Hồi bảy (1): Hàm Tử Quan huyết hồng sơn cốc / Chốn quân doanh Quận kể chuyện xưa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sáng sớm hôm sau, quân Minh lục tục kéo nhau lui khỏi Muộn Hải, tiến về Hàm Tử. Sử nói, Muộn Hải khí hậu ẩm thấp, quân Minh chịu không nổi mới phải lui quân chứ chẳng phải phải đánh không lại nhà Hồ.

Hai người Trương, Mộc ủ rũ giục ngựa đi trước, chẳng buồn cầm đao xách siêu nữa. Trận thua ở Muộn Hải thực là trí mạng, khiến cho sĩ khí trong quân tuột dốc, lòng tin vào chiến thắng tuyệt đối của các tướng lĩnh, binh sĩ cơ hồ bị đập tan tành. Họ Trương có viết một bài hịch để đốc thúc trấn an, cổ vũ quân sĩ, nhưng hiệu quả không lớn.

Người Minh rút lui quá gấp, nên cũng không hay chuyện doanh trại nhà Hồ bị nhân sĩ giang hồ đốt. Họ còn tưởng được Hồ Nguyên Trừng thả cho đi mà không thèm đuổi theo truy quét, chẳng tránh khỏi cảm thấy vừa thẹn vừa tức. Thẹn vì mình phải sống bằng sự thương hại của kẻ địch, còn tức giận do bị chính kẻ địch " khinh thường ".

Kể từ sau biến cố ở soái trướng, Phiêu Hương không cần phải đeo mặt nạ da người nữa. Cô nhóc chẳng thể nào nén nổi sự thích thú, trên đường đi đôi lúc còn ngâm nga một làn điệu dân ca. Con gái ai cũng thích đẹp ghét xấu, nhưng khi đeo tấm mặt nạ kia lên, hễ cứ bưng bát nước uống là dung mạo khủng khiếp của bản thân lại xuất hiện dưới đáy nước, thử hỏi làm sao nuốt trôi cho được.

Mà sau chuyện ở soái trướng, cô bé cũng không giữ thái độ thù địch với Liễu Thăng nữa. Tuy hai người này vẫn là một cặp oan gia, song không đến nỗi hở ra là động đao động kiếm như trước kia. Tất nhiên, điều kiện tiên quyết vẫn là không ai hé răng dò hỏi quân tình của phe đối phương.

Bảo đao của Hương Quận Gió đã đem qua doanh trại, nhưng vì nó quá bắt mắt đắt tiền nên cô gửi tạm ở chỗ ông, bản thân thì xin một thanh đơn đao để phòng thân. Phụ với Thạnh hãy còn áy náy việc Lý Bân giả xé áo cô, nên dù hãy còn nghi ngờ cũng đồng ý yêu cầu ấy ngay lập tức.

Việc Quận Gió cải tranh thành Lý Bân bị hai người này bưng bít, nhưng vẫn có phong thanh lưu truyền trong quân. Ai nghe được đều cảm thấy khó tin, hoặc kinh sợ thầm nghĩ: [ Nếu tay này vào trại không giả làm tướng quân mà mang theo dao để cứa cổ, e rằng chẳng mấy quân ta tan rã. ]

Cuối cùng Lý Bân đành phải lên tiếng trước ba quân:

" Người này võ công kém cỏi, nội lực yếu đuối. Chỉ có mỗi ngón khinh công là lợi hại. Tiếc là hôm ấy ta có uống quá chén, không kịp đề phòng mới thất thủ. Chứ nước Nam này là nơi mạt võ, cho dù có mười tên xuất hiện thì cũng chẳng đáng ngại. Mọi người không cần lo. "

Đến khi ấy doanh trại quân nhà Minh mới bình tĩnh lại một chút. Tuy vậy, Mộc Thạnh và Trương Phụ vẫn tăng gấp đôi số lính tuần tra khu vực trướng bồng của các tham tướng, lại cho kéo dài mỗi ca thêm một canh giờ. Cũng may, hai người cũng thu hẹp phạm vi tuần tra để cân bằng lại.

Phiêu Hương nghe lời phân trần ấy chỉ trộm cười, thầm nghĩ nếu Quận Gió không nhân từ thì có mười tên Lý Bân cũng chẳng thấy được mặt trời ngày thứ hai. Chẳng thế, mà suốt mấy ngày qua mặc cho số lượng lính lác tuần tra quanh lều Liễu Thăng tăng gấp đôi, Quận Gió vẫn hết đến rồi đi, hết đi lại về như chốn không người, chẳng ai phát hiện nổi một chút tung tích của ông.

Không nói đâu xa, ngay lúc này đây Quận Gió đang âm thầm giảng giải về các danh gia võ học nước Nam cho Tạng Cẩu dưới lốt một tên lính già.

" Võ ta không phát triển rộng rãi, chiêu số chẳng hề đa dạng như của người Tàu, nhưng bàn về độ thâm sâu uyên bác chắc chắn không hề kém cạnh. Con phải nhớ khi đi lại trong giang hồ nước Nam ta, có câu bắc khí nam quyền. Phía bắc sở trường binh khí, đa số các môn phái nổi danh đều chỉ chọn lấy một loại võ khí mà nghiên cứu chuyên tâm, có luyện công phu quyền chưởng cũng chỉ để hỗ trợ mà thôi.

Đây là do người dân phải chống lại sự xâm lấn của dân Tàu. Trung Hoa khí hậu rất lạnh, nên dân họ ngoại hình cũng cao lớn hơn. Dùng binh khí, là để san bằng khoảng cách trời sinh về mặt thể chất.

Ngoại trừ đao thương kiếm kích, bổng côn xoa việt như trong mười tám ban binh khí của Tàu thì dân Việt ta còn sáng tạo ra vô vàn món binh khí độc môn. Sau này con hành tẩu ở mấy trấn phía bắc thì không được vì vũ khí của địch thủ quái lạ mà khinh thường.

Có anh em họ Đậu ở ngoại thành Thăng Long, tức là Loa thành năm xưa, nổi danh với ngón " Nồi pháp " gia truyền. Hay lại có phái Cửu Cung ở miền biển. Đệ tử phái ấy sử một tấm lưới đánh cá rất lành nghề. Trên các mắt lưới đều có gắn móc sắt hoặc lưỡi dao, một khi bị chụp trúng trừ phi có thân kim cương bất hoại, bằng không ắt phải trọng thương. "

" Nồi pháp??? Hai anh em này dùng nồi đất đánh nhau ư? "

Tạng Cẩu nghe ông giảng giải mà như si như say, choáng váng cả đầu óc. Nó từ lâu đã không còn là đứa bé mới ra đời nữa. Đi theo quân Minh lâu ngày, từng thấy rất nhiều loại binh khí. Từ phổ thông như đao kiếm cung mác, đến hiếm gặp như mâu, kích, qua nó đều thấy qua. Nhưng lần đầu tiên nghe có người có thể dùng nồi đất làm binh khí để đánh bại kẻ địch.

Quận Gió vuốt vuốt hàm râu, nói:

" Không phải nồi đất mà là nồi gang, nắp bằng thép cứng có mép được mài cho thật bén. Nói về dòng dõi xa xưa thì hai người này là hậu nhân của Lạc Tướng Đào Nồi dưới trướng Thục Phán An Dương Vương năm xưa. Sau khi Dương Vương mất nước vào tay Triệu Đà, dòng dõi Đào Nồi phải đổi họ thay tên, mai danh ẩn tích để tránh gặp hoạ diệt tộc.

Ngón nồi pháp này tương truyền được sáng chế cùng thời với nỏ Liên Châu huyền thoại. Tuy không nổi danh bằng thần nỗ, Loa thành song cũng rất cao thâm huyền ảo. Chiêu số có tổng cộng một trăm lẻ tám ngón, được chia làm ba sáu đường thiên cương dùng thân nồi, bảy hai thế địa sát dùng nắp nồi. Thiên cương chủ thủ, địa sát chủ công, chẳng những biến hoá khôn lường, lại phối hợp với nội công trầm ổn độc môn của họ thì mạnh như hổ thêm cánh.

Đáng tiếc là bộ võ nồi này quá chú trọng vào đôi tay, công phu hai chân lại có phần qua loa. Nếu gặp họ chỉ cần đánh liên tiếp vào hạ bàn, thì nồi pháp có lợi hại hơn cũng sẽ bị phá giải. "

Quận Gió là vua của giới lục lâm, nói khó nghe một chút thì là ông trùm của phường trộm cắp. Làm vua trộm, chẳng những cần phải hiểu rõ mục tiêu, mà đặc điểm của các môn các phái cũng cần nắm được ít nhiều. Để nếu mục tiêu có thuê họ làm vệ sĩ, thì chí ít cũng không bị rơi vào thế bị động.

Thầy giỏi ngoại trừ võ công ra còn truyền thụ cả những kiến thức ngoài lề này nữa. Tạng Cẩu có trí nhớ hơn người, mấy điều trên nó chỉ nghe qua một lần là nhớ được.

" Phía nam thì nghệ thuật chiến đấu bằng tay không phát triển hơn nhiều, nhân sĩ giang hồ cũng thường đi lại tay trần chứ hiếm khi mang binh khí theo người. Những bài võ cổ như Võ Trâu, võ Gà hay võ Ngựa nức tiếng xa gần đã lâu về tính thực dụng và hiểm hóc của nó.

Thầy từng gặp một vị võ sư ở cửa biển Kì La, có luyện chiêu Ngưu Giác chỉ trong pho Đông A thần chỉ đến mức đăng phong tạo cực, hùng kình hàm hậu không gì không xuyên phá được. Y đã có lần dùng ngón tay cái đâm thủng áo giáp, đủ biết uy lực ra sao.

Lại có một vị Mã chân nhân tu trên chùa Phúc Tâm bên dòng sông Hương, môn võ ngựa của y đã đến mức muốn sao được vậy. Ngọn cước song phi liên hoàn mạnh tới nỗi có thể đá gãy liền tù tì một khóm tre ngà, in dấu chân lên đá tảng.

Song trên đời không có gì là hoàn mĩ. Điểm yếu của võ công phía nam đa phần thường là khoảng cách. Vì không chú trọng binh khí, nên võ lâm phía nam thường gặp bất lợi khi địch thủ thạo môn ám khí. "

" Sư phụ, điều này con hiểu. Dùng vũ khí còn có thể đỡ gạt mũi tên, dao ngắn, chứ dùng hai tay thì khó càng thêm khó. "

" Đúng, nhưng chưa đủ. Ám khí, mạnh ở chỗ xuất kì bất ý, khiến đối phương không kịp trở tay. Thế nên mới có nhiều người bôi thuốc độc, chỉ cần ném trúng một phát thì kẻ thù sẽ như cá nằm trên thớt. Lại nói, ám khí thì có vô vàn loại. Tụ tiễn, chuỷ thủ, thấu cốt đinh, độc châm, thiết liên tử...v.v... Quỷ Diện Phi Châu của thầy cũng là một loại ám khí đả huyệt.

Nghe tay Khiếu Hoá Tăng khoe, gần mạn sông Đà có một người họ Lê, ám khí độc môn y dùng phỏng theo hình lá trầu và quả cau. Cau dùng như thiết liên tử, chuyên để đả huyệt. Còn lá trầu mảnh như giấy sắc như dao, lại bôi một chất kịch độc màu trắng tượng trưng cho vôi. Ba thứ kết hợp lại, sẽ tạo nên màu đỏ, đỏ của máu nạn nhân. Ám khí Trầu Không giết người dễ như giết gà, thật không thể xem nhẹ.

Điểm yếu chung của các loại ám khí là kình lực yếu, nếu đối phương cảnh giác thì có thể dễ dàng chặn được. "

Sáng giảng chuyện giang hồ thì chiều chiều, Quận Gió mới dạy võ công. Trước tiên ông dạy Tạng Cẩu những thứ võ nghệ cơ bản. Đa số chúng được truyền xuống từ phương Bắc, là thứ mà ai hành tẩu giang hồ cũng phải biết như " Thiên Cân Truỵ ", " Quy Tức Công ", " Bích Hổ Du Tường ", " Điểm Huyệt Tiệt Mạch ", " Súc Cốt Công ", " Dạ Hành công ", " Nhạn Hành công "...v.v...

Lần đầu tiên trong đời Tạng Cẩu có cảm giác bị nghẹn kiến thức, đến cuối buổi phải ngồi ôm đầu một lúc mới tiêu hoá được hết những gì vừa bị nhồi sọ. Phiêu Hương cũng ngồi cạnh nghe giảng. Cô từ bé chỉ học võ công gia truyền, những môn công phu tưởng như vô cùng phổ thông ấy cô lại chẳng biết mảy may. Nay được đích thân Quận Gió chỉ dẫn, chẳng khác nào học sinh mất gốc được thầy hay chám lỗ hổng kiến thức cho, thu lợi còn hơn Tạng Cẩu.

Tối ấy, trước khi Phiêu Hương về trướng bồng đi ngủ thì Tạng Cẩu có kéo áo cô lại hỏi:

" Này, cho Cẩu hỏi chút. Hồi sáng sư phụ buột miệng nói cái gì đó về bảy tông sư nước Nam. Tớ gặng hỏi mãi ông cũng không mở miệng lấy một lời, sáng mai cậu hỏi giúp được không? "

Phiêu Hương nói:

" Cái ấy chẳng cần hỏi, ta nói đằng ấy nghe cũng được. "

Tằng hắng một cái cho miệng đỡ khô, cũng để bản thân bình tĩnh lại một chút, cô bé bắt đầu kể bằng giọng hưng phấn.

Chuyện phải nói từ đại chiến hai phái chính - tà xảy ra hai mươi năm trước. Hai bên ai cũng muốn thống nhất giang hồ, thành ra giết nhau đến độ máu chảy thành sông. Trên triều có hôn quân, trong dân gian lại có chiến loạn, trăm họ ngày ngày nơm nớp lo sợ không phút nào được yên.

Cuối cùng, nhân vật đức cao vọng trọng nhất nước là Tuệ Tĩnh thiền sư (*) đã phải đúc ra ba tấm thánh lệnh Võ Lâm, phân chia lại các thế lực bạch đạo - hắc đạo trên giang hồ thành ba phe: Quần Hùng, Lục Lâm, Ẩn Thế.

Hai phái chính - tà về một nhà, gọi chung là Liên Minh Quần Hùng. Các loại sơn trại, thuỷ tặc hành nghề buôn không vốn thì quy vào Lục Lâm. Còn Ẩn Thế bao gồm các thiền phái, mật tông lánh đời.

Sau khi thiền sư bắc tiến để hoàn thiện nghề y nước ta, các môn các phái lại nhất quyết cử đại diện của mình đến đất tổ Phong Châu, tổ chức đại hội võ lâm.

Cả võ lâm rục rịch, muốn dùng võ mà luận anh hùng, xem xem ai mới xứng là người đủ khả năng và nhân phẩm thống lĩnh các bang các phái. Cuộc tuyển chọn kéo dài suốt một tháng dưới sự chứng kiến của chư vị quốc tổ, ai cũng có thể tham gia. Thậm chí những hiệp khách không môn không phái như Khiếu Hoá tăng cũng không phải ngoại lệ.

Cuối cùng, cả võ lâm mới chọn ra được bảy người võ nghệ siêu quần bạt tuỵ, chính là bảy vị tông sư hiện tại. Trong chốn giang hồ không ai là không phục tài võ công của bọn họ, bèn tôn làm Bắc Đẩu Thất Tinh của võ lâm nước Nam.

Song thánh lệnh chỉ có ba cái, mà tông sư lại có đến bảy người. Thành thử không thể không có một buổi tỉ thí cuối cùng để phân chia ba tấm lệnh bài. Bảy người nghĩ đã ở Phong Châu rồi, chi bằng chọn đền thờ quốc tổ làm nơi thi đấu, vừa thiêng liêng lại thêm phần thành kính, cũng là để nói với tổ tiên rằng võ nghệ nước Nam do ông cha truyền lại hãy còn chưa thất truyền. Bảy người bèn sắm sửa hương hoả khấn tổ xin phép, rồi mới tỉ võ ngoài sân.

Trong sân đền Hùng ngày ấy có một cây đa cổ thụ, to hàng chét tay. Bảy người bèn coi ấy là nhân chứng do vua Hùng phái xuống trần, ra hẹn không ai được nhảy ra khỏi vùng bị bóng cây che phủ. Ngày hôm ấy về sau được gọi là đêm Hội Chí Tôn, còn cây đa cũng được đặt tên là Nhân Chứng.

Diễn biến của Hội Chí Tôn chỉ có cây đa Nhân Chứng được biết, người trong võ lâm chẳng ai tỏ tường. Nhưng sau tối hôm ấy, ba tấm thánh lệnh đều đã có chủ.

Ẩn Thế lệnh về tay Cứu Khổ thần tăng phái Nam Trúc Lâm, Quần Hùng lệnh thuộc về Thiên Cơ Lão Đạo còn Lục Lâm lệnh tất nhiên do vua trộm giữ. Không ai là không phục, ai về nhà nấy, đại chiến võ lâm quy mô lớn ở nước Nam mới chấm dứt.

Tạng Cẩu nghe xong chuyện xưa, hồi lâu mới hết bàng hoàng.

Đến lúc này nó mới biết, thì ra nước Nam không ít kì nhân, dòng dõi Lạc Hồng chẳng thiếu anh tài. Bất giác, một chút hào hùng nhen lên trong trái tim nhỏ bé của nó.

Cửa Hàm Tử thuộc vùng tả ngạn sông Hồng, gần bãi Màn Trù. Năm xưa năm mươi vạn quân Nguyên Mông sang xâm lấn, tướng giặc Toa Đô và cánh quân của y đã bỏ mình lại chốn này.

Biết được điều ấy làm Trương Phụ lo ay áy. Phải đóng quân ở địa phương người Nam từng làm nên chiến thắng lịch sử chống Mông - Nguyên thật khiến người ta bất an. Y cứ có cảm giác, rằng tại cửa quan này, binh tướng của Hồ Nguyên Trừng sẽ lần nữa làm nên lịch sử.

Nhưng nhìn các binh sĩ thể trạng rã rời, tinh thần mệt mỏi, y đành phải cắn răng lệnh cho ba quân hạ trại, nổi lửa nấu cơm. Chỗ y chọn nằm ở bờ bắc sông Hồng, gần một cánh rừng rộng. Có mấy nhánh sông phụ uốn lượn đi ra từ cánh rừng, thế nên quân Minh cũng không cần lo chuyện củi nước.

Mộc Thạnh và đám tham tướng đi khắp doanh chỉnh đốn lực lượng, nghỉ ngơi dưỡng sức để đánh một trận quyết định với quân Hồ. Mộc lại sai Lý Bân dẫn đám người Mạc Thuý, Nguyễn Huân, Đặng Nguyên đi dò la, vẽ bản đồ địa hình.

Lại nói đến Hồ Nguyên Trừng. Trận đánh Muộn Hải đang trên đà thắng lợi lại đột nhiên vấp phải sự quấy rối của cánh quân giang hồ, buộc phải thu quân. Chàng vẫn lấy điều ấy làm thẹn, bởi lẽ với số lượng pháo thần cơ trên thuyền đáng lí ra đã có thể đánh tan tành cả hai cánh quân của Trương Phụ và Mộc Thạnh chỉ với một trận.

Hồ Nguyên Trừng viết một phong thư gửi cho em trai mình, tức Khai Đại đế Hồ Hán Thương.

Bức mật thư này không được sử gia đề cập, nhưng trong ấy có ghi rằng: " Cổ nhân có câu ngựa bắc, thuyền nam. Nay Trương Phụ lui quân ra đóng ở Hàm Tử, địa thế nơi ấy kị binh khó mà tung hoành ngang dọc được. Khi xưa thiết kị Nguyên - Mông nổi tiếng hung hãn thiện chiến còn phải thất bại, nữa là kị binh nhà Minh không dũng mãnh bằng nổi một thành. Nay xin hoàng huynh hạ chiếu ban quân tiếp lương, để Nguyên Trừng phá giặc. "

Đêm trước khi cầm quân xuất chinh, chàng có đến tẩm cung vấn an thái thượng hoàng khi ấy là Hồ Quý Li. Không ngờ lại nghe được loáng thoáng tiếng Li nói trong lúc say: " Trận này đừng nói là Nguyên Trừng, dù Hưng Đạo Đại Vương có sống dậy cũng chẳng cứu nổi Đại Ngu ta. Than ôi, giỏi cho một Cao Biền, cho một thế " Rồng không đuôi ". "

Hồ Nguyên Trừng khi ấy không phục lời ấy, nghĩ thầm: " Lời nói của đám thầy địa lí, sao có thể coi là thật được. Cứ coi như Cao Biền phát hiện ra miếng đất Thăng Long thì cũng chẳng đại biểu rằng y có thể tiên tri chiến cuộc của ngàn năm sau. Rồng dẫu không còn đuôi, vẫn sẽ vút bay lên chín tầng trời. "

Rất nhiều năm sau, khi đã sắp mất nơi đất khách quê người, Nguyên Trừng mới thở dài mà nói:

" Nhà Trần bấy giờ khí số đã tận, vua hủ bại còn tớ chỉ biết siểm nịnh mua vui, trong thiên hạ dân chúng có được an nhàn? Giặc Chăm từng đánh lên tận Thăng Long, để ai ra cản? Đứng lên thay triều hoán đại, đặng muôn dân được no cơm ấm áo thì đám hủ Nho bảo là sai, là bất trung bất nghĩa. Chẳng lẽ để mặc dân chúng trong cơn hoạn nạn là việc mà kẻ có lương tri nên làm chăng?

Hồ Quý Li ơi, có lẽ chỉ có thời gian mới rửa hết nỗi oan khiên, chỉ người đời sau mới tỏ được lòng người mà thôi. "

(*) thiền sư Tuệ Tĩnh (1330-1400): có công sưu tầm sáng tạo ra nhiều bài thuốc dân gian, được tôn làm tiên thánh nghề thuốc nam. Cùng Hải Thượng Lãn Ông được y bác sĩ hiện nay cung kính gọi là tổ nghề. Năm 55 tuổi, ông bị cống sang Trung Quốc làm quan rồi mất luôn ở đó. Ngày nhậm chức ông đã khóc. Trên bia mộ nay hãy còn ghi dòng chữ " Ai về nước Nam cho tôi về với ".

Lưu ý: nửa sau cuộc đời Tuệ Tĩnh thiền sư trong truyện của Nghịch Tử sẽ được hư cấu hoá lên một chút, kết cục của ông cũng hơi khác so với trong chính sử.  Âu cũng là chút lòng thành của kẻ hậu nhân, giúp hoàn thành ước nguyện của bậc tiên hiền. Muốn biết thiền sư đã lẩn khỏi phương bắc bằng cách nào, kính mời độc giả đón đọc những hồi sau của truyện.

Sau vụ Muộn Hải, Hồ Nguyên Trừng cho quân truy lùng những tay giang hồ dám đại náo quân doanh, muốn trừng trị đám loạn thần tặc tử ấy một phen để răn đe. Nào ngờ đám người này đã chẳng còn bóng dáng, cứ như thể họ bay từ trên trời xuống, chui từ dưới đất lên vậy.

Ấy vừa là điểm yếu, cũng là điểm mạnh của nhân sĩ võ lâm. Những người này như là một đống cát, một đám bèo được buộc vào nhau một cách lỏng lẻo. Tuy là không thể đồng lòng đối địch, lúc giao tranh mạnh ai nấy đánh. Nhưng sự đời vốn là vậy. Tụ hợp dễ, tan rã cũng càng dễ. Một khi xong việc, mạnh ai nấy đi, vô câu vô thúc. Cho dù quân chính quy có thúc ngựa đuổi tới, cũng không còn đường nào mà lần.

E sợ đối phương tiếp tục quấy phá, Hồ Nguyên Trừng cho quân lui về cửa biển Đại An, lại để quân sĩ canh phòng thêm cẩn mật. Tối đến, lều nào cũng phải có một người thức trực, những người khác khi ngủ vẫn phải võ trang cẩn thận, khí giới phải để trong tầm với. Một khi có biến, người trực đêm lập tức gọi hết binh sĩ trong lều dậy, ùa ra đánh.

Quả nhiên, nhân sĩ giang hồ mắc bẫy, bị giết mất năm mươi mấy người. Ấy đều là đám cao thủ tam lưu không chịu nghe theo Thiên Cơ Lão Đạo phân phó, tự ý hành động nên mới dính phải bẫy rập của Hồ Nguyên Trừng.

Mấy ngày sau, thư đáp lại của Hồ Hán Thương truyền tới. Trong ấy ghi rõ sẽ dốc hết quốc lực tiếp viện cho Hồ Nguyên Trừng. Viện binh bao gồm mấy vạn đại quân, vài trăm chiến thuyền, ngàn khẩu pháo Thần Cơ. Khai Đại Đế Hồ Hán Thương đích thân xuất chiến, chấn hưng sĩ khí tam quân.

Hồ Nguyên Trừng không dám chậm chễ, vội vàng tự mình dẫn một toán quân ra nghênh đón. Đối ngoại lại cố tình nói khống lên viện binh đông tới hơn mười vạn vạn, thái thượng hoàng Hồ Quý Li tự mình ra trận. Kế ấy cốt là để suy yếu tinh thần chiến đấu của đối thủ, đề cao sĩ khí phe Đại Ngu, qua đó chiếm được tiên cơ. Hai bên đã sẵn sàng giao tranh một trận cuối cùng, cũng định sẵn cửa Hàm Tử sẽ là chiến địa. Trương, Mộc một mặt phát chiến thư, mặt khác lại cho quân diễn luyện mỗi ngày.

Nhưng những chuyện đánh đánh giết giết này cơ hồ chẳng có liên quan gì tới Tạng Cẩu. Mấy ngày này nó theo Quận Gió học võ nghệ, có tiến bộ rất lớn. Những ngón công phu cơ bản ấy nó đã nắm được bản chất, chỉ thiếu hoả hầu mà thôi nên có thể tự luyện. Đặc biệt là về phương diện thi triển chiêu thức Tạng Cẩu càng có tiến triển vượt bậc.

Quận Gió lim dim mắt, trông biểu cảm của lão thì chắc đang giảng đến chỗ hăng hái:

" Kinh lạc của con người phân ra làm kinh mạch và lạc mạch. Cả thảy kinh mạch có mười hai đường chính kinh, mỗi kinh đại diện cho một trong ngũ tạng hoặc lục phủ. Những kinh này ở tay và chân mỗi bên có ba đường, phân làm hai loại âm dương. Lạc mạch có... "

" Sư phụ chờ chút đã!! Lục là sáu, ngũ là năm, cộng lại vị chi mười một! Thế tại sao lại có đến mười hai chính kinh?? "

Tạng Cẩu ra chiều không hiểu, vội vàng lên tiếng hỏi. Bị cắt đứt mạch giảng, nhưng Quận Gió chẳng những không giận mà còn ôn tồn giải thích:

" Được rồi, thằng nhóc này làm như sư phụ mi không biết dạy đồ đệ ấy. Nghe tiếp đi đã. Lạc mạch gồm tám mạch: nhâm, đốc, xung, đới, âm duy, dương duy, âm kiều, dương kiều. Ngoại trừ hai mạch nhâm và đốc ra, sáu lạc mạch còn lại không có huyệt đạo riêng nên người ta thường gọi tắt cơ thể người có mười bốn đường kinh lạc, gồm mười hai kinh mạch và hai mạch nhâm đốc. "

Quận Gió thấy thằng nhóc nghệt mặt ra như ngỗng ỉa, biết nó đang dụng tâm ghi nhớ lời mình, bèn tiếp:

" Được rồi, nhớ kỹ đây, mười hai chính kinh bao gồm: thủ thái âm phế kinh - thủ thiếu âm tâm kinh - thủ quyết âm tâm bào kinh, túc thái âm tỳ kinh - túc thiếu âm thận kinh - túc quyết âm can kinh. Thằng nhãi nấp đằng sau tấm liếp nghe lén kia, mau lấy văn phòng tứ bảo chép lại đi, không ta đổi ý không dạy nữa bây giờ! "

Liễu Thăng xấu hổ vén liếp lên, vừa áy náy gãi gáy vừa ngồi xuống bên Tạng Cẩu, trong tay đã có giấy bút nghiên mực đầy đủ.

Phiêu Hương vội nói:

" Uy, đại tướng quân bắc quốc cao quý các ngài học mấy món công phu mèo ba cẳng của đám man di Nam quốc ta làm gì chứ?? "

Tạng Cẩu cười khẽ:

" Nước Nam đất chật người thưa, làm gì có anh hùng hào kiệt? "

Liễu Thăng xấu hổ đỏ bừng mặt mũi, mới lí nhí:

" Khi trước Tử Tiêm ngông cuồng vô tri, mong tiền bối bỏ qua. "

Quận Gió lườm hai tên giặc con một cái, khiến chúng nó rụt đầu rụt cổ lại. Lão khẽ hít sâu, rồi nói:

" Đạo học vốn là kẻ biết dạy cho người không biết, nào có phân ra sắc tộc?? Nếu không phải khi ấy người bắc truyền xuống, e rằng ta cũng không biết tí nào về kinh mạch lạc mạch mà chỉ cho mấy đứa. Tuy nhiên lý luận là vật chết, người lại sống. Nên có kiến giải khác nhau, vận dụng khác nhau mà nên thành tựu khác nhau, không phải cứ là người Bắc nghĩ ra thì hơn dân Nam, dân Nam sáng tạo thì bỏ xa người Bắc. Chẳng những Trung Hoa, mà Đông Tây gì cũng phải vậy tuốt!

Tốt! Nhóc dám ra gặp, dám học thì Quận Gió ta dám dạy! Không biết như thế có xứng là anh hùng không??? "

Liễu Thăng được ông khảng khái như vậy, lòng lấy làm mừng. Cậu càng khâm phục lòng dạ của Quận Gió hơn, bèn chắp tay vái:

" Tiền bối độ lượng sảng khoái, ấy là lòng dạ của bậc đại anh hùng. "

Mấy hôm trước y có nghe loáng thoáng mấy câu Phiêu Hương nói chuyện phiếm với Tạng Cẩu, lúc thử áp dụng thì nội công tăng tiến nhiều. Thầm nghĩ cái người dạy cho hai người thật là bậc kì nhân dị sĩ. Dù sắp đánh trận quyết định với nhà Hồ, cậu cũng không nén nổi mong ước được theo học Quận.

Lại nói, ông có thể nhẹ nhõm vào hẳn trong doanh trại nhà Minh mà dạy võ cho Tạng Cẩu, chỉ sợ trình độ võ công cũng đã đủ để xưng hùng xưng bá võ lâm Trung Nguyên.

Nghe thì ngại, không nghe lại tiếc, cuối cùng Liễu Thăng vẫn không kìm được lòng. Hôm ấy chờ sẵn, khi bên ngoài có tiếng người là lập tức mang giấy bút theo, ngồi ở xa len lén học.

Ba người dạy và học bằng tiếng Việt, cậu ta nghe câu hiểu câu không nhưng cũng cố hết sức ghi chép lại.

Quận Gió giảng tiếng về sáu kinh dương gồm: Thủ dương minh đại tràng kinh - thủ thái dương tiểu tràng kinh - thủ thiếu dương tam tiêu kinh - túc dương minh vị kinh - túc thái dương bàng quang kinh - túc thiếu dương đảm kinh. Nói hết một lượt, ông lại nhắc:

" Vì sao chỉ có ngũ tạng, đó là vì tạng Tâm Bào mà ra. Người ta không xếp được Tâm Bào thành một tạng, ấy là do nó phụ thuộc hoàn toàn vào một tạng khác. Tim là tạng đứng đầu ngũ tạng, cũng là tạng trọng yếu nhất. Tâm Bào sinh ra để bảo vệ cho tim, không bao giờ tách rời, nên người chỉ có ngũ mà không có lục tạng. "

Ông lại giảng giải sâu hơn về kinh lạc, về cách đả thông hai mạch Nhâm - Đốc khi tu tập nội công. Kế chuyển qua nói về các huyệt đạo, về lực và kình, về thủ pháp khắc địch chế thắng. Ông càng giảng lại càng thêm thâm ảo, ba đứa nghe câu được câu mất, nhưng đều cố gắng hết sức ghi nhớ.

Giảng xong tri thức cơ bản, Phiêu Hương biết ý lôi Liễu Thăng đang ngơ ngác dậy, đi qua chỗ khác để Quận Gió truyền thụ võ công cho Tạng Cẩu.

Võ lâm nước Nam đã có một quy củ bất thành văn từ thời Hai Bà, ấy võ công không mấy khi được chép hay khắc lại mà thường truyền miệng. Một sư phụ thường chỉ nhận vài ba đệ tử để dốc lòng truyền đạo, thế nên các môn các phái nước Nam dù lâu đời lắm cũng chỉ có mấy trăm người, song ai nấy đều tinh thông võ nghệ môn phái của mình.

Quận Gió dạy cho Tạng Cẩu môn công phu nội lực thành danh của ông là Bách Quỷ Dạ Hành. Đã được học tường tận về kinh lạc, nên Tạng Cẩu cứ y theo khẩu quyết mà hô hấp thổ nạp, chẳng tốn bao lâu hai mạch Nhâm và Đốc đã liền nhau, một luồng nội kình yếu ớt đã xuất hiện trong cơ thể.

Quận Gió lại hướng dẫn nó cách tích trữ nội lực vào huyệt đơn điền, xong xuôi mới bỏ đi. Gần đây ông cứ sáng lại đến, đêm thì rời khỏi, Tạng Cẩu cũng quen dần với hành tung xuất quỷ nhập thần của sư phụ nên chẳng bao giờ hỏi tới.

Nội công Bách Quỷ Dạ Hành vốn chẳng có tên, từ sau đêm Hội Chí Tôn người trong giang hồ mới phong cho nó cái danh này. Nguyên nhân là do lúc người luyện phát kình, nếu hoả hầu đủ thâm hậu sẽ có thể tạo ra tiếng bước chân người, tiếng tay áo kêu phần phật hoặc tiếng rên rỉ. Luyện tới mức cao thâm, một chưởng vỗ ra không chỉ có kình phong thổi rát mặt mà còn kèm theo tiếng rít gào kinh khủng như tiếng ma cười quỷ khóc. Trong lúc giao đấu, tâm cảnh chỉ cần không vững vàng, sẽ bị những âm thanh này mê hoặc, chết cũng chẳng biết vì sao.

Lần trước Quận Gió ra tay đánh Hồ Xạ, nội công bao trùm Quỷ Diện Phi Châu mới tạo nên âm thanh như tiếng cười xé tim ấy.

Bách Quỷ Dạ Hành dù không tính là nội công quá mức thâm ảo nếu so với những nội công thượng thừa khác. Thậm chí còn hơi lép vế hơn pho khinh công Lăng Không Đạp Vân và ám khí Quỷ Diện Phi Châu nhưng thắng ở tính hiệu quả.

Không có nó, cho dù thân pháp của lão đã đến mức kinh thế hãi tục cũng không thể ra vào Minh doanh như chốn không người thế được.

Tạng Cẩu nhận được chân truyền, dốc lòng học tập. Phiêu Hương thì tranh thủ thuật lại những gì mình hiểu sang tiếng Hán cho Liễu Thăng nghe, tất nhiên cô bé có giấu diếm một phần.

Gần sát ngày khai chiến, quân Hồ gióng trống khua chiêng tiến vào Hàm Tử quan. Thám báo đi dò la báo lại, chỉ thấy ở quân doanh nhà Hồ lều trại dựng lên san sát như rừng, chiến thuyền trên sông lớp lớp như sóng. Đã vậy còn có nhiều pháo Thần Cơ, lắm hoả dược, vô vàn kiếm cung thương mác.

Mộc Thạnh biết tin, cứ đi đi lại lại quanh cửa soái trướng hết ra lại vào. Còn Trương Phụ thì vò đầu, bứt tai, dứt tóc, vặt râu với đôi mắt thâm quầng hằn đầy tơ máu.

Không khí giữa hai bên căng như sợi dây đàn, Trương Phụ và Hồ Nguyên Trừng tính chuyện phái mấy toán quân nhỏ ra đánh nhứ, thăm dò thực hư quân địch.

Trận đầu tiên, Phụ để Lý Bân dẫn khoảng một trăm binh sĩ loại kém ra đọ lại quân Hồ. Hồ Đỗ là người cầm quân bên phía nhà Hồ. Để hư trương thanh thế, Nguyên Trừng phái hẳn một ngàn quân, toàn là lính tinh nhuệ một trăm tuyển một. Hai bên chèo thuyền nhỏ ra, đến giữa dòng thì gặp phải nhau. Lý Bân đứng ngay đầu thuyền, rút kiếm ra chửi:

" Quân man di mọi rợ phía nam hãy coi chừng, Lý Bân ta đây sẽ cho bọn mày biết thế nào là sứ......... "

Vênh váo được nửa câu, Lý Bân mới nhận ra đối phương đông gấp mười quân mình, khí thế rùng rùng như có thể nuốt trọn trời đất chứ đâu có ô hợp như thủ hạ của y. Y rất bình tĩnh tra kiếm vào vỏ, nói nốt bốn chữ " sức mạnh Thiên Triều ", rồi mới hất mặt lên, giọng khinh khỉnh:

" Đám man di đừng tưởng đông mà ta sợ, chờ đấy, một khắc sau hai ta đại chiến trăm hiệp!! " - Nói đoạn quay vào dặn binh sĩ:

" Đem cho ta cái quần màu đỏ sẫm, mau lên. "

" Hồi bẩm tướng quân, chỉ có đỏ tươi thôi, nhưng đây là quần yếm của một ả đào hát. Bì chức sợ... "

Nói còn chưa dứt câu thì đã thấy Lý tướng quân thay vội cái quần trắng mình đang mặc ra, rồi còn nhúng nhúng cái quần đỏ vào nước sông cho ướt nhẹp mới chịu mặc lên. Cấp dưới trông thấy cảnh này, không hiểu ra sao. Lúc đầu y nhìn Lý Bân với ánh mắt cực kì cổ quái, nhưng rồi liếc qua phần đũng cái quần trắng Lý tướng quân mới thay ra, lúc này mới à một tiếng ra chiều đã hiểu.

Lý Bân thay quần xong, hài lòng vỗ vỗ cạp quần mấy cái, rồi mới sai một bộ hạ mang quần trắng về quân cho để giặt, còn dặn kỹ:

" Nhớ nói Lý tướng quân bất cẩn trượt chân xuống bùn, làm vấy tanh lên quần. Ra trận mà quần lấm bẩn, áo chẳng sạch là coi thường đối thủ. Hơn nữa có câu thân bẩn thì tâm không thanh tịnh, mặc quần dính bùn rất ảnh hưởng tới tâm cảnh của người cầm quân, như thế thì khó mà giành được chiến thắng. Nên cho dù có mặc y phục của phận nữ nhi, ta cũng vẫn phải thay ra để tròn đạo làm tướng, giữ lấy phong phạm chí cao của Thiên Triều. Có hiểu chưa? "

Binh sĩ vâng vâng dạ dạ một hồi, lại khen ngợi:

" Lý tướng quân thật là bậc kì tài trong việc dùng binh, thông hiểu binh đạo chẳng thua gì Tôn Tử, Hàn Tín ngày xưa. Quả là tấm gương sáng để cho bọn thuộc hạ học tập. Lòng bội phục của tại hạ dành cho tướng quân đây thật giống như nước sông chảy cuồn cuộn, không bao giờ ngừng, như Hoàng Hà sóng xô không gì cản nổi... "

Nịnh bợ xong, y mới xuống thuyền bơi về.

" Tướng nhà Hồ bên kia, có gan thì mau xưng tên. Lý Bân này không giết hạng vô danh tiểu tốt. Nếu như thân phận mi quá thấp thì ta tha cho một mạng mà về gọi thằng nhãi Nguyên Trừng ra đánh với ông đây. "

Ngoài miệng thì ăn to nói lớn, nhưng thực ra trong bụng y lại nghĩ thầm: [ Mặc kệ ngươi là ai, ta cứ bảo ngươi là hạng tôm cua nhãi nhép. Sau đó mở lượng hải hà, tha cho về gọi Hồ Nguyên Trừng là được. ]

Loại người như Lý Bân được người đời gọi là " thùng rỗng kêu to ".

" Tướng quân nói chí phải!! "

" Thực đúng là Lý tướng quân. Đây mới là phong phạm mà một bậc đại tướng nên có. "

Quân Minh hò reo, gõ đao vào thuẫn trợ uy vang lừng cả mặt sông. Lý Bân thì đứng ngay cửa vào khoang thuyền, đầu nhấc 45 độ, mắt nhắm hờ, tay đặt lên đốc kiếm đeo ngang thắt lưng. Chiến bào y phất phơ bay trong gió, tay áo bay múa uyển chuyển như mây.

Y lại cho một đám lính nấp sau lưng mình, mượn khoang thuyền che chắn khiến quân Ngu không ai thấy rõ có người phía sau. Lại cho người dùng kiếm đục sẵn nóc khoang thuyền cho ánh mặt trời có chỗ mà chiếu vào, nói thác là: " khiến cho khí đọng thoát ra ngoài, vượng khí theo ánh dương vào được trong khoang, cơ hội chiến thắng sẽ cao hơn ba thành. "

Đám lính lấy vài mặt gương đồng ra, lợi dụng ánh sáng mặt trời để khúc xạ lên nan tre sau lưng y. Nhờ có nền gỗ đen thui, trong khoang thuyền đèn đóm đã tắt hết, ánh sáng phản chiếu lên đầu Lý Bân, cứ như hắn đang toả ra một vầng hào quang vậy.

[ Trước bộ dáng nam thần cổ trang của ta, đám khỉ nước Nam này ắt sẽ sợ hãi gào khóc xin tha mà thôi. Ha ha, tại sao đế quốc Hoa Hạ hùng mạnh của ta mà lại thua đám Việt Nam tép riu này nhỉ??? Lần này với sự trợ giúp của Lý Bân, tức sinh viên đại học chết vì uống nhầm thuốc tiêu chảy cho lợn Đồ Ngu này, quân Minh ta ắt sẽ đại thắng cho xem. Đám Nam quốc cổ đại ấy ngu như khỉ thì biết gì về tâm lí chiến kia chứ?? Một chiêu này chính là Không Thành Kế nổi danh của Gia... ]

Đoàng!!!

Lời còn chưa dứt, thì một viên cầu sắt nặng chình chịch đã lao vút vào khoang thuyền. Rầm rắc rắc một hồi, sau lưng Lý Bân đã có tiếng bong bóng nước vang lên lục bục.

(*) chú thích nhỏ: nhân vật Lý Bân ( Đồ Ngu ) sẽ có vai trò kha khá ở thiên thứ hai của truyện, những sự kiện ở hồi này là để giúp phát triển nhân cách của y.

(**) Đồ là một họ ở Trung Quốc, Ngu là yên bình. Xin đừng hiểu lầm tác giả

Đám bộ tốt kêu lên thất thanh:

" Tướng quân!! Thuyền chìm rồi!!! Tướng quân!!!!! "

Thì ra Lý Bân vẫn duy trì tư thế cũ, mặc cho màn hào quang rởm đã biến mất vì đám thuộc hạ mải ôm đầu, không có lật gương đồng đúng góc. Thấy tướng cầm đầu anh dũng quả cảm đến vậy, đám bộ tốt trong thuyền không khỏi cảm thấy xấu hổ, tráng chí nhất thời cháy lên rừng rực.

" Không hổ là Lý tướng quân!!! "

" Đại tài tiểu dụng a, đáng lẽ ngài ấy nên được Thành Tổ trọng dụng mới phải. "

" Lâm nguy bất loạn, đạn pháo lướt qua mặt vẫn trấn định như thái sơn, ấy mới là phong phạm của bậc đại tướng quân. "

" Sau này ngài chính là đối tượng mà ta sùng bái... "

Đám lính nhao nhao reo hò, có đứa mắt còn rơm rớm nước. Nhưng đạn pháo thần cơ bắn thủng đáy thuyền, nước tràn vào rất nhanh. Lính lác nhà Minh lục tục rủ nhau bỏ thuyền, song vị đại tướng Lý Bân thì vẫn hiên ngang đứng tại chỗ, đầu hất lên, mặt hướng ra xa, biểu cảm cực kì nghiêm túc.

" Tướng quân, thuyền sắp chìm rồi!! "

Một tên lính lò dò đến gần, thu hút can đảm nhắc khẽ một tiếng. Y còn tưởng Lý tướng quân sẽ trách mắng y hèn nhát, là lâm trận còn thoái lui, nào ngờ chẳng hề có một câu đáp lại nào. Tín hiệu duy nhất báo cho y rằng vị tướng quân trước mặt hãy còn sống là nhịp thở lí nhí như người hen suyễn và mùi khó ngửi đang bốc dần lên từ đũng quần đẫm nước sông và một thứ dung dịch mới chỉ vừa được sản xuất cách đây không lâu. Thì ra khi viên đạn pháo sượt qua, tay Lý Bân này đã bất tỉnh nhân sự mất rồi.

" Mau!!!! Đưa Lý tướng quân cùng xuống!! "

" Cứu giá! Mau cứu giá!! "

Sĩ tốt người Minh quả là có tình có nghĩa, trong lúc khẩn yếu quan đầu, mặc dù tướng quân của họ bất thành khí thì họ vẫn cố gắng cứu lấy y. Hỡi ông trời, thử hỏi tìm đâu ra những con người, những thủ hạ thân tín đáng tin như vậy nữa? Ngay cả khi nhảy xuống nước để bơi về bờ, họ vẫn chấp nhận mỗi người góp một cánh tay để nâng chủ tướng của mình lên quá đầu, quyết không để mặt y chạm nước vì sợ họ Lý sẽ chết sặc. Đúng là chỉ có vận may, khí chất của người xuyên không mới khiến những con người như thế quy tụ lại quanh y.

Hồ Xạ:

" Hồ Đỗ, từng thấy cảnh Phượng Vĩ Trôi Sông chưa? "

Đỗ gãi gãi đầu, nói:

"  Hồ Xạ này, làm anh em chiến hữu với nhau bao lâu nay, ta nói thẳng: thằng Đỗ này ít học, cứ bóng gió như thế mười năm sau ta cũng không hiểu được."

" Vậy ta cho mi mở mang tầm mắt!! "

Hồ Xạ cười khẽ, sau đó hai tay thoăn thoắt rút ra mấy chục mũi tên dài. Y nhắm chuẩn cái quần yếm đỏ chót nổi bật giữa dòng nước của Lý Bân, rồi cứ lần lượt phóng từng mũi tên một. Phập!!

" Úi...... "

Phập!

" Oé. "

Phập.

" Éc. "

...

...

...

Hết mũi tên này đến mũi tên khắp cắm vào mông của Lý Bân, máu tươi thấm ra đầy hai đùi và bẹn. Cũng may y chọn cái quần đỏ, nên không ai biết mông y giờ thê thảm ra sao. Chỉ có những người lính đáng tin cậy là còn ở bên Lý Bân trong cơn hung hiển ấy. Đúng là hoạn nạn thấy chân tình.

" Phát thứ mấy rồi??? Ngót nghét hai mươi chưa? "

" Mười tám thôi. "

" Mang theo tướng quân thực sự là ý hay nhỉ, nếu không có ngài ấy xả mông che chở, chúng ta đã chết sạch rồi. "

Binh sĩ trẻ nhất cảm thán. Y là người bơi sau cùng, phụ trách nâng cặp đùi. Được trực tiếp cảm nhận lực đâm từ đầu mũi tên truyền qua từng thớ thịt mông hết lần này đến lần khác. Mỗi lần như vậy, y lại thấy cái mông râm ran, vội vàng khép chân lại theo bản năng. Thành ra, tốc độ bơi của y chậm lại, cái mông của Lý Bân bị găm nhiều tên hơn. Nó tạo nên một vòng luẩn quẩn, bơi chậm, trúng tên. Xin tạm gọi kì cảnh ấy là " trọc phong khai hoa, huyết hồng sơn cốc ".

Y mới buột miệng một câu, cả đám đã quay lại thấp giọng chửi:

" Im!!! Có những cái mình biết với nhau là đủ rồi, còn cứ phải hô hào cho thượng cấp nghe thấy, hiểu chưa? Biểu hiện chỉ cần dừng ở mức biển hiệu là được rồi... "

" Chí lí... "

Binh sĩ nhỏ tuổi gật nhẹ đầu, rồi ngoác mồm ra mà kêu cùng các " huynh đệ ":

" Tướng quân!!! Ngài ráng chịu đựng, sắp về tới bờ rồi. Lũ khốn Nam Quốc, có giỏi thì đừng ném vào mông Lý tướng quân nữa! Nếu không phải còn nhiệm vụ tại thân, ta nguyện thay tướng quân chịu đựng nỗi đau xác thịt ấy!!! "

" Tốt, nói hay lắm. "

" Có tương lai trong nghiệp binh đao. "

Lý Bân khóc, nhưng không dám ngóc đầu dậy vì sợ đối phương biết mình còn tỉnh, sẽ không chơi đùa nữa mà phóng một mũi tên lấy mạng ngay lập tức. Y thầm chửi:

[ Không nhắm vào mông, chẳng lẽ nhắm vào đầu hay sao??? Rốt cuộc bọn chúng mới là người tiền sử, hay Đồ Ngu này đây? ]

Thực ra, chỉ cần một người cõng Lý Bân - Đồ Ngu, lại lẫn vào trong đám quân là hắn có thể bình an qua sông.

Than ôi, anh bạn Đồ Ngu này đã có cái cơ hội mà bao nhiêu người khác có mơ cũng không được, ấy là trở về thời cổ đại. Nhưng... lịch sử thường chỉ là sự kiện, là kết quả. Thực chất người thời phong kiến nghĩ  ra sao, thế giới quan của họ thế nào thì ai mà biết được?? Nếu chỉ dựa vào vài dòng chữ chết đã nghĩ họ không thông minh bằng một tên thanh niên chưa ra đời bao lâu thì thật sai lầm lắm.

Hồ Đỗ, Hồ Xạ nhìn đám tàn quân đang dùng thượng cấp làm khiên, lóp ngóp bơi về bờ mà không nén nổi cười ra tiếng. Lúc trước ai đó còn giả vờ giả vịt mình rất trâu bò, thì nay cái mông đã hoá thành một đoá phượng vĩ diễm lệ trôi trên mặt nước.

Buồn trông ngọn nước mới xa, hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cánh hoa đỏ thắm hôm ấy rốt cuộc cũng được quân lính dưới quyền đưa lên bờ. Cả đám thoát hiểm rồi, vội lấy nước sông táp vào mặt Lý Bân để y hồi tỉnh.

" Thật là thất trách, trong lúc khẩn yếu trúng phải yêu pháp định thân của đám mọi không cử động được. "

" Ra thế, ra thế. "

" Đám An Nam ấy đúng là quá giảo hoạt. "

Nghe đám lính hùa theo đầy miễn cưỡng mà mặt mũi Lý Bân không đổi sắc chút nào, da vẫn trắng bóc không hề hồng lên dù là một tẹo. Không biết tên này luyện thế nào, mà thần công Kim Chung Tráo của phái Thiếu Lâm lại độn hết lên mặt như vậy.

Lý Bân cố gắng bước đi một cách thật hào hùng, nhưng cứ thẳng lưng dậy là cái mông lại bỏng lên như có lửa thiêu. Thành thử, y chỉ đành cong lưng một góc chín mươi độ, khuỳnh chân vòng kiềng lạch bạch đi về phía doanh trướng của mình. Ấy vậy mà đầu y vẫn cố giương cao hết cỡ, môi bĩu lên giả như oai hùng lắm. Tiếc là hai tay lại kẹp sát eo để ôm mông, thành ra trông y không khác gì vịt Donald bản lỗi hết.

Về đến doanh trướng của mình, Lý Bân đã bù lu bù loa:

" Lão thiên a, nguy hiểm quá. Bọn Đại Ngu này đúng là ti tiện mà. Ai uuuuu, mông của ta. "

Tính ra thì Lý Bân này cũng xui, chui đâu không chui lại xuyên đúng qua thời nhà Minh. Học cho đẫy một bụng thơ Đường, từ Tống rồi đành xếp xó. Còn như chế xà phòng, chế nước hoa thì chẳng ai thèm đoái hoài vì khi ấy đã thịnh hành túi thơm rồi. Sau khi qua đánh Đại Ngu, y lại vỗ ngực xin Trương Phụ một tháng để phảng chế pháo Thần Cơ.

Kết quả của việc này ra sao thì Lý Bân nhỏ biết rõ nhất.

Thêm vài ngày trôi qua, quân Minh và quân Hồ giao tranh thêm vài trận nhỏ. Đáng ngờ ở chỗ sĩ tốt nhà Minh lúc thì hung hãn, khi thì bạc nhược, khiến người ta khó mà nhìn thấu quân tình của họ.

Hồ Xạ Hồ Đỗ thấy sự lạ, mới bẩm cáo lại với Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Trong soái trướng quân Hồ, người ngồi ở chủ vị đã không phải là Hồ Nguyên Trừng nữa mà là một thanh niên khác.

Người này mặc long bào màu vàng, đầu đội mão ngọc. Mặc dù tuổi đời trẻ hơn, song y trông lại già hơn Nguyên Trừng khá nhiều. Má hóp, mắt thâm đen có bọng và da dẻ có vẻ hơi tái. Trông Hồ Hán Thương như là bệnh nhân suy thận, đoán chừng là do hưởng lạc quá độ.

Khai Đại đế nghe tin thì vui mừng ra mặt, nói:

" Trời giúp Đại Ngu ta, địch quân rõ ràng đang tìm cách che mắt, muốn dùng ảo giác để kéo dài thời gian. Ta phải nhân cơ hội này phái đại quân quét tan đám người Minh ngu dốt này, khiến Hàm Tử quan một lần nữa nhuốm máu dân bắc quốc. "

Hồ Nguyên Trừng suy ngẫm một lúc, lại can:

" Hoàng huynh chớ nóng vội, Trương Phụ là một tên cáo già dùng binh lão luyện. Nguyên Trừng sợ đây là gian kế của hắn. Thiết nghĩ... "

Nào ngờ chưa nói dứt câu, thì Hồ Hán Thương đã sầm mặt lại:

" Nguyên Trừng, có phải là vẫn ganh ghét với trẫm hay không? Là vì nhà ngươi sinh trước ta, nhưng lại không được vua cha truyền ngôi cho nên sinh lòng ấm ức? "

Hồ Nguyên Trừng đáng lí là anh của Hán Thương, lại là con của chính thất Hồ Quý Li. Song vì Li cướp ngôi nhà Trần, danh bất chính ngôn bất thuận nên mới truyền ngôi cho người con thứ của mình với công chúa nhà Trần là Hồ Hán Thương. Vì là vua, nên dù sinh sau đẻ muộn Hồ Nguyên Trừng vẫn phải tôn Hồ Hán Thương làm anh, không thì dùng lễ quân - thần mà xưng hô.

" Bệ hạ, thần luôn trung thành với Đại Ngu ta thì sao có thể có việc ấy được. Thế nhưng... "

" Ý ngươi là quả nhân nói láo, ngậm máu phun người đổ oan cho ngươi?! "

Hồ Hán Thương lại híp khẽ hai mắt, trầm giọng xuống. Trong đôi mắt y thoáng hiện lên vẻ hung ác và ghen tị.

Hồ Nguyên Trừng vội quỳ một gối xuống, nói:

" Muôn tâu thánh thượng, lòng trung của Nguyên Trừng với Đại Ngu ta có trời đất làm chứng. Nếu như thần dám hai lời, cam tâm để thiên lôi đánh chết không được toàn thây, muôn đời làm quỷ đói không được siêu sinh. "

Hồ Hán Thương vỗ bàn, quát:

" Ca ngợi giặc, gián tiếp hạ sĩ khí quân ta. Khá khen cho một Hồ Nguyên Trừng! Mi cũng nham hiểm lắm... Một trận thì thua tan tác, bỏ lại ba quân một mình chạy xuống Muộn Hải. Đã vậy còn để mất Thái Bình. Muộn Hải thắng lớn, song lại không truy kích quân giặc mà để chúng chạy đến Hàm Tử chỉnh đốn hàng ngũ. Nay lại ngăn cản quân ta ra trận, rõ ràng là muốn cho quân giặc có thời gian nghỉ ngơi củng cố lực lượng. Miệng thì nói trung, song bụng dạ mi thế nào? "

Hồ Nguyên Trừng cắn răng, đang định nhận tội thì Hồ Xạ đã lên tiếng:

" Muôn tâu thánh thượng, hai lần bại trận ấy là lỗi của toàn quân, chứ không thể trách tướng quốc được. Người đã tận lực chống giặc, lại còn trúng độc, mong thánh thượng đèn trời xét soi. "

Hồ Đỗ cũng tiếp lời:

" Hai trận thua, tội thằng Đỗ này không nhỏ. Nếu thánh thượng muốn phạt tả tướng quốc, chi bằng phạt Hồ Đỗ này trước đi! "

" Thánh thượng anh minh tự biết suy xét phải trái đúng sai, nào có đến lượt đám nô tài chúng ta chõ mồm vào? Phận làm nô tài như chúng ta, nên cẩn tuân thánh chỉ của thánh thượng mới phải. Còn như không tuân ý chỉ, tức là khi quân phạm thượng. "

Mé phải lều có tiếng người nói oang oang. Hồ Đỗ, Hồ Xạ cùng nhìn qua, té ra là Nguyễn Tông Đỗ chứ không phải ai khác. Tướng lĩnh trong trướng cũng dần phân hoá ra làm hai bộ phận. Một số đứng về phe Tông Đỗ, phía còn lại ủng hộ hai người Đỗ Xạ bênh vực Hồ Nguyên Trừng.

Hồ Đỗ nóng tính, ăn nói chẳng mấy khi kiêng dè ai bèn quát luôn:

" Thằng ăn mít bỏ sơ ăn cá bỏ lờ này! Nếu tướng quốc không cất nhắc, nhà ngươi có vị trí hôm nay hay không? Thế mà dám ngậm máu phun người, đổ oan cho tướng quốc! Chuyện thành Đa Bang thất thủ ta còn chưa tính sổ với nhà ngươi đâu! "

" Muôn tâu thánh thượng, đám người Hồ Đỗ Hồ Xạ dám kéo bè kết phái ủng hộ Hồ Nguyên Trừng, e rằng có dạ bất lương, không chừng là muốn mưu phản đấy ạ. Thần nghĩ phải nhốt cả hội lại, không khéo ảnh hưởng tới đại nghiệp kháng Minh thì chết dở."

" Nguyễn Tông Đỗ! Cái đồ mèo đàng chó điếm, gắp lửa bỏ tay người! Mày chết với tao! " - Hồ Đỗ thấy đối phương ăn nói linh tinh, lại còn có ý chia rẽ đầu não tướng lĩnh nhà Hồ thì ức lắm. Y vơ vội hai thanh rìu chiến, nhảy qua bàn muốn lao về phía Nguyễn Tông Đỗ. Hồ Xạ thấy thế, vội cản:

" Đỗ! Thánh thượng còn ở đây, đừng có làm càn. "

Song đã muộn rồi. Nguyễn Tông Đỗ sao có thể để thời cơ này chạy thoát? Y vội vàng lên tiếng:

" Đấy, thánh thượng người xem đi. Người hãy còn ngồi ở đây mà Hồ Đỗ đã dám khinh nhờn long uy, thế thì lúc vắng mặt người hắn còn kiêng dè gì nữa mà không nói những lời đại nghịch bất đạo?? "

" Ngươi... Bệ hạ, xin đừng nghe tên tiểu nhân này xàm tấu! "

Hồ Đỗ nghiến răng kèn kẹt, nắm đấm xiết lại kêu canh cách. Song Hồ Hán Thương đang nhìn chằm chằm, y chẳng còn cách nào ngoài nén cơn giận lại.

" Hứ! Không có lửa làm sao có khói? Thánh thượng, hay là... "

" Thôi đủ rồi... "

Hồ Hán Thương khẽ nói, rồi giộng giộng ngón trỏ lên mặt bàn gỗ cứng. Y nhìn Hồ Nguyên Trừng, ánh mắt lộ rõ vẻ mong chờ. Người tướng quốc tài năng, linh hồn và trái tim của quân đội nhà Ngu sẽ lựa chọn ra sao?

Nén một tiếng thở dài, Hồ Nguyên Trừng khẽ nói:

" Thánh thượng đã ra chiếu, người làm tôi không dám không nghe. Nhưng xin bệ hạ hãy nể tình Nguyên Trừng dốc lòng vì nước nhà mà ban cho thần ân huệ cuối cùng, ấy là trước khi thành Tây Đô thất thủ thì đừng xử tử thần, cũng đừng làm liên luỵ tới các tướng lĩnh thuộc hạ. Thất bại hai lần là do Nguyên Trừng vô năng, xin một mình lĩnh tội. "

Trong trướng bồng, liên tiếp vang lên những tiếng " Ôi chao " của tướng lĩnh. Không ít người lên tiếng khuyên can, nhưng vô dụng. Hồ Xạ, Hồ Đỗ kiên quyết đứng ra muốn chịu phạt, song Hồ Nguyên Trừng khuyên can:

" Bây giờ đang lúc cần người, hai người hãy nghe ta phò tá thánh thượng thật tốt. Chớ có gây sự bất hoà, chỉ khiến giặc Minh bên kia sông được lợi mà thôi, " - Chàng nói xong, lại nhìn qua Nguyễn Tông Đỗ. Tên bại tướng ở thành Đa Bang khẽ chột dạ trước cái nhìn đầy thất vọng của Nguyên Trừng, song y vẫn nói kháy:

" Ha? Chuyến này ra quân ắt là đại thắng, quân Minh mười mươi sẽ bị đánh tan. Khi ấy ngài tướng quốc đây chẳng phải được an nhàn hết kiếp hay sao? "

" Nguyễn Tông Đỗ! Nhà ngươi đúng là hạng tiểu nhân, chỉ biết tát nước theo mưa! "

" Giậu đổ bìm leo, đúng là quân đốn mạt mà... "

Hồ Đỗ chửi không nói, lần này Hồ Xạ và các tướng khác cũng không nhịn nổi sự hèn mạt của Nguyễn Tông Đỗ nữa. Cả doanh trướng ầm ĩ cả lên, song đứng về phía Tông Đỗ chỉ lác đác vài người, đa phần đều là đám quan văn trong triều được theo xa giá để hầu Hồ Hán Thương.

" Đỗ, Xạ. Những gì ta mới nói, hai người quên rồi chăng? "

Hồ Nguyên Trừng sẵng tiếng.

" Mạt tướng không dám... Nhưng tướng quốc cũng không nên nhận hết tội danh vào người như vậy! "

" Nguyên Trừng giờ là tội nhân, không còn là tả tướng quốc gì nữa. Trước thánh thượng điều tra chân tướng sự việc, mong mọi người đừng giữ xưng hô cũ, kẻo Nguyên Trừng phải tội khi quân. "

Nói đoạn, chàng từ từ cởi mũ, tháo chiến bào rồi dâng hổ phù soái kì đại diện cho binh quyền cho Hồ Hán Thương. Hán Thương thu về được binh quyền vào tay, thầm cười trong dạ.

Hồ Nguyên Trừng bị hai binh lính của Khai Đại giải đi trong ánh mắt bất mãn của các tướng, nhốt trong lều chứa củi. Hai chân hai tay dù không bị trói hay gông, nhưng cũng chẳng được tự do mà luôn có lính lác túc trực canh giữ.

Tối ấy, Hồ Hán Thương cho gọi hai người Hồ Đỗ, Hồ Xạ vào gặp riêng.

Bên ngọn đèn dầu leo lét, trông Hồ Hán Thương càng thêm vẻ cô độc. Buồn đượm trong đôi mắt. Ấy là cái vẻ mặt của con người đã ngồi lên đỉnh cao nhất của xã hội phong kiến, chỉ để nhận ra trên cái ngai rồng ấy là cả một bầu trời trống vắng.

Hồ Đỗ còn căm chuyện của Nguyên Trừng, nên tỏ vẻ khó chịu ra mặt. Đến tận lúc vào lều y mới miễn cưỡng quỳ một gối, song đầu thì không cúi. Hồ Xạ ở bên cạnh thì vẫn giữ lễ quân thần, song hai đốm lửa vẫn cháy rừng rực.

Hồ Hán Thương phẩy tay, hàm ý miễn lễ, hai người vẫn không đứng lên. Y như cũng đoán được, bèn chậm rãi nói:

" Ta biết, hai ngươi định xin tội cho Nguyên Trừng. Thực chất bản thân ta cũng biết anh ấy chịu oan... "

Hồ Đỗ, Hồ Xạ thật không tin vào tai mình. Nếu Khai Đại trách tội họ, hay cấm họ nhắc tới chuyện hồi nãy thì hai người còn có thể hiểu và lí giải. Song, lần này vua Hồ chơi bài quá lạ và hiểm. Hai người tạm thời không biết nên phản ứng ra sao.

Sau cùng, Hồ Xạ mới lên tiếng:

" Nếu là như thế, mạt tướng cầu xin thánh thượng xoá tội danh cho tướng quốc. "

Hồ Đỗ cũng hậm hực:

" Đúng vậy. Không thể có cái chuyện chó đen ăn vụng, chó trắng chịu đòn như thế. "

Hai người dùng ánh mắt chờ mong nhìn qua, song chỉ đổi lại được cái lắc đầu nhè nhẹ của Hồ Hán Thương. Y ngồi lại xuống cái ghế con Nguyên Trừng vẫn hay ngồi, lướt nhẹ ngón tay lên mặt bàn không dính một hạt bụi. Kế, y mới nói, ngữ khí càng lộ vẻ cô đơn:

" Trẫm cũng biết vậy, song các quan trong triều gây áp lực quá. Đám quan văn này đều là hạng tham sống, sợ chết. Nếu như không nghiêm phạt tướng đã bại trận, thì e trên triều sẽ tan đàn xẻ nghé. Cho nên, quả nhân mới buộc phải ra cái hạ sách này. Riêng cái tên Nguyễn Tông Đỗ thì còn có diệu dụng nên tạm tha. Thực ra, lòng trung của anh Trừng ra, lí nào Hán Thương này không rõ? Nhưng than ôi, làm vua, cũng có những khi mình không thể tự quyết định. "

Hồ Đỗ nói luôn:

" Hoá ra thánh thượng còn có nỗi khổ tâm. Hồ Đỗ ngu dốt không hiểu, từ đó tới giờ còn chửi thầm bệ hạ trong bụng. Đúng là đáng đánh. "

Thế rồi Hồ Đồ tự vả miệng mình hai cái nghe chan chát. Hồ Hán Thương vội chạy ra giữ tay, nói:

" Đỗ tướng quân anh dũng thiện chiến, làm người bộc trực thẳng tính. Trên triều nay hãy còn nhiều xiểm thần từ thời nhà Trần, những người như tướng quân đây thật cần lắm thay. Quả nhân đâu thể trách tội được? Nếu trẫm là khanh, ắt cũng tự chửi bản thân mình ngu ngốc. "

Hồ Xạ nghe mà ngờ ngợ, song không tiện nói nhiều. Đến khi hai người diễn xong cái màn Lưu Bị ném A Đẩu, y mới hỏi:

" Không biết bệ hạ cho gọi hai chúng tôi vào đây là có thánh chỉ gì muốn mật truyền? "

" Thực chất, ta muốn hai khanh dẫn theo một chi kì binh tấn công tập kích doanh trại nhà Minh ở hướng tây, Bản thân ta thì sẽ phái Tông Đỗ dẫn một nhánh khác công kích chính diện, dùng kế dương đông kích tây. Tên Nguyễn Tông Đỗ để Đa Bang thất thủ, bản thân lại chạy trước, lần này đáng làm tốt thí lắm. "

Hồ Đỗ vỗ tay đánh chát một tiếng, khen:

" Đúng! Loại tiểu nhân này nên có kết cục như vậy. "

Hồ Xạ thì nói:

" Chuyện này không phải việc nhỏ, mà can hệ tới sinh mạng toàn quân, thắng bại của cả cuộc chiến. Hạ thần có ngu ý muốn đến thăm tả tướng quốc, nhờ người dạy xem trận này nên đánh ra sao, công thế nào mới có thể toàn thắng. Thánh thượng cũng biết tả tướng quốc hàm oan, chắc hẳn sẽ hỏi ý kiến của ngài ấy, đúng không ạ? "

" Quả thực vậy, quả thực là vậy. Trận này mà thắng, thì công lao hai vị lớn lắm. Nguyên Trừng có công đầu, quả nhân sẽ mượn cớ " lấy công chuộc tội " để tha bổng anh, lại ngầm thưởng sau cũng chưa muộn. Quan trọng là ổn định triều cương, đoàn kết hậu phương để các vị tướng quân an tâm mà ra trận. "

" Quân vô hí ngôn, mong bệ hạ ghi nhớ những gì đã nói hôm nay, còn chuyện chinh chiến thì chúng thần xin hết lòng. "

Hồ Hán Thương vừa cười, vừa nâng hai tướng dậy.

Ba người hàn huyên thêm mấy câu, Khai Đại mới lấy cớ việc quân gấp gáp không thể chậm trễ dù chỉ một khắc, bèn cho hai tướng lui. Còn lại một mình, Hồ Hán Thương mới quăng mình lên đệm, tay mân mê chiếc binh phù bằng đồng xanh.

" Binh quyền, nắm được mi trong tay quả thực là thích tay. "

Khai Đại đưa binh phù ra trước ngọn đèn. Ánh lửa cháy phản chiếu lên mặt đồng, hắt từng tia sáng nhè nhẹ vào mắt hắn. Hồ Hán Thương nhẹ nhàng hít vào một hơi, thầm nghĩ:

[ Phụ hoàng ơi là phụ hoàng, con nay đã có binh quyền trong tay, há có thể an phận làm con rối của người nữa?? Hay cho một con rồng không đuôi! Chẳng cần biết mi là thật hay giả, có thể khiến phụ hoàng ta phân tâm thì ắt là thứ tốt. Chờ đến khi đánh đuổi quân Bắc rồi, Khai Đại này sẽ đường đường hoàng hoàng tiếp quản triều chính. Ôi... sướng thật... ]

Nén không nổi một tiếng cười, Hồ Hán Thương gập mình lại, khẽ khúc khích.

Hồ Đỗ Hồ Xạ kéo nhau đi về phía căn lều nơi Nguyên Trừng bị giam. Lúc này đã là canh ba, mảnh trăng treo cao trên đỉnh đầu. Không khí đã lạnh dần, cái lạnh cuối năm quất vào da thịt.

Năm hết, Tết Nguyên Đán đã gần đến rồi. Song binh sĩ thì vẫn phải quật cường dựng giáo nơi sa trường. Đỏ au áo mới, cây nêu đầu làng, miếng bánh chưng xanh ngát, khoanh thịt mỡ thơm lừng, dưa hành chua chua, lại giòn tan tiếng pháo... đối với họ những vậy tạo nên không khí Tết ấy nghe sao mà xa vời quá. Loáng thoáng có tiếng lính thủ trại đi tuần nói với nhau: " Phen này á, tớ mà lĩnh quân lương về thì kiểu gì cũng phải qua Quốc Tử Giám, xin các cụ một cặp câu đối về chưng trong nhà. "

Hồ Đỗ Hồ Xạ đều nghe được, cũng thoáng hồi tưởng lại cái ngày còn ở Thăng Long. Tết đến xuân về, ba anh em thêm cả Lục Bình nữa thường mang pháo ra đốt, chạy khắp ba mươi sáu phố phường. Vào đêm ba mươi, tối trời, cũng ngót nghét canh ba như này, thay vì đón giao thừa thì ba đứa lại nghịch ngợm đi săn ma da ma trành. Từng đoạn từng đoạn hồi ức đều vui tươi, ấm áp, trong veo như tia nắng sớm đầu tiên của mùa xuân.

" Xạ, mày sẽ không thực lòng tin ông ta chứ? "

Đi được nửa đường, Hồ Đỗ chợt lên tiếng gọi.

" Tin? Không tin? Giờ còn có tác dụng gì đâu. Chúng ta thắng, thì tướng quốc có cơ may được sống. Mà thua thì ngài ấy chắc chắn sẽ phải chết! Mày xem còn có lựa chọn nào ngoài đánh đây? "

Hồ Xạ chậm rãi lắc đầu, than thở. Y cũng không ngờ Hồ Hán Thương vốn dĩ chỉ là một ông vua bù nhìn cho thái thượng hoàng Hồ Quý Li lại có tâm cơ sâu như vậy. Y và Hồ Đỗ bị đẩy vào thế cưỡi hổ chỉ trong một buổi chiều, vài câu nói. Nay dẫu biết phía trước là đầm rồng hang cọp, nhưng không xông vào không được.

Y có cảm giác mình như một món đồ chơi bị người ta quay trong lòng bàn tay, không thể tự chủ.

Hồ Đỗ gãi gãi đầu:

" Tao cũng nghi nghi, mà không ngờ lại nham hiểm như thế. Ahhhhh! Đau đầu quá. "

" Mày bớt suy nghĩ lại đi, đầu óc mày không được như người ta đâu. "

Hai tướng trêu đùa nhau một hồi, áp lực trên vai mới thoáng nhẹ đi phần nào. Lát nữa gặp Hồ Nguyên Trừng, cũng tiện che giấu hơn. Hai người không muốn tả tướng quốc thêm phiền lòng nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro