòng khách nằm ngay ở phía trước, trên treo tấm biển đề năm chữ "Trúc lâm Thanh Hương quán". Bước vào phòng, nàng Đổng Ngạch thấy trên bốn mặt tường đều treo những bức tự hoạ (bức vẽ bằng chữ) còn bàn ghế toàn bằng tre trúc màu ngà. Căn phòng trang hoàng hết sức thanh nhã.

Hai thị nữ đưa Đổng Ngạch vào phòng bên. Nàng thấy nơi đây nào là rèm châu, giường ngà, nào là trướng gấm, bình ngọc. Trên giá gương bày đủ bộ trang điểm. Một chiếc bàn cạnh đấy, bên trên có chiếc đĩa lớn chất đầy các thứ trái cây ngon lành. Một cái chậu bằng thuỷ tinh nuôi cá vàng đặt trên chiếc án thư ngay trước cửa sổ. Bên ngoài cửa sổ, trồng một loại trúc lá xanh biếc, quần áo của mọi người đứng bên trong cũng mang một màu xanh phơn phớt.

Nàng Đổng Ngạch quan sát một lượt, bất giác thốt ra lời khen, trong khi hai thị nữ đứng phía sau quạt lấy quạt để cho nàng. Rồi một đứa thị nữ khác dâng trà lên. Nàng Đổng Ngạch bèn hỏi:

- Sao chưa thấy phúc tấn của bọn mày?

Một đứa đáp:

- Phúc tấn đang tắm rửa tại Hà Tĩnh Tiên, có dặn mời Cửu thái thái ngồi chơi một lát.

Nàng Đổng Ngạch nghe đoạn, chẳng hỏi thêm. Một lát sau, hai thị nữ khá lớn tuổi, bưng một khay lớn đủ đồ trang sức, và nói:

- Xin mời Cửu thái thái cũng hãy tắm gội đi.

Nàng Đổng Ngạch vốn tính sợ nóng, ở nhà thường tắm gội luôn, nên nghe nói vậy thì mừng lắm. Thế là bọn thị nữ vội cởi áo, cất đồ trang sức cho nàng, rồi đưa nàng vào một căn phòng kín để tắm gội. Tắm xong trở ra, nàng được bọn thị nữ giúp trang điểm lại. Rồi một bàn tay cài cho nàng đoá hoa lan vào mái tóc. Nàng Đổng Ngạch nhìn vào kính, thấy người giắt hoa vào tóc mình chẳng phải thị nữ nào mà chính là Bảo Thân vương, giật mình mắc cỡ đến nỗi đôi má ửng hồng tới tận mang tai, chỉ còn biết ngồi cúi đầu lặng thinh trước đài gương. Tuy nhiên, đôi mắt nàng vẫn lấm lét quan sát cử chỉ của Bảo Thân vương. Nàng thấy vương quỳ gối trên nền nhà, luôn miệng gọi:

- Nàng tiên xinh đẹp của tôi ơi! Sau khi được gặp chị rồi xa chị, tôi thấy như mình phải sống một cuộc đời vô nghĩa. Hôm đó, tôi mê đắm quá, đành hôn trộm một cái vào má chị, mùi hương ngào ngạt như vẫn còn vương vấn tới nay. Thật tội nghiệp cho tôi, ngày quên ăn, đêm quên ngủ. Lúc nào tôi cũng chỉ nhớ tới chị. Bao nhiêu đàn bà con gái dưới cõi thế này, tôi chẳng thèm để ý tới ai nữa. Cầu xin chị đoái thương tôi. Chị có thấy không? Gần đây thân hình tôi gầy ốm tiều tuỵ cũng chỉ vì tưởng nhớ tới chị. Nếu chị không thương tình mà cứu giúp thì tính mạng này chắc không còn bảo toàn được nữa.

Nói đoạn, Bảo Thân vương khóe thút thít như trẻ con, vừa khóc vừa lấy khăn chấm nước mắt. Nàng Đổng Ngạch nhận ra đó chính là khăn của mình. Vương nói tiếp:

- Chị cứ yên tâm! Mọi việc hôm nay tôi đã xếp đặt chu đáo Khu vườn này ở phía cực tây, rất xa nơi phúc tấn em gái chị. Bọn thị nữ và thái giám hầu hạ nơi đây đều là người tâm phúc của tôi. Nếu chị thuận tình, tôi quyết rằng bên ngoài không một ai có thể biết được. Nhưng nếu chị không bằng lòng, kêu la rầm lên, lúc đó mặt chị cũng như mặt tôi từ nay coi như bỏ rồi. Hơn nữa, nếu chị có kêu la rầm lên, thì nơi đây hoang vắng, chẳng có ai nghe thấy đâu, rốt cuộc chỉ làm cho mối giao tình tốt đẹp giữa đôi ta trở nên bẽ bàng mà thôi. Chị cứ vui lòng cho tôi đi, tôi sẽ không bao giờ quên ơn đức của chị, cho tới lúc già, lúc chết. Còn nếu chị không vui lòng cho tôi thì tôi chi xin một cái chết, chết ngay trước mặt chị để làm một tên quỉ phong lưu dưới suối vàng cũng mãn nguyện rồi.

Vừa nói, Bảo Thân vương vừa rút trong bọc ra cây bảo kiếm nhỏ rồi nhè cổ mình đâm tới. Biết Bảo Thân vương vốn là người anh hùng, tương lai còn là vị vua kế nghiệp nữa, Đổng Ngạch bỗng nảy ý cảm mến. Bảo Thân vương lại khéo miệng, một điều chị tốt, hai điều chị đẹp, khiến tính tự ái đàn bà của nàng được thoả mãn. Rồi đến lúc vương rút dao đòi tự tử, thì lòng nàng đã nhiều phần thương yêu rồi. Còn một việc bất khả kháng cho nàng nữa, khi ra khỏi phòng tắm, nàng chỉ khoác có mỗi tấm áo lụa mỏng tanh, thân hình ngà ngọc của nàng trông rõ mồn một qua làn lụa mỏng. Khi đưa nàng vào tắm, bọn thị nữ lại để xiêm áo trên chiếc giường mà Bảo Thân vương đang ngồi, chẳng dễ đàng mà lấy được. Mà có lấy được đi nữa, thì trước mặt vương, nàng cũng chẳng thể mặc vào. Đổng Ngạch thấy khó xử quá, bất giác thở dài như tỏ ý phó mặc, rồi quay ngoắt lại, cướp vội cây bảo kiếm trong tay vương, chĩa ngón tay chỏ ấn vào trán vương mà bảo:

- Ông thật là oan gia kiếp trước của tôi rồi!

Bản Thân Vương nhân cơ hội liền ôm lấy Đổng Ngạch.

Thế rồi kẻ vờ đẩy ra, người cố kéo vào, hai bên giằng co một hồi, cuối cùng thì vương cũng toại nguyện.

Việc xong xuôi, Bảo Thân vương tự tay mình lấy quần áo mặc cho Đổng Ngạch, hai người quyến luyến chẳng nỡ rời nhau, hệt như một cặp vợ chồng trong tuần trăng mật.

Thời gian sao chóng quá! Chẳng mấy chốc trời đã đổ tối, Bảo Thân vương đưa người đẹp ra khỏi phòng. Lúc lâm biệt, Đổng Ngạch đưa làn thu ba lóng lánh lườm Bảo Thân vương một cái, rồi mắng yêu vương một tiếng: "Đồ quỉ" rồi mới chịu lên xe.

Bảo Thân vương trong lòng vui sướng như điên. Thế rồi từ đó hai người hễ có gặp dịp lại lẻn ra khu rừng trúc thanh vắng u nhã này để tìm vui hưởng thú.

Trời đã sang thu, bắt đầu lạnh. Hôm đó Bảo Thân vương cùng nàng Đổng Ngạch phải kéo nhau vào một căn phòng kín trong Lộ Hương trai để thủ thỉ với nhau. Giữa lúc cặp nhân tình đang hú hí, bỗng từ phía thư viện Bích Đồng bên kìa tường dội ra một tiếng gầm vang dậy, tiếp đó là tiếng người la hét ầm ĩ…

Bảo Thân vương vội rời nàng Đổng Ngạch, chạy qua phía thư viện. Vương vừa bước được một chân vào trang viên thì đã thấy bọn thái giám lớn nhỏ hất hoảng xô ra, miệng lắp bắp bảo vương:

- Đầu của Hoàng thượng chẳng thấy đâu cả!

Toà thư viện Bích Đổng vốn là nơi Ung Chính hoàng đế hằng ngày duyệt xét mọi văn bản, tấu chương của triều đình. Hoàng đế ở trong cung bị câu thúc nhiều điều, lại thường muốn gặp Bảo Thân vương, cho nên mới tới đây tạm ở ít lâu. Từ lúc tới ngài cho thiết lập Tôn nhân phủ như cũ ngay tại sau cửa Đại cung, với đủ các cơ quan như một triều đình thu nhỏ: Lại bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Đô sát viện, Lý phiên viện, Hàn lâm viện, Chiêm sự phủ, Quốc tử giám, Loan nghi vệ và các nha môn Đông Tứ Kỳ. Về phía tây Đại cung, ngài cho thiết lập Hộ bộ, Hình bộ, Công bộ, Khâm thiên giám, Nội vụ phu, Quan lộc tứ, Thông chính ty, Đại lý tụ, Hồng lộ tự, Thái thường tự, Thái lộc tự, Ngự thư xứ, Thượng tứ viện, Võ bị viện và các nha môn Tây Tứ Kỳ.

Hằng ngày, Ung Chính hoàng đế toạ triều tại điện Chính Đại Quang Minh. Đã một năm qua, mọi việc đều vẫn yên ổn, trôi chảy.

Không ngờ hôm đó bỗng xảy ra việc động trời là hoàng đế bị mất đầu. Mỗi khi tới mùa thu, Ung Chính hoàng đế đều ở trong Bích Đồng thư viện phê duyệt tấu chương. Trước án thư của ngài cũng như chung quanh viện đều có thị nữ và thái giám đứng hầu kín cả. Quân cấm vệ vẫn chiếu lệ cũ canh phòng khắp nơi. Trời tối, bọn thái giám đốt đèn lên. Hoàng đế giở xem tấu chương dưới ánh đèn, bỗng từ trong chòm lá rậm khóm ngõ đồng, hai đạo bạch quang bay vèo tới trước viện, tọt vào trong, rồi quanh đi quanh lại một hồi, rút cuộc chẳng thấy đâu nữa.

Bọn thái giám và cung nữ vừa thấy hai đạo bạch quang bay vụt tới, không kịp mở miệng kêu la đã bị mê mụ đi luôn.

Đến khi tỉnh lại, chúng đã thấy thân hình hoàng đế vật ra trên nền nhà. Chúng vội chạy tới nâng dậy, nhưng chẳng còn thấy đầu hoàng đế đâu nữa. Chúng hoảng quá, rồi không đưa nào bảo đứa nào, tất cả bỗng đều rú lên những tiếng ghê khiếp, vang động cả thâm cung. Bọn thị vệ đại thần nhất tề chạy ồ tới. Thấy cảnh ấy, anh nào anh nấy mặt xám lại như tàu lá, đôi chân run lên như muốn khuỵu, chẳng còn có chủ ý gì nữa.

Một lát sau, Bảo Thân vương cùng bọn phi tần hối hả kéo tới. Chui từ trong đám đông ra, Vương ôm lấy xác phụ hoàng mà khóc ầm lên. Nhưng chỉ giây lát sau, Bảo Thân vương đã bình tĩnh trở lại, cho nội giám đi mời cấp kỳ hai vị đại thần là Ngạc Nhĩ Thái và Sử Dĩ Trực tới thương nghị đại sự Bọn nội giám chạy ra khỏi vườn Viên Minh, nhảy tót lên ngựa chia nhau đi hai ngả. Ngạc Nhĩ Thái lúc đó đã sắp ngủ, bỗng nghe tiếng đập thình thình ngoài cổng lớn. Gia bộc vừa mở cổng thì tên nội giám đã chạy xộc vào, mồ hôi nhễ nhại đầy mặt, miệng thở hổn hển, nói không thành tiếng:

- Mau…mau nói, nói… với đại nhân là hoàng thượng mất… mất đầu rồi!

Câu nói đó vọng cả tới tai Ngạc Nhĩ Thái. Thái hoảng hồn bạt vía, chẳng hiểu ra sao, vội nhảy từ trên giường xuống, cuống quýt bổ nhào ra, chẳng kịp cho thắng ngựa của mình nữa, nhảy đại lên lưng ngựa của tên thái giám, giật cương phóng như điên vào ngả vườn Viên Minh. Tới cổng vườn, Thái nhảy xuống ngựa, chạy vội vào thì đã thấy Sử Dĩ Trực tới trước rồi. Nhưng lúc này có phải lúc hỏi han nhau nữa đâu. Họ chỉ biết hè nhau đi tìm đầu của hoàng thượng. Đó là điều tối hệ trọng và tối cần thiết! Cả bọn chong đèn đốt đuốc, tìm kiếm khắp chốn cùng nơi, cuối cùng lại là nàng Huệ phi thấy cái đầu bị nhét vào trong quần lót của hoàng đế. Huệ phi ôm cái đầu máu me đã bầm đen lại, trông ghê khiếp hết chỗ nói, mà nức nở khóc. Cảnh tượng thật hết sức thảm thê.

Nàng Huệ phi vốn là vợ của Hoằng Triết, con dâu của hoàng tử Dân Nhung và cũng là cháu dâu của Ung Chính hoàng đế. Nàng bị Ung Chính cưỡng bức vào cung nhưng được đối đãi ân tình và được phong làm Huệ phi. Rồi nàng đã quên hẳn chồng cũ. Thấy Ung Chính hoàng đế chết một cách thê thảm, nàng không dấu nổi bi thương, khóc lóc thảm thiết.

Ngạc Nhĩ Thái lắp cái đầu vào thây Ung Chính hoàng đế rồi sai bọn cung nhân tắm rửa và mặc quần áo vào cho ngài.

Sau đó, Thái cùng với Sử Dĩ Trực hè nhau chạy tới điện Chính Đại Quang Minh, lấy đằng sau tấm biển ra một cái hộp vàng.

Họ mở nắp hộp kéo ra tờ di chiếu, khi đọc lên mới biết di chiếu đã ghi rõ hoàng tử thứ tư là Hoàng Lịch được kế vị hoàng đế.

Thái và Trực lập tức quay lại bệ kiến Bảo Thân vương, đem theo năm trăm quân Dũng Kiện tiến vào kinh thành, đến Thái Hoà điện, đánh trống gióng chuông vang dậy. Khắp triều văn võ được lệnh triệu, vội tụ tập tại triều phòng. Ngạc Nhĩ Thái, mắt đầy lệ, bố cáo cho mọi người biết việc hoàng thượng bị giết ra sao. Bọn đại thần vây quanh Thái và Trực, im lặng nghe. Tới chỗ thương tâm nhất, bỗng một tên nội giám chỉ Ngạc Nhĩ Thái bảo:

- Ngạc Trung đường! Ông còn mặc cái áo cộc kia thì làm sao mà thượng trào?

Câu nói của tên nội giám làm cho Thái giật mình, sực nhớ ra rằng lúc ra đi quá vội, quên cả áo ngoài. Lập tức, Thái sai người về nhà lấy đủ mũ áo tiến phục cho mình. Giữa lúc đó, Sử Dĩ Trực bỗng nhớ ra một chuyện, quay lại bảo bọn đại thần:

- Hoàng thượng bị cắt mất đầu, nói ra chẳng đẹp gì. Huống hồ việc này xảy ra, bọn thần tử chúng ta đều có tội cả. Nếu ta cho đóng cửa thành lại, một mặt lục soát trong thành, một mặt gửi văn thư đi các tỉnh, cho các nha môn văn võ lùng bắt hung thủ, tất nhiên tiếng tăm đồn đại khiến dân chúng đồn đại xuyên tạc, như vậy há chẳng phải làm trò cười cho thiên hạ? Theo ý kiến của hạ quan thì chi bằng ta dấu quách chuyện này đi, một là để giữ thể diện cho tiên đế, hai là để có thể tránh được không nhiều thì ít những chuyện lộn xộn về sau. Bọn ta nên sửa đổi lời di chiếu sao cho mọi người tin rằng Tiên đế bị cấp bệnh mà mất thì mới ổn được.

Ngạc Nhĩ Thái đứng cạnh cho là phải, luôn mồm khen đúng.

Thế là Thái cầm bút sửa đổi ngay lời chiếu, Văn quan thì có Thái cầm đầu; võ quan thì có Sử Dĩ Trực điều khiển, tất cả tiến vào Thái Hoà Điện.

Cả một đám đông, nào thân vương, bối lặc, bối tử, nào lục bộ cửu khanh, văn võ quan viên nhất loạt quỳ xuống. Ngạc Nhĩ Thái bước lên điện, tuyên đọc di chiếu.

Hồi 68

CÀN LONG LÊN NGÔI BÁU

"Trẫm nhuốm cấp bệnh, tự biết mình khó lành. Tứ hoàng tử Hoàng Lịch tỏ ra rất hiếu thảo đối với trẫm, sẽ lên kế vị hoàng đế. Khâm thử".

Khi Ngạc Nhĩ Thái đọc di chiếu, Bảo Thân vương quỳ dưới điện. Chiếu vừa đọc xong, tức thì có một đội thị vệ, cung nữ và thái giám cầm nghi trượng trên tay, đi dần xuống thềm, rước vương lên trên điện, đổi long bào, đội mũ đại mão cho vương rồi rầm rầm rộ rộ đưa vương lên ngai vàng. Phía dưới thềm, các đại thần đồng thanh, bò rạp xuống đất hành lễ, hô vang "Vạn tuế!"

Tân hoàng đế hạ chi, đổi niên hiệu là Càn Long nguyên niên, đại xá thiên hạ, một mặt phát táng Đại hành hoàng đế, một mặt ngầm hạ mật chỉ cho Sử Dĩ Trực tìm kế truy bắt hung thủ, bí mật xử chết.

Trực vâng mật chỉ, cho trinh thám đi khắp nơi truy lùng nhưng có lẽ hung thủ thấy đại thù đã báo, bèn rời xa kinh thành vào nơi thâm sơn cùng cốc, tiêu dao tự tử lâu, thử hỏi Trực làm cách nào lùng cho ra được nữa chứ!

Ta hãy kể lại chuyện Lã Tứ Nương trả thù Ung Chính hoàng đế. Nàng theo Cầu Nhiêm Công ngụ trong thành Bắc Kinh, có Ngư Nhương làm bạn. Ngoài ra còn có Chu Dung Kính, nhân vì không thể rời xa nên đành theo lên kinh với nàng. Cảm ân tình của chàng, nàng hứa sau khi báo được thù nhà, sẽ cùng chàng chắp mối lương duyên. Đối với Ngư Nhương, Dung Kính cũng đối đãi hết sức kính trọng và luôn sẵn lòng giúp đỡ. Thường thường, ba người ngồi trò chuyện với nhau trong nhà, khi nói khi cười, người ngoài nhìn vào cứ tưởng như Cầu Nhiêm Công có một cậu trai, một cô gái và một cô con dâu, mà không bao giờ có thể nghi ngờ gì khác được Công thấy nhà mình quá rảnh rỗi, sợ có kẻ dị nghị, bèn mở một tửu quán. Rượu ngon, thịt béo, cả bọn quan viên, thái giám, thị vệ trong thành cũng hay lui tới. Nhờ đó, Công mới dò ra được đường xá trong cung cấm qua miệng họ, để Lã Tứ Nương và Ngư Nhương, hai người cứ đêm khuya canh vắng, vượt tường vào cung. Họ thấy cung điện lâu đài san sát, tường góc chênh vênh, ngói vàng rực rỡ khiến tìm kiếm mãi vẫn chẳng thể biết được tẩm cung của hoàng đế ở chỗ nào. Nhưng đã tới, hai người quyết chẳng chịu về không. Nhờ bản lĩnh chạy tường bay mái, hai nàng xông qua bắc rồi vọt sang tây, chỗ nào cũng đặt chân tới. Bọn thị vệ, thái giám chỉ thấy hai đạo bạch quang bay đi bay lại khắp trong cung, như đã kể trên. Sợ hỏng mất đại sự, Công khuyên hai nàng hãy nhẫn nại, để dò xem chỗ nào đích là nơi ở của Ung Chính hãy động thủ. Vì vậy, hai nữ hiệp lại im hơi bặt tiếng một thời gian. Trong cung cấm nhờ đó cũng được yên ổn một dạo.

Cũng một phần vì sự yên ổn giả tạo đó mà Ung Chính hoàng đế thiên cư sang vườn Viên Minh. Lã Tứ Nương cùng Ngư Nhương đem theo lương khô, ẩn nấp trong những khu hẻo lánh nhất trong vườn, dò la tin tức về Ung Chính. Thế rồi cũng có lúc hai nàng nghe lỏm được bọn cung nữ và Thái giám trò chuyện, biết rằng Ung Chính ngày ngày ở lại thư viện Bích Đồng để duyệt xét mọi việc quốc sự. Thật là cơ hội trời cho. Hằng đêm hai nàng chia nhau đi dò la đường sá.

Cuối cùng, đã thuộc làu mọi đường đi lối lại, cổng ra ngõ vào trong vườn. Lúc đó chính là dịp để hai nàng trổ tài hiệp khách để hạ thủ kẻ tử thù. Và đã thành công.

Hôm đó, hai nàng nữ hiệp mang theo muộn hương (tức mê hồn hương) cho nên khi Ung Chính hoàng đế bị chặt đầu thì bọn tả hữu thị vệ cũng đều bị mê man khắp lượt, lăn quay dưới đất cả. Lã Tứ Nương cắt xong đầu Ung Chính, muốn đem về tế trước bàn thờ cha và ông nội, nhưng Ngư Nhương can bảo:

- Chị làm như vậy chỉ giúp bọn chúng tìm ra tung tích. Bỏ nó lại là hơn!

Nói đoạn, Ngư Nhương cầm chiếc đầu lâu nhét vào trong quần Ung Chính hoàng đế. Hai người nhìn nhau đắc ý mỉm cười. Rồi như một cặp nhạn, hai nàng uốn mình nhảy lên mái ngói, phóng đi, chỉ còn thấy hai cái bóng trắng mờ dần trên các nóc điện, trong vườn Viên Minh.

Cầu Nhiêm Công lập tức cho cởi dây khai thuyền. Khi bọn Ngạc Nhĩ Thái biết được tin chạy vào tới vườn Viên Minh rồi bao chuyện xảy ra tiếp theo, thì thuyền của Lã Tứ Nương xuôi gió thuận buồm, đã vượt khỏi địa phận Bắc Kinh hướng về nam mà lướt tới.

Chuyện kể cũng kỳ lạ. Khi Lã Tứ Nương chưa báo được thù cha thì lúc nào cũng mặt ủ mày chau, áo xô phấn nhạt, nhưng khi đã báo được thù rồi thì cười nói suốt ngày, nào xiêm áo, nào phấn son, đẹp ra trông thấy.

Chu Dung Kính mừng vui khôn tả, suốt ngày đêm trong đầu chỉ nghĩ tới chuyện trăm năm với nàng.

Thuyền trẩy tới địa phận tỉnh Hồ Nam, Cầu Nhiêm Công đưa Dung Kính về nhà. Phụ thân của Dung Kính gặp lại con, mừng như sống lại. Dung Kính nói với cha việc xin cưới Tứ Nương làm vợ. Cầu Nhiêm Công liền đứng ra làm chủ hôn, chọn ngày lành tháng tốt cho đôi trẻ làm lễ cưới.

Ngày vui ngắn chẳng tầy gang, vừa mấy chốc đã một tháng trôi qua, Cầu Nhiêm Công muốn cáo từ ra về. Cha con Chu Dung Kính cố giữ lại mà không được. Lã Tứ Nương nói:

- Vợ chồng con nhờ sư phụ chu toàn nên mới có ngày nay. Sư phụ lên đường, chúng con xin tiễn đưa về mãi Tứ Xuyên.

Chu Dung Kính cũng nói:

- Phải đấy! Phải đấy!

Ngư Nhương quyến luyến, không muốn rời xa Tứ Nương. Nàng nhớ tới ngày cha bị hại mà thê thảm trong lòng. Cha chết, nhà không có, biết về đâu? Càng nghĩ nàng càng buồn, bất giác đôi dòng lệ tuôn rơi lã chã. Lã Tứ Nương hết lời khuyên giải và an ủi nàng, Cầu Nhiêm Công cũng nhân đó nhận nàng là con và hứa chăm sóc cẩn thận nàng mới nguôi ngoai được.

Bốn người lại bắt đầu cuộc hành trình. Lần này, thuyền ngược sông Trường Giang. Dọc đường, cảnh núi non hùng vĩ sông nước long lanh, cây cỏ tốt tươi, làm cho mọi người đều khuây khoả nỗi sầu ly biệt.

Thuyền đã tới địa phận Tứ Xuyên. Nơi đây núi non hùng vĩ, hiểm trở hơn. Bốn người bỏ thuyền lên ngựa, theo đường bộ. Vừa tới núi Ngũ Lão, dừng ngựa trên đồi cao, họ bỗng thấy từ phía chân đồi có một ông lão với một chàng thanh niên đang cho ngựa thong thả bước ra. Ngư Nhương nhanh mắt, nhận ra ngay ông lão đó chính là Ngư Xác, cha nàng. Nàng vội ra roi quất ngựa chạy tới trước cha. Hai cha con chỉ biết ôm nhau khóc ròng.

Cầu Nhiêm Công và vợ chồng Lã Tứ Nương sau đó cũng đã tới Hai bên thi lễ. Khi hỏi ra, Công mới biết rằng kẻ bị Lưu Thành Thuỷ bắt chém chi là một tên vô lại địa phương, còn Ngư Xác thì được Thuỵ cảm cái lòng nghĩa khí mà ngầm tha, song hứa là phải biệt tăm tích, đổi họ thay tên. Nay thấy Ung Chính đã chết, Ngư Xác mới thong dong xuất hiện thế này. Cũng có lần Ngư Xác nhớ con, tìm tới Cầu Nhiêm Công nhưng không gặp vì Công đã đem Ngư Nhương đi Bắc Kinh rồi.

Lòng trời run rủi, hôm nay cha con lại gặp nhau, thật là vui mừng ngoài ý muốn. Ngư Xác tạ ơn công lao dạy dô con gái mình của Cầu Nhiêm Công, chúc mừng Lã Tứ Nương đã trả được đại thù, lại còn đẹp duyên với người chồng vừa ý.

Năm người chuyện trò vui vẻ, mãi sau Ngư Xác mới sực nhớ bèn giới thiệu cho họ biết người đi cùng ông là ai. Chàng họ Đặng, tên Vũ Cửu, người Tứ Xuyên, vốn là một vị đại tài chủ chuyên kết giao những tay anh hùng, hào kiệt. Ngư Xác hiện cũng đang được Đặng Vũ Cửu mời ở lại Đông trang, là một thôn trang ở ngay dưới chân núi Ngũ Lão, có tới hai ba trăm nóc nhà và nuôi đến năm, sáu trăm môn khách. Cửu cũng biết đôi chút võ nghệ, tuổi năm đó đã ba tám, còn có mẹ già, chưa lấy vợ. Cửu lập chí từ lúc thiếu thời, quyết lấy cho kỳ được người vợ tài mạo song toàn, bởi thế chàng chọn kén mãi tới nay mà chưa tìm được người như ý.

Hôm đó, Đặng Vũ Cửu sai bày tiệc rượu, thết đãi hai cha con nàng Ngư Nhương và ba thầy trò, vợ chồng nàng Lã Tứ Nương. Rượu đến giữa chừng, nhân nói tới võ nghệ của Ngư Nhương, Cầu Nhiêm Công liền bảo nàng múa một bài kiếm giúp mọi người hạ tửu. Ngư Nhương vâng lời sư phụ liền cởi bỏ áo ngoài, vung cặp uyên ương kiếm lấp loáng, vụt bên đông, chém bên tây. Kiếm múa càng lúc càng nhanh, mọi người chỉ còn thấy một vầng ánh sáng lăn bên này, lộn bên kia trong luồng gió kiếm vù vù nghe lạnh người.

Đặng Vũ Cửu xem thấy mê quá, nhịn chẳng được bỗng thốt lên một tiếng: "Tuyệt quá!". Tiếng khen vừa dứt thì đạo bạch quang cũng vừa phóng tới sân như một mũi tên bắn. Ngư Nhương đã thu kiếm, miệng cười tươi như hoa nở, thong thả ngồi lại vào bàn.

Mọi người trên bàn tiệc đều nâng cao ly rượu, hướng về phía Ngư Nhương cùng nói "Cung hỉ" rồi một hơi cạn chén. Bữa tiệc quả là vui hiếm có. Chủ cũng như khách, hai bên sướng ẩm mãi tới khuya mới tan.

Đêm hôm đó, Ngư Nhương đưa cha vào phòng an nghỉ rồi cũng kiếm một chỗ ở góc phòng để được ngủ gần cha mà hầu hạ khi cần. Chu Dung Kính cùng với Lã Tứ Nương, được dành riêng một phòng, còn Đặng Vũ Cửu đưa Cầu Nhiêm Công về phòng mình. Hai người lại đề cập tới võ nghệ của Ngư Nhương.

Đặng Vũ Cửu coi chừng, thấy trong phòng không còn ai, bèn đứng dậy, chắp tay lạy Cầu Nhiêm Công rồi ngỏ lời xin Công đứng làm mai cho mình cưới nàng Ngư Nương làm vợ, Cầu Nhiêm Công nghe đoạn, vừa lấy tay vỗ vào ngực mình vừa tươi cười bảo:

- Việc gì chớ cấu hôn thì cứ việc tin tưởng vào lão hán này!

Qua ngày hôm sau, quả nhiên Cầu Nhiêm Công tìm Ngư Xác để nói chuyện mai mối. Ngư Xác vui lòng lắm nhưng ông vẫn do dự:

- Cha con tôi xa nhau đã lâu, thực không rõ lòng dạ cháu nó ra sao bây giờ.

Cầu Nhiêm Công liền cho gọi Lã Tứ Nương tới, nói cho nàng rõ chuyện rồi nhờ nàng dò ý Ngư Nhương. Tứ Nương chạy về phòng, trước hết bảo chồng đi chỗ khác, rồi mới kéo tay Ngư Nhương ngồi xuống bên giường, thì thầm to nhỏ chuyện Đặng Vũ Cửu cầu hôn và cha nàng đã tỏ ý bằng lòng, tiếp đó, hỏi thẳng Ngư Nhương sẽ định liệu thế nào?

Ngư Nhương thoạt nghe chuyện vợ chồng, xấu hổ quá, chẳng nói được lời nào. Về sau bị Tứ Nương gặng mãi, nàng bất giác nhỏ đôi hàng lệ. Tứ Nương vội hỏi thì nàng nói:

- Chỉ vì ở mãi quen rồi, em chẳng muốn bỏ chị mà đi. Em chẳng muốn lấy ai, cứ ở chung với chị, như thế có, hay không?

Lã Tứ Nương phì cười, lấy tay vỗ nhẹ vào má Ngư Nhương một cái rồi bảo:

- Con bé này, nói chuyện trẻ con? Chị của em đã lấy chồng rồi. Lấy chồng thì phải theo chồng chứ, ở mãi với nhau sao được?

Ngư Nhương lắc đầu không chịu. Lúc sau mới nói:

- Nếu anh chàng Đặng đã có lòng như thế thì chị hãy bảo hắn theo chị em mình về Hồ Nam cùng ở.

Tứ Nương nghe xong lại vỗ vai Ngư Nhương, cười nói:

- Em chỉ đùa thôi! Lẽ nào lại bắt người ta phải bỏ gia tài điền sản để theo bọn mình tới Hồ Nam hóng gió tây bắc được?

Như Nhương vênh mặt lên nói:

- Nếu không chịu thế, em chẳng lấy chồng đâu!

Giữa lúc Tứ Nương đang không biết khuyên giải ra sao, bỗng Chu Dung Kính từ sau giường nhô ra, vỗ tay cười vang:

- Chị không bỏ được em, em không bỏ được chị. Đến tôi cũng chẳng thể bỏ được cô em Nhương nữa. Vậy thì để tôi đem hết dinh cơ Hồ Nam lên núi Ngũ Phong mà ở để cho hai chị em nhà này được sớm tối gặp nhau. Lúc đó hẳn cô em Nhương sẽ chịu lấy chồng chứ gì?

Ngư Nhương lườm Kính một cái thật dài rồi mới nói:

- Em chẳng chịu đâu! Can gì tới anh mà anh nói? Vợ chồng anh cũng một lòng với nhau để bắt em lấy chồng phải không? Em nhất định không lấy, xem làm gì em nào?

Lã Tứ Nương còn nói không biết bao nhiêu điều, nào là ưng chịu đem cả gia tài tới Tứ Xuyên, nào là mãi mãi ở chung với nhau, lúc đó xem chừng Ngư Nhương mới xiêu lòng phần nào, nhưng miệng vẫn không chịu nói. Nàng cúi gằm mặt xuống, tay mân mê chiếc khăn tay màu hồng nhạt. Chu Dung Kính đưa mắt cho Tứ Nương, chỉ tay ra hiệu vào chiếc khăn hồng.

Tứ Nương hiểu ý liền giật chiếc khăn rồi đưa lẹ cho Dung Kính, nói:

- Anh đem ngay chiếc khăn này lên cho sư phụ, bảo em nó đã bằng lòng rồi đó. Có khăn này làm bằng cớ, xin sư phụ cứ đứng làm mai ngay đi cho.

Chu Dung Kính cầm chiếc khăn, chạy đi báo tin mừng.

Đặng Vu Cửu thấy Ngư Nhương đã bằng lòng, mừng khôn xiết kể, liền chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ. Riêng Ngư Nhương thấy câu chuyện đã lỡ như vậy rồi còn biết nói gì hơn, đành mời Tứ Nương tới để đặt ba điều kiện. Điều thứ nhất là phụ thân nàng cũng ở tại nhà họ Đặng và Đặng Vũ Cửu phải nuôi dưỡng mãi tới khi khuất núi. Điều thứ hai là sư phụ Cầu Nhiêm Công, Đặng Vũ Cửu cũng phải lo cung dưỡng không được thiếu sót điều gì. Điều thứ ba là chị Tứ Nương cũng như anh Dung Kính bằng lòng ở cùng trang viên với vợ chồng nàng.

Đặng Vũ Cửu nghe xong, cam đoan thoả mãn hai điều kiện thuộc về phần mình. Vợ chồng Tứ Nương cũng cam kết thực hiện. Đặng Vu Cửu bèn một mặt cho sửa sang nhà cửa, xếp đặt nơi ăn chốn ở cho hai vị lão nhân, một mặt xây cất ngay một toà nhà mới để hai vợ chồng Chu Dung Kính ở. Chu Dung Kính quay về nhà đón cha lên cùng ở với vợ chồng mình.

Đến ngày vui của Ngư Nhương. Người ta thấy không biết bao nhiêu là anh hùng háo hán giáng hồ tới mừng. Trong ngoài khắp trang, cỗ bày la liệt, tính ra có tới một trăm hai mươi mâm cả thảy. Thật là một ngày vui, say đến lệch đất nghiêng trời.

Hồi 69

ĐÁNH HỒI BỘ CƯỚP HUƠNG PHI

Lại nói sau khi Ung Chính hoàng đế bị bọn Lã Tứ Nương, Ngư Nhương hạ thủ, Bảo Thân vương tức thì đăng vị kế nghiệp. Việc đầu tiên mà ngài nhớ đến là cô chị vợ tên Đổng Ngạch. Ngài sợ Phó Hằng, chồng nàng Đổng Ngạch, gây điều trở ngại cho cuộc tình duyên vụng trộm của mình bèn nên ngài hạ một đạo thánh chỉ, thăng Hằng lên chức Thượng thư bộ Lễ.

Phó Hằng vốn là một viên quan nhỏ, hiện giữ chức Tiểu kinh quan, thế mà được hoàng thượng sủng ái bỗng vọt lên chức thượng thư, thử hỏi làm sao Hằng không cảm kích được. Hằng chỉ còn có mỗi ước nguyện là làm vừa lòng hoàng đế.

Càn Long thấy mình đã "mua" được Phó Hằng rồi, bèn thác cớ hoàng hậu thường nhớ tới bà chị Đổng Ngạch, liên tục triệu nàng vào cung. Và trước khi gặp cô em, bao giờ bà chị cũng phải qua hú hi với chồng cô em trước đã.

Hoàng hậu Phú Sát y như người nằm trong trống, không hay biết gì hết, lại cứ thúc chồng triệu bà chị vào cung cho mình. Thật tức cười.

Còn nàng Đổng Ngạch, từ khi gian dâm với hoàng đế, bèn tự cho mình là cao quý lắm, chẳng thèm ngủ với chồng nữa. Anh chồng bị cắm sừng Phó Hằng đã nhiều lần mò vào buồng vợ nhưng lần nào cũng bị nàng đuổi ra ngoài, đành chỉ biết chung chạ với bọn hầu thiếp mà thôi. Hằng có đến bốn nàng hầu, song không ai đẹp bằng Đổng Ngạch. Nằm với bọn thiếp mà Hằng toàn nhắm mắt tơ tưởng tới vợ mình.

Thời giờ thấm thoắt thoi đưa. Càn Long hoàng đế cùng Đổng Ngạch tư tình tính đã hai năm. Năm đó, vào một ngày xuân, Đổng Ngạch bỗng thấy mình có bầu. Chuyện động trời này nhất định không thể bịp được, dù gã chồng có ngốc tới đâu chăng nữa. Đã hai năm qua, Phó Hằng đâu có được vào buồng nàng. Thế rồi bỗng cái bầu chình ình ra thì thử hỏi Hằng không nổi máu ghen sao được. Nàng quả có sợ, bèn vội vào cung bàn tính với hoàng đế. Rồi nàng trở về nhà, dọn một bữa tiệc ngay trong phòng ngủ của mình và cho mời Phó Hằng tới. Đã quá lâu không được gần vợ, nay được gọi vào ăn nhậu rồi có lẽ còn nhiều chuyện tốt đẹp khác, Hằng sướng tưởng như điên lên được. Tối hôm đó, đích thân Đổng Ngạch ân cần ngồi hầu rượu, lại càng khiến cho anh chồng thêm khát khao chuyện gối chăn. Rượu cạn tiệc tan Hằng quả nhiên được giữ ngủ lại, sung sướng không bút nào tả xiết.

Cách ít hôm, nàng Đổng Ngạch bảo với Phó Hằng mình đã mang bầu. Thật đúng là "Song hỷ lâm môn", Hằng vừa nghe đã mừng quýnh, thét bầy đặt tiệc luôn. Hằng tuy đã có ba con trai, nhưng đều là con của các hầu thiếp. Còn chính thất Đổng Ngạch chưa từng sinh nở, thử hỏi Hằng không vui sao được!

Đổng Ngạch sinh con trai, nom kháu quá. Hằng bấm đốt tay tính nhẩm, thì ra thằng con cưng của mình ở trong bụng mẹ mới có tám tháng mà đã vội vàng chui ra: Hằng vội hỏi vợ sao lại có chuyện kỳ quặc đó. Nàng Đổng Ngạch thấy chồng thắc mắc bụng đã lo nhưng vốn xảo trá, nàng vội nói gạt đi, bảo vì mình thể chất ốm yếu không dưỡng được thai nên đã sinh thiếu tháng và đứa con cũng cần phải nuôi dưỡng hết sức cẩn thận mới mong thành người được. Nghe vợ nói, Hằng tin ngay là thật và cũng từ đó, đem hết tâm lực nuôi nấng thằng bé.

Sự thực thì thằng bé đẻ ra khỏe mạnh, tiếng khóc sang sảng như tiếng chuông. Sau khi đầy tháng, nó được mẹ bế vào cung triều kiến. Hoàng đế thấy thằng bé giống mình như đúc nom cũng khôi ngô tuấn tú, trong lòng lấy làm mừng rỡ. Ngài đặt cho thằng bé cái tên Phúc Khang An - có ý mong cho nó luôn luôn được bình an tráng kiện, lắm phúc nhiều đức Sau đó, hoàng đế cũng như hoàng hậu còn thưởng cho thằng bé rất nhiều châu báu và đồ chơi đủ thứ. Ngài còn sợ bọn nhũ mẫu bên ngoài nuôi thằng bé không được sạch sẽ, cho nên, nhân lúc hoàng hậu Phú Sát cũng sinh hạ một ông hoàng con, có đến bốn mười người nhũ mẫu, ngài bèn chia đôi số đó ra, đưa hai mươi người đến nhà Phó Hằng để bú mớm cho Phúc Khang An, Ngài còn thác cớ bảo hoàng hậu rất yêu quý thằng bé, nên một tháng đôi kỳ sóc vọng (mồng một và rằm) phải đưa thằng bé vào cung gặp mặt người.

Đến khi Phúc Khang An lên năm tuổi, hoàng đế cho triệu vào cung để cùng học tập chung thư phòng, chung thầy với hoàng tử. Hồi này, Đổng Ngạch đã có phần giảm sút nhan sắc nên Càn Long hoàng đế đã đem lòng sủng ái người khác. Mối giao tình giữa hai người cùng càng ngày càng nhạt theo.

Dù vậy Phó Hằng vẫn một ngày một thăng quan tiến chức; thăng riết một hồi, Hằng leo lên tới chức Văn hoa điện đại học sĩ.

Hằng có ba đứa trai, đứa nhỏ nhất cũng đã mười bốn tuổi. Hoàng đế hạ chỉ kén cả ba một lượt, làm phò mã hết. Ngài đem ba cô công chúa gả cho ba đứa con Hằng. Duy chỉ còn Phúc Khang An là không được ngài ban ơn đặc biệt đó mà thôi. Tuy nhiên, nói đến ân tình của hoàng đế thì Phúc Khang An, có thể nói là người số một được đặc hưởng.

Năm đó An mười hai tuổi. Càn Long hoàng đế phong cho làm bối tử, lại đem cả toàn đội quân ngự lâm giao cho An chỉ huy. Ngài còn ngầm tuyển rất nhiều những danh tướng võ sĩ để bảo vệ cho An. Bọn võ tướng này biết thâm ý hoàng đế nên mỗi khi xuất quân đều nhường công đầu lại cho An hoặc mỗi lần giao chiến với địch bèn cố ý giả thua để nhường chỗ cho An tấn công rồi đứng ngoài giúp ngầm tới thắng lợi, khiến bao nhiêu công lao tại trận tiền đều quy về tay An cả.

Nhờ đó, An xuất quân lần nào cũng thắng trận. Mỗi lần khải hoàn trở về, An đểu được hoàng đế triệu vào thưởng yến ban đồ. Trong nhà An, chỉ riêng đồ hoàng đế ban thưởng cũng đã chất ngập cả, không còn thừa một chỗ nào. Kịp đến khi Hồi bộ có Đại, Tiểu Hoà Trác Mộc cử binh mưu phản, Càn Long hoàng đế muốn khoe với thiên hạ cái bản lĩnh kinh khiếp của Phúc Khang An, bèn hạ chỉ sai An thống lĩnh đại binh, hội với Y Lê tướng quân là Triệu Huệ, xuất sư tấn công Hồi bộ.

Lúc lâm hành, Triệu Huệ thỉnh huấn Càn Long hoàng đế. Ngài rỉ tai Huệ dặn dò săn sóc Phúc Khang An. Ngài còn dặn riêng Huệ:

- Đã từ lâu, trẫm nghe nói Đại Trắc Mộc có một nàng hầu tên gọi Hương Phi. Chẳng những nàng có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà còn có một tấm thân ngà ngọc, lúc nào cũng tiết ra một mùi hương rất lạ. Tướng quân đi chuyến này nên đặc biệt lưu ý tới điều trẫm dặn và cố mang về nàng Hương phi cho trẫm.

Tướng quân Triệu Huệ nghe xong, đã đoán rõ tâm sự của hoàng đế, liền dạ dạ liên thành rồi cáo lui. Huệ hợp binh với An rồi rầm rầm rộ rộ kéo thốc tới Hồi hộ (bộ lạc này theo bối giáo ở mãỉ Tân Cương, gần Tây Tạng).

Hồi đó Phúc Khang An mới mười tám tuổi. An ăn mặc bảnh bao, hằng ngày thường cưỡi ngựa, đem theo một đội vệ binh ra những vùng lân cận đại doanh có rừng cây rậm rạp để săn bắn. Tuy An chịu mệnh của hoàng đế làm tới chức đốc sư nhưng lại chỉ đóng doanh trại tại một nơi biên địa nhỏ hẹp, chẳng hề xuất trận đánh nhau bao giờ. Lại có một danh sĩ cả ngày hầu cờ tiếp rượu cho An, chủ khách mặc sức chén tạc chén thủ, bỏ mặc việc chiến chinh cho tướng quân Triệu Huệ.

Tướng Huệ đem mười vạn đại binh theo đường Ô Thập đánh thốc vào Khách Thập Cát Nhĩ. Đô thống Phú Đức lại do đường Hoà Chân tiến thẳng tới Diệp Nhĩ Hương. Anh em Hoà Trác Mộc liên tiếp bại trận phải bỏ qua núi Thông Lĩnh chạy trốn. Triệu Huệ sai một cánh quân truy đuổi Phó La Ni Đô tới núi A Sở Nhĩ, giết chết vài vạn quân Hồi. Huệ thấy quân mình đại thắng, bèn huy động toàn lực, đánh vào mãi tận miền núi Ba Đạt Khắc, bên bờ sông Y Tây Hỗn Hà. Hai anh em Đại, Tiểu Trắc Mộc chạy trốn qua sông, sau đó bị tên tù trưởng vùng núi Ba Đạt Khắc bắt được, chặt đầu, đem dâng cho Huệ.

Tướng quân Triệu Huệ gan trời mà dám nhận công, vội sai đem hai thủ cấp bỏ vào hộp đóng kín, gởi qua dinh Đốc sư Phúc Khang An. An được chiến báo của Huệ bèn sửa soạn tấu chương gửi về triều. Thánh chỉ hạ xuống, phong Phúc Khang An làm Tĩnh An Bá, cho phép dùng nghi trương bậc Thân Vương.Càn Long hoàng đế còn đem Hồi bộ đổi tên ra Tân Cương, chia làm bốn trấn: Y Lê Tháp Nhĩ, Ba Cáp Đài, O Lô Mộc Tề, Khách Thập Cáp Nhĩ; đồng thời thăng Triệu Huệ lên chức Tân Cương tướng quân kiêm chức Biện sự đại thần, Phú Đức lên chức Tham tán đại thần. Cuối cùng, ngài truyền lệnh cho An ban sư hồi kinh.

Đối với tướng Triệu Huệ, còn có một việc vô cùng hệ trọng khiến ông luôn luôn tâm niệm trong lòng, không bao giờ dám lơ là. Đó là việc tìm kiếm Hương phi. Điều đáng lo cho Huệ là sau khi Đại Trác Mộc bị tù trưởng núi Ba Đạt Khắc giết rồi thì chẳng biết Hương phi phiêu bạt nơi nào. Mà cái ngày ban sư của Đốc sư Phúc Khang An lại mỗi lúc một tới gần. Huệ hết sức lo lắng, vội sai thủ hạ đi khắp nơi dò la, nhưng đều chẳng tìm ra tung tích Hương phi. Huệ lúc này không thể nói lo nữa, mà đã là sợ, sợ bởi chuyến này không tìm được Hương phi đem về kinh thì bao nhiêu công lao của mình e rằng cũng bằng không.

Tham tán đại thần Phú Đức bàn với Huệ:

- Đại Trác Mộc bị tên tù trưởng núi Ba Đạt Khắc giết chết. Vậy thì Hương phi nhất định phải lưu tới nơi này. Chi bằng bọn ta cứ truy tên tù trưởng thì thế nào cũng ra.

Lời của Đức làm cho Huệ tỉnh ngộ. Tên tù trưởng Ba Đạt Khắc chỉ vì mê mẩn Hương phi nên mới giết chết Đại Trác Mộc, chủ đích thừa hưởng cái diễm phúc kề cận người đẹp có thứ hương thơm kỳ lạ. Không ngờ Hương phi thấy chồng bị giết trong trong lòng căm thù đến cùng độ, dù cho tên tù trưởng có lừa bịp, bức bách cách nào cũng cương quyết chống lại, thề chẳng bao giờ chịu thất tiết. Đôi lần, bị bức bách quá, nàng gào thét và tìm đủ cách để tự tử chứ quyết không cho tên tù trưởng thoả mãn thú tính của y.

Tên tù trưởng Ba Đạt Khác thấy miếng thịt dê quá béo, quá thơm đã kề tới miệng mà không được nuốt, nghĩ càng tức càng thèm. Giữa lúc hắn tiến thoái lưỡng nan, bỗng tướng quân Triệu Huệ cho người tới đòi Hương phi gấp, bảo nàng là vợ của tướng giặc, một đồng trọng phạm cần giải về kinh để triều đình nghị tội.

Tên tù trưởng Ba Đạt Khắc được lệnh này mừng quá vì được dịp gỡ gạc chút lợi lộc và chút công lao đối với Thanh triều. Hơn nữa, Hương phi lại chẳng ưng chịu thì có để lại cũng vô ích. Bởi vậy, hắn bèn lên giọng yêu sách:

- Hương phi vốn là người đẹp có một không hai của Hồi bộ, chiếm được đâu có phải dễ. Hơn nữa, việc cung dưỡng hương hoa, giữ gìn nhan sắc còn là việc thật hết sức công phu. Nếu triều đình muốn lấy nàng thì cần phải có mươi đôi bạch bích của Hoà Chân mới đổi được.

Tướng Triệu Huệ lúc đó chỉ miễn sao được lòng hoàng đế, mười cặp bạch bích Hoà Chân có đáng kể gì! Thế là cuộc "mua, bán" xong xuôi.

Tướng quân Triệu Huệ đội mũ đi hia, trịnh trọng trong bộ áo trào phục, ra tận ngoài nha môn để đón rước Hương phi. Thoạt trông thầy nàng, Huệ cũng phải giật mình kinh sợ bởi cái sắc đẹp tuyệt trần kia. Mặt nàng quả đẹp như hoa, da nàng trắng như tuyết, dáng điệu yêu liều của nàng quả thật quyến rũ, bất cứ ai cũng phải mê say. Huệ lên tiếng:

- Hoàng thượng hết sức sủng ái nàng. Từ đây, nàng sẽ được tận hưởng cảnh vinh hoa phú quý. Chỉ mong nàng đừng quên tên bầy tôi nơi biên viễn này đã có công tiến cử.

Nàng Hương phi nghe Huệ nói xong chỉ mỉm cười tỏ ý như cám ơn, không nói gì. Huệ lại hỏi:

- Lần này về kinh xa xôi vạn dặm, nàng có cần đem theo gì không?

Hương phi thong thả đáp:

- Chẳng có gì mang theo! Duy chỉ có hai con a hoàn tâm phúc lúc trước, bỏ chúng không đành nên cầu xỉn quý tướng quân cho chúng cùng đi mà thôi!

Hai con a hoàn được gọi tới, Huệ dặn chúng phải mang theo tất cả những gì mà lúc bình nhật Hương phi thường dùng tới. Dù to dù nhỏ, không được thiếu món nào. Suốt dọc đường từ Tân Cương về tới Bắc Kinh, Huệ cho dựng nhiều quán khách, trong quán trần thiết màn gấm trướng hoa hết sức lộng lẫy.

Huệ còn sợ lúc đi đường nàng chịu cảnh phong sương không thấu mà giảm sút nhan sắc đi chăng, cho nên còn bắt đóng một cỗ xe bồ luân (xe có bánh quấn cỏ bồ đi cho êm), chung quanh có màn gấm che phủ để nàng nằm trong đó cho êm, cho kín đáo. Mỗi lần tới một quán khách nào, ngoài hai con a hoàn tâm phúc của nàng ra, Huệ còn phải thêm hai mươi đứa xử nữ, hai mươi tên sai quan, túc trực tại chỗ để chạy đi chạy lại cung dưỡng những thứ cần thiết cho nàng. Phía ngoài quán, còn có quân đội của Đốc sử Phúc Khang An đồn trú để bảo vệ. Mỗi ngày, Huệ đều chuẩn bị đầy đủ nào sữa dê, sữa bò, nào hoa tươi hương lạ để cho nàng tắm rửa.

Theo lời mấy con a hoàn, Hương phi hằng ngày tắm bằng sữa bò, sữa dê khiến da nàng ngày càng trắng, càng mịn thêm lên, cứ mỗi lẩn tắm xong, nàng lại xức đủ loại hương lạ có hương vị thơm phức rồi dùng trà thơm súc miệng. Bởi thế nàng có cái tên Hương.

Hồi 70

ANH HÙNG KHÓ LỌT CỬA GIAI NHÂN

Suốt dọc đường dài hàng vạn dặm, Phúc Khang An biết rõ đó là "trái cấm" của thiên tử cho nên sợ một phép, chẳng dám mảy may "tơ hào". Nhưng Hương phi thì lại thường cho mời An tới quán khách trò chuyện. Thật quyến rũ khi nàng mỉm cười, để lộ đôi hàm răng trắng đều đặn giữa cặp môi tươi thắm. Những lời cười nói suốt ngày, vui như chim sơn ca hót sáng, mừng như chim én buổi đầu xuân.

Người ta tưởng như nàng đã quên đi hết nỗi thù nhà hận nước. Phúc Khang An vốn là một tay thiếu niên hữu hạng, có thể nói phong lưu bậc nhất, thế mà thấy Hương phi cũng phải cúi đầu nín thở, song cũng chỉ đành "kính nhi viễn chi" mà thôi.

Tiếng kèn chiến thắng tưởng đã vẳng tới nơi chốn kinh thành. Càn Long hoàng đế có hai điều lưu tâm bậc nhất: một là Phúc Khang An, hai là Hương phi. Nay cả hai đều đã trước mặt cả, bảo sao hoàng đế chẳng mừng! Ngài truyền bảo nội giám đưa Hương phi vào tạm trong Tây nội, rồi truyền lệnh cho Đốc sư Phúc Khang An vào triều bái trước Ngự điện và tâu trình mọi việc về chiến trận Tân Cương. Càn Long hoàng đế thấy một vị tướng quân còn nhỏ tuổi mà lập được công lớn như vậy, lòng thấy rất vui. Ngài vốn biết Phúc Khang An là con riêng của mình nên sủng ái hết sức đặc biệt. Ngài chỉ giận rằng vì lễ tiết quân thần trở ngại mà không thể ôm lấy An vào lòng, đành chỉ dùng lời lẽ mà tán dương tài năng, công lao của An, như tán dương cho chính mình. Sau đó đến việc An đem dâng bọn chiến phạm lên ngài ngự xét.

Lúc đó, vua tôi Hồi bộ cùng với quyến thuộc đều bị Phúc Khang An áp giải về Bắc Kinh. An đưa tất cả vào trước điện.

Kẻ nào kẻ nấy đều khúm núm sợ hãi, bò rạp xuống đất, chẳng dám cất đầu lên. Càn Long hoàng đế duyệt xét danh sách chiến phạm, thấy đầu sổ là vợ chồng tù trưởng Hồi bộ tên Hoắc Tập Chiêm, liền truyền lệnh cho lên điện, quỳ trước long án, và được phép ngẩng mặt. Hoắc Tập Chiêm vừa thấy hoàng đế vội dập đầu xin tha mạng mãi không thôi. Còn vợ Chiêm, tuy rằng mặt mũi tiều tuỵ, tóc tai rối bù, thân hình đầy đất bụi nhưng nét đẹp cũng không vì thế mà kém phần quyến rũ, Càn Long hoàng đế càng nhìn lòng càng lấy làm lạ. Ngài hỏi tại sao xứ Hồi nhỏ bé, man rợ thế kia mà lại sản sinh ra lắm người đẹp vậy nhỉ? Vợ Chiêm mà còn đẹp như vậy thì không biết Hương phi phải tới độ nào? Lúc đó Ngài chỉ còn nhớ tới một Hương phi, chẳng lưu tâm tới việc gì khác.

Ngài xét qua loa bọn tù phạm cho xong chuyện, rồi truyền giam vợ chồng Hoắc Tập Chiêm vào nhà lao của hình bộ; còn đưa ra pháp trường chém sạch.

Càn Long hoàng đế sai mở tiệc khánh công tại điện Mận Cần, đồng thời vào cung để gặp người đẹp Hương phi.

Người đẹp Hương phi từ khi vào đây, thấy cung điện nguy nga, sang trọng lòng cũng lấy làm thích, sai bọn cung nữ, phi tần dẫn đi dạo chơi đây đó. Nàng vốn tính tình hoà thuận, ăn nói lại dịu dàng nên ai gặp cũng ưa. Có lúc nàng tự mặc lấy áo, thay lấy giày, đêm đến nàng kéo cả bọn cung nữ lên ngủ cùng giường với mình. Do đó, chẳng bao lâu bọn phi tần trong cung đều tỏ lòng quý mến và thân thiết với nàng. sang ngày thứ tám, bỗng có tin hoàng đế lâm hạnh tại Tây nội. Thế là cả bọn cung nữ vội vội vàng vàng xúm lại trang điểm cho Hương phi rồi bảo nàng ra rước thánh giá.

Nhưng Hương phi nhất định không chịu, dù chết cũng không. Vùng vằng mãi chưa xong đã thấy hoàng đế tự bước vào phòng, chả cần ai đón rước. Hương phi ngồi trên giường mặt cúi xuống, chẳng nói một lời. Bọn cung nữ tả hữu sợ hãi giục nàng tiếp giá nhưng nàng vẫn ngồi im, tay mân mê dải áo lụa, tuồng như chẳng nghe thấy gì.

Càn Long hoàng đế vội xua tay đuổi hết bọn cung nữ ra ngoài rồi chạy tới trước mặt Hương phi, đứng ngắm nàng suốt từ đầu đến chân, suốt từ trước ra sau. Ngài chỉ thấy đôi mi nàng cong vút, đổi má nàng trắng mịn, hồng lên vì e lệ, cặp môi son tươi thắm như đoá anh đào vừa mới nở. Ngài liếc mắt nhìn về phía sau, càng thấy mê hơn. Chiếc cổ thoa chút phấn của người đẹp mọng lên màu ngà ngọc, mớ tóc mướt xanh như mây loã xoã buông xuống đôi vai tròn thon trên một tấm lưng mềm mại đầy hứa hẹn còn đôi tay nàng thì là cả một phiến bạch ngọc đẽo thành, trắng trong, nuột nà.

Càn Long hoàng đế lẳng lặng ngắm nhìn, thưởng thức cái đẹp thiên thành hãn hữu, cảm thấy như nàng có một cái gì phú bẩm tự thiên tiên, một vẻ cao khiết không kẻ trần tục nào có được. Rồi bỗng ngài tỏ lòng kính quý, bỏ hết ý niệm tà dâm. Khi chợt thấy phảng phất mùi hương êm ái lan toả tới ngài đâm ra luống cuống đến không dám đụng ngay cả đầu ngón tay mình vào nàng nữa mà chỉ luôn mồm than thở:

- Trời! Quả là một người đẹp! Quả là một nàng tiên! Khí thiêng của đất trời có lẽ chi mình nàng chiếm hết cả. Thật đáng hận cho trẫm vô phúc, không sớm gặp mỹ nhân. Gặp được nàng hôm nay, trẫm không biết phải làm gì để có thể làm vui lòng nàng?

Nói đoạn, ngài lại thở dài một tiếng, bước ra khỏi phòng dặn bọn cung nữ:

- Các ngươi hãy hầu hạ mỹ nhân cho cẩn thận! Nàng lìa xa quê hương muôn dặm, ắt lòng không thể nào không buồn khổ. Các ngươi phải hết sức tìm lời an ủi và khuyên nhủ nàng. Nàng muốn gì các người phải lập tức truyền cho tổng quản thái giám lo liệu ngay. Đối với nàng, đứa nào dám hỗn xược, biếng lười, trẫm chém đầu tức khắc! Đứa nào có tài làm cho nàng vui trẫm sẽ thương hậu. Trẫm để nàng nghi ngơi ít hôm. Các ngươi phải ý tứ mà hầu hạ, không được làm phiền nàng, nghe chưa?

Bọn thái giám và cung nữ nghe lời dặn của Càn Long hoàng đế thảy đều rạp đầu vâng dạ. Thái độ ôn tồn của hoàng đế vừa rồi, bọn chúng mới được thấy lần đầu. Đợi cho hoàng đế đi khỏi, bọn thái giám và cung nữ bất giác cười thầm với nhau.

Điều kỳ quái nhất là nàng Hương phi khi gặp hoàng đế, mặt lạnh như tiền, chẳng nói chẳng cười, nhưng khi ngài đi rồi, nàng hớn hở ra mặt, lại cùng bọn cung nữ nhảy nhót, chơi đùa, trò chuyện huyên thuyên…

Khu Tây nội này có một toà lâm viên rộng lớn cây cối um tùm. Hương phi sinh trưởng ở nơi hoang dã, chưa từng được thấy cảnh sắc nào đẹp hơn đây. Nàng thường đem theo hai thị nữ tâm phúc cùng một bọn cung nữ, có khỉ bơi thuyền trên ao Tây Trì, có khi leo lên ngọn Dao đảo, có khi buông câu trên Hoa cảng cũng có khi bắn hương trong vườn Tiểu Uyển.

Giữa lúc Hương phi đang vui chơi hào hứng bỗng có tin hoàng đế gửi đồ tới ban thưởng cho nàng. Bọn cung nữ vội giục nàng tạ ân để lĩnh thưởng, nhưng chỉ thấy nàng ngoẹo đầu một cái rồi co giò bỏ chạy lên lầu Trích Tinh trốn biệt.

Tên thái giám đưa đồ thưởng thấy nàng ngang bướng quá, cũng chẳng biết làm sao hơn, quay về phục chi, kể rõ nội tình cho hoàng đế nghe.

Cách ít hôm, Càn Long hoàng đế khao khát người đẹp Hương phi đã đến hồi ghê gớm. Bởi vậy, vừa toạ trào xong, ngài lặng lẽ đi sang Tây nội. Vừa bước chân qua cửa cung, ngài đã nghe tiếng cười nói vui vẻ bên trong. Bọn nội giám thấy ngài tới, đang tính báo lệnh truyền oai, nhưng hoàng đế đã vội xua tay rồi nhón chân lên, rón rén bước vào. Ngài thấy nàng để trần bộ ngực nõn nà, mớ tóc mây buông xoã ra sau, cho hai cung nữ búi, mặc chung quanh còn có bốn năm đứa nữa đang ngồi ngắm nghía vẻ đẹp tuyệt thế của nàng. Ngài còn thấy đôi chân nàng để trần đặt trên lòng một con thị nữ ngồi phía trước. Trước mặt nàng là cái mâm lớn chứa đầy những son phấn, châu ngọc của hoàng đế vừa mới ban thưởng, nay nàng chia lại cho bọn chúng. Bọn thị nữ một mặt cười nói, một mặt tạ thưởng. Khi đã thưởng khắp lượt rồi, nàng bèn cầm từng món còn dư ném vứt tứ tung; nào châu, ngọc, nào son phấn bừa bộn trên mặt đất. Bọn thị nữ chạy khắp phòng để tranh cướp, miệng la hét huyên thuyên chẳng khác gì chợ vỡ.

Càn Long hoàng đế đứng ngoài rèm nhìn vào một lát, bỗng cũng cười lên sằng sặc, rồi hất tung bức rèm lên, lẹ chân bước vào Bọn cung nữ thấy hoàng đế đột ngột xuất hiện, đứa nào đứa nấy hồn vía lên mây bò mọp xuống đất tiếp giá, độc chỉ có mình Hương phi vẫn thản nhiên soi kính trang điểm, vẻ như chẳng nhìn thấy gì hết.

Càn Long hoàng đế cũng như không hay biết đến thái độ ấy, nhẹ bước lại gần bên giá kính ngồi xem nàng búi tóc, gỡ đầu, rồi mặc áo, đi giày. Trong khi hoàng đế ngây người nhìn ngắm, Hương phi vẫn chẳng thèm hé răng, thậm chí không liếc mắt sang ngài tới một lần.

Càn Long hoàng đế bèn hỏi bọn cung nữ cặn kẽ xem nàng ăn uống ngủ nghê ra sao, có điều gì không vừa ý, hằng ngày làm gì để tiêu khiển. Ngài còn hỏi thêm xem nàng ở đây có được vui vẻ sung sướng không? Bọn cung nữ nhất nhất hồi tấu đầy đủ cho ngài rõ. Ngài dán đôi mắt vào Hương phi, thốt một tiếng thở dài, nói:

- Thần tiên nơi thượng giới, trông thì được mà gần thì không thể. Trẫm cùng với mỹ nhân, sao mà vô duyên thế!

Than đoạn, Ngài cho gọi hai tên cung nữ lớn tuổi hơn cả đến trước mặt, khẽ dặn chúng nên nhân lúc nàng vui vẻ mà lựa lời khuyên bảo nàng nên thuận tình với ngài để có được nhiều điều tất đẹp về sau. Hai cung nữ cúi đầu vâng chỉ rồi chờ hoàng đế ra khỏi cung bèn đem lời lẽ tha thiết của hoàng đế nói cho Hương phi nghe và kiên nhẫn khuyên dỗ nàng, nhưng chúng chỉ thấy nàng cười nói tự nhiên, tỏ vẻ không hay biết điều gì nữa cả.

Qua ngày hôm sau, hoàng đế lại ban thưởng cho Hương phi rất nhiều châu báu, quần áo, đồ trang sức. Nàng lại như trước, đem ra ban phát lại cho bọn thị nữ hết. Thế rồi từ đó về sau, việc này coi như một thông lệ: mỗi khi hoàng đế thưởng cấp cho nàng cái gì, thì nàng lại đem cho bọn cung nữ, thái giám hoặc có khi thuận tay quăng ném lung tung bằng sạch cái ấy.

Lại cách mấy hôm, Càn Long hoàng đế say rượu, nhớ đến Hương phi, bèn sai thái giám nâng dậy rồi dìu ngài tới Tây nội. Khi ngài vào tới cửa cung, bọn thái giám hô lên mấy tiếng thị oai. Bên trong, bọn thị nữ biết hoàng đế tới, vội dục Hương phi bước ra tiếp giá. Nhưng nàng cứ mặc, nhất quyết không ra, dù chết cũng đành. Bọn cung nữ chẳng còn cách gì khác, đành kéo nhau ra dìu hoàng đế vào phòng.

Hương phi thấy Càn Long hoàng đế vẫn vào phòng riêng của nàng, mặt bỗng hầm hầm, cắm đầu ngồi lỳ chẳng thèm nói năng chào hỏi. Hoàng đế gọi luôn mấy tiếng. "Hương phi" rồi "mỹ nhân", nhưng nàng vẫn bỏ ngoài tai. Hoàng đế cười lên sằng sặc, nói:

- Mỹ nhân của ta mắc cỡ đó sao?

Nói đoạn, ngài phất tay áo hướng ra phía cửa, tức thì bọn cung nữ, thái giám nhất tề lui ra phía ngoài, trong phòng chỉ còn mỗi Hương phi và hoàng đế mà thôi.

Càn Long hoàng đế đến lúc này quả không còn nín nhịn được nữa. Ngài bước tới, nắm lấy cổ tay Hương phi và mới nói được câu "tay nàng đẹp quá", thì đã thấy nàng rút lẹ một con dao nhọn ra, giơ lên cứa mạnh vào cánh tay của chính nàng. Hoàng đế lẹ tay, vội chộp lấy con dao nhưng than ôi đã trễ! Cánh tay trắng tuyệt đẹp kia đã bị cắt rách ra một miếng, máu chảy đỏ cả xiêm y. Chuyện bất ngờ này làm cho hoàng đế giật mình hoảng sợ đến tỉnh rượu. Ngài vội lấy ống tay áo long bào bịt miệng vết thương cho Hương phi rồi gọi bọn thị nữ lại băng bó cho nàng.

Càn Long hoàng đế thấy Hương phi quá quyết liệt nên từ đó không dám đem uy lực bức bách nàng nữa. Ngài chỉ dặn dò bọn cung nữ liệu tìm dịp khuyên bảo nàng mà thôi.

Nàng Hương phi sau khi cầm dao cắt tay, suốt ngày chỉ ngồi khóc, nhiều lúc kêu la om xòm, đòi về quê hương xứ sở.

Hoàng đế thương nàng một mình vò võ nơi đất khách, bèn hạ lệnh cho Nội vụ phủ gấp rút suốt ngày đêm kiến thiết cho bằng được một khu phố theo kiểu của Hồi bộ, những doanh trại Hồi và nhiều giáo đường Hồi ngay trong đất trống phía ngoài toà lầu nàng ở. Ngài còn cho một số người giả như dân Hồi đi đi lại lại giữa khu chợ mua bán, bắt chước theo đúng phong tục của Hồi. Ngài cũng dặn bọn cung nữ hằng ngày đưa nàng lên lầu ngồi nhìn ra ngoài sâu.

Hương phi thấy cảnh phố chợ Hồi bộ, biết rằng hoàng đế cho xây cất để nàng vơi bớt nỗi tưởng nhớ quê hương nên trong lòng lấy làm cảm động lắm. Song ngược lại với lòng mong muốn của ngài, Hương phi càng thấy nhà cửa phố xá Hồi bao nhiêu thì lại càng nhớ quê hương Hồi bấy nhiêu.

Nàng thường ngồi trên lầu, tựa bên song cửa nhìn cảnh kia mà châu rơi lã chã. Cũng có lúc hoàng đế tự thân tới cung nàng, đem muôn ngàn lời lẽ êm dịu để khuyên nàng, ngài có ngờ đâu rằng mỗi khi nhắc tới Hồi bộ là y như nàng giọt ngắn giọt dài, khăn nào cũng ướt, áo nào cũng dơ. Thấy tình cảnh bi thương ấy, ngài cũng chẳng nỡ lòng nào bức bách. Đám cung nữ bảo nàng:

- Dù có chống cưỡng đến đâu cuối cùng cũng thoát được nào. Khéo lại tự chuốc cái chết vào mình, mà chắc chi đã giữ được tấm thân trong sạch. Được hoàng đế cưng chiều như vậy, hỏi phận nhi nữ mình còn ao ước gì hơn, thuận ý ngài, biết đâu phi tử lại để lại cho hậu thế một chuyện tình duyên đẹp đẽ, khỏi phụ ông xanh kia đã ban cho phi tử một nhan sắc tuyệt vời, hiếm có trên nhân thế.

Mặc cho bọn cung nữ nói gì thì nói. Hương phi vẫn chẳng động lòng. Tất cả những lời lẽ đó đều chỉ như một cơn gió thoảng bên tai mà thôi. Bọn cung nữ chưa chịu thua, cứ cố khuyên cứ dỗ mãi, tới lúc nàng nổi nóng, rút phắt con dao nhọn hoắt trong ống tay áo ra toan cứa vào cổ mình. Hốt hoảng, cho bọn cung nữ vội lao mình vào chụp lấy con dao. Hương phi cười nhạt rồi bảo:

- Các ngươi cướp làm gì? Trong ngươi ta còn dấu đến bốn, năm chục con còn nhọn hơn nữa kia. Các ngươi để ta yên thì thôi, nếu bức bách quá chớ trách ta không dặn trước. Còn hoàng đế dùng vũ lực thì sẵn dao đây, ta sẽ cho ngài chết luôn một lượt với ta.

Bọn cung nữ nghe Hương phi nói vậy, sợ rằng một ngày kia xảy ra việc tày trời, vội đi mách với viên tổng quản bản cung. Viên thái giám tổng quản tự lượng mình không thể gánh chịu trách nhiệm chuyện động trời như vậy, lại chạy tới ngầm báo cho hoàng hậu. Bà Phú Sát được tin này, vừa tức vừa sợ. Trước đây, chuyện nàng Đổng Ngạch tư tình với hoàng đế ra sao, rồi thì cuối cùng bà cũng biết cả. Vì tình nghĩa, bà chỉ có thể cấm chị mình bén mảng vào cung. Cũng vì vậy hoàng đế đâm ra giận bà, và từ đó ngài cũng không tới với bà nữa. Do đó, việc này bà tự biết không thể khuyên can gì chồng được, chỉ còn cách tới bẩm cáo với Hoàng thái hậu mà thôi.

Hoàng thái hậu Nữu Cô Lộc biết hoàng đế có tính ngang bướng, trước mặt khuyên can chẳng ăn thua gì, bởi vậy bà tự nhủ cần phải thực hiện kế "rút củi dưới nồi" mới hòng châm dứt mối tình nguy hiểm này mà cứu thoát hoàng đế. Nghĩ vậy song hai người, một mẹ chồng và một nàng dâu, bàn tính suốt cả ngày trời mà vẫn chưa tìm ra được cách thực hiện mưu chước đó. Về sau, có một tên thái giám tên gọi Dư Thọ Ở cung Khôn Ninh nghĩ ra được diệu kế là nên làm như vậy… như vậy, bẩm cáo với hoàng thái hậu. Nghe xong, bà gật đầu lia lịa và khen hay luôn mồm… Kế đó, bà dặn dò bọn cung nhân phải giữ kín, cấm không được tiết lộ cho ai biết.

Càn Long hoàng đế đến thăm Hương phi mấy lần nữa, nhưng nàng vẫn lạnh như tiền, mặc cho Ngài muốn nói gì thì nói. Tình cảnh ấy khiến hoàng đế vô cùng buồn bã, từ nghĩ mình làm đến thiên tử, phú quý đến cùng cực, mà không cách gì hưởng được hạnh phúc. Người ta ở trên đời tình duyên đều có số cả. Nàng là một người đẹp tuyệt trần, thử hỏi ta làm sao buông ra được? Muốn dùng uy lực để bức bách thì ta lại chẳng đành lòng.

Càn Long hoàng đế suy nghĩ ngày đêm, chỉ có mỗi một việc đó, mà rút cục chẳng có cách gì giải quyết. Lòng ngài buồn vô hạn. Biết bao nhiêu phi tần xinh đẹp trước mắt, biết bao sơn hào hải vị trên bàn, thế mà ngài ăn chẳng thấy ngon, ngủ chẳng yên giấc, Càn Long hoàng đế vì quá lo buồn nên dần dần thành bệnh. Hoàng thái hậu thấy ngài càng ngày càng gầy ốm, lòng bà đau như dao cắt. Bà nghĩ, muốn cứu tính mạng hoàng đế, phi dùng kế nọ không xong.

Tiết đông chí đã gần kề. Bộ Lễ tâu xin hoàng đế tế trời. Đây là cuộc lễ lớn, mỗi năm mỗi có. Chiếu lệ thì ba ngày trước, hoàng đế phải tắm rửa, chay tịnh trong mộ trai cung. Đến ngày lễ, văn võ bá quan đều dậy từ canh năm, tới Thiên đàn trước để đón giá.

Xong cuộc tế trời thì đã bốn, năm ngày qua. Trong lòng hoàng đế không lúc nào là không nhớ tới Hương phi, bèn vội tới cung thăm hỏi. Ngài bước vào cửa cung, thấy quang cảnh hôm nay có vẻ khang khác. Tứ bề vắng lặng, chẳng thấy bóng Hương phi đâu. Ngay cả bọn cung nữ cũng mất tăm tích. Khi đi sâu vào bên trong, ngài chi thấy quần áo đồ đạc vứt ném lung tung trên nền nhà. Ngài vội hỏi thái giám quản cung thì y vội quỳ xuống tâu:

- Hương phi và bọn cung nữ đều bị thái hậu tuyên triệu đi cả rồi.

Càn Long hoàng đế nghe tâu, dậm chân xuống đất thình lình miệng hậm hực nói:

- Hỏng bét! Hỏng bét rồi!

Rồi ngài quay ngoắt mình, chạy vụt về ngả cung Khôn Ninh như tên bắn…

Hồi 71

MỘT CẢI CHẾT BI HÙNG

Lại nói hoàng Thái hậu thấy Càn Long hoàng đế chỉ vì mơ tưởng Hương phi mà thành bệnh, trong lòng lấy làm bất nhẫn, nhưng chưa có cơ hội tốt để thực hiện ý đồ đã cùng bọn thái giám trong cung bàn soạn kỹ lưỡng.

Hôm đó, nhân dịp hoàng đế cấm phòng tại trai cung, bà bèn sai viên tổng quản thái giám đến Tây nội gọi Hương phi cùng bọn thái giám và cung nữ hầu hạ nàng tới Khôn Ninh cung.

Trước hết, bà cật vấn bọn cung nữ xem Hương phi được tiến cung bằng cách nào; hoàng thượng đối đãi với nàng ra sao; khi vào cung nàng đem theo bao nhiêu nô tỳ tư trang; hoàng thượng đã ban thưởng cho nàng bao nhiêu vải lụa, châu báu; hoàng thượng gặp nàng đã mấy lần; khi gặp nhau, hoàng thượng đã nói những gì và nàng đã nói những gì; ngày thường nàng ở trong cung làm những gì, hoàng thượng đã có lần nào gần gũi thân thể nàng không; nàng tỏ vẻ cảm kích hay hờn giận về lời nói của hoàng đế… bấy nhiêu chuyện được bà vặn hỏi tỷ mỹ cẩn thận suốt một hồi lâu. Bọn cung nữ không dám che giấu, cứ thực tâu rõ cả.

Hoàng Thái hậu nghe xong, truyền cho bọn này đứng sang một bên rồi cho gọi Hương phi tới. Khi nàng vừa bước chân vào, thoạt nhìn thấy dung nhan của nàng ai cũng đều giật mình sững sờ. Hoàng thái hậu quay đầu sang phía bà hoàng hậu Phú Sát cười nhạt nói:

- Đẹp như con yêu tinh thế kia, chả trách hoàng đế của bọn mình mê tơi là phải!

Hương phi bước vào, tuy thấy hoàng Thái hậu và hoàng hậu, nhưng nàng không quỳ, chỉ cúi đầu rồi đứng sang bên.

Hoàng thái hậu là người đầu tiên hỏi:

- Ngươi vào cung của bọn ta đây, hoàng thượng đối đãi ngươi muôn phần sủng ái, người có biết cảm tấm lòng đó không?

Hương phi nghe xong, lên tiếng lanh lảnh đáp:

- Tôi không cảm kích, tôi chỉ căm giận hoàng đế thôi!

Hoàng hậu nghe chỉ cười, hỏi tiếp:

- Tại sao ngươi lại căm giận hoàng đế?

Hoàng Phi đáp:

- Vợ chồng tôi đang sống yên hàn nơi Hồi bộ, tại sao hoàng thượng lại phái binh tới xứ sở giết chóc mọi, người rồi còn bắt tôi lên kinh nữa? Đã bắt tôi lên kinh, thì cứ chiếu luật định tội, một đao chém quách có phải xong không, tại sao không chém, lại đưa tôi vào cung? Bắt đưa tôi vào cung, cũng được đi nhưng tại sao hoàng thượng cứ lúc lúc tới đùa cợt trêu ghẹo tôi?

Hương phi nói tới đây, bất giác khí tức tràn, đôi lông mày lá liễu dựng ngược lên, mắt phượng tròn xoe không chớp. Thái hậu nghe nói tới chỗ hoàng thượng đùa cợt trêu ghẹo, bất giác mỉm cười nói:

- Vậy nay ngươi muốn thế nào?

Hương phi nói:

- Nếu thái hậu chịu mở lượng hải hà cho tôi trở về nhà, tôi sẽ triệu tập các bộ lạc cũ của chồng tôi đánh thốc tới Bắc Kinh để báo thù!

Thái hậu vừa nghe xong vội xua tay bảo nàng:

- Ấy, cái việc đó không được đâu! Ngươi chớ có mơ hão!

Hương phi nói tiếp:

- Nếu không, thì cứ cho tôi về cung. Chờ có cơ hội tốt tôi sẽ đâm chết hoàng đế. Như thế, cũng thoả được nỗi uất giận trong lòng này.

Hoàng hậu ngồi bên cạnh nghe tới đây, giận quá, nhịn không nổi nữa, quát lớn:

- Tiện tì! Hoàng thượng đối đãi với mi có điều gì xấu đâu mà mi tính hạ độc thủ như vậy?

Thái hậu vội ngăn hoàng hậu rồi tiếp:

- Hãy nghe xem ả nói ra sao đã.

Hương Phi lại nói:

- Nếu không nữa, tôi chi xin Thái hậu mở lượng thưởng cho được chết toàn thây, bảo toàn trinh tiết là đủ.

Nàng nói với đây, đôi hàng lệ ròng ròng chảy xuống. Bỗng nàng quỳ xuống đất, dập đầu luôn mấy cái khấn cầu thái hậu.

Trước tình cảnh ấy, lòng Thái hậu cũng tỏ ra bất nhẫn.

Bà gật đầu nói:

- Tình cảnh con bé đáng thương thật! Thôi bọn ta nên cho ả được toại nguyện!

Hoàng hậu ra chiều ngoan ngoãn:

- Con xin vâng theo ý mẹ!

Hoàng Thái hậu một mặt sai bọn cung nữ vực Hương phi dậy, một mặt truyền gọi thái giám quản sự đưa nàng ra, bảo thị vệ đem nàng tới Tây Sương phòng cạnh cửa Nguyệt Hoa môn thắt cổ, dành cho nàng một cái chết toàn thây.

Hương phi nghe dụ chỉ của thái hậu vội cúi rạp xuống đất, dập đầu ba cái tạ ơn rồi quay mình bước theo viên thái giám. Đứng hầu hai bên, ai cũng rơi lệ nhìn theo.

Việc xảy ra như trên đúng vào hôm trước ngày lễ tế trời.

Qua ngày thứ hai, hoàng đế tiến cung, biết tin tức đó, chạy vội lại Khôn Ninh cung để cứu thì đã quá muộn.

Thái hậu vừa thấy hoàng đế tới, vội cầm tay, dùng lời ngon ngọt an ủi một hồi rồi bảo thêm:

- Cái con Hồi Hồi đó, lòng nó hiểm độc lắm! Nếu không đem thắt cổ chết, thì sớm muộn gì nó cũng gây ra vạ lớn. Đến lúc đó, ta biết ăn nói cách nào với liệt tổ, liệt tông của con? Nó chết rồi, con có thể yên tâm được. Đấy con xem, mới có mấy hôm mà con đã mặt vô mình gầy, chẳng còn ra người nữa rồi đó! Cưng của mẹ; con hãy mau về cung an nghỉ.

Nói tới đây, hoàng Thái hậu vuốt nhẹ vào má hoàng đế để an ủi như thuở còn thơ. Tình mẫu tử, vốn là tính trời phú bẩm thiêng thiêng, hoàng đế nghe thái hậu nói, chỉ còn biết lui ra khỏi cung, đi đến nơi quàn xác Hương phi.

Viên thái giám đưa hoàng đế tới Tây Sương phòng cạnh cửa Nguyệt Hoa môn. Vừa trông thấy thi hài Hương phi, Càn Long hoàng đế chạy tới ôm chầm lấy, chỉ nói được có một câu "Trẫm hại nàng rồi," tức thì lệ cứ như suối mà tuôn ra, rơi xuống ướt đâm cả vạt áo của nàng. Viên thái giám thấy thế sợ quá vội quỳ xuống, khẩn khoản xin hoàng đế trở về cung. Càn Long hoàng đế khóc một lúc lâu, đứng dậy, buồn rầu nhìn mặt Hương phi lần chót, đưa tay vuốt đôi mí mắt nàng rồi nói:

- Hương phi! Hương phi! Ta với nàng thật là tử biệt sinh ly, đôi đường khôn xiết sầu bi!

Càn Long hoàng đế đứng mãi bên xác Hương phi, chẳng chịu rời bước. Viên thái giám phải đôi ba lần giục nữa ngài mới cúi xuống rút lấy cái nhẫn trong ngón tay Hương phi cất vào tay áo mình rồi mới chịu đi. Ngài cho gọi viên thái giám quản sự Nguyệt Hoa môn bảo khâm liệm rồi tìm nơi phong cảnh đẹp chôn cất nàng tử tế. Viên thái giám dạ dạ tuân chỉ, sau đó lẻn tới Nội vụ phủ thương lượng, mua một cô quan tài thượng hạng mang về. Y chọn bộ xiêm y đẹp nhất vận vào cho nàng, khâm liệm cẩn thận đâu đấy rồi cho người đưa ra khỏi cung, đem chôn ở góc đông bắc bãi đất thấp nằm tại mé nam Đào Thiên đình. Trước mộ dựng một tấm bia đá, mặt trước khắc hai chữ "Hương trùng" (mộ nàng Hương phi) rất lớn còn mặt sau khắc một bài từ như sau:

Lầu mang mang

Kiếp mông lung.

Tiếng ca dứt,

Trăng sáng khuyết.

Uất uất giai thanh

Trong có Bích Huyệt

Bích cũng có lúc hết

Huyệt cũng có lúc dứt

Một giải hương hồn không đoạn tuyệt

Thật chăng? Giả chăng?

Hoá thành hồ điệp!

Bài từ này chính là do Càn Long hoàng đế nhờ một vị ở hàn lâm viện làm ra rồi đem khắc tại mặt trái tấm bia bày tỏ ý nghĩa sầu hận đến muôn đời của một ông vua đa tình phải trả nợ tình. Toà cổ mộ "Hương trùng" này vẫn còn sừng sững đứng đấy mãi tới ngày nay.

Lại nói sau cái chết của Hương phi, Càn Long hoàng đế càng thêm sầu muộn. Tuy giữ được cái nhẫn của nàng nhưng vật còn mà người mất mỗi khi nhìn vật lại nhớ người, còn thảm thê hơn. Suốt ngày, ngài chẳng nở một nụ cười, chẳng buồn nói một câu. May được Phúc Khang An thường lui tới trong cung khiến ngài cũng quên đi được một phần sầu hận. Có điều lạ là Càn Long hoàng đế hễ thấy mặt An thì dù buồn bã đến đâu cũng lập tức tiêu giảm ngay. An hầu hạ hoàng đế, khi đánh cờ khi uống rượu, lúc luận kiếm, lúc bình hoa…

Đông tàn, xuân sang, Càn Long hoàng đế dần dần quên đi mối sầu ngày nọ. Có một đêm ngài bỗng sực nhớ năm ngoái còn có cả vợ chồng tù trưởng Hồi bộ Hoắc Tập Chiêm hiện còn bị giam giữ tại nhà lao Hình bộ. Vợ Chiêm cũng là một trang quốc sắc, chỉ vì ngài đặt cả tâm tưởng vào Hương phi, nên quên bẵng mất đi. Bởi vậy, ngài tự nhủ, tại sao lại không cho gọi người này vào cung để mua vui chốc lát may ra nàng cũng có chút Hồi trong người sẽ giúp cho ngài giải được nỗi buồn. Nghĩ vậy ngài bảo viên thái giám quản sự tới nhà lao bộ Hình đưa ngay vợ Chiêm vào cung.

Viên thái giám vâng thánh chỉ, chẳng rõ hoàng thượng có chủ ý gì, vội phi ngựa tới sảnh đường Hình bộ, hối thúc giao người lập tức. Lúc đó, trời đã khuya, đêm đã sâu. Trực đường hôm đó có viên Thị lang trung, nhưng y đã về nhà từ lâu, chỉ còn viên Tư viên đề lao trực đêm thì đang nằm ngủ.

Nghe phía ngoài có tiếng gọi tiếp chỉ, y giật mình choàng dậy, mặc quần áo, xỏ vội đôi hài, vừa run vừa nói:

- Bọn tôi quan nhỏ chức mọn, chưa từng được tiếp chỉ bao giờ, biết làm sao cho phải bây giờ?

Viên thái giám lớn tiếng bảo:

- Chẳng có gì ghê gớm đâu, ngươi chỉ cần mở cửa nhà giam và cho ta người đàn bà Hồi đó là xong!

Tư viên đề lao nghe xong hoảng sợ vội xua đôi tay bảo:

- Đường quan hiện không có tại nha môn. Giữa đêm canh ba mở cửa nhà lao, nếu có chuyện chi sơ xuất, viên quan nhỏ thuộc loại tép riu như tôi gánh sao hết trách nhiệm?

Viên thái giám điên tiết lên, dậm chân thình thình xuống mặt ván, quát:

- Tên Tư viên này lớn mật thật! Có thánh chỉ tới mà mi vẫn dám kháng lệnh phải không? Ta hỏi, đầu lâu mi có được mấy cái?

Tư viên đề lao càng nghe càng sợ, sợ đến phát khóc lên.

May lúc đó có một tiểu lại nhà lao nghĩ ra được một cách, liền nói:

- Bọn tôi không mở thì phạm tội kháng chỉ nhưng nửa đêm mở cửa lao lại khó mà tránh được tai vạ nước lửa. Thật khó nghĩ lắm, xin ông chờ cho một chút. Bọn tôi chạy đi mời Mãn thượng thư tới tiếp chỉ. Được một lời của Mãn thượng thư, bọn tôi tất vô sự và sẽ xin mở ngay.

Viên thái giám cũng chẳng còn cách gì khác, bèn bảo gã Tư viên chạy lẹ đi mời Mãn thượng thư. Gã dạ như không thành tiếng nữa, rồi nhảy lên ngựa phóng đi.

Mãn thượng thư nghe xong, vò đầu bứt tai mãi cũng chẳng tìm ra lối thoát, chỉ còn biết ba chân bốn cẳng chạy theo gã Tư viên vào nha môn tiếp thánh chỉ. Ông lật đi lật lại mấy lần xem xét dấu son đỏ chói, biết là không sai, lập tức cho mở cửa lao, đánh thức người đàn bà Hồi dậy, đưa lên sảnh đường kiểm lại xem có đúng rồi mới giao cho viên thái giám đem đi.

Viên thái giám đã lo sẵn một cỗ xe từ trước. Y đánh xe đi, lẳng lặng tiến vào cung. Đêm khuya lắm rồi nhưng hoàng đế vẫn ngồi đợi.

Người đàn bà Hồi bị giam cùng chồng trong lao tối đã tới gần nửa năm, tự cho mình cầm chắc cái chết trong tay, không ngờ một đêm được đánh thức dậy và được đưa vào gặp hoàng đế.

Bọn cung nữ đẩy nàng lên trước, quỳ dưới chân giường Càn Long. Nàng hoảng sợ quá chẳng rõ sự thể ra sao, chỉ cúi đầu quỳ mọp, toàn thân run bần bật. Càn Long hoàng đế truyền bảo nàng ngẩng mặt lên. Tuy lúc đó, mặt mũi nàng dơ dáy, đầu tóc rối bù, vẫn toát lên vẻ mặn mà, duyên dáng.

Hoàng đế ngắm nhìn một lát rồi bảo cung nữ truyền gọi viên thái giám phòng kính sự tới. Viên thái giám này chuyên lo việc sửa soạn phòng ngủ của hoàng đế khi ngài lâm hạnh với hoàng hậu hoặc ban ơn mưa móc cho các mỹ nữ, cung tần hay bất cứ loại gái nào nếu ngài cần, ngài thích. Lại nói viên thái giám được thánh chỉ liền đưa người đàn bà Hồi, vợ Hoắc Tập Chiêm, vào phòng tắm, giúp nàng cọ rửa thân thể cho sạch sẽ, hết mùi lao tù. Bọn cung nữ lại giúp nàng trang điểm, nào thoa phấn tô son, nào búi tóc cài trâm. Trang điểm xong, họ đặt nàng trần truồng ngồi xếp bằng trong một chiếc chăn màu vàng rồi hai tên thái giám bốn tay cầm bốn góc chăn, khiêng nàng vào phòng ngủ của hoàng đế.

Hoàng đế thoạt thấy cũng phải giật mình vì nhan sắc của nàng. Lúc này, nàng đã được tắm rửa, trang điểm thành thử nom tươi trẻ hẳn lại và xinh đẹp lên không ngờ. Nếu đem so với Hương phi nàng cũng chẳng thua sút mấy. Càn Long hoàng đế ngây ngất vì của ngon vật lạ, vội hai tay mở rộng đón nàng bế lên giường.

Qua ngày hôm sau, hoàng đế toạ trào. Mãn thượng thư Hình bộ xuất ban định tâu xin hoàng đế phát hoàn người vợ tên tù phạm Hồi. Càn Long hoàng đế đoán biết ý Mãn thượng thư, không đợi cho ông ta mở miệng, liền phán:

- Tên đại nghịch bất đạo Hoắc Tập Chiêm đã mấy phen chống đối Hoàng Sư (quân đội của hoàng đế). Nguyên ý của Trẫm là đem chính pháp hai vợ chồng hắn. Chỉ vì tội của hắn cực đại cực ác cho nên đêm qua Trẫm đã bắt vợ hắn đem vào cung "xài" một phen đã đời rồi!

Nói đoạn ngài cười sằng sặc. Văn quan võ tướng dưới trướng nghe ngài nói, anh nào anh nấy đều lấy làm quái lạ, ngẩn mặt nhìn nhau chưng hửng. Tiếng chuông trống vang rầm ngoài góc điện. Hoàng đế đã lui trào…

Hồi 72

CÀN LONG DU GIANG NAM

Không ngờ vợ Hoắc Tập Chiêm quả hết sức ranh mãnh. Càn Long hoàng đế một khi đã mắc vào tay "gái già" này rồi thì khó mà hòng rời ra được. Bởi vậy, ngài, để nàng ở lại Cảnh Nhân cung, ngày đêm thủ lại; lại phong cho là Hồi phi. Qua năm sau, Hồi phi sinh hạ một hoàng tử. Nàng thường phàn nàn mình sinh tại Hội bộ, không quen nếp sống ở Thanh triều Càn Long hoàng đế bèn hạ chỉ cho Nội vụ phủ xây cất ngay trong hoàng thành toà Bảo Nguyệt lâu. Lầu có chín căn, chung quanh tường đều ráp kính lớn. Những màn, trướng, giường, đồ trang hoàng trong phòng đều mua từ bộ lạc Hồi đem về. Trên tường vẽ đủ những phong cảnh của bộ lạc Hồi.

Toà Bảo Nguyệt lâu này đứng sát vào hoàng thành. Phía ngoài, trong một khuôn viên rộng hai dặm được xây cất doanh trại theo khung cảnh Hồi đế cho Hồi phi tựa lầu nhìn qua.

Khi nàng nhớ nhà, đôi hàng lệ lã chã tuôn rơi thì hoàng đế đem hết lời ngon ngọt khuyên dỗ. Ngài cũng ân thưởng cho rất nhiều quà cáp để nàng vui lòng theo ngài vào mật thất thủ lạc Căn mật thất này xây cất hết sức tinh xảo. Trên trần là một đoá hoa lớn toàn bằng vàng bạc châu báu dát thành Trong phòng, trừ cái móc áo duy nhất ra, không còn có gì nữa. Trên vách tường phía bắc lắp một tấm kính lớn cao một trượng năm thước, rộng sáu thước. Nhất cử nhất động của người trong phòng đều chiếu vào kính rõ mồn một.

Hoàng đế và Hồi phi ngày đêm nô đùa truy hoan trong mật thất. Phương pháp thủ lạc của ngài như thế nào, người ngoài không được rõ, chỉ biết đến năm thứ ba Hồi phi lại đẻ cho hoàng đế một cậu hoàng con nữa. Hoàng đế bèn cho Hồi phi cải trang thành kỳ nữ (con gái ăn mặc theo lối Mãn) tới bái kiến Thái hậu. Thái hậu cho là phi tử mới tuyển của hoàng đế, lại nhân nàng sinh hoàng tử nên mười phần sủng ái.

Ít hôm sau, vừa tới ngày lễ vạn thọ của Thái hậu, muốn làm đẹp lòng mẹ, hoàng đế bèn hạ lệnh cho Nội vụ phủ tập họp bọn kép hát ca nhi lại để diễn tuồng. Ngài đích thân đóng vai Lão lai tử, mang bộ râu bạc phơ, diễn một màn "Ban y hí thái". Hoàng thái hậu lấy làm thích lắm, sai bọn cung nữ đem nào kẹo bánh nào trái cây đưa lên sâu khấu cho Lão lai tử. Hoàng đế tạ thưởng ngay tại sân khấu khiến Thái hậu cười lên sằng sặc. Bọn quan viên văn võ ngồi xem hát thấy vậy nhất loạt quỳ xuống hô to: "Hoàng thái hậu, Hoàng thượng vạn thọ vô cương". Hoàng đế thấy quang cảnh ấy trong lòng bỗng nhớ lại ngày đức Thánh Tổ (Khang Hi) còn sinh thời đã rước Từ thái hậu sáu lần đi tuần du miền Giang Chiết, khiến muôn dân vui mừng. Thế mà nay ngài đăng vị đã mười lăm năm, thiên hạ được thái bình, Hoàng thái hậu tuổi còn đang mạnh, tai sao ngài lại không biết bắt chước? Ngài quay nhìn tả hữu, nhưng không thấy có ai có thể bàn tính được.

Cuối cùng ngài bỗng nhớ tới Phương Lạc Mẫn cũng vừa tử phương nam về kinh bèn cho triệu tới Tây như phòng.

Lạc Mẫn vốn là một vị lão thần của tiêu triều, vội cực lực khuyên can. Ông nói:

- Hoàng đế là người mà muôn dân ngưỡng vọng, chỉ nên toạ thủ, chớ có khinh suất ra khỏi kinh.

Càn Long hoàng đế nghe Lạc Mẫn nói, nhất thời chưa có chủ ý. Ngài tự nhủ nên đem việc này bàn với Thái hậu. Ngài chẳng mang theo thị vệ, một mình lẳng lặng bước tới cung Tử Ninh. Khi đi qua cửa Nguyệt Hoa môn, ngài tính sẽ dọc theo cửa Long môn mà vào, nhưng bỗng chợt nghe có tiếng nói chuyện rì rầm mé trong. Ngài dừng chân lại, nép mình trong cái máng, lắng nghe. Ngài nghe rõ ràng chính tiếng người nhũ mẫu nuôi ẵm ngài thuở nhỏ tên gọi Phùng Cách, còn một người nữa không biết là ai. Người kia hỏi:

- Thế hiện nay công chúa còn ở nhà họ Trần chứ?

Người nhũ mẫu đáp:

- Bị bọn tôi đánh tráo mất đứa con trai, Trần Các Lão sợ chuyện đổ bể vội cáo lão về nhà, tới nay đã bốn chục năm. Từ đó tin tức đôi nơi không có, thành thử chẳng được biết công chúa hiện giờ ra sao rồi.

Người nọ lại hỏi:

- Theo lời mụ, có phải tiểu thư nhà họ Trần chính là công chúa, con của Hoàng thái hậu, còn đương kim hoàng đế lại là con trai của Trần Các Lão, phải không?

Ngơi nhũ mẫu lại nói:

- Đúng thế, chớ còn gì nữa.

Người nọ lại tiếp:

- Việc đó thật hệ trọng chứ chẳng chơi đâu! Mụ không nhầm đấy chứ?

Người nhũ mẫu cả quyết xác nhận:

- Nhầm thế nào được. Hôm đó, chính tay tôi đánh đổi mà. Đó lại còn là mưu kế của chính tôi bày cho Thái hậu thì làm sao mà nhầm được. Chỉ vì làm chánh cung nhiều năm chẳng sinh nở, Thái hậu rất sợ hoàng tử khác lên ngôi mất. May thay năm đó bà và bà Trần Các Lão có mang cùng lúc. Hai bà chơi thân với nhau nên thái hậu thường cho mời bà Trần vào cung.

Người nọ nghe nhũ mẫu nói tới đây bèn bảo:

- Nếu vậy thì đương kim hoàng đế của bọn ta chính là dòng giống họ Trần thất rồi!

Người nhũ mẫu nói:

- Đúng vậy! Chỉ đáng buồn cho tôi lúc đó vất vả biết bao mà đến ngày nay Thái hậu và hoàng thượng đối với tôi chẳng ra sao cả, vẫn coi tôi như bao kẻ khác mà thôi.

Càn Long hoàng đế nghe trộm được bấy nhiêu chuyện trong lòng rất lấy làm lạ. Ngài vội quay về thư phòng, sai người ngầm gọi bà nhũ mẫu tới cật vấn. Bà thấy hoàng thượng hỏi mình, sợ quá, bò rạp xuống đất, dập đầu mãi xin tha tội và nói:

- Xin hoàng thượng đại lượng khoan hồng đừng đếm xỉa tới lời lẽ nô tài làm gì. Nô tài tội đáng muốn thác, chỉ xin hoàng thượng tha cho cái mạng chó dại dột này.

Càn Long hoàng đế dùng lời lẽ ngọt ngào an úi người nhũ mẫu rồi cho phép đứng dậy mà kể lại từ đầu chuyện đó ra sao. Bà nhũ mẫu thấy vẻ mặt của ngài hoà dịu hẳn đi, bèn đem kể hết mọi chuyện ra cho ngài. Lại nói:

- Nô tài tội đáng muốn thác, chẳng thể dám dối trá Hoàng thượng!

Càn Long hoàng đế đã biết chắc câu chuyện là có thực bất giác thở dài, ngồi ngẩn ra một lúc, chẳng nói chẳng rằng.

Bà nhũ mẫu đứng cạnh, không dám nói gì thêm mà cũng chẳng dám xin rút khỏi. Lát sau, hoàng đế giơ tay vỗ nhẹ xuống bàn rồi bảo:

- Ta quyết định đi thăm "họ".

Ngài lại bảo bà nhũ mẫu:

- Từ nay về sau, chớ có hé chuyện này với ai, nghe chưa?

Nói đoạn, ngài cho bà nhũ mẫu lui ra.

Bà nhũ mẫu về tới phòng được một lát thì thấy một tên thái giám bước vào. Hắn vâng lệnh hoàng đế đến thắt cổ bà ta chết ngay trên giường ngủ, rồi lén chôn xác ngay tại góc tường. Trước lúc hoàng đế cật vấn bà nhũ mẫu, bọn thị vệ và thái giám túc trực tại một căn phòng trước ngự thư phòng đã bị ngài đuổi ra ngoài hết, bởi vậy bấy nhiêu chuyện vừa kể chẳng có một người thứ ba nào biết được. Từ đó về sau, ngài cố ý lưu tâm tới mọi điểm. Ngài thấy từ diện mạo đến lời nói, quả chẳng có gì gọi là giống tiên đế cả… Lòng ngài càng nghi hoặc hơn.

Qua ngày hôm sau, ngài sang cung Từ Ninh thỉnh an. Vừa gặp mặt Thái hậu, ngài đã nói:

- Mặt mũi con sao chẳng giống tiên hoàng chút nào, hở mẹ?

Thái hậu bất chợt bị hỏi như vậy, mặt bà bỗng biến sắc, miệng không nói được lời nào!

Càn Long hoàng đế thấy thế, trong lòng đã rõ mười phần.

Sau đó, ngài quyết định tới nhà Trần Các Lão để thăm viếng cha mẹ. Song việc hoàng đế từ thâm cung ra ngoài, chẳng nên khinh ngôn mà bảo tuần du. Do đỏ, ngài định đi Giang Nam, giả thác chuyện gì đó, có thể mới khỏi bị đại thần cản ngăn.

Đang còn phân vân tính toán bỗng ngài sực nhớ tới ngày lễ vạn thọ của Thái hậu sắp tới. Ngài tỏ ý mừng rỡ vì đã có cớ, bảo nhân ngày vui của mẫu hậu, rước bà tuần du Giang Nam. Hơn nữa tiên hoàng đã từng rước Từ thánh thái hậu sáu lần đi tuần du Giang Chiết nên đã có tiền lệ. Lúc đó, Công bộ lại báo về cho ngài biết là công trình xây đắp con đê duyên hải nơi đây đã xong. Ngài lại có cớ để thân danh việc khánh thành con đê này mà lên tới Hải Ninh thăm Trần Các được.

Chủ ý đã định, ngài bèn tiến cung gặp Thái hậu. Ngài tâu rằng muốn rước bà xuất trần miền Giang Nam. Thái hậu nghe nói lúc đầu thoái thác, bảo sợ làm phiền bách tính. Nhưng về sau, hoàng đế ba bốn phen cầu khấn, bà mới nghĩ rằng trước đấy Từ Thánh thái hậu đã từng được hưởng qua phúc lớn này, hoàng đế đã có cái hiếu tâm như vậy tại sao ta lại không hưởng? Thế là bà gật đầu.

Hôm sau, hoàng đế toạ trào. Ngài đem ý kiến rước mẹ Nam tuần khánh thành con đê duyên hải ra nói với quần thần.

Lúc đó có vài vị đại thần như Cừu Viết Tu, Trần Đại Thu xuất ban can gián. Nhưng ý ngài đã quyết, không nghe lời ai can gián nữa nữa.

Sau đó, ngài hạ chỉ tháng tư năm thứ mười sáu niên hiệu Càn Long thì khởi cuộc Nam tuần. Một mặt, ngài sai Đại học, sĩ Lưu Thống Huấn trông coi việc triều chính, Sử Dĩ Trực thống lĩnh việc binh. Tờ thánh chỉ vừa ban xuống, thôi thì bọn quan viên dọc đường lo trối chết, chạy như điên. Trong bọn, có kẻ đề cập tới các thương gia buôn muối đất Dương Châu. Bọn lái buôn này bình nhật cậy thế lũng đoạn thương trường, xoay xở ít ra cũng trên vài ngàn vạn. Nếu kể tay hào phóng nhất, ngày tiêu muôn lượng, ném tiền qua cửa sổ, thì phải nói Giang, Uổng, Mã, Hoàng, bốn kẻ. Lưỡng Giang cũng biết bọn này lắm tiền, bèn cho gọi tới để giao cho việc cung đốn cuộc Nam tuần của hoàng đế.

Giang Hạc Đình phải kể là tay giàu nhất. Trong nhà y có một toà Thuỷ trúc viên, hết sức thanh u. Đình nuôi một gánh hát, ngày ngày ca múa trong vườn. Đình được tin hoàng đế nam tuần, vội sửa sang toà hoa viên cực kỳ hoa lệ. Trong gánh hát, có một con đào tên gọi Huệ Phong, mặt hoa da ngọc, đã hát hay lại múa giỏi. Đình dạy thêm cho nàng khá nhiều ca khúc mới, sắp sẵn để hát hầu hoàng thượng.

Song song với Giang Hạc Đình, còn có một đại thương gia buôn muối tên Uông Như Long cũng chẳng chịu thua kém.

Long biết Đình sửa soạn đón giá, cũng vội vàng lo liệu về phía mình. Trong nhà Long cũng có gánh hát và cô nào cô nấy, toàn hạng quốc sắc thiên hương cả. Trong bọn có Tuyết Như là sắc nước nhất, chanh cốm vừa xuân, suốt cả tỉnh Dương Châu ai cũng biết nhà họ Uông có cái vưu vật ấy. Chính Uông Như Long thấy nàng đẹp quá cũng phải muôn phần thưởng quý, thịt để trước miệng mèo đấy nhưng vẫn chưa nỡ vùi liễu dập hoa. Bởi vậy Tuyết Như tuổi đã mười tám mà ngọc đẹp chưa từng mang vết.

Phen này, Uông biết tin hoàng đế Nam du, bèn nói với quan tổng đốc xin đem toàn bộ gánh hát đến mua vui cho hoàng đế.

Hôm Thái hậu và hoàng thượng lên đường quả là một ngày hội lớn. Từng đàn thuyền ngự trương buồm nhấp nhô, liên tiếp kéo đi. Suốt dọc đường, kiếm mang hoa rước, tinh kỳ phất phới, chẳng mấy chốc đã tới Thanh Giang. Đám quan lại, thân sĩ hai bờ, chân đi giầy, tay cầm hốt, khúm núm đứng chực ở mũi thuyền đón giá.

Quan tổng đốc tâu có Thuỷ trúc viện của Giang thân sĩ là nơi có thể nghỉ chân, Hoàng đế liền truyền lệnh rời xa giá, đầu người nhấp nhô, ngựa xe rầm rộ, tiếng sênh phách đờn ca vang dậy. Ngoài vườn quân lính cầm giáo mác đứng nghiêm trang, Giang Hạc Đình chạy tới chạy lui toát mồ hôi trán, cố lo liệu đầy đủ mọi thứ. Hoàng đế mời Thái hậu dự yến xem hát.

Thấy cô đào Huệ Phong hát hay múa giỏi, ngài hết sức khen thưởng. Mãi tới lúc mặt trời xế bóng, ngài mới cùng Thái hậu lên kiệu về thuyền. Huệ Phong thấy mình được hoàng đế ưa thích, tin tưởng thế nào ngày mai cũng được thưởng tứ, cho nên trong lòng mùng rỡ lắm. Bọn quan viên lớn nhỏ địa phương ai cũng tưởng vậy, đã ngỏ lời mừng trước.

Hồi 73

LẠC THÚ MIÊN GIANG NAM

Sáng hôm sau, Lưỡng Giang tổng đốc đi cùng với bọn văn võ quan viên tới ngự chu để thỉnh an. Giang Hạc Đình cũng có mặt trong đám; không ngờ vừa mới tới mỏm sông, cả bọn đã thấy lũ thái giám xua tay bảo rằng hoàng thượng đang nghe ca trong thuyền chớ có làm phiền khiến anh nào anh nấy quýnh quýnh kéo nhau thối lui, miệng câm như hến, chẳng dám thở mạnh nữa. Duy chỉ có quan tổng đốc Lưỡng Giang là dám tiến đến nói khó với lũ thái giám cho phép đứng ở đầu thuyền đợi. Thế mà chúng cũng nhất định không chịu.

Cả bọn vô phương đành đứng dàn hàng trên bờ tít mãi nơi xa mà chờ. Mãi lâu sau, khi nhìn xuống họ thấy Uông Như Long bước ra ngồi trước mũi thuyền cười nói tự nhiên với bọn thái giám, lại thấy chiếc thuyền đó bốn bên buông màn kín mít, văng vẳng đưa ra những tiếng nhạc giọng ca vô cùng êm ái, vọng mãi tới phía xa bờ khiến ai đi ngang cũng phải dừng chân lắng nghe.

Giang thân sĩ lúc đó ngạc nhiên đến sững sờ. Ông tự nhủ: trong toàn Trung nguyên thì ca vũ nhất nương châu mà Dương Châu ca vũ lại nhất gánh hát nhà mình, vậy mà hôm nay lại có gánh hát nào giỏi giang đến mức lưu giữ được hoàng thượng dưới thuyền. Giang càng nghĩ càng tức, liền kéo một tên thái giám ghé tai khẽ hỏi, song hắn chẳng chịu hé miệng.

Bọn quan viên đứng ngoài xa đợi từ sáng cho đến trưa, chân đã thấy chồn, gân đã thấy mềm, lúc đó tiếng ca nhạc mới dứt. Nhưng tiếng ca vừa dứt thì tiếng cười đùa đã khanh khách nổi lên.

Lưỡng Giang tổng đốc khẩn cầu bọn thái giám lên thuyền thông báo giùm nhưng có ngờ đâu cứ mỗi cái mồm của bọn này là phải có đúng một vạn lạng… Về sau cầu khẩn mãi chúng mới vui lòng nhận cho với giá sáu ngàn. Bọn thái giám được tiền đút rồi mới vui lòng nói cho biết gánh trên thuyền là gánh Tứ Hỉ của Uông thân sĩ, trên gánh có một cô đào tên gọi Tuyết Như sắc đẹp tuyệt trần, đã được hoàng thượng chấm rồi. Buổi hát vừa dứt, hiện hoàng thượng đã truyền lệnh Tuyết cô nương hầu rượu trong bàn yến. Các vị đại nhân dù có muốn triều kiến thì cũng chưa đến lúc. Tốt hơn hãy cứ lui, đợi khi nảo yến tiệc xong họ sẽ tâu cho.

Bọn quan viên nghe xong chẳng biết lảm sao, đành tạm thời rút lui về, ăn vội ăn vàng cho qua bữa cơm trưa rồi lại kéo nhau tới mỏm sông chờ đợi bọn thái giám vào trong tâu trình. Bỗng thánh chỉ truyền ra, cho gọi độc mỗi Uông thân sĩ được vào khoang bệ kiến thôi.

Uông thân sĩ đã chực ở đầu thuyền từ lâu, khi nghe lệnh gọi mình, vội đội mũ, sửa áo, cúi thấp đầu xuống, run lập cập bước vào.

Lát sau, người ta thấy Uông thân sĩ miệng cười toe toét, huênh hoang bước ra khỏi khoang. Một lát sau, lại có thánh chỉ truyền ra, thưởng Uông Như Long một cái mũ nhị phẩm, tám mươi lạng bạc trắng, cho phép làm Ngự tiền đương sai (người sai phái trước mật vua).

Uông Như Long tiếp thánh chỉ, cất bước lên bờ. Nhiều quan viên chạy tới đón rước xa phụng, bộ mặt Long lúc đó mang vẻ kiêu căng rõ rệt. Long nhìn thấy Giang Hạc Đình lại càng làm bộ già, Đình chạy lại níu kéo hỏi han, nhưng Long phớt lờ chẳng thèm đếm xỉa tới.

Đình mắc cỡ quá, chỉ muốn độn thổ. Đã thế, Long thấy tổng đốc cũng chỉ vòng tay chào một cái rồi leo lên kiệu đi ngay.

Thấy Uông thân sĩ đã đi xa rồi, bọn thái giám mới truyền thánh chỉ ra bảo mọi người, quan lại cũng như thần sĩ, hãy lui về nha môn, quá trưa rồi, hoàng thượng mệt cần phải nghỉ, khỏi túc trực. Từ phía trong cũng đưa ra một vạn lạng bạc để thưởng cho Giang thân sĩ. Thân sĩ họ Giang chờ chực đã bao lâu mà chi được vỏn vẹn có một vạn lạng. Tiền tạ bọn thái giám đã gần hết số đó, Giang nghĩ lại mà chán, đành cúi đầu buồn bã trở về.

Tới nhà, Giang thân sĩ cho người đi dò thám mới được biết gánh hát Tứ Hỉ vốn là gánh hát của gia đình họ Uông. Hoàng thượng sinh trưởng nơi thanh cung, thường chỉ thấy bọn phấn son phương bắc chứ chưa bao giờ được thưởng thức cái đẹp duyên dáng của gái Giang Nam. Cho nên khi gặp Tuyết Như, một người đẹp bậc nhất đất Dương Châu, da trắng như tuyết, mịn như nhung, tiếng hát như oanh vàng líu lo trên cành xuân thì làm sao ngài chả mê tít đi ngay. Tuyết Như lại còn là một cô gái còn trinh, đêm đầu thiêng liêng ấy đã hoàn toàn dành cho ngài, thử hỏi ngài không sủng ái sao được.

Luôn ba ngày đêm, hoàng đế hụp lặn trong suối đào nguyên, chẳng thèm hỏi tới thần dân. Bọn quan lại thân sĩ bàng hoàng, chẳng hiểu ra sao, bèn lẻn tới bên thuyền hỏi dò bọn thái giám thì biết được hoàng thượng còn mải cùng với người đẹp ca vũ thủ lạc.

Đến ngày thứ tư, hoàng thượng mới triệu kiến Lưỡng Giang tổng đốc. Lúc này, ngài tỏ vẻ sung sướng, vui vẻ hết sức. Trước mặt viên tổng đốc, ngài khen lấy khen để, về việc tiếp rước hết, sức chu đáo và tổng đốc là người hết sức trung quân.

Ngài thưởng cho ông ta bốn vạn lạng. Viên tổng đốc vội dập đầu tạ ơn. Sáng hôm sau, thuyền rồng nhổ neo. Suốt dọc đường qua Trấn Giang, Nam Kinh, chỗ nào cũng cung ứng đầy đủ, chẳng thiếu một thứ gì. Lúc này, hoàng đế đã có người đẹp Tuyết Như hầu hạ bên cạnh, hôm sớm múa vui, thì có cần gì ai khác nữa.

Người thua thiệt nhất trong cuộc này chỉ có Giang thân sĩ.

Họ Giang nhớ mãi cái nhục này, nhất là đối với Uông Như Long. Y về tới nhà, bèn bàn tính với Huệ Phong suốt mấy ngày đêm, hy vọng tìm ra kế sách rửa được mặt sau này, để khỏi thẹn mình là tay giàu nhất đất Dương Châu. Mặt khác, nàng Huệ Phong bị một keo cụt hứng cũng cố tìm cách lấy lại tên tuổi mình.

Đã mấy ngày qua, nàng bỗng tìm ra được một điệu kế, gọi là I,Thuỷ hí đài". Thuỷ hí đài là làm sao? Đó là kế biến mặt thuyền thành sân khấu, trên sân khấu được trần thiết hết sức hoa lệ. Sân khấu này làm hai cái đúng in nhau. Lại nhờ những tay soạn kịch trứ danh viết lại những tuồng như Hoàng mẫu Yến, Phong Thần truyện, Kim Sơn tự, với những giọng văn vô cùng vui nhộn hấp dẫn. Giang thân sĩ còn bỏ ra mười vạn bạc đút lót viên tổng quản thái giám để nhờ y ủng hộ ngầm bên trong.

Hôm đó, ngự chu tới chân núi Kim Sơn thì trời đã nửa đêm. Giang thân sĩ ngầm đốc thúc bọn địch phu chèo hai toà Thuỷ hí đài lại gần thuyền rồng rồi lấy xích sắt cột chặt lại.

Sáng hôm sau, khi hoàng đế còn đang cùng Tuyết Như yên giấc trên giường, bỗng một điệu nhạc du dương trỗi dậy.

Ngài hỏi thì viên tổng quản thái giám vội tâu có vị thân sĩ Dương Châu muốn hiến một ban ca vũ giúp vui phía ngoài khoang. Hoàng đế nghe nói, lấy làm thích, cho kéo hết rèm màn che cửa sổ lên. Ngài nhìn ngay thấy hai bên tả hữu ngự chu đều có hai cái sân khấu trang hoàng cực kỳ hoa lệ. Sân khấu bên tả lúc đó đang diễn vở Quần tiên vũ. Một đàn con gái son phấn đẹp như hoa như liễu, một bên ca, một bên vũ, tiếng du dương quyến rũ, điệu uyển chuyển mê hồn. Tiếng sênh, tiếng tiêu hoà tấu nhịp nhàng, chẳng khác gì bày tiên nữ ca vũ trên Quảng Hàn cung. Khi sân khấu bên tả ngừng diễn thì sân khấu bên hữu mở màn ngay. Đấy là cảnh Tán hoa thiên nữ (cô gái trời tung hoa). Một mỹ nhân tuyệt sắc bắt đầu ca và vũ, giọng oanh trong trẻo, dung nhan quyến rũ mê hồn…

Hoàng đế đã mê ngay, thì thầm tự nhủ: "Đẹp như thế kia đúng là nàng tiên rồi!"

Ngài quay lại hỏi:

- Con gái nhà ai vậy?

Viên tổng quản thái giám đã nhận tiền của Giang thân sĩ từ trước, liền tâu:

- Tâu hoàng thượng! Đây là gánh hát Cặp Khánh của thân sĩ Giang Hạc Đình đất Dương Châu. Cô gái đóng vai nàng tiên kia là đào chính tên gọi Huệ Phong.

Hoàng thượng nghe xong, gật đầu tán thưởng:

- Quả khó được kẻ trung can như hắn! Thằng cha này kể cũng đáng thương lắm!

Hoàng đế nằm trên giường, tay ôm Tuyết Như trong lòng, miệng uống rượu, mắt coi hát. Trong sân khấu vừa diễn xong màn ca vũ thì tiếng trống lớn tiếng thanh la vang rầm, rồi vở Thiên môn trận bắt đầu. Vở Thiên môn trận dứt, lại diễn tới vở Pháp môn tự.

Qua ngày hôm sau, trên sân khấu hai bên tả hữu lại luân phiên diễn những vở tuồng vui nhộn như hôm qua. Thế rồi, hết ngày này qua ngày khác, gánh hát luân phiên diễn xuất.

Hoàng đế vốn từ nhỏ chưa từng được xem những vở tuồng dân dã như vậy bởi thế ngài coi mãi không chán. Ban đêm, gánh hát lại diễn vở "Mục Liên cứu mẹ" rồi "Quan Âm du địa phủ". Trong rừng đèn rừng đuốc, nào quỉ, nào thần vụt hiện vụt mất, có lúc đèn đóm tắt ngỏm, nhưng lại có lúc lửa đuốc sáng rực trời. Hoàng đế vui hết mức, bèn chạy về sau thuyền mời Thái hậu cùng ra xem. Thái hậu xem rồi cũng hết lời tán thưởng.

Quang cảnh hoạt náo ấy chẳng biết kéo dài đã bao ngày. Chỉ thấy hôm đó, thái giám tâu bảo đã tới Tô Châu. Quan tuần phủ Tô Châu đem theo bọn quan lại, thân sĩ đứng ở phía ngoài đón giá. Hoàng đế nghe bảo, lấy làm lạ lắm, bèn nói:

- Thuyền rồng tuyệt nhiên không thấy dao động, tại sao tới Tô Châu được?

Tổng quản thái giám lúc đó mới được dịp tán tụng Giang Hạc Đình để vừa làm hoàng đế thích thú, vừa kể công được với Giang.

- Chuyện tài tình này đều nhờ óc khôn khéo của Giang Hạc Đình. Đình sợ Hoàng thượng dọc đường buồn bã, nên sáng tạo hai toà Thuỷ hí đài, tập luyện một gánh hát tuyệt hay để hiếu kính hoàng đế đấy!

Càn Long hoàng đế nghe đoạn liền nói:

- Quả thật khó được một người có lòng trung như Giang Hạc Đình.

Từ đó, Hoàng đế, thanh thì có Huệ Phong, sắc thì có Tuyết Như, lòng ngài vô cùng hứng khởi. Giang Hạc Đình được Hoàng đế thưởng tứ trở về, cố ý mặc mũ áo nhị phẩm vào rồi đến thăm Uông Như Long. Long thấy Đình cũng được ân huệ chẳng thua mình, trong lòng đã lấy làm ghen ghét lắm, đến lúc thấy cái vẻ mặt kiêu căng vênh váo của Đình, càng tức tối hơn.

Thế là từ đó, hai gia đình Uông, Giang ngấm ngầm kết mối oan cừu. Uông thân sĩ đêm ngày lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chuyện áp đảo họ Giang. Đó là việc sau này.

Lại nói Càn Long hoàng đế từ Tô Châu tới Hàng Châu, đem luôn hai toà Thuỷ hí đài vào giữa Tây Hồ để chọn quan viên xem hát. Lại thấy phong cảnh Tây Hồ xinh đẹp ngài bèn mời Thái hậu ngồi trên chiếc kiệu nhỏ ngày ngày du ngoạn đó đây.

Kể lại lúc Càn Long hoàng đế chưa tới Hàng Châu, bọn quan lại thân sĩ trong thành vội vã sửa soạn đón giá trọng thể. Thoạt tiên, bọn này đã tính tuyển lựa một trang tuyệt sắc giai nhân giả làm cô gái lái đò hái sen trong Tây Hồ, mong làm đẹp lòng Thánh thượng. Nhưng về sau được tin Dương Châu có Tuyết Như sắc nước hương trời đã chiếm mất đầu sổ, họ sợ rằng nếu bắt chước họ, ắt không khỏi bị người Dương Châu chê cười, và nếu bị hoàng đế chối từ, lại gây nhục cho thể diện cả một tỉnh thành lớn. Hơn nữa, việc xây cất cả một toà lâm viên vĩ đại chỉ trong một thời gian ngắn quyết không thể nào xong được. Bởi vậy họ cần phải tìm kế hoạch tuyệt mỹ mới hòng chiếm thế thượng phong.

Giữa lúc cả bọn còn phân vân suy tính, bỗng có một vị tên gọi Hàn Thán Sĩ đứng lên nói:

- Tôi có một kế. Tây Hồ của bọn ta có rất nhiều danh sơn cổ tháp. Nào chùa Tính Từ, chùa Hải Trào, chùa Chiêu Khánh, chùa Quảng Hoá, nào chùa Phượng Lâm, chùa Thanh Lương, trên nữa còn có Chí Linh Thiên Trúc. Cao tăng, đại Phật lại cũng rất nhiều. Hoàng đế trời sinh tính thông minh từ nhỏ đã thích kinh điển thiền cơ. Bởi vậy ngài thường xa giá tuần hành chùa Thanh Lương tại Ngũ Đài sơn. Chùa này vốn là nơi Thánh tổ thế phát qui y trước đây. Trong chùa, có cất một bảo toạ. Hoàng thượng thường bảo chúng tăng cao toạ tham thiền. Phương trượng của chùa pháp danh là Tuệ An. Thánh tổ đã phong Tuệ An là trí tuệ chính giác phật. Tuệ An có tám người môn đệ: Mạn Như, Trí Viên, Hạo Nhiên, Cao Lãng, Tâm Trứng, Đại Triệt, Trí Hằng, Vô Tượng. Tất cả tám người ai cũng đạt tới mức tham thiền thượng thừa, làu thông kinh sách, hoàng thượng đều gọi họ là sư huynh. Tất cả những điều này đều do bọn thái giám thân cận hoàng thượng cho bọn anh em tôi hồi còn ở kinh kỳ biết, chứ bọn quan lại, thân sĩ Dương Châu, Tô Châu thực chưa hề hay được. Bọn ta nhân cơ hội này, tìm kiếm các vị cao tăng trong thiên hạ, đặt rải rác khắp nơi danh lam thắng cảnh rồi đợi khi nào Hoàng thượng tới, chùa miếu sẽ xây lên những tháp cao, cất lên những đài lớn, nhất loạt thực hiện pháp sư. Ngoài ra, bọn ta nên đắp nhiều giảng đài, mời các vị cao tăng lên đài thuyết pháp. Hoàng thượng thấy vậy nhất định phải vui mừng, đồng thời hẳn cũng thấy thân sĩ, quan lại của tỉnh ta thanh cao chứ không tầm thường như các nơi khác.

Tuần phủ Chiết Giang nghe đoạn bèn hỏi:

- Nhờ đâu lão huynh biết được hoàng thượng nhất định vui mừng?

Hàn Thân sĩ trả lời:

- Hoàng thượng từ Dương Châu rồi Tô Châu tới đây, dọc đường toàn thụ hưởng thanh sắc phồn hoa, bỗng ngài vào nơi đất phật thanh tịnh, có khác chi người uống một liều thuốc thanh lương tán? Hoàng thượng lại vốn có Phật căn thì thử hỏi làm sao chẳng mừng?

Tràng lý luận của Hàn Thân Sĩ làm cho cử toạ thảy đều vỗ tay khen ngợi. Viên tuần phủ lại nói:

- Muốn cho hoàng đế vui mừng, thiết tương bọn ta phải đi mời pháp sư chùa Ngũ Đài sơn về trụ trì mới xong.

Nói đoạn chính tay ông viết một mật thư rồi sai người lên đường ngay tức khắc để mời cho kỳ được các vị danh tăng núi Ngũ Đài.

Hồi này, vị chủ trì chùa Thanh Lương là Huệ An đã cáo lão từ ngôi, nhường lại cho đại đồ đệ Mạn Như trông coi mọi việc nhà chùa. Sư Mạn Như tuy nói là tham thiền thông tuệ nhưng lại phải cái tính tham tiền hiếu sắc. Thấy tuần phủ Hàng Châu cho người tới mời cao tăng, Như đoán ngay rằng đây là một dịp tốt để làm tiền. Như cười nhạt bảo người đưa thư.

- Người Hàng Châu các ngươi cũng biết chạy tới ôm chân phật à? Hiện nay bọn ta trong chùa cần xây cất điện đồng tháp sắt, tối thiểu cũng phải có một trăm vạn lạng bạc mới xong được. Bọn sư huynh, sư đệ đều phải xuống núi đi phủ khuyến khắp nơi, có ai rảnh để tới miền Giang Nam lầy lội đó được?

Người đưa thư thấy giọng lưỡi sư Mạn Như có ý quyết tuyệt mà ngày tiệp giá đã gần kề trong lòng rất lấy làm bối rối lo lắng. Y đành phải thương lượng đôi ba lần với Mạn Như:

- Sư huynh, sư đệ đã không có ở trên núi, vậy thì xin đại sư phái cho vài vị đồ đệ đi thay cũng được.

Nhưng sư Mạn Như vẫn quầy quậy lắc đầu không chịu. Người đưa thư nọ chẳng biết làm cách nào, sốt ruột quá đành nói liều xin quyên cùng hai mươi vạn lạng bạc để nhà chùa xây tháp sắt. Vớ được tủ rồi, sư Mạnh Như khăng khăng một mực làm cao. Người nọ cò kè trả giá bốn mươi vạn lạng bạc.

Lúc đó, sư ta mói khứng chịu. Y quay sang phòng bên kêu luôn một lúc bốn nhà sư rồi dặn dò bảo theo người đưa thư đi Hàng Châu thuyết pháp Bọn quan viên, thân sĩ Hàng Châu nghe nói đã mời được nhiều vị cao tăng núi Ngũ Đài, sướng như bắt được vàng, vội dọn dẹp quét tước thiền đường sạch sẽ, trang hoàng nghiêm chỉnh. Khi bốn vị hoà thượng nọ tới Hàng Châu, cả bọn đều tề tựu đi đón rước.

Không ngờ khi thay mặt, nhất là lúc đàm đạo phật pháp họ mới biết bọn sư này một chữ không thông, cử chỉ lại lỗ mãng quê mùa hết mức, tất cả thở dài mất hết cả kỳ vọng. Song bởi lẽ bốn vị sư nọ vốn từ Ngũ Đài sơn tới nên dù sao bề ngoài họ cũng tỏ ý kính trọng chiếu lệ.

Ở đời thường có những chuyện kỳ cục xảy ra ngoài ý liệu. Bốn vị sư nọ ở chùa lâu dần chẳng thèm giữ giới nữa, ban đầu chúng lén xực đồ mặn khiến có người phải ngạc nhiên tại sao cổng sau nhà chùa lại đổ đầy cả lông gà xương vịt. Về sau tệ hơn, chúng còn lén đem cả gái về chùa nữa.

Đàn bà con gái Hàng Châu vốn tin phật. Họ nghe đồn Hàng Châu mở đạo tràng lớn cho nên kéo nhau tới. Những mỹ nhân khuê tú từ một giải Tô Hàng thấy ngự giá chưa tới, bèn rủ nhau viếng cảnh Tây Hồ, xem danh sơn và lễ phật.

Lợi dụng dịp này, bọn sư hổ mang nọ lén làm những căn mật thất trong chùa rồi hễ thấy cô nào, bà nào sạch nước là kéo ngay vào mật thất, dấu kín đó hưởng lạc. Số phụ nữ chúng bắt cóc, như vậy chưa đầy một tháng mà đã tới ba mươi sáu người. Những gia đình lân cận, những viễn khách hành hương thấy vợ con họ tự nhiên mất tích, bèn ồ ạt lùng sục kiếm tìm.

Bọn sư hổ mang mướn thợ làm gấp những địa đạo, những thâm phòng quanh co khúc khuỷu để giấu đám phụ nữ bắt cóc được, đêm ngày tác lạc. Chúng còn tự ý đem cầm bán những sản nghiệp trong chùa. Biết chúng cậy thế lực của bọn sư huynh sư đệ thân thiết với hoàng đế nên chẳng có ai dám can thiệp.

Nhiều người mất vợ mất con, tuy biết rõ bọn trọc này gây nhiều tội ác nhưng yếu vía, chẳng dám làm gì. Cũng có đôi kẻ can đảm làm đơn cáo quan, nhưng bọn quan lại giả câm giả điếc lờ luôn. Bọn trọc thấy không ai dám làm gì mình, càng đắc ý làm tới. Trước còn bắt cóc gái nhà dân, về sau bắt cả con nhà quan, nghĩa là cứ thấy gái đẹp là bắt cóc, chẳng chừa ai.

Hồi 74

CUỘC ĐÓN RUỚC TÂN KỲ

Bọn sư hổ mang từ Ngũ Đài sơn tới Hàng Châu càng ngày càng lộng hành. Hồi đó, tại miền Đường Thế có một vị thân sĩ họ Dương, đã từng giữ chức tổng binh nơi quan ngoại, hiện đang dưỡng bệnh tại nhà. Ông Dương có một người vợ bé tên gọi Lâm nương vốn xuất thân từ chốn lầu xanh. Lâm nương mặt mũi xinh đẹp nên Dương tổng binh hết sức cưng quý. Nàng vốn tin phật, khi nghe đồn Hàng Châu đón cao tăng về thiết lập đạo tràng, bèn ngỏ ý với chồng muốn đi Hàng Châu hành hương… Dương tống binh bằng lòng và nhân tiện cùng đi luôn với nàng. Không ngờ chỉ được có ba ngày Lâm nương bỗng mất tích. Kiếm cùng cả mà chẳng thấy đâu, Dương tổng binh quýnh lên chạy đền nha môn quan tướng quân tố cáo. Vị tướng quân nọ phải mấy tên thân binh đi tìm giúp.

Ngẫu nhiên Dương tổng binh nghe con a hoàn của Lâm nương hót ra, mới biết cô vợ bé của mình bị bọn trọc Ngũ Đài sơn đánh lừa đem đi mất. Dương tổng binh vốn con nhà võ, nghe được tin đó lập tức đem bọn tuỳ tùng của mình xông vào trong miếu. Chốn địa huyệt này trang hoàng nào trướng gấm phòng the, nào gối dài chăn lớn, luôn luôn có đèn đuốc sáng choang.

Lâm nương cùng với hơn mười phụ nữ khác đều bị giam giữ ở đây. Dương tổng binh tìm được vợ rồi, vội lùng bắt bọn sư hổ mang nhưng bọn trọc này thấy động ổ đã cao chạy xa bay từ lúc nào. Dương tổng binh tức giận lồng lộn như trâu điên, quát tháo rầm lên như sấm. Ông đem Lâm nương định tới Tô Châu đánh trống thượng cáo, khiến cả bọn quan viên, thân sĩ hốt hoảng xô tới can ngăn, lại còn phải góp nhau lấy một số tiền là mười vạn lạng bạc gọi là "tiền che xấu" để đưa tiễn ông về quê. Ngoài ra còn ba mươi sáu người đàn bà khác cũng tìm ra được cả. Bọn quan lại, thân sĩ địa phương phải đưa từng người một về nhà.

Chuyện bê bối trên đã làm cho nơi phật đường trang nghiệm chịu một phen thất điên bát đảo. Mà ngày tiếp giá đã tới gần. Chốn đạo tràng tuy phải xây cất toàn mới nhưng cũng có thể chu tất được. Cái khó nhất là phải tìm đâu ra những vị danh tăng chủ trì giảng đàn bây giờ?

Mãi về sau, lại cũng Hàn Thân Sĩ nghĩ ra được biện pháp cấp cứu ông nói:

- Hàng Châu ta vốn đất văn vật, thiếu gì những tay tài cao học rộng, làu thông kinh điển. Tại sao bọn ta không mời họ lại thế phát tạm thời, chia nhau chủ trì giảng đàn.

Ý của Hàn Thân Sĩ vừa đưa ra thì bọn hàn sĩ làu thông kinh điển đều kéo tới đáp ứng ngay. Hàn Thân Sĩ cũng là người hiểu chút ít về pháp môn Đại thừa cũng như Tiểu thừa.

Thế là cả bọn quây lại với nhau làm thử một phen, sau đó chọn mấy tay cừ nhất, không những về văn từ nghĩa lý mà còn cả về lợi khẩu hùng biện, đem thế phát (cắt tóc) trước rồi chia đi các chùa trụ trì. Trước khi chia tay, cả bọn có mấy điều ước như sau: nếu kẻ nào có thể đối đáp vừa ý Hoàng thượng thì được làm hoà thượng vĩnh viễn và biếu thêm hai vạn lạng bạc. Nếu kẻ nào không được tiếp ngự giá thì khi Hoàng thượng hồi loan rồi, có quyền tự ý hoàn tục và được thưởng bốn ngàn lạng bạc thù lao.

Trong số hàn sĩ tình nguyện có bốn người uyên thâm kinh điển, biện luận lưu loát: một người họ Trình, một người họ Phương, một người họ Dư và một người nữa họ Cố. Hàn Thân Sĩ bèn giúp họ đổi tên mới: họ Trình thì đổi là Pháp Khánh, trụ trì tại chùa Chiêu Khánh; họ Phương thì đổi tên là Huệ Lâm trụ trì chùa Tỉnh Tư; họ Dư đổi thành là Thập Đắc, trụ trì tại chùa Thiên Trúc, họ Cố thì đổi tên là Bảo Tướng trụ trì chùa Linh Ân.

Trong số bốn vị này, Pháp Khánh là tay cơ cánh nhất. Bởi vậy người ta thiết lập đại pháp tràng ngay trước chùa Chiêu Khánh, bố trí bảy bảy bốn chín ngày thuỷ lục đạo tràng.

Cứ tối đến Pháp Khánh đại sư lại lên đàn thuyết pháp. Đại pháp tràng dựng lên giữa một đám đất bằng, có sàn cao trăm trượng, chung quanh che khắp, nào cờ, nào quạt, nào tán tỉa lọng vàng, giữa có tượng phật uy nghi.

Khi phát khởi đạo tràng thì trống chiêng dậy đất, đèn đuốc rực trời, hương khói nghi ngút, bay mùi thơm đi mấy dặm.

Thiện nam tín nữ qua lại nườm nượp; tiếng nam mô vang thấu tận trời xanh. Trên giảng đàn còn trang nghiêm hơn, lầu gác kết hoa cao vòi vọi lưng chừng trời. Giữa toà sen, Pháp Khánh đại sư ngồi ngay ngắn, tay chắp trước ngực, mắt nhắm nghiền, ảnh kim quay bàn trên đài, đèn đuốc sáng trưng, khói hương nghi ngút. Vị lão tăng nhập định, trông chẳng khác gì tượng phật giát vàng. Phía dưới đài, ở hai bên đường rải đá, năm ngàn tăng nhân đứng dàn hàng thẳng tắp nghiêm trang. Trên mặt đất, trải một lớp nệm hoa dầy gần thước để cho mọi người qua lại. Tứ bề lặng ngắt, không một tiếng động nhỏ. Thiện nam tín nữ bốn phương tới chiêm bái, muôn đầu nhấp nhô như sóng bể ồ ạt kéo từ ngoài cổng lớn vào, kẻ nào kẻ nấy chắp tay cúi đầu, đứng thẳng im lặng. Ngoài cổng lớn treo một lá cờ lớn trên có thêu sáu chứ: "Vâng chỉ kiến thiết đạo tràng" thật lớn. Hai bên có treo "Hạ mãi bài" trên viết: "Văn võ quan viên, quân dân các cấp tới đây đều phải xuống xe xuống ngựa".

Pháp Khánh đại sư tĩnh toạ một ngày trời, đến đêm hôm đó, ông bắt đầu thuyết pháp. Thật là tiếng to như chuông lớn, lưỡi dẻo như hoa sen, thuyết hay đến nỗi kẻ nào cũng phải gật đầu, người nào cũng muốn quy y.

Pháp Khánh đại sư thuyết pháp như vậy được mười bốn ngày thì Hoàng đế tới. Bọn quan lại, thân sĩ trình lên ngự lãm danh sách các vị tăng trụ trì các chùa. Hoàng đế thấy thiết lập đạo tràng quá lớn, trong lòng rất lấy làm mừng. Thái hậu cũng là người tin phật. Bà hay kể lại lúc đức Thánh tổ còn sinh thời, ngài có duyên với phật ra sao. Tây hồ vốn nơi đất phật. Vậy nên ưu đãi tăng nhân, hoằng dương phật pháp.

Càn Long hoàng đế bèn rước Thái hậu bước vào đạo tràng.

Hoàng đế dặn bảo bà: "Họ đã ở trong đạo tràng thì đều là con cháu nhà phật, phải nhất luận bình đẳng". Do đó, ngài cho phép nhân dân tha hồ chiêm ngưỡng dung nhan không cần phải lẩn tránh.

Pháp Khánh đại sư ngồi trên giảng đài, thấy ngự giá giáng lâm mà vẫn thản nhiên, coi như không có, vẫn cao giọng thuyết pháp. Hoàng đế và Thái hậu đem theo toàn thành quan viên đứng phía dưới đài lắng nghe một cách cung kính. Khi hết bài thuyết, Pháp Khánh đại sư mới bước xuống đài, cung kính đón rước ngự giá. Hoàng đế cười hỏi:

- Hoà thượng từ phương nào?

Pháp Khánh đáp:

- Tử phương tới tới!

Lúc đó hoàng đế cầm trong tay một chiếc quạt xếp. Bỗng ngài giơ cao chiếc quạt đập một cái thật mạnh vào đâu Pháp Khánh đại sư. Bọn quan viên theo hầu hai bên thấy vậy thất kinh biến sắc cho rằng hoàng đế nổi giận, nhưng khi nhìn lại thấy nét mặt của ngài vẫn tươi cười như thường, họ lấy làm lạ. Bỗng nghe từ trong cổ họng Pháp Khánh một tiếng "canh" ngân dài vang lên, y như lúc người ta đánh vào chiếc khánh. Tiếng khánh ấy vừa dài vừa vọng mãi đi xa…

Hoàng đế nghe xong, cười lớn bảo:

- Hoà thượng lầm rồi! Khánh của kẻ kia đâu có giống Khánh của hoà thượng? Khánh của hoà thượng cũng không giống Khánh của ta. Vậy nghĩa lý như thế nào?

Pháp Khánh lớn tiếng đáp:

- Khánh cũng biết giữ Pháp, chẳng phải Pháp, ắt chẳng dám lên tiếng!

Hoàng đế nói:

- Hoà thượng lại sai rồi! Tiếng của hoà thượng chẳng phải là tiếng, Pháp của hoà thượng cũng chẳng phải là Pháp! Không phải Khánh của hoà thượng thì cúng chẳng là Khánh. Có gì mà dám với không dám? Có gì phải giữ với không giữ? Lại muốn lên tiếng thì cứ lên tiếng, cần gì mà phải giữ.

Pháp Khánh cũng cười đáp:

- Hoà thượng không có cây quạt, cho nên hoà thượng là Khánh. Hoà thượng là Khánh chứ chẳng phải tiếng Khánh, cho nên hoà thượng là Pháp.

- Hoà đế hiểu lầm rồi. Cây quạt đập tới tiếng Khánh, nên phát ra. Hoà thượng viên tịch. Hoà thượng còn phải giữ cái diệu lý ấy.

Hoàng thượng nói đoạn, ném cây quạt cho Pháp Khánh rồi nói:

- Trẫm cho hoà thượng cây quạt.

Pháp Khánh tiếp lấy cây quạt của hoàng đế rồi đánh vào chiếc đầu trọc của mình liên tiếp, vừa đánh vừa kêu lên những tiếng "canh canh" nặng nhẹ mau chậm tuỳ theo cây quạt, chẳng khác gì lúc đánh chiếc Khánh.

Hoàng đế thấy thế, nhịn không nổi, bật phì cười. Ngài lại hỏi:

- Hoà thượng đã có quạt mà không giữ Pháp. Vậy thi hoà thượng lầm hay quạt lầm?

Pháp Khánh đáp:

- Chẳng phải hoà thượng lầm, cũng chẳng phải quạt lầm! Đó là Pháp Khánh lầm, là người cho Pháp Khánh lầm đấy!

Hoàng đế nghiêm mặt nói:

- Chỉ vì quạt lầm nên luỵ đến hoà thượng. Chi bằng vứt quách cái quạt đi là xong!

Nói đoạn, ngài giơ tay giật cái quạt trong tay Pháp Khánh rồi ném xuống đất, pháp Khánh vẫn bình thản, chẳng hoang mang, chỉ lượm chiếc quạt lên nói:

- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Cây quạt chẳng lầm, chỉ có Pháp Khánh lầm thôi!

Hoàng đế suy nghĩ một lát nói:

- Vậy Pháp Khánh nên giữ lấy cây quạt truyền cho ngươi đời, để họ khỏi lầm!

Pháp Khánh chắp tay nhắm mắt niệm phật hiệu:

"Tây thiên tự tại quang minh đại thiện giác ngộ viên mãn phật.

Nam vô thông minh trí tuệ vô khiên vô ngại phật!"

Hoàng đế thấy thế cũng chắp tay đáp lễ:

- Phật nào? Phật nào? Ấy là kiền thi quyết.

Nói đoạn ngài quay mình bước vào trong điện đi xem chùa.

Xem xong ngài bước ra cửa, Pháp Khánh cầm đầu năm ngàn tăng nhân cùng thiện nam tín nữ cùng đưa ngự giá. Hoàng đế bước ra cửa lớn, quay đầu lại, vừa cười vừa nói với Pháp Khánh:

- Phá công phu sáng mai lại sớm!

Pháp Khánh khom mình đáp:

- Hoà thượng vốn không có nuốt kim.

- Để ý tới đó làm gì? Hoàng thượng phá công phu sáng mai lại sớm.

Pháp Khánh lại giơ cao cây quạt đánh vào đầu mình một cái, nhưng không phát ra tiếng "canh", hoàng đế cười hỏi:

- Chiếc Khánh sao không kêu nữa?

Pháp Khánh nói:

- Ấy là kiến thì quyết! Phật nào? Phật nào?

Hoàng đế nghe xong phá lên cười lớn, rồi bảo Pháp Khánh ngồi lên kiệu cùng tới chùa Tịnh Từ.

Nhà sư tru trì chùa Tịnh Từ là Huệ Lâm, đã đứng lại cửa chùa đón giá. Hoàng đế bước vào chùa, lễ phật xong bèn cùng hai hoà thượng trèo lên núi Ngô Sơn, đứng trên ngọn cao nhất nhìn thấy thuyền bè đi trên sông xuôi ngược rất nhiều. Ngài bỗng hỏi Huệ Lâm:

- Hoà thượng biết trên sông có bao nhiêu thuyền bè qua lại?

Huệ Lâm chẳng cần suy nghĩ tính toán, nói ngay:

- Chỉ có hai chiếc!

Hoàng đế chưng hửng, nhất thời chẳng thế nào hiểu nổi.

Huệ Lâm giải thích giùm ngài:

- Hai chiếc thuyền đó, một là tranh danh, một là đoạt lợi.

Hoàng đế lại hỏi:

- Hoà thượng mà cũng biết đoạt danh lợi ư?

Huệ Lâm nói:

- Hoà thượng không thấy danh lợi, bởi vậy mới thấy được bọn người danh lợi trong hai chiếc thuyền kia. Bọn người trong hai chiếc thuyền kia thấy được danh lợi, bởi vậy mới không thấy được những người ngoài hai chiếc kia.

Hoàng đế nghe xong gật đầu nói:

- Pháp Khánh chính là Huệ Lâm, Huệ Lâm chính là Pháp Khánh.

Qua ngày hôm sau, hoàng đế lại đưa Pháp Khánh và Huệ Lâm tới chùa Thiên Trúc. Nhà sư trụ trì chùa này tên gọi Thập Đắc. Hồi đó trời đã sang thu. Tháng tám. Thời tiết tuy có nóng nhưng vườn hoa mộc tê chùa Thiên Trúc đang độ nở bông.

Hoàng đế bỗng dưng hỏi Thập Đắc:

- Hoà thượng ngửi thấy mùi hương mộc tê không?

Thập Đắc đáp:

- Đấy là hương. Đấy chẳng phải mộc tê. Đấy là mộc tê. Đấy chẳng phải hương. Đấy chỉ là hai phần đoạn mà thôi.

Hoàng đế cười nói:

- Hoà thượng lại sai rồi! Đấy là mộc tê cũng tức là hương. Đấy là hương cũng tức là mộc tê, hương với mộc tê cũng do lỗ mũi mà ra.

Thập Đặc chắp hai bàn tay lại nói:

- Ví thử không có mộc tê, không có hương thì làm gì có kẻ ngửi thấy và kẻ hỏi có ngửi thấy hương mộc tê không.

Càn Long hoàng đế nghe xong lại gật đầu khen hay. Khu chùa Thiên Trúc ba mặt có núi bao bọc, đá chất thành tầng, rừng cây rậm rạp. Hoàng đế quyến luyến chẳng muốn rời khỏi đây nên ngài thường đưa mấy vị cao tăng ngày ngày viếng những nơi danh lam thắng cảnh, tham thiền ngộ đạo. Lúc đó ngài được hưởng cái thú nơi sơn lâm, thành thử nào Tuyết Như, Huệ Phong, nào thanh sắc phấn son, ngài đều ném tuốt ra sau ót hết.

Ngài ở lại chùa Thiên Trúc du ngoạn mấy hôm rồi mới xuống núi, qua chùa Linh Ân. Vừa bước tới sơn môn, ngài đã thấy đá nhọn chọc trời, cây cao khuất bóng. Ngài thốt lời tán thưởng:

- Thật là một nơi thanh kỳ hết sức!

Chùa Linh Ân này vốn có một vị cao tăng hiệu Pháp Hoa, năm đó tám mươi tám tuổi. Vì lão tăng này cáo ngôi dưỡng tĩnh trong một mật thất. Càn Long hoàng đế cũng biết đó là một vị hoà thượng đạo đức cao thâm. Nhà sư trụ trì chùa Linh Ân hiệu là Bảo Tướng đứng ngoài cổng chùa tiếp giá.

Hoàng đế tỏ ý muốn được gặp lão hoà thượng Pháp Hoa, Bảo Tướng bèn tâu:

- Pháp Hoa thiền sư diệt độ lần đầu, mong hoàng thượng để cho người yên.

Càn Long hoàng đế tỏ ý bực mình nói:

- Trẫm cần gặp Pháp Hoa. Y dám diệt độ, đó là pháp gì?

Bảo Tướng nói:

- Đó chẳng phải pháp. Đó là diệt độ lần đầu. Hoàng thượng nhất định muốn gặp, người sẽ diệt độ mắt. Đó chẳng còn là lần đầu, đó là diệt độ sắc tướng.

Hoàng đế hỏi:

- Hoà thượng nói sắc tướng. Hoà thượng là sắc tướng nào? Hoà thượng dám nói là Bảo Tướng? Hoà thượng có dám nói là Pháp Hoa?

Bảo Tướng hồi tấu:

- Hoà thượng là vô sắc. Sắc tức là không - không tức là sắc Hoà thượng là vô tướng: vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chứng sinh tướng, vô thọ ngã tướng.

Hoàng đế nghe tới đây, liền giơ một ngón tay lên nói:

- Hoà thượng dám nói có báu (bảo)?

Bảo Tướng nói tiếp:

- Hoà thượng là kiến thì quyết, hoà thượng là kim cương bất hoại thân. Bởi thế nên hoà thượng là báu.

Hoàng đế nói:

- Pháp Hoa chẳng phải kim cương bất hoại thân cho nên diệt độ, do đó không phải là báu.

Bảo tướng chỉ ngọn núi Phi Lai ngoài cửa sơn môn nói:

- Bảo nó chẳng phải là báu ư? Người đều chẳng tin. Nó chẳng diệt độ. Nó là Phi Lai. Cho nên gọi nó là báu.

Hoàng đế bèn hỏi:

- Nó có phải Bảo Tướng hay không?

Bảo Tướng đáp:

- Nó là Phi xứ phi lai thì cũng là Bảo Tướng.

Hoàng đế nghe xong gật đầu nói:

- Pháp Hoa chính là Bảo Tướng. Bảo Tướng lại chính là Pháp Hoa.

Câu chuyện tạm dứt. Bảo Tướng hầu bên ngự giá tiến vào đại sảnh bảo điện lễ phật. Hai người lại qua La Hán đường chiêm ngưỡng. Thấy năm trăm vị La Hán nào cũng đều hiện rõ kim thân tướng.

Hồi 75

CÀN LONG VỀ TẾ TỔ

 Càn Long hoàng đế tán thán:

- Đấy mới chính là những vị kim cương bất hoại thân vậy?

Câu nói ấy viên thái giám thị tùng nghe được, biết ý của hoàng đế, bèn cáo ngầm cho tuần phủ Chiết Giang hay. Ông này bên cho ngay bọn thợ nề tới La Hán đường đắp ngay một bức tượng kim thần cho chính Càn Long hoàng đế.

Càn Long thấy tuần phủ Chiết Giang đắp tượng kim thân cho mình tại La Hán đường Linh Ân thì lấy làm đắc ý lắm.

Ngài cười nói:

- Từ nay trẫm cũng là người của hội Long Hoa nữa.

Lúc đó đi hầu hai bên tả hữu có cả Lương Thi Chính. Chính vốn là một thi nhân thời danh, Hoàng đế thường cho theo bên mình đề có dịp thi trố tài thơ phú. Càn Long hoàng đế thấy sơn thuỷ đất Hàng Châu xinh đẹp, chùa miếu tráng lệ, bèn gọi Chính làm thơ. Trong thơ có hai câu: "Có núi có chùa cổ; Không chùa không danh tăng".

Càn Long hoàng đế xem xong nói:

- Tuyệt thay câu "Không chùa không danh tăng". Nhà trẫm tự có phật, pháp tự có danh tăng. Trẫm đặt chân tới đâu ắt phải truyền bá chân lý tới đó!

Quân sư thái giám nghe xong câu này lại lẻn tới cáo với tuần phủ Chiết Giang. Ông này hỏi nhỏ viên thái giám:

- Nhà hoàng thượng có phật gì? Có danh tăng nảo?

Viên thái giám vừa cười vừa nói:

- Đại nhân không bao giờ nghe nói trong Ung Hoà cung có Lạt ma tăng sao!

Vị tuần phủ nghe xong giật mình tỉnh ngộ biết rằng Hoàng đế cũng muốn xây cất một toà Ung Hoà cung tại Tây Hồ để cung dưỡng vài vị Lạt ma nào đó, bèn cho người tiến kinh dò xem, mới được biết hoàng đế cùng với quốc sư giao tình rất mật thiết. Ông liền mời Vô già tới trụ trì.

Vô già tới Hàng Châu, trước hết bái kiến hoàng đế, nói rõ cho ngài biết ý định xây cất một toà miếu Lạt ma, mở một cuộc đại hội Vô già. Hoàng đế vô cùng hoan hỉ, dặn bảo Nội vụ phủ phát ngay mười vạn lạng bạc đồng thời ngỏ ý với bọn quan lại thân sĩ hai tỉnh Chiết Giang quyên tiền. Được tất cả hơn năm vạn lạng. Vô già bèn hoạ đồ vạch chương trình và bắt đầu khởi công xây cất.

Lúc đó, Càn Long hoàng đế đã tuần du qua miền Hải Ninh. Trước hết ngài được bọn quan viên văn võ Chiết Giang đưa đi thăm con đê Hải Ninh. Xem xong nước triều, ngài giữ tất cả bọn văn võ quan viên lại ngoài thành rồi tự mình đem theo vài tên thị vệ và thái giám vào thành, đi thẳng tới nhà Trần Các Lão.

Trần Các lão chính là Trần Thế Quan. Sau khi đứa con trai ông bị bà phi Nữu Cô Lộc đánh tráo mất, ông cáo quan, đem theo gia quyến về Hải Ninh. Sau đó, Ung Chính hoàng đế, vì tình nghĩa thân thiết, đôi ba lần hạ thánh chỉ vời ông lên kinh làm quan. Ông cố từ chối mãi mà không được, hơn nữa sợ ngài nghi, đành phải tuân mệnh. Ung Chính hoàng đế hết sức kính trọng Thế Quan. Tất cả nhà ông, nào Trần Thuyết, nào Trần Nguyên Long, cha con chú cháu đều làm quan đến nhất phẩm triều đình, ngôi cao chót vót. Chính bản thân ông làm tới chức tể tướng, được phong là Văn Cần Công.

Đến thời Càn Long hoàng đế tại vị, Trần Thế Quan lần nữa cáo quan về nhà. Càn Long thưởng ông năm ngàn lạng bạc, ăn lộc ở nhà, lại còn tự sáng tác thi ca để tặng ông, trong bài có hai câu:

Lão thần qui cáo năng vô tích,

Hoàng tổ triều thần hữu kỷ nhân

Lão thần qui cáo sao không tiếc,

Hoàng tổ triều thân có mấy ai?

Rồi đến hôm nay, Càn Long hoàng đế xuống Giang Nam. Lúc này Trần Thế Quan đã mất. Nhưng từ khi biết mình chính là con trai Trần Các Lão thì hoàng đế đặc biệt ưu đãi nhà họ Trần. Phàm các bia mộ chi ở phần mộ đều được ngài cho dùng vương lễ. Con cháu nhà họ Trần sợ xúc phạm kỵ huý, nhờ ngự sử tâu xin, được ngài cho dùng vương lễ trong mộ, còn ngài thì vẫn dùng thường lễ của Các lão. Càn Long hoàng đế lại sai người tra xét con cháu họ Trần có bao nhiêu rồi đều thưởng cho cho cấp bậc quan tước không lớn thì nhỏ, đều lên kinh nhận chức. Bởi vậy khi ngài ngự giá tới nhà họ Trần, con cháu trong họ chẳng có mấy ai ở nhà nghênh đón, duy chỉ có một bọn đàn bà trẻ con, hoảng quá đến run bắn người lên. Về sau cụ bà Trần lão nảy ra ý mời viên tộc trưởng tới.

Ông tộc trưởng này tuy có đôi ba lần làm tri huyện, nhưng việc đón giá quả ông chưa từng biết tới bao giờ. Tuổi ông lại đã bát tuần, tai điếc mắt loà, thành thử ông chỉ có một việc run sợ rằng sẽ đắc tội với hoàng đế. Nào ngờ khi thấy vị tộc trưởng này, Càn Long hoàng đế lại hết sức mừng rỡ, hỏi ông gia sản họ Trần có bao nhiêu, cụ bà Trần lão có được mạnh giỏi không, thì ông lo lắng đối đáp cẩn thận lắm. Ngài bảo ông đưa đường tới mộ Trần Các Lão. Khi tới nơi, quay đầu lại ngài thấy có mấy chục vương công nội giám đi theo, bèn bảo họ ở lại hết, chỉ đem có hai tên thái giám đi thẳng tới trước mộ. Trước hết ngài quan sát trước sau một vòng, rồi sai hai tên thái giám đem bức màn vàng che lại. Bọn vương công thái giám bị màn che khuất, không biết hoàng đế làm những gì ở trước mộ, duy chỉ có hai tên thái giám che màn là thấy được rõ ràng mà thôi. Đến khi về tới kinh, một trong hai tên thái giám nọ tiết lộ ra mới biết ngài quỳ lạy ở trước mộ Trần Các lão. Kẻ nghe được chuyện hệ trọng nên không dám lộ cho người thứ ba biết.

Sau khi hành lễ xong, Càn Long hoàng đế lập tức hạ một đạo thượng dụ ban phát hai mươi vạn lạng cho cụ bà họ Trần làm tiền dưỡng lão. Lại còn thêm mười khoảnh ruộng đất lấy hoa màu cúng tế, trồng bốn trăm cây rào mộ, đồng thời ở trước mộ xây ba toà ngự tế bi đình, mái lợp ngói pha lê vàng, phía ngoài đích thân ngài trồng hai cây thông nhựa, hai cây trắc. Ngài còn hạ lệnh cho viên quan địa phương lập thêm một ngôi đền, xuân thu cúng tế hai kỳ, quét đền đốt nhang chu đáo.

Mọi việc xong xuôi, hoàng đế còn lưu mài tại trước mộ, lòng bồi hồi chẳng muốn rời. Bọn vương công đại thần thôi thúc, lúc đó Ngài mới lui theo cửa giữa ra ngoài. Ngài còn quay lại dặn bảo vị, tộc trưởng già phải đóng kín cửa giữa, chỉ được mở khi nào hoàng đế tới thăm mà thôi. Vị tộc trưởng vâng dạ luôn mồm.

Về tới hành cung, Càn Long hoàng đế thấy có phóng sớ đệ tâu trên chiếc án của Thượng thư Binh bộ. Mở ra xem, ngài được biết tổng đốc Mân Chiết bẩm báo có tên nghịch tặc Lâm Sảng Văn tại Đài Loan cử binh vây Gia Nghĩa nên phải cầu cứu viện binh ở kinh rất gấp.

Càn Long hoàng đế đọc xong bản tấu chương, lập tức hạ chỉ hồi kinh. Về tới nơi, tất nhiên, có đủ mặt quan viên văn võ tiếp giá. Nhưng người được triệu kiến đầu tiên phải là Phúc Khang An. Hồi đó, Phúc Khang An đã được thưởng chức Gia dung Ba đồ lỗ, ban cho yên cương vàng sử dụng, lại được vẽ tranh trong Tử Quang các, hết sức vinh dự.

Qua ngày hôm sau, thánh chỉ hạ xuống, phong Phúc Khang An làm Trấn Viễn tướng quân, tập hợp các võ tướng trong kinh lại, huy động Dũng Kiện quân đánh thốc ra Đài Loan tiêu diệt đám giặc. Thánh chỉ vừa mới xuống, bọn võ quan muốn lấy lòng Phúc Khang An nên kẻ nào cũng khoe mạnh tranh tiên xung sát, đánh cho Lâm Sảng Văn một trận tan tành. Văn phải chạy trốn biệt dạng vào mãi khu rừng sâu phía đông Đài Loan, cuối cùng bị viên nha tướng tay chân của An bắt sống đem về dâng trước đại doanh.

Phúc Khang An khải hoàn về Bắc Kinh, đem nộp Lâm Sảng Văn lên thánh thượng. Càn Long hoàng đế mừng rỡ hết chỗ nói, thánh chỉ hạ xuống phong An nhất đẳng Gia Nghĩa công, cho mũ bảo thạch, từ đoàn long phục, kim hoàng đế, Tử cương kim hoàng biện, san hô Triều Châu.

Thánh chỉ còn truyền cho các quận thành Đài Loan và Gia Nghĩa đều phải lập sinh từ (đền thờ sống) cho Gia nghĩa công.

Giữa lúc hoàng đế đang khen thưởng Phúc Khang An bỗng phu nhân của An lăn ra chết. Văn võ bá quan trong kinh đều đi phúng điếu. Vợ chồng An ăn ở với nhau hết sức ân tình.

Phu nhân của An người lại xinh đẹp, nay bỗng dưng đứt gánh giữa đường, bảo sao An chả bi thương. Càn Long hoàng đế cũng hạ chiếu an ủi và khuyên nhủ An, lại thưởng cho ba vạn lạng bạc chi phí việc tang sự, đặc phái đại thần ngự tế.

Bấy nhiêu ân điển đó, thật không có người thứ hai nào được.

Đúng lúc Phúc Khang An thương nhớ vợ không lúc nào nguôi thì khéo thay Càn Long hoàng đế lại có cô công chúa thứ sáu đến tuổi lấy chồng. Bởi thế A Văn Thành mới đứng ra làm mai để đi cầu hôn cho An. Nhạc mẫu của hoàng đế cũng vào cung, nói với bà Phú Sát để hùa vào. Nào ngờ Càn Long hoàng đế lập tức cự tuyệt, không chịu, Hoàng hậu Phù Sát cũng vừa cười vừa nói với mẹ là việc đó quyết không thể nào xong. Hơn nữa chính mẹ đẻ Phúc Khang An cũng không đồng ý cho An làm phò mã.

Lúc đó, Phúc Khang An có hai người anh ruột đều đã làm phò mã. Càn Long hoàng đế không tỏ ý yêu quý gì họ, lại chỉ rất quý yêu An. Yêu quý thì yêu quý chứ hoàng đế nhất quyết không chịu nhận An làm phò mã. Cái lý do sâu xa này thực chi có mấy người trong cuộc hiểu được thôi.

Về sau bà mẹ của Phó Hằng khẩn cầu nhiều phen khiến hoàng đế và Phú Sát phải đem cô con gái thứ sáu gả cho người em Phúc Khang An và làm mai cô cách cách của Thạch Thân vương cho An. Năm đó, An hai mươi sáu tuổi.

Phúc Khang An vừa vâng chỉ lấy vợ xong thì đám giặc Quách Nhĩ Khách xâm phạm miền Hậu Tạng. Càn Long hoàng đế lại truyền chỉ cho An thống lĩnh sáu lộ quân, hội cùng Đại học sĩ A văn Thành lên đường chinh phạt.

Bọn giặc khi nghe tới danh Gia Nghĩa công thì phách lạc hồn xiêu, xuất trận đầu đã thua liểng xiểng. Mới chưa đầy một tháng mà An đã bình xong.

Đám giặc này vừa yên, lại tới tù trưởng Giáp Nhĩ Cỗ Lạp Tập Trại làm phản. Hoàng đế lại hạ chỉ sai An đem quân quay lại diệt đám này. Tên tù trưởng này thấy Phúc Khang An cũng hoảng hồn bạt vía vội tới quỳ trước trướng của An xin hàng. Văn thư báo tiệp chạy về triều như bươm bướm.

Thánh chỉ ban ra, cho phép Khang An ban sư hồi trào, tấn phong làm quan Đại học sĩ, gia tước Trung Nhuệ Gia Dũng công. Trên đường về An còn được Hoàng đế thưởng tặng bài thơ "Ngự chế chí hỉ thi" do chính tay ngài viết lên chiếc quạt. Lại thưởng sáu túi đeo gia phong nhất đẳng Khinh xa đô uý, chiếc Vương công thân quân hiệp lệ, cũng thưởng cho người tuỳ tùng lục phẩm làm Linh tam khuyết. Phong thưởng như vậy, Hoàng đế quả đã quý trọng An hết sức rồi. Cho nên bọn quan viên địa phương hai bên đường anh nào anh nấy đều xu phụng An.

Hồi đó có Lưỡng hồ tổng đốc Bộc Đại Niên muốn lấy lòng An, bèn bàn tính với bọn Mạc Hữu cho chăng đèn kết hoa suốt một giải Trường Giang rồi khua trống chiêng tiếp đón.

Tuần phủ Hồ Nam lại tới Hoàng Châu mượn Thuỷ hí đài đem về rồi cho cặp hai bên đường của An, ngày đêm diễn tuồng cho An xem. Phúc Khang An ngồi trong thuyền uống rượu xem hát lấy làm khoái lắm.

Chẳng bao lâu, thuyền đã đến Động Đình hồ. Tại hồ này vốn có một loại thuyền đặc biệt, được gọi là thuyền Động Đình.

Bốn chung quanh thuyền che một kiểu rèm Tương, ngoài cửa sổ trông rất thoáng, đâu vào đấy tươm tất. Mũi cũng như lái thuyền đều có treo đèn ngũ sắc, hai bên đều căng màn lụa.

Người chèo thuyền toàn là những cô gái xinh xắn, ăn mặc hết sức diêm dúa, mỹ miều.

Đoàn thuyền hôm đó có tới một trăm chiếc. Cô lái đò nào cũng hát vang bài Chí hỉ thi của hoàng đế, tiếng ca véo von lảnh lót như ru hổn người vào cõi mộng. Phúc Khang An ngồi trên thuyền lớn tại trung tâm, còn hơn trăm chiếc thuyền Động Đình nọ thì bao quanh chiếc thuyền lớn của An, từ từ rẽ sóng đưa đi, ăn nhịp với giọng ca của hàng trăm cô lái đò xinh đẹp. Phúc Khang An nhìn quang cảnh một lượt, tấm tắc khen:

- Đám gái này thật là những nàng tiên miền Lạc Thuỷ!

Phúc Khang An vui quá, bèn bảo các thuyền Động Đình ghé sát lại chiếc thuyền mình, rồi nhảy sang. An thấy trong khoang những chiếc thuyền này cũng rất sạch sẽ lộng lẫy, bèn hạ lệnh dọn tiệc tại nơi đây, và cho mời mấy tay mạch hữu lại hầu rượu mình.

Tiệc tan, Phúc Khang An ngẫu nhiên bước quá ra khoang sau thuyền, thấy một cô gái ngồi tại đuôi thuyền, để chân trần, nước da trắng ngần, khoác trên lưng một chiếc khăn choàng màu hồng điểm sao đen, mặt mày vô cũng xinh đẹp - cũng má đào, cũng môi son, cũng eo thon, cũng ngực nở như mọi cô gái khuê các, tay đang cầm lái, hết vặn sang bên này lại bẻ sang bên kia theo chiều gió nhẹ. Mặt hồ lúc đó toàn một màu xanh biếc, in bóng cỏ cây hai bên bờ soi xuống. Thật là một quang cảnh thần tiên, thần tiên từ người đến cảnh vật chung quanh…

Phúc Khang An càng nhìn càng cảm thấy ngây ngất, lòng vừa say sưa vừa bâng khuâng. Bỗng An nghe cô gái cất cao giọng oanh ca một khúc hát vô cùng du dương êm ái. Làn gió nhẹ thổi lướt ngang, tà áo phất phơ trước gió, nhiều lúc tung lên, để lộ chiếc quần hồng và cả lượt áo lót mỏng bên trong.

Cô con gái quay đầu lại, nhìn thấy Phúc Khang An, liền ném vội cho An cái nhìn sắc như dao, nhoẻn một nụ cười vô cùng tình tứ. Phúc Khang An sau cái liếc và cái cười đó y như bị sét đánh, sững sờ. An vỗ tay vào mạn thuyền, khẽ nói:

- Giang Nam đất tốt người đẹp. Tại Bắc Kinh ta đâu thấy những cô gái mỹ miều thế này?

Nói đoạn, An vội quay vào khoang, gọi tên thị tòng chạy đi bảo ngay cô tuyệt sắc nọ vào trong với mình. Tên thị tòng tuân lệnh An, vội đi ngay, nhưng người con gái nói vọng lên, cốt để cho An nghe thấy:

- Ban ngày ban mặt, ai lại làm thế! Xấu hổ chết đi! Tôi chịu thôi.

Phúc Khang An từ trong nghe thấy, liền lim dim đôi mắt dặn với tên thị tòng:

- Vậy bảo nàng tối lên nhé!

Trời tối. Người ta thấy cô gái nọ tô son điểm phấn vô cùng lộng lẫy, tỏ ra hạng người phong lưu đài các, có một hương vị là lạ của miền Giang Nam. Nàng rón rén bước vào khoang thuyền của An, khép nép quỳ lạy hết sức kính cẩn.

Phúc Khang An lúc đó nhìn kỹ lại thì ra sắc đẹp của nàng còn hơn như ban ngày. Toàn thân nàng trước mắt An là một tuyệt phẩm của hoá công mà từ nhỏ đến nay An chưa thấy được bao giờ. An vội cúi xuống đỡ nàng dậy, kéo nàng vào lòng mình rồi hỏi cho biết họ tên. Người con gái nói tên là Bảo Trân. Thế là từ đó, Bảo Trân được An giữ luôn bên cạnh mình trong suốt thời gian xuống Giang Nam.

Thuyền đến Dương Châu, Phúc Khang An mua cho người đẹp một ngôi lầu lớn để nàng ở. Tất cả những đồ biếu của bọn quan lại địa phương cũng như những vật ban thưởng của hoàng đế, An đều cho nàng cả. Nếu tỉnh sang tiền thì tất cả có thể lên tới chừng năm sáu chục vạn lạng bạc. Chu toàn cho người đẹp xong, An đem quân nhắm hướng kinh thành ca khúc khải hoàn.

Càn Long hoàng đế thấy Phúc Khang An trở về, lòng mừng thầm khôn xiết, ban khen rồi truyền chỉ thưởng cho An được đội Tam nhập hoa linh, và tấn phong hàm bối tử, lại còn cho cả quân hộ vệ nữa.

Rồi một hôm, An vào cung tạ ơn. Một tên nội giám được lệnh đưa An vào trong phòng trưng bày đồ cổ. An thấy bên cạnh hoàng đế có một người đàn ông nom tuổi còn nhỏ mà xác thì thật to, tay đang cầm một cái bình cổ, cười cười nói nói với hoàng đế, cử chỉ rất suồng sã. Ấy thế mà hoàng đế vẫn không giận, còn cầm lấy tay gã nọ cười khà khà, bảo:

- Nhà ngươi nếu thích cái bình ấy thì ta cho đấy, đem về nhà mà dùng!

Ông lớn nọ nghe vua nói như vậy xách luôn cái bình đi, chẳng thốt một lời cám ơn. Phúc Khang An đứng bên cạnh thấy vậy, lấy làm hoài nghi, muốn hỏi nhưng lại không dám. Song khi lui ra khỏi cung An mới tìm tới nhà Lưu Thống Huân hỏi xem lại lịch ông nọ, thì được Huân cho biết:

- Đó chính là vị đại thần Tổng quản nghi trượng, mới được hoàng thượng cất nhắc lên, tên gọi là Hoà Khôn đấy.

Khi đang còn ở ngoài kinh đô, Phúc Khang An cũng đã nghe tin hoàng thượng hết sức tin dùng Hoà Khôn, nhưng thực chưa từng gặp Khôn lần nào. Nay được tận mắt thấy con người suồng sã đó, An thấy rất chán ghét. An dặn Bảo Lưu tướng quốc là cần phải hết sức đề phòng Hoà Khôn.

Nguyên lúc Càn Long hoàng đế đang còn là thái tử, ngài rất được Ung Chính hoàng đế và hoàng hậu Nữu Cô Lộc cưng chiều. Hoàng hậu thường cho phép ngài ở lại trong cung. Vốn còn niêu thiếu, tính tình lại hiếu động, ngài thường chạy nhảy khắp nơi để chơi đùa, bất cứ chỗ nào vui là đều có ngài. Ung Chính hoàng đế hồi đó có đến mười sáu phi tần, trong số đó có bốn người được nhà vua sủng ái nhất: một tên gọi Thư Mục Lộc, một tên gọi Doãn Nhĩ Căn Giác La, một tên gọi Mã Giai, một nữa tên gọi Trần Giai. Hai nàng Mã Giai và Trần Giai vốn người Hán, mạo xưng là kỳ nhân để được tuyển trái phép vào cung. Vì cả hai đều có nhan sắc nghiêng thành cho nên Ung Chính hoàng đế mới đặc biệt sủng ái. Lúc đó Càn Long hoàng đế cũng đã mười bảy tuổi.

Hồi 76

MỘT DIỄN SỬ TÂM KỲ ĐỘC ĐÁO

Ở là tuổi dậy thì, tình trai gái chính lúc này phát triển mạnh nhất. Suốt ngày thái tử nô đùa cười cợt với bọn cung nữ phi tần, chẳng kiêng cữ điều gì. Bọn chúng lại biết thái tử là con cưng của hoàng hậu thì đố kẻ nào dám không ưng thuận. Hơn nữa thái tử lại đẹp trai, cho nên cô nào cô ấy đều thích được cùng chàng đùa giỡn. Trong bọn, đặc biệt có nàng phi Mã Giai cậy mình xinh đẹp, tính tình đâm lạnh nhạt, kiêu kỳ, nhất định không thèm chơi đùa với thái tử.

Song oái oăm là thái tử lại thích nàng nhất. Thừa lúc nàng không đề phòng chàng thường ôm bừa lấy, nào hôn hít, nào vuốt ve khiến nàng bực mình lắm lắm. Trò chơi điên rồ này đã diễn đi diễn lại chẳng biết bao lần. Một hôm Mã Giai rảnh việc ngồi buồn ở cung, thấy mái tóc mây của mình không được óng chuốt, bèn gọi bọn cung nữ giúp nàng xổ ra để búi lại. Giữa lúc đang chải tóc thì Bảo Thân vương lẻn vào. Bọn cung nữ chợt thấy định hô to lên nhưng chàng đã đứng ngay sau lưng Mã Giai và ra hiệu bảo bọn cung nữ không được lên tiếng. Vương rón rén bước gần lại thêm nữa, rồi giơ hai bàn tay bịt lấy đôi mắt nàng. Mã Giai chẳng ngờ có người bịt mắt mình, vội lên tiếng hỏi ai. Vương nhịn không được, phá lên cười sằng sặc. Bọn cung nữ cũng cười ầm lên. Mã Giai cho rằng có đứa nghịch đùa nàng, nên sẵn cái lược ngà trong tay, ngoắc ra sau đánh mạnh. Cả bọn chỉ nghe tiếng kêu "ôi chao," một tiếng. Thì ra cái lược ngà nọ đã đánh trúng giữa đôi chân mày thái tử, máu chảy ra có dòng. Bảo Thân vương đau quá vội buông tay ra, quay mình chạy khỏi cung.

Mã Giai biết mình đánh lầm phải thái tử, trong lòng vừa sợ hãi vừa mắc cỡ, bỗng oà lên khóc một hồi. Bà không ngờ rằng mai chính là ngày đại hoạ tới với bà.

Thật không may cho Mã Giai, ngày hôm sau là ngày mồng một đầu tháng. Theo qui củ trong cung thì cứ ngày mồng một là các hoàng tử, công chúa đều phải vào cung để triều bái hoàng phụ, mẫu hậu. Bảo Thân vương bị Hoàng hậu Nữu Cô Lộc trông thấy vết thương trên mặt. Bà thương con, trong lòng rất lấy làm đau xót, liền kéo lại gần xem xét, mới biết bị người đập phải. Bà lấy làm lạ, bèn cật vật vấn xem đánh nhau với ai mà bị thương. Vương thấy bà hỏi dồn vừa hoảng sợ, vừa xấu hổ, khiến cái lưỡi cứ líu lại, ấp úng mới chẳng nói ra lời. Bà Nữu Cô Lộc thấy vậy càng nghi thêm bèn quát hỏi.

Vương bị mẹ hỏi gấp, nhất thời không có cách gì thoái thác bèn khai rõ với mẹ là đùa nghịch với phi Mã Giai chẳng may bị bà ta lỡ tay đánh phải. Bà Nữu Cô Lộc vốn ghét Mã Giai, vì tính tình lạnh nhạt, kiêu kỳ, lại được hoàng đế sủng ái nay vớ được cơ hội tốt, bèn bắt tội Mã Giai quấy phá thái tử, liền cho đòi tới, rồi cho bọn thái giám dùng gậy đánh cho một trận, xong đưa ra cửa Nguyệt Môn dùng dây thắt cổ chết.

Bảo Thân vương thấy mẹ nổi giận đùng đùng, chẳng dám khuyên mà cũng chẳng dám chạy đi đâu, đành cứ đứng chết trân tại chỗ, mắt nhìn thái giám vật ngửa nàng ra rồi khiêng đi như khiêng heo khỏi cửa cung. Lòng Vương lúc đó chẳng khác gì mười tám cây đao sắc đâm vào đau đớn không để đâu cho xiết.

Vương chờ cho mẹ nguôi giận trở về cung rồi, lúc đó mới ba chân bốn cẳng chạy tới cửa Nguyệt Hoa môn. Vương vừa chạy tới thì chiếc dây cũng vừa thắt cứng lấy cổ nàng Mã Giai, naàg chỉ còn thoi thóp thở. Vương khóc nói:

- Ta hại nàng mất rồi!

Vương nói xong, bèn cắn vỡ đầu ngón tay cho máu nhỏ giọt vào cổ nàng, nói:

- Kiếp này ta không cách gì cứu được nàng thì xin duyên nối kiếp sau. Nếu thấy ai có nốt ruồi ở cổ thì ta nguyện đem tính mạng mà báo đáp cho người ấy.

Câu nói vừa dứt, nàng bỗng ứa hai giọt lệ xuống má rồi chết. Bảo Thân vương bỏ ra một ngàn quan tiền, ngầm thuê bọn cung nữ lấy cho bộ quần áo nàng thường mặc đem về treo luôn luôn bên cạnh giường ngủ của mình. Câu chuyện này chỉ được quên dần sau khi vương lên ngôi hoàng đế ít lâu.

Một hôm Càn Long hoàng đế đi hành hương ở Đại Miêu trở về cung, bọn ngự tiền thị vệ và nhân viên Loan nghi vệ đều đã giải tán đi hết rồi, bỗng người ta thấy một tên thái giám trong cung Nội loan truyền ra rằng hoàng đế lại muốn xuất cung để đi thăm Hiệp biện đại học sĩ là Trần Đại Thị hiện bị bệnh. Lời truyền này khiến bọn nhân viên Loan thị vệ cuống quýt, ba chân bốn cẳng hè nhau vác nghi trượng ngự dụng ra để chờ sẵn, nhưng có điều là không biết bỏ cái tán vàng nơi đâu, kiếm mãi mà không thấy. Từ bên trong hoàng thượng đã bước ra khỏi cung, trèo lên kiệu rồi.

Bọn nhân viên nghi trượng càng hoảng sợ, chạy ngược chạy xuôi tìm tán vàng nhưng vẫn không thấy. Càn Long hoàng đế ngồi trên kiệu bực mình lắm, dậm chân nói:

- Đứa nào gây ra chuyện này? Thực là cẩu thả, bậy bạ hết sức!

Lúc đó, có một viên quan học sinh khiêng kiệu nghe tiếng vội quỳ xuống tâu rằng:

- Tâu thánh thượng! Việc này điển thủ không thể tránh được trách nhiệm!

Càn Long hoàng đế thấy hắn tuổi còn rất nhỏ, bèn lệnh cho ngẩng đầu lên. Nhưng thoạt nhìn vào mặt hắn, ngài bỗng "ủa" lên một tiếng lớn, rồi cứ ngây người ra mãi.

Hồi 77

MỘT CHUYỆN TÌNH KỲ LẠ

Càn Long hoàng đế vừa nhìn thấy mặt tên thiếu niên khiêng kiệu lòng bỗng xúc động bồi hồi. Ngài tự nhủ hình như đã gặp hắn tại nơi nào rồi, có vẻ như quen thuộc lằm mà nghĩ mãi chẳng ra. Bọn nội giám chờ đợi quanh đấy thấy thái độ của ngài cũng lấy làm lạ, đều lẳng lặng dừng tay ngó xem. Bỗng hoàng đế bỏ kiệu bước xuống, bảo cả bọn thu dọn hết nghi trượng, không xuất cung nữa. Ngài quay về cung, cho đòi gã khiêng kiệu vào theo.

Từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ được vào cung, nay bỗng bị gọi vào, tên khiêng kiệu hoảng hồn bạt vía, toàn thân run lên bần bật. Một tên nội giám đưa hắn thẳng tới Ngự thủ phòng, hắn quỳ mọp dưới đất, chẳng dám cử động.

Càn Long hoàng đế đi đi lại lại mấy lần dưới mái hiên, bảo bọn nội giám lui ra hết, rồi mới cất tiếng hỏi:

- Tên ngươi là gì?

Hắn dập đầu lâu:

- Tâu bệ hạ! Kẻ tiểu nhân tên gọi Hoà Khôn.

Hoàng đế lại hỏi:

- Tuổi ngươi bao nhiêu?

- Tiểu nhân hai mươi bốn tuổi.

- Ngươi xuất thân từ đâu?

- Tiểu nhân xuất thân là một học sinh, người Mãn Châu.

Đến lúc này, Càn Long hoàng đế đã nghĩ ra được điều ngài băn khoăn nghi ngờ nãy giờ. Ngài nhận thấy khuôn mặt của Hoà Khôn giống hệt khuôn mặt của nàng phi Mã Giai bị thắt cổ chết ở Nguyệt Hoa môn trước đây. Ngài lại bấm đốt ngón tay nhầm tính, thì ra nàng Mã Giai chết đến nay vừa đúng hai mươi bốn năm. Càng nghĩ đến chuyện xưa, càng thấy chua xót trong lòng, ngài ngồi phịch xuống ghế, cho phép Hoà Khôn quỳ lại gần bên mình, rồi bảo Khôn cởi rộng cổ áo.

Ngài rùng mình khi thấy trên cổ Khôn quả có một nốt tròn màu đỏ hồng. Không còn nhịn được nữa, ngài đưa tay ra ôm choàng lấy Khôn kéo vào lòng, lệ chảy ròng ròng trên má, nghẹn ngào hỏi:

- Tại sao ngươi lại đầu thai làm con trai như vậy?

Song Hoà Khôn nhận thấy Hoàng đế như điên như khùng, sợ quá, chẳng dám cử động gì, để mặc cho ngài khóc ngài nói…

Hoà Khôn vốn khôn khéo lanh lợi nên khi nghe hoàng đế kể lể chuyện ân tình với nàng Mã Giai thuở nọ, liền giả bộ nũng nịu, hờn dỗi rồi nói:

- Bệ hạ làm khổ thân thiếp biết bao rồi!

Nói đoạn, Khôn để cho dòng lệ tràn trề trên má. Càn Long hoàng đế lấy ống tay long bào chùi nước mắt cho Khôn. Hai người cứ thế, thì thào tri kỷ mãi với nhau. Sau đó, Hoà Khôn được tặng rất nhiều quần áo đắt tiền, lại được thưởng năm vạn lạng bạc nữa.

Qua ngày thứ hai, một đạo thánh chỉ hạ xuống, đặc biệt phong Hoà Khôn lên làm Nội vụ đại thần chưởng quàn nghi trượng. Và từ đấy, Càn Long hoàng đế đâm ra sủng ái Hoà Khôn hết mức. Khôn thường vào cung hâu hạ hoàng đế, cũng có khi nằm ngủ cùng giường với ngài trong ngự thư phòng.

Càng được sủng ái. Khôn càng đem hết khoa nịnh bợ, chiều chuộng để lấy lòng ngài. Còn Long hoàng đế coi Khôn chẳng khác gì nàng Mã Giai thuở trước.

Bên ngoài, nhiều viên quan đại thần thấy Khôn được sủng ái bèn tìm cách ton hót, xu phụng, kẻ cho tiền, cho nhà cửa, kẻ lại cho cả gái đẹp hoặc châu báu ngọc ngà. Khôn vốn là một tên tiểu nhân đắc chí, chẳng hiểu gì là lễ nghĩa, phép tắc lại cậy có hoàng đế sủng ái, tha hồ ăn hối lộ, tham tàn, làm đủ việc phi pháp, chẳng cần kiêng nể ai. Mới chỉ có vài năm Hoà Khôn đã có một sản nghiệp lớn lao, cửa nhà san sát, tiền của như nước, con ăn đứa ở hàng bầy, gái đẹp đầy nhà. Chẳng cần phải nói Hoà Khôn, ngay như bọn gia nô của y cũng thiếu gì quan viên lui tới để hiếu kính, mong sao chúng nói cho một lời với chủ là lập tức được thăng quan tiến chức, phát tài phát lộc ngay. Trong lòng Càn Long hoàng đế lúc nào cũng chỉ có Hoà Khôn. Ngoài Hoà Khôn ra, ngài chẳng tin một ai. Hoà Khôn nói một lời, hoàng đế tin một lời Hoàng đế nổi trận lôi đình, chỉ cần gọi Hoà Khôn tới là y như ngài đổi giận làm vui ngay. Xưng hô với Hoà Khôn, hoàng đế thường nói ta với mình, mình với ta như đôi bạn tình chí thiết. Bảo vật bốn phương tiến công, hoàng đế đều cho phép Khôn tự chọn và đều thưởng cho Khôn. Thực ra mà nói Hoà Khôn với hoàng đế cùng chia nhau những món tiến cống mới đúng. Nhưng đồ tiến cống trước hết phải qua tay Khôn, để Khôn chọn và cất vào nhà đã, còn lại mới đưa cho hoàng đế. Ấy thế mà hoàng đế còn đem những đồ còn lại này cấp cho Khôn một lần nữa. Cũng vì thế mà trong nhà Khôn chứa không biết là bao nhiêu châu báu vàng ngọc, có lẽ còn nhiều hơn cả trong đại nội nữa.

Có một hôm ngày rằm, hoàng tử, công chúa đều phải vào cung triều kiến. Hoàng hậu giữ cả lại, cho du ngoạn tại Thượng Xuân cung, chẳng may A Kha đánh vỡ mất một đôi mâm bích ngọc bầy trong đó. Đôi bích ngọc này rộng tới một thước (thước Tàu) màu xanh cánh trĩ. Đây là đôi mâm được Càn Long hoàng đế quý lắm. Thất A Kha làm vỡ rồi, lo sợ quá, chỉ ngồi trước đôi mâm vỡ mà khóc. May thay lúc đó có Hoà Khôn từ trong viện đi tới. Thành Thân vương đã lớn tuổi, biết việc này chỉ có Hoà Khôn giúp được mà thôi. Thế là hai người vội chạy tới trước mặt Khôn dập đầu nhờ vả. Thoạt đầu, Khôn không muốn can thiệp tới; nhưng về sau y thấy Thất A Kha có vẻ lo sợ quá rồi, hơn nữa Thành Thân vương lại hứa với y là về bẩm với cha mẹ và tình nguyện hiếu kính y một vạn quan tiền, mong Khôn tìm cách nào giải cứu cho A Kha. Lúc đó Khôn mới nhận lời.

Qua ngày hôm sau, phụ thân của Thành Thân vương quả mang tới nhà Khôn một vạn quan tiền thật. Khôn bèn lấy cặp mâm bích ngọc của nhà y, lặng lẽ đặt vào chỗ đôi mâm bị vỡ trong Trường Xuân cung. Cặp mâm này xem ra còn rộng hơn cặp mâm cũ. Thì ra, lúc có người đem tiến cống, Khôn đã chọn lấy cặp lớn để lại nhà.

Hoà Khôn không những đánh "xoáy" bảo vật của hoàng đế theo kiểu đó, mà mỗi khi tới nhà các đại thần, y thấy có châu báu này nọ là chẳng kiêng nể gì cả, thẳng tay lấy luôn.

Viên đại thần nào gặp phải trường hợp này, dù có tiếc của đến đâu cũng đành để y lấy đi. Do đó, bọn đại thần bảo nhau đem trân châu báu vật cất đi hết, không bao giờ để cho Khôn thấy nữa.

Có một hôm Hoà Khôn đi vào cung chầu sớm, thấy một viên đại thần tên gọi Tôn Sĩ Nghị được phong tước Văn Tỉnh công đã đến triều phòng ngồi đợi từ lâu. Nhân lúc chờ đợi, chẳng có chuyện gì giết thì giờ, Nghị bèn lấy chiếc Tị yên hồ trong bọc ra ngắm nghía chơi. Khôn thấy thế, chạy tới xem.

Thì ra chiếc Tị yên hồ này là khối trân châu lớn vừa bằng một cái hột gà, chạm trổ rất đẹp. Khôn thích quá, liền giơ tay ra muốn cầm lấy. Nghị hoảng lên vội nói:

- Ngọc này, nhân tôi đi đánh An Nam nên cướp được đó. Hôm qua, tôi đã tâu rõ với hoàng đế là hôm nay đem hiếu kính ngài, quyết không thể nào cho đại nhân được đâu.

Khôn thấy Nghị có vẻ hoảng sợ quá, bèn cười nói:

- Tôi có ý đùa đại nhân đấy thôi, chứ đâu có muốn lấy mà đại nhân sợ!

Cách ba hôm, Tôn Sĩ Nghị lại vào chầu, ngồi đợi tại triều phòng và gặp Hoà Khôn. Hoà Khôn đưa tay vào bọc rút ra một chiếc Tị yên hồ đưa cho Nghị xem và nói:

- Đại nhân xem! Tôi cũng có một chiếc Tị yên hồ đây nầy!

Nghị cầm lấy xem, nó chẳng khác tý nào chiếc mà Nghị đã đem dâng, cho Càn Long hoàng đế.

Nghị hỏi Khôn:

- Đại nhân lấy ở đâu vậy?

Khôn nói:

- Lấy của hoàng thượng chứ còn ở đâu nữa!

Những chuyện ngang tàng của Khôn, không dè đều lọt vào tai mắt bọn ngự sử. Bọn này thấy gai mắt quá, thế là nay một bản, mai một bản, tấu chương đưa vào triều như bươm bướm để hặc tội Khôn. Nhưng họ có biết đâu rằng Càn Long hoàng đế xem Khôn như hậu thân của nàng Mã Giai, tất cả những điều bậy bạ đó đều được tha thứ hết. Ngài thường bảo Khôn:

- Cánh mình đều là người một nhà. Có phúc ta cùng hưởng. Tiền của trẫm tức là tiền của ngươi. Ngươi muốn lấy tiêu thì cứ lấy, bất tất phải e ngại.

Thành thử bọn ngự sử đã không làm cho Khôn bị giáng chức mà trái lại còn thăng chức nữa là khác. Chỉ có mấy năm, Khôn thăng quan một lèo, leo mãi tới chức Đại học sĩ, rồi làm luôn tể tướng. Lúc đó, Lưu Văn Chính chỉ mới vươn lên tới Hiệp biện đại học sĩ mà thôi.

Lưu Văn Chính vốn là người chính trực, thấy Khôn làm nhiều điều bỉ ổi, thường trách Khôn ngay trước mặt hoàng đế. Càn Long hoàng đế thấy Chính là một vị lão thần chính trực, hơn nữa do không muốn trách mắng Hoà Khôn, nên nhờ Chính giám sát Khôn khiến Khôn không dám phóng túng bừa bãi. Do đó, mỗi khi thấy Chính tố cáo Khôn tham tàn, ăn hối lộ, làm bậy, thì Càn Long hoàng đế chi dùng lời ngon ngọt xoa dịu Chính mà thôi.

Có một năm, quân binh đi dẹp giặc, khải hoàn trở về, Càn Long hoàng đế cho những công lao đó là của Hoà Khôn vì ngài bảo là Khôn có công trù mưu định kế, rồi phong cho Khôn tước công. Nhân dịp này, Khôn làm tiệc mừng linh đình đến bảy ngày đêm liền.

Hôm đó, Khôn mời hoàng đế đến dự. Mãi tới chiều tối Càn Long hoàng đế mới bày giá xuất cung. Đèn đuốc dọc đường sáng rực như ban ngày, mãi tới tướng phủ, chẳng khác gì một con rồng lửa chạy dài trong kinh thành. Trong dinh tể tướng của Khôn, đèn đóm còn rực rỡ hơn nữa. Đứng xa trông, người ta chỉ thấy một toà thành lửa phía trên che vải màu năm sắc, dưới đất lót nệm gấm dày tới hàng thước suốt từ cổng vào, đến nỗi vó ngựa nện xuống êm như đạp trên cỏ dày không nghe thấy một tiếng động.

Hoà Khôn đích thân đứng chực ngoài cổng phủ đón giá. Lễ bộ thượng thư hôm đó làm quan chiêu đãi. Cửu môn đề đốc phải đứng trên cổ đài đánh trống. Còn những bọn khua chiêng đánh khánh trong dinh đều phải là quan tứ phẩm trở lên mới được cái hân hạnh đó.

Một lát sau, hoàng đế đến ngôi dự yến. Phía trước tuồng bắt đầu diễn mua vui. Hoàng đế đích thân bảo diễn tuồng "Nghiêu Thuấn nhường ngôi" theo tích xưa. Bọn đại thần ngài hầu rượu hai bên đều lấy làm ngạc nhiên. Tại chiếu trên, hoàng đế cùng Hoà Khôn lúc cười lúc nói, y như một đôi bạn tâm giao.

Khôn đem hết tài sức mình hầu rượu. Hoàng đế quá chén say mềm. Bọn đại thần đều rút lui ra bên ngoài. Lúc đó, Khôn lại còn cho gọi bọn ca kỹ ra múa hát, dâng rượu tiếp. Hoàng đế hết sức khoái lạc, cùng bọn ca kỹ tha hồ lả lơi suồng sã.

Mãi đến khi ngài say đến tột độ, Khôn mới chọn một con ca kỹ tuyệt sắc trong bọn, dìu hoàng đế vào trong phòng an nghỉ. Thế là ngay đêm đó con ca kỹ này đã được hoàng đế "chăn gối" luôn.

Canh ba đêm đó ngài thức dậy, lại cùng con ca kỹ rửa chén, rót rượu uống nữa. Khi uống tới lúc quá cao hứng rồi, Càn Long hoàng đế bèn cởi áo ngủ ra, mặc chiếc áo long bào vào giá như bọn tuồng trên sân khấu, rồi cười bảo con ca kỹ:

- Trẫm có giống một ông vua người Hán không?

Hoà Khôn uống lúc đó cũng đã say, liền lấy áo ngủ của Càn Long mặc vào mình rồi cười hỏi Hoàng đế:

- Thần có giống bệ hạ không?

Vua tôi hai người cứ đùa giỡn nhau kiểu đó mãi suốt đêm.

Trời đã sáng tỏ. Càn Long hoàng đế thấy trên cổ áo Hoà Khôn thêu một con rồng vàng, liền hỏi Khôn xem thêu như vậy có ý nghĩa gì thì Khôn tâu:

- Chiếc cổ áo này đã được chính tay của Bệ hạ sờ vào. Thần cho thêu con rồng này là để bảo vệ nó đấy!

Càn Long hoàng đế giơ tay vào cổ áo, bảo Khôn:

- Khanh thật là người khéo chiều ý trẫm.

Hai người cứ đùa nhau mãi như vậy. Qua ngày thứ hai ấy, quan khách đi mừng đều đã tề tựu trước cửa phủ. Cả bọn được tin hoàng đế vẫn chưa về cung, anh nào anh nấy hoảng hồn bạt vía, vội bảo nhau rút lui có trật tự. Duy chỉ có một mình Lưu Thống Huấn đi thẳng vào phía trong mời hoàng đế về cung mà thôi.

Càn Long hoàng đế thấy Huấn vào, trong lòng cũng có phần e ngại, đành phải bày giá trở về cung. Về sau, Hoà Khôn ngầm đưa một con em gái vào cung dâng Càn Long hoàng đế và nói:

- Bệ hạ thấy em gái của thần cũng như thấy thần.

Càn Long cũng đem lòng sủng ái em gái Hoà Khôn từ đó.

Khôn chẳng những dẫn dắt hoàng đế dâm lạc tại trong cung, về sau còn đưa hoàng đế ra khỏi cấm thành.

Hồi đó, ở kinh thành có một con điếm tên tuổi nổi như sóng cồn, gọi là Tam cô nương. Nào là đại quan, nào là quý nhân, anh nào cũng đều phải tới lui nhà nàng. Ngay cả đến Hoà Khôn mà cũng còn là khách quý của Tam cô nương nữa là! Bởi vậy, bọn quan lại trong kinh thành nếu muốn chạy chọt này nọ đều phải tới nhờ ả ta nói giúp. Tam cô nương vốn tính kiêu kỳ, thích thì tiếp, chẳng thích thì đừng hòng, do đó, ngoài cổng có những anh quan nhị, tam phẩm mà vẫn phải đợi có khi cả ngày mà chưa được vào. Đến khi Hoà Khôn đưa Càn Long hoàng đế tới nhà, Tam cô nương lại càng lên mặt làm phách. Bọn quan lại lui tới trước đây, lúc này bị ả ném ra sau ót hết. Hằng ngày ả chỉ chầu chực để hầu hạ hoàng đế.

Nói đến nhan sắc của Tam cô nương thì quả hiếm có trên đời. Ngoài dung mạo đẹp như ngọc ra, ả có cái phong vận yểu điệu quyến rũ vào bậc nhất, dù người đẹp thượng thặng trong cấm cung cũng khó có thể bì kịp. Còn nếu lại chấm cái nghệ thuật trong phòng kín thì hẳn từ xưa đến nay chưa có ai dám sánh. Chả thế mà chỉ cần một tối thôi cũng đủ cho Càn Long hoàng đế lăn lóc trước ả rồi.

Cũng nhờ cái công phu thượng thặng ấy mà Tam cô nương đã trói chặt ông vua chơi bời, từ đó không thể bỏ ả được nữa. Càn Long hoàng đế ngày ngày lẻn ra khỏi cung, tới nhà ả để tìm vui thú.

Hồi đó, có một vị công tử con trai Di Thân vương, nghe danh tiếng Tam cô nương bèn bỏ ra cả vạn quan tiền, chỉ mong ả cho gặp mặt một lần. Chàng công tử này quả đã yêu Tam cô nương tha thiết. Ngày ngày, chàng cho người đưa tiền đến cho nàng, tưởng rằng rồi đây hẳn có lúc được ngắm mặt ngọc, được sờ vào làn da như tuyết như nhung của ả. Nào ngờ tiền đối với Tam cô nương chẳng có nghĩa gì lúc này.

Hồi 78

VUA CHƠI, QUAN ĐI BẮT

Chàng công tử bỏ tiền ra ngày càng nhiều, bỏ luôn một hơi đến hai mươi vạn lạng bạc. Vãi vung quá xá, chàng bị cha là Di Thân vương nghi ngờ. Thế là ông cật vấn thằng con trai hư đốn và lúc đó ông mới biết bao nhiêu tiền của nhà ông đều chui cả vào cái lỗ nhà Tam cô nương. Bất giác ông nổi máu nóng, chạy như bay đến nhà quan thống lĩnh bộ binh và quan Cửu môn đề đốc, gầm thét một hồi, buộc hai vị quan lớn này tức tốc sai nha dịch quân binh tới nhà Tam cô nương để vừa lấy số tiền lại, vừa đuổi ngay con điếm ra khỏi thành.

Quan thống lĩnh và quan đề đốc nghe nói con điếm bịp bợm ngang tàng đến như vậy, cũng đùng đùng nổi trận lôi đình, lập tức phái nha dịch tới bắt.

Bọn nha dịch quân binh được lệnh của quan trên, hùng hùng hổ hổ xông vào, thấy đồ là đập, thấy người là bắt, chỉ trong chốc lát, tất cả bọn mụ dầu em út, ma cô ma cạo, đều một loạt bị trói gô lại như đàn heo chờ chọc tiết. Chưa xong, bọn nha dịch còn lùng ra nhà sau để tính làm một mẻ nữa cho tỏ đủ cái oai quyền của triều đình. Nhưng vừa tới thềm nhà thì cả bọn đã bị một ông lão giơ tay cản lại. Bọn nha dịch đâu có chịu, xô ông lão ra bên, định cứ xông bừa vào.

Không ngờ ông lão trụ vững như một tảng đá, ba bốn người cùng lúc cũng khó xô cho nhúc nhích được. Cả bọn hầm hè một chặp nhưng chẳng tên nào nhào vô được. Có vài tên tính luồn qua nách ông lão để vào trong, nhưng ông lão sớm biết đã dùng ngón trỏ điểm trúng vào huyệt trên hũm vai, tức thì mấy tên này đứng sững cả lại, mắt trợn ngược, miệng há hốc, chẳng khác gì những bức tượng vô hồn. Bọn nha dịch phía sau, thấy tình hình nguy hiểm, bèn quay lại, chuồn một mạch về nha môn cấp báo.

Quan thống lĩnh bộ binh lúc đó là chú của bà hoàng hậu Phú Sát. Được tin này, ông tức đến chết được, gầm lên như hổ rống beo gào, rồi lập tức đích thân chỉ huy một đội thân binh rầm rộ kéo tới nhà Tam cô nương. Lúc đó trời đã hoàng hôn bên ngoài căn nhà Tam cô nương im ắng khác thường. Tất cả như chìm trong bóng chiều đang nhuộm một màu tang tóc.

Quan thống lĩnh cậy mình là quan lớn nào có ngán ai, nên cứ xông thẳng vào nhà sau. Nhìn qua khung cửa sổ treo bức màn gấm, ông thấy có ngọn đèn le lói, ánh sáng lúc mờ, lúc tỏ, Lại có tiếng phách, tiếng đàn thánh thót vọng ra. Quan thống lĩnh máu sôi sùng sục, đứng ngay giữa sân, quát lớn:

- Bắt lấy nó!

Giữa lúc nguy cấp, bỗng từ trong nhà một đứa con gái chạy thẳng ra trước mặt quan thống lĩnh, đưa cho ông ta mẩu giấy. Quan thống lĩnh xem xong, bỗng giật mình đánh thót một cái, chân như muốn khuỵu xuống. Thì ra trong tờ giấy, quan đọc thấy dòng chữ sau đây: "Ngươi hãy trở về. Ngày mai, trẫm sẽ có chỉ. Khâm thử". Phía dưới mười hai chữ đó, ông thấy dấu son còn tươi của chiếc ngọc tỷ.

Quan thống lĩnh đến lúc này một câu chẳng dám nói, lẳng lặng kéo đội binh trở về nha môn, một mặt biệt phái đội thủ vệ binh âm thầm kéo tới bao vây khắp bốn phía quanh nhà Tam cô nương để bảo vệ cho hoàng đế chơi gái.

Sang ngày thứ hai, quan thống lĩnh vào triều kiến Hoàng đế đang lúc định tẩu khuyên hoàng đế chớ nên vi hành, không ngờ Càn Long đã không cho ông mở miệng mà vừa cười vừa bảo ông:

- Khanh làm việc cần mẫn lắm, nhưng bất tất phải nhìn rõ đến thế, e mất cả cái đẹp đi!

Quan Thống lĩnh nghe đoạn, giật mình phát hoảng rồi đập đầu xin tha tội. Càn Long hoàng đế ngoài miệng tuy nói vậy nhưng trong lòng lại nghĩ là hoàng hậu đã sai quan thống lĩnh tới phá đám. Bởi vậy, ngài bắt đầu chán ghét bà.

Hoàng hậu Phú Sát khi mới lấy Càn Long hoàng đế, ân tình kể ra thắm thiết lắm, nhưng tính bà thẳng thắn đàng hoàng nên thấy hoàng đế hiếu sắc hay sủng ái phi tần thì thường ngầm ngỏ ý khuyên can. Trong cung nhà Thanh có một luật lệ đặc biệt, đó là đọc lời "Tổ huấn" (lời dậy của tổ tiên). Sợ hoàng đế hoang dâm vô độ, cứ mỗi khi được tin hoàng đế ngủ tại phòng bà phi nào mà đến canh năm chưa dậy, tức thì hoàng hậu sai thám giám đầu đội Tổ huấn đi thẳng tới ngoài cửa phông ngủ, quỳ xuống, miệng đọc thao thao bất tuyệt, hết lượt này đến lượt khác. Khi nghe đọc Tổ huấn, hoàng đế lập tức phải mặc áo, xuống giường quỳ nghe. Nếu vẫn mặc kệ, thản nhiên nằm trên giường thì tên thái giám cứ đọc hoài, đọc mãi cho đến lúc hoàng đế phải ngồi dậy mới thôi. Hoàng hậu thường lấy phương pháp đó để trị. Càn Long hoàng đế ghét cay ghét đắng bà là vì thế.

Có một hôm, hoàng đế vừa ở nhà Tam cô nương về, hoàng hậu biết được, bèn bỏ trâm cài đầu đế rủ tóc xuống rồi đem hết lời khuyên can. Hoàng đế thấy vậy, bảo bà một cách lạnh lùng:

- Hậu tính hùa với cả trong lẫn ngoài để áp chế trẫm phải không? Trẫm đâu có phải bọn nhu nhược vô dụng! Hậu nên nhớ điều đó, bất tất phí công vô ích.

Nói đoạn, Càn Long hoàng đế quay mình bước ra khỏi cung.

Từ đó, mỗi lần ngài tới ổ điếm của Tam cô nương tìm vui trở về, đều bị hoàng hậu eo xèo năm ba tiếng chứ chẳng lần nào không. Hoàng đế cảm thấy bị kiềm chế, ở trong cung hết sức bực bội, đến không thể chịu nổi. Bởi vậy, ngài tính phụng thỉnh thái hậu xa giá Nam tuần để nhờ đó có thể toại nguyện bình sinh với cảnh vật, với chùa chiền, với mỹ nhân. Chủ ý đã định. Ngài bèn hạ chiếu tuần hành Giang Nam suốt chuyến đi này. Ngài đem tất cả đại quyền phó thác cho Hoà Khôn.

Ngài cũng cho Lưu Thông Huấn ở cạnh Khôn trông coi việc nước. Lúc đó ngài mới phụng thỉnh Hoàng thái hậu tựu tại cửa Ngọ môn để tiễn đưa. Trong số, độc có mình Hoà Khôn đưa ngài ra mãi tới ngoại ô kinh thành. Càn Long hoàng đế nhìn thấy vẻ mặt Hoà Khôn buồn rầu thê thảm, cho rằng Khôn có ý không muốn rời xa mình, bèn bảo:

- Trẫm đã có ý định cùng khanh đi du ngoạn miền Giang Nam nhưng vì việc nước không người lo liệu, nên đành phải làm phiền khanh. Đợi đến lúc trở về kinh, Trẫm sẽ cùng khanh uống rượu tìm vui, khanh chẳng nên buồn rầu mà làm gì!

Hoà Khôn tâu:

- Chỉ ý của Thánh thượng đâu dám chẳng phụng mạng, nhưng vì trong nhà thần gần đây chết mất một ái thiếp, nên thần buồn bã âu sầu khiến những nét sầu buồn đó hiện ra ngoài mặt, cầu mong hoàng thượng rộng lượng khoan thứ cho.

Càn Long hoàng đế nghe nói phá lên cười:

- Buồn mà làm gì? Miền Giang nam gái đẹp đâu thiếu, trẫm đi chuyến này sẽ tìm giùm khanh một trang mỹ nhân tuyệt sắc để khanh giải mối sầu.

Hoà Khôn nghe xong vội quỳ xuống đất tạ ơn. Càn Long hoàng đế cùng mẹ rời khỏi kinh thành trên hai chiếc thuyền rồng lớn, theo sau là gần trăm chiếc quan thuyền nữa. Đoàn thuyền rồng bơi theo sông Vận Hà, qua Thiên Tân, vào địa phận tỉnh Sơn Đông. Dọc đường bọn quan địa phương hối hả đón giá và cung ứng đầy đủ mọi thứ cần thiết. Bọn buôn muối ở Dương Châu cậy gia tài muôn vạn lượng đều muốn lấy lòng hoàng đế. Trước đây bọn họ đã có lần được vinh hạnh đón giá nay nghe hoàng đế Nam tuần, lại hí hửng xun xoe, chạy vạy hết mình để chuẩn bị tiếp giá và cũng để phô trương cái giàu có của mình. Trong bọn này ta phải kể hai tên cự phách nhất và cũng kình địch nhau nhất là Giang Hạc Đình và Uông Như Long. Trước đây cũng vì chuyện tiếp giá mà hai tay buôn muối này đã kết mối oan cừu. Bây giờ, họ đâu có chịu bỏ lỡ cơ hội. Họ vò đầu bóp óc, đem hết tâm lực ra tìm cho kỳ được một trò vui kỳ diệu nhất để lấy cho bằng được lòng hoàng đế mới nghe.

Bởi thế cho nên đám dân sĩ đất Dương Châu tin tưởng rằng phen này hai họ Giang, Uông thế nào cũng có cách đón giá hết sức tinh diệu tân kỳ.

Số là khi đón giá lần thứ nhất. Uông Như Long đã lo tính tới việc đón giá lần thứ hai. Nàng Tuyết Như từ khi được Càn Long hoàng đế ban ơn mưa móc, nay được Uông Như Long cho ở trong Tảo Thuỷ viên. Hai vai của Long trước đây đã được chính đôi tay của Hoàng đế đặt vào, Long bèn cho thêu ngay hai con rồng nhỏ ở trên đôi vai áo chính xác chỗ đặt tay của hoàng đế. Và từ đó, Uông thân sĩ cũng đổi giọng gọi Tuyết Như là Tuyết nương nương, một niềm kính trọng.

Long còn mua về hai mươi mấy đứa con gái và xin Tuyết Như dạy chúng múa hát. Tuyết Như bèn chọn những điệu múa khúc hát nào mà hoàng đế thích nhất để dạy cho chúng. Nàng cũng còn dạy chúng thêm những điệu múa mới lạ nữa. Uông thân sĩ lại mời khá nhiều danh sĩ sáng tác mấy bài hát mới để dạy chúng ca. Tập luyện vừa thuần thục thì được tin Càn Long hoàng đế ngự giá Nam tuần, Uông thân sĩ vội kéo cả đoàn tới bến Thành Giang đón giá.

Thành Giang vốn là bến sầm uất vào bậc nhất thời đó. Long đã tính đúng. Sau khi thuyền ra khỏi tỉnh Sơn Đông, đi từ Tế Nam tới, bỗng thấy bến này có vẻ đẹp, Càn Long hoàng đế lấy làm thích nên muốn ghé lại ít hôm.

Bởi đã liệu trước điều đó nên Uông thân sĩ đã cho một bọn thợ tới bến sông sửa soạn từ trước, chỉ chờ ngự thuyền tới là có đủ chỗ cho bọn quan viên thân sĩ sắp hàng quỳ một dọc dài như kiểu tràng xà trạm.

Càn Long hoàng đế ngồi trên thuyền, nhìn ra thấy non xa mờ nhạt, cây đứng thành hàng, càng lấy làm thích cái cảnh non sông hùng vĩ. Một lát sau, ngự thuyền ghé sát vào bến.

Đám thần dân chờ chực tiến ra, đồng thanh hô vang dậy:

- Hoàng thái hậu, Hoàng thượng vạn tuế!

Càn Long hoàng đế đang lúc tựa cửa khoang thuyền nhìn lên bờ, miệng cười chúm chím, thì bỗng thấy trên cây đại thụ phía bờ cao treo một trái đào thật lớn.

Hồi 79

NHỮNG CUỘC TIẾP RƯỚC LINH ĐÌNH

Cặp mắt của Càn Long hoàng đế đang chăm chú nhìn vào trái đào lớn trên cây, bỗng thấy trái đào tự nó chuyển động, rời khỏi cành, rớt xuống, rồi lại từ từ di chuyển trên mặt đất tới bờ sông, sát ngay cạnh thuyền rồng. Đợi đến lúc trái đào nọ tới gần, ngài mới nhìn thấy bên trong nó là cả một công trình, còn bên ngoài được sơn phết một màu hồng tươi, lại có cả hai cái cánh lá xanh rờn. Khiến bọn quan viên hiếu kỳ đều đổ xô lại xem xét, ngắm nghía.

Nhưng giữa lúc họ đang ngắm nghía say mê bỗng một tiếng thanh la vang dậy, tức thì trái đào bị tách đôi ra, ở giữa để lộ một cái sân khấu nhỏ, phía trên là các tài tử đang diễn tấn tuồng cổ "Quần viên chúc thọ", trăm cái miệng xếp thành một hàng dài đồng ca khúc "Vạn thọ vô cương".

Càn Long hoàng đế nhìn xem mới biết là người đóng vai hoàng mẫu chính là Tuyết Như. Nàng Tuyết Như hôm nay xinh đẹp còn hơn thuở nào. Đã vài năm nay hoàng đế không được gặp Tuyết Như rồi, tình xưa nghĩa cũ trở lại khiến ngài không khỏi động tâm. Ngài lại nhìn một lượt toán tiên tử chúc thọ, cô nào cô nấy dầu còn nhỏ tuổi nhưng đều xinh tươi lộng lẫy…

Giữa lúc đang trong phút xuất thần, Càn Long hoàng đế bỗng thấy một cô gái buông xoã mái tóc mây, trẻ đẹp tuyệt trần, múa đôi bàn tay ăn nhịp với giọng ca réo rắt. Cô gái ca múa một lát rồi thoăn thoắt bước xuống đài, tay nâng một bình ngọc tiến gần lại cửa sổ bên khoang thuyền dâng lên hoàng đế.

Càn Long thấy nàng có cặp chân mày đen như tranh vẽ, miệng cười xinh như đoá hoa hàm tiếu, đôi mắt liếc như biển tình gợi sóng, bất giác cảm thấy như ngây như dại. Ngài còn thấy những ngón tay nõn nà như ngọc của nàng với những móng tay rất dài được gọt dũa cẩn thận, bèn cười hỏi nàng:

- Khanh đúng là tiên nga giáng thế. Trẫm không biết tiểu danh của khanh.

Cô gái nọ thấy hỏi, bèn nhỏ nhẹ tâu lên:

- Tiểu tử tiện danh là Chiêu Dung!

Nói đoạn, nàng lấy ống tay áo che nửa miệng cười, liếc ngang một cái quay đi. Càn Long hoàng đế vội hối thái giám nắm lấy chéo quần của người đẹp: Nhưng nàng đã lách mình chạy vội lên đài, ca bản "Nghê thường vũ y khúc" thế là cả đoàn ca vũ cùng nàng đồng ca tiếng ca nhịp nhàng, êm ái, khi khoan lúc nhặt, lan toả trên dòng sông.

Càn Long hoàng đế truyền chỉ: Thưởng Tuyết Như một viên ngọc như ý, một chiếc hộp đựng phấn, một cái thau rửa ngón tay đều bằng ngọc bích hà, một đôi bình vàng, một đôi trâm bằng ngọc màu xanh lục, một cái chén bằng ngọc bích xanh, một chuỗi hạt châu. Ngài cũng truyền chỉ thưởng cho Chiêu Dung một viên ngọc như ý, một đôi bình vàng, một đôi trâm bằng ngọc màu xanh lục, một chuỗi hạt châu. Ngoài ra các cô đào khác cũng đều được hoàng đế ban cho một cành trâm bằng ngọc màu xanh lục, một chuỗi hạt châu.

Nàng Tuyết Như đem cả toán tới bái lạy, tạ ơn hoàng đế bạn thưởng.

Tối đến, Càn Long hoàng đế truyền lệnh cho hai nàng Tuyết Như và Chiêu Dung lên ngự thuyền để hầu hạ ngài nghỉ ngơi.

Nàng Chiêu Dung vốn là em của Tuyết Như, tuổi vừa đôi tám, xinh đẹp tuyệt trần. Hoàng đế thấy nàng tuổi còn non, tính tình ngây thơ dễ thương nên lại càng sủng ái.

Ngày hôm sau Càn Long hoàng đế tuyên triệu Uông Như Long lên thuyền ngự, thưởng cho Long chiếc mũ đệ nhị phẩm, năm chục vạn lạng bạc và bảo về Dương Châu sớm để chuẩn bị đón giá. Uông Như Long lãnh chỉ, tạ ơn, vội vã quay về Dương Châu diễu võ dương oai. Chuyến này thực chẳng còn coi Giang Hạc Đình ra cái gì nữa.

Giang Hạc Đình thấy Uông Như Long đắc thế vênh váo, lấy làm cay cú lắm. Đình bèn bàn với nàng Huệ Phong âm thầm sửa soạn một trò vui tân kỳ bằng vạn họ Uông và quyết sẽ cho họ Uông biết tay một phen. Giang không hiểu đối phương đang mưu tính việc gì nhưng kỳ thực Uông đang ráo riết chuẩn bị một trò mới lạ khác, hấp dẫn hơn bao giờ hết, để cho thiên hạ bở vía một phen, trong dịp thuyền rồng của Hoàng đế cập bến Dương Châu sắp tới.

Hôm đó, Càn Long hoàng đế ngồi trên lầu cao, hai bên có văn võ bá quan đứng hầu. Thoạt đầu, người ta chỉ thấy trước mặt tối om như mực. Rồi dần dần một đốm lửa xuất hiện. Đốm lửa này phun tia sáng ra bốn phía. Càng phun, đốm lửa càng lớn. Bỗng một tiếng nổ lớn như xé không gian, đỏ rực khắp bầu trời, rọi sáng cả một khu đất làm trước mặt toà lầu cao. Giữa vùng ánh sáng đó hiện rõ một cây đại thụ, khắp mọi cành đều nở rộ những đoá hoa đào. Những đoá hoa này bỗng nở xòe trong ánh sáng hồng, mỗi lúc một lớn. Nhưng chốc lát, hoa tàn cánh rụng, từ đó nảy ra một chùm trái. Những chùm trái đào này lớn phồng dần lên rồi một trái lớn nhất bỗng lìa cành rụng xuống, cũng vừa lúc cây, cành lá, tất cả đều biến mất, chẳng còn thấy bóng dáng đâu nữa. Trái đào vừa rụng xuống lại nứt toác ra làm đôi, biến thành hai cái sân khấu ở hai bên, bên này diễn tuồng Tây Du Ký có yêu ma quỷ quái biến ảo khôn lường, còn bên kia bày cảnh bửu tướng trang nghiêm, có toà sen vòi vọi tượng phật Quan Âm và bầy tiên nữ đang quỳ lạy dưới chân. Một lát sau, về phía sân khấu đóng tuồng Tây Du Ký, người ta thấy Tôn Hành Giả diễn một màn ăn trộm đào tiên, tay đang bưng mâm đào ra. Cùng lúc đó, ở phía sân khấu bày bửu tướng, người ta thấy một nàng tiên nữ giơ đôi bàn tay ngọc ra đỡ lấy chiếc mâm đào rồi dâng thẳng lên cho Hoàng đế ngồi trên lầu cao.

Càn Long hoàng đế nhìn kỹ vị nữ lang cũng lại là một trang tuyệt thế giai nhân, tóc mây buông xoã, tay áo vén cao, duyên dáng muôn phần. Người cười nói:

- Miền Giang Nam quả có nhiều người đẹp!

Câu nói đó vừa thốt ra thì một tên thái giám bước lên nắm giữ nàng lại. Thế là từ hôm đó, Hoàng đế đã có ba vị mỹ nhân, luân phiên hầu hạ đêm ngày.

Đoàn thuyền ngự thong thả chèo đi giữa dòng sông. Hai bên bờ nào quan lại, nào thân sĩ hối hả đón rước. Nhưng hoàng đế còn có thì giờ nào nữa để truyền lệnh cho bọn họ vào bệ kiến.

Đoàn thuyền ngự ra khỏi địa phận bến Dương Châu, bỗng từ hai bên bờ nổi lên giọng ca êm ái như đàn chim oanh vui đón tình xuân. Càn Long hoàng đế đẩy bức rèm cửa sổ nhìn ra. Ngài thấy hai bên bờ sông có hai đoàn phụ nữ, một đoàn mặc quần áo xanh, một đoàn mặc quần áo đỏ. Cả hai đoàn có độ trăm người, người nào cũng đều da trắng mặt hoa, yểu điêu thướt tha. Trên vai mỗi người có đeo một sợi dây thừng ngũ sắc. Một trăm dây nhỏ đó hợp lại thành hai sợi dây chão lớn được cột chặt vào cái trụ ở trước thuyền rồng của hoàng đế. Từ đỉnh trụ của mũi thuyền này tới mãi đuôi thuyền lại treo không biết bao nhiêu những lá Tiểu long kỳ bằng gấm hoa, tung bay theo gió như trăm ngàn con rồng uốn lượn trên không trung. Hai bên mạn có hai đội phụ nữ chèo thuyền - một đội là nữ ni ăn vận toàn y phục màu da cam, một đội là đạo cô, ăn mặc toàn quần áo vàng. Tất cả hai đội này, người nào cũng trau son dồi phấn, lộng lẫy muôn phần. Dưới thuyền thì chèo, trên bờ thì kéo, tiếng chèo, tiếng ca phối hợp với nhau tạo thành một khúc hát nhộn nhịp tưng bừng, vô cùng hào hứng.

Càn Long hoàng đế nhìn khắp một lượt, bất giác thở dài, cảm khoái, quay đầu hỏi bọn thái giám:

- Trò lạ này của ai vậy?

Viên tổng quản thái giám liền tâu:

- Đó là trò "Kéo râu rồng" (Long tu khiên) của nhân sĩ Giang Hạc Đình đất Dương Châu hiếu kính hoàng thượng đấy ạ!

Càn Long hoàng đế quan sát thêm một lượt nữa, thấy trên bờ có trồng khắp nơi, nào đào nào liễu. Hoa đào nở tươi một màu hồng rực rỡ, lá liễu rủ xuống mát tươi cả một vùng. Một hồng một xanh chen kẽ phô bày muôn ngàn thi vị của thiên nhiên. Chưa hết, giữa khoảng cách dưới bóng cây đào, liễu, lại còn chăng những bức tường gấm. Cứ cách một dậm đường, lại xây cất một toà cẩm đình, trong đình có đủ mùng màn chăn đệm tiện nghi không thiếu một thứ gì, Càn Long hoàng đế hỏi:

- Các toà đình ấy để làm gì vậy?

Viên tổng quản thái giám lại tâu:

- Đây là nơi sẵn sàng dành cho bọn phụ nữ nghỉ ngơi!

Càn Long hoàng đế nói:

- Phong cảnh hai bên bờ đẹp quá. Trẫm cũng muốn lên bờ thưởng thức một phen.

Viên thái giám nghe nói vội bảo ngừng thuyền. Hoàng đế bước ra phía mũi. Bá quan vội tiến lên đón giá rồi theo sau hoàng đế về ngả cẩm đình trang hoàng lộng lẫy; nào trang đài nào kính bình mới đẹp, tinh vi. Hoàng đế truyền lệnh cho bốn đoàn phụ nữ đến gần. Đoàn thứ nhất ăn mặc quần áo hồng, đó là những nàng xử nữ mày liễu mặt hoa, son trẻ ngây thơ thật dễ thương. Đoàn thứ hai ăn vận y phục màu xanh, đó là đoàn quả phụ, trang điểm nhã đạm, phong lưu đặc biệt.

Đoàn thứ ba là đoàn nữ ni và đoàn thứ tư là đoàn đạo cô, cũng phong lưu yểu điệu, làm rơi hồn lạc phách mọi người.

Càn Long hoàng đế nhìn bốn đoàn phụ nữ, lòng thấy sướng vô hạn miệng cười nói như nắc nẻ. Ngài giơ bàn tay ra vỗ nhẹ vào những chiếc cổ thoa phấn, mân mê những bàn tay búp măng màu ngà. Bọn này được vậy thì cảm thấy muôn phần vinh dự…

Càn Long hoàng đế truyền chỉ thưởng cho mỗi người một chiếc kim bình (lọ bằng vàng), năm trăm lạng bạc. Ngài còn bảo giữ lại bốn người: Trần Tứ Di, Vương Thị, Uông Nhị Cô, và Ngọc Ni.

Nàng Trần Tứ Di chỉ huy đoàn áo xanh. Tuy là một sương phụ nhưng tuổi còn trẻ, xinh đẹp phải liệt vào hạng thượng thừa. Vương Thị cầm đầu đoàn đạo cô, có một nhan sắc nghiêng thành, phong nhã thanh cao như thần tiên nơi thượng giới.

Hai nàng này được Càn Long triệu hạnh, bèn đem hết bán lĩnh ra để thửa tiếp khiến hoàng đế mê ly đến điên đảo đảo điên, không bút nào tả xiết được cái khoái lạc nữa.

Uống Nhị Cô là đoàn trưởng đoàn áo hồng. Ngọc Ni là người cầm đầu đoàn Nữ ni. Nói đến nhan sắc của hai nàng này thì đến như Trần Tứ Di, Vương Thị vừa nói trên cũng còn thua xa. Đây là cái sắc một cười đổ thành, hai cười nghiêng nước. Tất cả chị em bạn gái trong bốn đoàn thực chẳng có ai có thể sánh kịp hai nàng. Tiếc thay, đẹp đến thế mà hai nàng không được lòng hoàng thượng khiến đến nỗi một người bị chết tươi dưới hàng trăm chiếc côn lớn vụt xuống tới tấp, còn một người lại phải chết chìm dòng nước bạc vô tình.

Uông Nhị Cô vốn con gái một nhà nghèo nơi thôn quê, cha nàng làm nghề bán dưa độ nhật, mẹ nàng mất sớm. Khi còn thơ ấu, vì mồ côi mẹ, nàng phải đầu tắt mặt tối làm lụng giúp cha. Tuy đầu bù tóc rối, vất vả vì công việc nhưng cái sắc tuyệt trần của nàng cũng chẳng vì thế mà lu mờ được.

Bọn thanh niên trong xóm thấy nàng đẹp như tiên nga giáng thế, đều cảm thấy lòng mình như vương víu không thể nào bỏ qua được. Bởi thế ngày nào cũng thường có đôi ba tên, nhất là những tên vô loại hiếu sắc, cứ tới lui nhà nàng để giờ trò chọc ghẹo bướm ong. Về sau, cha nàng bực mình quá không chịu nổi, bèn tới cửa quan tố cáo. Vị quan địa phương phái sai nha tới bắt hết bọn vô lại, từ đó nàng mới được yên thân làm ăn. Nhưng cũng từ đó đến cả viên tri phủ cũng biết cái sắc đẹp của nàng là tuyệt trần hiếm có. Thế rồi nhân Càn Long hoàng đế Nam tuần, Giang Hạc Đình nhận lo chuyện tiếp giá, muốn lấy lòng ngài bèn nghĩ ra trò lạ "kéo râu rồng", và cho tay chân đi khắp nơi tìm kiếm người đẹp. Nghe tiếng Nhị Cô là một trang tuyệt sắc nên nhờ quan tri phủ địa phương đem nhiều vàng bạc đến mời nàng. Lúc đầu nàng không chịu, nhưng do người cha tham tiền, khuyên nhủ:

- Con chỉ phải đóng vai người kéo dây chứ có phải tới gặp hoàng đế đâu mà e ngại!

Uông Nhị Cô chẳng biết nói sao, đành từ giã cha già ra đi. Khi tới nhà họ Giang, nàng được mụ quản sự cho đi tắm nước bông, cho mặc đồ gấm vóc, cho tô son điểm phấn, bỗng nhiên trở thành xinh đẹp lạ lùng, có sức quyến rũ không ngờ. Do đó, mụ quản gia cho nàng làm trưởng đoàn áo hồng.

Hôm đó Càn Long hoàng đế triệu Trần Tứ Di và Vương Thị vào hầu trước. Hai cô này được ngài lâm hạnh và được thưởng đến trên vạn lạng bạc. Đám phụ nữ nghe tin, ai cũng ngưỡng mộ.

Một lúc lâu sau, thánh chỉ lại hạ xuống, truyền cho Uông Nhị Cô vào bệ kiến. Đi phen này dữ nhiều lành ít, nên nàng dù chết cũng không chịu vào. Thấy không còn cách gì khác, hai tên thái giám lực lưỡng liền nắm hai cánh tay nàng kéo đại vào Vài phút sau, người ta bỗng nghe bên trong đình vọng ra tiếng khóc của Nhị Cô hết sức thê thảm. Hai tên thái giám khi nãy lại hớt hải chạy ra và kéo luôn cô gái họ Chu vào. Cô gái họ Chu nhan sắc cũng chẳng thua ai hiện làm phó đoàn áo hồng. Sở dĩ có chuyện gọi gấp cô gái họ Chu này là vì Nhị Cô tuy được gặp hoàng đế nhưng nhất định không chịu chiều ý ngài cho nên nàng phải vào thế ngay cho ngài dùng gấp…

Hồi 80

KHI BÀ HẬU NỔI MÁU GHEN

Lúc đó trong căn đình có khá nhiều phụ nữ ngồi chờ đợi. Sau khi cô gái họ Chu vào bên trong được một lúc thì mọi người thấy một tên tiểu thái giám đẩy nàng trở ra. Đám phụ nữ nhìn cô gái họ Chu thì thấy đầu tóc rối bù, mặt mày đỏ ửng lên. Nàng cúi mặt xuống như có vẻ thẹn thùng, nhưng trên mái tóc của nàng đã thấy cắm một cành châu thoa song phụng, ở miệng mỗi con phụng có ngậm một viên minh châu lớn như hạt bắp, chỉ cần nói một viên đó thôi cũng đã thấy có đến hơn vạn quan tiền rồi. Mọi người nhìn kỹ thêm, lại còn thấy trên cổ tay nàng đeo một đôi xuyến vàng nạm ngọc lưu ly Bọn phụ nữ chạy vội tới xúm quanh nàng, cô nào cô nấy ríu rít tán tụng.

Lát sau, mọi người lại thấy một thái giám truyền gọi bọn thị vệ vào trong đem xác nàng Uông Nhị Cô ra. Tức thì hai tên thị vệ bước vào, khiêng ra cái xác và ném ở mé ngoài vọng đình. Mọi người thấy Uông Nhị Cô hai mắt nhắm nghiền, máu me bê bết khắp mình. Đám phụ nữ thấy vậy, vội hỏi cô gái họ Chu. Cô liền kể:

- Khi tôi bước vào bên trong đình thì thấy hoàng đế đang ôm Nhị Cô trong lòng, nhưng nàng vừa khóc lóc vừa kháng cự. Hoàng đế tức giận lắm, xô mạnh nàng xuống đất quát lớn: "Kéo nó ra mà đập chết". Chỉ thấy hai tên thái giám chạy tới tay cầm một cây côn dài sơn đỏ, nắm lấy đầu tóc nàng kéo sang căn phòng bên cạnh. Lúc đó chính là lúc tôi đang bị hoàng đế "ân ái", nhưng tai tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng kêu gào thảm thiết của Nhị Cô. Tôi sợ quá, hồn vía như bay biến nghĩ bụng, Nhị Cô hẳn đã bị hai thái giám đánh chết.

Đám phụ nữ nghe kể xong, cô nào cô nấy lạnh đến tận gáy, tóc như dựng ngược cả lên.

Về sau người cha của Uông Nhị Cô tìm đến nơi này lấy xác. Viên quan tri phủ địa phương nói thác ra rằng nàng bị cấp bệnh mà mất. Uông lão ông cũng đành tin như vậy chứ còn biết gì hơn, tất tưởi đem quan tài con gái về quê an táng.

Còn Ngọc Ni, bởi đã thấy cái chết thê thảm của Nhị Cô, biết rằng rồi đây mình cũng không thoát khỏi cái cảnh làm đồ chơi cho hoàng đế, bèn lừa lúc mọi người không lưu ý, nhảy tùm xuống sông mất tích. Mụ quản sự sợ để hoàng thượng biết việc này sẽ gây ra nhiều chuyện nguy hiểm về sau, bèn chọn ngay một ni cô khác đợi sẵn để dâng lên thay thế.

Lần Nam tuần này, suốt dọc đường du ngoạn, Càn Long hoàng đế triệu hạnh có tới mười sáu cô cả thảy. Hầu hết đều do tâm tư tài lực của một mình Giang Hạc Đình dâng hiến.

Bởi vậy Càn Long hoàng đế trong lòng hết sức cảm kích họ Giang. Ngài cho triệu Giang vào bệ kiến khen ngợi y ngay trước mặt, lại thưởng cho y chiếc mũ Hồng đính hoa linh và truyền bảo Giang Ninh phiên ty thưởng y sáu chục vạn lạng bạc. Giang Hạc Đình cũng cảm kích ân đức của hoàng đế, bèn đem cả khu "Sư viên" (một khu vườn trồng cây sư) của nhà y dâng cho ngài.

Khu Sư viên của họ Giang được kiến trúc hết sức tân kỳ, u nhã. Nơi đây chính là cái nền của toà mê lâu thuở trước của vua Tuỳ Dạng Đế. Người Dương Châu thường gọi vườn này là Tiểu mê lâu. Trong Sư viên có hiên ấp thăng, gác Điện có đình Đương phong, đài Dương liễu, có đê Tàng Xuân, mái Mộng tiêu, có toà Bích thành nhị lâu (thành màu ngọc bích có cả thảy mười hai toà lâu đài).

Càn Long hoàng đế được nơi danh thắng này bèn đem bọn gái đã triệu hạnh cho ở tại nơi đây, mỗi người một nơi, đều là nơi có phong cảnh xinh đẹp. Nhưng nơi đẹp u nhã tột bậc trong vườn này phải nói là toà Bích thành thập nhị lâu. Nơi đây vốn dành riêng cho Quách thị, là vợ bé của Giang Hạc Đình. Đình rất yêu quý Quách thị nhưng vì cảm kích ân đức của hoàng đế, bèn dâng luôn vợ mình cho ngài. Tuy nói là vợ bé của Đình, nhưng vì tuổi còn quá nhỏ nên chưa từng bị "phá thân". Quách thị vào hầu hạ Càn Long hoàng đế, ngay đêm đầu, biết được nàng còn là một xử nữ trinh trắng, ngài vô cùng yêu quý, liền phong cho nàng là Yên hoa viện phủ.

Quách thị có một con a đầu họ Tưởng năm đó mười tám tuổi, tính nết rất phóng đãng. Con a đầu này có một cái tài đặc biệt về nghề ngón chơi bời. Bất cứ người đàn ông nào đã gặp Tưởng thị đừng hòng quên nổi ả. Lẹo tẹo thế nào chẳng rõ, con a đầu họ Tưởng câu trúng được Càn Long hoàng đế, Càn Long tuy chơi bời khét tiếng nhưng thực ngài chưa bao giờ nếm được cái mủi vị đặc biệt này. Thế là ngài cũng mê tít con a đầu họ Tưởng, có phần còn cưng chiều hơn chủ nữa là khác.

Càn Long hoàng đế ngự giá qua Hàng Châu. Toán gái đẹp được ngài triệu hạnh ở Dương Châu đều ở lại Sư viên, duy chỉ có một mình Tưởng thị là được ngài cho theo hầu bên cạnh mình.

Thuyền tới địa phận Tô Châu, Càn Long hoàng đế sực nhớ lời đồn bọn gái làng chơi đất Kim Xương vốn nổi tiếng thiên hạ. Ngài tự nhủ mình làm vua trùm cả trăm họ mà chưa được hưởng cái sướng của nhân gian, bèn nói cho viên Tổng quản thái giám nghe. Viên Tổng quản hiểu rõ tâm sự ngài, bèn đi gặp bọn quan viên địa phương tiếp giá, rỉ tai bàn tính với bọn này để tìm kế sách.

Giữa ban ngày, nếu để hoàng đế công nhiên chơi điếm, e rằng thiên hạ dị nghị, bởi vậy bọn quan viên mới dùng một cỗ xe bồ luân (xe mà bánh quấn cỏ bồ để kéo đi cho êm và không gây tiếng động ầm ĩ trên đường) chở bọn danh hoa Kim Xương đưa lên ngự chu cho ngài dùng. Đám son phân này cộng cả thảy đến ba mươi sáu ả. Ả nào cũng mặt hoa mày liễu nói năng ngọt ngào. Ngồi trước đám danh hoa khuynh quốc này, vị thiên tử phong lưu nhà Mãn Thanh mắt hoa tâm loạn. Ngài truyền lệnh bày yến, ba mươi sáu ả luân phiên nâng ly chuốc chén, miệng ca những khúc hát xuân tình, càng làm say lòng ngài.

Càn Long hoàng đế ôm bên tả, bế bên hữu, mắt càng mờ, tâm càng mê. Đã đến lúc chịu hết nổi, ngài bèn bế xốc luôn mấy cô tuyệt sắc nhất lên giường để thoả mộng Vu sơn vân vũ.

Hoàng đế du dương suốt đêm, mãi tới canh tư mới tạm hoãn cuộc "hành trình". Bọn gái kia cũng quỳ lạy hoàng đế, rồi lên xe trở về.

Suốt dọc đường, Càn Long hoàng đế biết bao phen nằm hoa ngủ liễu như vậy mà Hoàng Thái hậu như ngủ trong trống, chẳng biết gì cả. Sở dĩ có chuyện này vì một là hoàng đế cố sức giấu nhẹm việc mình, hai là thái hậu vốn ngự tại chiến thuyền phía sau ngự chu không thể biết được. Bọn cung nữ, thái giám tay chân của Thái hậu đều được hoàng đế đối xử tử tế nên mọi chuyện đều che đậy cho ngài cả. Hơn nữa, mỗi khi muốn "lâm hạnh", hoàng đế khôn khéo lắm, ngài đều lên bờ vào nhà quan viên, thân sĩ, hoặc chờ lúc đêm khuya cho người lẻn đưa gái lên thuyền, thử hỏi một Thái hậu già lão lại ít thắc mắc việc đời làm sao mà biết được.

Tuy che mắt được thái hậu, nhưng hoàng đế đã không lừa dối được chính cung hoàng hậu Phú Sát. Ngài cho rằng bà Phú Sát ở tít mãi kinh sư, tai mắt của bà quyết không thể ranh mãnh tinh tế mà biết được những chuyện của ngài làm. Nhưng ngài có ngờ đâu đích thân bà đã nằm ngay trong thuyền của thái hậu từ lúc nào.

Lúc còn trẻ, bà Phú Sát với hoàng đế vốn mười phần ưu ái, nhưng đến nay, bà thấy ngài chỉ thích trộm hương cắp ngọc, lạnh lùng đối với mình thì làm sao chẳng giận tức. Bà lại được tin cuộc Nam tuần thứ nhất ngài sủng hạnh nàng Tuyết Như, rồi ngay tại kinh thành ngài sủng hạnh Tam cô nương.

Bởi vậy cuộc Nam tuần này, bà bèn đòi cùng đi cho biết. Càn Long hoàng đế nhất định không chịu, bởi vậy bà Phú Sát ngầm tới nói rõ đầu đuôi cho Thái hậu nghe và xin phép cho bà cải trang làm thị nữ đi hầu hạ, lẻn ra khỏi kinh sư, ẩn mặt trong thuyền của Thái hậu. Trên đường Nam tuần, bà sai mấy tên thái giám tâm phúc dò la từng hành động của chồng. Nhờ đó bà biết rõ hoàng đế đã chơi bời đến mức nào. Đáng lý những điều tệ lậu này nên tâu bầy với Thái hậu mới phải, nhưng bà đã không làm là bởi vì biết Thái hậu rất cưng chiều hoàng đế, lại sẽ chỉ trách mắng qua loa mà thôi. Riêng bà, bà biết mình tự ý xuất kinh nên không thể nào trực tiếp đến gặp hoàng đế được. Do đó, suốt dọc đường biết bao chuyện dâm loạn vô đạo của ngài, bà đều phải nhẫn nại chịu đựng.

Nhưng hôm nay, bà được mấy tên thái giám báo cho biết hoàng đế đem cả một lũ gái thanh lâu lên thuyền để chơi bời thì bà ghen tức đến điên lên, buồn giận đến xám xanh cả mặt mày lại. Bà đã tính chạy đến ngự chu để khuyên can nhưng lại sợ chuyện vỡ lở ra làm mất mặt hoàng đế, đành nuốt hận ngồi nghe tiếng đờn ca vọng tới.

Bà hậu Phú Sát vốn thâm thông văn mặc. Bà quay nào trong khoang lấy giấy bút, thảo một bán tấu chương dài khuyên hoàng đế nên bảo trọng thân thể, chớ có hoang dâm vô độ.

Viết đến chỗ thương tâm, bà ôm mặt khóc vùi. Bà khóc chán rồi lại viết… Bọn cung nữ và thái giám hầu hạ bên cạnh đều muốn khuyên nhủ bà mà chẳng dám. Bà viết xong tờ sớ rồi nhìn lên bờ, thấy đèn đóm sáng trưng, ngựa xe rầm rộ. Thì ra, đó chính là lúc đám gái lầu xanh lên bờ để trở về tổ quỉ.

Bà lẩm bẩm nói:

- Lũ yêu tinh đó cút rồi, ta có thể đến gặp hoàng đế được.

Thế là bà trang điểm lại, lau hết lệ trên má, tay cầm bản tấu chương, mạnh bước xông ra, mặc cho bọn cung nữ, thái giám kẻ nắm áo bà giữ lại, người hết lời khuyên can. Viên Tổng quản thái giám hoảng quá, vội bò xuống dưới chân bà, dập đầu liên hồi nói:

- Lúc này chính là lúc hoàng thượng đang khoan khoái, sung sướng. Nếu nương nương quyết ý tới gặp, chẳng những không đi tới chỗ tốt đẹp, trái lại còn khiến ngài tức giận. Đã đành cái đầu của kẻ nô tài này quyết không thể còn mà đến danh mệnh của nương nương cũng nhiều điều bất tiện. Huống hồ lúc này đêm đã canh tư, bọn điếm kia lại đã ra đi, hoàng thượng hẳn đã ngủ say rồi. Ví thử nương nương có tấu chương dâng lên thì hãy để sáng mai, nô tài xin vì nương nương mà đem đi, há lại chẳng hay hơn hay sao?

Phú Sát hoàng hậu nghe đoạn, hai hàng lệ lại ròng ròng chảy xuống như mưa. Bà nức nở nói:

- Hoàng thượng hoang dâm như vậy, tránh sao khỏi dân oán trời giận, rồi đây cảnh quốc phá gia vong ắt phải đến ngay thôi. Ta cùng với hoàng thượng vốn tình nghĩa vợ chồng, thì làm sao mà nhịn được. Nay chủ ý ta đã định, đành liều một thác, mong gặp mặt ngài lần chót. Nếu chẳng may ta có mệnh hệ nào nào ngay tại ngự chu, thì bọn ngươi hãy gói ghém mớ áo lót mình của ta và chiếc bảo tỷ (chiếc ấn bằng ngọc của hoàng hậu) mà gởi về nhà Đại tướng quân là cha ta và nói với người rằng ta vì hết sức khuyên can hoàng thượng mà đành phải thác.

Phú Sát hoàng hậu nói tới đây, bi thương quá đôi, nghẹn ngào tưởng ngất đi được. Bà gieo mình xuống ghế. Bọn cung nữ chạy lại phục thị cho bà, kẻ lau mặt kẻ dâng trà.

Một lát sau, bà nín khóc. Bỗng bà nhảy chồm dậy, đứng thẳng người, dằn giọng nói:

- Ta quyết phải gặp hoàng thượng!

Rồi nhanh như cắt, bà chạy ra khoang sau, bởi sợ làm mất giấc ngủ của Thái hậu ở khoang trước. Ra tới khoang sau, bà nhảy lên tấm ván cầu. Bọn cung nữ và thái giám vội chạy theo đỡ cho bà. Vừa chạy, bà vừa nhìn qua chiếc ngự chu. Bỗng bà thấy trên cây cột buồm có treo lủng lẳng ngọn đèn đỏ, ánh sáng lóng lánh như chiếu thăng vào mắt bà. Cơn giận lại tới, bà tức đến nghẹn cả cổ, giơ tay chi ngọn đèn đỏ, đôi mắt trợn ngược lên, té ngửa vào vòng tay bọn cung nữ, ngất đi không còn biết gì nữa. Bọn cung nữ hoảng quá nhưng chẳng dám kêu la. Chúng lật đật bế bà Phú Sát trở về khoang, vỗ nhẹ vào mỏ ác và đổ nước sâm vào miệng bà. Bà Phú Sát dần dần tỉnh lại, bất giác lệ lại tuôn rơi lã chã.

Theo luật lệ trong cung, mỗi khi hoàng đế có triệu hạnh bà nào, cô nào, thì phía ngoài cửa phòng có treo chiếc đèn đỏ để mọi người biết mà tránh đi, hơn nữa còn ngầm bảo mọi người chớ có làm rộn giấc mộng đẹp của ngài. Hoàng đế lâm hạnh ngay tại khoang thuyền, chả có chỗ nào treo đèn, nên chiếc đèn đỏ tai hại kia đành phải giương trên cột buồm, khiến Phú. Sát hoàng hậu nhìn thấy, máu ghen lại nổi lên làm bà té xỉu đi. Khi tỉnh lại rồi, bà Phú Sát bảo một tên thái giám tới ngự chu do thám xem hoàng đế đêm đó có những ai hầu hạ.

Tên thái giám đi một lát, trở về bẩm báo:

- Hầu hạ đêm nay trong ngự chu có ba người: một là Tưởng thị đem theo từ Dương Châu tới, và hai ả trong đám gái thanh lâu.

Bà Phú Sát nghe xong bất giác thở dài nói:

- Hoàng thượng quả không còn thiết tới cả mạng mình nữa rồi! Như vậy ta lại càng không thể không khuyên can ngài được.

Lời nói vừa dứt thì ngoài xa, tiếng gà gáy sang canh cũng rộn rã vang lên. Bà nói:

- Canh năm rồi! Lúc này hoàng thượng hẳn đã dậy.

Bà sửa soạn lại y phục chỉnh tề rồi lẳng lặng bước lên bờ.

Bọn cung nữ dìu bà đi. Bọn thái giám đi trước, cầm chiếc đèn lồng sừng dê nhỏ soi đường. Cả đàn tiến về chiếc ngự chu.

Bọn thị vệ canh đêm trên ngự chu cùng bọn quân sĩ canh gác trên bờ bỗng thấy hoàng hậu ngự giá tới, tên nào tên nấy giật mình hoảng sợ, vội bò rạp xuống dập đầu lạy. Tên thái giám truyền lệnh của hoàng hậu, không được nói lớn, sợ mất giấc ngủ của hoàng thượng. Bọn thái giám gác tại đầu khoang thấy hoàng hậu đột nhiên xuất hiện, nét mặt hết sức nghiêm nghị, hệ trọng thì hoảng hồn bạt vía, rụt cổ lại đứng nép vào một xó, chẳng dám lên tiếng thưa trình. Hoàng hậu chẳng cần ai thông báo, bà cứ bước thẳng vào trong. Bà thấy trên bàn còn bốn, năm chén rượu uống dở, dưới gầm bàn rơi ra một chiếc hài nhỏ thêu đoá lan hồng bằng kim tuyến, rực rỡ, óng ánh. Bà thấy vậy, thốt ra một tiếng thở dài rồi bước thẳng về khoang sau có trướng gấm màn vóc vây quanh: đây chính là tẩm thất của Càn Long hoàng đế.

Hồi 81

CƠM CHẲNG LÀNH CANH CHẲNG NGỌT

Hoàng hậu Phú Sát đi thẳng vào ngự sàng, chẳng báo hiệu để ai đó đánh thức Càn Long hoàng đế. Bỗng bà quỳ xuống đất, rút phắt chiếc trâm cài đầu, để cho mái tóc mây xoã buông rơi tận đất. Bà rút trong bọc ra bản "Tổ huấn" đọc vang lên giữa lúc hoàng đế đang ôm hai gái lầu xanh ngủ miết. Hai ả này không dám nhắm mắt từ khi đi nằm, bỗng thấy một bà có vẻ quý phái bước vào, biết rằng bà này hẳn chẳng phải bọn phi tần tầm thường nên khẽ lay lay hoàng đế.

Càn Long hoàng đế giật mình tỉnh dậy, nghe có người đọc lời "Tổ huấn" đành nhảy ra khỏi đống chăn, vội mặc áo, quỳ ngay trên đống chăn, cung kính nghe. Đợi khi lời Tổ huấn đã đọc xong, ngài bước xuống giường hầm hầm nổi giận, hết hàm ngó thẳng mặt hoàng hậu gắt hỏi:

- Hậu xuất kinh hồi nào?

Hoàng hậu cúi đầu đáp:

- Không tâu rõ cho hoàng thượng hay, thần thiếp thật đáng tội muôn thác, thần thiếp xuất cung cùng lúc với hoàng thượng. Rồi từ đó, thần thiếp ở hầu hạ Thái hậu nên chưa tới thỉnh an hoàng thượng được.

Nghe nói câu này, Càn Long hoàng đế lại càng giận tức thêm. Ngài cười nhạt nói:

- Rõ khéo cho một bà hoàng hậu chẳng biết thể thống là gì! Hậu lẻn theo gót trẫm phải chăng để giám sát hành động của trẫm?

Câu hỏi này đánh trúng ngay tim bà Phú Sát nên bà không trả lời được. Càn Long hoàng đế lại hỏi tiếp:

- Hậu lẻn theo gót trẫm để giám sát hành động của trẫm cũng được đi. Nhưng giữa lúc đêm khuya, hậu xông vào phòng ngủ của trẫm có phải để mưu sát trẫm không?

Câu này quả hết sức nặng nề! Hoàng hậu uất giận đến biến hẳn sắc mặt. Bà ứa đôi hàng lệ nói:

- Hoàng thượng vu vạ thế, bảo tiện thiếp làm, sao chịu nổi. Tiện thiếp đã giữ ngôi trung cung tỷ, đương nhiên thánh giá có bề gì đó là bổn phận của tiện thiếp phải hầu hạ lo toan. Nay nghe nói hoàng thượng có những hành vi quá đáng, tiện thiếp phải liều mình tới khuyên can. Nếu đến ban ngày thiếp e sợ lộ hình tích mất cả thể thống, nên mới nhè lúc đêm khuya mà tới, những mong hoàng thượng suy nghĩ lại. Bọn con gái gió trăng, ai cũng làm chồng được. Hoàng thượng chớ nên gần chúng, nếu có điều gì bất trắc, có phải tiện thiếp tội đáng muôn thác không?

Bị hoàng hậu phá mất giấc mộng đẹp, Càn Long hoàng đế trong lòng đã lấy làm tức giận rồi. Nay lại nghe bà nói như răn dậy, ngài chịu không nổi nữa. Ngài đập mạnh tay vào chiếc chuông nhỏ ở đầu giường, tức thì bốn tên thái giám vội vã bước vào, Ngài chỉ vào hoàng hậu và hất hàm quát bảo:

- Kéo ngay ra cho ta.

Bọn thái giám chẳng dám trễ nải, cung kính bước tới, nâng hoàng hậu đứng dậy. Bà vừa khóc vừa nói:

- Nếu hoàng thượng bất chấp cả danh vị của thần thiếp thì cũng xin nhớ tới tình nghĩa vợ chồng ân ái một thời, sao lại có thể vô tình đến thế được? Hoàng thượng tức giận đến đâu mặc dầu, thần thiếp cũng chỉ xin hoàng thượng xem cho hết bản tấu chương này, lúc đó thần thiếp dù có chết cũng cam lòng, chẳng dám oán hận.

Nói đoạn, bà dâng cao bản tấu chương lên qua đầu. Hoàng đế chẳng còn cách nào khác, đành phải tiếp lấy tờ sớ. Ngài mới xem ước được độ vài dòng, thấy ý kiến trong sớ nào so ngài với Tuỳ Dạng Đế, nào sánh ngài như Chính Đức Đế, bất giác nổi khùng ném toẹt xuống đất, chạy tới, giơ thẳng cánh tát vào má trái, tiếp theo một tát nữa vào má phải, mạnh đến nỗi đôi má của hoàng hậu đỏ rực lên như gấc chín, miệng trào máu ra có giọt. Bọn thái giám vội chạy tới che đỡ cho bà.

Càn Long hoàng đế lúc đó giận hầm hầm, vội lấy chiếc mũ trùm đầu chụp vào, chạy ra khỏi khoang nói:

- Đi gặp Thái hậu!

Phú Sát hậu dùng hai gối lết tới mấy bước, chặn ngang lối ra, ôm cứng lấy chân hoàng đế, liều chết không buông.

Bà nghẹn ngào nói:

- Hôm nay hoàng thượng dù có giết ngay thần thiếp cũng xin xem hết bản tấu chương của thần thiếp đã, rồi hãy đi cũng chưa muộn.

Càn Long hoàng đế bị hoàng hậu ôm chặt lấy chân, chẳng còn cách gì thoát được, nên máu giận càng bừng bừng, ngài co căng lên, lấy hết sức đạp bà. Thương thay cho hoàng hậu bị cái đạp mạnh, đau quá ngất luôn.

Càn Long hoàng đế chẳng thèm quay đầu nhìn lại, xông thẳng ra mũi thuyền, nhảy lên bờ, có thị vệ kèm bên, chạy thẳng tới thuyền của Thái hậu. Lúc này trời đã sáng, thái hậu đang trang điểm. Bọn thị nữ vào tâu:

- Có đức vạn tuế giá tới!

Thái hậu bất giác giật mình. Bà vội nhìn ra thì thấy hoàng đế ăn vận hết sức lôi thôi, mặt hầm hầm, bước vội vào khoang. Ngài chỉ kịp vấn an Thái hậu, xong là kể ngay ra tội của hoàng hậu; nào kiếm chuyện gây gổ, nào làm mất thể thống triều đình. Ngài còn thêm:

- Đã xông vào lúc đêm khuya là có lòng bất trắc, xin thái hậu hạ chiếu "tứ tử" (cho lệnh để tự vận mà chết).

Hoàng thái hậu nghe lấy làm lạ bèn nói:

- Ta vừa nghe tâu hoàng hậu vẫn đang ở khoang sau vậy còn có hậu nào tới ngự chu nữa?

Nói đoạn, bà cho gọi ngay bọn thái giám và cung nữ hầu hạ hoàng hậu tới, truyền lệnh lôi viên thái giám tổng, quản ra ngoài dùng côn đập chết, một mặt sai thái giám cầm cờ tiết của thái hậu sang ngự chu triệu hoàng hậu về.

Một lát sau, hoàng hậu về tới. Hoàng thái hậu nhìn cô con dâu đầu bù tóc rối, máu lệ đầy mặt, thở dài nói:

- Đến thế này thì thể thống hoàng hậu còn gì nữa chứ?

Hoàng hậu Phú Sát chỉ khóc mùi, chẳng nói được câu nào.

Càn Long hoàng đế ngồi bên cứ một mực giục thái hậu hạ chiếu "tứ tử" hoàng hậu. Thấy hoàng đế không còn lấy một chút tình nghĩa lửa hương nào nữa, trong lòng hoàng hậu bất giác nguội lạnh như tro tàn. Bà thừa lúc mọi người chung quanh sơ hở, bèn chạy ra mũi thuyền, nhảy đại xuống dòng sông.

Đáng thương thay một đời mẫu hậu trong chốc lát đã theo ngọn sóng trôi xuôi mất tung biệt tích. Đứng trước hành động ấy của người vợ đau khổ như thế mà Càn Long hoàng đế vẫn thản nhiên, coi như một kẻ xa lạ không liên hệ gì với mình. Thật đáng buôn cho nhân tình thế thái!

Đến lúc này thì Thái hậu chợt cảm thấy nỗi lòng hoàng hậu thật đáng thương. Bà vội truyền lệnh tìm kiếm, dù hoàng hậu còn sống hay đã chết. Hai bên bờ, bọn binh sĩ cùng dân chúng, ai nấy hối hả kẻ lao xuống nước, người nhẩy lên thuyền, thượng lưu cũng như hạ lưu khúc sông đầy nghẹt những người là người, mãi khi tới mé dưới cầu Ngọc Long mới thấy. Hoàng hậu lúc này đã uống, no nước, mê man không còn biết gì nữa.

Bọn thái giám ba chân bốn cẳng khiêng hoàng hậu chạy bộ lên thuyền, đặt nằm tại khoang sau. Bà mửa ọe ra không biết bao nhiêu nước, lúc đó mới tỉnh lại. Bà nằm liệt giường luôn ba ngày chẳng dậy được, lòng hết sức đau đớn, chẳng khác gì muôn mũi tên đâm xỉa vào. Qua ngày thứ tư, lòng bà bỗng thấy thư thái lạ thường.

Chủ ý đã định, bà thừa lúc bọn cung nữ không có ở bên cạnh, bèn rút cây dao bằng vàng trong tay áo ra rồi xoẹt một tiếng, đã cắt gọn mớ tóc mây sát tận đến chân. Bà bước lên khoang trước cầu khẩn Thái hậu gia ân cho bà vào chùa quy y cửa Phật.

Hoàng Thái hậu thấy sự việc đã đến nước này, không còn cách gì cứu vãn được nữa, bèn nâng Hoàng hậu dậy rồi nói:

- Khi qua Sơn Đông, ta thấy cạnh hồ Đại Minh có một toà Thanh Tâm am, sơn thuỷ hữu tình, có thể tịnh tâm tu hành được. Nay ta cho người đưa ngươi tới đó ở tạm. Đợi khi nào hoàng thượng hồi loan, ta sẽ đưa người về kinh, người bằng lòng như vậy chứ?

Phú Sát hậu nghe nói, quỳ xuống tạ ơn. Lúc đó Thái hậu mới cho gọi bốn tên tiểu thái giám tới, dặn chúng mướn một chiếc thuyền lớn đưa hết quần áo đồ đạc của hoàng hậu xuống, mời hoàng hậu qua thuyền rồi đưa bà thẳng tới Thanh Tâm am ở phủ Tế Nam.

Bọn văn võ quan viên tỉnh thành Sơn Đông thấy hoàng hậu giá tới, nhất tề chạy đến đón rước. Từng đoàn quyến thuộc của bọn quan viên cung nườm nượp đến hầu hạ, dâng lễ cho bà.

Từ sau hôm vào am, Phú Sát hậu chỉ bầu bạn với một bà ni già. Nhất thiết quan viên phủ huyện lui tới thăm viếng, bà đều tạ tuyệt. Mãi về sau bà được tin hoàng Thái hậu và hoàng đế đã về kinh cả, lại biết tin hoàng thượng hạ chỉ truất phế danh hiệu Hiếu Hiển hoàng hậu của bà. Được tin này, bà khóc ròng ba ngày ba đêm, một hột cơm cũng không ăn. May nhờ được bà ni cô già khuyên can an ủi mãi bà mới bỏ ý định tuyệt thực.

Người đời thường bảo "hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai". Điều này sai ở đâu chứ nhất định đúng đối với hoàng hậu Phú Sát. Từ khi bị Càn Long hoàng đế truất phế thì sự cung dưỡng của bọn quan lại địa phương cũng đoạn tuyệt từ đó bọn quan gia quyến thuộc chẳng thèm lui tới hỏi han, ngay cả ni cô già cũng lạnh nhạt với bà nữa. Bốn tên tiểu thái giám hầu hạ bà lâu nay nghe tin đó cũng bỏ bà mà đi luôn mất ba, chỉ còn lại có một. Tiếp đến đêm hôm rầm tháng tám, bỗng có hơn mười tên cướp băng cửa am nhảy vào, chẳng thèm lấy cái gì khác mà chỉ vét riêng có hòm đựng quần áo và đồ nữ trang của bà. Bà vừa sợ hãi vừa đau khố, đích thân lên cửa quan báo cướp và đòi quan phủ lùng bắt bọn cường đồ. Nhưng viên quan thấy bà đã thất sủng chỉ ầm ừ vâng dạ cho qua. Bọn cường đạo đã biến mất, bà kiểm lại tư trang của bà thì thấy hết sạch chẳng còn sót lại chút gì! Đáng buồn thay cho một bà hoàng cành vàng lá ngọc gặp phải vận xui mà đến nỗi phải nấu cơm làm bếp lấy, duy chỉ còn có một tên tiểu thái giám hầu hạ sớm hôm mà thôi. Sống giữa nơi sơn cùng thuỷ tận, Phú Sát hậu đã có đôi lần muốn thoát nợ trần cho xong nhưng đều nhờ được tên tiểu thái giám cứu sống cả. Từ đó, bà cùng tên tiểu thái giám, hai người cam nghèo chịu khổ, tựa nhau mà sống cho qua ngày đoạn tháng.

Tình cảnh của hoàng hậu thì bi thương như vậy mà Càn Long hoàng đế hình như bịt mắt che tai chẳng ngó ngàng gì tới. Chính giữa lúc bà đang cùng quẫn nhất thì hoàng đế đang say sưa chuốc chén bên gái đẹp. Trong nhóm đại thần tuỳ tùng trong cuộc Nam tuần, có một vị tên gọi Lương Thi Chính, thấy hoàng đế hoang dâm vô độ cũng dâng một tờ sớ khuyên ngài nên gìn giữ mình vàng.

Nhưng Càn Long hoàng đế lúc đó đang lạc vào mê hồn trận thì nào có chịu nghe. Chẳng những thế, ngài còn ra lệnh gọi Chính tới ngự chu cho một bài học nên thân với những câu nói thậm tệ:

- Ngươi được làm Đại học sĩ chỉ là do ý trẫm thấy ngươi làm thơ hay. Nuôi ngươi cũng như nuôi gái lầu xanh, bất quá chi để mua vui mà thôi. Ấy thế mà ngươi lại dám cả gan can thiệp tới công việc của trẫm nữa à?

Bài học nhục nhã này làm cho bá quan văn võ tái xanh mặt mày, từ đó anh nào cũng khoá mồm buộc lưỡi lại, chẳng dám khuyên can nữa.

Càn Long thấy mình ở trong ngự chu có bọn nội giám, thị vệ đông đảo hầu hạ, tai mắt ắt nhiều, không thể nào chơi bời phóng túng được. Bởi vậy, ngài bàn tính với mấy tên thái giám thân tín, đợi tới đêm khuya, vi hành tới hẳn các tổ quỉ cho tự do thoải mái hơn. Nhờ những đêm vi hành này, ngài được biết, qua cửa miệng của bọn chơi, là tại đất Tô Châu, gái làng chơi xinh đẹp nhất phải kể Ngân Hồng. Ngân Hồng còn có một cô em gái tên gọi Tiểu Hồng. Nếu đem sánh với chị, Tiểu Hồng e còn có phần đẹp hơn. Song Tiểu Hồng tính tình lạnh nhạt, ít chịu tiếp khách, bởi vậy nàng vẫn còn là một xử nữ. Dò được tin này, hoàng đế tỏ ra thích lắm. Ngài bèn buộc tên thái giám phải đưa tới nhà Ngân Hồng.

Không ngờ Càn Long hoàng đế đi chuyến này luôn một lèo bảy ngày chẳng thấy về thuyền, hoàng Thái hậu cung quan viên văn võ Tô Châu hoảng sợ bấn loạn cả lên. Phú đài Giang Tô vội phát lạc toàn ban tuần bộ hợp lực cùng bọn khoái huyện Nguyên Hoà bủa đi khắp nơi trong thành ngoài chợ, hang cùng ngõ hèm, phố lớn đường con, tra xét tìm kiếm rầm rộ om sòm…

Mãi đến ngày thứ tám người ta mới biết được tin hoàng đế. Thì ra ngài bị người ta bắt trói trong chuồng ngựa. Nhờ được một tên giữ ngựa chạy tới nha môn phủ đài báo tin, bọn văn võ quan viên mới được biết, bèn hối hả tới đón hoàng đế đưa về thuyền. Thái hậu lúc đó mới yên tâm. Tại sao hoàng đế lại bị nhốt trong chuồng ngựa. Câu chuyện khá ly kỳ xin xem hồi sau sẽ rõ.

Hồi 82

AI ĐÃ TRÓI CÀN LONG TRONG CHUỒNG NGỰA

Ở đất Tô Châu có một kẻ tên gọi Ác Thiếu hoành hành bất pháp. Suốt ngày Thiếu gây tiếng thị phi khắp chốn.

Thiếu lại còn cái bệnh hiếu sắc. Cô gái nào có chút nhan sắc là thế nào cũng bị Thiếu cưỡng chiếm. Khắp làng chơi đố kẻ nào dám ra tay can thiệp. Sở dĩ dám hoành hành bất pháp như vậy là vì Thiếu ỷ thế cậy cha làm Đại đồng tổng binh, cậy trong nhà có tiền, lại còn ỷ vào bọn em út, toàn là những tên to cao lực lưỡng, tới đâu là đòi đâm chém ở đó, khiến ai thấy cũng phải sợ hãi. Do đó người trong vùng mới cho Thiếu cái biệt hiệu là Tiểu Bá Vương.

Người mà Tiểu Bá Vương yêu quý nhất là Ngân Hồng. Nói đến Ngân Hồng, thì toàn thể xóm yên hoa đều phải xin nhường giải nhất. Lần này, Ngân Hồng được hoàng đế triệu hạnh. Nhưng nàng cậy thế lực của Tiểu Bá Vương, nhất định không chịu tiếp giá. Thực ra tâm tình của Ngân Hồng đã dành riêng cho một người tri kỷ khác chứ chẳng phải Tiểu Bá Vương. Người đó là Từ Đại Hoa, con trai của quan Hàn lâm họ Từ. Hoa vốn người niên thiếu phong lưu, mỹ mạo. Chỉ vì Tiểu Bá Vương chiếm cứ mất nhà của Ngân Hồng nên Hoa không thể công nhiên ra vào. Tuy vậy Hồng, Hoa hai người cũng đã qua mắt được Tiểu Bá Vương đôi ba lần để tư ước cùng nhau.

Từ Đại Hoa đem Ngân Hồng chạy trốn, nhưng chẳng có chỗ ẩn nấp đành phải tìm tới nhà Tiểu Hồng. Trong nhà Tiểu Hồng đang có khách xộp dám bỏ ra một lúc hàng muôn lạng để được gần nàng. Ông khách xộp thấy Từ Đại Hoa với Ngân Hồng tình nghĩa mặn nồng, hiện lâm vào cảnh không chốn yên thân, liền đứng ra can thiệp. Ông bảo Từ Đại Hoa:

- Các người cứ việc ở đây, có gì mà phải sợ. Ngày mai, ta sẽ giúp người san phẳng nỗi bất bình và cho tên Tiểu Bá Vương kia một bài học cho xem.

Tiểu Hồng thấy ông khách chịu giúp chị mình thoát nguy, tỏ ý hết sức kính trọng. Đêm đó nàng hầu rượu, chuốc chén cho ông khách, lại tặng ông cái đêm đầu của cuộc đời người con gái nơi phòng the.

Ông khách xộp ở luôn ba hôm tại nhà Tiểu Hồng. Bên ngoài, tình hình càng ngày càng khẩn trương. Tên Tiểu Bá Vương đem theo bọn vô lại đi lùng khắp đường to ngõ cụt khiến Từ Đại Hoa trốn biệt trong nhà, chẳng dám thò cổ ra ngoài.

Nàng Tiểu Hồng bên gối nhỏ to, thôi thúc ông khách nọ.

Qua ngày thứ tư ông khách được tin Tiểu Bá Vương hằng ngày lui tới uống trà tại Phiến Thạnh Sơn phòng, bèn kéo Từ Đại Hoa thẳng tới quán này. Từ Đại Hoa hoảng hồn bạt vía toàn thân run lên bần bật, đến nỗi ông khách phải vỗ vào ngực y mà khích lệ.

Trong quán Phiến Thạch Sơn có một chỗ ngồi đặc biệt, đó là cái giao ỷ bọc gấm. Trước chiếc ghế giao ỷ đặt một cái bàn, trên mặt bàn là một ấm và một chén trà bằng xứ Giang Tây màu trắng đục quý giá. Đây vốn là chỗ ngồi dành riêng cho Tiểu Bá Vương, ấm trà chén trà này cũng chỉ dành riêng cho mình hắn.

Một lát sau, Tiểu Bá Vương mò tới. Từ Đại Hoa nhìn thấy sợ quá, mặt mày xám ngắt lại, hai hàm răng đập vào nhau lập cập. Theo sau Tiểu Bá Vương còn có năm bảy tên đại hán mắt ngang mày xếch, trong tay cầm mấy viên đạn sắt, hè nhau xông tới trước mặt Từ Đại Hoa, hằn học nói:

- Hôm nay mi cũng dám đem thân đến chỗ chết à? Lường gạt phụ nữ, hỏi mi tội gì? Hãy mau nộp xác để khỏi phiền lão gia phải động thủ.

Nói đoạn Tiểu Bá Vương liền kéo ống tay áo của ông khách nọ, ý bảo nhường chiếc ghế giao ỷ lại cho y. Nhưng ông khách xếch ngược đôi mày, nhảy xổm xuống mặt đất, nắm lấy hai chân y xách ngược lên rồi quăng tay một cái. Tức thì người ta chi nghe một tiếng bịch nặng nề giữa đường phế bên ngoài: thì ra ông khách nọ đã cầm hai chân Tiểu Bá Vương quăng qua cửa sổ, rơi bịch xuống đường. Rồi ông cũng nhẩy theo ra.

Bọn em út của Tiểu Bá Vương vội vàng chạy lại cứu. Ông khách nọ liền nhào xuống dùng ngay người Tiểu Bá Vương làm khi giới vung tít tứ phía, hết đập sang đông lại đánh sang tây. Tiểu Bá Vương lấy hai tay ôm đầu kêu gào om sòm, nhưng ông khách nọ mặc kệ, cứ thẳng tay quật lên đánh xuống túi bụi khiến bọn du côn bị một trận tơi bời hoa lá.

Thấy cái sọ của Tiểu Bá Vương đã dập nát, máu ròng ròng, ông khách nọ cười nhạt một tiếng, chửi thề một câu:

- Cút mẹ mày đi nào!

Ông lẳng mạnh tay cho xác hắn lăn lóc dưới đất.

Bọn đại hán thấy thần lực của ông khách nọ, sợ quá vội ôm đầu chuồn lẹ như một lũ chuột. Lão chưởng quản Phiến Thạch Sơn thấy gây án mạng, nhất định không cho ông khách ra đi. Ông đâu có thèm chạy, lại còn bắt gọi chủ quán đích thân quạt nước pha trà để ông cùng Từ Đại Hoa rung đùi thưởng thức.

Chỉ một lát sau người của cha Tiểu Bá Vương tức viên Tổng binh quan, đích thân tới đại bản doanh lấy một ngàn quân rầm rập chạy đến quán trà, bổ vây tứ phía, đến con kiến cũng khó lọt. Ông gân cổ gầm lên:

- Mấy thằng đáng tù đáng chết kia mau xuống đây thọ mạng.

Tiếng gầm của ông rung chuyển cả ngôi quán, khiến Từ Đại Hoa bạt vía hoảng hồn, vội chui ngay xuống gầm bàn, toàn thân run lên bần bật. Ông khách nọ thấy vậy bèn kéo Từ Đại Hoa ra khỏi gầm bàn rồi dắt y cùng bước xuống thang lầu.

Tới giữa chừng, ông hướng về phía bọn quan binh nói lớn:

- Chư vị bất tất phải tức giận. Người đời thường nói "Giết người phải thế mạng". Nay ta đã đánh chết Tiểu Bá Vương bởi vậy việc thế mạng không phải của quan phủ sở tại. Bọn người hãy trói hai người bọn ta lại, đưa nộp cho quan phủ ngay đi.

Viên tổng binh nghe đoạn liền sai người trói ông khách nọ và Từ Đại Hoa lại rồi đưa về nhà mình. Ông khách nọ cũng chẳng chống cự, để mặc cho bọn lính dùng dây thừng vòng bên trái một vòng, vòng bên phải một vòng và cứ thế vòng mãi cho, đến lúc thật chặt, Từ Đại Hoa cũng bị trói gọn lại như ông khách nọ. Trói xong bọn lính dẫn bộ về nhà viên quan tổng binh, chẳng khác gì dẫn dắt mấy con heo, con dê.

Viên quan tổng binh sai đem treo cả hai người lên chuồng ngựa ở vườn sau; đợi đến khi tẩm liệm con trai xong mới đem hai tên tù sát nhân ra để mổ ruột moi gan tế sống.

Ông khách nọ và Từ Đại Hoa bị trói tại chuồng ngựa. Có hai thằng nhỏ giữ ngựa canh gác. Từ Đại Hoa thì cho rằng mạng mình tới đây là đứt rồi, bất giác lệ tuôn ra ròng ròng như suối. Trái lại, ông khách nọ thì lại nói cười tự nhiên, thường gợi chuyện, với hai tên giữ ngựa. Chờ đến lúc một tên chạy ra góc tường đi đái, ông khách nọ liền khẽ gọi tên kia lại gần mìn, nói nhỏ mấy câu. Tên kia nghe, cứ ngây mặt nhìn ông.

Ông khách lại nói tiếp:

- Mi đừng sợ! Nếu mi đưa tin giùm ta, ta sẽ thương cho mi tất cả sản nghiệp cùng vợ con của lão tổng binh.

Thằng nhỏ giữ ngựa nói:

- Cái gì tôi cũng chẳng thích. Tôi chỉ thích có cô ba tiểu thư của ông ta thôi. Cô này đẹp lắm, lại ngoan nữa!

Ông khách nọ gật đầu:

- Ư ừ! Ta sẽ cho mi cưới ngay cô ba tiểu thư ấy.

Tên giữ ngựa nghe xong khoái quá bèn nói:

- Được, tôi tin ông là hoàng đế rồi. Nhưng tôi đi báo tin mà chẳng có giấy tờ gì cả, thì ai tin tôi chứ?

Ông khách nọ bèn gọi thằng nhỏ giữ ngựa lại gần, thò tay vào trong người ông lấy ra một quả ấn nhỏ và bảo nó đem ngay quả ấn tới nha môn quan thì thế nào cũng được tiếp đãi long trọng. Thằng nhỏ giữ ngựa nắm được quả ấn ấy chạy như bay đi.

Giữa lúc đó, ông quan tổng binh đang thu liệm thi thể đứa con. Ông dặn bảo mấy tên đao phủ hễ khi nào thấy thi thể Tiểu Bá Vương được đặt vào quan tài thì lập tức xuống chuồng ngựa kéo hai tên sát nhân lên mổ bụng moi gan tế sống.

Viên tổng binh này vốn ỷ thế cậy công với triều đình, chẳng coi quan lại địa phương ra gì nên thường dùng án tử hình ngay trong nhà mình; tiền trảm hậu tấu. Bọn quan địa phương có biết cũng chẳng dám làm gì. Ông ta đã từng đánh chết một con đầy tớ, một đứa tiểu đồng, lại bức tử một người vợ bé rồi ngang nhiên đem chôn. Những việc động trời như vậy mà chẳng ai dám tố cáo thì thử hỏi lần này ông giết hai tên sát nhân có cả phố làm chứng thì danh chính ngôn thuận biết mấy.

Giữa lúc trong nhà viên tổng binh rối rắm tang ma bỗng có những thanh âm vang rộn ngoài đường. Tên gác cổng vội chạy vào phi báo:

- Toàn thành văn võ quan viên, trên từ tuần phủ, dưới tới huyện lệnh, tất cả đang ùn ùn kéo tới.

Viên tổng binh tưởng các quan viên tới nhà để phúng điếu con mình, vội mặc áo đội mũ, chạy ra tiếp đón. Ông bước tới trước mặc tuần phủ đang định cúi đầu chào thì bỗng nghe tiếng quát "Bắt lấy nó" vang đến điếc cả tai. Tức thì có bốn tên quan trung quân sông tới nắm ngay lấy viên tổng binh.

Ông ta vội lên tiếng hỏi:

- Bản chức phạm tội gì?

Viên quan tuần phủ chẳng thèm trả lời, kéo ông ta chạy ra phía chuồng ngựa ở vườn sau. Bọn quan viên văn võ vừa thấy ông khách nọ liền quỳ cả xuống. Từ Đại Hoa bị trói ở bên cạnh lấy làm lạ, trố mắt nhìn. Viên quan tuần phủ đích thân chạy lại cởi trói cho ông khách và gọi người cởi trói cả cho Từ Đại Hoa. Sau đó, lại thấy viên quan Tuần phủ bò mọp xuống đất, bên cạnh đống cứt ngựa, dập đầu lia lịa nói:

- Thần đáng tội muôn thác.

Đến lúc này viên tống binh mới biết rõ ông khách nọ chính là đương kim hoàng đế. Ông ta kinh hồn táng đởm vội quỳ xuống đất, dập đầu lia lịa, miệng lắp bắp nói:

- Tội thần đáng chết! chỉ xin hoàng thượng cho được toàn thây.

Càn Long hoàng đế cũng chẳng thèm để ý tới ông ta, bước thẳng ra cổng. Bên ngoài Long dư (xe vua đi) đã sửa soạn từ lâu Hoàng đế lên xe trở về ngự chu.

Đã bảy, tám hôm liền Thái hậu không thấy hoàng đế, nay ngài đã trở về, bà cầm lấy tay ngài mãi chẳng muốn buông ra, lại đôi ba lần khuyên bảo:

- Hoàng thượng ngôi cao vạn thặng, tưởng chẳng nên vi hành xuất ngoại. Lỡ có chuyện gì bất trắc, ắt thần dân trong thiên hạ phải mang tội với viên hoàng.

Nhiều vị quan cũng dâng sớ khuyên can. Hoàng đế bị một phen hú vía, từ đó có ý kiêng dè phần nào. Phải cái ngài thắc, thỏm nhớ nhung, không thể quên được Tiểu Hồng. Bởi vậy ngài ngầm sai nội giám đem kiệu hoa lén đưa nàng về ngự chu, sớm hôm sủng hạnh. Từ Đại Hoa cùng Ngân Hồng tuy bị một phen thất điên bát đảo, nhưng lại được hoàng đế phong cho chức Hình bộ thị lang và cho phép đem Ngân Hồng lên kinh nhậm chức.

Càn Long hoàng đế còn hạ luôn một lúc ba đạo thánh chỉ. Đạo thứ nhất đem chính pháp viên tổng binh và vằm thây tên Tiểu Bá Vương. Đạo thứ nhì cách chức một loạt toàn thành văn võ quan viên. Đạo thứ ba tịch biên toàn bộ gia sản và vợ con viên quan tổng binh đem sung công, một phân nửa gia tài cấp phát cho thằng nhỏ giữ ngựa có công báo tin, lại còn thưởng cho y chức Đô Ty và cho lấy cô ba tiểu thư con viên tổng binh làm vợ.

Đến hồi này Càn Long hoàng đế chơi bời xem ra cũng mệt mỏi chán ngán lắm rồi, ngài qua Hàng Châu giải trí đôi chút, rồi hạ chỉ hồi loan, ngự giá về miền Đồn Châu thuộc tỉnh Sơn Đông.

Hồi 83

VỤ ÁN LOẠN LUÂN

Khi ngự chủ về tới Đồn Châu, Càn Long bảo dừng thuyền. Bọn quan địa phương lũ lượt kéo đến thỉnh an. Sau khi bọn họ ra đi, hoàng đế truyền cho đám phụ lão trong làng lên thuyền. Ngài đích thân hỏi thăm nào phong tục tập quán, nào lúa gạo mùa màng.

Giữa lúc đang hỏi han, ngài bỗng thấy một nhà sư già dắt một đứa bé trai độ năm sáu tuổi lên thuyền, quỳ xứng và dập đầu mãi không thôi. Người trên thuyền thấy vậy, ai cũng lấy làm lạ. Càn Long hoàng đế cho viên thái giám tổng quản bước tới hỏi. Nhà sư già bèn nói:

- Bần tăng tên gọi Viên Châu. Năm đó Tứ hoàng tử Đa La Lý Đoạn quận vương Vĩnh Thành vốn chơi thân với bần tăng. Khi quận vương còn tại thế, bần tăng thường được triệt vào trong phủ đàm kinh thuyết đạo. Nay quận vương đã chết, bần tăng bèn xuất kinh trụ trì tại chùa Minh Thánh thuộc Đồn Châu. Em bé này chính là con đẻ của quận vương và tức cũng là cháu đích tôn của đương kim hoàng đế. Chỉ vì cảnh gia biến nên phải lưu lạc bên ngoài và bần tăng đã thu dưỡng lâu nay. Vừa lúc nghe nói thánh giá tuần du qua đây, bần tăng trộm nghĩ em bé này là quý tử long tôn, không nên bỏ rơi bên ngoài. Bởi vậy bần tăng đem em bé này giao lại để hoàng thượng đưa em về kinh, khỏi phụ niềm giao tình với quận vương năm trước!

Câu chuyện này tới một cách ly kỳ đột ngột, viên thái giám tổng quản nghe nói cậu bé nọ là hoàng tôn, nên chẳng dám chậm trễ vội chạy vào tâu rõ với hoàng thượng. Càn Long hoàng đế nghe xong cũng lấy làm kỳ lạ hết sức. Ngài liền truyền cho cậu bé nọ bước vào trong khoang. Ngài để ý cậu bé thấy mặt to, tai lớn, cử chỉ ung dung, ăn nói đàng hoàng nên nhất thời cũng chẳng phân biệt được thực hay giả. Ngài bèn truyền chỉ đưa cậu bé và cả nhà sư nọ về kinh để xét hỏi.

Khi về tới kinh. Ngài bèn giao việc này cho Hoà Khôn.

Khôn trở về phủ, trước hết đem cậu bé ra hỏi. Cậu bé, với một giọng rõ ràng rành mạch, nói:

- Từ lúc nhỏ tôi được nuôi nấng trong chùa của Hoà thượng Viên Châu, nhận người là cha đẻ. Đến khi lên năm, hoà thượng Viên Châu lúc đó mới nói cho biết rằng tôi vốn là con của quận vương Đa La Lý Đoan. Chỉ vì là con của Trắc phúc tấn (vợ bé của quận vương đời Thanh) nên Đại phúc tấn (bà vợ cả) lúc nào cũng tìm cách giết tôi. Do đó hoà thượng Viên Châu mới đem tôi về nuôi dưỡng tại chùa. Nghe hoà thượng nói như vậy, tôi biết rằng mình chính là hoàng tôn (cháu nội Đương kim hoàng đế) cho nên thường nói với người cho tôi lên kinh để được gặp Hoàng tổ phụ. Nhưng hoà thượng Viên Châu gạt đi và bảo: chôn chín bệ sâu thẳm làm sao mà tới được, cần phải đợi hoàng thượng Nam tuần lần sau, đến Đồn Châu, lúc đó người mới đưa tôi đi được. Nay Hoàng tổ phụ dẫn tôi tới kinh rồi, vậy xin nhờ quý đại thần giúp tôi tâu rõ lên hoàng thượng giùm để cho tôi về nhà.

Hoà Khôn nghe nói một thôi lại nhìn thần sắc của cậu bé, nhất thời không đoán ra thực hay giả. Khôn đành giữ cậu bé lại trong phủ. Đến lượt hoà thượng Viên Châu, Khôn cho gọi vào để hỏi. Nhà sư liền nói:

- Lúc còn sinh thời, quận vương coi bần tăng như một người tri kỷ. Ngài thường truyền cho bần tăng vào phủ đàm đạo tham thiền, đánh cờ, uống rượu. Ngài lại đem những chuyện trong nhà ra nói với bần tăng. Nguyên lai quận vương có hai bà phúc tấn: một là Chính phúc tấn, hai là bà Trắc phúc tấn. Bà Chính vốn con gái Phong bối lặc, mặt mày tuy xinh đẹp nhưng tính tình hết sức tàn ác. Bà Trắc tên gọi Bích Ngọc, con nhà thường dân, hay bị bà Chính ngược đãi. Quận vương thấy thế nhiều lúc khuyên can, nhưng chẳng những chẳng được gì mà còn bị bà Chính nhục mạ ngay vào mặt. Do đó quận vương hết sức bực tức và chỉ biết thở than với bần tăng. Bần tăng chỉ biết khuyên quận vương nên nhẫn nhịn là hơn, trước những việc nơi khuê phòng. Vài năm sau Trắc phúc tấn sinh hạ công tử. Chính phúc tấn biết chuyện, lại càng căm thù ghét. Bà nhè lúc quận vương có việc phải đi xa bèn bảo một con a hoàn lẻn bế cậu bé ra khỏi phủ, ý muốn ném ra ngoài đồng hoang bỏ cho chết đói. May thay lúc đó bần tăng vừa tới cổng phủ thấy thế bèn cầu xin con a hoàn cho đem cậu bé về chùa cạo đầu đi tu làm một chú tiểu. Con a hoàn quay vào nói với bà Chính thì bà ta cũng ưng chịu nên một mặt bảo bần tăng lén bế đem đi rồi báo với Tôn nhân phủ (chuyên coi việc của gia tộc nhà vua) rằng cậu bé đã chết vì lên đậu. Rồi đến Trắc phúc tấn cũng bị bà Chính đuổi đi mất. Đến khi trở về, quận vương chẳng thấy hai mẹ con bà Trắc đâu, liền nổi uất, hộc máu ra chết tươi. Bần tăng nghĩ rằng hậu thân của quận vương chỉ còn cậu bé này, nó lại còn là cháu đích tôn của hoàng thượng, cho nên mới trả về để cho cốt nhục được đoàn viên. Bần tăng vốn giao hảo với quận vương, tuyệt nhiên không cô một ý nghĩ tham lam nào khác, mà chỉ xin đại nhân sớm soi xét minh bạch để bần tăng lại được trở về chùa.

Hoà Khôn được khẩu cung của hai người vội chạy vào cung tâu lại. Càn Long hoàng đế thấy nhà sư thuật lại bản án cũ, trong lòng có đôi phần bối rối, vội chạy vào trong thâm cung bàn tính với Xuân A Phi.

Nguyên Xuân A Phi chính là đại phúc tấn của Đại La Lý Đoan quận vương nay đã được hoàng đế đem về và phong cho làm phi tử để trong thâm cung, hết sức sủng ái. Vào lúc đầu Tôn nhân phủ tấu báo Vĩnh thành quận vương sinh hạ một cậu công tử thì Càn Long hoàng đế mừng lắm. Sau được tin công tử bị lên đậu mà mất thì ngài cũng rất lấy làm buồn, Ngài nghĩ tới cảnh hoàng tự (con nối dài của vua) đơn chiếc, nên cho gọi quận vương vào cung hỏi hoàng tôn bị lên đậu mất như thế nào. Vĩnh Thành quận vương hồi tấu là khi hoàng tôn chết thì vương có việc phải đi xa, sự thực như thế nào vương không được thấy rõ, nên không dám tâu bừa và chỉ có nàng Xuân A mới biết chuyện cặn kẽ. Đến khi Đại phúc tấn của quận vương Vĩnh Thành được truyền vào cung, Càn Long hoàng đế thoạt nhìn thấy đã ngây người ra. Đại phúc tấn mặt hoa da phấn, cử chỉ phong lưu, quả là một trang giai nhân tuyệt thế. Khi nói chuyện, miệng lưỡi nàng vô cùng lanh lẹn, môi cười mắt liếc, càng làm cho vị phong lưu thiên tử thần hồn điên đảo, lạc vào mê hồn trận. Càn Long hoàng đế thấy tiếng nói giọng cười của nàng y hệt như của người đẹp Hương phi thuở nọ, thế là ngài quên luôn cả danh phận nàng dâu bố chồng, tự nhiên đâm ra yêu thương nàng một cách tha thiết.

Đại phúc tấn Xuân A vốn là một người đàn bà thông minh xảo quyệt, thấy hoàng đế có thái độ như vậy liền tung ngay thủ đoạn mê hồn ra. Nàng đưa một đường xảo ngữ hoa ngôn, nhoẻn cười liếc mắt, chỉ trong chốc lát đã nắm gọn hoàng đế trong tay mình.

Càn Long hoàng đế nghe Xuân A nói đoạn bèn bảo với Quận vương:

- Cô nàng dâu này của trẫm nói chuyện quả hay thật. Nàng giống hệt như Anh Kha ở trong cung khiến mọi người quên cả mệt mỏi khi trò chuyện. Ngươi hãy cho nàng vào cung, thái hậu đang thiếu một người bầu bạn chuyện trò cho bà được vui vẻ, tiêu khiển, được thế trẫm cũng tỏ ra là người con hiếu thảo, và ngươi cũng là một đứa cháu ngoan.

Vĩnh Thành quận vương tuy biết rõ hoàng đế không có ý tốt, nhưng chẳng còn nói cách nào, đành để Đại phúc tấn của mình ở lại trong cung, lùi lũi trở về nhà. Thế rồi vương nghĩ tới cảnh con chết vợ xa, trong lòng buồn bã chẳng vui. Chẳng mấy hôm, Vương sinh chứng thổ huyết, hộc máu ra rồi chết.

Sau khi Vĩnh Thành quận vương chết, nàng Xuân A được thăng lên làm phi tử. Hoàng đế ngày ngày tìm vui hưởng lạc bên cô nàng dâu vừa mới chết chồng, tha hồ mà đi mây về mưa.

Giữa lúc hai người đang âu duyên mới thì hoàng tôn xuất hiện. Càn Long hoàng đế trong lòng ít ra còn nghĩ đến thâm tình cất nhục, nên mới chạy tới bàn tính với Xuân A Phi.

Xuân A Phi một lời quyết định:

- Bệ hạ dẹp nó đi! Việc xảy ra đã lâu, sự thể thật giả như thế nào làm sao mà biết được. Ví thử có thật đi chăng nữa, thì rồi đây, một ngày nào đó, quận vương kế tự lớn lên, biết thiếp còn ở trong cung, ắt đem lòng thù hận, vì mẹ báo thù. Lúc đó bên ngoài đồn đại, hoàng thượng thế nào chả có điều phiền nhiễu. Nếu bệ hạ quyết nhận hoàng tôn, thì xin bệ hạ cho thiếp một chết, chẳng còn mặt mũi nào hầu hạ ngài nữa.

Nói đoạn Xuân A Phi che mặt khóc nức nở. Hoàng đế vốn hết sức sủng ái Xuân A Phi nên khi thấy nàng khóc, ngài thấy lòng đau như cắt. Ngài vội kéo nàng vào lòng, vỗ về an ủi.

Qua ngày hôm sau, Càn Long hoàng đế cho gọi Hoà Khôn vào cung. Ngài bỗng thay đổi vẻ mặt, hết sức lạnh lùng nghiêm nghị, dằn mạnh từng tiếng:

- Hoàng tôn của trẫm đã chết cách đây bảy năm. Tôn nhân phủ đã ghi rõ cả và có thể tra xét được. Bỗng ngày nay lại có một tên hoàng tôn xuất hiện, vậy thì chuyện này ắt do gian tăng muốn phỏng theo chuyện cũ Tống Minh để mưu cầu phú quý. Khanh nên truyền tập họp bọn quan viên hình bộ lại, lập ngay toà án đặc biệt thẩm vấn cho rõ ràng, đừng để cho đứa tiểu nhi quê mùa mạo nhận cốt nhục của hoàng gia.

Hoà Khôn nghe xong lời phán đoán, lòng đã rõ ý hoàng đế. Khôn vội ra khỏi cung, tuyên bố ý chỉ của ngài. Qua ngày hôm sau quan Hình bộ ngồi chánh thẩm, cho mời bọn quan viên Đại học sĩ, Đô ngự sử ngồi bên bồi thẩm. Công đường thiết lập tại cửa Kiều Thanh môn. Trong căn nhà trống không, rộng rãi về phía tả, có Hoà Khôn và Lưu Thống Huấn hai vị đại học sĩ ngồi giữa cao chót vót. Còn hai bên thì đủ mặt nhân viên lục bộ. Hình bộ có một vị Kính chương tên gọi Bảo Thành nói năng hoạt bát, tính tình lại giảo hoạt. Hoà Khôn biết Thành là người biến báo nên uỷ cho làm quan chánh thẩm, ngồi trước công án của phiên toà.

Một lát sau người ta thấy đưa vào một nhà sư già và một cậu bé. Bảo Thành chiếu lệ đem thẩm vấn lại tung tích của hai người một lượt rồi đứng dậy quay mặt về phía trên nói:

- Thưa quý vị đại thần, theo nhận xét của ti chức thì vụ này có nhiều nghi vấn. Nếu quý vị đại nhân cho phép thẩm vấn thì ti chức có thể tìm ra manh mối của vụ án này một cách đầy đủ.

Hoà Khôn nghe Bảo Thành nói như vậy bèn sẽ gật đầu đáp ứng. Bảo Thành quay mặt lại quát lớn:

- Quân bay! Bắt tên yêu tăng điệu ra ngoài kia mau!

Hai tên sai dịch hung dữ như báo, tàn ác như cọp, nhảy xông vào túm cổ nhà sư già kéo thốc ra phía ngoài. Lúc đó Bảo Thành mới thong thả bước tới giáng mạnh hai cái bạt tai vào mặt cậu bé khiến nó sợ quá oà lên khóc.

Bọn quan viên khắp phòng thấy thế hoảng kinh thất sắc, chỉ nghe tiếng Bảo Thành lớn tiếng hỏi:

- Mi là thằng bé nhà quê nào nghe lời dối trá của yêu tăng dám cả gan vào chốn triều đình mạo nhận hoàng tôn? Như thế là mi đã vào tội chết. Nếu mi không khai rõ ra đây, ta sẽ chém phứt cái sọ cái của mi.

Nói đoạn Thành giơ cao cây đoản đao, kề ngay cái lười sắc bén vào cổ cậu bé. Cậu bé hoảng quá, một mặt kêu rầm lên, một mặt lắp bắp nói:

- Tôi vốn chẳng biết thế nào là hoàng tôn. Tôi chỉ biết nhà sư là cha tôi. Lúc năm tuổi, tôi chỉ nhớ nhà sư thường chỉ tôi bảo với nhiều người khác rằng tôi họ Lưu. Như vậy tôi vốn con nhà họ Lưu chứ đâu có phải là hoàng tôn. Tôi chẳng biết hoàng tôn là có nghĩa lý gì. Nhà sư có bảo tôi cứ tới nhà hoàng thượng thì sẽ được đọc sách và làm quan, có cơm có rượu, mặc quần áo đẹp, khi ra ngoài có ngựa có xe, có người hầu kẻ hạ. Nay các ông chẳng cho tôi cưỡi ngựa, đi xe, lại muốn cầm đao giết tôi, tôi chẳng thèm làm hoàng tôn nữa. Xin các ông tha cho tôi ra, để tôi cùng nhà sư trở về chùa cho sớm.

Cậu bé nói xong lại hu hu khóc lớn. Nhiều quan viên trên công đường thấy tình cảnh đáng thương, đều muốn giúp cậu ta tỏ nỗi oan khuất nhưng lại sợ uy thế của Hoà Khôn nên không dám nhiều lời. Bảo Thành thấy cậu bé cung khai xong, trong lòng lấy làm đắc ý. Y liền quay đầu, lại hướng mắt về công đường cười nói:

- Quý đại nhân nghe rõ đấy chứ? Hắn đâu có phải là hoàng tôn mà chi là thằng bé nhà họ Lưu. Vậy ti chức thầm vấn đã rõ ràng, xin quý vị đại nhân định án.

Lưu Thống Huấn lúc đó ngồi trên công đường, không nhịn được nữa bèn đứng dậy nói:

- Cái án này thong thả hãy định. Thử hỏi đứa bé vài ba tuổi dưới sự uy hiếp đó thì bảo gì mà nó chả nói. Huống hồ, theo lời nhà sư nói thì đứa bé này mới sinh ra được vài tháng đã bị bế ra khỏi phủ, thì thử hỏi làm sao mà biết mình là hoàng tôn hay không. Đừng nói đứa bé này tự mình không biết chuyện mình, đến ngay cả bọn mình đây sống đã mòn đời mà những chuyện cha mẹ sinh dưỡng ra sao cũng không biết nữa là. Cứ theo ý kiến của bản chức thì vụ án hôm nay nếu không đem nhà sư nọ thẩm vấn thì không được.

Hoà Khôn nghe lời Lưu Thống Huấn nói xong lấy làm e ngại, bèn lạnh lùng nói:

- Quý đại thần nếu không sợ phiền thì cứ xin cho truyền nhà sư nọ vào, có hề chi!

Hồi 84

VƯỜN ĐỒNG LẠC TRONG CUNG CẤM

Vừa nghe lời Hoà Khôn nói xong, Bảo Thành ngồi ở phía dưới liền lên tiếng truyền cho nhà sư vào. Bọn sai dịch tức thì đẩy nhà sư lên phía trước công đường. Cậu bé nhìn thấy nhà sư liền giơ tay chỉ, vừa khóc vừa nói:

- Tôi vốn thực họ Lưu tại sao lại bảo tôi mạo nhận con cháu hoàng gia để hại tôi bị chém đầu?

Cậu bé lại kéo chéo áo nhà sư khóc lớn. Mãi lâu, người ta chỉ thấy nhà sư tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên và quái lạ rồi mới cất tiếng nói:

- Ngươi rõ ràng là một hoàng tôn mà? Tại sao hôm nay ngươi lại khai đổi khẩu cung? Trước đây ta bảo với mọi người rằng ngươi thuộc họ Lưu để che mắt thiên hạ, sợ người ta biết chuyện đó thôi.

Bảo Thành nghe xong, không để cho nhà sư nói thêm, giơ cao tay vỗ mạnh xuống công án, quát lớn:

- Yêu tăng đừng nói bậy! Thằng bé kia đã tự ý cung xưng và nhận tội, ngươi còn không chịu khai ra phải không?

Nói đến đây Thành lại quát lên một tiếng thật lớn nữa: "Dùng hình!". Tức thì bọn sai nha túc trực hai bên tả hữu dạ ran rồi tay cầm nào côn sắt, nào roi thép loảng xoảng vang rền tiến sát bên nhà sư. Cậu bé lại một phen hoảng hồn bạt vía, khóc rống lên nói:

- Bọn ta đi thôi! Tôi không muốn làm người nhà của hoàng đế nữa đâu. Người nhà của hoàng đế gì mà chỉ bị doạ giết thế này?

Nhà sư mặt hầm hầm nổi giận, tay chỉ về phía công đường nói lớn:

- Lũ bay là một đám gian thần, trên thì dối vua, dưới thì ngược đãi bách tính. Lũ bay đều ăn bổng lộc của Thanh triều, Vĩnh Thành Quận vương vốn là hoàng tử của đương kim hoàng đế có thù oán gì với lũ bay mà lại muốn diệt hết dòng dõi của người. Ta chết rồi làm quỉ, thế nào cũng cùng với Quận vương bắt hồn lũ bay!

Viên Châu hoà thượng nói đoạn còn nghiến răng ken két chửi rủa bọn gian thần luôn mồm không ngớt, đến nỗi Hoà Khôn nổi máu nóng, quát lên một tiếng lớn:

- Đánh chết thằng giặc trọc đi!

Bọn sai nha đang tính động thủ thì Lưu Tướng quốc đã đứng dậy chạy tới chặn lại rồi nói:

- Hãy khoan! Nay bọn ta đánh phạm bắt cung, khiến thiên hạ chê cười là bất công. Theo thiển ý của bản chức, thì bọn ta nên đi tìm con a đầu bế hoàng tôn ngày trước nhận xem phải hay không phải hoàng tôn, lúc đó mới nên định án.

Lúc đó trời đã về chiều, Hoà Khôn liền hô tạm nghỉ.

Ngay đêm hôm đó, Khôn vào cung, tâu rõ với Càn Long hoàng đế. Hoàng đế bèn truyền chỉ phàm có a đầu già nào trong phủ quận vương đều phải tới công đường làm chứng.

Bọn a đầu già vốn được Xuân A Phi đối xử tất cho nên qua ngày hôm sau khi cậu bé được gọi lên công đường cho bọn này nhìn mặt thì tất cả đều nhất loạt bảo chẳng giống. Chúng còn bẩm hoàng tôn ngày nọ gầy nhỏ mà mặt dài, trên cánh tay có nốt ruồi đỏ chứ đâu như đứa trẻ này. Lại còn có một đứa cung rằng:

- Hoàng tôn chết năm nọ chính do tay tôi thu liệm. Tại sao lại còn có một hoàng tôn xuất hiện nơi đây?

Một đứa khác lại cung:

- Tôi vốn là nhũ mẫu của hoàng tôn. Chính hoàng tôn đã chết ngay trong bọc tôi mà! Điều đó quyết không lầm được.

Bọn a đầu già, mỗi đứa mỗi câu, khiến nhà sư đảnh phải nín lặng không thốt được lời nào nữa. Lưu Tướng quốc ngồi phía trên biết rõ nhà sư oan uổng nhưng nghĩ chả có cách gì cứu được Một lát sau bọn đại thần bàn tính định tội: Viên Châu hoà thượng lập tức đem chém còn cậu bé thì đày đi xứ Y Lê.

Hôm bị đem ra hành hình, Viên Châu hoà thượng chửi bới thậm tệ bọn hôn quân gian thần. Còn cậu bé đày đi xứ Y Lê, dần dần lớn lên, tự biết mình đích thị hoàng tôn của đương kim hoàng đế bèn nói cho Y Lê tướng quân biết. Vị tướng quân này lại giúp cậu bé tâu về triều.

Hoà Khôn thấy bản tấu chương, tới thông báo cho Xuân A Phi biết. Thế là Xuân A Phi lại nũng nịu với Càn Long hoàng đế để ngài cách chức viên Y Lê tướng quân, cho người thân thích của Hoà Khôn là Tùng Quẩn tới thay thế. Nàng cũng muốn Hoàng đế hạ chỉ chém ngay cậu bé nọ tại đất Y Lê. Càn Long hoàng đế mê mệt Xuân A Phi, nhất nhất mọi điều ngài đều nghe nàng hết. Đáng thương thay đường đường một vị hoàng tôn mà kết liễu cuộc đời chỉ vì miệng lưỡi đàn bà!

Trong cung cấm, Càn Long hoàng đế sủng ái Xuân A Phi càng ngày càng đội mãi nàng lên tận trời xanh. Tuy rằng ngài trong cuộc tuần du Giang Nam có đem về hai nàng Quách Giai, và Tưởng Giai nhưng thực chẳng ai vượt khỏi Xuân A Phi. Hai nàng Quách Giai và Tưởng Giai là người Tô Châu, tính tình hoà thuận, ăn nói lanh lẹ, lại đâm ra xu phụng Xuân A Phi. Ngược lại Xuân A Phi cũng đối đãi tử tế với hai nàng.

Xuân A Phi vốn được nuôi dưỡng từ nhỏ tại nơi khuê các, chưa từng được nghe chuyện bên ngoài ra sao; nay nghe hai nàng Quách, Tưởng kể lể chuyện Giang Nam, nào là phố xá đẹp đẽ, nào là phong cảnh xinh tươi, nào là chợ búa náo nhiệt vui vẻ thì lòng cảm thấy như điên lên vì tò mò. Từ đó nàng cứ nói ra nói vào ý muốn cùng hoàng đế du ngoạn Giang Nam một phen. Hoàng đế bảo nàng:

- Trẫm mới vừa ở Giang Nam về. Nay lại đi Giang Nam e bọn quần thuần dị luận chăng!

Về sau, Xuân A Phi nghĩ ra một kế. Nàng mè nheo với Càn Long hoàng đế cho xây cất trong vườn Viên Minh một dãy phố buôn bán sinh hoạt theo kiểu Tô Hàng (hai tỉnh Tô Châu, Hàng Châu miền Giang Nam). Nào là tiệm bán đồ cổ, tiệm cắt may y phục, nào là tửu lầu, trà điếm, tất cả hàng hoá đều bày đặt trong các quán tiệm đầy đủ không thiếu thứ gì. Các chủ tiệm cũng đều đưa từ Tô Hàng tới. Cả đến người bán hoa, người bán trái cây tươi, người bán dưa, cũng bưng giỏ đi dọc phố để rao hàng, y như thật. Bọn thái giám trong cung, anh nào cũng bỏ tiền ra để được làm chủ điếm. Các hoá phẩm đều do quản lý cửa Sùng Văn cất ở các tiệm bên ngoài thành đem vào. Những hàng này đều được ghi rõ giá cả. Hàng nào bán được thì cứ y theo giá biểu mà trả tiền. Hàng nào không bán được thì hoàn lại chủ cũ.

Đến mồng một tháng giêng (Tết Nguyên Đán) mở cửa vườn, hoàng đế hạ dụ cho phép các đại thần Mãn cũng như Hán đều được vào vườn du ngoạn. Bọn quan viên lũ lượt đi xem đường phố, thấy có thực vật, có trái cây tươi, vội giành nhau mua. Có lúc họ mời mọc nhau thành một bọn kéo vào quán trà, tiệm rượu. Mấy anh hầu bàn lăng xăng chạy đi chạy lại kêu gọi món ăn thức uống, chẳng khác gì các hàng quán trong thành. Cũng có lúc hoàng đế mặc thường phục, sau lưng có mấy bà phi tần, vào phạn điếm ăn cơm. Gặp bọn đại thần, hoàng đế cũng chỉ gật đầu, đưa mắt nhìn nhau ra hiệu chẳng khác gì bạn hữu bình thường, đem tiểu nhị qua lại đem đồ ăn, bưng rượu, tính tiền. Trong quán náo nhiệt tưng bừng như có hội. Hoàng đế cùng bọn phi tần nhìn thấy cảnh vui mắt đó, vô cùng hào hứng, bất giác cười vang. Lại cũng có lúc hoàng đế viết thiếp mời một vài người khách. Khách đó bất quá đều là những bậc đại thần tôn thất nhàn rỗi. Họ vào quán Tây Thanh hầu rượu ngài. Cả bọn tha hồ cười nói, múa tay rung đùi chẳng có chút gì là câu thúc bó buộc. Bọn đại thần chè chén đến lúc hứng chí cũng bày trò thách rượu, cũng có lúc hoàng đế một mình ra ngoài du ngoạn. Ngài vào quán rượu gọi đủ thứ, rồi cùng bọn gái thanh lâu cợt nhả bốc hốt. Gặp khi chếnh choáng, hoàng đế bèn ôm bừa lấy mấy đứa dìu vào phòng ngủ, tha hồ đi gió về mưa, thẳng một lèo cho tới sáng, chẳng chịu về cung nữa. Bọn thái giám chẳng biết làm sao, đành phải đánh "vân bản" om lên ngoài cửa phòng (Vân bản là những tấm ván đập vang lên để báo hiệu cuộc thị sát của các quan viên trong triều. Theo qui củ trong cung thì khi nghe đánh vân bản, tức thì ai nấy phải đứng dậy rời đi chỗ khác).

Cũng có lúc hoàng đế mời thái hậu đi du ngoạn xem vườn. Thái hậu cải trang như một người thường, thấy trong vườn nào bọn sơn đông mãi võ bán cao đơn hoàn tán, nào bọn thầy bói trải chiếu gieo quẻ, cũng sà vào đám đông mà xem bói xem diễn. Xa xa bọn thị vệ lảng vảng đó đây để báo vệ bà.

Rồi từ ngày hai mươi ba tháng giêng cho đến ngày mười tám tháng sáu, ngày đó gọi là lễ "Đăng tiết", hoàng đế lại cho lệnh mở cửa vườn. Ngài truyền dụ cho từ các quyến thuộc thần dân Hán cũng như Mãn đến vợ chồng kẻ dân quê đều được vào vườn du ngoạn với ý nghĩa "dân đều vui". Những ngày đó, hoàng đế cũng đi qua dạo lại giữa đám quan quyền, dân chúng, cười đùa với đám gái quê, với bọn phu nhân vợ các quan viên, hết sức vui vẻ thân thiện. Bọn thái giám muốn làm đẹp ý của hoàng đế nên thiết lập các phòng nhỏ, đặt bày các giường nệm để ngài tuỳ ý nằm ngồi.

Cuộc vui đại chúng ấy đang tốt đẹp, thì qua ngày thứ ba bỗng một tên đại hán xông vào trong phòng, tay cầm một con dao nhọn, xớn xác ra vẻ đang tìm kiếm ai đó. Bọn thị vệ thấy thế, xông lên bắt được tên đại hán, giao lại cho nha môn xét hỏi. Tên đại hán hầm hầm hất mặt nói: "Vợ con ta vào vườn du ngoạn, bị tên hôn quân dụ dỗ vào phòng gian dâm rồi! Ta mà tóm được hắn thì nhất quyết chẳng tha!".

Thẩm sát quan thấy tên đại hán miệng nói toàn điều quái gở, chẳng thèm cật vấn nữa, liền tống ngay vào nhà lao, qua hôm sau cho giết luôn. Thế rồi, từ ngày nảy ra cái án quái gở đó, trong vườn cấm không còn bọn đàn ông được vào ra nữa.

Trong vườn Viên Minh, từ khi thiết lập cái phố buôn bán đó thì cứ mỗi đêm vào đầu tháng giêng, việc mở cửa cho dân chúng vào du ngoạn đã trở thành một cái lệ. Hoàng đế cùng bọn phi tần cũng rong chơi trong vườn mãi cho hết ngày Đăng Tiết, sau đó mới thu dọn phố xá đi hết, Càn Long hoàng đế lấy cái ý "với dân cùng vui", nên gọi khu phố thương mại đó là Đồng Lạc viên.

Sau năm thứ nhì Đồng Lạc viên mở cửa, trong vườn lại xảy ra một vụ án phong lưu tuyệt thú. Nguyên là tại kinh có một vị Lễ bộ thị lang họ Trang, tuổi đã tới lục tuần. Chỉ vì bà vợ kết tóc xe tơ chết mất, quan thị lang bèn tới xóm thanh lâu lấy ngay một ả kỹ nữ về làm vợ. Ả tên gọi là Lại Chiêu Quân, mặt mũi xinh đẹp ra sao chẳng cần tả mà làm gì, chỉ cần biết ả năm đó hai mươi bốn tuổi, tính tình ưa hoạt động nên rất thích ra ngoài lang thang du ngoạn. Những nơi náo nhiệt như đền miếu, hội hè chỗ nào chẳng có vết chân Trang thị. Quan thị lang còn có một đứa con gái với người vợ trước. Đứa con gái này cũng đa tình lắm, lại rất ăn ý với người mẹ kế. Mẹ con hai người thay nhau che mắt quan thị lang, suốt ngày lang thang hết phố lớn đến đường con.

Bọn ong ve bướm lượn suốt ngày lẽo đẽo sau gót hai mẹ con nhà này, chê đầu khen cẳng, chọc ghẹo thả cửa. Lại Chiêu Quân tính cực dâm, chi thích cười giỡn với trai, thích được người khen mình đẹp, bởi vậy bọn làm công trong các tiệm buôn, các quán nhậu đều bỡn cợt với ả, miệng ghẹo tay sờ.

Cô gái vốn con nhà đại gia khuê các, lúc đầu thấy bà mẹ kế tính tình đĩ thoã quá, bất giác mắc cỡ xấu hổ lắm, nhưng về sau đâm quen cũng cười cợt thả cửa, chẳng còn kiêng cữ gì nữa. Ả tên gọi Thu Quan, năm đó đúng mười tám tuổi.

Hai mẹ con Lại Chiêu Quân và Thu Quan chơi lang thang kinh thành mãi xem chừng đã chán, bỗng một ý tưởng mới lạ đến với họ, nghe đồn cứ một năm một lần mở hội Đồng Lạc viên ngay tại vườn Viên Minh, cho phép quan, dân, phụ nữ vào trong du ngoạn.

Đợi đến thời "Đăng tiết", hai mẹ con Thu Quan, dồi phấn thoa son cùng theo mọi người vào vườn dạo chơi, hết phố này đến chợ kia, thích lắm.

Bọn thái giám dò la được lai lịch của hai mẹ con nhà này, bèn đánh liều gợi ý gợi tình với Lại Chiêu Quân, cuối cùng cả bọn thị vệ và các bồi bếp cũng gọi nhau tới tán tỉnh. Hai mẹ con nhà này đã chẳng lấy làm phiền mà lại còn đắc ý lắm. Lại Chiêu Quân thích nhất là được nghe chuyện cung cấm. Bọn thái giám và thị vệ đều chạy tới xúm xít quanh ả, khoe mình biết lắm, hiểu nhiều; nhất là chuyện hoàng đế phong lưu, đa tình ra sao.

Thu Quan vốn gái dậy thì, mới mẻ tươi mát, nên anh nào anh nấy đều mê thích, đổ xô lại tán tỉnh. Thu Quan chẳng bao giờ giận, nhiều khi còn cố ý làm vui lòng mọi người là khác.

Có một hôm, Lại Chiêu Quân ngồi chuyện vãn với bọn thái giám trong tửu lâu. Nàng bỗng bảo:

- Nét mặt hoàng thượng bọn tôi chỉ được nhìn phớt qua ngoài phố, chứ chưa bao giờ được rõ ràng. Ví thử được đối diện với hoàng thượng mà nói một câu chuyện hoặc chuốc một chén rượu, thì thật vinh hạnh biết mấy nhỉ!

Thu Quan cũng nói tiếp:

- Hoàng thượng có bộ râu đẹp lắm. Giá tôi được vuốt một cái thì còn gì là vinh hạnh hơn!

Bọn thái giám nghe đoạn liền nói:

- Ồ! Chuyện đó khó gì. Để khi hoàng thượng tới, bọn tôi xin giúp hai người, thông báo tên tuổi cho ngài tâu rằng hai nàng xinh đẹp tuyệt trần, thì thế nào ngài cũng triệu kiến ngay.

Trong bọn thái giám, lại còn có một tên đế vào:

- Tuy nói thế, nhưng hoàng thượng vào vườn chơi có định rõ ngày giờ nào đâu? Hôm thì đôi ba lần, nhưng lại có khi ba, bốn hôm mới tới một lần. Như vậy, nếu hai mẹ con nàng muốn gặp ngài thì nên ở lại trong vườn mà đợi giá. Nhưng có điều phiền là mỗi ngày ở lại trong vườn, tiền phòng tiền cơm tốn kém lắm, làm thế nào được?

Lại Chiêu Quân vốn tính tự ái. Hơn nữa, chồng ả lại có tiền, cứ mỗi khi gặp ai có ý chê bai ả về chuyện tiền nong là ả nổi máu tự ái lên ngay. Lúc này cũng vậy, ả nghe nói bèn thò tay vào trong bọc rút phăng một tập giấy bạc ném toẹt ngay ra giữa bàn, vừa bĩu môi bảo:

- Xài một tập này có đáng là bao. Ngươi cầm chỗ bạc này đi! Bọn tôi ở lại mười hôm trong vườn liệu có đủ không?

Bọn thái giám thấy tập tiền, mặt bỗng tươi hẳn lên, mắc sáng rực. Thế là chúng tung tăng chạy đi sửa soạn nào giường nào chăn nào gối nào rượu nào thịt để cung dưỡng hai mẹ con Lại Chiêu Quân.

Lại Chiêu Quân ở lại trong vườn với bọn thị vệ nô giỡn tối ngày sáng đêm. Riêng Thu Quan vốn còn con gái nên không dám quá phóng đãng. Thấm thoát đã năm ngày qua, hôm đó vào dịp Đặng tiết, ả Chiêu Quân bỗng thấy bọn thái giám hoảng hết chạy tới bảo:

- Vạn tuế gia tới rồi! Mau sửa soạn tiếp giá!

Lại Chiêu Quân vội kéo tay Thu Quan bước ra ngoài, thấy một người đàn ông cao lớn mặt có ba chòm râu, bệ vệ bước vào, phía sau có rất nhiều thị vệ đi theo.

Người đàn ông chậm rãi ngồi xuống, quay đầu ra hiệu, thế là cả bọn thị vệ ùn ùn kéo ra. Bên trong điếm, tiểu nhị đưa rượu thịt lên. Người đàn ông nâng ly, uống được vài tuần, lúc đó mới vẫy tay gọi tới hai mẹ con Lại Chiêu Quân đến ngồi cạnh. Người đàn ông lên tiếng hỏi:

- Hai nàng là người thế nào?

Lại Chiêu Quân đáp:

- Hai chị em tôi bị kẻ gian lừa gạt, chẳng may lạc vào thanh lâu.

Câu nói vừa rồi của Lại Chiêu Quân thật ra là của bọn thái giám mách bảo trước chứ chẳng phải tự ý. Người đàn ông uống ít rượu nữa thì đã ngà ngà say bèn giơ tay ra ôm lấy hai mẹ con Lại Chiêu Quân mà vuốt ve hôn hít. Thế rồi đêm đó, cả hai mẹ con đều bị người đàn ông nọ giữ lại hầu hạ.

Lại Chiêu Quân nghĩ chắc đó là Càn Long hoàng đế, bèn đem hết bản lãnh phòng the ra hầu hạ, mãi tới đêm khuya mới hết những tiếng cười khúc khích trong phòng.

Càn Long hoàng đế cao hứng quá, làm luôn một hơi ba đêm liền, đến đêm thứ tư ngài đưa ra thưởng biết bao nhiêu là vàng ngọc lụa là. Và cũng từ đêm đó không thấy ngài tới nữa.

Hai mẹ con Lại Chiêu Quân cúng thu xếp về nhà, khi nhìn tới số tiền chi phí lên tới hơn cả vạn lạng bạc, ả bất giác giật mình, mặt xảm ngắt lại, vội hỏi bọn thái giám, mới được biết rằng tiên ăn, ở tại đây đắt hơn cả trăm lần bên ngoài. Ả chỉ còn cách đem vàng ngọc châu báu của hoàng đế vừa cho đề bù vào chỗ thiếu. Nào ngờ khi đem vàng ngọc châu báu đó ra trị giá mới biết đều là đồ giả cả.

Về sau khi hai mẹ con Lại Chiêu Quân về tới nhà rồi quan thị lang họ Trang (chồng Lại Chiêu Quân) mới phát giác ra một tờ văn tự nợ trong mình vợ. Ông vội tra hỏi, ả bèn đem tài mồm loa mép giải ra để che đậy, bảo phải mang nợ vì lo chạy chọt cho ông được thăng quan tiến chức. Ả kể lể rằng có nhờ bà Phúc tấn nọ nói giùm với vị vương gia kia để được đưa tới trước Vạn tuế gia. Ả đã vui lòng đáp ứng nên phải vay mượn để tạ lễ vị vương gia đó. Thế rồi cứ mồm mép đó, Lại Chiêu Quân nói trời nói đất, thêu dệt đủ chuyện để lấp liếm cho qua.

Trang thị lang không còn biết cách nào hơn, mặt đành cứ thộn ra mà nghe. Nhưng Trang thị lang lại có người em thứ tư, trong nhà thường gọi là "chú Tư". Chú Tư thấy anh mình lấy đĩ về làm vợ đã có ý không bằng lòng, nay điều tra lại được biết chị dâu với cháu gái mình có bao nhiêu chuyện bỉ ổi trong Đồng Lạc viên liền viết một tờ đơn tố cáo gửi tới nha môn Kinh Triệu Doãn.

Kinh Triệu Doãn thấy đơn tố ngay chính Hoàng đế, hoảng hồn bạt vía, chẳng dám thụ lý. Nhưng việc tố giác đã đồ bể tùm lum ra. Một vị ngự sử họ Giang nghe được chẳng cần xét rõ trắng đen gì, tức thì viết ra một tờ sớ tâu lên Càn Long hoàng đế, kết án bọn thái giám lừa gái cướp vàng, tội chẳng nên tha.

Càn Long hoàng đế xem xong tờ sớ, hết sức giận dữ. Ngài ngầm sai gọi Hoà Khôn vào cung, giao cho Khôn điều tra và xử vụ án.

Hoà Khôn lãnh chỉ lập tức sai bắt bọn thái giám bịp bợm tới, mặt khác cũng cho đòi bắt mẹ con Lại Chiêu Quân vào hầu.

Hôm thẩm vấn, Hoà Khôn cho mời các quan đại thần Mãn cũng như Hán, gọi cả Kinh Triệu Doãn cùng đến công đường hội thẩm nghe cung. Lại Chiêu Quân khai hết mọi việc đã qua. Ả kể rõ nào là hoàng đế gian dâm hai mẹ con ả ra sao, phá hoại đời con gái Thu Quan thế nào và cả vụ vàng ngọc giả kia nữa. Bọn đại thần nghe thấy ả khai ngay đích danh hoàng đế, anh nào anh nấy giật nấy mình, mặt biến sắc. Hoà Khôn vội sai người đưa Lại Chiêu Quân ra ngoài. Song ả vốn gái lầu xanh, mồm loa mép giải đã quen đâu có chịu, bèn bù lu bù loa lên, ngoác mãi mồm ra bảo chính hoàng đế đã gian dâm cả hai mẹ con mệnh phụ. Còn Thu Quan ở bên canh, chỉ cứ khóc ròng.

Bọn đại thần và Hoà Khôn bèn tính bịa ra một cái tội để trừng phạt Lại Thu Quân, bọn thái giám mấy tên thì đem giết đi để bịt miệng còn Trang thị lang thì gán cho cai tội vu khống. Trong khi cả bọn tính như vậy tưởng như xong chuyện, nào ngờ quan đại thần Lưu Thống Huấn không chịu, ông nói:

- Chuyện này thiết tưởng không nên vội vã. Trước hết, bọn ta nên vào tâu để xem ý hoàng thượng ra sao đã. Lúc đó, nêu vụ án có chỗ đã xác đáng, thì nên trả số tiền nọ lại cho Trang thị lang và đem tên thái giám phát vãng sung quân. Còn nếu cái án này không có dính líu gì với hoàng thượng thì trước hết đem chém đầu mấy tên thái giám, rồi sau tịch biên hết sản nghiệp của bọn này mà trả lại cho Trang thị lang, sau nữa mới bắt tội Trang thị lang trị gia bất nghiêm.

Hoà Khôn đã có chủ ý từ trước nên có ý không chịu. Thế là Lưu Thống Huấn tự mình đi thẳng vào cung điện tâu trình.

Càn Long hoàng đế nghe có người tố cáo mình gian dâm cả hai mẹ con mệnh phụ, bèn nói:

- Trẫm tuy rằng bất đức nên mười mấy năm trời nay có nhiều xì xèo này nọ, nhưng thực cũng chưa dám làm điều gì bại hoại gia phong đến thế. Cái án mẹ con Lại thị cần phải xét hỏi cho ra đầu đuôi cớ sự. Vậy trẫm giao cho các vị đại thần Mãn cũng như Hán, lấy lẽ công mà luận án định tội, chớ có e ngại chuyện gì.

Lưu Thống Huấn được thánh chỉ liền đem bọn thái giám ra thẩm vấn. Bọn chúng chịu cực hình không nổi bèn khai ra tất cả. Thì ra thấy mẹ con Lại thị nhiều tiền chúng bèn đem một hoàng đế giả đến để lừa gạt. Khi hỏi tới hoàng đế giả đó là ai, thì bọn thái giám cho biết đó là tên chưởng quỹ ở Tây Đại Nhái phường Lô Mã ngoại thành. Lưu Thống Huấn liền cho đi bắt về thẩm vấn, hắn nhất nhất đều cung khai không dám giấu.

Lưu Thống Huấn định tội, đem tên chưởng quỹ và bọn thái giám ra chém đầu đồng thời hạ định tịch biên gia sản của bọn này để bồi thường lại cho Trang thị lang. Lưu Thống Huấn lại phát lệnh cho hai mẹ con Lại Chiêu Quân vào nhà các công thần làm đầy tớ.

Vụ án này xảy ra xong, từ đó trong Đồng Lạc viên không còn cho phụ nữ dân gian ra vào du ngoạn nữa.

Tháng giêng qua, Càn Long hoàng đế chẳng có việc gì làm, bèn cùng với Xuân A Phi, Quách Giai thị, Tướng Giai thị, ba người nô giỡn hú hí trong thâm cung suốt ngày.

Về sau Quách thị bèn tâu:

- Bệ hạ từ khi ở Giang Nam về, tìm kiếm được bao nhiêu là vàng ngọc châu báu, hơn nữa, lại thường tưởng nhớ tới phong cảnh hữu tình miền Giang Nam, tại sao bệ hạ không y theo thắng cảnh miền này mà kiến trúc ngay tại trong vườn Viên Minh này, cho trưng bày hết những châu báu vàng ngọc đó ở trong vườn, rồi bọn tiện thiếp được hầu hạ bệ hạ, suốt ngày du ngoạn, một là để bệ hạ khuây khoả nỗi tưởng nhớ miền Giang Nam, hai là để bọn tiện thiếp như là đã được trở về quê hương xứ sở vậy.

Càn Long hoàng đế nghe xong cao hứng nổi lên, bèn truyền dụ cho Nội vụ phủ cùng bọn nhân viên cung phụng trong Tây Thành quán, đem những thắng cảnh danh lam miền Giang Nam vẽ lên giấy hết để trình cho ngài xem.

Thánh chỉ vừa ban xuống, tức thì bọn cung phụng nhân viên bắt tay vào việc ngay. Ngày này qua ngày khác, họ vẽ hết bức này qua bức khác gần như tất cả: nào phong cảnh Tây Hồ, nào phong cảnh Kim Sơn, nào phong cảnh Tô Châu.

Cứ mỗi nơi một bức hoạ. Lúc đó hoàng đế cùng với ba vị phi tử lựa chọn mãi, lấy bốn mươi bức giao lại cho Hoà Khôn, bảo y cai quản việc xây dựng và khởi công ngay tức khắc.

Hồi 85

OAN OAN TUƠNG BÁO

Hoà Khôn nhận được thánh chỉ, liền cho một số lớn nhân viên vào rừng núi miền Giang Nam để tìm gỗ quý, mặt khác bắt dân phu ở các tỉnh Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây để phu dịch, Khôn lại giả thác thánh chỉ quyên góp tiền bạc rồi cho người tới nhà các vị quan lại và thân sĩ địa phương để yêu sách, nếu có kẻ nào không chịu hoặc cúng tiền không vừa ý, Khôn liền bảo họ trái lệnh vua, bắt trị tội ngay. Cũng nhờ dịp này, Khôn đã trắng trợn cướp được khá nhiều tiền khiến dân chúng oán than khắp.

Trong số người bị Khôn bóc lột kiểu này, có một vị thái thú tỉnh Hồ Bắc tên gọi Khang Vũ Thương chết một cách hết sức khổ sở.

Thương vốn có tiền, nhưng lại chẳng có quan tước gì. Viên tri phủ địa phương thấy vậy bèn vừa khuyến khích vừa lừa gạt khiến Thương nổi máu anh hùng, độc lực quyên giúp việc đắp đê Hải Đường ba vạn đồng. Viên tuần phủ Sơn Đông giúp Thương tâu việc này lên hoàng đế. Thế là một đạo thánh chỉ truyền xuống cho Thương hàm tứ phẩm và cắt cử đi làm võ quan tri phủ tại tỉnh Hồ Bắc.

Bởi đã quyên góp mất ba vạn đồng, nhưng Thương vốn tính tham nhũng cho nên sau khi đến nhậm chức, liền thẳng tay vơ vét của dân. Không đầy một năm, Thương đã gỡ lại đủ số ba vạn đồng, rồi sáu năm sau tại chức thì Thương đã giàu có lớn. Suốt một giải đất Dương Châu, Thương có nhiều rộng muối, và cũng có "qua lại" với bọn lái muối Uông Như Long ở Dương Châu.

Không ngờ việc giàu có bốc trời này đồn đại tới tai Hoà Khôn. Vừa gặp lúc cần tiền xây cất tại vườn Viên Minh, Khôn liền phái người tới tri phủ Hồ Bắc hỏi tiền.

Vừa mới mở mồm đòi, tên tay chân của Khôn đã nói toẹt ra một trăm vạn. Kháng Vũ Thương thoạt nghe đã hoảng hồn bạt vía đến té xỉu. Thực ra Thương cũng khó đào ngay một lúc một số tiền quá lớn như vậy để đáp lại lời Khôn. Bởi thế Thương miễn cưỡng cho người tải ba vạn lạng bạc lên kinh.

Khôn thấy Thương còn kè vậy bèn sinh một kế. Hồi đó tỉnh Sơn Đông có bắt được một bọn giặc biển, Khôn cho người tới ngầm bảo tên tướng cướp cung xưng là đồ đảng của Thương để vu khống cho Thương. Lời cung được tâu gấp lên triều.

Hoàng thượng vô cùng tức giận, lập tức hạ lệnh cách chức Thương đồng thời chém hết toàn gia. Thương có đứa con trai mới năm tháng cũng không khỏi tội chết.

Hoà Khôn giải quyết vụ án này thật là chóng vánh. Gia sản của Thương, Khôn chẳng chê bai gì, nuốt trôi hết sạch.

Không ngờ trong nhà Thương, Khôn vẫn còn để sót lại một cái góc mầm hoạ, đó là Dư Đại Hải.

Hải vốn là con trai một người bạn của Thương. Người bạn này đối với Thương có cái nghĩa tám lạy với nhau, cho nên lúc lâm chung bèn đem con ký thác cho Thương. Thương giữ Lư Đại Hải ở trong nhà và cho học hành thành người. Thương còn cưới vợ cho Hải nữa.

Dư Đại Hải có một thần lực ghê gớm, ai cũng phải sợ. Thanh sắt nặng ngàn cân, Hải chỉ cần một tay cũng đủ bốc nổi lên như ta cầm một cây gậy gỗ. Khi gia sản bị tịch biên, Kháng Vũ Thương cho Hải một vạn lạng bạc và ngầm bảo Hải trốn đi. Lúc này vợ Hải vừa mới mất chỉ còn có một đứa con gái không tiện mang theo. Hải bèn tới nhờ Uông Như Long.

Dư Đại Hải từ nhỏ được Kháng Vũ Thương nuôi nấng dạy dỗ hết sức tử tế cho nên trong lòng không quên vì họ Kháng mà báo thù. Uông Như Long không biết rõ bầu tâm sự này của Hải, chỉ thấy Hải có sức mạnh như thần bèn mời ở lại trong nhà làm một vị tiêu sư.

Về sau, khi Càn Long hoàng đế du Giang Nam lần thứ ba bị viên quan Tổng binh chơi cho vố nhốt chuồng ngựa hoảng hồn, bèn ngầm sai người tìm kiếm những tên mạnh tợn sung vào đội quân Thần Cơ doanh để bảo vệ thánh giá, Uông Như Long liền tiến cử ngay Dư Đại Hải.

Càn Long hoàng đế sai Hải thử tài ngay trước mặt mình, quả nhiên thấy Hải sức khỏe hơn người, liền trọng dụng Hải rồi khi hồi loan bèn mang theo Hải về kinh.

Lúc lên đường, Hải bèn đem đứa con gái của mình phó thác cho Uông Như Long. Nó tên gọi Tiểu Mai, hết sức xinh đẹp, duyên dáng. Long vốn tên hiếu sắc, trong lòng lấy làm vừa ý lắm. Thế rồi đợi khi Hải lên kinh, Long bèn cậy tiền của và thế lực, bức dâm Tiểu Mai và ép nàng làm nàng hầu.

Tiểu Mai vì thể diện của cha, đành nuốt giận nhẫn nhục đợi chờ. Dư Đại Hải trong cung, chỉ vì muốn báo thù cho gia đình họ Kháng nên tìm mọi cách để làm thân với Hoà Khôn. Hải thường đem dâng lễ vật này nọ luôn, lại khi nghe được chuyện chi cơ mật trong cung là lén tới báo cho Khôn hay.

Ngược lại, Khôn cũng nhiều lần nói tốt cho Hải trước mặt hoàng đế. Nghe Khôn ca tụng Hải, hoàng đế bèn cất nhắc Hải lên chức Thần Cơ doanh trưởng suốt ngày ở trong cung để hộ giá.

Lúc đầu, Dư Đại Hải lên kinh chỉ có một mục đích là giết chết Hoà Khôn để báo thù cho gia đình họ Kháng, nhưng về sau, ngày ngày gần gũi hoàng đế thấy ngài hoang dâm vô đạo, Hải tự nghĩ trăm họ chỉ vì một người mà phải chịu trăm cơ ngàn cực, nên quyết định giết luôn cả hoàng đế nữa để rửa hận cho bao nhiêu triệu đồng bào mình. Hải nghĩ ra một kế "nhất cử lưỡng tiện".

Số là theo qui củ trong cung thì bất luận Vương công, bối lặc thân tín đến đâu đi nữa, khi vào cung cũng không được phép mang vũ khí theo. Ngay cả bọn Thần Cơ doanh thị vệ cũng chỉ được phép đeo trường đao chứ cấm không được dùng đoản đao. Sở dĩ có điều cấm kỵ này bất quá vì sợ hoàng đế bị hành thích mà ra. Đeo đoản đao thì khó kiểm soát, còn đeo trường đao thì dễ thấy. Nhưng đặc biệt chỉ có Hoà Khôn là được mang theo cây đoản đao bằng vàng, trên có khắc hai chữ Hoà Khôn, là vật tặng của hoàng đế. Cây đoản này lúc nào Hoà Khôn cũng đeo ở trong mình thế mà không hiểu tại sao lần này lại bỗng rơi vào tay Dư Đại Hải.

Đêm hôm đó, Càn Long hoàng đế ôm Xuân A Phi trong lòng, thiu thỉu sắp ngủ thì bỗng một người cao lớn nhảy vụt vào phòng. Ngài vội tri hô lên, chưa dứt thì lưỡi đoản đao đã bay vụt tới trước mặt ngài. May được Xuân A Phi lẹ tay cầm cái phất trần vung bừa lại trúng phải khiến nó văng xuống đất Hoàng đế nhặt cây đoản đao lên xem thấy trên cán có khắc hai chữ Hoà Khôn rõ ràng. Lúc đó tên thích khách cũng đã chạy mất dạng không thấy đâu nữa.

Bọn thị vệ nghe tiếng tri hô chạy xô cả vào phòng. Hoàng đế sợ Hoà Khôn bị đình thần chỉ trích nên dấu nhẹm chuyện cây đao mà chỉ nói có tên thích khách nhảy vào ám sát và đã tẩu thoát. Bọn thị vệ nghe xong vội ùn ùn kéo ra ngoài, bủa đi khắp nơi lục soát mãi đến hôm sau cũng chẳng thấy hình bóng hung thủ.

Qua đến ngày thứ hai điểm lại hàng ngũ thị vệ thì thấy mất Thần Cơ doanh trưởng Dư Đại Hải. Thế là lệnh xuống lập tức đóng tất cả các cửa thành lại để bố ráp lùng bắt. Song Hải cũng đã mất tăm.

Hôm đó khắp triều Văn Võ đến tập hợp tại điện Võ Anh để cùng khấu thánh an. Tất cả đều lên tiếng tâu:

- Tên Dư Đại Hải vốn là người do Uông Như Long tiến cử. Bọn thần thiết nghĩ nên phái người tới áp giải ngay tên Long tới kinh, nghiêm hình thẩm vấn cho ra manh mối.

Lời tâu này làm cho Càn Long hoàng đế tỉnh ngộ. Ngài lập tức hạ dụ cho Lưỡng Giang Tổng đốc bắt giải Uông Như Long lên kinh.

Uông Như Long có một gia tư cư vạn. Ngày thường Long vẫn đem lại vật biếu kính Hoà Khôn. Bởi vậy, nay thấy có chỉ bắt Long, Hoà Khôn bèn một mặt giữ thánh chỉ lại, một mặt chạy vào cung xin tha cho y. Khôn tâu:

- Tâu Bệ hạ! Xin cứ giao cho thần vụ án này. Thần sẽ bắt Uông Như Long chịu trách nhiệm hoàn toàn về tên Dư Đại Hải, bắt y phải giao ngay tên hung phạm để cho thần thẩm vấn. Mối nghi ngờ của mọi người đối với thần ắt nhờ đó mà được giải, và Uông Như Long cũng sẽ nhờ đó mà thoát tội.

Càn Long hoàng đế bèn giao luôn vụ đại án này cho Hoà Khôn xét xử. Khôn được chỉ ý ngầm sai một người thân tín chạy về hẹn với Diêm Đại Sứ tỉnh Dương Châu đi gặp Uông Như Long.

Lại nói Dư Đại Hải phóng một dao không trúng Càn Long hoàng đế lập tức trốn ra khỏi kinh, chạy suốt ngày đêm về nhà Uông Như Long trốn tránh. Theo dự ý của Hải thì tuy không đâm chết được hoàng đế nhưng với cây đoản đao có khắc tên Hoà Khôn ấy, tính mạng của Khôn thế nào cũng khó toàn, không ngờ hoàng đế chẳng những không bắt tội Khôn mà còn giao cho y xử tội Hải nữa.

Dư Đại Hải trốn trong nhà Uông Như Long được nhiều tin tức càng ngày càng ghê khiếp. Hải tự biết tính mạng mình nguy rồi nên bảo với Long sẽ bỏ đi nơi khác. Lúc này Long đã được tin từ Bắc Kinh đời nào lại để cho Hải trốn đi.

Uông Như Long có một ngôi nhà lớn xây cất trên một gò nhỏ giữa sông, chung quanh bao bọc toàn nước. Long giấu Hải tại đây, rồi lén tới cáo quan. Viên tri phủ Dương Châu cùng với quan thủ bị đem năm trăm người ngựa lặng lẽ tới bao vây ngôi nhà, bắt Dư Đại Hải y như bắt một con cá trong giỏ rồi giải thẳng về kinh.

Dư Đại Hải vừa tới kinh, cũng chẳng được thẩm vấn khấu cung gì, bị đưa tuốt ra pháp trương chém đầu ngay để thị chúng.

Con gái Dư Đại Hải là Tiểu Mai, nghe được tin này khóc lóc thảm thiết, oán trách Uông Như Long thấy cha nàng chết mà chẳng cứu. Long liền đem hết tài bịp bợm khoác lác một hồi, che giấu luôn cả tội lỗi của mình, khiển Tiểu Mai nửa tin nửa ngờ chẳng biết đường nào mà lần.

Không ngờ sau khi giết Dư Đại Hải, Hoà Khôn lại tiến cử Uông Như Long có công bắt thích khách trước mặt hoàng đế. Một đạo thánh chỉ ban xuống truyền ân thưởng cho Long.

Uông Như Long đã bán đứng Dư Đại Hải, cưỡng chiếm Tiểu Mai lại còn được cả công danh, Long thường giắt cặp lông công lên mũ đội đầu, tới nhà bạn bè và thân thích ăn nhậu, nói khoác mình được Hoà Khôn quý trọng như thế nào, mình dùng kế bắt Đại Hải ra sao và được hoàng đế ban ơn như thế nào, với bộ mặt dương dương tự đắc lắm.

Những lời khoác lác này Long vừa nói ra thì đã bị một tên thủ hạ mách tới Tiểu Mai. Lúc đó Tiểu Mai mới biết rõ Uông Như Long không những cưỡng dâm mình mà còn bán đứng cả cha mình. Nàng căm giận Long, coi Long là kẻ thù chẳng đội trời chung. Nàng bèn bắt tình ngay với tên thủ hạ này để tìm cách điều tra những hành động của Uông Như Long. Từ đó Long làm gì, nói gì ở bên ngoài Tiểu Mai đều biết cả.

Hồi đó nhân muốn xây cất Giang Nam tứ thập cảnh tại vườn Viên Minh, Càn Long hoàng đế lại hạ chỉ Nam tuần để tới miền Giang Nam ngoạn cảnh. Quan viên thân sĩ các tỉnh dọc hai bên đường lại được một dịp chạy có cờ. Tại Dương Châu, viên tuần phủ lần này cũng làm theo các lần trước, nhờ vào bọn thân sĩ giàu có như Uông Như Long và Giang Hạc Đình lo chuyện đón giá.

Trước khi thánh giá tới Dương Châu, Uông Như Long lo lắng chạy vạy, đến nỗi ngày bỏ cả ăn, đêm quên cả ngủ. Do đó Long ít khi tới được phòng của Tiểu Mai.

Nhờ lúc vắng vẻ đó, nàng Tiểu Mai gọi tên thủ hạ vào phòng mình mật bàn việc đại sự. Tên thủ hạ này xưa kia vốn là một tên thân tín nhất của Uông Như Long. Bất cứ đi đâu Long cũng đều đem theo hầu hạ bên cạnh, một bước chẳng rời. Nay sau vụ Dư Đại Hải, Long đã tìm được tên khác thay thế, khiến hắn đem lòng oán giận.

Lần này Long cũng tính tiếp giá ngay trong vườn Hòe nên y cho sửa sang lại cẩn thận và trang hoàng hết sức lộng lẫy và đầy đủ, chẳng thiếu một thứ gì.

Chẳng mấy ngày, quả nhiên Càn Long hoàng đế đã tới. Vừa bước chân vào vườn ngài sực nhớ tới ngay những chuyện phong lưu lạc dật hồi nọ, bèn truyền Uông Như Long vào bệ kiến, hỏi chuyện Long về bọn gái yên hoa thuở trước, Long cứ nhất nhất tâu bầy, rằng Dương Châu hiện có "thập nhị kỹ nữ", được coi là mười hai cành kim thoa, tài sắc vẹn toàn.

Càn Long nghe xong lấy làm vui lắm, bèn bảo Long cho đưa ngay vào hầu. Việc này Long đã lo liệu sẵn rồi, bèn đáp ứng ngay. Trong số mười hai ả này ta thấy có vài ả quả là tuyệt thế giai nhân, có thể liệt vào loại khôi nguyên son phấn, một gọi là Thanh Hà tuổi mới mười tám, còn một con gọi là Giang Hà tuổi đúng mười bảy - Thanh Hà, Giang Hà vốn là đôi chị em ruột.

Càn Long hoàng đế vừa thấy hai chị em nhà này lòng đã mê như điếu đổ. Ban ngày, ngài cho gọi đủ mười hai danh kỹ ca vũ dâng rượu. Ban đêm chỉ cần có hai chị em Hà vào giường để thị tẩu mà thôi.

Bên trong thì Hoàng đế uống rượu chơi gái, bên ngoài thì Uông Như Long chạy vạy lo liệu đủ thứ đến phờ cả người.

Qua ngày thứ tư, trời đã về chiều, giữa lúc trong vườn Hòe mọi người đang bận rộn lo liệu, Uông Như Long bỗng thấy buồn tiểu bèn vội chạy ra góc tường, chỗ hẻo lánh nhất để xả. Long vừa bước tới chỗ đó thì cũng vừa thấy tên thủ hạ chạy theo ra. Hắn vốn từng là kẻ tâm phúc nên Long chẳng nghi ngờ gì mà phải đề phòng. Không ngờ vừa chạy đến bên cạnh Long, hắn vụt giơ cao con dao nhọn hoắt, nhè thẳng vào cổ họng của Long mà đâm một dao lút cán. Long chỉ la "ối" lên được có một tiếng rồi té ngửa ra chết tết. Tên thủ hạ hạ sát xong chủ mình tính tìm đường thoát. Nhưng tiếng la của Long đã khiến bọn thị vệ trong vườn nghe được. Chúng đổ xô lại vây lấy tên sát nhân.

Hồi 86

VỤ ÁN VĂN TỰ: CHẾT CẢ HỌ CHỈ VÌ THƠ

Tên thủ hạ của Uông Như Long bị bọn thị vệ vây bắt tự thấy khó thoát, bỗng quay ngược mũi dao nhè thẳng tim mình mà đâm vào, miệng chỉ kêu được một tiếng "chao ôi!" rồi ngã quay ra đất, mắt, trợn ngược lên, chết luôn tại chỗ.

Bọn thị vệ vội chạy lại gỡ con dao ra, cởi chiếc áo ngoài của hung thủ, bỗng thấy lộ ra một bộ ngực trắng mịn với cặp vú cao vòi vọi có đôi núm danh dảnh. Cả bọn lấy làm lạ. Lột thêm cái mũ, họ lại thấy một bộ tóc mây dài đen óng như tơ. Cuối cùng lột đến đôi giày ra, họ còn thấy một đôi chân nho nhỏ xinh xinh. Thì ra một thiếu nữ tuyệt sắc chứ chẳng phải là tên thủ hạ nào của Uông Như Long.

Bọn thị vệ không dám xem thường, một mặt chạy về báo cho thị vệ trưởng biết, một mặt chạy báo cho gia đình Uông Như Long hay. Vợ Long hối hả chạy tới nhìn xem mới biết tên thích khách giết họ Uổng chẳng ai xa lạ mà chính là Tiểu Mai. Bộ quần áo nam trang nàng mặc đó chính là bộ quần áo của tên thủ hạ thân tín nhất của Uổng. Hỏi ra mới biết tên thủ hạ này đã cao bay xa chạy từ hồi nào không rõ! Người ta lại lục trong túi áo tìm ra được lá đơn kêu oan. Trong lá đơn này có kể nào Hoà Khôn vu khống gia đình họ Kháng, nào cha nàng là Dư Đại Hải muốn thay họ Kháng để báo thù, nào Uông Như Long cưỡng dâm nàng, lại còn bán đứng cha nàng ra sao, và sở dĩ nàng hạ sát Long là bởi vì: một để báo thù cho cha, hai để rửa hận cho mình. Lá đơn nói thêm Hoà Khôn là một gian thần hại nước, mong cầu hoàng thượng lập tức bắt hắn trị tội.

Bọn thị vệ đều là những tay tâm phúc của Hoà Khôn, vội đem huỷ đơn đi ngay cho chủ, rồi tâu láo với Càn Long hoàng đế rằng tên thích khách nọ tay cầm con dao nhọn xông tới phía dưới ngự lâu, ngó trước nhìn sau có ý hành thích hoàng thượng song bị Uông Như Long trông thấy chặn hắn, do đó hắn mới giết chết Uông Như Long.

Càn Long hoàng đế nghe bọn thị vệ tâu láo mà vẫn tin là thật. Bởi vậy ngài hạ chỉ truy tặng cho Long đệ nhất phẩm triều đình, còn sai Lương Thi Chính thay mặt mình tới nhà Long làm lễ "ngự tế", đồng thời cấp cho vạn lạng bạc dùng cho đám tang.

Từ khi xảy ra vụ Uông Như Long bị giết, Càn Long hoàng đế hễ đi tới đâu cũng nơm nớp đề phòng. Ngài nghĩ rằng Thanh Hà, Giang Hà cùng cả bọn mười con danh kỹ kia đều không có ý tốt cho nên ngay đêm đó đuổi ra vườn hết. Mặt khác ngài hạ lệnh cho tập hợp người ngựa rồi điều động tuần thám ngày đêm bên ngoài vườn.

Hai chị em Thanh Hà và Giang Hà đang được hoàng đế sủng ái, bỗng thấy bị đuổi ra chẳng hiểu ý tứ của ngài ra sao, nên hai nàng nũng nịu làm bộ như quyến luyến lắm không muốn đi. Ngài mới nói dối là khi nào hồi loan sẽ đem cả hai về kinh, lại vờ hỏi hai nàng sống nơi đâu thì Thanh Hà hồi tấu:

- Khuê phòng của bọn thiếp ở ngay trên bờ sông, phía dưới lều có trồng một cây liễu lớn.

Càn Long hoàng đế lại bảo:

- Bọn ngươi chờ tin ta hồi loan, khi tới Dương Châu thì treo ngay một chiếc lồng đèn đỏ lên trên lầu. Ta sẽ sai người tới đón bọn ngươi về kinh.

Hai chị em Thanh Hà thấy Càn Long hoàng đế nói vậy, mừng rỡ khôn xiết, và sau đó về ngay căn phố lầu bên sông ngày ngày chờ đợi.

Trên đường du ngoạn, Càn Long hoàng đế thường gặp phải thích khách, cho nên ngài nghi rằng lòng dân vẫn còn nhiều kỳ thị Mãn - Hán, chỉ muốn giết hoàng đế nhà Mãn Thanh để báo thù cho dân tộc Hán. Ngài lại tự nhủ cái tư tưởng báo thù rửa hận đó phần nhiều là do bọn đọc sách, tức bọn trí thức xách động mà nên. Bởi vậy muốn tra xét xem dân tâm ngay dối, yêu ghét ra sao, trước hết cần phải theo sát mấy anh chàng đọc sách đó đã.

Nghĩ vậy Càn Long hoàng đế bèn hạ chiếu cho những vùng ngài đi ngang qua, bọn sĩ tử được phép dâng thơ văn sáng tác lên để đích thân ngài xem, nếu hay sẽ thưởng tiền nếu hay tuyệt sẽ thưởng quan hàm chức tước. Chiếu chỉ vừa ban xuống thì bọn sĩ tử vọng tưởng danh lợi ùn ùn kéo tới dâng thơ, hiến văn. Hoàng đế nhận thơ và giao cho mấy vị đại thần thị tòng giỏi văn thơ duyệt xét. Tuy không có áng văn chương nào gọi là kiệt tác nhưng cũng không có câu nào tỏ ý chống đối cả

Hồi đó có một vị danh sĩ già họ Giao người Giang Âm, nhân vì công danh chẳng vừa ý bèn sáng tác một bộ tiểu thuyết tên là "Dã tấu bộc ngôn" (lời nói thẳng của ông lão nhà quê).

Họ Giao ỷ vào tài học của mình cho nên trong sách nói đủ thứ: nào là thiên văn, địa lý, nào là quân sự, nào là lễ nhạc, lịch số, nào là âm nhạc văn thơ… chẳng có thứ nào là chẳng nói tới. Nhân vật chính trong chuyện chẳng phải ai khác mà chính là ông ta đội cái tên khác đó thôi. Khì kể đoạn "Tây Hồ giết rồng" thì lời lẽ khí khái quả chẳng tầm thường, nhưng khi kể tới nàng Lý Xuân Nương nào đó thì giọng văn lại dâm đãng nhơ nhớp lạ thường.

Ông lão có một cô gái tên gọi Hàng Nương, thông hiểu chữ nghĩa lại rất thông minh. Cô Hàng thấy cha mình viết sách có nhiều chỗ phạm kỵ lại mô tả quá dâm ô thì thế nào cũng bị huỷ hoặc cấm, nên thường hay khuyên cha sửa chữa lại. Nhưng phải cái ông lão Giao, tính ngông nghênh hết sức chướng, chẳng thèm nghe con! Đã thế ông lại còn bắt Hàng Nương chép lại bộ sách của ông bằng chữ chân phương hết sức cẩn thận, và đóng thành một trăm bản, chứa trong một cái tráp. Ông chứa tại đây là để chờ khi Càn Long hoàng đế ngự giá ngang qua là sẽ đem dâng. Ngày thường có vị thân hữu nào đến nhà là y như ông đem sách ra cho họ xem, để khoe cái học rộng của mình. Trong số thân hữu đó có một vị tên gọi Kim Lang Phủ, vốn là một tay thiếu niên đọc sách, lại giàu có. Phủ thấy Hàng Nương xinh đẹp nên đã nhờ mối lái tơ ướm đôi ba lần nhưng lão Giao chê Phủ là người khinh bạc, từ chối. Phủ im lặng từ đó nhưng luôn căm giận trong lòng.

Chú ruột của Phủ tên gọi là Kim Ngẫu Phương cũng có chuyện kiện tụng lôi thôi tới cửa quan về chuyện ruộng đất với gia đình họ Giao, do đó đôi bên lại cũng có điều không thuận nhau.

Kim Lang Phủ được biết ông lão họ Giao viết bộ sách trong đó rất nhiều điều kỵ huý. Bộ sách này chính Phủ đã được đọc. Tin chắc được dịp tốt để rửa hận, Phủ liền lên nha môn của quan tri phủ Giang Âm để mật cáo. Viên tri phủ này vốn đã được mật chỉ của triều đình về việc sưu tra những trước tác phản nghịch, nay được Kim Lang Phủ cáo mật tỏ ý mừng lắm.

Thế là viên tri phủ Giang Âm đích thân tới nhà lão Giao để thăm viếng. Ông lão họ Giao có biết đâu là kế, lại còn vác cả bộ sách "Dã tẩu bộc ngôn" của ông ra để khoe nữa. Viên tri phủ thấy trên đầu sách có rất nhiều những lời khoa trương khoác lác, nhất là đoạn kể việc "giết rồng" thì rõ ràng ngụ ý giết vua rồi, bèn ngỏ lời tán tụng mấy câu lấy lệ, và quyết rằng một khi dâng sách lên hoàng đế thì thế nào cũng được thưởng. Ông lão họ Giao nghe nói lấy làm đắc ý lắm!

Hôm đó, Càn Long hoàng đế tới Giang Âm. Ông lão họ Giao mặc áo thụng dài trịnh trọng nâng cái tráp, cung kính quỳ lạy ngay bên bờ sông để dâng sách. Viên tri phủ Giang Âm đã chờ đợi trước, chỉ còn chờ trên ngự chu hô tiếng "bắt" là y hạ thủ ngay. Không ngờ khi dâng lên ngự chu, đem mở tráp ra thì tuy có một bộ sách thật nhưng bên trong chẳng có chữ nào, toàn là giấy trắng mà thôi.

Càn Long hoàng đế lấy làm lạ, truyền chỉ ra ngoài hỏi như thế nghĩa lý gì. Ông lão họ Giao lúc đó mới biết sách của mình chi toàn có giấy trắng bèn hoảng hồn bạt vía, chẳng hiểu ra sao cả, miệng méo xệch đi không còn nói được một câu nào nữa.

Càn Long hoàng đế thấy bộ tịch ông lão như vậy, cho rằng chỉ là một lão khùng bèn truyền chỉ ra ngoài quở trách vài ba câu rồi cho về. Thế là Kim Lang Phủ với viên tri phủ Giang Âm hoài công bao ngày đồ mưu lập kế hại người, rút cục suýt hại chính cả mình.

Riêng đối với ông lão họ Giao bộ sách "Dã tẩu bộc ngôn" là cả một bầu tâm huyết từ lúc còn trẻ đến lúc đời đã hầu tàn. Ấy thế mà nay một chữ cũng chẳng thấy, thử hỏi làm sao ông chẳng thương tâm. Ông ở trong nhà thở ngắn than dài, hết ngày này qua ngày khác.

Ông có ngờ đâu rằng bộ sách quý của ông đã bị chính con gái cưng của ông đánh cắp đem chứa vào trong một cái chum nhỏ, chôn kỹ trong vườn sau. Mặt khác nàng mua giấy về đóng một trăm quyển khác giống in như những quyền cũ, bỏ vào trong tráp khoá lại cẩn thận. Ấy chính nhờ cô con gái biết lo xa cô hành động khôn ngoan này mà ông đã thoát tội.

Mãi về sau, khi cha đã mất và mình đã có chồng rồi, Hàng Nương đến đào chum sách lên cất kín trong nhà nên mới còn truyền đến ngày nay, đó là việc sau xin kể vào dịp khác.

Lại nói Càn Long hoàng đế phòng người Hán phản bội, nên đã gây ra những vụ "án văn tự". Bởi thế hồi đó, ngài đã tìm ra được hai vụ - một vụ là "Hắc mẫu đơn thi" (thơ vịnh hoa mẫu đơn mầu đen), còn một vụ nữa là "Trụ lâu thi cảo". Bài thơ vịnh hoa mẫu đơn đen vốn là sáng tác phẩm của Đại học sĩ Thẩm Đức Tiềm. Tiềm tên tự là Qui Ngu, vốn một tay thơ cự phách. Càn Long hoàng đế tuy vốn liếng văn chương chẳng mấy gì, nhưng lại thích khoe mình là người văn học thường xướng hoạ thi ca với bọn đình thần. Nhưng ngài chỉ sợ mình có phen lộ tẩy, lòi cái dốt nát ra khiến bọn bày tôi cười vào mũi cho, bởi thế ngài mời hai vị đại thần luôn luôn ở cạnh để làm bài "gà" cho mình. Một người tên gọi Kỷ Hiều Phong chuyên làm văn thay cho ngài. Còn một người nữa chính là Thẩm Đức Tiềm, chuyên làm thơ. Về sau Tiềm chết đi. Lương Thi Chính thế vào chân đó. Thẩm Đức Tiềm thấy Càn Long hoàng đế coi trọng mình nên thường có vẻ kiêu ngạo, ngay cả trước mặt ngài. Cũng vì mọi việc thơ phú đểu phải nhờ Tiềm, Càn Long hoàng đế cũng bỏ qua đi, không muốn nói đến những tiểu tiết đó trái lại còn đặc biệt kính trọng là khác. Lúc sáu mươi tuổi, Tiềm vốn là một tú tài. Nhưng đến bảy mươi tuổi thì Tiềm vọt lên cái chức Tể tướng. Và đến tám mươi tuổi, Tiềm từ quan về vườn. Thế mà Hoàng đế vẫn thường còn sai người tới nhà riêng vấn an, thật là cả một điều vinh dự lớn lao cho Tiềm.

Càn Long hoàng đế có làm mười hai "Ngự chế thi tập", bèn sai đưa tới nhà Thẩm Qui Ngu để nhờ duyệt lại, và nếu cần thì sửa sang cho thơ được thập phần hoàn hảo. Thẩm Qui Ngu nhận sách, đem duyệt, chẳng thèm nể nang gì nhà vua, cứ thực mà khen chê, khiến trong tập thơ có nhiều chỗ bị phê bình quá gắt gao, với những lời lẽ rất tệ nữa, đó là chưa kể còn rất nhiều đoạn thơ bị vứt bỏ đi là khác. Khi bộ "Ngự chế thi tập" gởi trở về kinh, Càn Long hoàng đế xem lại, trong lòng thực không vui tí nào, nhưng vì nể mặt lão thần, ngài đảnh làm thinh, không nói gì cả.

Cách một năm sau, Thẩm Qui Ngu chết. Năm này cũng là năm mà Càn Long hoàng đế tuần du phương Nam, đi về ngả Tô Châu. Qua địa phương này, ngài bỗng nhớ lại họ Thẩm, bèn truyền chỉ xa giá tới phần mộ của Thẩm để tế viếng. Cũng trong dịp này, ngài xuống chỉ gọi hết con cháu của họ Thẩm đến. Ngài nghĩ bụng Thẩm Đức Tiềm tức Qui Ngu vốn là thi nhân một thời thì trong nhà tất nhiên phải có trước tác, thế là ngài liền hỏi thử xem. Đám con cháu của Tiềm thừa hưởng sự nghiệp của ông cha, quá sung sướng rồi, ngày đêm chỉ rủ nhau cờ bạc rong chơi, chẳng học hành gì cả, cho nên có biết chữ nghĩa gì nhiều đâu. Bởi thế, khi Càn Long hoàng đế hỏi tới, chúng đâu có biết gì là phạm huý hoặc không phạm huý, vội vào nhà lễ mễ đem hết mọi di cảo của ông cha ra và dâng lên.

Càn Long hoàng đế mở ra xem, thấy còn có rất nhiều bài thơ chưa được ghi vào trong thi tập, hơn nữa rất nhiều bài thơ làm thay cho hoàng đế cũng được chép vào trong, phía dưới chú thêm ba chữ "ĐẠI ĐẾ TÁC" (làm thay vua). Hoàng đế xem xong, bất giác thẹn quá hoá giận. Ngài tự nhủ: lão già này biết thơ của trẫm đã in và phát ra ngoài rồi, ấy thế mà lão vẫn còn đề chữ "làm thay" trong thi cảo này, há chẳng phải là có dụng ý phỉ báng trẫm? Lòng lúc này quả không được vui tí nào, song ngài vẫn chưa tìm ra cách để xử trí.

Nhưng đến lúc xem tới cuối sách, ngài thấy một bài thơ nhan đề là, "HẮC MẪU ĐƠN THI" (*) ngay vào bài đã hạ hai câu: "Đoạt Chu phi chính sắc. Dị chủng diệc xưng vương", thì ngài không còn giữ được bình tĩnh nữa, cả giận quát lớn:

- Chà! Tên đại nghịch bất đạo Thẩm Qui Ngu giỏi thật! Rõ ràng hắn nói trẫm đã cướp ngôi thiên tử của họ Chu, lại còn chửi trẫm là dị chủng nữa. Như thế thì làm sao trẫm nhịn được?

Thế là ngài lập tức hạ chỉ:

"Thẩm Đức Tiềm lúc sinh thời được hậu ơn của triều đình. Nay xem tới di trước, trẫm mới biết y có ý phỉ báng triều, có lòng phản loạn chống đối. Vậy trẫm hạ chỉ: quật mồ phá bia của hắn, kéo thây ma hắn trong quan ra, chém đầu răn chúng. Còn con cháu họ Thẩm nhất luận đày tới Hắc Long Giang để sung quân. Chỉ giữ lại cháu nội năm tuổi, truất làm thường dân, để nối dõi tông đường mà thôi".

Vụ án văn tự này kết liễu thì cả một bọn văn nhân anh nào anh nấy hoảng quá, suốt ngày chỉ cúi đầu rụt cổ ngồi trong xó bếp, chẳng dám bò ra tới cổng nữa. Và cũng từ đó, chẳng anh nào đám ho he thơ phú để đem dâng ngự lãm.

Chú thích:

HẮC MẪU ĐƠN THÍ (Thơ hoa mẫu đơn đen)

Đoạt chu phi chính sắc.

Dị chủng diệc xưng vương

Có nghĩa là:

"Cướp màu đỏ thì chẳng phải là màu sắc chính

Giống quái lạ cũng xưng vương"

Trong câu thơ thứ nhất: Chu có nghĩa là màu đỏ. Hoa mẫu đơn được gọi là vua các loài hoa - mẫu đơn màu đen tức là đã bị mất đi màu đỏ. Chu còn là họ của vua nhà Minh vì thuỷ tổ triều. Minh là Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ). Câu thơ trên có ý ám chỉ nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh thì chằng phải là chính thống. Câu thứ nhì có nghĩa "giống quái lạ cũng xưng vua". Ý mỉa mai khinh ghét nhà Màn Thanh: "dị chủng" (giống quái lạ) ám chỉ nhà Mãn Thanh thuỷ giống Man rợ ở phía bắc, chứ không phải giống Hán.

Càn Long nghĩ vậy nên tức giận quá mà trừng phạt Thẩm Đức Tiềm.

Hồi 87

THÊM HAI VỤ ÁN VĂN CHƯƠNG LY KỲ

Trong khi vụ án Hắc mẫu đơn thi diễn xảy ra thì có một vụ khác cũng chẳng kém phần bi thương. Số là tại miền Đông Đái đất Dương Châu có một vị thân sĩ tên gọi Phó Vĩnh Giai, bỗng đem tới dâng một tập thơ nhan đề là "Nhất lâu thi tập" và cáo mật tới viên tuần phủ Giang Tô nói tác giả của tập thơ này là Từ Thuật Quỳnh có ý phản nghịch, nên trong thơ có rất nhiều điều ngụ ý chống đối, ví dụ như bài "Chính Đức bôi thi" (thơ tả cái chén Chính Đức - Chính Đức là niên hiệu vua nhà Minh) có hai câu "Đại minh thiên tử trùng tương kiến, Thả bà hồ nhi các bán biên" (xin tạm dịch: Vua rất sáng suốt hai lần gặp. Hãy gác bỏ cái bầu rượu kia một bên). Sau khi móc ra hai câu thơ này rồi, Giai còn tán rộng nghĩa những chữ quan trọng để viên tuần phủ thấy rõ hơn:

- Hai chữ Hồ nhi (hồ kia) có ý ám chỉ dân rợ Hồ và như thế tức là tên phản nghịch họ Từ nhằm vào đương kim hoàng đế chứ còn gì. Câu thơ "Thả bà hồ nhi các bán biên" phải chăng có ý nói: lật đổ nhà Đại Thanh để lập lại triều Minh nếu như ta ghép thêm cả câu thơ trên "Đại minh thiên tứ trùng trùng kiến" vào nữa?

Hồi đó Càn Long hoàng đế đang cho người đi khắp nơi sưu tra những thi ca ngụ ý phản nghịch. Bọn quan lại địa phương lập tức ra sức lấy lòng hoàng đế để bước thang danh lợi của mình được chóng vánh hơn. Vì thé, bài thơ đối với viên tuần phủ Giang Tô quả thật là một con đường tắt mau lẹ nhất để đạt tới nấc thang danh lợi chót vót. y mừng như bắt được vàng, tức khắc đem tâu lên hoàng đế.

Chẳng mấy ngày, một đạo thánh chỉ ban xuống, quả nhiên, phần mộ của Từ Thuật Quỳnh cũng bị quật lên, con cháu họ Từ bị chính pháp một loạt. Gia tài điền sản bị tịch thu và đem thưởng cho Phó Vinh Giai. Nhưng đau hơn nữa là viên tri phủ Dương Châu Tạ Khải Côn và Giang Tô nhiên đài Đào Dị, bị viên tuần phủ Giang Tô hạ bệ luôn cả hai người bằng cách vu họ là che chở cho Quỳnh nên không báo. Thế là Côn và Dị mất chức, bị tống lên mãi Tân Cương để sung quân.

Tuần phủ Giang Tô có công lớn, quả nhiên được thăng một bước lên chức Lưỡng Giang tổng đốc. Thật đáng thương cho toàn gia Từ Thuật Quỳnh, chi vì vài câu thơ mà chết một cách thê thảm!

Nhưng tại sao Phó Vĩnh Giai lại đi cáo mật như vậy? Số là Giai có tư thù với gia đình họ Từ. Cha của Giai đã làm tới chức ngự sử, cáo lão về nhà, tính lại ham chơi bời phóng đãng. Hồi đó miền Đông đái có một ả kỹ nữ tên gọi Tiểu Ngũ Tử, mặt mũi xinh đẹp, tính tình lại nhã nhặn, nhu hoà. Chỉ vì mê người đẹp này, Phó Thân Sĩ đã nướng luôn một lèo hơn vạn lạng bạc. Ông cứ tưởng rằng tiền vãi ra như nước thì thế nào cũng phải cưới được người đẹp đem về chứa ở nhà vàng.

Nào ngờ Tiểu Ngữ Tử vốn đã thầm yêu Từ Thuật Quỳnh từ lâu Quỳnh hồi đó là ruột mạc hữu trong nha môn quan tri phủ Dương Châu. Quỳnh trẻ tuổi, đẹp giai, lại học giỏi.

Sau khi được điều tới Giang Tô phiên ty thì thế lực của Quỳnh lại còn hách hơn nhiều, Quỳnh lúc đó chẳng còn e ngại gì, cưới phăng Tiểu Ngữ Tử về, sống rất hạnh phúc.

Phó Thân Sĩ nghe được tin này tức đến điên ruột. Thế rồi xảy ra vụ án "Náo tào" (chống đối việc chuyên chở lương thực) tại Dương Châu. Từ Thuật Quỳnh cáo mật nói Phó Thân Sĩ là người chủ mưu trong cuộc "Náo tào" này. Công văn nã tróc đã gởi xuống nhưng Phó Thân Sĩ nhờ hối lộ đã thoát được cái vụ lớn này. Tuy thoát được nạn, nhưng gia tài cũng vì đó mà khánh tận, Sĩ cũng vì đó thành bệnh mà chết.

Lúc hấp hối Phó Thân Sĩ trối trăng lại cho con là Phó Vĩnh Giai lo trả cho bằng được thù này. Đã nhiều năm qua, Giai vẫn khắc ghi trong lòng, nhưng phải đợi mãi tới vụ tập thơ "Nhất lâu thi tập", mới hại được gia đình họ Từ đến nhà tan người chết. Đã thế Giai lại còn được hưởng cả gia tài điền sản họ Từ, thử hỏi Giai mãn nguyện thế nào.

Lúc này. Càn Long hoàng đế ngự giá từ Hàng Châu trở về, thuyền đi qua tỉnh Dương Châu, nơi đây xảy ra một vụ án khá ly kỳ nữa. Số là đất Dương Châu có một ông nhà giàu họ Tôn chết cách đây năm năm. Bà Tôn sống trong cảnh goá bụa, cố mà dạy dỗ hai đứa con gái. Đứa lớn tên gọi Tôn Hàm Phương đứa nhỏ tên gọi Tôn Thục Phương. Cả hai lớn lên đứa nào cũng xinh đẹp như hoa lại còn biết chữ, giỏi may vá thêu thùa nữa.

Năm ấy Hàm Phương đã mười bảy, Thục Phương mười sáu. Đó là cái tuổi dậy thì nhiều hứa hẹn nhất của người con gái. Toàn thành Dương Châu ai cũng đều ca ngợi cặp giai nhân tuyệt sắc của gia đình họ Tôn và đều muốn đem lễ vật tới để mối mai ướm hỏi. Nay họ Trương, mai họ Lý, các ông mai bà mối chút xíu nữa thì đạp gãy cửa ngõ nhà họ Tôn.

Bà Tôn vốn cưng con, cái gì cũng phải hỏi con trước đã. Không ngờ với việc gả bán, hai cô gái cưng của bà đều cự tuyệt hết, đều nói đợi tới hai mươi mới tính chuyện chồng con. Ý nguyện của hai cô là phải chọn một đức lang quân tài mạo song toàn mới thèm lấy. Ngoài ra hai cô còn có một điều tâm nguyện đặc biệt nữa là: Vì hai cô rất thương yêu nhau nên kiếp này đời này quyết không rời nhau và thề chỉ lấy chung một người chồng mà thôi. Ví thử sau này không được như nguyện, hai cô cùng thề suốt đời không lấy ai. Nguyện vọng của hai cô như vậy quả thật hiếm có trên đời, đến nỗi bà Tôn tuy là mẹ mà cũng chẳng rõ được cớ sự.

Hai cô cùng ở trên một căn phố lầu bên sông, phía dưới lầu có trồng một cây dương liễu buông mành lả lướt xanh xanh, che khuất một phiến đá lớn bằng phẳng mịn màng. Cứ mỗi lần cuộn rèm, xuống lầu, hai cô lại kề vai ngồi trên phiến đá buông câu ngắm cảnh. Cảnh trí trên sông này quả thật u nhã, ít thuyền bè qua lại, nên nhờ đó hai cô cũng ít sợ người ta nhòm ngó tới cái sắc của mình. Tuy hai cô tưởng vậy nhưng thực ra kẻ cố tình ngồi rình trong bụi.

Về phía bờ sông đối diện, có một anh chàng trẻ tuổi đẹp trai ngắm nhìn đến no, đến chán cặp vưu vật mà tạo hoá khéo nặn khéo đúc cho dòng họ Tôn. Chàng trẻ tuổi đẹp trai tên Cố Thiếu Xuân cũng vốn con nhà quan, thân phụ tên gọi Cố Đại Xuân làm ngự sử tại kinh đô. Mẫu thân chàng là Hồ thị ở nhà nuôi dạy cậu con trai đọc sách đêm ngày. Thư phòng của công tử Thiếu Xuân lại ở ngay dưới căn lầu nhìn qua bên kia. Cứ mỗi lần thấy hai chị em Hàn Phương ngồi trên phiến đá buông câu, Thiếu Xuân lại ngồi bên trong cửa sổ chăm chú nhìn qua. Thật là một bức hoạ tuyệt mỹ của đôi thiếu nữ!

Thiếu Xuân còn trẻ người nên nhút nhát trước hai nàng, chàng chỉ dám nhìn chứ chẳng dám nói. Tính chàng lại hiền hậu, chẳng bao giờ dám đường đột làm quen cả.

Nhưng về sau, chàng thấy mình cầm lòng không đậu, bèn thổ lộ hết cho mẹ nghe để mẹ nhờ người mối lái đánh tiếng cho mình. Hai chị em nhà họ Tôn văn nhắc lại lời nguyện xưa là hai mươi tuổi mới lấy chồng. Thiếu Xuân đành chịu, chẳng còn biết cách nào, chỉ ngày ngày ngồi bên cửa sổ ngó qua bờ bên kia, để cho lòng chết dần theo mối tình tuyệt vọng, bỏ cả sách vở, bỏ cả thơ văn.

Suốt ngày chàng chỉ ngồi trong thư phòng thở ngắn than dài. Con thì thế nhưng mẹ thì khác. Bà Hồ thị cứ cho rằng Xuân chăm học lắm, đang cố sức dùi mài kinh sử để chờ cướp mũ áo Trạng nguyên nên chẳng dám tới làm mất thì giờ vàng ngọc của cậu con trai cưng của bà.

Phía bờ bên kia, hai chị em Hàm Phương có biết đâu rằng hiện có người đang tan nát cõi lòng vì mình. Nhưng ở đời, thiên hạ thường có nhiều chuyện trớ trêu, đâu có bình an nổi mãi. Hồi đó trời đã hết xuân sang hè. Suốt một giải dọc sông hoa nở tưng bừng, nước trong leo lẻo. Khách nhàn du nhìn cảnh ai chẳng bâng khuâng tấc dạ. Còn hai chị em Hàm Phương chiều chiều ra ngồi trên phiến đá hóng mát buông câu.

Một hôm, trời đã về chiều, trước cái cảnh ngày dài người vắng, Hàm Phương một mình ra bờ sông, vừa định ngồi xuống, bỗng nàng xây chân té xuống nước.

Lúc đó hai bên bờ vắng lặng không một bóng người, nên chẳng ai biết mà tới cứu. Nhưng đối với Thiếu Xuân, có cái gì của hai nàng mà chàng lại chẳng biết, bởi vì lúc nào đôi mắt của chàng hình như cũng có một chất keo nó dính chặt vào hình dáng của người đẹp, không muốn rời ra lấy một phút một giây nào!

Thấy "người của lòng mình" rơi xuống sông, Thiếu Xuân vội cởi áo dài, mở cửa sau, tung người ra phía trước, nhào xuống giữa dòng nước. Mục đích của chàng lúc đó là nhào ra để cứu nàng, nhưng ngờ đâu cả hai người, chàng cũng như nàng, chẳng một ai biết bơi lội, thành thử chỉ chút xíu mất mạng cả hai.

Thiếu Xuân cố sức cứu người đẹp cho bằng được nên tuy không biết lội, chàng vẫn nhảy xuống nước, nhào tới cạnh nàng, chàng thấy miệng mình đã uống nước, đầu đã như vang váng, thấy mình hình như bị chìm dần xuống đáy sông. Nhưng chàng vẫn cố ngoi lên để thấy "người của lòng mình" đang quẫy đạp nháo nhào, mớ tóc mây bị nước cuốn rã rời trên mặt sông. Chàng đem hết sức bình sinh ngoi tới, cố mong nắm được áo nàng.

Hàm Phương thấy có người tới cứu, mạng sống là cốt thiết nên chẳng còn e sợ xấu hổ gì nữa, vội quơ tay ôm cứng lấy.

Thiếu Xuân lúc đó dù biết cái chết cập kề, cũng không muốn rời Hàm Phương ra nữa. Thế là hai cô cậu ôm cứng lấy nhau.

Nhưng cô cậu có biết đâu ở dưới nước mà cứ ôm nhau như ở trong phòng kín thì chỉ có xuống đáy sông mà ngồi. Đúng như vậy, hai cô cậu rủ nhau rơi xuống đáy sông thiệt.

Tuy vậy Thiếu Xuân vẫn cố đem sức trai để chống với tử thần, chàng đạp chân xuống đáy sông tung người lên, đội hẳn người yêu lên trên mặt nước. Mấy lần như vậy.

Giữa lúc nguy cấp ấy, cô em gái Thục Phương đi ra bờ sông tìm chị, thấy vắng hoe mà giữa sông lại sủi tăm, sủi bọt dữ dội và cuối cùng một cái đầu lúc hiện lúc mất khỏi mặt nước. Nàng nhận ra là chị mình vội la lên một tiếng lớn rồi chính nàng cũng nhào luôn xuống nước.

Nhưng may tiếng la lớn ấy đủ để báo động cho bà con lối xóm hai bên bờ sông biết, rồi họ xô tới cửa sổ nhìn ra sông thấy một cô gái đang loi ngoi trên mặt nước. Thế là họ tông cửa chạy ra, ba chân bốn cẳng chạy kiếm nào sào nào gậy thọc xuống nước để cứu Thục Phương lên bờ.

Lên được bờ rồi Thục Phương lấy tay chỉ xuống lòng sông, vừa khóc vừa bảo chị nàng đang chìm xuống đáy kia. Cả bọn nghe nói, vội vã lao xuống nước để cứu. Khi đem được lên bờ thì Hàm Phương đã mê man bất tinh. Nhưng kẻ đáng thương nhất phải là Cố Thiếu Xuân. Chàng đã chìm xuống lòng sông và không có ai cứu chàng cả!

Bà Tôn ôm con gái lớn vào lòng, một tiếng khóc kèm theo một tiếng gào. Cả bọn xô lại tìm cách cứu Hàm Phương, còn có ai chú ý tới anh chàng dại gái kia nữa đâu. Mãi đến khi bà mẹ của Xuân nghe bờ sông bên kia kêu la om xòm, quay nhìn vào thư phòng không thấy con mà căn phòng thì lạnh ngắt, bèn chột dạ, rồi đến khi nhìn thấy cái áo dài cởi bỏ đó, bà mới biết con bà nguy rồi.

Bà vội chạy ra bờ sông hô hoán ầm ĩ. Nhìn thấy nơi đây còn đôi giầy của con bà, kêu khóc vang lên. Bà chỉ xuống sông, lạy van mọi người cứu con bà.

Thế là những kẻ biết bơi lội nhất tề nhảy ùm xuống nước để cứu Thiếu Xuân. Phải mò đáy sông một lúc, họ mới đem được chàng lên bờ. Bà mẹ Hồ thị chạy lại ôm lấy con thì đã thấy đôi mắt của con mình mờ đi, hơi thở như đứt đã từ lâu.

Bà hoảng hồn bạt vía, hai tay múa loạn lên, đôi chân như muốn khuy xuống, khóc rống lên: "Ôi con ôi là con ôi!"

Hàm Phương lúc này đã dần dần tỉnh lại, bà Tôn vực nàng trở vào phòng, thế là cả đám Hàm Phương quay lại với Thiếu Xuân để cấp cứu. Bà Hồ thị lại mời cả một ông lang thuốc đến dùng phép gia truyền cứu chữa.

Cấp cứu suốt từ đầu hôm mãi tới nửa đêm mới thấy Thiếu Xuân hồi tỉnh lại. Nhưng khi mở được mắt ra thì câu nói đầu tiên của chàng là nhờ mọi người đi cứu Tôn tiểu thư. Khi mẹ chàng cho biết Tôn tiểu thư đã được cứu thoát, chàng mới nhắm mắt và không nói thêm lời nào nữa.

Từ hôm đó, Cố Thiếu Xuân nhuốm bệnh liệt giường, luôn một tháng trời mới nhóc nhách bò dậy được. Về phía bên kia, người đẹp Hàm Phương của chàng đã đi lại được như thường từ lâu. Và cũng từ đó, nàng đã giữ lại trong tâm khảm cái hình bóng dáng quý đáng yêu của người ân nhân giàu lòng hy sinh, đã liều mạng cứu mình.

Được tin chàng bị bệnh nặng, hai chị em nàng đốt nhang ngay tại phòng mình, cầu trời khấn phật phù hộ cho chàng chóng lành.

Sau khi được biết bệnh đã thuyên giảm, hai chị em bèn xin mẹ sang thăm để đáp lại lòng tốt của chàng đã cứu mình đến nỗi suýt bỏ mạng và để bà con lối xóm chê cười gia đình nhà họ Tôn chẳng biết lễ nghĩa, gì. Bà Tôn nghe con nói có lý, bèn đưa hai cô gái sang nhà họ Hồ.

Hồ thị ra tiếp, trò chuyện thân mật với nhau một hồi, ba mẹ con lại tới bên giường Thiếu Xuân để hỏi thăm sức khỏe của chàng. Chàng cũng như nàng, hai bên đều có nỗi niềm tâm sự bâng khuâng, muốn nói mà không dám là bởi vì trước mặt còn có bà mẹ đứng đấy. Người ta chỉ thấy đôi bên bốn mắt nhìn nhau, chẳng nói một câu.

Nhìn thấy Thiếu Xuân rơi đôi dòng lệ trên má, Hàm Phương mắc cỡ quá cúi đầu đứng lùi lại sau lưng mẹ.

Bà Tôn cùng bà Hồ quay ra phòng ngoài, nhân lúc không có mặt Hàm Phương, hai bà đem câu chuyện cầu thân ra nói.

Bà Hồ nói với bà Tôn:

- Việc cầu hôn, gia đình chúng tôi bên này đã có đôi lần ngỏ lời xin bên quý quyến rồi. Bây giờ chỉ xin bà hỏi lại Tôn tiểu thư một tiếng, nếu tiểu thư bằng lòng thì chúng tôi bên này xin đủ lễ ngay.

Bà Tôn vui vẻ đứng dậy cáo từ.

Hồi 88

SỐNG CHẾT ĐỀU BỞI SỐ

Qua hôm sau, bà Tôn quả nhiên thấy bà Hồ cho mụ mối tới nhà. Lúc trước, Hàm Phương tiểu thư thấy nhà họ Cố đến cầu hôn, cứ tưởng rằng chàng họ Cố bất quá chỉ là anh chàng khố đũi áo nâu, quê mùa dốt nát nên mới cự tuyệt.

Nhưng lần này nàng thấy chàng rõ là một vị công tử đàng hoàng, hơn thế nữa còn đẹp trai, đa tình, thì hỏi sao nàng không ưng thuận. Một điều nữa khiến nàng coi như là đã có duyên tiền định, khi nhớ lại lúc hai người ôm cứng nhau ở dưới sông, da thịt đã gắn sát vào nhau hồi lâu rồi.

Trong tâm khảm, nàng đinh ninh rằng kiếp này duyên này coi như đã giao phó cho chàng. Nàng đem chuyện này hỏi nhỏ cô em thì cô em Thục Phương cũng bằng lòng cùng nàng lấy chàng họ Cố.

Thế là hai chị em nguyện ý cùng lấy một chồng. Hàm Phương bèn đem ý đó của mình và em thì thầm với mẹ. Thấy con đã bằng lòng, bà Tôn bèn cho mụ mối về báo cho bà Hồ biết.

Bà Hồ thấy bà Tôn đã bằng lòng hứa gả mà lại gả cả hai cô, vẻ mừng hiện ra nét mặt. Chàng Cố Thiếu Xuân lúc này có lẽ là người sung sướng hơn ai hết. Bởi thế bệnh chàng tự nhiên biến khỏi như có phép lạ. Bà Hồ thấy con đã khỏe mạnh như thường bèn chọn ngày định việc cấu hôn cho con.

Không ngờ ông tạo trớ trêu, mấy khi chuyện vui được trọn vẹn đâu. Một ngày trước hôm định việc cầu hôn, Cố Thiếu Xuân bỗng nhận được một phong thư của cha gởi từ kinh thành về nói ông đã định việc hôn nhân cho chàng tại Bắc Kinh rồi.

Ông thân bên nhà gái cũng làm quan ở kinh và đôi bên đã ước hẹn hôn lễ sẽ cử hành nội trong năm.

Cố Thiếu Xuân được tin này chẳng khác nào gáo nước lạnh dội lên đầu, miệng há hốc mà chẳng nói được lời nào. Chàng chỉ còn biết khóc suốt cả đêm đó. Qua ngày hôm sau, chàng bệnh nằm liệt giường liệt chiếu như cũ.

Bà Hồ thấy vậy trong lòng đau đớn lắm. Bà dùng lời ngon ngọt dỗ dành an ủi. Mặt khác bà cho mụ mối qua nhà bà Tôn từ hôn. Hai chị em Hàm Phương được tin này, trái lại không khóc lóc, không nói năng gì cả.

Hai nàng đã thủ thỉ với nhau quyết ở vậy không thèm lấy chồng nữa. Gia đình hai nàng vốn giàu có, lại không có con trai, cả cơ nghiệp đồ sộ đó đều do hai nàng nắm giữ cả.

Nhưng Cố Thiếu Xuân không thể thản nhiên được. Lòng chàng vừa buồn sầu vừa nóng nảy đến không nén nổi. Hồi đó đã vào lúc mùa hè nóng nực. Thiếu Xuân đưa cái giường của chàng ở thư phòng đến bên cạnh cửa sổ để có thể thấy được hình bóng người yêu trên lầu trang phía bên kia, ngay cả lúc chàng đi nằm nữa.

Dụng ý của chàng là như vậy, nhưng bà mẹ Hồ thị đâu có hiểu. Bà chỉ biết chiều theo ý cậu con trai cưng. Nằm tại nơi đây được vài hôm, Cố Thiếu Xuân nhìn sang lầu trang bên kia thấy cửa đóng suốt ngày im ỉm. Chàng tưởng rằng chị em Hàm Phương tiểu thư cũng bệnh như mình. Thật đáng thương cho cả đời người chỉ cách có một con sông mà không có cách gì trò chuyện được với nhau. Chàng nhớ đến người yêu mà lòng tê tái, nhiều đêm thức trắng chẳng chợp mắt.

Có một hôm, vào nửa đêm, Cố Thiếu Xuân đang nằm trên giường trằn trọc xoay qua xoay lại không ngủ được, bỗng có tiếng gõ cửa cành cạch. Chàng gượng dậy, nhẹ bước ra mở cửa. Một hình bóng mỹ nhân sừng sững đứng trước mặt chàng dưới ánh trăng. Chàng nhìn kỹ và nhận ra là Hàm Phương.

Chàng mừng quá rồi như không tự chủ được nữa, chàng nhảy chồm ra, giơ hai tay ôm choàng lấy nàng, miệng run run cảm động nói:

- Anh nhớ em đến chết mất thôi.

Người con gái vội giơ tay đẩy Thiếu Xuân ra, thì thầm:

- Em không phải Hàm Phương đâu? Em là Thục Phương đó. Chị em nhớ anh quá lắm! Anh chạy mau sang thăm chị một tí.

Cố Thiếu Xuân nhìn thấy chiếc thuyền của Thục Phương cặp ngay bên bờ sông, bèn chẳng còn để ý đến mình bệnh mình đau nữa, vội nắm lấy tay Thục Phương bước xuống thuyền.

Khi thuyền đã qua bờ bên kia, chàng thấy Hàm Phương đang đứng chờ sẵn. Thế là cả ba cùng sánh vai ngồi trên phiến đá rộng trò chuyện với nhau. Một hàng liễu rủ bóng thướt tha che kín cả chỗ họ ngồi, thành thử không một ai thấy mà biết được, ba người trò chuyện mãi tới canh năm mới trở về phòng.

Thế rồi từ đó cứ mỗi đêm, trên phiến đá bên sông, người ta thấy phảng phất bóng ba người kề vai ngồi dưới ánh trăng ngà. Chỉ mãi tới lúc gió sớm nổi lên, trăng tàn bến vắng, ba cái bóng lại mới chia tay ai về phòng nấy.

Mùa hè qua mùa thu tới, gió heo may bắt đầu thổi, hơi lạnh đã thấm vào thịt. Thục Phương cảm thấy lạnh không chịu nổi bèn nghĩ ra một cách: Nàng bảo Thiếu Xuân chú ý cứ đến khi nào mẹ nàng đã an giấc thì nàng sẽ treo một chiếc đèn lồng đỏ ở trước lầu để báo hiệu. Và lúc đó chàng cứ việc chèo thuyền sang, hai nàng sẽ đón vào nhà.

Nàng cũng không quên căn dặn chàng là hễ không thấy đèn thì chớ có sang. Thiếu Xuân đã được ám hiệu, đêm hôm đó chèo thuyền sang lẻn vào lầu trang, quả là hương vị của tình yêu ngọt ngào không bút nào tả xiết.

Việc tư tình qua lại này thấm thoắt được nửa năm thì bỗng một đại hoạ xảy ra. Hai chị em Hàm Phương đêm đêm treo chiếc đèn đỏ rồi kề vai ngồi tại hiên lầu nhìn qua phía bờ bên kia. Nhưng rồi hôm đó hai chị em nàng đang ngồi đợi bỗng một mũi tên độc bay vụt tới, chỉ một mũi tên thôi mà đâm suốt thái dương huyệt của hai nàng.

Mũi tên độc này vốn thuộc loại "thấy máu đóng hầu" nghĩa là bắn trúng không kêu la gì được: một loại tiễn thường dùng vào việc ám sát. Trúng mũi tên hai chị em Hàm Phương ngã quay xuống sàn lầu chết luôn, không kêu la được một tiếng.

Cố Thiếu Xuân đêm đó thấy lồng đèn liền chèo thuyền sang, nhưng chẳng thấy hai chị em Hàm Phương ra mở cửa.

Tứ bề vắng lặng. Chàng cố ngồi đợi. Nhưng đợi mãi tới sáng mai vẫn chẳng thấy người yêu ra mở cửa? Xuân lòng nghi hoặc, không muốn bỏ đi.

Trời sáng hẳn. Con a đầu chạy lên lầu thấy hai chị em Hàm Phương đã chết cả, vội tri hô lên. Bà Tôn nghe kêu giật mình nhảy lên lầu xông vào phòng con gái. Bà ôm lấy thây con khóc rống lên, người như điên loạn.

Thiếu Xuân ngồi ngoài cửa, nghe tiếng khóc, biết có chuyện chẳng lành, chẳng quản nếp tẻ gì, tông cửa nhảy vào rồi cũng gục xuống thây hai chị em Hàm Phương khóc đến chết đi sống lại.

Bà Tôn thấy cảnh tượng khó coi bèn bảo người kéo Thiếu Xuân dậy, một mặt làm đơn báo quan. Quan huyện Giang Đô thấy vụ án không đầu mối, bèn đích thân tới khám nghiệm.

Ông thấy Thiếu Xuân hình tích có vẻ khả nghi bèn cho người dẫn về nha môn thẩm vấn.

Cố Thiếu Xuân thấy người yêu đã chết, hận rằng mình không được chết theo cho nên khi quan huyện Giang Đô thẩm vấn, Xuân bèn nhận khai ngay là chính mình đã giết.

Nhưng đến khi hỏi tại sao mà giết thì chàng chẳng biết khai ra sao. Bà Hồ thị thấy con mình bị quan huyện bắt đi, vội đem ngàn lạng bạc đút lót cho bọn nha lại, mặt khác viết thư gởi thẳng lên kinh cho quan ông cấp báo.

Quan ông Cố Đại Xuân được tin như sét đánh ngang tai, vội rời Bắc Kinh, đi gấp đường tới Dương Châu lập cáo trạng dâng lên Càn Long hoàng đế cứu con. Hồi này hoàng đế đã từ Hàng Châu trở lại Dương Châu. Ngài nhận được cáo trạng bèn bảo tri phủ Dương Châu đem phóng thích Cố Thiếu Xuân.

Nhưng phía bên kia, bà Tôn thấy vậy đâu có chịu. Bà liền mang đơn kêu oan, trẩy thuyền vội tới Dương Châu đầu cáo.

Càn Long hoàng đế trả lại tờ cáo trạng, một mặt an ủi bà và phàn nàn thay cho hai cô con gái bà chết uống phí, mặt khác sai tri phủ Dương Châu đứng ra làm lễ ngự tế để ma chay và siêu sinh tịnh độ cho hai nàng.

Một việc quan trọng nhất mà mọi người chờ đợi đó là lệnh truy nã hung thủ, nhưng tuyệt nhiên hoàng đế không đả động tới Bọn quan địa phương đứng trước cái án giết người kỳ quái này, vò đầu bứt tóc hết tháng này qua năm nọ cũng đều chịu, không rõ được lấy một mảy may.

Ít lâu sau, khi Càn Long hoàng đế đã về kinh rồi, người ta bỗng thấy hai người con gái tuyệt đẹp ăn vận hết sức lộng lẫy tới thăm bà Tôn. Hai nàng tự giới thiệu là hai chị em chị tên gọi là Thanh Hà, em gọi Giáng Hà.

Thanh Hà và Giáng Hà đã từng được Càn Long hoàng đế sủng hạnh và khi rời khỏi Hàng Châu, ngài có dặn hai chị em nhà này thắp đèn lồng đỏ trước lầu để đợi ngài hồi giá tới Dương Châu sẽ cho người tới đón về kinh.

Nhà hai nàng ở cạnh cầu Trạng Nguyên. Lầu trang cũng sát ngay bờ sông, phía dưới cũng có một cây dương liễu y như ở nhà bà Tôn. Trước lầu trang cũng có treo một chiếc đèn lồng đỏ, cho nên Càn Long hoàng đế đã nhận lầm nhà này ra nhà kia mà giết bậy. Chủ tâm của Càn Long hoàng đế là giết hai chị em Thanh Hà chớ đâu ngờ lại giết lầm hai chị em nhà họ Tôn. Nguyên uỷ vụ án này là thế, hai chị em Thanh Hà đã đoán ra. Nhưng lý do tại sao Càn Long hoàng đế lại muốn bắn chết hai nàng thì chính ngay Thanh Hà đã để bao đêm ngày suy nghĩ mà vẫn không ra.

Nguyên do chỉ vì Tiểu Mai đâm chết Uông Giang Long nên từ đó Càn Long hoàng đế nơm nớp lo ngại, nghĩ rằng hai chị em Thanh Hà cũng lại có ý hành thích mình. Ngài không dám lưu luyến đắm đuối, vội cho hai chị em nàng về.

Câu nói của ngài bảo đem hai nàng lai kinh ngày nọ, chỉ là lời nói đãi bôi cho qua mà thôi. Lúc đầu ngài không có ý giết hai chị em nàng, nhưng về sau, bỗng lại nghĩ nếu không đem hai người về kinh, sợ rằng họ oán hận mà nói tung hết những điều bí mật trong thuyền ra thì phiền. Sở dĩ có chuyện sợ đầu sợ đuôi này chỉ là tại trong những đêm ân ái mặn nồng, ngài đã đem khá nhiều điều bí mật trong thâm cung ra kể làm quà cho hai nàng nghe rồi. Ngài sợ rằng hai nàng không được vừa lòng sẽ nói toạc cả ra, chi bằng giết quách đi là xong. Đó là kế giết người bịt miệng. Nghĩ vậy nên khi hồi loan tới Dương Châu, ngài bèn sai một tên thị vệ ngầm đem tên độc bắn chết hai chị em nhà này. Không ngờ hai chị em Hàm Phương vì mật ước với Cố Thiếu Xuân, cũng đốt đèn đỏ trước lầu nên tên thi vệ nhận lầm ra nhà của hai chị em Thanh Hà mà bắn chết cả đôi.

Hai chị em Thanh Hà nghe vụ án mạng, đoán biết chủ ý của Càn Long hoàng đế là muốn giết mình, nên vội bỏ chiếc đèn lồng treo trước lầu đi, rồi trốn biệt trong một căn nhà của người bà con khác. Đợi lúc hoàng đế đã hồi loan về tới kinh rồi, hai nàng mới dám thò cổ ra ngoài rồi tới thăm bà Tôn.

Bà Tôn nghe hai chị em Thanh Hà kể lại cả một câu chuyện ly kỳ rùng rợn, vừa thương tâm vừa sợ hãi. Bà chỉ biết gác vụ án này, không dám nói tới nữa. Nhưng Cố Thiếu Xuân lại không chịu phụ lòng. Chàng đón linh cữu hai chị em Hàm Phương về nhà ma chay trọng thể rồi đem chôn cất tại khu mộ tổ, coi như là nguyên phối (vợ cả).

Người vợ Bắc Kinh lấy sau này chàng chỉ coi như là vợ kế. Chàng còn đón cả bà Tôn về nhà phụng sự không khác gì cha mẹ mình. Chỉ vì một ý nghĩ nghi ngại của Càn Long hoàng đế mà hai gia đình Tôn, Cố phải chịu cảnh nhà tan người chết, gây ra biết bao chuyện đoạn trường, thật đáng thương thay.

Hồi 89

KIẾN TRÚC VƯỜN VIÊN MINH

Càn Long hoàng đế hồi loan tới kinh thì Hoà Khôn xây cất bốn mươi cảnh trong vườn Viên Minh cũng vừa xong.

Bao nhiêu cảnh đẹp vùng Giang Nam có lẽ đã được quy tụ tại nơi đây, thành một bầu trời riêng biệt, như cảnh Tiên cảnh Phật. Hoà Khôn còn đem biết bao nhiêu vật lạ trong thiên hạ bày tại vườn này nữa.

Viên Minh vốn có mười tám lần cửa. Mặt nam có các cửa Đại Cung môn, Tả Hữu môn, Đông Tây Giáp môn, Đông Tây Như ý môn, Phục Viên môn, Tây Nam môn. Thuỷ Áp môn (cửa chắn đập nước trong sông), Tảo Viên môn. Mặt đông có các cửa Đông Lâu môn, Thiết Môn, Minh Xuân môn, Nhi Châu Cung môn, Tuỳ Tường môn. Mặt bắc các cửa Bắc môn: dưới vòng tường vây quanh có xây một cửa Thuỷ Áp. Mặt tây nam có một toà Tiến Thuỷ áp (cửa cho nước vào). Mặt đông có cửa Xuất Thuỷ áp (cửa cho nước chảy ra). Lại còn một toà Xuất Thuỷ áp nữa, nước từ núi Ngọc Truyền sơn chảy qua miếu tây mã rồi vào đập, lại chĩa làm mấy chục chi lưu toả ra khắp vườn.

Mặt chính viện của vườn có xây năm toà Đại cung môn. Hai bên dưới trước cổng cất 5 gian triều phòng: phía sau xây nhiều trực phòng của các bộ, phía đông giáp với đường cái có ngân khố (kho bạc); phía đông bắc có thư phòng; phía đông nam có đãng án phòng, phía tây lại có nhiều trực phòng của các bộ.

Trước mặt cửa Đại Cung môn, có cửa xuất nhập Hiền Lương môn; đó là một cái cửa tò vò cao lớn năm gian. Trước mặt tò vò này có một chiếc cầu bằng đá. Qua cầu dọc hai bên lộ lại xây cất năm toà tiền môn.

Trước mặt cửa xuất nhập Hiền Lương môn là điện Chính Đại Quang Minh. Mặt đông điện có cầu Chính Thân Hiền điện, về mặt đông cũng như mặt tây điện có hiên Phi Vân, có gác Tĩnh Giám, về mặt bắc điện có hương Hoài thanh với cây cao xinh bóng mát, vòng về phía sau điện có sinh thu đình các, về mặt đông điện có bụi phương bích, còn về phía sau điện là điện Bảo Hợp Thái Hoà, lùi về phía sau nữa còn có lầu Phú Xuân mà ở mặt đông lầu có rừng cây danh trúc bao quanh một khóm trúc khác cao vòi vọi, gió thổi qua kẽ lá vi vu. Mặt sau điện Chính Đại Quang Minh còn có một cái hồ lớn tên gọi Tiền Hồ.

Phía bắc hồ này có một toà điện năm gian gọi là Viên Minh viên điện. Đằng sau điện này lại có một toà điện bảy gian gọi là Phụng Tam vô tư điện. Lùi về phía sau nữa là một toà điện chín gian hết sức lớn gọi là Cửu Châu Thanh vốn điện. Về phía đông điện là Thiên Địa Nhất Gia Xuân, về phía tây là Lạc An Hoà.

Mặt này lại còn có Thanh Huy các, trước góc có Lộ Hương trai, phía trái có Nhật Cổ đường Tùng Vân lâu, phía phải có Hàm Đức thư ốc Phú Xuân lâu, phía bắc có Lan Phân lâu ngay mặt sau có Ký Ân đường với toà Nguyện Khai Vân lầu.

Mặt tây bắc ao này cất một toà lầu vuông tên gọi Thiên Nhiên Đồ Hoạ lâu. Mặt bắc cũng xây một cái gác gọi Lãng Cáp các và một lầu gọi Trúc Mai lâu. Mặt đông có một toà nhà năm gian tên gọi Ngũ Phúc đường. Hiên sau của đường này cất trên mặt ao, có biển đề bốn chữ "Trúc thâm hà tĩnh". Mặt đông nam có một dãy tịnh xá trong vườn có trồng đủ các loại đào, liễu, trước thần theo một tám bản vuông trên đề năm chứ "Tinh tri xuân sự giai".

Vượt qua ao này, người ta sẽ thấy một giải đê dài. Cất cao hẳn lên mặt đê là một toà lâu đài, trên đề "Tô đề xuân hiếu", Từ Ngũ phúc đường vượt đò qua sông quanh co khúc khuỷu. Dưới chân núi có một nhà đọc sách gọi là Bích Đồng thư viện.

Về phía tây vắt vẻo một ngôi đình trên lưng chừng núi gọi Vân Sầm đình. Mặt tây thư viện có chùa Tư Vân phổ hộ. Chùa này mái tây cũng dựa vào một toà lầu cao tên gọi Thượng Hạ Thiên Quang lâu nằm ngay bên cạnh hồ, và hai bên đều có ngôi đình hình lục lăng.

Đứng dưới mái lầu này quay về phía tây có một cái cầu nhỏ. Hướng sang tây bắc ta thấy hiên Xuân Vũ. Ở phía tây hiên Xuân Vũ là gián Hạnh Hoa thôn, phía nam thôn có khe suối Dư Thanh, sừng sững trước mặt là vách đá cao ngất, một ngọn suối trong róc rách chảy từ trên vách đá xuống, quanh co uốn khúc, rồi trôi qua bãi đá. Bốn chữ "Giản các dư thanh" được khắc vào bờ đá cẩn thận.

Vòng về phía sau hiên Xuân Vũ thì trước mặt về phía đông là Kính Thuỳ lâu, phía tây bắc là một toà nhà bốn mặt có trồng những hàng liễu cao rậm gọi là Liễu tra, phía tây là Thuý Vân đường. Quay sang quán Hạnh Hoa xuân, về phía tây có cái cầu lớn bằng đá xanh vừa rộng vừa bằng phẳng tên gọi Bích Lan kiều.

Mạn cầu giáp tiếp với một cái ngôi thuỷ đình tên gọi Như Đình. Trước mặt đình là Tố Tân đường. Mặt sau Tố Tân đường là Quang Phong Tễ Nguyệt đường. Góc đông bắc có ruột toà Tuý Cảnh trai, góc tây bắc có một toà Song Giai trai. Chính mặt nam có nhà Như cổ hàm kim thất, bên trong chứa đầy sách cổ.

Phía sau nhà này có một toà nhà bốn mặt toàn bằng pha lê tên gọi Thiên Cảnh hiên. Mé đông là Mậu Dục trai, mé tây là Trúc Hương trai, mé bắc là Tinh Thông trai, bên trong bày biện rất nhiều đồ cổ, bên ngoài trồng rất nhiều những cây tùng, cây bá cổ thụ.

Phía nam nhà Như cổ hàm kim thất là quán Trường xuân tiên. Sau quán có hiên Lục ấm, trong khuôn viên hiên trồng bốn cây ngô đồng cao lớn bóng cây che khuất cả hiên. Án thư bàn ghế đều sơn xanh. Dọc dãy hành lang mé tây mà đi thì gặp hiên Lệ cảnh. Mé tây treo một cái bảng lớn viết ba chữ Hàm Bích đường, bên trong khuôn viên trồng một đôi cây hò.

Phía sau đường là một toà hiên nhỏ trông bốn cây quế và phía trên treo một tấm biển vuông viết bốn chữ Lâm hư quế tỉnh. Phía tay trái đường là Cổ Hương trai, phía tay phải là Mặc Như vân, đối diện thì là Tuỳ An thất.

Từ cửa ngách tây nam quán Trường Xuân tiên đi quanh về phía tây thấy một giải tường vây lại, trên đề hai chữ Tảo Viên. Trong vườn có toà Khoáng Nhiên đường năm gian, phía sau là Trữ Thanh Thu ốc, phía đông là một cái ao vuông.

Trên mặt ao này có một cái gác nhỏ che trên ấy gọi là Tịch Ai Như ốc. Chếch về mặt bắc ao có Kinh Lan tạ, mặt đông nam có Ngưng Thiếu lâu, Hoài Tân lâu, mặt tây bắc có trạm Bích Hiên, mặt Tây Nam có trạm Thanh Hoa, có quán Hạnh Hoa xuân, mặt tây bắc có một cái ao trên mặt cất một toà đình chữ Vạn.

Phía sau đình tiếp ngay vào là một cái cầu, chân cầu gắn liền vào một toà thạch động, trên cửa treo một tấm biển đề bốn chữ Võ lâm xuất sắc. Mặt bắc của ao chạy dài một dãy nhà trên đề năm chữ Hồ trung nhật nguyệt trường, mặt đông, một dãy nhà khác trên biển đề bốn chữ Thiên nhiên giai điệu, mặt nam một căn phòng lưng tựa vào chân dãy núi bao vây ba mặt trên biển đề bảy chữ "Đông thiên nhật nguyệt đa giai cảnh".

Ở mặt tây cửa thạch Võ lâm xuất sắc là Toàn Bích đường, mặt đông nam là một ngôi đình biển đề bốn chữ "Tiểu ân thê tri". Phía sau Toàn Bích đường có một đèo núi leo quanh, phía sau có Thanh Tú đình, phía tây có Thanh Hội đình, phía bắc có Đào Hoa ổ và một quãng đất vuông bằng phẳng tựa cạnh bờ nước, trên trồng một khóm đào thân thấp.

Mặt đông của lạch nước có nhà Thanh Thuỷ Trạc Anh thất, mặt tây có suối Đào nguyên sâu kín bí hiểm (Đào Hoa ổ) về mặt đông có quán Xuân Hiên, mặt đông bắc có Phẩm Thị đường.

Đình chữ Vạn tức Vạn phương an hoà về mặt tây nam có cánh núi bình phong màu xanh biếc vây quanh che khuất. Tuỳ theo chiều cao mức thấp của dãy núi có cất một toà lầu cao tên gọi Sơn Cao Thuỷ Trường lầu. Dưới chân dãy núi này, chạy dài một khoảng đất trống bằng phẳng; đó là nơi dành cho ngoại phiên (sứ thần hay vua chúa các nước lân cận) triều kiến hoàng đế, hoặc cho bọn thị vệ bắn bia tỷ thí hoặc cho lễ đăng tiết hằng năm đốt pháo hay bày đèn đuốc.

Đám đất trống này ở mặt bắc có một cái cầu, đi qua cầu lại leo lên đầu núi thì trước mặt là điện Nguyệt địa vận cư năm gian, ở mặt tây có miếu Tướng quân lưu mãnh.

Đằng sau điện Nguyện địa vận cư có một con đường núi quanh co khúc khuỷu. Cửa nghi môn thứ nhất trên khắc bốn chữ Hồng tử vĩnh hựu có hai cây cột đá đựng hai bên tả hữu. Đi lên còn thấy cất liên tiếp ba cái cửa nghi môn khác nữa.

Giữa lưng chừng núi có một khoảng đất bằng, xế về phía đông nam là điện Chính Phu ba căn, phía tây là Cung môn năm căn, phía nam là cửa An Hựu môn, trước cửa có ba cái đầu đá bằng bạch ngọc, hai bên tả hữu giáp ngôi tỉnh đình và cả năm căn triều phòng nữa.

Phía ngoài cửa An Hựu ngay sau điện Chính Phu có một toà chính điện chín căn và đôi mái tên gọi An Hựu cung. Trong cung này thờ bức chân dung của Khang Hi hoàng đế ở giữa, còn bên tả thì bức chân dung của Ung Chính hoàng đế.

Đằng sau cửa nghi môn Hồng Từ Vĩnh Hựu là một dãy tường vây lại, phía trong về góc bắc là Tử Bích Sơn phòng, bên trong sơn động có một toà thạch thất tên gọi Thạch Phàm thất, ở phía đông nam có hiên Phong lạc, ở phía bắc có lầu Tế Hoa, ở mặt đông có lầu Cảnh Huy.

Hoành Vân đường về mặt tây dưới chân núi có một cái hồ lớn. Trên mặt hồ có lầu Trừng Tố, ở phía tây bắc có đình Dẫn Khê, ở phía đông tiếp với dãy tường thấp, bên ngoài tường có ba đợt núi trùng trùng điệp điệp, có cây có hoa đủ thứ đủ loại Mặt tây đình Dẫn Khê có một cái cầu dài. Đi qua cầu hướng về mặt đông là Vương Phương thư viện. Bước vào thư viện thấy ba căn nhà rạp trên có biển đề hai chữ Văn tâm.

Tiếp với căn nhà này là một cái cầu bằng đá trắng cầu chui qua một cái cổng đá trên cổng có khắc bốn chữ Đoạn kiều tàn tuyết.

Mặt nam của thư viện có cất một toà nhà lớn, đốc đao cất lên chênh vênh, mái ngói trùng trùng điệp điệp tên gọi Nhật Thiên Lâm vũ. Bên trong toà nhà có Trung Tiền lâu, Trung Hậu lâu bảy căn, có Tây Tiền lâu, Tây Hậu lâu trên dưới bảy căn. Mặt nam Trung Tiền lâu có Thiện Kiều, hai mặt đều cất lầu cao. Thiện Kiều có một ngôi đăng đình hình bát giác.

Về phía đông nam Nhật Thiên Lâm vũ là một khu ruộng lúa có con sông bao quanh. Giữa khu ruộng lúa có một toà điện vũ xây kiểu chữ điền, bốn góc đều cất lầu, lầu bắc biển đề Thềm bạc ninh tĩnh, lầu đông tên gọi Thự quang lầu.

Trong khu ruộng ở mặt đông có một căn nhà bằng, tên gọi Hiên Quan Giá (xem cấy lúa), mặt tây có một ngôi đình gọi Đạo hương đình. Khu ruộng lúa giáp chân núi ở phía bắc có một ngôi đình biển đề bốn chữ Sơn khê bất tận. Sau hiên Quan Giá là một lạch nước trong veo uốn khúc trên vượt qua một cái cầu nhỏ.

Đi qua cầu tới một toà nhà tên gọi ánh Thuỷ Lan Hương. Ở mặt đông nam có một phiến đá cất một ngôi đình tên gọi Điếu Ngư cơ. Về phía bắc là Ân Mục thì tiếp liền với một cái đầm, trên bờ mép nước xây một cái cửa nghi môn lớn trên đề ba chữ Trạc long thiều.

Mặt tây nam của đầm này là Quý Chức Sơn đường, bên trong thờ Tam thần (thần phò hộ việc nuôi tằm).

Toà nhà ánh Thuỷ Lan Hương có một khóm cây phong thụ ở phía đông bắc. Trong khóm cây này có một toà nhà, trên biển đề bốn chữ Thuỷ mộc minh cầm. Phía bắc khóm cây này cất một cái gác cao lớn gọi là Văn Nguyên các, trên dưới sáu gian, chứa đầy tứ khố toàn thư. Mé tây gác trồng một khóm liễu có một cái cổng để bốn chữ Liễu lăng văn oanh.

Về phía tây bắc có một giải nhà cất trên ven sông, bờ đầm, trên biển đề bốn chữ Liêm khê lạc xứ. Phía sau là Vân Hương thanh thắng, phía đông là Lăng Hà thâm sứ. Đối diện Liêm Khê lạc xứ, bờ bên kia là một dãy rau và ngay giữa là một toà nhà trên biển đề bốn chữ Đa giá như vân.

Mặt trước là Lăng Hà hương, phía đông nam là trạm Lục sắc, phía đông là Ngư Dược diện phi, phía nam quanh ra chân núi lại còn một cánh đồng lúa.

Giữa cánh đồng này lượn khúc một con sông nước chảy dài như một giải lụa bạch. Hai bên bờ có thôn trang nhà cửa tên gọi Bắc Viễn sơn thôn. Bắc ngạn có một dãy tường đá, phía trong tường là một vườn hoa trồng đủ các loại lan.

Sau vườn lan là Hội Vũ tinh xá. Về mặt đông bắc có một cái cầu đá, qua cầu một chút là cái xưởng đóng thuyền tên gọi Phong Kính phường, mặt tây là Hoạ Cảng quan ngư, mặt bắc là Tứ Nghi thư phòng. Sau thư phòng là một dãy tường cao.

Tấm biển trên cửa Nguyệt Động môn có đề ba chữ An lan viên. Bước vào vườn thấy một lạch nước trong vắt. Tựa về phía đông nam, đó là quán Tạc Kinh, về phía nam đó là Thái Phương châu, ở mặt sau đó là Phi Thế đình, ở phương đông bắc đó là Lục Duy phường, ở tây nam đó là gác Vô Biên Phong Nguyệt, ở mặt bắc đó là lầu Yên Nguyệt Thanh Châu.

Mặt tây nam của lầu này là Viên Tú sơn phòng, mặt bắc là một cái cầu vòng cao lên không trung. Ở đầu cầu mút tận bên kia có một cái lầu tên gọi Nhiễm Hà lâu.

Tứ nghi thư phòng ở mặt đông dựa vào hồ nước có một cái lầu gọi là Phương Hổ thắng cảnh. Ở mặt bắc có điện E Loan, có lầu Quỳnh Hoa. Mặt đông điện là cung Nhị Châu, phía nam cung là thuyền ổ, phía tây bắc là Tam Đàm Ấn Nguyệt.

Đi qua cầu vòng cửa khúc kiều thấy ở trong nước một ngôi đình, trên biển đề Thiên vũ không minh.

Cuối cầu là Trừng Cảnh đường có bao lơn bằng đá trắng. Mặt đông có lầu Thanh khoáng, mặt tây có lầu. Hoa Chiêu. Sau lầu có một ô vuông chung quanh bốn mặt bờ đều có đôn ghế bọc nệm nhung. Giữa ao có những ngựa ngọc lân đá. Đây là nơi hoàng đế cùng các phi tần đi tắm vào mùa hè. Trên ao có một cái biển vuông đề bốn chữ "Tảo thân dục đức"

Hồi 90

NHỮNG KHOÁI LẠC TRONG VƯỜN VIÊN MINH

Vườn Viên Minh vốn là một công trình kiến trúc vĩ đại nổi danh trong lịch sử Trung Quốc. Hồi đó Hoà Khôn vâng chỉ khiến tạo bốn mươi cảnh Giang Nam trong vườn, mỗi một cảnh hoặc dựa vào núi, hoặc nương theo sông, hoặc rộng lớn, hoặc tinh tế, thật là tuỳ hình tuỳ thế mà xây cất một cách tuyệt xảo, tuyệt diệu! Kẻ chép sách này tuy đã cố gắng nhiều để mô tả nhưng cũng mới chỉ được nửa vườn đó thôi.

Nếu nói đến những cảnh sắc tuyệt đẹp tuyệt nhã của toàn vườn, ta phải kể vườn An Viên suốt một giải, nào là Thái Dương châu, Phi Thế đình, Lục Duy phường, Vô Nguyên Phong Nguyệt các, Yên Nguyệt Thành Châu lâu, Nhiễm Hà lâu, Phương Hồ thắng cảnh, E Loan điện, Quỳnh Hoa lâu, Nhị Châu cung, Tam Đàm An nguyệt, Thanh Khoáng lâu, Hoa Chiêu lâu, Tảo Thân Dục Đức trì. Đấy toàn là nhũng cảnh thanh tú hoa đệ nhất, bốn mùa đều thích hợp cả.

Càn Long hoàng đế hôm đó vào vườn thấy cảnh sắc như vậy, không ngớt khen thưởng, quyến luyến mãi không muốn rời. Hoà Khôn đoán biết ý, bèn tâu xin Thánh giá hãy dừng nghỉ lại. Càn Long hoàng đế y tấu.

Ngài chẳng chịu rời Xuân A Phi, Quách Giai thị, Tưởng Giai thị, ba vị mỹ nhân lấy một khắc, nên ngay hôm đó, ngài cho đưa ba người vào vườn. Xuân A Phi ở cung Nhị Châu, Quách Giai thị ở Phương Hồ thắng cảnh, Tưởng Giai thị ở Hoa Chiêu lâu.

Càn Long hoàng đế ngày ngày toạ triều tại điện Chính Đại Quang Minh. Tan chầu về vườn, ngài lại cùng ba vị mỹ nhân rong chơi cười đùa. Mùa xuân đến ngài thường du ngoạn tại điện E Loan, lầu Quỳnh Hoa. Mùa hạ ngài lại hóng gió tại bãi Thái Phương, đình Phi Thế, thuyền Lạc Duy.

Mùa thu về, ngài sang lầu Yên Nguyệt Thanh Châu, lầu Nhiễm Hà, lầu Tam Đàm án Nguyệt, lầu Thanh Khoáng, để vui chơi. Mùa đông tới, ngài về nghỉ tại lầu Quành Hoa, gác Vô Biên Phong Nguyệt. Chi khi nào nhớ tới một bà phi tần khác thì ngài mới quay về đại nội, rồi đem nhiều cung quyến vào vườn cho đi du ngoạn khắp nơi.

Cũng có lúc ngài cung nghinh Hoàng thái hậu vào chơi thăm vườn. Cứ mỗi lần gặp giai tiết bốn mùa ngài lại triệu bọn đại thần văn võ cho vào vườn dạo chơi khắp chốn rồi ban yến ngâm thơ.

Càn Long hoàng đế đích thân vịnh bốn mươi bài thơ tả bốn mươi thắng cảnh, rồi bắt bọn đại thần giỏi về văn chương hoạ lại. Ngài cho in một tập thơ, ban cho các vương, công đại thần.

Vườn Viên Minh rất rộng lớn. Càn Long hoàng đế du ngoạn tại đây quanh năm không chán. Ngài còn có Hoà Khôn suốt ngày bầu bạn. Khôn nghĩ ra nhiều trò chơi mới lạ, làm cho ngài rất thích thú.

Khôn ở bên cạnh hoàng đế nửa bước chẳng rời. Ngay cả lúc ngài vui đùa tình tự với bọn cung quyến, Khôn cũng chẳng lẩn tránh kiêng kỵ.

Trong bọn cung quyến, Quách Giai được coi như là người đẹp nhất; mặt hoa da phấn ít ai bì kịp. Càn Long hoàng đế sủng ái nàng hết mức. Da thịt vốn trắng trẻo mịn màng, Quách Giai lúc nào cũng tỏ ra cưng quý làn da quý báu đó của mình.

Nàng vừa ưa tắm gội lại vừa thích đeo ngà ngọc. Trong nhà nàng ở, nào là màn trướng nào là bình phong, tất thảy đều kết những viên ngọc nho nhỏ vào. Cứ mỗi khi gió thổi lướt ngang, màn trướng lại lay động, khiến ngọc ngà va chạm vào nhau rổn rảng, nghe thật vui tai.

Ngoài ra, những đài gương, những thành giường của nàng đều cẩn bạch ngọc. Quần áo, nhất là những nơi tà áo gấm u quần của nàng, luôn luôn có khâu những phiến ngọc quý vào.

Rìa mũ trước trán, chỗ giữa đôi lông mày, nàng cũng cho kết một miếng bạch ngọc Dương Chi hình vuông. Má nàng lúc nào cũng thoa phấn hồng, càng làm cho gương mặt thêm đẹp.

Càn Long hoàng đế biết nàng thích ngọc, hễ có đồ ngọc ngài đều đưa tới để bày biện tại phòng nàng. Trong phòng, có một cây ngọc trai cao bằng người đứng. Trên cành cây, treo đủ các loại đồ chơi bằng châu ngọc.

Càn Long hoàng đế bảo nàng tới để lấy những đồ chơi đó. Nàng giơ tay ra. Cánh tay, ngón tay nàng đều trắng như ngọc. Hoàng đế đã sủng ái nàng đến cực độ, bèn phong cho nàng là Bảo phi.

Lúc này, Phúc Khang An đã thu phục xong Hoà Điền. Hoà Điền vốn là xứ sản xuất ngọc. Nhân vì Bảo phi thích ngọc, Càn Long hoàng đế bèn bí mật hạ một đạo thánh chỉ cho Vân Quý tướng quân, dặn bảo phải cố tìm cho được thật nhiều ngọc ngà mang về.

Chẳng bao ngày, đồ ngọc quý tử Hoà Điền đưa về vườn Viên Minh trưng bày vô số. Ngọc Hoà điền có rất nhiều màu sắc, có thứ trắng như tuyết, có thứ vàng như sáp, có thứ đỏ như ráng, có thứ xanh như cánh chả…

Bảo phi trông thấy cười như nắc nẻ. Nàng sung sướng không bút nào tả xiết. Môi xinh thắm, hé nở như đoá hoa anh đào cười xuân, khiến cho mọi người cảm thấy một cái gì thật đáng yêu quý bên trong. Nàng cho đem một viên bạch ngọc chạm khắc thành một con ngựa móng cao bòm dài mắt vuông mũi tía, lộ ra ngoài vài lằn tia máu nhỏ như tơ. Màu sắc đó đều do thiên nhiên chứ không phải nhân tạo. Toàn thân con ngựa trắng toát mịn màng, dài ước độ hơn ba thước cao ước chừng hơn hai thước. Càn Long hoàng đế nhìn thây cười nói:

- Con ngựa ngọc này với Bảo phi đều tuyệt cả?

Hoà Khôn nghe được bèn cho người xây cất ngay dưới lầu Hoa Chiêu một ngôi đình gọi là Bảo Mã đình, đặt con ngựa ngọc tại chính giữa, bốn chung quanh thì dùng đá trắng làm bao lơn vây lại. Mỗi khi muốn tắm, Bảo phi kéo cả Xuân A Phi, Tưởng Giai thị cùng nhảy xuống Dục trì để tắm cùng.

Hồi đó tuy vào mùa hạ, nhưng Hoà Khôn sợ ba vị mỹ nhân da thịt mềm mại cảm phải hơi lạnh, nên vội cho người đặt ngay một cái vạc lớn đun nước nóng ấm rồi cho cháy vào những cái ống gang đặt quanh co dưới đáy Dục trì đế phun nước nóng vào làm thành những nguồn suối nước nóng.

Ba người đẹp bơi lội đùa giỡn một hồi trong Dục trì nước ấm. Càn Long hoàng đế đứng tựa bên hồ thưởng thức xem các nàng tắm gội. Hoà Khôn cũng đứng bên cạnh để nhìn xem. Bọn phi tử có người ném cầu trên mặt, có người trèo trên lưng con Thạch lâm ca hát véo von.

Duy chỉ có mình Bảo phi lội từ Dục trì lên, bảo hqi con cung nữ bắt chéo tay nhau làm kiệu khiêng nàng tới Bảo Mã đình. Nàng leo lên lưng con ngọc mã, thân hình loã lồ, không một miếng vải che, bốn đứa cung nữ vội lấy khăn bông lau những giọt nước còn đọng lại trên da thịt trắng mịn như tuyết của nàng. Chúng còn lấy phấn thơm rắc lên khắp người nàng dùng một chiếc khăn mỏng che lấy thân hình nàng, một con thì rẽ đường ngôi, búi tóc lại cho nàng kiểu Truỵ mã (ngựa té), một con khác cầm đờn tì bà tới đưa cho nàng.

Bảo phi vừa đờn vừa ca. Hoàng đế ngồi trên ghế nhìn nàng, đến khi mắt đã xuyên suốt chiếc khăn mỏng vào tới làn da trắng mịn; mới cầm lấy tay nàng dìu tới Thiên Vũ không minh để hưởng lạc.

Hoà Khôn hầu hạ bên cạnh Càn Long hoàng đế nhìn thấy hết những cảnh này, về nhà cũng bắt bọn hầu thiếp bắt chước đúng in như lối ăn chơi trong cung cấm. Hầu thiếp của Khôn có một người tên Tam nhi vốn do Càn Long hoàng đế hạ Giang Nam đem về thưởng cho. Da thịt của Tam nhi cũng trắng trẻo mịn màng, thân thể cũng xinh đẹp như ngọc như ngà. Chỉ cần một cái liếc cũng đủ để cho nàng thu hết hồn vía rồi.

Càn Long hoàng đế đã từng lâm hạnh nàng một lần. Cũng vì đã được hoàng đế lâm hạnh, Tam nhi lấy làm kiêu ngạo, không coi mình như bọn hầu thiếp khác. Hoà Khôn cũng đặc biệt sủng ái nàng, vừa tại nàng đẹp lại vừa là một vật tặng của hoàng đế.

Lúc Vân Quý tướng quân đem dâng đồ ngọc Hoà Điền, có xin nhờ Hoà Khôn xem qua trước cho, thì Khôn đã lấy được mấy thứ đem về cho Tam nhi.

Trong số những ngọc này, có một vật gọi là Bạch ngọc đôn. Cứ mỗi lần tắm xong, Tam nhi tới ngồi trên cái đôn này để lau mình, thân thể hoàn toàn loã lồ. Lũ a hoàn cũng rắc phấn thơm lên người nàng, búi lại mái tóc mây cho nàng.

Hoà Khôn cũng ngồi một bên để nhìn, để ngắm, nhìn ngắm mãi mà vẫn chẳng muốn thôi. Khôn sực nhớ tới con ngọc mã trong vườn Viên Minh, bèn cười bảo Tam nhi:

- Da thịt nàng trắng chẳng thua gì bạch ngọc, nàng cũng phải được cưới lên lưng con ngọc mã mới phải!

Được mấy hôm, Bảo phi thường hay đi tắm ở Dục trì, cùng hoàng đế bỡn cợt ân ái, nên bị cảm mạo, phong hàn thấm vào cốt tuỷ, nên vừa bệnh đã chết ngay.

Bảo Phi mất, Càn Long hoàng đế hết sức thương cảm, chẳng thiết gì đến ăn uống, tâm thần vô cùng buồn phiền. Tuy đã có Xuân A Phi, Tưởng Giai thị ngày đêm hầu hạ bên cạnh, nhưng Càn Long hoàng đế cũng vẫn âu sầu buồn bã chẳng lúc nào vui được. Cứ mỗi khi nhìn thấy con ngọc mã là mỗi lần ngài nhớ tới Bảo phi rồi rỏ lệ như suối.

Thấy vậy Xuân A Phi sợ Càn Long hoàng đế vì thế quá buồn phiền sinh bệnh, nên ngầm cho người đưa con ngọc mã ra ngoài cung giao cho Hoà Khôn để bỏ vào kho. Không ngờ Hoà Khôn lại đưa về nhà mình để cho Tam nhi cưỡi và mình ngồi nhìn.

Từ ngày mất Bảo Phi, Càn Long hoàng đế chẳng thiết gì ở lại vườn Viên Minh nữa. Hoà Khôn nghĩ ra được một cách làm vui lòng ngài, Khôn mời ngài đi Nhiệt hà.

Hồi đó trời đã sang tháng tám. Theo lệ cũ của nhà Thanh thì cứ mỗi lần thu tới lại làm lễ "Thu nhỉ" tại Mộc Lan vi trường ở Nhiệt Hà. Càn Long hoàng đế tuy thường hạ Giang Nam du ngoạn nhưng cũng không bao giờ quên được ngày lễ hằng năm. Mộc Lan ở gần mé trái thành Nhiệt Hà. Đây vốn là nơi hành cung của Khang Hi hoàng đế xây cất lúc trước.

Mộc Lan vốn có nhiều phong cảnh cổ kính, có thiên nhiên hùng vĩ. Sau Càn Long hoàng đế thấy miền này quá tiêu sơ, nên ở bốn mặt hành cung ngài cho xây cất thêm nhiều vườn ngự uyển, gồm có đến ba mươi sáu cảnh.

Lần này Càn Long hoàng đế đem Xuân A Phi, Tưởng Giai thị tới Nhiệt Hà để săn bắn. Bọn võ tướng ai nấy hăm hở trổ tài, bắn chim săn thú, phi ngựa phóng thương để lấy lòng Hoàng đế.

Săn bắn luôn một hơi mười ngày, được vô số thú rừng chim chóc. Về tới hành cung hoàng đế sai bày yến tiệc, triệu tập rất nhiều vương công của Mông Cổ đãi rượu thịt tại biệt điện.

Bọn vương công Mông Cổ này đem gia quyến vào cung. Càn Long hoàng đế thấy trong số có vài cô xinh đẹp bèn giữ lại làm cung nga. Trong đám này có con gái thân vương Khách Thích Bí và em gái Tháp Cố Ngưu Lộc đều là những trang tuyệt thế giai nhân, mắt phượng mày ngài.

Càn Long hoàng đế phong cho hai nàng làm Phi tử. Thế là nay đã có niềm vui mới, hoàng đế ắt quên đi nỗi buồn xưa.

Hai nàng phi tử Mông Cổ này vốn theo tín ngưỡng Lạt ma, hoàng đế liền truyền chỉ xây cất ngay một toà miếu Lạt ma rất lớn trong hành cung, giống y như kiểu Ung Hoà cung ở Bắc Kinh, hoàng đế thường đem hai nàng phi tử vào miếu lê Phật.

Bọn sư Lạt ma tìm biết tâm tính của Càn Long hoàng đế bèn cho đắp tượng Hoan hỉ Phật, nếu so với các tượng ở Bắc Kinh e còn tinh xảo hơn nhiều.

Tượng Hoan hỉ Phật chia làm ba loại, được thờ cúng trong các bí điện. Trong điện thứ nhất tượng đều đúc bằng đồng, bên ngoài có dát vàng lá. Tượng có tượng Phật trai, tượng Phật gái. Cứ hai tượng thành một cặp ôm nhau, hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc nằm, kỳ hình quái trạng khiến người thấy phải kinh hồn lạc phách. Trong điện còn có các gác nhỏ, trướng gấm màn the, giường ngà ghế ngọc trông thấy mà thèm.

Bốn chung quanh gác lại có lan can vây khắp, bên trong đắp hai tượng Phật, một pho là đàn ông đội mũ lông điêu gắn ngọc Đông châu, mình mặc áo bào dài, đầu bện tóe lê thê, ngồi trên bảo toạ trên hết, như các hoàng đế nhà Mãn Thanh đang cúi nhìn xuống chân một pho tượng Phật khác, pho kia là đàn bà nằm nghiêng trên tấm thảm nhung, liếc mắt nhìn tượng phật đàn ông, miệng cười chúm chím tỏ ra hết sức tình tứ khêu gợi.

Tượng đàn bà này thân hình quyến rũ, mái tóc mây óng mượt, vạt áo lỏng cài, để lộ một phần lớn thân thể, khiến bên ngoài có thể thấy làn da mịn như ngọc ngà, không có lấy một vệt nhỏ có thể làm mất vẻ đẹp, vẻ khiêu gợi.

Căn gác nhỏ này chỉ có hoàng đế và các phi tần vào được mà thôi. Toà điện thứ hai thì treo đầy những bức tranh vẽ. Còn toà điện thứ ba thì lại treo khắp những tranh thêu. Tất cả những bức tranh này đều là những cảnh "bí hí" (chơi bời bí mật).

Hồi 91

HÀNH CUNG NHIỆT HÀ

Hồi đó có một anh chàng tên gọi Lang Dã Ninh rất giỏi vẽ. Ninh vẽ luôn một hơi mười sáu bức hoạ treo trong toà điện thứ hai. Trong bức hoạ, người con trai đều có khuôn mặt giống như mặt Càn Long hoàng đế, còn mặt người con gái thì đều là những bộ mặt tuyệt đẹp của các mỹ nhân. Hoàng đế xem xong một lượt, trong lòng vui sướng vô cùng.

Lại có một anh chàng hoạ sĩ người Hán cũng vẽ luôn mười sáu bức. Trong các bức hoạ này, hắn vẽ người con gái có bộ mặt giống hệt một nàng phi nào đó, còn người con trai thì mỗi mặt mỗi khác Càn Long hoàng đế thấy vậy cả giận, truyền dụ bắt tên thợ vẽ người Hán láo lếu này chém đầu tức khắc.

Nhưng vẽ tranh kỳ quái nhất phải nói nhà sư Lạt Ma. Hắn lặng lẽ leo lên một chiếc giường ngồi kiết già (xếp bằng), nhắm mắt tĩnh khí. Hắn ngồi như vậy đến ngày thứ bảy thì bức tường trắng trước mặt bỗng hiện lên một bức hoạ. Nét hoạ càng ngày càng rõ, trở thành một bức tranh tuyệt đẹp.

Hắn cho gọi thợ vẽ tới căn phòng chiếu theo bức hoạ trên tường mà vẽ lại. Những bộ mặt trên bức hoạ, có cái xấu tệ có cái lại đẹp vô ngần. Tất cả những hình người trong đó đều là những hình của bọn trai Mông Cổ, nằm ngồi ngổn ngang, trông khiêu khích hết sức.

Càn Long hoàng đế thường đem vài nàng phi sủng ái nhất, ngày ngày vào bí điện này để vui thú. No nê rồi lại đem các nàng đi dung dăng dung dẻ khắp vườn.

Hành cung tuy có đến ba mươi sáu cảnh, nhưng hoàng đế thấy vẫn còn nhỏ quá, chặt hẹp quá! Ngài bèn truyền dụ làm thêm ba mươi sáu cảnh nữa. Công việc xây cất này lại giao cho Hoà Khôn chỉ huy như cũ.

Thế là Hoà Khôn tức tốc đi tìm vật liệu xây cất, và khởi công liên tục ngày đêm. Hồi đó đã vào lúc tàn đông. Thái hậu đã mấy lần truyền chỉ gọi hoàng đế trở về cung.

Tháng chạp đã gần hết, Càn Long hoàng đế chẳng còn cớ gì để ở lỳ tại đây cho nên ngài đành xa giá trở về. Khi ra đi ngài dặn dò Hoà Khôn bảo phải xây cất mau lẹ để tháng hai năm tới thánh giá sẽ lại ra Nhiệt Hà du ngoạn lần nữa.

Ra Nhiệt Hà lần thứ nhì này, Càn Long hoàng đế có đem theo một cô con gái út là Hoà Hiếu Cố Luân cùng cả hoàng tử thứ mười lăm là Ngung Diệm đi theo.

Hoà Khôn thấy hai cô cậu hoàng tử, công chúa này, bèn đem hết nghệ thuật khéo léo ra để làm đẹp lòng. Y mua nhiều những đồ chơi tân kỳ nhất để kính biếu công chúa, lại đưa hoàng tử đi săn bắn khắp nơi vùng quan ngoại.

Lúc này ba mươi sáu cảnh tân tạo đã hoàn thành. Hoà Khôn vốn biết hoàng đế thích phong cảnh miền Giang Nam nên ở giữa vùng Nhiệt Hà hoang lương lạnh lẽo này, y cho cất rất nhiều những phong cảnh kỳ thú.

Ở giữa cung, có một toà núi gọi là Bàn chùa sơn. Trên lưng chừng núi, Khôn cho xây cất rất nhiều đình quán, chung quanh trồng những cây thông lớn cỡ người ôm. Cứ mỗi lần gió thổi, khóm thông lại cất lên những tiếng rì rào vi vút như những ngọn sóng trào ì ầm xô bờ ngoài biển cá.

Về mặt đông, dọc theo sơn ba mà đi, một con đường ngoằn ngoèo uốn khúc chạy dài như con rắn Dưới chân núi, dưới một khóm cây cao lá rậm, núp bóng một toà lâu đài cao nghệu đặt tên là Vân Sơn thắng địa. Dưới núi là một cái hồ nước rộng, mặt hồ phăng lặng căng dài như tấm gương.

Nhìn ra xa phía trước mặt hồ, người ta thấy toàn là núi bao quanh, và những tháp, những nóc nhà, cao thấp nhấp nhô, tất cả đều in bóng trên mặt hồ. Giữa hồ, có một cái bãi, đất ngang bằng với mặt nước, một đầu tiếp giáp với con đê lớn mà hai bên bờ trồng toàn là đào và liễu. Trên bãi cát đó nào lầu, nào gác kéo thành từng giải ngút mắt, nào là động, nào là phòng, dọc ngang khúc chiết, mà người ta thường gọi là Yên Vân đôn. Đây chính là nơi hoàng đế thường cất giấu người đẹp để thưởng thức dần. Vào đêm, quang cảnh tại nơi đây thật là huy hoàng rực rỡ. Đèn đuốc thắp lên sáng choang tiếng đờn ca nổi lên rầm rĩ đến nhức tai. Nếu đứng xa mà trông thì ta có thể tưởng tượng như đó là một non tiên trên biển rộng.

Ở tận mũi bãi, một cái tháp cao vọt hẳn lên không, tên gọi là Chiêm ngao tháp. Rồi về phía tây hồ, một đoạn tường sơn màu trắng thường bị che khuất nhiều nơi vì những cành hoa thò ra ngoài và phủ lên trên đầu tường. Đoạn tường này chính là tường bao bọc Văn viên. Trong vườn, một cái cầu xây trên một cái ao nhỏ khúc khuỷu, cao thấp nhấp nhô. Nào là quán, nào là gác cao u nhã, trước cũng như sau, hai mặt đều có hàng hiên chạy dài liên tiếp với nhau, nếu vào những ngày có tuyết phủ mưa rơi mà muốn xem thì khỏi cần phải cầm dù che lọng. Tại Văn viên, từ một cái cây đến một viên đá, nhất nhất đều phỏng theo vườn cũ của Cảnh Hiếu vương miền Hà Nam mà kiến trúc.

Về mé đông vườn, một cái gác cao nhô hẳn ra phía ngoài tường. Dưới chân gác là một con sông, sen mọc xanh um xa tít tắp. Cứ mỗi năm đến mùa hè, hoàng đế thường ra đây, tựa lan can, đứng ngắm sen nở. Ngọn gió thổi nhẹ nhàng, mùi hương thơm của sen lại từ dưới sông đưa lên, khiến cảnh trí lại thêm phần quyến rũ. Ngay ở trước mặt, một bức đập sừng sững. Chính tại nơi đây, một dòng nước trắng xoá chảy rào rào xuống hồ, bắn ngược lên những giọt nước nhỏ như giọt sương buổi sáng.

Trên bờ hồ một giải cỏ chạy dài, mấy con hươu sao chạy nhảy tung tăng trên đó. Càn Long hoàng đế thường đem bọn phi tần hóng mát trên gác cao này, rồi cứ mỗi lần nghỉ trưa tỉnh giấc, ngài lại đã thấy mấy tên nội giám dâng lên một ly sữa hươu mát lạnh. Ly sữa này, Càn Long hoàng đế thường chia cho mấy nàng phi tần cung quý cùng uống, rồi khà một tiếng, ngài bảo họ:

- Đây chính là miền Tây Thiên cực lạc! Trên đỉnh cao vót của bức đập nọ, có mấy cây cổ thụ thả cành xuống dưới, miếu Bích Hà nguyên quân. Mỗi lần vào vườn, các phi tần đều tới đây dâng hương đức Bồ tát ngài phù hộ, ban tài phát lộc cho.

Càn Long hoàng đế nhiều lần ở lại trên núi nghỉ đêm, để hôm sau, đúng lúc sáng tinh sương trở dậy, ra ngắm cảnh mặt trời mọc từ phương đông. Những buổi này, hoàng đế thường có bọn đại thần thân tín như Lương Thi Chính, Kỷ Hiểu Phong và Hoà Khôn hầu hạ bên cạnh. Phía dưới núi, có một toà nhà lớn, trên dưới chín căn, gọi là Văn Tân các. Đây là nơi chứa Tứ khố toàn thư (bộ sách vĩ đại nhất của Trung Hoa). Trước mặt gác, chim quạ họp thành bầy, kêu la inh ỏi. Về phía tây của gác này, có một cái đài bằng mặt, cao chỉ vừa ngang mái nhà, bốn chung quanh trồng quế mộc xum xuê rải lên một lớp bóng rợp. Các đài này còn là nơi để cho hoàng đế ra đây thưởng trăng vào đêm rằm Trung thu.

Cảnh sắc trong cung này bốn mùa không lúc nào không đẹp, không tình. Càn Long hoàng đế ở lại nơi đây, thật chẳng khác chi miền Giang Nam. Mỗi khi cùng các phi tần vui đùa đã chán, ngài bèn cho gọi công chúa và hoàng tử thứ mười lăm tới, để cho ba cha con có dịp trò chuyện với nhau. Chẳng những thế, ngài lại còn cho triệu cả đến lũ con trai con gái của bọn đại thần vào đây để cùng bầu bạn với hai anh em nữa.

Có một năm, vào đúng hạ, ông hoàng mười lăm đứng hầu phụ hoàng hóng mát trên lầu. Càn Long hoàng đế trông thấy ở phía dưới lầu một đàn hươu sao đang vui đùa nhảy nhót, bèn nghĩ ngay đến cái tài bắn của con mình, có ý muốn thử xem sao. Ngài bảo Ngung Diệm lấy cung tên xuống lầu, và phải bắn cho trúng vào đầu con hươu đầu đàn nọ. Ngài còn hứa thêm là nếu trúng thì sẽ được thưởng một bộ yên bằng vàng nữa.

Hoàng tử vâng mệnh chạy xuống lầu. Hoàng đế ngồi tựa cửa sổ nhìn xem. Ngài chi thấy hoàng tử giương cung rồi vút một tiếng như xé gió, tiếp sau đó là một tiếng kêu của con hươu, tức thì bọn thị vệ chạy tới khiêng ngay con hươu bị bắn chết lên lầu. Hoàng đế nhìn kỹ, thì ra mũi tên bắn trúng vào đầu con hươu thật… Ngài vui mừng khôn xiết, vội bảo đem bộ yên cương vàng ra thưởng.

Con trai của Hoà Khôn là Phong Thân Kính Đức đứng tại một bên, thấy tài thiện xạ của hoàng tử hết lời tán tụng. Y cũng quỳ xuống đất xin Hoàng đế cho phép được ra thử tài cung tên của mình. Hoàng đế cười hỏi:

- Ngươi cũng có thể bắn trúng đầu con hươu ư?

Kính Đức dập đầu tâu:

- Tiểu tử tuy không bắn trúng được đầu hươu, nhưng có thể bắn trúng được mắt hươu.

Càn Long hoàng đế vốn hết sức sủng ái Hoà Khôn, thấy con trai Khôn có tài như vậy lại được bộ mặt xinh xẻo khôi ngô, nên tỏ vẻ vui mừng, ngài bảo:

- Nếu ngươi quả có thể bắn trúng mắt hươu, trẫm sẽ không những thưởng cho ngươi một bộ yên cương bằng vàng mà còn kén ngươi làm phò mã nữa.

Hoà Khôn đứng bên cạnh, chỉ sợ con mình đắc tội, muốn ngăn con lại. Nhưng khi nghe hoàng đế nói tới chuyện kén phò mã thì biết rằng không thể cản ngăn được nữa. Y vội quỳ xuống đất tạ ơn thay con.

Bọn thị vệ đã đưa cung tên lên lầu, Phong Thân Kính Đức tiếp lấy, vừa gặp lúc đàn hướng sao rủ nhau từ khóm rừng cây chui ra. Mấy phút sau, người ta chỉ thấy cây cung giương cao, và chiếc tên vụt phóng đi, tức thì con hươu cái đã trúng tên đúng ngay vào giữa mắt.

Trên lầu cao cũng như phía dưới, bọn phi tần cung nữ đứng chật cả, ai cũng vỗ tay đôm đốp, miệng khen tuyệt, vang rộn vả vùng. Bọn thị vệ vội chạy ra, khiêng con hươu sao trúng tên lên lầu dâng ngự lãm.

Càn Long hoàng đế xem kỹ lại, quả nhiên thấy chiếc tên cắm đúng vào mắt phải con hươu, không lệch chút nào. Ngài thốt lên tiếng khen: "Khá lắm", tức thì truyền lệnh ban thưởng cho Kính Đức một bộ yên cương bằng vàng và còn bảo Đức cùng hoàng tử rủ nhau ra bờ đê trồng liễu cưỡi ngựa vui chơi với nhau.

Hoàng tử thứ mười lăm vừa được mọi người hoan hô ca tụng, trong lòng đang cao hứng nay bỗng bị Phong Thân Kính Đức tài hơn mình, tự nhiên đâm ra cụt hứng. Bởi thế hoàng tử đâm ra ghét cha con Hoà Khôn hết sức, song có lệnh phụ hoàng, không dám trái. Hoàng tử giả đò vui tươi, cùng chạy xuống lầu với Kính Đức. Trong khi đó cả Càn Long hoàng đế lẫn Hoà Khôn, cả hai đều không biết tí gì về nỗi lòng sâu kín nguy hiểm này của hoàng tử.

Càn Long hoàng đế thấy Kính Đức đã đi rồi, bèn cho gọi Hoà Hiếu Cố Luân công chúa ra, bảo nàng lạy nhạc gia là Hoà Khôn. Báo hại Hoà Khôn vội vàng hoàn lễ không ngớt.

Thế là Càn Long hoàng đế đem việc hôn nhân của công chúa quyết định ngay lúc đó trước mặt mọi người.

Hoà Khôn chẳng còn lý do gì từ chối, chỉ còn việc quỳ xuống tạ ơn mà thôi. Từ đó, khắp triều văn võ, ai cũng biết Khôn đã là thông gia với Hoàng đế, thực không còn anh nào là không xum xoe xu phụng y. Chỉ còn một việc là Cố Luân Công chúa năm đó mới mười bốn tuổi, chưa đến tuổi lấy chồng trong khi hoàng tử thứ mười lăm cũng vừa lên mười sáu tuổi.

Thấy hoàng đế cưng chiều hoàng tử thứ mười lăm, Hoà Khôn thường ở trước mặt ngài tán dương hoàng tử nào là anh võ nào là hiền đức. Liền sau đó, người ta thấy bọn nội giám tả hữu ngầm báo lại ngay cho hoàng tử. Nhưng khi nghe được những tin này, hoàng tử Ngung Diệm đã chẳng những không vui mà còn căm giận Hoà Khôn hơn, cho là xuất thân hèn hạ, chi biết nịnh hót hoàng đế mà thôi.

Hồi đó hoàng tử Ngung Diệm ngoài việc học tập cưỡi ngựa bắn cung ra còn bái Binh bộ thị lang Phụng Khoan làm sư phó giảng giải kỉnh sử. Năm mười ba tuổi, hoàng tử đã học hết bộ Ngũ Kinh. Sau đó, còn theo Thị giảng học sĩ Chu Khuê học cổ văn và cổ thi, theo Công bộ thị lang Tạ Dung học kim thể thi, thâu thái được cả một bụng thi thư, đồng thời hiểu được nhiều việc trong đời.

Hoàng tử thứ mười lăm Ngung Diệm chơi rất thân với quan học sĩ người Hán là Lưu Thống Huấn. Quan tướng quốc họ Lưu vốn là một bậc chính nhân quân tử nên rất căm giận Hoà Khôn. Ông thường kể cho Ngung Diệm nghe Hoà Khôn tham tàn hối lộ như thế nào, gian giảo hiểm độc ra sao. Do đó hoàng tử lại càng khó chịu, coi Hoà Khôn như cái đinh trong mắt… Thế rối ngày nay thấy con Khôn là Phong Thân Kính Đức bắn tài hơn mình, hoàng tử thù thêm con y.

Hoàng tử Ngung Diệm vốn là người khôn ngoan lịch lãm, nên khi thấy Khôn, luôn luôn có bộ mặt hoà nhã, không bao giờ để lộ sự bực bội thù ghét trong mình. Hoà Khôn không biết một tí gì về điều này, thành thử lúc nào cũng dốc một lòng tâng bốc, tán tụng Diệm trước mặt hoàng đế.

Chẳng bao lâu, ngày lễ Vạn thọ của Càn Long hoàng đế đã tới. Khắp triều văn võ trước đó đã kéo nhau lên Nhiệt Hà, cố nhiên là không sót một ai. Người ta còn thấy các bộ chủ (tù trưởng các bộ lạc) tại nội ngoại Mông, rồi các quốc vương của các nước Triều Tiên, Tây Tạng, Quách Nhĩ Khách, Miến Điện, Xiêm La (tức Thái Lan). Tất cả đều đem theo gia quyến, thị vệ tới hành cung, chuẩn bị vào triều bái và chúc thọ. Ngoài ra còn có sứ thần các nước Nga, nước Pháp, nước Anh, nước Hà Lan, cũng thay mặt vua của nước họ đến để chúc mừng nữa.

Càn Long phái Hoà Khôn chỉ huy đám đại thần, thay hoàng đế ở bên ngoài để lo liệu mọi việc. Thế là Khôn suốt ngày ra vẻ ta đây, thử hỏi ai dám lại không lấy lòng y, do đó, không biết bao nhiêu vàng ngọc châu báu đã được ngầm chuyến tới nhà Khôn.

Trong bọn có một vị Tiểu bộ chủ Hỉ Tháp Lạp rất tri kỷ với Hoà Khôn. Khôn biết Lạp có một nàng cách cách xinh đẹp, nên bèn đứng ra làm mai, tâu với Càn Long hoàng đế chọn làm phi tử cho Nhung Diệm. Càn Long hoàng đế vốn tin lời Hoà Khôn, nêu chiếu lệ cho hai mụ bảo mẫu tới xem nàng cách cách Hỉ Tháp Lạp có còn con gái trinh trắng không.

Hai mụ bảo mẫu đưa Hỉ Tháp Lạp tới một căn mật thất, cởi hết quần áo nàng ra, rồi xem xét cẩn thận từ tay chân đến đôi núm vú, xuống mãi tới phía hạ bộ, quả nhiên thấy da thịt nàng mịn mát đầy đặn, trắng nõn như bông, không, có một điểm nào chê được cả.

Hai mụ bảo mẫu trở về cung phục chỉ. Càn Long hoàng đế liền hạ dụ hành sinh (tức đồ sính lễ ăn hỏi), phong nàng cách cách Hỉ Tháp Lạp làm phi tử của hoàng tử thứ mười lăm. Ngài còn phong hoàng tử làm Gia Quân vương.

Càn Long hoàng đế sợ rằng Gia Quân vương còn quá nhỏ tuổi không hiểu rõ "việc đời", bèn đem con vào bí các trong miếu Lạt ma, bắt cởi hết quần áo trên bức tượng mỹ nhân để cho con xem xét từ trên xuống dưới. Sau đó, ngài còn đưa sang bên điện Hoan hỉ Phật cho xem thêm nữa.

Từ đó, trong cung Thanh, việc này được trở thành một cái lệ. Cứ hễ khi vị hoàng tử làm lễ đại hôn, trước vài ngày, vua cha lại phải đưa con tới hành cung Nhiệt Hà để xem Hoan hỉ Phật, song đó là việc về sau…

Hồi 92

LIỆT DIỆM QUÁN: NƠI CHỨA GÁI CỦA CÀN LONG

Gia Quân vương cùng bọn đại thần văn chương thân cận hằng ngày luyện tập thi thư, cử chỉ có bề văn nhã, tính tình lại đàng hoàng ngay thẳng. Nhưng từ khi qua chơi miếu Lạt ma về rồi, vương bỗng nảy sinh lòng tà dục, khiến tâm hồn trong trắng vốn có tiêu tan tức thì. Giữa lúc mọi người đang bận bịu về cuộc lễ chúc thọ và không ai để ý tới, chẳng hiểu tại sao vương quen biết một cô tiểu thư, con một vị Chương Kinh họ Hầu người Hán. Thế là hai người mật ước với nhau, thì thụt lại qua. Về sau viên Chương Kính biết chuyện, bèn ngầm đưa con gái vào phủ vương gia.

Gia Quân vương dấu kín nàng trong phủ để ngày đêm mua vui tìm thú. Người trong phủ đều gọi nàng là Hầu Giai thi. Về sau, khi đã lấy nàng Hỉ Tháp Lạp rồi, vương phong cho nàng làm Oanh tần.

Hồi đó, còn có một cô gái người Hán nữa được tuyển vào cung tên gọi Lưu Giai thị cũng được phong làm Thanh phi, thêm một cô nữa họ Nữu Cô Lộc cũng được phong làm quý phi. Những việc này đều là việc về sau.

Ngày lễ vạn thọ của Càn Long hoàng đế đã tới. Ngài chịu lễ cận hạ (lễ lạy mừng) của nội, ngoại thần công trong vườn Vạn Thọ viên. Mấy hôm lễ, trong hành cung Nhiệt Hà người ta thấy treo trên ngọn cây hay đầu nhà, không biết cơ man nào đèn lồng chữ Thọ. Vườn Vạn Thọ cũng mở rộng năm đường lớn Đường chính giữa là đường của vương, công tôn thất. Đường thứ nhất về phía trái, đó là đường dành cho các thân vương, bối lặc Mãn, Mông: Đường thứ nhì, đó là đường của bọn phiên thần hai bộ lạc Hồi Chuẩn và Quách Nhĩ Khách đất Tây Tạng.

Đường thứ nhất về phía trái đặc biệt dành cho sứ thần các nước Tây dương Anh, Pháp, Nga, Hà Lan. Còn đường thứ nhì là đường các quốc vương Nhật Bản, Triều Tiên, Miến Điện.

Tất cả đều phân ngôi chia thứ, ngồi hàng dọc hai bên trái phải lô nhô, chẳng khác gì những mỏm đá trên ngọn Thiên Bình sơn, kẻ nào kẻ nấy lặng lẽ âm thầm. Cả một khu vườn trống thế mà bỗng biến thành một rừng người, xa trông thấy đen kịt. Bọn sứ thần Anh, Pháp vốn chẳng chịu quỳ lạy nhưng chỉ vì muốn thông thương với Trung Quốc nên cũng phải miễn cưỡng làm theo bọn đại thần.

Càn Long hoàng đế thấy vậy, trong lòng khoái trá lắm. Ngài truyền lệnh ban yến và cho xem hát ngay tại trong vườn. Cuộc vui kéo dài mãi ba hôm, sau đó mới cáo từ ai về chỗ nấy.

Ít hôm sau, Càn Long hoàng đế bỗng nghĩ ra một trò chơi mới. Nguyên lai như sau, Càn Long hoàng đế vốn một tay ham chơi, hiếu sắc. Bởi vậy khi đến Nhiệt Hà, dù đã kén thêm đã khá nhiều phi tử rồi mà vẫn chưa đã thèm đối với ngài.

Trong số phi tử mới tuyển, phải kể hai nàng Khách Thích Bí và Tháp Cố Phi là được sủng ái hơn hết. Nhưng khi nhìn thấy bọn Phiên vương của các bộ lạc đem vợ con theo đều là những trang tuyệt thế giai nhân, phục sức lại có vẻ phong lưu tình tứ hơn người, hơn nữa còn có thêm bọn gái phương Tây da dẻ trắng toát, phong độ lạ lẫm, thì chẳng hiểu tại sao ngài đâm ra chán ngấy bọn phi tần mỹ nữ của mình. Thế là ngài ngắm bảo Hoà Khôn đưa tin ra nói hoàng đế Trung Quốc nhận lụa, ngọc, đàn bà của người Tây phương dâng, nay ngọc, lụa đã có, chỉ còn thiếu gái. Bởi thế, ngài cần chọn vài cô gái ngoại phiên tại hành cụng đế sớm hôm hầu hạ và truyền đạt cho ngài nghe những phong tục lạ kỳ nơi quốc ngoại.

Hoà Khôn nhận được chỉ ý ấy, sung sướng như điên. Khôn tức tốc về trướng phủ, họp bọn mạc hữu thân tín lại để bàn tính. Bọn mạc hữu bèn dâng kế; một mặt phái người đi tứ xứ tuyển chọn gái đẹp ngoại phiên, một mặt xây cất ngay một toà nhà gọi Liệt Diệm quán bên trong hành cung.

Nửa năm sau, quản xây cất xong thì người từ khắp nơi cũng đã đưa về đủ số. Hôm đó, Càn Long hoàng đế cho triệu bọn gái đẹp vào bệ kiến tại Như Y châu. Như Y châu vốn là nơi mưa vui của hoàng đế với bọn phi tần. Tại nơi này có một nhà gương bốn mặt, một tấm thân soi vào gương tức khắc hoá thành mấy chục tấm thân nhìn rõ mồn một ở khắp bốn phía.

Hoàng đế truyền lệnh cho các cô gái vào bệ kiến trước bửu toạ, quan sát rất kỹ lưỡng. Cứ mỗi lần đưa một cô vào bệ kiến là một lần mụ quản sự trong cung phải bước tới, cởi bỏ hết quần áo của cô ta, sờ sẫm kiểm soát cẩn thận khắp người rồi mới cho vào gần ngự toạ. Lại còn có bọn bảo mẫu chỉ bảo cách thức quỳ lạy. Bọn gái đẹp có cô tô son điểm phấn rực rỡ, có cô lại trang điểm nhã nhặn. Đây là lần đầu họ được gặp thiên nhan nên có vẻ vừa sợ vừa thẹn.

Hoàng đế tươi cười vui vẻ, thân mật hỏi chuyện từng cô cô nào không hiểu tiếng, tức thì thông sự nữ qua đứng bên cạnh dịch lại ngay. Khi thấy cô nào vừa ý, Ngài liền giơ tay ra ôm lấy, kéo lại gần mình rồi ngắm nghía từ mặt cho đến tay đến chân. Trong bọn gái này, Nhật Bản có một cô tuyệt trần tên gọi là Thiên Đại Tử. Ấn Độ có một cô cao dong dỏng, hết sức hoạt bát. Tây Dương có một cô da trắng mịn màng, người trẻ như măng ai nhìn thấy cũng phải động tình.

Đêm đó, Càn Long hoàng đế cho giữ ba cô này lại Như Y châu, rồi liền bảy ngày đêm chẳng thả ra. Sau đó, một đạo thánh chỉ hạ xuống, phong cô gái Tây Dương làm đệ nhất phi của Liệt Diệm quán, cô gái Thiên Đại Tử làm đệ nhị và cô gái Ấn Độ làm đệ tam phi. Xếp đặt xong cho ba cố gái tuyệt sắc này rồi, hoàng đế mới đi khắp Liệt Diệm quán để lâm hạnh cho bằng hết những nàng mỹ nữ còn lại.

Liệt Diệm quán còn gọi là Ngư Đài hành cung quán, gồm có mười mấy toà nhà, cứ mỗi toà đặt một mỹ nhân. Ngay tại giữa xây một toà nhà lớn gọi là Thưởng Diệm hành cung. Hằng ngày, hoàng đế ngự trong hành cung này, rồi cho gọi người đẹp lần lượt lâm hạnh.

Trong số mỹ nữ, có vài cô không quen, xấu hổ quá, lặng lẽ trốn ra sau viện thắt cổ chết. Viên quản sự thái giám tâu hoàng đế rõ rồi khiêng xác ra ngoài vườn sau chôn đi. Cũng có khi cao hứng, hoàng đế bèn tự thân tới nhà từng cô để thưởng ngoạn. Cách trang hoàng ở đây đều bắt chước theo cách trang hoàng nơi quê hương bản quán từng nàng. Cũng có lúc người đẹp mớ ước một món ăn hoặc một vật dụng nào đó của quê hương mình, tức thì Hoà Khôn cho bọn dịch tố, dù xa xôi ngàn dặm, đi kiếm mua cho bằng được đem về.

Càn Long hoàng đế khoái nhất là tới nhà đệ nhị phi tử. Toà nhà băng gỗ, có cửa sổ giấy sạch sẽ như lau như ly, không một chút bụi bặm. Bước chân vào là đã thấy giường. Khi vào nhà, ngài cởi giày rồi nằm ngay ra giường, ôm lấy Thiên Đại Tử mà vui vẻ.

Về sau, đệ nhất phi biết được chuyện này, trong lòng ghen tức lắm. Nàng bèn rình lúc hoàng đế không có mặt, chạy sang nắm đầu Thiên Đại Tử đánh lộn một trận nên thân. Hai ngòi lửa giận lên tới cùng độ, vật nhau ở trên giường y như hai con thú. Bọn cung nữ vội chạy đi cấp báo. Hoàng đế đích thân chạy tới, quát bảo thôi, rồi nắm tay đệ nhất phi kéo về nhà riêng của nàng.

Toà nhà của đệ nhất phi trang trí theo kiểu Tây Dương. Nàng đích thân làm bếp nấu món ăn dâng lên hoàng đế, quả có một hương vị đặc biệt. Hoàng đế ở lại đây luôn một hơi ba ngày ba đêm. Qua đêm thứ ba, giữa lúc đang yên giấc bên cạnh người đẹp, bỗng Thiên Đại Phi tay cầm một con đao nhọn nhảy vào. Nàng Tây Dương phi chưa ngủ, vội đưa tay ra gạt đỡ. Không ngờ con "Đông dương thích đao" nhọn sắc có tiếng, đã chém đứt mất cánh tay phải của Tây Dương Phi.

Càn Long hoàng đế thấy vậy cả kinh thất sắc. Bọn nội thị chạy tới bắt ngay Thiên Đại Phi. Hoàng đế giận lắm, quát bảo thị vệ đẩy ra ngoài cung chém vắt ngang hông chết.

Việc này chẳng mấy chốc vang động khắp cung vi, nàng Xuân A Phi biết chuyện, vội tới bệ kiến hoàng đế, khuyên ngài:

- Bọn mỹ nhân vốn người Tứ Di, tính tình man rợ chưa thuần… Hoàng thượng là thân vạn thặng cần phải bảo trọng, chớ có quá ư lưu luyến khiến xảy ra tai hoạ phi thường.

Càn Long hoàng đế nghe lời khuyên này có tình có nghĩa ngài thấy Xuân A Phi, bất giác nhớ lại mối tình xưa, bèn lại về cung của nàng để lâm hạnh. Từ đó, đối với Liệt Diệm quán, Ngài có vẻ nhạt tình đi nhiều lắm.

Hồi đó, trời đã tàn đông. Qua mùa xuân sang năm có hai việc lớn xảy ra, Ngài không thể không quay về kinh.

Việc thử nhất là là Quân Vương làm lễ Đại hôn. Trước khi làm lễ cưới chính thức, Vương đã lấy vài nàng phi rồi.

Vương vốn là một vị hoàng tử được hoàng đế cưng chiều nhất. Bởi vậy, ngài đặc thưởng cho Vương một toà Quận Vương Phủ. Bên trong phủ, nhà cửa phòng buồng hết sức rộng lớn, trần thiết đẹp đẽ.

Ngày lễ Đại hôn đã tới đây là ngày náo nhiệt vui nhộn nhất. Nàng Hỉ Tháp Lạp xinh đẹp tuyệt trần, nên hai vợ chồng tình nghĩa mười phần khăng khít.

Năm đó có lễ Đại hôn của Gia Quân vương nên hội chợ trong cung được phép kéo dài mãi tới tháng ba, Càn Long hoàng đế hằng ngày đưa cô con dâu mới cùng mấy phi tần sủng ái ra phố du ngoạn.

Lúc này Hoà Hiếu Cố Luân công chúa đã mười sáu tuổi.

Hoàng đế cưng quý nàng hết sức nên cũng cho nàng đi theo, ngày ngày dạo chơi ngoài phố buôn bán. Công chúa là người rất hoạt bát, nói năng lại lanh lẹn. Hoàng thượng thường giữ nàng lại, cha con trò chuyện cười vui với nhau.

Lúc đó Hoà Khôn cũng có mặt. Mới đầu Công chúa nhìn thấy Khôn, không khỏi e lệ mắc cỡ. Càn Long bảo nàng bái kiến nhạc gia. Từ đó về sau mỗi khi công chúa thấy Hoà Khôn nàng đều thưa là ông gia. Khôn cũng hay nán lại để trò chuyện cười vui với cô con dâu tương lai của mình.

Có một hôm, Hoàng đế dắt tay công chúa đi dạo phố, Hoà Khôn cũng có mặt bên cạnh. Nàng liếc nhìn thấy trong tiệm có treo một chiếc áo choàng lớn màu hồng rất đẹp. Nàng thích lắm, nói nhỏ với cha. Nhưng hoàng đế cười, bảo nên hỏi ông gia của nàng. Hoà Nhân nghe nói, vội chạy vào tiệm, bỏ luôn hai mươi sáu lạng bạc để mua áo rồi tự tay mình cầm khoác lên vai cho công chúa.

Hôm đó, công chúa ăn mặc kiểu con trai. Thêm chiếc áo choàng dài vào, nàng càng tỏ ra xinh đẹp lạ thường. Mặt nàng đầy đặn như trăng rằm mùa thu rực sáng, môi nàng hồng hồng chẳng kém gì những cặp môi tô son thắm. Càn Long hoàng đế cười nói:

- Phò mã của mày đẹp chẳng khác gì đứa con gái. Còn mày lại giống hệt như con trai!

Công chúa nghe nói, mắc cỡ quá cúi gầm mặt xuống, và im lặng chẳng nói lời nào. Hoàng đế lại cười nói:

- Hà! Hà! Hôm nay tại sao con chim oanh lại thôi hót rồi?

Công chúa nghe đoạn, giấu môi nguýt một cái, vội quay mình bỏ chạy đi nơi khác mất hút…

HẾT TẬP 1

Tập II - Hồi 93

LẤY VỢ MÀ KHÔNG ĐƯỢC Ở VỚI VỢ

Hội chợ đóng cửa. Càn Long hoàng đế vội mang Tứ khố mục lục ra xem xét. Tổng toàn đại thần lúc đó là Kỷ Hiểu Phong. Hoàng đế muốn nhờ Phong làm lời tựa thay mình, nhưng lại sợ có người biết. Bởi vậy, ngài giữ Phong ở lại trong ngự thư phòng.

Hai người thường bàn luận biến chế phải thế nào. Không ngờ Kỷ Hiểu Phong tuổi tuy đã đến sáu chục nhưng trời sinh ra vốn dương thế, một ngày không có gái thì tay chân rã rời, toàn thân như người bệnh nặng, không làm được chuyện gì nữa. Phong ở lại trong cung đã tới ngày thứ tư, đêm nào cũng nằm một mình vò võ. Phong cảm thấy xương cốt toàn thân đau mỏi nhừ dần, gân cốt giật lên thon thót từng hồi.

Hôm đó đúng vào ngày thứ tư. Cặp con ngươi của Phong như muốn bắn ra ngoài, mắt Phong nổi đầy gân đỏ. Lạ nhất là suốt ngày hôm đó, Phong cứ cong lưng khom người lại, chẳng dám đứng thẳng lấy một phút, Càn Long hoàng đế thấy vậy lấy làm lạ, bèn hỏi Phong đau bệnh gì thì Phong hoảng quá bò rạp xuống đất, dập đầu lia lịa rồi tự thú rằng mình một ngày mà không có đàn bà thì chẳng làm ăn được gì hết. Càn Long hoàng để nghe nói ha hả cười lớn, rồi đưa tay đỡ Phong dậy, bảo cứ yên nghỉ tại thư phòng cho hết ngày đã.

Hôm đó, theo thường lệ thì có mấy tên thái giám dọn giường trải nệm cho Phong. Nhưng đêm nay lại không phải chúng mà là hai cô cung nữ tuyệt sắc giai nhân. Mỹ nhân vừa thấy Phong, quỳ xuống làm lễ ra mắt. Phong đột nhiên thấy chuyện lại tay chân như co rúm lại, chẳng biết đặt vào đâu. Hai cô cung nữ làm lễ xong, cười tủm tỉm bắt tay vào việc dọn giường trai nệm ngay. Phong vội cản lại nói: "Không dám làm phiền hai nàng", nhưng người đẹp làm bộ như không nghe thấy, cứ thoăn thoắt làm. Dọn giường trải nệm xong, một cô thì dắt Phong lên giường, còn một cô thì đưa tay cởi thắt lưng của Phong. Báo hại Phong sợ quá, vừa thụt lùi vừa rên rỉ:

- Ấy chết! Chớ, chớ mà! Hoàng thượng mà biết thì chết cả! Tội đó liệt vào hàng khi quân đấy. Tính mạng các cô đã không giữ được thì cái mạng già này giữ làm sao nổi chứ?

Hai cung nữ lờ đi như không biết đến lời Phong, cứ xúm lại kéo Phong lên giường và liếc nhau cười ngặt nghẹo.

Kỷ Hiểu Phong lúc đó tiến thoái lưỡng nan. Muốn trốn nhưng trốn vào đâu? Nói nhiều lại sợ ầm lên, thế là Phong dành để mặc cho hai cô duyên dáng, đẹp như hoa xinh như mộng kia muốn làm gì thì làm.

Hai cô cung nữ miệng vẫn cười như nắc nẻ hè nhau cởi tuột hết quần áo của Phong, bế thốc Phong lên giường. Phong cứ tưởng xong xuôi cả hai sẽ bỏ ra ngoài ai ngờ họ đã không đi mà lại còn gỡ bỏ trâm vàng vòng ngọc rồi cởi luôn y phục, cùng nhau ngồi cạnh giường Phong, như có ý chui vào trong chăn của Phong.

Kỷ Hiểu Phong đến lúc này không thể nín được nữa, bèn nhỏm dậy ngồi lùi mãi tận cuối giường chắp tay lạy lấy lạy để hai cô rồi ấp úng lên tiếng:

- Xin hai cô ra ngoài ngay cho. Việc này quả thật nghìn không được, muôn cũng không được đâu. Hai cô hãy thương cho tôi, vốn kẻ đọc sách cùng khổ, cố leo mãi tới địa vị Đại học sĩ thực đâu có phải dễ. Chuyện hôm nay xảy ra, rồi ngày mai bị đuổi ra khỏi cung, há chẳng phải là hỏng hết ư? Không những công danh tính mạng của tôi tan tành hết, mà danh tiết của hai cô trẻ đẹp như hoa như mộng thế kia cũng hoàn toàn mất sạch. Hơn nữa, bọn ta đều biết có đêm nay rồi ngày mai tính mạng đều không còn cả, như vậy thì ích lợi gì. Mong cầu hai vị cô nương tha cho cái mạng già này. Nhân lúc còn chưa có ai biết, hai cô hãy lặng lẽ ra đi. Nếu không, chuyện vỡ ra mọi người đều biết thì nguy lắm!

Mặc cho Phong muốn nói gì thì nói, van xin gì thì van xin, hai cung nữ vẫn làm theo ý mình.

Kỷ Hiểu Phong không biết làm cách nào hơn là học lối nhập đình của các vị lão tăng, đôi mắt nhắm nghiền lại, mắt đối mũi, mũi đôi tâm, nằm thẳng cẳng mong ngủ thiếp đi.

Nhưng khốn một nỗi cho Phong là mùi hương thơm ngào ngạt của son phấn cứ thốc vào mũi Phong từng hồi từng trận, khiến Phong có muốn ngủ cũng chẳng được nào…

Giữa lúc đang cùng quẫn muôn phần, Phong bỗng nghe có tiếng hô ngoài cửa sổ:

"Vạn tuế gia có chỉ. Nghĩ rằng Kỷ Hiểu Phong tuổi già, vốn là người, há không rõ điều ấm lạnh. Bởi thế ta đặc thưởng cho ngươi cung nữ hầu hạ bầu bạn ngay tại ngự thư phòng, để tỏ sự chí tình của Trẫm đối với một lão thần. Khâm thử".

Nực cười nhất là ông già họ Kỷ mình trần trùng trục, bò lốm ngổm dưới đất nghe thánh chỉ. Khi nghe xong, Phong tạ ơn, lòng lúc đó mới yên. Tất nhiên đêm hôm đó tha hồ thoả thích ngày mai khỏi phải cong lưng khom người sợ thất lễ với thánh thượng.

Qua hôm sau, Kỷ Hiểu Phong thức dậy mắt tỉnh như sáo, tinh thần xem ra minh mẫn lạ thường. Càn Long hoàng đế bước vào thư phòng, Phong lại một lần nữa quỳ xuống tạ ân.

Hoàng đế cười hỏi:

- Thế nào? Hai con cung nữ ấy, không chán chứ?

Phong lại dập đầu lia lịa tạ ơn. Từ đó, hai cô cung nữ xinh đẹp suốt ngày ở bên cạnh Phong hầu hạ trong ngự thư phòng, khi thì thêm hương rọc giấy, khi thì dọn giường trải nệm. Đến khi Phong soạn sách đã xong, ra khỏi cung, Càn Long hoàng đế bèn ra lệnh cho Phong đem cả hai cô về nhà để làm dì hai, dì ba. Do chuyện này, người Bắc Kinh hồi đó đều nói Kỷ Hiểu Phong vâng chỉ lấy thiếp. Bà Kỷ thái thái (vợ cả) nghe dư luận đồn rầm nhưng còn biết làm sao được.

Bây giờ đến chuyện Hoà Hiếu công chúa lấy chồng. Kinh thành lại được một dịp náo nhiệt ghê gớm. Một toà phủ phò mã hết sức đồ sộ do hoàng đế ban thưởng, được xây cất tại đường lộ lớn Đông Đại nhai. Trong phủ trang hoàng cực kỳ đẹp đẽ. Hoà Khôn lại giàu có nên ngấm ngầm thêm ba mươi vạn lạng bạc kiến trúc một toà hoa viên lớn ngay trong phủ phò mã.

Theo định lệ của cung nhà Thanh, thì công chúa dù đã lấy phò mã nhưng hai vợ chồng ít khi được gặp mặt nhau. Công chúa thì ở trong nội viện, phò mã lại ở ngoài ngoại viện. Hoà Khôn sợ con mình ở ngoại viện buồn bã nên mới cho kiến trúc toà đại hoa viên, lâu đài tráng lệ nguy nga vào bậc nhất.

Đến ngày vui mừng nhất đời của mình, công chúa từ biệt hoàng thượng, hoàng hậu và mẹ đẻ là bà Nguỵ Giai Thị, bước ra khỏi cung về phủ phò mã.

Hai vợ chồng Hoà Khôn đứng trước mặt cô con dâu làm lễ triều bái xong, bèn mở tiệc mừng. Trong phủ náo nhiệt đủ ba ngày. Tả hữu thân cận của công chúa có bảo mẫu, thị nữ hầu hạ. Nàng công chúa này hết sức hoạt bát lanh lẹn. Nàng thấy sau khi làm lễ động phòng hoa chúc, phò mã phải ở luôn mấy chục hôm ngoài ngoại viện không được gặp mặt, bèn dặn dò bọn thị nữ đi tuyên triệu phò mã vào nội viện. Nhưng mấy bà bảo mẫu ngăn lại, nói đó là quy củ của triều đình, công chúa không được tuyên triệu một cách dễ dàng như vậy. Công chúa nghe xong đành vậy không biết làm cách nào chỉ còn nhẫn nại chờ đợi…

Ba tháng trôi qua. Công chúa lại cho thị nữ đi tuyên triệu phò mã. Lần này cũng bị bọn bảo mẫu ngăn cản, còn trách nàng là không biết xấu hổ. Nàng tức đến phát khóc lên. Nàng muốn vào cung tâu rõ việc này với phụ hoàng, nhưng một khi đã xuất giá đâu có dễ gì mà vào cung được. Hơn nữa chuyện vợ chồng tư riêng thì biết nói với cha mẹ ra sao. Rắc rối mãi, rút cuộc phò mã phải bỏ ra năm ngàn quan tiền lo lót với bọn bảo mẫu, lúc đó mới được phép vào nội viện, vợ chồng gặp gỡ đoàn viên.

Từ đó, cứ mỗi lần hai vợ chồng công chúa muốn gặp nhau, bị bọn bảo mẫu ngăn cản thì lại phải cho ít tiền mới được phép. Đấy là điều bực bội nhất của các cô công chúa nhà Thanh.

Càn Long hoàng đế năm đó đã hơn sáu chục tuổi. Chuyện nữ sắc tất nhiên kém hẳn trước một bực, cho nên ngài chỉ còn thích có đi vi hành mà thôi. Những lúc rảnh việc, ngài thường cùng bọn nội giám và cung nữ, ăn mặc thường dân, lén ra khỏi cung đi khắp đó đây du ngoạn.

Hồi đó có một người tên gọi Dương Thuỵ Liên, vốn thân thích với Lương Thi Chính. Liên thường dựa thế Lương Thi Chính là đại thần thân tín của hoàng đế, thỉnh thoảng lên kinh tới nhờ vả hết việc này đến việc nọ. Chính ngại Liên là người kém cỏi thô lậu, chẳng có học vấn bao nhiêu. Sở trường của Liên chỉ đặc biệt là chữ y rất đẹp. Chân, thảo, triện, lê tất cả bốn chữ, kiểu nào cũng đều tuyệt cả. Chính bèn đưa Liên đến quán Tây Thanh cồ giám giới thiệu và xin cho Liên được sung chức tả quan (viên quan chuyên môn về việc viết sách).

Dương Thuỵ Liên từ khi nhận việc trong quán này, mẫn cán tích cực lắm. Vào những lúc nghỉ, như người khác thì đi chơi cho thoả nhưng Liên lại vùi đầu vào việc viết chữ.

Hôm đó, đúng vào mười ba tháng tám, mọi người trong quán đi hết, chỉ còn có một mình Liên ngồi lại. Bỗng từ bên ngoài, một ông lão vẻ mặt nghiêm nghị bước vào, nhìn Liên rồi gật đầu mỉm cười. Liên chẳng biết người đó là ai song tự biết rằng chức vị mình quá nhỏ thấp, Liên đứng dậy đón tiếp ông lão ngồi xuống, tựa vào cửa sổ, hỏi Liên:

- Bọn họ đi đâu cả rồi?

Dương Thuỵ Liên đáp:

- Hôm nay mười ba. Bọn họ…

Ông lão lại hỏi:

- Tại sao ngươi không đi?

Liên lại đáp:

- Mọi người đi hết cả, ví thử nội đình có việc cần viết chỉ truyền ra, thì lúc đó biết kêu ai được? Bởi vậy tôi tình nguyện ở lại đây trông coi.

Ông lão gật đầu khen tốt. Lại nói:

- Người làm việc chăm chỉ cần mẫn, nhưng e rằng công danh khó được như vậy.

Ông lão lại hỏi thêm họ tên quê quán của Liên. Liên cứ thật nói hết, chẳng giấu một điều nào. Giữa lúc hai người còn đang trò chuyện, bỗng thấy mười mấy tên thái giám hốt hốt hoảng hoảng chạy tới, bò rạp xuống mặt đất nói:

- Thỉnh vạn tuế hồi cung.

Dương Thuỵ Liên đến lúc này mới biết ông lão đó chính là đương kim hoàng đế Càn Long, bèn vội vàng quỳ xuống dập đầu liên tiếp, mãi đến khi ngài đã xa rồi mới dám đứng dậy.

Qua ngày thứ hai, Liên tới nhà Lương Thi Chính. Chính lúc đó còn tại triều, phải đợi một lúc mới về tới. Vừa thấy Liên, Chính đã khì khì cười, mau miệng bảo:

- Lão huynh, vận tốt đã tới rồi. Hôm nay trước mặt đệ, hoàng thượng đã khen lão huynh làm việc cần mẫn, chữ viết đẹp, nên đã hạ thánh chỉ khâm tứ bằng cử nhân, bổ lão huynh đi tri huyện Tương Đàm rồi đó.

Thật là cái mừng khôn xiết tả cho Dương Thuỵ Liên! Sung sướng quá, Liên vội khom mình chắp tay, lạy Lương Thi Chính, kính cẩn nói:

- Đa tạ đại nhân tài bồi!

Vài ngày sau, quả nhiên thánh chỉ hạ xuống, bổ Liên đi tri huyện Tương Đàm!

Nhưng không ngờ sau khi đi làm tri huyện, Liên đâm ra tham nhũng, ăn hối lộ, lôi thôi bê bết quá, đến nỗi tên tuổi bại hoại hết cả. Điều tiếng bay cả về tới kinh, đến cả bọn ngự sử trong triều cũng biết nữa. Thế là họ dâng lên một bản sớ. Rồi tuần phủ Hồ Nam cũng tiếp thêm một tờ sớ nữa. Sớ dĩ tuần phủ Hồ Nam cũng ghét Liên, chỉ tại Liên không chịu viết chữ giúp, khiến ông ta căm giận mà móc ra. Cả mấy bản sớ đều nhằm vào chuyện tham lam, nịnh bợ, trái phép.

Nào ngờ Càn Long hoàng đế khi thấy các bản sớ kể tội này, phì cười rồi bảo:

- Dương Thuỵ Liên vốn người thực thà chất phác, trẫm biết đã quá rõ. Bọn họ dù có tấu đi nữa, trẫm cũng chẳng chuẩn y đâu!

Về sau, Lương Thi Chính sợ liên luỵ tới mình bèn ngầm viết thơ cho Liên khuyên y cáo lui đi là hơn.

Hồi 94

THẬP TOÀN ĐẠI VÕ CÔNG KỲ

Càn Long hoàng đế có cái tính kỳ là hễ đã yêu quý ai thì dù kẻ đó có làm bậy mà chính mắt ngài thấy cũng vẫn không tin, vẫn chẳng trừng phạt, ví dụ trường hợp của Dương Thuỵ Liên vừa kể trên… Nhưng cái người mà ngài tin hết mức, phải nói là Hoà Khôn.

Hoà Khôn càng về già càng tham. Khôn sai gia đinh thân tín xuống vùng Giang Nam, Hồ Quảng để hạch sách khảo tiền.

Các quan tuần phủ, tổng đốc đón rước gia đinh của Hoà tướng quốc không khác gì đón rước hoàng đế. Tin đó bay về tới kinh đô, nhưng các quan ngự sử đố ông nào dám ho he nói tới.

Duy chỉ có mình Lưu tướng quốc kể tội Khôn ra bên ngoài đòi hối lộ, tham lam lường gạt, khảo tiền ra sao, bất pháp thế nào…

Càn Long hoàng đế xem xong, bỗng cả giận, nói Lưu tướng quốc có ý khiêu khích, bèn cho gọi vào, chỉ trích. Lưu tướng quốc dập đầu tạ tội rồi rút lui, lòng bực tức đến cùng độ, bao nhiêu râu ria hình như muốn dựng ngược lên hết.

Gia Quân vương vốn kính trọng Lưu tướng quốc, biết chuyện này vội tới khuyên nhủ, mãi lâu sau ông mới vơi bớt được nỗi buồn bực. Nói đến Hoà Khôn, Gia Quân vương cũng nghiến răng bảo:

- Cái tên gian tặc ấy, thế nào Tiểu vương cũng có ngày trị tội hắn.

Thế là sau đó, vương cho người lặng lẽ đi về các tỉnh dò hỏi, điều tra tất cả những chuyện bọn gia đinh của Hoà Khôn tham nhũng hối lộ, mua quan bán tước như thế nào, rồi ghi hết vào sổ sách để hỏi tội Khôn sau này.

Điều buồn cười nhất là Khôn y như người nằm trong trống, chẳng hiểu một tý gì. Khôn thấy hoàng đế yêu quý Gia Quân vương, thì y cũng ngày ngày ca tụng nịnh nọt bên tai hoàng đế, nào Vương trung, nào Vương hiếu, nào Vương chăm học v.v. Càng nghe Càn Long hoàng đế càng thích thú. Ngài bèn bàn với Hoà Khôn, cho mình còn dư được ít tuổi trời cần hưởng cảnh nhàn lạc, nên sớm truyền ngôi lại cho Gia Quân vương. Hoà Khôn nghe lời Càn Long hoàng đế, vội đem hết lời lẽ hùa vào. Y nghĩ rằng lúc này mình giúp Vương thì tất sau này khi lên ngôi Vương phải coi mình như vị khai quốc công thần, như vậy quyền thế của y chắc chắn bền vững mãi muôn đời.

Càn Long hoàng đế tuy đã có chủ ý nhưng vì bọn hoàng tử đông lắm, nếu tuyên bố ra e có chuyện loạn mất. Bởi thế ngài dặn dò Hoà Khôn phải giữ bí mật, đến khi được phép mới hay.

Năm đó Càn Long hoàng đế lên ngôi đã được 57 năm. Phải tới 60 năm thì thánh chỉ nhường ngôi mới có thể hạ xuống được. Ngài cho dọn dẹp sửa sang lại cung Dục Khánh rồi bảo Gia Quân vương đem gia quyến vào ở. Muốn tránh tiếng, ngài tự tay viết ba chữ Kế Đức Đường vào một tấm biển, ban cho Gia Quân vương đem treo trước cửa cung. Đó chính là ngài đã có ý ngầm truyền ngôi cho Gia Quân vương rồi đấy!

Gia Quân vương thấy phụ hoàng hao phí tâm lực khá nhiều cho mình, không biết đó là phúc hay hoạ, nhưng lại không tiện hỏi. Giữa lúc bàng hoàng nghi hoặc ấy, bỗng được tin Hoà tướng quân muốn gặp. Gia Quân vương thấy Khôn chỉ là một tên thái giám đáng ghét nên chẳng ưa, hằng ngày ít khi qua lại thăm hỏi. Nay nghe nói đích y thân lại Vương phủ xin gặp, trong lòng Vương cảm thấy lạ. Nhưng y vốn là một vị đại thần thân tín bậc nhất của phụ hoàng thì chẳng lẽ lại coi thường, bời thế Vương đành phải ra tương kiến.

Hoà Khôn thấy Gia Quân vương, vội tiến lên vài bước, khom mình lạy một lạy.

Sau đó Khôn lấy từ trong tay áo một viên ngọc như ý rồi hai tay dâng lên. Vương đỡ lấy viên ngọc, lòng càng thấy lạ hơn nữa. Thì ra, hồi đó quy củ của cung Thanh như vầy; phàm bọn gái đẹp được chấm làm phi tử, hoặc bọn phi tử được chấm phong hoàng hậu, người tới mừng không tiện nói ra, bèn dùng cách dâng một viên ngọc như ý, vừa để tỏ ý chúc mừng, vừa tỏ ý tới báo ngầm một tin mừng. Hoà Khôn tới dâng ngọc như ý là tỏ ý báo ngầm một tin mừng cho Vương và còn chủ ý lấy lòng Vương nữa. Gia Quân vương bèn nói:

- Tiểu vương có chuyện gì đáng mừng khiến được tể tướng tặng ngọc vậy?

Khôn lại khom mình lạy một lạy nữa, rồi khéo léo trình bày:

- Vương gia còn chưa hiểu gì nữa sao? Hiện hoàng thượng đã định xong việc truyền ngôi cho Vương gia rồi. Nếu không tin Vương gia chỉ cần xem ba chữ Kế Đức Đường do chính tay hoàng thượng viết, nhất là chữ Kế thì đủ rõ. Hôm qua hoàng thượng đã bàn tính với hạ quan là chờ đến sáu chục tuổi, ngài sẽ truyền ngôi lại cho Vương gia. Đưa Vương gia vào ở trong cung nội là sửa soạn tương lai đấy!

Gia Quân vương nghe đoạn trong lòng tuy mừng rỡ nhưng thấy mình không được nghe hết chuyện cơ mật nơi cung đình, nên lại càng chán ghét Khôn. Dù vậy mặc lòng, Vương lúc này tất nhiên vẫn phải nói đôi ba lời cảm tạ rồi tiễn Khôn ra về.

Quay vào cung, Gia Quân vương lẩm bẩm một mình, chửi rủa tên giặc già gian xảo định tới mua chuộc, rồi ra y sẽ biết thủ đoạn của Vương. Trong lúc đó, Hoà Khôn đi từ Dục Khánh cung ra, lòng cứ tưởng mình đã cấu kết được với Tân hoàng đế rồi thì lộc vị mai sau còn có gì đáng lo nữa. Khôn nghĩ tới tương lai rồi lại nhớ tới quá khứ. Y nhớ tới cái ân sủng của hoàng đế mà kính mà trọng, nay ngài thoái vị lẽ nào mình lại không tính cách để báo lại ơn đức trong muôn một. Thế là khi quay về tới phủ, Khôn đem ý mình ra bàn với bọn mạc hữu. Trong số đó có một người tên gọi Hồ sư gia dâng kế nói:

- Đương kim hoàng thượng vốn thích làm những công việc được tiếng là vĩ đại, nay ngài truyền ngôi lại cho thái tử là có ý muốn bắt chước theo Nghiêu, Thuần nhường ngôi, chi bằng tướng gia dâng một tờ sớ, trước hết ca tụng công đức của hoàng thượng, sau đó xin giao cho Hàn lâm viện biên soạn một bản kỷ yếu ghi rõ công lao của ngài để làm cái kế lưu truyền vạn đại.

Hoà Khôn nghe Hồ sư gia nói, bất giác vỗ tay khen tuyệt! Sau đó Khôn giao cho Hồ viết ngay. Qua ngày hôm sau, Khôn bước lên điện dâng sớ. Tờ sớ ý nói như sau:

"Hoàng thượng lên ngôi đã sáu mươi năm, trong nước yên ổn, công nghiệp khải hoàn vũ, nên cử hành Khánh chúc đại điển lục thập châu niên đăng vị, sai Nội các hàn lâm viện biên soạn sách kỷ yêu ghi công đê hiểu dụ thiên hạ, truyền mãi muôn đời".

Càn Long xem tờ sớ tỏ ý do dự. Văn võ bá quan, anh nào lại chả muốn nhân cơ hội này mà lấy lòng hoàng đế. Bởi thế tất cả đều hùa theo Hoà Khôn tâu xin hoàng đế cử hành lễ Khánh chúc đại điển và giao cho các văn học đại thần soạn sách kỷ yếu ghi công.

Sau đó Hoà Khôn còn dâng lên một tờ sớ nữa, ca ngợi Hoàng thượng từ khi lên ngôi tới nay có mười chiến công.

Mười chiến công ấy đều là do cơ trí xếp đặt của Hoàng thượng, ân uy đều dùng, do đó nên giao cho Hàn lâm viện đem mười chiến công ấy ghi chép kỹ lưỡng và rõ ràng. Mặt khác mong trăm quan văn võ cùng dâng tôn hiệu gọi là "Thập Toàn Đại Đế".

Thế là một đạo thánh chỉ hạ xuống, giao việc ghi công đó cho Hoà Khôn và Kỷ Văn Đạt chủ trì, truyền cho Hàn lâm viện tại Nam Thư trại trình bày ghi chép cấn thận, nhưng không được quá phô trương, còn việc tôn hiệu thì khỏi bàn tới.

Tiếp được thánh chỉ, bọn văn học đại thần này vội bắt tay vào việc. Đích thân Càn Long hoàng đế cũng thường tới Nam Thư trại để xem xét. Nhóm Nam Thư trại lấy Kỷ Hiểu Phong làm đầu. Phàm những việc ra vào ngồi đứng của hoàng đế thảy đều do Phong phục vụ cả.

Qua đến mùa hạ, khí trời nóng bức, bộ "Kỷ công thư" cần phải được hoàn thành. Tính Phong vốn sợ nóng, song phải trông coi việc biên soạn nên đành chịu, hằng ngày đều phải tới Nam Thư trại để đôn đốc.

Trời về chiều. Phong biết lúc này hoàng đế sẽ không ra xem nữa, nên ông leo lên giường cao ngồi ngất ngưởng, cởi bỏ cả áo lót, để mình trần trùng tục rồi cầm chiếc quạt lớn quạt lấy quạt để, miệng thì gào:

- Nóng quá! Trời! Nóng quá!

Có một hôm, ông cởi bỏ hết áo lót, quấn tóc quanh đỉnh đầu, ngồi ngất ngưởng trên giường. Bỗng nghe từ bên ngoài có tiếng kêu la, biết ngay là hoàng đế tới. Bọn Hàn lâm vội vàng đứng cúi đầu im phăng phắc. Duy chỉ có ông đang ở trần, không biết trốn nấp vào đâu, đành chui tọt vào gầm giường, im hơi lặng tiếng trong đó.

Một chuỗi tiếng giầy bước ngang qua. Ông nghe tiếng hoàng đế nói chuyện với Hoà Khôn rồi Hoà Khôn ca tụng những chiến công của hoàng đế. Ông cũng nghe hoàng đế dặn là khi soạn xong bộ sách Kỷ yếu ghi công thì soạn ngay tới bộ Lục tuần Giang Chiết (sáu lần đi tuần du miền Giang Nam, Chiết Giang) khởi đầu từ năm Càn Long thứ mười sáu Tân Mùi, đến năm thứ bốn mươi chín Giáp Thìn, phụng thái hậu du hành bốn lần, đưa các hoàng tử du hành hai lần, năm Tân Mùi và năm Đinh Sửu hai lần đi xem xét việc đắp đê ven sông. Năm Nhâm Tý định thanh khẩu thuỳ chi, năm Giáp Thìn sửa đổi đào trang hạ lưu. Năm Canh Tý đi quan sát Hải Ninh, thạch đường (bờ đê đá) Năm Giáp Thìn đi làm tiếp đê đá tỉnh Chiết Giang.

Đấy là nội dung của bộ sách Lục tuần Giang Chiết mà hoàng đế giao cho Hoà Khôn và Kỷ Hiểu Phong hai người đôn đốc bọn quan Hàn lâm cố tâm biên soạn kỹ lưỡng, nhưng chỉ nên có gì viết nấy chứ không được quá phô trương. Hoàng đế nói xong, ông nghe Hoà Khôn miệng thưa "Lĩnh chỉ". Chưa hết, ông còn nghe hoàng đế hỏi Kỷ Hiểu Phong đi đâu, ai đó tâu là có việc phải đi, lát nữa mới quay lại. Càn Long hoàng đế lại hỏi:

Bộ sách Kỷ công thư đó đặt nhan đề chưa?

Hoà Khôn đáp:

- Tạm thời đặt tựa là "Thập toàn đại võ công ký".

Càn Long hoàng đế nghe xong, phá lên cười, nói:

- Nếu nói vậy thì Trẫm bèn xưng là "Thập toàn lão nhân" cho hợp!

Sau đó, ông lại nghe tiếng chân ngài bước xuống sàn nhà, chạy tới các án thư lớn, thuận tay giở hết bản thảo này tới bản thảo nọ.

Lúc đó, trong phòng lặng ngắt như tờ, đến một tiếng ho nhỏ cũng không có. Kỷ Hiểu Phong nằm dưới gầm giường, tức hơi đến muốn chết. Mồ hôi chảy ra như tắm, nhỏ giọt xuống đất tí tách, miệng thở hổn hển như sắp đứt hơi. Một lát sau, ông cố ghé tai nghe ngóng. Tưởng rằng hoàng đế đã ra đi bèn thò đầu ra lớn tiếng hỏi "lão đầu tử" (lão già gân) đi rồi sao?", khiến cả bọn đại thần đứng nãy giờ trong phòng giật mình đánh thót một cái. Càn Long hoàng đế cũng lấy làm quái lạ, liền hỏi:

- Ai hỏi vậy?

Cả bọn đại thần giật mình lần nữa, không dám nói lời nào. Cuối cùng Hoà Khôn lớn mật hơn, bèn tâu:

- Nghe như tiếng Kỷ Hiểu Phong thì phải!

Càn Long hoàng đế quay mình bước sát tới chiếc giường, quát hỏi:

- Kẻ nào ở dưới gầm giường đó?

Có tiếng trả lời từ dưới gầm giường vọng ra:

- Thần là Kỷ Quân ở dưới gầm giường!

Hoàng đế hỏi:

- Tại sao không chui ra?

Kỷ Hiểu Phong hồi tấu:

- Thần sích thân lộ thể, không dám kiến giá.

Càn Long hoàng đế nói:

- Tha cho ngươi vô tội! Mau ra đây nói chuyện.

Kỷ Hiểu Phong lúc đó mới dám lóp ngóp bò ra, miệng câm như hến, chẳng dám nói một lời. Khổ cái là thân hình ông cao lớn, thành thử ì ạch mãi mới bò được ra ngoài. Người ông trần trùng trục, phơi thịt da đỏ hỏn, khắp mình mồ hôi nhễ nhại, râu tóc lấm bét bụi bậm…

Kỷ Hiểu Phong chui từ trong gầm giường ra, trông bộ tịch thật là thiểu não. Càn Long hoàng đế leo lên giường ngồi, Phong hoảng quá, chỉ có nước quỳ mọp dưới đất, dập đầu lia lịa…

Một lát, Càn Long hoàng đế lạnh lùng hỏi Phong:

- Ba tiếng "Lão đầu tử", có phải người dùng để chỉ trẫm?

Phong sợ quá chẳng dám đáp. Càn Long hoàng đế lại hỏi tiếp:

- Người vốn là đại thần văn chương tuỳ tùng, trong lòng đầy ắp chữ nghĩa. Ngươi hãy giải rõ ba tiếng "Lão đầu tử" cho trẫm nghe thử? Nếu giảng không sai, Trẫm sẽ tha tội…

Kỷ Hiểu Phong thường ở cạnh Càn Long hoàng đế, nên cũng có dạn dĩ, bèn đánh bạo tâu:

- Hoàng thượng tha tội, xin hãy nghe lời thần nói. Ba tiếng "Lão đầu tử" là tiếng gọi thông thường của toàn thể kinh đô gọi Hoàng thượng. Hoàng thượng tự xưng là Muôn tuổi (vạn tuế) ngài chẳng già là gì? Hoàng thượng vốn đứng đầu một nước, ngài chẳng phải đầu là gì? Hoàng thượng xưng mình là thiên tử, ngài chẳng phải tử thì là gì? "Lão đầu tử" chính là ba tiếng xưng hô hoàng thượng với cả một tấm lòng tôn kính, chứ chẳng phải một biệt hiệu để cợt đùa?

Phong giải thích tới đây, Càn Long hoàng đế không nhịn được, bật lên những tràng cười khà khà rồi vuốt râu khen hay! Từ đấy ba tiếng "Lão đầu tử" được mọi người trong cung thường dùng để xưng hiệu cho Càn Long hoàng đế khi nói chuyện với nhau. Thảng hoặc Càn Long hoàng đế có nghe thấy cũng chỉ cười.

Chẳng bao lâu, Càn Long hoàng đế đã trị vì 60 năm trên ngôi báu. Ngài âm thầm chuẩn bị điển lễ nhường ngôi. Năm đó, đang vào buổi triều sớm ngày mồng một tháng chín, bọn đại thần vào chầu trong Cần Chính điện, Càn Long hoàng đế hạ dụ nói:

- Lúc lên ngôi, Trẫm có thề trước trời đất nếu tại vì được đúng một niên giáp (sáu chục năm) thì đem ngôi báu truyền lại cho thái tử, chẳng bao giờ dám tại vị tới sáu mươi mất năm bằng với đức Thánh Tổ. Vậy Càn Long đã tới năm thứ sáu mươi, trẫm tuân chiếu thanh lệ của Liệt Tổ viết tên tuổi của thái tử sau tấm biển lớn ở điện Chính Đại Quang Minh.

Nói đoạn, hoàng đế lập tức sai hai vị tướng quốc đem theo bọn nội giám đến điện Chính Đại Quang Minh lấy cái hộp vàng chứa sẵn tờ chiếu truyền ngôi cho thái tử đem về mở ra. Lúc đó khắp triều văn võ mới biết trên tờ chiếu ghi rõ sách lập hoàng tử thứ mười lăm là Gia Quân vương Nhung Diệm làm thái tử, lấy niên hiệu Càn Long thứ sáu mươi mốt là Gia Khánh nguyên niên. Viên quan thuyết trình đem tờ chiếu đọc rõ trước điện xong, tức thì văn võ bá quan nhất tề quỳ xuống lạy mừng. Rồi khi bãi trào, mọi người kéo nhau tới cung Dục Khánh để chúc mừng thái tử.

Gia Quân vương tiếp chiếu xong bèn tiếp đãi bọn quan viên. Vương không quên nói thêm đôi lời khách sáo nào đức bạc, nào tài hèn, không kham nổi ngồi cao việc lớn.

Khi bọn quan viên đã về cả, Vương vội chạy tới cung phụ hoàng để tạ ơn. Lúc đó, thân mẫu của Vương đã được phong làm Đệ nhất quý phi.

Qua năm sau, đúng vào buổi chầu sớm Tết Nguyên Đán, Càn Long hoàng đế ngự tại điện Thái hoà, làm lễ Thiên vị (trao ngôi). Ngài đem chiếc ngọc tỷ truyền quốc trao lại cho Gia Khánh hoàng đế.

Gia Khánh hoàng đế xưng là Nhân Tông Duệ hoàng đế, tôn Càn Long hoàng đế làm Thái thượng hoàng đế. Gia Khánh tuy nói làm hoàng đế nhưng thực quyền vẫn còn trong tay Càn Long. Bọn thần hạ dâng sớ tâu đều xưng Thái thượng hoàng là hoàng thượng cả. Nhất thiết sớ tấu, họ đều nhờ gửi lên Thái thượng hoàng duyệt khán. Ví thử có việc đại sự quân quốc, họ cũng nhờ Gia Khánh đi xin huấn dụ của Thái thượng hoàng mới dám thi hành. Gia Khánh chẳng có chút tự do, chút quyền hành nào, nhưng vốn là người con có hiếu, kính trọng phụ hoàng mình, nên ngài cũng chẳng để bụng lắm.

Hồi 95

GIA KHÁNH ĐẾ KẾ VỊ CÀN LONG

Càn Long đã quá già. Ngài truyền ngôi lại cho Gia Khánh hoàng đế, đứng địa vị của một thái thượng hoàng hướng dẫn con tập sự nghề vua. Đất nước Trung Hoa lúc này còn được thanh bình, quần chúng vẫn được an cư lạc nghiệp, vua chúa Mãn Thanh vẫn còn được vững tâm trên ngai vàng thống trị dân tộc Hán.

Năm đó tổ chức lễ Vạn thọ thứ tám mươi sáu của thái thượng hoàng. Không những văn võ bá quan toàn triều mà cả đến các bối lặc, sứ thần ngoại quốc đều kéo nhau nườm nượp đến chúc thọ. Gia Khánh hoàng đế hạ chỉ thết yến ở ba đại điện là Thái Hoà, Trung Hoà và Bảo Hoà.

Ngài cho triệu tập ba ngàn vị quan viên, thân sĩ tuổi ngoài sáu mươi, cử hành Thiên Tẩu yến tại vườn Minh Viên, ở trong cung thái thượng hoàng. Ngài đích thân đem các viên ngọc Đông châu Mạo châu và Đông châu Triều châu của Hiếu Hiền hoàng hậu để lại cho hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp. Ngài còn thưởng cho bọn hoàng tử, phúc tấn rất nhiều những trân bảo khác.

Hồi đó chỉ có Xuân A Phi là còn sống. Bà ngồi hầu bên cạnh. Thái thượng hoàng nhìn Xuân A phi, trong lòng bỗng nhớ lại bao kỷ niệm êm đẹp thuở xưa mà xúc động can tràng, bồi hồi buồn bã. Giữa lúc đang ngậm ngùi não ruột ấy bỗng từ bên ngoài viên thái giám bưng vào một tráp nhỏ, nói đấy là một thứ đồ chơi của tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Văn Tương hiếu kính Thái thượng hoàng.

Gia Khánh hoàng đế xem qua không hiểu cái gì, bèn bảo viên thái giám mở tráp ra xem thì thấy bên trong có mô hình một toà nhà nhỏ, giữa nhà có một tấm bình phong, trước mặt tấm bình phong này có một cái bàn trên bày đủ bút nghiên giấy mực. Mặt sau cái tráp đặt một bộ máy. Nếu phát động bộ máy đó, người ta sẽ thấy một cô gái Tây Dương xuất hiện, trước hết chạy tới dưới mái hiên, rồi quay mặt ra ngoài làm lễ Tam quy cửu khấu. Hành lễ xong, cô gái quay vào đứng trước mặt bàn, rót nước vào nghiên để mài mực, lấy một tờ giấy hoa tiên màu đỏ từ đằng sau bức bình phong bước ra, tay cầm cây bút chấm mực rồi viết trên giấy trắng bốn chữ "Vạn thọ vô cương" bằng chữ Mãn. Viết xong bốn chữ thì bộ máy cũng ngừng chuyển vận, người trong chiếc tráp cũng không cử động nữa.

Thái thượng hoàng xem xong lấy làm thích lắm, vội bảo thương cho Phúc Văn Tương mười vạn lạng bạc. Ngài lại viết một chữ "Thọ" dưới đề lạc khoản "Thập toàn lão nhân", đều thưởng cho Tương cả.

Phúc Văn Tương tuy được Thái thượng hoàng thưởng tứ nhưng món đồ chơi của y trị giá không kém mười vạn lạng bạc mà y phải dốc hết túi ra để làm, đó còn chưa kể thêm một mạng người nữa.

Nguyên lai đồ chơi nọ vốn do một tên thân tuỳ tâm phúc của Tương trong nha môn chế ra. Hắn biết ý tổng đốc muốn dâng lễ thọ thật đặc biệt lên thái thượng hoàng, nên đã bò lên nóc nhà, lấy một tấm vải buộc chặt lấy đầu mình rồi nay tưởng mai suy, suy nghĩ mãi, cuối cùng nghĩ ra được một món đồ chơi tuyệt diệu này. Hắn đóng cửa lại, tỉ mỉ lắm mới làm xong, đem dâng quan tổng đốc.

Phúc Văn Tương xem qua một lần trình diễn, khen lấy khen để. Nhưng khi xem đến bốn chữ "Vạn thọ vô cương" chỉ bằng chữ Hán, sợ Thái thượng hoàng không vui, nên lại bảo thay bằng chữ Mãn. Tên thân tuỳ lại bò lên mái nhà, suy mãi hơn hai chục hôm mới chế thêm được bộ máy viết bốn chữ Mãn, Phúc Văn Tương bèn thưởng cho tên thân tuỳ hai vạn lạng bạc. Nhưng khi dùng hết trí thông minh của mình, tên thân tuỳ bỗng trở nên ngây ngây ngô ngô, rồi về nhà, không đầy hai tháng chết luôn.

Phúc Văn Tương cho người đem món đồ chơi đó lên kinh. Qua cửa quán thứ nhất, người của Tương không thoát khỏi tay Hoà Khôn, tiêu luôn một lúc năm vạn lạng bạc, món đồ chơi nọ mới được phép vào cung. Khi đến Ninh Thọ cung, viên thái giám trông coi cung này cũng đòi tiền và doạ: "Nếu không có tiền, bộ máy này chỉ chạy tới ba chữ "vạn thọ vô" là ngừng. Lúc đó Thái thượng hoàng tức giận thì bọn này chẳng chịu tội thay cho đâu.

Bọn Tương sợ quá lại phải lo lót thêm ba vạn lạng. Câu chuyện này Gia Khánh hoàng đế đều rõ cả, nên có ý muốn điều tra Hoà Khôn, nhưng chỉ tại Thái thượng hoàng còn đó đành phải nín nhịn đợi chờ. Trước đây, Hoà Khôn dâng cho ngài viên ngọc như ý thì ngài vốn đã không ưa Khôn bèn ghét bỏ luôn viên ngọc đó. Theo phong tục Mãn Châu thì khi năm hết tết tới, bọn vương công đại thần phải dâng lên một viên ngọc như ý để tụng nhà vua được như ý suốt đời. Đến khi Gia Khánh hoàng đế lên ngôi, ngài hạ chỉ cấm hẳn việc dâng tiến loại ngọc này. Trong sớ chỉ dụ của ngài có hai câu: "Chư thần đều cho là như ý, riêng ý trẫm thì lại là bất như ý".

Bọn bá quan văn võ tiếp chỉ dụ, thấy hoàng đế căm giận cái gọi là "như ý" đó, chẳng anh nào hiểu lý do tại sao, đành phải phụng chỉ, không dám sai lời. Thế là từ đó, toàn triều được miễn lễ tiết này. Có nhiều đại thần còn dâng sớ lên ca tụng hoàng đế nào là cần kiệm, nào là đạo đức. Duy chỉ có Lưu tướng quốc là hiểu được nỗi niềm tâm sự của Gia Khánh. Do đó ông được ngài trọng dụng, mỗi khi có việc là đem bàn với ông.

Hoà Khôn dần dần cũng cảm thấy Gia Khánh hoàng đế không ưa mình. Khôn cho rằng hiện nay y còn có thế lực của Thái thượng hoàng thì dù Gia Khánh có thù ghét mấy cũng chẳng làm gì, khi Thái thượng hoàng mất rồi thì y cứ việc từ quan về vườn là xong. Do đó Khôn thường ra vào trong cung, hết lòng hầu hạ thái thượng hoàng. Mặt khác, Thái thượng hoàng nếu không có Hoà Khôn cũng không chịu nổi. Trong thì có Xuân A Phi, ngoài thì có Hoà Khôn, suốt ngày hầu hạ bầu bạn với ngài.

Càn Long hoàng đế tuổi đã quá cao, không còn đủ tinh lực để du ngoạn đó đây. Ngài rất tin bùa phép của bọn Lạt ma tăng, thường xếp bằng tròn ngồi trên giường niệm kinh chú.

Gia Khánh hoàng đế mỗi ngày ngự triều về lại tới cung Thái thượng hoàng bàn luận về việc triều chính. Thái thượng hoàng ngồi quay mặt về hướng nam. Gia Khánh hoàng đế ngồi quay mặt về hướng tây. Hoà Khôn cũng đứng ở một bên, tham nghị việc đại sự.

Một hôm, giữa lúc ba người đang bàn soạn, bỗng Càn Long hoàng đế nhắm mắt, xếp bằng tròn lại, ngồi trên giường không nói một lời nào. Gia Khánh hoàng đế thấy thế, không dám gọi hỏi gì. Một lúc sau ngài thấy miệng thái thượng hoàng cử động, mở rồi lại ngậm và trong cổ hình như có tiếng nói vọng ra. Gia Khánh hoàng đế chú ý nghe nhưng chẳng nghe rõ được câu nào, chỉ thấy những tiếng tụng niệm rì rầm. Một lát sau ngài bỗng nghe thái thượng hoàng quát lên một tiếng lớn!

- Kẻ nào đó?

Hoà Khôn ở bên cạnh, vội quỳ xuống hồi tấu:

- Cao Thiên đức, Cẩu Văn Minh.

Tiếp đó, Thái thượng hoàng lại tụng niệm rì rầm một hồi nữa, lấy tay khoát một cái, bảo Gia Khánh hoàng đế lui ra ngoài.

Gia Khánh không dám trái lệnh, đành rút lui. Nhưng hình trạng cổ quái của thái thượng hoàng ngài đã nhìn thấy tận mắt nên hết sức nghi ngờ. Ngài muốn hỏi mà lại chẳng dám.

Qua ngày hôm sau. Gia Khánh hoàng đế lẻn tới hỏi Lưu tướng quốc. Nhưng ông này cũng bảo là không biết gì. Về sau, ngài không chịu nổi nữa bèn tới hỏi Hoà Khôn, Khôn nói:

- Đây là mật chú của Lạt ma giáo. Khi đang niệm chú nếu có người gọi tên thì kẻ bị gọi tên đó chết ngay tức khắc.

Hiện nay Bạch Liên giáo đang sôi động bên ngoài, thần biết rằng thái thượng hoàng niệm chú để giết chết tên thủ lĩnh của giáo này, cho nên lúc ngài hỏi kẻ nào đó thì thần hồi tấu ngay hai cái tên của hai tên thủ lĩnh Bạch Liên giáo.

Gia Khánh hoàng đế nghe xong, trong lòng hết sức sợ hãi.

Ngài tự nhủ Hoà Khôn hiện cũng biết những lời thần chú đó, cần phải thanh toán hắn càng lẹ càng hay.

Hồi 96

CÀN LONG MẤT, HÒA KHÔN BỊ XỬ TỬ

Càn Long hoàng đế vừa hoàn thành bộ Thập toàn đại võ công kệ thì Bạch Liên giáo bỗng ồ ạt dấy binh. Suốt một giải Hồ Bắc, Kinh Châu, Chiết Giang, Nghi Đổ liên tiếp thất thủ. Giáo đồ Bạch Liên giáo ở các nơi khác như Nghi Xuân, Tràng Lạc, Tràng Dương đều hưởng ứng nổi dậy. Tin cáo cấp gởi về triều như bươm bướm.

Gia Khánh hoàng đế xem sớ giật mình kinh hãi. Hồi này Phúc Khang An đã chết, Hoà Lân bị nhiễm độc chướng chết ở đất Miêu. Tướng Minh Lương đi đánh giặc Miêu lại chưa về nhất thời không biết kiếm đâu một viên đại tướng lão luyện chiến chinh. Ngài được tin Bạch Liên giáo có ba đầu mục, một gọi Lưu Chi Hiệp, một nữa Điêu Chi Phú, còn tên thứ ba là Vương thị, vợ của Tề Lâm.

Cả ba đều hung hãn uy mãnh lạ thường. Nhân thấy quân binh kéo đi đánh giặc Miêu chưa về, bọn này thừa thế định tiến đánh lấy kinh, viên tướng Nghi Thi năm phủ, oai thế rất hung dữ.

Bọn quan tổng binh ở những địa phương này đều thuộc bè cánh của Hoà Khôn. Chúng thường nhận mật ý của Hoà tướng quốc, đem ém nhẹm hết quân tình hằng ngày. Chúng còn cả gan tâu láo về triều, nói giết hàng vạn quân giặc để lĩnh thưởng, mãi về sau, đại cục đã nát bét, không còn có cách gì giấu diếm nữa, chúng mới chạy về kinh cấp báo.

Những tình hình này, Gia Khánh hoàng đế dò xét cũng biết được. Một mặt ngài ghi hết tội lỗi của Hoà Khôn, một mặt hạ chỉ sai tổng đốc Lưỡng Hồ là Tát nguyên thị vệ Thư Lượng, thống lĩnh quân đội tiêu diệt giáo đồ ở Kinh Môn; sai tuần phủ Hồ Bắc Huệ Linh, thống binh Phú Chí Na, càn quét giáo đồ suốt một giải Kinh Châu, Giang Nam, sai đô thống Vinh Bảo, tướng quân Hằng Thuỵ tiễu trừ giáo đồ suốt một giải Tương Dương; sai đề đốc Ngọc Huy, tổng đốc Thiểm Cam là Nghi Cẩm quét sạch giáo đồ suốt một giải Xuyên Dương. Ngài cũng triệu hồi tướng Minh Lương từ đất Miêu về để phòng ngự một dọc dài Xuyên - Thiểm.

Đáng thương cho giáo đồ Bạch Liên Giáo bị bọn quan binh nhà Mãn Thanh đánh cho nhiều trận tơi bời, chạy đông trốn tây như đàn ong vỡ tổ. Giữa lúc nguy khốn đó, họ được hai vị giáo chủ ở vùng Tứ Xuyên là Vương Tam Hòe và Lãnh Thiên Lộc đón hết tất cả từ Hồ Bắc và Tứ Xuyên rồi xưng là "Xuyên giáo", có mòi hung dữ đáng sợ.

Bọn quan binh rõ tình hình này, hết sức sợ hãi. Thế là giáo đồ lại từ Tứ Xuyên kéo ra Thiểm Tây. Gia Khánh hoàng đế ngồi trong cung một ngày hốt hoảng đến mấy lần, suốt đêm cùng bọn đại thần bàn tính kế hoạch tiễu trừ giáo đồ.

Thái thượng hoàng Càn Long được tin đó cũng lấy làm lo, đêm ngày ăn ngủ chẳng yên. Mãi về sau, may nhờ được một viên quan tri huyện tên gọi Lưu Thanh dần dần thu phục được các giáo đồ. Thái thượng hoàng tuổi đã cao, lại bị lo sợ kinh hoàng nhiều phen nên mồng một tháng giêng năm đó, ngài băng hà tại cung Kiều Thanh.

Thái thượng hoàng Càn Long vừa ngã xuống tức thì một ban Cửu khanh khoa đạo dâng sớ hạch tội đại học sĩ Hoà Khôn lộng quyền làm bậy đủ hết những tội đại nghịch bất đạo. Trong ban, phải kể giám sát ngự sử Quảng Hưng, lại khoa cấp sự trung Vương Tổ là hai người đàn hặc ghê gớm nhất. Họ tâu Hoà Khôn có mười tội đại nghịch, mười sáu tội đáng chết, đúng là một chữ một nhát dao, một lời một mũi kiếm, khiến Khôn dù có tài trời cũng khó sống.

Gia Khánh hoàng đế nhận được đến sáu mươi tám tờ sớ đàn hặc. Ngài cả giận, lập tức hạ chỉ sai Thành thân vương đem ngự lâm binh tới bắt Hoà Khôn, sợ đi giữa đường có kẻ cướp, ngài lại sai ngự tiền thị vệ dũng sĩ A Lan Bảo, đi theo kèm giữ, đưa thăng Hoà Khôn vào công đường của Hình bộ.

Một đạo thánh chỉ hạ xuống, sai Lưu tướng quốc, Đổng trung đường, Bát Vương gia, Thất phò mã dùng nghiêm hình thẩm vấn. Khôn không chịu nổi trọng hình, đành nhất nhất cung khai. Lưu tướng quốc truyền cho quân lính cùm chân xích tay Khôn, tống vào nhà lao. Rồi đem hết bản khẩu cung tâu lên.

Gia Khánh đế xem bản cung, bèn triệu Lưu tướng quốc vào bàn định mọi việc. Lưu tướng quốc tâu:

- Kẻ gian thần chuyên quyền đại nghịch như vậy, cần nghiêm hình trừng trị.

Gia Khánh đề bèn hạ chỉ, sai Thập nhất vương gia tới nhà Khôn sưu tra, sai nhị hoàng tử Miên Ninh lục soát. Hai vị vương gia vâng thánh chỉ, không dám trễ, lập tức kéo bọn nha dịch rẩm rầm rộ rộ chia đường tới. Nhà Khôn rất lớn, gia sản lại nhiều. Bọn nha dịch phải sưu tra luôn một lèo mất năm ngày năm đêm mới kiểm kê được hết, rồi quay về phục chỉ, Thập nhất vương gia tâu:

- Trong nhà Hoà Khôn có một toà bằng gỗ nam, xây cất đúng in như cung điện trong đại nội, nào cột rồng, nào nóc phượng. Lại có một cái gác Đa Bảo kiểu cách như cung Ninh Thọ. Còn nói tới vườn hoa của nhà Khôn thì lối kiến trúc giống hệt Dao đài, Bồng đảo trong vườn Viên Minh. Trân bảo thì nhiều đến kể không xiết. Riêng tịch biên gia tài tên gia nô của Khôn là Lưu Toàn cũng đã tới hơn bảy trăm vạn lạng rồi. Tên Toàn binh nhật ỷ quyền dựa thế chủ, tha hồ tác oai tác quái. Thập nhất vương gia vừa nói tới đây thì thất phò mã vội cắt ngang, tâu tiếp:

- Trân bảo của Hoà Khôn chỉ riêng trong mật thất đã thấy chứa đến một gánh, lại có cả những áo mão ngự dụng (của vua). Chỉ chừng đó cũng đủ tỏ hắn đại nghịch bất đạo, có chết cũng chẳng oan rồi. Thẩm vấn tên gia nô thân cận của hắn, thần mới biết cứ tới lúc đêm khuya, hắn đội mũ áo ngự dụng vào đeo đủ chín châu triều châu soi trước kính rồi truyền lệnh cho bọn gia nô quỳ bái xưng thần. Hành động này, lại thêm những đồ quốc cấm kia, càng biểu lộ tâm địa của một tên phản nghịch bất đạo, chẳng phải chỉ có một tội tham nhũng mà thôi.

Thất phò mã tâu xong, thập nhất vương gia lại dâng một bản tổng kê gia tài điền sản của Khôn.

Gia Khánh xem xong, bèn sai đưa hết vàng bạc thu được vào kho của bộ hộ để dùng vào việc uỷ lạo nạn nhân chiến tranh miền Xuyên Thiểm. Còn những sản nghiệp chưa định giá xong thì sẽ giao cho Bát vương gia, Miễn nhị gia, Lưu tướng quốc giữ lấy bản kê khai cùng với hai bộ Hộ và Công định giả phát mãi, sung công hết số bán được.

Cuộc tịch biên sung công này, ngoài những trân bảo, đồ cổ đưa vào đại nội không kể, đem lại cho Gia Khánh đế tám tỷ sáu trăm triệu ngàn lạng bạc. Do đó trẻ con trong kinh thành mới có câu hát.

"Hoà Khôn ngã quỵ

Gia Khánh no nê"

Gia Khánh đế lại còn hạ chỉ dụ giao cho Đại học sĩ cả sáu bộ, và tất cả Cửu Khanh, Du thiền khoa đạo họp đại hội quyết nghị tội danh Hoà Khôn.

Cách vài ngày sau, quan viên dâng sớ tâu Hoà Khôn tham tàn làm nguy hại quân cơ, lòng mang ý khác, đại nghịch bất đạo; có kẻ xin chém đầu, có kẻ lại đòi lăng trì xử tử, xương đập nát, thịt bầm viên, có người lại nói nên chu di tam tộc.

Gia Khánh đế xem qua các bản sớ, nghĩ thầm:

- Hoà Khôn vốn là sủng thần của tiên hoàng. Nay tiên hoàng vừa mới mất mà đem hắn ra chính pháp thì thật ta chẳng yên lòng chút nào. Thôi ta sẽ thi ân đặc biệt, cho hắn được chết toàn thây.

Nghĩ thế, ngài lập tức hạ chỉ:

- Cố nghĩ rằng Hoà Khôn là một vị thủ phu đại thần, nên miễn cho phải chết nơi thị tứ. Trẫm gia ân cho được phép tự tận. Con của Khôn là Phong Thân Kính Đức, tội cũng không thể chuộc, nhưng khì còn trẻ được tiên hoàng sủng ái gả Hoà Hiếu Cố Luân công chúa cho nên trâm nghĩ đến tấm lòng từ ái của hoàng khảo mà ân gia thể tuốt. Vậy nay thu hết chức tước của Phong thân Kính Đức giáng xuống làm dân, không còn được đứng hàng phò mã nữa, tước công của Khôn không bị cách đi mà gia ân thưởng cho tước bá để Khôn Đức thừa tập. Sau khi trẫm đã gia án, Kính Đức không được ra ngoài làm bất cứ việc gì mà phải ở trong nhà tĩnh thu.

Hồi 97

LẠI MỘT KINH KHA: THÀNH ĐẮC

Đạo thánh chỉ bản án Hoà Khôn vừa hạ xuống thì Lưu tướng quốc, tới ngay nha môn bộ Hình và cho lôi Khôn từ lao ra, kiểm nghiệm lại xem có phải đích thân y không rồi mới tuyên đọc thánh chỉ.

Hoà Khôn ngước mặt lên phía trên, lạy tạ thánh ân, bỗng đôi mắt nhỏ lệ như mưa. Bọn nha dịch kéo Khôn sang một cái phòng bên cạnh, trên xà nhà có cột một tấm vải trắng. Khôn tự thắt tấm vải vào cổ mình rồi treo lên mà chết.

Sau khi Khôn chết rồi, liên tiếp mấy phong mật sớ dâng lên cáo Phúc thượng thư có tâm giúp kẻ ác. Thế là Phúc thượng thư cũng bị tống vào lao. Lại có kẻ tâu Đại học sĩ Tô Lăng A cố tình xui gia với Khôn, Gia Khánh đế cũng cho A về vườn luôn. Lại có người tâu thị lang Ngô Tỉnh Lan, Lý Hoàng, thái bộc khanh Lý Quang Vân đều là người được Hoà Khôn đưa vào làm quan, Gia Khánh đế cũng đồng loạt giáng chức và điều đi nơi khác. Bản án Hoà Khôn quả là một vụ động trời, ai nghe cũng phải hoảng hồn bạt via.

Lúc này, giáo đồ Bạch Liên Giáo đã lần lượt bị tảo thanh cả, tháng hai năm thứ tư niên hiệu Gia Khánh, đầu đảng là Vương Đình Chiếu bị tướng Minh Lượng bắt được, còn Từ Thiền Đức nhảy xuống biển chết chìm. Kinh lược đại thần cùng với bọn tổng đốc ba tỉnh đều tâu về triều đã thu hoạch đại công cáo thành, bình định xong loạn đảng.

Nhân Tông hoàng đế (tức là Gia Khánh đế) bèn tế cáo lăng miếu ngay tại kinh sư, phong thưởng công thần. Quốc gia xem như đã thái binh.

Hoàng đế cử hành điển lễ đi tuần thú lên Ngũ Đài sơn, Không ngờ, hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp nhuốm bệnh mất. Gia Khánh đế hết sức thương cảm. Bà phi, Nữu Cô Lộc vốn người hiền đức, được ngài hết sức sủng ái, được sắc phong làm hoàng hậu và theo lệ, thân phụ của bà là Cung A Lạp cũng được tấn phong làm Thừa Ân công. Hoàng hậu từ tạ đôi ba lần.

Khắp triều văn võ, bá quan đều dâng sớ khen bà là hiền đức. Mãi đến khi quan tài của bà Hỉ Tháp Lạp chôn cất xong rồi, hoàng đế mới bớt mối thương cảm.

Ngài ở trong cung rảnh rang chẳng có việc gì, lại tính cách xuất hành Ngũ Đài sơn. Bỗng ở góc trời tây bắc xuất hiện một ngôi sao chổi rất lớn. Khâm thiên giám khuyên ngài không nên đi vì sao chổi xuất hiện là chỉ việc binh đao và đổi tháng tám nhuận năm đó ra tháng hai năm sau.

Trẻ con trong thành đều hát bài đồng dao:

"Hai tám trung thư (nhị bát trung thu)

Hoa vàng rớt đất" (Hoàng hoa lạc địa)

Ngoài ra còn truyền thuyết tai nạn binh đao sẽ xảy ra vào giờ ngọ ngày rằm tháng chín năm Gia Khánh thứ mười tám.

Đến đúng ngày giờ nói trên, tuần phủ Hà Nam Cao Di quả nhiên nhận được mật bẩm của viên tri huyện Hoả thuyên tên là Cường Khắc Tiệp nói ở Khiết huyện hiện có giáo đồ Bạch Liên Giáo Lý Văn Thành thiết lập tà giáo, đổi tên là Thiên Lý Giáo, còn có tên là Bát Quái Giáo, chiêu binh mãi mã. Tiệp cũng mật cáo cả tri phủ Vệ Huy biết nữa. Không ngờ cả hai thượng ty này đều chẳng thèm để ý tới lời y. Tiệp bèn dùng kế lừa cho Lý Văn Thành vào nha môn rồi bắt trói, chặt đứt lìa tay Thành.

Lúc đó đồng đảng của Thành có tới mấy vạn. Họ liên kết với bọn Lâm Thanh ở huyện Đại Hưng. Thanh vốn là một tay đầu mục có tên tuổi trong Bát Quái Giáo. Thanh thấy Lý Văn Thành bị một vố cay, nhịn không nổi nữa, bèn ngầm ước dấy binh vào ngày trung thu tháng tám nhuận.

Lâm Thanh quen biết nhiều thái giám trong nội cung, bèn đem vàng bạc mua chuộc bọn này, chờ dịp Gia Khánh đế xuất hành núi Ngũ Đài sơn là khởi sự ngay tại trong cung. Thanh lại ước định với Lý Văn Thành ở bên ngoài tiếp ứng.

Không ngờ Gia Khánh đế nghe lời bọn Khâm thiên giám, bèn ngừng việc tuần phủ. Thanh xem chừng cơ mưu không thành lại tìm một kế sách khác. Thanh bỏ ra sáu vạn lạng mướn một tên thích khách đi hành thích Gia Khánh đế. Tên thích khách này là Thành Đắc, vốn là một tên nhà bếp trong nội vụ phủ. Trong hoàng cung. Đắc có thể kể được là tay mạnh tợn nhất.

Hồi đó có một tên thị vệ gọi Quan Bát phò mã, sức khỏe rất ghê. Những lúc rỗi rảnh, Quan Bát phò mã thường bốc cặp sư tử đá ngoài cửa cung điện để giải trí. Cặp sư tử này nặng ít ra cũng năm, bảy trăm cân. Quan Bát phò mã thường bốc lên, đi một vòng quanh sân rồi lại từ từ để xuống nguyên chỗ cũ. Bọn thái giám đứng hai bên xem đều vỗ tay khen thần lực Trong bọn có một tên thái giám lên tiếng:

- Thành Đắc đã gọi là khỏe, nhưng làm sao mà địch được Quan Bát phò mã nhỉ?

Bát phò mã nghe nói tới Thành Đắc vội hỏi:

- Thành Đắc là đứa nào?

Tên thái giám lên tiếng:

- Hắn là một tên nhà bếp trong nội vụ phủ.

Bát phò mã vốn khoái những kẻ có sức khỏe, nghe nói vậy liền bức tên thái giám đi gọi cho kỳ được Thành Đắc tới.

Thành Đắc vừa trông thấy phò mã, hoảng hồn bạt vía, vội bò sát đất, chẳng dám cất đầu lên ngó nữa. Bát phò mã lấy lời ôn tồn an ủi Đắc, lại bảo Đắc có bao nhiêu khí lực cứ mang hết ra, may mà thắng được y thì y sẽ cất nhắc cho.

Đắc nghe phò mã nói vậy, mới dám cả gan đứng dậy và không còn sợ sệt như trước. Bát phò mã bảo Đắc lại bốc cặp sư tử đá. Đắc tiến lên mấy bước, mỗi tay bốc một con, chạy như bay quanh sân một lượt, rồi hai, rồi ba lượt. Lúc đó mới đặt cặp sư tử vào chỗ cũ, hơi thở không gấp, mặt không đỏ ửng lên chút nào.

Bát phò mã thấy vậy, mừng quá, chạy lại cầm tay Đắc tỏ vẻ ngợi khen, lại bảo Đắc cắm luôn bảy cây côn gỗ thành một hàng trước viện, cứ mỗi cây cắm sâu ít ra là ba thước.

Bát phò mã bước tới nhảy tung người lên, đá vụt ngọn cước ra nhanh như chớp vào bảy cây côn, người ta chỉ nghe một loạt tiếng "rắc, rắc, rắc…" tức thì bảy cây côn gãy gập thành đôi, bắn văng ra chung quanh tung toé. Bọn thái giám đứng hai bên vỗ tay hoan hô rầm trời.

Bát phò mã đứng hẳn người lên, bảo bọn thái giám cắm bảy cây côn khác cắm thành một dây như trước rồi bảo Đắc đá xem. Đắc bước lên vài bước, lấy mắt nhắm một lượt đo dò, rồi bảo cắm thêm cây. Bọn thái giám cắm thêm một cây.

Đắc bảo thêm nữa. Lại cắm thêm cây nữa. Đắc lại bảo cắm thêm - thêm một lúc mười hai cây. Lúc đó Đắc mới gật đầu cho là đủ.

Mọi người trố mắt nhìn, Đắc cũng không vội. Hắn thong thả bước tới, cũng bắt chước Bát phò mả, tung người lên đá vút chân phải ra một cước, tức thì mười hai cây côn gỗ bị tiện làm đôi chẳng khác gì bị đao chặt. Bát phò mã luôn mồm khen hay khen giỏi. Từ đó, phò mã giữ Đắc lại trong cung, làm chức quản đội doanh Thần cơ. Cứ mỗi lần Bát phò mã có phiên trực thì Đắc luôn luôn ở cạnh. Tiếng đồn Đắc có thần lực mỗi ngày một lớn rộng mãi ra khiến Lâm Thanh cũng phải biết tới.

Thế là bọn thái giám đứng làm môi giới cho hai người gặp nhau. Thanh đưa cho Đắc sáu lạng bạc tại nhà đồng đảng tên gọi Thôi Sĩ Tuấn, còn hứa với Đắc nếu việc thành sẽ phong cho làm Vương gia. Đắc nhận lời và trở về cung nội.

Rồi đến đêm rằm tháng tám trung thu, Gia Khánh đế giá hạnh vườn Viên Minh, mở tiệc thưởng trăng trên đài Hàm Hư lãng giám, có bọn phi tần cung nga ngồi hầu hai bên. Bát phò mã trực ở bên trên đài, Thành Đắc đứng thị vệ ở phía dưới.

Rượu uống đã đến lúc chếnh choáng, Gia Khánh đế đứng dậy tiểu tiện, phía sau có ba bốn tên thái giám theo hầu. Bỗng Thành Đắc xông lên đài, đi sát theo gót hoàng đế. Bọn thái giám để ý thấy Đắc có vẻ khả nghi, vội chạy tới cản lại. Đắc rút trong ông tay áo ra một cây cương đao sáng quắc nhè giữa ngực tên thái giám cho một mũi, tên thái giám ngã quay xuống đất Hoàng đế Gia Khánh thấy nguy, miệng la "Có giặc", chân quýnh lên chạy vòng quanh cây hoa quế lớn để trốn.

Bát phò mã đang trên đài nghe tiếng hoàng đế kêu la, vội chạy tới. Thấy Thành Đắc, tay đương cầm cây cương đao, đuổi theo hoàng đế quanh gốc cây hoa quế. Bát phò mã gầm lên một tiếng, nhảy tới chộp hai tay Đắc khoá chặt lại. Bọn ngự lâm quân cũng chạy ồ tới vây chặt lấy hai người.

Nói đến sức mạnh thì Đắc hơn Bát phò mã. Nhưng lúc này Đắc thấy bọn thị vệ quá đông đâm ra luống cuống tay chân đôi mắt chỉ trừng trừng nhìn phò mã, đờ hẳn người ra không dám chống trả.

Bọn quân ngự lâm ồ cả tới vây bắt Đắc, tống vào khám lớn của bộ hình. Đêm đó, lục bộ cửu khánh đều vội tới vườn Viên Minh vấn an. Gia Khánh đế bảo các vương đại thần cùng với lục bộ cửu khánh hỏi tội thích khách. Tướng quốc Trương Trai hôm đó làm chánh án thẩm.

Trương tướng quốc thẩm vấn hơn chín ngày mà chẳng được một câu khẩu cung nào. Dùng tới đại hình tra tấn mà Đắc cũng chẳng nói chẳng rằng. Chịu cực hình đến lúc ghê gớm nhất, Đắc cười nhạt vài tiếng bảo:

- Có gì mà phải thẩm vấn. Việc không thành thì ta mất đầu. Còn nếu thành thì chỗ các ngươi đang ngồi ấy chính là chỗ của ta.

Nói xong, Đắc lại ngậm miệng nín bặt, Trương tướng quốc chẳng còn biết cách nào hơn. Ngày hôm sau vào chầu, Trương tướng quốc tâu rõ tình hình trên, Gia Khánh đế bảo khỏi phải thẩm vấn, cho đem ra ngoài đập chết, băm vằm Thành Đắc muôn mảnh.

Trương tướng quốc vâng thánh chỉ lui về, định tội Đắc lăng trì xử tử. Ông lại tra xét, biết Đắc có hai đứa con trai, một đứa mười sáu tuổi, một đứa mười bốn, mặt mũi rất khôi ngô, hiện đang đi học. Trương tướng quốc hạ lệnh bắt cả hai anh em tới để cùng thọ hình với cha.

Hôm xử Đắc, một đội binh mã áp giải hung phạm tới Tây Hiệu trương, trói Đắc vào cây cột sắt, cột hai đứa con ở phía trước. Hai đứa con oà lên khóc, miệng gọi "Cha, cha". Nhưng Thành Đắc nhắm nghiền mắt, chẳng thèm để ý.

Đến lúc hành hình, bọn đao phủ giết hai đứa con, rồi mới tùng xẻo Đắc. Chúng lột hết quần áo Đắc trần như nhộng rồi mới cầm dao nhọn, trước hết cắt tai, cắt mũi, cắt hai đầu vú, sau đó cắt hai cánh tay, rồi cứ thế xẻo từng miếng thịt trên người Đắc, từ vai qua lưng rồi lại từ lưng qua ngực. Lúc đầu máu trong người Đắc chảy ra như suối nhưng khi kiệt sức rồi, chỉ còn có nước vàng rỉ xuống thánh thót. Tất cả phần trên người đều bị xẻo hết, chỉ còn trơ bộ xương. Thành Đắc bỗng mở choàng đôi mắt quát lớn:

- Xẻo mau đi chứ!

Bọn đao phủ trả lời Đắc:

- Hoàng thượng có ý chỉ bảo bọn ta xẻo từ từ để cho mi chết một cách đau đớn khổ sở.

Thành Đắc nhắm mắt lại không thèm nói thêm. Bọn đao phủ xẻo cắt xong toàn thân Đắc, lúc đó mới bồi một đao vào cổ kết quả tính mạng luôn.

Không ngờ Thành Đắc mất mạng trong cung thì bên ngoài, Bát Quái Giáo nổi dậy hung dữ sôi động lạ thường. Giáo đồ tại huyện Hoạt khởi nghĩa ngày mùng 7 tháng chín, tập hợp đông tới ba ngàn, xông vào giết bọn nha lại, phá tan nhà lao, cướp Lý Văn Thành đi mất, chém chết Cường Khắc Tiệp và toàn gia quyến. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa này, có các huyện Tràng Viên, Đông Minh tinh Trực Lệ, toà huyện Định Đào Kim Lương tỉnh Sơn Đông. Lâm Thanh mang theo hai trăm cảm tử quân mai phục trong kinh thành, một mặt nghe ngóng tình hình bên ngoài, một mặt bắt mối với bọn thái giám trong cung cấm, ước đính nửa đêm ngày rằm tháng chín hội đủ tại cổng chợ, rồi xông qua cửa Tuyên Võ mà vào cung.

Hồi 98

BÁT QUÁI GIÁO PHÁ CUNG THANH

Một năm trước, khi Lâm Thanh mưu phản, quan Đồng trị huyện Đạm Thuỷ tỉnh Đài Loan có bắt được một giáo đồ tên gọi Cao Ma Đạt. Đạt tự nhận là tiểu đầu mục của Bát Quái Giáo và cung khai là còn có vị đầu mục Lâm Thanh thông đồng với bọn thái giám tại kinh đô, ước định mùa thu sang năm hội binh mã đánh thẳng vào cung. Quan Đồng Trị được tin này, vội viết văn thư đưa về kinh. Quan đại thần tại kinh nhận được lại cho là y hoảng bảo, ném đi không thèm tâu.

Đến ngay trước lúc khởi sự một hôm, viên tuần kiểm Lư Câu Kiều được tin, vội lén tới báo cho quan phủ doãn phủ Thuận Thiên, nói Lâm Thanh ước định ngày mai mưu phản. Quan phủ doãn được tin lại cũng cho viên tuần kiểm hoảng báo, mắng om lên, bảo việc như vậy mà dám liều lĩnh nói bậy. Thế là vị quan này cùng chẳng thèm sửa soạn phòng chống gì.

Hôm đó, quả nhiên cuộc đại loạn xảy ra, các giáo đồ cầm giáo cầm mác kéo xuống đầy phố, xông thẳng vào cửa Đông Hoa môn và Tây Hoa môn. Bọn thái giám Lưu Đức Tài, Dương Tiến Trung ở ben trong phục sẵn. Còn có cả viên tổng quản thái giám là Diệm Tiến Hỉ tại trong cung tiếp ứng. Toán bộ binh tại Đông Hoa môn thấy các giáo đồ xông vào vội đóng cửa lại, nhưng đã trễ. Năm, bảy trăm người đã đánh thốc qua cửa Đông Hoa và tiến thẳng vào điện Hoàng Đức Lại có bọn thái giám từ bên trong cung đánh thốc ra.

Bọn cung nga mỹ nữ hoảng hồn bạt vía, kêu khóc như ri. Trong cung nội vụt thành bãi chiến trường, cảnh hỗn loạn xảy ra khủng khiếp chưa từng thấy. Tại Tây Hoa môn cũng có năm, bảy trăm giáo đồ tiến đánh. Toán ngự lâm quân tại đây vội đóng chặt cửa cung, liều chết chống cự. Hôm đó, Gia Khánh đế không có tại cung nội. Ngài đã qua vườn Viên Minh hôm trước rồi cho nên tại đây chỉ còn lưu lại có một ít thị vệ thôi. Chống cự được một lúc thì cửa Tây Hoa môn bị phá tung. Giáo đồ ồ vào, đánh qua Thượng A giám, Văn Dự quán, đánh thẳng vào Long Tôn môn. Bọn thị vệ vừa đánh vừa lùi. Bỗng bọn thái giám cũng từ phía trong đánh ra. Tiếng hò hét, kêu la vang trời, máu chảy lênh láng cả mặt đất. Bọn phi tần trong các cung Dực Khôn, Vĩnh Hoà, Hàm Phúc, nghe tiếng hò hét kêu la hoảng quá, túm lại với nhau thành từng chùm. Có vài cung nga nhát gan, nhảy xuống giếng tự vận. Nhị hoàng tử Mân Ninh cùng các bối lặc đang xem sách tại thư phòng, nghe nói trong cung có biến, không hoảng hốt sợ hãi gì, liền gọi bọn thái giám đem súng điểu thương và yêu đao tới. Họ tập hợp được hơn hai mươi tên thái giám rồi bảo chạy theo. Chạy tới cửa Võng Tâm, thấy một toán giáo đồ hò reo xông tới, Nhị hoàng tử hô đóng cửa lại, cho bọn thái giám bò lên mặt tường thám sát nếu thấy giáo đồ leo lên tức thì xuất kỳ bất ý dùng côn đánh xuống. Nhiều giáo đồ vô tình bị bọn thái giám đánh cho vỡ đầu, óc phọt ra, ngã gục dưới chân tường.

Trong đám giáo đồ, có vài đầu mục thấy thế vội khích động anh em, tay cầm cờ xông lên mặt tường. Phía đông tường là Đại nội. Các giáo đồ đứng trên tường kêu la hò hét, chay về phía đông. Nhị hoàng tử đứng dưới thềm điện Dưỡng Tâm, cầm súng điểu thương nhắm thật chính xác bắn luôn một lúc chết mấy đầu mục. Bối lặc Miêu Chí, đứng ở phía tả Nhị hoàng tử cũng bắn chết một đầu mục. Thấy đầu mục chết, các giáo đồ đâm chùn bước, không dám vượt qua tương nữa, đành tản đi hướng khác.

Bản lĩnh của Nhị hoàng tử phải nói là cao cường. Năm Càn Long thứ năm mươi bốn, Mân Ninh mới lên tám. Hồi đó Càn Long hoàng đế tới hành cung Trương Gia loan. Ngài đưa hoàng tử, hoàng tôn đi thi bắn tại xạ trường. Mân Ninh đứng bên cạnh ngài. Chờ khi các chư vương, bối lặc bắn xong. Ninh bèn quỳ trước mặt Càn Long hoàng đế, xin cho mình bắn. Hoàng đế lấy làm vui thích lắm. Ngài bèn truyền bảo tất cả các hoàng tôn cùng tuổi đều ra xạ trường dự bắn, tám chú bé cùng chạy ra thử cung bắn tên, nhưng yếu quá không làm gì được. Duy chỉ có Mân Ninh cầm chiếc cung nhỏ đặt tên lên, bắn liền ba phát thì hai phát trúng ngay giữa hồng tâm.

Càn Long hoàng đế thấy cháu bắn trúng, phá lên cười khà khà, cho gọi Mân Ninh lên điện, vừa vuốt tóc cháu vừa bảo:

- Bản lĩnh cháu khá lắm! Ông muốn thưởng cho cháu về tài bắn cung này, vậy cháu thích cái gì?

Ninh dập đầu nói:

- Cháu chỉ xin ông nội thưởng cho cháu chiếc áo khoác thôi!

Càn Long hoàng đế mỉm cười gật đầu, hạ lệnh mang chiếc áo tới. Ngay lúc đó chẳng có chiếc áo nào vừa, bọn thị vệ đành phải lấy một chiếc áo dài của người lớn đem lại khoác lên vai Mân Ninh, còn một tên thái giám thi ôm lấy chân cậu bế thốc lên cho cao. Từ đó, mọi người trong cung đều gọi Ninh là Tiểu tướng quân. Và Ninh cũng ngày đêm theo sư phó tập luyện. Ninh thích bắn chim, cho nên thường dùng cây súng điểu thương bắn bách phát bách trúng (xin nhớ, hồi này đã có súng của bọn Tây đưa vào Trung Quốc rồi). Nhờ đó nên hôm đại biến này, Ninh mời giải vây được cho Đại nội.

Toán giáo đồ thấy cửa Tây Hoa có người bảo vệ, bèn sang cửa Đông Hoa, hội họp với các toán bạn. Lúc đó các giáo phái tại đây đã phá tan cửa Đông Hoa, xông thẳng vào cung, đang định cướp cửa A Kỳ Cáp.

Bỗng họ thấy một đại hán mình trần trùng trục, đa đen thui, tay cầm một cây đòn gánh vừa to vừa nặng, quát lên một tiếng lớn:

- Chúng bay phản à?

Vừa quát, đại hán vừa múa chiếc đòn gánh đánh tạt ngang. Các giáo đồ thấy đại hán dữ tợn, bèn hè nhau vây lấy, đánh tới tấp. Tên đại hán múa tít chiếc đòn gánh chi đông đánh tây, chi nam đánh bắc quất vèo vèo, loang loáng như một chiếc bánh xe quay tít. Giáo đồ bị hắn đánh tơi bời, người thì gãy tay, kẻ gãy lưng, vỡ đầu máu chảy lênh láng. Cả toán đông tới hai, ba trăm, thế mà chỉ một lát, đã bị chết đến một nửa.

Tên đại hán đó chẳng phải là thị vệ trong cung mà là một tên gánh than mướn cho một tiệm bán than ngoài thành. Hằng ngày hắn phải gánh than qua cửa Đông Hoa đem vào cho Tu Thư quán. Suốt ngày phải chui ra chui vào trong đống than đen nên người hắn đen thui đi. Bọn thái giám thường gọi hắn là "chú than đen".

Chú than đen tính thẳng thắn, lại cậy mình sức mạnh hơn người nên hễ thấy chuyện bất bằng là cầm đòn gánh xông ngay vào đánh tới. Chiếc đòn gánh của chú than đen nặng ít nhất cũng phải trăm cân, đánh vào người không gãy xương thì cũng nát thịt.

Hôm đó, hắn thấy các giáo đồ Bát Quái Giáo xông vào cửa Đông Hoa, liền ra sức chống đánh. Mình hắn chống lại hai, ba trăm người. Hai bên đánh nhau một lúc lâu mà các giáo đồ không một kẻ nào lọt vào được A Kỳ Cáp. Cửa A Kỳ Cáp chính là cửa Hi Hoà. Tiếng hò hét kêu la trong trận chiên tại đây làm vang động mãi vào phía trong cung.

Lúc đó có một vị Đại học sĩ tên gọi Bảo Hưng, làm giáo thụ dạy chư vương đọc sách tại thư phòng, đi từ cửa Cảnh Vân môn tới. Trông thấy ở ngoài cửa, một tên đại hán mình đen thui như cục than đang chống đánh một toán giáo đồ.

Ông vội quay vào cung, gọi rất nhiều thái giám chạy ra đóng sập cửa A Kỳ Cáp lại, một mặt tập họp tất cả bọn học trò thực lục quán, quốc sử quán, công thần quán, giao cho mỗi người một cây côn dài, bò lên mặt tường để giữ cửa A Kỳ Cáp, một mặt điều động quân Hổ bi ở khắp nơi theo cửa ngách xông ra tiếp chiến.

Lúc đó về phía giáo đồ lại có một toán từ Tây Hoa chạy lại vây lấy tên đại hán, đánh chém tơi bời: Bọn này càng tới càng đông, ít ra cũng đến một ngàn, dù tên đại hán có mạnh tới đâu chăng nữa cũng khó bề chống đỡ. Hắn bị một đám đông giáo đồ nhất loạt xông vào, dùng dao chém nát người. Chú than đen, lúc gần chết miệng vẫn còn la hét, tay vẫn còn vung côn đập tới đập lui.

Các giáo đồ chém chết được tên đại hán rồi, tính vượt tường vào cung thì vừa lúc đó quân Hổ bí đã kịp xông tới.

Bọn chư vương, đại thần lưu phủ tại kinh thành cũng đã đem quân cấm vệ từ cửa Thần Võ đánh vào. Quân binh hai mặt giáp công, đánh các giáo đồ một trận tơi bời, dồn cho chạy ra ngoài cửa điện Trung Chính.

Lúc này trời đã tối. Đường xá trong cung nội các giáo đồ không thuộc, cho nên các giáo đồ đi dần vào đất chết. Bọn quan binh truy sát một trận, hai bên dọc tường thây chết ngổn ngang, giáo đồ bị dồn vào một góc tường. Giữa lúc bọn quan binh định xông vào bắt trói, thì bỗng một cơn mưa rầm rập đổ xuống. Một tiếng sét lở đất long trời nổ vang, đánh chết luôn một lúc đến mấy chục giáo đồ. Bọn quan binh tiến lên bắt nốt số còn lại, trói ké hết tay chân, đưa tới nha môn Cửu môn đề đốc để thấm vấn. Bọn giáo đồ cung khai ra đầu mục Lâm Thanh hiện đang ngồi đợi tin tại Hoàng thôn. Quan đề đốc tức khắc sai một đại đội quan binh tới ngay Hoàng thôn bắt Thanh điệu về kinh sư.

Qua ngày sau, Gia Khánh đế từ vườn Viên Minh trở về cung, thăng toạ vườn Phong Trạch, đích thân thẩm vấn Lâm Thanh. Thanh cung khai ra rất nhiều tên thái giám, Gia Khánh đế sai quan thị vệ cho đi bắt bọn đó tới, thẩm vấn rõ ràng, rồi hạ chỉ đem tất cả xử chém ngang lưng.

Các giáo đồ bị bắt khác cùng một loạt đem ra chính pháp hết. Hơn ba trăm cái đầu bị chặt đứt, máu chảy lênh láng trên mặt đất. Phố xá nơi kinh thành đóng cửa kín, dân chúng hoảng hồn bạt vía, gần như không dám thở nữa.

Gia Khánh đế quay vào cung nội, thăm đám phi tần, an ủi một hồi. Ngài lại truyền cho Nhị hoàng tử và bối lặc Miên Chí vào cung ngỏ lời khen và thưởng cho mỗi người một cái áo khoác ngoài bằng da rái cá, một chiếc nhẫn bằng ngọc bích.

Qua ngày hôm sau, một đạo dụ ban xuống, phong Nhị hoàng tử làm Trí Thân vương, tiền phong bối lặc Miên Chí làm quận vương. Đại học sĩ Bảo Hưng tâu việc chú than đen có công bảo vệ hoàng cung. Lúc đó, người ta mới bới tìm trong đống xác các giáo đồ, lấy ra chú than đen, đem rửa sạch đưa về tiệm than. Hoàng đế hạ chỉ thưởng cho chú than đen tước võ công lục phẩm, chiếu theo lệ võ quan trận vong mà tế lễ. Lại cho thêm món tiền chi phí tang ma một vạn lạng bạc. Vợ chú than đen phong làm phu nhân. Thực ra chú than đen chẳng có vợ con gì cả. Lão chưởng quỹ trong tiệm thấy đây là một dịp làm ăn thuận lợi, liền nhận chằng cho cô con gái lớn của mình làm vợ chú ta, bắt cô mặc đồ tang ở giá.

Hồi 99

MẤT VỢ CHỈ VÌ CÓ VỢ ĐẸP

Lại nói Lý Văn Thành chiếm được Hoạt huyện. Được tin Lâm Thanh đã chết, bèn triệu tập một vạn đồ đảng rùng rùng khởi loạn suốt một giải Sơn Đông, Hà Nam, nói để báo thù cho Thanh. Thành ỷ có sông Vận Hà vận chuyển lương thực dễ dàng tiện lợi nên đóng quân suốt dọc sông này, chống chọi với quan quân của triều đình. Tổng đốc Trực Lệ là Ôn Thừa Huệ, tuần phủ Hà Nam là Cao Dĩ đem quân đánh, đều bị Thành đả bại tơi bời. Gia Khánh đế bèn hạ chỉ sai tổng đốc Thiểm Cam là Na Ngạn Thành đem quân Sơn Đông và Hà Nam đi tiêu diệt giáo đồ.

Na Ngạn Thành có một vị phó tướng tên Dương Ngô Xuân, hết sức kiêu dũng, đã nhiều lần chinh đông dẹp tây, khiến các giáo đồ thấy đều sợ hãi. Xuân có ba chòm râu dưới cằm nên thường được gọi là "Tướng Râu". Và mỗi lần nghe nói tướng râu tới là cả bọn ai cũng lo tháo thân trước. Về sau lại có thêm tướng Dương Phương cũng đem quân từ Thiểm Tây tới để trợ chiến. Hai vị tướng họ Dương này đã lấy lại được nhiều thành trì, giết chết đến hơn hai vạn giáo đồ Bát Quái Giáo.

Lý Văn Thành chạy trốn tới gò Bạch Thổ cương thì bị phục binh tứ phía bao vây. Thành biết mình trúng kế, tính mạng khó toàn, bèn đốt một đống lửa tự thiêu chết. Từ đó, ba tinh Trực Lệ, Sơn Đông, Hà Nam mới được yên.

Gia Khánh đế nghĩ tới chuyện đáng sợ vừa qua của các giáo đồ, bèn hạ chiếu: "Từ nay về sau, bất luận tôn giáo nào, nhất luận đều bị nghiêm cấm".

Hồi đó, có viên tri huyện huyện Dương được tin một vị giáo sĩ người nước Anh truyền đạo tại huyện mình, chẳng hỏi ba bảy hai mươi mốt gì, bắt ngay đem về thắt cổ chết. Thế là vua nước Anh cáu tiết, phái luôn một lúc mười ba chiếc tàu binh tới chiếm Áo môn. Tổng đốc Lưỡng Quảng Hùng Quang hoảng lên, cấp báo về kinh. Gia Khánh đế hạ chỉ bảo Quang phong cấm đường thuỷ, đoạn tuyệt lương thực địch. Quả nhiên, quân Anh không thể giữ mãi, đành quay về Ấn Độ.

Cũng hồi đó, trên mặt bể mấy tỉnh Giang Chiết, Lưỡng Quảng thường có một bọn cướp bể xuất hiện. Hoàng đế hạ chỉ cho các tỉnh duyên hải huấn luyện thêm hải quân, đóng nhiều binh thuyền, tăng cường tuần thám trên biển. Ngài cũng nghiêm cấm tàu bè ngoại quốc chở thuốc phiện lậu. Mỗi khi tàu cập bến, tức thì đóng cửa, nghiêm ngặt khám xét, bắt được hai trăm cân trở lên đều được thưởng. Bởi thế bọn nhân viên kiểm nã càng sưu tra gắt. Thuyền bè ngoại quốc không dám cập bến nữa.

Gia Khánh đế lúc này thấy trong ngoài đã thái bình, bèn có ý xuất kinh tuần thú. Thế là ngài lên đường vào tháng ba năm đó. Tới Ngũ Đài sơn hồi tháng năm, rồi ngài từ Ngũ Đài sơn trở về. Ngài lại tuần hành Nhiệt Hà tránh nóng.

Tại vùng Nhiệt Hà ngài có toà sơn trang nghỉ mát một mặt tựa vào núi, ba mặt kề mép nước, xây cất rất là tân kỳ tráng lệ. Gia Khánh đế ở tại nơi đây, cứ nghĩ tới những chuyện phong lưu thú vị của các đời vua triều trước mà khoái thích.

Từ khi tịch biên hết gia sản của Hoà Khôn, ngài tỏ ra rất khoan khoái thư thái. Ngài vốn nổi danh là một vị vua tiết kiệm trong lịch sử, nhưng hoàng đế lúc tuổi già, bỗng nghĩ tới cái cảnh "nhân sinh kỷ hà" thì làm sao chả thèm muốn cái chuyện "vớt vát". Ngài bèn truyền lệnh ngầm cho nội vụ đại thần tới Giang Nam, tìm kiếm vật liệu để xây cất ngay tại đây một khu nghỉ ngơi cho ngài.

Lúc này, Gia Khánh đế đã lập thêm mấy bà phi nữa. Ngài tìm vui hưởng thú suốt ngày trong vườn với người đẹp. Chẳng bao lâu, đại thần trông coi việc tìm kiếm vật liệu trở về, đem theo mô hình của toà Kính Hổ đình. Nó vốn là tác phẩm của hai vợ chồng Vương Sâm do tuần phủ Chiết Giang bảo làm.

Nay nghe hoàng đế có ý xây cất đền vũ, tuần phủ Chiết Giang bèn đem dâng mô hình toà đình này và sai cả hai vợ chồng Sâm lên Nhiệt Hà nữa. Mặt khác, ông còn dâng lên một bản tấu chương ca tụng tài nghệ kiến trúc của vợ chồng Vương Sâm, đồng thời xin hoàng đế cho họ đứng coi chương trình kiến tạo viên đình đó.

Gia Khánh hoàng đế bảo đem mô hình ngôi đình lên cho ngài xem. Một tên nội giám bưng lên một cái hộp, bên trong đặt ngôi đình nhỏ xíu. Hoàng đế xem xét kỹ lưỡng, quả thấy ngôi đình kiến trúc cực kỳ tinh xảo: ngói bằng pha lê, cột bằng thuỷ tinh, tường chung quanh bốn mặt gắn hàng mấy vạn miếng kính nhỏ, lấp lánh hào quang. Ở giữa đình đặt một chiếc giường bằng ngà voi, chung quanh cẩn những miếng kính lớn.

Gia Khánh đế xem xong, tấm tắc khen đẹp. Ngài lại truyền lệnh cho hai vợ chồng Vương Sâm vào bệ kiến, viên thái giám hồi tâu nói hai vợ chồng Vương Sâm vì không có công danh gì nên không dám vào. Gia Khánh đế tức khắc thưởng cho Sâm áo mũ hàng thất phẩm. Hai vợ chồng Vương Sâm ăn mặc tề chỉnh rồi mới rón rén bước vào, bò mọp dưới đất. Sâm thấy hoàng đế, người bỗng run bắn lên như bị sốt, còn vợ Sâm thì cúi đầu quỳ lạy một bên.

Gia Khánh đế ngắm nhìn vợ Sâm thấy nàng yểu điệu duyên dáng, da trắng, má đào, bỗng thấy trong người xúc động bâng khuâng. Ngài bảo ngẩng đầu lên và thấy nàng quá đẹp, lông mày cong, cặp mắt lóng lánh như sóng nước mùa thu, miệng xinh, mũi dọc dừa, phảng phất mùi hương phấn. Ngài nhủ thầm: trong cung nội, không biết bao cung tần mỹ nữ, thế mà chẳng có ai đẹp bằng nàng. Bỗng mắt ngài sáng lên, mặt tươi như hoa. Ngài vừa cười khì khì vừa hỏi nàng họ gì thì nàng nhỏ nhẹ tâu họ Đổng. Ngài lại hỏi nàng lấy chồng đã bao lâu thì Đổng thị đáp: đã bốn năm. Lại hỏi: mô hình toà Kính Hổ đình có phải là do hai vợ chồng làm ra không, thì nàng đáp: mái ngói, cột tường thì do chồng nàng làm, còn điêu khắc cẩn khảm là do nàng làm. Gia Khánh đế khen cả hai người tài nghệ khéo léo, sau đó sai cho đưa Vương Sâm vào xảo nghệ viện chờ đợi sai khiến. Còn Đổng thị thì ngài cho đưa vào nội đình để làm cung phụng nữ quan.

Trong hoàng cung có một bọn cung phụng nữ quan, chuyên việc khâu vá, viết vẽ, điêu khắc những đồ nữ công tinh xảo. Làm chức nữ quan này, phần lớn là người Hán. Từ khi vào nội uyển, Đổng thị chẳng phải làm gì, chỉ suốt ngày hầu hạ hoàng đế du ngoạn quanh đảo mà thôi, Đổng thị thực tâm chẳng có ý muốn hầu hạ hoàng đế, nhưng nàng biết trong cung cấm có bướng bỉnh cũng chẳng ích gì. Thấy tính tình Hoàng đế hết sức ôn nhu, bữa nọ nàng vừa khóc vừa xin ngài cho nàng ra thăm chồng một bữa. Ngài cười và vỗ về nàng:

- Nàng hãy chịu khó ở nơi đây một năm rồi trẫm sẽ cho người đưa nàng về nhà.

Lại hỏi nàng:

- Nàng ở Giang Nam đã được nhìn thấy Tây Hồ chưa?

Đổng thị đáp:

- Tây Hồ chính là quê của tiện thiếp, làm sao lại chẳng thấy?

Thế là hoàng đế sai nàng làm một cái mô hình Tây Hồ mười cảnh, từ đó nàng ở trong cung nhào đất, nặn bủn, tỉ mỉ khởi công sáng tạo tác phẩm của mình. Hoàng đế hằng ngày ngồi ở bên cạnh xem nàng làm, cũng có khi ngài pha thuốc màu, nhào đất cho nàng. Trong căn nhà vắng lặng, hai người quấn quýt chẳng khác gì đôi vợ chồng dân dã vô cùng yêu thương nhau.

Cũng có lúc không thể ngăn lòng được, ngài kéo nàng vào toan tính chuyện ân ái thì nàng nhỏ đôi dòng lệ, khẩn khoản cầu xin. Nàng nói:

- Hoàng thượng có đến ba ngàn hương phấn, há tất cứ phải phá hoại trinh tiết của tiện thiếp?

Gia Khánh đế thấy nàng có vẻ đáng thương, lòng cũng mềm lại. Mấy lần nhờ đó mà Đổng thị thoát được. Song hoàng đế vẫn vương vấn nhớ nhung, không thể nào rời xa nàng được.

Cho nên ngày nào cũng phải ghé qua nói cười một lúc, miễn là được thấy dung nhan nàng là toại nguyện rồi. Ngài thường nói với bọn thái giám:

- Ngày xưa Ngô Giáng Tiên đẹp đến nỗi người ta ăn gì cũng thấy ngon. Nay Đổng thị đẹp đến nỗi khiến người ta quên cả ăn cả ngủ.

Câu nói này truyền vào cung cấm, nhiều phi tần có vẻ đố kỵ với Đổng thị. Hơn nữa, họ lại thấy hoàng đế suốt ngày ở Quỳnh đảo với nàng, không tới thăm bà nào, cô nào nữa, cho nên họ lại càng ghen tức thêm. Họ đồn rằng Đổng thị chỉ là một con hồ ly tinh mê hoặc hoàng đế. Thế rồi họ đến mách với hoàng hậu. Bà hậu này nổi danh hiền đức sáng suốt, nghe lời nói của bọn phi tần, cho rằng bọn này ghen tuông, đem lời khuyên can họ. Họ không ngờ rằng giữa hoàng đế và Đổng thị chưa hề có chuyện gì dâm ô xấu xa cả. Sở dĩ có được điều tốt đẹp này là nhờ ở cái đẹp như thiên tiên, cái đức tinh khiết của nàng khiến Hoàng đế phải kính phục mà trấn áp được lòng dục. Tới lúc thân mật nhất, bất quá cũng chỉ có một cái nắm tay là cùng.

Điều khổ tâm nhất là tình cảnh cô đơn thê thảm của Vương Sâm, trong khi chàng bị bỏ quên nơi viện xảo nghệ, ngày đêm nhớ tới người vợ vừa, đẹp vừa hiền đức. Chàng cầu khẩn viên tổng quản thái giám cho tới gặp mặt vợ chàng nhưng y chỉ đáp rằng người mà hoàng thượng đã giữ lại thì làm sao y dám tới gọi được. Thế là từ đó Vương Sâm như điên như dại, suốt ngày lúc khóc lúc cười khiến mọi người trong viện cho rằng chàng đã mất trí, chẳng thèm để ý tới chàng nữa.

Bỗng một hôm hoàng thượng từ trong cung đi ra: Sâm nhìn thấy vội bò mọp trên mặt đất, dập đầu liên hồi xin ngài cho phép vợ chồng ra ngoài gặp mặt một lần. Hoàng đế cười nói:

- Vợ người thủ công hết sức tinh xảo nên hoàng hậu lưu lại trong cung, không chịu cho ra nữa. Nếu người sợ buồn bã tẻ lạnh, trẫm sẽ thưởng cho người một cô cung nữ nhé!

Nói đoạn, ngài đi luôn. Đêm hôm đó, quả nhiên trong cung đình đưa ra một cô cung nữ thật. Viên thái giám quét dọn cho Sâm một căn phòng thật sạch sẽ, rồi đưa cả hai vào bên trong. Không ngờ luôn ba đêm, hai người chẳng ai gần ai. Sâm lại càng nổi cơn điên dại. Thấy ai Sâm cũng kêu, cũng cầu xin được gặp mặt vợ mình.

Hoàng đế biết hết mọi hành động, thái độ của Sâm. Ngài thăng chàng lên quan hàm ngũ phẩm, lại thưởng cho chàng hai vạn lạng bạc, rồi sai hai tên thị vệ đưa về Giang Nam, thưởng thêm cả cô cung nữ nọ nữa.

Cô cung nữ này vốn người Giang Nam, nên rất sung sướng được trở về quê nhà, cũng nguyện ý lấy Sâm. Sâm bảo nàng:

- Tôi cùng với vợ tôi, hai người tình nghĩa sâu như biển cả, chẳng may nàng bị giữ lại nơi cung cấm, tôi không thể nhẫn tâm phụ nàng được.

Nói đoạn, chàng cho cô cung nữ ba ngàn lạng bạc, đưa về nhà cha mẹ để đi lấy chồng. Chàng lại mang theo một vạn lạng bạc, lẻn lên Nhiệt Hà, bỏ tiền ra đút lót bọn thái giám, dò la tin vợ mình. Bọn thái giám thấy Sâm yêu quý vợ con đến đáng thương, bèn vào cung thăm dò tin tức cho chàng.

Cách vài hôm, Đổng thị gửi ra cho chàng một phong thơ nói:

"Thiên tử là người rất đa tình nhưng thiếp ở trong cung đã mười tháng vẫn không hề bị thất tiết. Thiếp đã cầu xin ngài thì hiện ngài đã hứa mãn một năm sẽ cho thiếp trở về nhà, vợ chồng đoàn tụ như xưa!"

Vương Sâm nhận được tin này, mừng rỡ khôn xiết. Từ đó chàng ở bên ngoài yên tâm chờ đợi. Những lúc rỗi rảnh, chàng cùng bọn thái giám vào cao lâu tửu điếm uống rượu mạn đàm.

Bọn thái giám thấy Sâm đã hết khùng, tính tình trở lại bình thường, nên hay đem những chuyện bí mật trong cung cấm nói cho chàng nghe: nào là hôm nay hoàng đế triệu bà phi thứ mấy, ngày mai, ngài đưa một bà phi thứ mấy khác đi du ngoạn… không một ngày nào là không có kẻ tới nói chàng nghe những chuyện như vậy.

Có một hôm, một thái giám tới bảo chàng:

- Đêm nay, Oanh Tần phát ghen quá xá, chỉ tại hoàng thượng sủng ái Đổng thị. Ngài thường tới Quỳnh đảo thăm nàng khiến Oanh Tần chịu không nổi cơn ghen, chạy vội tới nắm Đồng thị đánh đấm túi bụi, mãi khi Hoàng đế quát bảo mới ngừng tay. Oanh Tần còn nắm vạt áo hoàng đế kéo về phòng mình nữa, nhất định không chịu thua Đổng thị.

Vương Sâm nghe xong liền nói:

- Đường đường một vị thiên tử mà phải sợ một phi tần ư?

Tên thái giám thì thầm nói với Sâm:

- Không phải thế đâu. Vạn tuế gia đa tình quá trời mà. Nghe nói ngài quen biết Oanh Tần từ khi còn chưa làm lễ đại hôn kia. Nhớ đến tình cũ nghĩa xưa, ngài chẳng khỏi sủng ái bà ta hơn chút ít đó thôi.

Sâm nghe đoạn, rơi lệ nói:

- Có con cọp cái ấy trong cung thì chỉ khổ cho vợ tôi mà thôi.

Tên thái giám an ủi đôi ba lần rồi bảo Sâm:

- Vợ anh sắp được ra rồi, buồn khổ mà làm gì!

Sắp tới cái ngày đủ năm đó, Vương Sâm ở bên ngoài, lòng như kiến bò trên chảo rang. Chàng chờ đợi từng giờ từng phút.

Rồi một hôm, Sâm ước định với viên Tổng quản thái giám đợi ở toà lầu trên bờ hồ. Phía sau hồ lầu, có một cái hồ lớn.

Trên lầu bán rượu và đồ nhậu. Vương Sâm đến nơi hẹn còn sớm, gọi rượu ra, khề khà trước để đợi. Một lát sau, Sâm thấy một tên thái giám hoảng hốt chạy tới, mặt mất cả thần sắc, Sâm thấy thế, lòng bỗng như lửa đốt, biết có chuyện gì nguy kịch, vội hỏi:

- Vợ tôi làm sao rồi vậy?

Tên thái giám chẳng nói gì rõ, chỉ an ủi Sâm:

- Tôi khuyên anh đừng nên buồn khổ làm gì!

Hồi 100

CHÍNH SÁCH TIẾT KIỆM CỦA ĐẠO QUANG

Viên thái giám này, nhà vốn ở cách Quỳnh đảo rất gần. Nhất cử nhất động của Đổng thị y đều biết cả. y bảo Vương Sâm.

- Từ khi vợ ngươi vào cung, hoàng thượng rất yêu kính nàng. Hằng ngày, ngài ngồi nhìn nàng nặn đắp Tây Hồ thập cảnh. Ngài thường khen nàng tuyệt kỹ. Cứ mỗi lần nàng làm xong công việc, hoàng thượng đều có đồ thưởng tứ: khi thì châu báu, khi thì y phục. Nàng cũng bầu bạn với hoàng thượng, lúc thì đánh vài ván cờ, lúc thì dạo vài bản nhạc. Hai người tuy thân mật hết sức, nhưng tuyệt nhiên không có chuyên sa ngã lỗi lầm. Mấy hôm vừa đây, chỉ vì hoàng thượng bị Oanh Tần giữ rịt lấy nên không thể tới Quỳnh đảo. Đổng thị một mình làm việc trong nhà. Tối hôm đó, bỗng xảy ra chuyện rùng rợn…

Viên thái giám nói tới đây, Vương Sâm bỗng tái mặt. Hắn vội khuyên Sâm chớ có huỷ hoại thân thể rồi lại tiếp.

- Tối qua, bọn lính gác đã điểm canh ba. Bỗng tôi thấy có tiếng động mở cửa cung, nhưng vì ở xa, nghe chẳng được rõ, nhất là lúc đó đang mê ngủ. Một lát sau, tôi lại thiếp đi.

Nhưng rồi tôi giật bắn mình lên, chỉ vì tai nghe đánh rầm một cái ở phía cửa sổ. Thế là trông Quỳnh đảo trở thành náo loạn. Sau đó là tiếng một người con gái kêu la ầm ĩ. Tôi không còn có thể ngủ được nữa, bèn nhỏm dậy mặc áo, gọi mấy người đồng bạn chạy vội tới Quỳnh đảo. Nhìn vào phòng Đổng thị, bọn tôi thấy cửa sổ mở toang. Chạy hẳn vào bên trong, bọn tôi thấy chăn gối trên giường Đồng thị bị đạp xéo nhàu nát ngổn ngang. Hoa vàng rơi rải rác đó đây. Ngay bên cửa sổ, bên cạnh bao lơn, cũng còn thấy một chiếc trâm ngọc rơi nằm đó, nhưng đã gãy nát. Đó chính là chiếc trâm nàng thường gài hằng ngày. Chẳng biết nàng đã đi đâu mất dạng… Hôm nay, bọn tôi đã tới tâu rõ cho hoàng thượng hay. Ngài sai người đi khắp nơi tìm kiếm. Thấy có chiếc áo hồng lót mình nổi trên mặt hồ Thái Dịch, xem kỹ mới biết là áo của Đổng thị. Hoàng thượng vội sai các tay bơi lội nhảy xuống hồ tìm kiếm, nhưng chẳng thấy tông tích…

Vương Sâm từ nãy đến giờ theo dõi từng lời kể một, và chỉ hy vọng có một cứu tinh nào đó giải cứu vợ mình. Nhưng khi nghe tới đây, xem ra không còn có cứu tinh nào nữa, thì lòng đã như chết hẳn. Nhè lúc viên thái giám không để ý, Sâm la lên mấy tiếng: "Đau khổ quá, mình ơi" rồi nhảy phóc ra cửa sổ phía sau lầu.

Viên thái giám vội chạy theo níu lại nhưng không còn kịp nữa. Chiếc lầu này cao vượt trên mặt hồ có tới năm, sáu trượng.

Sâm nhảy vụt ra ngoài rơi tõm mãi xuống đáy hồ. Chiếc hồ này lại rộng mà sâu, nên mọi người đành chịu, chẳng có cách gì cứu được Sâm. Thật đáng thương thay cho đôi vợ chồng Sâm chỉ vì có tuyệt nghệ mà chết cả đôi!

Gia Khánh hoàng đế trước đây thấy Đổng thị đã đẹp lại trinh thục, hằng ngày tới nhìn ngắm một lúc thì lòng cũng yên ả. Nhưng nay người đẹp đã qua đời, ngài cảm thấy chua xót, não nề, đau đớn khôn nguôi. Năm đó, ngài đã sáu mươi tuổi. Tinh thần ngài đã suy, lòng lại có điều đau khổ não nề, cho nên ngài chẳng thiết gì việc triều chính nữa. Nhất thiết mọi việc quốc sự từ nhỏ tới lớn, đều giao cho vị tướng quốc người Mãn tên gọi Mục Chương A. A vốn là một tên gian tham chuyên ăn hối lộ, bậy bạ chẳng kém gì Hoà Khôn.

Mấy tinh miền Đông bắc, các giáo đồ phá quấy. Mấy tỉnh miền Đông nam: bọn cướp bể hoành hành. Ở Tân Cương, Tây Tạng, tín đồ Hồi giáo cũng nổi lên chống lại triều đình. Tại Quảng Đông lại xảy ra vụ thuốc phiện, mối bang giao giữa Anh và Tàu càng ngày càng căng thẳng. Cả nước sôi lên sùng sục dân chúng không một ai là không oán hận. Bọn quan Ngự Sử dâng sớ hạch tội A như bươm bướm, nhưng những bản sớ này đều bị A sai người ngăn chặn lại ngay trước khi tới tay hoàng đế.

Hồi đó Trí thân vương là Mân Ninh cũng tới lui trong cung nhưng lại là người chí hiếu không dám nói gì. Gia Khánh hoàng đế tưởng nhớ Đổng thị càng ngày càng khắc khoải hơn. Oanh Tần lại thường đánh ghen ầm ĩ với các phi tử khác trước mặt ngài. Đã già lại buồn bã đau khổ, ngài bỗng nhuốm bệnh. Chẳng bao ngày, bệnh ngài trở nên nặng. Trí thân vương hằng ngày hầu hạ ngài, trong cung không dám cởi dây lưng.

Gia Khánh hoàng đế đau luôn một hơi sáu, bảy chục ngày trời. Mọi việc triều chính, ngài đều phó mặc Tướng quốc Mạc Chương A. Ba tháng trọng bệnh, ngài tự biết mình gần đất xa trời rồi, bèn triệu tập Ngự triều đại thần Mạc Chương A, Quân cồ đại thần Đái Quân Nguyên và Thác Luật, củng một số lão thần quây quanh giường bệnh của ngài. Di chiếu được viết, đại lược nói:

"Trẫm chiếu theo phép nhà đã viết nhị hoàng tử Mân Ninh cất kín tại sau biển của điện Chính Đại Quang Minh từ năm thứ tư niên biểu Gia Khánh. Khi trẫm băng hà, ngôi báu sẽ truyền lại cho nhị hoàng tử Trí thân vương Mân Ninh. Các người đều chịu ơn sâu phải nên phải hết lòng phò tả hoàng tử nhất là phải cần, kiệm, nhân, hiếu, chớ có sửa đổi phép tắc của tổ tông. Khâm thử".

Đạo di chiếu này xuống xong thì hôm sau Gia Khánh đế mất. Trí Thân vương thương cha khóc lên khóc xuống suốt ngày đêm. Các đại thần đưa Trí Thân vương về kinh, lên ngồi tại điện Thái Hoà, chịu trăm quan triều hạ, cải niên hiệu là Đạo Quang nguyên niên.

Điều kỳ quặc nhất của Đạo Quang hoàng đế là lúc còn trẻ ngài tỏ ra rất dũng cảm, tính tình lại hào sảng. Thế mà sau khi cưới vợ, ngài bỗng đổi tính thay nết, đâm ra keo kiệt hết sức, nghĩa là về vấn đề tiền tài, ngài tiêu xài cực kỳ dè xẻn chứ không phung phí như các đời vua trước.

Sau khi Gia Khánh hoàng đế tịch thu hết gia sản của Hoà Khôn thì ngân khố của hoàng gia trở thành giàu có khôn xiết kể, ấy thế mà Đạo Quang hoàng đế vẫn kêu là nghèo mạt rồi bắt mọi người dè xẻn, cứ thấy bọn đại thần là ngài liền khuyên họ chớ xài phí nhiều. Bọn đại thần vốn khéo chiều ý kẻ bề trên, nghe hoàng thượng nói vậy, anh nào anh nấy cố ý làm ra vẻ cùng kiệt, nghèo khổ: Kẻ điêu xảo nhất trong bọn là Mục tướng quốc. Mỗi khi vào chầu, Mục tướng quốc chuyên mặc áo khoác rách. Đạo Quang hoàng đế thấy thế khen ầm lên, cho ông ta là một vị đại thần gương mẫu bậc nhất. Ngài đâu có biết ông ta ở bên ngoài tham lam, hối lộ, xa xỉ đến cực độ.

Thế là khắp triều văn võ đều bắt chước lối đó, anh nào anh náy cũng đều mặc quần áo rách. Đứng trên điện nhìn xuống chẳng khác gì hai hàng ăn mày đứng chực xin của bố thí, mà hoàng đế chính là lão cái bang vậy. Và cũng từ đó, bọn quan lại khắp nơi cũng không dám ăn mặc quần lành áo tốt nữa. Trong kinh thành, các tiệm bán quần áo cũ thoáng cái đã hết nhẵn, giá đồ cũ đắt chẳng thua gì giá đồ mới. Có nhiều gia đình quan lại nghĩ cách đem quần áo lành đi đổi quần áo cũ rách để mặc. Về sau, quần áo cũ đã bán gần hết thì giá lại càng cao, có khi một bộ cũ còn đắt hơn hai bộ mới nữa. Cũng có vị quan nghĩ ra kế khâu mấy miếng vá vào tay áo hoặc vào lưng vào ngực áo để cho có vẻ rách rưới cũ kỹ.

Hoàng đế thấy vậy, mới yên chí không khuyên nhủ gì về việc ăn mặc nữa.

Trời đã sang đông thời, tiết trời lạnh. Bọn quan lại trước đây ai chả có năm, ba cái áo da hoặc áo lông ngự hàn. Nhưng năm nay, có vị nào dám đem ra đâu! Vì sợ hoàng đế ngài quở trách thế là cả bọn đành chịu rét, rét cóng cả chân tay mà chẳng anh nào dám mặc.

Câu chuyện thú vị nhất về việc này phải kể chuyện Đại học sĩ Tào Chấn Dung tại điện Võ Anh. Bản tính của Dung rất keo kiệt. Dung với Đạo Quang hoàng đế có thể nói là một cặp tri kỷ về điểm này. Bởi thế bộ đôi này nói chuyện với nhau thật hết sức tương đắc. Hằng ngày Đạo Quang hoàng đế triệu Tào học sĩ vào cung bàn soạn. Bọn thái giám từ lâu cứ tưởng hai người luận bàn về quốc gia đại sự, ai ngờ khi nghe kỹ mới biết chỉ nói những chuyện vụn vặt đâu đâu.

Có một hôm, Tào học sĩ mặc một cái quần ống rách toác, có hai miếng vá bự bằng bàn tay ngay tại trên đầu gối, Đạo Quang hoàng đế thấy thế bèn hỏi:

- Ngươi vá hai miếng bự ấy hết bao tiền?

Tào học sĩ liền tâu:

- Chỉ hết có ba tiền.

Hoàng đế nghe xong giật mình, lấy làm lạ:

- Trẫm cũng có hai miếng vá như vậy, thế mà Nội vụ phủ tính những năm lạng bạc là tại sao?

Nói soạn, ngài liền kéo áo long bào lên cho xem. Tào học sĩ chẳng biết nói gì hơn, đành phải nhận rằng miếng vá của ngài đắt hơn miếng vá của ông quá xá. Đạo Quang hoàng đế thở dài đánh sượt một cái, tỏ vẻ tiếc tiền mà không dám nói rõ ra.

Nhưng từ đó, Đạo Quang bắt buộc bọn cung nữ cũng như hoàng hậu, phi tần đều phải học vả may thêu thùa, rồi cứ hễ có quần áo rách, ngài liền bắt đám này sửa chữa lại ngay cấp kỳ. Do đó, Nội vụ phủ chẳng còn xơ múi gì nữa để mà khai man, đến nỗi các quan đương ty đói rách quá, khó bề sống nổi.

Đạo Quang hoàng đế còn bảo trong cung chỉ tiêu quá tốn, rồi ngài cho bọn cung nữ và thái giám ra ngoài tự ý làm ăn lấy mà sống, khiến cả một toà đại nội rộng lớn như vậy trở thành hoang vắng tiêu điều. Rất nhiều đình viện bị đóng cửa và niêm phong. Hoàng đế cũng chẳng thiết dạo chơi đó đây nữa mà cả ngày chỉ ở lỳ trong cung lo những chi phí chuyện gạo muối củi lửa… tính toán kỹ lưỡng lại rồi hạ một đạo thánh chỉ như sau: các khoản chi dụng tại nội đình từ nay mỗi năm không được quá hai mươi vạn lạng bạc, bọn phi tần cả năm không được may thêu áo mới, tất cả đều phải mặc quần áo cũ rách. Ngay cả trong cung của hoàng hậu cũng phải bày các bàn ghế cũ kỹ, mục nát. Đạo Quang hoàng đế cùng với Tào học sĩ ngày ngày còn bàn tính sao cho rõ ràng và kỹ lưỡng hơn nữa. Hằng ngày muốn tiêu một món tiền gì Tào học sĩ lại phải đổ một con toán. Trong nhà ông có một cỗ xe lừa cũ kỹ, long càng bể ván nhiều nơi, do một tên nhà bếp đánh xe cho ông. Ngày nào cũng vậy, cứ mỗi phiên chầu sớm trở về thế nào ông cũng cho xe qua chợ, rồi cởi áo bào khoác ngoài, lấy cái giỏ mây trong thùng xe ra, đích thân đi mua rau cỏ đồ ăn thức uống, cùng với bọn buôn thúng bán bưng mặc cả đôi co rầm cả chợ. Nhiều lần hai bên không vừa lòng nhau về giá cả đến nỗi cáu giận, quai mồm ỉa mà chửi bới nhau. Cuối cùng Tào học sĩ không biết làm thế nào, đành phải rút thẻ bài Đại học sĩ từ trong bọc ra làm áp lực, rồi đưa tên bán rau vào nha môn để nhờ xử giùm. Tên bán rau nghe nói ông là Đại học sĩ thì hoảng sợ đến són đái ra quần vội bò sát xuống đất, đập đầu xin tha tội và xin vui lòng tính giá rẻ mạt theo ý ông. Tào học sĩ lúc đó ăn thua hơn kém được một vài cắc bạc, lấy làm đắc ý lắm, vênh vênh váo váo bước đi. Ông thường ra ngoài phô, vào trong các tiệm ăn quán nhậu hỏi giá hết thứ này đến thứ kia; hỏi giá nhưng không phải để vào ăn nhậu, mà là để bẩm báo với hoàng đế. Khi nghe biết được giá cả rồi hoàng đế liền bảo nhà bếp làm ngay các món ăn đó, cho ngài xơi. Chỉ tại rau cỏ trong cung quá đắt, nên ngài hết sức tính toán giảm chi đến mức tối đa. Chiếu lệ thì môi bữa cơm của nhà vua tính trung bình mất tám trăm lạng bạc. Đạo Quang hoàng đế thấy quá tốn, bèn giảm hết những món ăn cao quý, chỉ còn có rau dưa, mỗi bữa chỉ tốn một trăm bốn mươi lạng mà thôi. Nếu ngài muốn ăn thêm một món khoái khẩu nào đó, bất luận món gì cũng đều phải tốn thêm sáu, bảy chục lạng. Muốn ăn một cái hột gà, ngài phải bỏ ra năm lạng bạc mới được.

Có một hôm Đạo Quang hoàng đế ngồi bàn chuyện với Tào Chấn Dung, nhân hỏi Dung ở nhà có ăn hột gà không thì Dung trả lời:

- Hột gà là một món ăn rất bổ… Mỗi buổi sáng thần đều ăn luôn bốn chiếc trụng nước sôi.

Nghe vừa xong câu nói, Hoàng đế giật mình đánh thót một cái, vội nói:

- Hột gà giá mỗi cái năm lạng bạc, mỗi ngày ngươi ăn bốn cái, vị chi là tốn hai chục lạng bạc phải không?

Tào học sĩ vội tâu:

- Trong nhà thần, vốn có nuôi gà mái đẻ. Hột gà mà thần ăn đó đều là hột gà của nhà, chính những con gà mái này đẻ ra cả.

Đạo Quang hoàng đế nghe xong cười nói:

- Nuôi mấy ổ gà mái mẹ kể ra cũng đỡ tốn kém đấy!

Thế là ngày hôm sau, ngài hạ chỉ cho nội vụ phủ phải đi mua gà mái đẻ đem vào cung nuôi lấy trứng cho ngài. Nhưng khi được biết giá mỗi đầu gà phải mua tới hai mươi bốn lạng bạc thì ngài chỉ còn có nước thở dài mà thôi.

Hồi 101

ĐỐT THUỘC PHIỆN CỦA NGƯỜI ANH

Ngày hôm sau, Tào học sĩ lại ra ngoài phố, hỏi thăm giá cả các món trong quán ăn rồi vào cung báo lại cho hoàng đế Đạo Quang.

- Tiệm ăn Phúc Hương ngoài cửa cung có món đậu hũ nấu với gan heo ăn ngon lắm, mà giá lại rẻ.

Đạo Quang hỏi:

- Đậu hũ nấu gan heo? Trẫm chưa từng được ăn? Chẳng biết bao tiền một bát?

Tào học sĩ tâu:

- Mua tại tiệm này thì giá chỉ bốn mươi đồng một bát thôi.

Hoàng đế nghe xong, nhảy lên vì sung sướng, vội nói:

- Trong thiên hạ này mà có thứ rẻ đến thế sao?

Thế là ngài cho gọi Nội giám tới để truyền lệnh cho nhà bếp từ ngày hôm sau đồ ăn gì không cần, mà chỉ cần một chén đậu hũ nấu gan heo là đủ cho một bữa cơm.

Bọn nhà bếp lâu nay vốn rành vì hoàng đế ngài hà tiện quá, chẳng phải nấu nướng gì nhiều. Nay được lệnh ngài, chúng bèn lăng xăng sửa soạn để đi kiếm đậu hũ nấu gan heo cho ngài. Bữa cơm trưa hôm sau, quả nhiên có món đó thật. Đạo Quang đế ăn vào, thấy ngon quá, làm luôn một lèo mười hôm mà vẫn còn thèm. Nội vụ phủ trình lên cho ngài rõ thực đơn với giá cả. Ngài thấy tổng số tiền mua đậu hũ mất hơn hai ngàn lạng bạc, phía dưới còn ghi thêm nhiều món lặt vặt khác. Thì ra cái đơn ấy ghi như sau; mỗi ngày giết một con heo để làm món đậu hũ gan heo tính giá mười lạng, một đấu đậu vàng giá mười lạng, tiền mướn hai anh hàng thịt mổ heo cho nhà bếp tính công hết bốn lạng; tiền mướn bốn thợ làm đậu hũ, mỗi anh mỗi ngày một lạng năm tiền. Ngoài ra, còn phải mua các thứ dụng cụ như dao mổ heo, nồi niêu xoong chảo, bếp lò, cối tán đậu, giàn mổ heo, v.v Cộng tất cả là bốn trăm sáu mươi lạng… Đồ gia vị nào là dầu, mỡ, muối, mắm, dấm, giá cũng lên tới trên một trăm bốn mươi lăm lạng… Như thế suốt một tháng Ngự thiện với món đậu hũ nấu gan heo, kể ra phải chi tất cả là hai ngàn năm trăm hai mươi lăm lạng bạc.

Đạo Quang hoàng đế xem tấm thực đơn tới đâu, đấm xuống bàn thình thình tới đó, miệng càu nhàu:

- Hỏng bét! Hỏng bét!

Lập tức, ngài truyền lệnh gọi viên tổng quản nhà bếp lên, cho một bài học nên thân, rồi bảo:

- Tiệm Phúc Hương phía ngoài cửa cung bán có bốn mươi đồng tiền một bát. Chỉ có một mình trẫm ăn mà tốn hết quá nhiều thế kia ư? Từ nay về sau bỏ cái lối làm ăn này đi. Mỗi ngày chỉ cần bốn mươi đồng tiền, chạy ra ngoài cổng kia mà mua là được rồi, nghe chưa?

Viên tổng quản nhà bếp hồi tấu:

- Theo thể lệ của Tôn tông thì trong cung không được ra ngoài mua các món ăn nấu chín.

Đạo Quang nghe tấu, khoát mạnh ống tay áo một cái tỏ ý vô cùng bực tức nói:

- Thể lệ với chẳng thể lệ, rẻ là được rồi!

Viên tổng quản nhà bếp nghe xong, chẳng dám nói thêm, chỉ còn cách rút êm ra ngõ sau, bắt buộc tiệm ăn Phúc Hương phải đóng cửa. Y lại còn bắt hàng xóm láng giềng của tiệm này phải đảm bảo, lúc đó mới trở về cung tâu với Đạo Quang hoàng đế là tiệm đã nghỉ bán, không còn có chỗ nào để mua món đậu hũ nấu với gan heo nữa.

Qua ngày thứ ba Hoàng đế thèm món đậu hũ quá, bèn sai Tào học sĩ ra ngoài phố xem lại có đúng không, lúc đó ngài mới chịu tin lời viên tổng quản nhà bếp và đành nuốt nước miếng đỡ thèm. Nhưng rồi cũng từ đó, ngài dẹp luôn món đậu hũ này. Bọn nhà bếp lại buồn như chấu cắn. Sau lưng ngài chúng hậm hực bảo nhau:

- Bọn mình thế là khốn nạn rồi. Làm cách nào mà sống đây?

Cách một tháng sau, trong cung cử hành lễ Đại khánh. Hồi này, Đại học sĩ Tràng Linh đã dẹp yên miền Hồi Cương, bắt giải tay đầu đảng là Trương Cách Nhĩ Hạm về kinh đô.

Đạo Quang hoàng đế ngự giá tới cửa Ngọ môn để nhận chiến lợi phẩm. Sau đó, ngài cho lệnh bày tiệc ăn mừng trên núi Vạn Thọ trong Ngọc Lan đường, bảo bọn nhà bếp bầy biện rượu thịt, nhưng lại sợ bọn này thừa dịp chi tiền quá sộp, ngài bèn truyền chỉ phải hết sức tiết kiệm.

Hôm đó mời khách dự tiệc, ngoài Dương oai trưởng quân, Đại học sĩ Thy Dũng Công và Tràng Linh, còn có mười lăm lão thần tức là Ngự tiền đại thần Mục Chương A, Đại học sĩ Thái Luật, Đại học sĩ quân cơ đại thần Tào Chấn Dung, Đại học sĩ Đái Quân Nguyên, Đại học sĩ tổng đốc Lưỡng Giang Tôn Ngọc Đình, Hộ bộ thưởng thủ quân cơ đại thần Hoàng Việt, Lễ bộ thượng thư Mục Khắc Đổng Ngạch, Công bộ thượng thư Sơ Bành Linh, Lý Phiên Viện thượng thư Phú Tuấn, Tả đô ngự sử, Tùng Dương, quận vương hàm Đô thống Cáp Địch Nhĩ, Đô thống A Na Bảo, Đại học sĩ Bá Lân, Trí sĩ Đô thống Mục Khắc Đăng Bố.

Tất cả đám đông này ngồi quây quanh hai thồi. Trên mặt thồi chỉ thấy lơ thơ có vài món ăn rau dưa rẻ tiền. Bọn đại thần ngồi chung quanh thồi, mặt tần ngần, tay chẳng muốn gắp chỉ sợ có một đũa là hết sạch, không còn cho người khác, khó coi lắm!

Đạo Quang hoàng đế ngồi trước mặt, không uống rượu mà cũng chẳng nhắm, chỉ luôn mồm bàn bạc chuyện võ công của tiên triều với bọn đại thần. Lâu về sau ngài lại nói đến thơ, rồi còn giở chuyện câu đối ra nữa. Các ông quan không biết làm thơ, câu đối, đành phải nhờ các quan văn làm thế. Cuối cùng vua tôi bóp óc mãi cũng xong được một bài dài tám mươi vần theo thể cổ phong thất ngôn để kỷ niệm cái ngày vui hôm đó. Ngài còn bảo Đại Quân Nguyên vẽ cảnh quân thần đồng lạc đó thành một bức hoạ. Vua tôi hết chuyện đến thơ, hết thơ đến hoạ, chẳng mấy chốc đã qua mấy giờ liền, rượu cũng chẳng uống, đồ nhậu cũng chẳng nếm. Rồi tiệc tan.

Hồi đó lạnh rét căm gan. Đạo Quang hoàng đế thấy bọn đại thần đều mặc áo da chồn kỵ gió khoác ngoài, ngài hỏi:

- Áo da khoác ngoài kỵ gió của các ngươi phải bao tiền một chiếc?

Cả bọn chả anh nào hồi đáp được, chỉ có mình Tào học sĩ là người duy nhất trả lời được:

- Chiếc áo da khoác ngoài kỵ gió của thần có một lượt, giá chỉ có hai chục lượng bạc.

Đại Quang hoàng đế thở phào một cái, vội khen:

- Rẻ quá! Rẻ quá! Mấy hôm trước, trẫm có một chiếc áo da cáo màu đen, chỉ vì nó rộng quá, và muốn thêm một lớp lót, thế mà khi đưa cho Nội vụ đi sửa, chúng tính những một ngàn lạng bạc kia đấy. Thấy đắt quá, trẫm còn treo đó chưa sửa vội.

Tào học sĩ nghe đoạn, liền tâu:

- Chiếc áo da của thần không lót cả đâu!

Nói đoạn, ông liền cầm vạt áo kéo thếch lên. Mọi người nhìn xem, quả nhiên thấy chiếc áo của ông chỉ có bốn chung quanh mép áo là lót, còn phía giữa, vạt chỉ một lượt đơn mỏng dính.

Đạo Quang hoàng đế cũng nhìn kỹ, rồi buột miệng khen "Tuyệt, và rẻ nữa". Ngài lại còn khen là đẹp, là ấm, cuối cùng ngài gục gặc cái đầu tỏ vẻ chịu lắm và bảo thêm rằng lót hay không lót, kỵ gió hay không kỵ gió, cần gì.

Từ hôm đó, bọn đại thần mặc áo da khoác ngoài đều chẳng anh nào báo anh nào, lột cho bằng hết những tấm lót kỵ gió phía trong. Quan to đã thế thì quan nhỏ cũng phải thế, chẳng mấy chốc nó lan ra như bệnh dịch, người ta chẳng còn thấy cái áo da khoác ngoài nào còn lót nữa.

Đặc biệt có quan tướng quốc Mạc Chương A, bề ngoài ăn mặc đơn bạc, rét run cầm cập, nhưng về nhà thì lại có đến ba thê bốn thiếp. Y còn nuôi thêm một ban nữ nhạc mua vui mỗi khi mời khách chè chén. Đi ngang cổng phủ nhà y, ai lại chẳng nghe những tiếng sênh phách đàn ca. Do đó nhiều vị đại thần thanh liêm chính trực không kết bạn với y.

Phải cái Đạo Quang hoàng đế lại hết sức tín nhiệm y. Ngài thường nói với mọi người rằng y vốn là đại thần cố mệnh của tiên đế, do đó thường nghe lời tâu bầy của y.

Mục tướng quốc vừa khôn lại vừa ngoan. Ở trước mặt hoàng đế y khua môi múa mỏ, tung hứng nịnh hót, khiến ngài "phải lòng" y lúc nào chả biết.

Đạo Quang hoàng đế tuy tín nhiệm Chương A, nhưng Tào học sĩ lại chẳng "khoái" y chút nào. Bởi vậy, hai người thường tranh biện với nhau trước mặt hoàng đế đến nỗi ngài phải ra sức dàn xếp mới ổn thoả được. Mục tướng quốc ngày càng kiêu ngạo, bất luận quan trong quan ngoài nào cũng đều phải tới hiếu kính, nếu không thì dám bị cách tuột chức tước lắm. Do đó trong nhà Mục tướng quốc, thường bọn quan ngoài (quan trấn nhậm ở các tỉnh ngoài kinh đô) thường lui tới chạy chọt, vàng bạc ngọc ngà đem tới nhờ y nhận lo liệu giùm.

Hồi đó có một vị tiến sĩ miền Phúc Kiến tên gọi Lâm Tắc Từ. Từ đã được bổ nhiệm chức Hàng hồ đạo, sau lại làm Giang tô án sát sứ thành Giang Tây tuần phủ.

Lâm Tắc Từ làm quan rất công minh chính trực. Tiếng khen đồn khắp trong ngoài rồi đến tai hoàng đế, thế là Từ được trọng dụng.

Cũng hồi đó thuyền buôn của nước Anh thường chở a phiến tới Trung Quốc để bán. Báo hại người Tầu suốt dọc bờ biền tỉnh Quảng Đông hút phải, thân hình tiều tuỵ, chỉ còn bộ xương bọc da, trông chẳng khác gì quỷ ốm.

Lâm Tắc Từ dâng sớ tâu:

- Nếu không cấm a phiến ắt nước ngày càng suy dân càng ngày càng yếu. Vài chục năm cả nước lẫn dân đều tiêu vong.

Đạo Quang hoàng đế xem xong tờ sớ, rất quan tâm, bèn thăng nhiệm ông làm tổng đốc Lưỡng Quảng, về kinh ấp để bệ kiến. Từ vào chầu, đề đạt rất nhiều kế sách và biện pháp cấm thuốc phiện. Hoàng đế càng lấy làm đắc ý, liền phong luôn cho ông chức "Khâm sai đại thần quan phòng kiểm tra bờ biển Quảng Đông hải khẩu sự vụ, tiết chế Quảng Đông thuỷ sư".

Thế là Lâm Tắc Từ vận bỗng phát nhanh không tưởng tượng nổi. Điều này không đẹp ý Mục Chương A. Đã thế Từ khi lên kinh lại không có "chè lá" cho A nên A càng hậm hực bực tức.

Lâm Tắc Từ đáo nhậm Quảng Đông, tức thì thẳng tay hành động. Ông bắt bọn lái buôn trên thuyền buôn Anh phải trình xuất hai mươi ngàn ba trăm tám mươi thùng thuốc phiện, rồi phóng một mồi lửa đốt cháy rụi.

Người Anh giận lắm, lập tức điều động tàu binh đánh phá miền duyên hải Phúc Kiến, Chiết Giang. Mục tướng quốc nhờ cơ hội này gièm pha họ Lâm tự tung tự tác, làm hỏng việc nước.

A ngầm sai người tới tư thông với người Anh, xúi họ đem tàu binh tiến đánh Quảng Đông. Mặt khác, A còn bảo bọn quan lại tỉnh Quảng Đông về kinh cáo mật.

Có một tên ngự sử người Mãn gọi là Y Thiện, nghe lời xúi của Mục tướng quốc bèn hùng hùng hổ hổ dâng một tờ sớ đàn hặc Lâm Tắc Từ. Mục tướng quốc ở bên cạnh lại đánh trống hoạ vào, khiến Đạo Quang hoàng đế mờ luôn cả đôi mắt.

Ngài hạ một đạo ý chỉ, cách tuột chức tước Lâm Tắc Từ rồi cắt cử Y Thiện đi nhậm chức tổng đốc Lưỡng Quảng.

Y Thiện vừa đáo nhiệm, tức thì giảng hoà với nước Anh ngay, bồi thường bảy triệu, mở toang cửa Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Kiến, Ninh Ba, Thượng Hải để cho bọn ngoại quốc dùng làm tô giới. Nhưng người Anh đâu có chịu thôi. Họ đòi bắt Lâm Tắc Từ để trị tội. Mục Chương A đưa ra một ý, thay hoàng đế hạ một đạo thánh chỉ tống Lâm Tắc Từ sang mãi Tân Cương sung quân.

Việc này khiến một vị đại học sĩ nổi giận. Vị này tên gọi Vương Đĩnh, Đĩnh thấy Từ là một vị đại trung thần, bỗng dưng chịu cảnh oan ức, đã có đôi lời cãi lý với Mục tướng quốc ngay tại triều đình. Nhưng Đĩnh muốn nói thì cứ nói, A vẫn làm thinh, không nghe. Có một hôm, Đĩnh với A đều được vời vào trong thư phòng để bệ kiến. Vừa thấy mặt A, Đĩnh vụt cả giận, lớn tiếng quát hỏi:

- Lâm Tắc Từ vốn là một vị đại trung thần. Tại sao người lại cố tình dối hoàng đế để buộc y phải sung quân đi Tân Cương? Ngươi chỉ là một tên gian thần đại gian đại ác, thế mà ngươi còn dám làm quan lớn tại triều ư? Ngươi đúng là tên Tần Cối triều Tống. Nghiêm Tung triều Minh. Rồi đây thiên hạ sinh linh thế nào cũng bị ngươi hại hết!

Mục Chương A nghe xong, bất giác biến sắc mặt. Đạo Quang hoàng đế thấy tình hình quá căng thẳng giữa hai người, liền gọi thái giám đưa Vương Đĩnh khỏi cung rồi nói:

- Vương học sĩ say rồi!

Đĩnh bò mọp xuống đất dập đầu xin ngỏ lời, nhưng Đạo Quang hoàng đế đã phất mạnh ống tay áo, quay gót vào cung.

Vương Đĩnh trở về nhà càng nghĩ càng tức. Suốt đêm đó Đĩnh thức đỏ mắt viết sớ dâng tên, nói Mục Chương A dối vua như thế nào, Lâm Tắc Từ chịu oan như thế nào, viết luôn một hơi năm ngàn chữ. Rồi Đĩnh cho người đem sớ vào triều, lặng lẽ quay về phòng thắt cổ chết.

Qua ngày hôm sau, con trai Vương Đĩnh phát giác bố mình đã chết, vừa thương, vừa sợ. Chiếu theo lệ thì khi có một vị đại thần tự vận, hoàng đế phải tới khám nghiệm qua rồi mới cho liệm, nhập quan an táng. Nhưng Mục Chương A tai mắt quá nhiều. Y được tin này, lập tức sai một tên môn khách tới nhà họ Vương xin cho xem tờ sớ. Vương công tử vốn người thành thật, liền đem tờ sớ đưa cho tên môn khách.

Hồi 102

MÁU GHEN ĐÂU CÓ LẠ ĐỜI

Người môn khách của Mục Chương A thấy trong tập tấu chương của Vương Đĩnh đầy lời tham tấu tướng quốc của y, bèn giữ ngay lấy, đánh lừa Vương công tử mà bảo Tôn đại nhân chẳng may qua đời. Đông ông tôi rất lấy làm thương cảm. Đông ông tôi đã định vào tâu với hoàng thượng thay thế Tôn đại nhân cầu xin chút tiền tử tuất. Nếu đưa tờ sớ này lên, vừa hỏng hết tình nghĩa đồng liêu với nhau, vừa mất số tiền tử tuất, nửa đồng cũng không được nữa.

Vương công tử vừa nghe nói tới tiền, tức thì đem huỷ tờ sớ của cha rồi thay vào một tờ sớ khác nói cha mình bị cấp bệnh mà chết. Tất nhiên Mục tướng quốc thế Vương Đĩnh xin được năm ngàn lạng bạc tiền tử tuất, ngoải ra còn ngầm đưa cho Vương công tử một vạn lạng bạc nữa. Thế là xong! Cái mạng của một vị đại thần trung liệt chỉ vẻn vẹn bằng vạn lạng bạc mà thôi.

Ngày lễ Vạn Thọ của thái hậu đã tới. Trước đó mấy hôm viên lễ bộ thượng thư đã tâu xin sửa soạn đại điển, Đạo Quang hoàng đế chi sợ tốn tiền bèn hạ chỉ:

"Đấng thiên tử được dân nuôi dưỡng chỉ mong sao cho quốc thái dân ai cũng đã đủ lễ di dương tính tình rồi. Hoàng thái hậu vì chính sách dè sẻn có dạy: Trong cuộc lễ Vạn Thọ chớ nên phô trương xa xỉ mà trái với ý của thái hậu. Tất cả quan viên lớn nhỏ chỉ nên vào cung hành lễ, như thế đủ đế tỏ lòng hiếu lệnh rồi. Tất cả mọi việc xa hoa tôn phí đều trái với lời di huân của tổ tông xưa. Khâm thứ!".

Tờ thánh chỉ vừa hạ xuống, bọn quan viên hiểu ngay rằng đó là ý muốn tiết kiệm đồng tiền của hoàng đế. Tức thì họ cử Mục tướng quốc cầm đầu vào tâu rõ với ngài là chẳng cần phải chi ra một đồng kẽm, nào, cứ để mặc thần dân lo liệu tất cả, mong tỏ lòng hiếu kính thái hậu.

Hoàng đế nghe xong lời tâu này tự thấy hợp ý mình lắm. Thế là ngài hạ ngay một đạo dụ, truyền thiết lập cấp kỳ một ban lo liệu cho đại lễ Vạn Thọ này, cho Mục Chương A điều hành.

Được dịp tốt Mục tướng quốc lợi dụng ngay danh nghĩa, sai người đi về nha môn lớn nhỏ ở các tỉnh để gõ tiền hiếu kính. Anh quan nhỏ ít ra cũng phải một trăm lạng bạc trở lên. Còn tổng đốc thì từ ba mươi vạn đến năm mươi vạn lạng mới thôi. Nhờ xoay tiền cách đó, Mục tướng quốc chẳng mấy hôm đã có trong tay mười triệu lạng.

Đến ngày đại lễ, các quan viên lớn nhỏ ai cũng đều phải đem theo gia quyến thuộc vào cung Từ Ninh để lạy chúc Thái hậu. Hoàng thái hậu tự mình phải bỏ tiền ra dọn một bữa mì đãi thưởng cho quyến thuộc của các quan. Bữa tiệc mì đó dọn tại điện Bảo Hoà. Ăn mì xong, Mục tướng quốc cho gọi ban nữ nhạc của mình vào để múa hát đóng tuồng ngay tại cung Từ Ninh. Những màn ca vũ hay tuồng đều là những bài ca chúc tụng tất lành.

Đạo Quang hoàng đế nhìn thấy bọn hát, đứa nào cũng đẹp cũng ròn, tiếng hát lại hay điệu múa lại đẹp, còn cách phục sức thì hết sức lộng lẫy, bỗng ngài đâm ra ngứa ngáy khó chịu…

Hồi còn nhỏ, ngài cũng tập đóng trò, hát tuồng, múa may. Bởi thế, nhân được dịp may hiếm có, ngài nhảy phóc lên sân khấu đóng ngay vai tuồng Lão lai tử trong Nhị thập tứ hiếu, cũng múa hát ra trò. Hoàng thượng đã đóng vai Lão lai tử, thử hỏi còn kẻ nào dám đóng vai Lão lai? Bởi thế ngài đóng một mình một màn, hát chán chê rồi lại múa. Hoàng thái hậu thấy thế lấy làm vui thích, bèn truyền đem đồ thưởng. Tức thì đám cung nữ bưng mâm hoa quả bước lên sân khấu, nhất tề cất tiếng nói:

- Hoàng thái hậu thưởng hoa quả cho Lão lai tử đây!

Đạo Quang hoàng đế đứng trên sân khấu cúng quỳ xuống lãnh thưởng và tạ ơn, rồi bước xuống. Bọn thân vương, bối lặc cúng đều cảm thấy khoái trá và ngứa ngáy. Suốt năm, họ ở nhà chẳng có chuyện gì làm, ca hát múa may lả sở thích duy nhất cho nên anh nào cũng tập dượt, đều vào bậc khá cả: Thế là chẳng anh nào bảo anh nào, họ nhảy phóc cả lên sân khấu, diễn nào tuồng Quan Vân Trường gói ấn treo vàng, nào tuồng Nghiêu Thuẫn nhường ngôi. Tuồng này hết, tiếp tuồng kia. Trên sân khấu diễn đã say sưa mà phía dưới xem cũng mê mải.

Giữa lúc ấy thì Đạo Quang hoàng đế chẳng biết đã trốn vào chỗ nào mất dạng. Thì ra lúc ngài lên sân khấu diễn tuồng, Mục Chương A đã sai một cô đào nhất tên gọi Hoa Nhị Hương hầu hạ, giúp ngài đội mũ đi hia. Hoa Nhị Nương là một đào hát đẹp có tiếng. Khi hoàng đế lui vào hậu trường, Hoa Nhị Hương cũng theo vào giúp ngài cởi mũ, thay áo. Nơi hậu trường vắng lặng, trừ hoàng đế và Nhị Hương ra, chẳng còn ai khác. Hương cởi chiếc áo hồng, khoác cho ngài áo cẩm bào. Hương lại giúp Ngài rửa mặt, chải lại bộ đuôi sam.

Hương pha một chén trà thơm, đem dâng tận tay hoàng đế, Hương bước những bước nhè nhẹ trong phòng, trước mặt ngài. Cặp mắt của hoàng đế cứ như cắm vào đôi gót ngọc của Hương. Cặp chân Hương vừa nhỏ vừa xinh. Hương càng bước thân hình càng lả lướt thướt tha. Hương bước gần lại. Hoàng đế chịu không nổi nữa, vươn tay kéo nàng ngồi xuống bên cạnh ngài, rồi những tiếng thì thào, khúc khích càng làm tăng vẻ bí hiểm của căn phòng đã từ nãy không kẻ nào dám lảng vảng tới gần.

Bên ngoài, màn tuồng càng ngày càng nhộn, càng vui. Bên trong hai người cũng chẳng kém phần thú vị. Đến lúc này thì đức hoàng đế ngài đã thấy khó lòng xa được Nhị Hương, mà Nhị Hương cũng đã đến lúc xin nguyện bước vào cung để hầu hạ hoàng đế.

Đạo Quang bèn cho gọi Mục tướng quốc vào mật thất, nói cho biết ý mình. Mục Chương A hết lời vâng thuận. Ngài bèn cởi ngay chuỗi hạt châu đang đeo trên cổ thưởng cho y. Mục Chương A vội quỳ xuống tạ ơn, rồi quay mình bước ra, đút vội chuỗi hạt châu vào tay áo. Việc mua bán đã xong. Hoàng đế lén đưa Nhị Hương vào cung và triệu hạnh ngay tại cung Nhị Châu. Luôn một lèo sáu đêm, Hoàng đế chẳng thèm cần đến một nàng phi nào khác.

Cả đám phi tần không ai được hoàng đế triệu hạnh, đều thắc mắc nghi ngờ. Dò la mãi, họ mới biết hoàng thượng có người mới nên đã quên bẵng đi cả đám. Nhưng biết làm sao bây giờ, họ chỉ đành lén thốt lời oán hận mà thôi. Trong số phi, có một nàng tên gọi Lan Tần. Nàng vốn là một người đẹp, đẹp hơn hết trong đám và cũng là người vốn được hoàng đế sủng ái. Nàng biết ngài đã mê người khác, máu ghen đâu bỗng sôi lên sùng sục. Nàng vừa ghen lại vừa tức, liền bỏ ra một số tiền đút cho bọn thái giám để thực hiện kế hoạch của mình.

Đêm đó, hoàng đế cho bọn thái giám khiêng kiệu tới cung Nguyệt Hoa. Tại sao vậy? Vì Hoa Nhị Hương lúc đó được phong làm phi tử và ở tại cung đó. Bọn thái giám khiêng kiệu đã được tiền đút của Lan Tần, bèn giả đò lạc đường, khiêng trật kiệu sang cung Chung Tuý, vốn là nơi ở của Lan Tần.

Nàng thấy hoàng đế lâm hạnh, vội chạy ra đón giá. Đạo Quang hoàng đế nhìn thấy Lan Tần, biết mình đã bị lạc đường. Tuy nhiên, Lan Tần cũng là người được ngài sủng ái, đã lầm ngài cho lầm luôn, ở lại quách.

Ngờ đâu Lan Tần ỷ mình được yêu nên sinh kiêu. Nàng thấy hoàng đế tới, đã không nén giận làm lành, lại còn chẩu cái mồm ra càu nhàu, trách ngài quên nàng, đã sáu, bảy hôm không triệu hạnh.

Lúc đầu, Đạo Quang hoàng đế không giận tức gì, nhưng về sau thấy nàng cứ cắn cảu mãi, ngài đâm bực. Lan Tần lại chẳng chịu pha trà rót nước mời ngài, chỉ ngồi bên đay nghiến mãi. Đến lúc này thì ngài thấy cụt hứng quá, bèn chỉ cúi đầu xem những tờ sớ của bọn thần tử mà ngài mang theo. Suốt từ giờ Dậu đến giờ Hợi, Lan Tần cũng để mặc, chẳng thèm hầu hạ nâng niu ngài. Giữa lúc hoàng đế đang xem tới tờ sớ rất quan trọng của tổng đốc Lưỡng Quảng nói về những giáo đồ làm loạn, thì Lan Tần ngồi bên bỗng đứng phắt dậy, giật mạnh tờ sớ trong tay ngài. Hoàng đế định cướp lại thì mấy tiếng "xoạc xoạc" vang lên như xé lụa, tờ sớ nọ bị rách làm tư, làm tám mảnh rớt xuống tả tơi mất rồi. Đã thế nàng còn lấy hai bàn chân dẫm đi xéo lại mãi, tỏ ý căm hờn đến tột độ. Đạo Quang hoàng đế chịu không nổi, cả giận, không thèm nói một lời, hầm hầm bước ra. Ngài nhay lên kiệu đến thư phòng, triệu hạnh Nhị Hương như lệ thường. Đồng thời ngài hạ lệnh truyền tên thị vệ trực họ Vương tới, đưa hắn con dao, bắt tên nội giám đưa đường, tới cung Chung Tuý, cắt lấy đầu nàng Lan Tần. Tên thị vệ họ Vương nghe xong, vừa sợ vừa lấy làm lạ. Song đó là lệnh vua làm sao dám trái, hắn đành cầm dao theo viên thái giám đến cung Chung Tuý.

Trong cung nàng Lan Tần thấy hoàng đế bỏ đi rồi, chỉ còn biết ôm mặt khóc, đến khi nghe tên nội giám truyền lại chỉ ý của hoàng đế, thì nàng mới giật nẩy mình, hồn phách như lên tận mây xanh. Nàng đau đớn quá, oà lên khóc, mỗi lúc một lớn… Bọn cung nữ trong cung, giật mình thức giấc, chạy vội tới xem. Tên thái giám giục nàng trang điểm mau lẹ. Mấy cung nữ bèn giúp nàng rửa mặt chải đầu, thay áo mới, vực nàng dập đầu tạ ân. Lan Tần nước mắt đổ xuống như mưa.

Mọi việc coi như sửa soạn đã xong. Tên thị vệ họ Vương bước tới, giơ cao con dao nhọn sắc, nhè cổ nàng chém một nhát nghe ngọt xớt. Máu vọt lên có vòi. Tay hắn xách lấy cái đầu, vội vã bước ra khỏi cung.

Từ đó về sau, Nhị Hương ngày càng được hoàng đế triệu hạnh, chẳng còn kẻ nào dám thở ra một lời oán hận nữa, sợ rằng tai bay vạ gió sẽ tới cấp kỳ. Nhưng việc này cũng đã chạm tới máu giận của bà Đạo Quang hoàng hậu.

Đạo Quang hoàng hậu vốn mười phần xinh đẹp. Khi hoàng đế đưa bà lên ngôi thì tình nghĩa vợ chồng quả hết sức mặn nồng. Hoàng hậu chẳng những được người, còn hay cả ở nết. Bà luôn đàng hoàng, nghiêm chỉnh trong mọi việc. Hoàng đế vì yêu nên cưng, rồi cũng vì cưng nên sợ. Cứ mỗi lần gặp bà là mỗi lần ngài sợ. Và cũng vì sợ nên ngài đâm lạnh nhạt dần, có khi cả năm không lui tới gặp vợ, và làm những chuyện gì ở đâu đâu ngài cũng luôn phải tìm cách che mắt bà.

Hoàng hậu thấy chồng bỏ bê mình song lại thường cùng với bọn phi tần quây quần trò chuyện, khỏi sao chẳng ghen tức. Chỉ vì mang danh hoàng hậu, không lẽ bà lại bắt ghen để rồi gây chuyện om sòm. Nhất cử nhất động của chồng ở bên ngoài, bà ngầm cho người điều tra và biết rõ hết cả, nay nhân việc hoàng đế vì yêu Nhị Hương giết phi tần, bà bèn đích thân xuất cung gặp ngài, tha thiết khuyên can. Bà nói:

- Bệ hạ nên lấy việc nước làm trọng, chớ say mê sắc dục mà hỏng mất đại sự của quốc gia. Bệ hạ chớ nên chém giết bừa bãi trong cung, trái với hoà khí của trời đất.

Mấy lời khuyên này thực hết sức chính đáng, lại đàng hoàng nữa, hoàng đế vốn từ xưa đã có lòng e ngại hoàng đế vì hoàng hậu đến lúc này cái gì ngài cũng ừ cũng gật cả chỉ khuyên bà hãy yên tâm trở về cung.

Nói thì nói vậy, chứ ngài đã quá si mê Nhị Hương, làm sao mà bỏ được nàng mau lẹ thế, cho nên khi hoàng hậu vừa quay lưng đi thì lập tức ngài truyền lệnh gọi ngay Nhị Hương tới hầu hạ rồi. Và trong đêm thâu, lại cũng chỉ có Nhị Hương là được ngài triệu hạnh mà thôi.

Liền tù tì ba đêm hai người chẳng khác gì keo sơn, cứ dính chặt lấy nhau chẳng chịu rời. Lúc này chính Nhị Hương lên tiếng khuyên hoàng đế:

- Bệ hạ sủng ái tiện thiếp như thế làm sao tránh được lòng ghen ghét của hoàng hậu. Nếu bệ hạ thực lòng yêu và bảo toàn cho tiện thiếp thì xin hãy trở về cung hoàng hậu một phen đi.

Đạo Quang hoàng, đế nghe lời nàng. Đêm hôm đó, ngài trở về cung của hoàng hậu thật. Nhưng có ngờ đâu ngài vừa đi là y như xảy ra tai vạ tức thì…

Hồi 103

TÌNH LÀ DÂY OAN

Đạo Quang hoàng hậu đã có lần khuyên can Hoàng đế chớ đam mê sắc dục. Nhưng tính nào tật ấy, ngài vẫn mê đắm Nhị Hương như cũ, Bà tức bực lắm, liền trù mưu định kế để ngài thấy cái oai quyền ghê gớm của bà, để rồi nhờ đó có thể chế phục ngài.

Đêm đó. Đạo Quang hoàng để tới cung hoàng hậu đúng lúc bà đang đầy lòng oán hận. Rồi chẳng hiểu tại sao lời qua tiếng lại, hai người đâm ra cãi nhau kịch liệt.

Lúc đó, có một viên quan thị vệ người Mãn họ Ân, đang trực tại Kiều Thanh môn. Đêm đã khuya, trời lại lạnh mà Ân là công tử con nhà giàu có, không chịu nổi cực khổ nên xuống nhà dưới đốt lửa sưởi, và hâm rượu làm vài chén cho ấm lòng. Một tên thái giám cùng trực đêm, mò tới tán láo cho đớ buồn.

Hai người vừa uống rượu vừa trò chuyện, trước thì còn chuyện nhà chuyện cửa khai ra, về sau chuyện giết Lan Tần trong cung Chung Tuý đêm trước cũng được nhắc tới.

Tên thái giám hỏi họ Ân:

- Cậu có dám giết người không?

Anh chàng họ Ân cười đáp:

- Mật của tớ bao lớn mà dám? Ngay cả chuyện giết một con gà mà tớ còn run nữa là!

Tên thái giám hỏi:

- Ví thử đêm đó, chuyện xảy ra với cậu thì cậu tính sao?

Anh chàng họ Ân đáp:

- Đó chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên mà thôi. Trong cung làm gì có chuyện giết người mãi?

Rồi ân hỏi thêm:

- Thế đêm đó ai phải trực?

Tên thái giám đáp:

- Vương thị vệ!

Họ Ân lại hỏi:

- Có phải anh chàng họ Vương người nhỏ thó mà mặt xanh ngắt ấy không?

Tên thái giám gật đầu. Anh chàng họ Ân liền giải thích:

- Hắn là tay võ bảng xuất thân, sao không giết người được? Còn tớ thì công danh là do các cụ tổ xưa truyền lại, chưa từng phải động thủ bao giờ.

Câu nói còn chưa xong thì một tên thái giám chợt đâu xô cửa bước vào, mặt có vẻ hoảng hất bảo chàng họ Ân:

- Hoàng hậu có chỉ, tuyên triệu thị vệ vào cung ngay!

Anh chàng họ Ân giật mình, chiếc mũ đội đầu lệch hẳn sang bên, dù chưa biết chuyện gì xảy ra. Hắn vội hỏi tên thái giám:

- Cậu có biết chuyện gì không?

Tên thái giám lắc đầu đáp:

- Làm sao mà biết được? Nhưng xem chừng chuyện này có lẽ chẳng tốt đẹp gì lắm đâu!

Họ Ân nói giọng lo lắng:

- Sợ lại có chuyện như bọn tớ vừa mới nói tới!

Miệng vừa nói, chân vừa bước, chàng thị vệ họ Ân theo tên thái giám ra đi. Qua hết cửa cung này tới cửa cung khác, hai người chỉ thấy tứ bề vắng lặng, đượm vẻ lạnh leo và ghê rợn. Xa xa, tiếng chuông trên lầu canh đơn độc dội vào thinh không.

Khi tới gần phòng ngủ của hoàng hậu, họ Ân dừng chân lại bên ngoài để tên thái giám chạy vào trong phục mạng. Đứng một mình, anh chàng họ Ân cảm thấy như đang lên cơn sốt, tứ chi run lên lẩy bẩy, lông tóc như dựng ngược cả lên.

Vài tên thái giám khác từ phía sau chạy tới đứng dưới hàng hiên, tên nào cũng mặt lạnh như tiền, mắt trừng trừng, miệng chẳng nói chẳng rằng. Một lát sau, một cung nữ khoát rộng tấm màn hỏi nhỏ Ân:

- Ai là thị vệ của Kiều Thanh môn?

Anh chàng họ Ân bước tới, miệng đáp:

- Tôi đây!

Người cung nữ nhìn chàng rồi giơ tay ngoắt lại. Họ An tới lúc này thì hốt hoảng đến cực độ rồi. Theo luật triều thì thị vệ ngoài cửa lớn không được phép vào cung, thế mà nay, Ân lại bị gọi vào tận phòng ngủ của hoàng hậu thì làm sao mà chẳng sợ hãi được. Ân theo sát gót người cung nữ bước vào chỉ thấy đèn đuốc sáng choang, khắp nhà đều có lồng kính, khiến ánh đèn phản chiếu càng thêm rực rỡ, hoa cả mắt.

Hoàng hậu lúc đó chỉ còn bận một cái áo ngắn tay da lông chồn, ngồi trên chiếc giường lớn trải toàn nệm gấm. Hoàng đế cũng đang có mặt tại đây. Ngài cũng chỉ mặc một cái áo thường, ngồi trên một chiếc ghế gọi là An Lạc ỷ bọc vải đoạn vàng thêu bằng chỉ gấm.

Chàng thị vệ họ Ân bỏ mũ ra, bò mọp xuống đất, dập đầu tâu xin:

- Hoàng thượng và hoàng hậu thánh an…

Làm lễ đã xong nhưng chàng vẫn cứ quỳ dưới đất căn phòng yên lặng như tờ, chẳng một tiếng động, mà cũng chẳng ai nói một lời. Bỗng thị vệ họ Ân thấy hai cung nữ lôi một người con gái rất đẹp từ sau giường ra, trông có vẻ như một phi tần. Thật đáng thương cho nàng, chỉ mặc có một cái áo mỏng, run lên bần bật, chiếc cổ phấn mịn của nàng máu tươi nhỏ giọt. Nàng vừa khóc vừa bò sát trên mặt đất dập đầu liền liền.

Hoàng hậu nhìn nàng không ngớt cười nhạt. Bà nói:

- Chà! Người đẹp, đẹp lắm! Nhưng cũng quỷ yêu lắm! Mi lừa dối hoàng thượng, giết chết Lan Tần, lần này mi định giết cả ta nữa.

Nói đoạn bà quay lại nói với hoàng đế:

- Bệ hạ không còn tới cung của thiếp nghĩa là không còn tình nghĩa vợ chồng gì nữa, điều đó đối với thiếp cũng chẳng có sao. Nhưng khi ra ngoài, thiếp tưởng bệ hạ cũng nên giữ gìn mới phải chứ! Bệ hạ nghĩ thế nào mà bất cứ những thứ hôi tanh dơ dáy đâu đâu cũng mang về nằm với chúng, bất luận yêu tinh hồ ly nào cũng phong cho làm phi tử, hỏi thiếp làm hoàng hậu còn mặt mũi nào nữa để nhìn ngó thiên hạ? Bệ hạ đừng tưởng mình làm gì ở bên ngoài mà thiếp không biết đâu. Bệ hạ nằm với con yêu này ngày nào, đêm nào thiếp đều ghi cả đây. Này nhé nhé, bốn đêm nằm ở Kinh sự phòng, có đúng không? Ba đêm ngủ ở Ngọ bị sở, có phải không? Bốn đêm nằm ở Lục âm xứ và bốn đêm nữa ngủ ở Ngự thư phòng, đúng thật cả không? Bệ hạ ngủ với con yêu này, thôi cũng xong đi, nhưng tại sao lại giết Lan Tần, tại sao lại quên hết cả bọn phi tần, chẳng thèm triệu hạnh một đứa nào?

Càng nói, hoàng hậu càng tức giận. Rồi bà giơ thẳng cánh đập xuống bàn đánh thình một cái. Đạo Quang hoàng đế ngồi trong chiếc ghế bành, cúi đầu xuống, chẳng dám hé môi. Bỗng hoàng hậu cất tiếng gọi thị vệ họ Ân:

- Ngươi có dám giết người không?

Họ Ân đang quỳ bên, nghe câu hỏi đó, liền tự nhủ mình vốn con nhà thi thư, suốt ngày cặm cụi với sách đèn làm sao mà "dám" được. Chàng vừa định đáp lời hoàng hậu nhưng lại nhớ tới cái chức võ quan hiện đang giữ thì sao dám nói mình không dám. Thế là bèn vội quỳ xuống dập đầu đáp gọn:

- Dám ạ!

Hoàng hậu gật đầu khen:

- Tốt lắm!

Vừa nói xong hai tiếng đó, bà đã lấy tay chỉ người con gái quỳ dưới đất bảo mau kéo nàng ra, đem giết. Anh chàng thị vệ họ Ân giật nảy mình, hồn phách như bay bổng lên mây.

Người con gái nọ cũng bạt vía bay hồn, mặt mày xám ngoét hẳn lại. Nàng chỉ còn biết dập đầu liền liền trên mặt đất đề xin tha. Họ Ân thấy vậy, lòng cũng se lại dập đầu tâu:

- Người con gái này tội đáng chết. Song cung cấm không phải là nơi giết người, cầu xin hoàng hậu giao người con gái này cho nô tài đưa ra nội vụ thẩm vấn định tội.

Không ngờ khi nghe xong, hoàng hậu lại càng tức giận.

Bà vỗ bàn đập ghế quát:

- Mi nói gì vậy hả? Mi là ai mà dám kháng chỉ? Mi có giao tình với con yêu tinh này phải không? Còn nói nữa, cả mi ta cũng chém luôn đấy, nghe chưa? Mi bảo cấm cung không phải là nơi giết người, thế tại sao Lan Tần lại bị Vương thị vệ giết chết? Đừng tưởng chỉ có hoàng thượng còn ta đây không giết được người. Huống hồ con yêu này lại không phải là phi tần cung nữ gì, thị vốn chỉ là con đào hát dâm tiện của nhà Mục Chương A. Chỉ có Hoàng đế của tụi mi bất thành nhân cách, mang vào cung, nên thị mới tác yêu tác quái được. Nay ta bảo mi giết thì phải giết ngay. Cái đồ khốn nạn ấy giao cho nội vụ thẩm vấn để làm gì chứ?

Thị vệ họ Ân nghe một hơi như vậy, biết không còn cách gì nữa, đành kéo người con gái đi ra.

Đáng thương cho Nhị Hương, khóc đến sưng mắt, máu lệ thấm ướt cùng mình. Nàng nắm chặt lấy chéo áo của thị vệ Ân xin cứu mạng cho mình. Chàng họ Ân lúc đó đành dùng cả hai tay nắm chặt lấy cánh tay nàng lôi mãi mới ra khỏi được tẩm cung.

Trong khuôn viên, ánh trăng mờ in bóng hai người trên thảm cỏ. Nhị Hương quỳ xuống đất dập đầu vừa khóc, vừa xin tha mạng. Nhưng đến lúc này, chàng thị vệ họ Ân đã rơi vào thế không làm không được. Chàng nhắm nghiền đôi mắt, cắn chặt hai hàm răng, một tay tuốt cây bội đao, một tay nắm chặt lấy lọn tóc Nhị Hương, rồi cứ nhè cổ nàng mà chém mãi.

Lúc đầu, còn nghe tiếng nàng kêu la inh ỏi sau không thấy gì nữa, chàng họ Ân mới dám mở mắt ra. Đầu Nhị Hương chưa đứt hẳn mà vẫn còn lủng lẳng trước ngực. Ân bèn đem hết sức bình sinh cắt mạnh một nhát. Tay cầm đầu Nhị Hương mà hồn Ân ở mãi tận đâu đâu. Ân cúi xuống nhìn thi thể người con gái nằm sõng sượt dưới chân rồi nhìn quanh, thấy không có bóng ai, bèn quỳ xuống đất, hướng về thây ma, vừa lạy vừa lẩm bẩm khấn khứa:

- Tiểu tử xin cầu khẩn cho hương hồn nàng mau lên trên thiên giới. Nàng đừng oán hận tiểu tử đã nhẫn tâm giết hại nàng. Đấy là do hoàng hậu bức bách, tiểu tử bất đắc dĩ phải làm điều ác, không còn cách nào khác đó thôi. Chỉ xin nàng nhận cho tiểu tử này mấy lạy để tỏ lòng Ân hận.

Khấn xong, vừa lúc một tên tiểu thái giám xuất hiện, giục Ân trở về phục chỉ. Ân vội xách chiếc đầu trở về cung. Hoàng đế nhìn cái đầu cũng lệ nhỏ như tuôn. Hoàng hậu cho phép Ân lui ra, lúc đó Ân mới dám thở phào.

Anh chàng thị vệ họ Ân về tới cửa Kiều Thanh môn, vừa lúc ban thị vệ trực đổi phiên. Họ Ân liền chạy vội ra cửa Kiều Thanh, thấy bọn thị vệ đang nhắm rượu với đĩa thịt luộc sau khi tế bà chúa Vạn Lịch má má.

Vạn Lịch má má là ai mà lại có đền thờ? Đó chính là bà thái hậu Vạn Lịch nhà Minh. Người ta kể lại rằng dưới triều Minh, niên hiệu Vạn Lịch, Thanh thái tổ đem quân đánh phủ Ninh bị quân Minh bắt được, giam trong lao phủ. Quân Thanh vội đưa mười vạn dạng bạc đút lót cho một viên thái giám để hắn cầu khẩn Vạn Lịch thái hậu xin Vạn Lịch hoàng đế thả Thanh thái tổ về nước. Từ đó nhà Thanh hết sức cảm kích ân đức của bà và nghĩ tới ân đức xưa, bèn xây một cái miếu ba gian ngay tại góc đông bắc Tử Cấm thành, trong đặt bài vị Vạn Lịch thái hậu. Người trong cung ai cũng gọi bà là Vạn Lịch má má.

Theo lệnh của Thanh thái tổ truyền lại thì mỗi năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, trong cung đều phải đem mỗi ngày hai con heo đến tế lễ tại đây. Người trông coi miếu là một bà già. Hằng ngày cứ vào lúc giờ Dậu hai khắc, bà già này lại đánh một chiếc xe không ra ngoài thành. Rồi ba khắc đồng hồ sau, bà ta đánh xe về, trên chở hai con heo, tới cửa Đông Hoa môn, chờ khi mở cửa, cho xe thủng thẳng đi vào, trên xe không treo đèn, chỉ có lớp vải xanh vây chung quanh. Một viên quan lễ bộ giơ cao ngọn đèn hình tròn làm bằng lụa theo chiếc xe cùng vào. Tiếp đó còn có các bộ viện, nha môn, các viên quan đệ tấn, cùng các viên quan tập biền ở các tỉnh bước theo để vào triều phòng (căn phòng dành cho các quan đợi giờ vào chầu vua trong cung).

Theo quy lệ của cung Thanh thì trong Tử Cấm thành không được thắp đèn. Chi có tấn sự quan, giảng quan được dùng đèn và ở Nam Thư phòng được đốt đèn mà thôi. Các quan muốn vào triệu bệ kiến đều phải đứng đợi ngoài cửa Đông Hoa môn. Khi thấy một chiếc đèn cầm tới, tức thì họ ráp thành một cái đuôi dài, lũ lượt tiến vào Tử Cấm thành.

Bà già nọ đánh xe heo, sau khi qua khỏi Đông Hoa môn, bèn dọc theo bức tường tiến về ngả đông bắc, dừng lại ở trước cửa miếu Vạn Lịch má má. Rồi từ phía trong có người bước ra, giúp bà già làm thịt heo, cạo lông rửa sạch, bắc nồi luộc chín. Heo đem tế Vạn Lịch má má rồi cắt thành những miếng lớn, đưa tới cho bọn thị vệ đánh chén. Còn nước xáo thì đựng trong mấy cái tô lớn. Khi đánh chén, bọn thị vệ cấm không được gia vị muối mắm, cấm dùng thìa, dùng đũa, mà chỉ được dùng dao nhỏ chặt thịt thành từng miếng nhỏ bỏ vào trong cái bát rồi bốc mà ăn. Lúc đầu bọn thị vệ ăn không có mắm muối, nhạt quá chẳng thấy ngon, sau họ bèn nghĩ ra một cách, lấy giấy Cao Ly dày cắt thành miếng vuông nhỏ ngâm vào nồi nước tương, cô mãi lại cho tương ngấm vào giấy. Xong họ đem phơi nắng cho khô, gói sẵn trong mình. Đêm nào đúng phiên trực, họ bỏ vài ba miếng giấy tương vào cho nó tan trong nước xáo mà ăn, mùi vị đâm ra cũng đậm đà hết sức. Cái món nhậu khoái khẩu này, bọn thị vệ ngự tiền (thị vệ canh gác ở trước vua) quả không được nếm bao giờ.

Vừa thấy họ Ân, cả bọn vội đứng dậy, đứng thành hàng thứ nhất thỉnh an rồi nói:

- Mời đại gia.

Ban thị vệ cửa đại môn này tuy cũng làm quan thị vệ nhưng cấp bậc khác nhau. Đây chính là ban thị vệ của cửa Đại Thanh môn, chia ra làm ba cấp. Những cấp bậc này đều do kết quả cuộc thi võ mà có. Nhưng ban trực ở Kiều Thanh môn, thường gọi là ngự tiền thị vệ, vốn là bọn con ông cháu cha của các vương công đại thần mới được sung vào. Bởi thế, ban thị vệ cửa Đại môn vừa thấy họ Ân đã vội vàng đứng dậy và tỏ vẻ tôn kính hết sức. Gã thị vệ họ Ân vừa bị xúc động mạnh, lại vất vả cả đêm nên bụng cảm thấy đói. Hắn thấy một miếng thịt heo luộc bự nằm trong đĩa lớn, vội chạy tới ngồi xuống ăn luôn.

Ngọn đèn dầu thắp trên vách vẫn cháy sáng. Anh sáng rọi vào mặt họ Ân, bỗng bọn thị vệ giật mình đánh thót một cái, đồng thanh hỏi:

- Ân đại gia làm sao vậy? Mặt đại gia đầy máu kìa!

Họ lại xem kỹ quần áo của Ân thấy cũng lấm tấm những giọt máu. Cả bọn la lên một tiếng lớn, vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi. Gã họ Ân thấy hỏi, thở dài một tiếng rồi vừa ăn thịt heo vừa kể lại chuyện Nhị Hương.

Đến chỗ thê thảm rùng rợn nhất, cả bọn ai nấy đều rùng mình rởn gáy cả.

Sau đêm đó, họ Ân ra khỏi cung, trở về nhà bỗng nhuốm bệnh nặng, nằm liệt giường chiếu. Và cũng từ đêm đó, chàng ta xin không làm thị vệ nữa.

Hoàng đế và hoàng hậu cãi nhau kịch liệt vì chuyện này. Cuối cùng hoàng đế phải nhận là mình lầm lỗi hoàng hậu mới chịu thôi. Cũng từ hôm đó, hoàng đế sợ hoàng hậu lại nổi cơn ghen nên phải thường đến ngủ tại cung của bà. Và mỗi khi muốn triệu hạnh một phi tần nào, ngài phải nhờ hoàng hậu đóng cho con dấu nhỏ vào giấy triệu, lúc đó, bọn phi tần mới dám tới với ngài.

Theo luật lệ trong cung Thanh, thì hoàng đế triệu hạnh phi tần, phải được hoàng hậu hạ dụ mới được. Nhưng từ khi Càn Long hoàng đế phế bỏ hoàng hậu thì luật lệ này không được áp dụng nữa. Đạo Quang hoàng hậu nhân dịp đánh ghen này, bèn mang Tô chế (thể chế đặt ra do các tổ tiên) này ra, thế là Đạo Quang hoàng đế chẳng dám không tuân theo.

Cái gọi Tố chế ấy là như thế nào? Ngoại trừ hoàng hậu, cứ mỗi lần hoàng đế muốn lâm hạnh một bà phi nào thì bắt buộc phải ngay tại tẩm cung của mình chứ không được tới nhà riêng của phi đó. Trông coi việc bí mật tại thâm cung của hoàng đế và hậu phi thuộc về Kính sự phòng, gồm có một viên tổng quản thái giám, bốn viên thái giám đi mời phi tử, hai viên thái giám đi xin ấn. Viên tổng quản thái giám chuyên việc dâng thiện bài, gọi dậy và sắp đặt công việc. Viên thái giám xin ấn chuyên việc đi xin hoàng hậu ký và đóng dấu cho phép tại cung của bà.

Thiện bài là gì? Trong cung có bao nhiêu phi tần thì phải viết đủ bấy nhiêu cái thẻ nhỏ, cứ mỗi phi tần có một cái thẻ đó, trên đầu chiếc thẻ này sơn xanh nên còn gọi là Lục đầu bài. Hằng ngày viên tổng quản thái giám phải đem những Lục đầu bài này bày trên mâm bạc. Nếu bà phi nào hôm đó có tháng (kinh nguyệt) thì viên tổng quản thái giám phải cắm cái thẻ đó nghiêng đi để cho hoàng đế biết mà tránh.

Nhằm lúc vẩn thiện (ăn cơm tối), viên thái giám tổng quản đầu đội chiếc mâm thẻ đó tới trước mặt hoàng đế, quỳ xuống, cho ngài tuỳ sức chọn lựa. Nếu đêm đó muốn tới với hoàng hậu thì ngài chỉ cần nói "để đó", tức thì viên tổng quản thái giám gác cái mâm lên giá, khom mình lui ra ngoài. Nếu ngài không tới cung hoàng hậu, cũng không triệu hạnh phi tần thì chi nói một tiếng "Cất đi", tức thì viên tổng quản thái giám bưng cái mâm đi luôn. Còn khi ngài muốn triệu hạnh bà phi nào, thì chỉ việc lật úp cái thẻ lại, để phía lưng hướng lên trên. Viên tổng quản thái giám bưng mâm ra, nhặt cái thẻ đó giao cho viên thái giám xin ấn đưa vào cung bà hoàng hậu mà xin ấn. Xin được rồi, hắn bèn giao lại thái giám nhận được tờ giấy này đem về lại giao cho viên thái giám chuyên đi mời phi tần. Viên thái giám này, khi thấy Thiện bài và giấy đóng ấn, liền đi lấy chiếc áo khoác đoạn vàng bằng lông tơ, chạy tới nhà bà phi đó, giao tờ giấy đóng ấn cho một cung nữ để cô ta đưa ngay vào cho bà phi nọ xem.

Bà phi này biết được lệnh triệu hạnh, bèn cho gọi bọn cung nữ hầu hạ, giúp mình tắm rửa sạch sẽ, tô son điểm phấn, ngắm lại tấm thân nõn nà của mình trước kính rồi mới ra đi. Một tên thái giám bước tới, cầm chiếc chăn mỏng đoạn vàng bằng lông tơ khoác lên mình bà phi nọ, rồi cõng bà ta tới trước giường của hoàng đế. Viên thái giám đặt bà phi xuống đất, cởi chiếc chăn đoạn vàng treo lên móc. Xong đâu đấy, viên thái giám lại giúp hoàng đế cởi hết áo quần, để ngài nằm trên giường ngủ, đắp lên một chiếc khăn ngắn để hở mặt và đôi chân, rồi lặng lẽ rút lui ra ngoài phòng. Bà phi tử nhè nhẹ bước đến cuối giường rồi chui vào trong chăn.

Trong lúc đó, viên tổng quản thái giám Kính sự phòng đem cả bọn thái giám đứng thành hàng ngoài cửa phòng. Chờ chực như vậy độ hai giờ đồng hồ, bọn thái giám bèn quỳ xuống đồng thanh cất cao tiếng xướng: "Đúng lúc rồi!" Câu xướng này ngân dài ra, đủ cho bên trong chú ý và nghe kịp. Nếu bên trong không có tiếng trả lời, cả bọn lại xướng lần thứ hai, hoặc có khi phải đến lần thứ ba. Đến tiếng thứ ba này, cả bọn nghe thấy hoàng đế gọi lên một tiếng, tức thì viên thái giám chuyên đi mời phi tử chạy vào trong phòng. Bà phi nọ, lúc đó đã chui ra khỏi chăn, đứng ngay ở trước giường. Viên thái giám tiến tới, lại dùng chiếc chăn đoạn vàng lông tơ khoác vào người bà phi như cũ, ghé vai cõng đưa về cung. Sau đó, viên tổng quản thái giám cũng tiến vào phòng, quỳ ở trước giường hỏi:

- Lưu lại hay không?

Hoàng đế đáp:

- Lưu lại!

Nghe được tiếng này, viên tổng quản thái giám bèn về Kính sự phòng, ghi vào trong sổ hàng chữ sau, "Năm này, tháng này, ngày này, giờ này, hoàng đế đã lâm hạnh bà phi này (tên bà phi nọ)".

Luật lệ này của Thanh cung vốn phỏng theo luật lệ của triều Minh. Nay Đạo Quang hoàng hậu muốn sử dụng oai quyền của mình và đề phòng hoàng đế hoang dâm vô độ nên mới lôi cái "Tổ chế" này ra. Đạo Quang hoàng đế chẳng biết làm cách nào hơn, đành phải chấp nhận và cũng từ đó những cái án tình thê thảm trong thâm cung mới không còn có cớ mà xảy ra nữa.

Trong thâm cung vừa tạm yên thì tại Dự Vương phủ lại xảy ra một vụ án tình hi hữu khác. Số là Dự Thân Vương tên gọi Dự Hưng vốn dòng tôn thất rất gần đối với hoàng đế. Theo thể chế của nhà Thanh, khi làm Vương gia thì không được có một chức vụ gì. Do đó Dự Hưng ăn no uống say rồi phởn rốn nằm kềnh ra ngủ, chẳng có gì làm cả. Hưng ngủ chán rồi đi chơi. Từ hang cùng đến ngõ hẻm, bất cứ chỗ nào Hưng cũng đặt chân tới. Vốn hiếu sắc, lại cậy mình có tiền, có thế, hễ thấy cô gái nào sạch nước cản, mặt mui xinh xắn, là Hưng tìm đủ cách đủ lối để ve vãn, tán tỉnh cho bằng được. Nhiều lầu xanh trong kinh thành đều do Vương gia đứng chủ. Bởi thế, người ta mới tặng Hưng cái biệt hiệu "Hoa Hoa thái tuế".

Đã có rất nhiều bà trong những gia đình tử tế, có sắc đẹp, bị Hưng để mắt tới. Bất chấp đó là con ông này hay cháu bà kia, Hưng cứ xông vào nhà cưỡng gian bừa đi. Nhiều người bị ô nhục đã phải treo cổ trên xà nhà hoặc nhảy xuống giếng mà tự tử. Gia đình của họ cũng bị nhục lây. Nhưng thế lực của Dự Vương quá lớn, họ đành phải nhẫn nhục, không dám hở môi kêu kiện gì. Sau cùng, Dự Hưng gia đã làm cho một con a đầu của chính mình phải mất mạng.

Con a đầu ấy tên gọi Dân Cách, vốn trước theo phúc tấn qua phủ Dự vương. Dân Cách có sắc đẹp lại thêm tính tình hoà nhã. Trong vương phủ, ai nấy cũng đều đối xử tốt với nàng. Dự Vương có cậu công tử lớn tên gọi Chấn Đức, cùng tuổi với Dân Cách. Chẳng biết duyên số thế nào mà đôi trai gái đâm mê nhau, hết sức tâm đầu ý hợp. Thường những lúc vắng người, họ thủ thỉ với nhau không biết bao nhiêu chuyện.

Bà phúc tấn lại thích đám gái đẹp. Bởi thế, bà cho Dân Cách sửa sang trang điểm hết sức duyên dáng, chẳng khác gì một giò thuỷ tiên vừa trong sạch, vừa cao quý. Vị đại công tử trông thấy thế càng đâm ra thầm yêu trộm nhớ. Trong mắt xanh của Dân Cách thì cũng chỉ có công tử mới là người tình lý tưởng duy nhất của nàng.

Ngờ đâu Dân Cách càng son phấn bao nhiêu thì Dự vương lại càng cảm thấy mê say bấy nhiêu. Bà phúc tấn cũng biết chồng mình thuộc loại quỷ râu xanh nên canh chừng nàng chằn chặt. Dự vương thấy khó bề hạ thủ, chỉ đành nuốt nước miếng than thầm trước người đẹp và rình chờ cơ hội.

Hồi 104

MỘT VỤ ÁN CƯỠNG GIAN NÁO ĐỘNG

Con ả đầu Dân Cách chẳng bao lâu đã mười tám tuổi. Cách biết vương gia có lòng chẳng đẹp. Những lúc vắng người, Vương thường buông lời ong bướm trêu ghẹo. Thậm chí có những lúc Vương vuốt ve, nắn khắp người nàng. Dân Cách nghiêm nét mặt, tỏ ý không bằng lòng, rồi giật khỏi tay Vương mà chạy ra ngoài. Những trường hợp như vậy xảy ra đã nhiều lần lắm.

Một hôm Dự vương có việc phải vào cung. Hôm đó là mồng sáu tháng giêng, hôm mà họ hàng tôn thất thân thuộc xa gần phải vào triều bái yết đầu năm. Sáng hôm đó Dự Thân vương đem theo phúc tấn. Hoàng hậu và bà phúc tấn vốn chơi thân với nhau, hoàng hậu lưu bà phúc tấn lại trò chuyện nên đêm đó bà không trở về phủ.

Dự Thân vương chờ bên ngoài thấy phúc tấn không trở ra, bỗng nhớ tới người đẹp Dân Cách ở nhà Vương cho đây là một cơ hội ngàn năm một thuở, thế là bèn thoăn thoắt ra khỏi cung, trở về phủ. Vào nhà trong, sai bốn ả đầu, bộc phụ, mấy cô hầu thiếp đi mỗi người mỗi việc hết cả, Vương lẻn vào phòng của phúc tấn. Vương biết rằng Dân Cách thế nào cũng đang ở đấy dọn dẹp.

Không ngờ khi bước vào phòng, Vương chẳng thấy một ai. Nhìn kỹ khắp phòng, mới thấy phía dưới bức trướng lụa rủ thấp có một đôi hài đế trắng, lòng uốn cao, chung quanh thêu hoa khắp cả. Dự vương hằng ngày đã biết đôi hài này của Dân Cách, lòng bỗng mừng rơn. Ngồi coi phòng được một lúc lâu rồi, trong cảnh vắng lặng ấy, Dân cách cảm thấy buồn ngủ. Nàng định về phòng riêng, nhưng thấy phòng bà phúc tấn không còn ai canh giữ, nên không yên tâm, hơn nữa, bà đã có dặn nàng ở nhà coi giữ phòng cẩn thận. Nàng bèn leo lên giường bà và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Dự vương rón rén đóng cửa lại rồi nhón chân bước cạnh giường. Vương lấy tay khẽ nâng bức trướng lụa lên, miệng thốt lên một tiếng nhỏ, đầy khoái cảm: "Tuyệt quá!". Thì ra, Vương thấy Dân Cách đang nằm say ngủ. Đôi môi son tươi như hoa, đôi má điển qua chút phấn hồng, cặp lông mày lá liễu, tất cả đều làm cho nàng thêm đẹp, thêm quyến rũ mơ màng.

Dân Cách thấy động, bỗng giật mình tỉnh dậy thì đã không kịp nữa. Nàng chỉ còn biết kêu khóc, van xin, nhưng chẳng an thua gì. Tấm thân trinh bạch như đoá trà mi vừa mới nở buổi ban mai đã bị Vương gia làm ô uế mất rồi.

Dư vương đã thoả mãn thú tính, bỏ nàng nằm đó, dương dương đắc ý bước ra khỏi phòng. Dân Cách xót xa cho thân phận, khóc lóc thảm thiết. Nàng cố gượng dậy, chệnh choạng bước ra cài then cửa, cởi sợi dây lưng, thắt cổ chết ngay trên đầu giường của bà phúc tấn chủ nàng. Đáng thương cho nàng lúc sắp chết còn kêu lên mấy tiếng:

- Đại công tử ơi! Kiếp này thiếp không thể hầu hạ chàng được nữa!

Nhà cửa trong Vương Phủ vừa lớn vừa rộng. Phòng ngủ của phúc tấn lại không phải là chỗ mà bọn đầy tớ vào ra dễ dàng. Bởi thế, Dân Cách chết treo trong phòng mà chẳng một ai biết.

Mãi cho đến tối hôm đó, bà phúc tấn mới đem các công tử trở về phủ. Đại công tử vốn nhớ nhung Dân Cách, vội chạy lên trước, xông vào trang viện, đẩy mạnh cửa phòng. Nhưng cửa đóng, bên trong có then cài. Chàng đập luôn mấy cái mà chẳng thấy ai thưa. Chàng đâm nghi, vội quay bước trở ra báo với mẹ. Mẹ chàng lúc đó còn ở thư phòng của cha chàng để thuật lại chuyện yết kiến hoàng hậu. Bà nghe con kể, lấy làm lạ hết sức, vội chạy về phòng, trong khi đó Dự vương làm bộ như không biết gì, cũng lẽo đẽo theo sau. Bọn ả đầu, nữ bộc xô cửa để vào, cánh cửa bị sức mạnh bật tung ra. Người ta chỉ nghe một tiếng rú hoảng hồn của cả bọn, thì ra họ trông thấy một thây ma treo lủng lẳng ngay trên đầu giường của phúc tấn. Mọi người nhìn kỹ lại thì đúng là xác của Dân Cách.

Người đau đớn nhất lúc đó là Đại công tử. Đứng trước đông người, chả lẽ lại khóc lên hu hu. Chàng chỉ còn biết mặc cho nước mắt rơi lã chã. Bà phúc tấn thấy con a đầu yêu quý nhất của mình chết, bất giác nhỏ lệ, sai gia nhân cởi dây, hạ xác khiêng xuống nhà dưới. Mụ quản sự bước tới nói với bà phúc tấn:

- Trong phủ xảy án mạng. Chiếu lệ thì phải báo Tôn nhân phủ biết để khám nghiệm rồi mới khâm liệm và đem chôn được Ngưng giây lát, mụ ta lại tiếp:

- Trong nhà nào màn trướng nào đồ đạc, tất thảy đều nguyên vẹn. Cần phải mời quan tới khám nghiệm mới được.

Dự vương nghe câu nói này, chột dạ, liền lên tiếng:

- Chết một con a đầu tôi mọi chứ có gì mà phải báo với Tôn nhân phủ?

Dự vương phúc tấn thấy con a đầu yêu quý của mình chết một cách thê thảm nên đoán phải có chuyện oan khuất chi đây. Bà suy tính mãi, cuối cùng đoan kết rằng vụ án này xảy ra hẳn chỉ do chồng bà chứ không phải ai khác. Nhưng lòng bà lúc đó chỉ uất ức bới cái chết của con a đầu, cho nên chẳng tính suy tới lui gì nữa, chạy một mạch tới báo cho Tôn nhân phủ biết.

Dự vương gây ra chuyện nên chẳng tiện ngăn cản. Hơn nữa, Vương đinh ninh rằng mình thuộc dòng tôn thất, dù việc có tới Tôn nhân phủ đi nữa cũng chẳng hề hấn gì.

Ai ngờ vị quản lý Tôn nhân phủ lại là một tay mặt sắt đen sì, chí công vô tư, tên gọi Long Cách Thân Vương. Nếu đem so sánh thứ bậc trong họ, thì Long Cách thuộc hàng chú của Dự vương. Long Cách được báo, bèn đích thân tới Dự vương phủ khám nghiệm. Trông thấy tấm trướng lục rũ thấp, chăn gối ngổn ngang, ông đã có đôi phần nghi hoặc rồi. Lúc khám tới cửa mình Dân Cách, thấy nơi đây bị đập nát, chiếc quần lót máu me bê bết thì ông đã rõ rằng nàng bị cưỡng gian nên quá xấu hổ mà tự vận. Khám nghiệm xong, Long Cách thân vương suy nghĩ mãi vẫn chưa đoán ra đầu mối. Ông phân vân tự hỏi; trong Vương phủ oai nghiêm như thế, kẻ nào dám to gan cưỡng hiếp đứa thị nữ hầu cận bà phúc tấn được? Lúc đầu, ông nghi cho đại công tử của Dự vương gây ra. Nhưng khi cho gọi tới thẩm vấn ông thấy cậu tỏ ra đau đớn cùng cực thì bèn quyết ngay rằng cậu chẳng thể là người đã gây nên việc dâm ác này được. Giữa lúc ông băn khoăn, bỗng tên lính nghiệm xác tới đưa cho ông một chiếc cúc bằng vàng, trên có khắc chữ "Dự", mà chữ Dự lại chính là tên của Dự Thân vương.

Đại công tử vừa thấy chiếc cúc này bèn la lên:

- Chiếc cúc này vốn khâu trên áo choàng của cha tôi đây mà!

Long Cách thân vương cầm chiếc cúc xem kỹ quả nhiên thấy những mối chỉ đứt còn sót lại ở chân cúc. Thế là ông cho gọi con a đầu trông coi về y phục tên là Hỷ Tử tới thẩm vấn Hỷ Tử vốn là một đứa ngốc nghếch, vừa trông thấy chiếc cúc vàng, vội la lên:

- Trời đất! Thì ra nó rớt tại nơi đây. Tôi cứ lấy làm lạ tại sao áo Vương gia thiếu mất một cái cúc.

Long Cách thân vương nghe nói vậy, liền bảo con Hỷ Tử đi lây ngay cái áo choàng đem tới, mới biết chiếc cúc thứ ba trên ngực áo đã bị mất, là do có sự kéo giật mạnh. Ngoài ra chiếc áo còn bị rách một mảnh nhỏ ở chỗ khâu giữa thân dính với mảnh tà. Ông hỏi con Hỷ Tử:

- Chiếc áo này, Vương gia mặc hồi nào?

Hỷ Tử đáp:

- Thưa, hôm qua tôi lấy ra để Vương gia mặc mà vào cung.

Long Cách thân vương lại hỏi:

- Vương gia quay về phủ hồi lúc nào?

Hỷ Tử đáp:

- Chiều thì ngài về.

Lại hỏi:

- Mi có chắc lúc ra đi Vương gia mặc áo này còn đủ cúc chứ?

Hỷ Tử đáp:

- Bộ cúc hoàn toàn đầy đủ, chẳng thiếu cái nào?

Hỏi:

- Lúc trở về phủ, Vương gia có mặc chiếc áo này không?

Đáp:

- Có Vương gia mặc đúng chiếc áo này?

Hỏi:

- Vương gia có chiếc áo này vào lúc nào?

Đáp:

- Vương gia trở về phủ trước một người. Khi ngài về tới nơi, tỳ nữ bước tới xin Vương gia cởi bỏ áo ngoài cho. Nhưng Vương gia lặng thinh, cũng chẳng bảo cởi, vội vã bước vào phòng ngay.

Long cách bèn tới phòng Dự Vương, chìa ra chiếc cúc áo và hỏi:

- Chiếc cúc này của Vương gia phải không?

Tuy đã mất cái cúc này, nhưng Dự Thân vương quả chưa hề biết. Thấy Long Cách thân vương hỏi, Vương bèn đáp:

- Phải! Chiếc cúc này vốn do Hoàng thái hậu ban thưởng cho. Năm đó vào cung chúc thọ, bà tự tay ban cho nên trên đó mới có khắc chữ tên của tôi là thế. Thuần thân vương, Đoạn Thân vương cũng được bộ cúc như tôi vậy. Vì đó là vật thưởng của thái hậu, nên tôi rất quý, đem khâu vào chiếc áo choàng. Nay Vương gia đột nhiên hỏi tới chiếc cúc đó là có ý gì?

Long Cách thân vương nói:

- Vương gia đánh mất một chiếc cúc, Vương gia đã biết rồi chứ?

Dự Vương nghe xong mắt bỗng trợn ngược lên, rồi ra vẻ suy nghĩ lung lắm. Long Cách Thân Vương lại hỏi:

- Tôi vừa tìm giúp cho Vương gia đó!

Dự vương vội hỏi lại:

- Tìm giúp! Tìm ở đâu vậy?

Long Cách Thân Vương đáp:

- Tìm được ngay trong lòng bàn tay xác chết của con a đầu Dân Cách đấy!

Dự vương vừa nghe xong câu nói, sắc mặt bỗng biến đổi hẳn, đỏ gay lên được vài giây rồi bỗng biển thành xám ngoét.

Thì ra lúc cưỡng hiếp Dân Cách, Vương đã bị nó giật đứt mất một cái cúc mà không hay biết. Nay bỗng thấy Long Cách thân vương đột ngột nói vậy, lời lẽ Vương đâm ra luống cuống, hết thế che chống, tay chân Vương run lên, không biết đặt đâu cho yên nữa.

Long Cách thân vương nhìn qua đã biết Dự Vương phạm tội mười phần mười rồi, ông liền quát:

- Bắt lấy!

Tức thì mười mấy tên sai dịch xông tới giữ chặt lấy Dự vương và lôi ra khỏi phủ…

Hồi 105

AI THÍCH LÀM CÔNG CHÚA NHÀ THANH?

Đạo Quang hoàng đế đang bực mình vì việc hoàng hậu giết mất nàng phi Nhị Hương sủng ái của ngài, bỗng thấy Tôn nhân phủ tâu lên nói Dự vương dâm bức thị nữ Dân Cách, bất giác cả giận đùng đùng, lập tức cầm bút phê ngay trên tập sớ hai chữ: "Tứ tử" (cho chết).

Dự vương phúc tấn vốn thân với hoàng hậu nên vừa được tin này bà vội đem theo công tử vào cung, quỳ trước mặt hoàng đế và hoàng hậu cầu xin tha mạng cho chồng. Hoàng hậu cũng nói thêm vào giúp bà phúc tấn. Lại còn có Thuần Thân vương, Thuỵ Thân vương, vì thể diện anh em, cũng nhất tề hẹn nhau vào cung, cầu xin cho Dự Vương. Bà Dự vương phúc tấn còn đến cả phủ Long Cách thân vương để cầu xin nữa. Thế là nỗi giận của hoàng đế hạ xuống ngay.

Ngài giao nội vụ cho đại thần Tôn nhân phủ họp cùng với Hình bộ đại thần định tội.

Ít hôm sau, toà định tội như sau: Dự vương bị cách tuột tước vương, phát giao cho Tôn nhân phủ giam cấm ba năm, mãn án về nhà, không được ra ngoài gây hoạ.

Bà Dự vương phúc tấn chạy đông chạy tây gỡ tội cho chồng, tiêu hết mất 30 vạn lạng bạc mới còn giữ được cái đầu đội nón trên cổ Vương ông. Thôi thì tiền mất chẳng kể chi, có điều đằng đẵng ba năm xa chồng, bà phúc tấn chiếc thân vò võ cô phòng, nghĩ mà thê thảm. Đạo Quang hoàng hậu biết bà buồn rầu lắm, nên hay cho gọi bà vào cung trò chuyện. Cũng có khi hậu cho gọi cả đại công tử theo vào cung nữa.

Đạo Quang hoàng hậu thấy mặt mũi cậu cả khôi ngô tuấn tú, tính tình lại nhu thuận, bèn xin hoàng đế cho tập tước Dự vương, do đó mọi người mới gọi là Tiểu Dự Thân vương.

Tiểu Dự Thân Vương cũng đã đến tuổi thanh niên. Hoàng hậu lại làm mai cho cô Cách Cách, con gái Phúc Quận Vương.

Thế rồi ngày nghênh hôn tới. Chính hoàng hậu lại cầu xin hoàng đế thả cho Dự vương ra khỏi lao Tôn nhân phủ trở về nhà. Từ đó, cả nhà Dự Thân vương đều cảm kích và nhớ ơn hoàng hậu.

Bà Dự vương phúc tấn rắp tâm trèo cao đã từ lâu. Bà đã nhắm Đại công chúa, mặt mũi xinh tươi, tính tình lại hào sảng. Cứ mỗi lần vào cung gặp công chúa, bà lại tay bắt mặt mừng, hỏi đủ chuyện, hết sức thân mật.

Theo luật lệ trong cung nhà Thanh thì khi sinh ra, công chúa sẽ chủ yếu sống với bà bảo mẫu, nếu không phải là ngày lễ sinh nhật, Vạn thọ thì không được gặp mặt cha mẹ. Một nàng công chúa từ khi sinh ra cho đến lúc đi lấy chồng, chỉ được gặp cha mẹ có mười mấy lần, thật tội nghiệp. Uy quyền của người bảo mẫu rất lớn, còn công chúa với cha mẹ mình thì thương yêu trở nên nhạt nhẽo, thậm chí có công chúa khi gặp cha mẹ cũng không dám tỏ bày nỗi khổ cực của mình ra nữa.

Duy chỉ có Đại công chúa này là khác hẳn. Nàng được Đạo Quang hoàng hậu hết sức sủng ái và nuôi nấng từ nhỏ tại cung nội. Bên cạnh nàng có hai chục thị nữ, tám người bảo mẫu hầu hạ. Nàng tuy là gái nhưng tính nết con trai. Suốt ngày, nàng cười nói, vui đùa, cưỡi ngựa, bắn cung. Bà Dự vương phúc tấn đã tính làm mai nàng cho chính con trai bà tên gọi Phù Trân.

Phù Trân năm đó tuổi đã hai mươi. Trân tuy là con trai nhưng tâm tính lại như con gái. Chàng có làn da trắng mịn, thân hình yểu điệu, lại có tính hay mắc cỡ, đụng tẹo là đỏ mặt tía tai lên.

Bà Dự vương phúc tấn cho người mai mối xin Đại công chúa cho con trai. Hoàng hậu hỏi ý nàng thì nàng bằng lòng ngay, chỉ nhờ có một điều là nàng nghe nói anh chàng Phù Trân tính nết rất hiền lành, nhu thuận. Hoàng hậu nói chuyện cưới gả này với hoàng thượng xong bèn cho xây cất ngay một toà phò mã phủ.

Đợi đến ngày lành tháng tất, Đại công chúa từ biệt cha mẹ, lên kiệu hoa về phò mã phủ, làm hôn lễ. Sau đó hai ông bà bố mẹ chồng tới triều kiến cô dâu. Nhưng sau cuộc triều kiến này, nàng công chúa bị khoá trái cửa lại, sống một mình lạnh lẽo trong phòng vắng, chẳng được gặp mặt chồng lấy một lần. Đại công chúa lấy làm lạ. Khi bà Dự vương phúc tấn tới thăm, nàng bèn hỏi lý do tại sao phò mã không thấy tới. Bà phúc tấn an ủi nàng và nói:

- Đó vốn là luật lệ của bản triều ta. Công chúa hãy nhẫn nại ít lâu.

Nghe nói vậy, Đại công chúa càng nghi hoặc, càng không rõ lý do tai sao. Còn Phù Trân phò mã từ lúc lấy công chúa, thực quả cũng chưa từng được thấy nàng mặt ngang mũi dọc thế nào. Suốt ngày chàng bị nhốt trong thư phòng phía ngoài viện, có muốn vào thăm vợ cũng chẳng được cho nên lòng rất lấy làm hối hận rằng mình đã lỡ phải làm phò mã, lấy công chúa con vua.

Thời giờ thấm thoắt thoi đưa, chẳng bao lâu đã năm tháng qua mà vợ chồng công chúa vẫn chưa từng được gặp mặt lần nào. Nàng vốn là người hào sảng, thẳng thắn, không chịu nổi cái luật lệ kỳ cục ấy bèn bảo thị nữ cho tuyên triệu phò mã tới.

Nào ngờ lệnh của công chúa bị ngay chính bọn bảo mẫu ngăn cản. Họ nói:

- Điều đó quyết không được đâu! Thiên hạ sẽ đồn rầm lên là công chúa không có liêm sỉ gì cả đấy!

Thế là nàng đành khoanh tay, đợi chờ. Ba tháng sau, nàng lại muốn cho thị nữ đi tuyên triệu phò mã. Bọn bảo mẫu lại ngăn cản, song lần này họ "mách nước":

- Nếu công chúa nhất sinh tuyên triệu phò mã tới thì cần phải bỏ ra ít tiền gọi là tiền "che xấu".

Đại công chúa nghe nói vậy, vội bỏ ra một trăm lạng bạc.

Bọn bảo mẫu chê ít, nàng lại thêm một trăm lạng nữa. Bọn bảo mẫu vẫn chê ít, nàng lại thêm lên tới năm trăm. Nhưng bọn bảo mẫu vẫn chê ít mà nói:

- Cung nội sai bọn tôi tới phò mã phủ để hầu hạ công chúa, một khi để công chúa tuyên triệu phò mã, tức là bọn tôi đã phải chịu tội thay cho công chúa rồi đó!

Đại công chúa nghe nói tức mình lắm, thế là lệnh lại bỏ.

Mãi đến ngày mồng một tháng giêng (ngày Tết Nguyên đán), nàng vào cung chúc tết, gặp cha bèn hỏi:

- Phụ hoàng đem con gả cho ai vậy?

Đạo Quang hoàng đế nghe đoạn, lấy làm lạ hết sức, bèn hỏi:

- Phù Trân không phải là chồng mày sao?

Đại công chúa liền nói với cha:

- Phù Trân là ai vậy? Phù Trân là người như thế nào? Con lấy chồng đã một năm rồi mà chưa từng được gặp chồng lần nào!

Đạo Quang hoàng đế hỏi thêm:

- Hai vợ chồng tụi bay sao mà không gặp mặt nhau?

Đại Công chúa đáp:

- Bọn bảo mẫu không cho phép con được gặp mặt chồng, thì làm sao mà con gặp được.

Đạo Quang hoàng đế nói:

- Đó là chuyện riêng của vợ chồng tụi bay, bọn bảo mẫu quyền gì mà can dự vào?

Đại công chúa lại nói:

- Có phải phụ hoàng cho bọn bảo mẫu tới phò mã phủ để cai quản con không?

Đạo Quang hoàng đế nói;

- Làm gì có chuyện đó bao giờ!

Đại công chúa nhớ lấy lời đó, cất kín trong bụng, quay về phủ. Nàng trước hết cho gọi bọn bảo mẫu đến, chửi cho một trận, đuổi hết ra khỏi phủ, rồi tuyên triệu phò mã vào nội viện. Thế là từ đó, hai vợ chồng đoàn tụ dưới một nếp nhà ấm cúng, vui vẻ, đẻ liền một dây tám đứa, đủ trai lẫn gái. Từ khi nhà Thanh dựng nước đến lúc đó là hai trăm năm, sinh con đẻ cái thực chỉ có mỗi mình nàng Đại công chúa này.

Đã từ lâu, các công chúa triều nhà Thanh đều không được gặp mặt phò mã? Nhiều nàng ốm bệnh tương tư đến chết, đều do bọn bảo mẫu kiếm chuyện gây trò mà nên. Công chúa chết đi rồi, tức thì phò mã bị đuổi ra khỏi phủ. Trừ những phòng ốc nhà cửa giao lại cho nội vụ, tất cả những đồ đạc của công chúa như quần áo, vàng ngọc, trang sức đều bị bọn bảo mẫu nuốt sạch. Bọn này vì tham lam những của cải đó nên đã nghĩ ra mọi cách, gọi là để bức tử công chúa. Chuyện thật kỳ quặc song lại có thực dưới triều nhà Thanh.

Lại nói Đạo Quang hoàng đế bị hoàng hậu quản thúc ở trong cung và thường bị những tên thái giám tâm phúc của bà rình rập coi chừng. Ngài chẳng có cách nào tiêu khiển, suốt ngày buồn bã, chán ngán. Lúc còn trẻ, ngài có tập luyện cung tên cưỡi ngựa, bởi vậy, thường đem bọn hoàng tử ra ngoài ngự hoa viên tập dượt giải khuây.

Theo lệ trong cung nhà Thanh, cứ mỗi khi sinh ra, các hoàng tử được bế ra khỏi cung giao cho vú nuôi trông coi và nuôi nấng. Đúng lệ thì cứ mỗi hoàng tử có tám bảo mẫu, tám vú nuôi, tám người khâu vá, tám người tắm giặt, bốn đèn đóm và bốn nhà bếp. Khi lên ba thôi bú rồi thì bỏ bớt bọn vú nuôi, nhưng lại thêm tám tên thái giám, thường gọi là Ám Đạt để dạy hoàng tử cách ăn uống, tập cách nói năng, trò chuyện, luyện cách đi đứng, cách cư xử theo lễ đạo. Đến sáu tuổi, bọn này còn dạy hoàng tử đi giầy, đội mũ, mặc áo, đưa đi theo ban đại thần đứng tại triều đình để sai khiến.

Hằng ngày cứ canh năm trở dậy, bọn hoàng tử mặc áo trào phục đi vào cửa Kiều Thanh, khi tới bực cửa lớn, có thái giám bế vào cửa, đưa mãi vào trước ngự toạ để cùng chầu với bọn Thân Vương.

Triều bái xong, các hoàng tử được đưa lên thư phòng đọc sách, làm văn. Đến mười ba tuổi lại có những viên Ám Đạt giỏi chữ Mãn Châu, dạy cho cách đọc chữ Mãn, rồi mười bốn tuổi, dạy cưỡi ngựa bắn cung. Trong cung gọi hoàng tử là A Kha Sở, cũng gọi là Thanh cung (cung xanh). Mãi đến khi Phụ hoàng băng giá, hoàng tử mới được đem mẹ đẻ, con cái ra khỏi cung, ở bên ngoài. Suốt thời gian làm hoàng tử, trừ những buổi vào chầu nơi triều đình ra, chỉ được gặp mặt phụ hoàng độ mười mấy lần. Trong lúc gặp, lại không được nói chuyện. Bởi thế giữa hoàng tử với hoàng đế, tình cảm thật hết sức lạnh nhạt.

Trên đây là luật lệ chung tại Thanh cung. Nhưng đặc biệt với Đạo Quang hoàng đế thì lại khác. Ngài thường triệu hoàng tử vào cung, đem cả đoàn theo bên cạnh mình đi du ngoạn.

Về sau, ngài nhận thấy nơi hoa viên quá nhỏ, bèn đem theo ngự lâm quân tới khu rừng mộc lan săn bắn.

Đạo Quang hoàng đế rất yêu quý hoàng tử thứ tư Dịch Trữ và hoàng tử thứ sáu Dịch Hân. Phen nào tuần du ra ngoài, ngài đem hai hoàng tử này theo bên cạnh. Mục Chương A thấy hoàng đế sủng ái Dịch Hân hơn cả Dịch Trữ, bèn ngầm liên kết với Hân, thường đưa lễ vật và dặn bảo Hân:

- Hoàng thượng là một vị thanh chúa, thông minh anh dũng, Đại A Kha nên cống hiến bản lĩnh phi thường trước phụ hoàng khiến ngài vui lòng hơn thì ngôi báu coi như đã nằm trong tay mình rồi.

Dịch Hân nghe lời A, suốt ngày luyện tập võ nghệ. Bởi thế cứ mỗi lần cưỡi ngựa, bắn cung y như Hân được thưởng tứ nhiều nhất. Đạo Quang hoàng đế càng ngày càng yêu Hân, Dịch Trữ ở bên cạnh, lặng lẽ đứng nhìn, cũng biết rằng phụ hoàng yêu Lục hoàng tử hơn mình. Lục hoàng tử thấy được cha yêu, lại làm bộ kiêu ngạo hơn xưa khiến Trữ thấy khó chịu lắm. Dịch Trữ cho mời sư phó của mình tên gọi Đỗ Thụ Điền tới thương lượng. Điền vốn xuất thân nơi Hàn lâm, lòng đầy ứ kế mưu, bèn ri tai Trữ bảo làm như thế như thế, Trữ nghe lời thày dạy, nhớ kỹ trong lòng chờ ngày thực hiện.

Cách ít hôm, vùng Nhiệt Hà đầy nghẹt tuyết, hoàng đế dặn chuẩn bị trước: ngày mai đi săn tại sườn núi phía tây.

Ngài triệu tập khá đông thân vương, bối lặc. Mọi người sửa soạn kỹ lưỡng vâng theo, ngày hôm sau, hoàng đế xuất môn, bên cạnh có bảy vị hoàng tử theo hầu. Khi đến vùng núi phía tây, đoàn người ngựa bắt đầu khởi sự. Duy chỉ có Tứ Hoàng tử Dịch Trữ kìm cương ngựa đứng yên bên cạnh cha, không nhúc nhích.

Đạo Quang hoàng đế thấy vậy, lấy làm lạ bèn hỏi:

- Trữ, con! Sao con không đi săn hả?

Dịch Trữ ngồi trên ngựa, khom mình đáp lời cha:

- Con nghĩ rằng đang là mùa xuân, chim muông đang mùa sinh nở, nên không nỡ giết hại chúng, e trái với đức nhân hoà của Trời Đất. Con cũng chẳng muốn lấy cái hay về cung kiếm để cạnh tranh với anh em con làm gì!

Không ngờ mấy lời nói đó của Trữ đã làm cho Đạo Quang hoàng đế trầm ngâm hẳn đi, lát sau ngài thở dài nói:

- Con ta thật đã có cái độ lượng của người quân trưởng (ông vua).

Nói đoạn, ngài ra lệnh ngừng cuộc săn. Cả đoàn Vương gia đang mặc sức đuổi nai bắn hoẵng, bỗng nghe có lệnh ngừng, lấy làm lạ lắm. Nhưng đó là lệnh vua thì kẻ nào dám trái? Thế là cuộc săn phút chốc đã êm ru, ông nào ông nấy cuốn cờ dẹp trống, tiu nghỉu trở về.

Hồi 106

CHẾT MÀ CÒN HÊN

Đêm hôm đó Đạo Quang hoàng đế trằn trọc không ngủ. Ngài vắt tay lên trán suy nghĩ, nhớ lại lời nói của Dịch Trữ lúc ban ngày, cho Trữ là người nhân từ quảng đại lắm.

Thế rồi ngài quyết truyền ngôi cho Dịch Trữ, ngầm viết sẵn tên Trữ vào di chiếu.

Đạo Quang hoàng đế tuy đã bỏ lệnh săn bắn nhưng thấy ở lại hành cung có vẻ tự do hơn nên chẳng nghĩ gì tới chuyện hồi kinh. Ngài chỉ mang theo bên mình có một mình nàng Tĩnh phi tên Bác Nhĩ Tế Cẩm. Tĩnh phi người nhỏ nhắn, xinh tươi, nàng lại nhanh miệng lưỡi, suốt ngày nói cười. Nhờ nàng, hoàng đế có bầu bạn khiến cũng đỡ buồn.

Một hôm, hoàng đế muốn đi săn. Tĩnh phi xin theo. Ngũ hoàng tử Dịch Tôn cũng xin luôn. Tôn vốn là con đẻ của Tĩnh phi, tính tình ương bướng từ nhỏ, giỏi cung kiếm, nên thường được hoàng đế cho đi cùng. Thế là vợ chồng mẹ con cả thảy bốn người đem một đội lính thần cơ vào rừng, hết sức thích thú.

Nàng Tĩnh phi nai nịt đồ săn, bề ngoài trông cũng có vẻ dũng mãnh. Hai mẹ con phóng ngựa khắp rừng, xông bên này chạy bên kia khiến chẳng mấy chốc đã cách khá xa hoàng đế. Bên ngoài chỉ còn có vài tên thái giám và ngự tiền thị vệ.

Bỗng một con mang vụt chạy ra trước mặt, hoàng đế rút tên giương cung bắn tới. Con mang đeo cả mũi tên chạy đi mất hút. Ngài bảo bọn lính thần cơ đứng lại, chỉ một mình phóng ngựa ra khỏi rừng. Ngài phóng tầm mắt thìn quanh bốn phía, chẳng thấy con mang đâu mà chỉ thấy phía xa xa một anh chàng đang sửa soạn tự treo cổ lên cành cây. Ngài thấy y dùng dây lưng buộc một cái thòng lọng, đút cổ vào, hai cẳng bốc lên không, lủng lẳng đung đưa.

Đạo Quang hoàng đế bỗng nối lòng thương. Ngài vội lấy mũi tên lắp vào cung, bắn vút tới. Mũi tên cắt dây lưng đứt làm đôi khiến anh chàng nọ rớt phịch xuống đất.

Chàng nọ lấy làm lạ, nhìn quanh bốn phía tìm kiếm, nhưng Đạo Quang hoàng đế núp trong bụi cây, y không nhìn ra.

Thấy không có ai anh ta lại lượm cái dây lưng lên định thắt cổ nữa. Thấy vậy, Đạo Quang hoàng đế giục ngựa phóng tới, giật lấy chiếc dây lưng. Lúc đó ngài ăn vận bộ đồ săn nên anh chàng nọ không biết đó là hoàng đế, y lấy làm giận, hằn học nói:

- Ta muốn tìm cái chết! Cớ sao ngươi cứ trêu ghẹo ta như vậy?

Đạo Quang hoàng đế hỏi:

- Tại sao ngươi không muốn làm người nữa mà lại muốn làm ma?

Anh chàng nọ đáp;

- Đói rét suốt đời, chẳng chết thì còn sống làm gì nữa?

Nói đoạn anh chàng oà lên khóc. Đạo Quang hoàng đế hỏi:

- Ngươi từ nơi đâu tới đây?

Anh chàng trai nọ gạt lệ nói:

- Tôi vốn người Tứ Xuyên, cũng có chút công danh, lên kinh để thi tuyển, và đã đậu thứ nhì. Tưởng chẳng bao lâu nữa thì được bổ dụng, tôi liền đem hết gia quyến lên kinh chờ đợi. Nào ngờ, đợi chờ luôn ba năm, chẳng thấy tin gì, trong khi đó, người đậu thứ ba, thứ tư, thậm chí đến người thứ mười lăm đều được bổ dụng cả rồi. Mỗi tôi là người duy nhất không được Thời gian chờ đợi tại kinh, có chút của, tiêu xài hết sạch, vợ phải đi khâu thuê vá mướn, con gái phải đi thêu hoa cho người để độ nhật, xem chừng rồi đây cũng khó sống nổi. Tôi tính tới hỏi xem thì bọn sai dịch ngăn chặn, không cho vào, tức đến muốn chết! Tôi được tin hoàng thượng xuất tuần Nhiệt Hà, bèn dối gia đình, lên tới nơi đây tìm một cái chết. Tôi chẳng còn nghĩ gì hơn, chi mong Vạn tuế gia biết mà thương cho một linh hồn vất vưởng nơi đất khách quê người, đại phát từ bi, ban cấp cho ít tiền để gia đình tôi có thể đưa quan tài về được Tứ Xuyên. Cái ơn đức ấy dù tôi có làm quỷ dưới suối vàng cũng không bao giờ dám quên.

Nói đoạn, anh chàng lại khóc hu hu. Đạo Quang hoàng đế sinh trưởng nơi lầu vàng điện ngọc, đâu có thấu rõ được cảnh khổ chốn dân gian chỉ còn biết đứng sững mà nhìn anh ta khóc. Khóc một lúc qua rồi, anh chàng rút ở trong mình ra một tờ sớ đưa cho hoàng đế. Nhưng Đạo Quang không xem.

Ngài cũng rút trong mình ra một viên ngọc gọi là "Bạch ngọc ty yên hồ" đưa cho anh nọ, và dặn rằng:

- Ngươi đem vật này tới công đường của bộ Lại thì thế nào cũng được bổ dụng. Ngươi hãy rời khỏi nơi đây ngay, vì đây là vùng cấm của hoàng gia, chẳng may bị bắt thì ngươi chỉ có mất đầu thôi!

Đạo Quang hoàng đế nói xong, quất ngựa quay mình đi ngay. Anh chàng đàn ông nọ cầm viên "Bạch ngọc ty yên hồ" trong lòng nửa tin nửa ngờ. Nhìn vào viên ngọc, thấy nó sáng đẹp, biết là vật trân bảo quý giá, liền nghĩ rằng nếu không được bổ dụng đi nữa thì bán nó đi cũng sống cũng được ít lâu. Thế là anh ta bỏ ngay cái ý nghĩ, quyện sinh, vội vàng lên kinh, mình mặc chiếc áo dài rách rưới thê thảm, xông bừa vào nha môn bộ lại.

Bọn sai dịch tưởng anh ta là thằng điên vội chạy ra ngăn lại. Anh ta đâu có chịu lép, la rầm lên, khiến đường quan cũng phải chú ý, sai ngay người ra hỏi. Anh ta nhất định không thèm nói với người này, nằng nặc đòi gặp cho bằng được đường quan mới chịu.

Vị đường quan nghe nói bèn đích thân bước ra. Lúc đó anh chàng nọ mới chịu đưa viên "Bạch ngọc ty yên hồ" ra ("Bạch ngọc ty yên hồ" vốn là của nước Việt Nam, Tôn Sĩ Nghị sang Việt Nam cướp được viên ngọc này đem về dâng cho vua Càn Long).

Vị đường quan xem viên ngọc, chẳng rõ đầu đuôi ra sao, vội cầm vào đưa cho quan thượng thư. Vị quan thượng thư này vốn người Mãn tên gọi Dục Minh, thoạt nhìn thấy viên ngọc đã nhận ra là của hoàng đế, vội cung kính đặt lên bàn rồi cả bọn quỳ xuống lạy lấy lạy để. Lạy xong, thượng thư Dục Minh trở ra, tiếp rước anh chàng nọ vào trong sảnh rồi hỏi xem viên ngọc này từ đâu tới thì anh chàng cứ thật thà kể lại và cuộc gặp gỡ và sự cứu mạng của người thợ săn trong rừng.

Dục Minh nghe xong, bèn bảo cho anh ta biết người thợ săn đó chẳng ai xa lạ mà chính là đương kim hoàng đế!

Anh ta giật nảy mình, vội bò mọp xuống đất, dập đầu lạy mãi trước viên ngọc Ty Yên hồ đặt trên bàn. Quan thượng thư Dục Minh sai người đỡ anh ta dậy, rồi hỏi xem, anh ta muốn gì. Anh ta giơ tay lên dập đập vào trán nói:

- Tôi mơ tưởng đã hơn mười năm nay cái chức biên khuyết tại huyện Hoàng Ba tỉnh Hồ Bắc…

Câu nói còn chưa hết, vị thượng thư Dục Minh đã vội sai viết trát cấp kỳ, viện đường quan viết ngay trát bổ nhiệm, rồi giao tận tay cho anh chàng kia. Anh kia tay cầm tờ trát, cúi khom mình lạy chào, bước ra khỏi nha môn để tới nhiệm sở.

Ít lâu sau, khi Đạo Quang hoàng đế trở về kinh, thượng thư Dục Minh đem viên ngọc Ty Yên hồ hoàn lại cho ngài thì ngài nói:

- Anh chàng cùng khổ ấy được bổ nhiệm nơi đâu?

Dục minh hồi tấu:

- Tâu thánh thượng! Bổ nhiệm làm quan huyện Hoàng Ba.

Đạo Quang hoàng đế cười nói:

- Anh chàng ta kể cũng bạc phước thật! Chi vì một cái chức quan nhỏ ấy mà tính đổi cả mạng sống!

Sau khi đáo nhiệm, nhờ được ơn tiến cử của hoàng đế nên thượng ty có biệt nhãn khiến anh ta, đâm cậy thế, vơ vét quá sá, mà thượng ty cũng chẳng dám cách chức. Sáu năm vơ vét, anh ta đã nhen nhúm được cái vốn hơn năm mươi vạn lạng bạc. Khi Đạo Quang hoàng đế biết ra thì câu chuyện đã rồi, đành bỏ qua luôn.

Lại nói Đạo Quang hoàng hậu vốn là con gái của viên thị vệ Di Linh, tên gọi Nữu Cô Lộc. Di Linh có ra ngoài làm quan, nhận chức tướng quân tại tỉnh Tô Châu. Nữu Cô Lộc cũng theo cha tới nhiệm sở. Nàng rất thông minh, lanh lẹn. Tướng quân Di Linh hằng ngày thường qua lại thăm viếng bọn thân sĩ địa phương. Bọn thân sĩ này cũng thường đưa vợ con vào nha môn tướng quân để đáp lễ và giao du trò chuyện. Do đó, Nữu Cô Lộc chơi thân với các cô gái con các vị thân sĩ này. Cùng bạn gái, nàng học hỏi nào thêu thùa may vá, nào ca hát đàn địch, nào cờ quạt, nào làm thơ viết chữ, tất cả những việc này nàng đều tinh thông cả.

Nữu Cô Lộc về sau vào cung, thấy nàng vừa có sắc đẹp, lại tài nghệ hơn người, Đạo Quang hoàng đế phong làm trưởng phi. Ít năm sau, nàng được phong làm hoàng quý phi. Đến khi bà hậu Đông Giai chết thì nàng được sắc phong lên làm hoàng hậu.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc ỷ mình thông minh đứng đắn, việc nào cũng muốn tranh thắng. Bà lại muốn tự mình cai quản hết sáu cung. Bà lấy quyền hoàng hậu, giám sát luôn cả hoàng đế, không cho phép hoàng đế tự ý triệu hạnh bất cứ cô nào, bà nào trong đám phì tần cung nữ. Cũng vì vậy tình nghĩa vợ chồng càng ngày càng hỏng.

Lần này, hoàng đế đem nàng Bác Nhĩ Tế Cẩm đi Nhiệt Hà, ở lại quá lâu, nên bà tỏ ra khó chịu hết sức. Đến khi Tĩnh phi trở về cung, bà thấy mặt, liền nói bóng nói gió, khi mỉa mai, lúc nặng nhẹ, chẳng thèm ý tứ nữa.

Tĩnh phi Bác Nhĩ Tế Cẩm nào phải vừa; nàng cũng là một tay dám chơi, lại đang được hoàng đế sủng ái, bởi vậy quyết không nhượng bộ. Song một đằng là phi tử, một đằng là hoàng hậu, danh phận, thế lực đôi bên chênh nhau quá xa. Tĩnh phi biết vậy, bèn dùng kế hiểm.

Trước hết, nàng tới Hoàng thái hậu, tỏ lòng ân cần với bà. Hồi đó vì Đạo Quang hoàng đế chuộng sự tiết kiệm, Hoàng thái hậu phải chịu cảnh cơ cực hết mức trong cung Từ Ninh.

Nhìn rõ điểm đó, Tĩnh phi thường đưa lễ vật tới dâng cho bà. Thái hậu đâm ra cảm kích, và tỏ ra quý mến nàng.

Tĩnh phi thấy Hoàng thái hậu đã cùng đi với mình một đường rồi, bèn rỉ rả kể lại những chuyện xấu của hoàng hậu.

Thái hậu thấy hoàng hậu thường cậy mình thông minh tài trí, tính tình lại hiếu thắng, vốn đã chẳng ưa sẵn. Trước đây hoàng hậu Đông Giai vốn là nội thân của Thái hậu, nay hoàng hậu Nữu Cô Lộc lại từ quý phi thẳng lên hoàng hậu nên Thái hậu không ưa. Đã thế, Tĩnh phi lại hay nói ra nói vào, đặt điều nọ thêm điều kia trước mặt thái hậu, khiến bà càng ngày càng ghét hoàng hậu.

Hoàng hậu cũng biết Thái hậu chẳng ưa mình, lại được Tĩnh phi xúi bẩy thêm vào nên mỗi lần gặp Tĩnh phi là một lần bà hậm hực bực tức, trong khi đó Tĩnh phi khôn khéo, lúc nào cũng tỏ ra kính trọng hoàng hậu hết mình. Cứ môi lần được triệu hạnh. Tĩnh phi lại khóc tỉ tê bên cạnh hoàng đế, nói hoàng hậu ghen tuông với mình thế nào, ngược đãi mình ra sao.

Nước mắt đàn bà vốn đã có sức mạnh ghê gớm, huống hồ đây là nước mắt của một sủng phi thì sức mạnh còn khủng khiếp hơn nhiều. Việc hoàng hậu bắt hoàng đế phải chịu nước lép với mình đã là một điều khiến hoàng đế giận ghét bà, nay được nghe Tĩnh phi tỉ tê kể lể, hoàng đế dần dần đâm ra căm thù hoàng hậu.

Giữa lúc ba người đang cùng sát cánh đi một đường để đối phó với hoàng hậu thì Ngũ hoàng tử bỗng gây chuyện rắc rối, suýt làm cho Tĩnh phi bị thất sủng.

Sổ là Ngũ hoàng tử Dịch Tôn, con của Tĩnh Phi, sinh cùng năm cùng tháng, cùng ngày với Dịch Trữ, chỉ sai có một giờ mà thôi, theo truyền thuyết trong cung nội thì Ngũ hoàng tử sinh ra trước rồi Tứ hoàng tử mới sinh và như thế chậm mất một giờ. Nhưng Toàn phi ranh mãnh, bỏ tiền ra mua chuộc mấy bà mụ cố ý cho báo chậm, do đó Tứ hoàng tử được làm anh mà Ngũ hoàng tử lại bị làm em.

Dịch Trữ tính thô bạo ngay từ lúc nhỏ, đã lớn mật lại hay làm bậy và chẳng ưa đọc sách chút nào. Ở trong A Kha Sở, Trữ thường cậy mạnh khiến bọn anh em ai cũng phải chịu lép, cũng vì vậy mà ai cũng ghét Trữ và để bụng căm giận.

Giận thì giận, ghét thì ghét, nhưng ai cũng sợ Trữ nổi máu hung lên, nên đành phải chịu vậy.

Ngũ hoàng tử nhờ lúc mẹ mình được sủng ái nên tuổi tuy còn nhỏ mà đã được phong làm Thuần Quận vương.

Thuần Quận vương danh vị tuy cao nhưng lại dốt nát, chẳng học hành gì.

Hồi 107

CHO THÀY UỐNG NƯỚC TIỂU

Hồi đó Thuần Quận vương cũng phải theo bọn anh em tới thư phòng dạy tập. Thầy học là đại học sĩ Từ Hồng Lục, vốn là ông thầy cực kỳ nghiêm khắc. Bọn hoàng tử đều sợ ông, duy có một mình Dịch Tôn là không, đôi khi còn đám chọc phá cả thầy. Tôn lấy một trái quả để ngay trên mặt ghế khiến thầy không để ý ngồi trúng ngay vào, đũng quần ố một đám vàng vàng chẳng khác gì cứt. Lối chơi mất dạy này, Tôn thường hay làm vào mùa hè.

Tôn lại bắt một con cóc bỏ vào tráp mực của thầy. Thầy không ngờ, mở nắp ra, tức thì chú cóc chân đẩy mực, nhảy tung ra dẫm dấu mực lên khắp mặt bàn, mặt ghế, mặt sách, nhọ nhem be bét hết. Trò chơi này, Tôn hay xài nhất. Ông Lục tuy giận lắm, nhưng chẳng biết phạt Tôn cách gì!

Có một hôm, bọn Kha (hoàng tử) trong thư phòng la hoảng rằng Ngũ hoàng tử mất tích. Ông Lục vội cho thái giám đi tìm. Tìm mãi một lúc lâu chẳng thấy, về sau bỗng thấy Tôn nhảy từ đầu cây cột điện Chính Đại Quang Minh xuống.

Trong điện Chính Đại Quang Minh có đặt một ngai vàng. Theo luật lệ nơi cung cấm thì hễ ai qua đây, bắt buộc phải vòng ra đằng sau chứ không bao giờ được phép đi trong điện, ngoại trừ dịp có lễ lớn. Thế mà nay Ngũ hoàng tử lại dám phạm cái tội đại bất kính đó. Ông thầy Lục liền đem "Tổ huấn" ra đánh vào lòng bàn tay ngũ hoàng tử ba roi. Từ đó Ngũ hoàng tử giận thầy, lúc nào cũng chỉ muốn báo thù.

Hồi đó vào giữa mùa hè. Từ Hồng Lục học sĩ người mập ú lại thích uống trà. Ông thầy đang giảng sách, bọn hoàng tử quây chung quanh. Từ học sĩ thấy khát, bèn nâng chén trà kế bên uống một hơi cạn chén rồi giảng tiếp.

Thấy vậy, Dịch Tôn sinh kế, lén lại rót gì đó chén trà đặt trên bàn, không có ai ngoài Tứ hoàng tử nhìn thấy.

Một lát sau, ông thầy Lục lại giơ tay với chén trà uống một ngụm. Nhưng trà chưa qua cổ, ông đã "ọe" lên một tiếng lớn, phun hết ra ngoài. Ông tức điên lên, mặt hầm hầm, mắt trợn ngược quát hỏi:

- Đứa nào đổ nước đái vào trà, hả?

Bọn hoàng tử giật nẩy mình đánh thót một cái, chẳng cậu nào dám hở răng. Vài phút sau, Tứ hoàng tử nhịn không nổi nữa, bèn khai ra:

- Tôi thấy Ngũ hoàng tử bưng chén đặt đó!

Dịch Tôn nghe xong đang tính che chống, nhưng ông thầy Lục đã quát vang, nhảy phóc tới tóm ngay lấy cổ Tôn. Tôn hoảng lên, la hét om sòm.

Giữa lúc đó, Đạo Quang hoàng đế không biết từ đâu xuất hiện, Ngài thấy cảnh đó, vội hỏi:

- Cái gì thế? Ngũ A kha không thuộc bài hả?

Từ Hồng Lục thấy hoàng đế tới vội chạy ra đón. Ông nói:

- Ngũ A kha đem cho thần một chén trà, trong có mùi vị hết sức lạ! Thỉnh hoàng thượng ngửi qua sẽ rõ.

Đạo Quang hoàng đế cầm lấy chén trà đưa lên mũi, Ngũ hoàng tử biết nguy, vội co cẳng chạy vắt giò khỏi cửa.

Đạo Quang hoàng đế cả giận, quát một tiếng lớn:

- Bắt nó lại!

Tức thì hai tên thái giám xông tới tóm cổ ngay Dịch Tôn điệu vào.

Đạo Quang hoàng đế tức giận đến cực điểm, tuốt ngay cây bội đao, nhè Dịch Tôn chém tới. May thay Từ Hồng Lục ngăn kịp rồi quỳ xuống xin tha cho Ngũ hoàng tử.

Đạo Quang hoàng đế thấy Từ học sĩ quỳ trên nền gạch, nguôi cơn giận, vội vực ông dậy. Từ học sĩ thấy hoàng đế bớt giận bèn bịa chuyện nói tốt cho Ngũ hoàng tử. Dịch Tôn nhân đó vội quỳ xuống đất, dập đầu luôn mấy cái xin tha tội.

Đạo Quang hoàng đế chưa hết giận giơ chân đá một phát vào ngực Tôn khiến Tôn ngã quị xuống sàn nhà. Ngài lại lấy một chiếc hèo lớn đưa cho ông thầy Lục, giục ông đánh mười hèo vào đít Tôn.

Đạo Quang hoàng đế nghĩ rằng Dịch Tôn là con đẻ của Tĩnh phi, nay dám làm điều điên rồ ấy, tất hẳn mẹ cũng có tội. Ngài hầm hầm chạy vội vào cung. Ai ngờ Tĩnh phi đã biết được chuyện này cách đó ít phút. Nàng vội nhổ hết trâm, buông tóc xoã, tay cầm nào sách, nào mũ, nào dây lưng, quỳ lạy tại cửa cung. Thấy hoàng đế bước tới, nàng vội dập đầu, miệng tâu:

- Thần thiếp không biết cách dạy con, khiến hoàng thượng phải tức giận, tội thật muôn thác. Thần thiếp nguyện xin đem sách, mũ, dây lưng trả về, chỉ mong hoàng thượng đại phát từ bi cho thiếp một cái chết.

Nói đoạn, đôi mắt nàng tuôn lệ như mưa. Lúc mới tới, Đạo Hoàng hoàng đế quả có giận lắm, nhưng thấy tình cảnh đáng thương của Tĩnh phi thì lòng se lại. Ngài giơ tay vực Tĩnh phi lên, bảo nàng:

- Yên tâm! Khanh không có tội chi, chỉ riêng thằng nghịch tử đó có tội thôi! Cần phải cho nó một trận mới được!

Tĩnh phi bước tới vài bước, đớ hoàng đế về cung. Lúc vắng người. Tĩnh phi thì thầm cầu xin cho Ngũ hoàng tử.

Qua ngày hôm sau, Đạo Quang hoàng đế truyền dụ cách hết chức tước của Thuần Quận vương Dịch Tôn, nhốt trong thâm cung xanh (Thanh cung) ba năm, không cho ra ngoài.

Đạo Quang hoàng đế tuy trừng phạt nặng Ngũ hoàng tử nhưng lại vẫn sủng ái Tĩnh phi hết sức. Ngũ hoàng tử là con Tĩnh phi. Tình mẫu tử sâu nặng. Bởi thế Tĩnh phi bỏ ra rất nhiều tiền đút lót bọn thái giám Thanh cung. Nàng thường đưa quần áo, đồ ăn thức uống vào, nhờ người trao lời an ủi hoàng tử bảo nhẫn nại chờ ít lâu khi nào hoàng thượng hết giận, sẽ cầu xin tha tội cho.

Tin này đến tai hoàng hậu. Bà kết án Tĩnh phi tư thông với bọn thái giám bên ngoài, kết giao với Thanh cung, rồi dâng một bản sớ lên hoàng đế nói Tĩnh phi không biết an phận thủ thường, cần phải quản thúc gắt gao.

Đạo Quang hoàng đế đang lúc say mê Tĩnh phi thấy tờ sớ, cười khẩy một tiếng, vò nát ném vào sọt rác. Từ đó, mối ác cảm tình giữa hoàng hậu và Tĩnh phi lộ hẳn ra. Suốt ngày Tĩnh phi nghĩ mưu tìm kế hãm hại hoàng hậu. Nàng vốn thân với bọn thị nữ hầu cận thái hậu, bèn xui bọn này nói xấu hoàng hậu trước mặt bà. Chúng đặt điều bảo hoàng hậu những lúc vắng người thường trù rủa thái hậu, mong cho thái hậu chết sớm để nắm trọn uy quyền trong cung cấn.

Hoàng thái hậu tuổi đã già, đâu còn sáng suốt để phân biệt phải trái, nay nghe những lời gièm pha đó, đâm ra nửa tin nửa ngờ. Về sau, một cung nữ cung Từ Ninh qua chơi bên cung hoàng hậu, vô tình lượm được một thằng bù nhìn trên găm bảy chiếc kim tú hoa; rất lấy làm lạ. Cung nữ này vốn hầu cận thái hậu. Nó vội cầm thằng bù nhìn lén, đưa về cho bà coi.

Hoàng thái hậu xem qua thấy trên thằng bù nhìn viết tám chữ ngày sinh tháng đẻ, lại chính là ngày sinh tháng đẻ của mình. Bà đùng đùng nổi giận, cật vấn xem bù nhìn lượm được tại nơi nào.

Con cung nữ thấy thái hậu cả giận, sợ quá, vội đem chuyện mình sang chơi bên cung hoàng hậu rồi lượm được bù nhìn ra sao, kể hết đầu đuôi. Thái hậu nghe đoạn, càng tức, nghiến răng hậm hực nói:

- Tám chữ ngày sinh tháng đẻ của tao, ngoài hoàng hậu ra chẳng ai được biết. Thằng bù nhìn, chắc do con khốn nạn đó làm ra! Ni trù rủa mãi chẳng thấy tao chết, nên nghĩ ra trò bùa ngải nầy để diệt trừ chứ gì? Hừ! Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt, thằng bù nhìn đã vào tay tao rồi, con khốn nạn phải chết! Tao phải đích thân tới hỏi tội mới được!

Miệng nói tay chân bà run lên vì giận dữ. Bà cầm thằng bù nhìn chống tay đứng dậy hầm hầm bước ra khỏi cung, kêu đem nhuyễn kiệu lại để tới cung Dực Khôn hỏi tội cô con dâu khốn nạn kia, con thị nữ hoảng quá. Nó vô tình lượm thằng bù nhìn về, ai ngờ chuyện đâm ra to. Nó sợ bị tai vạ vội quỳ xuống ngăn thái hậu và nói:

- Xin Thái hậu đừng quá nóng. Chuyện này nên cho người tra xét kỹ rồi hãy hỏi tội cũng chưa muộn!

Thái hậu vội ngắt lời, hỏi kế Tĩnh phi. Nàng nhích gần lại bên cạnh, ghé sát tai bà khẽ nói mấy câu. Thái hậu gật đầu lia lịa. Sau đó bà truyền lệnh cho thị nữ nói lại cho đám cung nữ tuyệt nhiên không được đề cập tới chuyện xảy ra hôm đó, đứa nào hé miệng sẽ mất mạng.

Được lệnh đó đám cung nữ như ngậm hột thị cả, hai cung Từ Ninh và Dực Khôn chẳng hề nghe thấy lời nào bàn tán xì xào.

Đôi khi hoàng hậu Nữu Cô Lộc tới triều kiến, thái hậu tuyệt nhiên không lộ vẻ gì khác biệt, vẫn dùng lời ngon lẽ ngọt mà nói.

Hoàng hậu không ngờ, cứ tưởng rằng thái hậu đã chuyển ý đối với mình, trong lòng rất lấy làm sung sướng.

Ngày lễ Vạn thọ của thái hậu đã tới. Mục tướng quốc lại dâng lên cho thái hậu ban nữ nhạc của mình để hát chúc thọ.

Đạo Quang hoàng đế, nhìn gánh hát, nhớ tới Nhị Hương phi thuở nọ chết một cách đáng thương. Thoạt đầu, ngài tính lên đài đóng vai Lão lai tử chúc thọ, nhưng khi nhớ tới cái chết của Nhị Hương phi thì lòng đầy thê thảm, không muốn diễn nữa, bèn bảo tứ hoàng tử Dịch Trữ diễn thay ngài.

Nhân lúc mọi người không để ý ngài chuồn ra ngoài trở về cung, sau chân có một thái giám theo hầu. Tên thái giám thấy ngài chạy vào tẩm cung lôi ra một bức tranh vẽ hình Nhị Hương phi treo lên đầu giường, thắp nhang lạy mấy cái, miệng gọi phi tử rồi thì thầm nói với bức ảnh:

- Trẫm đã hại nàng rồi. Bọn chị em của nàng hiện đang diễn hát tại đây. Nàng ở mãi nơi đâu? Trẫm mỗi khi đi nằm, thường thấy nàng trong mộng. Tại sao nàng không tới thăm trẫm?

Mấy câu nói nghe có vẻ thảm thiết quá, khiến tên thái giám đứng sát bên cạnh nghe thấy cũng phải rơi lệ. Hoàng đế khấn khứa thêm một hồi, rồi lặng lẽ ngồi nhìn bức tranh.

Sau cùng, ngài bảo thái giám buộc tranh cất đi, rồi trở về chỗ cũ xem hát.

Trên sân khấu, Tứ hoàng tử đang đóng vai Lão lai tử, tay cầm một chiếc trống nhỏ, vừa gõ vừa nằm dưới đất cất tiếng hát vang.

Đạo Quang hoàng đế xem thấy cũng phá lên cười ha hả, chỉ có thái hậu, trong lòng đang có việc không vui, nên ngồi im lặng, chẳng nói chẳng cười.

Hoàng hậu Nữu Cô Lộc thấy chính con trai mình diễn hát trên sân khấu, muốn lấy lòng Thái hậu, bèn làm một bài thơ tứ tuyệt, để chúc thọ Thái hậu ngay lúc đó, rồi đem dâng bà.

Thái hậu cầm thơ xem, luôn mồm khen hay, lại bảo rót rượu thưởng. Tĩnh phi ngồi phía sau, sửa soạn xong từ lúc nào, chỉ cần nghe có một câu "thưởng rượu" là vội mang hồ rượu bước tới. Một con cung nữ đứng cạnh, tay bưng cái khay vàng trong đựng ba chiếc chén vàng nhỏ xinh. Tĩnh phi rót luôn ba chén rượu đầy.

Hoàng hậu thấy Thái hậu thưởng rượu, mừng như mở cờ trong bụng, vội quỳ xuống, thẳng ngay cổ, nốc một hơi cạn luôn ba chén rồi lạy tạ ơn. Một luồng nhiệt khí chạy vuốt từ cồ xuống tới đan điền hoàng hậu.

Trên sân khấu Tứ hoàng tử diễn trò cũng vừa xong. Thái hậu cho gọi tới, đích thân chọn một dây chuỗi toàn trân bảo đeo vào chéo cổ áo cho tứ hoàng tử, lại bảo:

- Ca hát nhiều sợ hơi lạnh lọt vào bụng, nên uống một chút rượu cho ấm.

Tứ hoàng tử dạ một tiếng, tức thì bưng rượu uống cạn luôn. Thái hậu ngồi lại một lát nữa, bảo đau lưng không chịu nổi, bèn bỏ cuộc trở về cung Từ Ninh. Hoàng hậu cùng các phi tần thấy thái hậu đã về, cũng rút êm cả.

Hoàng hậu vốn không biết uống rượu, nay nốc liền mấy chén, khi trở về cung, đầu nặng và nhức như búa bổ. Toàn thân rã rời, bà lăn ra giường ngủ ngay. Sáng mai ra, bà thấy mình phát sốt nóng như thiêu như đốt, tâm thần mơ hồ bải hoải, chẳng biết bệnh gì.

Qua ngày thứ hai, bệnh tình bà càng trầm trọng, có cơ nguy đến tính mạng. Đạo Quang đế chỉ vì hoàng hậu ghen tuông và áp chế quá nên tình nghĩa vợ chồng nhạt nhẽo từ lâu, nay được tin này, bèn bảo Tứ hoàng tử vào cung thăm mẹ.

Hoàng hậu thấy con bước vào, tỉnh táo đôi phần, cầm tay mà oà lên khóc, miệng muốn nói song chẳng nói được câu nào.

Đang khóc, bỗng bà thét lên một tiếng lớn, đôi mắt trợn ngược, hai tay cào mạnh vào trước ngực khiến mấy lớp áo đều rách nát, để lộ cả vú ra. Mấy con cung nữ chạy vội tới, kéo chăn che kín lại cho bà. Hoàng hậu lại thét lên một tiếng nữa, nhảy vọt từ trên giường xuống đất rồi cứ chân trần như thế, chạy khắp phòng, miệng la hét om sòm, tay xé nát hết quần áo, thân thể bà gần như loã lồ, phía trên ngực chỉ còn sót lại một chiếc yếm rách tươm, phía dưới chỉ còn dính có cái quần lót màu hồng, hùng hổ gạt phắt mấy con cung nữ, chực xông ra ngoài phòng. Tứ hoàng tử thấy thế vội ôm ghì lấy mẹ. Nhưng không biết lúc đó hoàng hậu lấy sức nơi đâu mà mạnh đến nỗi chỉ có một cái đẩy mà Tứ hoàng tử đã ngã lăn ra đất.

Bà thoát được tay Tứ hoàng tử, chạy xông xộc ra ngoài phòng. Bọn thị nữ hầu cận la rầm lên. Tức thì đám cung nữ đứng chực phía ngoài xông tới, níu bà lại, đưa vội trở vào.

Đôi mắt bà lúc đó đỏ ngầu, thấy ai là đánh, thấy đồ là đập. Bên ngoài chỉ nghe tiếng đổ vỡ chen lẫn tiếng bọn cung nữ kêu khóc om sòm vang động cả lên.

Tứ hoàng tử sợ quá, vội chạy ra khỏi cung, vừa khóc vừa kể cho phụ hoàng nghe, Đạo Quang hoàng đế cũng phát hoảng, chạy tới cung Dực Khôn, đứng ngoài cửa sổ ngấp ngó nhìn vào. Rồi ngài truyền ngự y tới. Thấy hoàng hậu thân thể trần truồng, ngây ngây dại dại, viên y ngự không dám tới chẩn mạch, tất nhiên cũng vô phương cho thuốc. Cả đám thúc thủ vô sách, đành đóng chặt cửa cung, mặc sức cho hoàng hậu nhảy nhót, phá đồ phá đạc, kêu khóc nói cười trong đó.

Hoàng hậu phát cuồng luôn ba ngày, đến khi quá mệt mỏi, tinh thần gần như mất hết, cổ họng la hét cũng khản đặc lại rồi, bà mới lăn ra giường, nằm im. Bọn cung nữ đem chăn lại đắp cho bà. Viên ngự y lúc này mới dám tới chẩn mạch, hết thuốc. Uống đã mấy thang, mà hoàng hậu bệnh tình vẫn như cũ, không có chút nào thuyên giảm. Đêm đến, vào giữa lúc canh khuya, hậu bỗng thét lên những tiếng hết sức kỳ dị nghe như tiếng quỷ kêu ma rống.

Ngày hôm sau Hoàng thái hậu đã biết rõ cả, tới cung Dực Khôn thăm hoàng hậu. Tĩnh phi hẩu cạnh cũng bước vào.

Lúc đó hoàng hậu đang nằm mê man trên giường, mơ mơ màng màng, chẳng biết gì cả. Bọn cung nữ bưng một chén thuốc tới. Tĩnh phi vội đưa tay ra tiếp lấy, thổi cho bớt nóng rồi đích thân đố vào miệng cho hoàng hậu uống thử. Rồi nàng lấy cái trâm vàng gắn trên mái tóc quậy bát thuốc lên cho đều, xong đưa cho hoàng hậu uống nốt. Thái hậu và Tĩnh phi còn ngồi lại một lát nữa rồi mới trở gót về cung.

Cách ba ngày sau, Thanh cung truyền chỉ dụ ra ngoài là hoàng hậu Nữu Cô Lộc đã chết. Nội vụ phủ vội vàng lo việc tang ma. Lễ bộ cũng vội trù bị việc tế lễ cúng viếng.

Chỉ có thái hậu và Tĩnh phi khoan khoái trong lòng. Hoàng hậu chết chẳng phải ai hạ thủ mà chính tay hai bà này đầu độc đó thôi.

Tất cả kế hoạch ám hại hoàng hậu đều do Tĩnh phi bày ra. Nàng cùng với Thái hậu ước định trong ngày lễ Vạn thọ sẽ cố tìm cách thưởng rượu cho hoàng hậu. Tĩnh phi đã lén đổi chiếc bầu rượu trong hoà bảy viên thuốc A Tô Cơ từ trước.

Hoàng hậu uống phải thuốc nầy đâm ra cuồng loạn như điên. Trong cung nhà Thanh chỉ có bọn tăng Lạt Ma chế được thuốc này. Thuốc có thể chữa trăm bệnh, nhưng cũng lấy tính mạng người rất dễ dàng. Đời vua Khang Hi, thái tử Dân Nhung cũng đã bị vua Ung Chính thông đồng với đại quốc sư cho uống thuốc này, cuối cùng đâm ra si ngốc và bị phế bỏ. Đạo Quang hoàng hậu cũng bị thuốc này làm cho điên khùng và chết một cách thê thảm.

Đạo Quang hoàng đế cũng biết hoàng hậu bệnh một cách quái lạ và chết có vẻ đáng nghi, nhưng vì tính nghĩa vợ chồng giữa ngài và hậu đã từ lâu không còn gì nên cũng chẳng thèm tra vấn kỹ. Hơn nữa, ngài còn cho rằng hậu chết đi như nhổ được cái đinh trước mắt.

Đạo Quang hoàng đế thấy tuổi mình đã già, nên chẳng có ý muốn lập hoàng hậu kế nữa. Ngài chỉ phong nàng Bắc Nhĩ Tề Cẩm làm quý phi mà thôi. Từ đó, hai người tha hồ tự do hú hí với nhau trong cung cấm, chẳng còn phải e ngại điều gì nữa.

Từ khi Nhị Hương phi chết, Đạo Quang hoàng đế đâm ra chán nản, làm biếng, chẳng nhòm ngó gì tới triều chính. Ngài tín nhiệm Mục Chương A, nhất nhất mọi việc đều giao cho A xử lý.

Mục Chương A tính chỉ ham tiền, thích làm tiền, ngoài ra chẳng còn biết gì nữa. Người Anh làm trời làm đất gì ở Quảng Đông, A đều giấu biệt, chẳng hề cho hoàng đế biết một tin tức gì.

Tổng đốc Lưỡng Quảng Dịch Sơn vốn là tay tâm phúc của Mục tướng quốc. Vừa đáo nhiệm, Sơn đem ngay thuỷ quân đánh tàu chiến của người Anh. Tàu Anh phản công bằng đại bác như mưa rào, khiến thuỷ quân của Sơn tan tác tơi bời.

Đã thế, quân Anh còn bảo Trung Quốc vô cớ gây hấn, hè nhau kéo lên bờ bắn phá tan nát hết các pháo đài của Trung Quốc dọc bờ bể. Dịch Sơn thấy quân mình đại bại, không biết làm cách nào, đành quay ra giảng hoà với người Anh. Người Anh bắt nhượng Hương Cảng nhưng Trung Quốc không chịu. Thế là thuỷ quân Anh xông lên bờ, nào súng lớn, nào súng nhỏ nhả đạn tới tấp vào Phúc Kiến và Hạ Môn. Tổng đốc Hạ Môn không đề phòng gì cả, bị quân Anh đánh thốc vào mãi tới miền nội trì. Ngoài ra, còn có vài chiến thuyền ngoại quốc khác nhả đạn đại bác tấn công miền Định Hải, Ninh Ba nữa.

Tổng đốc Chiết Mân vội phi báo tổng binh trấn Định Hải là Cát Vân Phi, tổng binh trấn Xứ Châu là Trịnh Quốc Hồng, tổng binh trấn Thọ Xuân là Vương Tích Minh, chia ba lộ quân trấn thủ các nơi. Không ngờ hai tổng binh Trịnh và Vương, khi tới Định Hải lại án binh bất động, đứng nhìn quân của Cát Vân Phi bị quân Anh vây khắp bốn phía, tấn công kịch liệt khiến Trúc Sơn thất thủ, Phi trúng đạn đại bác lủng ngực chết ngay dưới chân đồi hoang. Quân Anh đem thây ma Cát Vân Phi về dinh tạm cất. Cát tổng binh đem theo một ái thiếp trong quân. Khi nghe tin chồng tử trận, người ái thiếp khóc lóc, chết đi sống lại nhiều phen. Dứt tiếng khóc nàng bèn quỳ trước mặt bọn tỳ nữ và binh sĩ, dập đầu liền liền. Bọn binh sĩ thấy vậy cũng vội vàng quỳ xuống đáp lễ không thôi. Bà Như phu nhân cất tiếng khóc, khẩn khoản mọi người đưa bà tới đồn quân Anh để cướp thây chồng mang về. Bọn binh sĩ thấy bà này có lòng trung liệt như vậy, lấy làm cảm động, nguyện liều mạng giúp chủ mẫu.

Đêm đó trời tối như mực, đồn quân Anh đóng trên bờ. Bà Như phu nhân đi đầu, đem toán lính lặng lẽ tới đồn quân Anh, xông vào đánh cho chúng một trận liểng xiểng, cướp được xác chồng mang về làm ma chay tống táng đàng hoàng…

Hồi 108

HỒNG TÚ TOÀN KHỞI LOẠN

Sau khi Cát tổng binh chết, hai vị tổng binh Vương, Trịnh cũng theo nhau qua đời. Tất cả mọi việc đều bị tướng quân Dụ Khiêm làm cho hỏng hết. Khiêm nắm binh quyền trong tay nhưng ai chết mặc ai, chẳng thèm cứu. Mãi đến khi ba lộ binh mã kẻ chết người tan, quân Anh xông tới chân thành, Khiêm mới vừa đánh vừa lùi, lùi mãi tới chỗ không thể lùi được nữa, Khiêm mới nhảy xuống Dương Trì mà tự tử chết.

Mục tướng quốc thấy chuyện càng ngày càng rắc rối lại thêm tin Ninh Ba, Thượng Hải đều thất thủ, Phúc Kiến bị vây, dồn dập báo về, biết không thể bịt đi được nữa, đành phải tâu cho hoàng đế rõ.

Đạo Quang hoàng đế từ lâu y như nằm trong trống, chẳng hay biết gì cả, nay nghe nói đại cuộc hỏng bét hết rồi thì lo sợ cuống quýt cả lên, nhưng vẫn nghe lời Mục Chương A dùng Kỳ Anh để đối phó với người Anh.

Chiến thuyền của quân Anh đánh tới Ninh Ba, Kỳ Anh không còn cách nào hơn bèn giảng hoà với người Anh, cắt Hương Cảng nhường cho họ, bồi thường số thiệt hại về a phiến sáu trăm ngàn lạng bạc và chiến phí một triệu hai trăm vạn lạng.

Anh lại cho mở thêm năm cửa bể là Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải để cho người ngoại quốc vào ra buôn bán. Đây là thất bại lớn lao nhất của Trung Quốc.

Sự kiện này làm cho dân chúng trong nước căm hận Mục tướng quốc sâu tận xương tuỷ. Ai cũng cho họ Mục là tên gian thần đã làm hỏng việc nước, lại còn cậy mình người Mãn khinh người Hán; đem đất đai của người Hán dâng cúng cho người ngoài một cách bừa bãi. Điều này đã chọc giận một vị học giả nơi thôn làng tên gọi Hồng Tú Toàn ở Hoa huyện tỉnh Quảng Đông.

Hồng Tú Toàn thấy lòng người muốn loạn, thiên hạ mọi việc rối bời, bèn tạo ra một thứ tôn giáo, gọi là Da Hoà Hoa (Jéhovah). Theo lời Hồng Tú Toàn thì Đức Chúa Da Hoà Hoa sinh hạ bốn trai một gái. Tất cả đều giáng trần cứu người hoạn nạn. Toàn là một trong bốn người con trai, người con gái chính là Hồng Tuyên Kiều, em gái ông ta (còn hai người con trai nữa không thấy Hồng Tú Toàn nói tới, sách không ghi lại).

Hồng Tú Toàn loan báo rằng hai anh em ông ta biết thiên hạ sắp đại loạn nên lập đạo để cứu giới khỏi khổ nạn. Hồng Tú Toàn xưng là em trai Chúa trời (Thiên đệ), Hồng Tuyên Kiều tự xưng là em gái Chúa trời (Thiên muội). Hai anh em nhà này đi tới đâu cũng khuyên mọi người nhập đạo. Khi đã là tín đồ, hằng năm nạp ba lạng bạc thì khỏi hết tai nạn trong đời.

Đám dân nghèo bị bọn tham quan ô lại bóc lột, sống trong cảnh nghèo khó nghe Hồng Tú Toàn hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp thế là ồ theo và nhập đạo rất đông mới vài hôm mà sô tín đổ đã lên tới hàng vạn.

Hồng Tú Toàn nghe tại thôn Kim Điền có một người nổi tiếng túc trí đa mưu tên gọi Dương Tú Thanh. Toàn bèn bảo ngay Thanh chính là em trai thứ ba của Chúa trời, rồi tới gặp Thanh.

Toàn và Thanh gặp nhau chuyện trò suốt đêm, tâm đầu ý hợp. Họ tìm thêm được hai đạo hữu nữa là Phùng Vân Sơn và Chu Cửu Đào, rồi chia nhau đi truyền đạo. Họ bảo đám dân nghèo muốn lên thiên đường thì trước hết phải tin theo em trai của Chúa trời đã.

Tín đồ càng ngày càng đông. Dương Tú Thanh có khoa ăn nói rất giỏi, tập họp nhân sĩ các thôn xã lại diễn thuyết một hôm, sau đó sáu mươi hai thôn theo Thanh và kéo cả vào đạo Tín đồ đông rồi, bọn Thanh lấy ngay thôn Kim Điền làm trụ sở để hoạt động.

Thanh có hai người bạn rất có tài, một tên gọi Vi Xương Huy ở Quế Bình, một là Thạch Đại Khai người Quý huyện.

Thanh rủ cả hai người này nhập đạo. Từ đó, thế lực của bọn Thanh càng ngày càng lớn mạnh.

Hồng Tú Toàn thấy thời cơ đã tới, bèn sửa soạn khởi sự.

Toàn có người bạn học tên gọi Vương Luân Can, rất giỏi khoa bói toán. Toàn bảo Can bói cho một quẻ. Quẻ bói trong có sáu chữ: "Định hữu cửu cửu chi tôn" (nhất định có được ngôi vua tôn quý). Toàn mừng lắm. Can lại bói cho Thanh một quẻ, trong có năm chữ: "Định quy ngã quân sư" (nhất định làm quân sư). Toàn và Can nhìn nhau, cười đắc ý. Toàn liền mời Can làm quân sư. Vương Luân Can trong vai một anh thầy bói, đi khắp nơi dụ thuyết, khuyên người ta về đầu Hồng Tú Toàn. Thấy đã đủ lực lượng, Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh dấy binh khởi nghĩa, phát tự thôn Kim Điền, kéo xuống đánh Giang Tây, Quý huyện rồi Tân Châu, thanh thế vang dậy bốn phương.

Hồng Tú Toàn tự xưng làm Thái Bình Vương ở sông Đại Hoàng, rồi chia quân đi chiếm cứ một giải núi Tử Kinh đánh được châu Vĩnh An, Hồng Tú Toàn kiến lập ra Thái Bình Thiên Quốc và tự phong cho mình làm Thiên Vương, phong Dương Tú Thanh làm Đông Vương, Tiêu Triều Quý làm Tây vương, Phùng Vân Sơn làm Nam Vương, Vi Xương Huy làm Bắc Vương, Thạch Đại Khai làm Dực Vương. Toàn còn một Vương hiệu kêu hơn nữa là Thiên Đức Vương ngụ ý là con trai đích thực của Chúa trời, đem gieo rắc cái đức sáng của Chúa.

Toàn phong cho bọn Tần Mục Chương, La A Vương, Phạm Liên Đức, Hồ Dĩ Hoảng, tất cả đến bốn mươi tám người anh em, kẻ làm thửa tướng người làm tham mưu, người làm tướng quân. Cấp dưới nữa gồm các tướng, các quan lớn nhỏ đủ tám trăm người cũng đều được phong quan chức. Toàn ra một đạo thượng dụ, lời lẽ như sau:

"Thiên Vương chiếu lệnh: phàm đinh lớn nhỏ trong quân, ai cũng đều phải nhận rõ mà phụng hành đại đạo. Chúng ta nên biết đức Chúa Cha ở trên Trời tức Thượng Chúa Hoàng Thượng Đế vốn là một chân thần. Ngoài Chúa là chân thần ra, các thần khác đều chẳng phải là thần. Đức Chúa Thượng Hoàng đế không có gì là không biết, không có gì là không thể làm được, không chỗ nào là không có mặt, và không có một ai là không do ngài sinh ngài nuôi, cho nên ngoài đức Chúa Thượng Chúa Hoàng Thượng Đế ra không có một vị thần nào được quyền tiếm xưng là Chúa, tiếm xưng là Thượng đế. Từ nay về sau, các binh tướng thảy đều phải gọi trẫm là Chúa, thảy đều cấm nói "Thượng" khiến xúc phạm đền Chúa. Từ nay cả thảy đều gọi trẫm là Chúa, chứ không được gọi là Thánh khiến xúc phạm đức Chúa Cha trên Trời nữa.

Trước đây các vị quân sư tả phò hữu bật, tiền đạo hậu vệ, Trẫm đầu sai làm vương gia, đó là vì Trẫm theo cái lệ bất chính mà ra. Nếu căn cứ vào chân đạo mà bàn e có điều xúc phạm. Vậy nay đặc phong cho Tả phò chánh quân sư là Đông Vương quản trị các nước ở phương Đông, phong hữu bật chánh quân sư làm Tây Vương quản trị các nước phương Tây, phong Tiền đạo phó quân sư lộ Nam Vương quản trị các nước ở phương Nam, phong Thạch Đạt Khai làm Dực Vương, làm vây cánh giúp rập Thiên triều. Tất cả các Vương được phong như trên đều chịu sự tiết chế của Đông Vương. Mặt khác Trẫm đặc chiếu gọi Hậu cung Nương Nương quy phi làm Vương nương. Khâm thử".

Thiên Vương Hồng Tú Toàn sau khi hạ đạo thượng dụ, liền cho mời các vương gia tập họp lại trong cung, mở tiệc lớn. Rượu đến lúc chếnh choáng, Thiên Vương tự ý khai lý lịch ra rằng:

"Trẫm khi lên bảy theo học ở trong thôn, thường dậy sớm tới trường, ngoài đường thấy có trâu ngựa đứng dậy giơ móng, gõ vó để chào trẫm. Đến lúc mười tám tuổi, trẫm tinh thông hết các môn, môn nào cũng đều giỏi. Nhà nghèo nên trẫm mở trường dạy trẻ ngay trong thôn, sinh sống qua ngày. Cha mẹ trẫm đều sớm mất cả. Mãn tang, trẫm lên phủ đi thi. Giữa đường, trẫm gặp một ông thầy coi tướng rất giỏi, đoán tướng trẫm, bảo trẫm công danh sau này phú quý không thể nói hết được. Rồi có một hôm, trẫm đi qua phố Hùng Trấn, gặp hai ông lão cho trẫm chín cuốn thiên thư (sách trời). Từ đó ngày đêm ở lỳ trong nhà, trẫm học thuộc bộ sách quý đó. Nhưng khi học xong, trẫm bỗng nhuốm bệnh. Căn bệnh này quả thực kỳ quái. Trẫm nằm trên giường bốn mươi ngày liền chẳng cơm nước gì, mơ một giấc mơ.

Trước hết thấy một con rồng, một con cọp già, một con gà, chạy xông vào nhà, phía sau có một đám người khá đông, mình mặc quần áo bảnh bao sặc sỡ, miệng thổi sáo, ca hát vang dậy, xông vào vào đón rước trẫm ra khỏi nhà, đặt lên kiệu, khiêng tới một nơi rất đông trai gái ăn mặc toàn quần áo thời xưa. Nhìn thấy trẫm, bọn trai gái đều bước tới làm lễ. Một bà lão từ phía sau tiến lên trước, xô mạnh trẫm xuống lòng sông, rồi tắm rửa cho trẫm sạch sẽ, sau đó đưa trẫm tới một toà điện lớn rộng. Tại nơi đây, trẫm bị một người cầm dao mổ bụng, móc trái tim trẫm ra, thay bằng trái tim khác, lúc đó thật là đau đớn khủng khiếp. Trong điện chất rất nhiều những cuốn sách nhỏ. Trẫm chọn lựa, mở xem. Sách giảng về phép tắc hành quân. Từ khi bị đổi tim, trẫm minh mẫn dị thường, đọc đâu nhớ đó, và nhớ lại vừa nhanh. Đọc hết mọi bộ sách trong điện, họ lại đưa trẫm tới một điện khác, phía trên điện có một ông lão mặc bộ đồ đen song râu ria trắng toát, tướng mạo oai nghiêm, mặc một bộ đồ đen. Vừa nhìn thấy trẫm, ông lão nhỏ lệ trên má bảo: "Nhân loại sống trên thế giới này đều do ta tạo ra. Nay đại kiếp sắp tới, phi người ra chẳng ai cứu được chúng cả!"

Nói đoạn ông lão mặc bộ đồ đen trao cho trẫm một chiếc ấn vuông, một cây kiếm, lại cho trẫm ăn một trái cây chín màu vàng, ăn xong trẫm không còn biết đói là gì nữa!

Giấc mộng đến đây dứt, trẫm tỉnh ra thì đã bốn mươi ngày qua. Đến lúc hết bệnh, trẫm nhớ lại nội dung chép trong binh thư, không quên lấy một chữ. Hiện nay bọn ta mở cờ đã thắng, ra ngựa đã thành công, đều là nhờ những phép tắc trong mấy cuốn binh thư đó. Bọn ta phải nhớ ơn vị hắc y lão nhân kia".

Nói đoạn, Hồng Tú Toàn sai em gái là Hồng Tuyên Kiều vẽ một bức chân dung vị lão nhân nọ đặt tại giữa điện, rồi tất cả bắt chước vị lão nhân để tóc dài xoã xuống vai khiến dân chúng đều gọi là bọn họ la quân "tóc dài".

Bên ngoài binh tình náo loạn như vậy mà bên trong Mục tướng quốc vẫn còn cố giấu Đạo Quang hoàng đế! Hoàng đế lúc này lại bị bệnh nặng, tinh thần bải hoải, chẳng còn làm gì được nữa.

Người lo rầu hơn cả lúc này là Tứ hoàng tử Dịch Trữ. Trữ vốn người tinh tế thấy bên ngoài thì bọn gian thần lộng quyền, bên trong thì phụ hoàng bệnh tật, lòng cứ rối bời lên. Lại thêm quân binh các nước phương tây như Anh, Mỹ, Đức, Pháp hằng ngày kéo tới bức hiếp, giáo đồ thì nổi dậy khắp xứ. Tin tức báo về càng ngày càng nguy cấp.

Trữ tuy làm hoàng tử, nhưng theo phép tắc của tổ tông lại cấm không cho tham dự vào quốc chính, đành khoanh tay ngồi nhìn, suốt ngày trong cung nội hầu hạ phụ hoàng bệnh hoạn. Đạo Quang hoàng đế biết mình đã đến lúc vô dụng rồi, nên cho triệu tập Tôn nhân phủ lại, có Tôn lệnh là Đái Thuyền, Ngự tiền đại thần là Đái Viên, Đoạn Hoa, Tăng Lâm Bi, quân cơ đại thần là Mục Chương A, Ai Thượng A, Hà Nhĩ Lâm, Trần Phụ Ân, Lý Chi Xương, Tổng quản nội vụ phủ đại thần là Văn Khánh, tất cả vào cung để phó thác hậu sự. Cùng lúc đó, bọn hoàng tử Dịch Trữ, Dịch Tố, Dịch Hoàn, cũng kéo nhau đứng cả hai bên giường bệnh của hoàng đế, để nghe cha truyền bảo, nước mắt dàn dụa. Đạo Quang hoàng đế đem hậu sự trối trăng cặn kẽ xong, bèn sai Mục Chương A và Văn Khánh, hai người tới điện Chính Đại Quang Minh lấy cái hộp vàng mang tới, mở lấy chiếu ra, tuyên đọc trước mọi người lập Tứ hoàng tử Dịch Trữ làm hoàng đế.

Trữ vâng lệnh chiếu thư quay về phía phụ hoàng tạ ơn.

Đôi ngươi của Đạo Quang hoàng đế bỗng trợn ngược lên rồi từ từ nhắm lại. Ngài đã ra đi, đi khỏi nơi dương thế...

Hồi 109

BỌN LÍNH COI KHO

Đạo Quang hoàng đế mất, bọn đại thần rước Tứ hoàng tử tới điện Thái Hoà đánh trống khua chiêng vang dậy, làm lễ triều hạ của bá quan, lên ngôi hoàng đế, hiệu là Hàm Phong.

Hàm Phong sai nội phủ tống đạt văn thư chiếu chỉ đi các tỉnh phát táng cho Đạo Quang hoàng đế, đồng thời chỉnh lý lại triều cương. Chỉ dụ đầu tiên của ngài ban xuống là, cách hết chức tước của quân cơ đại thần Mục Chương A, giáng tổng đốc Kỳ Anh xuống hàng ngũ thẩm viên ngoại long ngũ hậu hổ.

Mục Chương A vốn là một vị nguyên lão đại thần suốt ba triều, oai quyền hống hách khét tiếng. A lúc đó đã già, gia đình lại giàu có, thấy hoàng đế ra ân không tịch biên gia tài bèn lui về hưởng cảnh nhàn lạc.

Trở về nhà, Mục tướng quốc vốn tin tưởng Lạt Ma Giáo, định ra sức tu hành để có thể thành phật thành tiên. A cũng lại thích nhậu nhoẹt, thường mời mọc khách khứa đến nhà, tiệc tùng linh, đình.

Nhiều quan ngự sử thấy A bị cách chức mà không biết tội, vẫn ngang nhiêu hành lạc, giận quá, bèn dâng sớ xin hoàng thượng nghiêm tra xử xét. Một người thân thích của A được tin này liền tới báo cho A biết, A cười bảo:

- Tao chết rồi thì còn sợ cái nỗi gì mà chẳng tìm kiếm thú vui chứ? Mai tao còn mở tiệc to bằng mấy kia!

Qua hôm sau, Mục Chương A quả sai gia nhân mang thiệp đi khắp nơi mời đủ bạn bè thân thích, môn sinh, cố tri tới nhà dự tiệc. Trên tấm thiếp viết rõ ngày nào giờ nào từ giã cõi đời, xin vĩnh biệt Thánh thượng.

Tất cả đám khách ai cũng lấy làm lạ. Đúng giờ mời, mọi người đổ tới nhà A. A tươi cười hớn hở, chào đón trò chuyện hết sức vui vẻ cân cần, chẳng có chút gì sắp chết cả.

Hồi đó chức lang trung giữ kho bạc của bộ Hộ bị khuyết. Bổ sung vào chức này đều là người Mãn. Cứ ba năm một nhiệm kỳ, kẻ nào tham lam thì ít ra cũng phải vớ được vài chục vạn. Chẳng cần nói các vị quan lớn này mà ngay những chú lính coi kho thôi, lúc mãn nhiễm thế nào cũng kiếm chác được vài vạn lạng.

Hôm đó, khách mời tới đông lắm. Trong đại sảnh bày đủ bốn mươi thồi rượu. A cất chén mời khắp cả mọi người. Rượu đến giữa chừng, A nhìn ánh mặt trời rồi nói:

- Giờ đã tới rồi, xin quý vị tạm đợi cho một chút.

Nói đoạn, A qua vào trong tắm rửa sạch sẽ, thay đổi y phục, mặc áo mãng bào triều phục, trước hết từ biệt vợ con hầu thiếp ở nhà trong rồi ra nhà ngoài đứng vòng tay nói mấy tiếng: "Xin cho phép! Xin cho phép!", đoạn thong dong ngồi xuống, xếp bằng tròn trên giường nhắm đôi mắt lại, tự nhiên hết thở, chết lúc nào không rõ.

Sau khi Mục Chương A chết, đám quan ngự sử tham tấu tiếp là thượng thư bộ hộ là Giác Lân ăn cắp của kho. Triều chỉ hạ xuống cách chức của Giác Lân, phát vãng đi Tân Cương làm lính trấn thủ.

Nếu nói đến tội ăn cắp của kho thì mấy ai coi kho, coi tiền của triều đình mà thoát được. Giác Lân sở dĩ bị nạn chỉ vì là người thân thích của Mục Chương A, hơn nữa Lân ăn cắp quá nhiều, đến hai mươi vạn lạng bạc.

Quan lớn ba năm một nhiệm kỳ, binh lính tại nơi đây cũng ba năm một nhiệm kỳ. Tất cả đều là người Mãn, tuyệt đối không có người Hán. Thảng hoặc có người Hán nào được làm tại nơi đây thì nhất thiết phải có một viên quan Mãn tiếng tăm nào đó tiến cử. Mỗi một lính coi kho được phái tới làm việc bắt buộc phải hiếu kính quan thượng thư cùng quan lang trung ngân khố người Mãn chừng sáu, bảy ngàn lạng. Đến khí chú lính coi kho rời khỏi nha môn đi công vụ hoặc nghỉ phép về nhà thì thể nào cũng phải mướn tiêu sư bảo hộ suốt dọc đường. Trong kinh thành thiếu gì bọn trộm cướp, tống tiền, thường tụ tập, nhè khi có một chú lính coi kho thuyên chuyển ra đi, liền đón đường cướp giật bắt cóc rồi giam giấu một nơi, đưa tin cho gia đình nạn nhân phải đem tiền chuộc, ít ra cũng một, hai ngàn lạng mới thoát được về nhà với vợ con.

Nếu không có tiền chuộc, bọn chúng giữ chú lính mãi tới lúc quá hạn nghỉ mới thả ra. Chú lính được thả ra nhưng giấy phép quá hạn, liền bị đuổi khỏi nha môn, bị thay thế bằng một tên khác. Bởi vậy, chú ta chẳng dại gì để mất cơ hội nghìn năm một thuở, do đó thường gia đình nạn nhân phải đem tiền bạc tới mà chuộc về.

Cứ ba năm lại có một kỳ kén chọn bốn mươi tên lính coi kho. Mỗi tháng thường mở kho chín lần. Lại có năm, sáu lần mở kho thêm. Vào buổi mở kho, có khi phải đưa bạc ra ngoài, cũng có khi mang bạc vào trong. Bọn lính coi kho chuyên dùng vào việc chuyển bạc, mỗi lần chuyển phải tới trên ngàn vạn lạng, không thể chuyển vận xuể, thường mỗi tháng phải bốn năm kỳ.

Mỗi khi xuất kho thì nhiều là bảy, tám, ít cũng phải ba, bốn lần, mỗi lần ăn cắp ít ra cũng được năm mươi lạng. Kho bạc cần đề phòng nhất là bọn lính ăn cắp bạc, cho nên theo luật lệ tại đây, cứ mỗi lần mở kho, bất luận mùa đông tháng giá, bọn lính coi kho đều phải cởi trần trùng trục, chạy qua trước mặt viên đường quan điểm danh rồi mới vào kho mặc lại quần áo của nhà kho may sẵn.

Nhưng chuyện bị cởi trần như nhộng ấy thực cũng chưa phải đã ngăn chặn nạn đánh cắp được. Bọn lính coi kho nhét những thỏi bạc vào lỗ đít mỗi lần xin phép ra ngoài. Thỉnh thoảng có những tay bản lĩnh cao cường, có thể nhét được đến mười thỏi bạc Giang Tây, cứ mỗi thỏi cân đúng mười lạng bạc.

Trong kho chẳng có giường chõng gì cả nên mỗi khi muốn nghỉ ngơi ăn uống lại trở ra phía ngoài. Lúc ra khỏi kho, chú lính kho lại phải trần như nhộng, đi qua trước mặt viên quan kho, giạng háng rồi nhảy lên một cái, giơ hai tay lên trời há mồm rộng hô to lên một tiếng, xong mới được đi ra.

Cách cửa kho độ một tầm tên có một căn nhà nhỏ, cửa đóng kín mít, cửa sổ có chấn song gỗ che lại. Đây là nơi bọn lính cởi bỏ quần áo giấu của ăn cắp. Vùng Bắc Kinh, đất toàn cát. Mỗi lần mở cửa kho đều có bọn phu gánh nước quảy thùng vào trong kho lấy nước. Bọn lính kho liền ăn thông với bọn này. Cái thùng có hai đáy. Bọn lính kho đem giấu bạc vào quãng giữa hai đáy ấy để chuyển ra ngoài. Đợi khi chuyển hết bạc, đóng cửa kho, đường quan bỏ đi rồi, bọn họ mới lén gánh các thùng nước ra khỏi kho.

Về sau có một viên thượng thư bộ Hộ tên là Kỳ Thế Trường người rất thanh liêm. Một lần mở kho, Trường đích thân đi kiểm soát đôn đốc, thấy một tên phu gánh nước qua mặt, cái đáy thùng bỗng tự nhiên sút đinh rớt bịch xuống đất, bạc rơi tung tóe ra. Kỳ Thế Trường cả giận, lập tức hạ lệnh bắt tên phu gánh nước, định qua ngày hôm sau tâu lên tra hỏi. Nhưng sau một vị sư già của Trường khuyên nên thả hắn ra và bịt hẳn chuyện đi để tránh gây ra một vụ án khiến hoàng thượng biết được mà đem tra vấn thì không khỏi một số thượng thư người Mãn sẽ bị chặt đầu và chính ông cũng sẽ bị kẻ thù giết hại. Kỳ Thế Trường nghe theo liền đem yểm giấu hẳn vụ án này. Đó là việc sau.

Lại nói bọn lính kho đều là bọn cha truyền con nối từ đời nọ tới đời kia. Bọn này cần phải luyện tập sao cho lỗ đít thật rộng, để có thể nhét được tới mười lạng bạc. Ngay từ lúc nhỏ tuổi, họ phải tìm một gã thuộc loại khoái người cùng giới nhỏ tuổi trước đã, sau đó phải dùng tới trứng gà bôi dầu vừng ngoài vỏ rồi nhét vào cho quen đi. Dần về sau, bỏ trứng gà dùng trứng vịt, rồi trứng ngỗng và cuối cùng thay bằng những viên đạn sắt. Họ phải tập luyện cách nào và lúc nào mà lô đít rộng ra để chứa đến mười viên đạn sắt nặng chừng mười lạng thì mới coi là thành công. Bản lĩnh trung bình chỉ có thể nhét được năm, sáu viên là cùng. Do đó, bọn lính này về già thường hay bị bệnh lòi rom hoặc trĩ, hết sức đau đớn, khổ sở. Duy chi có quan thượng thư bộ hộ được bọn này hiếu kính đầy đủ là được an hưởng phú quý sung sướng mà thôi.

Lại nói sau khi Giác Lân bị cáo trộm của kho, quan Ngự sử dâng tiếp sớ đàn hặc một viên đại học sĩ người Mãn khác tên gọi Dự Đức, vốn là thân thích của Mục Chương A.

Giậu đổ thì bìm leo, cho nên bọn thân thích quen thuộc của Mục Chương A, dù không có tội cũng thành có tội, huống hồ Đức lại là một tên tham quan chuyên ăn tiền hối lộ. Thế là bọn ngự sử dâng sớ tố cáo Đức tội trộm của kho trong dịp kiểm soát Lục Khố. Lục Khố là gì? Lục Khố có nghĩa là sáu kho. Sáu kho này xây cất ở phía trái cửa Đại Hoà môn, vốn để lại từ đời Minh. Sáu kho gồm có: kho vàng, kho bạc, kho đồ cổ, kho da thuộc, kho quần áo, kho thuốc… Trong kho cũng có tàng trữ những đồ trân bảo. Chỉ cần nói trong kho quần áo có một bức tượng của bà hoàng hậu đời Minh, rộng đến tám thước, toàn là trân châu buộc lại mà thành, riêng đường viền cũng toàn dùng bảo thạch màu hồng lục kết lại. Những hạt minh châu này nhỏ bằng hột đậu xanh, to bằng hột quế, chỉ vì ngày tháng đã qua lâu nên dây chạc đều mục nát đứt gần hết. Mỗi lần kiểm tra lại có nhiều hạt minh châu rớt ra.

Bọn quan coi kho giả đò lượm lên, lấy giấy gói lại, gắn xi rồi đóng dấu lên trên. Thực ra thì trong gói đó chi là những hột giả, còn những hột thật thì đã rơi vào hầu bao của bọn quan coi kho đó rồi.

Trong kho còn có cả mười mấy rương hài nhỏ thêu của đám phi tần triều Minh. Ở chỗ mũi hài có cẩn những hạt minh châu và có tiếng lắm, nhưng đều đã bị đổi bằng đồ giả. Cả cái kho da cũng vậy, đều thay đổi hết đồ xấu, còn đồ tốt thì bị bọn quan coi kho ăn cắp hết. Song chúng đâu ăn một mình được. Tất cả những vụ trộm cắp này đều có sự thông đồng với bọn đại thần, nhưng nay thấy Dự Đức bị tố cáo, cả bọn bèn nhao nhao đổ hết tội cho Đức. Họ nói rằng chính Đức khi làm quan đại thần kiểm tra đã đánh cắp hết những thứ đó.

Theo quy củ của Thanh triều thì mỗi năm có hai vị đại thần người Mãn được phái tới kiểm soát Lục Khố một lần.

Không may cho Đức làm đại thần kiểm soát vào lần chót cho nên cả bọn bèn đổ hết tội cho Đức, đến nỗi Đức đã mất quan, mất nghiệp, mà còn phải lên mãi Hắc Long Giang sung quân. Đồng đảng Mục Chương A đều bị bọn ngự sử dâng sớ đàn hặc, kẻ bị cách, người bị tống khứ đi hết, chẳng còn ai. Hàm Phong hoàng đế tính tình cẩn thận, cố chỉnh đốn lại triều cương.

Trong cung cấm, bà Hiếu Trinh hoàng hậu cũng hết sức đoan chính cần kiệm, trông coi dạy dỗ các phi tần.

Bà hoàng hậu Hàm Phụng nguyên là con gái của Mục Chương A, ở ngôi Chánh cung chẳng được bao lâu thì mất. Hiếu Trinh hoàng hậu lên thay, vốn là một nàng quý phi họ Nữu Cô Lộc.

Bà vừa đẹp lại vừa đoan chính nên Hàm Phong hoàng đế rất sủng ái. Trong cung đều gọi bà là Đông hậu, rất thuần phác, cần kiệm. Ngày thường trong cung cấm bà chỉ mặc hàng vải. Màn trướng, mùng màn, đều không thêu hoa. Điều đặc biệt là bà ghét đồ Tây, đẹp thì đẹp nhưng không dùng được trò gì. Bà chỉ đi một đôi hài thêu giống hệt hài bọn cung nữ, do chính bọn này thêu cho. Mỗi năm bà đích thân thêu cho hoàng đế một đôi hài. Bên ngoài có kẻ tiến cống quần áo, đồ trang sức, bà đều cho bọn cung nữ đem trả lại hết. Bà thường bảo bọn chúng:

- Bọn thần tử đem dâng hiến một cái gì tức là trăm họ phải tốn kém đi chừng đó. Nếu nhận đồ dâng hiến đó tức là ta ngấm ngầm xúi chúng trở thành tham quan. Do đó, ta không, thể nào nhận được.

Hiếu Trinh hoàng hậu nhất cử nhất động đều biết lễ biết tiết. Vào mùa nóng nực, bà không bao giờ ăn vận lộ tay lộ chân. Khi tắm gội, bà cũng không bắt ai hầu hạ kỳ cọ cho mình. Mỗi khi lên gặp mặt hoàng đế, bà đều mặc lễ phục. Bà rất ghét ăn mặc hở hang, cầu thả.

Hồi đó có một nàng phi tên gọi Vinh phi, thân hình nhỏ nhắn xinh đẹp tô son điểm phấn rất kiều diễm. Nàng lại đi một đôi hài không ruột, chạm trổ đoá hoa mai, rắc đầy phấn thơm. Mỗi bước nàng đi phấn hoa mai rơi xuống in vết trên mặt đất. Hiếu Trinh hoàng hậu thấy thế cả giận, bảo nàng cố ý làm vậy để mê hoặc hoàng đế, lập tức truyền gọi nàng tới, đánh cho một trận nên thân rồi tống vào lãnh cung.

Hàm Phong hoàng đế thực ra cũng khoái chuyện phong lưu bay bướm. Nhưng thấy hoàng hậu nghiêm chính như vậy, ngài rất kính trọng và đặt cho bà biệt hiệu: "Nữ thánh nhân"…

Hồi 110

HỒNG TÚ TOÀN XƯNG ĐẾ

Thời vua Hàm Phong, Thanh cung còn có bà Hiếu Mục hoàng thái hậu, người rất hiền đức. Hiếu Mục hoàng thái hậu vốn là một sủng phi của Đạo Quang hoàng đế. Hồi đó, tuy Đạo Quang sủng ái nhất Tĩnh phi nhưng ngài cũng vẫn thường qua lại nơi này để trò chuyện bàn luận. Bà được cái vinh hạnh này chỉ vì bà hiền hậu nết na, trong khi đó Tĩnh phi cậy được hoàng đế yêu nên kiêu căng rất mực. Cứ mỗi lần Hoàng đế tới cung, Hiếu Mục hậu đem hết cách chiều chuộng làm cho ngài vừa lòng, Đạo Quang hoàng đế cũng thường khen bà và so sánh bà như một đoá hoa đẹp khiến người ngắm mãi mà chẳng chán. Bởi thế khi có việc gì được xem là trọng ngài chỉ tới bàn tính với bà, còn đối với Tĩnh phi bất quá chỉ qua chơi mua vui mà thôi.

Sau khi Đạo Quang hoàng hậu bị hoàng thái hậu và Tĩnh phi mưu sát, còn để lại một Tứ hoàng tử. Chàng không người nuôi dưỡng, lạnh lẽo cô đơn, khổ sở hết sức. Đạo Quang hoàng đế bèn đem Tứ hoàng tử phó thác cho Hiếu Mục hậu nuôi và dặn bà cố gắng giúp chàng nên người. Được sự uỷ thác đó Hiếu Mục hậu để ý cẩn thận nuôi dạy tứ hoàng tử bất cứ việc no đói, ấm lạnh, bà đều chăm sóc đến nơi đến chốn.

Hiếu Mục hoàng hậu có một người con trai, Lục hoàng tử Dịch Hân. Ấy thế mà bà săn sóc con mình lần không bằng Tứ hoàng tử. Bà nói:

- Tứ hoàng tử mồ côi mẹ, cần phải thương nó nhiều hơn.

Cũng vì thế, tứ hoàng tử càng yêu quý Hiếu Mục hậu, ngày thường vẫn kêu bà là mẹ, y như đối với mẹ mình.

Về sau, khi muốn lập hoàng tử, Đạo Quang hoàng đế lẻn tới hỏi ý kiến Hiền Mục hậu. Ngày thường, Đạo Quang hoàng đế vốn rất yêu quý Lục hoàng tử, chi vì Lục hoàng tử mạnh tợn và tính tình giống mình. Nhưng đến khi nghe tứ hoàng tử nói mấy câu tỏ vẻ hết sức nhân từ trong một cuộc đi săn thì ngài đâm ra do dự, không quyết tâm lập lục hoàng tử như trước nữa. Ngài trở về cung, tìm đến bàn với Hiền Mục hậu.

Hiền Mục hậu cũng hết lòng tiến cử tứ hoàng tử. Nhưng Đạo Quang hoàng đế lại cho biết ý ngài muốn lập Lục hoàng tử.

Hiền Mục hậu cản ngăn mấy bận. Bà nói:

- Không được đâu. Khỏi cần phải nói nhiều vì tứ hoàng tử chính là con trai của Chính cung hoàng hậu. Hơn nữa tứ hoàng tử khá hơn bọn anh em gấp bội!

Đạo Quang hoàng đế nghe lời Hiền Mục hậu, lập tứ hoàng tử là thái tử và từ đó, trong lòng càng kính trọng bà. Khi mất, ngài ba bốn lần uỷ thác Hàm Phong hoàng đế cho bà.

Hàm Phong hoàng đế lên ngôi, biết ngôi vua của mình là nhờ Hiền Mục hậu hết sức giúp đỡ mới có. Bởi thế, ngài lập tức phong Hiền Mục hậu làm hoàng thái hậu, mời bà về ở tại Tử Ninh cung, rồi ngày ngày đích thân tới vấn an, coi bà như mẹ đẻ của mình. Hàm Phong hoàng đế cũng phong cho lục hoàng tử làm Cung Trung thân vương. Theo luật lệ trong cung nhà Thanh thì khi vua cha chết rồi, chỉ có một mình thái tử mới được ở lại trong cung, ngoài ra phải ở ngoài hết không được vào cung. Tuy nhiên đối với lục hoàng tử, Hàm Phong hoàng đế đặc biệt khai ân, cho phép Cung Trung, thân vương được vào cung bái yết thái hậu lúc nào tuỳ ý. Do đó hai mẹ con thái hậu rất lấy làm cảm kích Hàm Phong hoàng đế.

Về sau, lúc tuổi đã già, Hiếu Mục hoàng thái hậu mới cảm thấy hối hận, một mình lủi thủi trong cung, bà nghĩ tới cái ngày đau yếu rủi lỡ nhắm mắt lìa đời mà con mình thì xa cách, biết lấy ai bên cạnh ma chay cho mình, nghĩ càng hối hận, đâm ra oán hận Hàm Phong hoàng đế. Rồi cứ mỗi lần thấy Hàm Phong hoàng đế tới thỉnh an, bà không vui mà còn có ý giận, hoặc buông lời mắng trách. Dù vậy Hàm Phong hoàng đế lúc nào cũng vui vẻ hoà nhã, một lòng hiếu kính thái hậu.

Về sau Thái hậu bệnh nặng. Cung Trung Thân Vương tuy thường lui tới trong cung, nhưng cũng không cách nào ở lại trong cung được cho nên chi có Hàm Phong hoàng đế sớm hôm chầu chực thuốc thang bên cạnh giường. Ngoài ra, còn có Hiếu Trinh hoàng hậu, cũng cùng ngài luân phiên hầu hạ.

Bệnh tình của Thái hậu tới ngày nguy kịch. Đôi ba lần bà đã mê đi. Hàm Phong hoàng đế ngày đêm hầu hạ bên cạnh giường không dám rời xa.

Một hôm thái hậu bàng hoàng tỉnh lại. Trời đã tối. Bà thấy một người ngồi ở trước giường. Bà nhận ra Dịch Hân, con bà, bà cầm lấy tay con:

- Con ơi! Mẹ chỉ còn có sớm chiều là qua đời thôi! Mẹ được đương kim hoàng đế tiến dưỡng mấy năm, mẹ có chết cũng yên lòng. Mẹ chỉ buồn một nỗi năm xưa, tiên hoàng đế có ý định lập con làm thái tử thì mẹ gạt đi. Mẹ ngăn cản đến ba bốn lần: Mẹ càng nghĩ càng thấy mẹ lầm. Mẹ đã làm hại con, cho con đành chịu cúi đầu khom lưng trước kẻ khác cho qua ngày đoạn tháng!

Nói tới đây Thái hậu ứa nước mắt, đôi dòng lệ rơi trên gò má xương xẩu. Bà có ngờ đâu người ngồi bên cạnh giường. bà đó không phải Cung Trung thân vương mà lại là Hàm Phong hoàng đế.

Hàm Phong hoàng đế nghe lời than thở hối hận của thái hậu, chẳng những không giận mà còn khuyên bà nên yên lòng dưỡng bệnh, chớ nên nghĩ ngợi lo phiền. Bỗng thái hậu tỉnh hằn lại. Bà biết bà đã lầm, lòng bà càng não nuột. Một cơn ho kéo tới, đờm trào lên nghẹt tắc lấy cổ. Bà thiếp đi luôn không còn nói thêm lời nào nữa.

Hàm Phong hoàng đế một lòng kính trọng thái hậu. Ngài hạ chiếu phát tang, tổ chức đám tang theo nghi lễ là hoàng thái hậu. Sau đó, ngài vẫn một lòng săn sóc Cung Trung Thân Vương. Thân Vương càng đem hết lòng để phục vụ quốc gia.

Hồi đó, ở miền Nam, Hồng Tú Toàn đang gây rối tại miền Vinh an. Toàn lập nên Thái Bình Thiên quốc xưng bá đồ vương, tiếng tăm dậy khắp bốn phương.

Hàm Phong hoàng đế bèn hạ chiếu phục chức lại cho Lâm Tắc Từ, sai đem quân tới Quảng tây. Không ngờ Từ vừa tới Triều Châu, bỗng nhuốm bệnh mất.

Hàm Phong hoàng đế lại hạ chiếu sai Hưởng Vinh, Trương Tất Lộc, hai người đem binh đi tắt chặn các nơi. Quân mã của Thái Bình Thiên quốc lúc đó tích cực hoạt động. Họ tránh không đụng độ với quân của Hưởng, Trương hai tướng, tiến đánh một giải châu huyện Từ Quế Bình, Quý Võ tới Tuyên Bình. Họ lại chiếm Tuyên Châu…

Triều đình thấy quan quân người ngựa ít ỏi, bèn uỷ cho Lưỡng Giang tổng đốc là Lý Tinh Nguyên hội cung đại học sĩ Lại Thương A phó đô thống Hồng A đem quân tinh nhuệ từ Kinh đô tới vây Tuyên Châu, đẩy lui được quân của Dương Tú Thanh. Không ngờ, đoàn quân tóc dài thấy bốn mặt bị vây bèn quay về phía đông đánh thốc vào địa phận tỉnh Hồ Nam, cướp được Toàn Châu, lại lấy được Đạo Châu, Quế Bân, Dương Châu, vượt sông qua đánh An Nhân, Lễ Tăng.

Tháng bảy năm thứ hai niên hiệu Hàm Phong, đoàn quân tóc dài đánh tới Tràng Sa, vây thành hơn bảy mươi ngày liền, nhưng không xông vào được. Toàn lượm được một cái ngọc tỷ ở ngoài cửa Nam Thành, từ đó, càng có cái ý thôn tính thiên hạ, xưng bá xưng vương.

Hồi đó Tây Vương Tiêu Triều Quý của Thái Bình Thiên quốc chết trận tại Tràng Sa. Quân tóc dài lại quay mũi dùi sang Thường Đức. Đánh được Thường Đức, lại được Ích Dương, cướp được vài ngàn chiến thuyền, vượt qua Động Đình hồ, tấn công thẳng thành Nhạc Châu đoạt được rất nhiều binh khí. Binh khí này vốn là những binh khí Thanh binh do đám Ngô Tam Quế thời vua Khang Hi còn để lại.

Hồng Tú Toàn thấy chiếm được nhiều binh khí càng hăng hái và quyết tam hơn, liền dọc theo Tràng Sa đi xuống, chiếm Hàm Dương, Võ Xương, tiếp sau đó, công hãm Cửa Giang, An Khánh, Vu Hồ, Thái Bình, chỉ trong vòng có một tháng.

Quan binh của triều đình đến lúc này cứ hễ thấy đoàn quân tóc dài đi tới đâu là sợ hãi hết hồn, theo gió mà chạy vắt giò lên cổ.

Tin chiến bại và thất thủ hết nơi này tới nơi khác, có ngày đến hàng chục lần. Nhưng tin kinh khủng này bay về kinh sư như bươm bướm, làm cho Hàm Phong hoàng đế bối rối, không biết tính toán ra sao. Ngày ngày, ngài hạ hết thánh chỉ này tới thánh chỉ kia, điều binh khiển tướng lung tung, nhưng chẳng ăn thua gì.

Tháng hai năm thứ ba niên hiệu Hàm Phong, đúng vào ngày mồng mười, Hồng Tú Toàn đánh vào thành Nam Kinh giết chết Mãn quân, trai gái đến hai vạn người, ném đầu và xác xuống sông Trường Giang đầy nghẹt cả một khúc sông.

Cướp được Nam Kinh rồi, Hồng Tú Toàn kiếm cây đào đất, xây cất cung điện lâu đài, tự xưng là Thái Bình Thiên hoàng. Toàn cũng lập tam cung lục viện, phi tần trong cung cấm đều có ngôi thứ và danh hiệu. Vợ cả của Thiên hoàng xưng là hoàng hậu, có tần nương một người, ái nương hai người, hi nương hai người, luôn luôn ở bên cạnh hoàng hậu để hầu hạ. Các nương này đều được kể là những quan cao bậc nhất.

Ngoài ra trong cung cấm còn có hai mươi bốn nàng phi, một nàng có bốn quan nữ, bốn trạch nữ, bốn khuê nữ, bốn đàm nữ, bốn hạp nữ ở bên cạnh hầu hạ. Đám nữ này đều được phẩm tước từ nhị phẩm đến nhất phẩm. Lại còn có mười nguyên nữ, mười yêu nữ, cũng để hầu hạ các hậu phi. Đám nữ này được phẩm tước từ nhất phẩm tới lục phẩm. Đám gái đẹp ở trong cung cấm tuy lấy tiếng là làm quan, nhưng cô nào cung bị Hồng Tú Toàn gian dâm hết thảy. Thiên hoàng khoái nhất là những xử nữ mười ba, mười bốn tuổi. Cho nên những nữ quan này đều được tuyển lựa trong hàng gái đẹp trẻ măng, hầu hết đều vào quãng mười tuổi. Bọn gái đẹp này không một cô nào là không bị Thái tử của Thiên hoàng ngày ngày đem ra làm trò chơi, chết không biết bao nhiêu mà kể.

Hồng Tú Toàn lại còn phong cho anh em, bà con thân thuộc mình làm Thân vương. Trong phủ Thân vương, ngoại trừ bà vương phi ra, còn có hảo nữ bốn người, diện nữ tám người, giao nữ mười sáu người, khoa nữ hai mươi người, nghiên nữ hai mươi người, đa nữ hai mươi tám người, miêu nữ ba mươi hai người, quyên nữ ba mươi sáu người, mỹ nữ bốn mươi người, chia ra từ cửu phẩm tới nhất phẩm, thảy đều làm nữ quan hết.

Thái tử của Thiên hoàng xưng là Ấu chúa, ngoài bà Vương phi ra còn có mỹ nữ, lệ nữ tám người, giai nữ mười hai người, diệm nữ mười sáu người, đều là những nữ quan từ tứ phẩm tới nhất phẩm. Cai quản mọi việc trong hoàng cung có nữ tỳ, là những nữ quan cấp bậc nhị phẩm. Cứ hai người nữ tỳ lại có một người nữ chưởng suất cầm đầu, với cấp bậc nhất phẩm.

Tóm lại trong cung điện của thiên hoàng, ngoài một mình Thiên hoàng ra, chẳng còn thấy một tên đàn ông nào khác, ngay đến bọn thái giám cũng không có nữa.

Cung điện của Toàn, không còn gì đẹp hơn, quý hơn nữa. Tất cả đều là lầu son gác tía, rèm châu, màn gấm, nào vàng nào ngọc, lung linh rực rỡ, vô cùng mỹ lệ. Mỗi khi Thiên hoàng giá tới, cung tần phi hậu thảy đều phải quỳ xuống đón rước.

Thiên hoàng mình mặc áo tràng bào bằng đoạn vàng có thêu rồng bằng kim tuyến óng ánh, giơ chân múa vuốt, đầu đội mũ Bình Thiên, bốn góc bốn dải ngọc châu, rổn rảng, tóc kết dài lòng thòng. Thân hình của thiên hoàng nhỏ thó, lông mày rậm, râu dài lê thê, ngồi trên một chiếc kiệu có mười sáu tên cáng kiệu khiêng đi, kiệu có tán đỏ lọng vàng.

Trong cung điện, có một toà lâu đài cao ngất, tên gọi Diên đài, chu vi rộng có chừng hai chục mẫu đất. Trên đài trồng cây, hoa, lại xây đắp hồ, ao, chẳng khác gì ngay ở trên đất liền. Toà đài này hình lục giác, có xây sáu lớp bậc thang bằng đá hoa, khảm thêm vào những viên đá hoa cương năm sắc, trông hết sức đẹp, do đó, người trong cung này thường gọi là Bạch Ngọc thiên thể (thang trời bằng ngọc trắng). Trên đài có một toà chính điện. Ở bốn góc điện lại xây tiếp ba toà viện tử, tổng cộng mười hai toà viện tử. Cai quản Chính điện này là một nàng Tứ phi, bốn toà biệt điện còn có bốn nàng Tứ phi khác trông coi. Còn mười hai viện giao cho một bọn trục gia, tài nhân đông đảo trông coi.

Thiên vương Hồng Tú Toàn đêm đêm thường ngủ trong Chính điện, chỉ có Tứ phi được ngài ân sủng suốt đêm.

Trên đầu long sàng của Thiên vương có treo đủ các tấm thẻ đồng trạm trổ đầu con phượng của các phi tần. Khi nào cao hứng, Thiên vương giơ tay lấy một tấm thẻ đồng ném ra phía ngoài cửa trước; tức thì bọn nữ tỳ ngồi ở giường ngoài lượm ngay lấy, và chiếu theo tên trên tấm thẻ mà đi gọi phi tử.

Hồi 111

HỒNG TUYÊN KIỀU

Thấy tấm bài khắc hình đầu con phượng, nàng phi tử nọ liền rút chiếc trâm cài đầu ra cho tóc xoã xuống. Tức thì có một tên nguyên nữ to lớn khỏe mạnh, lấy một chiếc chăn mềm thêu chim phượng hoàng, choàng kín từ đầu đến chân rồi ôm xốc nàng phi tử nọ đưa lên chính điện.

Viên nữ tỳ ở chính điện thấy nàng phi tử đưa tới, liền treo một bức màn gấm ở giữa điện, rồi mời Chánh phi ra ngồi phía ngoài bức màn, phía tả đứng một đội yêu nữ tay cầm ống nhỏ, lư hương và khăn bàn, gọi là Văn ban, còn phía hữu đứng một đội thị vệ, mình mặc giáp trụ, tay cầm cung kiếm, gọi là Võ ban.

Cả hai ban Văn, Võ này nếu không có lệnh của Chánh phi, thì không được hành động. Một ban thiếu niên con trai đứng đối diện một ban thiếu nữ trẻ măng, tai nghe những tiếng tình tự, đùa cợt, hay là tiếng ma quái lạ kỳ nào đó phía bên trong màn, thảy đều phải nghiêm nét mặt, có muốn cười cũng không dám cười.

Nói đến Tứ phi, ai cung chịu nàng là đệ nhất mỹ nhân trong Thiên vương cung hồi đó. Hồng Tú Toàn tuy hiếu sắc nhưng không cần bọn gái nhỏ như vua Thanh. Toàn chọn gái cũng không cần chọn mặt nữa, mà chỉ chọn thân hình. Cô nào có tấm thân óng chuốt, nõn nà, đồ sộ như bức tượng ngọc là được Toàn chọn. Toàn thường nói với tả hữu:

- Gái mà được là mỹ nhân, quyết phải có cái bụng thẳng, đôi vai thon, ngực bằng, người cao.

Trong cung của Hồng Tú Toàn có một cái thước đo người đẹp (lượng mỹ xích). Phàm khi tuyển gái vào cung, trước hết phải dùng thước này đo xem kích thước bao nhiêu đã rồi mới xét tới mặt mũi da thịt. Cô nào mặt mũi tuy đẹp nhưng thân hình nhỏ bé Toàn cũng chẳng thích. Đến khi xem tới chân gái thì Toàn chỉ chọn những cặp chân thiên nhiên nhỏ nhắn xinh đẹp trong vòng năm tấc trở lại (dưới triều nhà Thanh có tục gái bó chân cho chân nhỏ). Khi chọn gái làm phi tử, bốn năm ngày mà cũng không tìm ra được một nàng chánh phi, Thiên hoàng lấy làm buồn bực quá, về sau có một tên thủ hạ chuyên tìm gái, tìm được Tứ phi ở Chiếu châu, người cũng như chân, kích thước đều trúng cách.

Hôm Tứ phi vào cung, Hồng Thiên vương đang ngồi xem hoa tại Diêu đài. Bốn đứa trạch nữ đưa Toàn lên Diêu đài, thấy Từ phi thân hình yểu điệu, tay chân thon đẹp như ngọc, chẳng khác một nàng tiên, tà áo phất phơ đầu gió. Thiên hoàng bèn triệu hạnh tại Diêu đài, sau đô, phong nàng làm Diêu đài đệ nhất phi, về sau phong làm hoàng hậu.

Đông vương Dương Tú Thanh vốn là một tay háo sắc có tiếng, nghe nói Từ hoàng hậu đẹp lắm, bèn tung tin nói hoàng hậu là con gái của Thượng đế.

Trong Thái Bình hoàng cung vốn có một toà Thừa Thiên đường. Đây là nơi thánh đường đến để giảng đạo. Cứ bảy ngày một lần, trong cung Thái Bình lại mời Thanh tới ngôi nhà thờ này giảng đạo Thiên Chúa. Thanh bảo với con chiên bổn đạo rằng mình chính ở trên trời, thay thế Thượng đế giáng sinh xuống trần để truyền đạo, Từ hoàng hậu vốn là con gái của Thượng đế, vậy thì hậu cũng là con gái của Đông Vương.

Tuyên bố vậy rồi, Thanh liền truyền Từ hoàng hậu vào bái kiến. Hồng Thiên vương không biết làm cách nào, đành phải bảo hoàng hậu tô son điểm phấn, sửa soạn vào bái kiến Đông vương.

Đông vương Dương Tú Thanh vừa mới thấy bóng người đẹp đã hồn phách lên mây. Thế là từ đó Thanh cứ lấy danh nghĩa Thượng đế gọi Từ hoàng hậu tới phủ Đông vương. Thượng đế giáo là quốc giáo của Thái Bình Thiên quốc, nên Hồng Thiên hoàng cũng không dám phản đối. Đông vương Dương Tú Thanh lại nắm giữ giáo quyền thế lực rất lớn, ngay cả Thiên hoàng cũng chẳng đám làm gì Thanh.

Về sau Từ hoàng hậu bàn tính với Toàn một kế sách, cho Toàn biết bên cạnh Thanh có một cô nữ thư ký tên gọi Phó Thiện Tường sắc nước hương trời mà Thanh hết sức cưng chiều, rồi xúi Toàn:

- Bệ hạ nói thác ra rằng trong cung cấm sao nhiều văn thư mật cần tuyên triệu Phó Thiện Tường vào cung giúp việc.

Nghe xong, Thiên hoàng hiểu ngay và định ngay chủ ý. Từ đó về sau, cứ mỗi khi Đông vương cho người mời Từ hoàng hậu thì Thiên hoàng cũng hạ lệnh tuyên triệu Phó Thiện Tường vào cung. Đông Vương sợ đánh mất Phó Thiện Tường nên từ đó không dám cho người đến mời Từ hoàng hậu nữa.

Phó Thiện Tường đẹp đến thế nào mà được Đông vương cưng chiều đến thế?

Phó Thiện Tường vốn con nhà tử tế đất Kim Lăng, đi học từ thuở nhỏ, chữ nghĩa tinh thông. Nàng quả có sắc chim sa cá lặn, đổ nước nghiêng thành. Khi Thái Bình Thiên quốc đặt kinh đô tại Kim Lăng, liền cho người đi khắp nơi chọn gái đẹp đưa về nữ quán ở đây, rồi nói thác là mời về làm nữ thư ký đưa vào cung. Hồi đó Phó Thiện Tường mới có mười bảy tuổi. Đông Vương vừa thấy nàng liền cho lệnh gọi về phủ, để ở trong lầu Đa bảo, coi giữ văn thư ở trong phủ.

Cái lầu Đa bảo này ở về mé sông nam Tử hà trong hoa viên của vương phủ. Phía ngoài lầu, hoa cỏ vây quanh, chim cá lượn từng bầy… Trong lầu trần thiết châu ngọc đủ loại trên bốn vách. Phó Thiện Tường lại thích các bức hoạ chữ cổ. Đông Vương bèn bảo bọn thủ hạ tới các nhà dân cư nhà nào có là cướp đoạt đem về. Những cái đỉnh ngọc cũng được tập trung tại đây. Thiện Tường suốt ngày đốt nhang đọc sách, hết sức nhàn nhã, Đông vương tuy sủng ái nàng hết sức nhưng cũng không dám tới quấy rầy nàng nhiều. Trái lại, vương suốt ngày chỉ cùng với em gái Hồng Thiên hoàng là Hồng Tuyên Kiều mua vui ở động Thiên Xuân góc tây nam hoa viên. Động Thiên Xuân xây cất toàn bằng đá hồ, óng ánh rực rỡ. Trên nền nhà, trải toàn thảm nhung; chung quanh tường treo toàn màn gấm. Ở bốn góc tường đá, đều có gắn đèn phản quang, chiếu sáng như ban ngày. Đến mùa hè, bốn phía mở hết cửa sổ, gió mát thổi lộng vào trong, mát mẻ vô cùng. Mùa đông sang, cửa động đóng kín. Dưới đất đốt bếp lửa, mười phần ấm áp. Khu thạch động kiến trúc quanh co đi vào trong chẳng khác như đi vào mê hồn động.

Còn Hồng Tuyên Kiều là người như thế nào? Nàng thật là một vưu vật cõi nhân gian. Nàng với Hồng Tú Toàn là anh em cùng cha khác mẹ. Sau khi phụ thân Toàn chết mẹ nàng liền bỏ đi lấy chồng khác. Toàn tính vốn ham kết giao bạn bè ngay từ hồi còn nhỏ và lang thang chốn giang hồ, hành tung bất định. Toàn thấy cô em gái không người nương tựa, bèn ký thác cho anh là Hồng Nhân Phát nuôi dưỡng.

Hồng Tuyên Kiều ngày từ lúc nhỏ đã có bộ mặt xinh xắn mày xanh mắt trong, trông rất đáng yêu. Tính tình lại hào sảng. Nàng thích ăn bận như kiểu con trai. Hồi mười bảy, nàng thấy người hàng xóm biết võ, liền theo học. Lâu dần, hết tháng này qua năm khác, nàng đã có một bản lĩnh cừ khôi, có thể chạy nhảy như bay, múa đao, múa kiếm nhanh thư chớp.

Đúng lúc nàng học võ đã thành tài thì nhà Hồng Nhân Phát bị cháy rụi. Nàng không còn nhà để về, thế là nàng theo người phiêu bạt giang hồ. Cũng chính lúc này, Hồng Tú Toàn đang cùng với bọn Phùng Vân Sơn, Chu Cửu Đào vào hội tin thờ Thượng đế. Cửu Đào chết, Toàn lên thay làm hội trưởng.

Toàn trở về nhà tìm em gái nhưng nàng đã ra đi, không biết về phương nào.

Hồi đó, ở miền Võ Tuyên, có một người họ Tiêu, là một đại tài chủ, giàu có lớn. Toàn ở Quế bình đang cần tiền, vì phải có tiền thì hội mới mong phát triển được. Toàn bèn nghĩ cách đưa họ Tiêu vào hội để mượn tiền. Toàn liền đưa anh em đồng đạo về ở tại núi Bằng Hoá miền Võ Tuyên rồi đích thân mình ngày ngày tới khuyên họ Tiêu vào hội tin thờ Thượng đế.

Tiêu Triều Phụng vốn là người thích làm việc thiện, nghe thấy nói hội Thượng đế cứu người thoát khổ ách, có phần tin tưởng đôi chút. Nhưng phiền là con ông ta gọi Tiêu Triều Quý, một thanh niên đẹp trai hào sảng, võ nghệ cao cường, thấy Hồng Tú Toàn có cái điệu bộ kỳ cục, quỷ quái, bèn quay đi không thèm để ý tới. Tiêu Triều Phụng chỉ có mỗi một mình Quý là trai, nên hết sức cưng chiều. Ông Phụng thấy con không tin thì cũng chẳng chịu bỏ tiền ra giúp Toàn.

Giữa lúc Hồng Tú Toàn vô kế khả thi đành khoanh tay ngồi nhìn thì Tiêu Triều Quý bỗng xảy ra một cuộc lượng duyên ngoài ý muốn. Số là Quý suốt ngày chỉ lang thang hết phố lớn đến phố nhỏ chơi bời đàng điếm với bạn bè. Bỗng một hôm Quý thấy có một đám Sơn đông mãi võ, quần chúng đứng vây quanh đông nghẹt để xem. Quý cũng vội lách vào xem.

Mọi người thấy Quý vốn công tử con nhà giàu, gia tư tỷ triệu, liền nhường chỗ cho Quý đứng hàng đầu.

Một lát sau, Quý thấy một tên đại hán đứng trước đám đông nói vài ba câu giáo đầu, rồi bắt đầu đánh chiếc thanh la phèng phèng. Một cô gái trẻ măng mặt thoa phấn môi tô thắm, thật là sắc nước hương trời, chạy ra nhìn khán gia mỉm cười.

Quý thấy người con gái đẹp quá, không chịu nổi cũng phải thốt lên::

- Đẹp quá!

Sau đó, người con gái bắt đầu múa võ dượt quyền, miếng võ nào, thứ khí giới nào, cũng đều tinh thông.

Quý thấy vậy, lại một lần nữa ca tụng:

- Trời! Quả là một trang nữ anh hùng!

Người con gái được khen, liền liếc mắt nhìn quý. Quý vốn là một cậu trai tính nóng lại đa tình, làm sao mà nhịn được, nên chỉ một cái nhìn ấy, thần hồn dã bay bỗng đi mất. Quý đợi mãi đến khi nàng thu dọn đồ nghề mới bước gần anh chàng đại hán, bảo hắn mình có ý mua người con gái nọ.

Anh chàng đại hán lâu nay sinh sống thảy đều nhờ cô gái nọ, đời nào chịu bán. Quý thấy anh chàng đại hán không chịu bán, tình cấp ý sỉnh. Hơn nữa, Quý còn ỷ mình con nhà giàu ở địa phương và thân hình khỏe mạnh, mình đồng da sắt, bèn quắc mắt, dựng ngược đôi mày quát một tiếng lớn, chỉ vào mặt đại hán:

- Thằng tù mọt gông kia! Mi cả gan dám bịp bợm đồng bào giữa ban ngày ban mặt. Mi chịu thì chịu ngay đi, còn nếu không chịu thì ta sẽ đưa mi tới ông huyện để mi biết thủ đoạn của thái gia họ Tiêu này.

Nói đoạn, Quý liền xốc lại, giơ tay nắm lấy cánh tay tên đại hán. Tên đại hán thấy Quý thanh thế oai hách quá, đâm ra hoảng vội kéo Quý vào một cái tiệm nước nhỏ điều đình, thế là Quý chỉ còn phải đưa ra hai trăm lạng bạc mua được nàng đem về.

Quý hí hửng cho là mình đã có một cuộc tình duyên tốt đẹp lắm, ai ngừ ngay đêm đầu tiên ấy Quý đã thất vọng vì nàng đã mất trinh từ lúc nào. Quý hỏi nàng mới biết nàng bị tên đại hán nọ cưỡng gian. Quý giận lắm, dắt một con dao sắc, lén đi tìm tên đại hán. Tên đại hán nọ vẫn còn ngụ tại khách sạn. Quý cầm dao, tông cửa xông vào.

Quý nhè giữa ngực tên đại hán lụi một dao lút cán. Tên đại hán ngã quay ra chết tốt. Quý chạy ra, trốn về nhà, nói chuyện cho cha mẹ nghe. Ông Tiên Triều Phụng thấy con giết người chân tay rụng rời, mặt mày xám ngoét lại, vội bảo con;

- Việc đã đến thế này thì đi ngay vào núi Bằng Hoá mà cầu cứu Hồng giáo chủ đi. Giáo chủ binh hùng tướng mạnh có thể cứu con được.

Quý nghe lời cha bèn ngay đêm đó, mang luôn cô gái nọ vào núi Bằng Hoá, Hồng Tú Toàn thoạt nhìn cô gái, nhận ngay ra được em gái mình là Hồng Tuyên Kiều. Kiều cũng nhận ra Toàn là anh mình, thế là hai anh em ôm nhau khóc ròng. Toàn hỏi Kiều nguyên do. Lúc đó Kiều mới kể hết mọi chuyện cho anh nghe.

Hồi 112

TÌNH ANH EM NHƯ BIỂN CẢ BAO DUNG.

Hồng Tuyên Kiều kể lại cho Hồng Tú Toàn nghe mình bị viên đại hán cưỡng gian, lưu lạc giang hồ đây đó ra sao, gặp Tiêu Triều Quý như thế nào, rồi Tiêu Triều Quý vì mình báo thù, mang tội giết người bỏ trốn tới đây, tất cả kể lại một lượt không sót chỗ nào.

Hồng Tú Toàn lúc đó đang nghĩ cách lợi dụng gia tài của họ Tiêu nay nghe cô em Kiều nói vây, thực là hợp ý mình lắm. Thế là Toàn khuyên Quý vào đạo Thượng đế, bái yết giáo chủ. Toàn lại nói:

- Triều Quý mới vào đạo, chỉ sợ tâm trí không bền. Quý vốn tuổi trẻ sức trai, nhiều chỗ rất cần phải có y. Bởi vậy y cần phải ra ngoài lo việc, lúc này chưa thể thành hôn được. Phải đợi ba năm sau vợ chồng mới có thể sum họp.

Toàn lại cho mời Tiêu Triều Phụng lên núi gọi Hồng Tuyên Kiều theo ông gia ở cùng một nơi. Mặt khác, Toàn cho Quý đi truyền đạo.

Về sau thấy Tiêu Triều Phụng ở trên núi có vẻ bất tiện, Hồng Tú Toàn liền đưa về vùng sông Đại Hoàng, ở dưới chân một ngọn núi cao, cây cối xanh tốt um tùm. Trên núi có một vị sơn chủ tên gọi Dương Tử Long. Long vốn là một trang thiếu niên anh tuấn, dưới tay còn có một đám tiều phu đông tới bốn năm ngàn, hằng ngày vào rừng chặt cây đốt than. Đám này đa phần là hung hăng mạnh tợn. Long ỷ thế mình, độc chiếm một phương. Long cung là một tên hiếu sắc. Bọn đàn bà con gái quanh vùng đều bị hắn hãm hiếp làm nhục.

Nhưng có điều lạ là đàn bà con gái vùng Quế Bình không cần tới chuyện liêm sỉ, họ bị Long gian ô thế chẳng những làm nhục mà lại còn cho là vinh hạnh lắm, đem kể hết cho mọi người nghe.

Hồi đó Hồng Tuyên Kiều theo bố chồng cùng ở một nơi, cảm thấy cô đơn hiu quạnh, tự thương mình bạc mệnh. Nàng thường nhớ tới Tiêu Triều Quý nhưng Quý ở xa mãi tận chân trời biền biệt. Nước xa không thể cứu được lửa gần. Ngày nào cũng vậy, vào lúc hoàng hôn, nàng thường đứng cửa, bóng dáng thướt tha. Đã có mấy lần Dương Tử Long để ý tới nàng. Long đời nào chịu bỏ miếng mồi ngon bèn tìm trăm mưu nghìn chước quyến rũ nàng, mãi tới khi cái bụng nàng to bằng cái trống.

Hồng Tuyên Kiều nhìn thấy cái bầu của mình mà sợ. Nàng bỏ trốn theo Long chạy suốt đêm tới miền Phúc Kiến.

Hồng Tú Toàn biết chuyện này. Toàn còn được rõ họ Dương có nhiều thủ hạ, bèn cho người tới khuyên hắn vào hội, chẳng truy cứu gì tới cái tội gian dâm nữa. Dương Tử Long mừng quá đem luôn cả đám tiều phu đông đảo tới núi Bằng Hoá.

Long cảm lòng tốt của Toàn, kết làm anh em với Toàn và đổi tên là Tú Thanh. Long còn tình nguyện đem Tuyên Kiều hoàn lại cho Tiêu Triều Quý.

Giữa lúc đó Quý từ xa về, được tin vợ mình bị Dương Tú Thanh gian dâm, liền tuốt đao tính liều mạng ăn thua với Thanh. Hồng Tú Toàn vội vàng khuyên giải:

- Anh em ta gắng cùng nhau mưu đồ đại sự, hà tất phải để tâm quá nhiều tới một con đàn bà khiến tổn thương hoà khí. Ngày sau sự nghiệp hoàn thành rồi mỹ nhân trong thiên hạ này đều là của bọn ta cả. Khư khư một đứa Tuyên Kiều làm gì! Ngay đến cả gia quyến đại ca đây, nếu cần, đại ca cũng sẵn sàng đưa hầu tất cả các anh em được nữa là! Bọn ta chỉ cần biết đồng tâm hiệp lực để cứu đời, đừng hỏi tới những chuyện vụn vặt.

Nói đoạn Toàn cho gọi ngay luôn một lúc ba nàng hầu của mình ra để hầu rượu cho mọi người. Thế là cả bọn ngôi vào bàn nhậu nhẹt, nói cười vui nhộn như đám hội, quên phứt đi nỗi hận thù.

Ít lâu sau Phùng Vân Sơn theo lệnh của Hồng Tú Toàn tới huyện Tiên Du truyền đạo chẳng biết lý do gì bị quan sở tại bắt. Viên quan này lại buộc Sơn phải viết thư lừa Toàn tới và bắt nhốt, đem giam cả hai vào nhà lao.

Tin động trời này truyền tới núi Bằng Sơn làm cho Dương Tú Thanh và Tiêu Triều Quý quýnh lên, chẳng biết gỡ cách nào. Bọn Quý dò la biết được huyện Tiên Du có một tay thổ hào tên gọi Hoàng Ngọc Côn, kéo bè kết đảng, bao thầu hết chuyện kiện tụng. Côn ỷ vào người chú làm quan trong kinh cho nên bọn quan địa phương thảy đều sợ và nghe hắn. Bất cứ ai phạm tội giết người đốt nhà, miễn là có tiền cho hắn thì nhà lao đã có khoá tới mấy mươi lần đi nữa cũng có thể ra được.

Côn được biết bọn Hồng Tú Toàn toan tính làm lớn chuyện ở vùng Quế Bình, Tuyên Võ, lại cho Phùng Văn Sơn đến vùng mình truyền đạo mà không nói với hắn một lời nào. Hắn tức giận liền lẻn tới nha môn cáo mật. Quan tri huyện Tiên Du được tin vội kéo quân tới ngay đêm đó bắt cả bọn Phùng Vân Sơn, lại còn buộc Sơn viết thư lừa Toàn tới để bắt luôn. Đến lúc thẩm vấn, mới biết Toàn là giáo chủ hội Thượng đế.

Hồng Tú Toàn vốn là tên trọng phạm mà nha môn thượng ty các tỉnh đang lưu tâm lùng bắt. Nay Toàn bỗng sa lưới thử hỏi viên quan tri huyện Tiên Du sung sướng biết chừng nào, lập tức bẩm lên các thượng ty, tính đem ra chính pháp ngay.

Dương Tú Thanh nghĩ ra được kế sách bèn tổ chức đoàn thợ đốt than một trăm người, cải trang theo nhiều kiểu của bọn khách giang hồ, rồi cứ từng tốp ba, năm người một, kéo nhau vào trong thành huyện Tiên Du, dò la tin tức xem lúc nào giải Toàn và Sơn ra khỏi lao thì nhảy vô đánh cướp liền.

Đặc biệt bọn Hồng Tuyên Kiều bắt chước cách kiếm ăn thuở nào, cải trang theo kiểu Sơn Đông mãi võ, có Tiêu Triều Quý đi theo. Kiều và Quý chọn nơi đất trống rộng rãi làm diễn trường rồi Quý gõ thanh la phèng phèng inh ỏi, trong khi đó Kiều nai nịt gọn gàng, thon thả cái bụng, hồng hồng đôi má, múa tít cây thương đâm đông đánh tây túi bụi. Bọn người hiếu kỳ kéo tới xem, chẳng mấy chốc đã bị cặp mắt của Kiều thu hồn lượm phách, không còn rời khỏi được nữa.

Bỗng có một tên đại hán cao lớn từ trong đám đông nhô ra, mình mặc toàn đồ tơ lụa, phía sau có bốn tên gia nhân theo hầu. Một tên gia nhân trong bọn chạy tới bảo Tiêu Triều Quý:

- Tướng công muốn mời cô nương của nhà ngươi tới phủ chơi!

Quý hỏi lại tên gia nhân:

- Tướng công của nhà ngươi là ai vậy?

Tên gia nhân đưa tay chỉ tên đại hán đứng phía trước rồi chỉ luôn ngón tay cái nói tiếp:

- Tướng công Hoàng Ngọc Côn đó! Quanh đây ít ra một trăm dặm ai lại không biết tướng công tôi!

Hồng Tuyên Kiều nghe nói vậy biết là chuyện trúng ý mình vội liếc mắt ra hiệu cho Quý rồi chạy lại trước mặt tên đại hán gật đầu chào và gửi lời chúc tụng.

Tên đại hán cho gọi một chiếc kiệu nhỏ tới để Tuyên Kiều ngồi lên rồi khiêng về phủ. Hoàng Ngọc Côn bày tiệc ngay tại thư thất đãi hai người Kiều, Quý. Hồng Tuyên Kiều đã có dụng ý thả mồi câu bắt, bèn bước lại mời trà chuốc rượu Côn khiến lòng hắn rậm rật khó yên, liền lấy ra ba trăm lạng bạc, muốn Tuyên Kiều ngủ với hắn một đêm, Kiều giả bộ e lệ chối từ. Côn năn nỉ ba, bốn lần thì nàng buộc Côn phải nhận hai điều kiện mới chịu cho. Đã đến lúc này thì hai trăm điều kiện Côn cũng phải theo hết. Côn chịu rồi, Tuyên Kiều mới lên tiếng như ra lệnh:

- Điều kiện thứ nhất. Ngươi phải vào đạo của ta thì lúc đó ta mới coi mi như phu quân để trao gửi tấm lòng.

Côn nghe nói tới đây đã vội vàng lên tiếng chịu ngay. Nhưng nàng đâu đã vội tin, nói tiếp:

- Lời nói không bằng cớ! Phải viết ngay tình nguyện thư mới được!

Côn lúc này đã bị sắc dục làm cho mê loạn rồi, đâu có còn nghĩ tới chuyện lợi hại về sau nữa. Tuyên Kiều vốn có chủ định nên đã mang sẵn đơn tình nguyện bên mình từ trước.

Nàng lấy ra đưa cho Côn điền tên tuổi rồi cất đi cẩn thận. Nàng nói tới điều kiện thứ hai:

- Trong vòng hai ngày, anh ta là Hồng Tú Toàn và đạo hữu Phùng Vân Sơn phải được thả ra khỏi lao.

Hoàng Ngọc Côn nghe xong, bèn nói:

- Việc đó hãy để mặc ta! Nội trong hai ngày, anh nàng sẽ ra khỏi lao. Cứ yên tâm.

Tuyên Kiều thấy Côn đã thoả mãn điều kiện của mình, lại có đơn tình nguyện nắm trong tay, không còn sợ Côn chạy thoát đường nào, mới để Côn mặc sức tìm vui hưởng lạc.

Khi Hồng Tuyên Kiều bước ra khỏi cổng phủ, có Hoàng Ngọc Côn đưa chân, ước hẹn ngày hôm sau đúng giờ ngọ gặp nhau trên cầu Thất Lý ngoài cửa đông.

Tuyên Kiều vội về báo cho các anh em đồng bọn biết. Qua hôm sau, mọi người tới cầu Thất Lý đợi chờ chừng một lát, quả nhiên Hoàng Ngọc Côn đưa Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn ra tới.

Vừa gặp mọi người Hồng Tú Toàn đã khoe Côn nghĩa khí thế nào, sau đó khuyên Côn nên nhập bọn. Tuyên Kiều nghe xong, phì cười bảo:

- Khỏi phiền đại ca lo tới điều đó. Con độc long này đã có tiểu muội trị nó rồi.

Quả nhiên Hoàng Ngọc Côn không thể bỏ được Hồng Tuyên Kiều, y bèn nhập bọn, kéo nhau lên núi Bằng Hoá. Tới nơi Hồng Tú Toàn cử Côn làm chức Phó giáo chủ. Còn Côn nhân khi rảnh lại lui tới tìm vui cùng người đẹp Tuyên Kiều. Cặp tình nhân mới này nói không biết bao những chuyện ân tình nồng thắm, say sưa. Côn ngày càng tỏ ra trung thành với hội cũng như với đạo.

Toàn nghe nói ở huyện Quý có một người họ Vi gia tư kể có tới tám trăm vạn. Chủ nhân họ Vi năm đó đã hơn năm chục, dưới gối chỉ có một đứa con trai tên gọi Vi Xương Huy là một thanh niên hết sức khôi ngô tuấn tú.

Huy cũng là một tay phong lưu có hạng. Suốt một dải huyện Quý, bọn chị em xóm dưới, thấy Huy vừa đẹp trai, vừa con nhà giàu có, cô nào cũng tìm cách ve vãn, xoắn xuýt lấy chàng. Bởi thế ngay từ lúc mười sáu tuổi, Huy đã đam niêm sắc dục. Mãi khi tuổi đã hai mươi, Huy vẫn còn chưa lấy vợ. Cha mẹ Huy thấy con nhu vậy, lòng lúc nào cũng lo lắng, nên thường nhắc tới chuyện vợ con với Huy. Nhưng Huy bảo vợ phải người tuyệt sắc mới lấy.

Một hôm, Vi Xương Huy từ ngoài chạy về nhà cười khanh khách bảo cha:

- Hôm nay con đã tìm thấy một trang giai nhân tuyệt sắc rồi cha ạ!

Ông già Huy hỏi nơi nào thì Huy nói:

- Cô ta ở trong tiệm bánh gần nhà ta.

Ông già Huy nghe nói xong, lấy làm tức bảo Huy:

- Nhà mình như thế này mà mày đi lấy một con sen, con ở trong tiệm bánh làm vợ ư? Người ta mà biết thì cả cha mày cũng không còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ nữa.

Vi Xương Huy khi đã mê cô gái tiệm bánh, bèn trộm tiền nhà mang ra cho tình nhân. Hằng ngày, Huy trốn vào nằm lỳ tại đó Một hôm, cô gái trong tiệm bánh nọ tìm tới, nói với ông già họ Vi:

- Tôi là em gái của Thiên hoàng tên gọi Hồng Tuyên Kiều. Ngày nay thế giới sắp có đại nạn, công tử nhà ta có duyên với tôi nên tôi đến đây để cứu chàng. Hiện chàng được tôi đưa lên núi Bằng Hoá rồi. Nếu cụ hiểu biết thời cơ thì nên mau thu xếp theo tôi lên núi, bằng không bọn quan lại cho cụ tư thông với đạo, bắt giam lại thì lúc đó người chết của hết, có hối cũng chẳng kịp nữa.

Ông già Huy nghe Tuyên Kiều nói một lượt, hoảng hồn bạt vía, mắt trợn, miệng há hốc ra đến không còn ngậm lại được ông ta biết hồi đó trong huyện Quý có một số tín đồ theo Thiên chúa giáo. Ngay cả bọn nha dịch trong nha môn mà cũng còn là đồ đảng của Hồng Tú Toàn. Ông già Huy đã biết mình lạc vào cạm bẫy của Hồng Tuyên Kiều, không còn cách gì thoát nữa. Ông đành ngoan ngoãn theo Tuyên Kiều lên núi Bằng Hoá, yết kiến Hồng Tú Toàn. Trong khi đó Vi Xương Huy đã được Toàn phong làm Bắc vương. Ông già Huy chỉ còn cách đem toàn bộ gia sản quyên cúng vào hội.

Đến đây tam gác chuyện Thái Bình Thiên Quốc mà nói tới việc cung Thanh.

Hồi 113

KHI ÔNG VUA CẦN GÁI

Hàm Phong hoàng đế thấy đại sự đã hỏng, hằng ngày chỉ biết tìm vui trong cung cấm, bên cạnh gái đẹp và trước be rượu nồng. Nhưng lâu ngày rồi ngài cũng chán bởi quanh quẩn chi có mấy nàng phi.

Viên tổng quản thái giám hiến kế, bảo ngài nên chọn một gái đẹp trong đám quan lại Bát Kỳ (quan lại người Mãn Châu) mà lâm hạnh. Thế là một đạo ý chỉ hạ xuống. Bọn quan lại Bát Kỳ lo lắng, cuống quýt cả lên. Có kẻ điên nào muốn đưa con gái mình vào chỗ thâm cung chẳng bao giờ thấy mặt trời ấy? Cho nên nhiều gia đình thương con vội vàng đem con gái giấu biệt. Nhưng đối với bọn thái giám đông đảo kia thì nhà nào có con gái mà có thể qua mắt được chúng. Gia đình nào có mấy đứa con gái, đứa nào bao nhiêu tuổi, chúng đều dò la biết rõ hết và nhớ như in trong bụng. Cho nên khi trên vừa lệnh xuống hoàng đế kén chọn tú nữ thì nhà nào có con gái và ở đâu đều đã bị chúng kéo tới giữ chặt lấy cửa, có muốn trốn cũng khó lòng. Song cứ tiền là qua hết. Nhà nào có tiền biết điều đó, chạy ngầm biếu tên tổng quản thái giám vài trăm lạng bạc thì hắn để cho qua đi và mới được thoát nạn. Bằng không, thì gia đình không thoát khỏi cảnh sinh ly tử biệt, con gái ra đi mà không hẹn ngày về.

Hồi đó có một viên võ quan phiêu kỵ là Hỉ Tháp Lạp, tuổi đã già nhưng không có con trai chỉ có đứa con gái duy nhất tên gọi Ái Cô. Ái Cô thông minh lanh lợi từ thuở nhỏ, mặt mũi lại xinh đẹp hết sức. Cha mẹ coi nàng như một đứa con trai, nên cho đi học chữ. Ái Cô thông minh, thạo chữ nghĩa lại khéo tay chân, thêu thùa may vá rất giỏi. Nhà nghèo, nàng đem nghề mọn này ra giúp đỡ gia đình sinh sống. Nàng còn mở một ngôi trường dạy trẻ để kiếm thêm tiền, nuôi dưỡng cha mẹ già.

Năm đó, chọn tú nữ vào cung, Ái Cô cũng bị ghi danh trông sồ. Nàng biết điều đó, khóc đến chết đi sống lại. Nàng định đưa cha mẹ đi trốn nhưng lại bị bọn thái giám và quan lại canh chừng, không thể trốn được. Đến hôm lên đường, nàng đành phải từ biệt cha mẹ, theo tên thái giám vào cung, mang theo cả một nỗi buồn đau uất hận.

Bọn tú nữ đứng thành một dãy dài ngoài cửa cung Khôn Ninh, cô nào cô nấy sợ quá, mặt xanh như chàm đổ, nước mắt dàn dụa xuống đôi má. Người ta đếm xem thấy tròn một trăm cô cả thảy. Bọn thái giám sốt ruột, quát bảo câm khóc. Nếu có cô ương bướng không nghe, chúng cầm roi quất ngay vào lưng, vào những làn da non mịn màng. Ái Cô chính mắt thấy cảnh tàn nhẫn đó, trong lòng lấy làm tức giận. Ai ngờ cả bọn xếp hàng đứng suốt từ sáng sớm cho mãi đến lúc chiều tà mà chẳng thấy hoàng đế ra.

Lúc này trời đang đồ lạnh. Ngoài cửa cung lại là khu sân mênh mông, trống trải, gió biển thổi xuyên vào da thịt bọn tú nữ khiến cô nào cô nấy mặt mày xanh lét, da tím lại, răng đập vào nhau cầm cập, toàn thân run bần bật. Bụng các nàng lúc đó đói như cào, lại mót cả tiểu lẫn đại tiện nữa. Có vài ba cô chịu không nối, oà lên khóc nức nở. Tên thái giám cà giận, giơ ngược hẳn cái roi da lên trời lấy hết sức bình sinh quật xuống, mặt hầm hầm dư dằn như cọp. Ái Cô lúc này không thể nhịn hơn được, vội chạy ra nắm lấy cái roi của tên thái giám, dõng dạc nói:

- Bọn tôi lìa bỏ gia đình, từ biệt mẹ cha để tới nơi đây, nếu có được chọn thì suốt đời cũng phải giam cầm nơi thâm cung, không còn được thấy mặt trời nữa, thử hỏi ai mà chả khóc chứ?

Giữa lúc lộn xộn om xòm đó, bỗng nghe mấy tiếng đằng hắng:

- Hèm! Hèm!

Hàm Phong hoàng đế đã tới, cả bọn lập tức im phăng phắc, không nghe một tiếng động nào nữa. Hoàng đế lúc đó vẻ mặt có vẻ tức giận lắm. Cả bọn lại càng phải giữ gìn hơn, không dám động cựa, lộn xộn. Duy chỉ có Ái Cô vẫn nói năng mạnh mẽ. Tên thái giám thấy vậy, khẽ kéo tay áo nàng nhưng nàng vẫn mặc kệ lờ đi. Hoàng đế Hàm Phong thấy hay hay, bèn hỏi xem nàng nói những gì. Tên thái giám đẩy nàng lên trước.

Nàng quỳ xuống tâu:

- Hiện nay bọn giáo đồ Quảng Tây cướp được Nam Kinh, phân nửa giang sơn đã thuộc về tay chúng. Chẳng nghe hoàng thượng cầu tướng soái để bảo vệ cơ nghiệp tổ tiên, trái lại, chỉ tuyển chọn gái đẹp làm khổ dân lành. Rồi đây, Mãn Thanh thiên hạ này sẽ do một tay hoàng thượng dâng cho kẻ khác. Tiểu nữ đến chỗ này không coi sống chết ra gì nữa, dù có búa rìu sấm sét cũng chẳng sợ, chỉ vì tôn kính hoàng thượng mà nói đó thôi.

Hàm Phong hoàng đế đang hầm hầm giận dữ, bỗng nghe Ái Cô nói một thôi những lời lẽ quang minh chính đại, bất giác hết giận làm lành ngây người ra nhìn nàng rồi ngài chợt cười nhạt một tiếng, phất tay áo và bảo:

- Phải! Phải lắm! Cho chúng về hết đi. Ta cũng chẳng thiết nữa!

Viên tổng quản thái giám nghe vậy, chỉ còn việc đưa hết bọn tú nữ về quê. Từ đó, khắp kinh thành ai cũng đều khen Ái Cô là người con gái tài đức song toàn, nhiều kẻ muốn tới để cầu thân. Về sau Ái Cô được gả cho chàng công tử con của một vị thượng thư người Mãn, vợ chồng ăn ở với nhau rất hoà hợp duyên may.

Đúng vào hôm tuyển lựa tú nữ đó, hoàng đế đã cùng hoàng hậu cãi vã nhau kịch liệt. Hoàng hậu thì khuyên hoàng đế nên bỏ chuyện tuyển tú nữ, bà nói:

- Hiện nay miền nam đang loạn lớn. Hoàng thượng lo việc hằng ngày còn chưa xong, còn hơi đâu mà đi tuyển tú nữ nữa?

Câu nói đó khiến hoàng thượng cả giận, cho rằng bà ghen. Hoàng hậu vốn rất hiền đức, bình sinh rất sợ tiếng ghen tuông. Nay nghe hoàng thượng bảo vậy, bà thấy oan cho mình quá, oan mà không cãi nổi, nên bà đành phải tranh biện đôi lời.

Thế là hai ông bà cãi nhau, cãi từ sáng cho tới chiều. Bọn tú nữ đứng đợi ngoài cửa cung lâu đến một ngày là vì thế.

Hàm Phong hoàng đế ra khỏi cung, lại nghe thêm lời nói của Ái Cô, bèn không tuyển tú nữ nữa.

Hàm Phong hoàng đế vốn có tính hơi kỳ cục. Ngài ở trong cung chơi với bọn phi tần chán chê rồi bảo gái Mãn Châu, người thô, xuẩn và không thích nữa. Gái Hán đẹp hơn, chơi vui hơn.

Trong cung Thanh, tuy cũng có vài gái Hán nhưng tư sắc bình thường, hon nữa lại quê miền Trực Lệ, Sơn Đông nên người đã cao lại to, chân cũng lớn nữa. Hàm Phong hoàng đế lại thích gái nhỏ nhắn, và nhất là gái ở phương nam. Ngai thường khen con gái miền nam nhỏ nhắn xinh xinh càng làm cho ngài thêm mê. Chính vì ý nghĩ này, Hàm Phong hoàng đế nhân lúc vắng người thường hỏi dò bọn thái giám xem trong kinh thành có bọn gái điếm miền nam không. Trong số thái giám thân cận, có một tên gọi Thôi Tam, tính rất giảo hoạt. Hắn thấy hoàng đế có ý ra ngoài tìm hoa hỏi liễu, liền ra ngoài phố, lang thang khắp nơi, dò xét tình hình thật rõ ràng đầy đủ để đợi ngài hỏi tới.

Quả nhiên, Hàm Phong lại nghĩ tới bọn gái điếm miền nam. Ngài hỏi thì Thôi Tam hồi tấu:

- Hoàng thượng ngọc thể, thiết tưởng bọn yên hoa hạ tiện ấy làm sao mà bọn nô tài này dám để chúng hầu hạ hoàng thượng. Đừng nói ở kinh thành này, ngay cả ở Tô, Hàng, bọn gái lầu xanh miền nam cũng rất ít. Ví bằng có đi nữa thì những nơi tục tĩu dơ dáy ấy hoàng thượng làm sao mà tới được.

Hoàng đế nói:

- Trẫm mơ tưởng gái đẹp miền nam quá cỡ rồi. Ngươi có cách gì đưa trẫm đi chơi được không? Ngươi chọn những nơi con nhà tử tế để trẫm tới nói chuyện dăm ba câu là đủ thích rồi.

Thôi Tam thấy hoàng đế có vẻ nóng ruột, bèn nói:

- Phía ngoài cửa Tuyên Võ môn, có nhiều quan lại người miền nam. Nô tài một lần đi qua thấy đứng trước cửa, tựa bên tường rất nhiều những cô gái chân nhỏ, cô nào cô nấy tô son điểm phấn chẳng khác gì ngọc chuốt hoa cười, tiếng nói miền Tô, Hằng thỏ thẻ như chim oanh hót buổi ban mai. Đàn bà con gái Tô, Hàng đều có cái thói quen tựa cửa đứng chơi. Bọn thanh niên cũng đúng vào lúc ấy ăn mặc bảnh bao, đạp gót qua chốn này, tha hồ ngắm đến no mắt mới thôi.

Hàm Phong hoàng đế nghe Thôi Tam nói vậy, trong lòng cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, chỉ mong sao tới ngay được cổng Tuyên Võ để dạo chơi một phen. Ngài bèn bảo Tam dẫn mình đi.

Hai người một vua một tôi, cải trang vi hành len khói cung, cưỡi trên lưng hai con bạch mã, chạy thẳng ra cửa Tuyên Võ Khi tới giữa phố, hoàng đế mua một ít giấy và bút mực rồi tự xưng mình là Trần Công Sinh đất Tứ Xuyên. Ngài vào quán ăn điểm tâm rồi chờ cho đến tối mới ra đi. Hai người lên ngựa cho đi thong thả tới đầu phố, quả nhiên thấy hai bên bờ tường có rất nhiều đàn bà con gái, xấu có, đẹp có, già có, trẻ có, người nào cũng trang điểm lộng lẫy như hoa như ngọc, chỉ thò ra ngoài tường nửa mặt như e như ấp, thẹn thùng.

Có cô cậy mình nhỏ chân, kéo quần cao lên một chút để lộ đôi hài mũi, nhọn như cánh hồng lăng. Có cô làm bộ trốn tránh sau lưng người khác, chỉ để một chút má phấn trắng mịn, cặp mắt ngấp nghé nhìn trộm các chàng trai đang lang thang thả bộ trên đường. Rồi khi thấy có người tới, các cô lại rút mình vào phía trong, lấy cánh cửa che mặt, nhưng đợi khi người trai đó đi qua các cô lại thò đầu ra, nhìn theo bóng dáng sau lưng họ, khẽ bình phẩm vài câu.

Hàm Phong hoàng đế từ nhỏ được nuôi dưỡng tại thâm cung, chưa được dịp ra chơi bao giờ. Cho nên lần đầu được thấy phố xá vui vẻ, nhộn nhịp lại có rất nhiều các bà, các cô xinh đẹp, mắt ngài hoa lên. Ngài ngồi trên lưng ngựa thích chí cười vang như nắc nẻ, tưởng chừng cặp môi không thể nào còn ngậm lại được.

Hồi 114

VUA GIẢI TRÍ

Một hôm, Hàm Phong hoàng đế cưỡi ngựa chạy qua trước cửa một ngôi nhà, thấy có nhiều chàng trai trẻ đi đi lại lại trước căn nhà đó, miệng ca những bản tình ca của đôi trai gai yêu nhau: Ngài nhìn kỹ lại, thì ra ở đầu tường có bốn cô nàng, cô nào cô nấy xinh đẹp như đoá phù dung đượm giọt sương mai, thân hình lả lướt, óng chuốt như cành tơ liễu rũ bên hồ. Trong số bốn cô có một cô nhỏ nhất, tuổi chừng mười lăm mười sáu, sắc nước hương trời, xinh hơn mấy cô kia gấp bội.

Nàng liếc cặp mắt thu ba hết bên này qua bên kia, y như những cái câu móc hồn người. Đôi chân của nàng thật tuyệt! Chúng nhỏ nhắn xinh xinh, vừa nhọn, vừa thon, lại đi một đôi hài bằng vải đoạn hồng có thêu hoa, đặt trên mặt đất chỉ dài có hai tấc. Hàm Phong hoàng đế ngắm nghía một lúc, bật ra tiếng khen:

- Trời! Đẹp thật!

Trước mắt bốn cô gái xinh đẹp nọ, còn có một bà sồn sồn, vừa mắng tụi thanh niên nọ vừa đuổi chúng đi song đồng thời lại làm điệu hết sức tình tứ với bọn chúng: điệu đến nỗi hoàng đế cũng phải ngây người ra nhìn. Hàm Phong cưỡi ngựa chạy đi chạy lại qua cửa nhà này đến ba lần. Bọn gia đình nọ năm người biết ý mắc cỡ đóng cửa đánh ầm một tiếng bỏ vào trong hết.

Hàm Phong hôm đó vào cung mơ tưởng tới người đẹp suốt đêm không ngủ được. Tuy cưỡi ngựa qua lại đến mấy lần nhưng ngài chẳng dám tới gặp mấy cô gái để trò chuyện. Ngài dặn Thôi tổng quản đi dò la xem sao. Thôi tổng quản đi luôn một hơi ba ngày liền mới quay về cung, trông mặt tươi tỉnh lắm.

Gặp hoàng đế, Thôi liền tâu:

- Bệ hạ có biết ngoài cửa Tuyên Võ có một mỹ nhân tên gọi cô Lan Nhi chân nhỏ đó không?

Hàm Phong hoàng đế nói:

- Trẫm làm sao biết được! Cô Lan Nhi chân nhỏ là ai vậy? Lan Nhi chân nhỏ là thế nào?

Thôi tổng quản lại tâu:

- Bốn cô gái đẹp mà hôm nọ bệ hạ đã gặp, có còn nhớ không? Nô tài đã đi dò la rồi. Bọn gái đó đều là con gái nhà họ Trương, người Tô Châu, cha tên gọi Trương Vân Đài đã từng làm quan đến chức thị lang bộ Hình. Ông Đài ở quê đã có vợ con đầy đàn: nhưng khi tới kinh ông lấy một cô gái lầu xanh về làm vợ bé, sinh được bốn cô gái, rồi bỗng nhuốm bệnh mất. Mụ vợ bé họ Trúc goá chồng giữa lúc mới có bốn chục, cảnh gia đình đã đến lúc cùng quẫn quá rồi. Nhưng nhờ được bốn cô con gái đều đã lớn mà lại đẹp, mụ liền dùng làm chiêu bài để câu bọn ong bay bướm lượn, gái trai cờ bạc, chứa thổ, đổ hồ, kiếm tiền độ nhật. Bọn khách này cũng khoái cái lẳng lơ chơi bời của mụ ta và đều có vẻ quý mến mụ. Bởi thế trong thành Bắc Kinh bọn ăn chơi thảy đều kéo tới đây du hí. Bọn này rất thích bốn cô con gái, nhưng mụ Trúc giữ chặt, không một ai dính được cô nào của mụ cả. Bọn công tử nhà giàu càng thấy khó, càng tung tiền ra như nước. Nhưng mụ Trúc càng thấy chúng chịu xài tiền thì lại càng dấp dính, nhử mồi, nay hứa, mai hẹn mà chẳng tên nào gần được con gái mụ nữa chứ đừng nói đụng tới người. Mụ theo chiến thuật đó, chẳng bao lâu đã có gia tài bạc triệu. Lúc này, khách làng chơi, nếu chẳng phải vương công đại thần, mụ đâu có thèm tiếp Bốn cô con gái, cô lớn tên gọi là Hà Nhi, cô nhì gọi Quế Nhi, cô ba gọi Dung Nhi, cô tư gọi Lan Nhi vừa nhỏ nhắn xinh xinh, vừa duyên dáng tình tứ, lại thêm có đôi chân chỉ dài độ hai tấc nên người thành Bắc Kinh đều gọi nàng là cô Lan Nhi chân nhỏ…

Hàm Phong hoàng đế nghe tên thái giám Thôi Tam kể lể nguồn gốc tới dây, bèn cất tiếng hỏi:

- Có phải cô nàng đứng dằng sau mấy cô chị, má thoa phấn môi tô son, cặp mắt thi liếc bên này bên kia như làn thu ba lóng lánh, mà trẫm thấy hôm nọ đó không?

Thôi tổng quản liền đáp:

- Dạ! Chính phải đó.

Hàm Phong hoàng đế vỗ tay xuống đùi đánh đét một cái nói:

- Tuyệt thật! Một mỹ nhân, tiếng đôn quả chẳng ngoa chút nào. Làm cách nào cho trẫm đến chơi với cô ta một tối đi?

Thôi tổng quản tâu:

- Bệ hạ đừng nóng lòng. Nô tài được biết lão gia Hổ làm thủ quỹ cho tiệm vàng Phúc Ký ở phố lớn vốn bồ bịch với mụ Trúc từ xưa. Nô tài sẽ nhờ lão ta nói giùm.

Hàm Phong hoàng đế nghe tới đây vội hỏi:

- Ngươi dám nói trẫm tới nhà mụ ta chơi gái ư?

Thôi tống quản xua tay bảo:

- Không! Không! Nô tài sẽ nói một vị mộc khách, thương gia tỷ phú tỉnh Giang Tây, lên kinh, nghe Trương gia có bốn cô con gái nên muốn tìm tới chơi và nhờ ông ta giới thiệu giùm.

Hàm Phong hoàng đế gật gù, miệng tươi như hoa, khen lấy khen để. Thói tổng quản thấy hoàng đế khen bèn hứng chí ra đi. Lão thủ quĩ tiệm vàng Phúc Ký được Thôi tổng quản uỷ thác liền tới nhà mụ Trúc thương lượng, qua ngày hôm sau, lão trở về báo Thôi tổng quản y theo lời của mụ Trúc.

- Nếu ông khách nào, đó có lòng thương con gái mụ ta, thì cứ xin mỗi một cô muốn gặp mặt phải bỏ ra năm vạn lạng tiền. Đặc biệt với Lan Nhi phải thêm mười vạn lạng tiền "gia tư (tiền cho để cho khỏi mắc cỡ). Riêng mụ ta phải cho thêm năm vạn lạng nữa. Tổng cộng tất cả là ba mươi lăm vạn lạng bạc, thiếu một cũng không được.

Lão thu quĩ nói tới đây hạ thấp giọng, miệng tủm tỉm cười, ghé sát vào tai Thôi tổng quản nói:

- Còn tớ nữa, cúng xin năm vạn lạng đấy nhé.

Thôi tổng quản vội trở về hồi tấu, Hàm Phong hoàng đế vừa nghe tới con số cộng: bốn mươi vạn lạng bạc một đêm chơi, bất giác lè lưỡi dài như lưỡi rắn ráo, mặt bần thần như chuột rút. Nhưng chỉ trong giây lát ngài đã tươi tỉnh lại ngay, bởi vì ngài nhớ tới bốn cái mặt đẹp như hoa, đôi chân của Lan Nhi chân nhỏ. Thế là lập tức ngài bảo Thôi tổng quản vào kho lấy ngay bạc đưa tới tiệm vàng Phúc Ký. Chẳng mấy chốc Thôi tổng quản đã đem đủ bốn mươi vạn lạng mang đi, trích năm vạn lạng cho lão Hổ thủ quỹ tiệm vàng, còn ba mươi lăm vạn lạng chuyển giao cho mụ Trúc, mẹ bốn cô gái nọ.

Khi không vớ được ba mươi lăm vạn lạng, mụ mừng quýnh, đến phát điên lên. Quả thật, từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến nay mụ chưa bao giờ một cú vớ được nhiều tiền như vậy. Mụ Trúc cười, cười hoài, có lúc cười lên khăng khắc, bởi vì mụ như muốn điên rồi. Thế là mụ ta một mặt giục con mụ tô son điểm phấn, một mặt bảo sửa soạn đón tiếp khách quý.

Đến ngày thứ ba, Thôi tổng quản lẻn đi mướn một cỗ xe, đưa hoàng đế vào ngồi trong, phía ngoài lấy cái vải bố che kín còn mình thì ngồi trên càng xe, lẻn ra ngoài cửa Tuyên Võ, thẳng tới nhà họ Trương.

Tới nơi, Thôi tổng quản đỡ hoàng đế xuống xe, mụ Trúc đón rước vào nhà. Hoàng đế nhìn kỹ mụ Trúc thấy mặt mụ trát đầy son phấn, cặp chân, mày cong vút, bèn cười nói:

- Nương phong vận đỏm dáng thật đáng yêu?

Mụ Trúc nghe nói, nguýt một cái dài đến mấy trượng, giơ cánh tay thon thon trắng trắng vỗ đảnh đét một cái vào vai hoàng đế, một tay che miệng tủm tỉm cười nói:

- Khéo cái miệng trơn cứ như mỡ heo ấy!

Hàm Phong hoàng đế khoái chí, cười phá lên, có lúc nghe lạc đi thành hô hố, ý như tiếng còi lệnh, chân thoăn thoắt bước vào giữa phòng khách, nơi đây trang trí rất lịch sự: sàn lót thảm hoa, trên tường treo đèn lồng đỏ hắt ánh sáng lung linh mờ ảo ra khắp phòng.

Thế rồi, bỗng các đại thần cũng biết chuyện, cả bọn vội vã kéo tới phía ngoài cửa Tuyên Võ để đón giá. Trong chốc lát, mấy căn nhà họ Trương đầy nghẹt cả vương công đại thần.

Trong số có một vị đại học sĩ tên gọi Đỗ Thụ Điền xông thẳng vào nhà sau tha thiết khuyên can hoàng đế. Còn một vị nữa, ngự sử Thẩm Bào Trinh, dâng luôn một tờ sớ đàn hặc Thôi tổng quản, nói họ Thôi dám đưa hoàng đế đi chơi bời bậy bạ, xin hoàng đế giao nội vụ phủ dùng gậy đánh chết.

Nào ngờ vị phong lưu thiên tử ấy mê say năm mẹ con nhà mụ Trúc đến cái độ bất chấp cả triều đình can gián, chẳng chịu về cung. Thôi tổng quản hoảng quá, vội chạy vào nói nhỏ với ngài:

- Xin thành thượng hồi cung cho. Thánh thượng cứ giao phó bốn cô này cho nô tài. Trong ba ngày nô tài thế nào cũng thu xếp đưa cả vào vườn Viên Minh. Lúc đó thánh thượng tha hồ muốn vui chơi lúc nào lại chả được, còn ai dám tới quấy rầy thánh thượng nữa.

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, xua tay báo:

- Chớ! Chớ có đưa về vườn Viên Minh. Ở đấy đầy những "hũ dấm" (ám chi các bà hay ghen). Chớ có đưa về đó mà khổ cả.

Thôi tổng quản suy nghĩ một lát, rồi dập đầu tâu:

- Nô tài biết một chỗ rất u tĩnh, cách vườn Viên Minh không xa. Xin thánh thượng cho bốn chị em họ Trương ở đó là tất nhất. Trong ba ngày, thế nào nô tài, cũng xin xếp đặt nơi ấy ổn thoả, lại sẽ đưa thánh thượng tới đoàn tụ. Việc trước tiên lúc này là mời thánh thượng hồi cung đã. Nếu không thì cái đầu lâu của nô tài không còn có cách chi bảo đảm được.

Hàm Phong hoàng đế thấy Thôi tổng quản cầu khấn quá đỗi bèn hứa hồi cung.

Bên ngoài đã bày đặt lọng giá sẵn sàng. Lúc lâm biệt ngài còn bịn rịn chẳng muốn rời tay. Nhưng cuối cùng cũng đành dứt áo ra đi. Phía ngoài văn võ triều đình đón rước, đỡ hoàng đế lên xe loan. Bỗng ngài sực nhớ ra một điều gì đó, bèn vội gọi Thôi tổng quản đến trước xe loan dặn nhỏ một câu:

- Ngươi thu xếp cho bốn chị em họ Trương, chớ có quên mụ Trúc đấy nhé. Mụ ta hay tuyệt, hiếm có đó!

Nói xong, ngài cười sằng sặc, vang cả khu phố. Ba mươi hai tên phu kiệu ghé vai vào, chạy một mạch ngài về cung.

Hàm Phong hoàng đế trở về, Hiếu Trinh hoàng hậu chẳng dám khuyên can lấy một lời chỉ vì bà sợ mang tiếng là người ghen tuông nhỏ nhen. Nhưng đám phi tần khi thấy ngài lại đem lòng oán hận. Biết vậy, ngài cũng mặc kệ, chẳng thèm để ý đến.

Ba hôm sau, Hàm Phong hoàng đế lại võng lọng tới vườn Viên Minh. Trong vườn, tất nhiên đã có một bọn phi tần đứng đón.

Giữa lúc ngài đang trỏ chuyện với bọn phi tần, thì bỗng Thôi tổng quản bước tới, khẽ kéo ống tay áo làm hiệu. Tức thì ngài theo viên thái giám bước ra khỏi cửa Tảo Viên môn, đi thẳng về phía tây, quanh qua một góc đường, đến một khu rừng thông cao rậm âm u. Thôi tổng quản đi trước, quanh qua phật điện, bước sang cái cửa ngạch phía tây, tới một rừng trúc. Hai người đi qua khu rừng trúc thì thấy một dãy tường sơn trắng lộ ra một cái cửa tò vò. Bước qua cái cửa đó, hai người lại thấy một dãy bức màn tượng che khuất sau gian tịnh xá, phía ngoài rèm treo mấy cái lồng chim yểng. Khi có người tới chúng hót vang lên: "Có khách! Có khách!". Người nhà phía trong nghe tiếng chim hót, vén rèm bước ra.

Hàm Phong hoàng đế chú ý nhìn thì ra là mụ Trúc. Ngài nhảy chồm lên trước, nắm lấy tay mụ, bá vai mụ bước vào nhà. Từ phía trong, bốn chị em Hà, Quế, Dung, Lan cũng bước ra đón ngài, vây chung quanh thăm hỏi rối rít như đàn chim.

Hoàng đế hai tay kéo bốn cô kéo xuống giường, quay đầu lại hỏi Thôi tổng quản chỗ này là nơi nào. Họ Thôi hồi tấu:

- Đây chính là Thiên Phật tự, xưa vốn là một vương phủ. Về sau vương gia này không con nối dõi, nên đem sửa làm chùa. Hiện nô tài đã cho đuổi hết bọn sư Lạt Ma đi chỗ khác, và đưa hai mươi tên thái giám từ vườn Viên Minh lại để chầu chực hầu hạ. Xong đâu đấy, nô tài mới ra ngoài đưa bốn vị cao nương tới đây để hoàng thượng sớm tối lâm hạnh, như thế có phải tiện lợi không.

Hàm Phong hoàng đế gật đầu nói:

- Người thực vất vả quá vì ta. Ta thưởng cho người một vạn lạng bạc nhé!

Thôi tổng quản lĩnh thưởng xong lui ra, chạy tới kho nhận bạc. Còn hoàng đế tử đó nằm chơi liên miên với bốn chị em nhà mụ Trúc, chẳng thèm để ý tới việc về vườn Viên minh nữa.

Hồi 115

TÌM GÁI GÂY CHUYỆN

Hồi này, thế lực của quân tóc dài ở miền nam càng ngày càng mạnh. Hồng Thiên hoàng sau khi cướp được Nam Kinh rồi liền phát một đạo binh đánh Trấn Giang. Bọn quân lính Mãn Châu ở Trấn Giang, chẳng bắn lấy một mũi tên, bỏ thành trì chạy sạch.

Đoàn quân tóc dài lại cướp thêm Dương Châu. Viên tướng thống soái quân tóc dài lúc đó là Lâm Phương Tường.

Tường xung trận rất oai hùng, cướp được một hơi, nào phượng Dương của tỉnh An Huy, nào Quy Đức của tỉnh Hà Nam, lại vượt sông Hoàng Hà chiếm Hoài Nghĩa. Nhưng đến đây, Tường bỗng chuyển hướng, đánh thốc lên tỉnh Sơn Tây, đánh Trúc Lệ, cướp Bình Giá. Tường chiếm Cao Thành, sau đó đánh phá Thâm Châu, rồi dọc sông Vận Hà, đánh lấy cả một dải miền Tĩnh Hải…

Ngoài đạo quân trên, Hồng Thiên hoàng còn sai một đạo quân khác đánh cướp hết các vùng Niêm Tổ, Liêm Trấn, Phụ Thành… Thế là quân tóc dài càng ngày càng xích lại gần kinh đô, quan quân toàn thành cũng như văn võ đại thần được tin tức này ai nấy đều hoảng hốt sợ hãi.

Tiếp sau đó sớ tâu bầy thành trì miền nam thất hãm liên tiếp bay về kinh như bướm. Nơi quân cơ tiếp được công văn, vội đưa vào cung bất kể ngày đêm.

Nhưng lúc đó hoàng đế đang mải mê trong đám váy yếm, chẳng thèm để ý tới triều đình thì biết làm thế nào? Bọn đại thần hoảng hốt lo sợ chẳng biết xoay sở ra sao, chỉ còn cách ngày ngày ngồi đợi ngoài cửa ngọ môn. Họ ngồi đã mỏi đít mòn trôn mà vẫn chẳng thấy thánh chỉ hạ xuống.

Đệ nhất quân Bắc phạt của Hồng Thiên hoàng thắng lợi. Tiếp đó Hồng sai hai chiến tướng Cát Vân Nguyên và Lý Khai Phương điều động lộ quân thứ nhì cũng hướng bắc chinh phạt.

Đệ nhị quân này đánh thẳng một mạch suốt An Khánh, Đông Thành, Thư Thành, những châu quận phồn hoa náo nhiệt nhất, sau đó lại đánh luôn cả Lư Châu. Tuần phủ An Huy là Giang Trung Nguyên chết trận tại Lư Châu. Thanh thế của đệ nhị quân cũng vang dậy trong ngoài. Tiếp theo họ đánh chiếm Lục Hợp, Lâm Thanh, Châu Đường, Cao Châu.

Hiếu Trinh hoàng hậu một mặt cấm chỉ mọi người không được huyên náo, một mặt cho gọi Thôi tổng quản tới. Bà dám chắc chỉ có hắn là biết hoàng thượng nơi đâu. Bà quát bảo trói gô Thôi lại giao cho nội vụ phủ khảo vấn:

- Trước đây, hoàng thượng xuất cung đi chơi, là do chính mi dụ dỗ đưa ngài đi. Ngày nay cũng lại là mi chứ chẳng phải ai khác.

Thôi tổng quản chịu không nổi cực hình, đành phải cung khai ra hoàng thượng đang ở Thiên Phật tự. Nội vụ phủ liền sai áp Thôi tổng quản tới chùa Thiên Phật, quả nhiên tìm thấy hoàng thượng. Hàm Phong hoàng đế hỏi lý do tại sao thì Thôi tổng quản kể chuyện hoàng hậu nổi giận bắt trói hắn đưa tời cho Nội vụ khảo vấn tra tấn. Hoàng đế nghe nói vậy, biết không còn thể giữ bốn chị em nhà mụ Trúc được nữa, bèn ra mặt hồi cung. Đồng thời truyền thả Thôi tổng quản rồi rỉ tai bảo hắn đưa bốn chị em nhà kia ra mé sông ngoài Cấm thành ở tạm.

Hiếu Trinh hoàng hậu thấy hoàng đế về cung bèn quỳ xuống khuyên can. Bà nói:

- Hiện nay, quân vụ biến loạn, hoàng thượng có lo ngày đêm, còn lo chưa xuể. Thế mà tại sao còn tự ý đi tìm vui một mình, gác hết mọi việc triều chính như vậy?

Hoàng đế nghe xong cười khì khì đáp:

- Trẫm nhân việc nước lo phiền, ở trong cung buồn quá, nên xuất kinh vài hôm đi săn đó thôi, nàng hoảng hốt nóng nảy làm gì?

Nói đoạn, ngài bước ra khỏi cung Khôn Minh về ngự thư phòng. Ngài thấy sớ tấu chất trên án thư cao như núi. Cầm lên xem thì toàn những bản tấu cấp báo các nơi thất thủ gọi về. Ngài giật mình vội triệu tập toàn thể vương công đại thần mở Ngự tiền hội nghị bàn tính đến mấy canh giờ liền mới quyết định được một số việc phải làm. Ngài lập tức truyền chỉ phái Binh bộ thượng thư Bảo Thắng đích thân chỉ huy đại quân tới Bình Giã chống một lộ của quân tóc dài lại sai Thân vương Khoa Nhĩ Bí Mông Cổ tên là Tăng Cách Lâm Bị thống lĩnh kỵ binh địch lại một lộ khác ở Liêu Trấn.

Cả hai người đều là chiến tướng, vâng lệnh hoàng đế, hăng hái xuất quân. Chẳng bao lâu, Bảo Thắng quả nhiên đánh bại quân tóc dài, lấy lại một dãy Cao Thành, Tăng vương cũng thu phục được một dãy Phụ Thành. Tăng vương còn dùng kế sách của đạo viên Trương Tấn Tường, phá vỡ đê sông Vận Hà để rót nước vào doanh trại quân tóc dài do Phùng Quang Đồn chỉ huy cho chết chìm hết. Tướng Lý Khai Phương của đoàn quân tóc dài tới đại doanh của Tăng vương đầu hàng.

Tăng vương dùng tù xa nhốt Phương đưa về kinh. Hàm Phong hoàng đế truyền dụ đưa Phương ra trướng bên mé tây thành chặt đầu. Từ đó, quân tóc dài lộ thứ nhất cũng như lộ nhì đều phải trốn về Nam Kinh.

Thấy đất nước có vẻ thái bình rồi, Hàm Phong hoàng đế lại nhớ đến những giây phút mê ly bên người đẹp. Ngài lại ngầm gọi Thôi tổng quản tới hỏi xem bốn chị em nhà mụ Trúc có còn đó không. Thôi tổng quản lắc đầu nói:

- Sau khi hoàng thượng bảo nô tài đưa họ ra ở mé ngoài cấm thành thì ít lâu sau họ đều lấy chồng quan lớn làm phu nhân cả mất rồi.

Hàm Phong hoàng đế nghe nói đành nuốt nước miếng, than tiếc, chứ còn biết làm cách gì hơn. Thôi tổng quản biết hoàng đế trong lòng chẳng thể nào vui được.

Cách mấy hôm, bỗng Thôi tổng quản hí hửng chạy tới trước mặt hoàng đế, khẽ bảo ngài:

- Gần đây nô tài nghe tin ở mé nam thành có một mỹ nhân tên gọi Băng Hoa, lại còn gọi là Cái Nam thành.

Hoàng đế nghe nói, tỏ vẻ ngạc nhiên, liền hỏi:

- Tại sao lại gọi là Băng Hoa?

Thôi tổng quản đáp:

- Chỉ vì nàng ta sắc đẹp như hoa mà tính lại lạnh như băng khiến chẳng ai dám đùa cợt gì. Ví thử có mấy tiên du côn lãng tới trêu ghẹo thì thế nào cũng bị nàng mắng nhiếc đến phải bỏ đi. Do đó, mọi người mới dành cho nàng cái tước hiệu Băng Hoa.

Hoàng đế nghe xong gật đầu, lại hỏi:

- Tại sao lại gọi Cái Nam thành?

Thôi tổng quản tâu tiếp:

- Đó là vì nàng đẹp quá, đẹp có thể trùm lên trên trên hết bọn chị em suốt một dãy cửa Nam thành.

Hoàng đế nghe giải thích xong nhảy bỗng lên, tỏ vẻ khoái chí nói:

- Đã có thứ người đẹp đến thế thì trẫm phải đi thăm một phen mới được.

Thôi tổng quản vội ngăn lại nói:

- Hoàng thượng nên cẩn thận! Nàng là người đàn bà có chồng. Nhà nàng lại mở một tiệm bán hài đinh ở một đường phố hết sức náo nhiệt, e khó có thể lọt vào tay được.

Hoàng đế nói:

- Trâm không tin, để trẫm đi xem cái đã. Trẫm quyết làm cho Băng Hoa hoá thành Đào Hoa, khiến nàng phải vào cung bầu bạn với trẫm vui ngày đêm mà gây khoái lạc.

Nói đoạn ngài giục Thôi tổng quản thắng ngựa. Ngài cải trang thành một chàng công tử con nhà giàu, lẻn khỏi cung, nhảy lên ngựa. Cùng với Thôi tổng quản, hai người một trước một sau, chạy ra ngoài cửa Nam thành.

Ngài thấy một căn nhà nhỏ mở tiệm bán giày đinh, trong có một gã đàn ông hói đầu, râu quai nón mọc tua tủa, nằm bò trên mặt ghế khâu giày, mà không thấy người con gái nào cả. Hai người đi qua đi lại trước nhà đến mấy lần, cố ý nhìn xem người đẹp đâu, nhưng tuyệt nhiên không thấy nàng ta bước ra, Hàm Phong cụt hứng, chẳng biết làm cách nào, đành tiu nghỉu trở về.

Qua ngày thứ hai, hai thầy trò lại ra đi, cũng không thấy như lần trước. Nhưng lại dò la biết được gã đàn ông hói đầu nọ chính là chồng của nàng ta.

Hoàng đế thở than thành tiếng:

- Một cành hoa đẹp như thế kia mà đem cắm vào bãi cứt trâu!

Qua ngày thứ ba hoàng đế lại đi lần nữa. May thay lần này ngài đã thấy được nàng, may hơn nữa là lần này không thấy tên đàn ông nọ trong tiệm mà chỉ có một đứa gái nhỏ đầu bù tóc rối đang ngồi bên cạnh quay hàng giặt áo mà thôi.

Hoàng đế và Thôi tổng quản nhảy xuống ngựa, nhanh chân bước vào tiệm. Chỉ thấy bùn lầy khắp mặt đất, mùi hôi thối xông lên mùi nồng nặc. Hoàng đế chưa bao giờ tới một nơi ô uế dơ dáy như vậy nhưng chỉ vì gái mà đành phải bước liều vào trong.

Người con gái thấy khách hàng vào vội bỏ cái áo đang giặt xuống, giơ hai tay nước còn nhỏ ròng ròng; một mặt xốc cái cheo áo cao lên, một mặt bước lên nhà trên gọi người bán hàng.

Hoàng đế nhìn mặt nàng, quả nhiên thấy da trắng như tuyết, đôi mày dài cong vút, thật chẳng khác gì một pho tượng Phật Quan Âm. Ngắm đến tay nàng, ngài thấy nó trắng nõn lại mũm mĩm xinh xẻo lạ thường, tuy làm lụng suốt ngày nhưng tuyệt nhiên không có một nếp nhăn hoặc một vết sẹo nào.

Ngài lại nhìn tới thân hình nàng. Thật là một tấm thân vừa phải, không có chỗ chê! Đứng trước pho tượng thiên nhiên đó, vị hoàng đế phong lưu tài hoa nọ mặt thộn ra, mắt gần như không chớp nổi.

Thôi tổng quản giả trang làm một kẻ mua giày bước tới trả giá với nàng. Hoàng đế đứng bên cạnh tha hồ nhìn. Ngài không cầm nổi lòng nữa, bèn lên tiếng nói nhỏ với nàng.

- Ngày hôm trước, tôi có lại đây thăm nàng mà không gặp, vậy nàng đi đâu thế?

Người con gái hình như không nghe thấy, cứ lẳng lãng cúi đầu lựa giày chọn dép cho Thôi tổng quản.

Hoàng đế lại hỏi tiếp:

- Người chồng đầu hói của nàng hôm nay đi đâu?

Đến lần này thì nàng ta đã tỏ ý giận, quay mặt đi chỗ khác, chẳng thèm để ý tới hoàng đế. Ngài đến phút này mật xem ra đã lớn, liền thò tay qua quầy hàng nắm lấy tay nàng.

Nàng bỗng nổi giận như điên, cầm ngay chiếc hài đinh trong tay, thẳng cánh giáng một cái vào mặt hoàng đế. May Thôi tổng quản lẹ tay ngăn được.

Nàng ta giận càng sôi lên, cặp chân mày dựng ngược, kêu ầm lên, cả phố nghe thấy. Dân chúng đổ xô ra đông nghẹt, ai cũng đều mắng chửi:

- Giữa thanh thiên bạch nhật mà dám chọc gái, thật là khốn kiếp! Bọn mình đập bỏ mẹ nó đi!

Thế rồi một kẻ nói đánh hai kẻ nói đánh, cuối cùng cả đám đông quát rầm lên đòi đánh. Thôi tổng quản thấy câu chuyện đâm ra gây cấn, vội tuốt kiếm trong mình ra, đứng chặn ngay trước cửa không cho kẻ nào vào. Đám đông thấy Thôi tổng quản tuốt kiếm lại càng tức, nhất tề quát lớn:

- Thằng khốn kiếp! Cầm đao với tuốt kiếm, mi không còn coi phép nước luật vua ra gì nữa hả? Đánh bỏ mẹ nó đi!

- Đánh! Đánh! Anh em!

Cả một đám đông gậy gộc giơ lên tua tủa xông tới cửa tiệm. Hoàng đế thấy nguy quá rồi, vội nhảy lên mặt quầy hàng, vung đôi tay giật lấy giày đinh, hài đinh treo trên kệ liệng ra ngoài. Một số bị ngài ném trúng lỗ đầu sứt tai, máu chảy lênh láng. Đám đông bên ngoài lại càng tức. Họ lượm những chiếc hài, chiếc giày ngổn ngang dưới đất ném lại.

Hàm Phong hoàng đế hồi thiếu thời đã có luyện qua nghề võ, biết cách tránh né nên đều thoát cả. Trong nháy mắt căn tiệm thì thấy giày hài bay qua bay lại như bươm bướm. Thôi tổng quản đứng chặn cửa nẫy giờ bị ném vỡ đầu, máu cũng chảy xuống xối xả. Thế này mà y vẫn cầm kiếm đâm lia lịa.

Đám đông bên ngoài thấy lưỡi kiếm của Thôi tổng quản quá lợi hại, người nào cũng sợ chết, không dám nhảy vào nữa.

Giữa lúc nguy cấp quá đỗi bỗng nghe tiếng thanh la khua vang, cả bọn la lên:

- May quá! Quan tuần hành ngự sử đã tới!

Tiếng ồn ào bỗng im bặt. Quan ngự sử thấy đám đông đánh nhau vỡ đầu sứt tai, máu chảy lênh láng, nào gậy nào gộc nào dây nào nhợ vứt ngổn ngang, bèn cả giận quát lớn:

- Bắt lấy nó!

Bọn sai dịch nghe lệnh tức thì xông vào, tính cột cổ hoàng đế. Nhưng hoàng đế ngài cứ ngồi ngất ngưởng trên quầy hàng, chỉ nhếch mép cười.

Thôi tổng quản thấy bọn sai dịch xông vào, bèn nhào tới trước kiệu quan ngự sử. Lúc đó ông này mới nhận ra là viên thái giám tổng quản trong cung. Được Thôi tổng quản thì thào mấy câu, quan ngự sử cuống quýt nhảy xuống kiệu chạy vội vào tiệm, quỳ mọp dưới chân quầy hàng chắp tay lạy.

Đám đông dân phố thấy vậy, biết là tai vạ tày trời đã tới, anh nào anh nấy tháo chạy tán loạn.

Hồi 116

HỒNG TÚ TOÀN XÂY CẤT KINH

Đô Tuần thành ngự sử lạy xong, nhường ngay kiệu của mình để hoàng đế trở về cung, sau đó quay sang Thôi tổng quản hỏi thăm tình hình cơ sự ra sao? Thôi tổng quản bèn đem chuyện hoàng đế nghe tiếng Băng Hoa xinh đẹp nổi tiếng nên đích thân tới xem, rồi nói đùa vài câu khiến nàng nổi giận hò la xóm giềng tiếp tay, gây chuyện om sòm. Viên tuần thành ngự sử đã mười năm nay không được thăng quan, nghe Thôi tổng quản nói liền, nghĩ tới cơ hội đã đến. Thế là y một mặt an ủ Thôi tổng quản, một mặt vỗ ngực nói:

- Đại gia khỏi bận lòng, việc này xin để cho hạ quan lo liệu. Hạ quan xin với đại gia là chỉ trong ba ngày thế nào hoàng thượng cũng được như ý.

Sau đó y thấp giọng xuống thì thầm với Thôi tổng quản:

- Đại gia về cung, xin cho hạ quan vài ba lời khen trước mặt hoàng thượng nhé

Thôi tổng quản nghe rồi, gật đầu bước đi. Quan tuần thành ngự sử lúc đó mới làm le, quát tháo rùm lên, hạ lệnh bắt hai vợ chồng tên chủ tiệm giày về nha thẩm vấn.

Anh chủ tiệm giày chồng nàng Băng Hoa vừa từ ngoài về, nghe quan tuần thành ngự sử hô lính trói mình, hoảng hồn vía, sợ quá run lên bần bật, khóc lóc xin tha. Chỉ có người đẹp Băng Hoa là chẳng sợ chút nào. Nàng nói:

- Đi thì đi! Bọn mình có phạm phép nước luật vua gì đâu mà sợ.

Thế là hai vợ chồng anh hàng giày đóng cửa tiệm lại, nhờ vả xóm giềng coi giùm, rồi theo bọn sai nha tới dinh. Quan ngự sử chiếu lệ hỏi qua một lượt, không định tội mà cũng chẳng cho hai vợ chồng Băng Hoa về. Lại còn cho giam mỗi người một nơi.

Giam đến ngày thứ ba, bỗng có hai bà nọ tới lãnh Băng Hoa đem về mật thất, cho nàng tắm rửa bằng nước thơm sạch sẽ rồi lấy cho nàng mặc một bộ đồ bằng gấm tuyệt đẹp. Băng Hoa lấy làm lạ vội hỏi căn do thì hai bà nọ bảo:

- Hoàng thượng biết nàng là người trinh trắng trong sạch nên bảo thưởng cho nàng một bộ đồ, tắm rửa sạch sẽ đi rồi đưa nàng về tiệm.

Băng Hoa nghe nói mừng rỡ lắm liền trang điểm lại cẩn thận. Không ngờ trang điểm xong thì nàng trở nên một mỹ nhân vô cùng xinh đẹp, khiến ai thấy cũng phải mê. Hai bà nọ ở bên cạnh khen lấy khen để nói:

- Người đẹp như thế kia, đến con mụ già này cũng phải mê chả trách hoàng thượng mới vừa thấy đã phải ngứa ngáy tay chân rồi.

Câu nói đùa đó khiến Băng Hoa mắc cỡ đỏ mặt. Nàng nói:

- Đừng có đùa nữa!

Lát sau một chiếc kiệu được đem tới. Hai bà nọ đỡ nàng lên kiệu, bỏ bức màn xuống, bốn bên đều có lụa che phủ kín mít, ngồi bên trong nhìn ra chẳng thấy được gì.

Đoàn phu kiệu chạy một lúc lâu mới đỗ lại. Hai bà nọ liền bước lại tháo bức màn che, đỡ nàng xuống đất. Băng Hoa đưa mắt nhìn quanh, chỉ toàn thấy bọn đàn bà mặc Kỳ trang (ăn mặc quần áo kiểu Mãn Châu), tô điểm xanh đỏ cùng mình, cô nào cô nấy, bà nào bà nấy chỉ đều trố mắt nhìn mình như để lường phỏng điều gì, âm thầm lặng lẽ, chẳng nói một câu nào.

Nàng lại nhìn về phía trước, thấy ngôi nhà rộng lớn lắm, suốt một dãy tường vàng chói có một dãy hành lang dài. Về mặt chính bắc có một toà cung điện đồ sộ huy hoàng hết chỗ nói.

Băng Hoa lòng đầy hoài nghi, vội hỏi:

- Nơi này là nơi nào vậy? Bà đã bảo là cho tôi về tiệm tại sao lại đưa tới chốn này?

Hai bà nọ nghe nàng nói bèn đáp:

- Nàng đừng sợ! Đây là nơi cung cấm đó. Hoàng hậu nghe tiếng nàng đẹp nên cho đưa vào cung để gặp một chút cho biết đẹp đến thế nào, xong tức khắc đưa, nàng về tiệm ngay.

Băng Hoa nghe đoạn làm thinh chẳng biết nói gì hơn.

Hai bà nọ đỡ nàng theo đường sỏi đi vào nhà. Nàng chỉ thấy phía trong màn gấm treo đầy trên cửa sổ sơn quét toàn một màu hồng. Bàn ghế trong nhà đều một màu đỏ như son. Trên giường căng màn bằng the màu quý, lót bằng nệm gấm hoa năm sắc, có bức bình phong vẽ những người đàn bà ăn mặc hết sức đẹp đẽ.

Hai bà nọ đưa nàng tới ngồi vào một ghế to và êm ái trước gương Sau đó, có hai cung nữ bưng trà lên cho nàng uống.

Băng Hoa đến lúc này mới biết mình đã bị hai bà nọ lừa vào cung để làm phi tử. Nàng đứng phắt dậy nói:

- Tôi đi về đây.

Bọn cung nữ hai bên bước tới ngăn lại. Sau đó, Hàm Phong hoàng đế tử phía trong bước ra, đi thẳng tới trước mặt nàng, cầm lấy tay, miệng luôn luôn gọi:

- Mỹ nhân! Mỹ nhân đừng buồn lòng nhé.

Băng Hoa tự biết mình đã lọt vào cạm bẫy của họ, bèn nhè lúc mọi người không đề phòng, xông tới cây cột lớn, húc mạnh vào, máu tươi chảy ra lênh láng.

Hàm Phong hoàng đế thấy vậy nói hai tiếng "Đáng thương, đáng thương!" luôn miệng, rồi rút lui khỏi căn phòng. Ngài còn dặn mấy mụ quản sự chịu khó săn sóc dưỡng thương cho nàng, ít hôm sau ngài sẽ tới thăm.

Băng Hoa lúc đó mê man bất tỉnh. Bọn cung nữ vực nàng lên giường băng bó vết thương, và đứng quanh giường chầu chực chờ đợi. Một lát sau, Băng Hoa tỉnh lại. Mụ quản sự ngồi cạnh khuyên giải. Mụ bảo nàng:

- Trời cho nàng sắc đẹp nhường ấy, thì phải lấy một người chồng giàu sang phú quý, hưởng một cuộc đời giàu sang vinh hiển, có thế mới không hổ mình là phận gái má đào. Được thánh thiên tử ngài đa tình đưa nàng vào cung, trăm chiều cưng quý lại sợ nàng giận tức nên không dám gần gũi. Nàng được hưởng đủ mùi phú quý vinh hoa, sủng ái hết mức, thử hỏi liệu nàng có sung sướng hơn cái lúc mà nàng còn ở trong tiệm giày, đói rách khổ sở không?

Những lời khuyên giải này, lúc đầu, Băng Hoa chẳng thèm để ý tới, nhưng lâu về sau cũng thấy có vẻ hợp tình hợp lý.

Thế là nàng đã quyết định và bảo mụ quản gia yêu cầu cho gặp lại người chồng cũ một lần để xem anh ta có cho đi lấy chồng khác hay không, nếu không thì thà chết chứ nhất định không chịu thất tiết.

Mụ quản gia đem lời Băng Hoa tâu lại với Hàm Phong hoàng đế. Ngài bằng lòng cho vào cung gặp mặt vợ. Lúc đó, anh chồng hói đầu của Băng Hoa đã được vào làm thị vệ quan (quan hầu) trong Loan nghi vệ. Khi gặp nhau, Băng Hoa thấy chồng mình mũ áo đàng hoàng, ăn mặc oai vệ, thì chi còn biết khóc lóc thương xót cho cả hai. Nhưng anh chồng hói đầu của nàng lại bảo nàng:

- Duyên số vợ chồng ta đến đây hết rồi. Nàng ở trong cung nên hầu hạ hoàng thượng cho chu đáo.

Băng Hoa nghe xong, thở dài nói:

- Vậy thì chàng cũng nên cố gắng làm quan cho chu đáo!

Thế rồi một đêm êm đềm lặng lẽ, hoàng đế tới cung lâm hạnh với người đẹp Băng Hoa, qua ngày sau, người ta đã thấy Băng Hoa được phong làm quý nhân.

Hàm Phong hoàng đế bị Băng Hoa làm cho mê tơi, liền mười mấy ngày chẳng thèm hỏi tới triều chính. Bên ngoài, văn thư khẩn cấp bay như bươm bướm, chất đống cao như núi.

Lại nói Thái Bình Thiên quốc hồi đó đã đóng đô tại Nam Kinh chiếm được tới tám tỉnh. Trong triều Thanh văn võ đại thần anh nào anh nấy mật teo lại hết, chẳng có chủ kiến gì.

Hiếu Trinh hoàng hậu cũng vô phương, chỉ còn cách chạy tới tam cung của hoàng đế, quỳ bên phía ngoài đọc "Tổ huấn".

Hoàng đế thấy vậy không còn cách nào nằm liều được nữa, đành phải nhỏm dậy trở về xem xét mọi việc triều đình qua quýt cho xong. Rồi chớp mắt ngài lại đã chui tuột vào cái tổ ấm của Băng Hoa mặc cho bọn đại thần khuyên can, chẳng thèm để ý tới.

Trong khi đó ở miền nam, Thái Bình Thiên quốc càng ngày càng mạnh. Hồng Thiên hoàng lại bỏ ra sáu trăm vạn lạng bạc, xây cất một toà cung điện hết sức rộng lớn ở Nam Kinh.

Trung vương Lý Tư Thành cùng Hồng Thiên hoàng đích thân đề mấy câu đối, chữ viết dõng dạc đàng hoàng lắm. Một câu viết như vầy:

"Duy hoàng đại đức viết sinh, dụng Hạ biến Di, đãi kha Âu Mỹ Phi Úc tứ châu nhân, quy ngã bản đồ nhất nãi thống"

(tạm dịch: chỉ có Hoàng đại đức sinh, dùng Hạ mà biến Di, đợi khi đuổi hết bọn người Âu Mỹ Phi Úc bốn châu để thống nhất bản đồ về một mối).

"Từ văn chỉ qua vi võ, bát loạn phản chính tận diệt Lam, Bạch, Hồng, Hoàng, Bát Kỳ tịch, hết chư phiên phục thiên tư niên"

(Hãy lấy văn mà làm võ, dẹp loạn đem lại điều ngay, diệt hết xanh, trắng hồng vàng tám loại cờ, bắt bọn phiên bang hải khuất phục ngàn năm).

Câu đối thứ nhì viết như vầy:

"Tiên chúa bản nhân từ hậu tứ lục lại tham quan, đoạn tốn lục thật vương thống tự.

Mao cung thực tâm đức, trượng nhi mưu thần chiên tướng trùng tâm thập bát tỉnh giang san".

(Tạm dịch: Tiên chúa vốn nhân từ, giận bọn tham quan ô lại làm đứt dòng nối của sáu mươi bảy vua. Mao cung thật đức độ cậy nhờ các mưu thần chiến tướng, đổi mới non sông mười tám tỉnh).

Câu thứ ba là:

"Độc thủ kình thiên, trung chính Đại Minh tân khí tượng.

Đan tâm báo quốc, tảo trừ dị tộc cựu y quan".

(Một tay chống trời sửa lại cho nhà Đại Minh, có một bộ mặt mới. Lòng son đền nợ nước, quét hết những đồ quần áo cũ của bọn khác họ), (Khác họ đây chỉ nhà Mãn Thanh).

Câu thứ tư:

"Hổ Bí tam thiên, trực tảo U, Yên chi địa. Long phi cứu ngũ, trùng khai Nghiêu, Thuấn chi thiên"

(Với ba ngàn quân Hổ Bí, ta đánh thắng tới đất U, Yên.

Số năm, chín rồng bay ta lại mở cõi trời Nghiêu, Thuấn).

Trong phòng ngủ, Hồng thiên vương cũng có một đôi câu đối như sau:

"Mã thượng đắc chi, mã thượng trị chi! Tạo ức vạn niên Thái Bình Thiên Quốc ư cung đao phong trích chi gian, tư thành kiến dã.

Đông diện nhi chinh, Nam diện nhi chinh, cứu trấp nhất tỉnh vô tội thần dân như thuỷ hoả đảo huyền chi hội, thi vị nhân nhân"

(Cưỡi trên ngựa mà được, ngồi trên ngựa mà cai trị, tạo lập nước Thái Bình Thiên Quốc lâu đài ức vạn nằm giữa chôn cung đao mũi lưỡi, ấy thực là người giỏi đó.

Quay mặt về phương đông mà đánh, quay mặt về phương nam mà đánh, cứu giúp hai mươi mốt tỉnh dân vô tội thoát vòng nước lửa bỏng sôi, đó chính là người nhân vậy).

Bắt chước Hồng Thiên vương, bọn chư vương cũng cho xây cất vương phủ. Ngoài vương phủ có hai cửa viên môn, ba cổng đại môn, cao đến vài trượng. Trên bức tường xây cửa đều có vẽ long vẽ hổ đủ năm mầu sắc. Bước qua cổng phủ, vào trong thấy ngay một con đường chạy chính giữa. Giữa con đường đó, có xây một cái đài cao hai bên treo chừng mấy chục cái thanh la để môi khi bên ngoài có chuyện gì xảy ra, thì đánh thanh la báo hiệu. Bên trong phủ, cấm không cho một người đàn ông nào vào.

Cửa cung của Thiên hoàng, trên cổng cao treo một tấm biển đề Vinh Quang môn, cổng thứ nhì treo một tấm biển đề Thánh Thiên môn. Hai bên là hai hàng dậu gỗ sơn son, trên mặt những hàng dậu này có rất nhiều tấm biển đều ghi những câu tán tụng Thiên hoàng của kẻ bề tôi bên dưới. Hai bên trái phải còn có hai ngôi đình lợp ngói bằng pha lê.

Đi dần vào cửa thứ nhì, hai bên có cất đến mấy chục gian triều phòng. Về phía tây triều phòng, xây một cái giếng đá hoa năm màu. Trên những viên đá hoa này, có chạm khắc hai con rồng hết sức tinh xảo. Trước điện, là một cái nhà bia, cột thì bằng vàng mà tường thì sơn son, nào rồng bay, nào phượng múa, rất là hoa lệ. Trên vách bốn mặt điện, vẽ đủ bốn loại thú: rồng, cọp, voi, sư tử.

Về phía đông chính điện, có một dải tường bao quanh. Phía trong tường là một cái hồ vuông, đáy lát đá xanh, rất là trong sạch. Trên hồ, có một chiếc thuyền bằng đá dài hơn mười trượng. Thiên hoàng thường ngồi trong chiếc thuyền đá này mở tiệc thết rượu.

Hồng Thiên hoàng rất cưng chiều tiểu Thiên hoàng, cho nên đặc ý làm cho một toà phủ đệ gọi là Tiểu Thiên hoàng phủ ở chân núi Chung Sơn. Trong phủ, có cây cao suối mát, lâu đài khúc chiết mười phần u nhã. Tiểu Thiên hoàng này cũng là một người hiếu sắc, cho nên người làm trong phủ toàn là một bọn nữ quan. Bọn nữ quan này người nào cũng đều mặt hoa da phấn, da ngà tay ngọc. Tiểu Thiên hoàng suốt ngày cùng bọn nữ quan đùa giỡn, những chuyện phong lưu tình tứ đều giở ra cho kỳ hết.

Nói đến bọn nữ quan của triều Thái Bình thì thật nhiều điều đáng chú ý. Mũ áo của họ khác hẳn mũ áo của bọn nam quan. Người nữ quan cao cấp nhất mặc áo long bào bằng đoạn vàng. Cấp thứ nhì mặc áo màu tía và màu hồng. Còn mặc màu xanh, màu lam, màu đen, là bọn cấp dưới nữa.

Trên chiếc mũ, người ta có thể phân biệt ba loại quan như sau: Ba cấp vương thì dùng mũ bằng đoạn màu vàng. Từ cửu phẩm trở lên thì dùng mũ sa; cửu phẩm và hương quan thì dùng khăn chít đầu bằng đoạn.

Còn áo thi nữ quan tất cả đều có thêm một miếng hậu bối (miếng vái khâu ở sau lưng áo để che lưng). Búi tóc thiên đội chiếc mũ nhỏ bằng nóc có giải buông xuống lòng thòng.

Thiên hoàng định phẩm cấp cho nữ quan nhấn mạnh vào kiểu quần hàng. Đệ nhất đẳng tên gọi là Phùng thường, quần may loại ống rộng… Đệ nhị đẳng tên gọi Nữa thường (quần móc). Đô là loại quần không dùng chỉ khâu mà dùng móc, móc chéo lại, để cho dễ cởi. Đệ tam đẳng tên gọi Khai thường, tức là loại quần mở. Đệ tứ đẳng tên gọi Tán thường, đó là loại không mặc quần có ống mà mặc váy vây quanh lại. Đệ ngũ đẳng tên gọi Tán bào, đó là loại không mặc quần mà cũng chẳng mặc váy phần dưới thân để truồng chỉ mặc áo một cái áo bào dài che. Ngoài ra còn có một loại nữ tên gọi Già toái. Đó là loại mà bọn nữ quan thường dùng vào mùa hè để cho mát. Già toái chỉ có ba miếng vải che lấy hông, một miếng che phía sau, còn hai miếng che hai bên đùi.

Thiên hoàng định chế phục như trên cho nữ quan, nguyên có một dụng ý. Đã làm nữ quan thì không thể tránh khỏi chuyện dâm loạn. Tiểu Thiên hoàng tỏ ra ác đến quả cỡ. Hắn dâm ô với đám nữ quan trong phủ mình thì khỏi cần nói, nhưng ông còn khoái cưỡng chiếm cả những cô gái mới choai choai hoặc còn nhỏ tuổi.

Nhiều lúc Hồng Thiên hoàng thấy rõ con trai tỏ tình thân ái với phi tần của ông, cũng chẳng nói gì. Từ đó, tiểu Thiên hoàng càng lớn mật hơn. Hắn tư tình luôn cả Hồng phi và Nghi phi vốn là hai nàng phi cưng quý nhất của Thiên hoàng.

Nhưng cả hai nàng đều biết Hồng Thiên hoàng yêu quý cậu con trai cho nên đều không dám tới mách mà chỉ còn có cách im lặng chịu đựng và lại đâm ra ganh ghét nhau mà thôi.

Hồng phi người Dương Châu, tướng mạo tuy tầm thường nhưng được cái tuyệt khéo. Tính tình nàng lại tao nhã, điềm đạm. Chỉ cần cặp mắt sắc như dao, long lanh như giọt nước, liếc một cái là đủ để cho hồn phách đám đàn ông lên mây rồi. Nàng chỉ thích cười, khi cười nàng đẹp tuyệt trần! Do đó, Hồng thiên hoàng hết sức sủng ái. Và cũng ỷ vào đó nàng khinh thường cả Nghi phi.

Nghi phi người Quan Đông, vốn con nhà gia thế. Nàng đẹp tuyệt, da trắng mặt hoa, tính tình hoà nhã thuận thảo, người lại trẻ măng. Đối với nàng, Hồng Thiên hoàng đã có bao năm ân tình đằm thắm. Ngài thường đến cung nàng ăn ở luôn tại đấy.

Cái gay cấn là cả hai nàng phi này đều yêu tiểu Thiên hoàng cả. Vì một khoá đôi rương, hai cô đâm ra ghen nhau, ghen đến độ không thể dung nhau được nữa.

Ai ngờ trong cung của Nghi phi lại chứa chấp một chàng trai trẻ đẹp. Anh chàng trai trẻ này vốn là con trai của một gia đình nghèo khổ tại Nam Kinh, mặt mũi trắng trẻo xinh đẹp. Hôm Nghi phi vào thành Nam Kinh để hầu hạ Hồng Thiên hoàng thì anh chàng trai này đứng bên lề đường thơ thẩn nhìn người qua kẻ lại. Nghi phi ngồi trong xe trông thấy bất giác lòng xuân xúc động. Khi vào cung rồi, nàng bèn cho người lẻn ra phố đưa anh chàng trai nọ vào cung, để đêm ngày tư tình qua mặt Hồng Thiên hoàng.

Về sau Nghi phi lại có thêm tiểu Thiên hoàng, thành thử một mình nàng bao cả hai chàng, trong lòng vô cùng sung sướng. Tiếc thay việc tốt nhiều khi hư, lương duyên trời ghen.

Một hôm, giữa lúc Nghi phi đang hú hí tình tự giữa ban ngày ban mặt thì Hồng phi bước vào khám phá ra chuyện bí mật khiến Nghi phi hoảng hồn bạt vía, run lên cầm cập mà Hồng phi cũng mắc cỡ đến đỏ mặt tía tai.

Anh chàng trai nọ chẳng còn cách gì hơn là quỳ xuống chân Hồng phi, dập đầu xin tha. Hồng phi để ý nhìn thấy quả là một chàng trai trẻ trung đẹp đẽ hết sức gợi tình. Đến lúc này, chính nàng cũng không cầm nổi lòng dục nữa, bỗng che mặt phì cười, quay đầu đi khẽ nói:

- Làm thế thì mắc cỡ chết!

Nghi phi đứng cạnh thấy rõ nỗi niềm tâm sự của Hồng phi, vội bảo chàng trai nọ.

- Ngươi ở đây hầu phi tử nhé! Ta đi một lát sẽ lại.

Nói đoạn Nghi phi vội quay đi, bước luôn ra ngoài. Thế là bên trong, Hồng phi cùng anh chàng trai nọ hoàn thành ngay hảo sự. Và từ đó về sau, Hồng phi cũng thường lưu anh chàng trai nọ trong cung mình, nhiều lần có ý như không muốn cho về với Nghi phi nữa.

Riêng anh chàng trai nọ cảm thấy Hồng phi có vẻ phong tao phóng đãng hơn Nghi phi nhiều, nên cũng say mê. Nghi phi thấy mất cục cưng, tức giận bèn dùng kế "mượn đao giết người" để trả hận.

Hồi đó cả hai cha con Thiên hoàng cũng đều say mê Hồng phi. Biết thế Nghi phi bèn dò la lúc Hồng phi đang cùng chàng trai nọ ân ái trên Dương đài liền lẻn tới mách tiểu Thiên hoàng.

Tiểu Thiên hoàng biết chuyện, cơn giận nổi lên như sấm sét, tức thì chạy tới cửa phòng của Hồng phi nghe ngóng, quả nhiên bắt gặp gian phu dâm phụ đang vào lúc mê đắm nhất.

Tiểu Thiên hoàng đích tai nghe gõ, lòng ghen thật khủng khiếp, đang tính xông vào. Chợt nhớ mình cũng chẳng đàng hoàng ngay thẳng gì, tất hơn là đi báo phụ hoàng mới giải quyết được việc này. Nghĩ vậy, liền quay lui, và tới cung vua cha.

Hồng thiên hoàng lúc đó đang ngồi tựa thành giường xem bọn thị vệ và nữ quan chơi trò đuổi bắt ú tim, thoạt nghe lời cáo mật của cậu trai cưng, tức đến hộc máu ra, bao nhiêu râu tóc dựng ngược lên cả. Thế là ngài nhảy chồm lên như cái lò xo, mang theo một tốp thị vệ, chạy tới cung Hồng phi giữa lúc nàng đang còn loã lồ thân thể, tóc tai rũ rượi, chưa kịp trang điểm lại sau một cơn mưa gió nặng nề.

Bọn thị vệ áp điệu Hồng phi cùng cả anh chàng trai nọ ra ngoài. Hồng thiên hoàng chẳng thèm tra hỏi gì nữa, hạ lệnh chém ngay tức khắc tại cửa cung.

Lúc sắp chết, Hồng phi kêu oan, bảo nàng trúng kế của Nghi phi chứ thực ra anh chàng trai nọ vốn do Nghi phi đưa vào cung.

Hồng Thiên hoàng nghe nói vậy, nhưng không tin, vẫn hạ lệnh chém ngay cặp gian phu dâm phụ này.

Sau khi giết chết Hồng phi, Hồng Thiện hoàng lập tức truyền dụ cho các tướng lãnh tìm cách dâng hiến mỹ nhân lên cho ngài.

Hồi đó dưới trướng của quan hưu đô đốc, có một vị tướng quân họ Phàn tìm được một cô nàng xinh đẹp tuyệt trần ở Tô Châu, tên gọi Minh Cô. Nàng vốn là một tiểu thư con nhà gia thế, có học thức, lại biết cả đao kiếm. Lúc đoàn quân tóc dài của Thái Bình Thiên Quốc tới Tô Châu thì Minh Cô chạy theo cha mẹ trốn về thôn quê. Nàng bị quân lính bắt, cha mẹ lại sắp bị chém. Nàng vội xông tới ngăn cản. Bọn quân lính thấy nàng xinh đẹp nên tha cho cha mẹ nàng. Chúng đem nàng vào trại, tính làm việc phi lễ, Minh Cô bèn bảo chúng:

- Bọn bay nếu hãm hiếp ta thì ta chỉ còn có một chết, chi bằng đưa ta tới gặp chủ tướng của bọn bay, ông ta thấy ta đẹp yêu quý ta, có phải bọn bay được một món tiền thưởng hay không?

Bọn lính nghe nàng nói có lý, đưa nàng lên dâng cho viên tướng của mình. Phàn tướng quân thấy Minh Cô sắc nước hương trời, bèn thưởng bọn lính năm trăm lạng bạc, giữ nàng lại trong trướng. Đến đêm Phàn tướng quân mò vào, mong được sung sướng với người đẹp. Nhưng Minh Cô lại đem cái lối nói với bọn lính nói với tướng quân họ Phàn khuyên ông đưa nàng lên dâng cho Hồng Thiên hoàng sẽ được quan cao lộc hậu.

Câu của Minh Cô nói ra đúng lúc Hồng Thiên hoàng có dụ truyền các tướng lãnh tìm kiếm người đẹp cho ngài. Bởi thế Phàn tướng quân nghe qua tỉnh ngộ, liền đích thân đưa Minh Cô tới Thiên kinh.

Hồng Thiên hoàng nhìn thấy Minh Cô sung sướng tưởng đến phát điên, ngài truyền dụ thưởng Phàn tướng quân mười vạn lạng bạc.

Minh Cô đẹp tuyệt, da trắng mặt hoa, thân hình óng ả. Ngay đêm đầu lâm hạnh. Hồng Thiên hoàng thấy nàng vẫn còn là một xử nữ trinh trắng nên cưng quý lắm. Ngài phong nàng làm Minh phi, bổ khuyết vào chỗ trống của Hồng phi.

Hồng Thiên hoàng ở lỳ trong cung Minh phi luôn một tháng, thực là ngồi cùng ngồi, đi cùng đi, mười phần yêu quý. Minh phi nhân dịp đó, bèn xin Hồng Thiên hoàng cho đưa cha mẹ nàng vào cung để được gặp mặt. Hồng Thiên hoàng ưng thuận ngay.

Minh phi gặp cha mẹ, không khỏi bi thương, khóc rống lên. Thấy chung quanh chẳng có ai nàng bèn thổ lộ tâm sự mình với cha mẹ là có ý định hạ thủ Hồng Thiên hoàng, và như thế tánh mạng nàng e cũng khó toàn. Hai mẹ con ôm lấy nhau khóc lóc thê thảm.

Minh phi xin Hồng Thiên hoàng cấp cho cha mẹ nàng một cây cờ vàng nhỏ. Nhờ cây cờ này, cha mẹ nàng mang theo trong người thì bất cứ đi tới đâu trong nước Thái Bình Thiên Quốc đều được cả. Minh phi dặn nhỏ khuyên cha mẹ nên trốn lên phương Bắc trước đi, để khi câu chuyện ám sát của nàng chẳng may bị đổ bể thì cũng không có hại gì cho cha mẹ. Sau đó, nàng tiễn chân cha mẹ ra khỏi cung.

Minh phi đặt một bữa tiệc ngay trong phòng ngủ của mình rồi mời Thiên hoàng tới, chính nàng hầu rượu cho Hồng. Giữa tiệc rượu nàng nói cười luôn miệng, làm duyên làm đẹp khiến Thiên hoàng uống hết chén này tới chén khác. Minh phi thấy đã đến lúc hành động bèn dặn bảo bọn cung nữ dọn dẹp tiệc rượu, đích thân đỡ Hồng lên giường rồi tự mình cũng thay đồ ngủ, cởi bỏ hết đồ trang sức.

Sau khi bọn cung nữ dọn dẹp xong, Minh phi bèn khoá chặt cửa phòng lại. Trên giường Thiên hoàng đã ngủ say, thở phì phò. Căn phòng im lặng như tờ. Mình phi rón rén bước tới bên tường, rút thanh bảo kiếm, lăm lăm cầm trong tay.

Nàng bước lại gần giường, thò đầu vào mùng xem thì quái lạ thay, chiếc giường không có ai nằm cả. Thiên hoàng biến mất lúc nào rồi! Giữa lúc Minh phi đang ngạc nhiên thì nàng không ngờ Thiên hoàng đã ở đằng sau mình từ lúc nào, mặt hầm hầm nổi giận. Thì ra hôm đó, Minh phi mời Thiên hoàng uống rượu đã khiến ngài có ý nghi ngờ. Một điều khiến ngài nghi thêm là xưa nay Minh phi không bao giờ uống rượu mà nay bỗng nhiên lại uống. Do đó, ngài giả đò say, đi ngủ trước trên giường lẳng lặng chờ xem động tĩnh của Minh phi.

Thiên hoàng thấy Minh phi đóng cửa phòng, tới cạnh tường lấy cây kiếm, biết ngay nàng có ý không lành. Ngài bèn lẻn ra sau giường bò xuống đất, đến đằng sau nàng. Đợi khi Minh phi cầm thanh bảo kiếm tới cạnh giường, Thiên hoàng mới tuốt cây bội đao cầm chặt trong tay, chờ phút hạ thủ. Ngài giận lắm nên khi Minh phi vừa quay đầu lại, ngài không một hai gì hết, múa cây bội đao một vòng, chém bay đầu Minh phi.

Sau đó, ngài lắc liên hồi cái chuông nhỏ, truyền gọi cung nữ lượm đầu của Minh phi đem ra treo ngoài cửa cung làm hiệu lệnh. Chỉ trong giây lát, tin Minh phi mưu sát Thiên hoàng truyền đi khắp cung nội, các bà hoàng hậu, phi tần vội vàng tới thỉnh an.

Thiên hoàng sau khi giết Minh phi, tự thấy mình như được trời phù hộ, lấy làm sung sướng lắm, ngài truyền lệnh trong cung ngay đêm đó bày tiệc ăn mừng, nốc một lúc hàng mấy bát rượu lớn. Lúc đó, ngồi bên cạnh Thiên hoàng nào là hoàng hậu, nào là phi tần đủ khắp tam cung lục viện, mùi hương phấn thơm ngát, tiếng thỏ thẻ như chim hót líu lo. Lòng cao hứng nổi dậy, Thiên hoàng ôm bên này bế bên kia, kiếm vui tìm khoái đủ kiểu. Đến lúc cao hứng, ngài liền gọi luôn một lúc mười bà phi vào tẩm cung lâm hạnh. Ngài không quên, truyền gọi thêm mười bà phi khác vào theo để "thưởng xuân", đứng bên vỗ tay hoan hô trợ hứng.

Hồng Thiên hoàng ngày ngày cùng với bọn phi tần, nữ quan mua vui hưởng lạc, một mình ngài đảm đương cả chục cô mà sức vẫn thừa.

Các vị vương gia trong triều đình của Thái Bình Thiên Quốc không những hiếu sắc mà còn ham cả trai nữa. Trong mỗi vương phủ đều có nuôi năm, ba tên trai trẻ xinh đẹp bảnh bao. Còn cung Thiên hoàng có hơn hai chục tên. Những tên trai trẻ này đều đánh phấn, kẻ lông mày, ăn mặc hết sức diêm dúa, trông qua không thể biết đó là trai.

Hồng Thiên hoàng lại nghe lời Hà Y Chính mỗi ngày nuốt một viên trân châu, một miếng bạch ngọc để điều dưỡng thân thể. Gã thầy lang còn đưa ra một phương pháp nấu châu, ninh ngọc như sau: viên trân châu cần tròn trịa tinh vi không một chút tì vết, nhét vào trong miếng đậu hũ, đem đun cách thuỷ độ nửa ngày. Khi lấy miếng đậu hũ ra, thì viên trân châu nở to ra đến ba, bốn lần cũng trắng bóc như miếng đậu hũ.

Nếu viên trân châu có tì vết, không được tròn trịa tinh vi thì có nấu đến cả ngày cũng không thể hoá được, cứ trơ trơ ra đó. Trân châu nấu kiểu đó, cứ bỏ vào miệng là chạy tuốt ngay xuống dạ dày, tan biến đi luôn.

Còn phép ninh ngọc thì như sau: Lấy loại bạch ngọc thượng hảo hạng đem ninh chung với gốc cây địa du thụ. Ninh liên tục hai mươi bốn giờ, không cho bốc hơi ra ngoài, bạch ngọc nát ra là ăn được. Lúc ăn, cần cho đương, rất dễ nuốt. Nước ngọc ninh này đóng cục lại như băng. Nếu dùng ngọc có tì vết hoặc thứ ngọc hạng bét thì ninh hoài cũng cứ trơ ra, chẳng thể chín được.

Trong nhà bếp của Thiên hoàng, có bốn chú hoả đầu quân chuyên việc nấu châu, ninh ngọc.

Các chú này đều là bọn con buôn châu ngọc, hiểu rõ việc chọn lựa châu ngọc thật, giả, tất, xấu. Chỉ vì Thiên hoàng cần ăn châu ngọc nên nhà bếp mỗi tháng phải tăng thêm tiền chợ lên đến hơn mười vạn lạng bạc nữa.

Nói đến việc ăn uống của Hồng Thiên hoàng, ai nghe cũng phát hoảng. Một bữa ăn của ngài, trừ mười sáu món phụ ra, còn hai mươi bốn món chính, gọi là hai mươi bốn món "Sinh".

Đó là sáu giống chim, sáu giống thú, sáu giống cá, sáu giống sò hến. Giống chim ngài khoái ăn nhất là bồ câu, sẻ, trĩ và ưng (ó), nhất quyết không ăn gà, vịt. Giống thú thì ngài thích nhất bò, dê, mang và thỏ, không ăn heo. Giống cá thì ngài mê nhất là cá chép, cá trôi, cá diếc, cá hoàng. Ngoài ra ngài không bao giờ chê tôm, ba ba, rùa, sò huyết. Những món này phải thay đổi luôn luôn, không được dâng mãi một thứ.

Tính ra cứ mỗi một bữa cơm của Thiên hoàng ít ra cũng phải tốn đến ngàn lạng bạc.

Nấu nướng bất luận cách nào đều phải cả con. Lớn như bò, dê cũng phải để cả con trên mâm, bày trên chiếu, trông thật kỳ cục, tức cười. Các món chim, trông y như chúng còn sống. Mãi đến khi hạ đũa thì lúc đó bọn nữ quan mới giúp ngài nhổ hết những cái lông đó.

Tính tình của Thiên hoàng vốn mừng giận thất thường. Giữa lúc đang ăn uống vui cười, chỉ cần một chuyện nhỏ chẳng được như ý là ngài trút hết cả con giận lên đầu mấy tên thị vệ hầu cận. Ngài quát một tiếng "dùng hình" tức thì hình quan phải tóm ngay cổ tên thị vệ bị hình phạt đem đi.

Trong cung Thái Bình Thiên Quốc có một loại cực hình tên gọi Điểm thiên đăng (đốt đèn trời). Cách trừng phạt như sau: lột hết quần dưới áo trên của kẻ bị hình phạt, lấy giấy hoa gấm quấn suốt từ đầu tới chân rồi đem tẩm dầu vừng, bên ngoài còn bó nhựa thông sáp trắng, chẳng khác chi một cây đèn cầy cao lớn.

Khi đem đốt cây đèn người ấy thì phải cắm lộn đầu xuống đất rồi mới châm lửa vào chân. Lúc đầu, kẻ chịu hình còn kêu la được, tiếng thê thảm như quỷ gọi ma hú. Lúc cháy tới đùi thì tiếng kêu càng lúc càng nhỏ, cháy tới bụng dưới thì chỉ nghe thét lên một tiếng lớn. Và đến khi cháy tới ngực thì không còn thấy rên ri gì nữa…

Hồi 117

TÌM HOA BẺ NHỤY

Hồi này, bọn quân tóc dài của Thái Bình Thiên quốc ở miền Nam một ngày một mạnh, Hàm Phong hoàng đế ở trong cung mỗi ngày nhận được không biết bao nhiêu tin chiến bại đâm ra chán nản, không thiết gì triều chính, ngay cả văn thư cũng chẳng thèm xem nữa. Chán nản với thời thế, ngài quay vào cung cấm vùi đầu trong váy lụa, úp mặt trên ngực gợi tình của bọn phi tần, mỹ nữ.

Ngài lại mới được Băng Hoa sắc nước hương trời, mười ngày thì tám ngày ngài nằm tại cung của nàng. Có khi ngài ôm nàng ngủ ngay cả lúc ban ngày, lại còn sai thái giám gọi đám cung nữ tới trước long sàng chơi trò ú tim đuổi bắt cho ngài cười và người đẹp vui lòng.

Một hôm, có một nàng phi tên gọi Chương Giai, trước đó cũng được hoàng đế hết sức sủng ái, nhưng từ khi có người đẹp Băng Hoa thì lập tức bị bỏ rơi, bèn không giấu được những lòi trách móc của mình đối với hoàng đế. Một con cung nữ mỏng môi nào đó lập tức chạy lên tâu hót với hoàng đế. Chương Giai bị triệu vào ngay.

Nàng Chương Giai được lệnh truyền, tưởng hoàng đế triệu tới lâm hạnh, nên tô điểm hết sức diêm dúa trước khi đến bệ kiến. Hoàng đế mặt vẫn thản nhiên, khi cười lúc nói như thường, lại còn thưởng cho nàng luôn ba ly rượu. Chương Giai vốn không biết uống rượu, nhưng đâu dám trái lệnh, đành uống luôn một hơi cạn hết cả ba ly. Rượu vừa uống xuống tới bụng, bỗng nàng thấy người nóng bừng, mặt đỏ lên như gấc chín, mắt hoa đổ hào quang, tim đập thình thình…

Nàng Chương Giai bình nhật rất thích đánh đu tiên. Hàm Phong hoàng đế bảo nàng:

- Nàng đánh đu tiên đẹp nhất, trong cung không ai bì kịp, nên trẫm đã cho sửa soạn cây đu để nàng cho mọi người thưởng ngoạn.

Nói đoạn, ngài cho người lột hết quần áo của Chương Giai rồi đỡ nàng lên đu. Nàng Chương Giai vừa bị say nhừ, vừa bị loã lồ thân thể, nên khắp mình run lên bần bặt, làm gì còn sức để đu nữa. Nhưng hoàng đế đã ra lệnh thì làm sao mà đám trái. Nàng lảo đảo bước tới gốc cây đu, bước lên. Bọn cung nữ đứng dưới kéo dây, đu bay bổng lên không. Lúc đầu, đu còn thấp, Chương Giai còn giữ được chặt. Nhưng về sau, đu bổng tít lên cao đưa nàng Chương Giai thân thể trần truồng tít mãi lưng chừng trời. Lúc này nàng không còn đủ sức để giữ chặt đu nữa. Nàng oà lên khóc, rồi kêu la xin hoàng đế tha mạng.

Hoàng đế nghe nàng kêu cứu, chẳng những mặc mà còn giục bọn cung nữ kéo dây đu nhanh hơn, mạnh hơn nữa. Bỗng mọi người nghe một tiếng thét, Chương Giai tuột tay, bị đu quăng đi mãi ra xa, rơi xuống đất cứng, đầu bể tan, xương gẫy vụn, chết ngay tức khắc.

Bọn cung nữ thấy cảnh thê thảm quá, quay mặt đi không dám nhìn. Hoàng đế cười nhạt một tiếng, bảo bọn thái giám lôi xác Chương Giai ra ngoài chôn đi. Sau đó, đưa tay ra khoác vai Băng Hoa bước vào, thủ thỉ chuyện trò, cùng nhau hoan lạc.

Hàm Phong hoàng đế ý sủng ái Băng Hoa hết chỗ nói. Nàng cậy được cưng chiều đâm ra kiêu ngạo. Nàng giữ chặt lấy hoàng đế, không cho ngài tới các nàng phi tần khác. Nhưng ở đời có gì bền được mãi. Hàm Phong hoàng đế ở với nàng hoài dần dần sinh chán. Ngài lừa nàng nhiều phen đi ăn mảnh…

Nàng biết đâm ra ghen. Rồi nàng đánh ghen, nàng eo xèo với hoàng đế. Ngài lúc đầu còn bỏ qua, nhưng lâu về sau, càng chán ghét nàng.

Hàm Phong hoàng đế tính vốn thích gái chân nhỏ. Các hồi trên đã nói qua rồi. Băng Hoa tuy được ngài sủng ái nhưng đôi chân nàng to quá, đôi hài của nàng lớn đến trên bốn tấc.

Ngài đã nhiều lần phàn nàn về nó, cho rằng nàng tuy đẹp nhưng vẫn còn chưa đủ. Thôi tổng quản lại cho ngài biết gái Dương Châu chân nhỏ, vừa xinh vừa đẹp, tuyệt nhất trong nước. Ngài tiếc rằng lúc đó Dương Châu đã lọt vào tay bọn tóc dài Thái Bình Thiên Quốc không thể tới đó để tìm hoa ghẹo nguyệt một chuyến cho thoả. Ngài dặn Thôi Tam lưu tâm xem ở kinh thành có gái chân nhỏ thì tìm cách đưa vào cung cho ngài và hứa sẽ trọng thưởng.

Thôi tổng quản ra ngoài thành làm tên ma cô lùng gái, lại tìm được một nàng chân nhỏ ở phía ngoài cửa Tuyên Võ như lần trước. Người đẹp lần này tên gọi Quỳnh Nhi.

Quỳnh Nhi vốn là con gái của một gia đình dân đã vùng Dương Châu. Gặp lúc loạn ly vì quân tóc dài, nàng phải lìa bỏ quê hương tị nạn lên kinh thành, ngụ tại nhà một người cậu. Người cậu này mở một quán cơm nhó tên gọi Đức Hưng phạn điếm ở đường phố lớn cửa Đông. Gia đình hết sức cùng khổ, vì nhà nghèo nên Quỳnh Nhi phải ở trong một căn phòng hết sức chật hẹp. Nàng giúp mợ nàng may vá thêu thùa suốt ngày để kiếm tiền thêm chu cấp gia đình. Nhà cửa vừa chật lại vừa tối, nàng phải mang một cái ghế nhỏ ra ngoài cửa để có ánh sáng mà làm việc. Nàng thường đặt đôi chân nhỏ nhắn xinh đẹp mịn màng trên ngưỡng cửa. Đôi chân còn mang một đôi hài màu hồng thêu chỉ viền trắng trông thanh tao lạ thường.

Chi vì cặp chân nho nhỏ, xinh đẹp đó mà khách qua đường phải dừng chân lại ngắm nghía rồi thốt ra lời tấm tắc khen ngợi. Đôi ba anh chàng hiếu sắc, thấy cặp chân ấy là hồn phách mê mẩn. Các anh chàng si tình này, thường lảng vảng qua cửa nhà nàng mỗi ngày ít ra cũng phải mười tám, hai mươi lần, để cố thấy cho được đôi chân, ngắm cho được đung nhan kiều diễm của nàng.

Quỳnh Nhi hương sắc đã xinh đẹp tuyệt trần mà tính tình lại rất trinh bạch. Mặc cho các chàng ong bướm ve vãn, nàng vẫn thản nhiên chẳng để ý tới ai. Tiếng tăm nàng ngày càng đồn đại xa gần, khách tài hoa khắp nơi đua nhau tới bắn sẻ mua hương. Tin đồn cũng đến tai Thôi tổng quản.

Thôi tổng quản tới đường Phố cửa Đông nhìn xem. Quả nhiên lời đồn đại chẳng sai! Đôi chân nhỏ xinh của Quỳnh Nhi làm cho thiên hạ mê mẩn tâm hồn.

Thôi ta đem tâm lực điều tra rõ hết hoàn cảnh của nàng. Hắn biết cậu nàng hiện mở quán cơm nhỏ, bèn tới gặp ông Ngô Tam Hưng. Ông Hưng, cậu nàng, đang bí tiền, không biết xoay sở vào đâu để độ nhật, bỗng nghe nói Thôi tổng quản trong cung tới tìm, hứa nói giúp ông ta vào làm đầu bếp trong cung thì mừng quýnh lên. Thôi tổng quản còn cho biết lương bổng hằng tháng định là năm mươi lạng. Đáp lại ân huệ này chỉ có một điều kiện là đưa cô cháu mình vào cung mà thôi.

Ông Ngô Tam Hưng bàn tính với vợ. Mụ vợ kéo tay cô cháu gái Quỳnh Nhi vào phòng trong, khuyên bảo nàng:

- Tính tình cháu vừa cao ngạo, vừa trinh bạch, nếu không tìm được con nhà đàng hoàng thì làm sao thoả được lòng mong mỏi của cháu. Nhà cậu mợ đây nghèo quá, muốn tìm chỗ môn đăng hộ đối, nhưng tìm đâu ra người vừa lòng xứng ý được Nếu kiếm cho cháu một người chồng tầm thường kém cỏi thì rồi cuộc đời cháu lại khổ như mợ đây thôi! Cháu may mắn được hoàng thượng để mắt đến, cháu thoả mộng ước lâu nay. Gia đình cậu mợ cũng vì cháu mà được chỗ nương nhờ. Vậy có phải đẹp cả đôi đường không?

Quỳnh Nhi nghe nói có lý liền bằng lòng ngay. Ngày hôm sau Thôi tổng quản sửa soạn đủ số bạc, lẻn ra khỏi cung đưa Quỳnh Nhi vào.

Hàm Phong hoàng đế ngồi trên lầu Cao Sơn Thuỷ, truyền triệu vào. Nàng Quỳnh Nhi với đôi chân nhỏ nhắn xinh xinh dài có hơn hai tấc, nước da mịn màng, trắng như trứng gà bóc, đứng phía dưới lầu, khuôn mặt duyên dáng hơn bao giờ hết.

Hoàng đế ngắm nghía một lúc, bất giác buột miệng thốt lên: "Đẹp quá!" Hai hàng cung nữ đưa Quỳnh Nhi bước yểu điệu thướt tha lên lầu, dịu dàng quỳ xuống làm lễ bệ kiến và thỏ thẻ chúc mấy tiếng: "Vạn tuế! Vạn vạn tuế!"

Hoàng đế cho phép nàng bình thân. Quỳnh Nhi đứng dậy, phong độ chẳng khác gì cành dương liễu phất phơ trước gió, đoá hoa đào đượm đỉnh sương mai. Hoàng đế gọi nàng lại gần, cầm lấy tay nàng ngắm nghía kỹ một lần nữa, quả thấy da thịt nàng trắng như tuyết, mềm mại như nhung, mắt đẹp, đôi chân mày như vẽ, miệng cười như đoá hoa hàm tiếu. Đêm đó, hoàng đế lâm hạnh ngay Quỳnh Nhi tại đó.

Hôm sau, hoàng đế để nàng ở trong hiên Giáng Tuyết, ngày ngày tới nơi đó sủng hạnh, chỉ vì nàng có đôi chân nhỏ đẹp, đúng với ý thích, nên ngài bắt hai tên cung nữ dẫn nàng đi theo khắp đó đây để cho ngài ngắm đôi chân. Nhiều lúc ngài dẫn nàng đi rồi bỗng thả tay ra để mặc nàng lả lướt một mình. Đôi tay nàng lúc đó uyển chuyển theo nhịp của chiếc lưng thon óng ả, chẳng khác gì làn gió đông thổi nhẹ phớt qua đoá hoa sen.

Hoàng đế càng ngắm càng yêu. Để cho căn phòng hợp với cái đẹp của đôi chân nàng, ngài bắt lót nệm gấm thêu hoa hết cả sàn phòng. Quỳnh Nhi đi bằng một đôi tất bằng lụa trắng muốt, bước trên nệm nhẹ nhàng như chiếc lá bay.

Hồi 118

HAI VỤ ĐẦU ĐỘC TUYỆT XẢO

Quỳnh Nhi rất thích đi dạo giữa các khóm hoa, nhất là vào buổi sáng mai còn đượm những giọt sương.

Có Quỳnh Nhi bên cạnh, Hàm Phong nhạt tình ngay với Băng Hoa, Băng Hoa lúc đầu chưa biết thì lấy làm lạ, về sau biết được liền đem lòng ghen ghét Quỳnh Nhi. Nàng được biết Quỳnh Nhi tính ưa sạch sẽ bèn cho cung nữ đem các thứ đồ dơ đến bôi vào cành cây, lá cây để trả thù.

Hôm sau Quỳnh Nhi thức dậy, gọi cung nữ đưa mình đi thăm hoa hải đường thì chỉ ngửi thấy toàn mùi hôi thối đến không chịu nổi. Quay nhìn bốn phía mới hay cành cây nào cũng đều có đồ dơ dáy. Ngay cả quần áo nàng cũng có nhiều chất dơ dính vào từng đám một. Nàng vội vàng chạy lùi lại, ai ngờ đạp phải một bãi phân to tướng ở giữa đường. Nàng hét lên một tiếng: "Ối chao!" Rồi cất bước chạy vội đi chỗ khác. Nàng chạy vội quá bị trượt chân té ngã, đập trán vào thềm máu chảy ròng ròng trên khuôn mặt đẹp.

Bọn cung nữ vội vực nàng dậy, chạy vào trong cửa, nhưng ngửi thấy mùi cứt, thối đến lợm giọng, chúng đua nhau ọe ra hết đồ ăn thức uống, mật xanh, gan vàng. Chúng cũng phải cố nhịn, để xúm lại thay áo đổi quần cho Quỳnh Nhi, lấy nước hương lan để tắm rửa cho nàng. Quỳnh Nhi không chịu nổi mùi hôi thối, đâm ra nhuốm bệnh.

Bệnh nàng kéo dài luôn một tháng trường. Hoàng đế săn sóc nàng thật đặc biệt. Nhưng trong lúc Quỳnh Nhi lâm bệnh, hoàng đế không có cách gì lâm hạnh với nàng được nữa. Ngài sang cung của Băng Hoa để giải buồn. Băng Hoa thấy kế sách của mình kiến hiệu, trong lòng rất thích thú.

Ít lâu sau, bệnh Quỳnh Nhi đã lành hẳn, hoàng đế lại bỏ Băng Hoa quay về với Quỳnh Nhi. Băng Hoa máu ghen sôi lên sùng sục. Nàng bàn tính với bọn cung nữ thân tín, tìm ra một kế sách "nhổ cỏ nhổ cả rễ" để khỏi phải lo ngại về sau.

Hồi đó thời tiết đang dần dần đổi sang hè. Quỳnh Nhi mỗi ngày tắm ít ra phải tới năm lần, còn đầu tóc thì nhất định phải gội một lần vào buổi sáng sớm.

Sau khi gội xong, nàng bỏ xoã tóc ra sau lưng để chờ khô, rồi cùng hai tên cung nữ chèo một chiếc thuyền con ra giữa đám hoa sen, vừa thưởng ngoạn vừa dốc những giọt sương mai đọng trên lá sen vào miệng để thưởng thức mùi hương.

Mãi đến khi mặt trời mọc cao hàng cây sào, ánh thiền quang đã toả khắp mặt hồ sen nàng mới chịu bảo cung nữ chèo thuyền trở vào.

Tin tức nầy lại được truyền tới tai Băng Hoa. Nàng thông đồng với một tên thái giám, bảo lẻn ra ngoài mua thuốc độc mang vào cung rồi đem đổ xuống hồ sen để đêm đó, sen hút nước đã bị đánh độc lên lá.

Qua hôm sau, Quỳnh Nhi không hay biết, vẫn theo cách uống nước sương như bao lần trước, không thấy mùi vị gì cả.

Chẳng bao lâu, thuốc độc phát tác. Hàm Phong hoàng đế thấy nàng lăn lộn trên giường một hồi, hai mắt trợn lên, chân duỗi thẳng thế là đã trở thành người bạc mệnh thiên thu. Quỳnh Nhi qua đời giữa lúc tình nặng duyên thắm, Hàm Phong hoàng đế xúc động ôm lấy thây nàng, đau đớn. Ngài khóc chán mới bảo bọn nội giám mua quan quách khâm liệm khiêng ra ngoài vườn chôn cất tử tế.

Cái tang bất ngờ đau đớn ấy làm Hàm Phong hoàng đế đau xót muôn phần, lâu dần ngài đâm mang bệnh, một thứ bệnh tương tư thật thống khổ, bi thương.

Thôi tổng quản thấy bệnh hoàng đế không có thuốc nào trong cung chữa được, liền lẻn ra ngoài tìm. Quả nhiên hắn lại tìm được một người đẹp chẳng thua gì Quỳnh Nhi thuở nọ. Hắn đưa người đẹp vào cung để hầu hạ hoàng đế.

Hàm Phong hoàng đế còn mê man trên giường bệnh. Nhưng thấy người đẹp mới, thì cho rằng Quỳnh Nhi đã đầu thai sang kiếp khác mà về với mình. Ngài hỏi tên thì nàng thưa:

- Tử Anh…

Hoàng đế thấy Tử Anh từ tiếng nói đến câu cười, cái gì cũng khiến ngài tưởng như Quỳnh Nhi ngày nọ. Rồi bệnh ngài sau đó cũng khỏi luôn.

Ngài cưng yêu chiều quý Tử Anh chẳng khác chi Quỳnh Nhi. Ngài phong nàng làm quý phi. Tử Anh vốn sinh trưởng trong gia đình cùng khổ nghèo nàn, nhưng tính lại ham đọc sách, thích nghe chuyện văn chương. Bởi thế nàng xin hoàng đế mời một ông thầy vào vườn Viên Minh để dạy cho nàng học.

Hoàng đế tự nhủ bọn thị độc đâu có hiếm gì, nhưng nếu để chúng thấy mình mới tìm thấy một quý phi, thế nào chúng chả dâng sớ khuyên can. Điều đó quả là khó chịu. Mời một ông thầy già vào vườn dạy học cho nàng là hơn. Nghĩ vậy, hoàng đế gọi Thôi tổng quản vào tính toán bàn bạc.

Thôi tổng quản nghĩ một chập, liền nhớ tới một người. Người đó họ Trịnh đậu cử nhân, vào kinh thi hội nhưng bị rớt. Trịnh cử nhân hiện ngụ tại Trường An khách điếm; hết sạch tiền lộ phí, đành phải lưu lạc nơi đất khách quê người, viết mướn câu đối hoặc thư từ cho khách để lấy tiền độ nhật.

Thôi tổng quản vốn người đồng hương với tên chưởng quỹ của Trường An khách điếm, thường tới đó bàn tán chuyện mua vui. Hắn cũng thường gặp Trịnh cử nhân tại khách điếm này.

Ông cử nhân họ Trịnh tuổi đã ngũ tuần có bộ râu đã lốm đốm bạc. Ông là người rất hoà nhã. Nay hoàng đế cần thầy dạy học cho Tử Anh, Thôi tổng quản nhớ ngay tới ông. Hắn nói với Hàm Phong hoàng đế, rồi ba chân bốn cẳng chạy ra Trường An khách điếm mời ông…

Trịnh cử nhân tuy có gặp Thôi tổng quản nhiều lần nhưng không biết hắn ta là ai, chỉ nghĩ hắn là một viên quan nào đó. Bởi thế khi hắn ta ngỏ ý mời đi dạy học ông cho rằng tới chỉ dạy một công tử hay một tiểu thư, nên nhận lời đi ngay.

Thấy Trịnh cử nhân bằng lòng rồi, Thôi tổng quản liền đi mướn chiếc xe, bốn mặt che vải xanh bít bùng kín mít. Trịnh cử nhân ngồi bên trong, chẳng thấy tí gì bên ngoài.

Xe chạy đã một lúc lâu, hết khúc quanh này qua khúc quanh khác, trước còn nghe tiếng huyên náo nơi chợ búa, nhưng về sau tiếng người càng vắng, càng xa.

Chiếc xe chạy trên một đám đất trống một hồi khá lâu rồi đỗ lại. Mở rèm xe ra nhìn, Trịnh cử nhân chỉ thấy những bức tường dài thành hàng, phía trong không biết cơ man nào là lâu đài, mái ngói, đỉnh nhà, chen chúc trong những chòm cây như muốn tranh giành nhau để ngoi lên không trung mong thoát khỏi cảnh chật chội phía dưới.

Trịnh cử nhân nghĩ đó là vườn hoa nhà ông lên nọ, nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ thắc thỏm. Ông tự nhủ, đã mời ta làm thầy dạy học thì xe phải vào cửa trước chứ tại sao lại lách qua cửa ngách để vào vườn hoa?

Trịnh cử nhân bước sâu vào vườn hoa, thấy cây cỏ rậm rạp um tùm, chỗ nào cũng san sát cửa, nhà tường vách, cỏ cây. Thôi tổng quản đưa Trịnh cử nhân đi loanh quanh hết khu này tới khu khác trong vườn. Khi đi qua cầu Cửu Khúc (chín nhịp), ông cử họ Trịnh thấy lộ ra một cái cửa tò vò, trên có một tấm biển khắc hai chữ "Tao Viên". Bước qua cổng tò vò, ông thấy một dãy nhà che rèm lụa. Bước xuống phía hành lang ông thấy bốn đứa thư đồng đứng thành một hàng dài.

Khi ông vừa bước tới, tất cả bọn chúng vội quỳ gối xuống, đồng thanh nói:

- Thỉnh an gia sư.

Đoạn chúng cuộn rèm cửa lớn. Trịnh cử nhân bước vào phòng. Ông thấy bên cửa sổ, giá sách chất đầy sách.

Thôi tổng quản mời Trịnh cử nhân ngồi xuống ghế. Tên thư đồng đưa trà lên, Thôi tổng quản lấy ra một bức thư, hai tay nâng cao đưa cho Trịnh cử nhân, bên trong đựng hai trăm lạng bạc, rồi nói:

- Thưa! Đây là tiền thù lao hằng tháng. Nếu khi nào tiên sinh muốn gởi về nhà thì xin cứ giao cho tôi, tôi sẽ gói ghém cẩn thận và gởi đi, xin tiên sinh đứng ngại.

Trịnh cử nhân xem chữ đề trên thơ thấy viết: "Dưỡng tâm trai chủ nhân" ngoài ra không còn tên họ gì nữa bèn hỏi:

- Chủ nhân của ông tên gọi là gì?

Thôi tống quản đáp:

- Chủ nhân tôi là một vị vương gia bậc nhất tại kinh thành này, tiên sinh khỏi cần hỏi, sau rồi sẽ rõ. Hiện nay vương gia tôi đi vắng trong nhà chỉ còn có đàn bà không tiện ra đây mời chào tiên sinh. Tiên sinh cứ dạy cho học trò tấn tới ắt vương gia tôi không bao giờ dám để tiên sinh phải buồn lòng đâu.

Trịnh cử nhân xem thấy bọn Thôi tổng quản có vẻ kênh kiệu, cái gì cũng ra tuồng khoe khoang hợm hĩnh, trong lòng cảm thấy băn khoăn, chẳng hứng thú chút nào. Song ông thấy nơi này tinh nhã, xếp đặt ngăn nắp lịch sự, đành miễn cưỡng ở lại.

Qua ngày hôm sau, tên học trò bước ra bái yết thầy. Trịnh cử nhân nhìn xem học trò mình như thế nào thì suýt ngã ngửa, bởi đó là một trang mỹ nhân tuyệt sắc, có bốn con tì nữ xinh đẹp chẳng kém, đi bên cạnh hầu hạ.

Cô học trò tuyệt sắc nọ học mỗi ngày chỉ độ vài giờ là lại trở vào ngay. Qua ngày hôm sau, nếu tiên sinh khảo bài thì cô học trò thảy đều học thuộc không bao giờ quên lấy một chữ.

Trịnh cử nhân thấy học trò mình thông minh quá, trong lòng cũng lấy làm mừng. Ban ngày thì ăn sơn hào hải vị, ban đêm thì ngủ trong giường gấm màn the, hầu hạ thì đã có lũ thư đồng vô cùng chu đáo. Điều không xứng ý nếu có thì chỉ là sự mất tự do không được hành động theo ý mình. Đừng nói ra khỏi cổng vườn, ngay cả đến việc đi quá sang mé tả hoặc mé hữu một chút của thư phòng ông đã bị lũ thư đồng chặn lại rồi. Lũ này bảo:

- Trong vườn có đàn bà con gái du ngoạn, tiên sinh nên tránh đi là hơn.

Trịnh cử nhân ở trong vườn này đã ba tháng. Ông mong được ra phố đi chơi một hôm cho thoải mái đôi chút, nài nỉ với lũ thư đồng đến mấy lần nhưng chúng chỉ nói là đi xin phép chủ nhân đã.

Về sau, Trịnh cử nhân chịu không nổi cảnh tù túng, bèn lẻn ra ngoài vườn. Ông thấy phía sau vườn là một đám đất rộng bỏ hoang, cảnh tượng hết sức vắng lặng thê lương. Ông chả rõ đường nào, nên chạy được mấy bước lại phải trở về.

Lũ thư đồng đứng chực ở cửa liền nói:

- Khu này rất hoang vắng thường có cọp beo, trộm cướp, giết hại mạng người. Nếu muốn ra ngoài tiên sinh nên đi xe lừa, vừa phải có người bảo vệ mới được.

Quả nhiên, lũ thư đồng đi mướn một cỗ xe có hai tên đại hán lực lưỡng ngồi ngất ngưởng trên mui xe.

Trịnh cử nhân ngồi trong thùng xe, phía ngoài cũng có vải màu xanh che kín mít như trước. Xe bắt đầu quay bánh, độ vài giờ sau, Trịnh cử nhân đã nghe có tiếng nói tiếng cười, tiếng ầm ĩ ồn ào của chợ búa, đô thị.

Xe chạy một đỗi nữa mới ngừng lại, Trịnh cử nhân mở rèm xe, bước xuống nhìn chung quanh, thì ra đây chính là cửa ngoài của khách điếm Trường An mà ông đã ở dạo nọ.

Anh chưởng quỹ khách điếm trông thấy Trịnh cử nhân vội chạy ra đón vào nhà, lấy hai phong thư của gia đình đưa cho ông.

Trịnh cử nhân xem thư, thấy nhà đã nhận được ba lần sáu trăm lạng bạc, gia đình đều được bình an như thường, lấy làm mừng lắm, liền dắt tay anh chưởng quỹ vào bàn nhậu.

Ông hỏi anh chưởng quỹ:

- Này, anh có biết cái nhà mà tôi đến dạy học ấy là nhà ai không? Tên tuổi họ là gì? Công danh sự nghiệp ra sao?

Anh chưởng quản lắc đầu đáp:

- Nào tôi có biết gì đâu!

Chẳng biết anh ta nói thật hay dối, Trịnh đành nâng chén mời. Uống một hồi xong Trịnh ra ngoài đi chơi phố.

Ngày đã tàn hai tên xà ích giục Trịnh cử nhân lên xe trở về. Từ đó, cứ hai tháng, ông cử lại lên xe ra ngoài phố đi chơi một chuyến.

Cô học trò tuyệt sắc nọ trải qua một năm học hành, đọc qua bao nhiêu kinh sử, Trịnh cử nhân tuổi đã già tính lại nhân từ hoà nhã, do đó, tình thầy trò ngày càng thắm thiết.

Cô đem tâm sự nào dài nào ngắn ra nói với thầy, duy (:hi có hỏi về gia đình nhà cửa thì nàng tuyệt nhiên chẳng chịu hé môi.

Ít hôm sau, Trịnh cử nhân thấy năm đã gần tàn, tháng đã gần hết, ở nơi đất khách quê người, bất giác nhớ nhà, lòng cảm thấy thật thê lương. Giữa lúc đang buồn bã, ông thấy bóng cô học trò duyên dáng bước ra, bên cạnh có bốn đứa tì nữ theo hầu. Trịnh cử nhân đưa mắt nhìn nàng, thấy mặt nàng đỏ ửng, hình như có hơi rượu. Ông bước lại gần hỏi.

Nàng nhìn ông nhoẻn miệng cười, rồi ngồi phịch xuống ghế, không nói năng gì cả.

Bỗng ông nghe nàng thét lên một tiếng, hai tay ôm bụng kêu đau quá rồi môi son của nàng tái nhợt đi, mắt đứng lại mất hết tinh thần và bạc ra.

Bốn đứa tì nữ thấy vậy, hoảng quá, chân tay bấn loạn, run lên từng hồi, vội hè nhau vực cô học trò vào nhà trong.

Lũ thư đồng lúc đó cũng hối hả cuống cuồng chạy đi bỏ mặc Trịnh cử nhân một mình trong thư phòng.

Trịnh cử nhân suốt từ đầu tới cuối chẳng hiểu sự thể ra sao, đành chỉ ngồi mà rầu rĩ. Mãi đến chiều tối mới thấy Thôi tổng quản hớt hải chạy tới báo một tin động trời cho ông:

- Đáng thương quá! Cô học trò nhỏ của tiên sinh bị cấp bệnh chết mất rồi! Chủ nhân tôi có dặn đưa tiên sinh ra khỏi hoa viên. Đây là gói bạc năm trăm lạng, tiên sinh cầm lấy trở về nhà, xin đừng nói với ai chuyện này.

Thôi tổng quản vừa nói đoạn thì đã có một cỗ xe lừa đỗ trước cửa vườn. Hắn đưa tiễn Trịnh cử nhân lên xe, đóng kín vườn lại rồi trở vào.

Trịnh cử nhân về đến khách điếm Trang An, kể rõ tình hình trên rồi hỏi anh chàng chưởng quỹ về cái gia đình mà mình đến dạy học. Lúc đó anh chưởng quỹ mới vỗ vai ông mà bảo:

- Cái huê viên mà ông vào đó chính là vườn Viên Minh. Cô học trò tuyệt sắc giai nhân chính là quý nhân của đương kim hoàng đế đó!

Kể câu chuyện bi ai này tới đây, có lẽ quý vị có điều thắc mắc về cái chết, của cô học trò tuyệt sắc nọ. Câu chuyện là thế này: Cô học trò sắc nghiêng ngước nghiêng thành đó chính là nàng Tử Anh. Hàm Phong hoàng đế thấy nàng ham học, bèn cho Thôi tổng quản đi mời Trịnh cử nhân tới dạy cho nàng.

Tử Anh học một năm trời, vốn người thông minh, nên hiểu biết nhiều, khiến nhà vua mừng rỡ khôn xiết. Nào ngờ, Băng Hoa dò la biết hoàng đế lại mới có một quý nhân muôn phần sủng ái, đêm đêm quấn quýt bên cạnh, còn minh thì lại bị quên đi, khiến nàng lại nổi lòng thù hận. Nàng cố làm thân với Tử Anh, thường lẻn tới trò chuyện, hay đưa những của ngon vật lạ tới cho Tử Anh.

Tử Anh vốn là gái mới lớn lên, đâu có biết đó là mưu gian của con tinh hồ ly. Nàng đâm ra quý mến Băng Hoa, bao nhiêu tâm sự, nhất là đối với hoàng đế, đem ra kể hết cho nghe, hai người chơi với nhau thân như chị em, Băng Hoa dần dần biết Tử Anh đã lọt vào cạm bẩy của mình chỉ còn đợi ngày giật dây mà thôi. Nàng nghĩ ra một độc kế, lén đưa cho Tử Anh một lọ thuốc độc nhỏ.

Đây là rượu thuốc dê thần. Cứ sáng sớm uống vào thì tối tha hồ mà hầu hạ hoàng đế, không còn biết mệt nữa.

Tử Anh tin là thật. Nàng đang được hoàng đế sủng ái, muốn lấy lòng ngài, bèn dốc cả lọ thuốc kia vào miệng.

Tử Anh vốn không biết uống rượu. Cho nên khi chất rượu thuốc này vào tới dạ dày thì mặt nàng ửng đỏ, tai nóng như lửa đầu óc choáng váng, tim đập thình thịch. Tuy vậy, nàng vẫn gắng gượng lên lớp học như mọi hôm. Không ngờ vừa tới nơi thì sức thuốc ngấm tới, chất độc phát tác, tắc ngay cổ hầu nên nàng chỉ thét được có một tiếng là chết.

Hàm Phong hoàng đế thấy người yêu chết một cách cấp kỳ như vậy, vội ôm vào lòng, luôn mồm gọi ngự y. Khi ngự y chạy vào tới cung thì người đẹp Tử Anh đã chết trong lòng ngài.

Hàm Phong hoàng đế thấy chết luôn hai người yêu đều bất đắc kỳ tử vì trúng độc, biết thế nào cũng có kẻ hạ độc thủ. Ngài lặng lẽ cho bí mật điều tra để tìm cho ra manh mối…

Hồi 119

MỘT VỤ ÁN TÌNH SÔI NỔI

Hàm Phong hoàng đế dặn bọn thái giám sưu tra trước hết bọn cung nữ trong cung của Tử Anh rồi đến phòng các nàng phi khác ở chung quanh. Không một vết tích gì khả nghi! Băng Hoa quả là người kỹ lưỡng, hành động bí mật.

Bọn thái giám cũng như cung nữ dưới quyền đều được nàng đối đãi quá tử tế khiến không một ai dám mở mồm ra nói một câu nguy hiểm cho nàng. Hoàng đế thấy điều tra mãi mà không ra đành thôi.

Ngài buồn chán âm thầm mỗi khi nhớ tới Quỳnh Nhi cũng như Tử Anh, hai người đẹp lúc nào cũng tươi vui, nhí nhảnh ríu rít như đôi chim oanh hân hoan mỗi độ xuân về. Ngài càng nhớ càng thấy tê tái, nước mắt thánh thót rơi trên đôi gò má.

Từ ngày đó, ngài chẳng thèm triệu hạnh một bà hậu, một nàng phi nào nữa. Ngài lủi thủi một mình trong Hàm Bích Sơn phòng, chỉ có bọn cung nữ và thái giám, hầu hạ hai bên mà thôi.

Nàng phi Băng Hoa từ hôm đầu độc chết Tử Anh rồi, ngày ngày mong ngóng hoàng đế triệu hạnh, nhưng chẳng thấy thánh chỉ. Nàng chỉ còn biết thở vắn than dài trong cô phòng tịch mịch mà thôi.

Rồi Hàm Phong hoàng đế nhớ thương đôi cánh xuân hoa của ngài quá đến nỗi nhuốm bệnh, ngày đêm mê man như bất tỉnh.

Hàm Phong hoàng đế vốn tính nóng nảy, nay nhuốm bệnh, càng nóng nảy thêm. Bọn cung nữ hầu hạ, nhiều khi bị ngài đánh chửi hung dữ. Trong lúc bệnh hoạn, ngài vui buồn giận tức vô thường. Có khi ôm chầm lấy con cung nữ nào đó rồi kéo sát vào lòng, có khi xô xấp xuống giường. Có khi gian dâm như cuồng như loạn, lại cũng có khi nắm tóc kéo xềnh xệch trên mặt đất rồi ném ra ngoài cửa. Nhất là lúc khùng lên, giận dữ quá độ về chuyện gì, ngài tuốt cây bội đao ra chặt phắt một nhát bay đầu con cung nữ. Bọn cung nữ thật là vô cùng cơ khổ, không biết kêu cứu vào đâu được!

Ngự y xem mạch bốc thuốc mà vẫn bệnh nào tật nấy không chút thuyên giảm.

Tin này dần dần truyền tới cung Khôn Minh khiến Hiếu Trinh hoàng hậu hay biết. Hậu vội vã phượng giá đích thân tới vườn Viên Minh đưa hoàng đế vào cung, rồi tự tay nâng giấc hầu hạ.

Hàm Phong hoàng đế vốn kính trọng Hiếu Trinh hoàng hậu, nay thấy bà tận tuỵ săn sóc cho mình thì cảm động lắm. Nhờ đó sức khoẻ ngài càng khá, bệnh hoạn lui dần.

Cung Thân vương Dịch Cân là em ruột Hàm Phong hoàng đế. Hai anh em ngày thường rất quý mến nhau. Do đó, Hiếu Trinh hoàng hậu cho người đi mời vương vào cung.

Cung Thân vương vừa gặp Hàm Phong hoàng đế, bèn khuyên:

- Hiện nay quốc gia đa sự, cần nhờ đức hoàng thượng chấn chỉnh, hoàng thượng nên bảo trọng thân thể, khôi phục tinh thần, chăm lo việc nước, trên thì bảo vệ cơ nghiệp của tổ tông, dưới thì cứu vớt trăm họ ra khỏi cảnh nạn lớn mới phải.

Hàm Phong hoàng đế nghe em khuyên một hồi, bỗng tỉnh ngộ. Từ đó, sức khỏe ngài khá dần. Ngài truyền dụ toạ trào.

Các quan văn võ triều đình đã lâu không có buổi chầu nào, nghe nói hoàng đế toạ trào, ai cũng đều vui mừng hoan hô vạn tuế. Hoàng đế đã lâu không hỏi đến việc triều chánh, lúc này mới biết Nam Kinh đã thất thủ, Hàng Châu cũng mất, quân trú phòng ở các nơi đều không đánh mà lui cả. Sau đó ngài lại tiếp được cấp báo của tổng đốc Lưỡng Quảng là Kỳ Anh nói quân Anh đánh vào thành Quảng Châu.

Hàm Phong hoàng đế nghe tin liền nói:

- Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Văn võ bá quan trong triều miệng ngậm kín như hến, giương mắt nhìn, không nói được lời nào. Mãi về sau, Thượng thư bộ hạ là Tiên Thuận mới quỳ tâu được mấy câu:

- Bọn Kỳ nhân chúng tôi đều hèn nhát chẳng ra gì, chỉ biết ngồi ăn bổng lộc triều đình nào có biết chiến trận. Xin bệ hạ truyền chỉ xuống cho Tịch thị lang Tăng Quốc Phiên đem quân hương đoàn ra trợ chiến mới mong chiến thắng.

Một đạo chỉ dụ hạ xuống. Cả bọn quan võ người Mãn đều thấy mất mặt, chỉ còn có cách độn thổ.

Ít hôm sau, tướng Hướng Vĩnh đem đại binh từ Hồ Bắc đánh thốc xuống, dồn quân tại Hiếu Lăng Vệ, gọi là Giang Nam đại doanh. Mặt khác, Hương Kỳ Thiện cũng đem quân bản bộ đánh từ Trực Lệ, Thiểm Tây, Hắc Long Giang thẳng xuống Dương Châu, xưng là Giang Bắc đại doanh. Hai lộ quân này bắt đầu đại chiến với quân Thái Bình Thiên Quốc.

Đông vương Dương Tú Thanh của Thái Bình Thiên Quốc thống lĩnh thần binh nghênh chiến. Thế nào gọi là thần binh?

Đó là một đội quân ở phía trước có một số con trai độ mười hai, mười ba tuổi, mặc áo ngũ sắc, trang điểm như thiên thân cột trên ngọn cây tre, một tay phóng lửa khói còn một tay múa tít đao thương, khiến trận tiền mù mịt khói lửa, gọi là Thiên ma trận. Phía sau Thiên ma trận, còn có một đội nữ binh, trang điểm hết sức cầu kỳ, có một cô gái người Quảng Đông tên gọi Tiêu Tam nương điều khiển.

Nữ tướng Tiêu Tam nương đầu đội mũ dắt ngọc châu, cặp tóc bằng ngọc báu, đi giày man hoá, mặc quần đỏ. Nàng quả thật là đẹp. Nàng xông ra trận tuyến, dùng mũi kiếm vẫy một cái, tức thì quân sĩ liều mạng xông lên.

Tướng Mãn Thanh là Kỳ Thiện cung xua quân liều chết xông lên. Thiện nhớ tới chữ "hèn nhát" có ý muốn rửa nhục, nên chỉ huy trận chiến vô cùng hăng hái… Thiện đánh liền năm trận, thắng luôn năm trận.

Hồng Thiên hoàng thấy quân Thanh quá mạnh, liền bỏ dùng sức để dùng trí. Hồng cho quân lên tới Hiếu Lăng Vệ, châm một mồi lửa đốt thiêu sạch Giang Nam đại đoàn, khiến quân Thanh chạy mảnh giáp không còn.

Liền đó tướng Lâm Phượng Tường đem quân Thái Bình xông ra, Giang Bắc đại doanh nghe tin Giang Nam đại doanh đã bị đại bại, hoảng hồn bạt vía, tức thì ồ ạt chạy như nước vỡ bờ.

Tướng Kỳ Thiện trong đám loạn quân, chẳng biết chạy ngả nào, vừa tức vừa giận vừa xấu hổ, bèn tuốt cây bội đao tự vẫn chết ngay trên lưng ngựa.

Quan Thái Bình Thiên Quốc tiến như sóng cồn. Lâm Phượng Tường liền quay mũi dùi chuyển xuống đánh Giang Bắc. Dương Tú Thanh cũng mang hai vạn quân đánh thẳng tới Hà Nam, Quý Đức, Phượng Tường lại bắt được một số tàn quân, vượt qua Hoàng Hà đánh tỉnh Sơn Tây.

Tin cấp báo bay như bươm bướm về kinh. Hàm Phong hoàng đế lập tức triệu tập bọn đại thần các bộ tại ngự tiền hội nghị.

Ngài hạ chỉ phái tổng đốc Trực Lệ là Nỗ Nhĩ Kinh làm khâm sai đại thần chuyên biện quân vụ tỉnh Hà Nam, một mặt thúc giục Tăng Quốc, chiêu mộ bọn hương dũng đi tiễu giặc ở Hồ Bắc.

Tăng Quốc Phiên và Trương Lượng Cơ lập ra thuỷ trận tại sông Trường Giang, chặn đứng được quân của Thái Bình Thiên Quốc.

Hàm Phong hoàng đế sau khi nghe lời khuyên can của Cung Thân vương, đem lòng yêu quý vương. Điều đáng chú ý là ngài trước đây, do hiếu sắc quá độ cho nên thân thể đã suy. Quân vụ hồi này lại quá nhiều, quá gấp, ngài chẳng còn đủ sức khỏe để giải quyết mọi việc. Cho nên, việc quân cơ đại sự ngài đều giao cho Cung Thân vương toàn quyền. Ngài sợ vương ra ngoài vất vả, bèn giữ lại trong cung, ngủ luôn trong đó. Vương ở trong cung đến hơn mười ngày.

Không ngờ lúc đó, người con trai của vương ở nhà, gây ra một án tình rắc rối.

Con trai cả của Cung Thân vương tên gọi là Trưng bối lặc. Ông bối lặc này tứ đổ tướng đều giỏi hết, chuyên tụ tập với bọn ma cô, du đãng, tối ngày hết gái đến cờ bạc, hết đá gà đến đua ngựa, không ngón chơi nào là không rành.

Trưng bối lặc quá quen về món gái làng chơi, nên bọn mụ dầu hoặc em út khắp kinh thành Bắc Kinh, ai cũng biết danh.

Người ta gọi Trưng là đại gia. Trưng đại gia có tính rất kỳ cục. Nhà thiếu gì tiền, nhưng Trưng lại không muốn chơi theo lối quang minh chính đại bằng cách bỏ tiền ra hỏi cưới mấy nàng hầu. Trưng bối lặc lang thang suốt năm ngoài chợ, ngoài xóm chơi bời phóng đãng, theo kiểu lêu lổng, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Trong nhà Trưng chỉ có mỗi một bà phúc tấn, chẳng có vợ hai, vợ ba nào cả. Bà bối lặc tính lại không hợp với chồng, suốt năm suốt tháng ở lỳ bên nhà cha mẹ, không thèm về phủ.

Trưng bối lặc lang thang đây đó chơi bời, rút cuộc bị lậu, có lẽ cả giang mai nữa. Cung Thân vương biết chuyện, liền bắt nhốt kỹ trong phủ, cho đi mời thầy thuốc tới chữa. Trưng bối lặc bị nhốt luôn đến nửa năm, bệnh lúc đó mới hết. Cung Thân vương thả ra, Trưng bối lặc, tính nào tật ấy, lại chuồn ra ngoài chơi bời phóng đãng như cũ.

Hồi đó, vào giữa tháng sáu, trời nóng bức hết sức khó chịu, trai thanh gái lịch thành Bắc Kinh đều tới bể Thập Phân để hóng mát. Bể Thập Phân này rất rộng, bốn mặt đều có hồ sen, hoa nở nào trắng, nào hồng, thơm ngát cả một vùng rộng rãi vây quanh. Dọc bờ bể có rất nhiều phòng trà, quán nước, có bọn chị em tiếp khách, đánh trống ngâm thơ. Du khách tới đây, có người thích ngắm hoa, có người lại thích nghe ngâm thơ, cũng có người thích uống trà hóng mát. Rồi lại cũng có cả những chỗ mà bọn trai gái mặc sức nô đùa, cười cợt tình tứ, diễn đủ trò đồi phong bại tục.

Một hôm, Trưng bối lặc đem bọn đàn em tới một phòng trà uống chơi. Ông nhìn qua bên hàng hiên, thấy một thiếu phụ mặc đồ Kỳ trang (quần áo theo kiểu người Mãn Châu) ngồi đó từ lúc nào, cũng đang uống trà. Người thiếu phụ ngồi có một mình, mặt mũi xinh đẹp, mi thanh mắt tú, dạ trắng như trứng gà bóc, môi điểm chút son hồng, mình mặc chiếc áo lụa trắng mỏng, lộ rõ thân hình nhỏ nhắn với bộ ngực nở đầy. Cặp mắt đen lay láy liếc về phía Trưng làm cho Trưng đại gia hồn vía lên mây.

Người đẹp trước mắt như miếng mồi ngon, Trưng đại gia làm sao mà bỏ qua cho đặng, phóng luôn mấy cái liếc đưa tình. Người đẹp đã không giận mà lại còn mỉm cười, nhìn đáp lại Trưng đại gia sướng điên lên, tim như muốn phá vỡ cả lồng ngực mà chui ra.

Giữa lúc đó, có một thằng bé lưng đeo sọt bắp sen, ngó sen, miệng rao bán inh ỏi. Người thiếu phụ giơ tay ngoắc lại hỏi mua. Thấy vậy, Trưng đại gia liền bảo một tên gia nhân bước sang trả tiền thay cho người đẹp và bảo:

- Bắp sen này, đại gia đã mua rồi, xin biếu cô nương. Đại gia tôi có lòng quý mến, muốn nói vài câu chuyện với cô nương, chẳng biết cô nương có vui lòng cho phép hay không?

Người thiếu phụ nhoẻn miệng cười tình, mắng yêu:

- Đại gia ngươi quý mến ai thì mặc xác hắn! Ai thừa hơi mà trò chuyện với đại gia ngươi?

Người thiếu phụ vừa nói, vừa bóc bắp sen ăn. Trưng đại gia cởi chuỗi ngọc đang đeo đưa sang tặng nàng, có ý thực lòng.

Người thiếu phụ thấy vậy bèn nói:

- Gia đình ta người đông, tai mắt nhiều lắm. Cùng trò chuyện với đại gia thật bất tiện. Bảo đại gia ngươi tìm một nơi thanh tịnh vắng vẻ mà gặp nhau thì hơn.

Trưng đại gia nghe câu nói đó, lòng sung sướng, liền đứng dậy, sai gia nhân đưa người đẹp ra bãi bể Thập Phân, rồi vào trong một tửu quán tên là quán Tràng Xuân. Trưng đại gia thường uống rượu ở đây. Điếm tiểu nhị biết ông là một vị bối lặc, hôm nay lại có thêm một người đàn bà, vội đưa vào ngay mật thất. Hai người lập tức lên giường.

Người thiếu phụ thực quả thuộc hạng phong lưu tình tứ. Rượu ngà ngà say rồi, nàng càng đẹp, càng duyên dáng, khiến Trưng đại gia lòng càng yêu quý hơn. Ông nhìn ngắm nàng như ngây như dại. Người thiếu phụ bật cười nói:

- Nhìn cái gì mãi vậy? Ngủ với nhau cả một đêm mà vẫn chưa nhận ra ta là cô ruột của ngươi ư?

Trưng bối lặc nghe nói giật mình đánh thót một cái, vừa lạ vừa nghi hoặc. Ông để ý hơn, quả cũng thấy mặt quen quen, hình như có gặp ở chỗ nào. Ông nghĩ mãi không hiểu tại sao nàng lại bảo là cô ruột mình. Ông cật vấn, nhưng nàng chỉ che miệng cười, không chịu nói.

Trưng bối lặc không nản, càng hỏi dồn. Lúc đó nàng mới bảo:

- Trước hết ngươi hãy quỳ xuống làm lễ bái kiến đi đã, rồi ta hãy nói chuyện thân quyến.

Trưng đại gia đã bị tửu sắc làm cho mê loạn, nhất nhất theo lệnh người đẹp. Nàng đỡ Trưng dậy, bảo:

- Tội nghiệp thằng cháu của tôi! Để ta nói hết cho mà nghe. Ngươi có còn nhớ năm ngươi cướp vợ không? Năm đó ta có tới phủ người dự tiệc cưới, ngươi cứ gọi ta là bà cô Tiểu Lan đó mà.

Trưng bối lặc đến lúc này mới sực nhớ ra, bèn nói:

- Chồng cô có phải là Lan đại gia không?

Người thiếu phụ gật đầu đáp lại, Trưng đại gia liền vỗ tay đánh đét một cái rồi bảo:

- Chuyện này hỏng bét. Bà chính là cô ruột của tôi rồi. Mới năm năm xa cách mà nhớ mãi mà không ra. Hôm qua gặp mặt tại sao cô không cho biết?

Hồi 120

BỐN ĐÓA HOA TUYỆT SẮC

Ngày qua tháng lại, trời đã sang hè. Hai cô cháu nhà Trưng lại đưa nhau tới bờ bể Thập Phân để nghỉ mát.

Giữa lúc đang vui vẻ khoan khoái bỗng từ đám đông xông ra một bọn vô lại du ôn, bế xốc lấy hông người thiếu phụ, chạy đi như bay.

Người thiếu phụ giả đò kêu la cầu cứu. Cũng có người động lòng nghĩa hiệp muốn giải cứu, bên cạnh có kẻ biết bọn du đãng nọ chính là những em út của Trưng bối lặc thì vội bảo:

- Ấy chớ! Bọn chúng là tay chân của Trưng bối lặc đó? Nhảy vào để chết à?

Người nọ nghe nói tới Trưng bối lặc, hoảng hồn bay vía, đứng dẹp qua một bên, không dám nhúc nhích nữa, chỉ còn biết nhìn theo bọn du côn nọ xốc nách người thiếu phụ mỗi lúc một xa dần.

Trong kinh thành, thiên hạ đồn rầm lên: Trưng bối lặc bắt cóc đàn bà con gái nhà tử tế. Nếu ở một chỗ khác thì tin đồn này hẳn có một hậu quả trầm trọng. Nhưng tại cái bãi bể đầy rẫy trai gái này, thì chẳng ai thấy lạ cả. Thực ra, chính do hai người đã bày ra trò này để có cớ tình tự với nhau trong căn nhà nọ, chẳng sợ ai dị nghị dòm ngó. Hoạ chỉ có đức ông chồng của người thiếu phụ đa tình kia là âu sầu mà thôi.

Anh chồng nọ sầu khổ quá chẳng thèm làm quan nữa, suốt ngày khóc sướt mướt chạy cùng khắp kinh thành để tìm vợ.

Suốt ngày ông bù đầu xoã tóc, xé áo, khóc lóc kêu xin, rồi chạy hết phố này qua đường nọ, gặp ai cũng bảo Trưng bối lặc cướp vợ mình.

Chuyện dần dần đến tai Đô lão gia. Ông sai người đưa Lan thái gia vào y viên chữa trị, một mặt dâng sớ lên đàn hặc Trưng bối lặc.

Thân phụ của Trưng bối lặc là Cung Thân vương Dịch Cân lúc này đang ở trong cung giúp Hàm Phong hoàng đế giải quyết mọi việc quốc gia trọng đại. Khi tờ sớ vào tới cung, hoàng đế đọc thấy, chẳng nói chẳng rằng, chỉ trao lại cho Cung Thân vương.

Cung Thân vương xem tờ sớ tố cáo chính con trai mình bắt cóc và gian dâm cô ruột, hoảng hồn, bạt vía, mặt tái xanh vội ném cả thân hình quỳ mọp xuống đất và dập đầu lia lịa.

Hàm Phong hoàng đế nói:

- Chú nên về nhà xem sự thể ra sao.

Cung Thân vương cầm bản tấu chương, vội ra khỏi cung đến thẳng nhà Trưng bối lặc. Hỏi ra mới hay Trưng bỏ nhà đi chơi đã lâu ngày chưa về, vương biết chuyện này có thật rồi, bèn cho gọi hết bọn tôi tớ trong nhà, căn vặn từng đứa một. Một vài đứa không chịu nổi hình phạt, đã cung khai ra chuyện Trưng bối lặc mướn phòng chứa gái ở khu phố cửa nam. Cung thân vương nghe xong, vội về phủ, đem theo bọn gia nhân sai dịch đến đó, đập cửa xông vào. Quả nhiên tóm cổ được cả chàng và nàng đang du dương trên giường.

Cung Thân vương nhận ra người thiếu phụ nọ đúng thật là con em họ mình, tức đến hộc máu, râu ria dựng ngược lên tua tủa như đinh. Vương giơ thẳng cánh tát đôm đốp vào mặt ông con mất dạy rồi quát giải về giao cho Tôn nhân phủ. Xong đâu đấy, vương mới vào cung, trước hết tự nhận tội mình, rồi sau tâu hết mọi việc cưỡng chiếm cô họ của ông con trời đánh!

Hàm Phong hoàng đế nghe tâu nối giận liền hạ dụ cách tuột chức tước của Trưng bối lặc, giao cho Tôn nhân phủ tống vào hình lao. Còn người thiếu phụ nọ, cũng giao cho Tôn nhân phủ đánh ba trăm hèo vào lưng, giam cầm ba năm, tới khi mãn hạn sẽ trao trả cho người chồng quản thúc.

Mãi về sau, khi bà phúc tấn, vợ Cung Thân vương mất, Trưng bối lặc nhờ người đến kêu với Hiếu Trinh hoàng hậu tha cho về nhà tống tang ma chay cho mẹ. Không ngờ sau khi được về nhà, Trưng bối lặc lại còn hoành hành vô pháp hơn xưa. Trong phủ của Trưng từ con a đầu, đến mụ vú trẻ, tất thảy đều bị Trưng cưỡng hiếp. Nhưng vì Trưng có tiền nên bọn này không tố cáo kêu ca gì, mà còn có vẻ bằng lòng lắm.

Trong phủ có một tên đẩy xe tên gọi Triệu Tam Hỉ. Hỉ có một con vợ cũng ở ngay trong phủ. Người trong phủ ai cũng gọi chị ta là Hỉ đại tẩu. Thị tính lẳng lơ, ai cũng bắt chuyện, gạ gẫm được. Trong phủ từ người trên kẻ dưới tất cả đều biết qua chị hết. Trưng bối lặc cũng biết luôn, rồi mắc bệnh.

Hết hè sang thu, bệnh của Trưng càng nặng thêm. Mấy ông lang đều lắc đầu, khoanh tay ngồi nhìn. Trưng lúc này cũng tự biết mình hỏng rồi, cho người đi mời cha tới để được nhìn một lần chót.

Cung Thân vương nghe nói con mình bệnh sắp chết, không buồn chút nào, trái lại rất lấy làm vui vẻ, cầu mong cho Trưng chết lẹ. Đến khi Trưng cho người mời, vương nhất quyết không tới.

Câu chuyện này chẳng hiểu do đâu mà Hiếu Trình hoàng hậu lại biết được. Bà bảo Cung thân vương nên đến thăm con một lần chót, gọi là thương kẻ tử biệt. Nể Hiếu Trinh hoàng hậu, vương lúc đó mới đi. Khi tới nhà, vương thấy Trưng nằm giữa giường như con mèo ốm, chỉ còn thoi thóp thở. Vương lấy tay bịt mũi bước hẳn vào phòng xem, thấy Trưng mình mặc một cái quần đen dùng chỉ trắng thêu đến hàng trăm con bươm bướm. Nhìn thấy vậy, vương văng tục ra chửi, rồi nhiếc: "Cho mày chết! Khốn nạn cái thân mày, biết chưa con!"

Nhiếc chửi một lúc, vương quay mình bước ra khỏi phòng, về luôn. Lát sau, Trưng trợn trừng mắt lên, chết tốt. Ai cũng nói Trưng tự mình tác nghiệt thì chịu lấy. Có nhân có quả, chẳng ai thương.

Trong lúc ở Bắc Kinh xảy ra việc nhố nhăng này thì ở Quảng Đông, liên quân Anh Pháp hên tục gây chuyện rắc rối.

Nhân cơ hội này, quân tóc dài Thái Bình Thiên Quốc tiến chiếm Thái Bình. Vu Hồ, Tri Châu, An Khánh suốt một giải châu quận dọc sông Tràng Giang. Từ Nam Kinh, Lý Trung vương cũng đem quân đánh thốc tới Hàng Châu.

Hàm Phong hoàng đế lúc đầu còn hăng hái lo, giải quyết những việc quân quốc đại sự, nhưng về sau thấy mọi sự càng ngày càng nát, càng hỏng, ngài đâm ra chán nản, chẳng thèm ra chầu nữa. Ngài vùi đầu trong đống yếm khăn của bọn phi tần cung nữ để giải khuây.

Hàm Phong hoàng đế rất thích bọn gái non miền Nam. Bọn gái Mãn Châu trong cung thô kệch ngài nhìn chúng hằng ngày thấy chán quá, lại bảo nhỏ Thôi tổng quản lẻn ra ngoài lùng gái Giang Nam đem về cho ngài. Trong vườn Viên Minh, tuy còn có Băng Hoa nhưng chơi lâu ngài đã chán rồi.

Chẳng bao lâu Thôi đưa về một lúc đến bốn cô toàn là loại tuyệt sắc miền Giang Nam để ở tại vườn Viên Minh cho ngài hú hí ngày đêm. Hoàng đế ban cho bốn người đẹp của ngài bốn cái tên hết sức thơ mộng. Một cô tên Hạnh Hoa Xuân, một cô tên Đà La Xuân, một cô tên Hải Đường Xuân, còn cô thứ tư tên Mẫu Đơn Xuân.

Bốn cô Xuân này chia ở bốn nơi trong vườn. Hạnh Hoa Xuân ở Hạnh Hoa thôn quán, Đà La Xuân ở Võ Lâm xuân sắc, Hải Đường Xuân ở Thiên Nhiên đồ hoạch lâu. Mẫu Đơn Xuân ở tại ương Kính minh cầm thất. Những nơi dành cho bốn cô danh hoa khuynh quốc này đều hết sức u nhã thanh tịnh.

Từ khi có người đẹp Giang Nam sắc nước hương trời, Hàm Phong hoàng đế quên hết cả giang sơn đất nước, thậm chí quên luôn cả đoàn quân tóc dài đang làm mưa làm gió ở phương nam. Ngài luân phiên lâm hạnh hết cô này đến cô khác trong số bốn người đẹp, vô cùng khoái lạc.

Trong bốn cô thì Mẫu Đơn Xuân có sắc đẹp và tình tứ hơn cả. Nàng người Tô Châu miền Sơn Đường thương. Nàng vốn con gái của một gia đình tầm thường, nhà ở ngay trên yếu đạo qua lại Hổ Khẩu. Bọn phú thương hằng ngày xe ngựa dập dìu qua cửa nhà nàng như nước chảy.

Mẫu Đơn Xuân có nhiều thì giờ nhàn rảnh lại thích đứng ngoài cổng chơi. Hồi đó, có một anh chàng buôn muối người Dương Châu giàu có, theo chân bạn hàng qua Hổ Khẩu, thấy nàng đẹp quá, lập tức tới nhà xin bỏ ra một ngàn quan tiền để mua nàng về làm vợ bé.

Người mẹ của Mẫu Đơn Xuân nghe nói tới một số tiền lớn liền bằng lòng ngay, nhưng nàng khăng khăng không chịu.

Họ Quách nhờ người đến nói năm lần bảy lượt mới được nàng cho biết, nếu thực tâm yêu nàng thì phải chọn ngày lành tháng tốt làm lễ tơ hồng lạy trời, tế đất thề nguyền làm vợ chồng nàng mới chịu lấy.

Anh chàng họ Quách mê nàng như điếu đổ, không dám trái ý nàng điều gì bèn ưng chịu ngay và chọn đúng ngày mười hai tháng tam là đem người đẹp về nhà.

Nào ngờ đầu tháng bảy, quân Thái Bình Thiên quốc của Hồng Tú Toàn tiến đánh thành Dương Châu. Quách trốn chạy về Tô Châu đem luôn cả hai mẹ con Mẫu Đơn Xuân lên Bắc Kinh. Dọc đường nàng cố tránh không cho Quách ngủ chung cùng phòng với mình.

Khi nàng vừa đặt chân tới Bắc Kinh thì Thôi tổng quản đã bủa cả một cái lưới săn người đẹp từ Dương Châu tới.

Thôi được tin nhà họ Quách có gái đẹp, tới ngay điều đình, nguyện đưa sáu ngàn lạng bạc đổi lấy Mẫu Đon Xuân để đem vào cung. Đồng thời còn cho Quách một chức quan ngũ phẩm trong kinh.

Mẫu Đơn Xuân nghe nói chuyện vào cung thì không bằng lòng chút nào. Nhưng tên Quách nọ tham công danh tiền tài, lừa nàng đưa tắp vào vườn Viên Minh.

Mẫu Đơn Xuân ở trong vườn tại riêng một khu có phong cảnh cực kỳ xinh đẹp. Cây cối xum xuê, nước chảy róc rách nghe như tiếng đờn cầm lơ lửng ngân trong đêm vắng. Đường đi lối lại quanh co. Hoa nở tươi như trăm ngàn đôi môi cô thiếu nữ chờ đón buổi xuân sang.

Vừa bước chân tới đây, nàng đã thấy có hai người đàn bà mặc Kỳ tràng chạy ra đón và dắt vào một khu nhà rộng lớn. Trong một căn phòng trang trí vô cùng lịch sự nàng thấy một người đàn ông mặt to tai lớn ngồi trên giường. Sau lưng người đàn ông này có một số đông đàn bà mặc Kỳ trang đứng hầu. Người đàn ông bận quần áo vàng. Nhiều người đàn ông khác mặc áo bào đều gọi người ngồi trên giường là Phật gia.

Mẫu Đơn Xuân bước vào nhà thì đã có một mụ vú già tiến đến đưa nàng tới chiếc giường làm lễ yết kiến và bảo cho nàng biết người đàn ông ngồi trên giường chính là đương kim hoàng đế.

Mẫu Đơn Xuân đến lúc này chẳng còn biết tính cách nào hơn, đành phải ưng chịu. Hoàng đế thấy nàng quả là một trang tuyệt sắc giai nhân, ngay từ lúc đầu đã đem lòng sủng ái hơn ai hết.

Đồng thời với Mẫu Đơn Xuân, còn có năm, sáu cô gái Hán khác nữa cũng được đưa vào cung. Trong số này có một người Dương Châu, tuổi vừa mười lăm, và cũng rất đẹp. Vào cung chưa được mấy ngày, người đẹp Dương Châu cảm thấy buồn chán, kêu la xin cho ra khỏi cung. Mẫu Đơn Xuân khuyên nàng nên nhẫn nại chờ đợi ít lâu, nhưng nàng không nghe cứ xin xỏ hoài. Một đêm, giữa lúc canh khuya vắng lặng, nàng trốn ra ngoài vườn, bị bọn thị vệ tuần canh bắt được, lại đưa trở về cung.

Hàm Phong hoàng đế biết chuyện, nổi giận lôi đình, lập tức sai mục quản sự kéo nàng ra ngoài, dùng giải lụa trắng thắt cổ chết. Bọn con gái Giang Nam từ đó sợ quá, không cô nào dám có ý trốn tránh nữa, đành phó thác tấm thân cho định mệnh.

Người đẹp thứ nhì, là Hải Đường Xuân. Nàng vốn là một con hát ở vùng Đại Đồng, tiểu danh là Ngọc Hỷ. Nàng thường hay tới hát tại các rạp tỉnh Thiên Tân. Tiếng hát của nàng trong trẻo mê ly, mặt mày nàng lại càng quyến rũ hơn, khiến bất cứ ai mới thấy nàng là đã mê rồi. Nàng lại còn biết gẩy đờn cầm, thổi sáo. Bọn vương tôn, công tử nhiều anh mê nàng, bỏ không biết bao nhiêu tiền cho nàng xài, nhưng không anh nào có hân hạnh được nàng để mắt xanh tới.

Bên cạnh những quan hệ vương giả ấy, nàng còn có một mối tình nghèo. Một anh chàng thư sinh nghèo xơ xác tên gọi Kim Chung Thiềm say mê sắc đẹp của Ngọc Hỷ quá, đến nỗi không ngày nào không mò vào rạp hát để ngắm dung nhan, nghe giọng hát của người đẹp. Mỗi lần đi xem hát là mỗi lần anh ta phải tìm chỗ ngồi ở hàng ghế sát sân khấu. Ngay cả những ngày mưa gió bão bùng, Thiềm ta cũng cố xem hát cho bằng được, không bỏ vắng một đêm nào. Chỉ khi gánh hát không trình diễn mới chịu nằm co ở nhà mà rầu rĩ nhớ nhung.

Anh chàng Thiềm si tình này cũng khá. Chàng có cặp mắt đẹp, đôi lông mày thanh, bộ mặt xinh trai, thuộc loại đàn ông có vẻ ngoài hấp dẫn.

Đêm đêm, Ngọc Hỷ trình diễn trên sân khấu, thường thấy phía dưới cớ anh chàng si mê mình quá, cũng lấy làm lạ. Lúc đầu nàng chẳng để ý, nhưng lâu ngày nàng cũng thấy lòng mình vương vấn.

Mùa hè sang thời tiết oi bức. Bọn vương tôn công tử sợ nóng, không tới xem. Nhiều ghế khán giả bỏ trống ở phía trước.

Nhưng anh chàng Thiềm si tình nọ vẫn trung thành tuyệt đối với gánh hát. Mở màn ra trình diễn, Ngọc Hỷ lại đã thấy Thiềm ngồi đó nhìn mình không chớp mắt rồi.

Anh chàng Thiềm mồ hôi trán chảy ra như tưới, mà vẫn ngồi, cung kính lịch sự nghe hát. Chàng sợ người đẹp chê mình là thiếu nhã nhặn, đến nỗi ngay cái quạt cũng không dám đem theo để phe phẩy cho đỡ nóng.

Ngọc Hỷ biết thế, bất giác cảm động. Nàng hát trên sân khấu cũng có phần hào hứng hơn nhiều, làm Thiêm càng thấy mê ly quyến rũ hơn.

Ngọc Hỷ trình diễn xong vai mình, cởi bỏ hết áo tuồng, lẻn ra trước sân khấu, ngồi cạnh anh chàng Thiềm nọ.

Kim Cung Thiềm không ngờ mấy năm nay cái lòng yêu chân thành của mình lại được người đẹp hiểu cho và đáp ứng lại chàng sung sướng ngoài sức tưởng tượng. Nhưng Thiềm vốn là một anh chàng học trò thuộc loại mọt sách, hết sức ngốc nghếch về đường tình ái. Vừa thấy người đẹp tới cạnh mình, đã xấu hổ mặt đỏ tía tai, không biết ăn nói thế nào với người đẹp. Cuối cùng lại cũng phải Ngọc Hỷ gợi chuyện trước rồi Thiềm ấp úng một lúc lâu mới trả lời nổi.

Ngọc Hỷ hỏi Thiềm tên họ, hết chuyện này sang chuyện kia, đến cả cảm nghĩ của khán giả đối với diễn viên như nàng trong gánh hát. Câu chuyện về sau đã thấy hào hứng. Thiềm mất hẳn được cái nhút nhát e lệ lúc ban đầu.

Khán giả trong rạp thấy thế, không xem hát nữa mà hầu hết đổ dồn mắt vào cặp nhân tình đang trò chuyện thân mật trước sân khấu. Họ tấm tắc khen ngợi Thiềm, cho Thiềm là người được diễm phúc hiếm có ở đời.

Kim Cung Thiềm thấy người ta đổ dồn mắt về mình càng mắc cỡ, miệng ấp úng nói không ra lời. Mặt chàng càng đỏ tía, tai chàng càng tía. Chàng là một tay văn chương, nhưng đứng trước người đẹp, chàng thấy chữ nghĩa bay biến đằng nào hết. Lúc này chàng mới biết cái sức mạnh khủng kiếp của đàn bà, của môi son má phấn!

Ngược lại, Ngọc Hỷ thấy chàng càng ấp úng, càng mắc cỡ, càng đỏ mặt tía tai, lại càng yêu chàng, yêu với cả tấm lòng chân thực của mình. Nàng thì thầm bên tai chàng cho biết nhà nàng ở đường nào, rồi nhoẻn miệng cười vô cùng tình tứ và nhẹ bước quay đi.

Kim Cung Thiềm phải đợi một lúc lâu sau khi Ngọc Hỷ đi rồi, mới gọi được hồn, thu được phách trở về. Nhớ lại lời nàng thì thầm, chàng muốn đi ngay tới địa chỉ của nàng, nhưng chàng sực nhớ đến cái túi tiền.

Vốn là một anh học trò kiết xác, nhân dịp vào kinh đi thi, chàng góp nhặt mãi mới được chút ít, không có nhiều để ăn xài như đám công tử vương tôn. Thấy người đẹp, chàng mê, chàng bỏ tiền ra mua vé xem hát. Mua quá nhiều, tiền đã cạn sạch. Người đẹp hẹn chàng, nhưng biết lấy gì để đưa đón người đẹp buổi sơ giao? Lúc này chàng không còn gì nữa, chỉ còn một tấm lòng yêu chân thành mà thôi.

Anh nhìn tới cái hầu bao mà lòng như dao cắt, trí như muốn cuồng, con tim đánh lên những hồi trống trận khủng khiếp trong lồng ngực, chỉ muốn phá tung cái chỗ nằm chật hẹp đó mà ra.

Hồi 121

NGƯỜI ĐẸP HẠNH HOA XUÂN

Kim Cung Thiềm say mê Ngọc Hỷ đã đến lúc ăn không ngon ngủ không yên, nhưng không còn một xu dính túi.

Thiềm chỉ còn biết đứng ngoài cổng rạp hát mà ngó, mặt ngây ra như kẻ mất hồn. Thiềm muốn đi cho khuất chốn này nhưng chân lại chẳng muốn rời. Chàng muốn nghe theo lời người đẹp tới chỗ hẹn nhưng tiền chẳng có một xu thì đi đâu.

Thiềm quyết định… Chàng quyết đem cái áo sa đài tới tiệm cầm đồ, để lấy tiền mua một cái áo dài bằng vải bố rẻ tiền mặc thế cái áo sa kia.

Ngọc Hỷ nhìn thấy, mặt cười như hoa nở, bước tới đón Thiềm. Vị sư phó thấy chàng chỉ là một anh thư sinh kiết xác, cũng có vẻ coi khinh, chẳng thèm để ý tới. Ngọc Hỷ xem chừng mọi người trong phòng đã lạnh nhạt với chàng bèn quảng cáo với đám đông:

- Anh Thiềm vốn là sư phó trong nhà Lục vương gia rất có thế lực. Các ngươi nếu có ý gì khinh khi, hãy coi chừng kẻo bọn mình khó sống tại đây đó.

Cả bọn trong nhà này đều giật mình kinh sợ, vội vã dọn rượu lên cho Ngọc Hỷ và Kim Cung Thiềm ăn uống trò chuyện.

Ngọc Hỷ ngồi bên cạnh Cung Thiềm, hai người vừa tình tự vừa ăn uống hết sức thân mật, âu yếm. Người sung sướng nhất phải là Cung Thiềm. Chàng có cảm nghĩ như mình bay bổng lên trời, đang đi vào thế giới đầy hoa thơm cỏ lạ, giữa các nàng tiên xinh đẹp.

Cơm rượu xong Thiềm móc trong ống tay áo ra mấy chục bạc để lên bàn đứng lên cáo từ định ra về, Ngọc Hỷ vội giơ tay nắm lấy ống tay áo chàng cười nói:

- Chàng quả thật là ngốc. Ai cần đến tiền của chàng. Chàng nhớ điều này nhé: hễ chàng tới với thiếp thì chàng không được quyền trở về nữa đâu.

Nói đoạn, Ngọc Hỷ kéo Cung Thiềm ngồi lại xuống ghế.

Thiềm ta sung sướng như điên, miệng mở to định nói lên điều gì mà không nói ra được, cũng chẳng đóng lại được nữa.

Hai người lại trò chuyện cười đùa trong phòng một lúc lâu nữa rồi mới chui vào màn the nệm gấm, cùng nhau hoàn thành mộng đẹp mơ ước bấy lâu.

Qua ngày hôm sau, Ngọc Hỷ lấy tiền của chính mình ra, lì xì cho bọn bồi phòng với bọn anh chị trong tửu quán, mất vừa, đúng một ngàn lạc bạc.

Bọn người chỉ biết có tiền này thấy có tiền thay đổi hẳn thái độ. Chúng cám ơn rối rít, lại xun xoe không một điều gì là không tích cực chu toàn.

Từ đó tất cả đám nhân viên trong quán coi Cung Thiềm như một vị thượng khách. Mỗi lần diễn hát xong, Ngọc Hỷ trở về đã thấy Cung Thiềm đứng đợi mình tại cửa phòng.

Mối tình của hai người lúc này đã mặn nồng lắm rồi, thế mà bọn vương tôn công tử vẫn còn như người nằm trong trống, chẳng biết tí gì, vẫn tung tiền ra chi cho người đẹp như tung qua cửa sổ, không đếm được là bao nhiêu.

Ngọc Hỷ lấy tiền của bọn vương tôn công tử đem về đưa cho Kim Cung Thiềm. Về sau Ngọc Hỷ điều tra ra là Cung Thiềm chưa có vợ nên quyết định lấy chàng. Nàng đem tất cả tiền của dành dụm được trong bao năm đưa cho Thiềm để chọn mua một ngôi nhà, mong xây dựng một cái tổ uyên ương ấm cúng trong tương lai. Cả ngày chàng và nàng chỉ lo bày biện xếp đặt căn phòng như thế nào cho lịch sự, cho ấm cúng.

Họ đi mua bàn mua ghế, mua tủ, mua đủ bộ lệ để trang trí khiến cho căn phòng xinh đẹp ưa nhìn hết chỗ nói. Họ tính chọn ngày lành tháng tốt để cưới nhau đàng hoàng rồi mới về nhà mới, tạo lập cuộc đời vợ chồng trăm năm đầu bạc như đã từng ao ước.

Ngày cưới và ngày về nhà mới đã tới, Kim Cung Thiềm mướn rất nhiều đầy tớ trai gái, để hầu hạ trong nhà. Qua ngày hôm sau Thiềm đi thuê một cô xe đánh tới nhà Ngọc Hỷ đón nàng về nhà mới, làm cô dâu.

Nhưng không ngờ khi Thiềm tới nhà Ngọc Hỷ, thì chỉ thấy nhà cửa vắng hoe chẳng có một bóng người. Chạy vào phòng ngủ của nàng Thiềm chỉ thấy phấn sáp ngổn ngang, chăn gối tiêu điều, ngoài một mụ già ngồi giữ căn phòng chẳng còn ai cả.

Thiềm vội hỏi mụ già, thì mụ ấp úng trả lời một cách ngớ ngẩn mơ hồ rằng nàng đã vào cung rồi!

Thiềm hỏi đi hỏi lại ba bốn lần nhưng cũng chẳng hiểu rõ được nguyên nhân đấy đủ. Chẳng còn cách nào hơn chàng chạy tới rạp hát đợi khi vãn hát. Khán giản xôn xao bàn tán bảo Ngọc Hỷ tối qua đã bị trong cung đem ba vạn lạng bạc tới mua nàng về làm phi tử mất rồi.

Thiềm nghe đoạn, hồn phách lên mây, mối tức hận tràn ngập trong lòng.

Ngọc Hỷ tiến cung là chuyện thật! Nguyên do Thôi tổng quản dò xét biết nàng đẹp, đem tiền tới bà bầu gánh hát nói rõ ý muốn mua nàng đưa vào cung, do đó mới có chuyện chia uyên rẽ thuý đau thương này.

Ngọc Hỷ vào cung, Hàm Phong hoàng đế thấy nàng đẹp, cặp má hồng thắm như cánh hoa hải đường, bèn đặt tên là Hải Đường Xuân.

Kim Cung Thiềm ở bên ngoài dò xét sự thể rõ ràng đích xác rồi, lặng lẽ về nhà, leo lên đầu giường thắt cố chết.

Hải Đường Xuân, sau khi bị đưa vào cung nhớ thương Kim Cung Thiềm quá đến nhuốm bệnh, suốt ngày không dậy được, uất ức đau khổ quá, cũng chết theo Cung Thiềm trong một buổi chiều mưa gió bão bùng.

Nhưng trong số "bốn cái xuân" của Hàm Phong hoàng đế, quốc sắc thiên hương nhất, da thịt nõn nà nhất, tươi tắn trẻ măng nhất phải nói là Hạnh Hoa Xuân.

Hạnh Hoa Xuân vốn con nhà lương thiện, cha mẹ mất sớm, nàng mồ côi từ lúc còn nhỏ tuổi. Người chú ruột đem nàng bán cho một gia đình giàu cô họ Thạch để làm a hoàn. Gia đình họ Thạch chỉ có mỗi một mụn con gái nên Hạnh Hoa xuân suốt ngày chỉ hầu hạ Thạch tiểu thư. Thân phụ Thạch vào cung làm quan, đem theo cả quyến thuộc. Dĩ nhiên Hạnh Hoa Xuân cũng phải đi theo.

Về sau Thạch tiểu thư được gả cho một cậu công tử con một vị thượng thư họ Từ. Hạnh Hoa Xuân lúc đó cũng theo Thạch tiểu thư về nhà họ Từ hầu hạ, vẫn làm a hoàn như cũ bồi phòng.

Cậu công tử họ Từ làm quan đến chức thị lang thường gọi Từ thiết gia thấy Thạch tiểu thư nhan sắc xinh đẹp, hết lòng yêu thương cưng chiều. Nhưng lại cũng vì quá cưng chiều, Từ thiết gia biến thành anh chồng râu quặp, khúm núm e dè trước phu nhân không dám ho he lấy một tiếng.

Hồi đó, Hạnh Hoa Xuân tuổi đã mười lăm, hiểu biết chuyện đời rồi. Mắt nàng trong sáng như mặt nước hồ thu, má nàng như đôi trái đào chín, miệng nàng xinh như đoá anh đào đương độ xuân sang. Chỉ một cái cười của nàng, cũng đủ để cho hàng vạn người mê say đắm đuối, hồn phách bay bồng chín từng mây.

Tiểu chủ nhân của Hạnh Hoa Xuân là Thạch thị lang thấy nàng quá đẹp, có ý thèm muốn, nhưng phu nhân nhà ghen quá, nên chẳng dám bờm xơm công khai mà chỉ âm thầm tính cuộc lâu dài.

Tuy chỉ là một con a hoàn, nhưng Hạnh Hoa Xuân được bà chủ mẫu cưng chiều, lại tự thấy mình có cái nhan sắc hơn người, nên chỉ muốn cưới một người chồng vừa ý. Ông chủ trẻ dù có tán tỉnh bao nhiêu cũng mặc, nhất định không chịu.

Mãi về sau Thạch thị lang chịu không nổi nữa, đành phải quỳ gối trước mặt phu nhân, cầu xin cho phép lấy con a hoàn làm vợ bé. Bà phu nhân nghe nói nổi cơn thịnh nộ rồi đem Xuân cất giấu đi một nơi.

Hồi đó, có một bà phúc tấn tôn thất chơi rất thân với bà phu nhân Thạch thị lang. Bà phu nhân họ Thạch bèn đem Xuân gởi sang nhà bà phúc tấn tôn thất này. Chồng bà phúc tấn là bối lặc tôn thất lại chơi thân với Thôi tổng quản rất tâm đầu ý hợp. Ông được biết Thôi tổng quản lúc đó đang có sứ mạng tìm người đẹp Giang Nam cho hoàng đế. Bởi thế ông vừa thấy Xuân đã tấm tắc khen đẹp, vội chạy đến phỉ báo cho Thôi tổng quản hay.

Thôi tổng quản đến nhà bối lặc tôn thất xem mặt cũng phải ưng chịu tức thì. Thế là bà phúc tấn của ông bối lặc tôn thất lập tức đi mời bà phu nhân Thạch Thị lang tới để nói rõ câu chuyện. Thôi tổng quản xin đem hai vạn lạng bạc mua con a hoàn đưa vào cung. Bà phu nhân thị lang nghe thấy số tiền quá lớn, liền thuận ngay. Hơn nữa, bà cũng nghĩ cái thứ "đồ chua" này mà còn để trong nhà, thì thế nào chồng bà cũng tìm mọi cách để chiếm đoạt chi bằng đưa tắp vào cung là êm chuyện, sạch mắt, khỏi phải ghen tuông khó chịu gì nữa.

Trước hôm Hạnh Hoa Xuân vào cung, Thạch thị lang làm một bữa rượu để thết đãi. Xuân ngồi ghế nhất, rồi hai vợ chông quỳ lạy trước mặt, cầu xin khi ở trước vạn tuế gian nói tốt cho đôi điều. Quả nhiên, Xuân được hoàng đế hết sức sủng ái.

Hạnh Hoa Xuân cũng nói tốt nhiều lần cho Thạch thị lang trước mặt hoàng đế. Thạch thị lang nhờ đó thăng quan tiến chức vù vù, chưa đầy một năm đã leo lên đến chức chánh sứ tỉnh Hà Nam.

Hạnh Hoa Xuân tính hay cười, mà lúc cười thì nàng đẹp lắm. Miệng nàng chỉ hé cười là đủ để cho người ta thần hồn bay bổng, tâm như mê, lòng như cuồng rồi.

Bởi thế, Hàm Phong hoàng đế giữa lúc giận tức đến đâu, mà thấy nàng cười một tiếng, là ngài hết giận làm lành ngay.

Hàm Phong hoàng đế tính vốn hay rượu, rượu say rồi thường cáu giận. Lúc đã cáu giận thì ít ra cũng có một vài tên thái giám hoặc cung nữ bị hại, nhẹ thì roi đánh gậy quật, nặng thì bị giết tức thì. Khi tỉnh lại, ngài hối hận quá đỗi, nhưng việc đã rồi, chỉ còn biết lấy hàng ngàn lạc bạc phủ tuất kẻ bị hại mà thôi. Đặc biệt không bị hoàng đế khiển trách hoạ chỉ có Hạnh Hoa Xuân. Mỗi lần ngài nổi giận, nếu được Hạnh Hoa Xuân cười lên một tiếng, rồi lăn vào lòng ngài, thì sự giận tức có lớn đến đâu chăng nữa cũng xẹp ngay. Mặt ngài tươi tỉnh hẳn lên, lòng ngài như quên hết mọi chuyện đã qua, vội giơ tay kéo sát nàng vào mình, thì thầm:

- Thật là viên ngọc như ý của trẫm đây.

Cũng vì vậy nên có bà phi cô tần nào lỡ chọc giận hoàng đế, thì phải chạy ngay tới Hạnh Hoa Xuân cầu cứu. Lúc đó, lỗi có lớn đến đâu chăng nữa, hoàng đế cũng gật đầu bỏ qua.

Toàn thể bà con trong cung nội mới tặng nàng cái biệt hiệu là Hoan Hỉ phật, cũng còn gọi là Lưu Hải Hỉ.

Hạnh Hoa Xuân cũng là người tốt, đối đãi với bọn cung nữ thật tử tế, hoà thuận. Nhưng nàng có một tính xấu là rất thích tiền. Trong phòng nàng đặt một cái rương lớn. Hễ được hoàng thượng thưởng tứ vật gì là nàng bỏ ngay vào đó.

Nói đến tiên với nàng thì đừng hòng lấy được một xu, một đồng nào. Dù cho kẻ đó có lừa, có bịp, có doạ, có nạt nàng nhất định cũng liều chết với rương tiền, không xuất ra một xu. Hàm Phong hoàng đế biết nàng có tính này nên thường tứ cho nàng rất đặc biệt. Do đó, nàng để riêng ra được rất nhiều tiền của châu ngọc. Nàng giầu, nên rất sợ bạn hữu vay mượn. Nàng ra ngoài thường giả bộ than nghèo kêu túng để chẳng ai vay mượn hoặc xin xỏ mình.

Suốt ngày ở trong cung, nàng chỉ nghĩ cách làm tiền. Nàng ỷ vào cái thế hoàng đế sủng ái, có bà phi, cô tần nào bị ngài nổi giận khiển trách, trừng phạt, chạy tới cầu cứu thì nàng chìa tay ra đòi tiền, một lần mở mồm là ít ra cũng năm trăm hoặc một ngàn lạng, thiếu một đồng cũng không được. Số tiền như thế kể ra quá lớn, nhưng vì tính mạng bà nào, cô nào cũng phải gật đầu cả. Việc nguy cấp đến đâu, mà tiền không có hay không đủ số là nàng mặc kệ, nhất định không giúp. Lúc đó, ai có việc mà thực sự không có tiền buộc phải viết một văn tự nợ thì mới có hy vọng nàng đi giùm. Văn tự nợ đến kỳ hẹn là nhất định phải thanh toán, không thể khất lần được, dù chỉ chậm một ngày hoặc thiếu một đồng; nhất định phải đủ số và đúng hẹn, nàng mới chịu và mới hy vọng được nàng cứu giúp lần thứ hai. Ấy cũng vì cái tính ham tiền mà nàng bị hầu hết bọn phi tần oán giận.

Mẫu Đơn Xuân tính gian xảo điêu ngoa, khác hẳn Hạnh Hoa Xuân. Nàng thấy Hạnh Hoa Xuân như vậy, bèn nghĩ ra một kế để chơi cho biết mặt. Nàng biết Hạnh Hoa Xuân rất thích đánh bạc, bèn mưu tinh với mấy tay bài bịp lừa Hạnh Hoa Xuân, để cho được lúc đầu rồi mới dốc túi vào phút chót. Quả nhiên, Hạnh Hoa Xuân thoạt vào đầu ăn luôn một hơi năm bảy bàn, tiền vào như nước. Nàng thích lắm, lúc nào cũng chỉ muốn gầy sòng, ngoài nhưng lúc bận hầu tiếp quân vương ra, đều có mặt tại sòng bạc, rủ rê hết người này tới, người kia nhập cuộc. Nàng đã trúng kế Mẫu Đơn Xuân.

Ngày một ngày hai nàng thua, thua mãi, lúc đầu ít còn muốn lấy tiền trong rương ra trả, nhưng về sau thua nhiều quá, mỗi lần ít ra cũng vài ngàn lượng, nàng xót của thương tiền, quyết không xuất trả nữa. Nàng khất lần, hết hạn này đến hạn kia. Khi đến hẹn nàng lại thối thác lý do này, nguyên uỷ nọ để trì hoãn tiếp.

Một hôm, Hàm Phong hoàng đế đi bách bộ trong vườn, lững thững bước từ Tầm Vân tạ đến Di Lan đình… Ngài bỗng nghe tiếng nói xôn xao, quát tháo, rồi tiếng đàn bà quát mắng đánh đấm nhau túi bụi.

Ngài nhón bước, lẹ ra trước đình và thấy trên bãi cỏ một đám cung nữ đứng thành vòng tròn, bên trong có hai nàng phi mặc quần áo Hán đang ôm nhau vật lộn cấu xé, đánh tát nhau túi bụi.

Nhìn kỹ hơn, ngài thấy một nàng người mảnh mai bị một nàng khác to béo đè lên trên, đôi chân nhỏ xinh đang đạp giãy lung tung để cố thoát trong khi đó nàng vóc to béo thì chiếc quần hoa thạch lựu lấm bết trong vũng bùn nước ướt nhẹp.

Hàm Phong hoàng đế thấy hai người giằng xé kéo co, cũng phải phì cười. Ngài rẽ đám cung nữ bước vào đích thân kéo cả hai nàng dậy. Cả hai người đều đứng im cúi đầu lặng thinh, nhưng tay vẫn nắm chặt lấy tóc nhau, không chịu buông ra.

Nhìn kỹ Hàm Phong hoàng đế mới biết một người là Hạnh Hoa Xuân, còn người kia thì Mẫu Đơn Xuân. Hai bên cung nữ lúc đó mới đồng thanh hô lên một tiếng:

- Vạn tuế gia tới đó! Không buông tay ra nữa sao?

Lúc đó hai nàng phi nọ mới chịu buông tay, đầu tóc rũ rượi, hơi thở hồng hộc, mặt mày xám ngoét.

Hoàng đế hỏi chuyện, Mẫu Đơn Xuân vừa thở vừa tâu:

- Hạnh Hoa Xuân đánh bạc thua, không muốn trả tiền!

Hoàng đế hỏi Hạnh Hoa Xuân thua bao nhiêu thì nàng tâu:

- Thua hết cả thảy là hơn sáu ngàn lạng bạc.

Hàm Phong hoàng đế nghe xong, bỗng phì cười bảo:

- Trẫm trả cho nhé. Đừng gây lộn nữa. Mau về hầu rượu cho trẫm đi.

Mẫu Đơn Xuân nghe hoàng đế nói vậy, chưa nén được cơn tức, hất hàm bĩu môi nói:

- Chỉ mình Hạnh Hoa Xuân được Phật gia sủng ái mà thôi. Phật gia thế nàng trả nợ một lúc luôn sáu ngàn lạng. Bọn thiếp quả thực không thể nào hiểu nổi. Chả trách đã lâu lắm ngài chẳng có thưởng tứ một chút gì cho bọn thiếp.

Hàm Phong hoàng đế thấy Mẫu Đơn Xuân có vẻ hờn dỗi, bất giác cười lên sằng sặc, bảo nàng:

- Trẫm thưởng! Trẫm thưởng cho nàng mà! Cũng thương cho sáu ngàn lạng được không?

Bọn phi tần đứng cạnh thấy hoàng đế ban thưởng, cũng nghĩ ngay đến mình, đều nhất tề tiến lên xin thưởng. Thế là hoàng đế phải thưởng hết tất cả, mỗi một cung nữ ngài thưởng ba trăm lạng.

Lời ban thưởng vừa chấm dứt, thì một loạt tiếng ca tụng ơn đức của hoàng đế vang lên:

- Đa tạ vạn tuế gia ân thưởng.

Hàm Phong hoàng đế được ca tụng, lòng vui sướng khoan khoái Ngài đi giữa, một tay ôm lấy vai Hạnh Hoa Xuân, một tay ôm lấy vai Mẫu Đơn Xuân, theo sau là cả một đoàn dài cung nữ phi tần, kéo thẳng tới gian chính thất mở tiệc vui say chè chén.

Đêm đó, Mẫu Đơn Xuân cùng với Hạnh Hoa Xuân, cả hai người đều được triệu vào lâm hạnh. Từ đó về sau, Hạnh Hoa Xuân khởi đầu hẳn một cái lệ là hễ mình thua bạc thi hoàng đế phải trả. Bọn phi tần cung nữ thấy vậy, bèn hùa nhau thông đồng để móc túi Hạnh Hoa Xuân, kỳ thực là móc túi Hàm Phong hoàng đế.

Ít lâu sau, Hạnh Hoa Xuân dành dụm riêng tây được một số khá lớn, lên tới mười vạn lạng bạc. Nàng lén gọi thái giám đưa ra khỏi cung, giao lại cho chủ mẫu, bà bố chánh sứ họ Thạch, để giúp nàng cho vay lấy lãi. Lãi càng ngày càng nhiều vốn càng ngày càng to, lúc đó, Hạnh Hoa Xuân lại sợ bà chủ mẫu manh tâm cướp mất của mình, nên lại bảo tên thái giám tới nhà bà chủ mẫu xin cho một mảnh giấy làm bằng cớ.

Bà bố chánh sứ nghe nói, tức giận sôi lên, lập tức đem số tiền trả vào cung. Hạnh Hoa Xuân sợ quá, tình nguyện đem một vạn lạng bạc biếu kính bà chủ mẫu nhưng bà không chịu nhận. Hạnh Hoa Xuân không còn cách gì khác, nên trước mặt hoàng đế, nàng xin cho người con trai bà chủ mẫu một chức nhỏ "tiểu kinh quan" gọi là để đền ơn.

Về sau, khi bọn ngoại quốc Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Áo, Nga, kéo vào đánh phá Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu phải dắt vua chạy ra Tây An thì Tây Thái hậu nhân dịp loạn lạc này sai thái giám đem Hạnh Hoa Xuân ra thắt cổ chết, cướp sạch tiền nong mà nàng đã tích cóp được từ bao năm.

Hồi 122

NGƯỜI ĐẸP ĐÀ LA XUÂN

Trong cung Thanh thời Hàm Phong hoàng đế có bốn cái Xuân: Xuân Hạnh Hoa là một ta đã kể ở hồi trước. Nay đến Xuân thứ chót tức đến cái Xuân Đà La. Lúc mới vào cung, Đà La Xuân có một hoàn cảnh thật là bi đát.

Hàm Phong hoàng đế sau khi ôm được ba người đẹp trong tay Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân, Hải Đường Xuân, còn muốn thêm một cái Xuân nữa để cho đủ bộ tứ Xuân.

Một hôm, hoàng đế cải trang thành một khách thương vi hành ra ngoài cửa Tuyên Võ đạo chơi. Khi bước lên cầu Kim Toả ngài nhìn thấy một cô gái ôm giỏ quần áo vừa giặt từ chân cầu đi lên một ngôi nhà cao và tối om như mực. Ngài ngồi đợi bên ngoài, mong người đẹp trở ra, nhưng không thấy.

Ngài đành về hôm đó và dặn bảo Thôi tổng quản đem vài tên thị vệ đến nhà cô gái điều tra, Thôi tổng quản vâng chỉ chuẩn bị sẵn sàng.

Qua ngày hôm sau, bọn Tổng quản tới cầu Kim Toả, trước hết cho bọn thị vệ đi dò la các nhà chung quanh, mới biết gia đình nhà này họ Lý, chỉ có hai mẹ con. Người mẹ goá, cô con gái mới mười bảy tuổi.

Dò biết được như vậy. Thôi tổng quản cho rằng nhà chỉ có đàn bà thì dễ bắt nạt bèn vào tiệm vàng mua một ngàn lạng bạc đựng trong bốn cái quả sơn son thiếp vàng, bảo bốn tên thị vệ bưng theo.

Thôi tổng quản đi trước, đấy cửa bước vào, cho đặt bốn cái quả vàng giữa nhà trên, nói rõ ý mình. Bà quả phụ họ Lý nghe đoạn, tức thì nói:

- Con gái tôi đã gả chồng rồi! Mà nếu chưa gả chồng đi nữa, nó cũng chẳng muốn chết già trong thâm cung đó đâu. Ông đem tiền của ông đi đi. Dù có phải là nhà vua đi chăng nữa thì cũng phải có lý, có lẽ mới được, chứ không thể cương bức con gái nhà lương gia làm những việc hạ tiện như thế này. Thôi ông đi đi! Nếu không, tôi sẽ tới tố cáo ngay tại nha môn quan đề đốc bây giờ!

Thôi tổng quản nghe xong, bất giác cả giận, nói:

- Mụ chỉ là một người đàn bà, liệu con gái mụ có thể thoát khỏi được tay vạn tuế gia được không? Được! Ta sẽ đi ngay. Nhưng ta hẹn cho mụ mười giờ nữa, mụ sẽ thấy gia đình nhà mụ nhà tan người mất cho xem.

Bà goá phụ họ Lý tính còn nói nữa, nhưng cô gái chạy vội ra kéo bà vào trong.

Đợi khi Thổi tổng quản đã đi rồi, lúc đó cô gái mới bảo mẹ:

- Con nghe nói đương kim hoàng đế thuộc loại quỷ đói sắc, bọn cường đồ này tạm thời vào cung, nhất định sẽ trở lại. Nếu con không trốn ngay thì thế nào cũng bị độc thủ của chúng. Chi bằng con hãy tạm lánh trong nhà bà dì con lúc này đã.

Thế là bà goá phụ họ Lý vội đưa con đi giấu tại nhà bà dì.

Trời gần tối, Thôi tổng quản đem theo hơn chục tên thị vệ, hùng hổ xông vào cửa trước, tính để cướp cô gái.

Nhưng xông vào lục lọi một lúc chẳng thấy cô gái đâu, bọn chúng nắm lấy bà goá phụ, kéo xềnh xệch lôi ra ngoài phố.

Chỉ trong nháy mắt, khắp kinh thành đồn rầm lên. Cô gái nghe tin, định xông ra để cứu mẹ, nhưng bà dì ngăn cản bảo:

- Cháu xông ra lúc này, chính là tự nhảy vào lưới đó Chúng bắt mẹ cháu, chi là để doạ mà thôi. Theo ý dì, nhân cơ hội này, cháu nên tìm thằng chồng sắp cưới mà lấy tắp ngay đi. Cưới xong, hai vợ chồng cháu đưa nhau tới cầu khẩn tại nha quan thống lĩnh. Lão gia thấy đũa đã có đôi, gái đã có chồng rồi thì thôi chứ còn gì. Đương kim hoàng đế hẳn cũng chẳng nỡ chia uyên rẽ thuý vợ chồng cháu đâu mà ngại.

Đến lúc quá khẩn bách này, cô gái không còn tự chủ được nữa, vội nhờ bà dì tìm mụ mối tới nhà bà gia nói chuyện.

Nhưng không may cho nàng là anh chàng rể đã đi miền nam từ hai năm trước chưa về, còn đang sống trong vùng giặc giã chẳng biết sống chết ra sao.

Cô con gái được tin này oà lên khóc nức nở, vừa khóc cho số phận mình vừa khóc cho số kiếp của người yêu. Khóc một lúc lâu, vào lúc đêm khuya, tứ bề vắng lặng, nàng cởi sợi dây lưng treo cổ lên xà nhà tự vẫn.

Bà dì biết được, vội chạy vào phòng đỡ nàng xuống, cứu sống lại. Bà chỉ lo cho án mạng lại xảy ra, bọn người trong cung đến đòi người, chắc sẽ gây ra nhiều lôi thôi nguy hiểm nên bà khuyên nàng tới am sư nữ cắt tóc đi tu là hơn. Cô gái nghe lời, sửa soạn ra đi. Thân mẫu Lý tiểu thư vốn có một bà ni cô quen biết tên gọi Nguyệt Chân. Ni cô này trụ trì am Bạch Y trên núi Tây Sơn. Bởi thế, Lý tiểu thư lẻn trốn tới am này đầu phật.

Ni cô Nguyệt Chân hỏi ra mới ì biết bà Lý đã bị bọn cường đạo trong cung bắt và hoàng đế còn định bắt nàng vào cung. Bà nghe xong vừa thương vừa sợ, vội khuyên Lý tiểu thư thôi khóc, kẻo lộ hành tung ra ngoài:

- Theo ý của Lý tiểu thư thì nàng muôn xuống tóc làm ni cô ngay.

Nhưng Nguyệt Chân khuyên can, bảo:

- Cháu đã vào chùa thì bọn quan binh kia chẳng dám vào đây tra xét đâu. Hơn nữa thằng chồng sắp cưới của cháu hiện nay chưa biết sống chết ra sao. Nếu cháu xuống tóc quy y mà nay mai chồng cháu trở về liệu ni này ăn nói thế nào. Nay cháu tới nương cửa phật để tránh khỏi tai nạn, cháu có thể tu hành mà vẫn để tóc được. Đợi khi nào mẹ cháu được thả ra, chồng cháu được trở về, lúc đó ta sẽ cùng nhau bàn tính. Nếu mọi người khuyên cháu xuống tóc thì xuống, nếu không thì thôi, chứ lão ni này quả không muốn nhúng tay vào việc đó.

Lý tiểu thư đành nghe lời khuyên của ni cô tạm thời để tóc tu hành, sớm đánh chuông chiều đánh trống, lúc mõ lúc chiêng, dưa muối qua ngày nơi am thanh cảnh vắng của nhà thiền.

Bọn quan nha đi tìm kiếm Lý tiểu thư khắp kinh thành, đâu có chịu ngừng tay. Đánh hơi được tin nàng trốn tránh ở tại nhà bà dì, thế là chúng xông tới lục soát. Không thấy bóng Lý tiểu thư đâu, chúng bắt luôn bà dì đưa vào ngục giam lại, ngày ngày tra khảo.

Đáng thương cho bà Lý, tuổi đã già lại bị đói khát uất ức, đánh đập, tra tấn trong nhà lao, nên chẳng được bao ngày, bà chết luôn.

Bọn quan nha biết bà Lý không còn ai là thân nhân, cấp cho một cỗ quan tài gỗ tạp, khâm liệm qua quýt rồi đem chôn dưới một nấm mồ ngoài đồng hoang vắng. Còn bà dì nọ, nhờ được ông chồng bỏ ra ít tiền chạy chọt đút lót, mãi chúng mới thả ra.

Lý tiểu thư trốn trong chùa tuyệt nhiên không biết một tí gì xảy ra ở bên ngoài. Mãi đến khi bà dì nọ được thả ra đến cho hay tin, nàng mới oà lên khóc, đến chết đi sống lại nhiều phen. Miệng nàng kêu gào đòi cùng chết để theo mẹ.

Suốt ngày đêm nàng khóc, chỉ thiếp đi khi đã kiệt sức. Vì thấy nàng đã đến lúc liều, các sư sãi trong chùa phải ngày đêm đề phòng.

Lý tiểu thư thấy khó tìm được cái chết nơi đây nên bèn nghi ra một cách. Nàng nói với Ni Nguyệt Chân rằng mình đã đau khổ đến cùng cực rồi ni cô nên cho nàng xuống tóc quy y.

Ni Nguyệt Chân thấy lòng nàng đã thành, liền bằng lòng chọn ngày tốt thế phát cho nàng.

Đến ngày hôm đó, trên Phật đài hương hoa đèn nến sáng choang, Lý tiểu thư quy y trước toà sen, có hai vị sư ni niên trưởng hai bên, thả tóc nàng xoã xuống thành hai lọn buông thõng xuống hai bên vai, dài mãi tận mặt đất. Ni Nguyệt Chân bước tới trước Phật đài đọc một quyển kinh xong, thì hai sư ni đứng hai bên cầm kéo hót lẹ, tóc rơi rụng xuống đất. Đến lúc này, Lý tiểu thư lệ tuôn rơi tầm tã, mình khoác lên tấm áo cà sa, tay cầm một chuỗi hột mầu ni, chân đạp đất.

Thật đáng thương một đoá hoa nghiêng nước mà phải chịu cái cảnh nâu sồng dưa muối nơi am thanh cảnh vắng, sớm hôm sầu tủi lặng lẽ bên cạnh đám sư nữ.

Đứng trước cảnh tình ấy, ai chẳng động lòng thương xót. Nào ngờ số kiếp nàng còn nặng nợ, vận hạn vẫn chưa lui.

Thế là một hôm nọ, mười mấy tên thái giám bỗng xông vào chùa, quát bọn nữ ni phải ra hết để đón giá.

Ni Nguyệt Chân vội đem cả bọn sư nữ ra lom khom quỳ trên mặt đất. Đột nhiên một đoàn xe tứ mã cao mui rầm rập đi vào, quả nhiên Hàm Phong hoàng đế tới chùa thật.

Bọn nữ ni đồng thanh hô: "Phật gia vạn tuế, vạn vạn tuế!"

Hoàng đế đi thẳng vào nội điện, lễ Phật xong ngồi trên sập, cho gọi khắp lượt bọn ni cô ra bái yết. Một tên thái giám truyền chỉ vào phía trong, bảo phải tới đủ, không được thiêu một ai, nếu dối trá thì chỉ trong chốc lát am Bạch Y này lập tức sẽ ra tro. Ni Nguyệt Chân không biết làm sao đành quỳ xuống tâu lên:

- Trong thuở bần ni còn có một tên đồ đệ mới tới, tuổi tre e lệ, chưa rành lễ phép, sợ rằng xúc phạm đến thánh giá.

Hoàng đế truyền chỉ xuống bảo phải gọi người đồ đệ đó ra ngay, sẽ tha thứ cho tội thất lễ. Lý tiểu thư lúc đó trốn ở sau điện, nghe rõ cả mọi chuyện, nghĩ bụng mạng mình nguy rồi, chi bằng nhân lúc này tự tận cho xong nghĩ vậy, nàng nhác thấy một con dao bầu để trên bàn, liền cầm lấy đâm vào cổ. Nhưng nàng không ngờ trong lúc nguy cấp đó, ba bốn tên thái giám từ phía sau phóng tới chụp lấy con dao nọ, rồi chẳng cần hỏi tra gì, hai đứa xốc nách nàng, hai đứa đẩy đằng sau, vừa kéo vừa xô ra phía trước điện.

Lý tiểu thư tuy tóc đã cắt, nhưng làm sao che được cái mặt tươi như hoa, cặp mày ngài cong vút, cái cổ trắng nõn, tấm thân tròn trịa mịn màng như ngọc như ngà, thật chẳng giảm hơn lúc ngồi giặt tại đầu cầu Kim Toả bao nhiêu:

Hàm Phong hoàng đế nhìn kỹ người nàng, không khỏi lòng mừng như mở cờ, miệng cười toe ra như ống loa, tha thiết nói:

- Người đẹp, người đẹp! Thật là mòn gót mới tìm ra, vất vả cũng bõ công phu! Thôi, nàng hãy về cung với trẫm hưởng phú quý

Lý tiểu thư quỳ phía trước, chỉ khóc, nước mắt chảy đầm đìa trên mả, không nói ra được lời nào. Hoàng đế thấy nàng quả đáng thương, lại bị xúc động bơi cái sắc mê hồn; thế là ngài bước xuống, lấy ống tay áo mình lau lệ cho nàng. Ngài đem lời an ủi:

- Trẫm và nàng kiếp trước có duyên nợ cùng nhau. Từ hôm gặp nàng ở cầu Kim Toả, lòng trẫm nhớ nhung chẳng khuây, mộng mị đã nhiều ngày. Nay trẫm tới đây đón nàng, thực không phải để ép buộc nàng phải hiến thân cho trẫm, mà thực chỉ cầu mong nàng thương trẫm với một tấm tình si mê chiều quý. Thôi nàng hãy về cùng trẫm đi, để cho trẫm ngày ngày chỉ cần nhìn nhan sắc của nàng cũng đã đủ thoả nguyện rồi. Nếu nàng quyết chí tu hành, trẫm sẽ không dám cưỡng. Nhưng chốn am thanh cảnh vắng này quá chật hẹp, quá tầm thường, đâu có phải là chỗ nàng ở được. Trong vườn Viên Minh của trẫm, Phật điện có thiếu gì. Nàng cứ vào vườn và muốn tu tại nơi đâu thì tu. Trẫm còn cho mấy con cung nữ tới hầu hạ là đằng khác. Trẫm xin thề rằng tuyệt không cưỡng bức nàng điều gì.

Lời nói của Hàm Phong hoàng đế vừa ngọt ngào lại vừa ôn tồn. Bọn thái giám chưa từng được nghe những lời lẽ êm dịu như vậy bao giờ. Bởi thế chúng lấy làm lạ vô cùng.

Sau đó, hoàng đế quay hỏi vọng ra ngoài:

- Xe rước mỹ nhân đã sửa soạn xong chưa?

Phía ngoài có tiếng đồng thanh đáp:

- Dạ! Đã xong!

Thế là hoàng đế hạ lệnh cho đỡ người đẹp của ngài ra xe, Lý tiểu thư thấy bọn thái giám đến đỡ nàng vội chạy tới trước mặt ni cô Nguyệt Chân rồi lăn vào lòng bà. Nhưng đến lúc này thử hỏi Nguyệt Chân còn có cách gì để che chở cho nàng được nữa? Bà chỉ còn thiết tha căn dặn mọi điều rồi ghé tai thì thầm bảo rằng:

- Vào cung, tiểu thư không nên quật cường ngang ngạnh làm chi, mà có cũng chẳng được đâu. Lỡ hoàng thượng nổi giận thì mất mạng đó. Nay hoàng thượng đã vui lòng cho nhập cung, ta xem ra ông cũng biết thương số phận người con gái lắm đấy. Miễn làm sao tiểu thư đừng có thất chí, thì ngài cũng chẳng nỡ bắt ép gì đâu.

Lý tiểu thư nghe lời Nguyệt Chân, quyết định một chủ ý tức là chết mà thôi. Thế rồi nàng để mặc cho bọn thái giám đưa đi…

Hồi 123

LAN NHI, CÔ GÁI MÃN TÀI HOA

Từ khi Lý tiểu thư vào vườn Viên Minh, Hàm Phong hoàng đế dặn bảo cung nhân để nàng ở trong chùa Tây Sơn phật tự. Ngài lại sai tám con cung nữ tuổi còn trẻ măng tới hầu hạ nàng.

Lý tiểu thư ngụ tại chùa này theo đúng nghi lễ của nhà chùa nào ăn chay trường, nào lễ phật hằng ngày.

Hàm Phong hoàng đế dù có những đoá hoa nghiêng nước như Mẫu Đơn Xuân, Hạnh Hoa Xuân với cả một bọn mỹ nữ cung tần xinh như mộng, đẹp như tranh vẽ nhưng lâu ngày vẫn khiến ngài buồn chán. Trong cung cấm, cánh sen tuy có đến ba ngàn, nhưng có cánh nào mà xinh mà đẹp, mà tình được như tiểu thư họ Lý đâu! Lý tiểu thư quả thật xứng đáng là một loại hoa trong muôn hoa một loại hương trong muôn hương, tuyệt thế vô song, không ai dám so bì.

Hàm Phong hoàng đế nhớ tới nàng tiểu thư họ Lý, nhớ người đẹp chim sa cá lặn mà những ngẩn ngơ lòng! Ngài lẻn bước ra đi, lần tìm về ngả chùa Tây Sơn để gặp người đẹp.

Lý tiểu thư vội ra cổng tam quan rước hoàng đế vào chùa, rồi nàng quỳ trước phật đài tụng hết cuốn này tới cuốn khác, mặc kệ bọn cung nhân hầu hạ hoàng đế. Nàng đợi khi hoàng đế gọi nàng, lúc đó mới chạy tới trước mặt ngài, lom khom quỳ lạy, mãi mà không chịu cất đầu lên.

Hàm Phong hoàng đế trong lòng nóng như lửa đốt không chịu nổi nữa bèn đưa tay kéo nàng đứng dậy. Nhưng ngài chỉ thấy nàng khóc lóc thê thảm, giọng nói:

- Vạn tuế hứa với tiện thiếp là cho vào cung tu hành. Vậy thánh chỉ của hoàng đế tưởng rằng cũng phải được chú ý tới lắm mới phải.

Hàm Phong hoàng đế bị nàng hạ một câu đó tắc ngay cổ, miệng không còn cách gì nói thêm, đành chỉ ngồi im mà thôi. Người đẹp ở ngay trước mặt, thế mà ngài không có cách gì cướp vào tay mình được, thử hỏi nỗi buồn của ngài đến độ nào!

Về sau, ngài thưởng cho người đẹp cái danh hiệu Đà La Xuân, và thường đến trò chuyện với nàng. Đà La Xuân thấy hoàng đế không có ý bức bách mình nên từ đó cũng không tỏ vẻ lãnh đạm như trước. Nàng đem chuyện mẹ nàng bị quan phủ dùng cực hình khảo đả đã đến nỗi phải bỏ mạng và cầu xin ngài trị tội viên quan phủ.

Hàm Phong hoàng đế y theo lời cầu xin của nàng, hạ dụ xuống. Lại bộ cách tuột chức viên quan phủ, đày đi mãi sang Ninh Cổ tháp sung quân.

Đà La Xuân thấy thù đã trả, lòng buồn từ đó cũng khuây dần. Nhưng cứ mỗi lần hoàng đế triệu hạnh là mỗi lần nàng cự tuyệt thà chết chứ không chịu. Đã có khi nàng cầm đao, tuốt kiếm định tự tử.

Trước tình cảnh đó, Hàm Phong hoàng đế đành khoanh tay chịu, chỉ còn cách gác lại chuyên này.

Hồi đó ai cũng biết Hàm Phong hoàng đế khoái gái nhỏ chân. Bởi thế bọn đại thần muốn lấy long ngài bèn cho người đi về vùng Dương Châu, Tô Châu, Hàng Châu, tìm không biết bao nhiêu cô gái nhỏ chân, có loại xinh như măng dòng, có loại đẹp như Hồng Lăng. Cô nào cô nấy đều mặc quần cao ống để cho lộ hẳn đôi chân nhỏ và xinh của mình cho ngài ngắm. Khắp vườn Viên Minh lúc đó người ta chỉ thấy những dâu chân nho nhô xinh xinh in khắp các lối đi.

Các cô đều đua nhau đi giầy, loại nào cũng đẹp, cũng thêu tuyệt kỹ cả, có đôi dùng chỉ xanh và đỏ để thêu những đoá hoa tươi sặc sỡ trên gấm; có đôi gắn những chiếc nhạc vàng nhỏ xíu kêu rốn rảng, lại có cả những đôi được rút ruột phía dưới đặng để đổ vào trong một lớp phấn hương, nên lúc đi cứ mỗi bước là mỗi lần tung phấn ra và mùi lương xông lên ngào ngạt.

Hàm Phong hoàng đế càng ngắm càng mê, vừa mê về chân lại mê cả sắc lạc cả hồn phách. Ngài như đã bay bổng mãi từng mây nào rồi, chỉ khổ một điều là quy củ lệ luật trong cung Thanh hồi đó, cứ hễ gái nhỏ chân mà bước vào cung thì phải chặt đầu.

Về sau nhờ Mục tổng quản nghĩ ra một giải pháp là tung tin ra ngoài, nói bọn thái giám trong cung không đủ để sai bảo, nên phải mướn đàn bà con gái người Hán để vào phụ giúp.

Tin này truyền ra, đám phụ nữ con nhà nghèo khó liền kéo vào cung làm mướn. Do đó trong cung đưa ra hai điều kiện:

Một: Còn nhỏ tuổi.

Hai: Chân nhỏ

Ngoài ra còn chọn những cô da trắng tóc dài, mặt mũi xinh đẹp để đưa và canh gác chung quanh tẩm cung của hoàng đế Bọn gái nhỏ chân này cứ đến đêm khuya lại bị hoàng đế gọi vào lâm hạnh hết cô này đến cô khác, có đêm tới ba cô liền. Sau khi lâm hạnh, hoàng đế đều tặng thưởng cho hết, nào vàng bạc, nào ngọc ngà. Ngài còn chọn trong số đó, cô nào đẹp, xinh, duyên dáng nhất thì giữ lại, rồi phong cho làm cung tần. Chẳng đầy nửa năm bọn gái Hán được phong cung tần ở đầy nghẹt cả vườn hoa, hoàng đế ở trong vườn có không biết bao gái đẹp hầu hạ sung sướng quá không muốn về cung nữa.

Chiếu theo lệ luật của cung nội thì mỗi năm hoàng đế chỉ ở trong vườn Viên Minh độ ba, bốn tháng gọi là "nghỉ mát" để tránh cái nóng của mùa hè. Đến tháng tám, sau ngày đi săn ở Mộc Lan thì ngài trở về cung.

Song năm nay, Hàm Phong hoàng đế ở luôn một mạch, tới tháng mười cũng chưa thèm trở về cung. Đến khi bà Hiếu Trinh hoàng hậu khẩn khoản tới đôi ba lần, ngài mới bất đắc dĩ trở về. Nhưng trong ba, bốn chục ngày ở lại cung đó, ngài làm sao quên được đám gái đẹp mơn mởn kia đang sẵn sàng chờ ngài đến? Nhiều lúc ngài đâm ra nhớ nhung, tương tư, ngẩn ngơ đến tức cười.

Chỉ vì Hàm Phong hoàng đế khoái bọn gái Hán chân nhỏ nên bọn này đâm ra lên mặt gớm! Trong đám được cưng chiều nhất phải kể Hạnh Hoa Xuân, Mẫu Đơn Xuân. Hai nàng Xuân này tác oai tác phúc quá xá trong vườn Viên Minh. Bọn phi tần người Mãn có ý ngán, đều phải tới phụng thừa hầu hạ nịnh nọt. Thật đáng thương cho chúng đều là những cô tú nữ được hoàng đế chọn vào cung, chỉ mong một ngày nào đó được ngài sủng ái thì gia đình thân tộc cũng được thơm lây.

Ngờ đâu hoàng đế say mê gái Giang Nam chân nhỏ ném tất cả bọn chúng ra phía sau, khiến nhà cửa tiêu điều, buồng the vắng lặng. Bọn chúng không còn cách gì khác, đành phải tới gõ cửa mấy nàng Xuân để may ra có nhờ vả được gì chăng? Trong đám tú nữ mới được đưa vào cung có một cô gái Mãn tên gọi Lan Nhi, tuổi vừa độ chanh cốm đang thì. Đã trẻ lại đẹp, đã tình lại duyên dáng nàng còn thông minh, tài ba nữa.

Từ khi vào vườn Viên Minh, nàng cũng chịu cái cảnh lạnh lùng đơn chiếc như bao nhiêu chị em khác trong một ngôi nhà nhỏ, dưới bóng cây cao rậm, làm bạn với cỏ hoa.

Giữa cảnh nhà hoang vắng âm thầm, nàng chỉ nghe văng vẳng xa đưa những tiếng đàn giọng sáo, những tiếng nói cười say sưa ngả nghiêng bên tiệc rượu từ những ngôi nhà cao, những lầu son gác tía lộng lẫy đâu kia! Nàng hỏi ra mới biết đó là những yến tiệc náo nhiệt của hoàng đế đang mải miết say sưa bên đám gái Hán. Nghe như vậy, nàng chỉ còn biết thở dài đóng cửa, cài kín buồng the, mài miệt trong sách vở thi hoạ, để quên đi ngày tháng.

Chẳng mấy ngày Lan Nhi đã viết, đã hoạ được vô số tác phẩm, đều vào hàng tuyệt bút. Lan Nhi quả là một cô gái thông minh tuyệt thế. Rồi đây, nàng sẽ làm những chuyện động trời, nàng sẽ gây sóng gió cho dòng lịch sử Trung Hoa.

Ngay cả đến cái triều đình nhà Thanh dài lâu hàng ba, bốn trăm năm kia, cũng do một tay nàng điều khiển. Đấy là những trang lịch sử tân kỳ mà chúng ta sẽ lần lượt đọc thấy ở sau.

Ta hãy kể lược lại mảnh đời của Lan Nhi khi còn hàn vi, chưa có được phút huy hoàng oanh liệt của mai này.

Hồi 124

TỪ HI THÁI HẬU

Lan Nhi chính là nhũ danh của Từ Hi thái hậu sau này, một người đàn bà đã làm rạng danh giới phụ nữ trong chế độ quân chủ và cũng là một bà hậu đã đưa nhà Mãn Thanh đến giai đoạn kết cục.

Từ một cô gái nhà nghèo, nghèo đến mức không đủ bát ăn, Lan Nhi đã nhảy vọt lên tới địa vị của một bà phi, rồi địa vị của một bà thái hậu nắm trong tay vận mệnh của cả đất nước, cả dân tộc Trung Hoa một thời.

Đạt tới địa vị cao cả và vinh diệu như vậy, Lan Nhi hẳn phải có sắc có tài lắm. Tài sắc của Lan Nhi như thế nào?

Nguyên Lan Nhi là một cô gái dòng họ Na Lạp vốn người Mãn Châu thuộc đội Chánh Hoàng kỳ. Tổ tiên của nàng thuộc bộ lạc Diệp Hách. Hiếu trang hoàng hậu của vua Thái Tông trước đây cũng họ Na Lạp. Gia đình môn hộ của Lan Nhi phải kể là khá giả có tiếng tăm. Lan Nhi chính là tên tục của nàng, do cha mẹ đặt cho từ hồi nhỏ, cha nàng tên gọi Huệ Trưng. Dòng họ Na Lạp truyền tới Huệ Trưng thì đã quá suy vì nghèo khố.

May được ông nội trước có công lớn với triều đình, do đó, Huệ Trưng mới được nhờ ơn thế tập và mỗi năm có chút lương bổng lãnh về nuôi gia đình.

Ông Trưng xuất thân nghề viết thiếp, sáu năm trong nghề, ông trở thành một tư viên. Vợ ông thuộc dòng họ Đông Giai, do đó, ông nhờ thế lực bên vợ nhẩy một phát từ cái chức nhỏ tư viên lên cái chức hải quan đạo tỉnh An Huy miền Vu Hồ.

Triều nhà Thanh, trong chức vụ đạo ban, phải nói quan đạo là lớn nhất, triển vọng to tát nhất. Ông Trưng may vớ được cái chỗ khuyết này, thật là một chuyện hiếm có, tha hổ rộng bước đường quan từ đấy. Lòng ông sung sướng như mở cờ, ông liền mang gia đình lên đường nhậm chức.

Gia quyến của ông Trưng tuy không đông lắm, nhưng cũng đủ trai đủ gái. Ngoài bà vợ họ Đông Giai và cô gái Lan Nhi ra, còn cậu trai tên gọi Quế Tường và cô gái út Dung Nhi.

Như thế gia đình gồm có năm người. Trong hai cô gái, thì Lan Nhi là chị, lúc đó đã mười hai tuổi.

Theo lời bà thái thái Đông Giai thì khi sinh ra cô bé Lan Nhi, bà có một cái mộng quái lạ. Bà mộng thấy vầng mặt trăng sáng long lanh từ trên trời rớt xuống ngay bụng. Bà giật mình tỉnh dậy, cảm thấy đau. Hôm sau bà sinh ra một bé gái, đó là Lan Nhi.

Người Mãn Châu thường coi trọng con gái hơn con trai. Con gái khôn lớn còn có hy vọng làm hoàng hậu. Vì trọng gái, cho nên các gia đình người Mãn thường cho con gái ngồi ghế đầu.

Bà Đông Giai đã có cái quan niệm đó do tập quán, nay lại còn có cái mộng kỳ lạ nọ gây niềm hy vọng, nên càng quý Lan Nhi coi như vàng như ngọc. Thêm một điều nữa là Lan Nhi mặt mũi lại xinh đẹp hơn Dung Nhi nhiều, thân hình duyên dáng khôn tả, tính tình ôn nhu thuận theo rất mực. Đã thế, Lan Nhi còn thông minh hơn người chẳng mấy kẻ dám bì kịp.

Trong số bạn gái chơi thân với Lan Nhi, có lẽ chỉ có một mình nàng là nhà nghèo, khổ sở nhất, bạn thì mặc nào tơ nào lụa, nào gấm vóc, trái lại nàng chỉ có vài manh áo vải, vài chiếc quần thô. Tuy vậy, với cái sắc đẹp tuyệt trần, dù chỉ khoác cái áo dài vải bố màu xanh lá cây, nàng cũng nổi bật hẳn, không ai dám chối cái giá trị nghiêng nước nghiêng thành của nàng.

Cô gái này giàu ư? Đừng khoe giàu với nàng vì có dát vàng điểm ngọc vào người, cô cũng chẳng sánh được cặp mắt hồ thu lóng lánh đa tình của Lan Nhi. Cô gái kia sang ư? Sang cũng chẳng làm cách nào cho cô vẻ quý phái hơn được cái bộ mặt trái xoan như ngọc như ngà điểm sáng cặp môi son tươi nở đoá hoa như Lan Nhi.

Lan Nhi có hai cái tật tệ hại hết sức mà mãi tới già nàng cũng không thể bỏ được.

Cái tật thứ nhất, đó là cử chỉ của nàng quá khinh bạc, kiêu hãnh. Nàng chỉ cần che miệng cười duyên hoặc vuốt mớ tóc mây lờa xoà bên má một cái, cũng đủ cho hàng ngàn người mê say như điếu đổ.

Cái tật thứ hai là thích ca những bài ca ngăn ngắn. Hồi nhỏ, nàng được ông Huệ Trưng cho đi học. Tuy thông minh hơn người, nhưng sách vở có hạn, nàng cũng chỉ học đến một độ nào đó thôi. Nhưng giọng ca tiếng hát của nàng thì hình như đã có từ kiếp trước. Vừa mê say lại vừa thông minh sáng trí, Lan Nhi thông thạo đủ nào là Kinh điệu, nào Côn khúc, nào Nam Bắc tiểu điệu. Nàng chỉ cần nghe qua một lần là ca lại đúng in như cũ, chính không trật một chữ, không sai một âm. Nàng còn được trời cho cái giọng uyển chuyển, lên bồng xuống trầm tuỳ nghi khiến những bản nàng hát có một sức quyến rũ mê hồn. Lúc đầu, nàng chỉ ca một mình, cho mình nghe cho khuây khoả nỗi lòng, nhưng về sau, nàng còn ca cho các chị em bạn gái nghe, đệm thêm sênh, phách, đàn địch nữa. Khi nghe nàng ca, quả không ai là không ngừng hết mọi việc để lắng nghe, nghe rồi họ mê, họ say, không muốn rời nàng ra nữa.

Bà mẹ Đông Giai thấy con ca hát, có nếp sống như phóng đãng tự do quá, cho rằng chẳng đẹp tốt, đã nhiều phen ngăn cấm. Bà thì thế, nhưng ông, thì lại khác. Ông Huệ Trưng cưng con gái, lại còn thích nghe con gái ông hát. Thế là học được bài kinh điệu nào từ trước, ông đem ra dạy con hết!

Hai cha con Huệ Trưng từ đó say mê với điệu hát, câu ca. Nhà chưa có gạo, chưa có củi ư? Mặc kệ nó! Hát đã, ca đã. Hai cha con ông cả ngày, cả đêm, sáng cũng ca, tối cũng ca, no cũng ca, thậm chí đói cũng ca. Khi thì hai cha con ca bản "Tam Nương giáo tử", Lan Nhi thì làm Tam Nương, còn ông thì làm lão Tiết Bảo. Có khi ca bản "Phần Hà Loan", cũng có khi ca bản "Nhị tiến cung".

Hai cha con dùng phòng khách làm sân khấu, kéo cho kỳ được bà Đông Giai làm khán giả. Bà này lúc trước còn khuyên can nhưng về sau thấy không thể can nổi, bèn để mặc. Tất cả cảnh đời này của Lan Nhi là đều nằm trong thời gian mà ông Huệ Trưng chưa đi nhận chức hải quan đạo miền Vu Hồ.

Rồi Lan Nhi theo cha lên đường nhậm chức. Vu Hồ vốn là một thị trấn đông đảo náo nhiệt. Phía trước cửa Tây thành là bờ sông lớn. Dọc bờ sông các quán rượu tiệm trà mở cửa san sát. Trong các quán tiệm, khách ăn uống tới lui tấp nập. Các rạp hát cũng nhờ đó đông đảo, sầm uất.

Lan Nhi lúc đó vốn còn tính trẻ con, thích xem hát lại thêm cha có tiền nên thường đem theo một con a đầu, một thằng bé, ngày ngày tới rạp.

Anh chàng chưởng quỹ rạp hát biết nàng là con gái ông quan đạo nên đặc biệt chú ý và xu phụng hết chỗ nói. Nàng Lan Nhi đi xem hát, có cái tính rất cổ quái là không thích ngồi trong ghế đàng hoàng, mà lại chỉ thích ngồi ở những ghế sát Sàn sân khấu. Nàng đi xem hát lâu ngày, biết tên hết các tài tử trong gánh hát. Toàn ban gánh hát, ai cũng đều biết nàng, và thường gọi nàng là Lan tiểu thư.

Lan tiểu thư hằng ngày tới rạp hát xem hát, người ta không ai biết được nàng đã đi đến bao lần. Mỗi khi có những ngày sinh nhật của cha mẹ hoặc của anh, của chị em, nàng đều cho gọi gánh hát về nhà hát mua vui.

Lan Nhi ngoài tính thích xem hát, lại còn khoái vào quán. Cha nàng làm quan tại đất Vu Hồ này vốn có thân binh, cho nên ông thường cho hai tên đi bảo vệ nàng khi ra ngoài du ngoạn và vào quán ăn uống. Dân chúng miền Vu Hồ không ai không biết nàng là tiểu thư con ông quan đạo và họ thường cũng gọi là Lan tiểu thư.

Nói đến ông quan đạo này, phải nói đây là một trường hợp đặc biệt. Ông ở lâu tại kinh thành làm một kẻ bị sai phái, hết sức nghèo nàn khổ sở, bới thế khi kiếm được một chỗ béo bở, ông bèn mở túi tham ra, tha hồ ăn hối lộ tham tàn, đòi đút lót thậm thọt, không một cái gì bậy bạ mà không làm, để vét cho nhiều tiền tiêu xài cho bõ những lúc cơm hẩm canh đậu hũ. Ông ăn hối lộ, tham nhũng đến nỗi chưa đầy một năm mà đã có đơn tố cáo. Nhưng những đơn này đều nhờ thế lực trong triều tìm mọi cách bưng bít đi nên chưa xảy ra việc gì.

Qua năm thứ hai, ông bố vợ trên kinh chẳng may chết mất, thế lực từ đó không còn. Ấy cũng chẳng qua cái vận đen đã tới với ông quan đạo Huệ Trưng.

Ông quan đạo Huệ Trưng không dè tóm ngay phải một chiếc thuyền của Giang ngự sử, bảo vị này chở hàng lậu. Đã thế lại còn đòi hối lộ tịch thu luôn cả một bè tre trị giá ba ngàn lạng bạc.

Vị ngự sử họ Giang vốn có uy thế trong kinh, lại quen rất nhiều các vị vong gia. Khi về tới kinh, ông hậm hực, bực tức dâng ngay lên một bản tấu chương đàn hặc Huệ Trưng.

Lúc này, ông bố vợ Huệ Trưng đã chết, chẳng còn ai là người ở kinh giúp ông để chạy chọt, tâu bày. Thế là một đạo chỉ dụ hạ xuống, cắt chức, điệu ông về quê. Được lời xét xử này, ông tự cho là may lắm, bèn xếp trống cuốn cờ, so vai rụt cổ, đem gia quyến về An Khánh tỉnh An Huy trú ngụ.

Giang ngự sử còn muốn dâng lên thêm một tờ sớ bắt Huệ Trưng phải thanh toán hết mọi khoản tiền thu được khi tại nhiệm trước nha môn quan án sát. Nhưng may được tuần phủ An Huy, vốn có chút tình thân thích họ hàng với Huệ Trưng, hơn nữa Trưng còn bỏ ra đúng một vạn lạng bạc để chạy chọt lo gỡ, nên cơn sóng gió ngặt nghèo qua đi được.

Huệ Trưng làm quan một thời gian, đã quen mùi phú quý, nay ăn không ngồi rồi tại vùng An Khánh thì quả thật là buồn. Thấy thế bà Đông Giai mới khuyên ông năng lui tới nha môn quan tuần phủ, để cầu mong một chức vụ dưới quyền.

Quan tuần phủ An Huy Hạc Sơn thấy Huệ Trưng tính tình cần mẫn lại thông minh, ăn nói cũng khá, nên thường sai đi đây đó, lo liệu giải quyết nhiều việc giúp mình. Huệ Trưng nhờ đó mà được nể trọng.

Hồi đó, miền bắc tỉnh An Huy xảy ra ngập lụt. Bà Đông Giai liền khuyên chồng nhân cơ hội đó, xuất ra một vạn lạng bạc để phát chấn cứu giúp dân chúng. Rồi đến hôm sinh nhật quan tuần phủ, lại còn lén đưa tới biếu đến hai vạn lạng bạc.

Tất cả ba keo như vậy, tiền của trong nhà coi như đã cạn, ngay cả đến đồ nữ trang của bà Đông Giai cũng phải bỏ cả vào đấy nữa mới đủ.

Quan tuần phủ Hạc Sơn đã được tiền của người tất nhiên phải giúp người gỡ nạn trừ tai. Ông bèn giúp Huệ Trưng, dâng một tờ sớ vào triều khen Trưng là người vừa thông thạo vừa mẫn cán, hăng hái làm điều thiện, đồng thời bảo cử Trưng đảm nhiệm chức vụ sai sứ trong công cuộc chẩn tế.

Không ngờ số mạng Huệ Trưng đúng là rủi ro. Tập tấu sớ nọ mới đi được ba ngày, thì tuần phủ Hạc Sơn nhuốm bệnh rồi lăn ra chết. Nội vụ giao lại cho án sát sứ Thự Lý xét. Nhưng ông án sát này lại chính là một tay đối thủ với Huệ Trưng.

Một đao thượng dụ hạ xuống, bố chánh tỉnh Sơn Đông là Nhan Hy Đào được thăng chức An Huy tuần phủ. Đào vừa nhận chức, Lý bèn đem hết chuyện Huệ Trưng tham lam, hối lộ ra sao, cấu kết với thượng ty thế nào, tố cáo một loạt với Đào.

Nhan Hy Đào vốn là một vị quan thanh liêm nổi tiếng. Bình sinh Đào ghét cay ghét đắng bọn tham quan ô lại. Nay nghe chuyện Huệ Trưng, hỏi sao Đào chẳng chán ghét Trưng.

Huệ Trưng vào nha môn xin yết kiến ba lần, nhưng quan tuần phủ họ Nhan đều không cho gặp Trưng phát hoảng, vội chạy đi dò la tin tức lúc đó mới biết án sát Lý thọc gậy bánh xe, phá chuyện làm ăn của mình.

Trước đây, Trưng có ít tiền, nhưng đem biếu cho quan tuần phủ tiền nhiệm hết rồi, đến nỗi mắm muối, cơm áo độ nhật, trong nhà cũng đã khó khăn thì còn lấy tiền đâu nữa để biếu kính quan trên lần này?

Trưng không có cách nào khác, chỉ còn nước liều mặt dạn mày dày, hằng ngày lên cổng nha chầu chực, may ra quan tuần phu mới có nghĩ tới mà đoái thương. Nhưng quan tuần phủ họ Nhan đã ghét thì Trưng làm sao mà được vào gặp mặt? Thực thế, chẳng bao giờ họ Nhan cho gọi Trưng vào tương kiến cả. Trưng xoay xở một số tiền, nhỏ to với một vài tên hoạt đầu chuyên chạy cổng sau nơi các dinh thự quan lại, đề nhờ họ nói tất cho mình trước quan tuần phủ.

Quan tân tuần phủ họ Nhan đã ghét Huệ Trưng tới xương tuỷ. Bởi thế khi nghe tới tên Trưng, ông lắc đầu lia lịa, còn đưa thêm cả bộ mặt Trương Phi đến phát khiếp nữa. Mấy tên hoạt đầu thấy thái độ ấy, tắc họng, muốn nói mà lưỡi cong lại không phát thành tiếng.

Thời giờ thấm thoát thoi đưa. Huệ Trưng nấn ná tại An Khánh đã một năm tròn, mà thất nghiệp vẫn hoàn thất nghiệp.

Rồi hai năm… rồi ba năm cũng chẳng có việc làm.

Khi còn làm chức quan đạo, Huệ Trưng có đầy đủ phương tiện, tiền bạc để ăn tiêu huy hoàng, ăn thì ăn ngon, mặc thì mặc đẹp, ra ngoài thì nào xe nào ngựa, cho nên dù sao ngày nay cũng không thể để mất thể diện được. Hơn nữa. Lan tiểu thư lại là người thích làm dáng, khoái ăn chơi, thì tuy đất An Khánh không bằng Vu Hổ, nhưng cũng là nơi thị tứ tỉnh thành, có vài ba đường đại lộ, năm ba cái quán trà, rạp hát, nàng không thể nào không chi tiền, không dung dăng dung dẻ đó đây, để gọi là trình diện với thiên hạ, khoe cái sắc đổ quán xiêu đình của mình.

Đã thế, Huệ Trưng lại còn bị cái bệnh nghiền, bao nhiêu tiền đều chui tọt vào nõ của cái dọc tẩu nọ. Cũng chính nó còn làm hại Trưng thêm nữa, bởi quan tuần họ Nhan vốn thâm thù bệnh này, nay ông rõ Trưng có tính bê tha nghiện ngập, lại càng chán ghét già, khiến từ đó ông không thèm để ý tới nữa. Có điều khiến ông vẫn còn nhân nhượng, không dâng sớ đàn hặc Huệ Trưng, đó là vì Trưng vốn ty viên trong Kỳ tịch.

Huệ Trưng thất nghiệp luôn ba năm, tục ngữ có câu "Miệng ăn núi lở", thật là đúng ở trường hợp này. Còn chút ít tiền dành dụm cuối cùng đều hết sạch, đến nỗi phải đi vay để độ nhật, về sau không vay mượn được, cầm bán mãi đến sạch nhân, đến miếng ăn cũng lần không ra nữa.

Mẹ con Lan tiểu thư bốn người cả thảy nhiều bữa phải chịu đói, chịu rét. Lan tiểu thư vốn thích trưng diện, thích ăn chơi, thích phồn hoa náo nhiệt, nhưng chẳng may gặp gia cảnh thê lương như vậy thì làm sao dám đòi này đòi nọ để tiếp tục như thế nữa. Với tuổi mười lăm, mười sáu, tuổi dậy thì của cuộc đời son trẻ ngây thơ, Lan Nhi đã phải chịu cái cảnh túng quẫn, kể tội nghiệp thật! Đã có nhiều lần cô nhìn hình bóng trong gương mà tự thương mình.

Lan tiểu thư càng lớn thì sắc đẹp càng mặn mà. Với nhan sắc đổ nước nghiêng thành, da trắng như tuyết, mặt xinh như ngọc mà hằng ngày phải chịu cái cảnh đầu bù tóc rối, áo quần lam lũ, một gáo nước lại một gáo bùn, hỏi sao nàng chẳng oán than buồn khổ. Cứ mỗi lần xúc động can trường, thương xót thân mình, nàng lại chạy xuống bếp trốn trong các góc kẹt để khóc ròng, khóc cho vơi hết nỗi khổ, nỗi buồn.

Bà Đông Giai thấy con gái đẹp xinh như đoá hoa hải đường trên cành xuân thế kia mà phải chịu cái cảnh nghèo túng khố sở, cũng không nhịn nổi nữa, thế là bà chạy tới gây chuyện cãi lộn với chồng. Thực ra, ông Huệ Trưng thấy vậy cũng làm sao không thương, nhưng cùng quẫn đến hết mức rồi, đành chịu chứ biết làm sao hơn?

Đã đến lúc quá quẫn, nào là tiền nhà, tiền cửa, nào là tiền gạo, tiền muối, trăm thứ tiền đòi hỏi, gia đình Huệ Trưng y như nằm trên chiếc chảo rang. Đã thế, ông Trưng lại thiếu thuốc hút. Cái thứ thuốc phiện bữa có bữa không, thất thường rõ rệt, lại thêm lo buồn sầu khổ tứ phía dồn về, ông Trưng ngã bệnh nằm liệt giường.

Bệnh ông liên miên, hết ngày này qua tháng khác, từ mùa thu năm trước đến mùa hè năm sau, đúng một năm tròn, mà vẫn không bớt, trái lại càng nặng thêm.

Bà Đông Giai vì nhà không tiền, nên lúc nào cũng bỏ mặc ông chẳng để ý tới, mãi về sau, thấy bệnh tình có bề trầm trọng mới hoảng lên. Bà vội lục mãi dưới đáy rương, lấy ra một cành thoa bằng vàng, từ hồi còn là một cô dâu, rồi bảo cậu con trai cả là Quế Tường đi cầm lấy tí tiền về để chạy chữa thuốc thang cho chồng.

Quế Tường lớn hơn Lan Nhi một tuổi, năm đó mười tám tuổi, nhưng ngây ngô đần độn hết chỗ nói. Tường chẳng biết một tí gì, nên hôm nay, mẹ bảo đem đồ đi cầm thì thẹn đến đỏ mặt, chối đây đẩy, bảo con chẳng biết đến việc ấy.

Lâu nay, những chuyện cầm cố mua bán ở ngoài chợ, trên phố, đều do bà Đông Giai đi làm lấy hết, nhưng nay ông Huệ Trưng nằm đấy, bệnh thế đã đến lúc nguy kịch, cho nên bà chẳng tiện rời khỏi ông mà đi xa, do đó mới bảo Tường. Thấy Tường không chịu đi, bà Đông Giai thở dài:

- Mày là một thằng ngu ngốc! Chỉ có chút việc đó mà không làm được, thì hỏi sau này trông vào mày làm sao đây?

Nói đoạn, bất giác lệ bà tuôn xuống như mưa. Lan Nhi ở bên cạnh thấy mẹ khóc lóc thê thảm, liền đứng dậy cầm cành thoa đi lên phố.

Anh chủ tiệm cầm đồ thoạt thấy một cô gái sắc nước hương trời vào tiệm, thì hồn phách bay biến từ lúc nào. Y nhe bộ răng cải mả ra cười khì khì, trố đôi con mắt to như hai con ốc bươu, để ngắm người đẹp. Y ngồi trước cái quầy lót kính, vừa cười vừa liếc, xoắn xuýt hỏi Lan Nhi:

- Nào cô bé cô lớn ơi! Cô muốn lấy bao nhiêu tiền đây?

Lan Nhi thấy điện bộ của anh chủ tiệm cầm đồ như vậy, thẹn đỏ mặt và cũng thấy bực mình. Nàng đáp:

- Ông xem giá bao nhiêu thì đáng bấy nhiêu, chứ còn phải hỏi gì nữa?

Anh chủ tiệm cầm đồ nói:

- Mười tiền thôi chứ bao nhiêu?

Lan Nhi nghe nói bất giác cười thầm trong bụng. Nàng nghĩ một cây thoa vàng, nhưng là vàng giả này mà giá đáng mười tiền thì quả buồn cười. Bởi thế nàng không do dự gì cả đưa ngay cây thoa cho anh ta.

Thật đáng thương cho anh chàng chủ tiệm cầm đồ, chỉ vì cái sắc của Lan Nhi mà mắt bị mờ, nên đã coi của giả ra của thật, mất toi mười tiền.

Nàng Lan Nhi cầm số tiền về nhà vội đi mời thày lang.

Ông lang tới nhà bắt mạch, chỉ thấy lắc đầu lia lịa, bảo nàng:

- Bệnh lao đã tới thời kỳ chót, không làm gì được nữa rồi! Nên lo liệu hậu sự cho ông nhà đi thôi.

Bà Đông Giai nghe lời cụ lang hồn vía đã vội lên mây. Bà nghĩ gia đình bà lưu lạc tha hương, chẳng may ông chồng có mệnh hệ nào thì ngay đến cỗ quan tài cũng không có tiền nổi.

Y nghĩ đó vừa lẩn quẩn trong óc bà, thì trên giường kia, chồng bà, ông Huệ Trưng, mặt đã nhăn lại, mắt đã trợn trừng lên, lạc hết tinh thần.

Bà Đông Giai vội kêu các con tới đủ mặt, con trai Quế Tường, con gái Lan Nhi, Dung Nhi, tất cả đều xúm quanh gọi nhưng không kịp nữa, ông Huệ Trưng đã đi xa rồi, hoạ chăng chỉ còn vài hơi thở hắt ra mà thôi. Rồi chỉ thấy đôi chân ông duỗi mạnh ra một cái, thế là xong cả một cuộc đời ba chìm bảy nổi vật lộn với đời, nhưng rút cuộc tàn trong bệnh hoạn và nghèo khổ.

Bà Đông Giai ôm lấy chồng mà kêu khóc. Bà nghĩ tới cảnh goá bụa cô đơn mà khóc thêm, khóc đến thê thảm khôn nguôi.

Lan Nhi, Dung Nhi, Quế Tường cũng oà khóc theo mẹ. Thế là cả nhà đều cùng khóc đến đất thảm trời sầu.

Thật đáng thương, ông Huệ Trưng khi nằm xuống, đến cái quần dài, cái áo cộc lành lặn cũng không có đủ nữa. Cụ Chu, lão bá hàng xóm thấy cảnh đáng thương quá, liền đi khắp từ đầu phố tới cuối phố, quyên góp được ít tiền nhưng mới chỉ đủ để mua vải liệm cho ông Huệ Trưng, chứ chưa đủ để mua quan tài.

Chu lão bá lúc bí kế bèn nghĩ ra được một cách.

Ông đem theo cô gái Lan Nhi tới gia đình các vị quan lại đồng liêu với cha nàng trước để xin giúp đỡ. Trong số quan lại này, có kẻ thì đang còn tại nhiệm, có kẻ đã hưu, cũng có kẻ vốn người trong Kỳ tịch với ông Huệ Trưng thuở nào…

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro