THIỀN SƯ VIỆT NAM 9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

THIỀN SƯ VIỆT NAM

TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ TRẦN TUNG

(1230 - 1291)

Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương Trần Liễu, là anh cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại vương mất, Hoàng đế Trần Thái Tôn cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.

Lúc nhỏ, Thượng Sĩ đã tỏ ra bẩm chất cao sáng, thuần hậu có tiếng. Được cử trấn giữ quân dân đất Hồng Lộ, Ngài đã hai lần ngăn giặc Bắc xâm lăng, có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.

Về con người, Thượng Sĩ vốn khí lượng thâm trầm, phong thần nhàn nhã. Lúc còn để chỏm, Ngài đã chuộng cửa không. Đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở tinh xá Phước Đường, Ngài lãnh hội được yếu chỉ, bèn dốc lòng thờ làm thầy, lấy thiền duyệt làm cái vui hằøng ngày, không lấy công danh làm chỗ sở thích, Ngài lui về ấp Tịnh Bang do vua phong cấp cho, đổi tên lại là làng Vạn Niên.

Trộn lẫn thế tục, hòa cùng ánh sáng, trong việc đối xử Ngài chưa hề phụ lòng ai, nhân đó tiếp mạnh hạt giống pháp, dìu dắt được người sơ cơ. Người nào đến hỏi han cũng được Ngài chỉ cho chỗ cương yếu khiến tâm tánh họ ứng dụng được nhẹ nhàng, khi hành cũng như lúc tàng, không gì nhất định cả.

Từ lâu, nhà vua nghe đồn đãi về Ngài bèn cho sứ thỉnh vào cửa khuyết. Ngài hầu chuyện lời lời đều tỏ ra siêu tục, nhân đó vua tôn Ngài là Sư huynh, tặng cho hiệu Thượng Sĩ.

* *

Một hôm, có vị tăng đến hỏi:

- Bạch Thượng Sĩ, tôi vì sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh chóng, song chưa biết thân này từ đâu sanh ra ? Chết sẽ đi về đâu ?

Ngài đáp:

-Giữa trời dù có đôi vành chuyển,

Biển cả ngại gì hòn bọt sanh.

(Trường không túng sử song phi cốc,

Cự hải hà phòng nhất điểm âu.)

Lại hỏi:- Thế nào là đạo ?

Ngài đáp:

- Đạo không có trong câu hỏi

Câu hỏi không có trong đạo.

- Cổ nhân nói: "Không tâm tức là đạo." Đúng chăng ?

- Không tâm chẳng phải đạo,

Không đạo cũng không tâm.

Nếu họ nói "Không tâm là đạo" thì tất cả cây cỏ đều là đạo cả sao ? Bằng ngược lại nói "Không tâm chẳng phải đạo" thì cần gì nói có không? Lắng nghe ta nói kệ đây:

Vốn không tâm không đạo,

Có đạo chẳng không tâm.

Tâm đạo vốn rỗng lặng,

Chỗ nào đâu đuổi tầm ?

(Bản vô tâm vô đạo

Hữu đạo bất vô tâm

Tâm đạo nguyên hư tịch

Hà xứ cánh truy tầm ?)

Vị Tăng chợt nhận ra ý chỉ, xá lạy lui ra.

* *

Có vị tăng hỏi:- Bạch Thượng Sĩ, thế nào là đại ý Phật pháp ?

Ngài đáp:- Đầu trạnh vỗ sóng mắt sâu bọ

Cánh bằng nhốt gió ruột kiến trùng.

(Ngao đầu đả lãng tiêu minh nhãn

Bằng dực đoàn phong lũ nghị trường.)

Lại hỏi:- Như vậy, người học nhân đâu vào được chỗ đầu ?

Ngài đáp:

- Gãi ngứa phải đâu người khác ngứa

Đói ăn chính thật nhà ngươi ăn.

- Thế nào là Thanh tịnh pháp thân ?

- Ra vào trong vũng nước trâu

Nghiền ngẫm trong đống cứt ngựa.

- Thế ấy thì không thể chứng nhập ?

- Không có niệm nhơ bợn tức Pháp thân thanh tịnh.

Hãy nghe ta kệ đây:

Xưa nay không dơ sạch

Dơ sạch toàn tên suông

Pháp thân chẳng ngăn ngại

Gì đục lại gì trong?

(Bản lai vô cấu tịnh

Cấu tịnh tổng hư danh

Pháp thân vô quái ngại

Hà trược phục hà thanh ?)

* *

Lại hỏi:

- Tổ Qui Sơn nói: "Trăm năm sau, lão tăng sẽ xuống núi làm con trâu nước", ý muốn nói gì ?

- Lúa nếp đỏ kêu thừa anh võ hột

Cây ngô biếc đậu phượng hoàng cành.

(Hồng đạo vịnh tàn anh võ lạp

Bích ngô thê lão phụng hoàng chi) (Hai câu thơ trong khúc Thu hứng của thi hào Đỗ Phủ, dùng theo phép đảo ngữ.)

- Xưa Thái tử Tất-đạt-đa vào miếu thần, tượng thần sụp xuống lạy dưới chân, việc ấy thế nào?

- Nắm xòe vẫn một bàn tay

Ấn mắt hóa ngàn sai khác.

- Ngài Nam Tuyền bán mình (Nam Tuyền ngày kia bảo tăng chúng: "Vương lão sư bán mình, có ai mua chăng?" Một vị tăng đáp: "Con mua." Sư nói: "Giá bán ông ta không quí cũng không mạt, Thầy làm sao mua được?" Vị tăng không đáp được.) ý ấy là sao ?

- Còn lúc Ngài chưa bán mạng thì ý ấy là sao ?

Vị tăng không đáp được.

Sư hét, đuổi ra.

* *

Một vị tăng hỏi:

- Hòa thượng Thủy Lạo lần đầu tiên đến tham bái Mã Tổ hỏi về ý nghĩa việc Tổ sư Đạt-ma từ Ấn sang, Mã Tổ đạp cho một đạp té nhào. Thủy Lạo lồm cồm ngồi dậy, chợt tỏ ngộ ngay, vỗ tay cười hả hả. Ấy là nghĩa gì ?

Ngài đáp:- Cái đạp của rồng voi chẳng phải sức lừa chịu nổi.

Lại hỏi:

- Sau đó Thủy Lạo còn nói với học trò rằng từ lúc ăn cái đạp của Mã Tổ đến nay, ông ta cười mãi không thôi. Thế lại là nghĩa gì ?

Ngài đáp:

- Thực là tiếng gầm hống của loài sư tử

Phải đâu giọng kêu the thé của chó rừng.

- Tôi không hiểu.

Ngài bèn đọc bài kệ chỉ cho:

- Một đạp ngã nhào,

Ai hay tìm xét.

Đứng dậy cười to,

Lại sanh buồn thảm.

Cần hiểu Tây sang,

Ngựa tơ ăn cỏ.

(Nhất đạp đạp đáo

Thùy giải tầm thảo

Đại tiếu khởi lai

Tăng sanh áo não

Yếu thức Tây lai

Mã câu khế thảo.)

Vị tăng xá lui ra.

* *

Vị tăng khác hỏi:

- Bạch Thượng Sĩ, lời xưa nói: "Xanh xanh trúc biếc thảy là pháp thân", có đúng chăng ?

Ngài đáp:- Sa-di ăn măng rừng bữa trước

Đâu phải như pháp thân ngươi hôm nay.

Lại hỏi:- Còn câu nói "Rậm rậm hoa vàng đều là Bát-nhã" là ý nói gì ?

- Hoa đào đâu phải cây bồ-đề

Sao lại Linh Vân nhập được đạo. [Thiền sư Linh Vân ở chỗ Tổ Qui Sơn lâu năm không ngộ, một hôm nhơn nhìn xem hoa đào nở chợt ngộ làm bài kệ:

Tam thập niên lai tầm kiếm khách

Kỉ hồi lạc diệp hựu sưu chi

Tự tòng nhất kiến đào hoa hậu

Trực chí như kim cánh bất nghi.]

* *

Lại hỏi:- Có ba vị tăng đi hành khước giữa đường gặp cọp, người nào cũng né qua một bên mà đi. Bấy giờ như thế nào ?

Ngài đáp:- Gió thổi ngại gì đám hoa rậm

Trăng tà đâu quản đáy khe sâu.

(Phong xuy bất ngại hoa gian mật

Nguyệt lạc vô phòng giản để thâm.)

Lại hỏi:

- Lúc ấy Qui Tông nói "Giống tợï con mèo". Đó là ý gì ?

- Miệng nói không phải tự mình gặp.

- Còn ngài Trí Kiên nói "Giống tợ con chó". Đó là ý gì ?

- Lão ấy nắm được thời cơ gom quét sạch hết, nhưng có điều đáng tiếc.

- Còn Ngài ý thế nào ?

- Con chó.

- Đến Sư Nam Tuyền nói "đó là một con cọp". Ý chỉ thế nào ?

- Gót chân chẳng chấm đất.

* *

Tăng hỏi:- Thế nào là Pháp thân ?

Ngài đáp:- Bên ao thấy hai cái,

Dưới trăng vui ba người.

- Pháp thân với Sắc thân giống nhau ? Khác nhau ?

- Gươm mang hiệu long tuyền

Ngọc xưng tên hổ phách.

* *

Tăng hỏi:

- Phật Thế Tôn nói: "Suốt bốn mươi chín năm, ta chưa từng nói một chữ." Vậy mười hai phần giáo từ đâu mà được ?

Ngài đáp:- Hơi xông khỏi hộp mong khôi phục,

Thuốc thánh mở bình muốn bệnh tiêu.

- Thế nào là Phật của chính mình ?

- Chẳng đến rượu bồ đào,

Khó gặp người đập hũ.

- Phải hiểu thế nào ?

- Nhà lớn một đêm ngủ,

Sông dài chung đò qua.

- Thế nào là tâm của cổ Phật ?

- Trọn nói khắp thành không quốc sắc,

Đâu hay cửa tía có thuyền quyên.

- Cổ nhân nói "Tức tâm tức Phật", mà sao không hiện trước mắt ?

- Phanh trai tìm ngọc dù khó gặp,

Mổ cá cầu châu uổng công thôi.

* *

Dám hỏi:- Thế nào là gia phong của Thượng Sĩ ?

Ngài đáp:- Rảnh, ném trái rừng kêu vượn tiếp,

Lười, câu cá suối khiến hạc tranh.

(Nhàn phao nham quả hô viên tiếp,

Lãn điếu khê ngư dẫn hạc tranh.)

Lại hỏi:- Tổ ý và giáo ý là đồng hay khác ?

Ngài đáp:- Sóng, nước tên tuy khác,

Búp, nở một đóa hoa.

- Bồ-đề với phiền não, khác nhau, giống nhau thế nào ?

- Trong nước có vị muối,

Giữa sắc có màu keo.

- Thế nào là nghiệp sanh tử ?

- Sương thu lác đác bờ lau

Trời đêm tuyết xuống nhuộm màu trăng thanh.

(Sương thu trích trích lô hoa ngạn

Dạ tuyết phân phân nguyệt sắc thiên.)

Lại hỏi:- Ngài Dật-đa (Di-lặc) không tu định tuệ thì làm sao thành Phật được ?

Ngài đáp:- Đào đỏ trên cây thời tiết đúng

Cúc vàng bên giậu chắc gì xuân.

(Hồng đào thọ thượng chân thời tiết

Hoàng cúc li biên bất thị xuân.)

- Khi ngồi thiền tập định thì thế nào ?

- Vua chúa xuống xe chọi ếch nhái.

- Khi không ngồi thiền tập định thì thế nào ?

- Thuyền Phạm Lãi sông hồ vui thú.

* *

Có vị tăng hỏi:

- Kinh nói: "Muốn đạt đến con đường vô sanh, cần biết rõ cội nguồn." Thế nào là cội nguồn ?

Ngài đáp:

- Tìm nguồn chẳng có cội,

Nắm cội cũng không nguồn.

Lại hỏi:

- Trong kinh nói: "Không tức là sắc, sắc tức là không", ý ấy thế nào ?

Ngài im lặng giây lâu, rồi hỏi lại:

- Ông hiểu chưa?

- Chưa hiểu.

- Ông có sắc thân chứ ?

- Có.

- Sao nói sắc tức là không ? Ông thấy "cái không" có tướng mạo gì không ?

- Không.

- Sao nói không tức là sắc ?

- Rốt cuộc là thế nào ?

- Sắc vốn không không, không vốn không sắc.

Vị tăng lễ tạ.

Ngài nói:- Nghe kệ ta đây:

Sắc tức không không tức sắc,

Ba đời Như Lai phương tiện đặt.

Không vốn không sắc, sắc không không,

Thể tánh sáng ngời không được mất.

(Sắc tức thị không không thị sắc,

Tam thế Như Lai phương tiện lực.

Không bổn vô sắc sắc vô không,

Thể tánh minh minh phi thất đắc.)

*

* *

Ngày kia, Thái Hậu mở tiệc thịnh soạn. Ngài dự tiệc gặp cá thịt cứ ăn. Thái Hậu thấy lạ hỏi:

- Anh tu thiền mà ăn cá thịt thì thành Phật sao được?

Thượng Sĩ cười đáp:

- Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật, Phật chả cần làm anh. Thái Hậu chẳng nghe cổ đức nói: "Văn-thù là Văn-thù, Giải Thoát là Giải Thoát" đó sao ?

Khi Thái Hậu qua đời, nhà vua cúng chay ở cung cấm. Nhân lễ khai đường, vua thỉnh các vị tôn túc bốn phương mỗi vị làm một bài kệ ngắn trình bày chỗ kiến giải của mình. Kết quả bài nào cũng quến sình ủng nước, chưa tỏ ngộ.

Nhà vua bèn trao giấy mực cho Thượng Sĩ. Thượng Sĩ viết một hơi bài tụng tự thuật:

Kiến giải trình kiến giải,

Tợ dụi mắt thấy quái.

Dụi mắt thấy quái rồi,

Rỡ ràng luôn tự tại.

(Kiến giải trình kiến giải,

Tợ niết mục tác quái.

Niết mục tác quái liễu,

Minh minh thường tự tại.)

Nhà vua vừa đọc xong bèn phê tiếp theo sau:

Rõ ràng thường tự tại,

Cũng ấn mắt làm quái.

Thấy quái chẳng thấy quái,

Quái ấy ắt tự hoại.

(Minh minh thường tự tại,

Diệc niết mục sanh quái.

Kiến quái bất kiến quái,

Kỳ quái tất tự hoại.)

Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.

*

* *

Sau vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh tình. Vua đọc thơ, trả lời bằng bài kệ như sau:

Hừng hực hơi nóng mồ hôi toát,

Chưa hề thấm ướt khố mẹ sanh. (bản lai diện mục.)

(Viêm viêm thử khí hãn thông thân

Vị tằng uyển ngã nương sanh khố.)

Thượng Sĩ đọc kệ than thở giây lâu. Đến khi nhà vua nhuốm bệnh nặng. Thượng Sĩ khấp khểnh về kinh trước để chịu tang, nhưng vua đã qui tiên mất rồi.

*

* *

Thượng Sĩ với tư cách một cư sĩ thọ Bồ-tát giới, sống đúng theo tinh thần Thiền nên tâm tư rất phiêu dật phóng khoáng. Những điều luận bàn huyền diệu của Ngài, cũng như câu chuyện gió mát trăng thanh, hàng thạc đức đương thời đều kính trọng.

Sau, bệnh sơ sài, Ngài không nằm ở phòng riêng, mà nằm ở Dưỡng Chân Trang. Tại đây, giữa nhà trống, Ngài kê một giường gỗ, nằm theo phép kiết tường, mắt nhắm xuôi. Các người hầu hạ và thê thiếp khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng:

- Sống chết là lẽ thường, sao buồn thảm luyến tiếc chi mà làm não chân tánh ta.

Dứt lời, Ngài êm thấm mà tịch. Bấy giờ nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ bảy (1291), đời Trần Nhân Tông, năm Tân Mão, ngày mùng một tháng tư, Ngài thọ 62 tuổi.

Vua Nhân Tông nhớ ơn Ngài dạy dỗ, sai thợ vẽ chân dung để thờ và lấy đạo của Ngài truyền cho mà tuyên dương, lập nên phái Trúc Lâm.

*

* *

Những tác phẩm của Ngài còn lưu lại khá nhiều, ở đây lược chép một ít tác phẩm quan trọng.

Âm: (TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ)

1. PHẬT TÂM CA

Phật ! Phật ! Phật ! bất khả kiến !

Tâm ! Tâm ! Tâm ! bất khả thuyết !

Nhược tâm sanh thời thị Phật sanh

Nhược Phật diệt thời thị tâm diệt.

Diệt tâm tồn Phật thị xứ vô

Diệt Phật tồn tâm hà thời yết

Dục tri Phật tâm sanh diệt tâm

Trực đãi đương lai Di-lặc quyết.

Tích vô tâm, kim vô Phật

Phàm thánh nhân thiên như điện phất

Tâm thể vô thị diệc vô phi

Phật tánh phi hư hựu phi thực.

Hốt thời khởi, hốt thời chỉ

Vãng cổ lai kim đồ nghĩ nghị

Khởi duy mai một tổ tông thừa

Cánh khởi yêu ma tự gia túy.

Dục cầu tâm, hưu ngoại mích

Bản thể như nhiên tự không tịch

Niết-bàn sanh tử mạn la lung

Phiền não bồ-đề nhàn đối địch.

Tâm tức Phật, Phật tức tâm

Diệu chỉ linh minh đạt cổ câm

Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu

Thu đáo vô phi thu thủy thâm.

Xả vọng tâm, thủ chân tánh

Tợ nhân tầm ảnh nhi vong kính

Khởi tri ảnh hiện kính trung lai

Bất giác vọng tùng chân lý bính

Vọng lai phi thực diệc phi hư

Kính thọ vô tà diệc vô chính.

Dã vô tội, dã vô phúc

Thác tỷ ma-ni kiêm bạch ngọc

Ngọc hữu hà hề châu hữu lỗi

Tánh để vô hồng diệc vô lục.

Diệc vô đắc, diệc vô thất

Tứ thập cửu lai thị thất thất

Lục độ vạn hạnh hải thượng ba

Tam độc cửu tình không lý nhật.

Mặc ! mặc ! mặc ! Trầm ! trầm ! trầm !

Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm

Phật tâm khước dữ ngã tâm hiệp

Pháp nhĩ như nhiên cắng cổ câm.

Hành diệc thiền, tọa diệc thiền

Nhất đóa hồng lô hỏa lý liên

Một ý khí thời thiêm ý khí

Đắc an tiện xứ thả an tiện.

Di ! di ! di ! Đốt ! đốt ! đốt !

Đại hải trung âu nhàn xuất một

Chư hạnh vô thường nhất thiết không

Hà xứ tiên sư mịch linh cốt.

Tỉnh tỉnh trước! Trước tỉnh tỉnh !

Tứ lăng đạp địa vật khi khuynh

A thùy ư thử tín đắc cập

Cao bộ Tỳ-lô đỉnh thượng hành.

Hát !

Dịch: KHÚC CA PHẬT TÂM

Phật ! Phật !Phật ! không thể thấy !

Tâm ! Tâm ! Tâm ! không thể nói !

Khi tâm sanh tức là Phật sanh

Bằng Phật diệt là lúc tâm diệt.

Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu

Diệt Phật còn tâm bao giờ hết.

Muốn biết tâm Phật, tâm sanh diệt

Hãy chờ Di-lặc sau sẽ quyết.

Xưa không tâm, nay không Phật,

Phàm Thánh trời người như điện phất.

Tâm thể không thị cũng không phi,

Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thực.

Bỗng dưng khởi, bỗng dưng dừng,

Xưa nay qua lại luống lẩn quẩn.

Há chỉ chôn vùi nếp tổ tông,

Lại khiến yêu ma vào nhà lộng.

Muốn cầu tâm, chớ tìm ngoài,

Bản thể như nhiên vốn không tịch.

Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông,

Phiền não bồ-đề hư giả nghịch.

Tâm tức Phật, Phật tức tâm,

Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông.

Xuân đến, tự hoa xuân mỉm miệng,

Thu về, đâu chẳng nước thu trong.

Bỏ vọng tâm, giữ chân tánh,

Khác nào tìm ảnh mà quên kính.

Nào hay ảnh vốn tự gương ra,

Chẳng biết vọng do từ chân hiện.

Vọng lên chẳng thực cũng chẳng hư,

Gương nhận không tà cũng không chính.

Vẫn không tội, vẫn không phúc,

Lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.

Ngọc có vết chừ châu có tỳ,

Tánh vốn không hồng cũng không lục.

Cũng không được, cũng không mất,

Bốn mươi chín ấy là thất thất.

Sáu độ muôn hạnh: biển sóng trào,

Ba độc chín tình: giữa không nhật.

Lặng ! lặng ! lặng ! Chìm ! chìm ! chìm !

Tâm của muôn loài tức Phật tâm.

Phật tâm bèn với tâm ta hiệp,

Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim.

Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,

Giữa lò lửa rực một cành sen.

Ý khí mất đi thêm ý khí,

Được an tiện đấy cứ an tiện.

Chao ! chao ! chao ! Ối ! ối ! ối !

Bọt trong biển cả uổng chìm nổi.

Các hạnh vô thường thảy thảy không,

Linh cốt tiên sư tầm đâu tá!

Thức thức tỉnh ! Tỉnh tỉnh thức !

Dẫm đất bốn bề chớ lệch nghiêng.

Ai có như lời tin được vậy,

Đạp đảnh Tỳ-lô bước bước lên.

Hát !

2. PHÓNG CUỒNG NGÂM

Thiên địa thiếu vọng hề hà mang mang

Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương

Hoặc cao cao hề vân chi sơn

Hoặc thâm thâm hề thủy chi dương.

Cơ tắc xan hề hòa la phạn

Khốn tắc miên hề hà hữu hương

Hứng thời xuy hề vô khổng địch

Tịnh xứ phần hề giải thoát hương.

Quyện tiểu khế hề hoan hỉ địa

Khát bảo xuyết hề tiêu dao thang

Qui Sơn tác lân hề mục thủy cổ

Tạ Tam đồng chu hề ca thương lang.

Phỏng Tào Khê hề ấp Lư Thị

Yết Thạch Đầu hề sài lão Bàng

Lạc ngô lạc hề Bố Đại lạc

Cuồng ngô cuồng hề Phổ Hóa cuồng.

Đốt đốt phù vân hề phú quí

Hu hu quá khích hề niên quang

Hồ vi hề quan đồ hiểm trở

Phả nại hề thế thái viêm lương.

Thâm tắc lệ hề thiển tắc yết

Dụng tắc hành hề xả tắc tàng

Phóng tứ đại hề mạc bả tróc

Liễu nhất sanh hề hưu bôn mang

Thích ngã nguyện hề đắc ngã sở

Sanh tử tương bức hề ư ngã hà phương.

Dịch: KHÚC HÁT ĐIÊN QUÀNG

Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang

Chống gậy chơi rong chừ phương ngoài phương

Hoặc cao cao chừ mây đảnh núi

Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.

Đói thì ăn chừ cơm mười phương góp

Mệt thì ngủ chừ nơi chẳng quê hương

Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ

Lặng xuống chừ đốt giải thoát hương.

Mỏi nghỉ chút chừ đất hoan hỉ

Khát uống no chừ tiêu dao thang

Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước

Tạ Tam đồng thuyền chừ thổi khúc thương lang.

Thăm Tào Khê chừ ra mắt Lư Thị

Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng

Vui ta vui chừ Bố Đại vui sướng

Điên ta điên chừ Phổ Hóa điên gàn.

Chà chà, bóng ngày chừ qua khe cửa

Ối ối, mây nổi chừ mộng giàu sang

Chịu sao chừ thói đời ấm lạnh

Đi chi chừ gai góc đường quan.

Sâu xoắn áo chừ cạn nhón gót

Dùng phô ra chừ bỏ ẩn tàng.

Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt

Tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.

Thỏa nguyện ta chừ được ngã sở

Sống chết bức nhau chừ ta vẫn như thường.

3. SANH TỬ NHÀN NHI DĨ

Tâm chi sanh hề sanh tử sanh

Tâm chi diệt hề sanh tử diệt

Sanh tử nguyên lai tự tánh không

Thử huyễn hóa thân diệc đương diệt.

Phiền não bồ-đề ám tiêu ma

Địa ngục thiên đường tự khô kiệt

Hoạch thang lô thán đốn thanh lương

Kiếm thọ đao sơn lập tồi chiết.

Thanh văn tọa thiền ngã vô tọa

Bồ-tát thuyết pháp ngã thực thuyết.

Sanh tự vọng sanh, tử vọng tử

Tứ đại bổn không tùng hà khởi.

Mạc vi khát lộc sấn dương diệm

Đông tẩu tây trì vô tạm dĩ

Pháp thân vô khứ diệc vô lai

Chân tánh vô phi diệc vô thị.

Đáo gia tu tri bãi vấn trình

Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ

Ngu nhân điên đảo bố sanh tử

Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ.

Dịch : SỐNG CHẾT NHÀN MÀ THÔI

Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh

Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt

Sanh tử xưa nay vốn tánh không

Thân huyễn hóa này rồi cũng diệt.

Phiền não bồ-đề bỗng mất tiêu

Địa ngục thiên đường tự khô kiệt

Chảo dầu lò lửa chợt mát liền

Núi kiếm rừng đao chốc gãy hết.

Thanh văn ngồi thiền ta không ngồi

Bồ-tát nói pháp ta nói thiệt

Sanh dối sanh chết dối chết

Bốn đại vốn không nương đâu dấy.

Chớ như hươu khát đuổi bóng nắng

Nắm đông bắt tây không ngớt chạy

Pháp thân không lại cũng không qua

Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy.

Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi

Thấy nguyệt tìm gì ngón tay ấy

Kẻ ngu sống chết mãi lo âu

Người trí rõ không nhàn thôi vậy.

4. PHÀM THÁNH BẤT DỊ

Thân tùng vô tướng bản lai không

Huyễn hóa phân sai thành nhị kiến

Ngã nhân tợ lộ diệc tợ sương

Phàm thánh như lôi diệc như điện.

Công danh phú quí đẳng phù vân

Thân thế quang âm nhược phi tiễn

Miết khởi tinh nhi tắng ái tình

Tợ mịch man đầu nhi khí miến

Mi mao tiêm hoành tỷ khổng thùy

Phật dữ chúng sanh đô nhất diện

Thục thị phàm hề thục thị thánh

Quảng kiếp sưu tầm một căn tánh.

Phi tâm vô thị diệc vô phi

Vô kiến phi tà diệc phi chánh

Quảng Ngạch đồ nhi quả nguyện vương

Khánh Hỷ tỳ-kheo công đức thánh.

Giác tha giác tự bạt mê đồ

Biến giới thanh lương tô nhiệt bệnh.

Quân bất kiến

Tiền thất giả thị a thùy ?

Hậu đắc giả hựu thị thùy ?

Lưỡng giá ban tâm nhất ban mạng

Đáo đầu bát vạn tứ thiên đà-la-ni chi pháp môn

Đồng nhiếp nhập Như Lai quảng đại viên trí chi kính.

Đốt !.

Dịch: PHÀM THÁNH CHẲNG HAI

Thân từ vô tướng xưa nay không

Giả dối nên chia thành "nhị kiến"

Ta người như móc cũng như sương

Phàm thánh như sấm cũng như điện.

Giàu sang sự nghiệp đám mây trôi

Ngày tháng tên bay thân thế huyễn

Chút tình thương ghét thoáng xẹt qua

Khác nào bỏ bột đi tìm bánh.

Mày ngang mũi dọc cũng như nhau

Phật với chúng sanh đồng sắc mặt

Ai là phàm chừ ai là thánh

Muôn kiếp kiếm tìm mất căn tánh.

Không tâm thì không phải cùng không quấy

Chẳng kiến thì không tà cũng không chánh

Đồ tể Quảng Ngạch: tròn nguyện vương [Đồ tể Quảng Ngạch là anh chàng làm hàng thịt, khi nghe Phật nói kinh Đại Bát Niết-bàn liền ngộ đạo thành chánh quả. Trong kinh Đại Niết-bàn nói rõ.]

Tỳ-kheo Khánh Hỷ: công đức thánh [Khánh Hỷ là ngài A-nan đệ tử đa văn bậc nhất của Phật.]

Giác ta giác người khỏi đường mê

Mát rượi mười phương dứt tật bệnh.

Anh thấy chăng

Người mất trước đó là ai ?

Người được sau đó là ai ?

Hai tâm sai khác chung dòng mạng

Rốt cùng tám vạn bốn ngàn pháp môn đà-la-ni

Cùng nhiếp vào gương tròn đầy rộng lớn trí Như Lai.

Đốt !

5. THƯỢNG PHƯỚC ĐƯỜNG TIÊU DAO THIỀN SƯ

Cửu vi phong thể

Kiều ký hoang thôn

Thân tuy thiên ngoại chi sâm thương

Ý hữu kính trung chi loan phượng.

Nhàn xướng vô sanh chi khúc

Dụng thù pháp nhũ chi ân

Lạm trát già đà

Thượng trình tọa hạ.

Thân tuy phì độn ngụ hương quan

Tứ trọng ân thâm vị cảm hàn

Ý chuyết thiểu phùng thiêm ý khí

Tâm khôi cô thủ thốn tâm đan.

Xuân hồi hư đối khai đào nhụy

Phong khởi không văn kích trúc can

Đương nhựt đáo gia tham vấn bãi

Một huyền cầm tử thỉnh kim đàn.

Tạm lai tỉnh vấn cổ chùy thiền

Tướng mạo kỳ di tráng thả kiên

Huệ Khả thân tàm bì tủy ký

Triệu Châu thiên dữ hạc qui niên.

Tu tri thế hữu nhân trung Phật

Hưu quái lô khai hỏa lý liên

Trân trọng già-đà tùy hứng lễ

Kỷ đa mạn khước tử nhung thiền.

Dịch: LỄ THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở TINH XÁ PHƯỚC ĐƯỜNG

Hèn lâu xa ánh sáng

Ở gởi chốn hoang thôn

Thân tuy ngoài cõi sâm thương

Ý vẫn trong gương loan và phượng.

Nhàn nhã ngâm khúc vô sanh

Hầu đáp ân Thầy mớm sữa

Trộm có lời thơ tụng

Cúi dâng lên pháp tòa.

Thân tuy cục mịch ngụ quê này

Bốn trọng ân nào dám lãng khuây

Ý vụng sớm nhờ thêm ý khí

Lòng tàn riêng giữ chút lòng ngay.

Xuân về ngắm lững hoa đào nở

Gió động nghe hờ khóm trúc lay

Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết

Nay đàn chủ thỉnh khúc không dây.

Thoắt qua thăm hỏi cổ chùy thiền (Cổ chùy: Cái dùi xưa, tượng trưng hàng cổ lão đạo cao đức trọng.)

Tướng mạo mười mươi được khỏe bền

Tùng Thẩm tuổi theo rùa hạc thọ (Thiền sư Tùng Thẩm sống đến 120 tuổi.)

Thần Quang đạo rút tủy da truyền. (Tổ Đạt-ma muốn biết chỗ thâm ngộ của đệ tử, nên bảo mỗi người trình chỗ sở ngộ. Qua sự trình bày của mọi người, Tổ phê bình: Đạo Phó được phần da của ta, Ni Tổng Trì được phần thịt, Đạo Dục được phần xương, Huệ Khả được phần tủy.)

Vẫn hay Phật sẵn trong đời có

Đừng lạ sen bừng giữa lửa lên

Trân trọng dâng theo lời tụng hiến

Còn gì lễ mọn chút quà riêng. (Phần lớn những bài dịch về Tuệ Trung Thượng Sĩ đều nương theo bản của Trúc Thiên trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục.)

6. THỊ CHÚNG

Hưu tầm Thiếu Thất dữ Tào Khê,

Thể tính minh minh vị hữu mê.

Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận,

Thiên phong xuy bất giản cao đê.

Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc,

Liên nhụy hồng hương bất trước nê.

Diệu khúc bản lai tu cử xướng,

Mạc tầm nam bắc dữ đông tê (tây).

Dịch: BẢO CHÚNG

Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê,

Thể tính sáng tròn chẳng từng mê.

Nào ngại xa gần trăng vẫn chiếu,

Thấp cao gió thổi chẳng ưa chê.

Ánh thu đen trắng tùy duyên hiện,

Sen nở hương nồng chẳng dính nhơ.

Khúc nhạc xưa nay nên gẩy hát,

Chớ tìm nam bắc với đông tây.

7. KHUYẾN THẾ TIẾN ĐẠO

Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu,

Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu.

Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,

Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.

Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,

Ái hà xuất một đẳng phù âu.

Phùng trường diệc bất mô lai tỹ,

Vô hạn lương duyên chỉ ma hưu.

Dịch: KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TIẾN TU

Ngày tháng xoay vần xuân lại thu,

Xăm xăm tóc bạc đáp lên đầu.

Giàu sang, nhìn lại một trường mộng,

Năm tháng mang theo vạn hộc sầu.

Nẻo khổ luân hồi như chuyển bánh,

Sông yêu, chìm nổi tợ phù âu.

Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi,

Vô hạn duyên lành chỉ thế thôi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro