THIỀN SƯ TRUNG HOA III-5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

THIỀN SƯ TRUNG HOA

TẬP BA

H.T THÍCH THANH TỪ

ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM SAU LỤC TỔ

I. TÔNG TÀO ĐỘNG THỨ 11

NốI PHÁP THIềN SƯ CHÁNH GIÁC CÓ 14 Vị:

1. Thiền sư Từ Tông ở Tuyết Đậu Minh Châu

2. Thiền sư Huệ Huy Tự Đắc ở Tịnh Từ Hàn Châu

II. TÔNG LÂM TẾ THỨ 11

A. PHÁI HOÀNG LONG

a/ NốI PHÁP THIềN SƯ NGộ TÂN Tử TÂM CÓ 16 Vị:

1. Thiền sư Huệ Phương ở Hòa Sơn

2. Am chủ Diệu Phổ Tánh Không ở Hoa Đình

b/ NốI PHÁP THIềN SƯ DUY THANH CÓ 18 Vị:

1. Thiền sư Thủ Trác ở Trường Linh

2. Thiền sư Bổn Tài Phật Tâm ở Thượng Phong

B. PHÁI DƯƠNG KỲ

NốI PHÁP THIềN SƯ PHÁP DIễN CÓ 22 Vị:

1. Thiền sư Khắc Cần Phật Quả ở Chiêu Giác

2. Thiền sư Huệ Cần Phật Giám ở Thái Bình

3. Thiền sư Thanh Viễn Phật Nhãn ở Long Môn

4. Thiền sư Đạo Ninh ở Khai Phước

5. Thiền sư Nguyên Tỉnh ở Nam Đường Đại Tùy

6. Thiền sư Tông Thới ở Vô Vi

7. Thiền sư Biểu Tự ở Ngũ Tổ

*

29. THIỀN SƯ TỪ TÔNG

Ở Tuyết Đậu Minh Châu

Sư họ Trần, quê ở Huy Châu, thuở nhỏ chuyên học kinh, khi thọ giới cụ túc xong, nương theo Thiền sư Huệ Diệu Trạm thưa hỏi được thích nhiên khế hợp. Thiền sư Huệ lấy phất tử phó chúc cho Sư.

*

Sau Sư đến Thiền sư Hoằng Trí nhờ ấn khả, ở đây đạo đức của Sư càng được thâm áo. Sau này Sư trụ trì các nơi như: Phổ Chiếu, Thiện Quyền, Thúy Nham, Tuyết Đậu.

*

Sư thượng đường: Mỗi người đều có cái lỗ mũi, chỉ có Thiện Quyền không lỗ mũi. Tại sao không? Vì hai mươi năm trước bị người kéo rơi rồi. Mỗi người đều có hai tròng con mắt, Chỉ có Thiện Quyền không tròng con mắt. Vì cớ sao? Vì bị người lấy cây móc rồi. Mỗi người đều có xương sọ, chỉ có Thiện Quyền không xương sọ. Vì sao không? Vì người mượn làm gáo đựng phân rồi. Sư bèn gọi đại chúng nói: Lỗ mũi không, tròng con mắt không, xương sọ cũng không. Quí vị lại biết Thiện Quyền chăng? Nếu chẳng biết là quí vị chôn vùi Thiện Quyền. Nếu chẳng như thế, hãy nghe một bài tụng: ?Trâu đất đáy khe vàng phết mặt, đầu non gái đá mặc chân hồng, trên cọc cột lừa cỏ thơm ngát, chẳng phải mây che chót lò hương.?

*

Sư thượng đường: - Thúy Nham chẳng phải chẳng nói, chỉ vì không có thời tiết, sáng nay thích thú mấy khi, một câu vì anh mổ xẻ, cột cái vốn là khúc cây, trái cân chỉ là sắt nguội. Quí vị nếu đến các nơi, chớ nói Sơn tăng nhiều lời.

Tăng hỏi: - Hoa sen khi chưa ra khỏi nước thì thế nào?

Sư đáp: - Mất đi lỗ mũi ông.

Tăng hỏi: - Sau khi ra khỏi nước thì thế nào?

Sư đáp: - Xỏ phủng tròng mắt ông.

Tăng hỏi: - Thế nào là chánh pháp nhãn?

Sư đáp: - Đậu đen.

Tăng hỏi: - Thế nào là quân?

Sư đáp: - Mài giũa kiếm ba thước, đợi chém người bất bình.

Tăng hỏi: - Thế nào là thần?

Sư đáp: - Mây trắng thật quá rảnh, dòng nước rất lăng xăng.

Tăng hỏi: - Thế nào là quân thần đạo hiệp?

Sư đáp: - Mây bay mưa rơi trăng sáng sao soi.

Tăng hỏi: - Thế nào là chánh trung thiên?

Sư đáp: - Hoa ấu chưa soi trước.

Tăng hỏi: - Thế nào là thiên trung chánh?

Sư đáp: - Sum vầy không thiếu dư.

Tăng hỏi: - Thế nào là chánh trung lai?

Sư đáp: - Khắp cõi bặt mảy trần.

Tăng hỏi: - Thế nào là kiêm trung chí?

Sư đáp: - Công cắn tên trước đùa.

Tăng hỏi: - Thế nào là kiêm trung đáo?

Sư đáp: - Mười đường chẳng lọt mảy tóc.

Tăng hỏi: - Thế nào là chuyển công tựu vị?

Sư đáp:-Buông tay chẳng tựa toàn thể hiện, thuyền con ngư phủ tựa hoa lau.

Tăng hỏi: - Thế nào là chuyển vị tựu công?

Sư đáp:-Đêm giữa đầu non trăng gió lặng, cây cao con vượn một tiếng kêu.

Tăng hỏi: - Thế nào là công vị tề chương?

Sư đáp: - Ra cửa chẳng đi lối trở lại, bụi bay đầy mắt dứt điểm ai.

Tăng hỏi: - Thế nào là công vị câu ẩn?

Sư đáp: - Trâu đất uống cạn trăng đầm lặng, ngựa đá ra roi chẳng ngoái đầu.

*

Sư tịch tại núi này, tháp toàn thân góc Tây Nam của chùa.

*

30. THIỀN SƯ HUỆ HUY TỰ ĐẮC

Ở Tịnh Từ Hàn Châu

Sư họ Trương, quê ở Hội Khê, thuở nhỏ Sư nương theo thầy Đạo Ngưng ở Trừng Chiếu thế phát và thọ giới cụ túc. Năm hai mươi tuổi, Sư đến yết kiến Chơn Yết ở Trường Lô có sở chứng chút ít. Sau đó, Sư đến yết kiến Hoằng Trí. Trí nhắc: ?chính trong sáng có tối, chẳng dùng tối gặp nhau, chính trong tối có sáng, chẳng dùng sáng thấy nhau? để hỏi Sư. Sư chẳng khế hội. Đầu hôm, Sư định trở lại trước tượng Thánh tăng thắp hương, mà Hoằng Trí cũng vừa đến. Sư trông thấy liền chóng rõ câu nói trước. Hôm khác, Sư vào thất. Hoằng Trí nhắc: Than ôi! Ngày trước mặt như ngọc, lại than! Xoay về râu tợ sương, để hỏi Sư. Sư đáp: - Kia vào ly, kia ra vi. Từ đây, Sư hỏi đáp không ngại.

Hoằng Trí nhận là Chân tử trong thất.

Niên hiệu Thiệu Hưng (1131), Sư khai pháp ở Phổ Đà, kế đến Vạn Thọ, Kiết Tường, Tuyết Đậu. Niên hiệu Thuần Hy thứ ba (1176), sắc vua bổ Sư trụ trì chùa Tịnh Từ.

Sư thượng đường: Tái tê gió bắc quét cây rừng, về cội lá rơi hiện mảnh tâm, muôn dòng về biển thuyền bờ đến, sáu cửa sáng ngời cải gặp kim, vốn đã hiện thành chớ kiếm tìm, đất tánh thảnh thơi xưa nay sáng, ngoài cửa tuyết tan sắc xuân đông, bốn núi lẫn làm cây long ngâm.

Sư thượng đường: Ông già Thích-ca cùng lý tận tánh miệng vàng nói ra giáo lý một đời dường thể xoay châu chuyển ngọc, vẫn bị người gọi là giấy cũ lau ghẻ. Tổ sư Đạt-ma dùng pháp Nhất thừa chỉ thẳng riêng truyền, nhìn vách chín năm chẳng lập văn tự, bị người gọi là Bà-la-môn nhìn vách. Hãy nói hành lý thế nào? Thơ bị người bên chỉ ra rồi, chăn kéo trùm đầu muôn việc thôi, khi này Sơn tăng trọn chẳng hội.

Sư thượng đường: Ổ biết gió hang biết mưa, ngọt đó ngọt chừ đắng đó đắng, chẳng cần suy nghĩ lại xét lường, năm năm từ lâu là hăm lăm, muôn việc sắp đặt đến bình thường, đây là câu tùng lâm tham vấn no. Quí vị lại hiểu rõ chăng? Lão quê chẳng biết sức Nghiêu Thuấn, đùng đùng đánh trống cúng thần sông.

Sư thượng đường: Thần của hang chốt của máy, trong cho bên tham tầm xoay đường được diệu mây tuy động mà thường nhàn, trăng tuy tối mà càng chiếu, chủ khách lẫn tham chánh thiên kiêm đáo, mười châu xuân hết hoa héo tàn, rừng cây san hô nhật sáng rỡ.

Tăng hỏi: - Thế nào là chánh trung thiên?

Sư đáp: - Đêm qua canh ba sao đầy trời.

Tăng hỏi: - Thế nào là thiên trung chánh?

Sư đáp: - Mây trắng trùm đầu núi, trọn chẳng bày ngất cao.

Tăng hỏi: - Thế nào là chánh trung lai?

Sư đáp: - Chớ gọi cá kình không lông cánh, ngày nay chính từ đường chim sang.

Tăng hỏi: - Thế nào là kiêm trung chí?

Sư đáp: - Ứng không dấu dụng không vết.

Tăng hỏi: - Thế nào là kiêm trung đáo?

Sư đáp: - Người đá chiếc áo rách, quả đất không người may.

*

Sư thượng đường: Da thịt rơi rụng bặt chỗ nơi, sáng tỏ thân tâm một vật không, khéo vào đạo lớn chỗ sâu lặng, người ngọc yên ngồi xe bạch ngưu. Điền địa diệu minh người đạt rất ít, thức tình chẳng đến chỉ chứng mới biết. Con mây trắng linh linh tự chiếu, cha núi xanh cao ngất thường còn, cơ phân sáng sau đảnh, trí hợp mắt trước kiếp. Vì thế nói, đường Tân Phong chừ vót vẫn gieo, động Tân Phong chừ lặng nhưng tươi, người đi đi chừ chẳng động diêu, người dạo dạo chừ chớ mau gấp, nhà nghỉ tuy có người đến ít, rừng suối chẳng dài cây tầm thường. Chư Thiền đức! Hướng thượng một phen đến tôn quí khó rõ, trên điện Lưu Ly chẳng xưng tôn, trước rèm phỉ thúy lại hợp bạn. Chính cùng khi ấy kim chỉ xâu suốt chân tông chẳng rơi, nên làm sao thi thiết? Tóc bạc đầy đầu lìa hang núi, giữa đêm xuyên mây vào xóm làng.

*

Sư thượng đường: Phó Đại sĩ có bài tụng Pháp thân: ?Tay không cán cuốc cầm, bộ hành cỡi lưng trâu, trên cầu người qua thẳng, cầu trôi nước chẳng trôi.? Đại sư Vân Môn nói: ?Các người đông lại tây lại nam lại bắc lại, mỗi mỗi cỡi một con trâu lại. Tuy nhiên như thế, ngàn đầu muôn đầu chỉ cần biết một cái đầu này.? Sư nói: Vân Môn bình thường khô khan châm dùi chẳng phủng, đến trong này cũng biết dính bùn kẹt nước. Quí vị! Hiện nay cần thấy một đầu này chăng? Khí trời hơi lạnh mỗi người tự về nhà.

*

Sư thượng đường nhắc việc phong phan, Sư nói: Chỗ phong phan động, mắt nhìn tới tức là Thượng tọa, chỗ phong phan động, mất đi con mắt tức là phong phan. Kia nếu chưa như thế, chẳng phải phong phan chẳng phải tâm, Thiền tăng luống tự gắng dùi châm, phòng núi mưa qua khói mù sạch, nằm nghe gió mát trong rừng tre.

Niên hiệu Hy Ninh thứ bảy (1074) mùa thu, Sư trở lại Tuyết Đậu. Đến Hy Ninh thứ mười (1077) giữa mùa đông, ngày hai mươi chín lúc giữa đêm, Sư tắm rửa xong liền tịch.

*

31. THIỀN SƯ HUỆ PHƯƠNG

Ở Hòa Sơn

Sư họ Lung quê ở Lâm Giang.

Sư dạy chúng: Trước dụng sau chiếu cốt nghiệm tác gia, trước chiếu sau dụng chẳng còn hình bóng, chiếu dụng đồng thời vách đứng ngàn nhẫn, chiếu dụng chẳng đồng thời căn trần nên soi. Cổ nhân dùng bốn chuyển ngữ này để nghiệm Thiền tăng trong thiên hạ. Nếu không phải người đủ con mắt chân chánh liễu ngộ thấu đáo khó bề nương tựa. Ngày nay vì quí vị nêu ra rõ ràng rồi vậy. Lại hiểu rõ hay chăng? Nếu hiểu rõ rồi, đáng gọi chẳng động mảy tơ chóng lên giác địa. Nếu chưa thế ấy, cần phải chín chắn. Sư lại đưa cây phất tử nói: Xem! Xem! Chỉ cái này ở Lâm Tế ắt chiếu dụng đồng hành, tại Vân Môn ắt sự lý đều đủ, ở Tào Động thì thiên chánh hiệp thông, tại Qui Ngưỡng thì ám cơ viên hiệp, tại Pháp Nhãn thì nào dừng duy tâm. Song Ngũ gia Tông phái lập bài môn đình ắt chẳng không, dù cho biện được bè nhóm rõ ràng vẫn là việc bên quang ảnh. Nếu cần chống cự với sanh tử thì trời đất xa cách. Hãy nói, một câu siêu việt sanh tử làm sao mà nói? Sư im lặng giây lâu nói: - Đã là lầm hạ chú cước.

*

32. AM CHỦ DIỆU PHỔ TÁNH KHÔNG

Ở Hoa Đình

Sư người Hán Châu, nương Thiền sư Tử Tâm đã lâu được ấn chứng. Sư đi đến sông Tú theo nếp Hoa Đình Thuyền Tử, cất một chiếc am tranh ở đồng Thanh Long, thổi sáo sắt để tự vui. Sư có làm nhiều phú, vịnh, người được đều quí như của báu. Bài Sơn Cư:

Tâm pháp song vong du cách vọng

Sắc trần bất nhị thượng dư trần

Bách điểu bất lai xuân hựu quá

Bất tri thùy trị trụ am nhân.

Dịch:

Tâm pháp hai quên còn cách vọng

Sắc trần bất nhị vẫn thừa trần

Chẳng đến trăm chim xuân lại mất

Biết ai quả thật người trụ am.

Sư làm bài cảnh chúng rằng:

Học đạo du như thủ cấm thành

Trú phòng lục tặc dạ tinh tinh

Trung quân chúa tướng năng hành lệnh

Bất động can qua trị thái bình.

Dịch:

Học đạo ví như giữ cấm thành

Ngày ngừa lục tặc, tối tinh tinh

Trong quân chúa tướng hay hành lệnh

Chẳng động gươm đao trị thái bình.

Niên hiệu Kiến Viêm năm đầu (1127) giặc Từ Minh làm phản đi theo con đường Ô Trấn mặc tình giết hại, dân chúng sợ chạy. Sư một mình cầm gậy đi đến, giặc trông thấy lấy làm lạ, nghi là ngụy phục, bèn hỏi duyên cớ. Sư đáp: - Tôi là Thiền giả muốn đến chùa Mật Ấn. Giặc nổi giận muốn chém Sư. Sư nói: - Đại trượng phu cần đầu liền chặt lấy, cần gì phải nổi giận. Tôi hẳn phải chết, xin cho một bữa ăn để làm tống chung. Giặc dâng cá thịt, Sư dùng như ngọ trai thường, trước xuất sanh xong, bèn nói: Ai sẽ vì tôi làm bài văn để cúng? Giặc tức cười mà không đáp. Sư đòi bút viết: ?Than ôi! Duy linh, nhọc ta do sanh ắt lỗi khối đất, sai ta do sống ắt quấy âm dương, thiếu ta do nghèo ắt ngũ hành chẳng chánh, khốn ta do mạng ắt ngày giờ chẳng tốt. Chao ôi! Lớn thay! May có đạo xuất trần, ngộ được tánh của ta, cùng diệu tâm kia. Hẳn diệu tâm này ai hay làm thân, trên đồng chân hóa của chư Phật, dưới hiệp với vô minh của phàm phu, mảy bụi chẳng động vốn tự viên thành. Diệu vậy thay! Diệu vậy thay! Mặt trời mặt trăng chưa đủ là sáng, càn khôn chưa đủ là lớn, lạ lạ lùng lùng không chướng không ngại, hơn sáu mươi năm hòa quang lẫn tục, bốn mươi hai hạ tiêu dao tự tại, gặp người thì vui thấy Phật chẳng lạy. Cười vậy ư! Cười vậy ư! Đáng tiếc chàng thiếu niên, phong lưu rất tươi đẹp, thản nhiên đi về phó gió xuân, thể dường hư không trọn chẳng hoại. Lại mời! Sư liền cầm đũa gắp ăn. Bọn giặc cười to. Sư ăn xong lại nói: Kiếp số đã gặp ly loạn, tôi là kẻ rất thích sống, hiện nay chính là giờ tốt, xin mời một đao hai khúc. Sư bèn hô to: Chém! Chém! Giặc kinh hãi cúi đầu tạ tội, khiến quân rút lui. Nhà cửa vùng Ô Trấn khỏi bị thiêu đốt, thật nhờ ơn đức của Sư. Kẻ đạo người tục nghe việc này càng cung kính Sư.

Có vị Tăng xem bài ca có câu: ?thấy Phật chẳng lạy?, nghịch hỏi Sư: - Đã thấy Phật vì sao chẳng lạy?

Sư tát tai, hỏi: - Hội chăng?

Tăng đáp: - Chẳng hội.

Sư lại tát tai, nói: - Nhà không hai chủ.

Niên hiệu Thiệu Hưng (1131) năm Canh Thân mùa Đông, Sư làm một cái bồn to mà đậy lại, biên thơ gởi cho Thiền sư Trì ở Tuyết Đậu nói: Tôi sắp thủy táng vậy. Đến năm Nhâm Tuất, Thiền sư Trì đến thăm, thấy Sư vẫn còn, bèn làm bài kệ ngạo rằng:

Dốt thay lão Tánh Không,

Chỉ thích mồi cho cá,

Đi chẳng đòi tánh đi,

Chỉ quản nhằm người nói.

Sư xem qua, cười nói: - Đợi huynh đến chứng minh.

Sư liền sai báo tin họp tứ chúng. Chúng họp xong, Sư vì chúng nói pháp yếu, bèn nói kệ:

Ngồi thoát đứng chết chẳng bằng thủy táng,

Một bớt tốn củi, hai khỏi đào đất,

Buông tay liền đi hẳn là thích thú,

Ai là tri âm Hòa thượng Thuyền Tử,

Cao phong khó nối trăm ngàn năm,

Một bản ông chài ít người xướng.

Sư bèn vào ngồi trong bồn xuôi nước mà đi. Chúng đều theo đến cửa biển nhìn theo đứt mắt. Sư lấy gàu múc nước bơi bồn vào, chúng nâng lên xem, không thấy vô nước. Sư lại theo dòng nước mà đi, xướng lên rằng:

Thuyền Tử đương niên phản cố hương

Một tung tích xứ diệu nan lương

Chân phong biến ký tri âm giả

Thiết địch hoành xuy tác tán trường.

Dịch:

Thuyền Tử năm này lại cố hương

Chỗ không dấu vết diệu khó lường

Chân phong khắp gởi tri âm đấy

Sáo sắt thổi ngang vĩnh biệt trường.

Tiếng sáo xa xa rồi đứt khoảng trong chốn mênh mông, thấy Sư ném chiếc sáo rồi chìm. Chúng thương xót ngậm ngùi. Ba hôm sau, người ta thấy thân Sư ngồi kiết già trên bãi cát. Tăng tục đua nhau đến đón về chùa, lưu lại năm ngày sau mới trà-tỳ. Khi trà-tỳ có hai con chim nhạn bay qua bay lại trong hư không, đến thiêu xong mới đi.

*

33. THIỀN SƯ THỦ TRÁC

Ở Trường Linh Thiên Ninh

Sư họ Trang, quê ở Tuyền Châu.

*

Sư thượng đường: Ba ngàn kiếm khách riêng nhận Trang Chu, vì sao lại nhảy chẳng khỏi? Cửa thầy thuốc nhiều bệnh nhân, vì sao chẳng tiêu một cái chích. Người đã thấu quan mời biện xem.

*

Sư thượng đường: Thí như con mắt chẳng tự thấy con mắt, tánh tự bình đẳng. Người không bình đẳng liền thế ấy đi, chùy sắt không lỗ anh hãy an trí. Dù đặng vào rừng chẳng động cỏ, vào nước chẳng động sóng, cũng là phương tiện một thời. Nếu là, tre trong giậu nhổ măng ngoài giậu, khe đông hoa nở khe tây hồng. Lại đợi khám phá qua đã.

Tăng hỏi: - Đơn Hà thiêu Phật gỗ, Viện chủ vì sao lại rụng lông mày?

Sư đáp: - Mèo con biết trèo cây.

Tăng thưa: - Sớm biết như thế trọn chẳng như thế.

Sư bảo: - Tiếc lấy lông mày.

Tăng hỏi: - Thế nào là việc của kẻ áo nạp?

Sư đáp: - Trời hạn dân sầu.

Tăng hỏi: - Khi Phật chưa xuất thế thì thế nào?

Sư đáp: - Tuyệt hào tuyệt ly.

Tăng hỏi: - Sau khi xuất thế thì sao?

Sư đáp: - Lấp hồ bít khe.

Tăng hỏi: - Xuất thế cùng chưa xuất thế cách nhau bao nhiêu?

Sư đáp: - Người bình chẳng nói, nước bình chẳng chảy.

*

Sư thượng đường: San cao đến thấp, đuổi giặc phá nhà, cắt sắt chặt đinh, con chồn mến hang, thảy chẳng thế ấy lại là sao? Vì thế nói, vực cao muôn nhẫn buông tay thõng, phải là người ấy. Chỉ như ôm bát vào nước Hương Tích một câu làm sao nói? Sư im lặng giây lâu nói: - Tối kỵ gió thổi trong biệt điệu.

*

Sư thượng đường: Đức Thích-ca đóng cửa thất phạm lỗi tày trời, ngậm miệng nơi Tỳ-da tự cứu chưa xong. Thế nào? Thế nào? Cửa miệng quá nhỏ.

*

Niên hiệu Tuyên Hòa thứ năm (1123) ngày hai mươi bảy tháng mười hai, Sư yên lặng thị tịch.

*

34. THIỀN SƯ BỔN TÀI PHẬT TÂM

Ở Thượng Phong Đàm Châu

Sư họ Đào, quê ở Phước Châu, thuở bé được xuất gia, thọ giới cụ túc xong đi du phương. Sư đến Đại Trung nương Thiền sư Long ở Hải Ấn thấy lão túc là Đạt Đạo xem kinh đến câu ?một đầu sợi lông sư tử trăm ức đầu sợi lông đồng thời hiện?, Sư chỉ hỏi: - Một đầu sợi lông sư tử vì sao được trăm ức đầu sợi lông đồng thời hiện? Đạt đáp: - Ngươi mới vào tùng lâm đâu thể lý hội được việc này. Sư nhân đây sanh nghi. Sư phát tâm lãnh chức Tịnh đầu. Một hôm, Sư đến phiên quét dọn. Hải Ấn vừa đến dạ tham, đến nơi thấy sửa sang tòa liền ném cây gậy bảo: - Liễu thì đầu sợi lông nuốt bể cả, mới biết cả đại địa một hạt bụi. Sư bỗng nhiên có tỉnh.

*

Sau Sư ra xứ Mân đến Dự Chương núi Hoàng Long ở chỗ Tử Tâm mà cơ duyên không khế hợp. Sư đến tham vấn Linh Nguyên, mỗi khi vào thất ra ắt lau nước mắt nói: - Việc này ta thấy được rất rõ ràng, chỉ là lâm cơ nói chẳng ra. Nếu thế là tại sao?

Linh Nguyên biết Sư rất cần mẫn, bảo: - Phải đại triệt mới được tự tại.

Chưa bao lâu, bỗng thấy vị Tăng ở bàn bên cạnh đọc Tào Động Quảng Lục, đến Dược Sơn hái củi về có vị Tăng hỏi: - Chỗ nào lại?

Dược Sơn đáp: - Đốn củi lại.

Tăng chỉ con dao dưới lưng nói: - Khua ren ren là cái gì?

Dược Sơn rút dao làm thế chặt. Sư chợt vui mừng tát vị Tăng đang đọc một tát, vén rèm chạy tuôn ra cửa nói kệ:

Triệt! Triệt!

Đại hải càn khô hư không tịnh liệt

Tứ phương bát diện tuyệt già lan

Vạn tượng sum la tề lậu tiết.

Dịch:

Triệt! Triệt!

Biển cả khô khan hư không đều nát

Bốn phương tám mặt bặt ngăn che

Vạn tượng sum la đều tiết lộ.

Về sau, Sư được chia tòa giảng dạy ở Chơn Thừa, nhận trụ ở Thượng Phong và dời trụ nhiều chùa nổi tiếng.

Khi Sư trụ ở Càn Nguyên ngày khai đường dạy chúng: Trăm ngàn môn tam-muội vô lượng tạng phước đức, buông đi cũng như mở kho thì sâm sai xen lẫn, nắm đứng cũng giống tuyết phủ hoa lau khắp thân khó biện. Khiến cho người thấy đó khêu dậy liền đi, người nghe đó một đao thẳng vào, mỗi mỗi đủ chánh nhãn ở đảnh môn, người người mang theo tay một linh phù, quét tri kiến Phật Tổ, làm họa ương ở tùng lâm. Tôi nhớ ngày khai đường của Bảo Thọ, Tam Thánh đẩy một vị Tăng ra, Bảo Thọ liền đánh, Tam Thánh nói: Thế ấy vì người là làm mù mắt người cả một thành Trấn Châu đi rồi. Vả như Càn Nguyên ngày nay khai đường, hoặc có vị Tăng ra đây, Sơn tăng cũng đánh, chẳng những thoại này đại hành, cốt yếu mở mắt người cả thành Phước Châu. Vì sao vậy? Kiếm vì bất bình lìa giáp báu, thuốc nhân cứu bệnh ra bình vàng.

Sư thượng đường: Đức Đạt-ma trước khi chưa sang Đông Độ, người người đều ấp hạt châu Mỵ Thủy, kẻ kẻ đều ôm hòn ngọc Kinh Sơn, đáng gọi là vách đứng ngàn nhẫn. Đến khi Nhị Tổ lễ ba lạy, về sau mỗi mỗi Nam hỏi các bạn, Bắc lễ Văn-thù, rất chẳng trượng phu. Hoặc có một người nửa người chẳng cầu chư Thánh chẳng trọng kỷ linh, một ngựa một thương nhằm trong hư không đấu kiếm, thật là thích thú bình sanh. Như hiện nay có chăng? Tự là chẳng về về liền được, mây cảnh ngũ hồ có ai giành.

*

Sư thượng đường: Nhất pháp có hình gồm động thực, trăm sông chảy xiết biển đua về, sáng đâu chẳng động trời mây nhạt, tưởng tượng Tỳ- da một bệnh ông. Duy-ma bệnh ắt Thượng Phong bệnh, Thượng Phong bệnh ắt cây gậy bệnh, cây gậy bệnh ắt sum la vạn tượng bệnh, sum la vạn tượng bệnh ắt phàm cùng thánh bệnh. Quí vị lại biết chỗ bệnh trước khởi chăng? Nếu là biết được, tình cùng vô tình đồng một thể, nơi nơi đều đồng chân pháp giới. Nếu chưa như thế, dưa ngọt tột rễ ngọt, dưa đắng gốc cũng đắng.

*

35. THIỀN SƯ KHẮC CẦN PHẬT QUẢ

Ở Chiêu Giác

Sư họ Lạc quê ở Bành Thành, gia thế theo Nho. Thuở nhỏ Sư mỗi ngày nhớ được ngàn lời. Bỗng Sư đến chùa Diệu Tịch thấy sách Phật, xem qua ba lượt buồn bã như được vật cũ. Sư nói: Ta ngờ quá khứ làm Sa-môn. Sư liền bỏ nhà nương thầy Tự Tỉnh thế phát, theo Văn Chiếu Thông học kinh, lại theo Mẫn Hạnh học kinh Lăng Nghiêm. Bỗng mang bệnh nặng, Sư than: Con đường Niết-bàn của chư Phật chẳng ở trong văn cú, tôi muốn do tiếng cầu thấy sắc, nơi kia không tử vậy.

*

Sư rời đây tìm đến pháp hội Thiền sư Thắng ở Chơn Giác. Sư Thắng chích máu nơi cánh tay chỉ dạy Sư: - Đây là một giọt nước nguồn Tào.

Sư kinh hãi giây lâu nói: - Đạo vẫn như thế ư?

Sư liền đi bộ đến đất Thục trước yết kiến Thiền sư Hạo ở Ngọc Tuyền, kế nương Thiền sư Tín ở Kim Loan, Thiền sư Triết ở Đại Qui, Thiền sư Tổ Tâm ở Hoàng Long, Thiền sư Độ Liễm ở Đông Lâm chỉ vì pháp khí. Thiền sư Tổ Tâm khen Sư rằng: - Ngày sau một tông Lâm Tế thuộc ngươi vậy.

*

Rốt sau, Sư yết kiến Thiền sư Diễn ở Ngũ Tổ. Sư trình hết cơ dụng của mình mà Diễn đều không chấp nhận. Sư nghĩ Thiền sư Diễn gắng xoay chuyển người, nói lời bừa bãi, tức giận bỏ đi. Thiền sư Diễn nói: - Đợi khi ông mắc bệnh nặng mới nghĩ đến ta.

Sư đi đến Kim Sơn mắc bệnh thương hàn rất nặng, dùng chỗ thấy bình thường thí nghiệm đều không đắc lực. Từ đây mới nhớ lại lời ngài Pháp Diễn. Sư tự thệ rằng: Bệnh tôi tạm bớt liền trở lại núi Ngũ Tổ. Khi bệnh thuyên giảm, Sư liền trở lại núi Ngũ Tổ. Thiền sư Pháp Diễn trông thấy cười dạy đến nhà tham thiền. Sư vào liêu Thị giả mới được nửa tháng, gặp Bộ Sử hưu trí trở về đất Thục đến Pháp Diễn hỏi đạo. Pháp Diễn hỏi: - Đề Hình thuở thiếu niên từng đọc Tiểu Diểm thi chăng? Có hai câu hỏi gần nhau ?vừa kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc, chỉ cốt đàn lang nhận được thanh?.

Đề Hình ứng: - Dạ! Dạ!

Pháp Diễn bảo: - Hãy chín chắn.

Sư vừa đến ứng hầu thưa: - Nghe Hòa thượng nhắc Tiểu Diểm thi, Đề Hình hiểu chăng?

Pháp Diễn bảo: - Kia nhận được thanh.

Sư thưa: - Chỉ cốt đàn lang nhận được thanh, kia đã nhận được thanh, vì sao lại chẳng phải?

Pháp Diễn nói: - Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang, cây bá trước sân, ghê?

Sư chợt có tỉnh. Sư bước ra, thấy con gà bay đậu trên lan can vỗ cánh gáy, lại tự bảo: Đây há chẳng phải là thanh. Sư bèn sắm hương đèn vào thất trình kệ:

Kim ô hương tỏa cẩm tú vi

Sảnh ca tùng lý túy phù qui

Thiếu niên nhất đoạn phong lưu sự

Chỉ hứa giai nhân độc tự tri.

Dịch:

Quạ vàng hương kín túi gấm thêu

Nhịp ca tùng rậm say dìu về

Một đoạn phong lưu thuở niên thiếu

Chỉ nhận giai nhân riêng tự hay.

Pháp Diễn bảo: - Phật Tổ đại sự chẳng phải căn nhỏ cơ hèn hay đến được, tôi giúp ông vậy. Pháp Diễn liền bảo khắp cho hàng kỳ cựu trong núi rằng: Thị giả của tôi tham được thiền. Do đây, Sư đi đến đâu cũng được đưa lên làm Thủ tọa.

*

Khoảng niên hiệu Sùng Ninh (1102-1107), Sư về quê thăm cha mẹ, bốn chúng nghênh đón lễ bái. Nguyên soái ở Thành đô Hàn Lâm Quách Công Tri Chương thỉnh Sư khai pháp ở chùa Lục Tổ kế đến chùa Chiêu Giác.

*

Khoảng niên hiệu Chánh Hòa (1111-1118), Sư xin nghỉ việc lại ra núi đi dạo phương Nam. Bấy giờ cư sĩ Trương Vô Tận đang ngụ ở Kinh Nam, dùng đạo học tự ở, ít tiếp xúc với người. Sư dừng thuyền đến ra mắt ông. Luận về chỉ yếu kinh Hoa Nghiêm, Sư nói: - Cảnh giới hiện lượng kinh Hoa Nghiêm lý sự toàn chân, ban đầu không nhờ pháp. Sở dĩ tức một là muôn, rõ muôn là một. Một lại một muôn lại muôn thênh thang không cùng, tâm Phật chúng sanh ba không sai biệt, co duỗi tự tại viên dung không ngại. Đây tuy lý tột trọn là không gió sóng ầm ầm. Khi ấy Vô Tận bất chợt nhóm giường.

Sư hỏi: - Đến đây cùng ý Tổ sư Tây sang là đồng là khác?

Vô Tận đáp: - Đồng.

Sư bảo: - Chẳng được, không dính dáng.

Vô Tận đổi sắc. Sư bảo: - Chẳng thấy Vân Môn nói: ?núi sông đất liền không một mảy tơ lỗi lầm vẫn là chuyển cú, thật được chẳng thấy một sắc mới là bán đề, lại phải biết có hướng thượng mới là thời tiết toàn đề?, Đức Sơn, Lâm Tế há chẳng phải toàn đề ư?

Vô Tận bèn gật đầu. Hôm sau lại nói về sự pháp giới lý pháp giới, đến lý sự vô ngại pháp giới, Sư lại hỏi: - Đây đáng gọi là thiền chưa?

Vô Tận đáp: - Chính là nói thiền.

Sư cười bảo: - Chẳng phải, chính là còn trong lượng pháp giới, bởi lượng pháp giới chưa diệt, nếu đến sự sự vô ngại pháp giới thì lượng pháp giới diệt, mới là nói thiền. Thế nào là Phật? - Cục cứt khô. Thế nào là Phật? - Ba cân gai. Thế nên Chơn Tịnh có bài kệ nói: ?Sự sự vô ngại, như ý tự tại, tay cầm đầu heo, miệng tụng tịnh giới, đẩy ra phòng dâm, tiền rượu chưa trả, chữ thập đầu đường, cởi mở túi vải.?

Vô Tận nói: - Luận hay thay! Đâu dễ được nghe.

Khi ấy Vô Tận lễ Sư làm thầy, mời ở Bích Nham.

*

Sư lại đến Đạo Lâm, Khu mật Đặng Công Tử Thường tâu về triều xin ban tử y và hiệu. Chiếu vua mời Sư trụ Tương Sơn ở Kim Lăng, học giả tụ họp không còn chỗ để dung. Lại sắc mời trụ chùa Vạn Thọ ở Thiên Ninh. Niên hiệu Kiến Viêm năm đầu (1127) vua lại mời Sư trụ Kim Sơn. Nhà vua đến Duy Dương mời Sư vào hỏi đạo, vua ban hiệu là Viên Ngộ Thiền sư và mời trụ Vân Cư. Về sau lại mời Sư trụ Chiêu Giác.

*

Có vị Tăng hỏi: - Vân Môn nói ?núi Tu-di? ý chỉ thế nào?

Sư đáp: - Đẩy chẳng đến trước, kéo chẳng lùi sau.

Tăng thưa: - Chưa biết lại có lỗi hay không?

Sư đáp: - Ngồi ở đầu lưỡi.

Có vị Tăng hỏi: - Pháp chẳng riêng khởi nương cảnh mới sanh, liền đưa tọa cụ lên nói: - Cái này là cảnh, cái nào là pháp?

Sư đáp: - Lại bị Xà-lê cướp mất thương.

Sư thượng đường: Khắp thân là mắt thấy chẳng đến, khắp thân là tai nghe chẳng thấu, khắp thân là miệng nói chẳng được, khắp thân là tâm xem xét chẳng ra. Dù cho cả đại địa rõ được không sai sót một mảy tơ vẫn còn ở giữa đường, cứ lệnh toàn đề, hãy nói diễn bày thế nào? Trong không nhật nguyệt dọc ngang chống, một buổi trời trong vạn cổ xuân.

Sư thượng đường: Chót núi sóng vỗ đáy giếng bụi bay, mắt nghe dường vang sấm nổ, tai thấy tợ bày gấm vẽ, ba trăm sáu mươi lóng xương mỗi lóng hiện vô biên diệu thân, tám mươi bốn ngàn đầu sợi lông mỗi đầu lông bày biển Bảo Vương sát, chẳng phải thần thông diệu dụng, cũng phi pháp nhỉ như nhiên, dù hay ngàn mắt chóng mở, hẳn là mười phương ngồi đoạn, vả lại một câu siêu nhiên độc thoát làm sao nói. Thử ngọc cần trải qua lửa mà biết, châu chẳng rời bùn.

Sư thượng đường: Ngày mười lăm về trước ngàn trâu lôi chẳng lại, ngày mười lăm về sau chim cưu mạnh đuổi chẳng đến, chính ngày mười lăm trời bình đất bình đồng sáng đồng tối, đại thiên sa giới chẳng ngoài ngay đây. Khả dĩ ngậm nhổ mười phương, tiến một bước siêu việt bất khả thuyết biển Hương Thủy, lùi một bước ngồi đoạn ngàn lớp muôn dặm mây trắng, chẳng tiến chẳng lùi chớ nói là Xà-lê mà Lão tăng cũng không có chỗ mở miệng. Sư đưa cây phất tử nói: - Chính hiện nay thì thế nào? Có khi để ở trên ngàn đảnh, cắt đứt mây thu chẳng phóng cao.

*

Sư thượng đường: Mười phương đồng tụ hội, thân xưa nay không muội, mỗi mỗi học vô vi, trên đảnh dùng kềm búa, đây là trường thi Phật, sâu rộng khó hay lường, tâm không thi đậu về, kiếm bén chẳng bằng chùy. Bàng cư sĩ lưỡi chỏi đến Phạm Thiên miệng trùm bốn biển, có khi đem cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu, có khi đem thân vàng trượng sáu làm cọng cỏ, rất là kỳ đặc. Tuy nhiên như thế, cốt chẳng từng động đến cổng hướng thượng. Thế nào là cổng hướng thượng? Đúc ấn để đàn cao.

*

Sư thượng đường: ?Câu có câu không, siêu tông việt cách, như bìm nương cây, núi bạc vách sắt.? Đến khi cây ngã bìm khô, bao nhiêu người mất đi lỗ mũi. Dù cho lượm được lại, đã là ngàn dặm muôn dặm. Chỉ như khi chưa có tin tức thế ấy là thế nào? Lại thấu được chăng? Gió ấm tiếng chim hát, nhật lên bóng hoa chồng.

Sư dạy chúng: Một lời cắt đứt tiếng ngàn thánh, một kiếm ngay đầu thây nằm ngàn dặm. Vì thế nói, có khi câu đến ý chẳng đến, có khi ý đến câu chẳng đến, câu hay cắt ý, ý hay cắt câu, câu ý lẫn đuổi lỗ mũi Thiền tăng. Nếu hay thế ấy chuyển đi, trời trong cũng phải ăn gậy. Hãy nói y cứ cái gì? Đáng thương vô hạn người đùa sóng, rốt cục lại là sóng chết chìm.

Sư dạy chúng: Bờ cao muôn nhẫn buông thõng tay, cần phải người ấy, cây nỏ ngàn quân khi ấn máy há vì chuột thỏ, Vân Môn, Mục Châu, ngay mặt lầm qua, Đức Sơn, Lâm Tế nói đùa ngoài cổng, ngoài ra lập cảnh lập cơ làm hang làm ổ, thế là diệt chủng tộc nhà Phật, một câu độc thoát phải nói làm sao? Muôn duyên thay đổi nào còn việc, tháng năm phòng núi lạnh như băng.

Niên hiệu Thiệu Hưng thứ năm (1135) tháng tám, Sư có chút bệnh, ngồi kiết già viết kệ để lại cho chúng, ném bút thị tịch. Khi trà-tỳ lưỡi và răng không cháy hết. Tháp ở bên chùa Chiêu Giác. Vua ban thụy là Chơn Giác Thiền sư.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro