the loai khac

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Amen - Ngôi nhà Ma

Có muôn ngàn chuyện ở trên đời, nhưng có một chuyện làm tôi không thể nào quên được. Ngày xửa ngày xưa, chuyện xảy ra lâu lắm rồi, không ai còn nhớ nữa, chỉ mình ta nhớ thôi. Lão Nyy đương đương tự đắc rung cặp râu dài tới 2 mét quét đất. Chả là ở vương quốc của lão có rất nhiều điều kỳ bí xảy ra. Mọi người ai ai cũng có phép màu và khả năng đặc biệt nào đó, riêng lão thì không. Vì vậy, lão mới để bộ râu dài khủng khiếp như thế để tạo ra sự quái dị cho phù hợp với cái xứ sở mà lão đang sống. Lang thang với cái bộ râu của lão thế đủ rồi. Chuyện mà lão muốn kể với dân làng hôm nay là một câu chuyện hoàn toàn có thực. Lão cảnh báo trước, ai mà bị đau tim hay choáng ngất thì dừng có nghe, lão không dán nhãn bảo hành cho câu chuyện của lão đâu. Vào một đêm trăng, trời sáng trong như mực, tại vương quốc kỳ quái của lão Nyy có một ngôi nhà nhỏ heo hút ven đồi. Người ta đồn rằng cứ vào 12 giờ đêm có tiếng hú rất man rợ vang lên từ ngôi nhà nhỏ đó. Có lần 8 người đi săn về muộn lỡ đường trú tạm trong căn nhà đó. Sáng ra người ta đi tìm và chỉ thấy 8 cái đầu lâu trông rất hãi. Máu me be bét trào ra quanh hốc miệng mỗi cái đầu lâu. Dường như họ bị tra tấn rất khủng khiếp trước khi chỉ còn lại bộ xương. Sọ của ai cũng bị thủng một lỗ nơi đỉnh đầu... Và kinh dị hơn là cứ vào đêm trăng rằm mõi khi có tiếng hú man rợ trong căn nhà cất lên là y như rằng có một người trong làng chết... Lão Nyy kể đến đó thì đột nhiên dừng lại. Cả bọn quây quần bên đống lửa giữa rừng ngồi sát vào nhau hãi hùng nhìn quanh. Tiếng các con thú ăn đêm hú lên rùng rợn, xa thẳm. Rồi thì cơn mưa rừng ập tới. Mưa ào ạt, xối xả, không kịp trú vào đâu cả bọn ướt nhoét. Cơn mưa rừng đến nhanh và qua đi cũng thật nhanh y như lúc nó đến. Xa xa có ánh đèn thật ấm cúng. Cả bọn dắt tay nhau tiến bước. Dũng cảm nhất là Hạt tiêu đi trước. Tiếp theo sau là Qxxx, Ktac, Feeling, LLS, LT, Nhat-my...Và cuối cùng là lão Nyy. Vì lão có bộ râu dài nên phải có người đi trước cầm râu cho lão. Kể kỳ quặc quá thế cũng khổ. *** Đường đến ngôi nhà thật gian nan, đất lở đá trượt, nhưng rồi cả bọn cũng tới nơi vừa đói vừa mệt. Trong nhà đèn đuốc thắp sáng trưng. Hạt tiêu nhạy cảm nhất với mùi vị hích hích cái mũi lên ngửi. - Chà chà ! Thơm gớm nhẩy ! Hình như có mùi thịt nướng. - Oái ! Có cả mùi hành phi thơm phức- Ktac mắt sáng ngời mơ mộng - Hình như có cả mùi bia Halida nữa - Qxxx ngó cổ dòm. - Vào đê anh em ơi ! - lão Nyy hô to Cả bọn vội xô cửa vào trong. - Có ai không nhẩy? - LLS hỏi Không một tiếng đáp lại. Căn nhà khá ấm cúng. Nó có một thang đặt ở góc nhà. - Chắc là có tầng nữa nên mới có thang thế này- Qxxx nhận xét - ờ ờ ! Cả bọn tán thành. Nhưng chợt nhìn thấy bàn ăn phía đó đang bốc khói nghi ngút, cả bọn quên cả chuyện cái thang lên tầng 2, nhao ngay ra đó. Quả đúng như Hạt tiêu, ktac và Qxxx đoán. Trên bàn ăn có bày đủ thứ. Có một mâm toàn lợn rừng còn bốc khói nghi ngút. Hành phi thơm phức. Một thùng bia to kếch sù nằm ngay cạnh bàn. Cả bọn chẳng ai bảo ai nhảy vào ăn uống no say. Và...khi cái bụng đã căng thì con mắt bắt đầu trùng xuống. Cả lũ lăn quay ra ngủ. Qxxx có lẽ chơi cả nửa thùng bia Halida nên quay ngay... Đêm đã về khuya. Sấm chớp lại nổi lên đùng đùng. Căn nhà cọt kẹt kêu lên rùng rợn. Đèn chợt tắt. Lúc này chỉ còn LLS và Hạt tiêu là có vẻ còn lơ mơ chưa ngủ hẳn. 12 giờ đúng. Trăng nhô cao. Bầu trời đẫm nước. Một hiện tượng quả là kỳ lạ. Một tiếng hú rùng rợn cất lên nghe thật khủng khiếp, trên bức vách có những hình bóng kỳ lạ nhấp nhô. Những hình quái dị ấy cứ lững thững từ trên gác bước xuống. LLS và Hạt tiêu bừng tỉnh. Trong cái không gian ấy họ thấy có mùi máu tanh tưởi, mùi chuột bọ hôi hám bốc lên thật là ngột ngạt. hạt tiêu bỗng thấy lạnh xương sống. Hình như có cái gì quệt lên cổ làm hạt tiêu thấy rờn rợn, nhờn nhờn. - Dậy mau ! Hạt tiêu hét lên trong khi LLS thì sợ hãi co người lại không kêu nổi một tiếng. - Gì thế ? lão Nyy mơ màng. Nhưng rồi lão cũng nhận ra có cái gì đó không ổn sau gáy. Lão choàng tỉnh dậy và hét toáng lên như Hạt tiêu đã hét. Tất cả cùng tỉnh dậy. Qxxx như vẫn còn phê cáu quá tát lung tung. Thật là đen đủi lại trúng ngay mặt lão Nyy làm lão nổ đom đóm mắt. Cây nến trong nhà bắt được ánh đom đóm từ mắt lão Nyy sáng bừng lên. Cả bọn bàng hoàng nhìn thấy trước mặt mình những hình thù kỳ quái nhất từ trước đến nay. Chúng có những cái lưỡi thật dài đang liếm trên gáy mọi người. Những cặp nanh dài và nhọn cáu bẩn máu khô lúc lắc như ngà voi chỉ trực húc thẳng vào ai đó. Chúng là những con ma... Lão Nyy lúc này đã trấn tĩnh. Lão nhặt một lúc mấy quả táo, rút mấy cái nan cửa sổ bày ra sàn nhà. Sau đó lão đào mấy cái hố nhỏ. Mỗi lỗ chỉ đủ một quả táo rơi xuống. Lão lấy gậy chọc như trò chơi bi-a của tụi thanh niên vẫn chơi. Cả lũ ma đứng há hốc mồm nhìn chăm chú. Bỗng một con ma cất tiếng : - Ê này lão. Chơi gì đấy? dạy ta với? - khà khà ! Thử đi- lão Nyy đưa một cái que nan cửa cho con ma - úi chà, khó gớm. Từ thuở lọt lòng tới giờ ta chưa bao giờ chơi trò này, bây giờ ta mới thấy có một trò khoái thế. Cả lũ ma xúm lại cùng chơi. Chúng bắt đầu ham. Cả bọn không còn sợ nữa cũng xúm vào hò hét. Chơi được một lúc, bọn ma bắt đầu chán, chúng mệt và đói. Chúng nhìn nhóm người thèm thuồng. - Ê ! Ma nhỏ , mày chọn thằng nào ? Cả bọn ma chỉ vào lão Qxxx. Tao thấy cái tên này ngon nhất, béo ngậy, phi với hành thơm phải biết. - ờ ! Nhưng mà tao thích cái thằng cao cao kia- mato lên tiếng - Đứa nào thế ? ma xó hỏi - à à ! Cái thằng đeo kính kia kìa, mắt nó to, vừa giòn vừa bổ- bọn ma trỏ vào Ktac. - Mấy đứa còn lại còn trẻ chưa đến lúc phát tướng, cứ để vỗ béo đã- Ma trơi lên tiếng. - Có lý đấy- Ta còn gầy lắm, đợi vỗ béo đã- Lão Nyy lên tiếng. Cả bọn ma thống nhất xong thì bắt đầu đi đun nước sôi. Chúng súc miệng ùng ục rung động cả quả dồi. Bây giờ nước đã sôi, sang mục cạo lông làm thịt. Ma nhỏ vung vẩy con dao rất điệu nghệ lành nghề. Cả bọn ma chuẩn bị rất chu đáo. Đứa mài dao, đứa băm hành, đứa lấy chậu chuẩn bị đánh tiết canh. "đúng 2 giờ không sai một khắc ta sẽ làm thịt chúng nó nhá, anh em ơi ?" "đồng ý" Cả bọn ma nhao nhao. Bỗng nhiên chẳng thấy có phản ứng gì cả từ phía bọn người kia, lũ ma đâm ra tò mò. Bọn chúng tiến tới chỗ nhóm của lão Nyy. Cả nhóm đang hì hụi ngồi bên những cái hộp. Chẳng ai nói với ai một câu. Thỉnh thoảng lại có kẻ cười thầm hay nhăn nhó. Căn nhà trở nên yên tĩnh lạ kỳ. Những iếng lách cách từ bọn người cứ phát ra đều đều. - Chúng bay làm gì thế? - Ma xó lên tiếng - Yên nào đang chat dở- Lão Qxxx cáu nhặng lên. - Quái nhỉ ? Chat là cái quái gì mà lạ nhỉ? Ma CASPER thắc mắc Chúng xà đến bên lão Nyy: - Lão ! Lão già nhất ta nể lão. Kể mau bọn người đang làm gì ? - ờ chat mạng. Hay lắm, còn hơn cả ăn thịt người - ờ ! Dạy ta đi- bọn ma nhớn nhác - Đây, các bạn cho mỗi con ma một máy nào- lão Nyy đề nghị Cả bọn vốn sống có tổ chức quen nên đồng ý ngay. Mỗi người dưa cho bọn ma một cái máy tính xách tay với công nghệ hiện đại siêu nhỏ, có thể bỏ túi. Bọn ma lại nhớn nhác: - Chat thế nào? - Mới đầu là quay số 1260 - Nyy giải thích - Yên nào- Nhat-my lên tiếng- quay số đó có mà toi à. Toàn account dùng chùa. Vào số đó bị phát hiện ngay, lại mang tiếng tiếp tay cho ma. Phải quay 8223122 hoặc 8223155 mới không bị phát hiện. - Chí lý , chí lý- Lão Qxxx sướng run lên vì thuở bé đến giờ mới nghe một chân lý sáng suốt đến thế. Cả bọn ma online thâu đêm quên cả bữa ăn đêm hấp dẫn kia. Cả bọn người lặng lẽ chuồn lúc nào không hay... *** Ngôi nhà lại chơ trọi trong gió. Người ta bây giờ không thấy những tiếng hú man rợ nữa mà chỉ còn thấy những tiếng lách cách từng đêm trên quả đồi đầy huyền bí. Hơn thế nữa, người ta còn thấy trên nóc ngôi nhà có một cây thập át, bên ngoài có biển để chữ Amen - ngôi nhà ma ...

Cái không thuộc về Y Đức

Hôm qua là ngày thầy thuốc Việt Nam. Hôm qua chúng ta đã tặng hoa và những lời biết ơn.

Nhưng bên cạnh lòng biết ơn chân thành đó, thì cũng phải xét đến điều sau.

Ðó là, phàm ở đời, cái gì người ta càng cần thì càng sợ bị mất lòng. Càng sợ bị mất lòng thì đến dịp cần chúc mừng thì càng chúc mừng nhiều. Thí dụ, kỷ niệm ngày thành lập ngành cao su thì mấy ai nhớ, nhưng ngày hiến chương các nhà giáo thì phụ huynh lũ học trò đã nô nức từ tận mấy hôm trước.

Có lẽ dân ta đối với ngành Y nước ta cũng vậy, mà còn nặng hơn. Bởi vì cái ngành này không chỉ liên quan đến sinh tử, mà còn dính líu đến vô vàn điều không liên quan đến sinh tử, nên cái "cần" và cái "sợ" của người dân đối với ngành này đi liền với nhau, lẫn lộn vào nhau, quyện thành một khối treo lơ lửng trên đầu; đầu người bệnh, và nhất là, đầu người nuôi bệnh.

Tôi còn nhớ, một lần cô tôi đi xe máy và bị ăn cướp giật giỏ xách, làm gãy tay Người ta đưa cô vào bệnh viện, nằm ít hôm, chờ mổ đóng đinh vào trong xương. Cô nằm đó, thật như một bà hoàng, ngủ thiêm thiếp cả ngày, tỉnh dậy là ăn một tí, rồi nhìn ngó chung quanh, xem mấy trang báo, đòi uống nước cam, rồi lại lim dim ngủ.

Chỉ có chúng tôi - những người đi nuôi cô là khổ. Bị cuốn vào dòng xoáy nuôi bệnh rồi, chúng tôi không còn đầu óc đâu mà nghĩ về bệnh tật, sinh - tử. Cũng không nghĩ tới viện phí hoặc giấy tờ. Chúng tôi chỉ đau đáu nghĩ tới giờ cô đòi... đi vệ sinh, vì mỗi lần như thế, cả đám lại phải đối mặt với cái tưởng là bé nhất mà thật ra lại rất to của các bệnh viện nước mình, ấy là khu nhà vệ sinh, tắm giặt.

Ở cái bệnh viện rất to ấy, rất đông người bệnh và người nuôi bệnh, mà cái khu vực tối quan trọng này lại ẩm thấp và tối tăm, tanh tanh mùi bông băng, đèn tù mù soi những sọt đầy giấy và rác. Ðưa cô tôi vào rồi thì bọn tôi chỉ muốn về nhà để "tẩy trần" ngay.

"Thế này là còn tốt", vẫn có người nói thế.

Bởi vì ở một bệnh viện khác, tại khoa dành cho người bị liệt nửa người, mà phòng vệ sinh là "xí xổm", khiến có bệnh nhân già yếu đành phải chọn cách ngồi bệt xuống, xung quanh là nước chảy ướt đầm đìa...

Hay như ở một bệnh viện lớn khác, nhà vệ sinh cho sản phụ lại ở ngoài hành lang đầy gió, bên trong không có đến một cái đinh móc áo, một cái gương con tối thiểu tiện nghi. Chỉ có một cái xô bẩn, mấy cái vòi, và nước thì lạnh toát. Bồn vệ sinh thì rất bẩn, người nhà thà nhịn còn hơn là phải rùng mình.

"Thế này là còn tốt". Ai cũng nhăn mặt nói thế, trong bệnh viện cô tôi nằm.

Có đi nuôi bệnh thì tôi mới "ngộ" ra, người ta sợ bệnh nhiều phần không phải vì "bệnh" mà vì sự mất vệ sinh của "bệnh viện".

Nếu như bệnh viện của ta cũng như trong phim truyền hình Hàn Quốc: ai cũng sạch, chỗ nào cũng sạch - giường bệnh, nhà tắm, với lại căng tin... thì có lẽ mỗi khi có bệnh, người dân ta đã không trù trừ khi quyết định nhập viện như thế này, đến mức người nhà nhiều phen phải năn nỉ rồi dọa nạt.

Thế đấy, cái đức hy sinh, không muốn làm phiền người khác của dân ta, nhiều khi là do hoàn cảnh (y tế) xô đẩy mà có. Lắm lúc ta không muốn nhập viện không phải vì sợ dao kéo hay kim chích; chỉ vì nghĩ đến cảnh kẻ đi nuôi mình sẽ phải ăn uống, tắm rửa, vệ sinh trong bệnh viện không thôi đã thấy rợn người, mà thương.

Vào nuôi người trong bệnh viện rồi, mới thấy ngành Y tế nếu thương bệnh nhân và người nuôi bệnh một chút, thì cũng chẳng cần phải làm gì nhiều lắm đâu: chỉ cần nghĩ rằng họ cũng như ta, cũng có cái nhu cầu được ăn trong một căng tin sạch sẽ, được tắm giặt trong một nhà tắm sạch sẽ, được thảnh thơi về những nhu cầu vệ sinh tối thiểu, dành tâm trí cho những điều đáng để lo hơn.

Và khi bất lực rồi, thì lại chỉ mong sao có ngay được một ông giám đốc bệnh viện sâu sát và quyết đoán như ông thủ tướng Hun Xen: ông này từng ra lệnh cho khu du lịch Ankor Wat phải xây nhà vệ sinh đàng hoàng, không thì ông cách chức.

Nhưng điều này có lẽ cũng rất khó.

Bởi vì ông giám đốc bệnh viện kia hẳn cũng là bác sĩ.

Mà ngày ra trường của các bác sĩ, chắc có lẽ người ta chỉ đọc lời thề Y đức, mà không đọc lời thề Vệ sinh.

Ăn mày trúng số

Một con sông rộng, cầu sắt bắt ngang. Người qua kẻ lại trong cái buổi sớm mai nầy kể có hằng chục, hằng trăm mà không ai để ý lão ăn mày kia đang dựa mình vào lan can vừa cúi đầu suy nghĩ. Không một ai để ý đến lão, mà chẳng dè lão là người đóng vai tuồng trong chuyện này. Không một ai tưởng rằng lão mừng lão vui mà chẳng ai dè lão đương mừng vui hơn cả mấy trăm người đã qua lại trước mặt lão từ sớm mai cho đến bây giờ.

Hôm nay gương mặt lão không thèm làm bộ đau đớn, thảm khổ; cái miệng của lão không thèm nói tiếng than vãn rên xiết. Ai đi ngang qua trước mặt lão thì mặc họ, lão cũng chẳng buồn đưa tay ra xin từng đồng xu lớn nhỏ như mọi bữa nữa.

Một người ăn mày, quần áo lang thang thúi hôi rách rưới mà hôm qua xin từng đồng xu, lượm từng đồng điếu mà hôm nay đã thấy tánh ý đổi xa. Ai đi ngang qua trước mặt, lão cũng cho rằng người ấy là không bằng lão, lão tưởng như vậy là có lý lắm chớ chẳng phải không vì hôm nay lão chẳng còn phải như mọi bữa nữa, lão không còn ăn xin ăn mày nữa.

Lão có mua một tấm giấy số mà tấm giấy số ấy lại trúng độc đắc mười ngàn đồng! Mười ngàn đồng bạc! Một triệu xu!

Theo ý tưởng của lão và những người như lão thì mười ngàn đồng bạc là một số tiền to tát, một số tiền nhiều không biết là bao nhiêu mà kể. Lão đứng dựa lan can cầu tự hồi hừng đông cho tới bây giờ. Bụng lão suy, trí lão nghĩ, suy nghĩ nghĩ suy mãi mà không biết phãi chi dùng số bạc 10.000 đ mà lão sẽ đặng lãnh vào việc gì?

Lão đứng ngó mông lại đằng xa kia thì thấy một toà nhà ngói, vách tường rất là đẹp mắt. Gương mặt của lão bổng lộ vẻ vui mừng. Lão nhìn ngay lại toà nhà ấy mãi. Lão đã thấy chỗ dùng số bạc 10.000 đ của lão rồi. Trước hết lão phải lo cho lão một chỗ ở. Lão muốn một cái nhà rộng, thật khéo, thật đẹp, chung quanh có vườn tược, có đủ thứ cây ăn trái và đủ thứ bông hoa kiểng vật. Bấy giờ đứng dựa lan can mà lão đã tưởng rằng đương đứng trong ngôi nhà tốt đẹp ấy rồi. Một chiếc xe mui kiến sơn láng bóng chạy ngang qua cầu, trước mặt lão làm cho lão chống hai con mắt ngó theo không nháy, mà bụng bảo dạ rằng: - Rồi đây mình cũng sẻ phải có một xe hơi cũng đẹp cũng tốt như cái xe đó, mới cho là sướng. Mình ở trong một cái nhà lớn tốt mà nếu như không có sắm xe hơi không khác gì là một người con gái lịch sự mà què chơn. Phải! Lão ăn mày ta trúng số độc đắc 10.000 đ thì thật là có trúng nhưng vậy tiền chưa lãnh đồng nào, nhà cữa chưa cất, xe hơi cũng chưa sắm, thế mà lão ta nghiễm nhiên làm bộ tịch như một bực giàu sang, phong lưu, quyền quí đâu tự mấy đời rồi. Dầu cho có lầu cao cửa rộng, xe hơi, ca nốt, thì cũng chưa đầy đủ cái lòng ham muốn của lão đâu. Lão cũng như ai, phải cây cỏ chi chi mà chẳng có tình. Ngoài những chuyện món ăn, nhà ở, xe đi, lão còn tính cần phãi có một cô vợ vừa non vừa đẹp đẻ cùng nhau trong lúc canh vắn chia cái buồn vui. Lão tính tới tính lui, tưởng xa tưởng gần rồi gục mặt xuống sông, nhấm xem hình bóng của mình dưới dòng nước chảy. Bộ tướng xấu xa, thân hình dơ dáy làm cho lão có một điểm buồn cho lão rồi. Nầy là cây gậy, nầy là cái bị, hôm nay lão cần giữ lấy nó mà làm gì đây nữa. Lão đã có 10.000 đ bạc là tấm giấy số trong mình thì lão đã thành một ông nhà giàu rồi, lão phải mau mau cỗi cái lớp ăn mày đi.

Lão cầm cây gậy quăng ngay xuống sông, nó trôi lờ đờ trên mặt nước. Lão cầm cái bị mà quăng theo luôn cho nước chảy. Cây gậy trôi trước, cái bị trôi sau, lão đưa mắt nhìn theo mà lòng khoan khoái. Lão đưa tay lên xuống làm như muốn xô đuổi hai cái món vật ấy trôi đi cho mau, cho xa lão. Thình lình gương mặt lão vùng biến sắc, lão nhớ lại rằng tấm giấy số của lão đương nằm trong bị mà cái bị ấy đang lờ đờ đằng xa kia.

Nóng quá mà quên rằng mình không biết lội nên lão vùng nhãy xuống sông ý muốn vớt cái bị lại, nhưng vậy không được, cái bị cứ trôi lần lần xa ra còn lão thì chìm lần lần xuống đáy.

Than ôi! Nhà lầu, xe hơi, gái đẹp, những những đều thấy trôi theo dòng nước, còn lão ăn mày ta thì nằm dưới đáy sông làm cho giấy số mười ngàn không ai lãnh được.

Điện hoa

Tôi ở khu đất thấp, kề bên cái sân từ xưa dành cho những cuộc đua ngựa, người dân mấy đời làm nghề trồng hoa. Dân xóm Chùa cần cù có tiếng, lẳng lặng quanh năm, bên những giếng chùa trong vắt, tưới tắm cho những ruộng hoa.

Năm ấy mưa cũng to, đất thấp nên lội nhiều chỗ. Tôi đang lúng túng chưa biết chọn lối vào để tránh nước thì có tiếng xe rất êm, rồi tiếng con gái gọi:

- Anh ơi, lên đây. Em Thiền đây mà.

- Tôi ngạc nhiên hết sức, suýt đặt cả bàn chân xuống nước. Cô gái có mái tóc dài, mặc tấm áo dài màu thanh thiên, trên ngực có đính tấm thẻ bưu điện, ảnh và số xe. Tôi nhớ ra ngay mái tóc, buông rất mềm, và đôi mắt vừa vui lại vừa buồn không thể lẫn được. Còn tất cả thì chịu, từ chiếc xe điện hoa sơn màu vàng rất đẹp mà cô lái đến sức nhớ của cô. Như trong mơ.

Hồi ấy tôi mới ra trường, làm ở một cơ quan gần công viên. Hàng ngày khi đi làm và khi rỗi thường để mắt đến bờ cây vắng và lạ nhất ở đây, nhất là cái quán bưu điện dã chiến vắng vẻ quanh năm. Dạo ấy các cơ sở bưu điện chưa rôm rả, các quán thì vắng lắm, chỉ người lác đác đến mua con tem. Lá vàng buông đầy quán nhỏ.

Nhân viên bưu điện là một cô gái, suốt ngày ngồi như một bức ký họa tĩnh vật, như thức như ngủ. Dần dà tôi đến mua tem, chủ yếu để thư giãn. Giữa thảm lá vàng buông dệt, mái tóc dài mềm mại và đôi mắt vui buồn của cô gái gợi sự mơ màng hết sức. Đúng là mơ màng. Cô không ngủ đâu, vẫn thức đấy, nhưng cử động chậm rãi khác thường.

Đôi mắt luôn để ở bờ cây xa, đột nhiên có khách thì lập tức, nhìn xoáy vào người đó, như thôi miên. Tay cô cầm tem và phong bì cho khách cũng rất lạ, đưa vội, chèn cái hộp hồ dán lên, thế là xong. Không phải là sự khinh khỉnh, cũng không phải là sự chểnh mảng công việc, mà nói đúng là mơ màng. Đúng là sự mơ màng.

Đến ngày sự mơ màng đó có chuyện. Tôi đang đi dọc bờ cây vắng thì có tiếng ầm ỹ. Quán bưu điện có chuyện. Một ông khách ăn mặc chỉn chu, mặt lạnh, choắt và xanh, ghé vội mua con tem. Ông này vội và mọi động tác biểu hiện một sự quan trọng hóa quá mức. Chắc cô thì vẫn vậy, mơ màng đưa cái tem, chìa lên hộp hồ dán, mắt nhìn lên bờ cây xa. Sự cố là ở ngọn gió thổi từ hồ lên, làm bay mất con tem. Ông khách thấy vậy, mắng cô, nói cô rất nặng lời. Đại loại:

- Cô tiểu tư sản vừa vừa chứ... Tôi thì, tôi thì... sẽ báo lên cấp trên của cô.

Cuối cùng là câu chốt lại:

- Cô mà là thư ký của tôi thì tôi sẽ đuổi cô ngay. Sự mơ màng không chống đỡ nổi, chỉ ú ớ với lời:

- Xin lỗi.

Ông khách không vừa, hỏi:

- Tên cô là gì?

Tiếng đáp:

- Dạ, là Thương.

Ông khách đòi lập biên bản về tính trách nhiệm của nhân viên bưu điện. Tôi đi qua, xin phép góp lời. Theo tôi, một cánh tem bay đi, không cần thiết đến mức phải lập biên bản. Biên bản là dành cho sự thất thoát quan trọng, như là sự tham nhũng. Nhưng cô Thương thì nên xem lại cách bán tem. Ông khách còn nhiều lời, đến mức tôi phải nói với ông rằng cái phạm trù tiểu tư sản ông nêu xem ra rộng quá và có điều bất ổn.

Một thời, cái gì cũng quy là tiểu tư sản, tức là tư sản nhỏ, e chúng ta mông muội và hiểu sai ba chữ cái Tầu này. Ai trong chúng ta chả mong có một ít vật chất của cải, nói chữ là tài sản nhỏ, và một cuộc sống nhẹ nhàng, thanh thoát, đẹp đẽ. Sự mơ mộng, mơ màng kia cũng là bản tính của con người.

Có chăng là việc cô gái quá mơ màng, đáng trao con tem tận tay khách, thậm chí nếu tiện thì dán luôn cho khách, đằng này để vội rồi mơ màng nhìn lên tán cây. Ở đây chỉ phê phán cái việc đó là đủ, để cô tự điều chỉnh, rút kinh nghiệm về sau. Việc gì cũng phải làm cẩn thận, cẩn thận không bao giờ thừa cả...

Điều thứ hai, tôi lý lẽ hăng say hơn, là sự hợp. Tức là việc cái nhân duyên người ta hợp nhau, hoặc khắc nhau. Ông khách chắc mới được cắt cử một việc gì đó, nói rằng nếu cô là thư ký thì sẽ bị sa thải. Cái ông này kể cũng thật thà, nhưng nghĩ chưa có chiều sâu. Cuộc đời cốt có sự hợp.

Từng "cặp đời" cần sự hợp hơn cả, nếu không là vất. Ông sếp này hợp với cô thư ký kia, người trợ lý kia. Hợp đây là cả về dương, cả âm, nhiều điều khác của tư duy, tâm tính, cư xử... Nói chữ xưa là cái can, cái cung, cái mệnh nữa. Vấn đề không phải là ông chọn được cô ta hoặc có quyền sa thải cô ta, mà là cái "vận mệnh" của cô ấy gắn bó thế nào với "vận mệnh" của ông, sự tiến thân của ông. Nếu cô ta hăng hái, xăng xái đến mấy, thậm chí là sự hiến thân hoàn toàn, nhưng cái mệnh cô ta "hãm" ông, thì mọi chuyện cũng vất.

Tôi nói mông lung quá, như là cõi mơ màng của cô gái kia, nhưng phải nói tận cùng như thế mới đúng. Riêng ông càng phải tìm hiểu điều ấy. Nếu không thì chỉ có hỏng.

Hôm sau tôi ra mua tem thì thấy một cô Thương khác. Thương không nhìn mãi lên bờ cây xa nữa, mà ngay từ đầu, cứ nhìn mãi vào tôi, con mắt cười vẫn vừa buồn vừa vui như mọi ngày. Con tem bây giờ cô đưa tận tay, không đè lọ hồ như lần trước. Thương bảo:

- Nghe anh nói lần ấy với ông khách hàng khó tính, về nhà em cứ ngẫm nghĩ mãi. Đoạn đầu anh nói em không hiểu, chỉ biết là anh và ông khách đã nói đúng. Tức là đã vào công việc là phải tỉnh táo, chính xác, tận tụy. Mơ màng là hỏng. Còn đoạn sau thì hay quá. Tức là sự hợp nhau. Các thầy ở chùa cũng từng dạy em như vậy. Người hợp thì hiểu nhau, thông cảm nhau, nghe nhau. Từ đó mà cùng đi lên mãi. Nên không thể chê bai vứt bỏ người này mà đâm đầu vào người kia. Nhưng thôi, người ta sắp chuyển em đi rồi. Em đi học nghề, nghề lái xe...

Khi đã ngồi bên chiếc xe điện hoa như một chú cánh cam mầu vàng, đi lẹ làng qua những quãng đường lội dọc lối có luống hoa hai bên, tôi mới nhìn kỹ, mới cắt nghĩa được câu chuyện từ cô Thương mơ màng xưa đến cô Thiền nay. Cô có hai tên, thủa bé được nhà chùa nuôi thì gọi là Thiền, cái Thiền. Cái tên con gái như vậy hàm ý một điều gì sâu xa lắm, như là cái chất Thiền trong cuộc đời này. Khi cô dừng xe ở lối lên, một bờ dốc đầy sỏi, có hương ngâu thoang thoảng và đầy bóng cây, cô quay sang nói đầy chân tình, pha từ Nam Bộ:

- Anh chờ chút xíu.

Tôi nhận ra hoàn toàn sự mơ màng lạ lùng nhưng chứa đầy sự tinh ý của cô Thương năm trước. Tà áo dài thanh thiên bay bay. Hễ có dịp đi ngang là cô lại ghé qua chùa xưa. Có lần cô bảo tôi và cô là "đồng hương xóm Chùa" là như vậy. Mới lọt lòng cô mất cả mẹ và bố vì một trận đói, được chùa Tổ đây đem về nuôi. Sau đó đến tuổi đi học nhà chùa lại đưa cô sang ở ngôi chùa bên kia cầu, gần bến nước, để học ở trường làng. Cô vào ngành bưu điện từ ngôi chùa bên kia sông.

Bây giờ cô lái xe điện hoa. Đây là loại xe bưu điện loại mới, có nét văn minh, mà nhiều người chưa một lần cần đến. Cái tên lạ, có người còn sợ đến gần vì tưởng nó được dùng trong việc tang lễ, điện táng. Không phải như vậy. Cuộc sống khá dần lên, những dịp như sinh nhật, khai trương nhà mới, ngày hiếu hỉ, người ta muốn gửi những tình cảm đẹp nhất, nhanh nhất đến cho nhau. Có khi là những bức ảnh hoa đẹp, độc đáo, nhiều ý nghĩa. Thậm chí có cả lẵng hoa thật, tươi mới.

Con gái làm công việc này là cần, nhưng cũng hiếm hoi. Tưởng tượng, cái xe điện hoa ấy, những bông hoa ấy... mà được một tà áo dài đem đến. Cuộc sống hàng ngày càng đòi hỏi cao, đồng bộ, đòi được đáp ứng. Cô sinh ra như để cho công việc ấy. Vẫn mơ màng đấy, nhưng cần tốc độ và tinh ý biết bao.

Khi tà áo dài thiên thanh từ cổng chùa ra, tôi vẫn mơ màng trên chiếc xe điện hoa. Cô từng hứa kể cho tôi nghe nhiều chuyện nữa. Tôi chưa có một điều gì vui để cần đến dịch vụ điện hoa. Nhưng tôi và cô như có duyên tiền kiếp, cảm thấy cần nhau để chia sẻ những chuyện vui buồn. Sau lần bị đẩy ra khỏi công việc nhàn nhã là ngồi ở quầy, cô vào một lĩnh vực thật là trái khoáy.

Cô là một trong những cô gái bưu điện mảnh mai đầu tiên bước vào cái công việc này. Chính sư thầy, xóm Chùa lần nữa cưu mang cô, góp cả tiền bồi dưỡng, cả quả cam, quả chuối cho cô hoàn thành đợt học lái xe cấp tốc. Và điều này làm tôi giật mình: Trên cái sân Quần Ngựa ấy, vào mùa mưa lầy lội ấy, đêm đêm có tiếng xe máy, xe như tức thở, ngọn đèn pha hắt qua làn mưa bụi suốt đêm, có người con gái khổ luyện ở đấy. Đó là Thương.

Mùa mưa lũ năm ngoái cả xóm tôi ngập hết. Và cái vùng quê thân yêu ở cái rốn châu thổ sông Hồng, bên kia cầu đi xuống vài chục cây số theo đường chim bay, con đê Thanh Hồng quê tôi bị vỡ. Trong phố, nhiều con đường ngập nước vắng teo. Khó nhất lúc này là việc đi lại. Muốn về quê, phải qua bên kia cầu đón xe. Tôi đang lội qua hẻm phố cạnh vườn hoa thì nghe tiếng gọi:

- Anh ơi, lên đây. Em Thiền đây mà!

Tiếng gọi thân thiết mà lạ lùng. Bởi tôi và Thiền hàng năm mới gặp nhau, có hẹn hò gì đâu. Hôm nay không có tà áo thiên thanh, chỉ tấm áo cộc tay màu ghi đá rất gọn và khỏe. Thiền đưa điện hoa cho một công ty khai trương. Hỏi:

- Anh đi đâu?

Đành nói thật việc qua bên kia cầu. Thiền liền bảo đưa tôi đi. Tôi từ chối nhưng không được.

Bên kia cầu trời vẫn mưa, con sông ngầu đỏ cuồn cuộn, nước tràn lên cả mặt cầu. Thiền trầm lắng chỉ bờ cây xa lắc dọc bờ sông và nói:

- Em còn sống ở chùa xa kia.

Nhìn ra, bầu trời vùng tả ngạn sũng nước. Tôi sẽ đi đến đó. Chiếc xe cánh cam đỗ xịch, như không có gì xẩy ra. Nó đột nhiên vòng lại, và Thiền vẫy tay chào tôi, qua màn mưa dày đặc.

Cái chết của con Mực

Người ta định giết Mực đã lâu rồị Mực là con già hơn trong hai con chó của nhà. Nhưng cũng là con nhiều nết xấụ Nó tục ăn: đó là thường. Nó nhiều vắt: cái ấy đủ khổ cho nó. Nó cắn càn ấy là cái khổ của bọn ăn màỵ Nhưng nó lại sủa như một con gà gáy: cái này thì không thể nào tha thứ được. Thoạt tiên người ta định ngày chết cho nó vào dịp Thanh Minh. May cho nó hôm ấy bà chủ nhà bị ốm. Rồi thì là Tết tháng năm. Bỗng nhiên đứa con út của bà ươn mình: bà phải kiêng để lấy sữa lành cho con bú. Sau cùng người ta nhất định thịt nó vào rằm tháng bảy ai ốm mặc. Nhưng lần nầy Mực vẫn còn thoát nạn là vì nhờ có Dụ Người con cả xa xôi ấy vừa viết thư báo chẳng bao lâu sẽ về. Bà mẹ mừng như tìm được một vật quý bị rơi và bà nhất định lùi ngày xử con Mực lạị Bây giờ thì Du về rồị Chiều hôm qua con người phóng đãng ấy đã khệ nệ xách cái vali rất nặng bước vào sân, miệng mỉm cười và mặt đỏ. Cái nhà tranh, mấy cây cau hình như vừa đúng thẳng hơn lên để chào chàng. Rồi đến lũ em ầm ỹ đẩy mành chạy òa ra, và bà mẹ mừng quá cười và khóc. Nhưng kẻ lên tiếng trước nhất là con Mực. Con chó già nua ấy rít lên cái thứ tiếng gà gáy của nó và chạy lại Dụ Bà mẹ thét lên và lũ em chửi những câu thô tục. Du bỡ ngỡ nhìn mọi ngườị

- Hình như mẹ không được khoẻ, ồ các em đã lớn cả rồi: Thanh, Tú, đứa nào đâỷ à, Thảo con chuột nhắt, trông Thảo xinh quá nhỉ? À! Con Mực, vẫn con chó ngày ấy đấy à?... trông nó già đi tệ!...

Con chó đã nhận ra người chủ cũ. Nó đứng lặng vẫy đuôi, đầu cúi xuống, hai mắt nhèm ương ướt nhìn đất như tủi phận. Du thương hại: đó là người bạn lặng lẽ thui thủi bên chàng những năm xưa khi đêm vắng, chàng ngồi nhìn trăng mà oơ mộng. Chàng muốn cúi xuống vuốt vẹ Nhưng nó bẩn ghê gớm quá, lông rụng từng mảng, thịt trắng lộ ra có nơi sần mụn nữạ Dáng điệu thì già nua, có vẻ buồn và len lén như phòng bị một cách yếu ớt. Không còn những cái vẫy đuôi mạnh dạn những cái nhìn rất bạn bè và những cái hít chân vồ vập như khi một con chó đã vui và không ngờ vực. Du thấy lòng nằng nặng. Chàng đưa chân chạm khẽ vào con chó để tỏ tình thương. Con chó vẫy đuôi mạnh hơn nhưng len lén lánh ra: dáng điệu một kẻ sợ hãi cố cười với người nó sợ. Và tức khắc nó vặn vẹo mình và rít lên một tiếng ngắn và to; đứa em tưởng anh đá hụt trả thù cho anh bằng một cái đá mạnh vào sườn con vật. Nó lấm lét lảng dần cũng không dám chạy một cách thẳng thắn để đi trốn nữạ Du trách em:

- Sao Tú ác thế?

- Cần gì, đến mai giết thịt cho anh ăn đấỵ

Du thấy cái vui đoàn tụ giảm hẳn đi một nửạ Hình ảnh con chó ghẻ với cái buồn mơ hồ cứ lảng vảng trong óc chàng mãi mãị Sáng hôm sau lúc ăn cơm chàng thoáng thấy nó đi qua, đầu cúi mắt nhìn nghiêng như những người giả trá. Chàng muốn gọi nó vào kẹp nó vào giữa hai bàn chân và vừa ăn vừa vẩy cho nó miếng cơm chung một bát. Nhưng mà không thể được: dịu dàng quá là yếu tâm hòn, và ai hiểu được rằng mình lại có thể yêu thương một con chó bẩn ghê gớm như thế được? Bữa ăn xong, con Hoa cầm bát cơm ra: một tay nó xách cái thúng như để rồi xếp bát. Thấy được ăn, tất cả thú tính của con Mực hoàn toàn nổi dậỵ Nó nhảy tới vẫy đuôi hếch mõm nhìn và đợị Cơm vừa đổ xuống nó vội vàng chúi mõm ăn ngaỵ Miếng chưa qua cổ thì cái thúng đã chụp quanh trên mình. Nó rít lên, vùng mạnh; nhưng Hoa đã tì cả người lên cái thúng rồi, và con Mực bị thu gọn ở trong vừa vặn đến nỗi không còn giẫy và kêu được. Lũ trẻ con réo ầm lên. Người ta lấy sẵn dao thớt và dây để tróị Phần mở thứng đã đành phải về Du: ông chủ đi vắng, cả nhà chỉ có chàng là đàn ông, mà không lẽ đi mượn hàng xóm trói giùm một con chó đã úp gọn gàng chỉ việc hơi hé cạp thúng lên, hễ chó thò đầu ra thì một đứa em đặt gậy lên cổ nó để chân chàng dận xuống. Nhưng tay chàng thấy run run. Và khi con chó vừa thò đầu ra thì nó quẫy luôn một cái mạnh, vùng ra được. Con Hoa tủm tỉm cườị Lũ em ngơ ngác nhìn theo con chó vừa ẳng ẳng vừa chạy ở ngoài vườn. Còn Du thì mặt đỏ như gấc chín. Chàng thấy mình yếu tay hơn cả con Hoạ Có lẽ nào chàng lại dịu lòng hơn cả một người con gáị Và tự nhiên chàng giận con Mực. Người ta còn lo con Mực sợ hãi mà đi mất. Quả nhiên suốt ngày hôm ấy nó không về. Nó vẩn vơ vườn hàng xóm, lẩn lút như một con chó trước khi hóa dạị Người ta tưởng đã mất toị Nhưng tối hôm ấy nó lần vào gầm giường rồi Du lại nghe thấy cái thứ tiếng gà gáy của nó rít lên ở phía ngõ. Sáng hôm sau nó vẫn bỏ cơm. Trưa cũng thế. Và cứ thấy bóng người lại cúp đuôi chạy mất. Du thương hại sai người đem cơm đổ ra vườn. Một lúc sau Mực lại gần. Nó trông trước trông sau, đưa mõm rê trên những hạt cơm rồi vô cớ giật mình chạy thẳng. Có lẽ cái kỹ niệm khủng khiếp vừa lóe ra và đập mạnh vào thần kinh nó như luồng điện. Du thấy bồn chồn và vẩn vơ: thương, hối hận hay là thẹn. Sau cùng thì chàng bực mình: chàng nhận ra rằng một con chó đã làm mất sực bình tĩnh của tâm hồn chàng. Và đột nhiên chàng muốn giết con Mực lắm. Chàng muốn có đủ can đảm để giết ngườị Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng đập? Sự do dự đã hết rồị Khi có một ý định thì ý định ấy chóng thành mạnh mẽ. Du thấy lòng cứng cỏị Đã có lúc chàng tưởng đến cái thú dí con dao vào súc thịt giẫy lên đành đạch để máu ấm phọt vào taỵ Và chiều hôm ấy khi thấy con chó ở vườn thì chàng gần như mừng rỡ. Con vật khốn nạn đói và sợ đã mệt lử đi rồị Nó hiện ngủ bên bờ giậụ Du cầm cái gậy to rón rén lại gần. Nhưng giơ gậy lên chàng bỗng thấy tim run một cáị Chàng tưởng như ngạt thở và ngừng lại một giây để nhìn con chó. Giấc ngủ của nó có lẽ đầy ác mộng vì thỉnh thoảng khắp mình nó lại giật lên. Du thấy lòng qủa quyết tiêu tán hết. Nhưng con chó bỗng giật mình. Du hoảng hốt thẳng cánh vụt mạnh trên mình nó, bụng nó thót hẳn vào rồi lại phình ra như một khối cao sụ Nó rống lên gượng dậy loạng choạng mấy vòng rồi chui bừa qua giậu trong khi Du vụt cuống cuồng theo xuống đất... Đêm đã khuyạ Du lại nghe tiếng Mực rống lên. Chàng thấy toát mồ hôi và nhất định không giết con chó nữạ Nhưng trời gần sáng chàng còn đương mơ mộng, thì đã nghe tiếng Hoa gọi cuống cuồng lên. Con vật khốn nạn không biết mỏi mệt thế nào mà ngủ quên đi ngay ở giữa san để đến nỗi bị Hoa úp được. Lần này thì người ta cẩn thận hơn. Hai ba người nắm vào hai đầu gậy tre ngáng sẵn bên cạnh thúng rồi Hoa mới hơi hé miệng thúng lên. Thấy sáng con Mực nhô ra ngoài cái mõm ướt phì phì. Hoa nhích lên tí nữa nhưng một cái gối đã tì sẵn trên thúng. Mực lách cả cái đầu rạ Cái gậy đè mạnh xuống. Con vật khốn nạn không còn kịp kêụ

- Đè chặt, thật chặt, đừng buông nó ra nó cắn đấy!

Du kêu lên như thế nhưng tiếng chàng đã hơi run run. Con chó phì một cái nữa: hơi thở mới thoát ra một nửa bị tắc. Cái gậy đè sát đất, mắt nó trợn lên. Lòng đen ươn ướt cứ đờ dần rồi ngược lên lần một nửa vào mí trên. Lòng trắng đã hơi đục. Lúc Hoa trói xong cả chân trước, chân sau và buộc mõm rồ thì con chó đã mềm ra không còn cựa quậy nữạ

Du nghẹn ngào nén khóc...">">">

Hoa hướng dương

Đơn độc giữa cánh đồng, một bông hoa hướng dương như một mặt trời bé nhỏ đứng lẻ loi toát lên màu vàng huyền diệu làm lu mờ cả mặt trời lúc bình minh. Ánh nắng ngọt ngào đến, dịu dàng vuốt ve, hôn cái hôn đầu làm bông hoa ngơ ngác, ngỡ ngàng. Dường như cả thế giới loài hoa phải nghiêng mình trước vẻ đẹp trong trắng dịu hiền của đóa hoa hướng dương đang sống trong tình yêu đầu tha thiết êm đềm...

Mặt trời lên cao dần và luôn hướng những tia nắng thật dịu dàng về phía bông hoa. Màu vàng huyền diệu của đóa hoa hướng dương làm mặt trời như sáng hơn. Hoa hồng rực rỡ hơn, hoa tuylip thơm hơn. Nhưng khi những hạt sương long lanh của buổi bình minh chưa kịp tan thì một trận cuồng phong bất thần kéo đến. Mây đen che kín bầu trời. Đất mù mịt. Mặt trời biến mất trong mây và bông hoa thảng thốt kiếm tìm... Rồi nó thút thít khóc. Những hạt ngọc long lanh thánh thót tan vỡ dưới gốc, thân hoa yếu ớt bị gió vật vã nhưng nhờ một sự thần diệu nào đó, nó vẫn xoay được về phía có mặt trời - nó chờ mong một sự chở che ấm áp - nhưng nó có ngờ đâu mặt trời của nó thường ngày hùng vĩ là thế mà giờ đây lại an phận lẩn kín trong mây. Ôi có lẽ nào mặt trời thân yêu lại nỡ bỏ mặc cho bão táp phong ba dập vùi thân hoa yếu đuối! Nhưng dẫu thế nào chăng nữa bông hoa vẫn thủy chung xoay mãi theo hướng mặt trời. Dẫu thế nào chăng nữa, bông hoa vẫn đứng vững trước phong ba, đàng hoàng uy nghi trong bão tố.

Cơn bão chưa qua hẳn nhưng giông bão lặng dần. Mây đen chưa tan hết nhưng mặt trời cũng hiện ra lấp ló... Lúc ấy mặt trời mới tìm kiếm bông hoa. Bông hoa vẫn đứng đó, những cánh hoa vẫn xòe căng tràn đầy, màu vàng huyền diệu vẫn đẹp chói chang nhưng bông hoa giận dỗi ngoảnh mặt đi, trên những cánh hoa còn thẫm đẫm bao giọt nước mắt dỗi hờn buồn tủi. Mặc cho mặt trời vuốt ve, năn nỉ, bông hoa vẫn chưa thể nào tha thứ dẫu nó thương mặt trời thân yêu đến cháy lòng!

Thời gian trôi đi, cuộc sống nhiều biến đổi. Ngày xưa mảnh đất nuôi hoa màu mỡ tốt tươi, bông hoa hướng dương chỉ việc lớn vô tư như bao bông hoa khác. Giờ đây mảnh đất nuôi hoa bỗng nhiên cằn cỗi. Bông hoa hướng dương khổ sở vật lộn với cuộc sống. Cuộc sống của nó lúc này sao khốn khó và nghiệt ngã quá chừng! Giữa lúc ấycó bao bàn tay êm ái cùng vươn tới muốn nâng đỡ bông hoa nhưng bông hoa đau khổ không mở lòng với bất cứ một ai, nó vẫn khép chặt cánh cửa trái tim, vẫn cứ sống một mình, âm thầm, lặng lẽ...

Ngày qua ngày, đứng giữa một rừng hoa rực rỡ, trông đóa hoa hướng dương nhợt nhạt hẳn đi. Nó bỗng khát thèm một cuộc sống bình thường, thật bình thường thôi để cuộc đời trả lại cho nó nguyên vẹn sự hồn nhiên tươi thắm của một thờI tuổi trẻ! Mặt trời buồn bã, âu sầu. Đóa hoa hướng dương vật vã đớn đau. Nó quỵ ngã dần trong bao nỗi khổ buồn cay đắng. Nó thương mặt trời bằng tình thương tha thiết trong tận cùng sâu lắng. Tuy rằng nó vẫn ngoảnh mặt quay đi, nhưng nó mãi mãi yêu mặt trời, đắm say và tha thiết như buổi ban đầu. Nhưng nó có ngờ đâu khi sắc màu của nó phai tàn dần theo ngày tháng, phai tàn dần vì cuộc đời vất vả nhọc nhằn thì mặt trời của nó lại bắt đầu dành thời gian trau chuốt cho những tia nắng bóng bẩy hơn xưa, và những tia nắng vui tươi ấy lại tung tăng trải rộng khắp cánh đồng, lại hớn hở nô đùa cùng những đóa hoa tuylip ngát hương và những cánh hồng tươi thắm. Nó có ngờ đâu khi đôi lứa chia phôi, khi cõi long nó đang tan nát thì mặt trời lại nhanh chóng rũ bỏ mọi ưu phiền để lại lao vào những cuộc vui mới với bao niềm hứng khởi.

Vậy thì trái tim nhân hậu và chan chứa yêu thương của bông hoa còn có ý nghĩa gì nữa trong đời? Thật bẽ bàng vì một kẻ khốn khổ khốn nạn lại dám xót thương một kẻ đang sống an nhàn sung sướng, đang ngụp lặn trong những nguồn vui bất tận. Bông hoa âm thầm sống và âm thầm khóc. Nó khóc mãi, khóc mãi, khóc cho đến khi những giọt nước mắt dần dần kết tụ quanh thân cây và hóa đá! Đến lúc ấy nó mới cay đắng nhận ra rằng cuộc đời này thật lắm điều gian dối và bạc bẽo. Trăn trở đêm ngày, trái tim hoa nghẹn ứ những niềm đau...

Đã bao lần mặt trời tìm đến hoa nhưng bông hoa không thể nào tha thứ. Đột nhiên, do một sự tình cờ, bông hoa biết được rằng trong suốt những ngày qua chưa một giây phút nào mặt trời nguôi thương nhớ. Bông hoa thấy mình có lỗi vì nó luôn nghiêm khắc với mặt trời. Đến lúc này nó mới thấm thía tình yêu sâu nặng của mặt trời, mới thấu hiểu "những ước mơ lặng thầm, những khát khao gần gũi" của mặt trời trong bao ngày thương nhớ chia xa... Ôi những bông hoa bé dại! PhảI chăng bông hoa bé dại chính là hội tụ tình thương để mặt trời tìm đến như "cái thiếu tìm về nơi sẵn có" ? Trời ơi! "Tâm hồn đói khát ư?" Có lẽ nào lại như thế được? Trái tim hoa buốt nhức.

Nó khóc nức nở. Nó ân hận xót xa vì những ngày qua nó không hề bù đắp gì được cho mặt trời yêu dấu. Nhưng bao giọt nước mắt nóng bỏng tuôn rơi vẫn không đủ sức làm tan chảy những giọt nước mắt ngày xưa đã kết tụ quanh thân cây và hóa đá, bởI lẽ mặt trời chưa làm sống dậy niềm tin trong trái tim hoa. Bông hoa hiểu rằng mặt trời vẫn yêu nó bằng tình yêu thiêng liêng nhất, rằng mặt trời không bao giờ quên nó trong đời. Nhưng còn lòng chung thủy? Đó, chỉ khi nào mặt trời nhen lại được ngọn lửa tin yêu ấm áp thì những mảng đá dưới chân hoa mới có thể tan chảy và trôi đi... Nhưng biết đến bao giờ? Biết đến bao giờ những nỗi khổ đau bất hạnh của bông hoa mới tan chảy và trôi đi như thế? Vẫn biết rằng "Tha thứ là sự báo phục quang vinh nhất" Nhưng bông hoa chỉ có thể tha thứ khi nào mặt trời tuyệt đối trung thành! ......... Ai mà biết được kết cục sẽ ra sao?......

Di chúc của Thị Trưởng

Thị trưởng thực tế chỉ là Phó thị trưởng. Thị trưởng họ Bốc, tên Chính Cánh. Nói lái chơi chữ đồng âm khác nghĩa, các đồng sự trêu đùa gọi ông là Bất Chính Kinh (nghĩa là làm những việc không đàng hoàng đứng đắn-ND).

Ông ha hả cười: Bất Chính Kinh thì Bất Chính Kinh! Kỳ thực, suốt đời ông đều làm những việc đàng hoàng đứng đắn được lòng dân, thuận ý dân.

Khi tại nhiệm, ông phụ trách Ủy ban Kiến thiết, xây dựng không ít khu nhà ở cao tầng cho dân chúng trong thành phố, giải quyết hàng loạt vấn đề phòng ở cho giới làm công ăn lương. Song, ông vẫn ở trong ngôi nhà bốn chục mét vuông.

Trong lòng ông rất thanh thản. Điều làm cho ông bất an là, một năm trước cấp trên yêu cầu ông chuyển đến ở ngôi nhà tầng dành cho cán bộ lãnh đạo cấp thành phố rộng 260 mét vuông. Ngôi nhà tầng này là do Phó thị trưởng mới nhậm chức phụ trách Ủy ban Kiến thiết xây dựng nên, sau khi ông về nghỉ hưu.

Bắt đầu, ông không muốn chuyển đến, nhưng không thể đứng vững được trước công tác tư tưởng nhiều lần của Bí thư thành ủy và Chánh văn phòng, họ nói rằng: Nếu như không chuyển đến là có ý kiến với lãnh đạo.

Cộng thêm là bà vợ càu nhàu suốt ngày. Cuối cùng ông mới chịu dọn đến. Vừa vào trong nhà là ông liền hối hận: Vùng trời của mình gồm có: Năm phòng ở hai phòng khách, hai nhà bếp, hai toalet, ngoài ra còn có một phòng chứa đồ đạc. Mỗi gian phòng tối thiểu cũng có 20 mét vuông.

Đại sảnh có đến 100 mét vuông, ở giữa còn có sân bàn cầu lông. Đêm đầu tiên đến ngủ, ông bèn mắc bệnh mất ngủ, nghĩ tới nghĩ lui, vẫn không tài nào ngủ được.

Nhớ lại, khi ông còn làm công nhân, bốn người ở trong một gian nhà tập thể 12 mét vuông, bình quân mỗi người không quá 3 mét vuông. Nhưng anh em con cái cùng nhau nói nói cười cười, vật lộn la hét, rất chi là vui lòng. Lúc làm giám đốc nhà máy, chẳng qua cũng ở một gian phòng làm việc, một cái bàn viết, cạnh bàn kê một tấm phản, ban ngày làm việc trên bàn, ban đêm nằm khểnh trên phản nghỉ ngơi.

Khi làm giám đốc sở Công nghiệp, vẫn ở trong phòng làm việc, chỉ tăng thêm một phòng khép kín, ban ngày làm việc bên ngoài, ban đêm ngủ trong phòng khép kín.

Sau khi làm phó thị trưởng, bắt đầu tạm thời ở tại chiêu đãi sở của cơ quan thành phố. Sau khi vợ từ nông thôn được điều lên thành phố, mới vào ở một ngôi nhà khép kín trong khu gia đình rộng 25 mét vuông.

Sau đấy, khi chuyển đến ngôi nhà ở 40 mét vuông, trong lòng ông đã bắt đầu có những điều bất an, công nhân nói chung, có ba thế hệ ông cháu, còn chưa được ở ngôi nhà lớn như thế này! Ông chỉ có hai người lớn, lại không có con, trái lại, lại được ở ngôi nhà to như thế này!

Dọn đến ở ngôi nhà 260 mét vuông, không bao giờ ông ngờ tới. Thế là bệnh mất ngủ của ông mỗi ngày một nặng, cuối cùng dẫn đến bệnh dạ du. Vào lúc nửa đêm, một mình đi đi lại lại trong phòng, lượn lượn lờ lờ, không rõ phương hướng đông tây nam bắc, nếu không tìm thấy phòng ngủ, thì cũng không tìm ra toalet.

Có một lần, ông lầm tưởng phòng chứa đồ là toalet, đái một bè vào bột mỳ, ngày hôm sau bị vợ mắng cho một trận nên thân.

Ông quyết định điều chuyển chỗ ở, muốn chuyển sang ngôi nhà ở khác nhỏ hơn một chút. Ông lập tức đệ đơn lên Bí thư thành ủy. Bí thư thành ủy tìm gặp ông trao đổi, khuyên ông rằng: "Vì cách mạng đã làm việc già nửa đời người, bây giờ đã về hưu rồi, cũng nên hưởng hạnh phúc mấy ngày". Ông nói: " Đây không phải là hưởng phúc, mà là chịu tội."

Bí thư thành ủy bất lực, thoái thác rằng phải lập tức đi họp thường vụ thành ủy, bảo ông đi tìm Chánh văn phòng giải quyết. Chánh văn phòng là người ông trực tiếp đề bạt lên khi ông còn tại nhiệm, gặp ông nói chuyện rất tự nhiên, không cần ý tứ rào đón gì.

Chánh văn phòng nói: " Cán bộ cấp thành phố ở nhà này là do quy định nội bộ của thường vụ thành ủy. Nếu bác chuyển đi, thì làm cho người ta xấu mặt! Nghĩa là bác cách mạng, nghĩa là bác không xa rời quần chúng, còn người ta đều kém bác, có phải thế không?!"

Ông quyết tâm đòi chuyển đi. Chánh văn phòng nói: "Thế thì sẽ đề xuất trong hội nghị thường vụ, sau khi nghiên cứu sẽ bàn sau nhé!"

Việc nghiên cứu này, hai tháng sau vẫn chưa có tin tức. Bệnh mất ngủ của ông đã hợp nhất với chứng bệnh dạ du, bệnh nhân đã vào giai đoạn hấp hối. Các chuyên gia phục vụ cho lãnh đạo hội chẩn, hàng ngày đều cử người đến chẩn trị cho ông, nhưng đều không thấy thuyên giảm chút nào, họ khuyên ông vào nằm viện, nhưng ông lại nói: " Không chuyển nhà, thì tôi không bước vào cổng viện!"

Ở lỳ trong ngôi nhà 260 mét vuông, hàng ngày ông nằm trên giường, mê mê sảng sảng ngắm nhìn trần nhà, thở dài thườn thượt. Chánh văn phòng đến thăm ông, ông phớt lờ. Chánh văn phòng nói ngon nói ngọt mãi, xin ông nói.

Ông nói: " Số trời của tôi không còn nhiều nữa, bây giờ xin để lại di chúc, mong anh báo lại với lãnh đạo!"

Chánh văn phòng nói: " Thưa bậc lãnh đạo lão thành, cháu xin nghe đây!"

Ông nói: " Sau khi tôi chết sẽ hỏa táng, dứt khoát phải làm cho tôi một lọ tro xương cỡ nhỏ. Ngôi nhà rộng lớn tôi ở thực sự không quen, trong lòng trống trải lắm cơ!"

Chánh văn phòng đứng ngây ra mãi, không biết nói gì cho được.

Ngày hôm sau, Thị trưởng từ trần.

Gã làm thuê

Gã ngồi tựa vào gốc cây xà cừ nhìn đường phố. Đang giờ người ta đi làm, đường phố đông nghẹt người. Mà sao bây giờ họ lắm tiền nhiều của thế, xe máy ô tô ken vào nhau nghẽn tắc cả đường. Toàn là loại xe sang trọng. Ô tô xịn, xe máy cũng toàn loại xịn và đắt tiền. Nghe nói những cái xe máy bọn choai choai đang cưỡi kia, có cái đến cả trăm triệu đồng, đời gã có nằm mơ cũng chả bao giờ dám mơ tới. Gã chỉ ước gì mua được một các xe đạp tốt cho con gái đi học. Gia tài đáng giá nhất nhà gã chính là chiếc xe đạp sét gỉ gã đang dựa ở gốc cây này. Cái xe mà khi còn ở quê, buổi sáng con gái dùng đi học, buổi chiều gã dùng đi thồ gạch. Bánh xe được gia cố thêm mấy thanh sắt làm nan hoa để khi chở nặng khỏi bị gãy vành. Khi lên thành phố làm thuê, gã đem theo cái xe đạp để chuyên chở đất thải, con gái gã phải đi bộ tới lớp. Từ nhà tới chỗ nó học cũng phải gần bốn cây số... Gã chợt thấy đói cồn cào. Từ hôm qua đến giờ gã chưa có gì cho vào cái bụng lép kẹp. Tối hôm qua lẽ ra thì gã đã có một bữa ngon lành. Bởi mấy ngày vừa rồi gã "may mắn" được một ông thuê phá dỡ hai gian nhà cấp bốn. Đây là mấy gian nhà ông này làm cho mẹ ở. Khi bà cụ mất, ông ta liền phá đi. Gã được ông ta thuê đến thuê phá dỡ, giải phóng mặt bằng lấy để làm nơi treo hoa phong lan và bày cây cảnh. Gã biết, ông này là một cán bộ cấp bự. Làm quan to nên ông đón mẹ từ quê lên phụng dưỡng. Bà mẹ già mắt mờ, chân chậm, lại vốn dĩ là nông dân tần tảo vất vả cả đời nên về già ốm yếu, bệnh tật. Bà cụ sinh hạ được mỗi ông ta là con duy nhất. Chồng chết, cụ ở vậy nuôi con, lần hồi sới đất lật cỏ kiếm từng xu từng hào cho ông ăn học nên người, lam quan chức to nhất vùng. Dân làng thấy ông đánh ôtô về đón mẹ lên thành phố, ai cũng trầm trồ khen ông có hiếu. Bà hàng xóm cứ nức nở mãi: "Thế mới đáng là con cái chứ! Đúng là đẻ con khôn mát... rười rượi, chả bù mấy thằng giặc nhà tôi phá gia chi tử..." Ông bán hết nhà cửa, ruộng vườn rồi đưa mẹ ra đi trong sự thán phục của cả làng. Lên Hà Nội, bà cụ vẫn quen lối sống tùy tiện thoải mái như ở quê. Bà cụ nhai trầu bỏm bẻm suốt ngày. Nước cốt trầu vương vãi trên salon, và nền phòng khách được lát bằng gỗ quý khiến vợ ông rất khó chịu. Bà vợ ông càng bực bội mặt nặng, mày nhẹ mỗi khi ăn uống cụ làm rơi vung vãi cơm, đổ cả canh ra bàn ăn. Ông cán bộ nọ cũng nhiều phen phát bực vì bà cụ làm cho phát ngượng do mấy lần có khách hỏi thăm, cụ cứ rỉ rả kể lại mãi chuyện quê, chuyện ngày xửa ngày xưa nuôi con vất vả, chuyện ông bíếng học hay chơi bời lêu lổng. Có lần ông đã quát mẹ khi khách vừa mới ra khỏi cửa khiến bà cụ tủi thân cứ sụt sịt mãi. Còn bà con dâu và thằng cháu đích tôn thì thường xuyên trì triết, hạch sách mỗi khi cụ làm đổ nước hay rớt bã trầu ra sàn nhà. Bà cụ buồn lắm. Suốt ngày lầm lì như cái bóng trong căn biệt thự sang trọng. Khi con cháu đi vắng, cụ muốn mở tivi nghe dân ca cho đỡ buồn. Nhưng con dâu sợ làm hỏng tivi nên đã rút mất phích điện. Giá như còn ở quê, cụ sẽ sang nhà bà hàng xóm cùng nhau giã trầu hay tuốt rơm nếp để tết chổi. Còn ở đây giữa chốn nhà cao cửa rộng nhưng cổng khóa, then cài, cụ như bị giam lỏng. Bà cụ muốn trở về quê nhưng đâu còn nhà cửa mà về. Một lần cụ bảo: "Hay cho mẹ về quê, ở đây mẹ thấy không hợp!" Ông con trai đã gạt đi: "Mẹ về quê thì ở vào đâu, nhà đã bán mất rồi!" Còn bà con dâu nói mát: "Sướng lại chả muốn!" Thằng cháu đích tôn thì lấc cấc: "Cụ về quê lấy ai khuya sớm phụng dưỡng tuổi già!" Mặc dù từ ngày đón mẹ ra ở cùng bao nhiêu phiền nhiễu nhưng con trai, con dâu chẳng bao giờ muốn cho mẹ về quê. Với họ không phải vì đã trót bán mất ngôi nhà của tổ tiên để lại. Chỉ cần vài ba chục triệu là họ thừa sức mua đất và làm cho mẹ căn nhà khác ở quê. Nhưng họ còn mặt mũi nào. Đã được tíếng là hiếu thuận thì phải giữ chứ với lại còn uy tín của ông, của bà trước cơ quan nữa. Thời buổi này cái ghế của ông không ít kẻ nhòm ngó, sơ sảy một tý, sụt giảm uy tín một chút là hỏng ngay. Hơn nữa để bà cụ ở Hà Nội cũng có thêm một nguồn thu đáng kể. ấy là khi tổ chức mừng thọ cho cụ, dịp tết nhất và cả những khi cụ trái gió trở trời ốm đau anh em trong cơ quan, những người được ông bà nâng đỡ sẽ đến chúc mừng, hay thăm hỏi và đều có quà cáp. Quà thì đâu chỉ có cân đường, hộp sữa, nải chuối hay chục trứng gà như ở quê mà là phong bì dày cộp trong để toàn tiền mệnh giá lớn hoặc đôla. Khi thấy để mẹ ở nhà trên gây nhiều phiền phức, ông bàn với vợ làm hai gian nhà cấp bốn ra góc vườn đưa bà xuống đấy ở. Bà vợ ông sốt sắng đồng ý ngay. Thế là bà cụ chỉ còn được lên nhà trên mỗi khi mừng thọ hoặc ngày tết và lúc nào đau ốm để cho mọi người trong cơ quan con trai con dâu đến chúc mừng, hoặc thăm hỏi. Những người đến thăm hỏi, chúc mừng bà cụ chẳng qua chỉ là cái cớ. Họ đến để cống nộp là chính. Bà cụ đã trút hơi thở cuối cùng vào một đêm mưa gió trong ngôi nhà cấp bốn ẩm thấp nơi góc vườn. Ngay trong đêm, thi hài cụ đã được di chuyển đến quàn trong phòng lạnh của một nhà tang lễ lớn nhất thành phố. Tại đây cụ được tổ chức tang lễ thật trọng thể. Có rất nhiều đoàn đến viếng. Người làng trong đoàn của địa phương lên dự lễ tang ai cũng nể phục. Vòng hoa nhiều vô kể, không thể đếm nổi. Chẳng có kèn trống như ở quê. Không có các vị sư sãi, các vãi già đến đọc kinh, chèo đò để người chết được siêu thoát được sang Tây Thiên với phật. Quan tài cụ được xe tang đưa thẳng ra đài hóa thân hoàn vũ. ấn nhẹ công tắc điện một cái là đã thành mây khói, chút tro cốt còn lại được cho vào lọ. Thế là xong. Việc này chắc khi con sống bà cụ đã từng nghĩ đến. Cụ sợ lắm. Cụ rất muốn về quê có chết thì về với ông bà ông vải gặp lại mấy bà bạn cùng tuổi đã đi trước nhưng ông con thì không chịu. Sau đám tang, ông con trai nghĩ ngay đến số tiền phúng viếng, nhẩm tính sơ sơ cũng đủ mua một cái xe ôtô mới tương đối xịn. Và việc ông phải làm đầu tiên là cho phá ngay căn nhà cấp bốn góc vườn. Gã làm thuê được gọi đến. Biết sự tích của căn nhà, gã cũng thấy bùi ngùi. * Gã làm thuê bắt đầu phá dỡ dần từng phần căn nhà cấp bốn. Gã cố để lại một góc để ở tạm mấy hôm. Vì buổi tối gã mới có thể thu dọn đống vôi vữa, gạch vụn rồi dùng xe đạp thồ chở ra đổ trộm ngoài bờ đê. Ban ngày mà chuyên chở những thứ này thì sẽ bị công an tóm ngay, với lại muốn đổ trộm những thứ phế thải ra bất cứ chỗ nào cũng đều phải đợi khi đêm đến. Ông chủ nhà dặn gã làm ăn phải cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến ông ta. Gã vâng vâng dạ dạ để ông ta yên tâm. Sau khi phá nốt góc căn nhà cấp bốn, nơi mấy đêm vừa rồi gã chừa lại lấy chỗ ngả lưng sau những chuyến chở phế thải đi đổ ngoài bờ đê, gã rụt rè lên phòng khách ngôi căn biệt thự gặp ông chủ. Nhìn nền gạch hoa và gỗ bóng loáng gã cứ xoa mãi hai bàn chân mà không dám bước vào. Ông chủ nhà hất hàm hỏi: - Đã xong xuôi cả chưa? - Thưa bác chỉ còn một xe đất thải cuối cùng tối nay cháu sẽ chở đi và xin phép bác đi luôn ạ! - Vậy thanh toán tiền công hả? - Vâng! Nhưng cháu cũng có việc xin báo với bác... Gã vừa nói vừa móc trong túi cái quần bộ đội cũ ra một gói ni lông được chằng buộc bằng những cái dây chun rất kỹ đưa cho ông chủ nhà. - Cái gì đây? - Dạ! Cháu tìm thấy nó khi phá chỗ góc nhà lúc chiều. Chắc là của bà cụ cất giấu. Là vàng và tiền ạ... - V...à...n...g... h...ả...? Ông ta gần như giật phắt cái gói từ tay gã nhanh như một con chim cắt chộp mồi. Chẳng nề hà cái gói ni lông đầy bụi bẩn và dính nước cốt trầu đen xỉn. Ông lập cập mở ra. Trong gói có một đôi hoa tai, một cái nhẫn vàng và một cuộn toàn tiền lẻ độ vài trăm nghìn đồng. Nhưng lại có hai tờ một trăm đôla cuộn bên ngoài. Đây chắc là của người nào đó mừng tuổi bà cụ hôm tết mà ông không biết để thu hồi. Ông hất hàm hỏi gã làm thuê: - Chỉ có thế này thôi à? - Vâng ạ! - Có đúng thế không? Gã làm thuê thấy mình bị xúc phạm. Gã khinh bỉ nhìn ông chủ nhà. Gã đã quá thật thà đem trả lại toàn bộ số tài sản tìm thấy thế mà không được một lời cảm ơn lại còn bị nghi ngờ. Gã định bỏ đi nhưng ông chủ nhà gọi giật lại: - Thằng kia đứng lại, tại sao mày không trả lời tao? Nghe tiếng ồn ào ngoài phòng khách bà chủ nhà và thằng con chạy ra. Biết chuyện bà chủ chu chéo: - Thôi chết tôi rồi! Cho bà ấy ăn mặc đầy đủ thế mà bà ấy còn lén lút cất giấu tiền của. Mà thằng kia, mày còn giấu giếm cái gì ở đâu không hả... Mấy đêm vừa rồi mày chở bao nhiêu chuyến đi rồi. Nó đem cái gì ra ngoài ông có biết không... Ông phải gọi công an đến khám xét, tra hỏi thằng này ngay cho tôi... -Bà im đi, để tôi hỏi nó, gọi công an có mà... Thằng con cầm cái nhẫn vàng của bà nội giơ lên lật đi lật lại xem xét rồi nói nhỏ với bố:

-Thằng này để con xử lý mới được! * Lẽ ra gã đã đi khỏi cái nhà này ngay sau khi bị ông chủ nhà xúc phạm nghi ngờ gã bớt giấu tiền vàng tìm thấy khi phá dỡ căn nhà cấp bốn. Nhưng vì chưa được thanh toán tiền công nên gã chưa đi được. Khi gã đang đang chuẩn bị ăn cơm thì thằng con ông chủ dẫn theo một thằng nữa mặt mũi vẻ hung hãn ra chỗ góc vườn. Hai thằng đạp đổ nồi canh đầu cá đang nấu và dí dao vào cổ gã làm thuê. Giọng chúng sực mùi rượu: "Mày giấu tiền, vàng nhà tao ở đâu!!!" Gã nhìn hai thằng côn đồ với vẻ mặt coi thường. Chỉ cần một cái vung tay của gã thì hai thằng oắt con này chết sặc gạch, không kịp ngáp. Nhưng gã không thèm chấp lũ vô lương. Gã bảo: - Không có tiền vàng nào hết! Có bao nhiêu đã đưa ông chủ cả rồi. - Vẫn còn! Khôn hồn thì nôn ngay ra! - Đưa hết rồi! - Hết... rồi... à...? Mũi dao trong tay thằng con ông chủ nhích thêm một tý. Máu từ cổ gã rơi xuống ngực áo. Đã thế thì... Bằng một động tác quét chân và vung tay của gã, hai thằng côn đồ đã văng ra xa mấy mét. Chúng lồm cồm bò dậy vung dao định xông vào. Mẹ kiếp! Bọn này muốn chết thật rồi. Gã chợt nhớ lại bữa hai tên lính ngụy cũng từng cầm dao găm lao vào gã như thế này trong một trận đánh khi gã còn là lính của một đơn vị đặc công. Bọn khốn này chắc cũng muốn số phận giống như hai tên lính ngụy ngày nào đây. Hai bàn tay gân guốc của gã vo lại thành hai nắm đấm. Giữa lúc ấy thì ông chủ nhà xuất hiện vội vã ngăn lại. Thực ra ông ta đã theo dõi vụ việc "xin tý tiết" của thằng con ngay từ đầu. Ông bảo: "Thôi để nó đi đi..." Gã làm thuê ném cái nhìn khinh miệt vào cái bản mặt phì phị của ông chủ nhà. Gã nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, hất trả lại bao vôi vữa phế thải rồi dắt chiếc xe đạp ra khỏi ngôi biệt thự. Trở về chỗ "chợ người" đầu đường Hoàng Quốc Việt, gã ngồi dựa gốc cây xà cừ ngủ gà ngủ gật bởi mấy ngày đêm mệt mỏi phá nhà, chuyển phế liệu.Khi gã đang mắt nhắm, mắt mở nhìn dòng người nườm mượp trên phố thì có tiếng gọi: "Ê! Phụ hồ có đi không?" Sao lại không! Gã nghĩ đã là kiếp làm thuê còn kén chọn gì nữa. Gã vội đạp xe theo mấy đứa cùng bọn chuyên đi bán sức ở thành phố. Cả bọn hì hục gánh cát, bê xi măng, trộn hồ, xách vữa leo lên giàn giáo. Lên lên xuống xuống, chân gã bủn rủn, bụng đói cồn cào. Đầu óc gã trống rỗng. Lúc vác bao xi măng leo lên tầng, gã cứ lâng lâng như đi trên mây. Đột nhiên, gã thấy mình chơi vơi như bay vào khoảng không vô định... Gã tỉnh lại và giật mình thấy đang nằm trong bệnh viện. Một cánh tay gã cuốn băng, nẹp cứng treo lên cổ. Gã hốt hoảng nhỏm dậy ngơ ngác nhìn quanh. Cô y tá bảo gã bị ngã giàn giáo được mấy người cùng làm đưa vào viện. May gã chỉ bị gãy tay. Gã bị ngất là do đói quá. Gã chán nản nằm xuống giường. Thế là ky cóp được mấy trăm nghìn đồng cũng chả đủ nộp viện phí. Mấy ngày vừa rồi làm việc cật lực mà chẳng được đồng tiền công nào lại bị bố con ông cán bộ nọ vu cho là ăn cắp. Gã chợt nghĩ: "Biết trước bố con nó bất lương thế thì đừng trả lại số tiền vàng ấy còn hơn". Nhưng rồi gã lại gạt ngay cái ý nghĩ ấy bởi vì những thứ của cải không phải của mình có chết gã cũng chẳng màng. Gã phải nhắn anh bạn cửu vạn cùng làng đến vay thêm để thanh toán viện phí. Tay gãy thế này có lẽ gã đành trở về quê ăn bám vợ thôi. Nghĩ đến vợ, gã lại thấy bồn chồn trong lòng. Vợ gã biết xoay xở thế nào đây. Vợ gã vốn là người ốm yếu chẳng làm được việc gì nặng. Tính gã gia trưởng, không vừa ý là quát tháo, bạt tai vợ con ngay. Gã làm hùng hục suốt ngày như trâu húc mả thế mà nghèo vẫn cứ nghèo. Đi làm thì thôi về đến nhà nhìn căn nhà trống huếch, trống hoác, mẹ ốm nằm một giường, vợ ốm nằm một góc là gã lại muốn phát điên lên. Vợ gã là một người đàn bà luôn hết lòng vì chồng con. Suốt đời thị cam chịu. Chưa bao giờ gã thấy thị kêu ca, phàn nàn dù có thiếu thốn, đói khổ, kể cả những khi biết chuyện gã kiếm được tiền, ngán cảnh vợ ốm yếu mò lên tận thị xã chơi gái. Đến bữa ăn, có miếng nào ngon thị cũng dành cả cho mẹ và chồng con. Có lễ cả đời gã sẽ chẳng bao giờ quên chuyện một lần sau bữa ăn ngon miệng, gã xuống bếp tìm cái bật lửa để châm điếu thuốc. Gã bất chợt bắt gặp cảnh vợ gã đang lén gặm lại cái xương gà của con bé gặm dở lúc nãy. Làm thịt một con gà giò, thị gắp miếng thì cho mẹ, miếng thì cho chồng, miếng cho con. Còn thị suốt bữa chỉ gắp toàn rau cho mình. Sau bận ấy, gã thấy thương vợ hơn, đỡ mắng chửi quát tháo mỗi khi bực dọc. Gã định ra Hà Nội làm thuê chuyến này cố ky cóp để mua cho con gái cái xe đạp đi học, mua cho vợ bộ quần áo. Mấy năm nay gã thấy thị chưa có một bộ quần áo nào cho ra hồn. Thế mà bây giờ mọi dự định của gã đều tan thành mây khói. Gã tập tễnh dùng một tay dắt chiếc xe đạp lọc cọc ra ga để lấy vé về quê. Trời lất phất mưa. Đã cuối mùa thu. Một cơn gió lạnh bất ngờ thổi tràn trên phố.

Giọng nói cô ấy

Ở vòng xoay thứ hai, một vướng mắc nào đó khiến chìa khóa khựng lại. Dừng vài giây, chậm rãi lựa chọn, dùng lực bàn tay đẩy nhẹ. Cuối cùng thì cánh cửa xe bật mở. Người trung niên ngồi vào sau tay lái, khởi động máy, nhấn nút hạ thấp cửa kính. Ghế bên cạnh, chiếc áo khoác len đỏ vắt lưng chừng, hai tay dang rộng, sắp tuột hẳn xuống sàn. Trong bóng tối mờ xám rầm rì, chiếc áo cũ giống hệt lớp vỏ rỗng của một cơ thể bị đánh cắp, nhưng còn lưu lại hình dáng và chút mùi hương yếu ớt.

Người đàn ông vươn tay, đặt lại chiếc áo nằm gọn trên mặt ghế, vuốt phẳng các vết nhàu. Ban nãy, cách đây mươi phút, trong quán, ông đã không sao rời mắt khỏi nếp nhăn tình cờ hiện ra trên ngực áo San, cô gái nhỏ đang sống cùng ông. Ngay cả khi San ngả người liên tục sang phía ông hay vươn cổ nhìn Vĩnh ngồi đối diện, háo hức nghe anh ta nói về công năng của cột nhà gỗ thông và các bức vách di động vùng Bắc Âu, thì nó vẫn ở nguyên đấy, tựa loài bò sát ma quái.

Trong một chuyển động ngẫu nhiên, khuy nút trên ngực áo San buột ra. Nếp nhăn đột ngột biến mất. Bên dưới lần vải mềm và trong, làn da trơn nhẵn đang thở phập phồng. Chỉ cần chạm nhẹ, lớp biểu bì căng mọng ngả sắc vàng ngà ấy hẳn sẽ truyền sang tay ông hơi ấm dịu ngọt. Ý nghĩ khiến ông chóng mặt đến nỗi phải hít vào phổi một hơi thở sâu. Bên kia bàn, gã kiến trúc sư trẻ trước kia từng là học trò và cộng sự của ông thoáng nheo mắt. Khoảnh khắc lướt qua cực nhanh. Rồi anh ta thản nhiên nối tiếp câu chuyện với San, âm sắc giọng nói không suy suyển. Bất chợt, ông xen vào đối thoại bất tận giữa họ:

- Đợt này cậu về nước nghỉ đông hay còn theo dự án nào khác?

- Em chưa có kế hoạch! - Vĩnh hơi nhướn mày, thả về ông cái nhìn thăm dò - Thầy nghĩ, em nên làm gì?

- Tôi đang có dự án thiết kế nội ngoại thất một khu biệt thự sinh thái. Cậu có thể tham gia, nếu muốn!

- Chắc là muốn! - Vĩnh điềm đạm - Thầy biết đấy, em luôn luôn cần tiền!

- Anh mà cũng làm việc cực khổ? - San kêu lên - Em nghĩ anh giàu lắm kia!

- Ngược lại, tôi rất nghèo - Anh ta bật cười, nhạo báng sự thành thật của chính mình - Tôi phải để dành nửa năm để mua vé máy bay về nước.

Ngờ vực khiến đôi mắt to của San ngả sang màu xám tro. Nữ nhân viên phục vụ bước đến, đề nghị lấy thêm chút rượu vừa hâm nóng. Ông lắc đầu, nhưng nhắc cô ta rót cho Vĩnh. Uống hai cốc nước lạnh, ông vẫn bức bối kỳ quặc. Mồ hôi dấp dính ở cổ và cánh tay. Sau khi thanh toán hóa đơn, ông phủ bàn tay lên đầu gối San mát dịu dưới gầm bàn, đề nghị ra về. Hơi vùng vằng, cô bảo ông ra bãi lấy xe trước. Cô cần vào WC, vẽ lại đường viền quanh mắt. Vẫn ngồi im bên bàn, Vĩnh thờ ơ vươn tay nhặt cốc nước của ông, ngửa cổ uống cạn. Qua đáy thủy tinh, đôi mắt đen thẫm của anh ta được phóng to, chăm chú nhìn ông, ranh mãnh nhưng lạnh lẽo.

2. Ngoài xe, bóng tối căng phồng khiến đêm khuya lạnh hơn chính nó. Chênh lệch độ ẩm làm mắt kính của người trung niên hoen mờ. Ông tháo nó, chùi kỹ bằng mảnh bọt xốp, lơ đãng nhìn những khối xe lao đi vùn vụt. San vẫn chưa rời quán. Sự bồn chồn trồi lên từ đáy ký ức xa xăm. Ông chợt nhận ra, đã rất lâu, không ai, không điều gì buộc ông chờ đợi. Mọi thứ tuân theo một lộ trình hoàn hảo. Ngay cả khi trong ông thấp thoáng nỗi mệt mỏi và cảm giác cô độc của tuổi tác, San xuất hiện. Cô là phiên dịch tại cuộc hội thảo quốc tế ông tham dự cách đây nửa năm. Hơn bất kỳ ai ông từng biết, cô tươi trẻ, thiếu kinh nghiệm, không mấy thông minh, nhưng nồng nhiệt. Dần dần, ông phát hiện sự lôi cuốn đặc biệt cô ta tỏa ra chính là nỗi lo sợ dai dẳng cái viễn cảnh thiếu thốn, bị bỏ mặc. Nhiều đêm, San chồm dậy, ngồi im trên giường, mắt trợn trừng. Tim cô ta đập mạnh đến nỗi ông thức giấc. Hồi lâu, San bỗng thì thào: "Anh sắp đi đâu phải không?". Ông tỉnh táo: "Không. Đừng sợ!". "Anh giữ em hoài chứ?". "Ừ!". Cô ta nằm xuống, nức nở thêm một lúc rồi ngủ thiếp, cái đầu đẫm mồ hôi vùi trong tay ông. Ở một lẽ nào đó, lòng tin cậy vô điều kiện của San khiến ông vững tin vào chính mình. Chỉ có tối nay, ông lờ mờ nhận ra vài điều bất an.

Sửa lại cổ áo jacket bằng len lạc đà mềm mại, người trung niên đưa mắt nhìn đồng hồ. Tối nay ông cần xem lại hồ sơ dự án thiết kế chuẩn bị cuộc họp đầu tuần. Mười tám phút đã trôi qua. Ngay khi ông rút điện thoại gọi cho San, từ ngách tối của quán ăn, cô và Vĩnh bước vào vùng sáng ngọn đèn cao áp. Hai cái bóng mảnh khảnh bước chậm, không ngừng câu chuyện. Tiếng nói líu nhíu hay giọng cười phấn khích của San vọng đến đôi khi. Gió mạnh. Cô gái bước loạng choạng, như sắp ngả hẳn vào người bên cạnh. Vĩnh đưa tay đỡ nhẹ lưng, giúp cô ta ngồi vào trong xe.

Khoác thêm chiếc áo len đỏ, San vẫn bị lạnh. Cô im lìm bên cạnh ông, chóp mũi tái nhợt. Từ khu trung tâm về nhà họ mất ba mươi phút. Ông cho xe chạy nhanh hơn. Trên con đường dọc theo bờ sông, xe tải như bầy thú hoang rùng rùng kéo vào thành phố. Một hồi kèn chói tai rúc lên, luồn thẳng vào trong xe. Người trung niên rùng mình. San đột nhiên quay sang ông:

- Anh không hỏi xem Vĩnh nói gì với em sao?

- Không! - Ông chăm chú nhìn con đường sâu thẳm phía trước.

- Cũng chẳng có gì đâu! - Cô gái bắt đầu gặm móng tay - Dù sao, anh ta đã làm em thấy buồn cười vì đủ thứ chuyện vớ vẩn.

- Vậy cũng được!

Cô gái ngọ ngoạy liên tục. Cái áo khoác căng phồng, không một nếp nhăn. Bất giác, ông nghĩ đó là do bàn tay trắng xanh vẫn còn nguyên trên lưng San.

3. Dù được vẽ thủ công theo kiểu xưa hay thực hiện trên loại máy Mac hiện đại nhất, thì các bản đồ án thiết kế luôn tạo cơ hội nhìn vào một tương lai mà ông biết rõ sẽ thành sự thật, nhưng không thể tin sẽ hiểu biết về nó hoàn toàn chính xác hay chắc chắn. Gần cuối năm, nhân viên của ông không mấy tập trung. Họ liên tục nói về cổ phiếu, nhãn hiệu xe hơi, hay lựa chọn thời cơ tìm một ngôi nhà ở các khu dân cư cao cấp. Tất cả những giấc mơ ấy ghép nên một trạng thái chung, mơ mộng và mệt mỏi. Vĩnh xuất hiện, đột ngột tạo nên bầu không khí đượm mùi thù địch, nhưng phấn khích. Đôi mắt dịu dàng mà xấc xược của anh ta, thói quen chùi kỹ những ngón tay trắng xanh bằng chiếc khăn ca-rô khiến xung quanh lo sợ. Các buổi brainstorm, bằng sự thờ ơ hay châm biếm cay độc, anh ta hạ giá mọi phát biểu của nhóm kiến trúc sư. Đồng thời, ý tưởng anh ta đưa ra gây nên tranh cãi dữ dội. Nhưng, người trung niên vẫn thừa nhận, cộng sự cũ của ông có khả năng đặc biệt. Đặc biệt đến mức anh ta khó lòng được chấp nhận, ở bất kỳ ngóc ngách nào trên thế giới này.

Sau ngày làm việc căng thẳng, Vĩnh bước vào phòng người trung niên, chuyển bản vẽ vừa hoàn tất. Đưa mắt lướt nhìn sơ đồ và hình ảnh các công trình nổi bật mà công ty từng thực hiện được đóng khung treo dọc bức tường, anh ta chợt hỏi:

- Thầy chịu được tất cả mấy thứ này ư?

- Có lựa chọn khác sao?

- Những gì đã xong luôn khiến em chán ghét. Mọi phát kiến về thiết kế chỉ đáng say mê cho đến khi được thực hiện. Sau đó, em muốn bỏ rơi chúng ngay, chạy theo những ngọn cờ sặc sỡ mới. Thầy biết đấy, em đi lung tung khắp nơi, chẳng gắn bó với một chỗ nào lâu dài, đơn giản vì em sợ.

- Cậu sợ gì? - Ông bước đến máy pha cà phê, rót cho anh ta một cốc đầy.

- Hồi mới tốt nghiệp, em cũng lao đi làm, kiếm hàng đống tiền. Nhưng một đêm, em thức giấc, nhận ra có vài giấc mơ sẽ không bao giờ trở thành sự thực. Đột nhiên em thấy đang già đi! - Vĩnh uống cạn cốc cà phê nóng rãy, đôi mắt trống rỗng - Em muốn điên lên khi nghĩ thời gian còn lại chỉ dành để xem TV cho đến hết đời...

Vĩnh nhảy lên cái xe máy tồi tàn có tiếng nổ ầm ĩ, phóng vọt ra khỏi công ty, luồn vào dòng xe tấp nập. Ngồi im trước các màn hình sáng lóa, người trung niên xem bản vẽ Vĩnh mới đưa. Ông gọi điện cho San, báo sẽ ở lại văn phòng làm việc qua đêm. Nhưng ông không thể tập trung. Câu nói cuối cùng của Vĩnh mắc lại trong đầu, như một con cá hung hãn, vùng vẫy. Khoang bụng nhói đau khiến ông gập đôi người. Phải rất lâu, ông mới ngả người vào lòng ghế mềm, thở nhè nhẹ.

4. Một đợt kẹt xe khổng lồ giữa cây cầu nối ra khu ngoại vi. Xe máy dày đặc trước mũi xe ông, gần như không hề chuyển động. Một điều gì đó thôi thúc ông về nhà, càng nhanh càng tốt. Cảm giác giận dữ tràn đến, ngột ngạt. Bên kia bờ sông, mặt trăng to lớn lừ đừ di chuyển. Rừng mũ bảo hiểm phía trước lấp lánh ánh trăng trắng lạnh. Về đến nhà đã hơn mười giờ. Không cất xe vào bãi gửi bên tòa cao ốc, ông vội mở cổng, xuyên qua vườn. Qua cửa kính phòng khách, ông chợt nhận ra không chỉ có mình San trong nhà. Góc bàn salon, có chiếc khăn tay ca-rô quen thuộc. Từ bếp, tiếng vòi nước chảy dữ dội, nhạc của Maroon chát chúa phát ra từ giàn máy vốn chỉ dành cho nhạc hòa tấu, âm thanh bình luận một trận đấm bốc kênh ESPN vang oang oang. Nổi lên tất cả, giọng San đang thuyết phục Vĩnh điều gì đó. Cuối câu, cô hét to, nhưng không phải là sự giận dữ. Rồi họ cười mãi, như thể không cách nào ngưng lại...

5. Sáng thức giấc, ông đọc báo, uống cốc trà nóng San pha. Gió thổi ù ù trên mái nhà dốc. Tiếng cô gái nhỏ mở nước nóng đầy bồn, tắm bì bõm, hát, giọng nhỏ dần. Tiếng xe khởi động ngoài đường lớn. Thời gian đang mất đi, như giọng nói cô gái đang mờ đi, theo cách quái gở không sao hiểu được.

Ông gấp tờ báo, bước ra phòng khách. Mái tóc mới tắm còn đẫm nước, San hì hụi lèn quần áo vào một valise lớn. Nghe tiếng ông, cô ngước lên, nói nhanh:

- Em đi đây!

- Với Vĩnh?

- Vâng! - Mắt cô nhìn ông thoáng sợ hãi - Em bay với anh ấy, trước Tết. Visa đã có. Vé máy bay mua rồi.

- Em làm gì nơi cái xứ xa xôi ấy? - Dù biết trước lúc này, nhưng ông vẫn thấy khó thở ghê gớm.

- Chẳng sao. Em không dựa vào ai nữa đâu. Hơi khó khăn. Mà rồi sẽ ổn, phải không anh? - San nở nụ cười nhợt nhạt, nhưng thành thật.

° ° °

Sáng cuối năm yên tĩnh. Người giúp việc nhà chưa đến. Ông đi qua khoảng sân mát lạnh phảng phất mùi khói xăng, lấy những tờ báo mới đưa. Trong thùng thư, có một bưu thiếp. Ông thoáng run nhẹ khi cắt mí phong bì. Một vài thông tin ngắn ngủi từ Vĩnh. Họ vẫn ổn. San đã kiếm được một công việc ở thư viện. Cô sẽ đi học vào đầu mùa xuân. Dòng cuối cùng, anh ta viết: "Cuộc sống tốt lành!". Ông nhìn lâu dòng chữ ấy, cất tấm bưu thiếp vào ngăn bàn. Lúc lái xe trên cầu băng qua sông, ông thấy một cái bóng dài đổ trên mặt nước xanh thẳm. Đó là cây lim vươn cao. Từ phía sau, mặt trời chiếu thẳng vào thân cây đơn độc ấy.

Ơi đò Ca Cút

- Hoài ơi! Hoài ơi!

Chiều nào anh Thức cũng chạy dọc bờ sông thế, vừa chạy vừa gọi. Người già trong làng nhìn nhau thở dài. Đám đàn bà con gái cười. Trẻ con thì toang toác lên: "Điên tình. Điên tình đấy!" Nhiều bữa chúng rồng rắn chạy theo anh Thức, đồng thanh gào: "Hoài ơi! Hoài!"

Ở nhà, hễ nghe tiếng gọi loang loang ngoài sông là mẹ tôi cáu kỉnh: "Ông không biết làm gì à? Để nó réo tên con Hoài mãi thế...". Rồi thì mẹ khóc, khóc lằng lặng. Cha tôi lầm bầm: "Chứ tôi làm gì được, nó là con xã hội, đụng vào nó mà chết à!". Vậy mà cha tôi nổi tiếng dữ, cả làng ai cũng nể sợ.

*

* *

Chị Hoài là chị ruột tôi. Xưa cha mẹ tôi lấy nhau, cảnh mồ côi mồ cút, nghe kể nghèo lắm, cha bỏ lên miền ngược làm ăn, ba năm về quê đã thấy chị Hoài đi lẫm chẫm. Năm sau mẹ đẻ thêm tôi. "Hai con vịt trời" - cha bảo thế, nhưng mẹ tôi không đẻ gắng được nữa vì bị bệnh gì đấy. Cha mẹ tôi nông dân lực điền, người làng tôi toàn vai u thịt bắp cả, không biết chị Hoài giống ai mà đẹp thế, từ xưa chưa hề có ai đẹp thế. "Cha mẹ quỉ đẻ con tiên" - vài người nói vậy, không biết có phải không. Về trước cha tôi cũng có ý nghi ngờ, vì có lần rượu vào cha hỏi mẹ: "Ngày trước tôi đi làm ăn, mình có ngủ với ai đẻ ra con Hoài không?". Mẹ tôi nước mắt nhòa nhện: "Tôi cắn rơm cắn cỏ lạy ông, con Hoài là con ông, tôi đẻ nó đủ tháng đủ ngày, ông nghi ngờ tội thân tôi". Cha đặt cút rượu: "Tôi hỏi là hỏi cho biết để về sau mà đòi nợ, chứ tôi mất không à? Mình không nói thì thôi, tôi để bụng làm gì". Từ đấy không thấy cha hỏi han hay nhắc lại nữa, nhưng người làng thì không ngớt xì xèo, người ta bảo chắc mẹ tôi ngủ với trai thật, vì con nhà tông không giống lông cũng phải giống cánh chứ. Một bữa hai chị em tôi ra sông xem đánh cá mòi, có người trêu bảo: "Về hỏi mẹ mày chọn giống đâu cho tốt, mách nước chúng tao với!". Tiếng cười rú kéo dài cả quãng sông, không dừng được. Chị Hoài chạy về kể với cha. Cha lẳng lặng chọc tiết con lợn chửa trong chuồng, bảo mẹ tôi mua rượu, sai chị em tôi chạy khắp làng mời mọi người đến nhà tôi ăn đám. Người làng hỏi: "Đám gì?", tôi trả lời: "Đám quảy". Bấy giờ người ta lại kháo nhau cách khác, rằng chắc cha tôi trúng quả gì nên mở tiệc ăn mừng. Hôm sau đủ mặt người làng, chờ rượu thịt ngà ngà, cha liền gọi mẹ tôi và chị Hoài ra giữa nhà, lấy dây trói lại, xong cầm con dao bầu vừa gại lưỡi vừa nói: "Trước tôi có đi làm ăn ba năm về đã thấy vợ tôi đẻ con Hoài. Bà con ở đây có ai thấy vợ tôi ngủ với trai, hay có chứng cứ gì chứng tỏ con Hoài là con thằng khác, xin nói cho tôi một tiếng, rồi thì tôi giết cả hai mẹ con nó, chôn xác ở đây, coi như rửa nhục". Không ai nói, đến nhìn nhau người ta cũng không dám. Lúc lâu cha tôi tiếp: "Vậy từ nay ai hở hơi chuyện này tôi xin chút máu. Tôi nói trước để làng đừng trách". Sau buổi ấy không ai dám bàn tán nữa thật, nhưng mẹ tôi đi đâu lại hay cúi mặt nhìn đất, chẳng biết vì sao. Sau này nghe mẹ tôi kể lại, rằng cái đêm mẹ tôi đẻ chị Hoài, trời tối lắm, mà chim Ca Cút thì kêu thảm thiết.

*

* *

Tôi giống cha, mắt xếch, lông mày rậm, da đen. Tưởng cha thương tôi hơn, nhưng thực không phải, vì từ bé đến lớn việc trong nhà ngoài đồng cha đều sai tôi làm, không bao giờ để chị Hoài phải mó tay vào. Chị thích gì, muốn gì, cha cũng cho, cũng chiều. Tôi không thế, tôi như đất như đai, vứt lăn vứt lóc đấy, trần mặt ra đấy, thế nào cũng được. Tôi không dám tỵ chị Hoài, vì mẹ tôi bảo chị người trời, nương cửa nhà tôi là phúc đức rồi, để chị khổ phải tội. Cha bảo số chị như gạo tám đem vần than rơm. Cha hay sợ chị chết yểu, vì xưa nay người nhan sắc hay yểu mệnh.

- Nhĩ ơi! Nhĩ nhòm mặt chị giống ai? - chị Hoài hỏi.

Tôi nói:

- Giống em.

Tôi biết chỉ nói thế chị mới thích, chứ bảo chị giống cái gì chị cũng dỗi hết.

- Ừ đúng rồi. Chị con cha con mẹ đấy! - Chị thì thầm, rồi bảo - Chị thương Nhĩ nhất...

Mắt tôi cay cay, chỉ chực khóc, vì tôi biết tôi không giống chị, rằng gương mặt chị với tôi chỉ như một giấc mơ tủi nghẹn thôi.

- Nhĩ cho chị đi cào cỏ lúa với Nhĩ nhé!

- Nhĩ cho chị ra sông xem đánh cá mòi!

- Nhĩ cho chị đi xem sương dâng ngoài đầm!

Thỉnh thoảng chị Hoài hay xin tôi thế, mắt chị nhìn như van lơn. Tôi thương chị nhưng không dám. Cha tôi cấm chị Hoài ra khỏi nhà. Người ta bảo chị Hoài là ma, chỉ gieo chết chóc tai họa cho người khác.

- Nhĩ nằm sát vào chị đi! Nhĩ ôm chị đi!

Tôi ôm lấy chị, cảm thấy người chị run run.

- Nhĩ kể chuyện đi! - Chị lại thì thầm.

Tôi kể cho chị nghe những gì tôi thấy tôi nghe trong ngày, kể cả những điều tôi tưởng tượng.

- Chị chết Nhĩ có nhớ chị không? - Chị Hoài hỏi.

Tôi ôm cứng lấy chị:

- Em không cho chị chết!

- Ừ, chị không chết, chị ở với Nhĩ, nhưng ngày mai Nhĩ phải hái hoa dẻ về cho chị...

- Em hái... - Tôi nói mà nước mắt trào ra. Tôi không dám khóc to, sợ cha tôi thức dậy.

- Đừng khóc, Nhĩ, chị buồn lắm... - Chị lại bảo, rồi úp mặt nằm yên.

Hai chị em tôi cứ thế, nín thở nghe gió trườn ngoài vườn, nghe cây lá cọ vào nhau, nghe tiếng ếch nhái râm ran lẫn trong tiếng ngáy của cha tôi rền rĩ, cho đến lúc thiếp vào giấc ngủ chập chờn đầy ảo ảnh.

Thường đêm có trăng, tầm nửa khuya con chim Ca Cút ở bên kia sông lại kêu, tiếng kêu khắc khoải: "Qua qua quýt...! Qua... qua... quýt...!". Chị Hoài kể, xưa kia, có một người trai bên kia núi yêu người con gái bên này, một lần hẹn, người con trai băng núi lội đầm, đến bến Ca Cút đã khuya, không còn đò, người trai đứng bên kia gọi mãi, kiệt sức chết hoá thành con chim Ca Cút cứ đêm trăng lại gọi: "Ơi đò Ca Cút! Cho qua một chút!". Tôi hỏi cha: "Con chim Ca Cút là thế nào?". Cha bảo chim Ca Cút không bao giờ bay khỏi hang ban ngày, chờ đến đêm mới bay đi kiếm ăn, và chỉ lúc nào cần tìm nhau nó mới kêu. Tôi hỏi anh Thức: "Thế có bao giờ có người gọi đò mà anh không nghe không?". Anh lắc đầu: "Lâu lắm không thấy ai qua sông!". Tôi không dám hỏi nữa nhưng cứ phấp phỏng không yên. Nhiều đêm giật mình nghe tiếng chim Ca Cút, tôi lại hình dung về người con trai lỡ cuộc hẹn với người tình trong câu chuyện kể của chị Hoài, rồi người khó chịu, không rõ là cảm giác gì.

*

* *

Làng tôi nằm về cuối nguồn sông. Con sông Yên vừa ra khỏi rìa làng bỗng phình to ra thành cái đầm nước mênh mông. Đấy là đầm Linh. Đầm Linh như cái túi nước nằm giữa ba bề núi đá chập chùng quanh năm mờ mây phủ, là chặng cuối cùng của sông Yên trước khi đổ ra bể qua một cửa hẹp và dốc. Mùa gió, về đêm lắng tai nghe rõ tiếng nước hú, tiếng sóng réo ầm ầm ù ù từ cửa sông vọng về, như giận dữ, cũng như cơn vui man dại. Mẹ tôi bảo đấy là sóng Thần tức giận núi đá đã chặn dòng chảy sông Yên nên quyết mang quân phá núi thông dòng. Chị Hoài thì bảo sông Yên là con của biển khơi, một ngày nọ mải rong chơi lạc mất mẹ, sông cuống quýt tìm, rồi lạc vào đây... "Bên kia núi là biển - Chị nói thêm - Mà biển thì rộng lắm, rộng hơn đầm Linh nhiều". Tôi tin lời chị Hoài. Sáng sớm nào tôi cũng chạy ra đầm, chờ mặt trời lên, chờ tan sương và bỗng chốc hiện lên trước mắt là mặt biển rực rỡ chói ngợp...

Bến sông làng tôi gọi là bến Ca Cút. Mẹ tôi bảo qua sông, cứ men mép đầm mà đi, tít tắp phía kia là đường xe chạy, theo đấy mà đi tiếp sẽ gặp làng mạc phố xá, sẽ thấy nhiều cảnh nhiều người lạ. Tôi giật mình, hay người trai gọi đò từng đi theo lối ấy? Tôi hỏi mẹ: "Thế mẹ đi chưa?". Mẹ nhìn xa xăm: "Mẹ nghe kể". "Người làng ta có ai đi chưa?". "Có, nhưng chẳng ai về" - Mẹ đáp. "Còn cha?" - Tôi băn khoăn. "Cha đi theo hướng sông Yên" - Mẹ trả lời.

Có lẽ vào được làng tôi khốn khó vậy nên ở làng hiếm khi có khách lạ, thành ra những tốp thuyền của dân vạn chài xuôi sông Yên về đậu bến làng tôi là cả một sự kiện. Từ thuở bé tôi và chị Hoài hay ra bến xem người "nốc đoọc", theo cách người làng gọi họ. Hai chị em tôi ngồi trên bậc đất tò mò nhìn những người đàn bà nấu ăn trong cái bếp treo được hứng bằng chiếc thau nhôm, nhìn những đứa trẻ bụng ỏng bồng nhau lít nhít.

Chị Hoài mười lăm, rồi mười sáu... Chiều ấy bến vắng, chị Hoài rủ tôi xuống tắm. Hai chị em giấu quần áo trong hốc cây, trần truồng thế lội xuống nước. Chị Hoài bảo tôi sờ tay lên ngực chị: "Hay hay lắm". Tôi chỉ dám đặt tay lên đầu vú hồng hồng loang loáng ánh mặt trời phản chiếu xuống mặt nước. Lúc giật mình ngẩng lên thấy ngay một con thuyền dừng trên đầu. Bấy giờ trên thuyền chỉ độc mỗi anh con trai đang dại mắt nhìn chị Hoài. Hôm sau anh con trai ấy ra đầm Linh tự dưng cắm đầu xuống đầm mà chết. Vạn đò đồn đại rằng, chỉ vì anh ta đã nhìn thấy chị Hoài khoả thân.

Từ đấy cha không cho chị Hoài ra sông. Từ đấy tôi men dọc bờ cây ven sông tìm hoa dẻ về cho chị. Hoa dẻ không đẹp, khi còn xanh mùi rất hắc, nở chừng mươi ngày thì chín, lúc chín cánh hoa ngả màu vàng mơ toả một thứ hương thơm như mê dụ huyễn hoặc, sau một buổi là rụng, nhưng hương thì cực bền, ép khô cất đến năm sau còn thơm. Hoa dẻ hay nở trên cao và khuất, tôi thấp không với tới, nhiều lúc nghe mùi hương đấy mà chỉ muốn ứa nước mắt. Sau này anh Thức biết thì chính anh Thức đi tìm hoa dẻ để tôi mang về cho chị Hoài.

Từ đấy trai làng nương theo hương hoa dẻ đi tìm chị Hoài.

Cha tôi đứng trấn ngoài ngõ: "Đứa nào đụng đến con Hoài phải bước qua xác tao!". Cha chờ người xứng duyên với chị Hoài.

Nhiều trai làng xuống đò anh Thức ra đi. Anh Thức quay về bên này bến Ca Cút giọng khê nồng hát:

Chim xa rừng thương cây nhớ cội

Sông xa nguồn có nhớ nguồn không?

Ai chắt nước cho sông đầy sông đi ra bể

Dằng dặc sông ơi

Bể mênh mông thăm thẳm biết mô mà tìm...

Rồi lại hát:

Mâm vàng thì có mâm vàng

Tìm đôi đũa ngọc đặt trong mâm vàng

Đũa ngọc đặt cạnh đũa tre

Đũa tre xấu xí nhưng tre thì bền

Chẻ tre ta đan thuyền nan

Ngọc rơi xuống nước ta bơi đi tìm...

Chị Hoài ngồi khâu trong cửa chốc chốc lại ngẩng mặt hỏi: "Có ai về ngoài bến không?". Tôi lắc đầu. Vạn chài vài năm nay không về đậu bến làng tôi nữa vì nhiều con trai đâm đầu xuống đầm Linh mà chết, vì chiều tắm đó chị Hoài đã để rơi máu mình xuống dòng sông, vì nhiều người qua bến Ca Cút về thành trầm tích... Tôi ngồi ngóng bến Ca Cút từng ban chiều từng ban sáng mà sông vẫn vậy mà đầm vẫn vậy chẳng thấy gì ngoài trời ngoài nước và những bóng núi xa mù...

*

* *

Ngày nọ có một con thuyền lớn đến từ phía bên kia đầm. Chị Hoài mặc áo cô dâu bước dọc đường làng trải chiếu hoa ra bến xuống thuyền. Pháo nổ tưng bừng. Xác pháo rơi đỏ rực xuống mặt sông, mặt đầm. Anh Thức chèo thuyền đi tiễn chị Hoài, cứ rẽ lớp xác pháo dập dình mà đi, lòng thuyền chở toàn hoa dẻ chín vàng xuộm, rồi ngày đó về ngồi bờ sông hát, hết hát thì chạy dọc bờ sông gọi tên chị Hoài.

Tết đó mẹ bán lứa lợn trong chuồng, lần đầu gửi người ngược sông Yên mua áo hoa cho tôi mặc tết.

Tôi vẫn lội dọc vàm sông tìm hoa dẻ, nhưng không có chàng trai nào thao thiết qua ngõ nhà tôi. Hương dẻ nồng đượm thế... Hay chị Hoài tôi mang đi hết cả sức huyễn hoặc của hương hoa? "Thôi, mang hoa về làm gì, chị Hoài con đi rồi" - Mẹ tôi bảo. Bây giờ mẹ hay thở dài lắm, mà cha cũng ngồi hàng buổi chẳng nói năng gì. Chị tôi không tin tức. Mẹ bảo: "Coi như chị con về trời, đừng đợi". Nhưng mà chiều nào tên chị cũng vang loang ngoài mặt sông thế kia...

Tôi trùm chăn kín mặt, không ngủ được. Phía bên kia con chim Ca Cút kêu hoài: "Ơi đò Ca Cút...". Qua làm gì chim ơi, chim bay trời rộng, cứ sải cánh mà bay, khuya khoắt nay ai đợi đò đâu mà chim kêu mỏi tiếng... Gian kia cha tôi trở mình rồi nằm yên, rồi chỉ vọng vọng tiếng chim kêu. Tôi rón rén dỡ chăn ngồi dậy. Đêm nay không trăng. Ca Cút kêu vào đêm không trăng là sự lạ, mà tiếng kêu đêm nay cơ chừng khẩn thiết lắm. Tôi ra đường, hướng tiếng kêu đi đến bến lúc nào không hay. Trên mặt sông sương bay bảng lảng, càng về phía đầm Linh sương càng dày, ngả một màu tím sẫm, không phân biệt đâu là trời, là nước, là núi non. Gió lành lạnh, thổi xao xuyến mặt sông. Bây giờ cũng sắp đến tết. Sáng mai mẹ sẽ gửi mua áo mới cho tôi, những phiến áo mới xếp chồng lên năm tháng, dỡ một lượt là biết chị tôi đi một năm.

Ơi đò Ca Cút!

Ơi đò Ca Cút!

Tiếng kêu như dụ dẫn. Tôi cởi áo, lội xuống sông. Nước lạnh căm, ngập đến chân, đến bụng, ấm ấm dần, rồi chỉ còn một sự êm ái mơn man vỗ nhẹ lên da thịt, lên ngực lên cổ, rồi không biết gì hết, rồi chỉ màn hơi sương dịu dàng ôm choàng lên, choàng lên...

- Dậy đi Nhĩ ơi! Dậy xem mặt trời mọc!

Ai đó lay vai tôi. Mơ hồ chập chờn một gương mặt người trai. Đâu đó te tái tiếng gà gọi sáng. Hình như tôi đang ở trên một con thuyền. Hé qua mui thuyền thấy phía trời xa nhuốm một màu hồng nhạt. Nước mắt tôi bất chợt chảy dài.

- Nhĩ ơi! Dậy xem sương tan kìa! Nhĩ ơi!

Gửi mày và những bộ mặt của mày

Một lá thư không có thật, từ một người vô hình gửi cho một người hữu hình. Tất cả đều không có thật.

Ngày... tháng... năm...

Gửi mày, một nửa của tao và là kẻ thù của tao...

Mày là một con bé xấu xí, nhưng là một diễn viên kịch giỏi. Từ nhỏ, mày lớn lên đằng sau cánh gà của một sân khấu. Mày bắt đầu làm diễn viên từ khi mày bắt đầu nhận thức được những vở kịch và những vai diễn. Ban đầu, người ta chỉ cho mày đóng vai phụ, những vai mờ nhạt, vì mày không có từ cái vẻ bề ngoài đến cái cá tính và năng khiếu của một diễn viên. Mày chỉ diễn trong góc, và chỉ xuất hiện ở cái khóe mắt xa nhất của khán giả.

Thế rồi, thời gian trôi qua, mày lớn lên và cái sĩ diện của mày cũng lớn lên theo mày. Mày bắt đầu tự tập diễn cho chính mình. Mày đứng trước gương và tập những bộ mặt khác nhau để phù hợp cho những vai diễn khác nhau. Mày tập nhiều lắm, vì mày quyết tâm phải được diễn những vai mà được khán giả nhớ và nhận ra. Mày tập nhiều đến nỗi mày bắt đầu sống trong những vai diễn. Quả nhiên, công sức của mày đã không phải là công cốc. Mày bắt đầu được diễn những vai đáng nhớ. Người ta liên tục giao cho mày những vai diễn đầy cá tính. Lúc thì mày được diễn những vai với tính cách mạnh mẽ, lúc thì đầy tự tin, lúc thì đầy lòng nhân từ, và lúc thì đầy những tính xấu xa. Mày hài lòng lắm. Thậm chí, mày khoái trá đến nỗi quên hết mọi thứ, và cứ thế mà chìm vào những vai diễn. Mày đã không nhận ra một điều, những vai diễn đang ăn lấy mày!

Và mày đã trở thành một diễn viên kịch giỏi như thế. Đôi lúc, mày được quyền tự chọn vai diễn cho những vở kịch. Mày thường hay chọn vai người tốt, vì mày thích gây ấn tượng tốt với khán giả. Mà đúng vậy, khán giả thường thích nhìn diễn viên theo vai diễn của họ, thế là nhiều người nghĩ mày là người tốt. Đến bản thân mày cũng nghĩ vậy. Vì mày thích làm người tốt. Vậy là mày chìm trong vui sướng với những vai thiên thần. Nhưng đôi khi, có những lúc hiếm hoi mày được giao các vai xấu, các vai của quỷ dữ, mày lại giật mình nhận ra... mày đóng đạt đến lạ.

Những buổi tối về, sau những vở diễn, mày hay ngồi trước gương với bộ mặt trang điểm đậm lè như cái mặt nạ, mày lúc nào cũng nhìn cái bộ mặt đó rất lâu rồi mới tẩy trang. Rất nhiều lần, mày nói với tao, mày chùi hoài mà nó vẫn không ra hết. Chùi hoài chùi hoài, hình như nó chỉ ra một bộ mặt trang điểm khác, chứ không phải một bộ mặt không trang điểm. Vì sao mày biết không? Vì những chất trang điểm ấy cũng như những vai diễn, đã thấm vào cái mặt của mày từ lâu rồi. Lâu lắm rồi. Mày không nhận ra đấy thôi. Mày hỏi tao đâu là một bộ mặt không trang điểm của mày. Tao không biết! Nó nằm đâu đó trong những bộ mặt của mày, chỉ có mày mới có thể tìm ra. Mà có khi, tất cả những bộ mặt đó đều đang không trang điểm, chỉ là mày cứ tưởng chúng có thôi. Tao biết, mày sẽ nói với tao là không phải thế, tao sai rồi, vì chính tay mày trang điểm cho chúng mà!

Mày thú nhận với tao rằng mày là đứa vô dụng. Mày nói rằng mày vô dụng vì mày không thể diễn vai diễn của chính mình. Mày vô dụng vì mày bỏ quên quá nhiều thứ trong khi chỉ lo cho những vai diễn mà ít khi nào mày diễn đạt, dù mày cứ tưởng rằng mày đã diễn đạt. Mày nói mày vô dụng vì nhiều lúc mày thấy mệt mỏi với những vai diễn của mình. Mày vô dụng vì mày chỉ có thể không là diễn viên những khi mày ở trong bóng tối đen mịt sau cánh gà, cùng với thiên thần của mày. À ừ, tao quên, thiên thần của mày sao rồi? Vẫn luôn ở bên mày chứ? Tao chắc chắn là vậy. Hãy nói với thiên thần của mày rằng, tao cám ơn người vì đã ở với mày đằng sau cánh gà, để ít nhất, không phải lúc nào mày cũng chỉ là những vai diễn. À, mày còn nói với tao, mày vô dụng ở chỗ mày chỉ giỏi đưa người khác những lời khuyên, trong khi chính mày mới là đứa cần những lời khuyên đó nhất. Và mày vô dụng ở chỗ những vai diễn của mày không phải lúc nào cũng làm những người mày mang ơn hạnh phúc, dù đôi khi mày cứ tưởng là có. Mày vô dụng ở chỗ mày hay tưởng...

Còn theo tao, mày biết không, mày vô dụng nhất là ở chỗ nghĩ mình vô dụng!

Gửi mày...

Mày đang làm gì đó? Lại đang chìm vào những vai diễn à? Ừ diễn tiếp đi nhé! Hôm nay diễn gì thế? Một vai hề trong một vở hài kịch à? Chúc mày diễn thật đạt.

Tao.

(st)

*Đây là một cách để mình nhìn lại mình. Vậy đó, nhưng có mấy ai làm được điều nay đâu.

Bàn chân và đội giầy

Khi sinh ra, nó cũng như tất cả mọi con người khác. Một đứa bé thánh thiện và trần trụi.

Rồi nó tập đứng, ngã lên ngã xuống, ngã rất nhiều nhưng nó vẫn gượng dậy, gồng mình lên và một ngày, nó đã có thể đứng vững. Đứng vững trên đôi chân của chính mình. Lớn thêm một chút, nó chập chững tập đi. Những bước đi đường đời, nhiều sỏi đá và đầy rẫy chông gai.

Đến một ngày, nó nhìn thấy một đôi giày. Một đôi giày thật đẹp, thật xinh xắn và thật ấm áp.

Đồng hành với đôi giày, nó cảm thấy tự tin hẳn lên. Mỗi bước chân dường như trở nên mạnh mẽ,trở nên hiên ngang - những bước chân của sự vững vàng.

Nhưng đến một ngày, nó cảm thấy bàn chân nhói đau. Nó nhìn lại và chợt nhận ra một điều - đôi giày quá chật so với bàn chân của nó. Nghiến răng, nó cố tiếp bước nhưng càng đi, cảm giác càng nặng nề, đôi bàn chân càng như thắt chặt và đôi bàn chân đau, bàn chân bầm tím. Đến lúc đó nó chợt hiểu rằng, thì ra đôi giày này không phải dành cho nó.

Và lúc đó dẫu thích thú, dẫu quý mến, dẫu thật sự cần thiết... nhưng khi biết nó không dành cho mình, nó vẫn vui vẻ, gượng cười, tháo bỏ đôi giày, để sang một bên và sẵn sàng tiếp bước.

Không còn giày ở bên nữa... bàn chân sẽ phải tự bước đi bằng chính da thịt của mình... dẫu sẽ là "yếu ớt", dẫu có là mỏng manh, dẫu có đau đớn nhưng nó sẽ vẫn tiếp bước. Bước trên đôi chân trần của chính mình, chẳng phải nó từng bước đi như thế, như lúc mới sinh đó sao? Quan trọng là nó đã tìm thấy và lựa chọn cho mình một lối đi, một con đường phù hợp... Bàn chân nay đã tìm thấy một con đường cho chính mình. Và nó sẽ lại bước tiếp cùng với biết bao bàn chân khác trên con đường của cuộc đời, con đường dài hun hút, con đừng đẫy rẫy những chông gai...

Thà chấp nhận đau vì sỏi đá hơn là đau vì sự chịu đựng, vì sự gượng ép... Đau chỉ vì muốn có một đôi giày không vừa vặn và không thực sự dành cho mình.

Có những điều chỉ khi mất đi rồi, người ta mới nhận ra là mình từng có nó và lúc đó, người ta mới biết trân trọng nó.

Cái gì đã vỡ là vỡ... thà nhớ lại khi nó tốt đẹp nhất còn hơn là chắp vá lấy được để rồi suốt đời cứ phải thấy những chỗ vỡ...

Tạm biệt một số thứ... một số thứ từng là của mình nhưng không dành trọn cho mình.

Thôi vậy, hãy cứ để nó trôi theo hướng mà nó cần phải đến... Good Luck!

Ăn mừng

Bữa nay cụ Phán Uyên, đã được hiểu rõ cái gì là cái vinh quang, những đồ mừng quý giá, những tấm câu đối đỏ treo la liệt khắp tường, đã đủ an ủi về số tiền bỏ ra. Cái cảnh "ăn uống ầm ầm" hai hôm nay không khiến cụ sốt ruột nữa. Đọc những chữ chúc mừng rất văn chương bằng dạ đen trên nền đỏ, cụ mới khám phá ra rằng: chao ôi thì ra mình xưa nay vẫn có nhiều đức tính mà chính mình không biết, để mà sướng như một kẻ chết được lắm câu đối khóc có thể được thỏa cái vong hồn... Thật là linh đình, và vui vẻ. Thật là vinh dự cho tổ tiên.

Trong hai ngày ăn uống thì hôm qua để cho họ hàng và con cháu trong nhà. Chính hôm nay mới là để mời khách ở tỉnh. Đây, bàn các bạn đồng sự của cụ, phần nhiều là nhà nho, số đông đã có nhiều phẩm hàm, huy chương. Tô điểm cho dăm đám người ấy có một quan Bố và một quan Phủ, họ bên nhà vợ của cụ, và đã làm cho cụ tăng thêm sĩ diện. Kia là bàn các ông cũng tai to mặt nhớn thuộc tân học, bạn hữu của "anh tham" nghĩa là vào hàng con cháu cụ mà thôi. ở buồng xép bên cạnh thì các cô đốc, cô giáo, bạn hữu của con gái cụ vậy. Ai cũng về dự tiệc vui vẻ và đông đủ. Thì phải biết cái cách xử thế xưa nay cụ là tròn trĩnh thế nào! Một khi cụ đã về làng thì cũng phải thế nào cho đẹp mặt với người làng! Khách tỉnh về tới tấp hết lượt này đến lượt khác, phần nhiều bằng xe nhà, và có cả hai chiếc xe hơi đỗ ngoài cửa đình nữa! Nghĩ như thế, cụ lại kiêu ngạo như một đứa bé con...

- Chúng mày đâu cả rồi! Rõ thế đấy! Ngần ấy con người để sai bảo mà gọi lấy thêm có một ít dấm nữa cũng không đứa nào đi lấy được đấy!

Lời gắt của cụ lẫn lộn mất vào tiếng đàn, tiếng trống, tiếng hát, tiếng phách... Cụ nhìn trước nhìn sau, lắc đầu thở dài... Vì có ba tên người nhà thì hai đứa đương bưng những bát cỗ mới hâm cho những bàn ở xa, còn một đứa thì đương chới với, buộc bánh pháo dài vào ống máng. Cụ toan tiến bước xuống phía nhà bếp thì chợt một bàn tay nắm cụ lại, trước một câu nói sốt sắng thế này:

- Cụ ơi, cụ hãy vào đây với con!

Đó là một khách trẻ tuổi, mà cụ không nhớ rõ tên, âu phục chải chuốt khiến cụ kính nể lắm.

- Con tấp tểnh cũng làm được một bài hát để mừng cụ, chẳng biết hay dở như thế nào, xong cũng xin mạn phép các quan khách đây một phen...

Người ấy mời cụ ngồi xuống ghế, đưa ra một bài thơ bằng mực đen giấy trắng, lại nhét luôn cả cái dùi trống vào tay cụ nữa, nói tiếp:

- Bài hát mừng cụ thì xin cụ thưởng thức mấy tiếng trống cho chúng con cùng nghe.

Thẹn quýnh cả người, cụ Phán Uyên đẩy cái trống ra, ấp úng:

- Văn chương của ông... thì xin... để phần ông, vì thật tình, tôi cũng không biết đánh trống cô đầu.

Rồi cụ giương mục kỉnh lên đọc bài hát nói ấy; xong mỗi câu lại thấy mặt cụ vui tươi thêm lên. Sau cùng, cũng không biết bình phẩm dài lời, cụ chỉ đưa trả tác giả bài hát với cái dùi trống và từ chối:

- Hay lắm! Nhưng mà tiếc rằng tôi không biết đánh trống, để xin ông cho nghe... Văn hay lắm!

Khi đưa cho đào nương mảnh giấy, cụ rất hổ thẹn, thấy rằng mình quê mùa một cách đáng giận, và thú ả đào quả thật là một thứ văn chương tao nhã thật, chứ không phải chỉ là những trò bậy bạ như người ta vẫn nói xưa nay.

Cố nhiên, tác giả những câu hát nói kia nhất quyết chối từ. Cuối cùng, danh dự thưởng văn về tay người cao chức nhất bàn tiệc, là quan Bố Chánh, ông anh họ nhà vợ của cụ chủ. Quan Bố gọi cụ Phán đến ngồi bên mình, rót một cốc rượu nhỏ để trước mặt cụ, giao hẹn bằng một thứ tiếng đồng sang sảng, nghiêm nghị và đáng sợ như những lệnh ban ra giữa công đường:

- Đây, cứ mỗi tiếng chát thì ông lại cạn một cốc rượu, vì mỗi tiếng chát của tôi không những là thưởng một câu văn mà thôi, nhưng còn đồng ý với tác giả để ca tụng cái cảnh phú quý, an nhàn của ông nữa.

Mọi người vỗ tay, rồi có đến hàng mấy chục người nữa vỗ tay theo. Bên buồng xép ở tận trong kia, đám phụ nữ cũng bỏ đũa bát để đứng thấp thoáng trong mành nhìn ra, chú ý đến cái đại sự ấy nó làm tăng phần trang trọng cho cuộc vui tuy vậy trước vẫn tẻ ngắt. Cụ Phán Uyên xoa tay xin lỗi một cách hiền lành đáng tức cười:

- Bẩm, mỗi tiếng chát lại một cốc rượu thì có lẽ cũng nhiều quá, vậy xin cho xong bài thì hãy cho một cốc.

Tuy có một vài cụ phản đối lại cụ phán để về bè với quan Bố nhưng sau cùng các quý khách cũng biết nể cái sức khỏe của mái tóc hoa râm. Rồi thì cô đào e hèm dọn giọng, rồi bác kép vặn lại dây đàn, rồi quan Bố tom tom tom cho khách ngừng đũa lắng tai nghe để trở nên một cử toạ nghiêm chỉnh.

Cành mai hạc đậu thêm xinh, Bốn mươi năm nữa, khang ninh còn dài, Ngày xuân cảnh thế tươi cười, Đào nguyên há để riêng người ngày xưa! Gia nhân chinh cát, Trên tiệc đào kẻ trước dắt người sau... Cuộc trăm năm trời có hẹn ai đâu? Con hạc trắng bấy lâu về bến Nhuệ, Mai cốt cách mai già mai vẫn thế Đào nhởn nhơ đào thắm vẻ thêm xuân. Lắng tai nghe tiếng chúc lẫn cung đàn, Cất chén cúc mừng người trên thọ tịch, Khách bạch ốc nào ai tiên trích Xin dang tay "giật phịch" quả đào tiên... Cõi trần cũng có Đào nguyên.

Quan Bố ngất ngưởng đánh luôn: tom tom tom chát tom!

Đoạn cụ gật gù nói rõ to:

- Hay thật đấy chứ! Văn chương như thế mới gọi là tân thời... "Xin dang tay giật phịch quả đào tiên". Thế có lẳng lơ không? Chuyến này thì cụ phán nhà tôi sẽ vì câu thơ ấy mà cải lão hoàn đồng!

Quan Bố ngừng một lát, trông trước nhìn sau, rồi vẫy tay gọi một cô trong bốn cô đào rượu mải tiếp cho các quan khác gần đấy:

- Này, cô kia! Cô áo đỏ kia! Lại đây đỡ hộ chén rượu cho chủ nhân cạn hộ đi.

Khi cô đào trẻ tuổi đến đứng bên cụ phán, bẽn lẽn nâng cốc rượu thì nhanh như cắt, quan Bố đã nắm lấy một bên cánh tay cụ phán mà quệt một cái vào ngực cô ả, để rồi cười nức nở cắt nghĩa:

- Này thì đây: xin dang tay giật phịch quả đào tiên! Các ngài đã thấy chưa?

Lúc ấy cụ Phán Uyên đương mải hớp chén rượu, cho nên khi cụ vội lôi được tay ra, cái cử chỉ bó buộc kia cũng đã xong hoàn toàn. Cụ thẹn đỏ cả mặt, sung sướng, đến ứa nước mắt, vì lúc ấy, cử toạ khen cụ sốt sắng như khi họ đi xem đá bóng mà gặp lúc có quả vừa sút vào gôn. Cụ vội vàng đứng lên chạy tuy không biết định chạy đi đâu, như người muốn đi trốn. Sau cùng, cụ đánh trống lảng bằng cách gọi đầy tớ ra mà mắng:

- Lấy thêm ít dấm tây vào bàn này! Sao mày đốn thế, mày để tao gào rát cả cổ!

Tuy nhiên giọng gắt của cụ thật tình lúc ấy cũng không dữ tợn là mấy, vì cụ vẫn còn thấy rõ cái cảm giác dịu dàng về một bên ngực cô đào trẻ nó chưa tiêu tan hẳn mà lại còn như đọng quyện lại ở cả năm đầu ngón tay già nua đã mấy chục năm rồi chẳng còn biết gì là mùi xuân.

Chợt thấy quan Phủ gọi cụ rồi nói một hồi dài:

- Này chủ nhân ơi! Nhà nho là thâm lắm đấy nhé! Thôi xin các ngài cũng đừng ai nỡ ép duyên ông anh tôi nữa. Ông anh tôi đã trình bày cái cảnh ngộ éo le, khó xử, của ông anh tôi, ra với thiên hạ rồi! Đấy các cụ xem: quan Bố tôi vừa mới ép duyên xong thì ông anh tôi tức khắc gọi người nhà lấy thêm dấm. Chao ôi, thế thì ông anh tôi đã đủ thâm trầm hay chưa? Vì rằng trong Kiều có câu: Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng!

Rất nhiều người lại vỗ tay ran, cười to đến vỡ nhà vỡ cửa. Một cụ bảo cô đào non áo đỏ:

- Này em ơi, thôi thế thì em cứ cam chịu ở trầm luân khổ hải thôi chứ người quân tử chẳng vớt em đâu!

Một người trẻ tuổi đứng lên nói:

- Thưa các cụ trăm điều chẳng qua chỉ tại tác giả cái bài hát nói ấy.

Ông khách âu phục trẻ tuổi từ nãy ngồi lặng im vừa thẹn vừa kiêu ngạo về cái bài văn của mình, đương lắng tai nghe xem có ai thì thào chỉ trích gì không, bấy giờ đành phải đứng lên, đón đỡ:

- Bẩm các cụ, chúng tôi không ngờ rằng cụ Bố tôi đây ngài lại hiểu bài văn ấy một cách kỹ đến thế để mà đem lý thuyết thực hành ngay như thế.

Quan Bố cười khà khà, lên râu bảo thiếu niên:

- Thế thì đôi ta tri kỷ lắm chứ còn gì nữa! à quên, xin các cụ thưởng một cốc cho tác giả bài văn hữu tình. Chị áo đỏ đâu, chị lại mời ông ấy cho tôi một cốc nữa.

Lại vỗ tay...

Nhưng chợt một ông khác, cũng trẻ tuổi, mặt đỏ nhất tất cả, đứng lên trịnh trọng nói:

- Bẩm trên các cụ, dưới các ông...

Mọi người giật mình lắng tai nghe biết là sắp có chuyện. Ông kia tiếp:

- Quan Bố chánh thưởng tác giả bài hát nói ấy cốc rượu là vì nó có tính cách hữu tình. Tôi cũng xin hoan nghênh. Nhưng mà xong rồi thì tôi xin các cụ và các ông cho tôi phạt nhà thi sĩ ấy ba chén vì đó là một nhà thi sĩ tham lam! Vì sao? Vì cụ phán nhà tôi đây bữa nay chỉ có khánh thành nhà mới thôi, vậy mà bài hát mừng có câu mừng cả tiệc thượng thọ nữa, thì, cái lối "tiện dịp" như thế là có hại cho tôi, vì sang năm đúng sáu mươi mà cụ phán tôi không khao thượng thọ nữa thì là lỗi ở nhà thi sĩ ấy. Vậy thì phải phạt.

Tác giả bài hát nhìn quanh một lượt thấy trong dăm chục quan khách có một số đông gật gù biểu đồng tình với ông phản đối kia, thì rất lấy làm lo, bèn cãi:

- Tôi xin uống ba chén rượu ông phạt! Nhưng nếu sang năm cụ Phán tôi lại khao thượng thọ nữa, thì ông sẽ đáp tôi ra sao? Và có lẽ ông chưa nghe kỹ bài hát!

Ông kia gân cổ lên, hùng hồn chẳng kém:

- Tôi cho ông phạt trước tôi ba chén nữa, sau khi ông uống ba chén mà các cụ phạt ông!

Nhiều người lên tiếng xôn xao, không chịu nhận trách nhiệm về ba chén rượu phạt ấy, ông kia lại nói:

- Sao tôi lại chưa nghe kỹ! Ông chả có câu: "Cất chén chúc mừng người trên thọ tịch" là gì! Vậy ông thử đọc tất cả câu đối đây xem có ai mừng thọ tịch không?

Có một người cãi hộ:

- Nhưng mà thọ tịch ở đây là ý phụ không phải ý chính!

Tham Châu vỗ vai ông kia, khẽ gắt:

- Thôi đi, tôi van ông nữa, ông đừng gây sự thế! Ông say lắm rồi! Và ông uống ít chứ!

- Thưa chú, tôi chưa say, và trước mặt công chúng thế này, xin chú đừng mắng tôi! Chú còn là đàn em biết chưa!

Ông ấy vừa nói được có thế thì đã đưa tay lên giữ cổ, khòm lưng xuống, rồi nôn ồng ộc ngay ra đấy như một cái ống máng! Thiên hạ ghê tởm quay nhìn đi chỗ khác và nhà thi sĩ thì khẽ so vai một cái hả hê. Đầy tớ mau quét dọn, trong khi Tham Châu nhăn nhó ôm xốc ông quý khách ấy vào bàn đèn thuốc phiện:

- Các ông mau tiêm cho ông ấy một điếu cho giã rượu... Rõ khổ quá, cứ uống như một cái phễu!

Người có học

Một lớp ngoại khoá mở ra cho những sinh viên chăm chỉ trong dịp hè. Mỗi người có một phiếu vào lớp với số ghế cố định, có nghĩa là dù đi sớm hay muộn, anh vẫn có một chỗ ngồi đàng hoàng. Nhầm to! Ban tổ chức lớp nhầm to, ngày nào cũng có cãi vã đòi chỗ: số người nhiều hơn số ghế và đâu phải chỗ nào cũng dễ nhìn thấy bảng đen. Tôi ngồi ghế số một, hàng hai, ở một góc mà từ đây tôi phải liếc về bảng chứ không nhìn thẳng được. Một cái quạt trong góc giảng đường luôn làm đầu tóc tôi rối tung rối mù, vở lật tứ tung. Ba giờ học trôi qua như trong cơn giông. Tóm lại là cũng chẳng béo bở gì! Vậy mà cũng không thoát. Vào buổi học thứ ba, tôi đi muộn năm phút. Một anh béo tóc xoăn đang ngọ nguậy trong cái ghế của tôi. Co mình lại vì ý thức được rằng cả cái giảng đường dốc ngược kia đang ngồi nhìn xuống mà tôi thì đang đứng, tôi bảo : "Anh ơi! Chỗ này của em!". "Giấy đâu?". Tôi buồn cười, rút tờ giấy có ghi số ghế đưa anh béo, cảm thấy hành động của mình sao mà khúm núm giống như các gia đình có công đi nộp một tờ giấy chứng nhận thành tích cho cán bộ phường để xin một mảnh đất làm nhà. Anh béo đọc xong, rất thờ ơ và công chức, bảo tôi: "Ðợi tí được không? Ðể tôi nghe nốt đoạn này đã!". Tôi cũng không nhớ đã nói gì, hình như là nằng nặc đòi lại cái ghế bão gió của mình. Không phải để ngồi nghe giảng nữa, đơn giản là tôi sợ bị quê, tôi cần phải chứng tỏ cho cả một đống người đang nhìn xuống kia rằng đây là cái ghế của tôi, rằng nãy giờ tôi đòi ghế chứ không phải xin ghế... Cuối cùng, thằng béo ấy cũng rút, để lại một câu chửi tôi không nghe rõ. Một vụ tranh chấp cũng khá nhẹ nhàng, tôi không cho có gì là ghê gớm lắm... Buổi học thứ năm. Kem bảo tôi: "Ði sớm để khỏi phải đòi ghế!". Vào sớm nhưng trong cái ghế của tôi, một cô nàng đang chống cằm tư lự, mắt nhìn xa xôi... Lần nay, hùng dũng hơn, tôi cười: "Chị ơi, tôi ngồi chỗ này!". Một đôi mắt xếch ngược ngước lên nhìn tôi rồi cô ả nói như ra lệnh: "Chị đuổi cái anh đang ngồi ghế số chín ra đi rồi tôi trả lại chỗ!" "Sao kỳ vậy?" Tôi hoàn toàn đảo điên trước con người này. "Ghế số 9 là của tôi, ảnh chiếm, tôi đuổi không ra!". "Ðó là chuyện của chị, chị đuổi không được nên sang lấy ghế của tôi sao?". Tôi lắp bắp, thấy mình có vẻ hèn hèn sao đó. Một cái cười khinh bạc như cái cười của nữ tặc và nó bảo: "Không biết, tôi không đi! Chị mời ban tổ chức lại đây!". Mọi thứ đều u mê đi trong tôi, tôi đứng đó gọi Kem: "Kem, anh Huy đâu?" Anh Huy - người hùng của những ai bị chiếm chỗ- hôm nay biến mất. Hoảng loạn (và cũng không hiểu vì sao tôi hoảng loạn lên như vậy ), tôi hỏi câu ấy bốn năm lần dù Kem đã bảo: "Không thấy". Kem cũng đang đằng đằng sát khí ở cái ghế của nó! Tôi nhìn tất cả, thấy sao ai cũng kinh khủng quá, trơ tráo quá. Tôi bảo nữ tặc mắt xếch ấy: "Chị ra đi!". "Không, tôi không đi!". Mọi người đã bắt đầu nhìn tôi và tôi ngượng, một câu nói như đưa con hoang tự động vọt ra miệng: "Chị đừng có ăn nói du côn như thế!". Và con người ấy ngồi thẳng lên. Một cái áo soie hồng kín cổ, tay phồng, một mái tóc dài kẹp lưng đoan trang, như một nhà đạo đức, bảo tôi: "Này! Vào đại học rồi, chúng ta là những người có học, đừng có dùng chữ du côn ở đây. Khi chị nói chữ đó ra, chị đã mất dạy hơn người ta rồi đấy!". Và khoảng một chục cặp mắt xung quanh nhìn tôi, nhìn một đứa ngày thường vẫn được coi là ngổ ngáo giờ đã có người trị. Tôi không nhận ra được ai quen ai lạ trong đám đó, tự nhiên thấy sợ hãi: "Hay mình mất dạy thật?". Tôi thấy mọi chuyện như trong mơ. Một ví von rất tiểu thuyết nhưng đúng là như vậy. Vì thế tôi hành động một cách u mê. Những tác phong bạo dạn ngày thường tôi bỏ đi sạch! Tôi cảm thấy hình như cái cổ áo mình quá rộng, cái đầu mình quá ngắn, cái quần mình quá to... Tóm lại là không có học tí nào! Một loạt ý nghĩ diễn ra như chớp trong đầu tôi lúc ấy, để bây giờ quay chậm lại, ấy là tôi cảm thấy cô đơn vô cùng. Tôi nhớ đến Mỹ, con bạn "vườn" của tôi. Nó đi làm ở một xưởng may mặc, vào làm được hai tháng đã suýt đánh nhau ba lần chỉ vì cáu tiết, bất bình bé tí, vậy mà về nhà nó như em tôi. Tôi ngồi nơi bàn học bài thi, nó nằm dưới đất, thò hai chân vào gầm, đọc truyện trinh thám... Trời đất, tôi mong có nó ở cạnh biết bao nhiêu. Không bị ràng buộc bởi chữ học to tướng, nó sẽ nhảy vào thộp cổ, vò nát cái áo soie hồng kia cho đúng luật và bảo con ấy một cách vô cùng đơn giản, minh bạch: "Tao không cần biết, chỗ tao, mày lấy là tao đánh!". Rồi tôi nhớ đến Luynh của tôi với cái đầu tóc lộn xộn, với một nghề nghiệp mọi người coi là hư hỏng. Tôi muốn có phép lạ nào đó khiến mình tự nhiên biến mất trước hàng trăm cặp mắt kia, bay vù một cái về bên Luynh, ở một cái quán nào đó, nghe nó nói bậy cũng được, sặc sụa vì khói thuốc nó hút... Hình như tôi hợp với thế giới đó hơn. Trong cái thế giới bị coi là mất dạy của tụi nó, chuyện gì cũng được hiểu theo nghĩa đen, sòng phẳng. Ơ'' đó, một hành động nghĩa hiệp có thể tiến hành song song với một câu chửi thề. Cũng chẳng ai ý thức được câu chỉ đó có ý nghĩa gì, đơn giản là quen miệng vậy thôi. Và hình như tiếng chửi đó thốt ra mạnh bạo chỉ cốt để che giấu sự bối rối vụng về của một người bị coi là vô đạo đức nay lại đi làm việc thiện. ... Bất lực. Những người xung quanh không ai nói gì, tôi đi tìm một ai đó có máu mặt. Ơ'' văn phòng Ðoàn, cửa đóng. Ơ'' thư quán, cửa cũng đóng. Tôi bò lại giảng đường, lo âu và uất ức, chẳng lẽ mình thua sao! Nhưng quả thật, ở đây, giữa một đám trí thức tương lai này, tôi không được xử sự như ở ngoài đường. Ơ'' đây, một cái trừng mắt, một năm tay nổi gân khẽ đưa lên cũng có thể khiến những con người tinh tế ấy cảm thấy bị tổn thương kinh khủng. Tôi đứng lại cạnh Nghiệm, một người quen khác lớp. Nghiệm chỉ: "Anh Khoa kìa!". Và tôi rối rít kêu gọi anh cán bộ lớp ấy, cũng là một việc khá vất vả! Rồi như đứa bé dẫn mẹ đến gặp đứa đã bắt nạt mình để rồi bẽ bàng khi hiểu rằng cái thằng ấy mới là con ruột của bà, còn mình chỉ là con nuôi, tôi lại lâm vào trạng thái hư thực khi anh Khoa cười cười , nó với cái áo hồng : "À , bạn của X . À ! Xin lỗi nhé , xin lỗi nhé ... ", và :"Xuyên ,em chịu khó một chút qua góc kia được không?". Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là công lý. Nó vô vọng và thật không định nghĩa nổi. Cái ghế của tôi mà tôi phải bỏ đi, phải thu xếp một chỗ khác sau bao nhiêu thời gian đứng ngượng nghịu giữa một đám người ngồi, lại còn bị chửi nữa chứ... Không nhớ tôi đã nó gì, anh Khoa loay hoay khó xử đã nó gì, cái áo hồng kia đã nó gì, chỉ nhớ kết cục, dưới sự điều động của anh Khoa, một bạn trai đã tìm một cái ghế phụ, nhường chỗ cho cái áo hồng, và tôi rơi phịch vào cái ghế của tôi. Mọi người nhìn tôi khó chịu vì các mặt sưng sỉa đau đớn không biết kiềm chế tình cảm. Dở thật! Tôi quay sang con bé đó. Nó vẫn đạo mạo như không, tay chống cằm, đầu gật gật, mắt chớp theo lời thầy giảng, rất đúng tác phong con nhà! Ba tiết sau đó, tôi hầu như không nghe, không hiểu được gì. Dù mọi việc đã ổn, tôi vẫn cảm thấy đau đớn vì nhận ra mình là một đứa hèn, chỉ giỏi ở nhà bắt nạt mẹ và bà, đau đớn vì ngượng và ngượng vì tác phong bặm trợn hàng ngày của mình rốt cuộc chỉ là một cái vỏ rỗng. Tối về, tôi chạy như bay đến nhà Mỹ. Nó mặc cái áo pun xanh, một cái quần soọc, ngồi chồm hỗm trên cái ghế đá nhìn tôi trêu chọc: "Sao có vẻ tức giận thế kia hả con?". Tôi kể lại, nó vừa nghe vừa chửi luôn miệng, nhiều nhất là chửi tôi. Nó dài mồm: "Ðại học! Là những người có học! Sao mày không cho cái con đạo đức giả ấy một bợp, hỏi nó: Mầy biết tao là ai không?". Rồi Mỹ nhìn tôi từ đầu đến chân thảm hại, phì cười: "Mọi ngày dữ lắm mà?". "Không, quả thật tao chưa bao giờ gặp chuyện ngang ngược như vậy, tạo lạ quá nên không biết làm sao!". Mỹ lại nổi cáu: "Không biết làm sao! Tụi này phải để tao xử luật rừng. Mẹ, đồ vô học!". Tôi bảo: Mày mở miệng là chửi thề, cái miệng bẩn kinh khủng!". Mỹ nhìn tôi, cười đơn giản: "Cà phê?" Và tôi ngồi sau xe, bình an và cũng chẳng còn giận hờn gì cả. Tôi thấy mình hình như là hai nửa con người, nửa hướng thiện và nửa hướng ác. Lúc này, nửa hướng thiện đang trên đường ra quán cà phê.

Quân sư

Trên đời này chắc chẳng ai dở hơi mong bão lut về trừ đám tre con. Cứ thấy mây đen, gió ù ù lùa về là chúng nó reo hò nhảy múa.Mưa tầm tã trắng nước ruộng đồng cho chúng bơi lội bì bõm,tha hồ thả câu kéo vó. Đám thì mang chậu thùng làm thuyền đua nhau tung toé bạt mạng. Cây cối đổ, chúng thích thú leo trèo vặt hoa bẻ lá. Cả làng cả phố như có hội còn người lớn thì đau đớn xót xa mất nhà mất vụ.Ấy nhưng mùa bão năm nay có người thích bão đến,mà bão cấp 13,14 càng tốt. Hắn không phải là trẻ con. Hắn là người lớn đàng hoàng cũng như không hề mắc một chứng bệnh thần kinh nào hết, thậm chí thuộc giới trí thức,một kỹ sư hẳn hoi.

Gia là dân thầu khoán như bao nhiêu sinh viên xây dựng tốt nghiệp muốn theo đuổi.Tuổi trẻ tài cao,ra trường chưa đầy bảy năm hắn đã là một tay thầu khoán tên tuổi,một doanh nhân máu mặt cửa thị xã vùng Biển này.Công trình hắn trúng thầu lần này là một toà văn phòng12 tầng. Phải nói đó là công trình trọng điểm cao nhất vùng ,sau khi hoàn thành nó xứng lên ngôi nóc nhà thị xã. Ngày khởi công có mặt đầy đủ các vị chức sắc cửa sở xây dựng,và tất nhiên không thể thiếu ông tổng giám đốc-sếp trưởng cửa hắn. Chả là hắn thuộc biên chế cửa một công ty nhà nước thuộc lĩnh vực xây dựng tiếng tăm. Khi tổng công ty trúng thầu cái nào xương xương họ sẽ giao cho tay ất ơ ương ngạnh hay chống chế cấp trên nào đó. Chiếc nào ngon lẽ đương nhiên thuộc về những kẻ khoé léo biết chiều Sếp như Gia.Và đây, lần này công trình cao ốc béo bở không vào ai cả ngoài hắn.

Tối hôm khởi công, khi các đại quan trên sở và khách mời đã về. Chỉ còn lại ông Chưởng tổng giám đốc và đội nhận thầu gồm Gia cùng tay trắc địa trẻ măng tên Nghê và một số trợ lí kĩ thuật công trình ở lại dự bữa cơm tối thân mật tại khách sạn sang nhất thị xã.

- Nào,xin mời tất cả cùng nâng li . Gia nhổm dậy dơ cao chiếc li khởi xướng.

Tiếng li chạm nhau lách cách,tiếng loảng xoảng của bát đũa, tiếng nhai rau ráu xen lẫn những lời rì rào chúc tụng.

Chai Red-Rebel thứ hai đã vơi đi phân nửa. Nhấp xong ly rượu đầy ông Chưởng cẩn thận đặt xuống bàn rồi bất ngờ dương cặp mặt tí hí đã chuyển sang đỏ ngầu nhìn Nghê.

Vốn con trai ông phó sở,vừa tốt nghiệp dăm hôm chưa kịp lấy bằng bỗng một hôm đang chơi điện tử thì bố hắn chở đi gặp ông Chưởng.Từ đó hắn là nhân viên chính thức cửa công ty. Vừa về công ty hắn được ưu ái cắp tráp theo Gia để học hỏi và cọ xát thực tế. Trong khi bạn bè cùng lớp đại học đang ngược xuôi chạy vạy hồ sơ. Suất đi công trình cửa Nghê là một bước khởi đầu không thể còn gì để chê.Hôm nay ngồi với các vị quan chức hàng đầu công ty hắn vừa hãnh diện vừa không thể giấu hết sự rụt rè ý tứ.

- Cậu học trắc địa ra hả? ông Chưởng hất hàm nhìn Ngô.

- Dạ, cháu học bên đo đạc ạ.

ông Chưởng khẽ vẩy ánh mắt nhìn chéo sang Gia rồi nhếch mép cười thành tiếng khá vô duyên như vừa tự nhớ ra điều gì đó khá thú vị.Mọi người chưa kịp hỏi thì lão nhìn thẳng Gia vẻ quan trọng.

- Kiếm hay không là nơi cậu và anh đi đo đạc ấy.

Rồi như một người thầy người cha ông Chưởng lưu ý căn dặn cụ thể cho Gia những đường dao lưỡi kéo sắc lẹm những bài phẫu thuật cắt rút công trình sao cho thành tấm thành miếng mà không để bị sụp.Ông nói bằng tất cả sự đam mê và niềm cảm hứng, một sự tâm đắc và kiêu hãnh cửa bậc tiền bối truyền nghề cho thế hệ trẻ.

- Lãi hay lỗ ăn nhau cái mẹo,tuy tổng công ty khoán cho anh rồi,lãi hay lỗ là do anh chịu, tuy thế tôi truyền cho anh kinh nghiệm cũng chỉ vì tiền đồ và sự nghiệp cửa anh,anh khá thì tổng mới mạnh.

- Dạ, có gì anh cứ dạy ạ.

- Cậu có biết một công trình rút chỗ nào là ăn nhất không?

- Dạ đương nhiên là xi măng và thép rồi. Gia thản nhiên.

- Sai rồi. ông Chưởng lấy cái khăn lau cái trán đầy mồ hôi mỡ rồi lắc đầu nhoẻn miệng nhìn Gia.

- Sao lại sai ạ? Gia hỏi

- Ăn sắt ăn thép không bằng ăn đất.

- Ăn đất...? Gia và đám kĩ thuật trố mắt nhìn vị giám đốc đã lốm đốm hai thứ tóc.

- Đúng, ăn đất. Rút sắt trắng trợn quá nhà sập thì không những anh mà cả công ty lãnh đủ, bây giờ trò ấy chỉ đủ ăn thôi.Khi đo đất để đào hay san lấp mới là cái cốt yếu. Chỉ cần anh nghiêng ra sau cái thước hay nhô lên thụt xuống cái thước sai số tưởng vài phân nhưng nhân lên hàng mấy héc-ta vênh nhau hàng ngàn khối đất ấy cậu ạ. cứ áp giá nhân công kèm máy móc mà tính ra bao nhiêu tiền?

Mặt Nghê "trắc địa" sáng quắc, suốt mấy năm mài quần trên ghế giảng đường chưa có thầy hay cô giáo nào dạy hắn những điều thực tiễn như vậy,quả là có ra đời mới sáng được mắt. Những điều xương máu con người ta chỉ học được ở trường đời mà thôi. Dù không biểu lộ ra nhưng hắn tự cảm thấy hắn đang nắm giữ một mắt xích hiểm yếu trong cỗ máy xây cất công trình.

Ngay sáng hôm sau,hàng chục máy đào máy xúc gầm rú quần đảo bãi đất hoang trong thị xã. Đứng trên chòi quan sát Gia như một vị tướng đang điều khiển hàng ngàn binh hùng tướng mạnh đầy huyết khí lao vào một cuộc quyết chiến sống mãi. Nơi đây chỉ vài tháng nữa thôi sẽ mọc lên một toà cao ốc. Phía dưới là dãy siêu thị kiêm sàn nhảy cao cấp rực đèn thâu đêm suốt sáng. Đang khoanh tay nheo nheo mắt nhắm nghía đàn voi sắt thì Gia khẽ giật mình khi có bàn tay khẽ vỗ vào vai.

- Công trình hoành tráng lắm.

Gia quay lại hoá ra tay trợ lí đắc lực sát cánh cùng hắn hàng mấy năm trời.

- Cát hả?hôm nay ra đây sớm thế?

-Báo cáo anh,đêm qua em nằm mơ, sợ quá giật mình tỉnh dậy,sau đó không thể chợp mắt được,chỉ chờ đến sáng để gặp anh.

- Mơ màng cái gì,lại mơ con Ly nó đá chứ gì?

- Không,liên quan đến công trình mới sợ chứ.

- Nói đi, úp mở mãi.

- Dạ,anh đừng trách em, em mơ...công trình bị sập ạ. Cát nhìn Gia dò xét.

- Sao, sập là sập thế nào, liệu mày có độc miệng không đấy? Gia nhăn nhó.

-Em mơ mình công trình gần hoàn thiện thì trúng một cơn bão thế kỉ,cực kì hung dữ xô đổ anh ạ, hi vọng đó không phải là điềm gở.

Gia đưa tay ra bấm một lúc nhìn Cát ái ngại:

- Ừ nhỉ, bỏ mẹ rồi, năm nay tao đúng năm tuổi, không đại hồng thuỷ thì siêu bão đây...gay nhỉ. Nhưng tao không duy tâm,thời tiết càng ngày càng dị thường, khó nói lắm,chỉ có điều theo dõi đài báo mà tránh được từng nào hay từng ấy.

- Ôi, tin gì cái bọn nói nhảm,bão đi đằng đông nó bảo đằng tây,trời mưa thì bảo trời nắng.

- Không. Cát ngắt giọng Gia.

-Mình sẽ mua bản quyền đài Hồng Kông hoặc hạm Đội 7 hải Quân Mỹ anh ạ. anh cứ để em lo vụ Nha Khí Tượng này, nếu sắp có bão thế kỉ mình sẽ mua ngay bảo hiểm công trình, còn không thì thôi.

Quả thực, nửa tháng sau công trình đang tấp nập nhô lên khỏi mặt đất.Trong phòng chỉ huy công trường,đã xế chiều nhưng Gia đang li bì sau một đêm nhậu với mấy sếp bên A thì Cát đấy cửa xộc vào.

- Anh Gia, em bảo này

Gia dụi mắt uể oải đứng dậy vặn vòi nước vuốt mặt rồi hỏi

- Gì thế.

- Bộ phận khí tượng hạm đội 7 thông báo sau 2 tháng nữa sẽ có cơn bão cực lớn đổ bộ vào duyên hải miền trung.Theo dự bão đây có thể là cơn bão mạnh nhất thế kỉ,có khả năng xoá sổ cả một thành phố.

- Kinh ! thế sao, nguồn tin đáng tin cậy không đấy?

- Em đảm bảo nguồn tin mật chỉ có tình báo khí tượng cửa Mỹ mới có. Tin này chưa phổ biến ra bên ngoài vì còn bí mật quân sự nữa. Em mua kênh dự báo này giá 3 ngàn đô đó.

- Theo câu ta nên làm gì bây giờ?

- Hai người kéo nhau lại bên đống bản vẽ thì thào

- Trong cái nguy có cái cơ, trong cái rủi có cái may.Vụ này ta biến bại thành thắng.

Gia trố mắt nhìn vị trợ lí tài ba của mình. Giọng Cát vanh vách:

- Thứ nhất, khai giá công trình lên cao nhất có thể rồi bảo hiểm toàn phần. Thứ hai, rút tối đa sắt và xi măng miễn đừng để nó sập khi đang thi công mà chết người là được. Đằng nào nó cũng sẽ sập,sập khi có bão mới được lĩnh bảo hiểm. Khi thiên tai giáng xuống thiên hạ đang đau đớn chìm ngập trong tang gia chả ai ra mà soi mói chất lượng công trình cả, mà lúc đó tiền bảo hiểm lại lĩnh đậm. Vụ này hoá trúng lớn, cơ hội trăm năm mới có một lần đấy.

Mặt Gia bừng sáng, đây mới thực là cao kiến. Mấy bài ăn đất tầm thường của lão Chưởng làm sao so được với chiêu bài ăn mây ăn bão này đây. Mắt hắn thau láu nhìn Cát khâm phục,đúng là vị quân sư kiệt xuất. Bỗng hắn thoáng chút tư lự.

- Nếu bão không đủ lớn cho nó sập, bão qua rồi hoặc người ở rồi nó mới sập thì vào tù cả nút à?

- Ha ha ha... anh ngây thơ quá. Cát cười khanh khách nhìn vi đội trưởng trẻ tuổi rồi rít nhẹ điếu thuốc đang cầm tay nheo nheo mắt đầy vẻ túc trí đa mưu

- Sếp yên tâm, Cát này đã nhúng tay vào cái gì chả sập. Em nhìn bản vẽ rồi. Cái móng nhà này hơi nông so với đất cát vùng biển này, kinh nghiệm cho thấy móng này chỉ cần mưa to 3 ngày kèm gió lớn là bật gốc anh ạ.

- Nhưng mưa không đủ to và gió yếu thì sao nào?

- Tối hôm đó ta sẽ cho 5 chiếc máy ủi móc cáp vào nóc công trình nằm chờ, gió không đủ sập ta lôi xem nó có chịu được một lúc 5 con máy ủi không nào?.Cát nheo mắt cười nham hiểm.

- Ừ hay!,được cửa nó đấy...,Chiều nay đi mua bảo hiểm ngay đi, nhớ đọc kĩ mấy điều lập lờ của mấy bố, sau này kẻo bị nó trở tay trắng mắt ra đấy. Mấy cha ấy nổi tiếng là thầy cãi. ° ° °

Sáng nay,trời đã ùn ùn mây đen. Bầu trời bỗng dưng tối sầm lại. Tin bão báo khẩn cấp được báo liên tục 15phút một lần trên cả đài phát thanh lẫn truyền hình. Khắp phố dòng người sơ tán đi về vùng sâu hơn đặc kín người. Các công nhân của Gia đã nghỉ hết từ hôm qua. Họ đã về quê hoặc tìm nơi an toàn ẩn náu chỉ còn lại Gia và Cát cùng 5 tay lái với 5 con máy ủi là đang hí hoáy ngoài công trường. Cát quần áo ướt như chuột lột đội mũ bảo hiểm vàng choé,tay cầm bộ đàm. Lần này hắn đích thân chỉ đạo mục cột cáp xe ủi vào nóc công trình phòng khi gió không đủ lớn như kế hoạch đã đạo diễn từ trước.Trong chiếc Audi màu đen bóng loáng dưới mưa cách đó không xa Gia đang bồn chồn đăm đăm nhìn về toà nhà 12 tầng đang xây dang dở. Vụ này coi như một canh bac lớn với hắn. Ngoài tiền bòn rút vật liệu đã hoàn tất tính sơ sơ đã đủ mua con Audi cho vợ. Nếu thuận buồm xuôi gió tiền bảo hiểm cỡ gần chục tỉ thu về bằng hai lần làm con công trình mới này nữa coi như một năm làm 5 năm nghỉ.

- Anh Gia, mở cửa em với

Hắn giật mình khi Cát đã đứng chờ lù lù ngoài cửa xe. Vừa chui vào Cát đã huyên thuyên.

- Ổn cả, anh em mình cứ về khách sạn nào kiên cố ngủ. Sáng sớm ra chỉ cần a lô công ty bảo hiểm đến đánh giá đống gạch vụn nữa là xong.

Chiếc xe Audi A6 rồ máy xé toang vũng nước trên đoạn đường ngập lội từ từ tiến về khu trung tâm. Trời mưa mỗi lúc mỗi nặng hạt,cửa xe đóng kín như bưng nhưng hắn vẫn cảm nhận được sức gió ngông cuồng đang hất tung những chiếc xe đạp và người đi bộ hai bên.

Đêm đó trong khách sạn nằm cách công trình không xa, hắn không sao chợp mắt. Tiếng gió rít kèm mưa lớn đập phần phật bên ngoài cánh cửa kính hai lớp. Lâu lâu một tiếng rầm kinh khiếp vang lên động đậy cả nền nhà y nhu toà tháp nào đó sập đổ. Ngoài trời tối đen, hình như toàn thị xã bị cúp điện. Quả la đài hải quân Mỹ nói không sai, khoa học các nước tư bản thật đáng gờm.Trong khi toàn thế giới đang hồn nhiên vô tư lự thì người đã đánh hơi thấy giông bão cách xa cả mấy tháng liền. Phen này dính bão thế kỉ hàng tá nhà cửa đổ sập họ mới ngồi than khóc tiếc cửa. Trong số họ cam đoan không ai tỉnh táo để mua bảo hiểm và tính kế từ 3 tháng trước như hắn. Tội nghiệp họ bao nhiêu hắn càng phục Cát bấy nhiêu và bản thân hắn cũng đáng khen cho sự táo bạo và quyết đoán . Mờ sáng, gió đã yếu hẳn chỉ còn mưa vẫn đang nặng hạt, trên chiếc giường bên cạnh Cát đang ngáy khò khò thì bị hắn lắc dậy để gọi bảo hiểm đến. Chưa kịp đánh răng rửa mặt, trên người con mặc nguyên bộ quần áo ngủ ca rô hắn đã cầm chiếc dù chạy ra khỏi khách sạn nhằm hướng công trình bước hối hả.Chắc chắn bây giờ chỉ còn đống gạch vụn chìm trong nước nhưng hắn muốn đích thân chạy ra chứng kiến. Dọc đường cột diện lẫn cây cối đổ la liệt, dây rợ loằng ngoằng dăng khắp đường. Khi đến cuối phố sát cổng công trình hắn choáng váng khi thấy toà nhà vẫn trơ gan, hiên ngang ngạo nghễ chọc lên nền trời mưa bay đầy thách thức. Hắn chôn chân bên đường và không tin nổi đó còn là toà nhà cửa hắn nữa không. Xung quanh cây cối đổ rạp che hết lối đi. Nước dâng lên gần nửa tầng một.Những chiếc xe ủi được bố trí trực chiến đêm qua chìm nghỉm chỉ còn trơ lại cái nóc và chiếc ống khói nhô lên khỏi mặt nước như đang hô hấp trong tuyệt vọng. Ấy vậy mà toà nhà vẫn chưa đến ngày tận số. Cái cơ thể công trình khiếm khuyết từ xương tuỷ đến cơ bắp đầy rẫy thiếu sót và bệnh hoạn vẫn chưa chịu gục ngã. Nó vẫn vượt lên chính mình để sống, nhưng chắc chắn trong tương lai không xa, giữa một ngày thiên thanh bạch nhật khi mọi người không muốn nhất nó sẽ khuỵ xuống để bắt đền Gia. Khi đó gã và đám tuỳ tùng sẽ vào tù, một sự báo thù đau đớn biết trước. Hắn đang hoang mang thì bất thần một giọng nói vang lên làm hắn suýt lộn cổ xuống vũng nước.

- Anh Gia, thưởng cho em đi !.

Nghê "trắc địa" như từ trên trời rơi xuống hiện sau lưng hắn mặt tươi rói.

- Mày...mày ra đây làm gì?

- Em qua xem công trình, may quá,bão to thế mà công trình mình vẫn không sao, phen này thưởng công cho em đấy.

- Gia đang điên lộn ruột bất ngờ vung hai tay bấu lấy vai Nghê ghì chặt mắt trừng trừng nhìn làm Nghê phát hãi.

-Thưởng cái Đ gì? hả?

- Dạ...anh ..anh để em nói. Chả là Sếp Chưởng đã dạy anh em mình còn gì. Hôm đào móng lẽ ra em phải ngả cái thước ra để ăn bới mấy chục khối móng nhưng lúc ấy bên giám sát đông quá nên em luống cuống làm nhầm nhấc thước lên. Thành ra móng được đào sâu thêm hơn một mét. Lỗ vốn của anh cả đống tiền nên lâu nay em không dám nói. Nhưng giờ lại hoá hay, nó không nghiêng ngả như máy cái đang xây đầu phố.

- Mày..mày..mày giết tao rồi? Gia rít lên rồi đẩy mạnh tay làm Nghê ngã sóng soài xuống mặt đường đầy nước. Hắn quay mặt rồi lội ùng ục về phía dòng sông đang cuồn cuộn trôi trong sự ngỡ ngàng khó hiểu đến tột độ của Nghê.

Con chuồn chuồn

Mà có viết vui thì cũng phải có viết buồn, viết vui chưa chắc người ta đã thấy vui thì viết buồn cũng chưa chắc gì người ta đã thấy buồn. Mà vui buồn gì thì cũng thuộc thể loại nhảm. Mà... mà thôi, quay lại vấn đề chính. Không thì một hồi... đích mình sẽ bị biến thành con chuồn chuồn!

Vậy... con chuồn chuồn có... buồn không nhỉ? Chả ai biết! Dám đến con chuồn chuồn cũng chả biết nó có buồn hay không? Cả đời nó bay đây bay đó, tận hưởng cái thú vui mà chỉ có nó mới cảm thấy thỏa mãn. Có khi nó chỉ cảm thấy... "buồn" vào cái khoảnh khắc nó chạm vào đầu lưỡi của một con ếch. Phụp! Thế là cái thú vui bay đây bay đó chấm dứt. Không hiểu khi nằm trên lưỡi của con ếch, con chuồn chuồn có nghĩ phải chi nó có thể nhìn xa hơn một chút và thấy con ếch, thì bây giờ nó đã không nằm đây không nhỉ? Thật đáng tiếc, mắt của chuồn chuồn trông bề ngoài to thế, nhưng cấu tạo của nó không cho phép nó nhìn xa...

Vừa tình cờ đọc một bài blog về một người mẹ có đứa con gái bỏ nhà theo bạn trai, sau đó thì quay lại xin mẹ giúp đỡ với một đứa bé mới sinh và một căn bệnh HIV trên tay. Ừ, những chuyện thế này thì thiếu gì trên đời. Nghe đến mòn cả tai, chả có gì mới mẻ. Thậm chí có thằng bạn còn nói: "Sao người ta cứ suốt ngày than thở về ba cái chuyện này thế nhỉ, không chán à!". Ờ, chán chứ bạn! Chán còn hơn cả con gián ấy chứ! Nhưng mà bạn ơi, chán nhất là ở cái chỗ từ nhiều cái sự chán nghe của những người như bạn mà cuối cùng dẫn đến cái sự chán đời, cũng cho những người như bạn, và còn cho cả những người khác nữa.

Sinh vật sống nào cũng sống cho sự thỏa mãn của mình trước nhất. Đến con chuồn chuồn còn muốn thỏa mãn cho chính mình, thì huống gì là con người, sự thỏa mãn còn đòi hỏi cao gấp mấy chục lần ấy chứ, nhỉ? Thì đúng rồi, cuộc sống của mình mà, mình được quyền làm những gì mình thích, không ai có quyền ngăn cản. Ai ngăn cản thì sẽ có khả năng diễn ra "chiến tranh thế giới" lần thứ... n!

Mà chiến tranh thì lúc nào cũng thảm khốc, nên tốt nhất là phải để mình làm những gì mình muốn. Hình như đó là cái quy tắc vô hình mà người ta thường thích áp dụng, nhất là trong xã hội hiện đại nữa. Quyền tự do của con người là trên hết mà! Ví dụ: ta thích thử những thứ mới, vì ta là người thích thử thách bản thân, vì ta là người tràn đầy tính phiêu lưu và lòng dũng cảm, và vì phải chấp nhận sự thách thức của người khác thì mới là anh hùng, là quân tử. Nên ta sẽ không bao giờ từ chối những lời thách thức. Rất đáng nể! Đầy lòng quả cảm!

Một ví dụ khác cũng đầy... cá tính, như... ta làm những gì ta thích, ta sống cho bản thân ta và thỏa mãn chính bản thân ta. Ta không... thèm dùng bất cứ cái gì làm... giảm đi cái sự thỏa mãn của ta, vì chúng khiến ta... mất vui! Cũng không có gì khó hiểu, có người nói vì cuộc đời ngắn mà, phải tận hưởng thời gian của mình một cách triệt để, cần gì phải lo lắng lung tung.

Ờ, cũng có lý! Có điều hình như nhiều người trong vài phút đã quên mất rằng cuộc đời của mình còn bao gồm những người khác chứ không chỉ mỗi mình mình, quên mất rằng tận hưởng cuộc sống có nhiều cách khác nhau, mà không nhất thiết phải làm ngắn hơn cái cuộc đời vốn đã ngắn. Hay là người ta cũng giống như con chuồn chuồn, trông mắt thì to nhưng chỉ có thể thấy những gì ngay sát trước mắt nó, còn những thứ hai bên và đằng xa thì không thấy được nhỉ? Dám lắm! Hay không phải?

Tự hỏi nếu cuộc đời là một ván bài, kết quả của những người nhiễm HIV ngoài kia, có bao nhiêu là do con bài họ được chia, và bao nhiêu là do cách họ chơi bài?

Thiết nghĩ, tội nghiệp con chuồn chuồn! Lại không công bằng cho nó rồi!

Nhật ký gã đào đường

Tháng 4, năm 200...

Mình có nên đi khám bệnh không? Khi cái ham muốn điên cuồng kia lại trỗi dậy. Sáng nay ngủ dậy còn thấy rất sảng khoái. Có con chim nhà bên cạnh hót rất vui. Rồi mình đi tắm. Lúc trong nhà tắm mình còn vừa tắm vừa hát. Khi đó mình thấy yêu cuộc đời này quá...

Rồi lúc chạy xe đi làm mình cũng còn thấy vui. Thế mà khi vừa quẹo ra con đường mới, thì tất cả thay đổi. Vừa nhìn thấy mặt đường phẳng phiu mới trải nhựa xong ít ngày, xe chạy băng băng không vướng bụi, tự nhiên cái ham muốn kia bừng lên trong người mình. Nó ngùn ngụt đến mức mình tự hỏi, sao thế này? Chẳng lẽ thuốc uống suốt quý I năm nay không có tác dụng gì sao? Không, mình nghĩ rồi, đối với dạng bệnh này, thuốc chỉ có tác dụng khi "yếu tố khởi phát cơn" đừng xuất hiện nữa. Có nghĩa là đừng có những con đường mới ra đời, mặt đường đừng quá phẳng, và người đi đường đừng mang vẻ mặt quá thỏa mãn vì được thênh thang... Nhìn thấy tất cả những thứ này, Thánh cũng phải lên cơn đào bới như mình mất thôi. Mình chỉ muốn có ngay một cái xẻng trong tay, hay một cái cuốc chim cũng được, đào một cái gì đó trên đường, nhỏ cũng được, một cái lỗ cũng được, miễn ở ngay giữa cái mặt đường phẳng phiu kia... Mình biết đào đường thế là sai. Một cái gì đi ngược lại quyền lợi của đám đông vô tội thì nói chung là sai, mình biết. Nhưng đó là bệnh, bác sĩ gọi tên nó là "ám ảnh phá hủy"; nó nằm ngoài ý muốn của mình, nó bất chấp ý muốn người khác, và mình chỉ mong nhân dân hiểu được cho là mình bị mắc cái chứng oan nghiệt này để mà tha thứ cho thôi.

Tháng 7, năm 200...

Tưởng đã đỡ sau đợt điều trị tháng tư, hóa ra kết quả lại còn đáng sợ hơn: bác sĩ nói mình chuyển sang một dạng khác của bệnh, như mặt kia của một đồng xu, có tên là "ám ảnh xây dựng". Hình như có sự thay đổi về thị giác và ý thức vật cản. Những con đường ở Hà Nội, trước kia mình vẫn thấy nhỏ bé, xinh xắn, rất đặc trưng Hà Nội; thì từ khoảng một tháng rưỡi trở lại đây, mình thấy nó sao mà quá to, quá trống trải, lại như không có gì có thể ngăn được hai luồng xe (dù chậm) đâm sầm vào nhau. Cứ bước ra đường là mình chỉ muốn xây ngay một con lươn, xấu xí cũng được, gây chết người như chơi cũng được, nhưng phải xây ngay, xây vội vàng, cắt cho nứt đôi một con đường, cho hoa sữa rụng đều hai nửa, cho mọi thứ hẹp lại, chật chội lại, ùn tắc lại...

Trời ơi, chỉ có ngồi đây, viết lại thôi, mà cái ham muốn làm con lươn đã trỗi lên trong mình như thế này rồi, nó lại bừng bừng không khác gì cái ham muốn đào đường mấy tháng trước. Nó thiêu đốt mình, làm mình chỉ muốn lấy trộm tiền của mẹ Nhà nước, thỏa mãn cái cơn làm lươn này xong rồi muốn gì thì muốn... Mình đâm oán mẹ. Có lẽ mẹ chiều mình quá nên mình mới thế này. Trước tất cả những cơn điên của mình, mẹ vẫn đều đặn cấp tiền ăn sáng cho mình. Mẹ phải biết rằng, không có tiền của mẹ thì cơn điên nào có điên mấy cũng phải tỉnh chứ! Chỉ trong 2 tháng, mình đã phá được 6 con đường, cày tung 3 dãy phố, và làm được 4 con lươn. Nếu nhân dân có oán, thì phải oán mẹ mình, chứ không phải mình. Ðáng lẽ mẹ mình phải theo dõi mình chặt hơn, "siết" hết các phương tiện gây án của mình, hoặc nặng hơn, như tích Tàu, mẹ phải giết mình đi mới phải.

Tháng 12, năm 200...

Không có cái gì an ủi với một người bệnh hơn là việc nhìn thấy có một thằng cũng bệnh giống hệt mình. Hôm nay mình đi qua khu X, đã thấy một thằng cũng đang đào bới. Hình như nhà nó giàu hơn nhà mình. Mình thấy nó đông công nhân hơn, xe ủi to hơn, và đường nó đào nát hơn mà người đi qua không ai dám nói. Nhưng giữa những người bệnh, lại còn có cả tâm lý ganh đua: tao nặng hơn mày. Thằng này mới ở giai đoạn "phá hủy". Còn mình đã bước sang giai đoạn 3: "xây rồi phá". Mình giờ có cái thú làm đường mới, làm vừa xong thì đào bới lên. Mình thích xây đường thật to để sau đó phá thật nát. Và mình thậm chí còn tìm ra những lý do chính đáng để phá thật nát. Trò chơi này tốn tiền khủng khiếp, và mình biết mẹ phải vay tiền các dì bên nước ngoài. Trò chơi này lại làm đau lòng nhân dân qua đường, nhưng họ là nhân dân, nghĩa là không dính líu gì đến mình cả. Mình đã ở giai đoạn cuối của bệnh, mình chẳng sợ ai. Mình chỉ sợ công an. Nhưng có lần mình nghe trộm được mẹ nói với bố: "Ðừng lo, pháp luật nào cũng có những lý do che chở cho những thằng điên, anh ạ!"

Cánh rừng tình yêu

Tin anh Thịnh chết do chất độc hóa học của Mỹ từ mấy anh H15 cũ điện vào đã đánh gục KỊsor HỊGươnl.

Nhiều năm qua HỊGươnl sống bằng tình yêu của bà với Thịnh. Không đêm nào bà không mơ thấy anh. Bà mơ thấy Thịnh đang ôm bà, đôi môi hai người vừa chạm vào nhau thì cánh quạt trực thăng quất vù vù và Thịnh bỗng dưng giật thót người vùng bỏ chạy. Bà cố sức đuổi theo nhưng đôi chân cứ quấn vào nhau không sao gỡ ra được.

Tỉnh dậy đôi chân vẫn cứng, dáng Thịnh sấp ngửa chạy lẩn quất đâu đó trong rừng. Rồi bà lại chìm vào giấc ngủ nặng nề với giấc mơ dang dở. Bà thấy anh Thịnh dẫn HỊGươnl đi dọc con suối cạn, gặp vạt bướm nhiều màu bay túa lên, HỊGươnl bỗng thấy mình nhẹ bẫng bay biến vào rừng bướm để mặc anh đứng ngẩn ngơ. Rồi lại thấy anh Thịnh ngồi trên cái cối gỗ trước cửa bếp, tay cầm quyển sách dạy cho cô học cách đọc chữ "con Kinh", chợt các con chữ như những con ong bay từ miệng anh bay ra, đậu lên khắp người cô. Cô nhột quá hét toáng lên, nhưng miệng cứng lại, tiếng hét bị chặn nơi họng làm cô tỉnh dậy.

Tỉnh dậy cứ tiếc ngẩn ngơ, người lại lịm đi, mắt vừa nhắm ngủ là đầu lại mơ thấy cánh rừng tình yêu của hai người, khi thì gùi nặng làm đôi vai Thịnh trẹo hẳn sang một bên vì leo dốc mưa, khi thì thấy anh chạy dưới trời nắng nóng vì bị bom na-pal máy bay Mỹ thả xuống thiêu rần rật, lửa cháy cuồn cuộn, dựng trời. HỊGươnl thấy Thịnh bị lửa ăn xèo xèo, quay tròn trên bãi cát Ia Mơ... Ôi Jang ơi, không thể như thế được. Anh Thịnh ơi, nhảy xuống suối Ia Mơ, nước suối giúp tắt lửa trên người anh ngay mà. Thịnh nhảy ào xuống suối, anh hiện ra lì lợm bên bến nước, nơi HỊGươnl đang ngồi một mình chờ cho cơm chín, trời sáng chưa rõ mặt người.

Một quả bom Mỹ hất tung cả xoong chảo nồi niêu, hất tung cả cô và Thịnh bay lên ngọn rừng. Thịnh ho sặc sụa và không hiểu sao anh chẳng mặc gì mà người thì cứ bay bay mãi trên nương lúa, cô đang hái rau bí gặp lúc máy bay Mỹ phun chất độc, khói từ hai cánh máy bay vàng khè phun ra rây rây thả xuống như mưa bụi, như sương mù trùm kín Thịnh. Anh không có khăn mặt ướt để ngậm như cô. Thế là Thịnh chết lăn quay ra đất. HỊGươnl khóc mà sao đôi chân dài như người đi cà kheo của anh lại co lên, đôi tay gầy dài ngoẵng của anh cũng cong queo cố đưa ra kéo cô đứng dậy. Chạy! Lại chạy. Thịnh cao nghều đang gùi sắn hay gùi củi gùi rau từ ngoài rẫy về, cũng giống như mọi người trong đơn vị, vậy mà chỉ riêng HỊGươnl là thấy khác, thấy thương. Cái cách anh chỉ cho cô học chữ đơn giản mà sao dễ hiểu, mau thuộc quá.

Cái cách anh nói chuyện cứ thấy nó sao sao kỳ kỳ, nhưng mà cô thấy dễ thương hơn hết thảy mọi người. Cái gì ở Thịnh cũng toát lên vẻ bình thường, thủng thẳng, đơn giản, mà sao cứ khiến HỊGươnl nao nao. Cái cửa bếp bình thường với mọi người nhưng thấp với Thịnh, vì anh cao quá mà. HỊGươnl thấy Thịnh mỗi lần đi gùi hàng về phải quỳ xuống khó nhọc mới hạ được gùi hàng nặng xuống, rồi trợn con mắt lên bê gùi vào trong bếp cho cô. Cô thương anh đứt ruột nhưng không dám nói ra miệng đâu. HỊGươnl lặng lẽ làm riêng cái dàn ở ngay cửa bếp để tiện cho anh mỗi lần có gùi đồ đoàn gì về, đặt xuống đấy, không phải quỳ. Thịnh thì vô tình cứ coi cô như con nít, lại còn xoa đầu người ta khen thông minh nữa, quên chuyện người ta đã có chồng có con. Mỗi lần ở phía trước về anh đều khi thì cho cô cái vòng đeo tay bằng gỗ KỊrắc, anh bảo anh tự làm lấy lúc rảnh; khi thì cái lược bằng sắt máy bay Mỹ.

Có lần anh cho cô cả một chuỗi dây cườm bằng hạt gỗ nhỏ li ti đẹp đến mức không bao giờ cô dám nghĩ đời cô lại được đeo cái vòng quý hiếm đặc biệt thế này. Mà làm sao bàn tay con người ta lại có thể làm ra được thứ hạt óng ả và nhiều màu chỉ bằng một loại lõi gỗ KỊrắc, thứ lõi gỗ lâu nay đều đã bị bỏ đi ngoài rừng. Thịnh cho cô xem cái dũa bé tí xíu với lại cái khoan cũng bé tí xíu, "đồ nghề" bất ly thân của anh. Anh bảo đó là hai cái dụng cụ gia truyền cũng giống như hai thứ bất ly thân của người trai JRai, đó là con rựa và cái gùi. Không phải, đó là cây ná và con rựa! HỊGươnl bảo cũng không phải, đó là khẩu súng và con rựa. Nhớ lần chiến dịch Chư Mố vừa xong, anh em phía trước về chỉnh huấn, không thấy có Thịnh về, HỊGươnl ngồi ngoài bờ suối cả buổi sáng, quên nhiệm vụ nấu ăn, quá trưa anh em tìm được cô ngồi khóc một mình.

Hóa ra anh Thịnh không về vì công tác chứ không phải chết. Vì công tác thì phải có tin riêng cho cô như mấy lần trước chớ. Mấy lần trước có ai từ trận địa về anh cũng gửi quà cho cô mà... Sau đợt công tác ấy Thịnh trở nên khác, anh giữ ý ít dám gặp cô, thậm chí mỗi lần về anh không dám đưa quà cho cô như mọi khi. HỊGươnl buồn không nói. Cô không nói một lời nào đã đành, cô không nhìn anh nữa. Có ai đó trêu Thịnh với cô, cô cũng giả lơ cho họ lạt câu chuyện trêu ghẹo. Thịnh gùi rau gùi củi gùi củ mì về bếp, cô cũng giả lơ làm gì đó "không quan tâm". Có lần Thịnh nán lại hơ áo, cô không thể không vào bếp. Thịnh tranh thủ lúc vắng người, hỏi:

- HỊGươnl giận anh à?

HỊGươnl không trả lời. Cô chất củi vào đầy trong bếp. Cô đổ nước vào nồi quân dụng rồi đổ một gùi sắn băm vào nấu cho heo... Anh lủi thủi bước ra khỏi bếp với cái áo khô cong khô queo. Mọi lần HỊGươnl đã hơ áo cho anh rồi đấy.

Anh Thịnh nó chưa có vợ có con ngoài Bắc, cả đơn vị ai ai cũng biết. HỊGươnl có chồng là anh Kơ Pá Hiêng, huyện đội trưởng, ai ai cũng biết. Kơ Pá Hiêng lấy HỊGươnl ở làng, có con với HỊGươnl được ba tuổi thì anh yêu cầu cô ở nhà, không du kích du kiếc gì hết. Cô ở nhà đâu được mấy tháng thì anh về đưa vợ vào rừng căn cứ cho làm chị nuôi huyện ủy. Ở bên huyện ủy được nửa năm thì anh liên hệ được cho cô về H15 đây. H15 là lính chủ lực toàn anh em miền Bắc, có trình độ văn hóa cao hơn, có tác phong chính quy hơn, có ý thức tổ chức kỷ luật cao hơn, tất nhiên vì thế cho nên độ yên tâm cũng cao hơn.

Đó là Hiêng suy diễn tính toán theo cái cách của anh thế. HỊGươnl yêu Hiêng vì cô choáng ngợp bởi vẻ đẹp oai phong của anh mỗi lần về làng triển khai cho du kích đi phục vụ bộ đội vào chiến dịch. Lại càng thương yêu anh hơn khi biết anh đã có vợ hai con, nhưng vì vợ con anh ở trong ấp đã không chịu nổi địch o ép, phải theo người khác phía bên kia để giữ thân. Cả đội du kích làng PLei Dịt giật mình thấy HỊGươnl quấn quýt với Hiêng, mới đầu chú chú cháu cháu, sau anh anh em em, sau nữa là không giữ ý gì hết, cứ nhơn nhơn bá vai bá cổ. Cha mẹ HỊGươnl ở trong làng xa đâu có ai biết gì mà có phản ứng. Cả huyện đội cũng giật mình vì thấy thủ trưởng yêu cô du kích trẻ quá, xinh quá, liệu có bình thường không. Bình thường quá đi chớ, Hiêng nói khi trong cuộc họp chi bộ có người đưa vấn đề "quan hệ nam nữ" của thủ trưởng ra hỏi. Nó ưng mình trước mà. Thế là cưới nhau. Thế là có con. Có con rồi HỊGươnl càng đẹp hơn.

Chiến tranh dường như không hề hấn gì đến cô. Da thịt cô nở bung ra, đã trắng càng trắng hơn. Môi cô đã đỏ tươi roi rói giờ càng thắm hơn, tươi hơn, gợi tình hơn. Trước đây cô hát hay một, bây giờ cô hát hay mười. Trước đây trong đám đông có một hai người chú ý đến cô. Bây giờ không ai không nhìn cô vì cô nổi bật lên như bông hoa rừng nở hết mình trước muôn loài cây, muôn loài ánh mắt... Một là Hiêng phải bỏ chức huyện đội trưởng đưa vợ con về làng thôi. Hai là cô phải bỏ đội du kích tập trung để về làng với cha mẹ thôi. Hai con đường ấy chỉ được chọn một cho cả hai người! Tất nhiên là cô đành thôi sinh hoạt du kích. Cuộc sắp xếp đầu tiên gọn nhẹ hợp lý không chê vào đâu được. Nhưng rồi Hiêng vẫn không đủ yên tâm công tác. Anh được các đồng chí bên huyện ủy gợi ý đưa cô lên, cho làm chị nuôi một thời gian, sau đó đi học văn hóa, rồi học ngành y... Đó là tương lai gần của cô do các đồng chí và anh vạch ra, cũng đơn giản gọn nhẹ như sự thể tất nhiên phải thế.

Nhưng ở huyện ủy một thời gian anh còn cảm thấy không yên tâm hơn. Để vợ ở nhà, mấy chú du kích còn biết sợ cái uy của thủ trưởng huyện đội, chứ còn bên huyện ủy có nhiều người nói chuyện rất hay. Họ ca hát văn nghệ cũng rất hay. Họ ít phải đi phía trước, ít phải đi phía trước tức là ít chết, lại ăn ngon mặc đẹp hơn du kích, hơn lính bên huyện đội nhiều... Tóm lại là không yên tâm công tác được. May mà có H15 mới chuyển về đây phối thuộc, anh nói chuyện với thủ trưởng Hàn, thủ trưởng Hàn vui tính quá, nhận luôn cho vợ anh về, vừa làm chị nuôi vừa làm quản lý. HỊGươnl mới đầu dùng dằng định không đi. Công việc ở đây vừa quen đã phải chuyển đi thế này là thế nào? Đây là công tác cách mạng, Hiêng nói, em phải chấp hành. Nhưng còn con nhỏ ở nhà thì sao? Thì nó đã có ông bà, có anh. Một tháng anh về một lần hai lần thăm con mà. Em chuyển đơn vị mai mốt anh cho em về thăm con được không? Được chớ sao không? Em nhớ con hung rồi. Làm cách mạng không nói chuyện nhớ nhung đâu, từ từ anh lo. Trời ạ, cái gì anh ta cũng bảo làm cách mạng phải thế.

Phải xa con. Phải chuyển đơn vị. Phải theo sự sắp xếp của tổ chức. Mà tổ chức đều từ anh ta mà ra. Cho vợ đi khỏi huyện ủy rồi, Hiêng vẫn không tài nào yên tâm công tác nổi, ý nghĩ vợ anh đang có kẻ nào đó rình rập sắp bắt đi mất luôn ám ảnh anh. Bộ đội chủ lực miền Bắc vừa trẻ đẹp vừa có văn hóa cao, nó không ưng vợ mình thì vợ mình cũng ưng nó mất. Mà đúng là thế thật. HỊGươnl bây giờ không còn là HỊGươnl du kích ngây ngô nữa. Cô mặc quân phục chính quy trông càng đẹp và khỏe hơn. Lại ăn nói đi đứng sinh hoạt có nhiều thay đổi trông thấy. Trong lán ở có gương lược, dầu thơm, có cả lọ hoa, có cả tranh ảnh treo trên vách. Cô nói tiếng Kinh đã thạo bây giờ càng thạo hơn. Không những thế cô còn được đơn vị bố trí cho học văn hóa. Hiêng không tiện hỏi ai dạy cho vợ anh.

Nhưng lúc nào anh cũng canh cánh không yên. HỊGươnl không còn thấy Hiêng đẹp, không còn thấy anh ta oai phong một tí, chỉ thấy anh lúc nào cũng hầm hầm hừ hừ như muốn ăn thịt cô. Những đêm tranh thủ vợ chồng gặp nhau, rừng H15 yên tĩnh đến mức, nghe rõ tiếng suối róc rách, tiếng cành cây khô rớt, tiếng con gì đó tắc lưỡi và cả tiếng muỗi râm ran ngoài mùng... Anh không nói không rằng, uống cạn

bi-đông rượu cần mang theo, không mời vợ uống cùng như hồi mới đưa cô đi thoát ly, rồi lao vào giật áo váy cô ra không phải để ái ân mà là để soi đèn pin xem xem có gì thay đổi! Lần đầu tưởng anh đùa, cô cười rinh rích khoái chí trêu anh: "Nó mốc hết rồi". Anh gầm gừ không nói. Có lần hai người đang "lên đến đỉnh dốc" như cách nói của anh hồi mới yêu nhau, thì bỗng dưng Hiêng giật thót người vùng dậy. Anh ta lao đầu ra khỏi cửa. Trời tối như bưng. Anh ta lại lao đầu vào nhà. Sợ gây tiếng động, anh ta run bắn lên ôm riết lấy cô, khi ấy cô đã nguội lạnh, đã cảm thấy sự ghê tởm. Từ bé đến giờ chưa bao giờ HỊGươnl cảm thấy vô cảm đến mức ấy. Anh ta giày vò cô. Dựng cô dậy. Vật cô ra. Cô như một cái xác không hồn.

Một lần. Hai lần. Ba bốn năm lần... Cho đến cái lần mới nhất gần đây, anh đành bất lực nói với cô:

- Tui có còn là chồng của mày nữa không, HỊGươnl?

- Không! - Cô nói. Mình không là vợ Hiêng nữa đâu. Bỏ mình đi.

Anh gầm lên bằng tiếng JRai:

- Không là vợ tui thì là vợ ai?

- Tui không là vợ ai hết!

Hiêng giật khẩu súng K59 ra khỏi bao.

HỊGươnl nói:

- Bắn tui thì dễ nhưng ai nuôi con? Anh để tui về quê tui nuôi con tui!

Ngay sáng hôm sau Hiêng làm việc với thủ trưởng Hàn và cũng ngay trưa hôm đó anh đưa vợ về quê. Cứ tưởng thế là hết, thế là chẳng bao giờ gặp lại anh Thịnh và các anh H15 nữa. Hiêng càng lồng lộn ghen tuông, HỊGươnl càng lạnh lùng xa cách. Hai người về làng mà vẫn còn cãi cọ nhau, già làng và cán bộ làng phạt Hiêng một con heo ba nắm để cúng Jang làm lành...

Ba ngày sau cái bữa uống rượu cúng Jang ấy, Hiêng về đơn vị chỉ huy chuẩn bị đánh đồn Chư Mố. Lần này có H15 phối thuộc, phải nhổ cái gai độc này mới giải phóng được mấy xã vùng ven Cheo Reo. Tổ trinh sát của Thịnh được thủ trưởng Hàn chỉ định đi trinh sát cùng huyện đội. Huyện đội trưởng Hiêng cho anh Pui Bế, người cùng quê dẫn ba anh chủ lực về làng "cắm". Tổ trinh sát gặp lại HỊGươnl. Thịnh và HỊGươnl đều quá bất ngờ... Và cái đêm đầu tiên liên hoan cùng đội du kích, Thịnh chếnh choáng say.

Anh về lán nằm. HỊGươnl đem cháo gà cho anh. Cứ như có sự sắp xếp. Hình như đồng đội có biết tình cảm của hai người nên hai anh kia đều nán lại uống rượu cần, ăn cháo cùng du kích làng. Và Thịnh đã hôn HỊGươnl như chưa bao giờ được hôn. HỊGươnl cũng đáp lại, cô hôn anh, ngã nhào vào lòng anh. Anh không còn đủ lý trí nữa rồi. HỊGươnl cũng không còn lý trí. Họ quấn vào nhau. Nhưng người Thịnh bỗng dưng run lên bần bật khi HỊGươnl đã sẵn sàng trao cho anh tất cả. Thịnh vùng dậy vơ áo váy cho cô rồi vội mặc áo quần, không nói không rằng chạy biến vào rừng...

Từ hôm đó đội trinh sát của Thịnh cũng biến mất vào chiến dịch...

° ° °

Bây giờ cả hai người đàn ông của HỊGươnl đều đã không còn! Sau khi chia tay với HỊGươnl, Hiêng lấy cô y tá huyện đội, đẻ được thêm một em bé gái thì cả hai người cùng hy sinh trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến dưới chân Chư Mố. HỊGươnl hay tin liền đến huyện đội xin cho cô được nuôi con gái, cho hai đứa con nít có anh có em. Cô đặt tên cho con gái theo họ mình là Kor HỊLiên.

Bây giờ thằng anh nó làm huyện đội trưởng còn con gái nuôi HỊLiên thì đã là bác sĩ bệnh viện tỉnh rồi. Nghe câu chuyện tình buồn thương của mẹ, HỊLiên đã cùng chồng mua vé tàu xe đưa mẹ ra tận Thanh Hóa dự đám giỗ đầu bác Thịnh. Nào ngờ bác Thịnh đã mất mà phía sau bác vẫn còn nguyên gánh nặng chiến tranh, ấy là hai người con của bác đều bị dị tật bẩm sinh, không những không làm ăn gì được mà còn thỉnh thoảng điên điên khùng khùng, người vợ bác gầy như que củi không đủ sức lo toan. HỊGươnl gạt nước mắt bảo con gái nuôi và con rể, thôi, để mẹ gửi cho bác và các em cái sổ hưu và cái sổ thương binh của mẹ, gùi đỡ cho bác Thịnh gái đoạn đường cuối con dốc của cánh rừng mà bác Thịnh lúc nào cũng gọi là cánh rừng tình yêu... nặng nợ này.

Người làm ảo thuật trên chuyến tàu đi Saint Peterburg

Thục đặt chiếc va li lên sân ga ẩm ướt rồi rất nhanh, ôm chặt chiếc sắc vào ngực. Thuý vung vẩy chiếc túi du lịch nhỏ, trong có một bộ quần áo mỏng dính và vài lon bia, luôn miệng chỉ đạo "Ví tiền đâu rồi, cất hết đi, chỉ bỏ ra ít tiền lẻ thôi..."

Khổ quá, sao vé tàu lại để chung với vé máy bay... Tập trung vé tàu ra đây... Thế. Hộ chiếu cất vào ngăn nhỏ kia. Nhớ đấy. Ai bảo đưa hộ chiếu đừng đưa".

Chị Oanh già nhìn làn khói xám tỏa ra từ điếu thuốc Parliament trên môi Thuý sợ chết khiếp. Từ lúc gặp Thuý, Oanh lo bảo vệ ví tiền và hộ chiếu hơn cả tính mạng. Vào điện Kremlin, xuống Metro, lên Plaza, cứ ba phút một lần, Oanh cúi xuống nhìn chiếc sắc giả da cá sấu treo lủng lẳng trước ngực.

Đã vậy, dọc đường đi, thi thoảng Thuý lại củng cố tinh thần cảnh giác cao độ cho Thục và Oanh bằng những câu chuyện vụ án rùng rợn ở Mat. Câu chuyện nhẹ nhàng nhất lúc họ ngồi nhai bánh mì và uống nước lúa mạch đen ở nhà chờ là toàn bộ của nả trong một toa tàu đã bốc hơi trước khi đám hành khách thức dậy ngơ ngẩn trong khí ê te.

"Mà cái chất ê te bên này khiếp lắm. Nó làm con người ta đơ mất một tuần mới hồi phục trí nhớ". Thục đã bật cười, nhìn bạn âu yếm. Cái chữ "bên này" được Thuý sử dụng bất cứ lúc nào để thay thế cho một tính từ so sánh.

Mười năm trước, Thuý hay gửi thư cho Thục qua đường bưu điện, sau thay thế bằng thư điện tử, rồi chat trên Yahoo Messenger và dần dần tịt hẳn vì đôi bên đều bận.

Thuý thường tả cho Thục những thảm lá vàng rơi trước cổng Đại học Lômônôxốp mà từ đó nhìn xuống sông Matxcơva trải dài như vệt nắng xanh, những bông tuyết mềm rơi lả tả trên đại lộ Nikitsky, những buổi chiều hè đi shopping trong siêu thị Stockman mua đủ thứ quần áo thời trang (Thuý có gửi về cho Thục vài chiếc vì rằng rẻ lắm, lại là hàng hiệu) và đặc biệt là những người bạn đồng nghiệp rất dễ thương, lúc nào cũng làm như Thuý còn bé lắm, cần phải dạy bảo.

Thế rồi Thục kiên gan không hề hé môi về chuyến công tác ngắn ngày. Thục liều gọi một chiếc taxi, đưa cho người tài xế chiếc bì thư. Xe chạy lâu lắm, nhưng Thục chả để ý. Những tưởng tượng về vài tình huống bất ngờ thú vị lúc gặp lại người bạn tiểu học khiến tim Thục nhảy nhót như đánh lô tô, có khi lại mỉm cười vu vơ khi người tài xế kín đáo quan sát Thục.

Xe thả Thục trước một khu chung cư cũ kỹ, có bức tường vàng sẫm bao quanh, bên phải là một nhà máy với những cột ống khói to đùng, đen kịt, bên trái là cánh rừng lưa thưa buồn tẻ. Thục ngơ ngẩn đi vào sân trước, chân dẫm lên những vũng nước nâu sẫm lấp xấp cùng lá cây, vỏ bao nylon và giấy báo cũ.

Còn sau đó, Thục chả nhớ gì nữa hết, chỉ láng máng những căn phòng lúp xúp như ký túc xá sinh viên, tường dán báo cũ, những cô gái tóc đen, da vàng ngả ngớn, kèo nhèo thêm vài rúp từ chiếc ví nhàu nát hoặc của những gã đàn ông tóc vàng béo ị hoặc của những tay thanh niên da vàng bặm trợn.

Thuý mặt mũi bầm tím đang đu người theo nắm tóc nằm trong tay gã đàn ông cao lớn. "Một tuần nữa không trả thì gọi điện cho mẹ mày chuẩn bị mà chở xác con gái về nước nhé. Làm đĩ không đủ tiền phấn sáp".

Nhìn thấy Thục, Thuý kinh ngạc, sững sờ, tê tái rồi lớn tiếng mắng át đi "Sao đến mà không báo trước. Dám đi taxi một mình có ngày nó cho mất xác". Thục ôm chầm lấy bạn "Ngày kia tao về. Mày dẫn tao đi Saint Peterburg chơi một chuyến nhé".

Thuý xông xáo xếp hành lý của Thục và Oanh vào khoang. Chiếc dát giường tầng một được nâng lên, ở dưới là hộp đồ chứa hành lý. Oanh khoái chí cười khanh khách "Thế này là an tâm rồi. Đứa nào có gan xịt ê te cũng không qua mặt cái Thục được. Nó nặng gần bảy chục ký cơ mà".

Một thanh niên người Nga vào sau, anh ta tóc quăn vàng, chừng 30 tuổi, dáng người mảnh khảnh và đôi mắt xanh biếc, phẳng lặng như mặt sông Matxcơva. Anh ta chỉ có một chiếc túi ka ki cũ kỹ nên không quan tâm đến chuyện cất đồ như tụi Thục.

Thấy ba cô gái, người hành khách nhoẻn cười làm thân, nụ cười hiền khô và trông tồi tội. Oanh đưa mắt nhìn Thục đầy ý nghĩa, ý rằng may mắn, không phải qua đêm trên tàu chung với một gã võ biền thô thiển nào đó.

Người hành khách lạ mặt bắt đầu nói vài câu gì đó và Thuý dịch lại "Anh này hỏi mọi người có thích xem ảo thuật không. Anh ấy là nhà ảo thuật". Tức thì nhà ảo thuật rút từ chiếc túi kaki vài chiếc khăn màu nhàu nát.

Thoắt cái, những chiếc khăn biến mất, rồi anh ta ra hiệu, những chiếc khăn đã được thắt thành nơ ngay ngắn, nằm chễm chệ trên đầu ba nữ hành khách.

Vài giây sau, chiếc khăn vụt biến thành bộ bài tây. Đôi tay mềm mại của nhà ảo thuật vừa tung hứng vừa tráo bài thoăn thoắt, rồi trong khi các cô còn đang hoa mắt, 52 lá bài được lật lên, ngạc nhiên thay, chỉ toàn là Quy cơ.

Thục quan sát thật kỹ, nhà ảo thuật chỉ mặc độc chiếc áo sơ mi vải sợi thô hơi cũ, anh ta lấy đâu ra lắm đạo cụ, từ vòng sắt, bóng bay, bóng bàn cho đến những con rối hình Marusca ngộ nghĩnh. Thục cũng từng được một người bạn tặng cho bộ ảo thuật sau khi anh này đi Trung Quốc về.

Chỉ cần vài phút, Thục đã có thể biểu diễn được hàng chục trò ảo thuật biến hoá từ khăn tay, đồng xu, bài tây và đủ thứ lặt vặt khác. Thì ra các nhà ảo thuật đại tài đều sở hữu những đạo cụ công nghệ cao bí mật.

Thục vẫn vô cùng hâm mộ những nghệ sĩ mà từ đôi tay, ánh mắt của họ đều toát lên một thứ nghệ thuật thần bí siêu phàm và quyến rũ. Đặc biệt là những nhà ảo thuật rong như chàng thanh niên người Nga này, vừa có vẻ cao quý, lãng mạn của người nghệ sỹ, vừa gợi lên sự thương cảm, xót xa cho một kiếp người lang bạt.

Giờ thì Thục không còn nhìn thấy những nghệ sỹ xiếc lang thang, người hát rong hay nhà ảo thuật ở vườn hoa, công viên nữa. Sự biến mất của họ cũng đầy bí ẩn. Chính là những người như Thục đã làm họ biến mất khi thay thế sự thưởng thức cũng các loại hình nghệ thuật này nhưng ở một nơi cao cấp, sang trọng hơn.

Tuy nhiên, ở một thành phố rộng lớn như Matxcơva, nơi những chiếc xe Rolls Royce kính đen hễ cứ đỗ đèn đỏ là có vài chú bé tóc vàng như thiên thần chạy ra xịt nước lên thành xe, hối hả lau lau chùi chùi để rồi khi đèn xanh xuất hiện, chỉ có tiếng rú ga êm ái và làn khói thơm lừng xộc ra từ đuôi xe thay vì vài rúp lẻ, những nghệ sỹ đàn rong, xiếc rong vẫn tồn tại.

Họ ở khắp nơi, cả dưới hầm đi bộ dẫn sang điện Kremlin, nhận từ đô la cho đến rúp lẻ. Chàng thanh niên này có lẽ cũng đến từ một nơi như thế.

Và sáng mai sẽ đặt chiếc túi kaki cũ trong một góc sân nào đó của Cung điện mùa hè, tươi tắn biến nắm giấy vụn thành bó hoa đủ màu sắc tặng khách du lịch để đổi lấy nắm bạc lẻ đủ trả tiền cho bữa tối và phòng trọ.

Chàng thanh niên nhoẻn miệng cười chỉ cái gì đó trên cổ Thục. Thục đưa tay lên, hốt hoảng "Thôi chết, chiếc dây chuyền của tao". Ảo thuật gia xoè tay, chiếc dây mặt rubi đỏ tía đã nằm gọn trong lòng bàn tay hồng hào và mịn màng như tay con gái. Thuý và Oanh vỗ tay "Giỏi quá.

Ảo thuật Nga siêu thật". Thục đỏ mặt ngượng nghịu "Cứ tưởng rơi mất. Đây là chiếc dây chuyền may mắn. Rubi chỉ hợp với người sinh tháng bảy". Thuý giải thích cho nhà ảo thuật hiểu đại ý đây là một kỷ vật do bà ngoại để lại cho Thục, mà hồi bé cả hai đứa cứ sà vào lòng bà để "xem một tí".

Viên rubi to bằng chiếc cúc áo, và bất kỳ một nhà kim hoàn mới vào nghề nào đều đoán được giá trị của nó khi vừa xem qua. Nhiều người khuyên Thục không nên đeo nó khi đi xa vì quá nguy hiểm. Nhưng Thục lại cho đó là một thứ bùa hộ mệnh mà bà để lại.

Nhà ảo thuật à lên khi nghe giải thích ý nghĩa của viên rubi. Thấy ba khán giả bắt đầu lãng dần các màn biểu diễn, anh ta tế nhị dừng lại và cởi giày, sắp xếp chiếc gối, vẻ sửa soạn đi ngủ. Từ lúc gặp Thuý đến giờ, chỉ vẻn vẹn có sáu tiếng đồng hồ, nên Thục chưa kịp hỏi điều gì.

Thục kéo Thuý ra ngoài hành lang, xót xa đặt tay lên những vết bầm tím. Thuý nhăn mặt nhìn ra cánh rừng hàn đới lúp xúp vài khu vườn kính tồi tàn trồng củ cải đỏ nhờ nhờ trong bóng đêm, tay bám chặt vào thành tàu "Mày thất vọng về tao lắm nhỉ.

Nhưng xin mày, đừng kể với ai ở nhà. Tao không muốn thế này. Không muốn", giọng Thuý gắt lên, đùng đục. Thục dịu dàng "Đến Peterburg, mình nói chuyện này sau, hãy cứ chơi một ngày cho đã. Rồi trước khi về, mày kể lại mọi chuyện cho tao nghe. Nếu mày cần bất cứ điều gì...".

Nhà ảo thuật và chị Oanh già đã ngủ say. Thục nằm ở tầng một còn Thuý tầng hai. Âm thanh đều đặn của đoàn tàu va vào đường ray khiến Thục chìm vào giấc ngủ dễ dàng.

Trong mơ, Thục thấy cả ba mặc những bộ váy màu ánh bạc dát vàng rực rỡ, chiếc váy xoè có gọng nặng chịch khiến khó khăn lắm Thục mới đi được một bước. Họ đang đứng trên thềm Cung điện mùa đông và chờ đợi cái gì đó. Một cỗ xe ngựa sáu tuấn mã phi đến. Xa giá cũng được dát vàng, lấp lánh và uy quyền như cỗ xe của thần thánh.

Một người trẻ tuổi bước xuống. Là Sa hoàng, ngài đội vương miện tròn xoay nạm 12 viên ngọc quý màu hổ phách, cổ áo xanh nhạt của ngài dựng lên ôm lấy mớ tóc loăn xoăn và khuôn mặt thanh tú. Khuôn mặt ngài quen quen. Trời ạ, là khuôn mặt của nhà ảo thuật.

Ngài bước tới, tiến thẳng lên bậc tam cấp rồi đưa tay về phía Thục. Ngài bế Thục lên xe ngựa. Mớ tóc quăn mềm mại chạm vào má Thục buồn buồn. Thục hãnh diện vén rèm vẫy hai bạn đang đứng ngẩn tò te trên bậc thềm. Xe ngựa bắt đầu chuyển bánh. Chợt Thục thấy Thuý và Oanh cứ thế chạy đằng sau gọi tên Thục.

"Dừng lại đã", Thục bảo Sa hoàng. Nhưng cỗ xe lại chạy nhanh hơn và càng lúc càng xóc, xóc kinh hồn. Nó vòng ra sân trước, phi nước đại trên phố không một bóng người rồi phóng thẳng lên cầu. Đã đến giờ cho tàu bè qua lại, chiếc cầu tự động nâng lên, nứt làm đôi, cỗ xe ngựa theo đà lao thẳng xuống mặt sông Neva đen ngòm.

Dòng nước đen lạnh như băng nuốt lấy Thục. Thục vùng vẫy, hét lên và bừng tỉnh. Trời đã sáng. Một người phụ nữ Nga to béo đang đứng trước mặt Thục. Bà ta mặc đồng phục của nhân viên đường sắt.

Người Thục đầy nước. Thục nhìn xô nước trên tay bà ta, đầu nặng chịch, lại có tiếng vo vo gì đó trong tai. Có thể mãi đến sau này, Cung điện mùa đông và sông Neva vẫn là một cơn ác mộng đối với Thục. Cả ngày hôm đó, bọn Thục nằm bẹp ở khách sạn.

Cả ba đã bị đánh thuốc mê, dĩ nhiên trừ ảo thuật gia. Thuý không bị mất gì hết, vì Thuý dùng thẻ tín dụng. Còn Thục và Oanh, là toàn bộ của nả giữ gìn suốt cả chuyến đi đã được cất gọn ghẽ trong hộp chứa đồ dưới dát giường. Thục chợt sờ tay lên cổ. Ơn Trời, nó vẫn còn nguyên. Thục thầm biết ơn nhà ảo thuật và sự may mắn của viên rubi.

Ngày hôm sau, Thuý đưa Thục và Oanh ra sân bay. Mặt Thuý rầu rĩ, đôi lúc hốt hoảng và nhìn Thục len lén như định nói điều gì. Thục biết Thuý cảm thấy có lỗi khi không bảo vệ được bạn. Lúc vào nhà chờ, Thục xiết chặt tay Thuý, giọng cố hài hước "Không sao đâu, tao vẫn còn viên rubi là may rồi.

Người ta vẫn còn nhân đạo chán". Mắt Thuý rân rấn nước. Thục an ủi "Rồi mai kia mày cố gắng về nước, mình sẽ gặp lại." Thục đi vào phòng chờ. Khi đoàn khách đã rục rịch xếp hàng trước cửa lên máy bay, Thục chợt nhìn thấy chiếc áo mình đang khoác trên người là của Thuý đưa cho mượn tạm vì sợ Thục lạnh.

Thục vội vàng quay lại, với hy vọng mỏng manh rằng Thuý vẫn còn đứng đâu đó ngoài sảnh. Quả nhiên, Thuý vẫn còn ở đó, nhưng đang giằng co với một người đàn ông tóc vàng.

Người này tát Thuý một cái khiến Thuý ngã văng xuống đất, để lộ khuôn mặt của anh ta giữa sảnh sân bay Domodevodo sáng choang, rõ như được scan với độ phân giải 1000 DPI, là nhà ảo thuật lang thang.

Thục chạy như bay về phía đoàn người xếp hàng như sợ chiếc máy bay sẽ bỏ mình ở lại. Đằng sau loáng thoáng tiếng người kêu tên Thục. Lúc máy bay cất cánh, tai Thục ù đi.

Cánh máy bay chao thành một đường vòng, cho hành khách tận hưởng những phút cuối cảnh Matxcơva sáng lộng lẫy trong ánh đèn trước khi bay vào đám mây mù sâu thẳm.

Hợp đồng của quỷ

- Cậu hãy bám theo cô ta từ địa chỉ này, trước 0 giờ. Sau đó đạp vào mũi xe cô ta, hoặc làm thế nào đó tùy cậu, lúc cô ta chạy qua cầu, nhớ là phải lựa ngay đoạn thanh sắt đã gãy, chỗ tôi sẽ chỉ cho cậu. Số tiền này sẽ thuộc về cậu.

- Thời hạn bao lâu?

- Càng sớm càng tốt. Mà thôi, một tháng được không? Chắc chắn rồi, một tháng, tôi không thể chờ lâu hơn.

- Ông thông cảm, đây là việc tôi không bao giờ nghĩ là mình sẽ làm trong đời. Nhưng...

- Tôi biết, rất biết cái chữ nhưng của cậu. Cậu cần tiền!

- Tại sao ông nghĩ vậy? Trong khi ông chưa hề gặp tôi, chẳng biết tôi là ai...

- Người ta không cần phải lên đến mặt trăng mới biết trên ấy không có nước.

- Mà tại sao ông lại chọn tôi để nhờ việc này?!

- Tôi chọn ngẫu nhiên.

- Ngẫu nhiên? Ngẫu nhiên mà ông biết tôi cần tiền?

- Ai không cần tiền, nào, cậu chỉ cho tôi quanh đây có ai không cần tiền? Tôi biết, cậu có thể nhìn vào mặt tôi và nói một câu cũ rích: Tiền bạc không phải là tất cả! Nhưng tôi nói lại cho cậu nghe: Người ta không thể làm bất cứ điều gì, nếu không có tiền!

° ° °

Đêm cuối thu. Lạnh. Ánh đèn soi rờn rợn mặt nước sâu đen. Anh ném thử một cục đá. Dường như không phải tiếng "tõm" quen thuộc, mà là một âm trầm đục hơn, đó là tiếng "phụp". Như vậy là nước rất đặc. Một đoạn lan can bê tông đã gãy, trơ ra mấy đầu sắt hoen gỉ. Từ đó xuống mặt nước, khoảng cách chừng bốn mét. Một người lộn xuống, cái chất đen đặc dưới kia sẽ nuốt chửng toàn bộ. Y như một nấm mồ được lấp tự động. Và cô ta sẽ chìm.

Mất dấu vĩnh viễn.

Mặt anh đầy nước. Một thứ nước cay cay, nhớt, không rõ là gì. Ngoài lộ, xa tít tắp, có tiếng còi xe cứu thương, âm thanh mồn một, ít ra lúc này cũng là ba giờ sáng. Anh quờ tay. Cái bì thư dày cộm vẫn nằm dưới gối. Một số tiền khiến anh hoảng loạn. Nó vẫn ở đó, tất cả là sự thực. Sự thực như ba đêm rồi trôi qua, anh choàng dậy nửa khuya, vẫn thấy nó ở đó. Cái bì thư đã rã ra, hở cả cạnh, mấy tờ bạc lấp ló.

° ° °

- A lô, công việc của cậu đến đâu rồi? Cái điện thoại xài được chứ? Cậu nghe tôi nói rõ không?

- Cảm ơn, nghe rõ. Hay là...

- Cậu đã cầm tiền của tôi. Việc chẳng thể "hay là" được nữa rồi! Tôi khuyên cậu đừng nghĩ đến việc chạy trốn hay hủy bỏ hợp đồng với tôi. Tôi vẫn còn nhiều cái bì thư như thế, để đưa cho nhiều thằng khác nữa giống cậu. Và đêm trước là cô ta, hôm sau đến lượt cậu. Dòng sông ấy đủ chứa vô số người mà! Hê hề, mà tôi đùa đó...

- Tôi không thích đùa kiểu này chút nào.

- Rồi, vậy không đùa nữa. Bản chất tôi cũng chẳng thích đùa chút nào. Đêm qua cô ấy về lúc mấy giờ?

- Tôi chưa nhận diện được cô ấy. Thật tình tôi đã đứng và chờ, nhưng hình như cô ấy không đến điểm mà ông dặn.

- Rồi cô ta sẽ đến. Cậu đã mất ba ngày trong số ba mươi ngày rồi đó. Tôi dặn lại một lần nữa nhé. Cô ta luôn mặc toàn màu đen. Đấy, đấy chính là lý do tôi chọn cô ta. Tôi thích những gì màu đen.

- Nhưng tôi có dính dáng gì đến màu đen đâu? Sao ông chọn tôi?

- Cậu có màu đen trong mắt, trong não, trong tâm hồn. Thôi, tôi nhắc lại, cậu đã mất ba ngày trong số ba mươi ngày.

° ° °

Anh dừng xe chếch mé điểm đợi. Ánh đèn từ tầng trên hắt xuống xanh rì. Dưới trệt, hai cánh cửa khép chặt, thi thoảng một người lách ra. Phố vẫn đông. Hơn mười giờ khuya, đêm lạnh đẫm, anh vẫn nghe cổ khát cháy. Đẩy xe bằng hai chân, anh ghé một bà già bán nước rau má bên lề đường. Mua một bịch, anh rít hai hơi đã nghe róc róc. Chất đường trong bịch nước càng khiến cổ họng anh khô hơn. Nếu dò hỏi bà già để tìm kiếm thêm thông tin, anh biết là một việc ngu xuẩn. Bà ta đã thấy rõ mặt anh. Anh nổ máy, cho xe lao đi thật nhanh, như chỉ là một khách qua đường. Đảo một vòng, anh quay lại lề bên kia, tìm một vị trí để bà già bán nước rau má khỏi thấy mặt.

Mười một giờ hơn, cô ta xuất hiện. Một bộ đen tuyền từ trên xuống dưới. Sắc đen khiến anh rùng mình. Có một tiếng động lanh lảnh như tiếng kim loại va vào nhau vang lên từ vô thức, khiến anh co rúm người. Cô ta đi một mình. Anh tính trong đầu khoảng thời gian chạy xe từ đó đến đoạn cầu có lan can gãy. Khoảng nửa tiếng. Như thế là gần 0 giờ. Nếu đêm nay là đêm trừ tịch, một con người sẽ rụng xuống dòng sông ngay cận phút giao thừa. Anh tin, đó là những phút đậm đặc tính chất ma quỷ, trước khi một ngày mới bắt đầu. Anh sẽ trộn mặt mình vào đám ma quỷ ấy, có lẽ thượng đế sẽ khó lòng nhận diện anh hơn?

Cô ta đảo mắt nhìn lại phía sau, cho xe quành sang lề đường bên kia. Anh giật choàng mình thêm lần nữa. Điểm cô ta tấp vào chính là cái thùng của bà già bán nước rau má. Cho đến lúc ấy anh mới ngẫm ra, dường như có một sự quái đản nào đó. Một bà già bán nước rau má bên lề đường, vào lúc nửa khuya của một đêm cuối thu se lạnh. Chất nước khi nãy dâng lên cổ họng anh, sền sệt tanh. Anh nuốt vội xuống một ngụm hơi, đẩy tất cả trở lại vị trí cũ. Hai bàn tay lớp nhớp, anh chùi xuôi mé đùi.

Cô ta không uống rau má, mà nói đôi câu gì đó với bà già. Gương mặt trắng trên cái cần cổ cũng trắng xoay dọc con đường. Anh ngẩn người trên yên xe. Cô ta quá đẹp. Một sắc đẹp trẻ thơ. Thời gian dường như chưa bao giờ ngưng tụ một giây phút nào trên ấy. Nó trong suốt. Cô ta lại đảo xe. Anh hụp vội xuống nhìn mặt đường. Tia đèn lia ngang tầm ngực anh. Không thể ngăn được một cái ngước lên, ánh mắt anh va phải mắt cô ta. Ánh đèn phía đuôi xe lừ lên trong khoảnh khắc cô ta bẻ cua nơi ngã tư. Anh vẫn chưa kịp nổ máy.

° ° °

- Đêm nay tình hình thế nào rồi, anh chàng của tôi?

- Tôi đã nhận diện được cô ấy.

- Tốt lắm. Nhưng mới chỉ nhận diện thôi sao? Mà có đúng là cô ta không?

- Căn cứ theo những điều mà ông mô tả, địa chỉ ấy, giờ giấc ấy, trang phục ấy... Tôi tin đó đúng là cô ta. Nhưng...

- Cậu lại nhưng nữa rồi...

- Nhưng có chắc đó là người mà ông muốn...?

- Nếu không muốn, tại sao tôi lại phải thuê cậu? Tôi dùng chữ thuê thẳng thừng nhé.

- Tôi muốn biết, nhất định phải biết điều này, tôi mới làm theo những gì mà ông cần: Tại sao ông lại muốn làm thế với cô ta? Cô ta nợ ông điều gì?

- Tò mò không phải là đức tính của người làm những công việc thế này. Có điểm nào đó ở cô ta khiến cậu chùn tay chăng?

- Ít ra, tôi cũng thấy đó là một vẻ mặt rất ngây thơ.

- Tôi đã đoán trước điều này. Đó là sai lầm của cậu. Và đến lúc tôi cần phải cảnh cáo chính thức với cậu. Cậu nhìn thấy vẻ ngây thơ nơi cô ta, vậy là cậu chùn tay. Và cậu sẽ là người thay thế cô ta đấy!

- Trời ơi, sao lại là tôi? Sao lại là tôi? Ông thật là quái đản!

- Tôi đoán, cậu còn muốn dùng nhiều từ ngữ nặng nề hơn nữa. Cậu muốn nguyền rủa tôi là con quỷ đội lốt người? Nhưng tôi còn thua xa quỷ! Mà thôi, cứ cho tôi là quỷ đi. Vậy, con xúc xắc trong tay tôi đã lăn vào cửa cậu, nghĩa là cậu phải làm! Thế nhé. Cậu đã mất thêm một ngày nữa rồi đấy.

° ° °

Anh đập mạnh vào hai cánh cửa kéo, miệng thì thào qua khe hở:

- Làm ơn... Tôi muốn mua rượu!

Trong nhà có giọng càm ràm:

- Sáng mai rồi mua, giờ không bán nữa.

Ba bốn cánh cửa đều như thế. Anh quyết định vòng xe lại bãi chợ. Đoạn đường khá xa, nhưng nếu trở về với cái đầu chưa mụ đi bởi hơi men, anh biết mình không thể nào thiếp đi được.

Anh gọi một chai thứ rượu hạng bét, màu nhờ nhờ, mùi hăng hắc. Thứ rượu dành cho cánh phu xe nửa đêm về sáng, chẳng biết người ta bỏ những gì trong đó. Giờ này, chốn này, chỉ có loại rượu ấy.

Với số tiền còn để trong cốp xe, anh thừa mứa để có hàng trăm đêm khướt ra với những món đốt đời, hoặc làm người ta lịm đi. Nhưng nó khiến anh hoảng sợ mỗi lần nghĩ tới. Tuy nhiên, để nó ở nhà anh lại chẳng yên tâm. Thành thử hễ anh đi đâu, nó theo đó, ngay ngáy như một khối thuốc nổ dưới yên ngồi. Giá một chút nữa đây, trong phút lảo đảo trên đường về, có kẻ nào đó biết khối tài sản dưới cốp xe anh, chặn lại, lủi cho anh một dao vào ngực. Thế mà lại nhẹ nhàng.

Cô ta xuất hiện. Như một nghi thức, đảo xe vòng sang chỗ bà già bán nước rau má. Và không hề uống. Mưa đổ lây rây. Khuôn mặt trắng tái dưới chiếc mũ trùm đầu của áo mưa. Một cái áo mưa đen. Phố vắng hơn đêm trước, cũng mười một giờ hơn. Anh thụt xe vào một con hẻm gần đó, mũi xe hướng ra. Cô ta vừa vút qua, anh nổ máy, bám theo. Phía trước, cách chừng trăm mét, cái đèn lái đôi lúc nháy lên, đỏ rợn.

Một mình, nhưng anh có cảm giác đang đứng giữa sân vận động đã tắt đèn, nơi tâm điểm của vòng tròn chính giữa sân. Xung quanh, khán giả vẫn yên vị, dõi mắt xuống. Tất cả đều câm lặng. Một phần mười triệu con mắt như một bầy cá rỉa vào gáy anh đang nổi bập bềnh.

Anh trôi. Sau đuôi ánh đèn xe ma ám. Cây cầu hiện ra, mưa xiên xiên, vàng vọt, càng lúc càng nặng hạt. Anh nghiến răng tăng ga. Hai chiếc xe đã song song. Khuôn mặt dưới áo mưa như chờ sẵn, hướng sang anh. Một nụ cười. Anh lảo đảo, tay lái bên trái đập mạnh vào thành cầu. Chiếc xe gấp vuông trước khi lết ngang mặt xi măng. Nước tóe lên. Một tiếng két của thắng xe. Cô ta ngoảnh lại:

- Xin lỗi, anh có sao không? Tôi không hề va chạm với anh mà.

Anh như nghe thấy trong đầu gối có tiếng rào rạo. Ba bốn chiếc xe khác cùng lao lên mặt cầu:

- Mưa thế này, đường trơn lắm...

- Anh có sao không? Có cần đưa vào bệnh viện không?

Cô ta bước hẳn xuống xe. Gương mặt trắng lạnh cúi xuống mặt anh đang nhăn nhó vì đau. Một người hỏi:

- Anh ấy là bạn cô phải không?

- Vâng, bạn tôi. Mọi người cứ đi. Chúng tôi thu xếp được.

Anh cắn chặt môi dưới, dựng xe lên, quên cái đầu gối chắc chắn không được ổn.

- Cái này của anh phải không?

Bàn tay trắng muốt chìa ra. Anh suýt chúi xuống thêm lần nữa. Khi chiếc xe lật ngang, gói tiền đã văng ra khỏi yên xe mở bung.

- Vâng, của tôi, của tôi! Cảm ơn cô.

- Anh có chắc là sẽ chạy xe về nhà được không?

- Tôi không sao... Cảm ơn cô.

Thêm một nụ cười. Cái đuôi xe đỏ nhòa dưới những vạt mưa đan dày.

° ° °

Anh ngồi chờ cuộc gọi như thông lệ. Ba mươi phút trôi qua. Máy báo tin nhắn "Cau da mat them mot ngay nua". Toàn bộ xương cốt hóa lỏng, trôi tuột ra khỏi cơ thể anh. Bàn tay run bắn, anh bấm phím gọi lại:

- Sao ông biết tôi chưa làm gì cô ta đêm nay? Ông cho thêm kẻ theo dõi tôi à?

- Có cần phải làm thế không? Chẳng phải cậu đã bảo tôi là quỷ sứ sao? Quỷ sứ thì có gì là không biết chứ.

- Đúng, ông là đồ quỷ sứ. Tôi sẽ không thực hiện hợp đồng này nữa. Mặc xác ông với trò chơi quái gở này. Đêm mai, ông hãy gặp để tôi trả lại số tiền. Tôi vẫn giữ nguyên đây. Nếu ông không gặp, tôi sẽ ném nó xuống sông, ngay vị trí ấy... Xem ông làm gì được tôi...

- Cậu cứ làm thế đi. Khi cậu nói ra như thế, cậu sẽ chẳng dám làm đâu.

Chỉ còn lại những tiếng tút dài.

Tấm thân anh đổ ập xuống, cả cơ thể bốc hơi nghi ngút. Đám nước mưa bay lên từ bộ đồ ướt sũng, từ chiếc đầu gối rần rật.

Đêm ấy, anh lên cơn sốt. Một mình.

° ° °

Suốt ba ngày liền anh không ra khỏi nhà. Trong cơn mê man, anh vẫn nằm chờ một cú gọi lại, hoặc một cái tin nhắn. Chiếc điện thoại vẫn im lìm. Nếu không có những cơn sốt liên tục ập đến, vùi anh vào trạng thái mê mị, chắc chắn anh đã đập đầu vào tường trong một khoảnh khắc cùng quẫn nào đó. Hắn ta đã chán cuộc chơi? Hắn ta tạm buông tha anh ít ngày, trước khi bước vào đợt khủng bố mới? Hay đơn giản nhất, hắn biết thừa tình trạng của anh lúc này và bỏ mặc anh?

Trước sau gì, thời hạn vẫn còn đó, anh chẳng thể chạy đâu cho thoát, hoặc là anh, hoặc cô ta. Giả thiết một, nếu cô ta bị thanh toán đúng như hợp đồng, sẽ có hai kẻ đạt được mục đích: hắn và anh. Hắn thì dĩ nhiên rồi, phần anh với số tiền ấy dư sống cả một đoạn đời dài. Cô ta thì sao? Chẳng sao cả. Một cái bản lề lật qua, sau khi lộn xuống dòng sông, nếu là thiên thần, cô ta sẽ bay lên. Còn giả thiết hai, nếu anh bị thanh toán, sẽ chẳng ai đạt được mục đích cả. Ngay cả cô ta, hiểm họa vẫn nguyên đấy. Và một kẻ khác, anh không biết mặt, tiếp tục được cục xúc xắc trong tay hắn lăn tới. Bi kịch vẫn tiếp diễn.

Coi như định mệnh đã chọn mình, anh không đập chiếc điện thoại vào tường, không đem số tiền ném xuống dòng sông, không tiếp tục những lời lẽ thách thức nữa. Ngay sau trận sốt này, khi anh đủ sức dắt xe ra khỏi nhà, hợp đồng sẽ được thanh lý. Đó là một cách để anh chiến thắng hắn, chiến thắng chính mình.

° ° °

- Tại sao suốt mấy ngày qua ông không gọi cho tôi?

- À, chàng trai trẻ. Cậu đã dứt sốt rồi phải không?

- Ông biết tất cả? Hừ, quỷ sứ, đúng là quỷ sứ. Tôi chấp nhận trò chơi này của ông. Có thể lắm, sau khi đẩy cô ta xuống sông, ôm trọn số tiền, tôi sẽ trích ra một phần tư, mướn một kẻ khác đẩy ông xuống vị trí ấy.

- Một ý tưởng rất độc đáo, vô cùng độc đáo. Cậu dọa tôi đấy à?! Nhưng cậu có tin là tôi vẫn đợi một ngày, có kẻ dám làm như thế với tôi không? Nhưng hiện tại nó vẫn chưa đến. Vậy là tôi vẫn phải làm công việc này. Cụ thể là bản hợp đồng với cậu. Cậu vẫn nhớ rõ số ngày còn lại của mình đấy chứ?

- Tôi nhớ rõ. Ngay đêm nay, hợp đồng sẽ được thanh lý. Sau đó, với số tiền, tôi sẽ giúp ông đạt ý nguyện, bị một kẻ nào đó đẩy xuống sông.

- Tốt lắm chàng trai trẻ. Theo tôi biết, cô ta vẫn chưa thay đổi thời gian biểu, lịch trình. Chúc cậu thành công.

° ° °

Không phải một đêm mưa sụt sùi như lần trước. Mặt trăng thanh khiết, sáng lặng lẽ qua khe hở những tòa nhà và tàn cây. Anh quên tính đến khả năng này. Ánh trăng sẽ soi tỏ cả đoạn cầu, lúc sự việc xảy ra. Thật bất lợi cho anh. Nhưng anh chấp nhận tất cả, như một cuộc chơi, một định mệnh, một trò gieo xúc xắc.

Bộ đồ đen hiện ra bên kia đường. Nếu không có ánh đèn, anh tin đó sẽ là gương mặt được tưới đẫm trăng, nổi lên trên sắc đen huyền bí ấy. Một họa sĩ có thể thay hai cánh tay của cô ta bằng một đôi cánh. Nó sẽ vỗ phía trên những đám mây ngũ sắc, hay một cái phông đầy cỏ non, thế là hoàn hảo hình tượng một thiên thần. Thiên thần không giới tính, thiên thần chỉ mang nét mặt trẻ thơ, quả đúng là gương mặt mà anh đang dõi mắt nhìn lúc này đây. Nhưng đã nhận hợp đồng với quỷ, anh sẽ thuộc về phía quỷ, sát hại những thiên thần.

Cô ta chạy chậm. Thong dong. Thật hợp cảnh với một đêm trăng yên bình. Ánh đèn sau đuôi xe không còn bầm lên một sắc đỏ rờn rợn như những đêm trước. Nó như một vì sao bản mệnh, chỉ cho anh con đường phải đi tới. Anh giữ một khoảng cách vừa đủ. Với vận tốc này, thời gian đến cây cầu sẽ trễ hơn. Càng tốt cho anh. Đúng vào phút giao nhau giữa ngày và đêm, 0 giờ, anh sẽ lách qua khe hẹp của mọi phán xét. Ngay cả tội ác cũng có khoảnh khắc thích hợp cho nó.

Cây cầu hiện ra. Bạc trắng ánh trăng. Xa nhà cửa. Xa con người. Gió rười rượi vuốt vầng trán anh bằng những sợi tóc. Cô ta bắt đầu tiến đến chân cầu. Anh cho xe thu ngắn khoảng cách. Cái đoạn lan can gãy quá đỉnh cầu một chút. Khi xe anh bắt đầu lên cầu, trên đỉnh cầu, cô ta đột nhiên dừng lại. Anh đạp thắng chúi nhủi, vờ quay lại sau quan sát bánh xe, như vừa cán phải vật gì đó.

Cô ta dựng xe, bước xuống, tiến lại phía lan can. Anh dừng hẳn, vờ lúc lắc chiếc xe, trong khi mắt vẫn không rời mục tiêu bằng một cái nhìn nghiêng nghiêng. Bóng trang phục đen nổi bật dưới màu trăng sáng lóa trên đỉnh cầu. Cô ta vịn lan can, mặt hướng ra sông, gió thổi ngược mái tóc. Anh quyết định bước xuống, dắt bộ chiếc xe, tiếp cận mục tiêu. Lúc này, anh cho phép mình nhìn cô không rời mắt. Như cái nhìn ngẫu nhiên, tò mò của chàng trai nhìn một cô gái đẹp nửa khuya ra đứng trên cầu...

Khi anh chỉ còn cách mục tiêu trên chục mét, cô ta bỗng rời bước, lững thững bước về phía đoạn lan can bị gãy, ánh mắt tò mò nhìn xuống mặt sông. Chỉ cần anh quẳng thật nhanh chiếc xe sang một bên, hợp đồng sẽ được thực hiện nhanh gọn đến không ngờ. Khoảng cách chỉ còn vài sải tay. Đúng lúc ấy, có tiếng máy xe tiến lên cầu. Anh ngoảnh lại. Một ánh đèn. Việc sẽ bị chậm lại khoảng vài chục giây. Chẳng sao. Anh tiếp tục đẩy xe tiến sát mục tiêu. Khi đã nhìn rõ mặt cô ta, anh dừng lại, thở dốc. Dắt chiếc xe vẫn nổ máy, để số, lên đến đỉnh cầu làm anh cũng thấm mệt.

Cô ta quay lại nhìn anh. Một nụ cười. Vẫn nụ cười ấy. Anh có cảm giác cô ta đã quen anh từ lâu lắm, trước cả cái đêm xảy ra vụ té xe nọ.

- Chào anh. Hình như anh thường đi làm đêm về giờ này? Cái chân anh đã khỏi hẳn chưa?

- Cô... cô vẫn nhớ tôi sao?

- Nhìn chiếc xe anh tôi nhớ ra. Chẳng phải nó vẫn bị trầy hết một bên sao...

Anh gạt chống xe, thở hắt ra một hơi. Ánh đèn xe khi nãy vụt qua. Cô ta nheo mắt nhìn theo, nở một nụ cười vu vơ. Dường như thường trực trên môi cô ta là những nụ cười như thế. Một nụ cười tươi nguyên, nở cận kề phút giây định mệnh. Hình như lòng anh hơi chao đi tí chút.

Không được, anh nghiến chặt răng, liếc nhanh đoạn lan can gãy, trong lúc ánh mắt cô ta còn dõi theo chiếc xe vừa qua cầu. Khoảng sông đen ngòm ngay sau lưng cô ta. Anh tiến lại, vờ lững thững dòm xuống. Cô ta hưởng ứng, dù tỏ ra đôi chút sợ sệt, tay vẫn bám mấy cọng sắt gỉ hở ra nơi đầu lan can. Anh tỏ vẻ an nhiên, một chân đá đá đoạn sắt gãy:

- Nguy hiểm quá. Sao người ta không sửa lại đoạn gãy này...

Câu nói của anh bị cắt ngang bởi một cú đẩy rất mạnh từ phía sau. Người anh xoay một vòng, tay kịp chụp cái mép lan can gãy. Thêm một cái đạp nữa. Khoảnh khắc cuối cùng, anh thấy mặt trăng sáng rực qua vai áo đen. Một gương mặt cũng đen, ngược sáng với ánh trăng.

Cú rơi đậm đặc, không vọng một thanh âm.

Mặt cầu vắng ngắt. Gió lùa một mảnh giấy vụn bay là là dưới trăng, trước khi đáp xuống mặt nước. Sắc trắng của mảnh giấy nhòa dần.

° ° °

- A lô, ông đấy phải không?

- Thế nào, cô gái?

- Hợp đồng đã được thanh lý.

- Xin chúc mừng cô. Tôi thấy tất cả rồi. Đẩy luôn cái xe xuống sông đi nhé. Cô thật tuyệt vời!

Nhạc thính phòng chơi trong lò mổ

Anh thường giết heo trong lúc nhà bên cạnh ông nhạc sĩ già đang chơi một bản giao hưởng của Johann Sebastian Bach trên chiếc piano cũ. Nó có cái gì đó hơi quái đản trong chuyện này. Anh nghĩ vậy.

Ba giờ sáng, không phải là giờ để người ta chơi đàn. Giờ đó người ta còn ngủ. Chỉ là giờ của những tay đồ tể như anh mà thôi. Chưa kể anh không tìm thấy lý do gì để giải trí vào cái giờ sớm sủa như thế. Rõ là phức tạp. Chưa kể, cái thứ âm thanh trang nhã đó không hợp chút nào với việc giết mổ. Rock Rap còn dễ chấp nhận hơn, có vẻ xô bồ, thô nhám. Đằng này không, Bach đàng hoàng, sang trọng, kính cẩn, thể như mỗi nốt vang lên là có một người cúi xuống nguyện cầu. Đi hết cái chuỗi âm thanh đó, là một hàng người dài vô tận đang cúi xuống làm anh sợ.

Con heo là cái thứ phi Bach. Là cái thứ không thể sống chung với Bach. Cái chết của con heo được minh họa bằng trí tuệ Bach không ổn chút nào. Máu, tiếng rống cắt tiết, dao phay và piano. Thỉnh thoảng anh còn nghe thêm vài âm điệu như violon cứa cứa trên dây đàn lúc anh đang cứa cứa vào cần cổ heo. Trong đầu anh hình ảnh đó, đúng vậy, toàn là hình ảnh đó cứ đều đặn lặp đi lặp lại. Con heo được treo lên cao, đầu trút xuống. Nồi nước sôi được vợ anh chuẩn bị kỹ từ lúc hai giờ sáng bốc khói nghi ngút. Hai giờ ba mươi phút anh dậy, mài con dao lần cuối cho đến hồi bén ngót. Có lẽ nó đã thọc vào cổ không dưới một ngàn con heo, cướp không dưới một ngàn sinh mạng, trên ánh thép xanh nó chở không dưới một ngàn linh hồn. Cũng vào giờ ấy, bên đây vách tường, ông nhạc sĩ già trở dậy, mở hộp đàn, lấy miếng vải nỉ lau từng phím sừng một. Đúng ba giờ, anh kéo căng hai mươi con heo lên chuỗi ròng rọc dài, cũng là lúc ông nhạc sĩ ngồi vào ghế chơi một bản của Bach. Máu heo tuôn ra theo lưỡi dao, tuôn trong cái khối âm thanh thành kính bên kia vọng sang. Bach đã minh họa cho cuộc cắt tiết một cách hoàn hảo.

Không biết ông nhạc sĩ già kia có nghe tiếng heo chọc tiết không nữa. Anh phân vân. Chắc chắn là ông ta phải nghe thấy. Anh tin vậy. Giữa nhà anh và nhà ông nhạc sĩ chỉ cách nhau một bức tường mỏng. Không có cớ gì ông ta lại không nghe thấy. Ông ta ngồi vào cây đàn, tai văng vẳng vong hồn của Bach và vong hồn của lũ heo trộn lẫn vào nhau. Thiếu gì khoảng lặng trong Bach, dứt một nốt, dứt một chuỗi, dứt một giai điệu, là giờ của lũ heo bị chọc tiết chen vào gào thét đau đớn, chúng lìa đời trong bàn tay sát sinh của anh. Và trong nhạc Bach nữa.

Lúc trước chưa có ông nhạc sĩ già, việc mổ heo đối với anh dễ dàng làm sao. Xẹt xẹt xẹt, liếc dao trên đá mài, phập phập phập, đâm vào cổ heo, hứng máu, đẩy cái xác qua nồi nước sôi cho vợ anh cạo lông, xong. Bây giờ thì không phải thế nữa. Âm nhạc Bach cứ như nhạc nền minh họa cái việc cắt tiết của anh. Khi con dao anh đâm phập vào cổ heo cũng là lúc bên kia, ông nhạc sĩ gõ xuống phím đàn một hợp âm mạnh mẽ quái thai, gõ xuống những nốt thăng giáng, những nốt cao vút như xiết cổ, những nốt trầm nghèn nghẹt như ngợp hơi. Bách mô tả chính xác việc anh đang làm.

Anh rơi vào những hình ảnh như vầy, Bach ngồi bên vai trái anh tìm cảm hứng, rồi những giai điệu của ông ta càng lúc càng dồn dập tuôn trào theo hình ảnh con dao phay vung lên vung xuống trên tay anh. Rồi ông ta chép lại chuỗi thất thanh của lũ heo cho violon chơi. Tiếng dao lách cách cho bộ gõ chơi. Tiếng cạo lông sột soạt của vợ anh như chất phụ gia vào nồi lẩu thịt của ông. Màu đỏ của máu như những nốt la. Màu trắng lạnh của dao phay như những nốt sol, đô. Tất cả được gói ghém lại một cách ngoạn mục, như một gói âm thanh bi tráng. Rồi một ngày nào đó, mươi năm, thậm chí vài trăm năm, trong một nhà hát trang nghiêm nào đó người ta tấu lên, lòng không nguôi xúc động mà không hiểu vì điều gì. Người ta không hề biết trong tiền kiếp của nốt la, nốt đô, nốt sol, nốt fa có gì, tiền kiếp của bộ gõ có gì, người ta chỉ xúc động, đơn thuần xúc động.

Cách đây mươi ngày anh định qua nhà ông nhạc sĩ già hỏi nguyên nhân tại sao lại chơi Bach lúc ba giờ sáng nhưng vợ anh đã cản lại. Anh vô duyên cũng vừa thôi. Nàng nói. Người ta có quyền chứ?

Đúng là người ta có quyền thật, có quyền chơi Bach lúc anh giết heo. Thậm chí khi ngồi trong nhà vệ sinh người ta vẫn có quyền chơi Bach bằng kèn chẳng hạn. Chút trí thức và lịch sự hão thời còn học đại học như một nguồn sáng le lói đã cản anh lại. Chúng ta chẳng bao giờ biết chuyện gì sẽ xảy ra trong đời sống này. Một thằng tốt nghiệp xã hội nhân văn như anh lại đi mổ heo. Điều đó có khác gì chọc tiết heo trên nền nhạc Bach đâu.

Nhưng dù sao thì anh cũng phải gặp ông ấy một lần. Anh nói với vợ lúc nàng đang hát bài thoát ly. Nàng thích mỗi bài ấy. Khi cạo lông heo nàng cũng hát mỗi bài ấy. Anh phải gặp ông ta. Ít nhất thì anh cũng phải nhìn xem những ngón tay gảy đàn của ông ta có giống dao chọc huyết không. Nàng bật cười thú nhận. Đúng là, em cũng không thích ông ta chơi mấy cái bản ấy. Em có cảm giác là ông ta hơi man rợ. Mỗi khi nghe tiếng heo bị chọc tiết thì ông ta ngồi xuống đánh đàn. Ông ta chơi xong một đoạn thì thốt lên, xong, một con. Sau đó tiếp tục chơi, tiếp tục thốt lên, xong, hai con. Ông ta chơi đủ hai mươi con thì dừng. Anh có nghĩ như vậy không? Anh rùn vai.

Có lẽ, suy cho cùng thì cả anh và vợ không thích ông nhạc sĩ già chơi Bach còn vì một lẽ khác trong tiềm thức, lúc cả hai quen biết nhau lần đầu, Bach đã được chơi trên radio. Họ đã từng ngồi im lặng hàng mấy giờ liền nghe Bach. Và cũng chỉ vì có kẻ dám bỏ hàng mấy giờ liền để ngồi nghe Bach giống mình nên họ đã yêu nhau. Lần làm tình đầu tiên giữa họ cũng là lúc Bach được chơi trên radio. Có lẽ đứa con trai của anh cũng được ra đời từ những âm điệu của Bach. Anh tin như vậy. Còn nữa, con của anh cũng là Bach, Nguyễn Văn Bach. Để kỷ niệm cho cái giai điệu tình yêu, nhưng vì một nhầm lẫn tiếng Việt nào đó người ta đã cho nó một cái dấu sắc vào trong giấy khai sinh thành Nguyễn Văn Bách. Thôi kệ. Bách nào thì cũng Bách. Nhưng Bach để minh họa cho cái việc giết mổ thì anh không ưa.

Âm nhạc và thịt heo, chúng là cái quái gì vậy? Cái chó chết gì vậy?

Anh ghé nhà ông nhạc sĩ già. Căn nhà cũ kỹ như trong phim năm con quỷ và chín cái xác. Đúng như anh nghĩ, ngón tay ông nhạc sĩ già mỏng lét như dao phay. Gân máu nổi lên không xanh mà đen thẫm xuống như máu lợn vón cục. Cái bàn tay này hẳn đã thọc sâu vào Bach như quỷ dạ xoa thọc mõm vào xác chết. Ông có cô con gái đang học thanh nhạc, môi dày. Từ đôi môi cô, Bach cũng đã từng được ngân lên, tuy không thành công bằng việc cô cong môi lên trước anh tình nhân giàu sụ. Nhưng bấy nhiêu cũng đã đủ giúp cô siêu thoát rồi. Sau đó thì cô theo anh ta đi nước ngoài. Cả hai thành hôn trong nhạc Bach. Tất nhiên. Sự nghiệp thanh nhạc của cô chấm dứt ở đó. Bây giờ, đối với cô, Bach thật xa vời. Thỉnh thoảng lúc yêu đương với chồng, để thay đổi không khí, cô cất lên dăm nốt làm quà rồi tắt tịt. Nhưng dù gì thì bấy nhiêu cũng đủ làm thằng chồng tai điếc chết mê chết mệt. Cô cũng chẳng mong gì hơn.

Từ ngày lấy chồng, dăm năm cô về thăm bố một lần. Tiền thì thay mặt cô về thăm ông bố đều đặn hơn, một lần mỗi tháng, đủ để ông không phải làm gì. Mỗi lần về thăm, thằng con rể ngồi nghe rồi khen ông già vợ đàn hay. Cũng tàm tạm thôi. Ông nhạc sĩ già nói. Tay bố cóng hết rồi. Hẳn ông muốn nói, hồi trẻ ông đàn còn hay hơn thế. Nói chung cuộc đời của ông, con gái, và thằng rể là Bach. Âm nhạc đã chen vào họ. Bây giờ thì đến phiên anh. Bỗng dưng Bach cũng chen vào anh. Lũ heo của anh cũng là Bach.

Cậu làm cái nghề giết mổ à! Ông nhạc sĩ già nói. Giọng khô như ngói, thể như cái cần cổ ông lâu năm chưa được thấm nước. Để giết một con heo, cậu tốn bao nhiêu nhát dao, kể tôi nghe với? Hai. Anh nói. Khi mới vào nghề thì năm. Nhát thứ năm mới chết. Bây giờ thì chỉ cần hai nhát là đủ chết tươi. Là sao, kể kỹ hơn chút nữa nghe xem. Nhát đầu tiên thì thế nào? Ông nhạc sĩ già chăm chú. Thì... Anh ấp úng, nhát đầu tiên đâm thẳng vào. Anh trả lời. Đâm thẳng à. Có run tay không? Tôi nghĩ chắc run lắm. Không. Không run à. Thế đâm thẳng rồi sao nữa? Đâm thẳng vào và gạt ngang. Ông nhạc sĩ ngồi im, vẻ như đang cố hình dung cái cú đâm thẳng vào và gạt ngang. Thế à! Đôi mắt ông nheo lại. Sau cùng mở bừng ra. Máu có nhiều không? Máu heo ấy. Nhiều. Anh cảm giác như thế nào khi nhìn thấy máu? Lúc đầu thì hơi chóng mặt. Nhưng bây giờ thì quen rồi. Ông nhạc sĩ gật gù, thế à, cũng đúng thôi, chừng vài năm nữa, có khi chỉ cần một nhát là đủ, đúng không nào. Là sao? Anh không hiểu à! Thì nghĩa là, không cần gạt ngang, đâm vào là đủ rồi, là đủ chết chứ sao nữa. Tôi không biết. Anh lắc đầu. Ông nhạc sĩ gật gù, giết chóc cũng như chơi đàn, dùng mãi cũng phải thành tuyệt kỹ.

Anh ra về. Cứ ba giờ sáng, lúc chuẩn bị chọc tiết heo lại hình dung ông nhạc sĩ già như con quỷ trong phim năm con quỷ và chín cái xác. Có điều con quỷ này thuộc loại yêu nghệ thuật. Khi chuẩn bị hút hồn một ai, thay vì le lưỡi hả họng đầy răng nanh, chúng nhảy lên chiếc piano, ngón chân dạo một khúc Bach, đầu mình tay chân gì đó của Bach và vong hồn trong từng nốt nhạc Bach trỗi mồ sống dậy. Chúng kéo từng đoàn từng lũ trùng điệp đi tìm xác chết.

Anh nói với vợ, ông nhạc sĩ già là quỷ hiện hình. Ba giờ sáng là giờ ông trỗi nhạc kêu gọi vong hồn. Ở chỗ giao thịt, anh kể cho mọi người nghe mình đã sống gần nhà con quỷ chơi Bach như thế nào. Ngón tay mỏng lét như dao chọc tiết. Hắn đã gõ những ngón tay của mình trên xác chết giống như dạo nhạc Bach trên piano.

Mọi người cười anh. Chẳng ai tin. Vợ anh cũng cười.

Chỉ có con Loan ngô nghê bán thịt là tin anh. Ẻm nói, eo ôi gớm quá. Người ẻm run lên, ngực phập phồng lo sợ. Mỗi lần nghe anh kể, tối về em không cách gì ngủ được. Em thức suốt đêm vì anh đó. Ẻm cười. Này, anh nhìn xem, ngón tay em có giống dao chọc tiết không? Ẻm chồm vào người anh. Đặt ngón tay to vồ như chọc vào người anh. Ngực ẻm sát ngực anh, như hết cả phần ngực muốn chảy tràn sang người anh theo động tác tay. Mắt thì lúng liếng háo hức nhìn. À, mà Bach là cái gì vậy anh? Nhạc à! Anh Lam Trường có hát bản đó không vậy? Sao em không biết. Không à! Eo ôi. À, mà đúng rồi, nếu anh Lam Trường hát thì mắc gì mình phải sợ, phải không anh. Ôi anh làm em vừa sợ vừa vui quá.

Chả ra làm sao cả.

Từ đó anh không bao giờ kể chuyện ông nhạc sĩ già cho Loan ngô nghê nghe. Ngày xưa, cũng chỉ vì sợ ma, nghe đâu ẻm đẻ một lúc hai thằng con mà không cần một thằng cha nào rõ ràng danh tánh. Anh cũng không kể cho ai nghe chuyện ngực ẻm chảy tràn sang anh.

Một lần khác, anh được gặp cô con gái thính phòng của ông nhạc sĩ già. Cô ngồi trong góc tối hút thuốc nên anh không nhìn thấy. Anh sang nhà cô vì không thể chịu đựng được nữa, rằng phải có một nguyên nhân nào đó để ông nhạc sĩ già chơi Bach vào lúc ba giờ sáng. Điều thứ hai là, anh muốn biết ông có nghe tiếng heo thét inh ỏi vì bị chọc tiết không. Nhất định là ổng phải nghe.

Căn nhà vắng ngắt. Anh ngồi xuống cái ghế dài trước cây đàn piano chờ ông nhạc sĩ già. Cô con gái ngồi bên kia quan sát anh. Sau cùng cô tiến lại gần. Từ cái môi dày của cô, một ngụm khói phun ra. Anh có phải là người chọc tiết heo bên nhà không. Tiếng nói của cô vang vang như giọng nữ cao giữa dàn nhạc thính phòng làm anh giật bắn cả người. Cô ghé sát mặt vào người anh. Và tất nhiên đôi môi dày cũng sát vào người anh. Có phải không? Cô cười hắt hắt. Anh gật đầu. Các phản xạ chết tiệt của anh trôi đâu mất. Không nói được lời nào. Tai anh đỏ rần lên. Nghe nói anh lấy dao đâm vào cổ heo? Đúng không? Cô gái nói. Anh đứng bật dậy. Ông cụ có nhà không. Anh thốt lên. Tôi muốn tìm ông cụ. Ông cụ thì vẫn còn đó có mất đâu mà anh sợ. Cô gái vẫn không buông tha anh. Có phải là anh lấy dao đâm vào cổ con heo không? Eo ôi, cái mặt trắng trẻo như anh mà đâm dao vào cổ heo, em không tin đâu. Tùy cô thôi. Anh nói, nghèn nghẹn như không thở được nữa. Tôi đâm đó. Cô không tin cũng không sao cả. Anh chợm bước định bỏ về, cô gái chặn lại, này, em đang chán đời bị chồng bỏ, anh có dám lấy dao đâm vào cổ giúp em không. Em muốn chết vô cùng. Vừa nói cô ta vừa cười, vươn cái cần cổ trắng nõn ra. Vươn cái gáy gợi tình ra. Cái cần cổ và cái gáy trắng nõn đó chẳng có gì là chán đời cả. Đúng là điên thật. Từ cha đến con. Cha thì chơi piano khát máu, con thì liêu trai chí dị. Anh lách khỏi cô gái chuồn nhanh ra cửa. Cô gái đuổi theo. Lúc nào rảnh, anh nhớ sang giúp giải thoát cho em nhe. Giọng cười thính phòng của cô nghe thật ấn tượng, khó quên. Ngay cả khi anh đi về tới nhà rồi, giọng cười của cô vẫn cứ áp vào tai anh, như đôi môi dày của cô vẫn còn dính ở đó.

Anh kể cho vợ nghe, cô gái con ông nhạc sĩ già bị điên tình. Cô ta nhờ anh chọc dao vào cổ cô. Vợ anh không tin. Cười như hóa rồ. Anh điên vừa thôi. Ờ mà cũng có thể anh điên thật. Anh nói.

Điên thật. Từ một thằng tốt nghiệp xã hội nhân văn chỉ vì yêu con ông hàng thịt mà ra thằng đồ tể nông nỗi thế này thì chuyện quái gì mà chẳng xảy ra. Biết đâu anh cũng có máu điên sẵn đâu đó trong thịt. Cũng như cha già nhạc sĩ, biết đâu lúc nghe tiếng lợn bị chọc tiết lại hăng máu lên dạo một bản Bach. Việc gì phải cắt nghĩa cho mệt xác.

Tờ mờ sáng lúc vợ anh hát biệt ly, Bach trỗi lên gào thét cùng lợn chết, anh lại tiếp tục công việc của mình. Chẳng nghĩ ngợi gì. Chẳng đau đớn dằn vặt gì. Bach đã chết rồi, chết trong thời trai trẻ đang sống của anh. Chết trong thời đại của anh. Chết trên radio. Chết trong vũ trường. Chết trên sân khấu. Bach bị Rock Rap đè chết. Chết từ lúc anh vung con dao phay và những con lợn cuống cuồng chạy trốn kiếp sau.

Phong Lan Đỏ

Ngày nghỉ, tôi thường lang thang đi dọc đường Hoàng Hoa Thám xem hoa. Không biết tự bao giờ, con đường nhỏ hẹp này đã trở thành chợ hoa, cây cảnh. ở đây người ta bán đủ loại hoa, cây giống, cây thế, cây cảnh. Có những loại hoa, loại cây có lẽ chỉ thấy ở đây chứ chưa nhìn thấy ở đâu. Thôi thì đủ loại. Từ các cây rong rêu mọc trong khe núi như cây tế, cây guột, cây dương xỉ, các loại hoa mọc trên rừng như hải đường, mẫu đơn, đến các loại hoa, lá lạ mắt mà người bán hàng nói được nhập từ Đài Loan, Thái Lan hay châu úc. Giá cả cũng thể trên trời, dưới đất. Nghe người ta nói giá đừng vội mua ngay mà cũng đừng hoảng sợ. Có thể cả chục triệu một cái cây cong queo mà họ bảo là thế rồng bay, phượng múa. Những người yếu tim thì đừng đi chợ hoa, cây cảnh. Tôi rất thích hoa phong lan. Hầu như tất cả các cửa hàng bán hoa phong lan dọc đường Hoàng Hoa Thám và trên địa bàn Hà Nội tôi đều đáo qua một vài lượt. Những cửa hàng nào có nhiều loại hoa quý thì cứ độ vài tuần tôi lại ghé qua, xem có loài nào mới, nhất là những loại lan rừng. Lan rừng khác hẳn lan công nghiệp. Lan rừng hoa mới có mùi hương thơm còn lan công nghiệp thì hầu như không. Thì ra sự phát triển nhân tạo thật khó mà sánh được với sự phát triển của tự nhiên. Tự nhiên tức là từ hạt nảy thành cây rồi ra cành, ra nụ, nở hoa. Còn nhân tạo là người ta cắt một mẩu rễ, mẩu lá cho vào ống nghiệm, dùng chất hoá học kích thích nó ra rễ, phát triển thành cây. Đó là công nghệ nuôi cấy mô. Phong lan cấy mô bây giờ phát triển mạnh, cây lá xanh tươi, hoa nở tứ mùa, rất đẹp nhưng chẳng có mùi mẽ gì. Phong lan rừng thì ngược lại. Sự phát triển tự nhiên khiến con người trở nên bất lực. Một cây hoa phong lan xác xơ suốt mùa đông giá lạnh đột nhiên nứt ra tự thân một muống hoa. Cái muống ấy vươn dài, nụ nhú ra to dần. Và một buổi sáng ta ra vườn, thảng thốt khi bắt gặp một mùi hương thơm ngan ngát, quyến rũ đến nao lòng người. Cũng do hay la cà ở các vườn lan nên tôi quen được một anh bạn cùng sở thích. Có hôm chúng tôi chạm nhau đến ba lần ở những vườn lan khác nhau. Thế rồi thành quen. Anh tên là Bản. Anh đúng là một tay chơi lan sành sỏi. Hầu như loài nào anh cũng biết tên, cả cách nuôi dưỡng, chăm sóc, nhiệt độ, ánh sáng ra sao, tưới nước thế nào. Có lẽ anh cũng như tôi, tuy thích hoa lan nhưng nghèo. Hai chúng tôi chủ yếu đi chợ hoa ngắm nghía cho thích mắt, lúc về cũng chỉ dám cắn răng mua một hai nhánh lan rừng độ vài chục ngàn mà đám đàn bà, con gái bày bán như bán rau ở hè đường. Một hôm gặp tôi ở vườn Hoàng Lan, anh Bản hỏi: - Ông có rỗi không? - Rỗi! Chả rỗi thì còn đứng đây ngắm nghía phong lan được à? - Phóng sang Gia Lâm đi! - Làm gì? - Sang vườn lan nhà lão Vũ! Mùa này chắc có nhiều giò phong lan nở hoa đẹp lắm. Thì đi. Tôi và Bản phóng xe qua cầu Long Biên rẽ xuống bờ đê sông Hồng. Trời lắc rắc mưa bụi. Mùa Xuân đang đến rất gần. Cây cối ven bờ sông lộc non đang nhú. Tôi theo Bản rẽ vào một làng nhỏ ven đê. Đường làng lát gạch sạch sẽ. Đến một cái cổng sắt sét gỉ, Bản đập cửa rầm rầm. Hồi lâu mới thấy có người ra. Một gã đầu tóc bù xù, râu ria lởm chởm thò cổ ra hất hàm: - Làm cái gì mà đập cổng như ăn cướp thế hả! - Đại ca! Bọn em sang thăm đại ca đây!. - Thăm mới chả viếng... - Gã vừa lẩm bẩm vừa mở khoá cổng. Tôi hơi nản vì thấy vẻ mặt gã có vẻ không thiện cảm lắm nên rất ngần ngại khi dắt xe vào cổng. Nhưng vừa qua cổng, cái cảm giác ngại ngần ấy của tôi vơi hẳn. Tôi ngỡ ngàng đứng giữa một vườn lan rừng. Những giò phong lan treo lúc lỉu trên giàn, buộc quanh trụ giữa bể nước hay cài trên chạc cây. Những chùm hoa phong lan đủ màu sắc. Hương thơm ngan ngát. Thấy tôi và Bản cứ mê mẩn ngắm hoa, gã chủ nhà khoát tay: - Vào đi... Nghe cách nói cộc lốc của gã tôi biết Bản là rất thân thiết với chủ nhà nên yên tâm hơn. Chúng tôi theo gã lên gác hai chui ra một cái ban công rộng. Trên ban công cũng lủng lẳng những giò phong lan đang nở. Giữa ban công trên một bộ bàn ghế nhỏ có một chai rượu và cái chén. Chắc gã đang nhâm nhi nhắm rượu thưởng hoa thì bọn tôi đến. Bản giới thiệu: - Đây là anh Vũ, dân lan rừng thứ thiệt. Còn thưa "đại ca", đây là... - Cũng là "lính tráng" chứ gì? Gã chủ nhà ngắt lời Bản. Tôi ngạc nhiên: - Sao anh biết em là lính? - Cậu mặc thường phục hay có cởi truồng ra thì cũng vẫn biết là lính tráng. ồng đội với nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau là biết! Cựu binh Trường Sơn đây! Tôi phục tài anh Vũ. Anh đưa tay xiết chặt tay tôi. Tự nhiên tôi thấy thân thiết đã như từng gặp anh lâu rồi, cái mặc cảm lúc vào cổng tan biến. Anh Vũ kiếm thêm hai cái chén. Anh rót rượu rồi bảo "Làm một ly rồi hãy xem hoa!" Chúng tôi chạm cốc. Anh Vũ giới thiệu một cách khá tỷ mỷ về từng loại phong lan. Thấy tôi cứ chăm chú nhìn một giò lan có chùm hoa màu đỏ thắm, anh bảo: - Phong lan đai châu đấy! Loại này hoa nở vào mùa Xuân nên người ta thường gọi là "nghinh xuân"... - Giò phong lan này "đại ca" Vũ quý nhất đấy! Có người trả mấy triệu mà anh ấy không bán. Bán quách đi anh ạ, lấy ít tiền mà nhậu rồi lại nuôi giò khác. Nghe Bản nói vậy, nét mặt anh Vũ tối lại. Vẻ hứng khởi của anh khi nói về phong lan biến đi đâu mất. Anh lầm lũi quay lại bàn rượu rót thêm vào ly. Tôi cụt hứng kéo Bản quay lại chỗ anh. Anh Vũ run run nâng chén rượu lên. Khóe mắt anh như có nước. Tôi đoán câu hỏi của Bản đã vô tình chạm vào nỗi đau nào đó của anh. Tôi rụt rè: "Chắc giò phong lan ấy là kỷ niệm..." Anh Vũ khoát tay như ra lệnh: "Ngồi xuống!" Chúng tôi cùng ngồi xuống chờ đợi. Tôi linh cảm anh sắp nói ra một điều rất hệ trọng của đời anh. * Câu chuyện của anh Vũ bắt đầu từ năm 1968. Đó là năm đầu tiên xe tăng quân đội ta vượt sông Thạch Hãn thâm nhập miền Nam chuẩn bị cho những trận đánh lớn. Anh Vũ kể: - Để tạo yếu tố bất ngờ nên việc đưa xe tăng vào chiến trường được giữ bí mật tuyệt đối. Nhiều đơn vị bộ binh cũng còn chưa biết đã có xe táng quân ta xung trận. Ngày ấy, tôi là trưởng xe. Đơn vị xe tăng ém trong rừng. Những chiếc xe tăng vùi mình trong cành lá và bùn đất đợi giờ xuất kích. Trong những ngày chờ đợi ấy tôi quen được một cô gái quê Kinh Bắc. - Anh Vũ ngừng lại ngước nhìn giò phong lan màu đỏ, giọng chùng hẳn xuống: - Cô ấy tên là Mây, thủ kho quân lương nơi chúng tôi thường đến nhận gạo, lương khô, thịt hộp, mì chính. Chúng tôi thân nhau lắm. Mây rất thích hoa phong lan. Mỗi lần đi rừng, cô gỡ những búi phong lan đem về gài lên mái nhà kho làm ngụy trang vừa không bị héo. Phong lan rừng là loài hoa rất lạ. Thân rễ bám vào cành cây nhưng nó không phải là loài tầm gửi. Lan sống chủ yếu nhờ sự tổng hợp chất dinh dưỡng từ không khí và hơi nước. Những cụm phong lan Mây buộc vào cột nhà kho, gài lên vách liếp vẫn buông rễ, xanh lá và ra hoa. Mỗi loài lan một loại hoa, một vẻ đẹp khác nhau. - Mây cũng rất đẹp. - Anh Vũ bảo: - Giá không có chiến tranh, người con gái Kinh Bắc đôi mươi ấy cầm nón quai thao đi hội Lim thì khối kẻ xin "ở mãi không về..." - Anh Vũ ngậm ngùi: - Nhưng cô ấy chết rồi. Cái chết giữa tuổi hai mươi... Anh im lặng hồi lâu. Tôi và Bản không dám hỏi, sợ khơi thêm nỗi buồn của anh. - Cũng là tại tôi! - Anh Vũ dụi mắt: - Tại tôi rủ cô ấy đi lấy phong lan... Hôm đi trinh sát chuẩn bị đường cơ động cho xe tăng, tôi phát hiện ở gần con suối cửa rừng trên cái cây cổ thụ lớn có một bụi phong lan tổ quạ và những khóm lan đai trâu sắp ra hoa. Nghe tôi nói, Mây thích lắm. Mây theo tôi đi lấy phong lan. Cài khẩu súng K54 vào bụng, tôi đu người lên cây. Những loài phong lan quý thường mọc ở những cành rất cao, rất khó lấy. Khi tôi vừa chui vào bụi phong lan tổ quạ um tùm giữa chạc ba của cái cây cổ thụ thì chợt nghe dưới gốc cây có tiếng Mây la hét, giẫy giụa. Vội vạch lá ngó xuống, tôi hốt hoảng thấy hai tên biệt kích mặc áo rằn ri đang vật lộn với Mây. Bọn chúng chợt phát hiện ra Mây khi cô đang khe khẽ hát bài "Người ơi người ở đừng về". Tôi rút khẩu súng ngắn ra. Trong súng chỉ còn ba viên đạn. Cũng không thể bắn được vì hai tên biệt kích đang ôm chặt lấy Mây. Chúng xé toang cái áo cô đang mặc. Mây cố giẫy giụa và nhìn về phía ngọn cây gào lên thật to: "Đừng... đừng... đừng..." Tôi biết, Mây muốn bảo tôi không được nổ súng. Mây hiểu rất rõ nếu phát hiện ra tôi đang ở trong bụi phong lan tổ quạ trên cây thì chỉ cần một loạt đạn là tôi khó thoát. Có thể Mây còn lo bọn địch sẽ phát hiện ra vị trí ẩn giấu của những chiếc xe tăng T54 nữa. Hai tên giặc lôi Mây ra phía bờ suối. Những bàn tay bẩn thỉu của chúng buông súng chụp lấy đôi vú căng tròn của người con gái. Mây vùng vẫy chống cự quyết liệt. Bỗng một tiếng nổ vang lên. Khói bụi mù mịt. Lá cây rụng rào rào. Trong lúc vật lộn Mây đã giật được cái chốt an toàn quả lựu đạn US một tên biệt kích đang đeo ở thắt lưng... Nét mặt anh Vũ trở nên u ám. Hình như nỗi đau ẩn khuất tự trong tim bỗng lại dội lên. Anh im bặt rất lâu. Lần này thì tôi không nhịn được, buột miệng hỏi: - Sau đó thế nào hả anh? - Cô ấy hy sinh. Tôi bị kỷ luật. Nhưng toán biệt kích không phát hiện ra nơi giấu những chiếc xe tăng T54. Nghe tiếng lựu đạn nổ những tên biệt kích đang lùng sục xung quanh vội co cụm lại bắn bừa bãi ra xung quanh một hồi rồi kéo hai cái xác đồng bọn rút lui. Mây được mai táng ở một hẻm núi. Tôi lấy một nhành phong lan cài lên hốc cây bên cạnh mộ Mây, nhặt một hòn đá hình tròn giữa dòng suối dùng dao găm khắc một chữ M chôn ở phía cuối ngôi mộ làm dấu. Mấy tháng sau có dịp đi qua ghé thăm Mây, tôi giật mình thấy khóm phong lan nở một chùm hoa đỏ tưươi như máu. - Giống như loại kia phải không anh? Tôi chỉ chùm hoa phong lan màu đỏ. Anh Vũ bảo: - Thì chính là nó đấy! - Thế ạ! - Tôi ngạc nhiên. Anh Vũ chậm rãi: - Mấy năm trước. Tôi đưa gia đình Mây vào Quảng Trị tìm mộ cô ấy. Khi đến chỗ hẻm núi thấy trên hốc cây còn sót lại một nhành phong lan héo quắt. Tôi đem nó về nuôi. Chăm sóc mãi cây mới hồi lại rồi quen dần với thủy thổ ngoài này. Hai năm nay nó mới ra hoa. Thấy hoa lạ ai cũng hỏi mua nhưng chẳng bao giờ tôi bán. Nói đến đây, anh Vũ đứng dậy. Anh kéo chúng tôi ra phía hòn non bộ đắp ngay trên ban công tầng hai dưới giò phong lan màu đỏ. Anh chỉ vào một hòn đá hình tròn màu trắng ngà đặt ở giữa bảo: "Khi bốc mộ Mây, tìm thấy hòn đá khắc chữ M để đánh dấu ngày ấy, tôi đã đem về đặt ở đây..." Tôi bần thần trước câu chuyện của anh Vũ, hết nhìn chùm hoa phong lan màu đỏ lại nhìn hòn đá khắc chữ và nghĩ về một thời chúng tôi ở chiến trường. Mùa Xuân đang về. Muôn hoa, muôn sắc. Nhưng ai biết có một chùm hoa phong lan đỏ nở như những giọt máu đang rơi...

Về với biển

Hôm nay lang thang về với biển. Lâu lắm rồi tôi mới ghé chân lại nơi đây. Cả vũ trụ lúc bấy giờ hình như đã chìm vào giấc ngủ, chỉ còn tôi ngồi một mình giữa biển trời bao la.

Nơi đây vẫn như những ngày xưa cũ, vẫn gió rít lạnh câm, vẫn sương rơi ướt cả tóc... vẫn trước mặt tôi là một khoảng mênh mông rộng, tối tăm. Cái lạnh giá của biển về đêm đã trở thành quen thuộc trong tôi từ thuở nào đó mà hình như tôi đã quên mất.

Tôi lần mãi mới tìm tới được bờ đá bên dưới. Nó đây rồi, vẫn là tảng đá mà ngày xưa tôi thường ngồi nghe tiếng sóng biển. Biển của ngày xưa cũng ồn ào lắm và rồi lại lặng lẽ rời xa. Đêm nay bỗng dưng thấy biển rộng mênh mông đến muôn trùng, tôi chẳng rõ ở ngoài kia bóng đêm là gì? Có lẽ cũng giống như tôi; là một khoảng lặng đến ghê hồn.

Trước mặt tôi, biển vẫn hồn nhiên nắm tay nhau tung tăng chạy vào bờ. Sóng muôn đời vẫn thế, vẫn dang rộng cánh tay trắng dìu nhau đến cuối bờ nhưng biển đâu hiểu rằng sóng chỉ đến và đi theo những giận hờn của cuộc nỗi trôi. Có lẽ tôi yêu biển nên những cuộc tình đi qua đời tôi có chút gì đó như sóng. Khi tình chớm nở thì luôn ồn ào và náo nhiệt, khi tình rời xa thì như sóng lặng lẽ đi về phía đại dương xanh ngắt.

Sương thấm ướt cả vai áo, tôi ngồi choàng tay ôm lấy mình - lạnh co ro... Suy nghĩ, rồi lại suy nghĩ... Lúc bấy giờ thì chỉ có một điều ước nhỏ nhoi nhất, đó là ước gì có một bờ vai của ai đó có thể cho mình tựa vào trút hết những nỗi niềm ở trong lòng, nhưng có lẽ đó cũng là một điều ước khó đạt được ở mỗi con người điển hình như tôi. Hoặc bỗng dưng có một lời nói an ủi vỗ về, hay một bàn tay ấm để dìu dắt... Những lúc thấy lòng chùng xuống đến tận cùng, tôi chỉ muốn khóc và khóc... thế mà chẳng thể nào khóc được, chỉ có một cách duy nhất là tìm về với biển đêm để nghe tiếng sóng, để ngửi dược mùi trong lành của biển, để thấy được bên trong của chính mình sâu hơn cả màn đêm.

Mỗi lần về với biển, tôi thấy lòng mình bình yên nhưng đổi lại đó là một sự cô độc đáng sợ. Phải chi nếu có thể để cho sóng cuốn trôi đi hết những muộn phiền thì làm gì ngập tràn nỗi niềm như đêm nay.

Biển càng về khuya càng lạnh, nhưng cái lạnh của gió không thể nào so sánh được với cái lạnh ở trong cõi lòng. Tôi vẫn ngồi lặng im nhìn sóng vỗ vào bờ rồi vội vàng ra đi. Khi xa rồi chẳng biết sóng có tiếc gì cho bọt biển còn nằm ngơ ngác ở bờ cát không nhỉ? Tôi thở dài và tự trả lời với mình rằng : "Không, sóng chẳng bao giờ tiếc nuối điều chi, cũng giống như những cuộc tình đổ vỡ vậy...".

Giờ đây, tôi vẫn chạy miệt mài để tìm cho mình một nửa linh hồn còn lại, nhưng sao có đôi lần thấy hụt hẩng và gần như điều tuyệt vọng. Ước gì giờ này có ai đó... mà thôi...

Cuộc đời là thế, con người đến và đi quá nhanh nên có khi chính mình đã quên đi mất. Cũng như trong tình yêu chẳng có cảm xúc nào diễn tả lên hết được niềm vui khi trái tim đang ngập tràn hạnh phúc và cũng chẳng thể nào diễn tả hết được những nỗi đau khi tình bỏ nhau đi như một người điên mất trí. Tôi vẫn hài hòa bước đi trong đời sống của mình dẫu cuộc đời không bao giờ phẳng lặng để thấy trái tim mình còn run lên nhịp đập vấn vương.

Tôi bụm đôi bàn tay, thì thầm với biển:

- Biết không? Tôi cũng giống như bao người khác... chỉ có một tấm lòng...

Những chi tiết nhỏ nhưng phiền toái

"Ông vẫn nghĩ là ông có lý do khi làm vậy?".

"Cho đến ngày hôm qua tôi vẫn tin là mình hành động đúng khi quyết định cắt đường dây điện nối với cái chuông ngoài cổng, trong lúc chờ để lắp một máy interphone", người đàn ông ngồi đối diện trả lời nhưng mắt ông không nhìn người đối thoại mà vẫn đặt đâu đó vào bức tường trước mặt. Trên bức tường sơn trắng sạch sẽ ấy, chỉ độc có mỗi cái đồng hồ mà cả hai cây kim đều nằm chồng lên con số sáu.

"Không dưới năm lần trong ngày, tôi đã phải chạy lên chạy xuống hai mươi bậc cầu thang, tổng cộng không dưới hai trăm bậc, để mở cổng. Lúc thì một anh bưu tá phát thư, hay nhân viên hãng cung cấp nước uống đến giao hàng. Lúc là người của công ty cung cấp khí đốt hoặc nhân viên điện lực hay nhà máy nước đến ghi mức đồng hồ hằâng tháng. Lúc là một cô gái trẻ giới thiệu dịch vụ thuê bao điện thoại di động đời mới giá khuyến mãi. Có khi là một anh da đen, tóc xoăn tít, đến xin phun thuốc diệt côn trùng trong nhà và ngoài vườn. Lắm lúc lại chỉ là một ông già lẩm cẩm, chân tay run lẩy bẩy, nhầm địa chỉ".

"Những lúc như thế tôi đều phải bỏ dở việc đang làm. Nếu đúng lúc đang hầm một nồi thịt, tôi chỉ cần vặn nhỏ lửa để nó không trào, còn nếu đang chiên món cá rô phi hay rán khoai, tôi buộc phải tắt bếp ga, lau hai bàn tay ướt vào cái tạp dề trước bụng, xỏ vội áo lên người và phóng như bay xuống sân, bị thúc bởi những hồi chuông riết róng một cách bất nhã. Nhưng có lẽ căng thẳng nhất là tiếng chuông đổ lúc đang ở trong nhà tắm hay đang trong toilet".

"Bây giờ thì tôi có thể yên tâm không sợ bị quấy rầy nữa. Từ nay tôi có thể tự do làm những việc mình ưa thích mà trước đây phải gác sang một bên vì không có thời gian, hoặc đơn giản là sẽ có được những giây phút hoàn toàn riêng tư".

"Tôi vừa mất việc làm. Một sự sắp xếp về tổ chức bỗng dưng đẩy tôi cùng với gần chục người ra khỏi sở làm và trở thành thất nghiệp bất đắc dĩ. Trong khi chờ đợi để kiếm một việc làm khác, mỗi ngày tôi truy cập mạng và đọc báo, vào những mục rao tìm người, rồi đi chợ, nấu ăn và chờ vợ đi làm về".

"Đối với tôi, những ngày đầu không đi làm là cả một trải nghiệm chưa từng có trong đời. Tôi rũ bỏ nhiều thói quen cũ và bắt đầu tập một số thói quen mới. Tôi không còn thức giấc với cái đồng hồ báo thức cạnh giường nữa. Tôi không bận bịu chọn lựa vào mỗi sáng sớm chiếc sơ mi nào nên mặc, cái cà vạt nào hôm trước đã đeo, đôi giày nào chưa đánh xi. Tôi không phải mỗi ngày đi về trên con đường quá quen thuộc cả chục năm trời. Tôi không còn bị những cuộc họp nặng nề, nhàm chán hành hạ, không còn phải gặp hằâng ngày những khuôn mặt đần độn, hợm hĩnh. Tôi như được cất đi gánh nặng trên vai lâu ngày, cảm thấy nhẹ hẫng, vô cùng khinh khoái".

"Tuần lễ thứ nhất trôi qua một cách thật dễ chịu. Lần đầu tiên tôi thực sự sở hữu một không gian chỉ dành riêng cho mình. Gần trọn ngày, từ 8 giờ 30, khi vợ tôi ra khỏi nhà cho đến lúc nàng trở về vào sẫm tối, một mình trong căn nhà trống trải, tôi bất ngờ khám phá có rất nhiều thứ hằâng ngày vẫn hiện diện bên cạnh mà hầu như tôi chẳng khi nào để tâm đến. Từ những đồ vật hết sức nhỏ mọn, như cái chụp đèn, khung cửa sổ, tấm rèm che, đến cái ghế, cái bàn, cái bếp ga... Trong ánh sáng tự nhiên rọi vào phòng, những đồ vật đó xuất hiện với tất cả sự dửng dưng thách thức chưa từng thấy".

"Tôi đã bỏ thời gian để ngắm chúng không chán, cũng như thích thú quan sát những chậu hoa vẫn đặt trên bậu cửa sổ. Những bông hoa màu đỏ thẫm nở vào mùa hè, rung rinh trước gió sớm mà tôi không còn nhớ tên, vợ tôi đã mua nhân một buổi cùng nàng đến khu chợ quê họp mỗi tháng một lần, cách xa nơi chúng tôi ở hai mươi cây số. Mọi lần vợ tôi tưới nước cho nó, đây là lần đầu tự tôi làm công việc này. Tôi chăm chú theo dõi bầy kiến di chuyển lặng lẽ trên thềm nhà và nhớ đến Henri Michaux. Ừ nhỉ, kiến là một loại sinh vật có một đời sống cộng đồng khép kín nhất dưới bầu trời này".

"Trong bầu không khí tĩnh mịch, thân mật, tôi nghe tiếng động do chính mình di chuyển trong nhà và tiếng động do tôi va chạm với những đồ vật chung quanh, như cái thìa kêu lanh canh trong bồn rửa bát, tiếng cọt kẹt của cánh cửa gỗ mở vào trong, tiếng ghế kéo lê trên sàn đá...".

"Nó mang đến một cảm xúc thật mới mẻ và lạ lùng. Đến lúc ấy, tôi mới chợt nhận ra sự hiện hữu của mình, một cách cụ thể, gần gũi, có thể cảm nhận, sờ mó được mà từ lâu tôi đã xao lãng".

"Và tôi còn khám phá nhiều thứ âm thanh lý thú khác. Chẳng hạn tiếng vỡ trong suốt của một viên đá trong ly whisky. Trong ánh sáng chạng vạng của buổi chiều tà, ngồi trong góc phòng nhìn ra ngoài chờ vợ về, âm thanh đó cũng đủ làm tôi giật mình hoảng hốt. Trong sự đơn độc, tôi đã học lắng nghe nhiều thứ".

"Thế nhưng những giây phút êm đềm đó quá ngắn ngủi, chúng chưa kịp kéo dài sang tuần lễ thứ hai thì đã bị hủy hoại bởi cái chuông điện vô tri vô giác đó".

"Tất cả những điều đó có phải là lý do dẫn ông đến việc cắt dây chuông?".

° ° °

Bên ngoài trời đã sụp tối từ lúc nào. Bây giờ đang giữa mùa thu, gió mang một chút không khí mát lạnh vào chỗ hai người đàn ông ngồi. Tiếng động của đường phố đã nhỏ lại, tiếng những chiếc ô tô chạy bên ngoài vọng vào trong phòng chỉ còn là một chuỗi âm thanh rầm rì bất tận.

Người đàn ông vẫn giữ nguyên tư thế ngồi như lúc mới vào, hai chân bắt chéo nhau, nhưng ánh mắt không biết có phải do chịu ảnh hưởng từ sự thay đổi của khung cảnh mà bỗng trở nên sống động hơn, trong khi người đối thoại với ông đang có những dấu hiệu mỏi mệt.

Anh kín đáo liếc xuống chiếc đồng hồ trên tay rồi ngước mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Hôm nay là sinh nhật của Thúy. Anh đã đặt trước chỗ ngồi cho hai người ở một hiệu ăn vào lúc tám giờ và đã mất gần trọn buổi chiều cuối tuần trước để chọn mua cho Thúy một món quà mà anh nghĩ sẽ mang đến cho nàng sự ngạc nhiên thú vị.

Anh tưởng tượng đến nét mặt và nụ cười rạng rỡ của Thúy, và một cách vô thức không thể kiểm soát, môi anh bỗng phác một cái nhoẻn miệng mơ hồ như thể nụ cười. Trong lúc người đàn ông tiếp tục nói, anh nhìn sang cái điện thoại đặt trên bàn. Chắc giờ này Thúy đang sốt ruột mong anh đến. Lát nữa anh sẽ mặc bộ quần áo nào để đến với Thúy? Nàng không thích những tông màu sặc sỡ chói lóa, cho rằng không phù hợp với anh. Anh gầy mà nước da anh không sáng, em thích nhìn anh với những màu hơi sẫm, trông anh có vẻ từng trải, dày dạn hơn.

Thúy luôn có lý trong tất cả mọi cuộc tranh luận, nhất là khi nó lại liên quan đến chuyện trang phục và màu sắc, những thứ mà anh thường cảm thấy mình rất vụng. Nhiều lúc anh tự biện hộ cho sự vụng về của mình bằng cách đổ hết cho công việc bận rộn, dù trong thâm tâm anh thấy lý lẽ đó không thuyết phục được ngay cả chính mình.

° ° °

"Tôi đã không thể chịu đựng hơn nữa thứ âm thanh đó, nó làm tôi quá căng thẳng. Cả sau khi tiếng chuông đã dứt, tôi vẫn cứ nghe như có nghìn cái chuông điện tiếp tục reo trong đầu...".

Câu trả lời bất chợt kéo anh khỏi dòng suy tư miên man, đưa anh trở về với người đàn ông ngồi trước mặt. Anh kín đáo ngắm ông ta. Một gương mặt bình thường, nếu không nói là tẻ nhạt. Chỉ duy nhất cái nốt ruồi bên má trái gần khóe miệng là đáng chú ý. Và không hiểu sao ngay lúc phát hiện ra nốt ruồi ấy, anh đã lập tức bị nó thu hút.

Anh khởi sự quan sát nó. Ở vị trí cách nhau qua cái bàn, khẽ nghiêng đầu vờ như đang nhìn về cửa kính trước mặt, anh vẫn có thể nhìn thấy cái nốt ruồi khá rõ. Đó là một mẩu thịt dư màu đen to bằng đầu đũa. Mỗi khi người đàn ông mở miệng nói, mẩu thịt ấy cũng nhúc nhích lên xuống. Thật ngộ nghĩnh.

Có một sợi lông đen nhô lên cong cong ở đầu mẩu thịt và anh đoán phải còn những sợi lông khác nhỏ hơn ở chung quanh, như vẫn thường xảy ra cho các loại mụn mọc trên cơ thể người, mà từ chỗ anh, anh không thể nhìn rõ được.

Sự phán đoán đó càng kích thích trí tò mò, khiến anh tiếp tục dồn hết chú ý vào cái nốt ruồi một cách khoái trá. Anh không còn cảm giác mệt mỏi, ngược lại, thấy phấn chấn hơn lúc nào hết. Giờ thì anh có thể khẳng định trên chóp cái nốt ruồi đó nhất định còn một cái nhân màu phớt hồng mà anh không thể xác định được kích thước. Kỳ dị thay, không những thế, anh lại còn thấy cái nốt ruồi ấy di chuyển nữa. Nó chuyển động dần dần, từng tí một, hết sức chậm chạp, theo một đường chéo ngược lên, về phía mũi người đàn ông.

Anh nghĩ mình có thể bị hoa mắt vì tập trung chú ý quá lâu, bèn bỏ kính xuống bàn, nhắm mắt lại thư giãn. Lúc sau, anh đeo kính vào và nhìn cái nốt ruồi ấy một lần nữa. Chính xác rồi. Đó không phải là ảo giác. Chính xác là cái nốt ruồi đang di chuyển.

Phát giác đó làm anh hoảng hốt. Anh rút khăn tay từ túi quần ra, lau những giọt mồ hôi rịn ra trên trán. Bất giác, anh buột miệng hỏi người đàn ông, để tìm cách thoát ra khỏi cảnh tượng lạ lùng vừa chứng kiến và để tự trấn tĩnh, một câu hỏi mà anh không chắc có theo đúng thứ tự hợp lý của câu chuyện đang diễn ra hay không:

"Còn những tiếng động khác có làm ông có cảm giác tương tự?".

Im lặng một lúc rồi người đàn ông tiếp tục nói, càng lúc càng tỏ ra cởi mở hơn so với lúc mới bắt đầu.

"Tiếng chuông điện mang đến những hồi ức mà tôi muốn quên. Nó giống như cái công tắc điện, khi bật lên, sẽ kích hoạt những cảm xúc, thói quen sâu trong tiềm thức. Tôi buộc phải sống lại cái đời sống bận rộn, hối hả, trong đó tôi hoàn toàn bị tước mất ý thức làm chủ. Không, quả thật tôi không sống cho tôi mà sống theo ý muốn của người khác. Chỉ cần cắt cái chuông đi, tất cả sẽ trở lại trật tự tự nhiên, như vốn được tạo hóa bày ra như vậy".

Trong lúc người đàn ông trả lời, anh nhìn xuống hai bàn tay mình đặt trên bàn, nhìn mười ngón tay đan vào nhau ẩm mồ hôi, để tránh phải trực diện với gương mặt ông ta. Anh cố tập trung tinh thần vào đó để không phải liên tưởng đến cái hình ảnh lạ thường vừa rồi. Nhưng vô ích, có một ma lực huyền bí nào đó thôi thúc, bắt anh phải ngước mắt nhìn vào cái nốt ruồi trước mặt.

Anh tự nhủ không được đầu hàng. Phải quyết liệt chống lại nó. Mồ hôi từ hai tay anh chảy ra đọng thành vũng trên bàn. Một cuộc giằng xé âm thầm không cân sức diễn ra.

Sau cùng, anh bỏ cuộc, vì quá mệt mỏi. Anh không thể cưỡng lại sự cám dỗ của cái nốt ruồi ma quái ấy. Anh lại ngước mắt lên nhìn vào gương mặt người đàn ông. Ồ... Quái lạ thay! Không thể như thế được... Anh suýt kêu lên thành tiếng. Cái nốt ruồi bây giờ đã to lên quá cỡ và đã di chuyển đến vị trí của cái mũi. Hay nói chính xác là cái mũi của ông ta bây giờ đã biến thành một cục thịt đen thui, lắc lư, động đậy, như chực rơi xuống đất bất kỳ lúc nào. Cái nhân ở chóp mũi đến lúc ấy mới hiện ra màu sắc thật của nó, một màu hồng tươi, và anh nhìn thấy một túm lông đen rậm rạp, phất phơ dưới ánh đèn.

Quá kinh hãi, anh cảm thấy ngạt thở như thể mũi anh đang có ai bít chặt lại. Anh nới lỏng cà vạt, mở khuy cổ áo và hít một hơi thật mạnh. Anh cảm thấy chóng mặt, ngồi không vững. Cúi gầm mặt xuống bàn, anh gần như chẳng còn nghe người đàn ông kia đang nói gì nữa.

"Tôi sống bình yên được thêm vài ngày nữa, cho đến một buổi chiều từ sở làm về, nàng để nguyên quần áo trên người không thay, ném cái túi xách lên bàn và hỏi tôi:

"Anh đã làm gì với cái chuông nhà mình thế?".

"Tôi thấy trên khuôn mặt nàng tất cả sự mệt mỏi sau một ngày bị vắt kiệt sức bởi công việc. Tôi biết đó là giây phút mà người ta dễ mất tự chủ nhất".

"Anh cắt dây điện".

"Nàng nhìn tôi trân trân một lúc lâu, sau đó buông ra câu hỏi một cách máy móc, câu hỏi mà nàng không cần tôi trả lời:

"Tại sao anh làm vậy?".

Rồi ngay lập tức, nàng nói liền một hơi:

"Anh có biết là vì anh mà cả tuần nay nhiều thứ quan trọng người ta gửi đến cho em mà em không nhận được không? Hai cái bưu phẩm, một cái thư bảo đảm rồi một cái thẻ câu lạc bộ nữa. Không chỉ có thế. Tại sao điện thoại di động của em đi làm về để trên bàn, anh cũng tự ý tắt đi? Ngay cả điện thoại nhà reo trước mặt anh, anh cũng chẳng buồn nhấc máy lên nghe. Tại sao vậy? Tại sao anh xa lánh tất cả mọi thứ như vậy? Anh không muốn tiếp xúc với bất cứ ai. Anh sợ cả ánh sáng hả?".

"Tôi dị ứng với ánh sáng đèn néon, nó cho tôi một cảm giác trần trụi, khó chịu. Suốt ngày tôi mở hết cửa sổ để lấy ánh sáng trời, hầu như tôi chẳng khi nào mở đèn, trừ lúc trời đã tối hẳn".

"Nàng dừng lại một lúc để thở, để cố thoát khỏi những bực dọc đang đè nén trong lồng ngực làm nàng bị ngộp. Tôi nhìn thấy một giọt nước đọng ở đuôi mắt nàng. Không hiểu sao vào lúc ấy, tôi chỉ nghĩ đến bữa cơm tối của hai chúng tôi. Tôi đã sắp sẵn trên bàn từ ban chiều và đợi nàng về, nhưng giờ thì tôi nhìn nó đang nguội lạnh".

"Tôi đứng lên dìu nàng ngồi xuống ghế. Bất ngờ nàng òa lên khóc nức nở, như thể tất cả những gì đã chất chứa, tích tụ bao ngày chỉ chờ đúng lúc ấy để vỡ bùng ra. Một bên vai tôi ướt đầm nước mắt".

"Hôm sau và nhiều ngày liên tiếp, mỗi lúc chúng tôi bên cạnh nhau và khi có cơ hội thuận tiện, nàng dịu dàng khuyên tôi nên đi tham vấn bác sĩ tâm lý trị liệu. Nàng nói đó là một việc bình thường, tâm lý cũng như thể xác đều cần được chăm sóc thường xuyên để tránh những xáo trộn có thể có do sự thay đổi điều kiện sinh hoạt. Anh hãy vì anh và vì em nữa, hãy đi khám đi. Em sẽ đưa anh đi, nghe anh!".

"Và để làm cho vợ tôi vui lòng, tôi đã có mặt ở đây, thưa bác sĩ".

Anh đã hoàn toàn kiệt sức, không thể kéo dài được nữa, anh phải chấm dứt câu chuyện này càng sớm càng tốt. Nhưng vì phép lịch sự, anh phải đợi cho ông nói hết câu. Anh quyết định kết thúc buổi tham vấn ở đó và cho ông một cái hẹn khác ba ngày sau. Rồi anh nói với ông là không có gì phải quá lo lắng, đó cũng là tâm trạng thường thấy khi có một sự kiện nào đó xảy ra trong cuộc sống, rằng ông có thể trở lại sớm hơn hoặc vào bất kỳ lúc nào ông muốn, anh sẵn sàng tiếp.

Anh tiễn ông ra tận cửa. Bên ngoài, gió thổi lạnh, tiếng ồn ào của đường phố theo cánh cửa mở ùa hết vào trong. Anh hít một hơi thật dài, thật căng lồng ngực. Hơi lạnh làm cho đầu óc anh tỉnh táo lại và trong người nhẹ nhõm được đôi chút.

Những cửa hàng ăn đối diện nhộn nhịp người ra vào. Anh nhìn thấy một chiếc xe ô tô chờ sẵn, một người phụ nữ trung niên vòng hai tay trước ngực đứng cạnh. Anh không nhìn rõ mặt vì chiếc khăn quấn cổ của bà bị gió thổi ngược lên che mất một bên đầu. Anh đoán đó là vợ người đàn ông. Anh nảy ý tò mò muốn đứng một lúc nữa ở cửa để quan sát cặp vợ chồng đó. Nhưng trong lúc ông ta chưa bước được vào bên trong xe, anh đã nghe tiếng chuông điện thoại réo vang từ sau lưng. Anh vội vàng chạy vào nhà quên cả đóng cửa.

"Alô!".

Tiếng của Thúy ở đầu dây bên kia.

"Không có gì hết... Anh vừa tiếp xong bệnh nhân cuối cùng... Xong rồi. Anh đang chuẩn bị về đây... Ba mươi phút nữa... anh sẽ đến đón em...".

Anh đặt ống nghe xuống rồi vừa nhìn đồng hồ tay vừa vơ vội mấy thứ trên mặt bàn cho vào cặp. Ba mươi phút nữa. Đoạn đường từ phòng khám về nhà để sửa soạn rồi từ nhà đến chỗ nàng. Hôm nay là thứ sáu, ngày cuối tuần.

Anh nghĩ đến những đoàn xe nối đuôi nhau chạy vào trung tâm mà toát cả mồ hôi.

Chìa khóa mở cửa trái tim

Chiều nay, trên phòng máy tính của trường, có một người đã đưa về phía tôi một chùm chìa khóa lớn, lúc lắc để tạo ra cái tiếng kêu leng keng vui tai trước mặt tôi rồi bảo: "Em chỉ cho anh biết cái nào là chìa khóa mở cửa trái tim em để anh còn mở chứ?". Thực tình thì tôi vốn là một con bé khá lém lỉnh và nhanh nhạy trong cách sử dụng ngôn ngữ, và thực tình nữa thì tôi nghĩ đây chỉ là một câu đùa hóm hỉnh. Nhưng không hiểu sao tôi lúc đó chẳng biết phải đối đáp thế nào ngoài việc cười trừ rồi tiếp tục chăm chú vào cái màn hình vi tính như để khỏa lấp một điều gì không thể gọi tên...

Đã hơn hai tuần nay, có một con mèo nhà ai đi lạc, đến ở dưới cái gầm cầu thang nhà tôi, chỗ sân gạch nhỏ mà tôi vẫn thường dựng xe máy mỗi khi đi học về. Gọi là mèo hoang chỉ bởi chưa rõ chủ, chứ nhìn nó với bộ lông vàng óng mượt mà, cái mũi hồng xinh xinh thì đủ biết vốn là mèo của một gia đình khá giả và được cưng chiều. "Mèo đến nhà thì khó", quan niệm của người Việt Nam là vậy, cho nên đương nhiên con mèo trở thành đối tượng bị xua đuổi của hết nhà này đến nhà khác, hết người này đến người khác...

Có lẽ vì lý do ấy nên con mèo trở nên nhút nhát, sợ sệt, và không dám để cho ai đến gần bao giờ. Lúc nào cũng vậy, nó co ro một góc trong chiếc gầm cầu thang bé xíu, run rẩy vì rét mướt và đói, ánh mắt lộ rõ một vẻ rất hoang mang... Hơn một lần tôi cố gắng tiếp xúc với nó, và cũng hơn một lần nó nhìn tôi với thái độ hoài nghi, giật lùi, rồi bỏ chạy...

Vào đầu tuần trước, nhìn nó đói và rét nằm bẹp một góc, tôi đã mang chút đồ cho nó ăn. Bằng việc cố gắng nhẹ nhàng, tôi từ từ đến gần nó, con mèo nằm im vì quá mệt, nhưng vẫn không khỏi lộ vẻ hoài nghi. Tôi đã có thể đến rất gần nó, nhưng bất chợt con mèo vùng chạy, cào ngang qua chân tôi đau nhói... Quả thực sự hoài nghi là quá lớn! Tôi chỉ dám lẳng lặng lên nhà rửa sạch vết thương, không để ai biết điều này.

Những lần sau đó, tôi vẫn cho nó ăn, nhưng không lại gần, chỉ để đồ ăn ở một khoảng đủ gần để nó tới, đủ xa để nó cảm thấy an toàn với tôi. Một lần, hai lần... con mèo đã biết chờ tôi mang đồ ăn cho nó, sự hoang mang, lo sợ của nó giảm dần dần. Cho đến sáng hôm qua, khi tôi cho nó ăn, nó đã bắt đầu đến gần, mặc dù tôi còn đang ở ngay bên cạnh chỗ thức ăn ấy. Khá ngạc nhiên khi nó tiến lại và dụi vào chân tôi, đúng chỗ vết xước mà nó cào tôi hôm trước, giờ đã lành rồi. Có điều gì hơi ngại ngần thể hiện ở việc ngay lập tức nó lùi lại dò xét sau khi vừa dụi đầu một cách âu yếm vào chân con người xa lạ với nó, nhưng tôi thì hiểu nó đã hết hoài nghi với tôi, có lẽ đã hết sự hoài nghi, không còn lo lắng và sợ hãi, con mèo ấy chấp nhận là bạn của tôi.

Suốt buổi tối nay, không hiểu sao tôi luôn nghĩ tới tiếng kêu leng keng và hình ảnh của chùm chìa khóa ấy, như là sự ám ảnh về một chùm chìa khóa với rất rất nhiều chìa

Dốc sung

Hồi ấy, đường giao thông ở mấy huyện miền núi ven sông Đà không dễ như bây giờ.

Bờ tả ngạn từ mạn Thanh Thủy, Thanh Sơn lên tận Đà Bắc chủ yếu là đường đá, đất sỏi gồ ghề, mùa mưa bết bùn đỏ, mùa khô bụi mù trời, sản phẩm của nền văn minh rất dai nguyên thủy ở ta.

Phần lớn những con đường do dân phu gỗ, thợ xẻ, khai thác lâm thổ sản đi lại mà thành.

Từ bản Kẽm lên phố huyện phải vượt qua một con dốc cao, dài ngoằn ngoèo, người bản xứ gọi là dốc Sung. Xe đạp lên dốc Sung phải dắt, xuống dốc cũng phải dắt.

Chả ai lại đặt cược số mạng của mình vào sợi dây phanh mong manh, có khi là hàng phò từ các lò tiểu thủ công nghiệp. Nó "phựt" cho một cái thì gọi là như tàu bay bay giữa vực sâu. Đáp được xuống "sân bay" thung lũng thì chỉ còn cái bã người.

Chả ai biết rõ thực ra thì cái tên dốc Sung có từ bao giờ, bắt nguồn từ đâu. Cả con dốc dài tịnh không có bóng gốc sung nào ở đó cả. Hỏi cả những cụ râu dài quá rốn ở khắp châu Mai Đà cũ sang tận Mường Động, các cụ cũng lắc đầu nguây nguẩy.

Trên đỉnh dốc chỉ có một vạt rừng khế hoang, gốc to xù xì, mùa quả chín vàng ươm, thơm thảng thốt. Chim kêu ríu rít, sóc nhảy chuyền cành, khỉ đu người ngó nghiêng trông như một gánh xiếc, rất hóm.

Đàn bà ăn dở gặp rừng khế này thì thèm rỏ dãi. Người lên dốc mệt chén đôi quả cũng tỉnh ra, lấy lại đôi phần sinh khí.

Nhưng con dốc lắm huyền thoại này, kể cả thời chiến dịch Hòa bình, Điện Biên về sau, thì năm nọ lại rộ lên một câu chuyện được coi là ầm ĩ nhất của vùng sơn cước, ấy là chuyện của Phởn và Voan.

Phởn là Viện trưởng viện kiểm sát huyện, có vợ và hai con gái. Vợ Phởn là cô Mai Hoa, Hội trưởng hội phụ nữ xã.

Voan đã có một đời chồng nhưng chưa có con, trông ngon nghẻ, mông to người chắc, da thịt thây lẩy, bọn đàn ông từng được sờ trộm vào bảo có cảm giác nó nhấp nhẩy đàn hồi, căng như cao su, thích thật! Gái thế mới bõ gái.

Voan được coi sắc nước nhất nhì bản Kẽm. Trai tơ mấy mường lượn lờ quanh nhà cô suốt. Bọn thợ đóng cối, đóng giường ở dưới xuôi lên đêm nào cũng lên đỉnh đồi gần nhà Voan thổi sáo tí toe, ghi ta lạc dây ra sức đập phừng phừng mong được lòng người đẹp bản Kẽm.

Nhưng hượm đã, nếu nói về giai thoại ở dốc Sung trước hết phải nói về tướng quân Đinh Đẻn. Thời xa lắm, khi giặc khăn vàng còn nổi lên cướp phá suốt một dải từ hạ lưu sông Đà tới vùng Đà Bắc.

Mùa màng chum vại rỗng. Nạn đói triền miên. Chuột đêm chạy nháo nhác hàng đàn kiếm ăn. Tiếng dân kêu thảm. Nhiều nhà túng quẫn, mẹ con ôm nhau nhảy xuống sông Đà tự vẫn cho nó xong đời, xác nổi lềnh phềnh kinh động khắp mường. Cả tháng trời chả ai dám tắm, dám gánh nước sông.

Khi tụ nghĩa quân Đinh Đẻn nổi lên đã lấy dốc Sung làm cứ địa. Thế dốc hiểm trở lại án ngữ đường huyết mạch một dải tả ngạn, dễ bề mai phục. Quả là thế hổ phục rồng chầu. Thấp thoáng kia là sông Đà có thể dùng thủy binh khuấy động.

Dốc lại liên thông sang tận núi Lưỡi Hái, dễ bề thoát thân hoặc mai danh ẩn tích, lấy cây củ rừng làm lương thảo những khi thế cùng lực kiệt cũng sống được.

Nghe người ta kể tướng quân Đinh Đẻn có hai bà, vốn là hai chị em. Nói như các cụ là đánh cây đánh cả cụm. Hai bà đều mắn đẻ. Truyền rằng đẻ hai chục đinh, còn lại là gái.

Cộng tất cả lại mà phiên ra cơ số quân đội ngày nay vừa chẵn ba tiểu đội. Rừng nhiều, người ít, đẻ để lấy người sau tăng cường nghĩa quân, phòng tính kế lâu dài. Hết giặc giã, còn ngừa bọn lục lâm thảo khấu lên cướp của, trộm cồng chiêng, đồ gia bảo.

Có lời đồn chính rừng khế là do ông Đinh Đẻn trồng để hai bà thụ hưởng những khi bụng mang dạ chửa, thèm quả chua. Lại nói tướng quân không bao giờ ngủ riêng với từng bà mà cứ hai bà cắp nách, liên hoan một thể.

Lúc ấy vùng đất này là kho gỗ quý như lim, sến, lát hoa... mãi tới thập niên bảy, tám mươi thế kỷ trước người ta đánh nốt những củ gốc lát để thợ vườn cho ra đời những giường hộp, tủ búp - phê (bây giờ trông lem nhem, lỗi mốt đến phát kinh).

Vì thế mà tiệt cái giống lát hoa có hoa văn như mây cuộn, như rồng bay. Rất nhiều rễ cây, củ rừng quý là vị thuốc có thể tăng lực, vỗ nhuần cơ bắp, sung mãn khác thường, còn quý hơn nhân sâm Cao Li. Linh chi cổ thụ nặng cả tạ nhưng mọi người cho là nấm hoang, chả ai để ý.

Chỉ tiếc tổ tiên không biết cách bảo tồn, nhân giống quý hiếm, chỉ rặt nghề hái lượm nên mọi thứ quý của quốc gia chỉ còn truyền miệng trong dân gian. Tiếc lắm!

Cũng có người vì thế suy luận ra rằng, có thể dân gian đặt tên dốc là dốc Sung vì tướng Đinh Đẻn vừa đánh trận sung, vừa vượng gân cốt, gái đôi mươi nhìn ông tắm suối, tảng vai tảng ngực như những ngọn núi cuộn lên hừng hực, còn phải thòm thèm, ngậm răng cơn hứng.

Đặc biệt, mấy vị văn hóa huyện, sử gia tỉnh hay thiên về giả thiết này. Có thời đi tìm mãi sắc phong hoặc phả hệ trong dân gian mà không thấy vật chứng cụ thể.

Chả lạ gì, đình chùa, đền thờ ở ta ngày nay có phong trào xin được công nhận, gắn biển di tích, đa số dựa vào truyền thuyết cả. Ít cái có bút tích sử gia. Hay sử gia của ta không quen ghi, chỉ đồn thổi dòng dã sử cho nhau?

Cũng phải thừa nhận dân ta giàu tưởng tượng vào loại nhất thế giới, hay sáng tạo truyền thuyết vặt. Đâu đâu cũng có linh thần, đa số các vị linh thần rụp một cái đã tụt áo quần để bay về trời, hoặc rụp một cái đã vô hình vô ảnh, khi nhân dân chạy đến thì ngài đã hóa, chỉ còn đống mối đùn to như cái mả.

Tướng Đinh Đẻn đánh tan nhiều binh lực Khăn Vàng cứu dân, tiếng tăm vang lừng cả một vùng rộng lớn. Đinh điền trai tráng theo ông rất đông. Tên tuổi ông gắn liền với cứ địa dốc Sung và đi vào huyền thoại như một tướng hùng Việt cổ. Sử sách về phong trào này còn là vệt mờ khuất.

II

Bây giờ xin quay lại chuyện Voan và Phởn. Phởn đi bộ đội, giống nhiều anh bộ đội thời chiến khác, không chỉ ở bản Kẽm, Phởn cưới vợ rất nhanh giữa một kỳ phép mươi ngày trước khi vào chiến trường.

Chủ yếu là do người nhà "chỉ điểm", thấy sạch nước, hay hay là bỏ trầu làm lễ cưới luôn cho kịp làm chồng, đâu có thời gian mà yêu. Những cô gái sạch nước ở làng bản mà không chộp nhanh là thằng khác chộp mất, họ cũng đều hoàn cảnh thế cả nên chẳng đắn đo.

Vào chiến trường, "bụp" cái là chết, tính toán làm gì. Lúc đó chỉ cầu mong, trời thương cho tý ngẩu để nối dõi tông đường là phúc cao đức dày lắm rồi.

Phởn có anh bạn cùng đơn vị, vì cũng thương con, xí phần giữ chỗ gái sạch nên đang lúc anh bạn này ra mặt trận, ở nhà hai gia đình làm lễ cưới chay vắng chú rể.

Tưởng con đánh trận rồi ra ngay, ai dè nó đi luôn vào cõi vĩnh hằng. Thế là có vợ mà lúc chết vẫn là trẻ con. Cô gái có chồng mà chưa được làm vợ. Lúc không thủ tiết được nữa, đi lấy chồng khác mới rắc rối. Vừa mang tiếng gái đã chồng, vừa nhì nhằng giấy hôn thú.

Gặp phải thằng chồng máu ghen, cứ khi lục đục tình cảm nó lại nhiếc là đồ hâm lại. Vợ chồng lôi ra tẩn nhau bì bụp như gõ mẹt. Mấy phen cô này định nhảy xuống ao cho nghỉm.

Phởn có nhiều thành tích thời quân ngũ. Bằng khen, huân chương treo đầy cả vách, chỗ vách ngăn tiếp giáp với buồng ngủ. So với hàng huyện cũng được coi là bậc công thần, so với dân bản là bậc đại nhân, không dễ mấy người có.

Ngày lễ kỷ niệm, Phởn gắn đầy hai ngực huân, huy chương, ngồi trên hàng ghế chủ tịch đoàn hẳn hoi. Cũng bởi thế nên khi ra quân, Phởn được ưu tiên sang ngành kiểm sát.

Đi học mấy lớp bồi dưỡng ngắn ngày thì thành viện trưởng. Quyền thế một tay trong thiên hạ, ngành này khối kẻ lợi dụng làm tiền, ăn cả hai mang, bên đơn lẫn bên bị. Chả sản xuất gì mà vẫn của chìm của nổi. Viện Phởn đã có tay mắc tật thế rồi. Phởn rất ghét bọn bán mình vì tiền.

Vợ Phỡn cần mẫn phấn đấu ở hậu phương. Nàng mắc chứng đau dạ dày kinh niên. Những cơn đau khi trở trời trái gió hành hạ, mặt lúc héo he hắt, lúc nhầu nhĩ như thịt chợ chiều, vẫn cắn răng hì hục việc xã hội. Lại được nết khéo ăn ở với các anh cấp trên, được làm chủ tịch hội phụ nữ xã kinh niên.

Kể cũng vui, thỉnh thoảng các anh lãnh đạo xã rỗi việc sang hội ngồi gãi chân, tán gẫu cho đỡ buồn, hoặc lôi đi phối hợp hoạt động xã hội với các ngành để góp phong trào, chứ ở nông thôn miền núi, buồn hiu buồn hắt.

Vợ chồng như thế, xem như môn đăng hậu đối, gia thế vững chãi, được ghi danh ở bản Kẽm. Nhưng dù sao, vợ chồng Phởn vẫn là sản phẩm của tình yêu thời chiến, bên lòng không ít ẩn ức, mộng mơ trai trẻ kìm nén sâu thẳm, nhiều lúc nó vẫn gồng lên quẫy cựa. Cho đến ngày tình cờ gặp Voan.

"Anh Phởn, đèo em về với". Ai lại gọi tên mình nhỉ? Phởn nhìn vào cái quán bên đường, chợt sững người, con bé này mọc ở đâu mà... hay. "Đằng ấy ở đâu?" - Phởn hỏi.

"Anh chả biết em rồi. Cùng dân bản Kẽm. Quan liêu quá ông anh ạ. Nhưng mà anh oai thế, biết em làm gì" - Voan cười tủm, mắt long lanh tươi lạ kỳ.

Giời ơi, con bé này sao nó hấp háy thế, có cái gì đó như ma lực lóe lên. "Đằng ấy tên gì? Tớ đi lâu quá, chả biết hết người trẻ đâu".

Voan bảo: "Ừ, biết nhiều thì khổ. Báu gì anh ơi. Em cứ hoang dã sim mua quê mình thôi. Thích thì bảo thích, thích thì làm, chẳng phải mệt mỏi tính toán. Thế là người vô dụng, anh nhỉ". Xe đạp Voan hỏng, vứt lại cho thợ sửa, cô nhảy tót lên xe Phởn.

Hàng ngày đạp kèo kẽo từ huyện về bản, thấy dường dài. Một năm cái xe đạp nhai không biết bao nhiêu đít quần. Sao hôm nay đường về bản như con rùa rụt cổ lại, ngắn quá, nhanh quá. Mà con bé này tợn, hai cái nón ngực cứ cà vào lưng Phởn, thấy gai gai nóng. Rủn người.

Chả biết do đường xóc hay... lạ nhỉ! Phởn đèo vợ nhiều nhưng chưa bao giờ có cái cảm giác rùng mình như vậy. Chỉ sợ dân bản thấy gần gũi quá lại thêm mắm thêm muối.

Đến lúc Voan chào chia tay, Phởn vẫn thấy cặp mắt ấy hấp háy như ngầm hò hẹn. "Đằng ấy về à" - Phởn lúng túng khi thấy mấy tay thợ mộc dưới xuôi cố ý đón đường để được gặp và tán nàng đôi câu, nghe rất tân cổ giao duyên.

Tối, Phởn hỏi vợ: "Cô Voan con nhà ai?" Hoa hơi nhíu mày: "Người nổi tiếng thế mà không biết à?". Phởn bảo: "Đằng ấy hay chưa. Anh có phải trưởng bản đâu".

Hoa cười: "Thì em cứ tưởng... đàn ông ai chả biết nó. Nó họ Đinh, con ông Đinh Đài. Nó vừa lấy chồng được đâu nửa tháng thì một đêm chồng nó đột tử. Xinh nhất bản đấy. Nhưng đang là đối tượng...".

Từ ngày còn bé Phởn vẫn nghe người ta bảo ông Đinh Đài là con cháu mấy đời nhà tướng quân Đinh Đẻn. Không biết thực hư thế nào nhưng cả bản, cả xã đều nói thế. Nhà ấy truyền huyết, ai cũng ăn nói có khí cả. Nhưng mà đối tượng gì nhỉ, máu Viện trưởng kiểm sát làm anh tò mò khi hỏi lại vợ điều ấy.

Hoa kể: "Hồi này thợ mộc, thợ buôn đồ cổ dưới xuôi lên bản nhiều. Họ dập dìu qua lại nhà Voan. Trong bản có mấy người kêu mất chiêng, mất điếu bát, bình vôi cổ... xã đang báo cáo công an huyện theo dõi. Người ta ngờ rằng, có thể dính dáng đến Voan".

Thì ra, tiếng sáo, tiếng đàn đêm đêm là của bọn trai tụ tập quanh nhà Voan. Bọn trai mê gái là chuyện thường, tụ tập cũng là chuyện thường. Nàng như bông hoa thơm và đẹp một cách hoang dã của rừng Tây Bắc.

Hoa thơm nào chẳng quyến rũ bướm ong. Cái cảm giác mà Phởn thấy rủn người khi Voan ngồi sau xe, khi Voan nhìn, đã đủ nao lòng chàng, huống chi bọn trai trẻ đang tuổi ăn tuổi yêu. Chúng như những con bò đực chưa thiến đang hăng máu, ngứa sừng húc văng mạng, thấy tình địch là lao vào như tên bắn.

Chúng hùng hục cơn mê, không đêm nào chịu ngủ, lượn lờ đàn sáo vì bông hoa bản Kẽm. Chỉ nhìn hiện tượng mối quan hệ sao đã coi là đối tượng?

Tính cách Voan, ánh mắt Voan, dù mới gặp lần đầu, Phởn dám chắc nàng không phải là người gian vặt. Nàng là "thích thì bảo thích..." cơ mà. Ngay các đấng mày râu thời buổi thực dụng cũng hiếm kẻ dám nói thẳng nói thật như vậy, càng có chức sắc càng phải lươn mới tiến thân.

Lại nghe tiếng sáo thổi tí toe. Mấy cậu này học sáo chuyền tay, mù nhạc đây nên tiếng phô quá. Cứ thấy sòn sòn sòn đô sòn mãi mà chưa chuyển gam rê rê rê mí đồ rê được. Sáo thế này thì bố thằng nào ngủ được. Chắc hẳn vì chuyện này người ta đổ tiếng xấu cho Voan đây.

Bất giác tay Phởn luồn vào ngực vợ. Đã nhẽo thế này từ lúc nào không biết. Đời người quả tình hao nhanh, mỏng phận. Nông thôn thì lại buồn, đèn đóm tèm nhem chả có gì giải trí, có mỗi cái ấy là tiện cây nhà lá vườn. Chắc vì thế nên ngày xưa tướng quân Đinh Đẻn đẻ nhiều chứ đâu phải đẻ để tăng quân.

Nhưng một cơn đau bụng dấm dẳn đang hành hạ Hoa. Nàng bảo: "Em đau. Mà hai con gái đã ngủ đâu, chúng còn đang học". Ừ, còn hai cái hĩm nữa, có vô tâm không nhỉ.

Phởn rụt tay lại. Chỉ càng nhớ thêm cái ánh mắt hấp háy của đứa con gái họ Đinh. Người gì mà chắc. Quả mông sấn vổng lên, căng tròn thích thế, suýt nữa thì xe đạp đổ chổng kềnh khi Voan ngồi lên gác-ba-ga.

Đổ thì xấu hổ với bọn chíp hôi, là thú nhận gân cốt dão. Phởn bất chợt tủm tỉm trong bóng tối. Hoa ngạc nhiên sờ mặt chồng như sờ vật thể lạ: "Em đau thật mà. Hôm nào khỏe thì bù".

III

Như thường ngày, Phởn lại đạp xe lên huyện. Thời gian ở nông thôn như nia bánh đúc quá hàn the, bẹt, phẳng, lì cứ thế trôi. Định bụng tiết kiệm dồn tiền, cùng lứa lợn lai, cuối năm tậu chiếc xe máy, cải thiện tình hình giao thông.

Xe máy mới hy vọng vượt được dốc Sung chứ quèo quẹo đạp xe mãi thế này thì cùn đời bô nhếch. Dù sao cũng là chân Viện trưởng ở huyện, chẳng lẽ không bằng thằng buôn chè.

Tết này có xe thì hay. Phởn sẽ lên phố tỉnh, về Hà Nội chơi, thăm thú bạn bè đồng ngũ vài ngày cho bõ. Tiện thể đưa bà xã đi tham quan phố phường, mở mang dân trí.

Tiếng là chủ tịch phụ nữ xã mà chỉ lên đến phố huyện đã sướng tỉnh tình tinh rồi. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ đi vận động đặt vòng, nuôi con gì, trồng cây gì...

Phải có bước nhảy chứ. Các cụ ngày xưa cũng là người cả nhưng biết nhảy mà thành thánh, thành thần linh. Đấy là người biết ngẫm việc đại sự, có ảnh hưởng lớn tâm thức nhân sinh, chí hướng cộng đồng. Như vậy mới rụp một cái mà hóa được. Chứ cứ nghĩ con gì cây gì mãi không ra thì tiến lên công nghiệp thế nào?

Cơn hứng trôi đi cùng vòng quay xe máy trong đầu, ra khỏi bản thì chợt Voan gọi: "Cho em đi cùng với, anh Phởn". "Đằng ấy đi đâu?" - Phởn ngạc nhiên thấy Voan đứng tựa xe đạp bên đường như đợi từ lúc nào.

Nàng mặc một áo cánh trắng có thêu viền cổ và đường khuy, cái váy đen có hoa văn ở gấu trông càng sắc nước. Voan tươi rói: "Lên huyện. May quá, đang lo đi một mình, buồn chết. Qua dốc Sung vắng vẻ lại càng ghê ghê là". "Ai bắt nạt được đằng ấy. Mà đằng ấy lên huyện chơi hay có việc?" - Phởn gặng hỏi.

"Công an mời lên đấy. Thì lên. Có gì mà phải sợ. Anh biết ai đề nghị lên trên không. Không à. Thế... người ta không tâm sự gì à?". Chỉ cần nghe Voan nói thế Phởn đã biết lời nói là ám chỉ vợ mình.

Có thể lắm. Cô ấy là cán bộ phụ nữ mà. Voan cảm thấy lỡ miệng, lảng chuyện: "Như ông anh mình đây thì cả huyện thích. Có cho đi cùng không, có sợ gì không?".

Phải nghỉ một chập ở lưng chừng dốc bên này. Đi không thì chẳng ngại, đẩy cái xe đạp ngược dốc mới mệt. Đứng từ đây thấy một vùng núi non hùng vĩ, lấp lóa sông Đà, lâng lâng quê kiểng.

Rừng mát đang nở hoa trắng xóa, những vạt hoa mát lan tỏa từ thung xanh này tới triền núi khác như những triền sóng trắng dâng cao lên ngang trời. Gió thổi lồng lộng, phóng túng, mang hơi ẩm của sông của rừng rượi mát.

Gió bất ngờ tốc ngược váy Voan. Cặp đùi trắng hồng hé lộ. Nó như thứ men rượu mê trào ra không cách gì vén lại được. Nó cũng không ngăn được cái nhìn tình cờ như tia sét, lúng túng, dâng cảm đến nghẹt thở trong ngực Phởn. Voan chụp được cái nhìn ngơ ngẩn ấy.

"Thích không?" - Voan nhìn Phởn một cách bạo dạn. Giọng Phởn nghèn nghẹn: "Đằng ấy bảo sao? Thích là thích... gì?". Voan không nói, túm ngay tay Phởn lôi vào rừng sim cách con đường dốc vài chục mét.

Bàn tay nóng rực và táo tợn ấy làm Phởn bất ngờ đến nỗi mặt nghệt ra. Lúc đầu thì run, sau như kẻ cùng đinh bỗng vớ được hũ vàng. Sự đắn đo chỉ thoáng chốc. Người đã mụ ra rồi. Cái ma lực hấp hồn như cơn bão nhiệt đới ập đến quét mọi sức ì, vật cản trên đường đi.

Phởn giờ đây như cún con lũn cũn để nàng dắt. Nàng ấn chàng xuống trong ngồn ngộn phì nhiêu. Những bụi sim, bụi mua rập rình oằn xuống trồi lên như dư chấn cơn động đất cao độ rích-te.

Rồi rừng chết lịm. Rỗng vắng. Ngu ngơ. Rồi cả hai xốc lại váy áo, đùn xe lên dốc.

Lên đến đỉnh dốc Sung trời đã quá trưa. Thở đã. Rừng khế tướng quân Đinh Đẻn đây rồi. Những chùm quả vàng lúc lỉu treo dưới nắng mọng. Nước miếng ứa ra, chịu không nổi. Đang lúc háo nước, đang cơn khát.

Ôi cái dốc huy hoàng của truyền thuyết một thời là đây. Sao các cụ khéo thế, rừng khế ở ngay trên đỉnh dốc, đúng lúc mà người ta cần nghỉ lấy sức sau chặng leo dốc hì hụi.

Chỗ nào ngày xưa mà tướng quân rèm loan trướng phượng nhỉ. "Ăn khế không?" - Voan hỏi. Chẳng chờ Phởn trả lời, nàng đu người trèo lên một cành thấp vươn tay hái quả.

Bỗng lại một cơn gió mạnh thổi ngược làm váy nàng tung lên, gấu váy mắc vào một cành cụt. Giời sao khéo ghẹo. Hay các cụ thử lòng đức hạnh con cháu.

"Đỡ em, đỡ em... tụt đây này" - Voan chới với. Nàng đơ ra, phơi lộ quần thể kiến trúc ngọc ngà. Còn chàng, mọi ngày mồm mép gang thép, lý sự trôi chảy, nào vặn vẹo nào luận tội kẻ phạm pháp, thế mà nay lóng ngóng, nín bặt. Thế mới cún chứ.

Cả cơ thể căng nẩy của Voan rơi xuống vòng tay làm Phởn khọm xuống, suýt ngã đè lên nhau. "Anh này" - nàng thì thào. "Đằng ấy bảo gì?"- Phởn hỏi.

Voan lườm một cái rõ yêu: "Sao cứ đằng ấy, đằng ấy... đổi giọng được không? Thế... còn sức không?". "Còn..."- Phởn gồng tay lên cho gân nổi.

"Thế ... thích nữa không?" - Voan nháy mắt. "Thích thì ai chả thích. Nhưng... hỏi thật nhé, tại sao em lại... Nghĩa là... có bao nhiêu trai trẻ hơn anh kia mà" - Phởn bây giờ mới định thần, muốn kiến giải cái sự kiện chưa từng ngờ trong đời lại đến nhanh, đến ào ạt như thế.

Nàng nắm tay chàng, một lần nữa kéo sâu vào rừng khế: "Ý anh là tại sao em dễ thế chứ gì. Em thích. Thích từ hôm thấy anh trong ngày lễ, trông oai lắm. Đàn ông thế mới là đàn ông.

Tính em thích thì làm... thế thôi. Không thích, các vàng cũng chả màng. Tự do là ... muôn năm, anh nhỉ". Không biết Voan học được ở đâu để có tư kiến đó, càng không ngờ tính cách mạnh mẽ của bông hoa rừng bản Kẽm.

Chuyện tình ngẫu hứng và sét đánh ở dốc Sung chưa hết. Họ như lạc vào mê cung huyền thoại, hoặc giả có ma trận mà tướng quân Đinh Đẻn đã giăng đợi từ những thế kỷ trước, họ đi gần trọn ngày mà vẫn chưa ra khỏi con dốc.

Có lẽ đây là cuộc đi bộ rùa nhất trong lịch sử. Sức mê hoặc của Voan làm Phởn quên luôn nhiệm sở. Chợt thấy tội nghiệp cho Hoa. Những đêm nằm ôm bụng nhăn, chả còn khao khát gì.

Người ta bảo đàn bà như thế là hay đố kị, khẳn tính lắm. Phiêu diêu cho tới chân dốc bên kia thì trời cũng xẩm chiều. Phởn mới nhận ra rằng, bây giờ thì chả ma nào ở cơ quan còn làm việc.

"Hết ngày mất rồi, anh có trách em không?" - Voan hỏi. Phởn bảo: "Cũng là anh nữa. Lần đầu tiên trong đời anh mới thấy mình thực sự là đàn ông. Thôi đằng nào cũng lỡ rồi. Giờ thì về chứ?".

Voan tinh nghịch: "Thế không về có được không". Phởn tròn mắt: "Điên thế. Không sợ ma à. Muỗi rừng được bữa liên hoan máu". Voan lại cười: "Người đâu mà nhát. Ngày xưa các cụ còn ở rừng cả thì sao. Em hình như nghe tiếng cụ tổ em thì thầm bên tai. Muỗi là gì, muỗi hút máu mình thì say tình mà ngất hết".

Phởn cười: "Nói cũng hay nhỉ. Chả thế bọn đàn ông chết là phải". Voan nhìn xoáy vào mắt Phởn: "Thế... có chết nữa không?". "Nhưng mà..." -

Phởn chợt nhớ câu chuyện Mai kể về cái chết của chồng Voan. Người ta bảo là do xung lực của Voan. Chẳng biết một luồng gió hay luồng khí ma trận nổi lên làm Phởn sởn da gà, miệng líu lại.

Chưa kịp trả lời thì đã nằm gọn tay trong tay, chân trong chân. Chiều phủ xuống màu huyết dụ bặt âm. Chỉ nhịp tim và tiếng thở là không thể giấu được. Ngày vỡ ngàn tia sáng xanh đỏ vàng hoa mắt...

Giả sử có ai đó kể một câu chuyện tương tự chắc chắn Phởn cho là chuyện bịa, chuyện tiếu lâm mua vui. Nhưng thực tế một câu chuyện kỳ lạ nhất trong đời đã diễn ra trên hùng vĩ dốc Sung.

IV

Hai hôm sau, trong một buổi đi làm ruộng, lũ con gái bản Kẽm ngồi nghỉ dưới gốc sồi bìa rừng, đấm lưng nhau cười ngặt nghẽo. Trong đám ấy người ta thấy có Voan.

Có ai đó bảo: "Mày chỉ bịa. Lão ấy làm thủ trưởng, đạo mạo thế, bà xã lại là cán bộ xã hẳn hoi, dám ư!". Một người khác: "Mày bảo nó... bằng ấy cơ à. Thích nhỉ... Tao ứ tin...". Lại cười rúc rích. Rúc mặt vào lưng nhau mà cười.

Câu chuyện cứ thế, mỗi người một câu, thêm mắm thêm muối. Có đứa nằm lăn ra cỏ, giãy đành đạch. Có đứa cười toàng toạc, xé nứt cả đai quần.

"Mày đáo để thật đấy Voan ạ. Đúng là gái có chồng có khác. Gấu quá! Hay mày chỉ nói cho sướng mồm" - một người chen vào. Tiếng Voan: "Chả khác gì, đàn bà đàn ông lòng dạ ai cũng thế thôi. Tao chỉ khác, cái gì sướng thì tao sướng cho đến nơi, thế thôi".

Trong đám đàn bà con gái có một người là em họ Chủ tịch huyện. Và tất nhiên câu chuyện này không thể không tới tai ông. Câu chuyện này cũng không thể không đến tai vợ Phởn.

Người bản Kẽm mấy ngày liền không thấy Hoa ra đường. Hàng xóm đồn nhà ấy đêm đêm có tiếng khóc dấm dứt như ma làm. Lại bảo, thấy Hoa nhợt nhạt, lì lầm hẳn ra, cứ cuối chiều xõa tóc đứng nhìn về hướng dốc Sung mà nấc.

Khoảng năm ngày sau, Chủ tịch huyện gọi Phởn đến: "Có đúng cậu và cô Voan... ở dốc Sung không?". Phởn im lặng một lát, rồi bảo: "Vâng. Em trót".

Chủ tịch đập bàn: "Phởn ơi là Phởn! To đầu mà dại. Thế này thì ô nhục phẩm chất cán bộ quá. Cậu biết tội hủ hóa là tội gì không?". Phởn thủng thẳng: "Vâng, em biết. Nhưng không nên gọi là hủ hóa".

Chủ tịch: "Cậu biết hả. Không gọi thế thì gọi là quan hệ bất chính hả. Trời ơi, có biết thế là bị đuổi không. Cậu đang là cán bộ nguồn...". Phởn bảo: "Vâng, thế nên em về. Em biết mình không xứng đáng với tin cậy của anh... Em cảm ơn anh".

Chủ tịch càng giận, gọi giật lại: "Cậu về? Cậu phải viết tường trình, viết kiểm điểm, hiểu chưa! Tôi hỏi lại, đúng là cậu làm thế không?". "Vâng em làm. Làm thì phải chịu, tính em nó thế, em không biết ăn vụng phải chùi mép. Thú thực, em không quen dối trá" - Phởn cứng giọng.

Chủ tịch huyện thở dài: "Sao mà ngốc thế Phởn ơi, cả sự nghiệp bỗng chốc đi tong. Người ta bây giờ họ đều khéo lắm... Còn cậu, cậu đúng là một anh lính chiến. Chiến trường chả hy sinh, mà chết vì...". "Anh ơi, đây cũng là chiến trường đấy chứ. Chiến trường dốc Sung" - Phởn cố pha trò cho không khí bớt căng.

Sự tình đã thế biết sao bây giờ. Dù sao đây là lúc cần sự dũng cảm của mình, không ai gánh thay mình được, biện minh là giả dối, giả dối ở chỗ rõ ràng là mình phục tùng mệnh lệnh của trái tim.

Người ta có thể cho là yếu đuối, là bị cám dỗ và sa ngã, rất nhiều lời quy kết xấu xa sẽ còn tiếp tục, và vì vậy Phởn đã chọn cách không được phép dối quanh.

Người ta đều nói, việc tự từ nhiệm của Phởn cũng bất ngờ và nhanh một cách lạ lùng như chuyện ở dốc Sung. Nó như một ánh chớp lóa sáng trong giây khắc đời người. Gia tài Phởn chở ở huyện về cũng chỉ một cái vali, một chiếc ba lô thời lính như một kỷ vật không thể đánh mất.

Câu chuyện dốc Sung lan nhanh lắm, lan khắp các vùng mường như nước chảy chỗ trũng. Như thể Phởn và Voan đã viết cho con dốc này một truyền thuyết mới.

Dựa vào đấy, có rất nhiều lời kể khác nhau nhưng ba trận "động đất" trên con dốc huyền thoại truyền đời này thì rất giống nhau. Có thể người ta thêm thắt tí nọ tí kia cho li kỳ.

Những thêu dệt chồng chéo, đa tầng, đan nhau, mờ chồng lên nhau như cuộc đời vẫn vậy. Lại có người bảo thấy linh hồn tướng quân Đinh Đẻn hiện về gầm rú trên đỉnh dốc rằng, đứa nào dám thay tên dốc Sung bằng cái tên "Động đất".

Câu chuyện lúc thanh lúc tục cứ thế truyền miệng người nọ sang người kia. Không chừng đồn thổi mãi sau này lại trở thành huyền thoại. Nếu các sử gia không chớp lấy thì thiệt, ngày nay không thể chối rằng không có giấy bút.

Nhưng vào thời điểm này, đường dốc Sung đã trải nhựa phẳng phiu hơn. Tại chân dốc có một quán nước. Bà chủ quán trông còn rất bắt mắt. Bà là người hay chuyện. Bà vẫn thường kể cho khách rằng cụ tổ Đinh Đẻn của mình ngày xửa ngày xưa oai phong nức tiếng.

Người ta gọi quán đó là quán Phởn - Voan. Đúng là có cái quán nước của đôi vợ chồng nọ ở đó thật. Tin thì tin không tin thì thôi!

Con gián

"Chán như con gián!" - Một câu nói yêu thích của khá nhiều người Việt Nam. Mà cũng đúng thật, đúng là con gián trông rất... chán! Bò qua, bò lại, bay lên, bay xuống, có nhiêu đó làm hoài.

Có người nhìn con gián thì thấy quá chán! Làm sao lại có những sinh vật chán đến thế trên đời này nhỉ? Còn có người nhìn con gián lại thấy quá... ngán! Khổ nỗi, con gián chả bao giờ chán những người chán nó, mà nó cũng chả ngán những người ngán nó! (Sự thật là nó rất hay có thiên hướng lại gần những người ngán nó). Vì sao? Có trời mới biết! Hình như tại vì cuộc đời của một con gián ngắn cỡ như chiều dài cái thân nó vậy, nên nó không có thời gian để chán, hay để ngán!

Con người thì khác. Chắc tại có nhiều thời gian, nên người ta hay chán. Chán con gián, chán con ruồi, rồi đến chán thằng này, chán con kia, và cuối cùng là chán đời! Mà hình như cũng giống con gián, đời không chán cái đứa chán nó, mà đời cũng chả ngán cái đứa ngán nó. Nhưng mà, tại sao người ta kêu chán đời nhỉ? Dĩ nhiên, sau mỗi từ "chán đời" là một lý do, một câu chuyện. Không lý do nào giống lý do nào, không câu chuyện nào giống câu chuyện nào, chỉ có chữ "chán đời" và "đời thật chán" là giống nhau thôi. Nhưng ở đây, xin mạn phép viết về hai loại lý do chung nhất, không cụ thể nhất và phiến diện nhất, của chuyện vì sao người ta nói ra hai chữ chán đời. Một là vì đó là câu cửa miệng của người ta, người ta thích nói thế, và hai là vì người ta... chán đời thật!

Nếu như "chán đời quá!" là một câu cửa miệng, thì không biết trong một ngày chủ nhân của câu cửa miệng này "chán cái đời" bao nhiêu lần nhỉ? Nhớ có một lần đi vào một quán cà phê, ánh đèn lờ mờ khiến người ta lờ đờ..., ngồi kế một cái bàn có hai thanh niên đang nói chuyện với nhau. Những lời nói cố tình chứ không cố ý bay vào tai bàn kế bên, đại loại là thế này...

Một trong hai người than thở: "Chán đời quá mày! Đời thật là chán!", "Sao chán? Đời thiếu gì thú vui, sao mày suốt ngày than chán đời vậy?". "Trời, thì tao nói vậy thôi! Thấy chán thì nói, thích thì nói. Mày làm gì mà nhìn tao ghê vậy, cứ như tao sắp tự tử không bằng!". Ông bạn kia khịt mũi, phì phèo thuốc lá: "Tao biết mày sẽ không tự tử. Tao chỉ thấy cái câu cửa miệng của mày hơi bị... hay thôi. Cha mẹ mày cho mày một cái đời, rồi mày lấy câu 'Chán đời!' làm cửa miệng thay cho lời cám ơn. Mày khoái trá khi mày than chán, còn người khác nghe thì thấy ngán, cha mẹ mày nghe thì thấy nản!". Nghe xong, chưa biết nghĩ gì, tự nhiên có một tiếng nói be bé ở đâu đó vọng lên: "Nếu vậy thì cái lương tâm của mày cũng chỉ lớn cỡ cái thân của tao!".

Nhìn xuống... tự nhiên thấy một cái bóng đen nho nhỏ với đôi cánh nâu bóng lưỡng, vụt mất vào bóng tối. Trời, đúng là cái đồ con gián! Nói xong thì chạy mất, không thèm chờ xem người nghe nghĩ gì! Mà chẳng hiểu cái anh chàng kia có nghe không, vì anh ta cũng cúi đầu nhìn xuống chân...

Còn những người... chán đời thật thì sao? Thì họ chán đời chứ sao! Đời thiếu gì thứ đáng chán! Mà chắc chắn những thứ đó không có gì tốt đẹp, ít nhất là trong mắt của những người bị chúng khiến cho phải thốt ra hai chữ "Chán đời!". Có một quán ăn bình dân ở Việt Nam rất ngon, đồ ăn ở đó khiến bao khách hàng chảy nước miếng, nhưng cũng làm bao anh chị... gián si mê. Thế là những người thuộc loại... ngán gián không dám bén mảng đến.

Những quán bình dân như thế, ở đâu mà chả có gián! Cũng như đời mà, lúc nào mà chả có những thứ đáng chán! Có điều, là một quán ăn đắt khách mà, nên đầy những đồ ăn ngon. Cũng như đời mà, vẫn đầy những thứ đẹp. Chỉ đáng tiếc, khi người ta nhìn thấy một con gián ở góc phòng rồi, người ta thường sẽ không còn để ý đến những đồ ăn ngon đựng trong những cái đĩa sạch ở góc phòng phía bên kia nữa! Dĩ nhiên, đó là chỉ với những người... ngán gián mà thôi!

Mà thật ra, nghĩ lại, con gián nó có đáng chán như nhiều người vẫn nghĩ không nhỉ? Hôm nọ, trên TV có một chương trình về một người sưu tập và nghiên cứu côn trùng. Ông ta sống với sâu, với gián. Đối với ông ta, thế giới của gián là cả một sự bí ẩn thú vị. Thiết nghĩ, con gián có đáng chán hay không cũng tùy vào người nhìn nó. Biết đâu tự nhiên thấy một con gián cõng bạn tình của nó trên lưng, mình lại thấy nó hết chán! Thôi, đi kiếm gián... À mà quên, bên này làm gì có gián! Chán!

Tuyệt đối bí mật

Tôi nhập ngũ năm sáu mươi sáu, được bổ sung làm lính thông tin ở đơn vị pháo cao xạ 37 ly. Đại đội tôi mới thành lập, hầu hết cán bộ, chiến sĩ quê vùng biển, to con, lành tính nhưng học ít.

Chỉ có lính "A chỉ huy" học lực khá hơn. "A chỉ huy" là tiểu đội trực thuộc Ban chỉ huy đại đội, gồm lính thông tin, trinh sát, đo xa. Anh Ngô Miên làm "A trưởng".

... Giữa đám lính nhà quê anh Miên nổi bật hẳn lên. Anh kể chuyện có duyên, hát hay, đàn giỏi, lại biết sáng tác thơ: "Trận địa anh ở trái tim em, như đốm lửa giữa đêm đông lạnh giá". Ôi, người đâu mà đa tài! Có cô gái trẻ xúc động khóc rưng rức khi anh Miên ngước mắt đắm đuối biểu cảm ý thơ.

Tan buổi văn nghệ các cô gái vẫn chưa muốn về, xúm quanh anh Miên đòi chép thơ, xin ghi địa chỉ...

Chính trị viên tên Tói vào bộ đội đệm "Hùng" thành Vũ Hùng Tói. Anh Miên đùa: "Hùng Tói nghe dơ bỏ mẹ". Anh Tói cáu: "Lũ nhiều chữ thằng nào cũng đểu".

Ngô Miên tính hay giễu cợt. Chính trị viên Tói thường là đối tượng châm chọc của anh. Kể cũng tội, anh Tói mới thoát nạn mù chữ nhờ bình dân học vụ. Trước khi nhập ngũ anh là cán bộ chủ chốt ở xã...

Đang giờ báo động cấp một, đơn vị ở vị trí sẵn sàng chiến đấu. Chính trị viên đứng cạnh đại đội trưởng làm nhiệm vụ động viên tinh thần chiến sĩ: "Máy bay Mỹ như con chó thiến! Các đồng chí hãy dũng cảm nhằm thẳng quân thù mà bắn! Ngày hòa bình chúng ta sẽ có bát cơm đầy, khúc cá to".

Anh Miên cười cười bảo: "Chính trị của anh Tói toàn thấy cá". Anh Tói tức lắm nhưng phải làm thinh...

Rồi trung đoàn nhận lệnh vào khu Bốn bảo vệ tuyến giao thông chiến lược đi chiến trường "Bê". Đại đội tôi đặt pháo trên ngọn đồi cao, bảo vệ ngã ba Thình Thình và đoạn đường ngầm gần đó. Ban ngày chúng tôi bắn máy bay bổ nhào ném bom.

Ban đêm từng đoàn xe vận tải quân sự bật đèn ngầm, rì rì nối đuôi nhau vào tuyến trong. Tiếng các cô gái thanh niên xung phong xi nhan dẫn đường xe lanh lảnh hòa lẫn tiếng còi, tiếng cười đùa, ca hát..., rộn rịp thâu đêm.

Thỉnh thoảng, một tốp máy bay Mỹ ập tới thả pháo sáng soi tìm mục tiêu rồi bắn rốc két, rải bom bi, bom phá..., lửa khói ngút trời, đất đá, mảnh bom bay ào ào khắp trận địa. Theo lệnh đại đội trưởng Trần Thịnh, sáu khẩu pháo chia làm hai hướng phương vị tung lên trời hai màn đạn đan nhau đỏ lừ, xua đuổi máy bay địch.

Những buổi trưa yên tĩnh, các cô gái ở đơn vị thanh niên xung phong vào trận địa pháo chơi, nhận đồng hương, tâm sự với lính pháo. Như cá gặp nước, em, anh ríu rít, tươi mặt, mát lòng. Có một cô trạc tuổi tôi, thường chuyện trò với anh Miên, gọi bọn tôi là bạn.

Anh Miên giới thiệu: "Hà, đồng thương thủ đô ngàn năm văn hiến". Hà cười e lệ: "Mình ở Ngọc Hà". Anh Miên bảo: "Gái Ngọc Hà như hoa buổi sáng. Xinh nổi tiếng đó". Mà Hà xinh tươi, duyên dáng thật, nhất là đôi mắt đen láy dưới hàng mi cong dài, thoáng nhìn tôi đã bồi hồi.

Mỗi lần Hà đến chơi lính "A chỉ huy" cứ như ông cụ non, nói năng chững chạc, đi đứng đàng hoàng. Anh Miên thường nhờ Hà vá quần áo rách cho toàn tiểu đội. Anh còn vẽ mẫu hoa, bướm vào gối, vào khăn tay để Hà ngồi thêu.

Hết vá may lại đến chép bài hát, chép thơ. Hà bảo: "Em thích bài hát tình cảm". Anh Miên hát một đoạn "Chiều thanh vắng là đây, êm đềm gió rì rào". "Hay quá! Chép cho em đi!". Hà đưa cho anh Miên cuốn sổ nhỏ.

Anh Miên mở coi: "Thơ tình Xuân Diệu nữa cơ à? Thế em có thích thơ tình của anh không?" Anh Miên hắng giọng đọc khẽ: "Em mông lung trong sự duyên dáng và ảo ảnh. Bỏ mặc con tim anh bơ vơ giữa vũ trụ, cô đơn".

Hà bảo: "Thơ anh hay nhưng mà khó hiểu". Anh Miên thở dài: "Mọi cái đẹp đều khó hiểu". Lúc anh Miên tiễn Hà xuống chân đồi cả tiểu đội đều nhìn theo.

Những đêm trăng đẹp, máy bay địch ít hoạt động, các cô gái thanh niên xung phong thường ra bờ đập tắm, cười đùa ríu rít. Một cô cất tiếng hò điệu Thanh trêu lính pháo: "Ơ hò... nghe anh giọng cuốc, giọng cò. Trăng thanh gió mát xin hò cùng em".

Trong lúc đám pháo thủ còn đang lúng túng chưa nghĩ ra lời hò đáp, anh Miên đã cất giọng cao vút: "Ơ hò... Em về thưa với mẹ thầy, anh mà hò đáp em say quên về". Trả lời: "Ơ hò... Con cuốc đậu ở bờ tre, gào thêm khản cổ, ai nghe cuốc nào?"...

Những cuộc hò đối diễn ra vui vẻ hàng giờ, vang vọng vùng đồi núi mênh mông. Cũng có lúc hai bên hò những câu rất chi tình cảm. Hỏi: "Gió đưa cành trúc lao xao, vườn hồng đã có ai vào hay chưa?". Đáp: "Vườn hồng đón nắng, đợi mưa. Cỏ chen kín lối nên chưa ai vào".

Chính trị viên Tói bảo: "Bộ đội cách mạng hò phải có lập trường". Anh Miên bảo: "Anh cho tôi xin câu hò lập trường". Anh Tói cáu: "Thơ đồng chí... in báo đó!". Anh Miên cười hà hà: "Trời tối thế này sao đọc được báo!".

Rồi tiếng kẻng báo động vang lên, tất cả về vị trí chiến đấu. A trưởng Ngô Miên trực tiếp cầm máy điện thoại rành rọt truyền lệnh của trung đoàn: "Có đoàn xe vận tải sắp tới đường ngầm.

Nếu địch thả pháo sáng phải bắn phá hủy kịp thời". Đại đội trưởng Trần Thịnh ra khẩu lệnh: "Hướng 34! Tầm bắn hai mươi lăm...". Chính trị viên Tói động viên: "Các đồng chí hãy bình tĩnh dũng cảm! Chết một đống hơn sống một người" (!) Trận địa pháo của chúng tôi lại tung lên trời những màn đạn đỏ lừ. Bom nổ ở ngã ba Thình Thình. Tiếng các cô gái lanh lảnh gọi nhau san lấp hố bom...

Cuộc sống chiến đấu cứ thế trôi đi, lúc tươi vui, lúc căng thẳng. Quanh trận địa nham nhở hố bom.

Một đêm tôi vừa giao xong ca trực máy, đang lơ mơ ngủ chợt có người kéo chân gọi:

- Lấy khẩu AK, gặp chính trị viên đi làm nhiệm vụ ngay!

Tôi lồm cồm ra khỏi hầm ngủ. Chính trị viên Tói cùng với cậu Thọ liên lạc đại đội, đang chờ tôi. Chính trị viên thì thầm phổ biến nhiệm vụ:

- Các đồng chí là cảm tình, nòng cốt của đơn vị, tôi rất tin tưởng. Đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh.

Tôi bỗng cảm thấy hồi hộp. Đi bắt biệt kích chăng? Nhưng tại sao cấp trên lại chọn tôi, một anh lính thông tin xuất thân học trò, chưa bắn súng bộ binh bao giờ?

Chúng tôi đi vòng xuống chân đồi, băng qua bờ đập, sang khu đồi thấp bên cạnh. Thọ liên lạc tay chống gậy đi trước dẫn đường. Chính trị viên Tói đi giữa. Tôi khoác súng đi khóa đuôi.

Trời về khuya, sương lởn vởn trên những lùm cây rậm. Tiếng động cơ máy bay ì ầm, một chùm pháo sáng bung ra phía ngã ba Đồng Lộc.

Chính trị viên Tói làm hiệu bảo tôi dừng lại: "Tuyệt đối bí mật! Không gây tiếng động". Chúng tôi cúi lom khom dưới tầm ngọm sim, mua. Tim tôi đập liên hồi kỳ trận. Có tiếng người thì thầm phía trước, tiếng cành cây khô gẫy răng rắc.

Chính trị viên Tói kéo hai đứa tôi nằm áp xuống mặt đất. Tôi nghe rõ tiếng cô gái hổn hển: "Anh ơi, em sợ lắm!". Tiếng người con trai: "Anh yêu em mà, Hà ơi!". Thôi chết rồi, đúng là anh Miên với Hà. Tại sao anh dám làm chuyện đó nhỉ? Lòng tôi như tan vỡ, chân tay bủn rủn, hoảng hốt nghĩ đến lúc phải làm nhân chứng về một cuộc tình vụng trộm.

Chính trị viên khẽ nhoài người lên phía trước, tay nhăm nhăm chiếc đèn pin. Dưới ánh pháo sáng nhờn nhợt, run rẩy từ phía Đồng Lộc tới, tôi nhìn thấy một vật thể trăng trắng bập bềnh sau bụi cây thấp.

Người con gái rên lên khe khẽ. Toàn thân tôi nóng ran, tim tôi đập loạn, tưởng như ngột thở. Chính trị viên Tói nằm cạnh tôi, dang tay quờ quạng, giần giật như lên cơn động kinh.

Thọ liên lạc đã nằm lùi lại phía sau, chắc đang bị xỉu. Không gian đột nhiên như đông cứng. Chiếc pháo sáng cuối cùng phía Đồng Lộc đã tắt, bóng đêm đen đặc. Chính trị viên lấy lại can đảm, đứng bật dậy, chiếu thẳng đèn pin về phía trước, quát:

- Nằm im! Chạy tôi bắn!

Mặc dù đèn pin đã bị vải dù phòng không bịt bớt ánh sáng tôi vẫn nhìn thấy cảnh tượng trước đó chưa bao giờ thấy. Tôi gắng đứng thẳng nhưng chân muốn khuỵu xuống. Đôi trai gái rú lên như bị sét đánh, té chạy thục mạng.

- Đứng lại!

Chính trị viên Tói giằng khẩu AK trong tay tôi - Tôi không nhớ lúc ấy mình nghĩ gì, nhưng tôi cố giữ chặt súng, chân duỗi mạnh về phía trước làm anh Tói ngã bổ chửng.

Tôi quay ngoắt người bỏ chạy, mặc cành cây, gai nhọn quất vào mặt, vào quần áo. Tôi quên cả lối về trận địa, ngã chúi người giữa đám mây dại trên triền đồi.

Ngày hôm sau anh Miên không hóm hỉnh trò chuyện như mọi ngày. Anh liếc nhìn tôi bằng cặp mắt vừa ân hận, vừa biết ơn.

Cũng từ buổi đó Hà không vào trận địa chơi nữa.

Mấy ngày sau tôi nhận quyết định điều động đi làm cán bộ khung ở đơn vị mới thành lập.

° ° °

...Thấm thoắt mấy chục năm trôi qua. Theo bạn bè kể lại, anh Tói và anh Miên đều không còn nữa. Anh Tói hy sinh dũng cảm ở Quảng Bình. Anh Miên ngã xuống ngay cửa ngõ Sài Gòn đầu năm 1975.

Mỗi lần nhớ lại chuyện cũ, tôi lại bùi ngùi. Tôi thương anh Tói, thương cả anh Miên. Họ đều là những người bạn chiến đấu thân thiết của tôi, dẫu rằng họ rất khác nhau.

Đoạn kết của câu chuyện cổ tích

Chiếc bàn gỗ bào nham nhở nên những người chơi bài Uýxt chốc chốc lại phải khó khăn lắm mới thu bài về phía mình qua măt bàn gồ ghề. Họ mặc độc có áo lót mà mồ hôi vẫn lấm tâm trên mặt, trong khi đó chân lại đi giầy da và nịt tất len cồng kềnh đến thế vẫn thấy lạnh. Nhiệt độ trong căn phòng nhỏ giữa mặt sàn nhà và phía trên bàn cách nhau khoảng hơn 1m mà đã chênh lệch ghê gớm. Bếp lò I-u-côn bằng sắt lửa đỏ rực vậy mà cách đó có vài mét, thịt để ở dưới thấp, trên cái giá cạnh cửa ra vào, lại đóng cứng. Ván bài Uýxt này rất quan trọng, vì cặp nào cũng thua, sẽ phải đi đào 1 lỗ câu cá qua lớp băng và tuyết dày hàng trên 3m phủ lấp mặt sông I-u-côn. -Tháng 3 lạnh đến khủng khiếp - người đang chia bài nhận xét - Cậu nói là lạnh đến bao nhiêu độ Bốp? -à, 55 hay 60 độ dưới 0 gì đó. Thế theo ông, lạnh độ bao nhiêu độ, bác sĩ? Bác sĩ quay đầu liếc nhìn vào chân cửa ra vào, đắn đo, tính toán: -Dưới 50 độ 1 tý. Có lẽ khoảng 40 độ dưới 0. Cứ trông băng đóng ở cửa thì biết. Cũng đến 50 độ dưới 0 chứ còn gì. Ông ta cầm bài lên, rồi mặc cho có tiếng gõ cửa, tay xáo bài, miệng nói với: -Xin mời vào. Người mới vào là 1 người Thuỵ Điển to lớn, vai rộng, tuy thế cũng không dễ gì mà nhận ra được ngay cho đến lúc anh ta bỏ mũ che tai và hơ cho tan lớp băng che kín cả râu và mặt. -Tôi nghe nói có 1 bác sĩ dừng chân tại trạm này. - Người Thuỵ Điển nói như dò hỏi, băng khoăn nhìn hết người này đến người kia. Bộ mặt ông ta trông mệt mỏi do 1 cơn đau dữ dội, dai dẳng hành hạ - tôi từ xa đến mà. -Tôi đây, có vấn đề gì thế? Để trả lời, người đó giơ bàn tay trái lên, ngón tay thứ 2 bị sưng vù, miệng kể lải nhải về nguyên nhân và sự phát triển của vết thương. -Đưa tôi xem nào - bác sĩ vội vã ngắt lời anh ta - Để tay lên bàn. Được rồi. Người đó làm theo. -Hừm - bác sĩ lẩm bẩm. Bị bong gân rồi, vậy là đi hàng trăm dặm đường đến đây để nắn gân bả. Tôi chỉ làm trong nháy mắt là được. Anh hãy xem tôi làm để lần sau có thể tự làm lấy nhé. Bất thình lình, bác sĩ lấy cạnh bàn tay của mình chém mạnh xuống ngón tay bị sưng. Người kia kêu lên đau đớn. -ổn rồi - bác sĩ nói rành rọt và dứt khoát - Anh cảm thấy thế nào? Dễ chịu hơn chứ? Dĩ nhiên lần sau anh có thể tự làm được. Nào chia bài tiếp đi, Xtơ-ro-dơ, đến lượt cậu mà. Người Thuỵ Điển thở dài khoan khoái. Cơn đau đã hết, ngón tay cảm thấy dễ chịu hơn. Anh ta tò mò xem xét lại ngón tay, trợn tròn mắt kinh ngạc khi thấy nó co duỗi được. Anh ta thọc tay vào túi và rút ra 1 túi tiền vàng. -Bao nhiêu, bác sĩ? Bác sĩ lắc đầu quầy quậy: -Có gì đâu. Tôi còn hành nghề nữa đâu. Nào, đến lượt cậu đi, Bốp! Người Thuỵ Điển lê bước chân nặng nề, xem lại ngón tay, rồi quay nhìn bác sĩ 1 cách thán phục: -Ông tốt bụng quá. Thưa, tên ông là gì ạ? -Lin-đê, bác sĩ Lin-đê - Xtơ-ro-dơ trả lời như muốn cho đấu thủ của mình không bị quấy rầy. -Đã quá trưa rồi - Lin-đê miệng nói với người Thuỵ Điển, tay vẫn xáo bài - Tốt hơn nên nghĩ ở đây qua đêm. Đi ngoài trời bây giờ lạnh chết được. Có 1 cái giường thừa đấy. Bác sĩ dáng người mảnh khảnh, nước da ngăm đen, mặt dầy, môi mỏng, nhưng trông ông ta khoẻ mạnh. Bộ mặt nhẵn nhụi râu khoẻ mạnh. Các động tác của ông ta nhanh và dứt khoát. Cặp mắt đen nhìn thẳng và xoi mói. 2 bàn tay thon thả, gầy và nổi gân, cứ như những bàn tay ấy sinh ra chỉ để làm những việc nhẹ, song đồng thời chúng cũng gây cho ta ấn tượng và sức mạnh. -Ván bài quyết định ở chỗ này đây - ông ta tuyên bố rồi rút quân bài cuối cùng - Nào, kết thúc đi xem ai phải đào hố nào. Tiếng gõ cửa làm cho ông ta bật kêu lên liền: -Chúng mình đến không chơi xong ván bài này mất - ông phàn nàn khi cửa mở - Làm sao thế? - ông nói câu đó với người lạ mặt vừa mới bước vào. Người mời đến đứng gỡ những mảnh băng che kín hàm mãi không xong. Rõ ràng anh ta phải rong ruổi hàng bao ngày đường. Lớp da trên gò má thâm tím lại vì giá buốt thường xuyên. -Tôi không sao cả. Quan trọng là ở đây có ai là bác sĩ không, tôi đang rất cần. Có 1 người qua thượng nguồn con sông Pê-cô nhỏ bị báo về, vết thương rất nghiêm trọng. -Độ bao xa? - bác sĩ Lin-đê hỏi. -Độ khoảng 300 cây số. -Đi mất độ mấy ngày? -Tôi xuống đây mất 3 ngày. -Bị thương có nặng không? -Bị trật khớp xương vai. Dứt khoát phải gẫy vài cái xương sườn. Cánh tay phải bị gẫy. Toàn thân hầu như bị thương trơ cả xương. Trừ có mặt là không. Chúng tôi có khâu tạm vài vết thương bị nặng và lấy sợi xe buộc mạch máu. -Thế là tạm ổn - Lin-đê cười - Những vết thương đó ở đâu? -ở dạ dày. -Chắc bây giờ trông anh ta gớm guốc lắm nhỉ? -Không đến nỗi thế. Trước khi khám, chúng tôi bôi thuốc sát trùng. Dẫu sao đấy cũng chỉ là tạm thời, không có gì cả trừ có sợi xe, nhưng cũng sạch. -Thế cũng coi như là toi rồi - Lin-đê phán đoán, bực tức búng những quân bài. -Chưa chết hẳn. Anh ta chưa chết thật mà. Anh ta biết là tôi đi mời bác sĩ, thế nào anh ta cũng cố sống cho đến khi ông đến đấy. Anh ta không chịu bó tay trước cái chết đâu. Tôi biết anh ta mà. Lin-đê lắc đầu: -Thật tiếc chuyến đi của anh uổng công. Thôi cứ ở lại đây qua đêm. -Không được bác sĩ ạ. 10' nữa chúng ta phải rời khỏi đây. Sau đó Tòm Đô kể 1 câu chuyện quan trọng: -Giả sử ông có phải mất hàng tuần để quyết định: anh là vẫn cứ phải sống để chờ ông đến. Vả lại vợ anh ta ở bên, không than khóc 1 lời, ngược lại, chị ta phải giúp anh ta sống chờ ông đến. Họ rất yêu nhau nên chị ta đã truyền tất cả tâm hồn bất tử của mình sang anh ta, mong anh ta sống. Anh ta không yếu lắm đâu, ông hãy tin vào điều đó. Tôi xin đánh cuộc với ông, 3 ăn 1 bằng tiền vàng đây, rằng ông đến mà anh ta vẫn sống đấy. Tôi có 1 đàn chó ở dưới bờ sông kia. 10' nữa chúng ta khởi hành, và chúng ta phải trở về sớm hơn 3 ngày vì đường sẽ khó đi. Tôi xuống xem lũ chó thế nào, độ mươi phút ưữa tôi sẽ quay lại đón ông. Tòm Đô kéo sụp mũ che tai xuống, xỏ găng tay vào và đi ra ngoài. -Rõ quỷ tha ma bắt! - Lin-đê kêu lên, nhìn giận dữ vào chiếc cửa đã đóng lại. Đêm hôm đó, sau khi đi được tròn 60 cây số thì trời đã sẫm mặt người, nên Lin-đê và Tòm Đô đóng trại. Công việc thật đơn giản: nhóm 1 đống lửa trên tuyết, bên cạnh đó làm 1 cái giường 1 bằng những cành cây trên trải những tấm lông thú. Đô cho chó ăn, chẻ củi, còn Lin-đê ngồi chồm chỗm nấu ăn, 2 má nóng ran vì giá lạnh. Họ ăn no, hút tẩu rồi lăn ra ngủ như chết vì mệt mỏi. Sáng ra trời trở nên lạnh khác thường. Lin-đê dự đoán phải đến 50 độ dưới 0 và nhiệt độ còn đang lạnh nữa. Đô lo lắng. Anh ta giải thích rằng ngày hôm đó sẽ đến được khe núi, mà bây giờ lại đến mùa xuân rồi, băng tang, nước sẽ trào đầy khe núi. Vách núi ở đó lại cao cheo leo hàng trăm, hàng nghìn mét như thế, dẫu có thể trèo qua được, cuộc hành trình sẽ bị chậm lại. Từ xa vọng lại tiếng gầm yếu ớt. Đến gần họ mới biết nguyên nhân của nó. 1 cơn gió, mạnh và ẩm mỗi lúc 1 thổi mạnh, lùa qua họ. Đàn chó rùng mình, ngồi hếch mũi lên. -Đó là cơn gió Chi-núc đấy - Đô nói. -Có nghĩa là chúng ta phải đi dọc con sông phải không? -Đúng thế. Đi hàng chục cây số trên con đường đó còn dễ dàng hơn đi 1 cây số qua đỉnh núi này - Đô nhìn Lin-đê 1 lúc lâu - Chúng ta vừa đi được 15 tiếng đồng hồ trên con đường mòn - anh ta nói át tiếng gió rít, rồi dừng lại đợi - Bác sĩ ơi! - cuối cùng anh ta nói - Ông không sợ chứ? Lin-đê đáp lại bằng cách gõ chiếc tẩu thuốc cho râu rơi ra và đi đôi giày da thú ấm vào. Họ nhanh chóng nhổ trại, rồi buộc dụng cụ nấu nướng cùng những tấm chăn lông thú chưa dùng đến vào chiếc xe trượt tuyết, sau đó băng qua đêm tối, họ bắt đầu cuộc hành trình. Họ lặn lội đã được 12 tiếng, nên sau khi đi được cả thảy là 27 tiếng đồng hồ, 2 người dừng lại ăn sáng. -Ta hãy ngủ độ 1 tiếng - Đô nói lúc 2 người ăn ngấu nghiến hàng cân thịt nai rán và thịt lớn muối. Đô để cho người bạn đồng hành của mình ngủ 2 tiếng đồng hồ, cứ thấp thỏm sợ mình lại chợp mắt mất. Sau đó anh ta đặt tay lên vai Lin-đê lay, mới đầu còn nhè nhẹ, sau thật mạnh. -Bác sĩ - anh ta thì thầm - Nào đây, ta đi tiếp thôi. Đôi mắt đen mêt mỏi, dưới cặp mi nặng hùm hụp, trả lời tiếng "được". Thế là nó lại lên đường tiếp... Cuộc hành trình bị chậm, 1h không đi quá 3 cây số, còn đàn chó cứ có dịp lại nằm dài trên tuyết ướt. -Còn độ trên 30 cây số nữa là chúng ta sẽ đến trạm - Đô động viên. Nhưng băng mỗi lúc 1 trở nên khó đi hơn, tách khỏi bờ và dâng lên từng phân 1. Con sông Pê-cô nhỏ gầm thét. Đến giữa trưa, họ nhận ra những dấu hiệu đầu tiên của mùa đông đang kết thúc. Những tảng băng cuồn cuộn trôi trên dòng nước chảy xiết. -Vậy là trơi đã tan giá, ấm lển ồi đấy - Đô giải thích. Đến chỗ này khe núi hẹp vô cùng, vách núi cheo leo, rất nguy hiểm, vậy mà Đô và Lin-đê vẫn phải đi tiếp, mãi đến khi điều rủi ro xảy ra. Đến trưa 1 tiếng nổ to vang lên, băng tách làm đôi ra ngay dưới chân đàn chó. 2 con chó đi giữa bị rơi xuống nước dưới băng, dòng nước chảy xiết cản chúng nên kéo giật lùi con chó đi đầu lại. 3 con bị kéo mấp mé đến chỗ 2 con kia. 2 người hoàng sợ cố giữ chiếc xe trượt tuyết, nhưng sau cũng từ từ bị lôi theo. Sự việc xảy ra trong nháy mắt, Đô lấy dao cắt ngay dây buộc đàn chó, thế là cả mấy con chó lộn nhào từ mép băng xuống nước, chìm nghỉm. Thịt và chăng lông thú được gói lại thành từng gói, còn chiếc xe trượt tuyết đành phải bỏ lại. Lin-đê không đồng ý để Đô mang gói nặng, nhưng anh ta cứ khăng khăng đòi mang. -Đến đó bác sĩ còn phải làm việc mà. Thôi, ta đi tiếp thôi. -Anh là người sắt đá lắm, Đô ạ - ông tỏ ra thán phục. -Ai cơ? Tôi ấy à? Chao ôi! Ông phải gặp Róc-ki mới thấy ai sắt đá. Anh ta là người rắn như sắt, vững như đồng. Sau đó Lin-đê được nghe kể lại chuyện Róc-ki bị thương: -Tôi ở trong rừng, cách túp lều đó trên 1 cây số, tìm 1 khúc gỗ bu-lô để làm cán rìu. Lúc quay về tôi nghe thấy tiếng gầm vang lên gần chỗ bẫy gấu của chúng tôi. Anh em nhà Róc-ki đang đùa nghịch. Ông thấy không, bọn họ ngốc đến thế, ai lại chơi đùa ở đó cơ chứ? Họ bẫy được 1 con báo to. Tôi ra khỏi rừng bắt gặp đúng lúc Ha-ri, em của Róc-ki đang đánh con thú. Sau đó anh ta chặc cái gậy chọc ngắn bớt đi, rồi dưa cho Róc-ki. Cái gậy trông ngắn ngủn. Đánh con thú đó đâu phải dễ. Con báo nhảy lùi lại, cúi khom người phun phì phì, và lúc nó cúi đầu tránh cái gậy mới tuyệt chứ! Mà lúc nó nhảy chồm lên thì đến khiếp. Thật là 1 trò chơi liều mạng, cái gậy mỗi lúc 1 ngắn đi, còn con báo mỗi lúc 1 điên cuồng hơn. Chẳng mấy chốc cái gậy không còn dài là mấy, chỉ còn độ vài phân, bấy giờ đến lượt Róc-ki. "Thôi đi, Róc-ki" - Ha-ri nói. "Để làm gì?" - Róc-ki hỏi. "Vì anh mà đánh nó tiếp, rồi còn lấy gậy đâu cho em nữa" - Ha-ri trả lời. "Thế là anh thắng nhé" - Róc-ki vừa cười vừa tiến lại. Cứ nghĩ đến cái cảnh ấy, tôi lại không bao giờ muốn chứng kiến lần thứ 2. Con vật khom người, mà chiếc gậy của Róc-ki chỉ còn có vài phân. Nó đớp được anh ta. Người và thú, 2 bên vật lộn với nhau, không sao bắn được. Cuối cùng, chính Ha-ri đã đâm trúng cổ con báo. -Tôi mà biết anh ta bị thương vì chuyện đó, tôi sẽ không đến đâu - Lin-đê nói. Đô gật đầu tán thành. 3 ngày sau, 2 người đến được túp lều dựng lọt thỏm bên cạnh con sông Pê-cô nhỏ bé đang gầm thét. Đang ở bên ngoài nắng rực rỡ, vào trong lều tối om, nên Lin-đê chẳng nhìn thấy ai cả, ngoài 2 người đàn ông và 1 người đàn bà. Nhưng ông ta không chú ý đến họ, mà đi thẳng đến chỗ cái giường có người bị thương nằm. Anh ta nằm ngửa, mắt nhắm, và Lin-đê nhìn thấy cặp lông mày thanh đẹp và bộ tóc nâu quăn. Bộ mặt gầy, nhợt nhạt dường như quá nhỏ so với cái cổ vạm vỡ, song những nét thanh tú được khắc lên nổi bật hơn cả. -Dùng loại băng gì thế? - Lin-đê hỏi người đàn bà. -Loại dung dịch thuỷ ngân clo-rua thông thường - có tiếng đáp lại. Ông liếc nhanh người đàn bà đang đứng thở mạnh, phóng mắt nhìn vào mặt người bị thương, rồi đứng thẳng người, quay lại phái những người đàn ông: -Các anh đi ra, chặt củi hay làm cái gì đó. Đi ra đi. 1 người trong bọn họ do dự: -Đây là 1 trường hợp nghiêm trọng - Lin-đê nói tiếp - Tôi muốn nói với vợ anh ta. -Tôi là em anh ấy - người kia nói. Người đàn bà đang nhìn người kia với cặp mắt cầu khẩn. Anh ta gật đầu 1 cách miễn cưỡng và quay đi ra cửa. -Cả tôi nữa à? - Đô ngồi ở trên ghế băng, hỏi. -Cả anh nữa. Lin-đê tỏ ra tất bật khám qua quít cho bệnh nhân trong túp lều vắng tanh. -Ra vậy? - ông ta hỏi - Vậy đó là Rếch Xtơ-reng của cô! Chị kia cụp mắt xuống nhìn người nằm trên giường như để xem có đúng anh ta không, rồi quay nhìn chăm chăm vào Lin-đê, không nói nửa lời. -Sao cô không trả lời? Chị ta nhún vai: -Có ích gì? Anh biết đó chính là Rếch Xtơ-reng rồi còn gì. -Cảm ơn. Dẫu sao tôi cũng lưu ý cô rằng đây là lần đầu tiên tôi gặp anh ta. Xin mời ngồi xuống nào - ông vẫy tay cho chị ngồi vào chiếc ghế đẩu, còn mình ngồi trên ghế băng - Cô biết không, tôi mệt rũ người ra đây này. Từ sông I-u-côn đến đây, chẳng có 1 đoạn đường cái nào cả. -Anh định làm gì bây giờ? - chị đợi 1 lát rồi cất tiếng hỏi. -Ăn cơm xong, rồi nghỉ ngơi trước khi quay trở về. -Anh định làm gì với... - chị hất đầu về phía người nằm mê man kia. -Không định làm gì cả. Chị tiến lại giường và lấy ngón tay vuốt nhẹ lên mái tóc xoăn xoăn. -Anh định nói là anh muốn giết anh ấy à? - chị nói chậm rãi - Anh sẽ giết anh ấy bằng cách không chữa cho anh ấy, trong khi anh có khả năng cứu được anh ấy phải không? -Cứ hiểu là như vậy - ông nghĩ 1 lát rồi cười 1 cách tàn nhẫn - Từ ngàn xưa trong cái thế giới già cỗi này phong tục tiêu diệt những kẻ đi cướp vợ của người khác đâu có gì là khác thường. -Anh không cao thượng chút nào, Gơ-răng ạ - chị trả lời dịu dàng - Anh quên rằng em tự ý làm việc đó và em khao khát làm như thế sao? Không đời nào Rếch lại đi cướp em, mà chính anh đã để mất em. Em đi theo anh ấy 1 cách tự nguyện và thiết tha, lòng tràn đầy niềm sung sướng. Chắc có lẽ anh sẽ kết án cả em đã cướp anh ấy. Em và anh ấy hợp tính nhau. -Quan điểm hay đấy - Lin-đê công nhận - Tôi luôn hiểu cô là người có tầm suy nghĩ sắc sảo, Mét-giơ ạ. Chắc điều ấy cũng làm cho cậu ta bực mình lắm. -1 ngươi có đầu óc sắc sảo có thể là 1 người yêu tốt... -Và không đến nỗi ngu xuẩn như vậy - ông ngắt lời. -Vậy anh công nhận sự khôn ngoan trong việc xử sự đó của em chứ? Ông giơ cả 2 tay lên: -Rõ quái gở, ai lại đi nói chuyện với đàn bà khôn ngoan cơ chứ! Bản chất của đàn ông là dễ quên và bị mắc bẫy. Câu trả lời của chị thể hiện trong cặp mắt xanh nhìn thẳng pha chút mỉm cười. -Không, tôi sẽ giành lại cái đó, Mét-giơ ạ. Có rồ như cô mới đi chinh phục hắn hay bất cứ kẻ nào khác bằng dung nhan và vóc dáng của cô mà tôi đã quen. Tôi đã trải qua những thử thách gay go đó, mà rõ khỉ, đến giờ tôi vẫn chưa vượt qua nổi. Ông nói nhanh, bực dọc và cáu kỉnh, thành cái tính rồi, nhưng chị biết những lời nói đó bao giờ cũng thẳng thắn. Sau đó chị hỏi: -Anh còn nhớ kỷ niệm ở hồ Giơ-ne-vơ không? -Nhớ chứ, lúc đó chúng mình vui sướng đến là vô lý. Chị gật đầu, đôi mắt long lanh: -Vẫn có những kỷ niệm xa xưa như thế đấy, Gơ-răng ạ. Mong anh hãy nhớ lại, 1 chút, ôi 1 tý thôi, về những gì chúng ta dành cho nhau lúc đó, anh đồng ý không? -Giờ đây cô đang lợi dụng đấy - ông mỉm cười, lấy tay rút cái gai ở ngón tay ra, xem xét kỹ 1 cách phán xét rồi kết luận - Không được, cảm ơn cô. Tôi không thể đóng vai người theo đạo Cơ đốc tốt bụng đâu. -Anh đã lặn lội đến đây vì 1 người không quen biết - chị nói. Ông tỏ ra khó chịu: -Cô nghĩ tôi mà biết hắn là người yêu của vợ tôi, tôi sẽ đisao? -Dẫu sao bây giờ anh đã đến đây rồi. Mà anh ấy thì nằm kia. Anh sẽ xử lý sao đây? -Chẳng làm gì cả. Tại sao tôi lại phải làm gì nhỉ? Tôi có phải là người hầu kẻ hạ của hắn đâu. Hắn là đồ ăn cướp! Chị định nói thì có tiếng gõ cửa. -Đi ra - ông kêu lên. -Ông có muốn giúp gì không ạ...? -Cút, đi đi! Đi lấy 1 thùng nước! Để ở bên ngoài ấy! -Anh định...? - chị bắt đầu run. -Định tắm! Chị chùn lại trước sự tàn bạo đó, môi mím chặt. -Nghe đây, anh Gơ-răng - chị bình tĩnh nói - Em sẽ gọi em trai anh ấy. Em biết những con người có dòng giống xa lạ đó. Nếu anh có thể quên những kỷ niệm cũ, vậy em cũng có thể quên được. Nếu anh không làm điều gì để chữa chạy, em anh ấy sẽ giết anh. Thậm chí em mà yêu cầu, cả Tom Đô cũng sẽ giết anh. -Đừng doạ tôi, cô biết rõ tôi là người thế nào rồi - Ông trả lời nghiêm nghị, rồi nói thêm mỉm cười khinh bỉ - Vả lại, tôi không hiểu giết tôi đi thì làm thế nào cứu được Rếch Xtơ-reng của cô? Chị câm bặt, mím chặt môi lại, rồi trước cặp mắt sắc sảo của ông ta, chị run lên sợ hãi. -Em không cuồng loạn đâu Gơ-răng ạ - chị vội kêu lên lo lắng, răng nghiến ken két - Có bao giờ anh thấy em cuồng loạn đâu: không bao giờ em bị thế cả. Em không biết đó là gì nữa, nhưng em sẽ kiềm chế được. Em chỉ bực mình thôi. Đó là vì 1 phần em giận anh. Đó là sự lo lắng và sợ hãi. Em không muốn để mất anh ấy, Gơ-răng ạ. Anh ấy là ông hoàng của em, người yêu của em. Từ hôm đó đến nay em đã trải qua bao đêm hãi hùng bên anh ấy. Ôi anh Gơ-răng, em van anh. -Đấy là bệnh thần kinh - ông nhận xét 1 cách cộc lốc - Nếu cô là đàn ông, tôi sẽ mời cô hút thuốc. Chị ngồi lại ghế, nhìn ông chằm chằm và cố kiềm chế mình. Từ chỗ bếp lửa nham nhở gồ ghề vang lên tiếng dế mèn. Ngực của nưgờ bị thương phập phồng dưới bộ áo lông thú. Chị nhìn thấy nụ cười không lấy gì làm vui lắm, trên đôi môi của Lin-đê. -Cô yêu hắn đến thế sao? - ông hỏi. Ngực chị căng phồng, đôi mắt rực lên ánh sáng ngạo nghễ. Ông gật đầu tỏ ra mình đã nhận được câu trả lời. -Nếu tôi muốn kể 1 câu chuyện, cô có khó chịu không? - ông nói, nghĩ xem nên bắt đầu như thế nào. -Tôi nhớ mình có đọc 1 truyện, hình như của Hơ-bớt Sô thì phải. Tôi muốn kể cho cô nghe. Có 1 phụ nữ trẻ và đẹp yêu 1 người đàn ông tuyệt diệu, 1 người yêu cái đẹp và là 1 kẻ lang thang. Tôi không biết là giống Rếch Stơ-reng của cô là bao, nhưng tôi tưởng tượng là có giống. ồ, người đó là 1 hoạ sĩ, dân Bô-hê-miêng, 1 kẻ lang thang. Anh ta hôn chị ta, ồ, nhiều lần trong nhiều tuần, rồi bỏ đi. Chị ta dành cho anh ta những gì mà theo tôi nghĩ nó cũng giống như cô đã dành cho tôi... ở hồ Giơ-ne-vơ. Trong 10 năm, chị ta than khóc cho đến khi sắc đẹp bị tàn phai. Rồi điều không may đã xảy đến, người đàn ông đó bị mù, và 10 năm sau đó, người ta dắt anh ta đi như dắt đứa trẻ trở về với chị ấy. Không còn gì cả. Anh ấy không vẽ được nữa. Còn chị ấy vô cùng sung sướng và mừng 1 nỗi anh ấy không nhìn thấy dung nhan của mình. Nên nhớ ở đây 1 điều là anh ta tôn thờ sắc đẹp. Rồi anh ta lại được ôm ấp người yêu của mình trong tay và tin rằng chị ấy vẫn đẹp như ngày nào. Trí nhớ về vẻ đẹp còn mạnh mẽ trong anh ta. Anh ta luôn miệng nói về cái đó, và cứ phàn nàn là bây giờ không được nhìn thấy nó. 1 hôm anh ấy vời chị ấy vẽ 5 bức tranh mà anh ấy muốn vẽ. Ước gì mắt anh sáng lại để vẽ, chắc những bức tranh ấy sẽ là những kiệt tác... Thế rồi, bỗng nhiên chị ta nhận được liều thuốc tiên. Chỉ việc bôi thuốc lên mắt là chúng sẽ sáng lại hoàn toàn... Lin-đê nhún vai: -Cô biết không, chị ta phải đấu tranh ghê gớm. Có ánh sáng cho đôi mắt, anh ấy có thể vẽ những bức tranh đẹp. Và chắc chắn anh ta sẽ bỏ chị ta. Anh ta tôn thờ sắc đẹp mà. Giờ mà nhìn thấy bộ mặt già nua của chị ta, chắc anh ta không sao chịu nổi. Chị ta vật lộn trăn trở trong 5 ngày. Song cuối cùng chị ta vẫn xoa thuốc lên mắt anh ta... Lin-đê ngừng lời, nhìn vợ 1 cách tò mò, 2 con ngươi đen lánh rực lên ánh lửa. -Vấn đề là cô có yêu hắn đến như thế không? -Nếu thế thì sao? - chị hỏi vặn lại. -Có không? -Có. -Cô có thể hy sinh được không? Cô có thể từ bỏ hắn được không? Và từ từ miễn cưỡng, chị trả lời: -Có! -Và cô đi theo tôi chứ? -Vâng! - lần này giọng chị nghe nhỏ như thì thầm. -Vâng, khi anh ấy khoẻ hẳn. -Cô đã nghe ra. Chúng ta sẽ trở về những kỷ niệm bên hồ Giơ-ne-vơ. Cô sẽ lại là vợ tôi. Chị dường như co rúm lại, rũ người xuống, nhưng đã gật đầu đồng ý. -Rất hay! - ông vội đứng dậy tiến lại cái gói tháo dây ra - Gọi mọi người lại đây. Đi đun nước đi, đun nhiều vào. Tôi cần người giúp 1 tay. Gọi em trai hắn vào. Tôi có mang băng theo đây, nhưng cho tôi xem các người xử lý thế nào đã. Đô đây rồi, nhóm lửa lên và đun thật nhiều nước vào. Đây, còn anh này - ông nói với 1 người khác - Mang cái bàn này ra để ở dưới cửa sổ kia kìa, rửa đi, kỳ cọ cho kỹ vào: rửa nhé, anh bạn nhớ chưa, vì có bao giờ anh bạn rửa ráy đâu. Còn bà, bà Xtơ-reng, sẽ là người giúp việc của tôi.Chắc không có khăn trải bàn, không sao. Vẫn tiến hành được thôi. Còn anh là em trai của anh ta hả? Tôi sẽ gây thuốc mê, còn sau đó, anh phải tiếp tục gây mê. Nào, tôi bảo gì phải nghe theo nhé. à, mà này, anh có biết bắt mạch không? Vốn nổi tiếng là 1 nhà phẫu thuật can đảm và đạt được nhiều thành công, nên những ngày qua, Lin-đê tỏ rõ sự vượt ưậc của lòng can đảm và sự thành công đó. Giờ đây trước mặt ông ta là 1 hình hài khoẻ mạnh của 1 con người tàn phế. Có những ngày Xtơ-reng sốt cao và mê sảng, có những ngày tim đột nhiên ngừng đập, không sao bắt mạch cho anh ta được. Có những ngày anh ta nằm tỉnh táo, đôi mắt mệt mỏi và nhức nhối, mặt đẫm mồ hôi vì đau đớn. Lin-đê làm việc không biết mêt mỏi, đầy năng lực, can đảm và may mắn, cuối cùng ông đã chiến thắng. Cứu giúp cho Xtơ-reng sống, ông đâu có vui lòng. Ông đã tận tuỵ hết sức mình trước 1 vấn đề khó xử và mạo hiểm là làm thế nào cứu cho Xtơ-reng hoàn toàn lành lặn và khoẻ mạnh lại. -Anh ấy có bị tàn phế không? - Mét-giơ hỏi. -Hắn sẽ đi đứng và nói năng được, nhưng so với con người hắn trước đây có phần bị khập khiễng, trông như tranh đả kích đấy - Lin-đê nói với chị - Hắn sẽ chạy nhảy, bơi trên sông, đánh nhau với hổ báo và làm tất cả những gì theo ý muốn điên rồ nhất của hắn. Và tôi cũng xin báo trước để cô hay, hắn sẽ quyến rũ đàn bà như trước đây hắn từng làm. Cô thích thế chứ? Cô vui lòng chứ? Nhưng mà nhớ điều này: Cô không còn là của hắn đâu! -Hãy cứu tiếp anh ấy, cứu tiếp đi - chị thở mạnh - Hãy làm cho anh ấy lành lặn, nguyên vẹn như trước. Rất nhiều lần, bất cứ lúc nào tình hình sức khoẻ của Xtơ-reng cho phép, Lin-đê lại gây mê cho anh ta, và làm những điều khủng khiếp, như cắt rồi lại khâu vào, rồi nối những bộ phận bị thương trong cơ thể. -Ông sẽ giết anh ấy mất - người em trai than vãn - Cứ để mặc anh ấy như thế. Lạy Chúa, hãy để anh ấy yên. Sống mà có bị tàn tật thì còn tốt hơn là chết mà nguyên vẹn. Lin-đê nói giận: -Cút ra ngay! Cút ra ngay khỏi đây cho đến lúc quay lại đây phải nói được 1 điều là ta đã làm cho anh ta sống lại. Tính mạng của người anh anh như ngàn cân treo sợi tóc. Anh có hiểu không? Nào hãy đi ra đi, lúc nào trở lại phải bình tĩnh, tin rằng anh ta sẽ sống và sẽ nguyên lành như trước, rồi 2 anh em lại làm trò điên rồ với nhau. Nào, đi ra ngay! Người em trai, nắm chặt tay, mắt nhìn đe doạ, quay về phía Mét-giơ như mong được lời khuyên của chị. -Đi ra đi chú - Chị ta van vỉ - Ông ấy nói đúng. Chị biết ông ấy nói đúng đấy. 1 lần khác, khi điều kiện sức khoẻ của Xtơ-reng dường như có hứa hẹn hơn, người em nói: -Thưa bác sĩ, ông là 1 con người kỳ diệu, vậy mà suốt cả thời gian qua tôi quên không hỏi tên ông. -Không việc gì đến anh. Đừng quấy rầy tôi. Đi ra đi. Cánh tay phải bị thương lại mở ra toang hoác, trông đến khủng khiếp. -Đó là sự chết hoại - Lin-đê nói. -Thế là hết - người em than khóc. -Câm mồm đi! - Lin-đê thét lên - Đi đi! Cả Đô, cả Bin nữa, đi bắt những con thỏ rừng, phải bắt sống đấy, bắt những con to khoẻ ấy. Hãy đánh bẫy. Đánh bẫy khắp nơi vào. -Cần bao nhiêu con, hả ông? - người em hỏi. -40 con, 40 000 con, 40 000, bắt với tất cả khả năng của mình. Còn bà sẽ giúp tôi, bà Xtơ-reng. Tôi sẽ khoét sâu vết thương trên cánh tay để xem xem mức độ tai hại ra sao. Nào, các anh đi ra đi, ra bắt thỏ đi! Sau đó loáng 1 lúc, ông đã khoét vết thương 1 cách chính xác, cạo chiếc xương rời ra đó. -Chắc chẳng bao giờ điều này xảy ra nếu lúc đầu đừng cho hắn ăn nhiều thức quá bổ. Tôi có theo dõi, nhưng phải đợi và thử xem đã. Khúc xương ấy phải bỏ đi thôi. Không có nó cũng không sao, nhưng xương thỏ sẽ giúp làm cho cánh tay được nguyên vẹn. Trong số hàng trăm con thỏ người ta mang đến, ông chọn, rồi thử, làm đi làm lại, cuối cùng mới chọn được con vừa ý. Ông đã dùng đến giọt thuốc mê cuối cùng và đã hoàn thành việc ghép xương, xương tươi ghép với xương tươi, người sống ghép với thỏ sống, bó vào nhau thật chắc và bất động. Rồi trong suốt cả thời kỳ thử thách, đặc biệt là khi Xtơ-reng khoẻ lại, giữa Lin-đê và Mét-giơ diễn ra 1 cuộc trao đổi. Lin-đê chẳng tỏ ra thân mật, mà Mét- giơ cũng không chống đối. -Thật là phiền toái - ông nói với chị - Nhưng luật pháp vẫn là luật pháp, nên cô cần phải li dị trước khi chúng ta cưới nhau lại. ý kiến cô thế nào? Chúng ta sẽ đi chơi hồ Giơ-ne-vơ chứ? -Tuỳ anh - chị nói. Và 1 lần khác, ông nói: -Cớ sao cô lại gặp hắn? Tôi biết hắn có tiền. Nhưng tôi và cô cũng sống đầy đủ, chứ có đến nỗi nào. Tôi kiếm trung bình 4 vạn 1 năm chứ có ít ỏi gì, rồi sau đó tôi chúi đầu vào sách vở, cung điện và những chiếc tàu thuỷ nên đã không thoả mãn được cô. -Có thể anh giải thích thế là đúng - chị trả lời - Có thể anh quá say sưa với công việc. Có thể anh đã quên em. -Hừm - ông mỉm cười - Và ước gì Rếch của cô đừng có say sưa với hổ báo và những mẩu gậy đó chứ gì? Đến hôm người ta đưa Xtơ-reng và cả cái giường ra ngoài trời để hóng nắng, chị mới nói với Lin-đê: -Để em nói cho anh ấy hay nhé? -Không, phải đợi đã - ông trả lời. Sau đó Xtơ-reng có thể ngồi dậy bên mép giường, có thể đi được vài bước, có người đỡ 2 bên. -Để em nói cho anh ấy biết - chị nói. -Không được. Tôi muốn công việc chữa chạy phải hoàn hảo. Tôi không muốn có hậu quả. Mùa hè đến. Tuyết đã tan, chỉ còn vương lại trên các đỉnh núi xa xa tận phía trời đông. Ngày dài ra cho đến khi không có bóng đêm nữa, vì đến nửa đêm mặt trời mới lặn trong giây lát nơi chân trờ phía bắc. Lin-đê nghe ngóng bước đi của Xtơ-reng, sự vận động của cơ thể anh ta, cởi, rồi lại mặc quần áo cho anh ta bao lần với mục đích cho cơ bắp được mềm mại và co rút được. Anh ta được xoa bóp liên tục không ngơi tay cho đến khi Lin-đê tuyên bố rằng Tôm Đô, Bin và người em trai của anh ta từ nay đã lành nghề, có thể đảm đương việc tắm hơi và nắn xương. Nhưng Lin-đê chưa thoả mãn. Ông coh Xtơ-reng tập toàn bộ bài thể dục riêng của mình nhằm theo dõi xem còn có điểm yếu nào tàng ẩn trong người anh ta không. -Em nói cho anh ấy biết nhé? - Mét-giơ van xin. -Chưa được! - ông trả lời - Cô chỉ được nói khi tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Tháng 7 trôi qua, rồi tháng 8 gần hết, lúc ấy ông ra lệnh cho Xtơ-reng đi ra ngoài con đường mòn để bắt nai, Lin-đê theo sát gót anh ta, nghiên cứu rất kỹ và theo dõi sát sao. Anh ta mảnh khảnh, nhanh như 1 con báo, và anh ta đi mà Lin-đê cứ ngỡ là không có ai đi, cả thân hình anh ta uyển chuyển, lẹ làng. Tôm Đô đa từng than vãn về tốc độ đi ghê gớm đó của anh ta, Lin-đê đi phía sau, thở hồng hộc, mồ hôi nhễ nhại, chốc chốc đến chỗ bằng phẳng ông lại chạy gần cho kịp. Đi hết trên chục cây số, ông đứng lại rồi ngã quật xuống bãi cỏ. -Đủ rồi! - ông kêu lên - Tôi không sao theo kịp được anh đâu. Ông lau bộ mặt nhễ nhại mồ hôi. Còn Xtơ-reng ngồi trên 1 cây gỗ, mỉm cười nhìn bác sĩ. -Có thấy đâu, hay dấu hiệu nào tỏ ra là đau không? - Lin-đê hỏi. Xtơ-reng lắc bộ tóc quăn và vươn mình, từng đường gân thớ thịt cuồn cuộn đầy sức sống. -Xtơ-reng ạ, độ 1, 2 mùa đông có thể những vết thương cũ của anh vẫn còn cảm thấy tê buốt. Nhưng rồi cái đó sẽ qua đi và có thể chúng sẽ lành hẳn. -Trời, bác sĩ, ông đã làm nên điều kỳ diệu cho tôi, tôi không biết lấy gì đền đáp công ơn ông. Thậm chí tôi chưa biết tên ông. -Không sao, tôi đã cứu sống anh, vấn đề chính là ở chỗ đấy. -Nhưng đây là 1 tên tuổi mọi người trên thế giới chắc phải biết đến - Xtơ-reng nằn nì - Tôi tin là nếu tôi mà nghe thấy, tôi sẽ nhận ra ngay. -Chắc là anh sẽ nhận ra thôi - Lin-đê trả lời - Nhưng có hệ trọng gì. Tôi muốn thử lần cuối cùng, và thế là xong chuyện với anh. ở chỗ rẽ ngay đầu con sông con này là ngã ba của 1 con sông lớn. Đô có kể cho tôi nghe là năm ngoái anh có đến đó, tận giữa sông rồi lại quay về mất 3 ngày. Anh ấy còn nói tý nữa thì anh giết cả anh ấy. Đêm nay anh đóng trại ở đấy nhé. Tôi sẽ bảo Đô mang đồ cắm trại lại cho anh. Sau đó anh sẽ lại đi đến giữa dòng sông và quay trở về cùng 1 thời gian mà năm ngoái anh đã đi.

-Nào - Lin-đê nói với Mét-giơ - Cô chỉ còn 1h để gói ghém hành lý thôi đấy. Tôi sẽ đi chuẩn bị thuyền. Bin còn đi bắt hươu nên phải đến tối mới về. Chúng ta sẽ dựng lều đêm nay, và trong vòng 1 tuần chúng ta sẽ có mặt ở Đô-xơn. -Em hy vọng... - bỗng nhiên chị dừng lại 1 cách kiêu hãnh. -Rằng, tôi sẽ không đòi tiền công chứ gì? -ồ, hợp đồng là hợp đồng, nhưng anh không cần phải căm thù đến thế. Anh không cao thượng chút nào. Anh bảo anh ấy đi những 3 ngày, và cướp đi của em cả câu chào tạm biệt cuối cùng với anh ấy. -Hãy để thư lại. -Em sẽ kể cho anh ấy biết tất cả. Lúc ông từ dưới thuyền quay lại, quần áo của chị đã được gói lại và thư đã viết xong. -Đưa tôi đọc nào! - ông nói - Nếu cô thấy có thể được. Chị do dự 1 chút, rồi đưa lá thư cho ông đọc. -Khá thẳng thắn - ông nói sau khi đọc xong lá thư. -Nào, xong xuôi cả chưa? Ông mang gói quần áo của chị xuống bờ sông, lấy 1 tay giữ chiếc thuyền, còn tay kia giơ ra cho chị vịn vào mà leo lên. Ông nhìn chằm chằm vào chị, nhưng không 1 chút lưỡng lự, chị giơ tay cho ông nắm lấy và chuẩn bị bước lên thuyền. -Khoan tý đã - ông nói - 1 lát thôi. Cô có nhớ câu chuyện tôi kể cho cô nghe về liều thuốc tiên không? Tôi chưa kể phần kết thúc. Khi chị ta xoa thuốc lên mắt cho anh ta và sắp sửa định bỏ đi, tình cờ nhìn vào gương, chị ta thấy sắc đẹp của mình đã được hoàn lại nưh xưa. Sau đó, anh ta mở mắt ra, kêu lên sung sướng trước vẻ đẹp kiều diễm của người yêu, ồm chầm lấy nàng trong tay. Căng thẳng nhưng kiềm chế được, chị đợi ông kể tiếp, trên gương mặt và trong khoé mắt của chị loé lên đôi chút ngỡ ngàng. -Em rất đẹp, Mét-giơ ạ - ông dừng lại rồi noi thêm, giọng cụt lủn - Phần cuối câu chuyện đã quá rõ. Tôi nghĩ, cánh tay của Rếch Xtơ-reng sẽ không còn trống trải nữa. Tạm biệt nhé! -Anh Gơrăng...! - chị kêu lên khe khẽ, nhưng trong giọng nói đã thể hiện tất cả những gì không cần phải nói ra mới hiểu. Ông bật cười: -Tôi muốn chứng minh cho cô thấy tôi không phải là loại người tồi như thế. Lấy điều thiện trả điều ác, cô biết chứ? -Anh Gơ-răng...? Ông bước lên thuyền và giơ bàn tay gầy nổi gân. Chị giơ cả 2 bàn tay ra nắm lấy bàn tay đó. -Ôi, bàn tay thân yêu, bàn tay đầy sức mạnh! - chị thì thầm rồi cúi xuống hôn. Ông rút mạnh tay lại, đẩy thuyển ra xa bờ, khua mái chèo xuống dòng sông chảy xiết và lái ra đến giữa sông, nơi đây nước chảy phẳng lặng nưh mặt gương trước khi nó cuồn cuộn thành những đám bọt trắng xoá.

Anh Keng

ở đầu xóm nhà Keng có cô Ngọ, đang tuổi dậy thì. Ngọ béo khỏe, lại khéo giữ nước da cứ hồng ửng lên và gặp ai cũng mủm mỉm cười, chẳng hiểu có ý gì. Ngọ hay diện quần lanh đen, áo sơ mi cổ cánh nhạn màu lòng tôm chật căng, trông phây phây. Keng biết bố anh không ưa gì cái vẻ màu mè của Ngọ nhưng chính vẻ màu mè ấy lại làm anh choáng ngợp. Anh vốn là người ít giao thiệp, thiếu từng trải, tình cảm bị đè nén, lòng dù khát khao nhưng chưa hề dám say mê một cái gì theo ý thích riêng, nay tình yêu bỗng cháy bùng lên... Một đêm, đi họp đội sản xuất về, Keng gặp Ngọ ở đầu xóm. May quá, chỉ có hai người. Keng bước vội lên, vấp một cái đau điếng, nhưng cũng chẳng hề gì. Anh liều hắng giọng, rồi khẽ gọi, giọng như người ngạt mũi: - Ngọ ơi! Ngọ dừng lại, ngơ ngác... - Ðằng ấy... đi chơi với tớ cái đi! - Bây giờ í? - Khô... ông - Keng cuống lên, vì thực bụng Keng chưa dám nghĩ đến việc rủ Ngọ đi chơi ngay bây giờ. - Mai nhá? - ừ, mai... - Keng lắp bắp nhắc lại, như cái máy. Ngày hôm sau, trời chưa kịp tối câu chuyện đã vỡ bung. Mấy cô gái trong xóm cứ trông thấy Keng là nhấm nháy nhau rồi vờ nói tướng lên: - Này, đằng ấy đi chơi... ơi với tớ cái đi! Keng nói chuyện thực, Ngọ lại đùa. Vì sao thế nhỉ? Keng ngẫm nghĩ mãi, cuối cùng anh thấy có nhẽ Ngọ đỏm dáng, còn anh cục mịch nên cô nàng không thích đi chơi với anh. Vậy Keng phải may một bộ cánh. Việc này không thể cho bố biết được. Anh năn nỉ với mẹ, bà mẹ xiêu lòng, dúi cho anh mười lăm đồng, anh may một cái quần ka-ki và một chiếc áo sơ mi vải phin xanh Nam Ðịnh. Ðã may rồi thì phải mặc. Và bố anh làm ầm ĩ ngay lên: - à, thằng này giỏi. Tao nuôi mày của chất cao hơn người, thử hỏi mày đã làm được cái gì báo đáp tao chưa mà tấp tểnh học đòi rồi phá của đấy hử? Ông Keng nói ra nói vào suốt buổi chiều. Ðến tối, ông vẫn còn nói. Keng không cãi, chỉ lùi lũi trốn sang nhà bạn ngủ nhờ. Ông Keng lại càng điên máu. Bộ quần áo, dù sao Keng cũng đã may rồi, của vẫn còn đấy, thôi cũng cho là được đi. Nhưng con mà dám vượt quyền bố là không thể được. Vợ nuông con, vượt quyền chồng cũng không thể được. Bao nhiêu lời chì chiết, ông đổ cả lên đầu vợ. Ông Keng nằm phản nhà ngoài. Bà vợ nằm trong buồng với thằng Chỉnh, cái Trình. Bà vợ nghe mệt quá đã ngủ từ lúc nào nhưng ông vẫn cứ dẫn dụ, quát nạt và lôi cả những chuyện từ hồi hai người mới lấy nhau ra mà kể lể. Hôm sau, bà cụ Tỵ bên hàng xóm gặp ai cũng líu lại, lắc đầu lè lưỡi kêu rằng đang đêm bà cụ choàng tỉnh dậy, thấy nhà ông Keng có tiếng người, đèn lại sáng, tưởng là trời sắp rạng, vội vàng quang gánh lên chợ huyện. Ðến nơi, chợ chẳng có ma nào, bà cụ ngồi gục dưới gốc đa, đánh một giấc dài... Mỗi khi Keng diện bộ quần áo mới, Ngọ lại vờ đứng sững, nheo mắt nhìn anh và khen: "Bảnh quá nhỉ!". Keng để ý thấy cứ ngày chủ nhật lại có mấy thanh niên ở công trường về chơi nhà Ngọ. Họ diện quần tây, đi dép da, đeo đồng hồ. Keng cũng đã có một đôi dép lốp, mua từ lâu nhưng chẳng mấy khi đi nên còn mới nguyên. Anh chỉ kém cái đồng hồ đeo tay. Vậy Keng lại phải mua một cái đồng hồ đeo tay. Lần này anh không xin mẹ nữa. Anh đi gánh gạch thuê, mặc bố mắng chửi, nhất định không đem tiền về nhà. Dành dụm ít lâu, rồi cũng mua được một cái đồng hồ cũ, mặt đã ố vàng, hai cái kim tróc cả mạ lân tinh. Có đồng hồ thì phải thạo xem giờ. Ðã có lần Ngọ hỏi giờ, anh trả lời nhầm, may mà cô ta không có đồng hồ nên không biết. Bấy giờ Keng mới thấy văn hóa mình kém quá. Bố anh có cho anh đi học mấy đâu: "Học lắm rồi nghiền chữ ra mà ăn à!" Ngọ đã học hết lớp bốn. Còn anh, trong chiến dịch bổ túc văn hóa năm ngoái mới chớm học lớp ba được dăm buổi. Phen này nhất định anh phải đi học... Việc Keng đi học làm cho lớp bổ túc văn hóa vui vẻ hẳn lên. Số thanh niên tinh quái trong lớp từ lâu đã biết chuyện Keng và Ngọ liền xúm vào trêu anh. Keng không biết chối. Anh chỉ văng tục và đỏ mặt lên. Mọi người lại càng trêu anh tợn. Anh chạy chỗ mãi, nhưng chẳng chạy đâu cho thoát. Cuối cùng, chị cả Lạt nói: - Anh Keng xuống ngồi đây với tôi nào! - Keng ngồi chưa nóng chỗ, một thanh niên đã lại kêu lên. Anh Keng ngồi với chị cả Lạt, trông đẹp đôi không kìa! Chị cả Lạt chẳng phải tay vừa. Chị lấy chồng từ năm mười tám tuổi. Năm mười chín, chị đẻ đứa con giai, sau đó chồng mắc bệnh, ốm liền trong hai năm rồi chết. Chị làm quần quật, phụng dưỡng cha mẹ chồng, hầu hạ chồng, bú mớm cho con. Có những ngày ngắn ngủi, cơn bệnh lui đi, người khỏe khoắn ra, chồng chị yêu thương chị như người phát cuồng. Nhưng rồi chồng chị lại đổ ụp ngay xuống, rất nhanh chóng và ngày càng đuối dần đi. Còn chị thì cứ hơ hớ ra. Vô số trai làng, cả mấy ông trung niên đã có con gái lớn sắp đến tuổi gả chồng đua nhau quấy rầy chị: "Thấy cái hoa thơm, tội gì chẳng ghé mũi ngửi qua một tý!". Chồng chị nằm đó, bất lực, cứ ghen lồng lên. Thành thử, chị chịu khổ gấp đôi. Sau khi con lớn, chị thường hay về nhà mẹ đẻ ở, cả làng đều đinh ninh chỉ ngày một ngày hai là chị đi lấy chồng khác. Nhưng đã ngót bốn năm qua, chị vẫn chẳng lấy ai, mặc dầu những chàng trai lượn quanh chị còn đông hơn trước gấp bội. ấy là vì chị sợ. Cái hạnh phúc của chị, nó ngắn ngủi quá và tàn nhẫn quá. Và do đó khát vọng về hạnh phúc của chị trở nên to lớn quá. Chị muốn người chồng sau của chị phải là người có thể bù đắp lại cho chị tất cả những gì chị đã phải chịu thiệt thòi. Chị tiến đến gần người này, rồi người khác, ngẫm nghĩ về họ và lại lùi ra xa... Người ta bắt đầu bàn tán. Có người vì không được yêu xoay ra hằn học, có người vì ghét, cũng có người chỉ là rỗi mồm nói cho vui chuyện. Ðại để, toàn những điều ong tiếng ve, chẳng hay ho gì. Ban đầu, chị hết sức buồn bực, đau khổ, nhìn ai cũng như thù địch. Sau rồi cũng quen đi, gác ngoài lỗ tai tất, có đôi lúc còn lấy thế làm vui vẻ và để đối lại những lời trêu chọc chị chỉ cười tràn. Khi mấy anh chàng tinh quái trong lớp học gán ghép chị với anh Keng, chị cho là chuyện hết sức nhảm. Chị quay phắt về phía bọn họ, lớn tiếng nói, nửa đùa nửa tức giận: - Bận gì đến các chú đấy? Các chú không được như người ta, các chú ghen à? Bọn thanh niên cười ầm lên, lại càng buộc chặt hai người vào. Keng không thể chịu đựng được, phát khùng với mọi người và bảo chị cả Lạt: - Còn nhà chị ấy, vừa vừa cái mồm chứ. Nhà chị là người đứng đắn... Chị cả Lạt tái mặt đi vì bất ngờ. Nào đã mấy ai, trong những lúc đùa cợt lại bảo chị là người đứng đắn. Nhưng Keng nói thật hay nói mỉa mai? Chẳng lẽ Keng cũng biết mỉa mai? Từ đấy, cứ ngấm ngầm một mình, càng ngày chị càng chú ý đến Keng. Một hôm, hợp tác xã họp, cử Keng đánh một chiếc xe bò lên huyện chở phốt phát, cùng với hai người nữa. Chị cả Lạt nghĩ: "Hay mình thử đi một chuyến xem anh ta cầm càng như thế nào!" Liền rủ bà Thủy ngồi cạnh giơ tay xin đi. Từ làng lên huyện xa tám cây số. Ði đã được quá nửa đường. Keng vẫn không chịu nghỉ, cứ lùi lũi, chẳng hề mở miệng. Bà Thủy đẩy xe phía sau, cùng với Lạt, cũng chẳng nói năng gì, chỉ ra công nhai trầu và nhổ toèn toẹt. Vừa nắng vừa mệt, Lạt đâm ra buồn. Tự nhiên chị lại nhớ không khí lớp bổ túc văn hóa, với những lời đùa cợt, gán ghép vô tư, đôi khi hơi sỗ sàng của bọn thanh niên. Nghĩ cho cùng, thế mà hóa ra vui. Lạt thèm có một cái gì cũng vui vui, tương tự như thế... - Bác Thủy ơi, bác có chuyện gì vui vui kể đi nào! - Tôi thì làm gì có chuyện vui - Bà Thủy đáp bằng một giọng uể oải - Già rồi! Bảo anh Keng ấy, anh ấy đang trai... - Khỉ cái bà này. Cứ phải đang trai mới vui! Lạt phát mạnh vào lưng bà Thủy, tiện đà đẩy cái xe bò lên một cái mạnh. Chiếc xe chồm tới, ván xe rung bần bật, dúi Keng về phía trước làm anh nhỡ bước, suýt ngã chúi. Keng chỉ khẽ gắt: "Dửng mỡ vừa vừa chứ!". Anh không bắt chuyện. Cũng không dám quay lại, sợ hai người đàn bà trông thấy mặt mình đang đỏ bừng lên. - Thôi, không ai nói chuyện gì thì tôi ngủ vậy đây! Lạt ghìm xe, nhảy lên, nằm nép vào một phía để tránh ánh nắng, chân co lại, chiếc nón lá che kín mặt và ngực. Hai càng xe trong tay Keng trĩu ngay xuống. Anh nghĩ bụng: "Cái nhà chị này thế mà nặng". Nhưng chính lúc đó, không hiểu sao anh lại thấy cái xe nhẹ tênh, kéo cứ đi băng băng. Lạt không ngủ. Ngủ làm sao được. Chị nhỏm dậy, nhảy xuống đất: - Bác Thủy ơi, hay là bác kể chuyện buồn cũng được. Chuyện nào buồn nhất ấy! - Chuyện buồn thì có đấy. Dưng mà cả xóm biết cả rồi, việc gì phải kể! - Chuyện gì thế bác? - Lạt chột dạ, vội hỏi lại. - à, chuyện ông đội Lung! - Thôi đi, đừng nói đến ông Lung nữa, ngứa cả ruột! - Ðột nhiên Keng quay lại, gạt đi bằng một giọng hằn học. Lạt vui hẳn lên. Chị cười lạc cả giọng và buộc chặt ngay Keng vào câu chuyện: - A, anh Keng giỏi, anh nói xấu sau lưng người ta nhá! - Thì nó sờ sờ ra đấy, bánh đúc bày sàng việc gì còn phải nói xấu! Lạt làm ra bộ ngớ ngẩn, cứ gặng dần, buộc Keng phải nói ra những nhận xét của anh về ông đội trưởng đội sản xuất Lung. Rồi đột nhiên Lạt trở nên tinh quái, bắt bẻ những nhận xét của Keng. Keng nổi nóng cãi lại Lạt, mỗi lúc một hăng, tưởng chừng như chính Lạt là người đứng ra bao che cho những chuyện tư túi của ông Lung. Giọng Keng dấm dẳn, thô bạo, nhưng anh không nói vu vơ. Chẳng hạn như chuyện ông Lung dành ruộng mượt bùn cho vợ cấy, ruộng ít cỏ cho vợ đi vơ lá dành thửa nào, ở đồng nào; chuyện ông Lung bày cho vợ gánh phốt phát bằng thúng ướt rồi đem thúng về giặt, lấy nước tưới rau là vào hôm nào, đang kỳ chăm bón cánh nào... Lạt kêu lên: - Giời đất ơi, cái nhà anh này y như thổ công! Nói đến con kiến trong lỗ cũng phải bò ra. Sao ở hội nghị anh cứ ngồi im như thóc, hứ? - Tôi chẳng nói là gì! - Keng cãi lại một cách yếu ớt. - Anh á? Có nói, toàn nhìn trộm bố, rồi nói vuốt đuôi người ta! Phen này, bác Thủy ạ, bà con ta phải bầu anh Keng lên làm đội trưởng mới được, để cho anh ấy... Thấy Lạt vui, bà Thủy cũng hùa theo. Và Keng lại rơi ngay vào tình trạng lúng túng như sa lưới: anh không quen đùa. Nhưng dù sao cái ý kiến đột ngột của Lạt vừa rồi cũng làm Keng nghĩ ngợi. Quả là anh biết cặn kẽ mọi chuyện làm ăn trong hợp tác xã hơn Lạt nhưng anh không chăm họp hành, không hăng hái nói năng, không chú trọng đến công việc chung được như Lạt. Anh luôn luôn bị giằng co và một nỗi sợ hãi ngấm ngầm cứ bám riết lấy anh. Anh sợ bố. Vì sao sợ, anh không rõ, nhưng đúng là anh sợ. Cũng như mọi người trong gia đình anh, anh sợ... Lượt về, còn cách làng khoảng ba cây số, trời bỗng đổ mưa rào. Nước sa trắng xóa cánh đồng. Nhìn về phía trước, chỉ một quãng ngắn, con đường đã mất hút sau những hàng mưa xiên chéo. Chiếc xe bò bị trượt một bánh xuống cái hố tát nước. Xe chở khá nặng vì ngoài số phốt phát còn mấy chục chiếc lưỡi cày cải tiến. Càng kéo, càng đẩy, xe càng lún và nghiêng đi, hai càng xe đòi bật lên làm cho hai bắp tay Keng bị giật mạnh, nhức suốt lên tận vai. Keng bám thật chắc mười ngón chân xuống bùn, lưng cong, gập hai vai nhô hẳn lên và anh nói, giọng rít qua kẽ răng: - Bắt bánh lên! Hai người đàn bà sợ cuống. Một ngọn gió lạnh xô tới, xé rách mảnh nilông phủ trên xe và giật cái nón Keng đội ném xuống ruộng, kéo thành một đường vòng cung dài. Lạt vội vàng đuổi theo, cướp lại cái nón, đội lên đầu cho Keng. Keng không chú ý đến cái nón. Anh ngẩng lên, môi mím chặt, đôi mắt mở trừng trừng, giận dữ, quả quyết, sáng rực trên khuôn mặt chan hòa nước mưa lạnh giá. Anh nói như quát: - Bắt bánh nhanh lên! Ðổ mẹ nó xe bây giờ! "Anh ấy không bằng lòng, anh ấy gắt..." Lạt nghĩ vậy với một nỗi lo âu vừa mơ hồ vừa rõ rệt. Chị vội nhảy xuống chỗ đầy bùn lỏng, cùng với bà Thủy cúi gập người xuống, chúi đầu vào cái bánh xe trơn nhầy nhụa. Nhưng chị vẫn để mắt nhìn Keng. Chị thấy anh vươn dài cổ ra, người nhoai về phía trước, chân đạp mạnh, ngón chân miết xuống bùn thành những rãnh sâu đầy nước, toàn thân căng thẳng như một cánh cung sắp bật. Và chiếc xe bắn vọt lên, nhảy chồm về phía trước. Sau chuyến đi xe phốt phát, chị cả Lạt luôn luôn bị đôi mắt của Keng - đôi mắt giận dữ của anh lúc anh mắng chị, giữa cơn mưa - ám ảnh. Chị bàng hoàng nhận ra rằng đôi mắt đó chứa đựng một sức mạnh gì hết sức bí ẩn, chưa ai biết và chính chị cũng chưa biết rõ, chị chỉ mới cảm thấy nó thôi. Chị bắt đầu tin rằng, cái nhà anh Keng lầm lì, vụng dại thực ra không phải như mọi người vẫn tưởng... Chị đâm ra ngơ ngẩn, cứ nhớ mãi trận mưa, chỉ mong sao có dịp lại được đi như thế, anh Keng lại giận dữ với chị như thế và buổi học nào chị cũng chăm chú nhìn khuôn mặt vuông vức, gồ ghề, nhìn cái áo bạc phếch, cái lưng to rộng hơi gù xuống của Keng. - Keng, có ai đang nhìn cậu kìa! - Một thanh niên láu lỉnh bỗng kêu lên. - Này, tôi bảo cho nhà chú biết, nhà chú chỉ đáng tuổi em tôi thôi - Chị cả Lạt công khai thú nhận và lớn tiếng át đi - Chú đừng có lỡm! Lạt vẫn nhìn Keng, nhưng Keng không nhìn lại. Lạt biết Keng đã bị cô Ngọ hơ hớ thu mất hồn anh rồi. Nỗi ghen tức ngấm ngầm nhói lên trong lòng chị. Chị cựa quậy người trên ghế, chấm mực một cách giận dữ rồi lại vô cớ vẩy hết mực ở ngòi bút đi. Keng học các môn bình thường, riêng môn tính rất giỏi. Anh toàn tính nhẩm. Tính đố anh cũng nhẩm. - Anh Keng này, anh làm tính giỏi thế, anh giúp tôi một tý với - Một đêm, sau khi tan học, chị cả Lạt trùng trình đợi Keng ở chỗ vắng, giữ anh lại và nói. - Ngữ tôi thì giúp thế nào được chị! - Anh sợ à? - Ðột nhiên Lạt ngẩng lên hỏi Keng. - Không! Không đời nào! - Keng vội vàng chối. - Thế thì anh đến đi. Anh bảo tôi cách nhẩm, còn tôi sẽ bảo lại anh cách làm nhời giải. Như thế là tương trợ... Tối mai anh đến nhà tôi nhá. Không phải nhà tôi đâu, nhà mẹ đẻ tôi ấy! Anh ruột Lạt đi làm xa, ở nhà chỉ có bà mẹ Lạt, người chị dâu và ba đứa cháu nhỏ, thực thuận tiện cho Keng đi lại. Nếu Keng không đến thì đúng là anh sợ bố anh rồi. Anh đã nói rằng anh không sợ. Anh là con giai. Anh đã lớn. Và công việc làm ăn chung hàng ngày đã kéo anh vượt ra ngoài bốn bức tường gia đình... Ban đầu, cứ đến lúc người nhà đi ngủ là Keng về. Càng về sau Lạt càng giữ anh ở lại khuya hơn. Trong không khí vắng lặng và thân thuộc của nhà mình, đúng là nhà mình chứ không phải ở nơi nào khác, chị cảm thấy có cái gì đó rất cũ kỹ và cũng rất mới mẻ tiến đến gần chị , nhập vào chị, lôi cuốn chị đi, chị muốn kìm mình lại nhưng vẫn cứ bị nó lôi cuốn và không biết nó sẽ lôi cuốn chị đi tới đâu. Ðầu óc chị dần dần trở nên mờ mịt. Chị làm tính sai tuốt ráo cả. - Ơ cái nhà chị này, tơ tưởng chuyện gì mà ngồi đờ ra thế? - Không! - Chị cả Lạt giật mình, mặt đỏ lên. Nhưng đột nhiên chị trấn tĩnh lại và chị nói không che giấu - Tôi chẳng tơ tưởng chuyện gì. Tôi đang nghĩ đến anh đấy! - Nghĩ đến tôi làm sao? - Nghĩ đến anh với cô Ngọ. Anh đừng có hoài công đeo đuổi. Cô ta... không... hợp... với anh đâu! Giọng Lạt run run và yếu ớt dần. Chị không dám tin vào điều chị vừa nói. Biết đâu, bỗng một lúc nào đó Ngọ chẳng bừng tỉnh và nhận ra Keng như chị từng nhận ra. Chị không thể cứ để mặc cho sự đời trôi chảy... Nhưng Keng đã đứng dậy, cuộn vở lại. - Không. Anh đừng về. Anh... - Chị cả Lạt vội vàng nói, người chị lạnh đi vì hoảng sợ và chị nhìn thẳng vào Keng bằng đôi mắt dữ tợn như mắt thú rừng. Keng choáng váng như bị xô vào cơn lốc mãnh liệt, bốn phía đều mù mịt và cứ xoay tít đi. Chính trong lúc đó, một ý nghĩ loé lên trong đầu anh: "Sao Ngọ nó không nắm cánh tay mình, nó không nhìn mình như thế nhỉ?" và lập tức cơn lốc chấm dứt, để lại một mình anh đứng sững trên mặt đất trống trơn, lòng nguội ngắt... Keng khẽ nhắc lại, giọng dứt khoát: - Thôi, khuya rồi, tôi về đây! Chị cả Lạt lật đật chạy theo Keng ra tận cổng mới dừng lại. Người chị như lên cơn sốt, phải vịn vào cái cọc rào, chỉ muốn gục xuống. Nhưng đầu óc chị rất tỉnh táo và một ý nghĩ hết sức khủng khiếp cứ bám chặt lấy chị: "Giời ơi, mình yêu anh ấy rồi ư? Trong làng biết bao nhiêu người, sao mình lại chẳng yêu ai, mình lại đi yêu anh ấy?". * * *

Ðại hội hợp tác xã xong, các đội sản xuất lần lượt họp bầu lại đội trưởng. Kỳ này, ông Lung nhất định đổ rồi. Nhưng bà con còn phân vân không biết nên bầu ai, vì những người được tín nhiệm đều đã có chân trong quản trị hoặc trong ủy ban cả. Một hôm, nhân gặp ông chủ nhiệm, chị cả Lạt nói: - Ông ạ, cháu đề nghị các công cứ dự kiến anh Keng ấy. - Ai? Ông chủ nhiệm còn đang rối bù lên vì công việc, ngơ ngác hỏi lại. Chị cả Lạt tưởng ông không bằng lòng, sợ quá, lúng túng mãi mới nói tiếp được: - Anh Keng ý, ông ạ. Anh ý... còn hơn là những người như ông Lung. - Thì đã hẳn rồi! - Ông chủ nhiệm giờ mới vỡ nhẽ, cười vui vẻ - Nhưng mà cũng gay đấy, làm đội trưởng còn cần phải... - Còn cần phải ... đủ các tiêu chuẩn, có phải không ạ? - Chị cả Lạt đã bình tĩnh lại, liền dấn lên - Thì các ông giúp đỡ anh ý. Về phần xã viên, một khi chúng cháu đã bầu, chúng cháu cũng sẽ giúp đỡ. Kỳ vừa qua, nhà ông Lung làm chúng cháu thiệt hại biết bao công của rồi... Một số cán bộ và xã viên cũng có ý kiến như chị cả Lạt. Ông chủ nhiệm liền đề nghị đưa ra thảo luận ở đội. Bà con tuy chưa tin Keng hẳn nhưng lại nghĩ, thà chậm việc còn hơn nát chuyện nên cuối cùng đều giơ tay bầu anh. Ông Keng cũng đành phải giơ tay theo mọi người. - Thế nào, được giữ chân đội trưởng có sướng không? - vừa về đến nhà, ông Keng đốp luôn: - Người ta bầu tôi thì tôi phải đứng ra. Bố đay gì tôi? - à, "Phải đứng ra" à? Mày nhất định không chịu đứng ra thì ai bắt bò được mày! Tao truyền đời cho mày biết, đến như tao, cai quản độc một cái nhà này, bạc cả đầu mà vẫn chưa đâu vào đâu nữa là cái ngữ mày... �n cơm nhà vác ngà voi... lắm người nhiều điều... nước đời khó lắm đấy, con ơi! - Thôi, bố đừng nói nữa! Thấy bố cứ dài dòng mãi, Keng sốt ruột, gạt phắt. Ông Keng tắc cuống họng: Ông trợn mắt, khạc ra một tiếng "hứ" nặng như chì và bĩu môi dài ra, như có ý đe ngầm: "Mày không nghe tao, để rồi tao xem mày làm nên được cái thá gì?". Thực ra ở hội nghị, Keng cũng đã chối giẫy lên. Nhưng mỗi người một câu cứ buộc anh vào. Rồi Ngọ đứng phắt dậy, cười toe toét và réo ầm lên: - Hoan hô anh Keng! Tôi cũng xin bầu anh Keng đấy ạ! Keng ngồi nín thít, không dám ló mặt ra trước ánh đèn. Anh vừa ngượng vừa uất... Cô ta giễu anh. Cô ta coi thường anh. Thì anh đứng ra làm, làm thật tốt cho cô ta trắng mắt ra! Trước đây, chẳng bao giờ anh dám tin mình có khả năng làm được đội trưởng. Bây giờ, chính bà con nói anh có khả năng làm được đội trưởng kia mà! Biết đâu, sau này Ngọ lại chẳng chết mệt vì cái chuyện đội trưởng của anh. Năm ấy đang có phong trào tăng vụ, hợp tác xã quyết định mở chiến dịch cấy thêm mấy chục mẫu Nam Ninh xuân. Keng triệu tập họp đội sản xuất, phổ biến kế hoạch mới và lập tức xã viên làm ồn lên như chợ vỡ: - Xem ở bên Võ Lăng kia kìa, năm ngoái cấy Nam Ninh, sâu ăn sạch, mất cả chì lẫn chài! - Yêu cầu không cấy Nam Ninh. Cấy Nam Ninh bạc đất, đến vụ mùa rồi ăn bùn! - Tôi có ý kiến... - Tôi đã. Tôi xin hỏi ông đội trưởng, chửa xong chiêm đã bắt cấy Nam Ninh, mà giời đất như thế này, chết trâu, Chính phủ có bồi thường không ạ? - Lại còn khoản phân.. - Khoản thóc giống... Chung quy lại mọi người đều ngại vất vả, sợ hỏng ăn, cứ hai bát úp một hơn là bày vẽ ra như thế. Keng không biết giải thích. Vả lại anh cán bộ huyện về chỉ đạo cũng giải thích chán ra rồi. Anh cứ để mặc mọi người nói ra nói vào. Nói cho kỳ hết. - Bà con trật tự! - Cuối cùng, Keng giơ đèn lên, huơ một vòng và nói như quát - Tôi có ý kiến thế này: Ta đã làm là phải có ăn, không ăn nhiều thì ăn ít, ăn ít còn hơn không. Trên đã nghiên cứu kỹ, thấy vùng ta cấy chiêm ít quá nên mới bổ sung cấy Nam Ninh, mà Nam Ninh cũng có thí điểm rồi. Bà con nào còn thắc mắc thì lên trên mà hỏi chứ cứ "tranh đấu" với nhau ở đây mãi thì khuya mất, mai lấy sức đâu mà đi làm. Bây giờ tôi đọc bảng phân công, nếu không ai bổ sung gì thì giải tán. Keng rút trong túi ra một mảnh giấy nhàu nát, vuốt thẳng, ghé vào gần đèn, đọc rành rọt tên từng người và công việc người đó phụ trách. Thế là cả cái chiến dịch làm Nam Ninh với muôn vàn khó khăn rút lại chỉ còn toàn là những công việc đồng áng quen thuộc... Thắc mắc vẫn còn đó, nhưng chẳng lẽ lại giãy ra không chịu đi làm. Người ta tặc lưỡi đứng dậy, phủi quần, kéo nhau về. Keng trực tiếp phụ trách nhóm thợ cày. Hôm nào anh cũng dậy từ tờ mờ đất, đi dẻo một lượt, khua các ông thợ cày dậy. Trở về, nuốt vội mấy lưng cơm, anh lại đi dẻo lần nữa, kỳ khi nào các ông ấy đã đi hết, anh mới đánh trâu theo. Tuy vậy công việc cũng chỉ chạy được vài ba ngày đầu. Bị ốp, các ông thợ cày phát khùng. - Ông Tuy ơi, ông có đi làm không thì bảo, để còn điều trâu cho người khác? - Có đấy ạ. Tôi đi ngay đây ạ. Nhưng ông Tuy vẫn nằm lì ở nhà. Keng lại đến gọi. Ông lại trả lời y như thế. Và ông vẫn không nhúc nhích... Keng đứng như bị trời trồng ở ngõ nhà ông Tuy, mồ hôi vã ra đẫm trán. - Ẳng...! - Một con chó đi qua bị Keng đá cho một cái mạnh. Con chó cắm đầu chạy, đâm sầm vào Ngọ vừa ở ngõ ngang bước ra. - Con khỉ cái nhà anh Keng nhá! Người đâu có người... - Ngọ lườm Keng, trách móc bằng một giọng õng ẹo. - Người làm sao? - Keng trợn mắt lên quát. Ngọ sợ quá, vội vàng lủi mất. Lúc ấy, chị cả Lạt vừa gánh phân đi tới. Chị đỗ gánh xuống, nói nhỏ nhẹ: - Làm sao mặt lại nặng như đeo đá thế kia? - Làm sao à? Không đi cày thì tôi điều trâu cho người khác! Chị cả Lạt hiểu ngay: - Không được, anh Keng ơi! Người ta nuôi trâu, phải ưu tiên cho người ta đi cày. Anh làm thế rồi rối như canh hẹ. - Rối tôi cũng làm. Dứt khoát... - Keng đáp liều. - Anh có biết vì sao ông ấy không đi cày không? Ði cày thì phải cắt thêm cỏ trâu, ông ấy sợ thiệt... Keng đứng ngớ ra nhìn chị cả Lạt: chị ta nói khéo chừng thực. - Bây giờ phải đề nghị ban quản trị cho thêm điểm cỏ trâu. Tôi sẽ xung phong lập nhóm đi cắt cỏ, đồng gần hết cỏ thì đi đồng xa - Lạt dừng lại, nhìn thẳng vào mắt Keng, không chớp và chị hạ giọng xuống - Anh cứ làm thế đi, Anh cứ tin tưởng ở tôi, cứ làm thế đi. Ðủ cỏ trâu, ông Tuy đã chịu đi làm. Nhưng ông làm câu dầm, nửa ngày mới đánh trâu đi, nhoáng một cái đã thấy về. "Cơ đồ này rồi hỏng!" Chị cả Lạt nghĩ vậy và chị đi tìm Keng, thì thầm với anh: - Anh phải điều người đi bừa ngả mạ ngay đi. Có mạ, nhất thiết phải cấy. Họ trùng trình thế, lỡ vụ là họ để ruộng làm mùa đấy. Tôi thì đi guốc vào bụng... Chị cả Lạt cứ cặp kè bên Keng như thế, Keng không thể nào không nghĩ đến chị. Một buổi sáng, chị cả Lạt vừa trở dậy, tay còn cầm cái gáo dừa, đang đứng súc miệng bên chum nước dưới gốc cau, chợt thấy buồn buồn ở sau gáy. Chị quay lại, bắt gặp Keng đứng bên kia hàng rào đang đăm đăm nhìn chị. Lạt hết cả ngái ngủ, vội vàng chạy lại. - Gì thế? - Lạt hỏi khẽ, phấp phỏng mong chờ Keng sẽ nói với chị ngay lúc này đây, một điều gì chị vẫn chập chờn trong lúc mê ngủ. Nhưng không... - Chị ngâm mạ nhá. - Ngâm mạ? - ừ, ngâm mạ. Ruộng mạ bừa mượt rồi. - à, ngâm mạ Nam Ninh - Bây giờ chị cả Lạt mới sực tỉnh - Ðược rồi, tôi đi lấy thóc giống nhá, tôi ngâm ngay hôm nay nhá! Lạt theo chân Keng đi luôn. Ðến đầu xóm thì gặp Ngọ. Hôm nay chủ nhật. Ngọ diện quần lanh đen, áo sơ mi màu hoa cà, tóc buộc một cái khăn tay in bông hoa đỏ loè. Cô lên phố huyện chơi với bạn làm công trường trên đó. - Anh Lạt ơi! - Keng giật mình quay lại. Ngọ phá lên cười và cô lại càng réo to hơn - Không, tôi gọi chị Keng cơ. Chị Keng ơi! - Con bà cô, làm chẳng làm, chỉ đi nhởn - Keng đỏ mặt lên, nhổ toẹt một bãi nước bọt, rủa theo Ngọ và trong lúc đó anh bỗng cảm thấy một điều hết sức lạ lùng ngấm ngầm khích động anh: anh muốn thách thức Ngọ, chỉ riêng Ngọ thôi, hãy cứ trêu anh đi! Cuối chiến dịch cấy Nam Ninh, đội sản xuất quyết định ngả một con lợn, cho bõ cái công phơi nắng suốt từ đầu vụ. Mờ sáng, lợn đã bắt ra chuồng, nằm thở hồng hộc trên tấm cánh cửa đặt ở đầu hiên. Các ông thợ cày cũng đã tề tựu đông đủ. - Phải hãm một tí tiết, anh đội trưởng ạ! - Dào, hãm làm gì, một đống người. - Ðống thì mặc đống chứ. Chỉ kể riêng cánh ta thôi. Theo trâu vắt diệt, mồ hôi không kịp vuốt chẳng nhẽ lại không ưu tiên được bát tiết canh. - Cánh ta cũng phải có tiêu chuẩn: ai không biết uống rượu thì miễn. Như là anh Keng... Keng cười cái cười thật dễ thương: - Vâng, ông nào tiện tay bốc cho cháu xin dúm muối. Phần cháu, thế nào cũng được, chỉ xin nhớ cho phần bố cháu. Ông cụ thế nào cũng phải có tý cay. - Còn phần thợ cấy thì sao đây? - Vừa lúc ấy chị cả Lạt te tái chạy tới và la lên - Cả tháng bán mặt cho đất, bán lưng cho giời, dễ kém các ông thợ cày! - Nhà chị đàn bà, vào bếp đun ù nồi nước lên đi! - Ơ hay, nam nữ bình đẳng, sao các ông lại độc quyền... - Thôi không có lý sự. Ông Tuy đâu, mượn được dao rồi đây này. Sắc ra sắc! - Không... - Lạt vẫn không chịu lép, mặt đỏ lên, nói như thách thức. - Không thì anh Keng nhường cho chị ý vậy - Ông Tuy tiếp luôn, chẳng hiểu đùa hay thật và ông thọc một nhát, con dao bầu sáng loáng ngập giữa ức con lợn đến tận chuôi. Ngày hôm ấy, bao nhiêu thắc mắc, đố kỵ, bao nhiêu chuyện phiền toái bực mình người ta đều quên sạch. Bếp nhà nào cũng thơm inh cả lên. Giữa lúc rượu đã ngà ngà say, ông Keng cười hể hả, bảo Keng: - Dạo mới vào vụ, làng xóm người ta nói anh nhiều quá, tôi rát cả mặt. Bây giờ cày cấy đã xong xuôi, ăn nhiều ăn ít thế nào chưa biết nhưng tôi cũng lấy làm mừng cho anh. Nhân tiện lúc rỗi rãi, tôi hỏi anh, anh định cái chuyện vợ con như thế nào, anh có còn theo đuổi con Ngọ nữa hay không thì anh bảo để tôi còn liệu? Keng ngồi ngẩn người ra. A, Ngọ... anh đã quên cô ta từ lâu rồi. Vả lại, cái chiến dịch Nam Ninh vừa qua nó quần anh một trận nhược người, lúc nào cũng tối mắt vì bận rộn, còn thì giờ đâu... Thấy Keng ngồi im, ông Keng bắt đầu ướm ý anh về các cô gái làng, giới thiệu ưu, khuyết điểm từng cô, khuyên bảo anh, dọa dẫm và thuyết phục anh. Ông không tự quyền như trước, vì ông nghĩ: "Chẳng gì nó cũng làm đội trưởng đội sản xuất rồi!". Nhưng Keng vẫn cứ trơ ra, chẳng mảy may xúc động. Các cô gái làng, không hiểu sao lúc này đối với anh chỉ hiện lên như những cái bóng. Anh cảm thấy chẳng có gì dính dáng giữa anh và các cô... - Thôi đi, bố đừng có dài dòng văn tự. Vợ với chả con! Keng phát khùng, buông bát đũa xuống, đi ra ngõ. Anh cứ đi, đi mãi dọc đường làng. Và anh nghĩ vơ vẩn một mình : "Mình cũng phải lấy vợ chứ nhỉ? Vợ mình là cô nào ở làng này nhỉ?" Keng đã đi đến ngõ nhà Lạt lúc nào không biết. - Anh Keng ơi, mời anh vào chơi. Chị cả Lạt đứng ở góc sân. Chừng như chị đợi anh từ lâu lắm, mâm cơm còn nguyên, cả đĩa tiết canh, phần lòng thì vẫn để trong sanh nước xuýt, chưa thái: - Chẳng mấy khi, anh ngồi ăn lưng cơm với chúng tôi cho vui đi! Bà mẹ và người chị dâu Lạt cũng đon đả mời. Anh giãy ra: - Tôi ăn rồi. - Thì tôi cũng ăn rồi. ăn ở đằng... kia (Lạt định nói ăn ở nhà chồng, nhưng chị lái lại được ngay). Anh ngồi xuống đây một tí cho vui - Lạt vừa nói vừa kéo Keng ngồi xuống, nhanh nhảu xẻ tiết canh, so đũa, dúi vào tay anh - Này thôi ăn đi, vẽ vời, khách khứa đâu mà... Từ khi anh lên làm đội trưởng, vất vả biết bao nhiêu... Rồi Lạt ép anh uống rượu. Một cút rượu nhỏ xíu thôi. Keng định bụng chỉ tợp vài ngụm gọi là - cái giống rượu, anh chúa ghét! - nhưng không được. Lạt cứ tiếp cho anh đầy cả bát: nào miếng gan, miếng tim, nào miếng dồi, miếng cổ hũ... Keng đâm say. Ngoài Lạt ra, anh chẳng nhìn thấy ai nữa. Ðôi mắt Lạt nhỏ dài ẩn dưới hàng lông mày rậm trông càng đen nhánh và cái mũi dọc dừa thanh thanh mới xinh làm sao. Anh sợ không dám nhìn lâu vào mắt Lạt, anh chỉ nhìn độc cái mũi thôi, càng nhìn càng thấy kỳ lạ, sao cái mũi dọc dừa đẹp thế mà từ trước đến nay anh không biết. Anh chỉ biết cái mũi của Ngọ, gãy và ngắn ngủn. Anh bỗng tin một cách chắc chắn rằng béo và gẫy mũi như Ngọ nhất định vô duyên, phải nhỏ nhắn và mũi dọc dừa như Lạt mới duyên. Những ý nghĩ mới mẻ và thật thà ấy lúc tỏ lúc mờ, lúc gần lúc xa, lúc lớn lên, lúc nhỏ đi, cứ xoay tít trong đầu Keng. Hai con mắt Keng đỏ ngầu, đờ ra. Toàn thân anh chao đảo. Rồi anh nằm vật xuống, chẳng còn biết trời đất gì nữa... Xế chiều, Keng thất thểu về nhà. Chuyện anh say rượu Lạt phải bôi vôi vào gan bàn chân và nấu nước đậu xanh cho anh uống đã bay về trước anh từ lúc nào. Vừa trông thấy mặt anh, ông Keng đã gầm lên: - Thằng kia, tao tưởng mày giỏi giang thế nào, để con mẹ góa nó bỏ bùa mê thuốc lú cho ăn mà không biết nhục à? - Nhục? - Keng giương mắt lên nhìn bố. Chưa bao giờ trông anh lại dữ tợn như vậy. - Muốn sống thì khai ra: mày với nó là thế nào, hử? - Chẳng thế nào! - Thế thì cút mẹ mày đi, cho khỏi vướng mắt tao! Cửa nhà ầm ĩ lên một lúc. Bà Keng phải can hai người, kéo Keng xuống nhà ngang. Keng đánh một giấc thẳng đến tối. Tỉnh dậy, vẫn thấy bố đang cáu kỉnh với mẹ ở nhà trên, về chuyện của anh, những "gái khôn tránh khỏi đò đưa, trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta" và biết bao nhiêu tội lỗi khác từ ngày đầu anh còn trọc lốc. "Vợ thừa! Ông cứ ra làm đội trưởng, quan hệ với người ta một dạo thử xem. Người ta như thế mà bảo là vợ thừa à?" Keng ấm ức nghĩ vậy, rồi lẳng lặng bỏ đi. Cũng chẳng định trước là đi đâu. Và cứ tự nhiên, anh lại đến nhà Lạt... * * *

Bây giờ thì Keng nhất quyết lấy Lạt. Làng xóm điều ra tiếng vào cũng nhiều, nhưng lấy Lạt đâu phải là một cái tội nên chẳng ai dại gì dây dưa vào. Lúc đầu bà mẹ Keng cũng không đồng ý. Về sau, vốn tính ôn hòa, bà xiêu xiêu dần: "Thôi, mặc mẹ nó, đời cua cua máy, đời cáy cáy đào!" Rút cục, chỉ còn độc ông Keng là khăng khăng phá. Càng phá, Keng càng lỳ ra. Anh chẳng cãi, cũng chẳng van xin, chẳng gì hết. - Thôi được, mày đã chó đen một mực thì ông cho mày miếng đất ở bìa làng, vợ chồng đem nhau ra đấy mà ở. Còn cái cơ ngơi này ông để cho thằng Chỉnh, ông lập nó làm trưởng, ông không cần mày. Ðồ ngu như chó, làm cỗ bưng đến tận miệng cho ăn còn bỏ. Chúng mày giỏi chúng mày tu tạo lấy, túng thiếu đừng có vác rá đến nhà ông! Cái dinh cơ, đối với Keng lúc này chẳng còn nghĩa lý gì: nó không đem lại sự yên ấm cho anh. Còn đời sống của vợ chồng anh thì đã có hợp tác đảm bảo rồi. Vả lại đã cho vợ chồng anh ra ở riêng, thế nào cũng phải cho anh mấy cây xoan với bè tre ngâm vẫn dành sẵn để làm nhà cho thằng Chỉnh. Còn thiếu thốn gì thì giật mượn bà con, chồng cày vợ cấy, cháo nóng húp quanh, công nợ trả dần cũng phải xong. Thấm thoắt, chỉ tháng trước, tháng sau Lạt đã có mang. Bụng chị mỗi ngày một tròn căng ra, thoi loi, hơi nhòn nhọn. Chị đi ngoài đường, bụng cứ đưa ra phía trước hai tay ve vẩy, dẻo như múa. Chị mua cá chép tươi nấu cháo ăn bổ thai. Người chị tươi ra. Chị cười, chị nói. Và chị làm ra làm. - Này, các bà ơi, sao các bà lại cắt công cấy của cháu? Cuối năm cháu đã nằm xó rồi, phải ưu tiên cho cháu mới phải chứ! - Thì việc bề bề ra đấy. Dưng mà anh Keng anh ấy bảo... - Dào, anh ấy bảo gì thây kệ anh ấy! Keng yêu vợ, muốn vợ nhàn. Lạt thương chồng, nhất định không nghe anh. Chị cấy giỏi, được bầu làm tổ trưởng. Hai vợ chồng bao giờ cũng dậy sớm nhất xóm. Keng đi đốc thúc công việc toàn đội. Lạt đi gọi các bà thợ cấy. Bao giờ chị cũng có ý về sớm hơn anh một chút để lo cơm nước. Nhưng nhiều buổi chị về đến nhà đã thấy anh hí húi ở dưới bếp rồi. Chị vội vàng cất nón, giằng lấy que cời. Anh quắc mắt lên, gạt tay chị ra, đưa cho chị cái quạt mo và quát chị bằng một giọng vui vẻ: - Mặt chín rừ ra như sốt thế kia kìa! Lên đầu hè ngồi quạt đi một chốc rồi ra ao mà rửa ráy! Nào chị có sốt. Chị sung sướng quá đấy thôi. Quãng đời góa bụa trẻ trung của chị kéo dài như một mối nghi vấn nặng nề đã chấm dứt rồi. Người ta bắt đầu nhìn cuốn sổ công điểm dày đặc những con số của vợ chồng chị bằng đôi mắt thèm muốn, hơi có chút ghen tị và cái nếp nhà nhỏ bé, mái rạ chưa kịp ngả mầu ngày càng thu hút bà con chòm xóm đổ lại chơi. * * * Cuối năm, gặt hái còn chưa xong thì Lạt thấy nặng bụng không đi làm được. Bao nhiêu công việc đổ cả lên đầu Keng. Anh bận tối mắt tối mũi, mười giờ đêm vẫn còn ở sân phơi. Thóc lúa rơm rạ cứ bộn lên quanh người, bụi bậm đầy đầu tóc. Rồi nhập kho, xuất kho, cân kéo, sổ sách với biết bao nhiêu chuyện phiền toái. ấy thế mà còn việc nhà: vại gạo đã hết nhẵn, thóc vẫn chưa xay. Keng mệt quá, chỉ nghĩ đến cái cối thôi anh đã phát hoảng. Anh đành vác rá về nhà, hỏi vay riêng bà mẹ mấy bát. Bà mẹ thương con, cho giấu nửa nồi gạo. Ðêm, bà lại ra xay đỡ cho mấy cối lúa. Vừa lúc ấy, Lạt chuyển dạ. Thằng bé con ra đời, chắc nịch, đôi môi đỏ chót, tiếng khóc vang choe chóe. Bao nhiêu chuyện không vui trong lòng bà Keng bay biến đi đâu sạch. Bà cứ quanh quẩn bên giường con dâu suốt đêm không chợp mắt. Tờ mờ sáng hôm sau, bà tất tưởi về nhà, vừa bước chân qua cổng đã làm toáng lên: - Ông nó ra mà chơi với cháu. Nhà Keng nở con giai rồi! - Con gi... ai à? - ừ, con giai. Tai nó to to là. Y như tai Phật! Ông Keng cười khẩy, cố làm ra vẻ lạnh nhạt. Và ông mang rượu ra uống, uống suông một mình. Bữa rượu thực vô vị, chỉ thấy cay sè. Nhưng ông vẫn cứ uống. Ông cũng chẳng biết mình vui hay buồn... Những ngày đầu, nhiều lúc Keng không dám tin mình đã có con. Anh đã có con thật, con giai, mới lạ lùng chứ. Thằng bé con anh nó khóc, nó đòi bú, nó tè, rồi nó cười - bé bằng cái hạt mít mà đã biết cười! - Tất thảy đều mới mẻ đối với anh. Anh không dám bế nó, sợ lọt tay. Chú Chỉnh thì dứt khoát anh không cho bế rồi. Ngay cả cô Trinh bế cháu gọn ghẽ thế, anh cũng sợ. "Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn" nhưng anh chẳng nề hà gì. Cơm nước, giặt giũ, tã lót... lúc nào bà nội, bà ngoại cháu bé chạy lại giúp thì thôi, còn không anh làm tuốt. Và anh cứ chạy ra chạy vào ngắm con suốt buổi. Ngày đầu cữ thằng bé, anh thịt con gà, mua cút rượu, mời bố ra chơi. - Thôi ông ơi, ông bớt giận... - Thấy chồng chần chừ, bà Keng giục khéo. - Tôi đã bảo với bà rằng họ nhà tôi không phải họ nhà tôm, cứt lộn lên đầu, bà đã hiểu chưa? - Ông Keng đã toan đi, vội quay ngoắt lại. - Sao tôi lại không biết! Dưng mà, nói cho cùng mình cũng chẳng thể chê trách vợ chồng nó được điều gì. Ông cứ ra nhà nó thử xem... - Tôi không phải thử. Tôi biết tỏng đi là chúng nó tài giỏi lắm rồi. Không ở cái lò nhà này ra mà tài giỏi được như thế à? Tôi đã ra là tôi ra để dạy bảo chúng nó... - Ông Keng gầm lên, chấm dứt câu chuyện một cách đột ngột và hầm hầm đi ra ngõ. * * * Hôm ngồi uống rượu với bố, Keng nhớ rất rõ lúc đầu ông cụ có vẻ miễn cưỡng và đôi mắt nhìn vừa lạnh nhạt vừa soi mói của ông như muốn nói: "Chẳng qua là vì thằng cháu tao chứ tao mà thèm ngồi uống rượu cùng chiếu với ngữ mày à!" Nhưng Keng không hề nao núng. Anh cứ lẳng lặng uống rượu, còn nhiều hơn cả bố anh và cứ lầm lì như thế, anh lôi cuốn bố anh vào cuộc vui khiến ông không sao cưỡng lại được. Tuy vậy, nhìn vợ Keng ông vẫn cứ thấy vướng mắt thế nào. Nó nựng nịu con nó thì tha hồ. Ðằng này, nó lườm chồng, giật lấy cái chai trong tay chồng, dốc tất cả rượu vào chén cho ông! Ông giận dữ san rượu sang chén của Keng, sai vợ Keng lấy nước mắm rồi nói, lưỡi líu lại: - Nó không muốn cho anh uống, anh lại càng phải uống. Cứ uống cho say vào. Anh hãy thử ngẫm đời bố anh mà xem. Làm thằng đàn ông muốn dựng nên cơ nghiệp thì không được để vợ nó xỏ mũi, nghe chưa! Chính qua giọng nói bầu bạn và hơi suồng sã ấy, Keng bỗng nhận ra một sự thay đổi rất lớn lao trong quan hệ giữa hai bố con anh. Từ trước tới nay, bố anh vẫn là người to nhất nhà. Bây giờ anh cũng đã có gia đình riêng. Anh cũng là người to nhất nhà. Không anh thì còn ai nữa: Suốt vụ gặt mùa, độc một mình anh làm quần quật. Anh bảo đảm cơm áo cho tất cả - vợ anh, con anh. Ðời nào anh lại để cho vợ xỏ mũi! Hễ vợ nói gì là anh gạt phắt ngay đi: - U em không phải lo lắng gì cả. Cứ ở nhà mà ôm con. Con nó không ươn sài là tốt rồi. Còn mọi việc để mặc tôi! Ban đầu, Lạt cũng cho thế là phải. Chị chỉ quanh quẩn ở nhà với con, lúc nào cũng nâng thằng bé như nâng trứng. ít hôm sau, Lạt đã khỏe, ra gió không thấy chóng mặt nữa, nỗi nhớ đồng dần dần thức dậy trong lòng chị. Ðêm nào đội sản xuất họp chị cũng không ngủ được, cứ ôm con đi ra đi vào, lắng nghe những tiếng ồn ào từ bên kia rào vọng sang, cố đoán xem người ta đang bàn bạc, tranh cãi nhau chuyện gì. Vừa thấy tiếng kẹt cổng, chị đã hỏi luôn: - Thầy em về đấy ư? Họp gì mà ồn lên thế? - Gần nửa đêm rồi sao không đi ngủ đi? - Keng trừng mắt nhìn vợ, tỏ vẻ không bằng lòng. Nhưng Lạt cũng chẳng kém, chị nhìn lại anh trân trân. Keng đành phải trả lời, gắt gỏng - Họp chia công điểm vụ chiêm! - Thế nhà ta nhận bao nhiêu? - Tôi xin rút hăm nhăm công. - Sao lại rút? - Thì u em tính, có độc mình tôi, lại còn công tác. U em thì vụ cấy này hẵng cứ "cho ra ngoài vấn đề!" - Ngoài vấn đề! Lạt bật ngay dậy - Tôi khỏe rồi, mai tôi đi làm cho xem. Quanh quẩn ở nhà mãi, cuồng cả chân cả tay lên! - Dào, sợ rồi không có sức - Keng kéo dài giọng mỉa mai - Dưng mà bây giờ tôi thử hỏi, u em đi làm thì vứt con cho ai? - Tôi gửi nhà trẻ. - Nhà trẻ? Hay hớm lắm đấy! Người ta con đàn con lũ, người ta mới gửi nhà trẻ. Ðằng này mình... - Mình làm sao? Ðừng có mà giở chứng! Lạt bế con ra gửi nhà trẻ thực. Chị đi trồng màu. Bấy giờ đã cuối tháng chạp. Lúa tháng chạp, đạp không đổ. Hợp tác dồn toàn bộ nhân lực ra đồng, quyết giật cờ thi đua cấy chiêm xong trước tết của huyện. Keng đi suốt ngày, đêm đến lại họp hành, mờ cả mắt. Anh phải tổ chức nhổ mạ thi, cấy thi và hàng đống công việc tuyên truyền động viên khác. ấy thế mà về đến nhà, nhiều khi cơm nước vẫn chưa xong, con chưa đi đón về, là vì tổ trồng màu cứ bị rút người dồn sang bộ phận làm chiêm. Lạt không thể về sớm được... "Chuyện mới lạ lùng chứ, đàn bà không ở nhà cơm nước, không trông nom bú mớm cho con là nghĩa làm sao?" Keng nghĩ vậy và anh gắt toáng lên. áp Tết, đội Keng cấy vẫn chưa xong, lại toàn phải cấy vá đồng. Rồi còn phải cày màu gấp, đợi mưa xuân. Giữa lúc ấy ông chủ nhiệm đến gõ đầu anh: - Sao không điều trâu sang tương trợ đội ba, hử ông anh? - Thì tôi đã bảo... - Keng đang nóng ruột như lửa đốt, giọng càu nhàu. - Bảo cái con tườu! Ông chủ nhiệm la lên - Anh chỉ biết khư khư ôm lấy cái đội của anh thôi. Ðội ba nó để chết trâu, lỗi ở nó, nhưng giờ nó cày chiêm còn chưa xong, mình là cán bộ của hợp tác xã, mình phải nghĩ đến quyền lợi chung chứ... Thôi, anh điều ngay hai con trâu đang cày màu về đi. Keng đi nhổ mạ, lòng ấm ức không yên. Nghĩ đến hai con trâu của đội mình phải cho đội người mượn ruột anh xót như bỏ muối. Cứ như ý anh, các đội đã được chia phần đều nhau rồi, anh nào vụng tay thì sảy miệng, cho thế mới trắng mắt ra. Nhưng về đến nhà, tuyệt nhiên anh không hé răng nói cho vợ biết câu chuyện đó. Anh tự hiểu, "đứng trên tinh thần cán bộ", nghĩ như anh là sai. Vả lại đó là chuyện công tác của hàng ngũ cán bộ, chuyện đàn ông với nhau, chuyện riêng của anh. Anh là chủ gia đình. Còn vợ anh, dù sao cũng là đàn bà... Kể từ hôm đó, anh đâm ra lì lợm, bắn gắt, vợ nói gì cũng gạt phắt đi. Hai mươi chín Tết, Keng vẫn phải chạy suốt ngày vì theo quyết định chung, đội anh phải dốc toàn lực ra đồng cấy cho xong. Tối nhọ mặt người, Keng mới về nhà, bụng đói meo, chân tay mỏi rã rời. Bữa cơm đã dọn sẵn, có lòng lợn, nước suýt và một cút rượu nhỏ, xem ra đã có mùi Tết rồi. Hai vợ chồng ngồi ăn, vừa trò chuyện, vừa nhìn ngắm nhau thực vui vẻ. Keng bỗng nhớ hôm nào, anh say rượu ở nhà Lạt. Hôm nay anh cũng phải say như thế, hoặc hơn thế. Thì đã sao! Anh say ở nhà anh, người vợ đảm đang và rất mực yêu chồng sẽ săn sóc anh kia mà! Giữa lúc Keng đang mơ màng. Lạt đứng dậy: - Ðêm nay thầy em ở nhà trông nồi bánh nhá. Tôi đi đây... Ðến khuya tôi mới về. Keng choàng tỉnh ngay khỏi cơn say: - Ði đâu mà khuya mới về? - Ði cấy. - Cấy hứ? - Chứ gì. Phải hùa vào cấy cho chóng xong còn về ngủ để mai đi chợ huyện sớm mua thức nấu. Ba ngày Tết chẳng nhẽ ăn thịt không à? - Lạt dừng lại, rồi hạ giọng xuống như dỗ dành - Thầy em xem, người ta đã đốt đèn măng sông sáng trưng lên ở ngoài đồng kia kìa. ánh đèn măng sông hắt qua bụi tre chiếu vào tận sân nhà Keng, soi tỏ những vạt sương xanh mỏng bay rập rờn như khói. Chính Keng đã bàn với tổ thanh niên xung kích đốt đèn măng sông đem ra đồng. Nhưng đấy là chuyện khác... - Không đi đâu cả - Keng bỗng quát lên - Ði rồi vứt con ở nhà cho ai? - Còn cho ai? - Tôi hứ? Tôi không có vú để bịt miệng nó! - Không có thì chạy sang bà Thủy cho nó bú nhờ - Lạt dừng lại rồi bỗng chạy vào buồng bế con ra - Hay thôi, để tôi đem gửi dì nó quách cho anh được nhẹ mình! Thấy vợ đi, dáng quả quyết, Keng đứng phắt ngay dậy: - U em, không đi đâu cả. Tôi đã bảo... - Anh bảo cũng chẳng bằng chị em người ta bảo tôi. Trái lè lè... Lạt hất tay chồng rồi bế con đi ra ngõ, vừa đi vừa hôn hít nựng nịu thằng bé, như để trêu tức chồng. Keng ngồi trơ một mình. Anh không dọn mâm bát, không nhóm bếp luộc bánh, không gì hết. Anh đi nằm, trùm chăn kín mít, ấm ức một mình. Rồi sau anh điên tiết lên, không ấm ức nữa. - Mình thương yêu nó, mà nó tệ. Ðược giữ cái chân tổ trưởng tổ cấy một vụ, bén mùi rồi mà, cứ tớn mãi lên. Nó đã bảo mình trái thì mình trái cho nó biết! - Và anh quay ra ngủ luôn. Lát sau, Keng choàng tỉnh dậy. Bên hàng xóm có tiếng gà kêu quang quác và ánh lửa ninh bánh chưng hắt qua kẽ vách nhà anh thành những đường kẻ vàng rực. Keng đã dã rượu, nhớ ra ngay tại sao nhà mình lại vắng vẻ và tối như hũ nút. Anh bàng hoàng cảm thấy bầu không khí bao quanh anh sao căng thẳng , nặng nề, giống như bầu không khí trong gia đình anh cũ, bầu không khí đã từng làm anh bức bối và anh đã cố thoát ra. Thực quả anh không chủ bụng ngủ. Không hiểu sao anh lại ngủ, cứ y như bị ma làm... Anh vội vàng chạy ra sân, vã nước lên mặt và kiễng chân nhìn qua rặng tre, dõi tìm vầng sáng xanh trong của ngọn đèn măng sông ngoài đồng xa. Rồi lật đật xuống bếp, xòe diêm, nhóm lửa đun nồi bánh. Anh đun thốc đun tháo, bao nhiêu củi gộc chất vào cũng không thấy vừa, cứ chốc chốc lại mở vung nồi ra ngó xem nước đã sôi chưa.">

Bà lão lòa

76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, một bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn thay, dưới nách hai đứa con mọn, cũng đã lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn. Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó phá, nó bán ruộng, cầm nhà rồi nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con, tuy có giận mà vẫn có thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà còn giàu có, ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô trong lúc hoạn nạn. Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô được độ ba năm, bác đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước, bác ta chỉ còn biết xót ruột khi thấy bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác. Buổi chiều hôm ấy... Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ một trận gió to là đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm bát đàn đũa mộc trong để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cà đen sịt đen sì, cầm trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là cùng cầm đũa. Ðàn ruồi vù vù bay lung tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt mụn chốc trên đầu thằng cu con lại bay xuống đặt mình vào đĩa cá. Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ súng, trán răn, má hóp, mắt kèm nhèm, mặc cái áo vải đã đến năm mười miếng mụn, đóng khố, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy bát cơm, vợ đã vội hỏi: - Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...? ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu với một mẹt tôm riu năm xu là bảy đấy thôi. Gạo ăn bữa mai hết rồi... - Hôm nay được thêm mẻ lươn thì, ác quá, gặp đứa nào cũng trả rẻ, lang thang khắp chỗ, mãi đến chiều chẳng thấy ma nào hỏi lại phải bán tống bán tá tháo đi... cả ếch cả cá cũng chỉ được ngót hai hào. Vợ nhìn chồng thở dài rồi lại nhìn đến niêu cơm. Thằng cu lớn xới một bát nhường cho em, còn mình thì cầm cái đũa cả, gắp những hột còn dính lại. Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lẩy bẩy chìa bát ra toan xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái đã quát: - Hết rồi...! Còn đâu nữa mà chìa mãi bát ra... Ðến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng thôi đấy... Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít cũng được. Bà lão giật mình, đớ người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng. Mặt trời sắp lặn, còn xiên qua lũy tre xanh, tầu lá chuối mà rọi ánh sáng đỏ đó vào gian nhà. Dưới những đám mây thiên hình vạn trạng mầu cá vàng chăng dọc chăng ngang phủ kín một bầu trời, một đàn sếu xếp hàng chữ nhân bay từ Bắc về Nam, vươn cổ kêu oang oác. Trên mấy ngọn tre gió thổi ngả nghiêng, dăm ba con chèo bẻo tung tăng chuyền cành này sang cành khác, còn đua nhau hót như muốn cất giọng chào mặt trời trước khi vào tổ. Bà lão lòa ngồi trầm ngâm chống tay lên trán, nhân hôm ấy chiều trời êm ả, gió thổi hây hây, chim kêu xào xạc mà một mảnh đời dĩ vãng như một luồng chớp nhoáng, trong trí bà lại hiện ra: Ngoài cổng, một ông lão ăn mày lụ khụ đến ăn xin. Con vện con vàng đang nằm trong sân bỗng nhảy xổ ra cắn xa xả. Tiếng mặt bà ngồi trên sập gụ bên trong quát thằng nhỏ ra mắng chó, giắt ông lão ăn mày vào thết một lưng cơm. Bác nhiêu B, vừa bị nạn hỏa, rủi đâu, vợ lại hậu sản mà chết. Trong gian nhà lụp xụp, thằng cu lớn, cái đĩ con ngồi mã la mã lệnh dưới đất với thằng cu mới đẻ, cuộn tròn trong cái tã nâu, nằm ngay cùng giường cái xác mẹ nó. Tiếng ba đứa trẻ khóc như ri. Cả đêm hôm trước, bố chúng nó ôm đầu mà khóc, sáng hôm sau mới bảnh mắt đã thấy đội nón ra đi, mặt trời lên đến đỉnh đầu rồi mà chưa thấy về, bụng chúng nó đói cào như muối xát. Bỗng thấy ai nói văng vẳng như tiếng bác nhiêu. Thằng cu lớn quệt nước mắt, lủi thủi bước ra... Quái thay! Một bà khách lạ nào miệng bỏm bẻm nhai trầu, váy sồi, áo lụa, xệ nệ trên đôi dép da cong, bước vào nhà ôm lấy thằng cu con mà kêu: tội nghiệp...! Rồi thấy bà khách cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc, bác nhiêu đưa hai tay nhận lấy, dòng dòng nước mắt tạ ân. Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi tanh xông lên nhức đầu, một đám đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới, tay ôm đưa bé chừng bốn năm tháng. - Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy ạ. - Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng. Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!... Người nọ xô người kia, chen nhau len vào. Có người đứng ngoài, không hiểu chuyện, tưởng họ mà cả gà, khi kiễng chân, nghển cổ nhìn vào mới rõ. Giọng nói phều phào một bà cụ già lụ khụ: - Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng thì tôi trả ngay...! Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, người trông phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi: - Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải bán con đi thế? - Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con, mất đứa này còn mong đẻ đứa khác chứ để chồng chết thì rồi tất chết cả mẹ con cháu. Nước mắt chảy xuống dòng dòng, nỗi thương đưa lên nghẹn cổ, người đàn bà không nói được nữa, gục đầu xuống mặt con mà khóc nức nở. - Này...! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho bác trai. Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn lên, mãi chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao, giơ tay ra nhận tiền, rồi không biết nói thế nào với vị ân nhân của mình, phục ngay xuống đất mà rưng rức khóc. Ðám người tản mát, có kẻ thì thào: người đâu mà phúc đức tệ! ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm nhờ cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan nghiệp chướng chi đây, nghĩ thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng con cái bác đánh giậm, bà lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt nước mắt chảy ròng ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy sụt sùi hậm hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng khóc thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói: - Này bà! Bà đừng làm sốt ruột...! Bà ăn xong bà đã chẳng làm được việc gì thì cứ ngồi yên một chỗ hay ẵm cháu giúp tôi, bà đừng có sụt sùi khóc lóc, đây không ai chết mà bà phải khóc... Giọng nói day dứt mà lanh lảnh như từng nhát búa bổ vào thành sắt vang động bên tai, bà lão hoảng hồn trong hai con mắt lòa trợn trạo cầm nước mắt cho khỏi chảy ra, trông rõ đôi tròng trắng đảo đi đảo lại... - Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng tôi không thể nuôi bà được nữa đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấy... * * * Ðã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về. Trong bọn những người chợ búa qua lại con đường cái quan, tạt vào đường đê, thấy một bà lão lụ khụ, hổn hển thở, ngẩng đầu chìa nón kêu van, cũng đôi khi có người vứt cho một vài đồng kẽm. Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - cháu bà - lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ: - Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nào...! Bà có biết thế là bà lại ăn phần cơm của thằng cu lớn đấy không? Từ mai, bà liệu mà kêu to lên mới được... Hay tại bà ngồi dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp đi...? Bà liệu đấy...! Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh bằng nước mắt. Một ngày kia, trời tháng ba nắng gay gắt, bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng thấy người khách đi đường nào vứt cho lấy một đồng trinh. Trên cành cây, thỉnh thoảng lộp độp rơi xuống đường đê một vài bông hoa gạo, mỗi khi quạ cái tha mồi về tổ cho con lại đập cánh sập sè vươn cổ kêu: quà! quà...! như gợi một mối thương cho người ngồi dưới gốc. Xa xa, trong cánh đồng bát ngát một màu xanh, mấy người làm ruộng nhễ nhại mồ hôi, chẳng ai buồn nói chuyện với ai. Một đàn chim vành khuyên trong bụi rậm kia đang chuyển cành này sang cành khác cũng không con nào kêu hót, kiếm ăn một cách rất lặng lẽ. Phong cảnh dường như mệt mỏi. Những tiếng vang động đều bị sức nóng mặt trời át mất hẳn đi. Trên con đường cái quan, thỉnh thoảng thấy tiếng một cái xe hơi như một mũi tên bay, vo vo chạy qua rồi biến mất vào trong đám bụi mù xa tít,... bốn bề im lặng như tờ. Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn nhó, cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển. Chợt có tiếng người dẫm lạo xạo trên đống lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa ngay nón: - Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại...! Cứu cho thân tôi lấy một miếng cơm... - Tôi đây...! Phải ai đâu mà lạy với lục...? Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôi... - Ðã được đồng nào đâu...? Chẳng thấy ai đi qua đây cả... Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, tôi đói lắm rồi...? - Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều này, rồi họ về qua đây nhiều... chốc nữa, tôi sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt...! Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi, cái váy cũn cỡn để lộ hai ống chân trùng trục, đen thui, giỏ cua đeo sau lưng cũng theo nhịp từng bước mà lắc đi lắc lại... Về đến nhà, sung sướng thay đã thấy bác trai ngồi phì phèo thổi lửa làm cơm dưới bếp. Nghĩ thầm hẳn bố nó hôm nay được mẻ phát tài, bác ta rửa chân tay xong, vào hú hí ngay với con. Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn lại, rồi nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào nhà, giục thằng cu lớn mau mau chạy ra để dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe câu ấy, bác gái ngồi ôm con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: thật vậy! ba bốn năm nay, bác ta đã nhịn như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc kệ bà ấy! để bà ấy chết quách đi cho rảnh mắt...! Rồi hiện ra lần lượt trong trí bác những ngày trở trời trái gió, những ngày lửa hạ chang chang, ruộng khô đồng nứt, kiếm chẳng ra tiền, hai đứa bé bò nheo bò nhóc, một niêu cơm ngô chia khắp cả nhà, bụng mẹ đã chẳng được no, còn lấy đâu ra sữa nuôi con... Mà bà lão lòa kia thì, ngày kiếm được một vài xu cũng như ngày không kiếm được đồng nào, chẳng nhịn được bao giờ, cứ đến bữa là ngồi vào mâm, chìa bát ra cho thằng cu sới. Không, không! Không thể thế được...! Bà lão ấy chỉ là một bà cô... mà lại là cô họ một người chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhau...? - Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào...? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à? Ông lại đét cho bây giờ. Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn mình nhăn nhó: - ối trời đất ôi...! ối trời đất ôi...! - Chết chửa... làm sao thế? Sao thế hở mẹ nó? - Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế này! ối trời đất ôi, đau thế này thì đến chết mất thôi... - Chết chửa! Kìa thằng cu... ẵm em dỗ đi... dỗ đi cho nó nín đi rồi dậy đấm cho u mày một chốc... để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậy... Rõ khổ chửa? Bên ngoài mấy hạt mưa bắt đầu ném vào mái tranh lộp độp rồi trời đổi cơn xuống rào rào. Dần dần mưa càng to, gió càng mạnh, mỗi lần một luồng gió thổi trên không nghe ào ào là một lần nước đổ như trút xuống sân. Trời tối mịt. Thấy mẹ đã ngủ được yên, thằng cu bước xuống đất, phong phanh trong tấm áo vải, ra tựa cửa đứng nhìn. Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoáng chớp nhoàng nó lại nom rõ thấy giữa những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. Rồi thỉnh thoảng lại đánh "đoành" một cái, những tiếng sét vang trời đánh nhịp, hòa theo với tiếng mưa rả rích, tiếng sấm hục hặc, nổi sôi... Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết ra sao, quay lại nhìn thì bố nó vẫn lúi húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không, thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt: - Kìa thày! Thế bà ở ngoài đầu đê? Nó chưa nói hết câu, bố nó đã như bị một luồng điện giật, nẩy người ra, mắt tròn xoe, mãi mới nói được. - Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ? U mày đau bụng, kêu rối rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất... - Thế thì chắc bà chết rét mất rồi... Còn gì nữa... Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đê - tình cháu đối với cô - bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáy. Nhưng bác tự dối lương tâm, bác đáp lại con: - Ôi già... chả việc gì phải sợ... dễ bà lại không biết lần mò đến một cái quán nào đấy mà ẩn hay sao...? Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lại. Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt đêm. Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những đám mây bay tan tác, chiếu xuống, trông lại càng tươi càng đẹp. Trên mặt đường đê, nước đóng từng vũng, những người đàn bà gồng gánh ra chợ phải xắn váy vén quần, lội bì bõm, hễ ai hơi trượt, chân muốn ngã là cả bọn lại khúc khích cười. Những đám cỏ bấy lâu phơi nắng xám cả màu, sau một trận mưa rào đã trông thấy ngay cái vẻ tươi tốt. Trên mấy cây bàng, một đàn chim sâu, con ngửa cổ uống nước, con đập cánh rũ lông, kêu hót vang tai. Vệ đường loáng thoáng thấy cành cây rơi rải rác... Phong cảnh trông có vẻ khoan khoái. Cái khoan khoái của phong cảnh sau trận mưa rào cũng như cái khoan khoái của người sau khi tắm gội. Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khố, cài rổ, vác vợt ra đi... Mon men ở dưới chân đê, lội lõm bõm qua mấy vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo - chỗ bà lão lòa vẫn ngồi, bác thấy giữa ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay con liệng, kêu sào sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi đây, bác ta vác ngay một vợt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lại. Ðàn quạ vùng bay lên rồi tản mát đi... Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống cạnh một cái xác, cái xác một người đã bị quạ mổ nát nhừ, xác bà lão lòa bị gió thổi xuống ruộng đêm hôm trước.

Bà mụ của búp bê

Tiếng khóa cổng lách cách, tiếng xe nổ. Tiếng càu nhàu của con dâu ông. Ðó là những âm thanh cuối cùng mà ông lão đợi - ông biết chúng đã đi làm, hai con bé đã đi học mà bây giờ ông và con Lỡ sẽ tự do trong ngôi nhà vắng lặng. Ông chui ra khỏi cái hộp của ông, một cái buồng nham nhở, hai mặt tựa vào hông tường và bếp, một mặt che tấm ván ép, một mặt trống hoác làm cửa ra vào. Ông đã quen đổi chỗ từ hai mươi năm nay, khi con ông trở thành chủ nhân trong ngôi nhà của cha mình. Từ lầu đến trệt, từ phòng trước đến phòng sau, từ phòng rộng đến phòng hẹp và bây giờ kề bên bếp. Lần này thì chính ông đề nghị: "Bây để tau xuống nhà sau ngủ. Tau hay đi tiểu đêm mà cửa thì bây khóa...". "Không khóa để ông đi ra, kẻ trộm đi vào à?". ' Con ông càu nhàu. Còn vợ nó thủng thỉnh: "Mùa hè, nằm đó khác chi hứng gió biển". Nằm đó là nằm ở khúc nhà ngang nối liền nhà trên với bếp. ở đó có mái nhưng tường không che chắn kín đáo như nhà trên. Thồng lộng. Con ông che tạm cho ông cái buồng này và bảo: "Rồi thư thư... con xây thành phòng". Tối đến khi cánh cửa thông đã khép, cắt ông với thế giới "trên nhà", ông thấy dễ chịu khi được một mình với yên tĩnh và bóng tối. Ông có thể ngắm cả mảng trời sao nhấp nhánh. Cả vầng trăng viên mãn tròn đầy. Cả lúc trăng mỏi. Cả những bóng cây vật vã vào nhau trong đêm mưa gió. Cũng còn dễ chịu hơn rón rén đái vào bô, từng tí, từng tí để tiếng nước tiểu không làm con dâu thức giấc, còn hơn níu tiếng đằng hắng cứ chực vọt ra khỏi họng. ở đây, ông có thể tự do đi lại, uống nước khi không ngủ được. Người già uống nhiều hơn ăn, ông có thể uống trà trừ bữa. Nhắc trà ông lại nhớ chén - cái chén sứ men lam bắt tuấn mã ông thường dùng nay đã cất trong tủ buýp-phê trên nhà. Ông có thói quen vừa uống trà vừa ngắm cái vẻ dữ dằn tuấn vĩ của tám con ngựa ở tám tư thế khác nhau. Nét vẽ sống động bằng màu xanh đậm mà vẫn trong như ngọc bích. Men trắng xanh lơ quý phái. Trà sóng sánh vàng bốc khói, tám con ngựa oai phong lẫm liệt. Uống trà trong chén ấy mới tuyệt làm sao! Nhưng chúng nói phải. Chén quá quý mà tay mình thì run - vỡ uổng lắm. Ðể còn mà ngắm - ông lão lại chép chép miệng móm mém rồi đi tìm con Lỡ. Nó đang kéo lê đôi chân cong vòng, nhỏ như cây sậy đi tìm ông. Nó ngủ trên kia nhưng khi cả nhà đi hết, nó lại được thả xuống cho ông. Con và dâu ông mắc một chứng bệnh kỳ dị - bệnh sạch. Ði làm về là chúng dọn dẹp lau chùi cho đến khi bóng như lau như li. Ðồ không dám dùng. Ngồi không dám dựa. Con cái không được chơi làm bẩn đồ đạc bóng lộn. Chúng làm lụng cực nhọc nhưng chúng không thuê người giúp việc vì sợ thêm người thêm bẩn. Vả lại đời nay biết đâu mà tin. Con Lỡ toét miệng cười với ông. Ông đến bế nó. Ngó nó lết mà thương. Nhưng ông không bế nổi con bé. Hai ông cháu lảo đảo. Ông ngồi chỗm hỗm cho nó bá cổ. Con Lỡ nằm bẹp trên lưng ông và hai ông cháu đi đến chỗ để thức ăn. Con Lỡ vừa ăn vừa "khóc" như mọi khi. Cũng như mọi khi, nó vừa ăn vừa đút cho con búp bê trụi tóc, gãy tay của nó. Cha mẹ nó chẳng chờ đợi nó ở ngôi nhà này. Họ đợi một đứa con trai. Mẹ nó đã quay lưng khóc khi cô đỡ chìa ra một cô bé gái nhăn nheo, đau khổ như một bà cụ. Ðứa con gái thứ ba! Lại xấu xí! Lại gầy gò vì thiếu cân, thiếu tháng! Lại bị què sau trận sốt tê liệt khi lên hai!. Ðôi lúc người mẹ cùng ăn năn. Giá chăm chút nó như hai đứa trước, uống, tiêm phòng đầy đủ. Thôi thì lỡ rồi. Lỡ sinh. Lỡ quên. Ngưòi ta gọi nó luôn là con Lỡ. Nó lại bị cái gì đó ở tuyến lệ nữa. Nước mắt cứ ri rỉ ngay cả khi nó cười: Trong ngôi nhà sạch bóng, tươm tất này, nó và ông thật lạc điệu - xấu xí, vô dụng - ông đọc điều đó trong cái nhìn. ăn xong, hai ông cháu ngồi chơi trên chiếc ghế mây dưới bóng cây. Một già một trẻ có thể ngồi đó suốt buổi cho đến khi có tiếng khóa lách cách trở lại. Con Lỡ lắng nghe ông nói, không hiểu, không khen chê nhưng vẫn nghe. Nó thường bắt lấy chữ cuối của ông làm chữ đầu của nó. Tuổi tác có ý nghĩa gì khi mọi sự đều trở về. Tóc trở màu, con người lại bắt đầu như một đứa trẻ, yếu đuối, bất lực, sợ hãi, ngây thơ. Thường ông kể chuyện cho nó nghe, chuyện đời, chuyện xưa nay, bày cho nó đếm, nó đọc. Còn nó bày cho ông bán hàng bằng lá, chơi búp bê. Sáng nay mặt con Lỡ đầy vẻ nghiêm trọng. Nó cứ nhìn chăm chăm con búp bê cũ kỹ hai đời chị quẳng lại cho nó và bảo ông: - Sáng nay con búp bê sẽ đẻ con. - Sao cháu biết? - Nó nói. - Nó nói sao? - Nó nói nó đau bụng. Con nó ở chật bụng nó. Ông lắc đầu. Bao giờ con bé cũng ao ước con búp bê đẻ. Mẹ nó biết đẻ. Con mèo biết đẻ thì tại sao con búp bê không đẻ? Nó sẽ đẻ một con búp bê tóc vàng, má hồng và lành lặn. Ðôi khi cả một bầy búp bê cũng có! Giá mình có thể "đẻ" cho nó một con thế nhỉ! Ông lão lẩn thẩn nghĩ. Tia mắt già nua đậu trên con bé Lỡ. Ðậu trên những chiếc lá vàng nâu nằm uể oải trên mặt đất. - Ông thấy không? Con Lỡ lắc tay ông - Bụng con búp bê sáng nay bự chác. Nó đựng đầy con. Nhưng con nó làm sao ra được? - Thì... thì... cũng như bà cho ra ba cháu. Mẹ cháu cho ra cháu. Có một bà tiên người ta gọi là bà mụ. - Thế bà mụ của búp bê đâu? - Cháu đấy! - Cháu không biết làm bà mụ. Bà mụ phải làm gì? - Gối lên chân ông ngủ và đợi. - Không, cháu không ngủ. Con bé lắc đầu quầy quậy. Ông nhớ lại lúc con mèo mun đẻ. Con bé đã ngồi bên nó suốt buổi để đợi xem em-bé-mèo. - Cháu không ngủ. Có bé lập lại, nhìn ông bướng bỉnh. Chính lúc ấy ông mới thấy mắt con bé đẹp vô cùng - trong như nước hồ thu, ươn ướt. "Giống hệt mắt bà ấy" - Ông lão thì thầm. - Bà ấy nào? - Bà cháu. Rồi ông lão nhìn đăm đăm vào khoảng trống trước mặt, dường như bà hiện ra ở đó, mãi mãi ở tuổi thanh xuân với những dải nước màu đen sóng sánh, đôi mắt trong ngần, đôi má vàng óng nắng, phơn phớn lông tơ. - Này ông! Sao con búp bê lâu đẻ thế? Bóng bà tan biến. Con Lỡ nhìn ông chăm chú: - Ơ! Mắt ông cũng có nước. Mặt ông lại nhăn thêm nữa. Một, hai, ba, mười, mười lăm... Nhiều quá. Chẳng ai nhiều như ông, đếm bắt mệt! - Tại năm tháng đó cháu. Năm tháng đi qua để lại dấu vết. Ông đã sống nhiều năm tháng quá rồi! Và bà lại hiện ra, một bà lão khô héo, cái lưng nằm mãi vì bệnh đến lở lói. Khuôn miệng cay đắng thốt những lời cay nghiệt. Ðôi mắt mờ đục chất ngất mệt mỏi. - Thế ông cất năm tháng của ông đó à? Khi hết chỗ ông sẽ cất ở đâu? - Khi đó ông chết. - Ðừng... cháu sẽ chơi với ai? Miệng con bé méo xệch - ông đừng chết. Cháu sẽ cất giùm ông nếu ông hết chỗ. Ông đừng chết! - Chưa chết đâu! Con búp bê gọi cháu kìa! Con bé lại quên ông. Nó quay qua con búp bê mất tay: - Này đau bụng hả? Mày đẻ con thôi. Mày đẻ một con búp bê tóc vàng đẹp như công chúa, không trụi tóc, không gãy tay. Con mày sẽ đẹp dùm mày. Con-mày-sẽ-đẹp-dùm-mày. Chao ôi! Con Lỡ nói một câu hay quá. Ông nhìn cháu ngạc nhiên. Ông nhìn hai cẳng chân cong vòng, nhìn thân hình èo uột, mái tóc lơ thơ và chợt nhận ra nó không ngô nghê như hai chị nó, rằng ông quá hoài phí năm tháng để hiểu điều này. Trong bản chất mỗi con người, mỗi sự vật, có cái người ta không thể học được. Ôi con Lỡ của ông! Từ khi bà mất, lòng ông nguội lạnh. Chính con bé què quặt ốm yếu này đã hâm nóng nó lại. "Ai mạc ư tâm tử". Mọi sự đau xót không gì bằng nguội lạnh con tim. Thật đúng! - Ðúng là con búp bê sắp đẻ phải không ông? - ừ. - Nhưng lâu quá! Con bé rên lên nhìn ông nôn nóng. Con - nó-làm-đẹp-cho-nó. Con người được cứu vãn nhờ sự tái sinh. Ông không thể dập tắt niềm tin ấy của con Lỡ. Ông lão trầm ngâm suy nghĩ rồi đứng phắt dậy: - Nó sẽ đẻ! Ông lão dõng dạc tuyên bố. Có điều cháu phải kiên nhẫn chờ. Ông đi mời bà mụ đây. Cháu sẽ giúp ông bằng cách ngồi yên trên ghế, không được rời con búp bê. - Mau lên ông! Cháu sẽ ngồi yên mà! Con bé rối rít giục. Ông lão tất tả ra cổng rồi đột nhiên ông khựng lại, quay lui. Cả hai ông cháu tuyệt vọng nhìn cái ổ khoá cổng to tướng. Con Lỡ bắt đầu thút thít. - Ðừng khóc! Ông có cách rồi. Ông đi tìm cái ghế cao con ông vẫn dùng để tỉa hoa giấy. Nó được dựng gần tường. Ông kéo nó sát hàng rào, vụng về, khó nhọc. Ông dặn con Lỡ lần cuối trước khi leo lên: - Nhớ ngồi yên. Ðừng tụt xuống té nghe! - Dạ! Ði nhanh ông nghe! Ông già bắt đầu trèo lên chiếc ghế cao. Chân ông run run, lóng nga lóng ngóng nhưng lòng ông rạo rực. Thằng bé nghịch ngợm trong ông hồi sinh - cái thằng cu Ðen thề không đặt chân xuống đất khi ở nhà một mình. Nó chỉ nhảy từ bàn qua ghế, từ ghế qua giường... Ông ngồi trên bờ tường nhìn xuống đường. Bây giờ ông phải xuống đó không có ghế. Ông bấu tay vào gờ tường và tụt xuống. Cứ nghĩ mình đi - ngược-lại. Ông vừa tụt xuống vừa lẩm bẩm và niềm vui lẫn sợ của thằng cu Ðen trèo tường đi chơi cứ làm tim ông đập thình thịch. Thời gian không thực có. Nhảy đi, cu Ðen! Nửa thước chứ mấy. Ông lão nhảy. Thằng cu Ðen táo tợn vỗ tay. Còn ông lão đau quá, khuỵu xuống. Ông nhăn mặt nhưng sực nhớ con Lỡ, ông đứng dậy, ông vịn tường bước khập khiễng. Ðể đỡ đau, ông tụt dép cầm tay. Có năm năm rồi ông không ra đường. Phố xá bây giờ lạ quá. ông lại là đứa con nít sợ lạc trước dòng người và xe cộ nườm nượp. "Này nằm yên đó. Ông sẽ về bây giờ với bà mụ và mày sẽ hết đau bụng, sẽ đẻ cho tau một con búp bê tóc vàng, lành lặn - con Lỡ thầm thì. Nó cảm thấy buồn đái, nhưng nó nhớ lời ông dặn không được rời con búp bê, không được tụt xuống té. Mày cũng khó chịu thế chứ gì. Như tau buồn đái thế thôi". Con bé ôm bụng nhăn nhó. Con búp bê mở to đôi mắt biếc có hàng mi cong vút nhìn trời. "Chịu khó đi rồi con mày sẽ làm đẹp cho mày. Con mày sẽ không rụng tóc và gãy tay như mày. Con tau... không biết rồi con tau có làm đẹp cho tau không? Chân tau không như mọi người. Tau không làm đẹp cho mẹ và mẹ không thương tau!" Con bé thở dài. Hoa nắng bắt đầu nhảy nhót trên áo nó. Con búp bê nhắm mắt ngủ. Con bé cũng thiu thiu. Khi con Lỡ mở mắt, điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông nó ngồi cạnh nó. Con búp bê tóc vàng, má hồng nằm cạnh con búp bê trụi tóc, cụt tay. Còn nó, nó nằm trên vũng nước tiểu. - Ôi! Nó đẻ rồi! Thế bà mụ đâu! Cháu muốn cảm ơn bà. - Bà mụ đi rồi. Bà còn phải vội đi đỡ đẻ cho con búp bê khác. - Sao ông không thức cháu? - Rồi nó nhìn cái quần ướt sũng, bẽn lẽn: - Cháu không định tè trong quần, nhưng... Ông vừa nhăn nhó vừa cười. Nom ông là lạ. Nửa như nó, nửa như ông. Ông lão ngồi thở, ông còn mệt và còn đau chân lắm; khó lòng tưởng tượng những gì ông đã làm sáng nay. Nó cũng kỳ diệu và khó nhọc như con-búp-bê-đẻ-con vậy. Con Lỡ nhìn sững con búp bê tóc vàng. Nó đẹp dễ sợ. Nó không như con mèo mới đẻ, lông bết dính và mắt nhắm tít. "Mày thích lắm nhỉ - Bây giờ mình có ba người - Ban ngày thêm ông là bốn. Tau sẽ giấu mày trong chăn - Chị tau mà thấy họ không để yên cho mày đâu". Ðêm đó ông lão không ngủ được, ông gác hai cẳng chân đau nhức, mỏi nhừ lên thành giường. Ông đã đi bộ đến mấy con đường với cái chân đau. Chính thằng cu Ðen táo tợn, bướng bỉnh ấy kéo ông đi tới cửa hàng búp bê. Ông thò tay vào ngực - Bà vẫn nằm yên trong đó, gối đầu lên ngực ông. Chỉ có khác là bức chân dung hồi trẻ của bà lồng trong trái tim bằng ngọc bây giờ không được treo sợi dây chuyền vàng nữa - nó được thay bằng một sợi dây rút từ bao xi măng. Trong bóng tối đôi mắt đẹp như mắt con Lỡ nhìn ông cười có đuôi. Con Lỡ chắc ngủ ngon sau khi trò chuyện với lũ búp bê. Ông mơ màng thấy thằng cu Ðen kéo một toa tàu, một ông lão cà nhắc, một con bé cà thọt và một bà lão muôn thuở tuổi đôi mươi. Trên nhà, con Lỡ ôm hai con búp bê ngủ. Nó mơ nó đẻ con. Ðẻ ra một con Lỡ con lành lặn, đôi chân tròn trĩnh xinh đẹp lộ trong chiếc áo đầm voan trắng. Con Lỡ con đẹp giùm mình. Mặc áo đầm giùm mình. Con bé ngủ thiếp với ý tưởng đó. Còn con búp bê trơ trụi tóc, gãy tay thì không ngủ. Nó thao thức nghĩ đến bà mụ của mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro