Hồi ba: Giang chi điếu văn vong chi chứng / Nước thay rượu đục cỏ làm nhang

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Giang chi điếu văn vong chi chứng
Nước thay rượu đục cỏ làm nhang

Quân Minh đại thắng trận Đa Bang, lục tục tiến quân vào thành.

Vì mượn danh phù Trần diệt Hồ, nên Mộc Thạnh và Trương Phụ không để quân truy lùng người dân đã chạy trốn được. Cảnh giết người, phóng hoả dù vẫn nhan nhản nhưng ít nhất đã được hạn chế một chút. Tuy nhiên không ngăn nổi quân sĩ cướp bóc tài sản, cưỡng bức thiếu nữ nhà lành. Trong thành Đa Bang... khắp nơi là tiếng khóc của người dân.

Tạng Cẩu vẫn còn ám ảnh vụ ngộ sát Thái Bá Nhạc, suốt ngày ru rú trong lều không ra gặp ai. Nó hận quân Ngu thật đấy, nhưng nó đâu phải một kẻ máu lạnh mà giết người không gớm tay được. Trương Phụ, Mộc Thạnh muốn khen thưởng công Tạng Cẩu hạ sát tướng địch cũng không gặp được nó, đành phải ghi lại công lao để tâu lên vua nhà Minh lúc ấy là Thành Tổ Chu Đệ.

Liễu Tử Tiêm nghỉ ngơi một đêm, mấy vết thương ngoài da đã cầm máu. Nhớ lại ngày hôm qua Tạng Cẩu cứu sống mình, cực kì cảm động. Mới sáng sớm, Liễu Thăng đã lôi Tạng Cẩu dậy, ngỏ ý muốn kết bái làm anh em. Dù còn nhỏ, lại là cô nhi, nhưng chí ít Tạng Cẩu cũng biết cái gọi là ân đền oán trả. Vì thế, nghe Liễu Thăng đề nghị cậu cũng không tiện phản đối, bởi xét cho cùng thì hai bên đều đã cứu nhau một mạng. Tạng Cẩu lại nghĩ: [ mình cô khổ cả đời, nay có một người anh thì thật tốt lắm. Ít nhất không cần phải lẻ loi như trước. ]

Xa xa, dòng nước dữ sông Thao gầm rú liên hồi. Trong thành Đa Bang khói đen bốc cao, trên mặt tường còn nhìn thấy những chỗ hổng lớn.

Liễu Thăng quỳ bên Tạng Cẩu, lư hương rỉ sét đặt trên mặt đất. Ba nhánh cỏ được cắm trong đó thay hương trầm, mấy cái chén con đựng nước trắng dùng như rượu ăn thề... Hai đứa giơ ba ngón tay chỉ trời phát thệ, lấy dao cắt máu nhỏ vào li rồi dập đầu ba cái.

" Trời đất, anh linh tướng sĩ hai bên làm chứng. Hôm nay Tạng Cẩu, Liễu Thăng kết làm huynh đệ. Nguyện có phúc cùng hưởng có hoạ cùng chịu. Tuy không sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày nhưng nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Nếu trái lời thề, cam nguyện bị thiên lôi đánh chết. "

Liễu Thăng nói tiếng Việt không sõi, nên xướng bằng tiếng Tàu. Tạng Cẩu dù nghe câu hiểu câu không nhưng trí nhớ rất tốt, có thể đọc theo trôi chảy ngay lần đầu tiên.

Nó lại âm thầm khấn trong lòng:

[ Cái người bất hạnh chết dưới tay ta ơi, ngài sống khôn chết thiêng đừng biến thành ma đến bắt ta. Dù ta hận quân Ngu tàn ác nhưng ngài với ta không thù không oán, khi ấy ta thực sự không cố ý hại ngài đâu. Ở đây không có rượu, ta kính ngài chén nước sông, ngài uống rồi đầu thai lại làm kiếp người. ]

Tạng Cẩu tự xưng là " ta " vì nó rất hận quân Ngu, không muốn tự hạ thấp mình trước kẻ đã giết hết người thân của nó hay tất cả những ai liên quan.

Hai đứa dốc cạn hai chén, lại rót nước trong chén còn lại xuống sông để tế điện trời đất vong linh.

Liễu Thăng hơn Tạng Cẩu sáu tuổi, nhưng để giải thích chuyện nó không biết nói tiếng Hoa, Tạng Cẩu nói mình chỉ mới năm tuổi đầu. Vóc người nước Nam vốn nhỏ bé hơn dân phương bắc, Tạng Cẩu lại là trẻ lang thang đói ăn từ nhỏ nên càng còi cọc. Bởi thế nó nói là Liễu Thăng tin ngay. Hai người kết nghĩa, Liễu Thăng làm anh. Cậu muốn Tạng Cẩu lấy họ Liễu như mình, còn nhờ Trương Phụ Mộc Thạnh đặt cho cậu em trai mới kết nghĩa của mình một cái tên mới. Tạng Cẩu ra sức từ chối, nhưng Liễu Thăng ép dữ quá bèn chỉ xin theo họ Liễu.

Trương Phụ Mộc Thạnh gặp Tạng Cẩu, bèn ngợi khen cậu bằng những mĩ từ như hào kiệt không đợi lớn, anh hùng xuất thiếu niên...v.v... Liễu Thăng dịch lại đại ý cho Tạng Cẩu, cậu bé lúc này mới biết người bị mình ngộ sát hình như là nhân vật lớn.

Quân Minh đuổi theo quân Hồ về phía Hoàng Giang. Trên đường, Liễu Thăng bẻ cành cây làm kiếm, dạy cho Tạng Cẩu mười sáu chiêu Tuyết Trai kiếm pháp để phòng thân. Chiều tối thì dùng than thay phấn, chỉ Tạng Cẩu học tiếng Tàu.

Cậu nhóc ăn mày đầu óc sáng láng, học rất nhanh nên chẳng mất bao lâu đã thuộc nằm lòng động tác kiếm thuật, nhưng vì tiếng Hoa mới bõm bẽm nói được nghe được nên còn chưa thể nắm vững được các biến hoá của đường kiếm.

Nó cũng vẫn không quên câu chuyện của mình nên phải giả vờ ngốc. Liễu Thăng dạy đi dạy lại một mẫu Hán tự mấy lần, Tạng Cẩu đều ra vẻ chưa hiểu, hoặc lúc Thăng hỏi lại thì nó cố tình đáp sai. Riết rồi Liễu Tử Tiêm cũng đâm chán, quyết định để Tạng Cẩu tự học, lúc nào thông thì đến tìm cậu sẽ dạy cho cái mới.

Tạng Cẩu học nửa ngày là xong Tuyết Trai Kiếm Pháp, lại tranh thủ học quyền cước của binh sĩ. Môn võ lính lác nhà Minh dùng tên là Thái Tổ Trường Quyền, nghe đồn là do hoàng đế khai quốc nhà Tống là Triệu Khuông Dần sáng chế, cả thảy còn ba mươi sáu chiêu chưa thất truyền.

Khuông Dần hiếu võ, có một thanh thanh long đại đao khá nặng, song đã mất tích đến nay cũng không rõ đã lạc tới chốn nào. Nghe đồn trong quá khứ Thái Tổ Trường Quyền có nhiều hơn 36 chiêu, nhưng đã thất truyền mất. Bài quyền phổ thông tới nỗi, thời bấy giờ nông phu miền sơn dã cũng biết đánh vài chiêu, đi một đường. Sĩ tốt nhà Minh biết đánh cũng chẳng có gì là lạ.

Gặp Tạng Cẩu muốn học, đám người ấy dù có nhạo báng mấy câu nhưng vẫn nhiệt tình chỉ dạy. Ngờ đâu nó tiến bộ thần tốc, chỉ mấy canh giờ đã đánh được đủ ba mươi sáu chước Thái Tổ Trường Quyền, thậm chí cách Cẩu đi quyền nay còn lâm li ảo diệu hơn người dạy mấy lần nữa. Ấy cũng là do quyền pháp này chú trọng những đòn rộng, mạnh mẽ chứ không phải sự biến hoá ảo diệu. Nói ngắn gọn lại thì dù hàm chứa kình lực rất mạnh, nhưng quyền lộ thì quá mức đơn giản.

Cả đám binh lính trố mắt ngoạc mồm ra mà nhìn Tạng Cẩu càng đánh càng hăng, không khỏi hoài nghi liệu cậu có biết quyền pháp này từ trước, chỉ giả đò không hiểu gì hết để hí lộng họ mà thôi hay chăng. Nhưng đến khi Tạng Cẩu đánh ra chiêu thứ ba mươi bảy, ba mươi tám, ba mươi chín... thì cả đám ngoài vỗ tay tán thưởng ra không biết phải làm gì hơn.

Tạng Cẩu rơi vào một cảnh giới kì lạ, đi quyền hoàn toàn theo bản năng. Lúc này đường quyền của cậu khi thì nhanh như gió hiểm như băng giữa cơn bão tuyết, lúc lại chầm chậm như sương lạnh còn đọng nơi lá cỏ. Bộ pháp của cậu lại càng thêm kì dị.

Không còn đơn thuần chỉ có cái phóng khoáng, đại khai đại hợp của Thái Tổ Trường Quyền nữa mat được thêm sự nhẹ nhàng. Nhìn Tạng Cẩu, người ta chợt liên tưởng tới lớp tuyết đầu đông lất phất rơi dưới hiên nhà.

Trong đám lính có một gã người Sơn Đông, nhãn quan nhìn võ thuật cũng cao nhất bọn. Y trầm tư ngắm một lúc, rồi như bừng tỉnh đại ngộ:

" Quyền chiêu và bộ pháp của nó... ta thấy có hơi hám Tuyết Trai kiếm pháp. Tại sao lại như thế được?? "

Cả đám nghe lời mới cố quan sát thật kỹ, cũng dần nhìn ra một chút manh mối trong ấy.

" Quả nhiên là thế. "

" Nhóc này không phải mới luyện môn võ công này vài ngày trước ư??? "

Trong thời gian này, quân Minh lại đánh một trận với thuỷ quân nhà Hồ. Hai phe mỗi bên chiếm một bờ sông, dùng thuyền chiến đánh lẫn nhau. Theo Minh Thực lục ghi lại, quân nhà Hồ có tới 500 chiến thuyền do chính đại tướng Hồ Nguyên Trừng – con trai Hồ Quý Li – cầm đầu.

Trương Phụ chia binh làm hai đường thuỷ, bộ. Bộ binh, chiến thuyền và một nửa quân kị đều do bản thân y thống lĩnh, giao chiến trực diện với quân nhà Ngu. Còn phân nửa chi kị binh của Mộc Thạnh thì vòng hẳn lên thượng nguồn, tìm đường xé rừng vượt sông.

Phụ đứng trên đầu tàu, nhìn đội thuyền chiến nhà Hồ hùng dũng tiến gần tới mà không hề nao núng. Y giương cao thanh đại đao của mình, phất lá cờ Đại Minh về phía quân tướng nhà Hồ:

" Sát!!!!!!!!!!! "

Tiếng quát oai hùng, dõng dạc trung khí mười phần của Phụ truyền đi thật xa. Thùng! Thùng! Thùng!!! Tiếng trống trận bắt đầu nổi lên, hoà nhịp với đôi hàng mái chéo của những con thuyền. Cả mặt sông lúc ấy bị khuấy động bởi mấy ngàn chiếc chèo gỗ, sóng nước cứ lan mãi về bờ, ì oạp ì oạp rửa trôi lớp đất còn nhuốm máu khô.

Đầu thuyền bên kia, Hồ Nguyên Trừng mặc chiến giáp xuất hiện. Gương mặt anh tuấn, với nét thanh tú của một quan văn và cái nhìn trí tuệ, sắc bén như gươm của bậc võ tướng. Chàng mặc chiến giáp nhẹ, lưng khoác áo bào trắng phau như tuyết. Ánh mắt Nguyên Trừng quét qua ba quân, đầy nghiêm nghị. Chàng khẽ đảo tay, phất mạnh áo bào một cái. Chẳng cần cờ xí để  hiệu lệnh tam quân, cũng chẳng cần gióng trống khua chiêng nhằn bổ uy trợ thế, quân sĩ răm rắp như một dạ ran một tiếng.

" Rõ!!!! "

Dõng dạc, hào khí ngút trời mà lại đều tăm tắp, tinh binh của Hồ Nguyên Trừng chẳng ai bảo ai, nhất loạt nâng pháo bỏ đạn, lắp cung cài tên đợi sẵn.

" Bắn!! "

Hồ Nguyên Trừng chỉ giương soái kì của mình, hàng trăm khẩu pháo Thần Cơ đã nhất loạt bắn tới tấp vào thuyền của Phụ. Điểm mạnh của súng Thần Cơ do Nguyên Trừng chế tạo là tính nhẹ và cơ động. Thuở ấy công nghệ đóng thuyền không quá phát triển, vẫn chưa có sự xuất hiện của súng thần công cỡ lớn trên tàu chiến, còn súng cổ thời đầu Tống hoả lực lại quá yếu. Súng Thần Cơ đúc theo phương pháp mới đã gọn còn nhẹ, uy lực lại mạnh nên có thể tác chiến được trên thuyền, một chiếc nhỏ thì chở được một khẩu, lớn thì được từ bốn tới năm khẩu.

Súng Thần Cơ bắn sang, đội chiến thuyền quân Minh hoả lực yếu hơn lập tức ăn thiệt lớn. May thay Trương Phụ đã sớm lường trước được điều này, nên đã dùng bao rơm bọc phía trước thuyền làm vật cản. Nếu đạn sắt của súng Thần Cơ có bắn trúng mà không làm thủng đáy thuyền, thuyền sẽ không chìm.

Trương Phụ ra sức đốc thúc tam quân, lại dò hỏi một tham tướng là Lý Bân:

" Không phải mi nói có thể phỏng chế hoả pháo của địch quân sao? Đâu? Giờ pháo đâu??? "

Lý Bân bị Phụ xách cổ, nghẹn khí chỉ đành thở khò khè lấy hơi cho khỏi chết. Trương Phụ khinh thường hừ một cái, mới thả tay. Bân thoát nạn vội ôm cổ mình, ánh mắt nhìn Phụ như muốn sát nhân. Nhưng rồi y cũng cố gắng thu lại được sát tâm của mình, nói:

" Chuyện này... còn một chút vấn đề. "

" Một chút cái đầu con bà nhà mi!!! Thằng hãm tài vô dụng!! Lần sao làm được hẵng lên tiếng!  "

Trương Phụ sút một cú, nhắm ngay giữa háng Lý Bân khiến y sụp hẳn xuống, tay ôm chặt chú chim non gãy cánh. Y nằm trên sàn tàu mà co, mà giật, mà kêu gào. Đến nỗi Trương Phụ nhìn gai cả mắt, nghe ngứa cả tai cho nhét luôn đống giẻ lau vào mồm.

" Giờ chỉ còn dựa cả vào chi kì binh của Mộc Thạnh mà thôi. "

Trên mặt sông, quân nhà Hồ áp đảo quân Minh. Nhưng một tướng lão luyện như Trương Phụ ắt còn có lưu hậu chước. Đang từ thượng nguồn đánh ập lại chính là chi kị binh của Mộc Thanh. Chỉ cần sang được bờ, muốn phá tan doanh trại đối phương chẳng phải dễ như bỡn sao?? Bên cạnh đó khi ấy quân Hồ gặp thế gọng kìm hai mặt cùng thụ địch, trận cước không loạn mới là lạ.

Mộc Thạnh y theo lời vác siêu cưỡi ngựa, đi đầu đoàn quân phi nước đại về phía hạ lưu. Trên đường, y vừa dùng siêu chặt cây phạt cỏ, vừa dặn:

" An Nam thiện nhất là nghề đánh lén, các huynh đệ phải thật thận trọng khi hành động, chớ có rơi vào phục kích. "

Dưới vòm trời này, từ cổ chí kim mấy ngàn năm ròng thử hỏi dân tộc nào có thể biến hai chữ " du kích " ấy thành một thứ nghệ thuật như người Việt??

Thì ra, trước khi dẫn quân sang nước Nam, Trương Mộc đã tập hợp hết sử liệu về các cuộc giao tranh trong quá khứ giữa hai nước, sau đó nghiên cứu cẩn thận. Hai người nhận ra, mặc dù đám sử gia người Tàu luôn cố gắng lấp liếm, song với kiến thức cùng kinh nghiệm chinh chiến sa trường của mình, hai người vẫn lọc được một vài nguyên nhân vì sao quân bắc lại thất bại.

Thời Nam Hán, trận Bạch Đằng. Thuỷ quân phương bắc bị lùa vào trận cọc, lại trúng phục kích, chết vô số. Hoằng Tháo tử trận.

Thời Bắc Tống, trận sông Như Nguyệt, Quách Quỳ Triệu Tiết trúng kế dương đông kích tây, trại của Triệu bị tập kích bất ngờ. Quân bắc thảm bại.

Thời Nguyên - Mông...

Càng tìm hiểu, Thạnh và Phụ càng tin chắc dân Nam là một dân tộc khó nhằn, giỏi lấy yếu thắng mạnh dùng ít phá nhiều, chẳng những thạo nghề sông nước lặn sâu, còn giỏi việc dựng chông lập cạm. Hai người chẳng dám vì những chiến thắng vang dội giành được lúc trước mà buông lỏng cảnh giác. Họ e sợ khả năng quân Đại Ngu vẫn đang âm thầm chuẩn bị một đòn phản kích quyết định.

Mộc Thạnh và quân của y tiến lên với mười hai phần cẩn trọng. Thậm chí chỉ một tiếng gió thổi cỏ lay hơi khác thường thôi cũng khiến họ giật mình thon thót, không biết liệu sẽ có bao nhiêu binh nhà Hồ nhảy ra khỏi các tán cây rậm rạp. Thình lình một tiếng chim kêu, bất chợt một tràng vượn hót bật lên trong rừng vắng thực chất chẳng phải chuyện gì bất thường, nhưng với Mộc Thạnh và người của hắn thì chúng lại là cả một sự tra tấn về mặt tinh thần.

" Kia!! Quân Hồ!! "

Phập!!!

Mộc Thạnh vừa thấy loáng thoáng chóp nón đỏ tươi, lập tức giương cung cài tên, bắn một mũi tên về phương ấy. Nghề thiện xạ của y dù không bằng món đánh siêu, nhưng cũng là một cao thủ. Mũi tên lướt đi trong gió, xuyên thủng một chiếc lá bàng rồi găm trúng phóc vào mục tiêu cần bắn, không chệch lấy một li. Tài bắn cung cỡ ấy đã có thể xưng là thần hồ kỳ kỹ, bách bộ xuyên dương.

Kị binh nhào tới chỗ mũi tên, vốn định bắt sống hoặc thủ tiêu cái xác người lính Đại Ngu nọ, nào ngờ...

" Bẩm tướng quân... là một con bù nhìn rơm! "

" Bù nhìn?? "

Mộc Thạnh và cánh quân của mình hết nhìn người nọ lại ngó người kia. Tất nhiên, chẳng ai tìm được đáp án trong mắt đối phương. Kể cả Mộc Thạnh thân là đại tướng, cũng không hiểu tay Hồ Nguyên Trừng này muốn giở trò gì. Song trên chiến trường, một khắc cũng là vô giá. Mộc Thạnh biết rõ chiến thuyền của Trương Phụ không thể chống lại hoả lực của Pháo Thần Cơ trong thời gian dài, nên y chẳng dám nghĩ nhiều nữa, chỉ dặn quân sĩ phải hết sức cẩn thận rồi tiếp tục lên đường.

" Lẽ nào là thuyền cỏ mượn tên?? Không đúng, muốn dùng kế này, đặt người nộm trong rừng thì biết đến bao giờ được mười mũi?? Hồ Nguyên Trừng này không phải bị lừa đá trúng đầu đấy chứ? "

Mộc Thạnh tự hỏi, cứ vừa thúc ngựa vừa lầm bầm một mình.

Trong đội có người lên tiếng:

" Tướng quân, đằng này lại có!! "

" Đằng kia cũng vậy!! "

Tâng!!

Tiếng dây cung bật lên khô khốc, hai mũi tên của Mộc Thạnh đã vọt vào trong tàng cây, khuất sau những tán lá dày. Liền đó, bình bịch hai tiếng, hai con bù nhìn rơm khoác quân phục nhà Hồ rơi xuống. Thấy sự lạ, Mộc Thạnh thoáng nhíu mày, rồi chợt vỗ mạnh trán mình.

" Ta biết rồi... khá khen cho tiểu tử Hồ Nguyên Trừng ngươi. "

" Tướng quân... lời ấy có ý gì? "

"  Bại tướng ở Đa Bang chắc chắn đã nói cho hắn biết chiến thuật chia binh hai ngả của ta và Trương nguyên soái. Tiểu tử này bèn tương tế tựu kế, dùng những người nộm này khiến chúng ta cảnh giác, thực chất trong rừng không có gì đáng sợ.

Người An Nam giỏi dùng phục kích, hắn biết chúng ta chim sợ cành cong, sẽ phải cẩn thận đề phòng lục soát khu rừng tìm kiếm phục binh mà tiêu diệt, từ đó hoang phí thì giờ một cách vô ích. Tranh thủ thời gian ấy, hắn mới dùng đại quân quét ngang đội thuyền của Trương nguyên soái. Khi chúng ta chạy tới nơi, e rằng sẽ lọt vào thiên la địa võng.

Hay cho một chiêu Không Thành Kế, lại được tiểu tử này vận dụng một cách nhuần nhuyễn ngoài hoang ngoại. Thế nhưng, chẳng chịu tốn một binh một tốt nào mà muốn lừa Mộc Thạnh này ư, tiểu tử An Nam này cũng quá coi thường ta đấy. " - Mộc Thạnh nghiến răng, cây tên trong tay bị y bẻ gãy cái rụp.

" Thế thì nguy lắm, chúng ta đã tốn khá nhiều thời gian rồi. "

" Mau!!! Dùng hết tốc lực, hoàn thành thế gọng kìm!! "

Nhánh kỵ binh này theo Mộc Thạnh chinh chiến đã nhiều năm, biết lúc nào nên làm gì. Thấy tướng quân sắc mặt trầm trọng, điên cuồng thúc ngựa chạy nhanh về phía cửa rừng đông nam, cả đám cũng liền vội vàng vọt theo.

Cửa rừng đã ở trước mặt, nếu phóng tầm mắt qua khỏi các tán cây là có thể nhìn thấy đội thuyền của hai bên đang chiến nhau dữ dội. Thạnh thấy khói xám bốc lên bay qua đầu mình, đoán biết Trương Phụ đã bị dồn vào thế khó. Thực tế, Phụ đã không dám so hoả lực nữa mà phải để chiến thuyền ngạnh kháng từng trận bão đạn mưa tên của quân Hồ, từ từ áp sát lại, để quân tràn sang đánh giáp lá cà. Thạnh không khỏi nôn nóng, tay nắm siêu sắt thêm chặt.

Cộp! Cộp! Cộp!

Bầy ngựa phi hết tốc lực, chẳng mấy mà đã vượt qua khỏi sự che chở của lá cây. Ánh nắng buổi ban trưa như đổ lửa xuống đầu, đôi mắt khẽ híp lại một lúc vì chói nhưng Thạnh nào dám thả chậm mã tốc?? Chưa đến nơi, y đã hét vang:

" Thằng ranh con Hồ Nguyên Trừng, ông nội Mộc Thạnh của mi tới rồi đây!! "

Y đang muốn gác siêu lại để với lấy cây cung, định bụng cứ bắn rụng soái kì quân Ngu trước để thị uy đã. Nào ngờ dưới chân ngựa bỗng hẫng đi nghe sụt một cái, sau đó cảnh vật trước mặt cứ dâng cao dần.

" Hỏng rồi!!! Bẫy chông!!! "

Mộc Thạnh gầm lên, trong lúc hiểm nguy đột nhiên đứng dậy trên lưng ngựa. Y dùng con ngựa đang cưỡi để lấy đà, hai chân nhấn thẳng vào yên ngựa mà mượn lực. Chiến mã bị đạp lọt thỏm xuống đáy hầm chông nhọn hoắt, còn Thạnh thì nhờ thế ấy vọt lên cao. Nhưng hố chông này được đào vừa sâu vừa dài. Mộc Thạnh mặc dù nội lực xem như có chút tay nghề, học được vài phần bản lĩnh khinh công nhưng cũng chỉ bật được đến mép hố thôi là hết đà. Y cắn răng, dùng siêu cắm thẳng ra trước mặt. Rồi gần giống cách người ta nhảy sào, y dùng siêu sắt để nâng người mình lên khỏi hố chông.

Nhưng kị binh dưới trướng của Mộc đa phần không biết nội lực, chẳng giỏi khinh công. Mấy người chạy đầu nghe Mộc Thạnh thét vang vội ghìm cương ngựa, nhưng đã không còn kịp nữa. Vài chục kị binh vì quán tính mà rơi xuống hố bẫy tua tua chông nhọn, gần một trăm người khác thì bị chính đồng bạn của mình xô xuống mà tử vong.

Nháy mắt đã tổn hại một phần tư quân số toàn là tinh anh, hai mắt Thạnh như muốn phun  ra lửa. Y hét:

" Thằng ranh khốn kiếp!! Để tao cho quân đốt phá sạch trại của mày xem mày có hàng hay không!!! "

Nói rồi, cho quân sĩ vòng qua hố chông, hướng thẳng về phía doanh trại nhà Hồ mà đánh úp lại. Quân Minh vừa chạy, vừa hét vang trợ uy, lại còn lớn giọng khiêu khích quân Đại Ngu đang đánh nhau trên sông. Hồ Nguyên Trừng cũng bị đem ra so sánh với hai người Trương, Mộc. Ai cũng nói kẻ trước chỉ đáng xách dép cho hai người sau. Mục đích đơn giản là để quấy nhiễu đối phương, làm sĩ khí sa sút.

Trên soái thuyền, hoa tiêu ở đuôi tàu chạy tới chỗ Hồ Nguyên Trừng đang đứng, báo:

" Tướng quân, địch đã vào lồng. "

Hồ Nguyên Trừng thấy thế, bèn nhẹ nở nụ cười ấm áp như gió xuân. Y nói:

" Nói với nhóm của Hồ Đỗ, Hồ Xạ cứ y kế mà làm. "

" Dạ, tướng quốc. "

Thám báo chắp tay vái, kế lại chạy ra phía sau thuyền, vừa đi vừa luôn miệng lẩm bẩm thán phục tướng quốc. Chẳng bao lâu sau, tiếng tù và giục lui quân vang lên từ phía đội thuyền nhà Đại Ngu. Các binh sĩ thấy mình đang thắng, tự nhiên lại rút chạy thì không khỏi ngớ người ra một lúc. Thế nhưng quân lệnh nặng như núi, các thuyền đành phải lục tục quay đầu, làm như muốn thu binh rút chạy. Trương Phụ trông thấy cảnh này, lại nghe loáng thoáng tiếng gào thét của Mộc Thạnh, không khỏi lấy làm mừng rỡ.

" Kế sách thành rồi!!! Các tướng nghe lệnh, dong thuyền hết cỡ truy kích chiến thuyền Đại Ngu, nhất định phải bắt được Hồ Nguyên Trừng về đây!!! Ai bắt sống được y, thăng quan tam phẩm, vàng thưởng năm cân!!! "

Binh sĩ nghe được lệnh này, nét hưng phấn lộ rõ cả ra ngoài mặt.

Đoàn binh chèo hết sức, dong thuyền hết lực, cốt sao đuổi kịp thuyền chiến nhà Hồ là được. Hồ Nguyên Trừng một mặt cho pháo thủ ra sau đuôi thuyền bắn vào quân Minh rất rát, mặc khác lại để một toán chiến thuyền cỡ nhỏ, nhẹ có trạng bị pháo Thần Cơ quay lại bọc hậu. Dù không cản nổi thế giặc, song dốc hết tấy thảy vẫn làm chậm được bước tiến của chúng. Lúc hết đạn, thì binh tốt trước vứt hết pháo xuống sông, sau nhảy tòm xuống mà bơi vào bờ. Dân Nam thạo thuỷ tính, rất lành nghề lặn. Quân Minh có dùng hoả mai bắn đuổi theo, nhưng sức đạn được nước giảm bớt, khiến thương vong ước chừng chỉ mấy chục người.

Lại kể chuyện Mộc Thạnh xông vào trại Hồ. Y giật tung liếp, chém bục vải lều ra. Nhưng bên trong chứa toàn là bù nhìn và các bao tải, chẳng biết chứa vật gì. Trên mặt đất nơi nào cũng có rơm cỏ khô khốc - vốn là điều tối kị của việc dùng binh. Lại có cả một mùi kì quái thoang thoảng trong không trung, nghe lạ mũi nhưng Thạnh không nói được cụ thể ấy là hương gì.

Mộc Thạnh mơ hồ nhận thấy có sự bất tường, đang muốn gọi quân sĩ tản mát tứ phía tạm thời rút lại quan sát, thì ở hướng tây chợt vang lên tiếng cười của tướng Đại Ngu là Hồ Đỗ:

" Tả tướng quốc căn dặn, Mộc tướng quân không cần phí sức. Mai hoa tặng quân tử, quân Đại Ngu thân làm chủ nhà sao có thể không tiễn đưa Mộc tướng quân ngài một mồi lửa? Bay đâu, bắn tên!!!! "

Hồ Đỗ đưa tay chém một nhát, lập tức có một tốp cung kị binh lao ra, lắp tên cháy vào cung bắn... về phía doanh trại của nhà Hồ.

Mộc Thạnh nhìn vô số vệt lửa cam rực kéo dài trên bầu trời thành những đường mềm mại cong như đuôi giống chu tước trong truyền thuyết. Y chột dạ, rồi nhớ lại những bao lớn chất dống trong các lều:

" Nguy!!!! Hoả dược!!!! Mau rút!!! "

Song... đã muộn.

Trên đất đầy cỏ khô, cái mùi lạ mà Mộc Thạnh ngửi thấy chính là mùi mắm tôm nhàn nhạt dùng để che đậy hương thơm của dầu và mỡ trét đầy các vách lều, lại lợi dụng rơm khô để náu đi hoả dược rắc trên đất. Nay vừa bắt lửa, cả trại trong nháy mắt bùng cháy. Những bao hoả dược chất trong lều xếp sát nhau, các rãnh giữa cũng được đổ đầy thuốc nổ. Nay thuốc bị nóng, dẫn lửa đốt vào các bao thuốc làm chúng thi nhau bạo tạc.

Oành!

Các vụ nổ làm hơi nước bị nén lại thành từng đợt sóng triều có thể nhìn được bằng mắt thường, lan toả với tốc độ chóng mặt. Nó đập rách các lều vải, đánh vỡ lồng ngực đám quân Minh đang tìm đường thoát thân.

Các vụ nổ xảy ra nối tiếp nhau theo kiểu dây chuyền, hết cái lều này tanh bành lại đến lều khác tan tác. Ngay cả những tên lính Minh đã nhanh chân chạy khỏi lều cũng bị dư âm thổi văng. Vải lều bị hoả dược nổ tung xé toạc, bị lửa đốt cháy, rồi lại nương theo lực đẩy của vụ nổ bay ra tứ phía như một đàn bướm đỏ rực. Chúng quất cả vào mặt vào cổ binh sĩ nhà Minh. Vải ướt dầu, bén vào áo xống dưới giáp trụ rất lẹ.

Sĩ tốt nhà Minh bị đau vội vàng lăn tròn, quằn quại trên đất theo bản năng loài người để dập lửa, nhưng mặt đất hiện giờ không phải lửa đỏ thì cũng toàn là vải chưa cháy thấm đầy dầu, trơn tuột mỡ. Dính phải lửa trên người binh sĩ, chúng lập tức bắt cháy ngùn ngụt. Sức lửa vì thế càng thêm mạnh. Kị binh nhà Minh như rơi vào một biển lửa, hãm vào một toà hoả ngục. Tiếng kêu khóc trong đau đớn, tiếng gào rú đầy giận dữ gầm vang nhưng chẳng được đáp lại.

Mộc Thạnh hớt hải chạy khỏi đám lều trại, râu cháy khét, mặt đen nhẻm vì muộn than. Sau lưng y, bóng người rực lửa đổ rạp xuống, đôi tay vẫn đang duỗi ra như vừa đẩy ai đó thoát khỏi biển lửa. Tay y xiết chặt chiếc siêu, miệng gào to:

" Hồ Nguyên Trừng! "

Kị binh của nhà Minh tổn thương thảm trọng, chết và bị thương đến hơn một nửa. Số khác kẻ bỏ cả giáp trụ để chạy cho nhanh thì ra được, người thì vừa kéo theo đồng bạn đang quằn quại  vừa chới với vươn tay về phía những người đã thoát thân.

Ai nấy đỏ hoe đôi mắt,  máu khô két đôi môi, rồi cố gắng đưa tay mình ra. Chỉ một chút nữa thôi, những ngón tay sẽ lồng vào nhau. Song ngọn lửa đã chồm lên như một con ngựa hoang đàng, nghiền nát hi vọng cuối cùng của những người còn kẹt trong doanh trại.

Giữa sự sống và cái chết cách nhau chỉ một lằn ranh.

Khói xộc vào mũi, chèn hai lá phổi, binh sĩ lắc mạnh đầu, lấy hai tay vỗ mạnh mặt mình để cố giữ bản thân tỉnh táo. Song vô hiệu. Đã không còn nghe thấy tiếng thều thào hấp hối của đồng bạn trên lưng, cũng chẳng thể nhìn thấy một chút ánh sáng nào ngoài ánh lửa. Chân bốc cháy, gối như tan chảy, binh lính của Mộc Thạnh cắn chặt răng, gào to:

" Sống... cho tôi... "

Dồn hết sức mình, họ ném đồng bọn trên lưng về phía bên ngoài doanh trại. Khi tiếng " bịch " mơ hồ vang lên xa xa, họ mới mỉm cười với đôi môi và vành tai đang bốc cháy rồi bất tỉnh  giữa một biển lửa ngập trời.

Nhìn những cái xác đen thui nằm bất động trên mặt đất bên ngoài doanh trại nhà Hồ, Mộc Thạnh thấy mình như bị đấm liên hồi vào ngực. Lão nhớ tới mấy tên thuộc hạ trẻ tuổi, nhanh mồm nhanh miệng. Rồi nhớ các lão chiến hữu đã cùng mình chinh chiến nhiều năm. Mới rồi còn cưỡi ngựa rong ruổi hành quân, mà nay chiến hữu thuộc hạ đều đã hoá thành than cốc, vĩnh viễn nằm lại chốn này.

Bất giác, Mộc Thạnh tự hỏi lão dẫn quân nam tiến là đúng, hay là sai? Vì ai, và vì cái gì? Không có câu trả lời nào ngoài những tiếng nổ ì ầm ngoài xa, và tiếng lách tách của những ngọn lửa đang cháy tàn.

Thấy có ánh lửa, Nguyên Trừng lập tức cho giương cao một lá cờ cuôi nheo nhỏ màu đen, phất qua lại bốn lần ra hiệu:

" Ngừng chèo, phản công tổng lực! "

Quân sĩ chấp hành nghiêm lệnh, một vòng đại pháo dội tới tấp vào chiến thuyền quân Minh đang tiến sát. Tàu của Trương Phụ chìm hơn mười chiếc, quân Minh trên thuyền uống no nước sông. Kẻ biết bơi phải dìu người sắp đuối vào bờ.

Hồ Nguyên Trừng cười vang, đang muốn hạ lệnh quay đầu truy kích, đột nhiên sắc mặt tái xám lại. Chàng dùng hai tay ôm ngực trái, hai hàng chân mày nhăn lại vì đau.

" Tướng quốc, tướng quốc! "

" Trời ơi, tướng quốc sao thế này?? "

Lính lác ở cạnh chàng lập tức bát nháo cả lên. Nếu nói linh hồn trong quân Hồ là ai, thì câu trả lời không phải Hồ Quý Li, cũng không phải Hồ Hán Thương mà chính là Hồ Nguyên Trừng. Nay thấy y đau đớn đến quỵ một gối, binh sĩ ai nấy đều lo lắng ra mặt.

" Ta... không... "

Ộc!

Dù đã nhanh chóng bụm miệng, nhưng máu vẫn thấm qua kẽ tay của chàng. Hồ Nguyên Trừng đưa tay ra xa miệng và nhìn, máu đen chảy đầy các kẽ ngón và đường chỉ tay. Chàng muốn đứng dậy... lúc này mà không thấy chàng nơi đầu thuyền thì e lòng quân sẽ loạn mất. Hồ Nguyên Trừng gồng hết sức mạnh của mình, loạng choạng đứng dậy. Nhưng mới đi có mấy bước chàng đã ngã sấp, lần này không đứng lên nổi nữa. Bụng co thắt và quặn đau từng hồi, chàng cứ nôn máu liên tục tưởng như có thể xổ cả ruột ra vậy.

Từ khoang thuyền bước ra một ông già tóc trắng phau, râu tết thành đuôi sam. Ông dùng mấy ngón tay bắt mạch Nguyên Trừng, lại khẽ bóp vào hai má chàng để quan sát đầu lưỡi.

" Mau! Mau đưa tướng quốc vào lều nghỉ ngơi. Ngài ấy có triệu chứng trúng độc, đem thuốc giải đến đây nhanh lên. "

Có hai binh sĩ xốc nách Nguyên Trừng lên, dìu chàng vào trong khoang thuyền nghỉ ngơi. May thay trước khi đi, chàng đã chuẩn bị sẵn một số thuốc thang để giải độc, đặc biệt là nọc rắn, rết và bọ cạp. Điều đáng lo ở đây là Hồ Nguyên Trừng không biết võ công, thể trạng chỉ ngang một thư sinh bình thường. Chàng uống thuốc giải vào, sắc mặt thoáng lấy lại chút huyết sắc.

"  Lão Bộc... ta đỡ rồi. "

" Tướng quốc chớ ngồi dậy vội, độc dược trong cơ thể người rất là đáng sợ, thuốc giải phổ thông chỉ có thể khiến nó hoà hoãn lại thôi chứ không hoá giải nổi đâu. Trong lúc này, kị nhất là hoạt động mạnh và động nộ, sẽ khiến máu chảy nhanh hơn làm độc đi vào tâm tạng. Tướng quốc hãy nghỉ ngơi sớm. Nếu có gì cần căn dặn, lão Bộc này sẽ nói thay người. "

Biết lão Bộc chỉ muốn tốt cho mình, Hồ Nguyên Trừng không cố ngồi dậy nữa. Chàng thở dài cởi áo giáp mình ra, nói:

" Lão cho người mặc áo này, giả làm ta. Có chết cũng không được dong thuyền tướng của ta đi trước. Ngoài ra Hồ Xạ, Hồ Đỗ hay nổi máu anh hùng, dù thân hoài bản lĩnh nhưng cũng có hạn chế lớn. Phải nhớ, tuyệt đối đừng để hai tên ấy dông dài với hãn tướng như Mộc Thạnh, mặc kệ giá nào cũng phải giết y đi. Kẻ này ba mươi chiêu đã trảm được Lương Dân Hiến thì không phải hạng dễ ăn đâu. "

" Lão đã biết rồi... "

Kỵ binh của Thạnh bị Hồ Nguyên Trừng dùng một mồi lửa thiêu chết gần nửa, tức đến độ giậm chân bứt râu, chửi bới liên tục. Kế sách ấy vốn là chiêu vườn không nhà trống năm xưa Hưng Đạo Vương dùng đối phó quân Nguyên - Mông, nay được Nguyên Trừng vận dụng biến chuyển nhuần nhuyễn để giết địch, cũng như là câu bình cũ rượu mới vậy. Còn bẫy chông khi trước chỉ là để khiến Thạnh và kỵ binh của hắn mất cảnh giác với chiêu đốt trại này mà thôi.

Nay bầy ngựa bị tiếng nổ hù đến sợ bể cả mật, đã chạy tứ tán chả biết đi đâu để mà tìm. Thạnh muốn lui binh, cũng cần thời gian rất dài. Nay đằng trước có một cánh quân như hổ như sói, y làm sao dám đưa lưng của quân mình ra cho đối phương thả sức đánh được.

" Lão già chết tiệt dám giết Dân Hiến, để Hồ Đỗ này làm đối thủ của ngươi!! Ba quân đứng yên chờ lệnh, bản tướng quân chưa nằm xuống không ai được phép tiến lên. Ai trái lệnh xử theo quân pháp. "

Mộc Thạnh vội vàng vung siêu thủ thế, nói lớn:

" Các huynh đệ dẫn người chạy mau, để ta bọc hậu!! "

Vừa dứt lời thì Hồ Đỗ đã giục ngựa xồ tới. Vũ khí của Đỗ là một cây việt lớn ( một loại rìu chiến cổ ). Trong các loại binh khí trên lưng ngựa, đao và rìu là có lực chém mạnh nhất. Nay y ngồi trên lưng ngựa, mượn đà tiến tới lẫn lực của cánh tay và eo, đủ biết nhát phạt này sẽ dữ dội tới mức nào.

Nhìn Đỗ hùng hổ gióng trống khua chiêng là vậy, nhưng trong mắt Thạnh thì một chiêu này lại toàn là sơ hở. Y cười khẩy, nói:

" Trò trẻ con! "

Tay y lướt trên thân siêu, rồi nắm chắc vào phần ngọn của phần cán, đoạn ngay bên dưới lưỡi sắc. Vốn là một binh khí dài, được cầm như thế thanh siêu chẳng khác nào biến một con dao làm bếp hơi sắc bén hơn bình thường một chút.

[ Còn tưởng Mộc Thạnh đáng sợ như thế nào, hoá ra chỉ là lão già hồ đồ. Thế thì không cần e ngại lão. ]

Hồ Đỗ thấy đối phương chẳng những không nghiêm cẩn đối địch, mà lại thu ngắn tay cầm của siêu lại thì chỉ khịt mũi một cái coi thường.

" Mộc Thạnh, lũ chó bắc quốc chúng mày có câu nhất thốn trường, nhất thốn cường kia mà?? Hôm nay xem bố mày dùng chính cái đạo lí ấy xẻ mày làm hai đây. "

Mộc Thạnh đáp gọn:

" Nhãi ranh vô tri. "

Lưỡi búa sắc bén mang sức mạnh chẳng khác nào bổ núi chặt sông bổ nghiêng sang càng lúc càng gần. Hồ Đỗ chắc mẩm, dưới cú đòn sấm sét này Thạnh hẳn phải bị chém đứt làm hai khúc.

Nào ngờ Thạnh đã sớm vận công, toàn thân nén khí không phát chỉ đợi đúng thời khắc này. Lúc mà Hồ Đỗ vung rìu lên hết cỡ định chém, thì Thạnh đã tung mình nhảy lên tránh thoát cú phạt hiểm hóc. Đỗ thấy vậy vội dồn hết sức, lưỡi việt thoáng nhanh một chút, tiện đứt luôn đế giày của Thạnh. Chỉ chậm nửa cái hô hấp là Mộc Thạnh đời này chỉ có thể ngồi nằm, song y nào có thèm quan tâm? Trong lúc thân thể còn ở trên không, y đã nhắm chuẩn ngay dây cương Đỗ đang cầm. Nay chỉ việc chộp lấy nó, mượn đà đu lên lưng ngựa. Dây cương bị Mộc Thạnh giật ngược ra sau khiến con ngựa chồm lên, hí vang liên hồi. Đồng thời, lưỡi siêu của Thạnh đã dí sát vào cổ Đỗ. Thắng thế toàn diện, y mới cười lớn:

" Thằng oắt con, người Việt chúng mày không phải cũng có một câu gậy ông đập lưng ông hay sao??? "

Hồ Đỗ bị lưỡi siêu sắc nhọn ép tới cổ càng lúc càng gần, biết rằng lúc này không buồn tay khỏi dây cương là chết chắc. Y đành phải lỏng tay nắm yên để nghiêng người ra sau, hai chân trượt khỏi bàn đạp. Phịch một tiếng nặng nề, Hồ Đỗ ngã lăn quay ra đất. Mộc Thạnh cướp lấy con ngựa, ngồi ngay ngắn trên yên. Y vừa cười vừa nói:

" Thiên Triều ta còn có câu nhất thốn đoản nhất thốn hiểm, tiếc là đám mọi các ngươi  ít học, không hiểu lời lẽ của thánh hiền. Sống cũng chỉ làm chật đất. Đi chết đi! "

Nói rồi, vung cao siêu sắt lên, vận kình muốn bổ xuống. Song trước lúc ấy, đôi tai y đã hơi động đậy. Một tiếng vút rất nhỏ vừa bật lên trong không khí, kình phong nhọn hoắt đã dí tới sát lưng.

Choang!!!

Không kịp quay đầu, Thạnh chỉ biết rút lấy một mũi tên từ ống tên bên đùi, dùng thủ pháp phóng tụ tiễn để ném nó ra sau. Biết sẽ không ngăn nổi đòn công bất ngờ của kẻ địch, y vội thúc ngựa chạy lên trước, gỡ cây cung sau lưng xuống. Nói đoạn Mộc Thạnh quay đầu lại, dùng thế hồi mã cung trứ danh của người Mông Cổ bắn liên tiếp ba mũi tên về phía kẻ đánh lén.

Lại có tiếng vút khẽ vang lên, hai mũi tên nữa vọt ra từ bóng tối của khu rừng. Mỗi người bắn ra tổng cộng ba mũi tên, cả sáu chuẩn xác đụng mũi vào nhau ngay giữa bán không. Choang một tiếng giòn tan, tên của Mộc Thạnh bị lực lớn bắn ngược lên không trung, xoay tít mù mấy vòng liền. Còn ba mũi tên do người thần bí bắn thì cắm thẳng xuống đất, lút tận non nửa thân tên.

Mộc Thạnh thấy vậy, quát:

" Đám An Nam các ngươi chỉ biết núp trong tối, đánh lén người khác thôi sao? "

" Mộc tướng quân, ngài là người dẫn quân tập kích doanh trại, vậy mà còn lớn tiếng được ư?? Quả không hổ là dân tộc dựng nên Vạn Lí Hậu Thành, bái phục. "

Bước ra từ khu rừng, là một thanh niên mặc áo giáp lưới. Dáng người y thấp hơn, mặt mũi cũng không nanh ác bằng Hồ Đỗ nhưng lại cho người khác một loại cảm giác âm hiểm. Đặc biệt là đôi mắt xếch và làn da trắng bệt ấy. Sau lưng y đeo hai chiếc nỏ lớn, ở eo lại đeo hai cây khinh nỏ. Vừa bước ra, y đã trào phúng Mộc Thạnh. Câu nói của y hàm ý chửi người Trung Quốc là một lũ mặt dày vạn dặm như cái tường thành họ xây, nhưng chả ai hiểu nổi nên cũng không có người nào hưởng ứng.

Mộc Thạnh còn tâm tư nào mà để ý hắn có trào phúng hay không??? Mắt y vằn đỏ lên, răng nghiến lại nghe kèn kẹt. Hai tay nắm chặt thành quyền, y nói mà như quát:

" HỒ. NGUYÊN. TRỪNG. Mộc Thạnh ta quyết không đội trời chung với ngươi!!!! "

Mộc Thạnh gằn giọng rất mạnh, ngữ khí tràn đầy sự phẫn hận. Dù biết rõ y đã đoán được chuyện gì đang xảy ra trong cánh rừng nơi ánh nắng không lọt tới, Hồ Xạ vẫn nói bằng giọng trêu tức:

" Mộc tướng quân yên tâm, binh sĩ dưới trướng ông đều đang được phục binh của tướng quốc chăm sóc cẩn thận. Tiếc là không biết danh tính, bát tự nên khó mà để họ nhập thổ quy an, nên đành phải vứt lại đó. Đợi khi tướng quốc tra cẩn thận tên tuổi ngày sinh sẽ tự tay làm bài vị, chôn cất từng người một đàng hoàng. Tất nhiên, sẽ mất một vài ngày, vài tháng hoặc thậm chí vài năm. Nhưng chẳng sao, vì đằng nào sĩ binh của ông thì cũng chẳng đi đâu được, Mộc tướng quân đồng ý chứ??? "

Liên tiếp trúng phải kế hiểm khiến Mộc Thạnh thoắt cái như già đi mấy chục tuổi. Hồ Nguyên Trừng nắm bắt tâm lí của y thực sự quá tốt, làm y có cảm giác bản thân như một con lừa ngu xuẩn bị người ta dắt mũi dẫn vào lò mổ.

Hai mắt long đỏ, Mộc Thạnh gào lên:

" Lũ oắt con, lũ mọi rợ. Cứ lao cả vào đây đi, một mình Mộc Thạnh này sẽ giết hết đám các ngươi không còn manh giáp. "

Hồ Xạ bĩu môi, nói:

" Mộc tướng quân, cần gì phí sức giãy dụa? Bây giờ ông tự sát, còn có thể chết toàn thây đấy. "

Hồ Xạ đang ba hoa, không ngờ đến Mộc Thạnh lại thúc ngựa phóng tới chỗ Hồ Đỗ. Siêu sắt của y loé lên ánh thép, bổ xuống một cú với khí thế như trời long đất lở. Y dường như đã chẳng thiết sống nữa, liều mạng muốn lôi Hồ Đỗ theo.

Hồ Đỗ định học Mộc Thạnh cướp ngựa lại, tiếc là công phu non kém hơn nhiều. Y mới chỉ nhảy lên được vài tấc thì siêu của Mộc Thạnh đã chém thẳng xuống. Y vội dùng việt để đỡ, nhưng đã chậm! Cây việt của Hồ Đỗ bị Thạnh dùng một siêu chém làm hai nửa. Song đà tới vẫn chưa dùng hết, lực cũ  hãy còn dồi dào. Siêu của Thạnh cứ thế chém mạnh vào ngực Hồ Đỗ, xuyên qua giáp trụ, nhẹ nhàng phá bung mỗi lớp da, xẻ tan từng tấc thịt. Hồ Đỗ chẳng kịp kêu lên một tiếng, một vòi máu đỏ tươi đã bị lưỡi siêu của Thạnh kéo tung vào không khí. May là vết chém không sâu, nên Đỗ chỉ thấy đau chứ không có gì đáng ngại. Mộc Thạnh hoành siêu lại muốn trảm bay đầu Đỗ, thì Hồ Xạ đã kịp thời phát ra liên tiếp hai mũi tên ứng cứu. Thế tên bay rất gấp, Mộc Thạnh chỉ đành múa siêu gạt vội, từ bỏ việc chém chết Hồ Đỗ. Ngực đầm đìa máu tươi, Đỗ gầm lên:

" Không được can thiệp!!! "

Y múa nửa cây việt, làn da thân trên dần chuyển sang màu hồng trái đào. Đặc biệt là gương mặt, hầu như đỏ chót lên như là có tích máu dưới da vậy. Hồ Đỗ giơ rìu lên cao, bổ mạnh xuống một nhát.

Mộc Thạnh còn đang đề phòng Hồ Xạ đánh lén, đột nhiên thấy bên cạnh nổ bung lên tiếng rống mạnh kinh hồn như long ngâm hổ khiếu. Không kịp vận công đề phòng khiến khoé miệng y hơi ứa một tia máu, khí huyết trong khoảnh khắc này hoàn toàn tán loạn.

Kình phong mãnh liệt thốc thẳng vào bên sườn, gần như khiến Thạnh ngã khỏi lưng ngựa. Việt của Hồ Đỗ còn chưa chém tới, mà con ngựa Thạnh cưỡi miệng đã ộc máu.

Hồ Xạ cười khẩy, nghĩ thầm:

[ Thần công mà Lý Thân (*) truyền lại quả nhiên phi phàm. Hồ Đỗ mới luyện được tầng thứ nhất, mà đã mạnh như hổ sói rồi. ]

Lý Thân, còn được gọi là Lý Ông Trọng, người làng Chèm sống vào thời Hùng vương cuối cùng Duệ Vương, đầu đời An Dương Vương. Ông còn có phong hiệu là Thượng Đẳng Thiên Vương, tương truyền sở hữu thần lực trời sinh vô địch thiên hạ, chấn đắc cổ kim. Song sự thực lại hơi khác sử sách ghi lại.

Chỉ người trong hoàng tộc biết, Lý Thân thời trẻ từng luyện qua một bộ võ công cổ quái không ai biết tên đến tầng thứ chín, nhờ đó mới có sức lực bạt rừng phá núi, chắn sông tát biển. Không rõ thần công ấy tên gì, nhưng trong sách cổ có ghi lại đặc điểm của nó. Đối với năm tầng đầu, càng luyện lên cao thì da dẻ người ta càng đỏ, đến tầng thứ năm thì mặt lúc nào cũng như gấc chín. Song bốn tầng phía sau cứ luyện được một tầng, da người ta lại nhạt màu đi đến khi hoàn toàn lấy lại sắc thái bình thường mới thôi.

Năm xưa Lý Ông Trọng sang nước Tần làm quan, trấn thủ ải bắc khiến người Mông sợ hết hồn vỡ mật, không dám nhòm ngó đất đai thổ nhưỡng bên đó nữa. Vua Tần Thuỷ Hoàng trọng dụng tới nỗi gả cả con gái cho, hiện vẫn còn tượng của bà ở Đình Chèm. Không biết trong thời gian này Lý Thân có từng dạy ai môn thần công này hay không, nhưng mấy trăm năm sau vào thời Tam Quốc xuất hiện một tướng tài là ông Quan Vũ, tức Võ Thánh. Ông này mặt đỏ như gấc, có lẽ có liên quan ít nhiều tới Lý Thân năm nào.

Lại kể Lý Ông Trọng sau có về thăm quê cũ, có ý nhớ nhà không muốn qua Tần làm quan nữa. Người Hung Nô không thấy bóng Thân ở quan ải, lại bắt đầu vùng lên nhiễu nhương. Doanh Chính ban lệnh gọi Lý Thân về rất gấp, song ông giả chết chối từ. Tức giận, Tần Thuỷ Hoàng xuống chiếu bắt Lý Thân : " chết phải thấy xác. ".

Không muốn hai nước Lạc Việt – Đại Tần phải gặp nhau bằng đao kiếm,  Lý Thân tự vẫn để giữ một tấm lòng son với hồn thiêng tổ quốc. Trước khi chết, ông lại tiếc thần công sau này có thể sẽ thất truyền, cho nên đã khắc lại cách luyện lên cột đình làng Chèm. Đáng tiếc là chữ Việt cổ (**) đã thất truyền kể từ khi An Dương Vương mất nước, nên hơn ngàn năm đã qua mà chẳng mấy ai học được pho thần công cái thế ấy.

Truyền nhân của bộ võ công này ở trời nam ta phải kể đến dũng tướng Dã Tượng. Chẳng biết bằng cách nào, nhưng ông đã có duyên luyện thần công vô danh đến tầng thứ bảy. Từ ấy khí huyết cuồn cuộn như sông Hồng mùa lũ, có lực lớn đến ngàn cân. Một cú đấm của ông có thể đánh nát đá xanh, một cái hẩy có thể xô đổ cây già trăm tuổi. Hưng Đạo Vương lấy tên Dã Tượng cho ông, phần vì ông thiện nghề thuần voi khiển tượng, phần vì sức ông mạnh ngang ngửa ba bốn con voi lớn cộng lại.

Lại nói về Hồ Đỗ trong một lần du ngoạn phương bắc vô tình tìm được năm tầng đầu của thần công được phiên sang Hán ngữ và khắc trong động đá ở vùng Sơn Tây - cũng là nơi phát tích của Quan thánh Quan Vân Trường, mới luyện thành tầng thứ nhất. Vì khẩu quyết ghi trên vách đá qua năm dài tháng rộng đã bị mài mòn đi mất bốn câu quan trọng, nên phải bị thương mới kích phát được thần lực.

Hồ Đỗ đột nhiên đại phát thần uy, sức mạnh tăng vọt cơ hồ chỉ trong nháy mắt. Mộc Thạnh không kịp đề phòng, thế là phải ăn thiệt thòi lớn.

Bị đánh ngã xuống ngựa, y nổi giận thét dài, múa siêu lao xồ về phía Hồ Đỗ. Đỗ đã phát động được thần công, tự tin vô cùng:

" Hồ Xạ, chớ có nhúng tay vào, bằng không lát nữa chém luôn cả ngươi. "

Hồ Xạ phẩy phẩy tay không nói gì, hàm ý nói Hồ Đỗ cứ tự nhiên mà đánh. Nào ngờ, còn đang đinh ninh chiến thắng đã nằm gọn trong túi quân Đại Ngu thì bên kia mặt sông đã có tiếng hò reo vang dội.

" Đại Minh vô địch! Thiên Triều vô địch!! "

Hồ Xạ giật mình nhìn sang, chỉ thấy trong hàng ngũ quân mình một thuyền đã tách khỏi toàn quân quay đầu xuôi gấp về hướng nam, mà các thuyền còn lại dù không trúng đạn chẳng dính tên vẫn cứ thi nhau chìm nghỉm không rõ lí do.

(*): Còn gọi là thánh Chèm, nay ở làng Chèm vẫn còn điện thờ. Có tích kể hồi nhỏ ông đã đủ sức xé xác một con giải ( ba ba ) lớn bằng tay không. Đáng nói là con ba ba này đủ lớn để kéo được một phụ nữ xuống sông ( trong tích kể, nạn nhân là mẹ của Lý Thân )

(**): sách Thanh Hoá quan phong viết năm Thành Thái thứ 15 ( 1903 ) từng đề cập tới loại chữ viết riêng của người Việt cổ. Một vài sử liệu của Trung Quốc cũng miêu tả mẫu tự này " như đàn nòng nọc đang bơi ". Có lẽ vì muốn đồng hoá dân ta, Triệu Đà đã phá huỷ đa số văn tự bằng chữ cổ này.

Dưới sông...

Nêu ai đó có dị năng nhìn xuyên thấu màn nước đục ngầu vì bị cả ngàn chiếc mái chèo khuấy động, thì có thể thấy mấy chục trai tráng đang bơi qua bơi lại ngay dưới đáy thuyền.

Họ húi trọc đầu, trên tay cầm dùi và đục còn ở lưng xăm hình rồng bốn móng, có một sừng, khoé miệng có hai nanh dài cong vút trông rất dữ tợn và con mắt thứ ba trừng to ở giữa trán. Nhìn là biết đây không phải loài rồng Trung Quốc.

Lục bục...

Miệng và mũi tuôn ra những dòng bóng khí nhỏ, đám người ấy cứ ba người phân làm một tổ, nhè đáy thuyền quân Hồ mà đục tới tấp.

Họ đã nấp dưới sông từ khoảng một khắc trước, lợi dụng những miếng gỗ nổi và làn nước đục ngầu để che giấu hành tung. Ở thắt lưng họ dắt dao găm, hai tay cầm búa và đục.

Trên chốn giang hồ có một loại võ công gọi là Quy Tức công giúp người ta trữ một lượng lớn không khí trong hai lá phổi, nhờ vậy có thể hoạt động thời gian dài dưới nước.

Nói về môn võ này, thì không thể không nhắc tới danh tướng Yết Kiêu thời nhà Trần. Trong dân gian hiện giờ vẫn truyền lưu sự tích ông lặn nước đục thuyền quân Nguyên - Mông năm nào.

Yết Kiêu có thể qua lại trong nước như trên đất bằng, một lần lặn thì nửa ngày cũng không cần ngoi lên. Điều ấy là thực. Mà muốn biết căn nguyên nguồn cội thì phải lần lại việc năm xưa ông vô tình bắt được một con Kim Quy, cũng chính là loài rùa thần xuất hiện rất nhiều trong sử thi truyện cổ nước Nam ta.

Dân gian nói rằng loài này cứ ba tháng sống dưới nước thì ba tháng sau lên bờ sống, hai chân trước như rùa cạn mà hai chi sau lại như loài ba ba, người không có mai mà có vảy cứng như rắn. Có người già còn nói con mà Yết Kiêu gặp được là con cuối cùng của giống ấy. (*)

Quan sát rùa thần suốt ba tháng ròng, Yết Kiêu mới cải tiến môn Quy Tức công từ chiêu võ tầm thường được dân mãi võ phương bắc truyền xuống  thành ngón thần công như hiện giờ. Hưng Đạo Vương biết việc này, từng khen: [ Bện rơm hoá vàng, mài đá ra ngọc, ấy cũng chính là cái tài của Yết Kiêu vậy. ]

Những tay đang đục thuyền quân nhà Hồ kia nếu xét nguồn gốc sâu xa cũng coi như môn sinh nhà họ Phạm, phải gọi Yết Kiêu một tiếng sư tổ. Mặc dầu cả bọn chỉ học được một hai phần bản lĩnh của vị danh tướng kháng Mông, song lặn nước khoảng nửa canh giờ cũng không sao hết. Chúng lại thắng ở số lượng lớn, lớp này thế lớp khác làm việc liên tục nên hiệu suất rất cao.

Thuyền quân Đại Ngu bị đục chìm hết chiếc này tới chiếc khác, lính lác thi nhau rơi xuống nước.

Lúc này lập tức có một toán rút dao ngắn ở thắt lưng ra, bơi tới cắt phăng yết hầu lính Ngu. Những người lính bị nước xông vào đầy mũi và miệng, còn chưa kịp định thần thì cổ họng đã trúng dao.

Máu tươi vấy đỏ sông, khiến nước sông Hồng càng thêm rực rỡ.

Biến cố này xuất hiện ngay sau khi Hồ Nguyên Trừng phát độc, nên quân Đại Ngu cứ như một đám kiến vỡ tổ, trận thế đại loạn. Đa số chèo gấp về gần bờ, vài người nổ pháo bắn xuống nước, nhưng vô hiệu.

Trương Phụ không rõ chuyện gì đang xảy, nhưng thấy thuyền quân Đại Ngu cứ thi nhau chìm, quân sĩ nhà Hồ thì sợ đến độ tan gan vỡ mật thì mừng rơn. Y nhanh chóng gióng trống chỉnh đốn lại quân ngũ, phất cờ lệnh đội thuyền dốc hết tốc lực đuổi giết.

Quân Đại Ngu bị đánh cho thất điên bát đảo, thua liểng xiểng. Do trúng độc, Hồ Nguyên Trừng rơi vào một giấc ngủ sâu và được lão Bộc đưa lên một chiếc thuyền nhỏ rút vội khỏi chiến trường.

Trương Phụ thừa thắng cho đại quân công mạnh, đánh dạt đội thuyền quân Đại Ngu. Binh tướng nhà Hồ y theo những gì được huấn luyện từ trước, phái một chi cảm tử quân ở lại bọc hậu còn số còn lại vội vàng tháo chạy.

Thương vong vì thế mà được hạn chế, song ước tính vẫn có đến trăm chiếc thuyền lớn nhỏ bị phá huỷ, gần một vạn quân Hồ thiệt mạng. Gỗ vụn nổi lềnh phềnh khắp cả mặt sông, còn đám người xăm rồng mới nãy giở trò đục thuyền đã sớm rút đi đâu mất.

Hồ Xạ thấy mãi mà chi phục binh vẫn chưa quay lại, bắt đầu sốt ruột. Y thầm nhủ: [ Hay là có biến? ]

Nghĩ thế, lại thấy Hồ Đỗ dần chiếm thượng phong, Hồ Xạ mới xoay mình chạy trở lại chỗ phục kích để kiểm tra. Trên đường, y thấy rất nhiều thi thể quân Minh bị giết nằm rải rác trên đường, mới thoáng yên tâm hơn.

Y thở phào, tự trách mình quá đa tưởng. Một trăm tàn binh sao có thể lật nên sóng gió gì trước một ngàn hùng binh chứ??

Song, càng nhất mực cho rằng điều gì đó không thể xảy ra, thì khi nó trở thành hiện thực lại càng tàn khốc.  Trên sông quân Minh đại thắng một cách đầy bất ngờ, thì trên bộ nhà Hồ cũng thua đậm theo cách tương tự.

Nói đến lúc trước Hồ Xạ ước đoán sau vụ đốt doanh thì quân giặc chắc chỉ còn vỏn vẹn trăm kị binh. Quân Minh đã trọng thương còn mất ngựa, y lại ỷ mình có cả ngàn tinh binh, thần thái ai nấy đều tinh minh như rồng như hổ thì không khỏi khinh thường.

Lại nghĩ: [ Hồ Đỗ phải bị thương mới phát huy được thần công, nhỡ chưa làm sao đã bị Mộc Thạnh giết tại chỗ thì mệt. Ta phải chạy ra tiếp ứng. ]

Nói rồi căn dặn binh sĩ cẩn thận, theo đường khác ra bìa rừng. Đúng lúc gặp Hồ Đỗ sắp sửa đi đời nhà ma bèn vội vàng rút nỏ bắn giải vây. Đỗ thoát được một kiếp, nhưng binh nhà Hồ trong rừng không có cái may mắn ấy.

" Y theo kế hoạch, giết!!!! "

Người vừa mới lên tiếng là một bách phu trưởng, họ Hà. Sĩ tốt nhìn nhau, rồi cùng gật đầu mà hét lớn. Kẻ nào kẻ nấy tuốt gươm, rút đao rồi túa ra khỏi chỗ nấp. Vừa chạy, họ vừa quát to:

" Tướng quốc sai bọn ta chờ các ngươi ở đây lâu rồi!!! "

Quân Hồ lấy khoẻ đánh mệt, lấy đông hiếp ít. Đã vậy còn nhào ra bất ngờ, quân Minh không chống được bao lâu đã bị đánh tan tác, chẳng còn ai sống sót. Mà quân Hồ chỉ tổn hại hơn chục người mà thôi.

Vung đao chém chết kị binh cuối cùng của Mộc Thạnh, họ Hà mới tra lại khí giới vào vỏ. Đang định trở về phục mệnh thì đúng lúc này, đầu bên kia khu rừng đã vang lên tiếng ai cười nói xỗ xàng:

" Thiên Sư cũng dặn bọn ta chờ lâu rồi. "

Âm thanh y mạnh như chuông đồng, oang oang chẳng kém gì tiếng cả chục con bò cùng rống.

Bách phu trưởng họ Hà ngước lên, răng nghiến lại:

" Là mi!!! Thù giết cha mẹ, hôm nay tính với nhau một lần cho xong cả vốn lẫn lãi đi!! "

Sư Tử Hà Đông Huỳnh Chí Lập cười vang, nói:

" Lão đây làm cái nghề buôn không vốn đã mười lăm mười sáu, từng giết bao nhiêu người bản thân còn chẳng nhớ rõ thì làm sao nhớ nổi mi là ai. Nhưng hôm nay hễ là lính nhà Hồ thì không ai được sống cả!! Anh em đâu, giết!! "

Nói đến đây thì vị bách hộ họ Hà đã múa đơn đao xáp lại gần. Lập vung cây bát cương cửu hoàn đao lên cản ( đao lớn có gắn chín vòng tròn nhỏ ở sống đao ). Nội công của Sư Tử Hà Đông hùng hậu hơn nhiều lắm, chỉ một cú chém của Lập là đao của vị bách hộ họ Hà đã bị đánh văng ra khỏi tay.

Huỳnh Chí Lập cười khẩy, đạp mạnh một cú vào bụng đối thủ. Ngọn cước chứa đầy kình phong quét thẳng vào vùng bụng trái, khiến cho lục phủ vị bách hộ họ Hà chấn động dữ dội như muốn tê liệt. Y còn chưa kịp định thần, thì Lập đã vung nắm đấm qua.

Cốp!

Hàm dưới họ Hà như lệch hẳn qua bên, răng kèm cả máu văng ra đầy đất. Lập nhe răng cười nanh ác, nói đoạn giơ cao thanh bát cương cửu hoàn đao lên, gằn:

" Để tao cho mày đoàn tụ với người nhà vậy... "

Họ Hà biết mình sức cùng lực kiệt, chỉ có đường nhắm mắt chờ chết. Chung quanh y bộ tốt huynh đệ cũng đang lăn xả vào vòng chiến với một đám người giang hồ. Giữa chiến trường lượn lờ một đám khói tím, không ít lính nhà Hồ hít phải, da dẻ lập tức biến sang màu đen xanh. Hai mắt họ hồng đỏ lên, không còn phân biệt nổi địch ta nữa, chỉ biết điên cuồng vung đao khươ kiếm mà chém loạn xạ.

Hơn một nửa số binh nhà Hồ sau khi trúng độc lập tức hoá thành những cỗ máy giết người. Còn những người giang hồ thì  không hề bị ảnh hưởng, họ Hà đoán họ đã sớm ngậm thuốc giải.

Huỳnh Chí Lập nhìn cảnh này thì cười nhẹ:

" Không hổ là độc dược của đảo chủ đảo Bạch Long, đúng là có một tư vị khác. "

Miệng nói, song chân y vẫn vận kình giáng vào hai đùi bách hộ họ Hà. Cách cách hai tiếng, chân họ Hà đã gãy đoạn. Y thét lên một tiếng đau đớn, mặt vặn vẹo tới độ biến dạng. Nương theo đó, một lượng lớn khói độc cũng theo miệng tràn vào cơ thể.

Có câu thuốc có ba phần là độc. Thứ khói độc này sử dụng chín mươi bảy loại thuốc đại bổ, trong có cả linh chi nhân sâm không dưới trăm năm. Một khi tiến vào cơ thể, sẽ khiến người trúng toàn thân tràn đầy sức mạnh, lại có công hiệu mê hoặc thần trí. Thần trí đã không rõ ràng, thân thể theo bản năng cần chỗ phát tiết, tất nhiên sẽ tàn sát đồng bọn chung quanh.

Song trên đời không có việc gì mười phần chắc cả mười mươi. Họ Hà hít phải độc khí, nhưng nhờ có hận thù với Huỳnh Chí Lập mà không hề đánh mất lí trí. Đã vậy còn mượn nhờ bảy phần đại bổ trong dược vật, xông phá khai thông các kinh mạch toàn thân. Trong một khoảnh khắc hồi quang phản chiếu, tất cả tiềm lực của y đã bị khói độc kích phát.

Họ Hà đợi đúng lúc Huỳnh Chí Lập nghĩ y đã trúng độc mất hẳn nhân tính, hai chân thả ra không nhấn lên lưng nữa. Lúc này y mới xuất  chưởng vỗ lên mặt đất, mượn lực phản chấn bật lên giữa bán không.

Sư Tử Hà Đông nào có ngờ con châu chấu gãy chân còn biết đá xe. Không kịp phản ứng lại, thì vị bách hộ họ Hà nọ đã phát liền hai đấm, một từ mé tả đấm qua, một từ phía hữu xông lại. Huỳnh Chí Lập chỉ kịp kêu một tiếng, hai đầu quyền đối thủ đã đập trúng ngay huyệt thái dương.

Đây là hai yếu huyệt, đánh vào nó có thể khiến não bộ bị tổn thương, khả năng dẫn đến tử vong rất cao. Đây quả là hai quyền mạnh nhất trong cuộc đời của vị bách hộ họ Hà, đã nhanh lại hiểm, chuẩn mà không yếu.

Huỳnh trúng chiêu, hai mắt trợn lên như sắp lồi ra khỏi hốc mắt. Từ cả bảy lỗ trên mặt y đầu có máu tươi rỉ ra, hai tay buông thỏng, Sư Tử Hà Đông cứ như vậy mà tuyệt khí lìa đời.

Đánh xong một đòn sấm sét, vị bách hộ họ Hà cũng ngã vật ra đất.

Máu màu đen tím chảy ra từ mọi lỗ chân lông trên người, chỉ trong thoáng chốc đã không còn nhìn rõ da thịt y nữa. Chỉ còn đôi mắt đang hấp háy, nhãn châu như sáng lên long lanh. Chất độc bò trên lòng trắng, hướng tới chỗ đồng tử của y như những con giun đáng sợ. Chẳng mất bao lâu, bách hộ họ Hà cũng bỏ mạng dưới kịch độc.

Bịch! Bịch!

Sức sống của binh sĩ nhà Hồ bị kịch độc thiêu cháy, lần lượt hoá thành người máu mà ngã xuống đất. Đám hiệp khách thấy đại cục đã định, bèn rủ nhau dùng khinh công chạy nhanh vào rừng.

Vài hô hấp sau, Hồ Xạ chạy đến.

Cảnh tượng trước mặt y thực là thương tâm, phi thường thê thảm. Nằm rạp khắp nơi toàn những người là người, ai nấy không cụt tay, đứt chân thì đầu đã lăn ra chỗ khác. Hơn một ngàn người chết, chẳng mấy ai được toàn thây.

Đó là bởi binh sĩ sau khi trúng kịch độc, có người đã dùng vũ khí chặt tới tấp lên những cái xác chung quanh để phát tiết.

Hồ Xạ gặp cảnh này, bất giác thẫn thờ. Y nhìn khắp một lượt chốn đồng thây rừng xác, hi vọng tìm được dù chỉ một hơi thở mong manh đang sắp tắt thôi. Tiếc sao, đáp lại y chỉ có sự lặng im của cái chết.

Hồ Xạ không dám bước lên thêm nữa, vì thứ khói tím kì quái nọ vẫn còn lởn vởn khắp nơi.

Y hướng ánh mắt mình ra xa, nơi một người toàn thân đẫm máu nằm ngay sát một gã đàn ông cao lớn, mặt mày nanh ác. Nhìn bộ áo huyết nhân đang mặc, Hồ Xạ nhận ra ngay ấy là tay bách hộ họ Hà.

Phập... phập... phập...

Xạ rút mấy chục mũi tên ra khỏi ống tên của mình, rồi cứ thế nhắm vào đầu Huỳnh Chí Lập mà vung tay. Y vừa nghiến răng, nước mắt nóng hổi đã tran hoà quanh hai tròng mắt.

Thì ra bốn cái nỏ chỉ là để mê hoặc người ta, chứ thực chất các mũi tên đều được y phóng ra như tụ tiễn ( tụ: ống tay áo, tiễn: mũi tên. Tụ tiễn là một loại tên nhỏ, ngắn, được dùng làm ám khí, thường giấu trong tay áo thụng dài và rộng của người Trung Quốc ).

Liên phát mười sáu mũi, cái đầu của Lập đã biến dạng hoàn toàn, không còn thấy rõ được diện mạo khi còn sống nữa. Nhìn từ xa, trông như một con nhím lớn đang nằm ngủ bên cái xác không đầu của y vậy. Hồ Xạ còn muốn tiếp tục ném tên, bỗng cảm thấy bên cạnh có tiếng kêu kì lạ.

Y giật mình quay lại, chỉ kịp thấy một bóng đen to cỡ quả quất bay đến. Tốc độ của nó nhanh gấp mười lần những mũi tên Xạ vừa ném đi, đủ biết nội lực người đánh lén cao tới mức đăng phong tạo cực.

Trong khi bay, dị vật còn phát ra những tiếng " khặc " " khặc " như thể loài âm binh ma quỷ đang giật giọng mà cười.

CỐP.

Nhìn rõ, nhưng chẳng thể ngăn cản. Hồ Xạ chỉ vừa nghe thấy âm thanh, thì dị vật đã đập trúng mấy mũi tên trên tay y. Rắc một tiếng lớn, cả một bó tên bị đụng cho tan tác thành muôn mảnh. Còn bóng đen nọ thì tiếp tục bắn mạnh vào một cái cây lớn cách hắn mấy chục thước.

Chỉ nghe đánh rắc một tiếng, thân cây một người ôm từ từ đổ ra sau. Chỉ còn dị vật ấy là rơi xuống im lìm trên nền rừng.

Hồ Xạ thấy họng mình khô khốc, miệng lưỡi đắng nghét cả lại. Y tự nhận trên phương diện ám khí mình đã đạt tới cảnh giới siêu phàm nhập thánh, chưa bao giờ để quần hùng thiên hạ vào mắt. Mà nay, so với đối phương, trông y chỉ như đứa trẻ lên ba đang nghịch bùn tát nước.

" Người đã chết rồi, để họ yên nghỉ. Như còn tiếp tục hành hạ thi thể người ta, tích cắt áo chia đào (**) của nhà ngươi cũng nên công khai cho toàn thiên hạ được biết. Hồ Xạ tướng quân, lão nói kiểu này chắc ngài sẽ hiểu được chứ? "

Đằng xa vẳng lại âm thanh khàn khàn, hơi chút tang thương của một ông lão. Hồ Xạ không thấy mặt lão, nhưng hắn đoán đối phương cũng đã ngoài lục tuần rồi.

Lại nhớ đến những gì lão ta mới nói, y không khỏi thấy bàng hoàng như có sét nổ bên tai. Không chỉ nhại lại lối nói chữ khó hiểu của y, lão ta còn chỉ rõ mối quan hệ không bình thường giữa Hồ Xạ và một người nam khác. Cụ thể là ai, có lẽ chỉ nên có ba người biết.

Lúc này khói độc đã tan, Hồ Xạ nhảy vào chiến trường tìm kiếm thêm một lần nữa. Không còn ai hết. Binh đoàn hơn một ngàn lính của y đã chết hết sạch chỉ trong thời gian chưa tới một canh giờ.

Hồ Xạ không khỏi nhớ lại những gì Hồ Nguyên Trừng đã dặn: [ mọi thứ trên chiến trường xảy ra nhanh như điện quang hoả thạch, biến hoá khôn lường, xoay vần không ngớt. Trừ phi đối phương đã không còn lực phản kháng, bằng không thì vẫn chưa thể nói trước được điều gì. ]

Y ngơ ngác hồi lâu, mới cười khổ chạy về tiếp ứng cho Hồ Đỗ. Trên đường, y đến bên cạnh cái cây đổ, cẩn thận nhặt dị vật lên. Cái vật đen trùi trũi ấy nhìn thì nhỏ mà cầm lên nặng trĩu cả tay, ước chừng cũng phải bốn năm cân. Hồ Xạ cẩn thận quan sát, dưới ánh nắng đang tắt dần y nhận ra đó là một viên bi sắt, khắc mặt của một con quỷ đang nhe nanh dẩu mỏ, trông rất hung ác.

Tay chân y như rụng rời, mồ hôi toàn thân ứa ra như tắm, nhưng không phải vì viên bi mặt quỷ ấy nặng. Y kinh hãi, hoảng sợ đến sắc mặt biến màu là vì nhân vật gắn liền với nó - thứ ám khí chết người mang tên Quỷ Diện Phi Châu ấy.

" Cô phong nơi rừng trúc " - Vua của ngàn tên trộm, chúa tể giới lục lâm - Quận Gió (***)

Chú thích:

(*) Đây là sinh vật hư cấu, trong tích thật Kim Quy không hề có hình dáng này

(**) cắt áo chia đào: tích cổ. Chia đào là nói về việc Vệ Linh Công thời Xuân Thu say mê Di Tử Hà, cắt áo thì kể việc Hán Ai Đế si mê Đổng Hiền. Ở đây Quận Gió dùng như một cách giễu nhại lối nói chữ của Xạ, đồng thời bóng gió việc y thuộc về giới tính thứ ba.

(***) Quận Gió: tay trộm huyền thoại từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, chủ yếu nói về giai đoạn đầu thời Lê.

Giờ lại kể chuyện Hồ Đỗ đánh với Mộc Thạnh. Hai bên giã nhau túi bụi tới hơn năm chục chiêu, vẫn chưa hề phân ra cao thấp.

Thạnh đã quen hẳn với đấu pháp của Hồ Đỗ. Chiêu số của tay này chỉ vỏn vẹn năm đường rìu, toàn bộ đều là đấu pháp liều mạng, vận dụng man lực để thủ thắng.

Trong mắt cao thủ đánh siêu như Mộc Thạnh, Hồ Đỗ giống như một con gấu mạnh mẽ mà ngu ngốc.

Lão lại ngẫm:

[ Hồ Xạ không biết còn lảng vảng ở quanh đây không, đằng xa lại có cung kị binh đang nhắm vào chằm chằm. Một mình phá vây là chuyện không tưởng, nếu không muốn nói là tự sát. Chẳng bằng ta cứ dây dưa với tên này, chờ đến lúc Trương Phụ và Hồ Nguyên Trừng phân ra hơn phụ. ]

Thế là Mộc Thạnh bắt đầu đổi chiến thuật, phòng thủ nhiều hơn là tấn công.

Dần dà, Hồ Đỗ đánh chín chiêu Thạnh mới bạc nhược phản công lại một cú. Lão vận công, làm trán rịn ra những hạt mồ hôi to như hạt đậu. Mỗi lần chống đỡ qua một đòn, lão lại loạng choạng như sắp ngã. Tay cầm siêu của lão run rẩy, vai buông lỏng mỗi lần Hồ Đỗ lui lại lấy đà.

Mộc Thạnh cố tình giả như lúc nào cũng sẽ thua, điều đó càng khiến đối thủ của y thêm nóng nảy mà dốc lực tấn công dữ dội thêm.

Đúng là trong lúc giao đấu có câu thủ lâu tất bại, nhưng đạo lí ấy cũng không chính xác tuyệt đối. Ở đây, chiêu thức của Hồ Đỗ quá mức đơn giản, chẳng mấy mà bị Thạnh bắt bài hết.

Đánh lâu, Đỗ đâm ra cáu. Những lời cảnh báo của thuộc hạ về thất bại trên sông của quân Hồ bị y ném hết ra ngoài tai, chỉ chăm chú vào việc đánh bại Mộc Thạnh. Đỗ vung việt, có chiêu nhắm thẳng vào đầu đối phương mà phạt dọc, có thức lại hướng vào cổ kẻ địch mà chém nhang.

Nhưng than ôi, chiêu số y cơ hồ chỉ có một đường thẳng, một chiêu đơn. Chẳng có biến hoá, cũng chẳng còn hậu chiêu thì làm sao đánh trúng được một tay lão luyện như Thạnh?

Đánh ngót trăm hồi, Hồ Đỗ dần kiệt sức, mà Thạnh do phải chiến lâu dài cũng bắt đầu thấm mệt. Trong lúc giao thủ, cứ thỉnh thoảng Mộc Thạnh lại khẽ liếc sang bên sông, đôi mắt y cứ sáng rỡ dần lên theo mỗi lần y nhìn qua hướng ấy.

Hồ Đỗ cho rằng đối thủ không tôn trọng mình, tức giận hét lên:

" Nhà ngươi không tập trung đối lại, cẩn thận chiêu sau ông đây chém làm hai khúc. "

Mộc Thạnh bấy giờ mới cười giật giọng, quát:

" Thằng nhãi ranh ngu xuẩn, thuỷ binh của chúng mày đang bỏ chạy như vịt kia kìa. Không muốn chết thì trốn cho mau, Mộc gia gia không ngăn cản đâu. "

" Mẹ kiếp! Lão già sủa cái gì vậy??? Tới! Ta tái chiến mấy trăm hiệp!!! " - Hồ Đỗ gầm lên, đang định vác việt lên đánh tiếp thì bộ hạ đã giật giọng gọi.

" Hồ tướng quân, đại binh đã rút rồi. Nếu còn không lui, e rằng quân của Trương Phụ sẽ... "

Hồ Đỗ hiếu chiến, cậy mạnh nhưng không đến nỗi ngu hết thuốc chữa. Vừa rồi y bị Thạnh khích bác, chỉ toàn tâm toàn ý tìm cách chặt lão làm đôi. Nay chiến hoả đã dịu xuống, có thời gian quan sát, Hồ Đỗ mới giật mình:

" Thuyền quân ta... thua chạy??? Tại sao lại thế được??? Kế của Tả tướng quốc không một kẽ hở là vậy kia mà. Không được, nhất định là tướng quốc đã xảy ra chuyện. Ta phải đi xem ngài ấy mới được."

" Muốn chạy ư? Hỏi qua siêu của ta đi đã! "

Mộc Thạnh há có thể để đối phương bỏ chạy dễ dàng như vậy??? Lão thực ra là người trong thô có mảnh, biết lúc nào nên làm gì. Lúc này lại xông tới lần thứ tư, ắt là đã có dự mưu.

Hồ Đỗ lớn giọng chửi:

" Con bà nó, thằng già này nghĩ ta sợ nó đây mà!!! Anh em đâu, bắn tên!!! "

Y vừa hạ lệnh một tiếng, Mộc Thạnh đã cười gằn:

" Giờ mới hạ lệnh bắn tên, có quá muộn hay không???? "

Lão ngay lập tức phi về hướng Hồ Đỗ, bình sinh tới giờ chưa lần nào lão chạy gấp đến thế. Vì lúc đánh với Đỗ, Thạnh chỉ thủ thế giữ sức nên vẫn còn bảo lưu được một hai thành nội lực. Nay nhắm chuẩn thời cơ ra tay, vội vàng bung hết ra không dám giữ lại chút nào.

Lúc trước Hồ Đỗ thình lình phát động thần công, đánh lão ngã ngựa. Thì nay Mộc Thạnh cũng đột ngột rũ sạch vẻ uể oải, khiến Đỗ chẳng kịp trở tay. Mới vừa lao tới gần lão đã đánh mạnh vào huyệt Á Môn ở gáy, Mệnh Môn và Chí Thất ở lưng, Vĩ Lư ở xương cụt.

Hồ Đỗ sức cạn lực cùng, lại quay lưng về phía lão thì sao mà tránh nổi?? Lập tức y đã bị trấn trụ, huyệt đạo bị phong bế khiến khí huyết toàn thân y rã rời. Đặc biệt là bị điểm vào Á Môn không nói nổi, và Vĩ Lư khiến khí trong đan điền không đề lên được.

Mộc Thạnh lại dùng một bộ Tiễn Huyền đấu pháp. ( võ dùng đến dây cung ) Lão đưa cung qua đầu Đỗ rồi xoắn liền mấy vòng. Dây cung siết quanh cổ, khiến Hồ Đỗ hô hấp càng thêm khó khăn.

" Bắn đi! Xem ta chết hay tướng của các ngươi chết trước!!! "

Mộc Thạnh dùng thân hình to béo của Hồ Đỗ làm tấm mộc chắn cho mình khiến binh lính dưới trướng Đỗ tạm thời không dám manh động. Lính lác đưa mắt nhìn nhau, phát hiện ai nấy đều có một vẻ do dự.

Hồ Đỗ thô lỗ hiếu chiến, nhưng y lại là dạng thô mà thật. Y chưa bao giờ coi bộ hạ là kẻ dưới, mà thường đối xử với binh sĩ dưới trướng như là anh em. Bởi vậy, dù phải trái lệnh Hồ Nguyên Trừng đi nữa thì các sĩ tốt cũng không muốn buông dây cung.

Sự tôn trọng mà cấp dưới dành cho Hồ Đỗ thể hiện rõ ràng nhất qua việc họ nhất quyết muốn giữ lại mạng sống cho y.

Hồ Đỗ thấy đối phương đột nhiên bạo phát, chế trụ mình, trong lòng tự chửi mình ngu si một vạn lần. Trước đấy y cứ nghĩ thực lực Mộc Thạnh chỉ sàn sàn mình, lại đã qua thời tráng niên nhất. Đến Đỗ đánh xong một chầu vừa rồi còn thấy hơi lả, thì chắc lão cũng phải hụt hơi rồi.

Ngờ đâu Thạnh lại cáo già đến thế.

Lúc này thấy binh sĩ do dự, y thấy trong bụng vô cùng bứt rứt, vội vàng dùng ánh mắt ra dấu họ cứ mặc kệ mình mà phát tên. Mộc Thạnh nhận ra đầu y máy động, vội vàng thít chặt dây cung.

Khặc! Khặc!

Hồ Đỗ càng thêm khó thở, lưỡi to chìa hẳn ra ngoài. Đám binh sĩ thấy thế, hét lên thất thanh:

" Lão khốn nạn!!! "

" Thằng già mất nết, tướng quân mà có mệnh hệ gì ta sẽ chặt lão làm bốn khúc!!! "

" Bốn quá ít, phải là bốn mươi khúc... "

Mộc Thạnh cười lạnh, nói:

" Lập tức lui về sau bốn mươi bước, bao giờ ra khỏi tầm tên ta tất sẽ thả hắn. Bằng không, các ngươi cứ chuẩn bị hốt xác tướng quân các ngươi đi. "

Đám sĩ binh nhìn nhau, đôi mắt càng thấu đỏ vì căm hận. Nhưng Hồ Đỗ còn trong tay lão, bọn họ há có thể vọng động?? Ném chuột sợ vỡ bình, sĩ tốt bắt đầu đi lùi về sau.

Vút!!

Đột nhiên, Mộc Thạnh nghe có tiếng vật nhọn xé gió vang lên ngay bên cạnh. Liền đó, một mũi tên dài bắn vọt tới, nhanh đến mức tưởng như không gì cản nổi. Lão chỉ kịp nghiêng qua một bên, tránh khỏi một phát đâm thủng vai hiểm hóc.

Mũi tên bén, nhọn hoắt đâm trúng nút buộc, cứa đứt dây cung của lão. Mộc Thạnh không khỏi giật mình, vội vàng kéo Hồ Đỗ chạy ngang hai bước, vứt cung giữ chặt đỉnh đầu y.

" Ai??? "

Dù biết rõ mũi tên ấy do Hồ Xạ phóng, Mộc Thạnh vẫn cố tình hỏi. Lão đóng vai kẻ thô lỗ trong quân nên giả vờ như vậy đã trở thành một loại thói quen khó bỏ của Thạnh.

" Buông Hồ Đỗ ra, ta thả lão. Bằng không, đằng nào Đỗ cũng chết, chi bằng kéo theo một Mộc Thạnh xuống dạ đài cho có đôi có cặp... Ta biết lão là người thông minh, biết lúc nào cần phải làm gì mà. " - Hồ Xạ đã bắt đầu thấy áp lực thật sự. Chiến thuyền của binh sĩ nhà Hồ đã bắt đầu xuôi nam tháo chạy. Trên sông, Trương Phụ không còn đối thủ sẽ lập tức dong thuyền cập bờ ngay lập tức. Khi ấy đối mặt với họ không phải là một mình Mộc Thạnh nữa, mà là ngàn vạn sĩ tốt nhà Minh.

Nhánh quân của Hồ Đỗ và cả chính hắn đã như là con chó bị dồn đến đường cùng, ngoại trừ dứt dậu ra thì không còn lựa chọn khác, trừ phi Mộc Thạnh chủ động lui về sau một bước, để cho họ một con đường thoát thân.

Hồ Xạ rút mũi tên cuối cùng trong ống ra, nói:

" Tất nhiên, nếu như ta bắn trượt nốt mũi tên này, mọi thứ sẽ đổ sông đổ bể. Ngài có muốn cùng ta cược không Mộc tướng quân?? "

" Thành giao. "

Mộc Thạnh lựa chọn cách thoả hiệp. Thực tế nội lực của y đã cạn sạch, nếu muốn đánh tiếp thì chỉ còn đường chết. Lúc trước bắt được Hồ Đỗ một là vì y chủ quan, hai là nhắm chuẩn thời cơ. Đám sĩ tốt nghe tin có thể Hồ Nguyên Trừng xảy ra chuyện, phản ứng cũng chậm lại đôi chút để lão lợi dụng.

Nhưng hiện tại hai bên thế đã như nước lửa, nếu như quá cứng, ngược lại sẽ phản tác dụng.

Mộc Thạnh lui dần về phía mặt sông, lại đẩy vào lưng Hồ Đỗ một cái. Vị tướng nhà Ngu loạng choạng hai bước, rồi mới thất tha thất thuể đi về phía Hồ Xạ. Song vào đúng lúc này, tiếng vó ngựa chợt truyền lại từ phía khu rừng.

" Cứu viện Mộc tướng quân!!!! "

" Hỏng bét!!! "

Hồ Xạ nghe thấy viện binh của đối phương, liền biết cục diện cân bằng mình phải vất vả lắm mới dựng nên đã đổ sông đổ biển.

Hồ Đỗ cũng vậy, bèn liều mạng vùng chạy. Nhưng lúc này siêu của Mộc Thạnh đã đuổi tới nơi, mắt thấy lúc nào cũng có thể chém Đỗ làm hai nửa.

Phập!

Tiếng thép cắm vào thịt êm ru. Hồ Đỗ vẫn cứ tiếp tục chạy, không mảy may hư hao mẩu da miếng thịt nào. Còn Thạnh thì ngã xuống sông, bắp tay bị mũi tên của Hồ Xạ bắn thủng một lỗ.

Lão nghĩ mình vung siêu lên chém thì chỉ nhoáng cái là xong, còn Hồ Xạ phải lắp tên giương nỏ mới bắn được. Về tình về lí, đáng lẽ siêu của Thạnh phải chém trúng trước mới phải.

Y có ngờ đâu nỏ của Hồ Xạ chỉ là vật trang trí, dùng để nguỵ trang thần kỹ tay khômg phóng tiễn của người này. Việc ném tên ra như tụ tiễn thì Mộc Thạnh cũng làm được, nhưng độ chính xác và lực đạo quá yếu nên chỉ dùng lúc khẩn yếu quan đầu mà thôi. Y thực lòng không lường trước được kì chiêu này của Hồ Xạ, nên mới trúng một cú khá năng.

Hồ Xạ lấy một mũi tên ra cầm khi trước, không phải chỉ để doạ dẫm Mộc Thạnh mà còn nhằm đề phòng việc lão trở mặt.

" Rút mau!! "

Hồ Xạ xách cổ Hồ Đỗ, chạy vội. Binh lính dưới trướng Đỗ vội vàng giục ngựa chạy qua, hai trong số họ cưỡi chung một con ngựa, đưa con ngựa còn lại cho hai vị tướng. Cả đoàn giục ngựa phi nước đại, không mất bao lâu đã chạy khỏi bờ sông được mấy dặm.

Quân Hồ vừa rút thì quân cứu viện của Mộc Thạnh đã chạy tới. Liễu Thăng dẫn theo một nửa toán kị binh còn lại theo đường cũ của Mộc Thạnh mà xuyên rừng.

Chạy đến chỗ kị binh nhà Minh bị phục kích, thấy cảnh máu me thảm khốc chốn ấy nhiều người không nhìn nổi. Đã vậy còn có cả thi thể không trọn vẹn của thường dân, quân nhà Hồ và quân Minh nằm lẫn vào nhau.

Thảm nhất là người dân thường nọ, cái đầu bị một tên thần tiễn thủ nào đó biến thành bình hoa. Trông y cũng cường tráng, gần người lại có một thanh đao lớn nên Liễu Thăng đoán ắt là một tay cường đạo. Còn vì sao hắn lại mò tới chỗ này để rồi nhận phải cái chết thảm khốc như vậy thì cậu không rõ, cũng chẳng có ý tìm hiểu sâu.

Thấy sự lạ, Liễu Thăng vội giục ngựa dẫn binh chạy về phía quân doanh Đại Ngu, chỉ để lại một hai binh sĩ lo việc hoả thiêu. Cậu hi vọng Mộc Thạnh hãy còn sống và họ có thể cứu viện kịp thời.

Lúc đến nơi lại chẳng thấy bóng dáng quân Hồ, Mộc Thạnh thì vừa mới lóp ngóp ngoi từ dưới sông lên, một cánh tay đầm đìa máu. Liễu Thăng thấy cảnh này, bèn đoán quân Đại Ngu đã nhận ra bại cuộc trên sông nên vội vàng tháo chạy. Cậu lệnh kị binh đuổi theo truy kích, còn bản thân thì đến đỡ Mộc Thạnh.

" Mộc nguyên soái, thuộc hạ đến muộn, xin nguyên soái trách tội. "

" Không trách cậu. Có... gặp ai trong rừng không?? "

Mộc Thạnh được Liễu Thăng vịn dậy. Trong lúc đang lật đật trèo lên yên, lão làm như bâng quơ hỏi một câu. Thế nhưng, nếu để ý sẽ thấy đôi tay lão đang xiết chặt lấy cương ngựa, hai hàm răng miết vào nhau tưởng chừng như muốn cắn từng cái răng của mình mà nhai lạo xạo trong miệng. Tấm lưng lão đã chẳng còn vẻ thẳng thớm cứng cỏi khi trước nữa mà như già hơn, thêm còng đi.

" Không... "

Thấy lão như vậy, Liễu Thăng rất muốn nói dối một câu cho lão yên lòng. Song đây là chiến trường, là vương quốc của sắt thép lạnh băng và máu tươi tanh tưởi. Không có chỗ cho cảm tình, lại càng không phải nơi để mà nói dối. Quân lệnh nặng tựa thái sơn, lại lạnh lùng như băng cứng.

" Vậy à? "

Mộc Thạnh đáp gọn, gọn như một tiếng thở dài. Đoạn lão quay lưng về phía Liễu Thăng, không nhìn thấy được gương mặt lão, chẳng thể nghe thấy một tiếng động nào từ lão. Chỉ có vầng dương đang từ từ hạ xuống đằng xa làm phông nền cho tấm lưng trơ trọi đang in cái bóng tang thương của mình xuống đất.

Mặt trời ở phương xa kia là nhân chứng duy nhất được thấy vẻ mặt hiện tại của Mộc Thạnh. Lão đang khóc ư? Hay đang gắng gượng nén lại dòng lệ chỉ chực trào ra? Hoặc giả lão vừa mới kín đáo thở phào, các nếp nhăn dãn hết ra vì cái thanh thản mà sự sống đem lại?

Âu cũng chỉ có vầng dương đỏ ối đang chết dần nơi chân trời kia là biết mà thôi.

Ba ngày trôi qua thật mau...

Hồ Nguyên Trừng ngồi xếp bằng trên giường, nửa thân trên để trần lộ ra đôi vai gầy yếu và hai cánh tay khẳng khiu chẳng cường tráng gì. Lão Bộc ngồi sau lưng Nguyên Trừng, hai tay ấn vào lưng chàng mà vận công. Ở huyệt bách hội nơi đỉnh đầu Nguyên Trừng từ từ bốc lên một lớp khói đen nhàn nhạt. Ấy chính là kịch độc ẩn náu trong cơ thể chàng, hành hạ vị tướng tài ấy suốt mấy ngày qua.

Lão Bộc thu công. Nhìn những đường gân đen đúa mấy ngày trước còn nổi lên đầy cổ, bò kín cả lưng Nguyên Trừng nay đã mờ đi nhiều, đôi mắt mờ đục của lão khi ấy thoáng sáng lên niềm vui. Nhưng cảm xúc chỉ trong một phần tư cái hô hấp đã biến mất.

" Lão Bộc, quân ta đánh đến đâu rồi? "

Xuống giường, Hồ Nguyên Trừng với lấy chiếc áo ngoài treo ở góc màn và khoác lên mình. Mấy ngày nay, để tránh động nộ chàng đã nỗ lực hết mình để không phải nghĩ đến chiến sự.

Song nay kịch độc đã bị Lão Bộc bức ra gần hết, Hồ Nguyên Trừng thực tình không thể nhịn nổi nữa. Chàng muốn biết với những gì mình đã trù tính, quân Minh sẽ đại bại ra sao.

" Chúng ta đang ở... Muộn Hải. "

" Sao??? Lão mới nói... cửa biển Muộn Hải??? Không thể nào... không thể nào... quân ta sao có thể bại trận mà lui kia chứ? Chẳng phải ta đã nói không được để  soái thuyền đi trước hay sao? "

Hồ Nguyên Trừng không dám tin vào đôi tai mình. Tin quân Đại Ngu thất bại đối với chàng mà nói chẳng khác nào tiếng sét ngang tai.

" Không thể. Bại thế của địch đã chắc như ván đóng thuyền, đinh đóng cột thì làm sao có thể... Tay Trương Phụ này lật ngược tình thế bằng cách nào??? "

Chàng lắc mạnh đầu, thẫn thờ ngồi lại xuống giường, hổn hển thở. Mỗi lần nghĩ đến công sức của tướng sĩ trên dưới đã đổ hết xuống sông xuống biển, ngực Nguyên Trừng lại nhói lên tưởng như muốn vỡ toác ra vậy.

" Bẩm tướng quốc, khi đó chiến thuyền phe ta đột nhiên cứ lần lượt chìm mà không rõ nguyên nhân. Lão nghĩ có người đục thuyền, giết lính. "

Nghe lão Bộc nói, mà Hồ Nguyên Trừng nghe cổ họng mình ngòn ngọt. Chàng vội ngồi xuống giường, dùng tay vuốt ngực mấy cái liền để khí huyết đỡ cuộn trào. Mất một lúc lâu, sắc mặt Nguyên Trừng mới khá hơn một chút.

" Thế còn Mộc Thạnh, có giết được y không?? Cánh quân mai phục của ta ra sao? "

Chàng nghĩ mặc dù trận này thua, nhưng nếu quân Hồ giết được Mộc Thạnh, thì vẫn chưa phải là mất hết. Trong hàng ngũ quân Minh, Trương Phụ và Mộc Thạnh giống như linh hồn của đội ngũ. Nếu một trong hay người này chết trận, sĩ khí của quân Minh sẽ bị thương tổn nặng nề.

" Mộc Thạnh thật là một hãn tướng của nhà Minh, đã thoát khỏi thiên la địa võng của tướng quốc. Quân mai phục của ta trong rừng... đã chết sạch. "

Phụt!!!

Nghe đến đó, thì Hồ Nguyên Trừng không nén được ngụm máu ở cổ nữa. Gối chăn, góc mùng vạt áo đều bị vấy đỏ lòm.

" Tướng quốc hãy bình tĩnh. "

" Lão bảo sao ta bình tĩnh nổi? Mộc Thạnh đâu phải Phạm Ngũ Lão, hay Dã Tượng mà có khả năng một mình địch lại cả ngàn quân như thế kia chứ? Chưa kể còn Hồ Đỗ và một trăm quân kị. Ta đã đặc biệt cẩn thận dặn Hồ Xạ dẫn quân tiếp ứng ngay khi xử hết tàn binh của Thạnh rồi kia mà? Đáng lẽ không thể có kẽ hở. Trừ phi... hai tên ngu ngốc này!! "

Hồ Nguyên Trừng tức đến nỗi có lẽ dù không trúng độc chàng cũng sẽ phun máu. Lửa giận bốc cao khiến máu lưu thông càng nhanh, khiến những chất độc còn thừa lại nhân cơ hội theo máu lan dần tới trái tim. Nguyên Trừng thấy trong tim như có lửa, ngực tức như bị chuỳ giáng bèn phun ra ngụm máu thứ hai.

Trong lúc thần trí mơ mơ hồ hồ, chàng bất giác nhớ lại một sự kiện xảy ra trên đường hành quân.

" Tại... sao??? "

Hồ Nguyên Trừng ngã sấp xuống, miệng và cổ be bét máu. Chàng đưa tay chới với ra phía trước, về hướng cửa khoang thuyền, thều thào hỏi mảnh trăng treo cao trên bầu trời. Ánh sáng bàng bạc rọi xuống một lời an ủi dịu êm.

Tạng Cẩu tận mắt thấy hơn một ngàn tù binh người Việt bị quân Minh tóm được trong trận chiến ba ngày trước. Mộc Thạnh và Trương Phụ lệnh cho quân sĩ lôi những người này ra chém đầu ngay bên dòng sông. Trong số họ quá nửa là thường dân vận chuyển lương thảo, hoả dược. Những người này kẻ trẻ nhất mới mười bốn, người già cả thì đã năm mươi. Song họ đều có điểm chung là bị Hồ Hán Thương ép phải tòng quân.

Tạng Cẩu không nỡ nhìn đồng bào bị giết. Những thường dân ấy khiến nó nhớ về các cô, các bác ở thôn quê đã cháy rụi của mình. Cẩu lại nghĩ: [ Người bị mình giết là tướng quân nhà Hồ, nếu dưới suối vàng y biết cái chết của y có thể đổi lấy mạng sống cho đồng bạn thì chắc sẽ được nhắm mắt xuôi tay. ]

Nó bèn cầu tình với Phụ.

" Trương nguyên soái... con còn chưa được thưởng lần trước, có thể dùng công lao này đổi lấy sinh mạng cho họ không? Chỉ những người già, trẻ con thôi cũng được. Nếu không thì một trăm người thôi... "

Song Phụ chỉ cười khẩy, nói: " Trẻ con vẫn là chưa đủ nhẫn tâm. Nhóc chẳng cần phí công lao hãn mã khó lắm mới lập được ấy cho đám An Nam mọi rợ này đâu, thôi ý ta quyết rồi, đi chỗ khác chơi. "

Y nghĩ bụng Tạng Cẩu còn nhỏ, từ tấm bé lại phải chứng kiến cảnh thây chất đầy đồng trong cuộc xâm lược lần thứ nhất nên bị ám ảnh cũng là lẽ thường chứ không thực sự đồng tình với người Nam nên có thể bỏ qua.

Cậu bé sợ sệt quay ngoắt đi, nghĩ thầm: [ Nguy hiểm quá, thì ra hai ông có râu đều ác hơn quỷ. Trước khi mình học được bản lĩnh để trả thù thì không thể để họ biết mình là người Đại Ngu được. ]

Tạng Cẩu nén đau buồn và sợ hãi để ở lại.

Cậu bé biết mình chỉ là một đứa ăn xin tám tuổi, không những mồ côi, nơi để mà về cũng chẳng có. Trong khi kẻ thù lại là đại tướng quân nhà Hồ oai danh hiển hách, trong tay nắm mấy trăm binh lính. Hai bên chênh lệch vô cùng, tựa như con đom đóm muốn tranh sáng với vầng trăng.

Ở lại doanh trại quân Minh, Tạng Cẩu còn học được chút ít công phu quyền cước kiếm thương. Nếu như hiện giờ trốn đi, không cẩn thận lại trở về nếp sinh hoạt bình đạm thường nhật của một nông phu, hoặc tệ hơn là chết mất xác trong thời loạn lạc.

Từ sau khi Liễu Thăng dạy nó Tuyết Trai kiếm pháp, Tạng Cẩu đã bỏ hẳn ý lặng lẽ rời khỏi doanh trại quân Minh của mình.

Tối ấy Tạng Cẩu len lén mang bát hương, chén nước dùng hồi kết bái với Liễu Thăng ra chỗ bờ sông. Máu tươi như khiến dòng sông thêm đỏ nước, âm vang tiếng khóc vọng mãi ra xa. Cẩu đặt bát hương xuống, cắm ba nhánh cỏ vào rồi mồi lửa đốt. Khói đen thui bốc lên cao, như lời an ủi của chú chó mất nhà đến những người hùng vong mạng. Tạng Cẩu trộm lấy một ít rượu đổ ra đầy hai chén, rót xuống sông. Nó không hay chữ, nên chẳng biết khấn gì ngoài:

" Những người đã chết hôm nay ơi, các ngài đi rồi thì coi như thù oán đã bị nước sông rửa sạch. Trên đường xuống suối vàng đừng có gây gổ nhau, kẻo lũ đầu trâu mặt ngựa lại đánh đập cho thì phải tội. Chớcó ở lại dương gian mà thành quỷ, làm hại người còn sống. "

Xong xuôi, Tạng Cẩu mới thu dọn đồ đạc rồi rón rén về trướng bồng của Liễu Thăng.

Ít lâu sau đấy, nó lại kể chuyện mình có thù với quân Hồ cho Liễu Thăng nghe. Tất nhiên không nói rõ chi tiết, chỉ kể rằng " người thân " của mình bị quân nhà Hồ thảm sát mà thôi.

Sau khi Tử Tiêm biết chuyện ấy thì giận đỏ cả mặt. Nhưng cậu đâu thể đập bàn phá ghế, quăng chén quật đũa, miệng quát oang oang như kẻ tầm thường khác được. Với ánh mắt ác liệt và sắc như lưỡi chớp trên trời, Liễu Thăng vỗ vai Tạng Cẩu, nói rất bình thản:

" Đệ yên tâm, sau này cứ gặp một tướng nhà Ngu nào trên chiến trường, người làm đại ca này ắt sẽ chọc y mấy chục thương, biến y thành tổ ong luôn để nghĩa phụ, nghĩa mẫu trên trời được hả dạ. "

Ngữ khí Tử Tiêm đanh thép như chém đinh chặt sắt, lại tràn đầy lửa giận. Người ngoài không biết, có lẽ còn tưởng người chết là cha mẹ thân sinh của cậu.

Tạng Cẩu cảm động lắm, thầm thấy xẩu hổ vì đã có ý dối gạt Liễu Thăng. Nó lại nghĩ: [ mình cứ giả ngốc thế này, anh Thăng chắc cũng đâm chán. Có khi muốn dạy mình vài độc chiêu, nhưng nghĩ lại rồi cũng đành phải ngao ngán thở dài. ]

Từ đó, cậu không giả ngu lúc học võ nữa.

Liễu Thăng thấy tốc độ học tập của Tạng Cẩu đột nhiên tăng mạnh, không khỏi lấy làm mừng rỡ. Dù cậu ăn mày đọc không thông nói không thạo tiếng Hoa, không thể tu luyện nội công nhưng Liễu Thăng cảm thấy không cần vội.

[ Trước cứ dạy đệ ấy chiêu thức ngoại công. Lúc nào về bắc, Tạng Cẩu học sõi tiếng Hán rồi thì để đệ ấy theo lão sư học nội công là được. ]

Nghĩ thế, Liễu Thăng bèn dạy cho Tạng Cẩu Nhạc gia thương pháp. Bộ thương pháp này có tất thảy ba mươi sáu chiêu, bảy mươi hai đường biến hoá. Lúc phát ra để tấn công thì uy lực mãnh liệt như giao long, lúc thu về đặng phòng thủ thì nhẹ nhàng như thảo xà.

Một khi dùng nhuần nhuyễn rồi, có thể cương nhu kiêm tề, một thương đánh ra vừa uy mãnh như rồng mà lại không mất cái uyển chuyển tinh tế của loài rắn.

Tạng Cẩu quả thực là có trí nhớ hơn người. Dù chiêu thức phức tạp đến đâu cậu cũng có thể nhìn qua là nhớ, học rồi không quên. Mất ba ngày, cậu đã có thể dùng Nhạc gia thương pháp để so chiêu với Liễu Thăng.

Hai người dùng côn thay thương giao thủ, Tử Tiêm ngầm đặt ra quy tắc bản thân không được dùng nội lực ăn hiếp nghĩa đệ. Nào ngờ mới qua một tuần, Tạng Cẩu đã có thể đánh với cậu đến hơn năm mươi chiêu vẫn ngang tài. Liễu Thăng nếu như muốn thắng trước chiêu thứ năm mươi thì phải dùng đến nội lực.

Liễu Thăng thấy Tạng Cẩu học nhanh như thế cũng kinh sợ lắm. Phải biết, người Tàu có câu: " Nguyệt Côn, Niên Đao, Nhất bối tử Thương ". Dịch ra là luyện côn tính tháng, luyện đao tính năm nhưng luyện thương thì cả đời. Thế mà Tạng Cẩu chỉ dùng vỏn vẹn ba ngày để học thuộc lòng cách đánh 108 chiêu của Nhạc gia thương pháp, lại mất đúng một tuần để thuần thục.

Hơn nữa, mặc dù lúc đầu sử dụng ra còn hơi trúc trắc, nhưng đã có thể giao thủ cùng người đã đắm chìm trong bộ Nhạc gia thương pháp này mấy năm ròng là Liễu Thăng. Các biến hoá chiêu thức, thứ tự ra chiêu cơ hồ đều bị nhìn thấu khiến cậu chỉ có thể ỷ vào nội lực hùng hậu mới thắng được Tạng Cẩu.

[ Lẽ nào Tạng Cẩu là bậc kì tài luyện võ? ]

Hai người vừa hành quân, vừa lấy việc luyện tập làm vui. Một người cứ dạy, kẻ kia cứ học, lúc rảnh rỗi lại ngồi nói mấy chuyện trên trời dưới biển.

Tạng Cẩu còn trẻ con, rất thích nghe kể chuyện. Lúc rảnh Liễu Thăng thường nhớ lại những chuyện xưa tích cũ kể cho nó nghe. Tử Tiêm là con nhà võ tướng, truyện mà cậu ta được nghe được đọc đều kể về các bậc tướng tài, võ dũng năm xưa.

Có đứa trẻ nào không từng mơ mình là anh hùng cứu nhân độ thế? Tạng Cẩu cũng vậy.

Nó ngồi nghe mà nhớ đến những lần ông trưởng thôn ngồi dưới gốc đa, một tay phẩy quạt mo cau, tay kia bưng bát nước chè tươi nấu đặc. Xung quanh ông ngồi la liệt một đám trẻ con, Tạng Cẩu cũng ngồi một mình một góc say sưa với từng câu chữ.

Trưởng thôn vừa uống chè, vừa gãi chân sồn sột mà kể chuyện xưa tích cũ cho bọn trẻ con. Nào là ông Bụt, nào là cô Tấm, nào chàng Thạch Sanh (*). Câu kể quyện hương trầu và mùi lá chè thơm dung dị mà huyền ảo, phảng vào cơn mơ những giây phút nao lòng, những bài ca oanh liệt...

Mỗi lần nghe, Tạng Cẩu đều hồi tưởng lại những ký ức long lanh ánh lửa ấm lòng khi ấy. Hễ cứ nghĩ đến việc sau này không còn gốc đa, không còn ánh lửa, không còn hương chè mùi cau thơm thơm đưa câu kể nữa là nó không kìm được nước mắt.

Liễu Thăng kể rất nhiều, từ Bạch Khởi thời nhà Tần, đến Quan Vân Trường thời Tam Quốc, Hàn Tín đời Hán rồi cả Nhạc Phi thời Tống...

Cẩu càng nghe càng thấy thích tai, lại giả như thuận miệng hỏi Liễu Thăng về các bậc anh hùng danh tướng người Nam. Thăng thấy vậy cười khẩy, nói:

" Phía nam đất chật người thưa, là vùng sinh sống của người man di thì làm gì có nhân tài? Đợi lúc quân ta khải hoàn hồi kinh, đại ca sẽ dẫn đệ đi thăm thú quê cũ, gặp gỡ anh hùng hảo hán chân chính. "

Tạng Cẩu dĩ nhiên không phục, nhưng cậu là cô nhi không được học hành. Trước giờ nó nghe toàn là cổ tích, nói ra cũng bị họ Liễu cười xoà không để ý đến, thành ra Cẩu không biết phản bác làm sao, chỉ đành ngậm tăm. Dẫu vậy, trong lòng vẫn ấm ức lắm.

Cánh quân do Mộc Thạnh dẫn đầu thừa thắng tiến công. Lúc ấy quân Minh sĩ khí đang thịnh, hai tướng Hồ Xạ và Hồ Đỗ gắng hết lực cũng không giữ được Bình Than. Đành mang tàn quân qua cửa Thái Bình đến Muộn Hải hợp binh với Hồ Nguyên Trừng. Các tướng cùng đắp luỹ, đúc súng, huy động nhân lực ra mặt trận.

Sáng hôm ấy, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân đuổi tới Muộn Hải. Hai tướng hạ lệnh ba quân cắm trại dựng lều, nghỉ ngơi tại chỗ. Đúng giờ ngọ sẽ khai chiến với quân Ngu, tái chiến với Hồ Nguyên Trừng.

Liễu Thăng là bách phu trưởng, nên chắc chắn sẽ tham chiến. Hiện tại cậu đang bận bịu chuẩn bị khí xuất hành, thắng lại yên cương cho chiến mã.  Tạng Cẩu thì giúp đánh bóng giáp trụ và mài lại mũi thương cho Liễu Thăng. Cậu bé sẽ không ra trận hôm nay, điều đó làm Tạng Cẩu thấy nhẹ nhõm.

Nó không muốn phải đánh nhau với đồng bào, kể cả khi nó hận quân Ngu thấu xương tận tuỷ đi nữa. Tạng Cẩu còn muốn sống nữa, bởi đó là điều kiện tiên quyết để có thể trả thù kẻ đã tàn sát hết người trong thôn.

Nó không hề biết Mạc Thuý và bè lũ dưới trướng hắn đã quy hàng Mộc Thạnh và Trương Phụ, chỉ biết đó là tướng của nhà Ngu mà thôi. Ấy là do Mộc Thạnh, Trương Phụ tận dụng hàng tướng nhà Ngu để mị dân rất giỏi.

Một mặt, hai người này để Mạc Thuý, Đặng Nguyên, Nguyễn Huân...v.v... dẫn quân Đại Ngu, treo cao cờ Đại Ngu càn quét qua các thôn làng dọc sông Phú Lương. Mặt khác lại để quân Minh nhân danh " phù Trần diệt Hồ " để mà " cứu trợ " những người này.

Ai khoẻ mạnh thì nhận vào quân tải lương, còn già yếu bệnh tật thì cho lương đưa áo rồi thả họ về phương nam.

Dân ta dù có nhiều ưu điểm như cần cù chịu khó, nhưng cũng có đôi ba nét xấu. Một trong số ấy là hay đưa chuyện, nói quá sự thật. Vậy nên các cụ xưa mới có câu: " Chỉ đâu mà buộc ngang trờ i? / Tay đâu mà bụm miệng người thế gian ? ".

Nhờ những tin đồn, hình ảnh vua quan nhà Hồ càng lúc càng bị bôi tro trát trấu, trong khi quân Minh được một bộ phận lớn nhân dân coi là hiện thân của chính nghĩa. Vì thế, Tạng Cẩu cũng hi vọng quân Minh thắng trận để nhà Trần được phục hưng.

Hồ Quý Li không được lòng dân, lại thêm việc Hồ Hán Thương nặng nề chuyện thuế khoá, bắt lính để chuẩn bị chiến tranh. Những chính sách ấy khiến cuộc sống thường dân trong thiên hạ đã đói càng thêm khổ. Người sống trong thôn Điếu Ngư ghét cay ghét đắng nhà Hồ. Chín phần mười thôn dân không ưa gì Giản Định Đế và quan lại dưới quyền, già trẻ gái trai đều không ngoại lệ.

Nó thực sự có ảnh hưởng lớn đến Cẩu.

Chính ngọ...

Trương Phụ cho quân nổi trống trận. Những tiếng " thùng, thùng " trầm và vang, lướt qua cửa sông Thái Bình để vọng ra mãi ngoài biển. Theo tiếng trống, những lá cờ đuôi nheo của quân Minh được giương cao, tung bay phần phật trong gió. Sĩ khí quân Minh leo thang theo từng tiếng trống dõng dạc.

Mặt kia sông, Hồ Nguyên Trừng mang theo đại binh sắp sẵn trận thế đón chờ. Bên bờ, từng lớp từng lớp luỹ đất cao cao ẩn hiện, xen kẽ nhau giữa màu xanh của thảm cỏ và rừng thưa.

Hồ Nguyên Trừng bước từng bước lên thành cao. Chiến giáp bằng sắt xô vào nhau tạo thành những tiếng vang nặng nề. Đã biến mất rồi bóng ma chán nản, uể oải nơi đáy mắt của nửa tháng trước. Phản chiếu trong đôi con ngươi của chàng hiện giờ là ngọn lửa quyết tâm cháy rừng rực. Nguyên Trừng nhìn về phía đội binh thuyền của quân Minh bên kia sông, trên gương mặt chỉ có vẻ thản nhiên.

Người Nam ta khác với dân tộc phương Bắc luôn có dã tâm bành trướng xâm lược kẻ khác, ỷ mạnh hiếu yếu, ngạo mạn tự cho mình là bá chủ duy nhã độc tôn. Dân Nam chân chất, khiêm tốn như cục đất, song đồng thời cũng gan lì như mảnh đất hình rồng này. Chẳng cần những binh thánh, không có các chiến thần cũng chẳng phải có võ vương võ hoàng gì như người ta. Song hùng mạnh như thiết kị Mông Cổ nam tiến cũng bị người nông dân chân lấm tay bùn đánh ba lần ngã ngựa, đông đảo như thuỷ binh nhà Tống mà dám sang vẫn phải bị những ngọn chông dân chài cho vùi thây nơi lòng sông Bạch Đằng.

Đau thương thật đấy, nhưng có hề chi?? Mất mạng hôm nay, thì có xá gì? Để  giếng nước gốc đa mãi lấp ló sau những luỹ tre, để miếng cau lá trầu vĩnh viễn thơm cay trên bàn thờ tiên tổ, để câu ca dao và tiếng sáo của trẻ chăn trâu tiếp tục vang vọng khắp làng trên xóm dưới... Đôi chân vạm vỡ của người anh hùng dân dã ấy sẽ không bao giờ cong, sống lưng người sẽ còn mãi thẳng.

Thất bại khi trước, dù vẫn xót thương cho những chiến sĩ kiên cường đã anh dũng hy sinh vệ quốc, song Hồ Nguyên Trừng vẫn đứng lên lần nữa. Trong trái tim chỉ có quyết tâm, trong đôi mắt chẳng còn gì ngoài chiến ý, chàng chậm rãi bước lên trước ba quân. Trận chiến hôm nay không chỉ là một cơ hội để bẻ gãy thế tấn công như thác đổ của quân Minh, mà còn là để chứng minh thực lực của binh tướng trời Nam và trả thù cho những người đã bất hạnh ngã xuống. Nhìn xuống ba quân đang dàn trận, Nguyên Trừng hít sâu một tiếng, quát mà tiếng nghe khàn đặc cả lại.

" Ba quân nghe lệnh!! "

Trống trận bắt đầu nổi lên, dồn dập và mạnh mẽ hoà cùng với tiếng nói của Nguyên Trừng. Binh tốt Đại Ngu nhanh nhẹn ổn định hàng ngũ, nghiêm trang " dạ " ran một tiếng.

" Giặc Minh đang ở bên kia sông! Chính chúng đã giết hại anh em, bè bạn, người thân của chúng ta. Chúng đốt làng xóm, huỷ ruộng nương ta. Chúng bắt vợ con chúng ta để thoả tính súc sinh, giết cha mẹ chúng ta để  mãn lòng dã thú. Mọi người nói chúng ta có nên lấy máu Trương Phụ nhuộm cờ, dùng xương Mộc Thạnh làm cán hay không? "

" Giết giặc Minh, lấy máu tế cờ!!! "

" Tiến Lên! Tái chiến một trận thật oanh liệt, cho đám giặc cướp nước biết nước Nam anh hùng ta có chủ! "

" GIẾT! "

Tiếng hô vang của quân sĩ nhà Hồ khuấy động nước sông, hoà trong âm thanh mạnh mẽ của trống trận. Sông Hồng như cũng cuộn trào lên, trợ uy cho những người con xứ sở.

Trên lâu thuyền, Trương Phụ đang giám sát tam quân cũng phải giật mình một cái, vội quay đầu nhìn về hướng quân Nam.

Dù không thấy được mặt nhau, nhưng vị thống lĩnh thiện chiến của nhà Minh đã ngay lập tức nhận ra mình đã tái ngộ đối thủ khó nhằn lần trước. Y nắm chặt hai tay trong một nỗ lực nhằm che giấu những giọt mồ hôi lạnh đang ứa dần ra.

" Xuất chiến!!! "

(*) chú thích: Truyện Thạch Sanh là một truyện thơ xuất hiện vào thế kỷ 16. Trước ấy đã có những bản tiền thân lưu truyền trong dân gian, thậm chí ở cả Cam Pu Chia và Lào cũng có những dị bản riêng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro