Hồi chín (2): tàn chiến anh hồn lai địa phủ / Vong Xuyên bèo con cưỡi sóng cồn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong giờ phút sống chết cận kề này, không ít sĩ binh nhìn về phía Hồ Xạ nay đã bị thương, những tưởng dùng cái chết của y đổi mạng cho mình. Ý nghĩ này xẹt nhanh qua trong đầu họ, nhưng không mất đi mà cứ lởn vởn ám quẻ lấy bộ óc, hệt như đám hồn ma bóng quế.

Có ai mà muốn chết đâu?

Hồ Xạ đến bên, vuốt mắt cho cậu thanh niên nọ. Nghĩ đến câu xin lỗi sau chót của cậu, hắn chẳng thể hận cho nổi, ngay cả khi sự hối hận muộn màng ấy không dành cho hắn. Ai bảo Hồ Xạ hắn cũng có mẹ kia chứ...

" Ngu ngốc thay... những con người ấy... họ ngu ngốc thay mới ném mạng mình đi để rồi bị quên đi vĩnh viễn dưới ánh hào quang của chiến thắng! Hàm Tử này đã có bao nhiêu vong hồn Đại Việt bị lãng quên lởn vởn, đáy Bạch Đằng kia lại đã chôn tên vùi tuổi của bao nhiêu đồng bào? Những người còn trung với nước non, lương tâm hãy còn chưa bị diều tha quạ mổ lẽ nào lại ít như lá mùa đông thế à? Có ai? Có ai trả lời ta hay không? "

Hồ Xạ gào lên đến lạc giọng. Thần trí y chịu bao cú sốc, cơ thể đã gánh nhiều thương đau đến nỗi chẳng còn tỉnh táo nữa rồi. Loạng choạng, y tiến bước. Một viên đạn lạc bắn trúng đùi, xuyên thủng thịt da. Nhưng y chẳng thấy đau gì, chỉ vừa bước tới vừa cười, điên dại.

Đá lạo xạo dưới chân y theo từng bước đi. Mâu nhọn cắm vào người, chọc thủng cả bụng dưới. Song Hồ Xạ cũng không thèm cản.

Hắn ngước mắt lên, nhìn vào mắt người mình từng coi là thuộc hạ. Y cũng chẳng phải binh lính cựu triều gì. Hồ Hán Thương lên ngôi không lâu thì y nhập ngũ. Ánh mắt hắn phảng phất như hoá thành cái nhìn của Hồ Nguyên Trừng khi đó. Đầy thất vọng, chán trường. Sự lạc lõng khi bị phản bội...

" Giết mày! Chỉ cần giết mày thì tao sẽ được sống!! "

Gã tiểu tốt như hoá rồ hoá dại. Hắn hét lên! Hét lên thật to mục đích của bản thân lên, hi vọng có thể củng cố thêm quyết tâm của mình. Cái nhìn của Hồ Xạ càng khiến y thèm được sống hơn. Trong lòng, y tự nhủ: [ Thà chết một còn hơn chết hai người. ]

Hồ Xạ hộc máu. Tròng mắt hắn long đỏ lên.

Liền đó...

Gã tiểu binh ôm cổ, gục xuống. Mũi tên trên tay Hồ Xạ nhỏ tong tỏng máu.

Mặc kệ trường thương cắm trong bụng, Xạ bước tiếp. Có thể nghe tiếng những thứ mềm mềm lọc bọc sôi và va vào nhau trong bụng hắn. Nói chẳng còn rõ tiếng nữa, chắc phải đến sát hắn mới loáng thoáng nghe được hắn nói gì. Nhưng lúc này còn ai dám tiếp cận Hồ Xạ trong lúc y đang điên dại nữa. Hắn chỉ biết ho nấc lên trong những tràng cười bất tận.

" Tướng quân... hắn điên rồi chăng? "

" Không cần ra tay. Bọn chó An Nam này sẽ tự cắn lẫn nhau thôi. "

Trương Phụ cười khẩy.

Mỗi lần tiến tới, Hồ Xạ lại yếu đi một chút. Máu tươi roi rói đổ ròng ròng xuống. Những con kền kền thèm thuồng nhìn theo từng bước chân của hắn.

Hồ Xạ tỉnh táo lại. Y nhìn Trương Phụ. Lão đang ngồi trên lưng ngựa, oai phong vận chiến giáp mà nhìn hắn bằng ánh mắt chất chứa đầy miệt thị.

" Hồ Xạ, nhà ngươi chỉ còn một mũi tên, cần gì phải cố sống cố chết kháng cự? Chỉ cần ngươi cởi giáp quy hàng bắt Hồ Hán Thương về chịu tội, Trương Phụ ta lập tức cho ngươi làm phó soái. "

Rắc!

Mũi tên mà Hồ Xạ phóng về phía lão bị thanh quan đao của Phụ nhẹ nhõm chém làm hai nửa. Trương Phụ nhe răng, cười mỉa:

" Dễ đoán quá đấy Hồ Xạ... "

Cốp!

Còn chưa nói dứt câu, thì con ngựa lão đang cưỡi đã đau đớn lồng lên, miệng hí vang trong cơn đau. Nó hất văng Trương Phụ xuống đất, lại lồng lên một chặp nữa mới chịu yên. Làm xong, thì Hồ Xạ cũng kiệt lực quỵ gối xuống mà thở hồng hộc.

Trương Phụ chưa kịp hiểu chuyện gì vừa xảy đến, nhưng lão biết mình phải làm gì vào lúc này. Phụ đề khí, hét vang:

" Ai đâm Hồ Xạ một cái thì xoá hết tội cũ, còn thưởng cho một thạch thóc lụa, ai mà chém được đầu hắn thì phong quan tiến tước! "

Mạc Thuý cũng hô:

" Mọi người đều là con dân Đại Việt, thần tử của triều Trần thì hà tất phải tương tàn? Ngay cả khi anh em không phải lính cựu triều, nhưng nếu biết cải tà quy chính, bỏ sáng theo tối thì Mạc Thuý này cũng xin tâu với Trương hầu gia đây tưởng thưởng cho mọi người một cách công bình! "

Lời hứa của Trương Phụ, lại thêm sự hô hào của Mạc Thuý có khác nào thùng dầu quăng vào đống lửa? Quân Đại Ngu bắt đầu ngưng tay ngừng chém giết lẫn nhau. Một phần cũng bởi sự phản kháng của quân sĩ theo Hồ Xạ càng ngày càng yếu ớt.

" Đúng rồi! Nhà Hồ có tội khi quân phạm thượng, anh em ta cần gì phải bán mạng cho lũ vua quan giặc cướp chúng nó? "

Nguyễn Công Khôi gào lên cổ vũ đến khản giọng, càng khiến quân tâm sĩ tốt Đại Ngu thêm lung lay. Quanh Hồ Xạ, vòng vây của kẻ địch càng dày đặc thêm. Bộ hạ còn theo y người thì chết, kẻ lại quay giáo đầu quân cho Mạc Thuý và Công Khôi. Cuối cùng, chỉ còn Trần Đĩnh lưng đối lưng với hắn.

Hồ Xạ nay chỉ còn biết thở dài. Trong khoảnh khắc cuối cùng trước khi vụt tắt, ngọn lửa sinh mạng y lại cháy lên rực rỡ một lần cuối. Cái này người Tàu gọi là Hồi Quang Phản Chiếu. Y vận hết khí lực, ngửa mặt hỏi bầu trời đen:

" Bảo Nghĩa vương ơi, ngài có linh thiêng thì nhìn xuống mà xem đây này! "

Y lại quay qua nhìn số đông, nhìn rừng lao núi kiếm tua tủa đang chĩa vào người mình, mà cảm khái:

" Nước nhà, có nước mới có nhà. Ha... ha ha... ha ha ha... Hồ Xạ ta xuống dưới suối vàng trước, để mà đón người thân của các ngươi. Ta sẽ kể cho mẹ cha, vợ con các người, rằng các người đã phản bội Đại Việt như thế nào! "

Mạc Thuý bĩu môi, nói:

" Hồ Xạ, đến giờ mà mi vẫn không chịu tỉnh hay sao? Chúng ta trung với Đại Việt, chứ không trung với nhà Hồ. "

Hồ Xạ lắc đầu, nói:

" Bao biện cả thôi. Những tên bán nước như mày trên miệng đều treo khẩu hiệu thương nước tiếc dân, song lại hút mủ liếm trĩ mà ôm chân bọn giặc ngoại bang như con chó chờ xương của chủ. Chỉ vì mẩu xương thối mà cõng rắn về cắn gà nhà, ôi, đúng là trung với hồn thiêng tổ quốc, với dân tộc đồng bào ta! "

" Đó gọi là ngoại giao, lũ ngu trung làm sao hiểu nổi? Thắng thì làm vua, còn thua thì thành giặc ác. Mày hãy cứ yên nghỉ với cái lí tưởng trung thành ngu xuẩn của mình đi. "

Mạc Thuý cười khẩy, rồi rút cờ lệnh ra phất.

Tức khắc, từ trên gò tràn xuống, từ hai phía trái phải ập qua cơ man không biết bao nhiêu là sĩ binh " nhà Trần ". Giống như một bầy kiến hung hãn lao tới chỗ con dế mèn què cẳng, sĩ tốt đã hàng quân Minh dưới sự cầm đầu của Mạc Thuý và Nguyễn Công Khôi xộc tới chỗ Hồ Xạ. Trong mắt đám người này, tên tướng quân đằng kia sao mà đáng giá đến thế? Nay cái đầu của Xạ trở thành tấm vé đảm bảo cuộc đời sung túc và quyền thế cho chúng.

Ống tên nơi thắt lưng đã cạn theo dòng máu vơi dần. Ngọn thương dài nhọn hoắt nằm trong ổ bụng, truyền vào ngũ tạng từng đợt cảm giác lạnh buốt. Đứng bên cạnh Hồ Xạ chỉ còn có Trần Đĩnh với mấy trăm lính.

Phập!

Bỗng... lưỡi kiếm từ sau lưng vươn ra trước, cắm xuyên qua trái tim hắn.

Hít... hà...

Hồ Xạ thở hẫng một hơi, cảm giác miệng mở to hai cánh mũi cũng căng phồng nhưng chẳng có một luồng khí nào tràn được vào hai lá phổi. Cái nhịp hô hấp của hắn cũng rối luôn sau đấy.

Phía sau, vang lên tiếng nói thì thầm của Trần Đĩnh:

" Xạ, Trần Đĩnh tiễn anh một đoạn. "

" Ha... ha... lũ cướp nước... ta... thấy... chúng bỏ chạy... nhục nhã... "

Môi Hồ Xạ mấp máy, âm thanh đứt quãng theo từng nhịp đập giãy chết của trái tim. Hắn còn muốn nói gì đó, nhưng không còn thành lời nữa rồi. Lưỡi gươm rút ra khỏi trái tim đang hấp hối, vảy tâm huyết nóng chảy văng ra đầy đất.

Sức lực chống đỡ đôi chân chợt biến đâu mất, Hồ Xạ khuỵu hai gối xuống. Đón chờ cần cổ của hắn là thanh kiếm của Trần Đĩnh. Dưới con trăng mờ ảo, lưỡi thép loá lên lạnh lẽo, mảnh như một sợi chỉ mà thôi. Đường tơ tử thần lướt qua cổ Hồ Xạ. Nhanh... và êm ru như một làn khói. Giọt máu nhỏ trượt dọc theo lưỡi kiếm, bị vê thành một hình cầu đều đặn đỏ au rồi rơi xuống.

Hai gối Hồ Xạ đụng lên mặt đất...

Chỉ trong một giây ấy, khoảnh khắc khi mà lưỡi kiếm của Trần Đĩnh bay qua cổ hắn, hắn đã suy nghĩ rất nhiều. Trong tâm thức Hồ Xạ, dòng sông Hồng bỗng tràn đê. Ký ức thi nhau ùa về như một con lũ lớn.

Nấm mồ của mẹ hắn hiện lên trước tiên. Một chiếc đĩa mẻ, cũ mèm đặt bên nắm đất đầy cỏ dại. Mơ hồ, hắn nghe thấy tiếng khóc bản thân vọng lại, như xa mà gần.

[ Xạ hãy chưa báo được ơn sinh thành mà, sao mẹ đã vội ra đi hả mẹ ơi? ]

Hắn nhác thấy bóng mẹ ngồi chong đèn đến khuya may áo Tết cho mình. Rồi cả những lúc hắn nhõng nhẽo đòi chè lam của bà nữa. Ô kìa! Đằng kia phải mẹ hắn không? Bà già đi nhiều quá. Tóc lấm chấm sương, da hằn vệt nắng. Hắn như thấy bà đứng vẫy mình xa xa.

[ Xạ, tao với thằng Bình đều nói rồi, đến mày đấy! Mẫu con gái mày thích là gì? ]

Hồ Đỗ huých mạnh vào vai hắn, khiến cho hắn loạng choạng suýt thì cắm mặt xuống sông Tô Lịch. Dòng sông ấy vẫn đang hẹp dần lại, đúng như lời nguyền của hai ông bà hàng Dầu năm xưa, song nước thì trong veo soi thấy cả đáy.

Kỷ niệm về anh em...

[ Nào! Nào! Mau nói đi! Anh em với nhau từ bé tí đến giờ, mày không nói là khinh thường anh em đấy nhé! ]

Hồ Đỗ, trái hẳn với cái tính cách lỗ mãng của hắn, lại chỉ ước có một người đàn bà bình thường. Nhẹ nhàng một tí, êm ái một tí đã là đủ. Phải biết chu toàn gia sự, không cần quá tốt cũng được. Ước mơ của Hồ Đỗ cũng chỉ có vậy. Hắn vẫn hay nói cho anh em cái mường tượng của hắn về tương lai. Sào ruộng với con trâu đực lại thêm đôi chân của hắn là đủ gạo ăn. Dàn bầu, dàn mướp ở nhà lúc lỉu những quả là quả. Rồi thì làm thêm cái chuồng gà, sáng sáng cho con hắn đuổi chúng chạy lăng xăng trong sân, kêu rích rích là chẳng còn lo nghĩ gì.

Phạm Lục Bình thì lại khác. Theo học Trần Nguyên Hãng đã mấy tháng, nên đâm ra cũng thi vị hơn. Phải đằm thắm, thông minh và sắc sảo như nàng ả đào Đồng Xuân nức tiếng chốn kinh kì thuở ấy mới là mẫu con gái hắn thích. Hắn sẽ dạy cho nàng đọc sách, viết chữ, rồi học thêm từ nàng âm luật. Tết đến xuân về, hai vợ chồng viết đôi câu đối, dựng cần nêu rồi ngồi bên đầu hè. Ông viết chữ, bà têm trầu, dựa vào nhau mà thưởng trăng chờ giao thừa. Trong nhà, đứa bé bụ bẫm say ngủ trên chõng. Ấy cũng là cái thú của đời người vậy.

Hồ Xạ nhìn qua Phạm Lục Bình, nay đang thư thả châm trà. Y vẫn chưa bỏ được cái thói nghiền nước chè. Xạ nghĩ một lúc, rồi im lặng đi. Chẳng biết từ khi nào nữa. Lạ thật. Đến bản thân hắn cũng chẳng nhận ra.

Không như Đỗ, Hồ Xạ thích đọc. Thi từ ca phú thì hắn kiếu, nhưng hịch với cáo thì hắn mê tít. Nhất là Hịch Tướng Sĩ. Hồ Xạ hầu như mỗi đêm đều ngâm đi ngâm lại đoạn " Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ hận chưa thể xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng. ". Hắn đọc mà thấy máu trong người chạy rần rần theo từng câu, tưởng như Quốc Công Tiết Chế - Hưng Đạo Đại Vương - đức thánh Trần đang ngồi ngay trước mặt hắn mà ngâm đọc. Giọng ông cứng như chuông đồng mà ấm tựa nắng mai. Tay ông nắm chuôi gươm mà chẳng quên cách cầm cây bút.

Hồ Xạ hâm mộ đức thánh Trần, hâm mộ Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng. Mỗi lần đọc đến cảnh ông bị bắt, khảng khái nói to vào mặt quân Mông Nguyên: " Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ chẳng thèm làm vương đất Bắc! " là hắn lại vỗ đùi đánh đét một cái, khen hay rồi ngồi tiếc ông, lắm khi nguyên ngày hôm ấy.

Từ thương tiếc, hâm mộ... hắn đâm yêu. Hắn yêu bóng lưng hào hùng sẵn sàng đội cả dân tộc nước non lên khỏi ngọn lửa hung tàn, khỏi hầm đen tai vạ của họ. Hắn bỏ mấy năm ròng đi tìm những Trưng nữ vương, những Triệu Thị Trinh của hắn nhưng chẳng có tăm hơi. Trời ơi! Lúc này hắn mới thấy thấm câu văn trong sử sách: " người Việt ta là dân tộc anh hùng ". Giống như Phù Đổng thiên vương say giấc khi quốc thái dân an, anh hùng dân Việt cũng khoác lên mình vỏ bọc chân chất nông dân khi thời thế thanh bình. Hắn tìm sao cho hết được đây?

Hồ Xạ từ ấy đâm ra lo lắng vẩn vơ. Hắn sợ quá. Hắn sợ mình thích người đàn ông khác thì phải làm gì bây giờ? Nỗi lo này Xạ chẳng dám nói với ai. Sao mà nói cho được? Người ta lại chẳng đuổi hắn như đuổi hủi ấy chứ?

Ấy thế mà chả biết vạ miệng ở đâu và bao giờ, mấy năm sau đấy, lúc hắn với Đỗ đã lên hàng tướng và Lục Bình thì từ quan về rồi... Hắn nhớ như in đêm hôm ấy có một tiểu binh đến nhà hắn biếu hũ rượu. Hai người từng đánh Chiêm một lần, thấy y cũng nhanh nhẹn hợp nhãn nên Hồ Xạ không đuổi đi ngay.

Chén tạc chén thù một hồi, y mới nói mình họ Hà, xin vào quân ngũ vì cả nhà bị cướp đường giết sạch. Y thì sức dài vai rộng, lại không thích xin đi ở đợ nên mới nhập ngũ, cũng coi như có cái ăn cái mặc. Hồ Xạ cũng an ủi qua loa mấy câu.

Lại thêm một hồi, thì hình như họ Hà bắt đầu say. Y gục xuống bàn và khóc. Hồ Xạ thấy vậy, lấy làm lạ mới dò hỏi. Họ Hà nói mình bất hiếu, mình có lỗi với liệt tổ liệt tông, rằng vì hắn mà có khi họ nhà hắn đến tuyệt tự. Hắn tự vả vào mặt mình đến bật cả máu mồm.

Gặng hỏi mãi, họ Hà mới trả lời đúng mấy chữ:

" Em thích một thằng đàn ông khác anh ạ. "

A! Có người hiểu hắn, Hồ Xạ hắn nay có người để dốc bầu tâm sự rồi. Cái chuyện thầm kín kia hắn đâu dám nói với Hồ Đỗ hay Lục Bình? Hắn sợ họ khinh hắn, ghê tởm xa lánh hắn.

Từ ấy, Xạ bắt đầu dạy võ cho tiểu binh họ Hà. Hai người thường kể nhau nghe về những bí mật không bao giờ dám nói cho ai khác. Tất nhiên, mười lần thì hết chín là họ Hà nghe còn Xạ thì kể. Mà ngay cả lúc kể lể, thì câu chuyện của họ Hà cũng chẳng có bao nhiêu sự thực.

Dần dà, hai bên thành bạn tri kỉ thâm giao lúc nào chẳng hay. Ít ra Hồ Xạ nghĩ vậy. Thường có những khi họ Hà ngủ lại nhà hắn mấy ngày liền không đi. Dẫu là vậy, nhưng hai bên vẫn chẳng hề có quan hệ gì quá đáng.

Ấy là do họ Hà còn xa lắm mới đạt tới hình mẫu lí tưởng trong lòng Hồ Xạ.

Được cái tay họ Hà này cũng biết việc, hiểu nhìn trước ngó sau nên chẳng mấy mà đã đủ công lao, được đề bạt lên thành bách hộ trưởng.

Hồ Xạ cũng bắt đầu nhận ra mình bị lợi dụng. Song hắn không vạch trần tấm màn giả dối ấy. Nếu như được sống đúng với bản thân, không cần lo lắng phải hứng chịu cái nhìn ghê tởm của kẻ đối diện thì hắn nguyện bị lừa. Bỏ gốc mà lấy ngọn, nhưng hắn vẫn thấy thoải mái hơn trước.

Thành ra, khi họ Hà chết đi, Hồ Xạ cảm thấy mất mát. Hắn mất đi người duy nhất hắn có thể chia sẻ...

Đến đây thì dòng tư duy của Hồ Xạ chợt ngừng lại. Đầu hắn trượt khỏi cổ, rơi xuống nền đất đầy bùn đỏ và dấu chân người. Cỏ chọc vào mắt hắn, nhưng hắn có còn cảm nhận được gì nữa đâu?

Trần Đĩnh đến nắm tóc, xách đầu Hồ Xạ ném cho Trương Phụ. Hắn thu kiếm vào bao, rồi quay ngoắt đi. Chỉ trong một khắc hắn bước tới gần Trương Phụ, mấy chục lưỡi thép nhọn đã thi nhau khoá lấy hắn.

" Mẹ nó! Để thằng tướng nẫng mất phần ngon nhất! "

" Đợi đã, Trương hầu chỉ nói chọc hắn một nhát, không yêu cầu còn sống hay đã chết! "

Tên lính cựu triều vừa dứt lời, bèn lấy ngay thương đâu thấu vào người Hồ Xạ.

Phập! Phập!

Tức thì, mấy chục bộ tốt của Mạc Thuý cũng vội vàng làm theo. Cái gì sai, nhiều người cùng làm sẽ bớt sai. Người khác làm được, thì mình tội gì mà lại không? Ấy là cách chúng bao biện cho hành vi cầm thú của mình.

Mạc Thuý cưỡi ngựa đi tới. Hắn trông thi thể mất đầu của Hồ Xạ, bèn cười khẩy rồi giục ngựa xéo lên mấy cái liền. Nguyễn Công Khôi thì lấy kiếm, chém luôn cánh tay của Hồ Xạ xuống. Y định dựa vào đó mà kiếm chác chút xương thiu còn thừa.

Binh lính tân triều trông thấy cảnh ấy, cảm thấy bất nhẫn lắm. Nhưng bọn họ cũng là hàng quân. Chửi lính cựu triều thì có khác nào đám nguỵ quân tử đây?

Trần Đĩnh dồn bước, cố gắng gạt hết âm thanh ra khỏi đôi tai. Y đến tựa lưng vào một thân cây, thở dốc. Nước mắt khinh bỉ tràn ra khỏi đôi mắt.

Trận chiến trên gò vô danh nơi cửa Hàm Tử đã kết thúc.

Trương Phụ đổi một con ngựa khoẻ, đi tới trước ba quân. Cả quân phương bắc, lẫn hàng quân người Nam tính tổng lại cũng hai vạn mấy (*). Chết nhiều, bị thương đến tàn phế còn nhiều hơn.

" Như đã hứa, Trương Phụ ta đại diện cho thiên triều tha mạng cho các ngươi. Sau này phải hết lòng phụng sự triều Trần, nhớ lấy ân sâu của thiên triều và Minh thành tổ. Đừng có đi theo đảng ác nữa có biết chưa? "

" Tạ ơn Trương hầu. "

Mạc Thuý dẫn đầu hét lên.

" TẠ ƠN TRƯƠNG HẦU! "

Tiếng người vang dội khắp cả một vạt rừng. Gió khẽ thổi qua kẽ đá, nghe như tiếng các oan hồn khóc than.

Nửa canh giờ sau...

Hàng binh được phân làm mấy lộ, bảy phần về dưới trướng bọn Mạc Thuý - Nguyễn Huân, còn lại cho Công Khôi cai quản. Mà họ Mạc cũng khôn lắm. Hắn nhắm toàn những binh sĩ triều cũ quy hàng sớm nhất, những kẻ chủ động đâm giáo vào thi thể của Hồ Xạ để lĩnh thưởng. Hắn đã tia được họ từ trước, nay chỉ việc nhận về dưới trướng mình. Số còn lại thì đẩy hết qua bên của Nguyễn Công Khôi.

Cảm nhận được ánh nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống của binh sĩ, Nguyễn Công Khôi như muốn tan gan vỡ mật. Song, hắn cũng cố mà giữ bình tĩnh, nói to:

" Chúng mày chả khác gì tao đâu, đều là hàng binh ráo. Giờ có muốn quay đầu đã chẳng còn kịp nữa. Thế nên tốt nhất là biết điều mà phục vụ chủ mới, may ra còn được cho tiền của thóc gạo. "

Sĩ tốt cắn răng, nghiến lợi, nhưng cũng đành phải nghỉ ngơi theo sự sắp xếp của Công Khôi.

Lửa cháy tí tách...

Hàng quân dưới trướng Nguyễn Công Khôi ngồi bệt xuống giữa một vùng lòng chảo hoang phế. Thây người được kéo ra, chất thành đống. Trăng mờ hạ xuống quả đồi con mới mọc lên một tiếng thở dài.

Gỗ được xếp đống quanh chồng xác, từng bó từng bó đuốc được tung về phía những thi thể không trọn vẹn.

" Đáng kiếp tên Hồ Xạ. "

" Đúng thế! Thế mà hồi trước hắn tốt với mình, mình còn cảm động ghê lắm. Thì ra là đóng kịch ráo... "

" Chiêu trò mua bán nhân tâm cả. Tôi nói với các chú, ngày xưa lúc nhà Trần còn ấy, tên này chỉ đi làm thằng lính quèn như mình. Cái ngữ ấy thì ở đấy mà làm tướng. "

" Nghe anh nói là biết, tên này chỉ muốn giữ chức cao quyền trọng tên Giản Định ném cho, thế nên mới hô hào định lừa chúng ta liều sống liều chết cho hắn đội vững cái mũ quan đấy. Gớm, làm như bọn này ngu hết. "

Thi thoảng, mấy lời chửi rủa thoá mạ của đám hàng binh lại vang lên. Nói ra những lời này đa số là thanh niên còn trẻ, nhỏ thì mười lăm, lớn lắm cũng mới hai mươi thôi.

Những người lớn tuổi hơn nghe, có kẻ hả hê, có dửng dưng. Chỉ số ít thì ngứa mắt, nạt:

" Im mồm, mấy thằng hèn... "

" Này nhá, ông cụ không phải cậy già lên mặt với thằng này. Đều quỳ gối cúi đầu như nhau, cũng đều chả dám về nhìn mặt làng xóm láng giềng thì hơn được mẹ gì ai mà sủa ghê thế? "

Người lính lớn tuổi nhất - một trung niên với vết thẹo ngang sống mũi - lên tiếng:

" Chúng tao đầu hàng giữ mạng, là hèn. Nhưng vẫn còn hơn chán lũ chó đớp cứt người ta mà vẫn không biết, nói nghe còn tự hào lắm.

Cũng như chúng mày, bọn tao không làm được như Hồ Xạ tướng quân. Thế nhưng bọn tao kính trọng ông ta, chứ không hèn hạ đến mức đi bêu xấu đấng anh hùng để trông bản thân đỡ bẩn thỉu như ai kia.

Chúng tao nhận chúng tao đầu hàng vì muốn sống, chứ chả bô bô lôi đạo to lí lớn ra mà nguỵ biện hòng loè đám dân đen ít học như mấy thằng chúng mày. Mẹ, lũ nguỵ quân tử. "

" Thằng già này chán sống rồi chăng? "

Đám choai choai bị nói trúng chỗ nhột, nóng mặt lên. Cả đoàn quân lăn xả vào nhau, dùng nắm đấm và đôi chân mà trút hết áp lực, căm phẫn trong lòng ra.

Quay lại chuyện của đám Tạng Cẩu...

Khiếu Hoá Tăng lấy cà sa lót chỗ cho Liễu Thăng, rồi lui cui kê gian bàn thờ với đống bàn ghế gãy đổ phủ đầy bụi ra phía sau, dọn ra một chỗ kha khá rộng. Lão leo tót lên ngồi chỗ tượng Phật, đoạn nói vọng xuống:

" Rồi, hai đứa chúng mày đấu gì thì đấu đi, lão ăn mày không liên can. "

Khiếu Hoá Tăng há miệng ngáp một cái, nói đoạn nằm nghiêng ra, một tay chống má mà ngủ. Còn hai đứa đánh ra sao, thắng hay thua, đối với lão đã không còn quá quan trọng. Nói gì thì nói, mục đích của lão sư ăn xin ấy cũng đã đạt được rồi. Dọn chỗ cho chúng đánh, chẳng qua là phối hợp với Hương, tránh để Tạng Cẩu nghi ngờ mà thôi.

Phiêu Hương chớp khẽ hai hàng mi, reo:

" Nào, Tạng Cẩu, đánh với tớ đi. Chơi bời gì để sau. Chớ có nhìn lão Khiếu Hoá Tăng bình chân như vại, thực ra gấp lắm rồi đấy. Cùng lắm tớ chấp, Cẩu chống được năm mươi chiêu là coi như thắng. "

Tạng Cẩu gật đầu, đáp:

" Ông mới dạy Cẩu vài chiêu vào đêm qua... Tuy chưa luyện ra cái thần vận ông nói, nhưng đối phó năm chục chiêu của Hương có lẽ cũng đủ dùng. "

Hai đứa bắt đầu thủ thế.

Phiêu Hương nâng cánh tay, năm ngón lá liễu chụm lại. Có vẻ cô bé muốn dùng một pho chưởng pháp để đấu với Tạng Cẩu. Biết chiêu thức của Hương dù là đao pháp hay thân pháp đều cực kì tinh diệu, huyễn ảo mà chẳng mất đi sắc bén, mĩ lệ mà vẫn hiệu quả nên Cẩu không dám coi nhẹ lộ chưởng pháp cô sắp dùng tí nào. Nó hít sâu một hơi, nghiêng người xéo qua. Đôi chân nó trùng xuống trung bình tấn, còn hai tay thì thu thành quyền.

Thức thủ thế của võ chó lấy từ câu tục ngữ " chó khôn tứ túc huyền đề, tai thì hơi cúp, đuôi thì cong cong ". Chân vững, tai linh động cảnh giác nhiều phía, " đuôi cong " ám chỉ người luyện phải sẵn sàng phản kích.

" Chú ý mà đỡ này Tạng Cẩu! "

Phiêu Hương kêu lên, sau đó vọt tới chỗ nó. Hương thơm theo phát chưởng phả vào mặt Tạng Cẩu. Đến kình phong cũng chỉ nhẹ như gió thoảng mà thôi. Song, Cẩu ngờ ngợ cảm nhận được điều gì đấy không đúng từ đôi búp sen. Nó bèn bước tới một bước, tay trái hoành cao, năm ngón cong lại toan chộp lấy cổ tay Phiêu Hương. Còn chân trái nó thì co lên, rồi giộng mạnh xuống muốn dẫm vào bàn chân cô bé.

Đây là chiêu " Chó Treo, Mèo Đậy ". Có thể nói là công thủ kiêm tề, song bắt buộc người luyện phải biết phép nhất tâm nhị dụng.

Cổ tay Phiêu Hương quả nhiên bị trảo của Tạng Cẩu chộp trúng. Lúc này thì cánh tay của Cẩu chẳng khác nào một cái cùm giữ chặt nửa thân trên của cô bé cả. Sự vận động bị hạn chế nhiều đến thế, như vậy sẽ khó lòng tránh cú đạp tiếp liền sau.

Nếu như đủ sự bình tĩnh, thì với chiêu số ảo diệu của mình chắc chắn cô bé sẽ hoá giải được chiêu Chó Treo Mèo Đậy này. Nhưng cuối cùng Hương cũng chỉ là cô bé con mới tám chín tuổi đầu thôi.

Tạng Cẩu khịt mũi, khẽ thu lại nửa cước. Thành ra thay vì dẫm thẳng một cú vào bàn chân Phiêu Hương thì cạnh bàn chân của nó chỉ chạm nhẹ vào mấy đầu ngón chân của cô bé thôi.

" Chiêu thứ hai! "

Cô bé biết mình đã thua, nhưng càng nghĩ Tạng Cẩu thắng được một ván thì lại càng thấy tức vô cớ. Thế là, cô bé chợt nghiêng thẳng người ra trước, tiến sát lại chỗ thằng nhóc. Bàn tay còn lại khẽ lật nghiêng, đoạn chém một phát nhanh như chảo chớp nhắm vào eo Tạng Cẩu.

Lần này đến lượt Tạng Cẩu phải giật mình, theo phản xạ tự nhiên buông cánh tay đang bị chế trụ của Hương ra. Làm rồi mới nhận ra là hỏng bét, thằng bé chỉ còn cách dựng thẳng tay phải lên đỡ.

Nào biết ấy chỉ là hư chiêu. Phiêu Hương nhắm chuẩn lúc nó lúng túng nhất, bèn sử dụng lộ thân pháp quái dị độc môn. Tạng Cẩu thấy cô bé vốn nghiêng ra trước mà đột nhiên lại đứng thẳng dậy ngay được, thì biết mình trúng kế rồi. Phiêu Hương cong ngón tay lại, búng một cái vào trán nó.

" Chơi xấu! "

Tạng Cẩu ngã oạch ra, ôm trán nhăn nhó.

Bỗng, tiếng nói lười biếng của Khiếu Hoá Tăng vang lên:

" Giang hồ là nơi hiểm ác, chứ không phải trận tỉ võ của đám trẻ con. Ra đời đánh nhau với người ta, quên luôn hai chữ công bình công chính đi. "

Phiêu Hương hấp háy:

" Thấy chưa? Lần này tớ phá lệ cho coi như không tính! Đánh lại! Bao giờ Cẩu chịu phục mới thôi! "

" Làm như tớ sợ ấy... "

Tạng Cẩu càu nhàu đứng lên. Hai đứa lại thủ thế như trước, chuẩn bị bắt đầu đánh lại trận vừa rồi.

Lần này Cẩu chủ động tấn công trước, không để Phiêu Hương chiếm tiên cơ nữa. Nó lao nhanh qua, nắm tay nhỏ mà cứng rắn nâng lên rồi tung ra. Đúng là chiêu " mồm chó, vó ngựa " rồi. Đây vốn là tục ngữ chỉ kẻ hay nói quàng xiên, ăn nói bừa bãi như mồm chó cắn bậy, vó ngựa đá quàng chẳng chừa một ai. Sau khi được các cụ chuyển thành chiêu số thì cái hồn của câu nói ấy vẫn chẳng hề mất đi. Đừng nhìn đòn này tưởng như chỉ là một cú đấm thẳng đơn giản mà nhầm, thực chất đằng sau ẩn chứa vô số biến hoá, có thể công kích tất thảy bộ vị trên cơ thể đối thủ.

Phiêu Hương hít thật sâu một hơi, đoạn vận khí nâng tay, phóng chưởng đánh thẳng vào huyệt Cưu Vĩ của Tạng Cẩu. Cô bé nhác thấy khó lòng khoá hết thế công của Cẩu, bèn dùng ngay cách vây Nguỵ cứu Triệu này. Nếu là đấu sinh tử, thì khó mà nói liệu Tạng Cẩu có nổi máu chó lên liều mạng không. Nhưng đây lại chỉ là một cuộc tỉ thí xem ai hơn, ai kém nên cô bé tin Cẩu sẽ không có lí do gì để liều mạng cả.

Quả vậy, Tạng Cẩu thấy huyệt đạo yếu hại của mình bị tấn công, bèn sử dụng một trong những thế biến chiêu của " mồm chó vó ngựa ". Đầu quyền rắn rỏi của thằng bé nện vào lòng bàn tay của Phiêu Hương. Từ chưởng tâm của cô, một đạo ám kình phát ra, chọc thủng kình lực của Tạng Cẩu mà len lỏi vào tận xương cánh tay. Bắp, gân ở tay thằng bé thoáng tê bại đi.

Phiêu Hương chớp ngay cơ hội, tung một cú đá cao. Mũi chân cô bé lướt qua chóp mũi của Cẩu khi thằng bé ngã người ra sau để tránh. Nói đoạn, nó sử ngay chiêu " chó cùng cắn càn " để phản kích.

Nháy mắt thôi, mà vai, khuỷu, gối, cạnh bàn tay...v.v... của Tạng Cẩu đều đã trở thành vũ khí công kích. Chiêu " chó cùng cắn càn " này là ngón đánh giáp chiến cận thân, lúc dùng bắt buộc phải áp sát đối thủ. Khoảng cách giữa hai bên không quá nửa sải tay, khiến đối thủ mất hết không gian đi quyền triển cước, làm gì cũng vướng víu.

Phiêu Hương cúi xuống quét ngang chân một cái, muốn gạt ngã Tạng Cẩu. Đôi tay thì đổi sang dùng chỉ pháp. Hai ngón thanh mảnh vươn ra, điểm liên tiếp vào các huyệt đạo ở tay, ở chân Cẩu.

Trao đổi mấy hồi, hai đứa đều đã trúng đòn kha khá, bèn tách nhau ra. Tạng Cẩu thì thấy tay chân mình tê rần rần như thể mới ngồi lâu một chỗ. Ấy là hậu quả của việc bị điểm huyệt đạo, khiến khí huyết lưu thông bất thường. Phiêu Hương cũng chẳng khá hơn. Chỉ trong một thoáng ấy mà cô bé đã bị giã cho mấy cú đau điếng.

Khiếu Hoá Tăng thì nằm ườn ra như con sâu lười, ngáp ngắn một cái trước khi hai đứa nhóc lao vào nhau một lần nữa. Chớ nhìn lão ăn xin này tỏ vẻ lười biếng chẩy thây chẳng thèm quan tâm, thực chất lão vẫn âm thầm quan sát từng chiêu từng thức của hai đứa. Đặc biệt là Tạng Cẩu với ngón võ chó mới học.

[ Thú vị, thú vị. Một trong các bộ pháp phối hợp với võ chó xuất phát từ câu " Chó ba năm mới nằm, gà ba lần vỗ cánh mới bay ". Chậm rãi, xoay vòng, ổn trọng là yếu chỉ của nó, như loài chó đi đi lại lại mấy lần quanh ổ ngủ mới đặt lưng. Trong khi Lăng Không Đạp Vân của tay đại bợm thì nhấn vào cái sự phóng khoáng trong mỗi cú nhảy, tung hoành trong từng bước chạy... Hai loại thân pháp với ý cảnh, đặc tính trái ngược nhau hoàn toàn, để xem thằng nhóc này xử lí ra sao. ]

Tạng Cẩu bắt đầu dạo vòng quanh Hương mà công kích, đúng như bộ pháp thủ thế của võ chó. Thay vì những đòn đánh trực diện như trước, nay chiêu thức của Tạng Cẩu nhờ bộ pháp mà cứ dồn dập vồ đến từ hai cánh. Nhìn qua, thì giống hệt cách mà loài chó săn đuổi theo, chồm lên người con hươu con nai mà cấu xé.

Phiêu Hương bắt đầu cuống tay cuống chân. Chiêu thức của Tạng Cẩu đã kì lạ hiếm thấy, lại cứ nối nhau liên tiếp khác nào sóng trên sông? Uổng cho cô bé biết rất nhiều chiêu số tinh diệu, nhưng lúc này lại chẳng kịp nghĩ nên dùng chiêu nào làm đối pháp chống lại võ chó của Tạng Cẩu.

Khiếu Hoá Tăng bất ngờ lên tiếng:

" Ngu! Đao pháp là cứ phải dùng đao mà chém à? "

Lời ông nói chẳng khác nào tiếng chuông, đánh thức người u mê trong cuộc. Phiêu Hương giật mình, lập tức hai chưởng chụm lại thành đao, bắt đầu dùng đao chiêu phản kích.

Đao của Hương dùng biến hoá để áp chế tinh diệu, dụng động mà phá giải tĩnh, lấy ác liệt chống sự ổn trọng, đem thế vòng mà khắc cái thẳng. Phen này quái chiêu chống kì thức, võ hiếm gặp phải đao lạ. Đúng là kì phùng địch thủ.

[ Đao pháp của con bé này ẩn chứa toàn là nghịch lí, đi ngược hẳn với thường thức võ lâm. Thế mà chiêu nào chiêu nấy đều lợi hại vô cùng, lại ẩn chứa triết lí võ đạo sâu không lường nổi. Kẻ sáng tạo ra đao pháp này vị tất đã yếu hơn ông sư cọ hành khất này. Quái... đất Đại Việt có cao thủ dùng đao từ bao giờ? ]

Tạng Cẩu liên tiếp né hai đòn chém, mồ hôi bắt đầu ứa ra. Sau khi Hương đổi sang đao pháp, áp lực nó phải gánh tăng lên chóng cả mặt. Giờ nó mới hiểu ngày trước, lúc đánh trận Muộn Hải Liễu Thăng đã phải khó khăn đến mức nào mới ép lui được cô bé đối diện nó.

[ Anh Thăng dùng thương pháp, lợi thế về tầm vung. Mình thì tay không tấc sắt, muốn lọt qua được hai bàn tay của Hương thật là quá khó. ]

Tạng Cẩu mới nghĩ có thế thôi mà ở đối diện, Phiêu Hương đã chém liên tiếp ba nhát. Chiêu thức hiểm ác ập đến như là thác nước xối xuống, nó đón đỡ mà rát cả mặt. Đúng lúc này, Phiêu Hương đột nhiên dựng thẳng mũi chân, quét ngang một cái.

" Hay! "

Khiếu Hoá Tăng vỗ đùi đánh đét một cái, khen. Thực ra chiêu số cũng chẳng có gì, lão khen là khen ngộ tính của cô bé. Chỉ một lời lão nhắc, mà Phiêu Hương ngộ ra luôn cách dùng chân để phát đao chiêu. Đối với người học võ, chiêu thức chung quy chỉ là vật chết. Muốn thành cao thủ, trước phải học được cái gọi là tuỳ tâm tuỳ sự mà sử dụng. Chứ cứ quy quy củ củ, cứng như khúc gỗ thì chỉ đi làm mộc nhân cho người ta luyện chiêu.

Ai nói chân không phát được đao chiêu? Chém, chẳng phải là quét đấy ư?

Tạng Cẩu bị gạt trúng chân trụ, không giữ được thăng bằng nữa, ngã ngửa ra sau. Phiêu Hương đắc thắng hô:

" Thua rồi nhé! "

Nào ngờ, hai chân Tạng Cẩu đột nhiên xoay chuyển, ngọn cước quét mạnh vào Phiêu Hương. Bịch! Bịch! Cô bé giơ vội tay lên đỡ hai cú đá, loạng choạng mấy bước liền. Còn Tạng Cẩu thì thuận thế bật thẳng người dậy.

" Môn này quái lạ thật, tên gì thế? "

Đôi mắt Phiêu Hương sáng lên lấp lánh, vui vẻ hỏi ngay.

" Chó chui gầm chạn... thực ra, hôm qua ông Khiếu Hoá Tăng dạy tớ môn võ chó. " - Tạng Cẩu thu tay, gãi gãi đầu. Hai đứa đã biết tài nhau, lại đều thấm mệt rồi, nó cũng không muốn đánh tiếp nữa.

" Tạng Cẩu đánh võ chó, đúng là người sao võ nấy rồi. Ủa, mới học một hôm mà đã thạo thế rồi hả? Cứ đà này chỉ mấy tháng chắc tớ đánh không lại Cẩu. Nè, có bí quyết gì không? " - Phiêu Hương nhảy chân sáo tới, vỗ vai Tạng Cẩu. Cái cách cô bé vờn quanh Cẩu trông chẳng khác nào con ong vàng cuốn lấy bông hoa.

" Tớ học trong mơ đấy, tin không? "

" Xí! Còn lâu mới tin. Chờ đã, vừa rồi Cẩu đánh chiêu này còn sơ hở này. "

Trong khi hai đứa bé trò chuyện ngược xuôi về cuộc tỉ võ đã qua thì Khiếu Hoá Tăng xoa xoa cái đầu trọc, hết ngáp ngắn lại ngáp dài.

Bên ngoài miếu...

Một trung niên đang đứng tựa vào tường, sắc mặt trắng nhợt. Nơi khoé miệng, máu len lỏi qua bộ râu rậm rạp chảy xuống đến cằm. Y có vẻ bị thương nặng lắm.

Đôi vai y bị hai thanh ám khí đâm thủng. Phần lộ ra ngoài không khí có màu đỏ như son, dài cỡ ngón tay trỏ, mỏng dẹp như một phiến lá tre. Nó không thẳng mà uốn lượn đều đặn mấy lần liền.

" Khốn nạn... "

Quái khách gằn lên, tung mình nhảy vào trong miếu tạm lánh. Y bị người ta truy sát đã nửa ngày nay rồi. Chẳng những mệt mỏi, hầu khô họng cháy mà cơ thịt ở vai y còn đang nóng rừng rực như bị dội dầu sôi. Hiển nhiên là ám khí có bôi độc rồi.

Quái khách đi được mấy bước thì loạng choạng, thổ cả một búng máu to. Y phát hiện càng vận công thì chất độc quái ác phát tác càng nhanh, không cách nào bức nó ra ngoài được.

Tiếng huýt sáo bay bổng gọi nhau lại truyền đến. Lần này còn gần hơn trước. Quái khách chỉ nghe là biết truy binh đã ở ngay ngoài miếu. Y còn lạ gì tiếng huýt sáo ám hiệu của phái Long Đỗ nữa chứ?

" Chẳng lẽ Khỉ Lông Xanh Huỳnh Bách Việt ta cứ thế mà chết ở đây? "

Trung niên thầm nghĩ, miệng đắng chát lại. Hắn tự trách mình lớn đầu rồi còn để hỏng việc, khiến việc lớn xôi hỏng bỏng không.

Huỳnh Bách Việt lê thân xác mỏi mệt đến tựa lưng vào cánh cửa chính điện. Hắn thở hào hển, từng cơn từng cơn ngắt quãng dần.

" Ai mà ngờ, phái Long Đỗ lại cấu kết với sơn trang Bách Điểu bán nước cơ chứ. Ai... võ lâm Kinh Bắc, Thiên Cơ Lão Đạo đều bị mấy con chó qua mặt! Tệ! Tệ hại thật. "

Bách Việt nói lớn lên, chỉ để trút sự bi phẫn trong lòng ra. Hắn nghĩ ngôi miếu hoang phế thế này, ngoài hắn ra còn có ai được kia chứ? Hắn phải nói, nói cho cái lũ đang kéo bè kéo lũ ngoài kia biết, rằng hắn chết nhưng bí mật của chúng hắn không ôm theo cùng. Trời đấy. Đất này. Thần hoàng thổ công chứng cho hắn. Núi sông này sẽ nhìn rõ bộ mặt đểu cáng của bè lũ tiểu nhân. Hắn chết không hề vô nghĩa.

Bỗng nhiên, kẹt một tiếng...

Cánh cửa sau lưng hắn mở toang ra. Hai đứa bé độ tám chín tuổi, một nam một nữ hò nhau xốc nách hắn đưa vào trong chính điện.

Huỳnh Bách Việt thấy vậy, vỗ trán kêu:

" Thôi rồi! Chết rồi! "

Hắn nghĩ mình chết thì cũng đành. Nhưng chỉ vì một khắc bốc đồng, buột mồm nói toạc móng heo cho sướng cái miệng hắn mà làm luỵ đến hai đứa bé con chưa nứt mắt. Thế thì tội hắn phải lớn lắm.

" Hai đứa mau nhân lúc còn chưa quá muộn, theo cửa sau chạy mau! Một lát nữa kẻ xấu vào đây thì e là không kịp... "

" Kẻ xấu nào vào thì không kịp? Ông cứ an tâm nằm nghỉ, để con rút ám khí ra rồi cầm máu lại. "

Phiêu Hương ỷ có Khiếu Hoá Tăng đang ở trong điện, nên dĩ nhiên chẳng sợ truy binh Huỳnh Bách Việt nhắc tới. Huống hồ chúng nó còn là đệ tử của Quận Gió.

Cô bé toan thò tay rút phắt hai thanh ám khỉ đỏ son ra đặng rịt thuốc vào vết thương thì ông sư già đã vội lên tiếng can:

" Chớ có tuỳ tiện đụng vào, chết như chơi đấy! "

" Đại sư cũng là người trong chốn võ lâm? Vừa rồi gấp gáp, quên lễ phép chào hỏi của bậc con cháu, xin đại sư bỏ quá cho. "

Huỳnh Bách Việt gượng đau, chắp tay thi lễ. Không phải y không nghĩ qua là mình có may mắn diện kiến Khiếu Hoá Tăng, mà y không cách nào liên hệ một tông sư tiếng tăm như sấm dậy khắp cõi trời nam với một sư cụ trông bê tha nhếch nhác thế này được.

Khiếu Hoá Tăng không đáp, mà chỉ vào hai thanh ám khí, nói:

" Uốn lượn như rồng, thân đỏ tựa son. Chúng hẳn là Long Đỗ truỷ khét tiếng của phái Long Đỗ rồi. Cũng may đây không phải loại tinh chế của giáo chủ phái này, không thì mạng chú mất từ lâu rồi. "

Huỳnh Bách Việt nói:

" Tôi cũng biết Long Đỗ truỷ khét tiếng trên giang hồ, thứ kịch độc bào chế từ lá ngón và nọc ong chỉ cần ba khắc là lấy mạng người. Nhưng việc nghĩa không thể không làm, chỉ đành lấy thân này hiến cho Đại Việt... Đại sư, ông cũng biết mạng ta khó cứu, nhân lúc này mang hai đứa nhóc này đi mau. "

Rồi y lấy trong áo ra một ống tre dài độ hai gang, một đầu nhét cái nút gỗ. Bách Việt mở nút, lấy từ bên trong ra một tờ giấy, cẩn thận trao cho Khiếu Hoá.

" Đây là thư Trương Phụ gửi cho trang chủ sơn trang Bách Điểu, ghi lại âm mưu bán nước đổi vinh hoa của chúng. Tôi vốn là môn khách của y. Trong lúc đi đại nghe lén được, tiếc là chỉ mới một nửa. Chừng mươi ngày trước Đại Bàng tinh bắt đầu gặp riêng lần lượt từng môn khách một. Tôi cũng được hắn gặp riêng. Té ra muốn dụ dỗ Huỳnh Bách Việt này đi làm Việt gian bán nước. Lúc ấy tôi giận lắm, nhưng sợ lộ việc nên giấu kín, chỉ nói xin thư cho một hôm suy xét. Rồi đánh liều trộm bức mật thư này về chứ không giải mã nổi.

Chuyện tôi đã kể ra tỏ tường, chết cũng đành vậy. Nhưng bức mật thư xin giao lại cho đại sư bảo quản, nhờ ông chuyển đến tận tay Thiên Đạo Kiếm - Thiên Cơ Lão Đạo giúp cho. "

Khiếu Hoá Tăng thấy giọng y khẩn khoản, vai lại trúng Long Đỗ truỷ có độc lá ngón, e rằng chẳng còn sống được bao lâu. Ông bèn gật đầu:

" Thằng Cẩu ra giếng xách một thùng nước về đây. Chú Việt sống được đến bây giờ, ắt nội lực cũng khá, có thể tự ép độc ra được không? "

" Đám giặc đuổi sát nút, thực tình không có thời gian mà thở. Đại sư đừng phí tâm tư vào ta. Chỉ cần mật thư lọt được vào tay Thiên Cơ Lão Đạo là được rồi. Mau!! "

Huỳnh Bách Việt lắc đầu, lại ra hiệu cho ba người chạy mau đi. Y đã nói muốn rã cả họng mà lão sư ăn mày kia vẫn bình chân như vại, thế có tức y không cơ chứ.

Bốn người còn đang mâu thuẫn chuyện đi hay ở thì đã có mấy bóng người đạp tường nhảy vào sân miếu. Gã đi đầu quát to:

" Huỳnh Bách Việt, tên bán nước nhà ngươi chạy đâu cho thoát? "

Khiếu Hoá Tăng mới cười, hỏi vọng từ trong chính điện ra;

" Ơ hay, anh nói tôi là phường ác ôn theo giặc, tôi lại chửi anh là bè lũ Việt gian. Vậy ai mới thực sự là lũ giặc bán nước? Chi bằng người ngoài miếu vào trong này đối chất, ba mặt một lời chẳng hay hơn ư? "

Phiêu Hương chui ra sau tượng phật mà nấp, che miệng cười. Huỳnh Bách Việt ban đầu thì hơi khó hiểu, nhưng nghĩ một chút cũng nhận ra:

[ Võ công ông sư này không biết cao hay thấp, nhưng rất có kinh nghiệm đi lại trên giang hồ.

Ngoài sân trống trải, đối phương người đông thế mạnh lại giỏi dùng ám khí, sư ông đương nhiên không bị dở người mà khi không lại thò đầu ra. Ở trong chính điện một là có thể đề phòng đối thủ dùng kế điệu hổ li sơn, hai là nhiều chướng ngại chỗ nấp. Người dùng ám khí trong thiên hạ, kị nhất đúng là kiểu chiến địa này. ]

Gã cầm đầu bang chúng phái Long Đỗ tự nhiên cũng hiểu điều này. Hắn bèn vận công quát:

" Người ngay có trời chứng đất giám, việc gì phải giải thích với các người? Họ Huỳnh, tao đếm đến mười, nếu mày không ra đây đừng trách tao đốt cái miếu nát này! "

Khiếu Hoá Tăng nhún vai. Tất nhiên đối phương sẽ phản ứng như thế rồi. Lão không thấy lạ lắm.

" Đại sư, trăm sự... "

Huỳnh Bách Việt nghiến răng, vùng dậy đặng xông ra ngoài sống mái. Nào ngờ vai y đã bị một bàn tay của Khiếu Hoá Tăng đặt lên từ bao giờ. Ông sư già khẽ vận lực nhấn một cái, tức thì Hoàng Bách Việt như bị đà tảng đè lên. Cũng may nội lực y không kém, vận công một hồi thì chỉ thấy khó chịu với tức ngực mà thôi,

Y còn chưa hết cảm thán nội lực Khiếu Hoá Tăng thâm hậu thì lão đã vận thêm hai thành công lực xuống bán tay. Tức thì Khỉ Lông Xanh hết đường cục cựa, chẳng khác nào bị Bụt đè cứng.

Khiếu Hoá Tăng nói:

" Đốt miếu? Ui trời ơi đất hỡi... lẽ nào các người muốn giết người diệt khẩu ư? Thế thì có khác gì cách làm của phường ác ôn? "

" Ha ha! Lão này lớn đầu còn dại. Đốt miếu xong, chúng mày chết không đối chứng, bọn tao nói sao mà chẳng được? "

Đám đệ tử phái Long Đỗ thi nhau cười vang. Mấy đứa nội công thâm hậu còn vận công lên để trong miếu nghe rõ. Vài đứa khác thì làm bộ đấm cây, dậm đất hòng che giấu tiếng chân của đồng bọn đang vòng ra sân sau chính điện, đặng đánh tập hậu mấy người Khiếu Hoá Tăng.

Tiếc thay lão sư ăn mày chẳng phải cao thủ bình thường, mà là một trong bảy người võ công cao bậc nhất nước Nam. Khiếu Hoá một mặt vận công ép Huỳnh Bách Việt, nhưng vẫn để ý mọi động tĩnh bên ngoài. Thấy ngoài hiên có tiếng chân người khinh công rất nhẹ, ông nhếch mép cười nhắc Hương:

" Cô bé, nhóc ra sau vườn với nhóc Chó đi. Một mình nó đi ta không yên tâm. "

Phiêu Hương nhảy xuống khỏi bàn thờ, kế chạy vội ra vườn sau. Nay trong chính điện chỉ còn hai người Huỳnh Bách Việt với Khiếu Hoá Tăng. Ông sư già rút tay về, trán lấm tấm mồ hôi.

" Ép được nọc ong ra rồi, còn độc lá ngón thì giã rau muống lấy nước cốt uống vào sẽ giải được. "

Khiếu Hoá Tăng vươn vai đứng dậy, bẻ bẻ mấy ngón tay nghe răng rắc trong khi ngáp một tiếng dài lượt thượt.

" Rồi... ra kia chơi một tí nào. "

Tạng Cẩu múc đẫy một thùng nước, đang lom khom bưng trở vào chính điện. Trông cái dáng nó cong lưng, uốn gối mím môi đến là tội. Âu cũng bởi cái gàu lấy nước giếng đã cũ nên bị sử một miếng bên thành, thành ra nó phải loay hoay nãy giờ mới được đầy thùng.

" Ớ, còn đứa trẻ con ở đây. "

" Chuyện lớn quan trọng, trẻ con người già gì cũng kệ! "

Tạng Cẩu nghe thấy trên đầu nó vọng xuống tiếng người nói, kèm theo ngay sau là một đòn ưng trảo vạch thẳng xuống đỉnh đầu. Đối thủ cố tình nhắm vào tử huyệt bách hội, cốt để nó chết bất đắc kì tử. Trên đầu tường, hai tên đồng bọn hắn ngồi thò chân xuống đong đưa, khoái trá xem nó bị nạn. Tên bên phải thì béo và lùn, da màu bánh mật. Còn tên ngồi mé tả lại cao lêu nghêu và gầy nhom. Nước da hắn lại có màu trắng ởn như là cả năm giời không ra ngoài nắng vậy, bủng beo và bệnh hoạn. Hai tên ngồi cạnh nhau, trông chẳng khác nào trên bờ tường bỗng có thêm một con sâu bướm mập mạp và con bọ que.

Gã nhảy xuống đánh thì có vóc người trung bình, tầm thước. Hắn có vẻ thạo môn ưng trảo công, chỉ cảm nhận kình phong ác liệt cũng đủ khiến tóc sau ót Cẩu dựng đứng hết lên. Nó vội vàng thả gàu nước ra, lăn một vòng dưới đất tránh đi đòn hiểm.

Kẻ ra tay đánh lén ngạc nhiên kinh hô, nhưng lời còn chưa dứt thì bàn chân của Cẩu đà quét thẳng vào má trái của y. Chát! Chiêu " chó chui gầm trạn " để lại một dấu bàn chân đỏ chót trên mặt tên đệ tử phái Long Đỗ. Tên kia đưa tay rờ má mình, thấy đã nóng rực lên vì giận và nhục rồi, thế là hắn gầm lên:

" Thằng chó con, tao phải giết mày!! "

[ Ế? Hắn biết tên mình? Nhưng mình có nhận ra hắn là ai đâu? ]

Cẩu nghĩ thầm, nhưng tốc độ phát chiêu của đôi tay thì chẳng dám chậm lại tí nào. Chưởng pháp của đối thủ cũng không phải quá cao thâm, nhưng thắng ở nội kình hàm hậu. Trong khi chiêu thức của Tạng Cẩu thì quỷ quái thật đấy, song nội công thằng bé hẵng còn non nớt. Hai đối thủ ở hai thái cực trái ngược nhau, tạm thời cuộc đấu lâm vào trạng thái bình thủ bất phân thắng bại.

Tạng Cẩu lợi dụng thân pháp " chó ba năm mới nằm ", liên tiếp né tránh công kích dồn dập của đối thủ. Mỗi cú đấm, phát chưởng xẹt qua mặt là kình phong lại quét nó rát bỏng cả hai má. Tạng Cẩu biết về nội lực mình thiệt hơn, nên không dám chính diện đỡ đòn hay đọ chiêu so chưởng. Nó phải liên tục né mũi nhọn, nên bỏ lỡ cơ man không biết bao nhiêu là sơ hở của đối thủ.

Tất nhiên, phàm là kẻ thiện chiêu thức yếu nội công thì càng đánh lâu càng thiệt thòi. Tạng Cẩu thấy đã đánh năm mươi chiêu mà chưa làm gì được đối thủ, mình thì đã thấm mệt nên lo lắm. Nó biết mình phải tốc chiến tốc thắng mau, không thì nguy cho nó.

Thế là nó lập tức đổi qua dùng chiêu " chó cắn áo rách ". Đối phương cứ xuất chiêu nào, là nó nhè ngay điểm yếu của hắn mà đánh tới tấp. Song kẻ kia ỷ mình lớn tuổi, cơ bắp dẻo dai nên chỉ chăm chăm bảo hộ tử huyệt và yếu huyệt, còn các bộ vị khác thì cứ để cho Tạng Cẩu mặc sức mà đánh.

Tạng Cẩu đánh mãi mà đối phương không suy suyển, bắt đầu đâm nản. Đối phương thì kinh nghiệm hơn, nên chỉ chờ có thế là tấn công liền. Tạng Cẩu mới dừng lại lấy hơi thì bàn tay đổi thù đã chộp đến. Chát! Ngực nó trúng một chưởng đau điếng.

Thằng bé loạng choạng lui mấy bước, toàn thân rung lên như muốn ngã về phía sau. Nó vội vàng tìm cách lấy lại thăng bằng, nhưng đối thủ đâu có đứng yên chờ nó làm được điều ấy. Thằng bé vừa mới ổn định được chân trụ, thì ưng trảo của đối thủ đã móc ngược một phát hiểm hóc vô cùng từ dưới lên. Kình phong dữ dội khiến nó hầu như không mở nổi miệng. Biết là trúng đòn sẽ gãy xương quai hàm ngay, nó vội lùi lại tránh.

Thế nhưng đối thủ cũng biến chiêu tập kích theo tắp lự. Ưng trảo tay trái móc trượt, thì tay phải đã vạch ngang một cái. Cú móc này nhắm ngay huyệt thái dương. Nếu như để bị trúng đòn, Tạng Cẩu chết là cái chắc.

Tình thế thì nguy ngập vô cùng, nhưng Tạng Cẩu chợt cảm thấy khoảnh khắc này nó bình tĩnh đến lạ. Cử động của đối thủ như chậm lại, chỉ một chút rất nhỏ thôi, nhưng rõ ràng đã chậm lại, đủ để nó đoán được hướng tấn công của y.

Nó bèn đánh liều dùng ngay chiêu " chó ngáp phải ruồi ". Trước hết cúi thấp đầu tránh chiêu, rồi bước chéo lên hai bước. Đối thủ theo đà vồ của ưng trảo cũng tiến lên trước, vừa vặn đứng hở mạng sườn về phía nó. Chẳng kịp nghĩ nhiều, Tạng Cẩu tông cả người vào sơ hở bên sườn của đối thủ. Đây đúng là chiêu " chó cậy gần nhà " nhưng được nó biến tấu đi, thay vì chỉ một cánh tay thì dùng cả cơ thể cho dễ vận lực. Nay lực đạo toàn thân của nó được dồn vào cú húc này, đủ biết không hề tầm thường.

Đối thủ của nó không ngờ Tạng Cẩu lại có thể phản kích một cách hoàn hảo đến thế. Nếu như hai bên chỉ đánh giao hữu, thì hắn đã khen hay một tiếng thật to rồi. Hắn thấy đôi chân mình mất đi tiếp xúc với nền gạch, cả người bỗng bay bổng lên. Ruỳnh! Đầu hắn tông mạnh vào tường nhà, trượt xuống để lại một vệt máu dài. Thương nặng là thế nhưng nhìn cánh mũi hắn hãy còn nhấp nhô thì biết không nguy tới tính mạng.

Lại kể chuyện Hồ Hán Thương.

Vào đêm hôm trước...

Trong soái trướng, Khai Đại nửa nằm trên ghế trải da hổ. Giữa trướng đốt một lò lửa to để thắp sáng điệu múa và dáng người uyển chuyển của cung nữ. Mùi trầm thoang thoảng khắp lều. Hai bên y lại có năm sáu đứa cung nữ túc trực, hầu rượu ca múa làm vui. Rượu trong li không lúc nào vơi, thịt trên đĩa chẳng mấy khi cạn. So với mớ lương khô nhạt toẹt mà binh sĩ phải cố mà ních vào bụng hàng ngày, bữa ăn mà Hồ Hán Thương đang chê lạt miệng chẳng thèm đụng đũa này là ước mơ xa vời của họ.

" Thánh thượng, tiện thiếp để ý từ hôm qua đến giờ người cứ cười suốt thôi. Nếu không phải quân cơ bí mật, không biết có thể nói cho chị em bọn thiếp vui chung được chăng? "

Một đứa cung nữ trong bọn giở giọng, thanh điệu luyến láy ngọt như đưa đường vào tai người khác. Vừa nói, ả lại vừa đưa đôi tay mềm mại trườn lên, cuốn quanh cổ Hồ Hán Thương. Ả kề sát miệng vào bên tai y, hơi thở thơm ngào ngạt, ấm áp mang hơi ẩm quyến rũ đến mân mê màng nhĩ của Khai Đại.

" Không có vấn đề gì lớn, chẳng qua là nhổ được mấy cái gai ngứa mắt, cấp thiết phải loại bỏ thôi. "

" Ồ, chẳng lẽ thánh thượng có tài tiên tri, đoán trước được Trương Phụ hoặc Mộc Thạnh sẽ bỏ mạng lại ở Hàm Tử? "

Cung nữ kia giật mình kinh ngạc trước câu trả lời của Hán Thương. Nàng ta lại nghĩ nước nhà đang lúc chiến chinh, cái gai mà Khai Đại Đế nhắc đến còn ai khác ngoài hai tặc soái hung danh hiển hách Trương, Mộc của địch nữa?

Hồ Hán Thương ngả người ra sau, thản nhiên:

" Cần gì có tài tiên tri? Chỉ cần kế hoạch của ta diễn ra hoàn mĩ là được. Trong suốt chiều dài lịch sử nước Trung Hoa, có mấy lần chúng chiến thắng được quân ngoại bang đâu? (*) "

Cung nữ cúi đầu, cung kính đáp một câu chẳng biết có bao nhiêu phần chân tâm thực ý.

" Thánh thượng thực là vị vua do ông trời phái xuống. "

Đúng lúc này, có một người vén tấm liếp lên mà xông thẳng vào soái trướng, bất chấp binh sĩ canh gác kiệt lực can ngăn. Ấy đúng là một trong đám tàn binh mà Hồ Đỗ bắt gặp trên đường " truy kích " quân Minh.

Y chạy đến sụp lạy trước Hồ Hán Thương, máu rỉ ra từ các chỗ bị kiếm chém tên đâm khắp cả người. Có dăm vết thương vì y hoạt động quá mạnh mà rách rộng ra cả tấc.

" Thánh thượng... "

" To gan! Dám xông vào chỗ của thánh thượng, muốn mưu sát phải không? "

Lúc này trưởng đội cận vệ của Hồ Hán Thương cũng xấn vào trướng. Trông thấy người nọ đang quỳ lạy, máu rỉ cả ra đầy đất, y mới nghiêm mặt lại chờ Hồ Hán Thương quyết định.

Khai Đại đế phất tay bảo cận vệ lui xuống sau lều, cách tên bộ tốt bị thương chừng mười bước chân. Nói đoạn, y cất giọng:

" Nói đi. "

Tên thương binh cắn răng nén đau lại, nói:

" Thánh thượng, quân địch bỏ trại, đang kéo đến đây theo hướng tây. "

" Cái gì? "

Hồ Hán Thương nện mạnh cái li trên tay xuống bàn, đứng phắt dậy. Y bước nhanh mấy bước về phía tên bộ tốt, nâng gã dậy. Máu từ vết thương ở vai của người lính tràn xuống tay Khai Đại, làm y phải cố nín một cái nhăn mặt vì nhớp nháp tanh tưởi.

" Ngươi nói sao? Giặc Minh bỏ doanh tập kích quân ta?? Thế Tông Đỗ, Công Khôi làm gì mà không chặn chúng lại? Chúng có đến bảy phần Thần Cơ Sang Pháo của ta, thêm cả thuyền Cổ Lâu... lẽ nào không cản nổi bước tiến của giặc?? "

Gã thương binh kia ho khan, đòi uống nước. Hồ Hán Thương ra hiệu cho cung nữ rót rượu phục vụ y. Người ấy uống xong ngụm rượu, mới tiếp:

" Trương Phụ chẳng biết bằng cách nào đã biết trước được đường đi nước bước của quân ta, cho quân mai phục sẵn. Quân ta không ngờ giặc dám bỏ doanh trại xông ra, nên người thì chết người thì bỏ chạy. Thuyền Cổ Lâu và pháo Thần Cơ đều rơi vào tay giặc. "

Hồ Hán Thương nghe chưa hết lời đã thẫn thờ, ngơ ngác bước lùi lại hai bước rồi đổ sụp xuống trên nền đất.

" Gian tế! Là tên gian tế ấy đã hại ta! Ta phải tìm ra hắn rồi băm vằm làm mắm!! "

Đội trưởng đội cận vệ thấy Khai Đại đế đã mất bình tĩnh, bèn lên tiếng khuyên can.

" Thánh thượng, trước hết phải lập tức chuẩn bị đối sách chống lại quân của Trương Phụ, Mộc Thạnh đã. Hồ Xạ, Hồ Đỗ tướng quân chắc chắn sẽ dẫn đại binh tới tiếp viện ta. "

" Ta chỉ để lại gần ba ngàn lính, sao mà thủ trại? Đúng rồi! Hồ Đỗ, Hồ Xạ dẫn năm vạn quân đánh thẳng vào trại giặc. Nếu như gặp cảnh vườn không nhà trống, thì ắt phải có đối sách gì chứ? " - Hồ Hán Thương nghe đội trưởng đội cận vệ, cũng là thân tín của hắn nhắc mới sực nhớ đến hai cái gai mình muốn nhổ. Như chết đuối giữa dòng bắt được khúc chuối trôi sông, y bèn tóm lấy vai người lính đang bị thương mà lay, mà lắc. Vừa làm vừa hỏi dồn.

" A... bẩm... thánh thượng. Hồ Xạ Hồ Đỗ tướng quân dẫn quân đánh tập hậu, liều sống chết với giặc. Chính đang mong thánh thượng phát binh đánh thăng vào rừng phía tây, binh chia hai đường nghiền nát quân địch. "

[ Không... không được... Hồ Xạ, Hồ Đỗ nắm trong tay cũng năm vạn quân, cho dù có thêm ba ngàn cũng chỉ như muối bỏ bể. ]

" Truyền lệnh của ta, toàn quân rút đi trong đêm! Theo đường biển rút về Thiên Xương! "

" Thánh thượng... xin người nghĩ lại. Hồ Đỗ, Hồ Xạ tướng quân đang liều mình cự giặc... "

Tên thương binh nghe mà phát hoảng, vội vàng lên tiếng. Nhưng nói chưa dứt câu thì gã đội trưởng cận vệ binh đã táng cho một cú vỏ kiếm vào ngay mồm. Người nọ vội vàng bụm miệng, ngăn không cho máu và cả răng gãy ra ngoài.

" Im mồm! Mày chỉ là thằng dân đen ít học! Ở đó mà dạy khôn thánh thượng à? "

Đoàn viện binh chẹt thành thế gọng kìm mà Hồ Xạ chờ đợi, vì thế vĩnh viễn chẳng đến Hàm Tử.

Ngay trong đêm ấy, Hồ Hán Thương cho binh lính xuống thuyền ra biển, xuôi xuống phía nam. Lúc sóng bắt đầu vỗ mạn thuyền, y vội vàng cho vời anh là Hồ Nguyên Trừng đến.

Vị tả tướng quốc vẫn mặc trang phục chẳng khác nào tù nhân, nhẹ nhàng bước vào buồng ở của vua trên thuyền rồng đóng hồi năm ngoái. Hồ Nguyên Trừng nhìn quanh, thấy nơi này bài trí sao mà xa hoa. Nào những rèm châu chăn gấm, đèn hoa đệm ngọc loá cả mắt mà thấy rầu. Than ôi. Đất nước thì đang buổi rối ren, đánh Chiêm Thành chống Đại Minh, thế mà thuế tô của người dân lại đổ vào những thú chơi này của đấng chí tôn sao? Hồ Hán Thương vội đón chàng, hỏi gặng:

" Trẫm định kéo quân về Thanh Xương ( Thanh Hoá ngày nay ), rồi lại dùng Hoá Châu và hai châu Thăng, Hoa chiếm được của Chiêm Thành làm bàn đạp chiêu binh mộ tướng, đắp thành thêm cao đào hào thêm rộng. Liệu như thế có chống được giặc hay không? "

Hồ Nguyên Trừng nhìn Khai Đại đế, nói:

" Ngăn được hay không, không phải một lời của Nguyên Trừng nói mà thay đổi được. Thánh thượng cứ làm điều mình cho là đúng thôi. "

Hồ Hán Thương nhìn bóng lưng chàng khuất dần sau cánh cửa mà lặng người, rồi sụp hẳn xuống ghế. Hắn bưng mặt mình, mắt tối sầm lại. Năm vạn đại quân, liệu thoát thân được bao nhiêu người??

[ Ta sai... sai rồi... Đáng lẽ không nên khinh thường quân giặc mà tự mãn, chim chưa hết cá hãy còn mà đã bẻ ná bỏ lờ. ]

Dưới bầu trời sao, Hồ Nguyên Trừng đưa mắt nhìn về phía Hàm Tử một lần cuối cùng, thở dài.

[ Lửa hồng đã rừng rực lan ra nửa quãng đồng, gió thuận đang ầm ầm nổi lên khắp trời nam, thử hỏi sức người đâu ra mà ngăn cho được? Ôi... lẽ nào " Rồng Không Đuôi " thực là con dao chặt mất đường sống của triều Hồ, của Đại Ngu ta chăng?

Không! Quân Hồ chẳng bại dưới tay nhà Minh, cũng chẳng phải vì con rồng què phượng cụt gì hết. Nước mất nhà tan là do ta tự gây nên... ]

Đêm càng tối hơn, mây đen vần vũ như một con quái thú tham lam nuốt chửng cả vầng trăng và bầy sao trời. Duy chỉ còn một ngôi sao là le lói toả sáng, bất chấp bóng tối mịt mùng xung quanh.

(*) chú thích:

Ở đoạn này, Hồ Hán Thương thực ra có cái lí của y.

Trung Quốc viết rất nhiều sách, truyện miêu tả những tướng quân, mưu sĩ của họ thành những bậc anh hùng siêu thực. Lãng mạn hoá danh nhân, mình thấy ấy là một cách rất hay để " quảng bá " văn hoá. Chẳng thế, mà nay dân ta thuộc làu làu tam quốc?

Nhưng, quân phương bắc có thực sự mạnh như thế?

Xuyên suốt lịch sử dựng nước, giữ nước của Trung Hoa thì mình nhận ra... số lần họ thắng được ngoại bang đếm trên đầu ngón tay.

Tần vs Âu Lạc: 1,5 triệu quân Triệu Đà đánh 20 năm chẳng hạ nổi thành Cổ Loa

Hán vs Lĩnh Nam: Mã Viện đánh Lạng Sơn bị vợ chồng Đào Kỳ cầm chân ba năm không tiến được.

Tuỳ - Đường vs Triều Tiên: thua phải sáu bảy lần gì đó.

Nam Hán vs Ngô: thua tan tác

Tống vs Lí: thua

Trung Hoa vs Mông Nguyên: bị nghiền nát

Trung Hoa vs Nhật: thua tanh bành

Có thể thấy, nội tại của Trung Hoa ấy là " đánh thua ngoại bang ". Cho nên, đoạn này mình nghĩ khó trách Hồ Hán Thương có phần khinh địch. Và mình cũng xây dựng nhân vật theo cách này luôn.

Thực tế là đến giờ, đọc qua cả Minh thực lục, Đại Việt sử ký và Đại Việt thông sử mà mình vẫn còn thấy những thất bại của nhà Hồ hơi mơ hồ ( trừ trận Đa Bang thua do ngu ). Điều đó, cộng thêm sự thiếu kinh nghiệm trận mạc trong chiến trường của thể loại quân sự đã khiến chín hồi truyện trở nên càng thêm rối. Tác thực sự có lời xin lỗi tới bạn đọc xa gần.

Ba ngày sau...

Sau chiến thắng quyết định ở Hàm Tử, quân số của quân Minh tăng thêm gần hai vạn. Thế quân phương bắc lên cao như nước lũ, chỉ chực tràn thẳng xuống phía nam.

Tối ấy, Trần Đĩnh một thân một mình tới soái doanh của Trương Phụ. Chính lúc y đang chong đèn ngồi bên án, xem một lượt các loại sổ sách. Sau lưng Phụ đặt một bức bình phong, bên phải có một cái lò con. Lão đang hâm chút rượu, uống trợ vui.

" Hầu gia giờ này vẫn chưa ngủ ư? "

" Tả tướng quốc của các người là đối thủ lớn nhất ta từng gặp. Hai bận giao tranh, không lần nào là không bị y đánh cho thất điên bát đảo. Phen này đại thắng Hàm Tử quan, giết chết Hồ Xạ bắt sống Hồ Đỗ, không thể không nói là quân ta có phần may mắn. "

Trương Phụ cảm khái, lại rót đầy một chén đưa cho Trần Đĩnh.

" Tới, uống đi. "

Trần Đĩnh ngồi xuống trước án, nhưng không đụng tới li rượu. Biết Trương Phụ có điều gì đó muốn nói, nên y chỉ lẳng lặng ngồi chờ. Y không vội, còn gì để mà vội? Kể từ ngày chém đầu Hồ Xạ xuống, Trần Đĩnh hắn không còn biết đến hai chữ " vội vàng " nữa.

Trương Phụ cẩn thận xem hết sổ sách, chiến báo quân tình rồi mới ngẩng đầu lên:

" Rượu nguội rồi đấy. "

" Hầu gia chưa tin tại hạ, rượu của ngài tại hạ chưa xứng được uống. "

" Quan Vũ chém Hoa Hùng, rượu hẵng còn ấm. Huống hồ nhà ngươi chém Hồ Xạ còn nhanh hơn. Chén này coi như thưởng công. "

Trần Đĩnh nhún vai, nghiêng chén dốc cạn tới giọt rượu cuối cùng.

Trương Phụ lại rót đầy một chén, tự uống. Vì lão uống một mình, nên trong trướng chỉ có một cái chén.

" Nhà ngươi đến tìm bản soái, chắc không phải để nói mấy cái chuyện tào lao này. Hơn nữa, kẻ sẵn sàng chém chủ soái của mình như ngươi thì chắc cũng chẳng đến đây để nịnh nọt ta. Ngươi lại là kẻ biết tiến thoái, nên ắt không phải đến chỗ này đòi thưởng công. Trần Đĩnh à, thực sự ngươi muốn tìm bản soái nói chuyện gì đây? "

Trần Đĩnh nói:

" Được hầu gia nhớ tên thì ắt có liên can tới trận Thiên Mạc, không biết tôi nên thấy mừng hay sợ nữa. "

" Dẫn quân đánh quân ta ở Thiên Mạc, đúng là nhà ngươi có tội. Song khi đó ngươi đang hầu chủ cũ, nên ta không trách. Trương Phụ này vốn chưa từng tin cái đạo lí: " ngươi phản được chủ cũ, thì ắt có ngày phản ta ". Đối vơi Phụ này kẻ dám hàng, ta dám dùng. Kẻ dám phản, ta dám giết. "

Trương Phụ nhấp một ngụm rượu nữa, nói.

" Hầu gia anh minh. Hôm nay Đĩnh đến đây, là muốn giúp hầu gia, giúp thành tổ tìm một vật. "

" Ngươi nghe ai nói?? "

Thoắt cái, Trương Phụ đổi giọng, mắt trợn tròn lên. Y đập mạnh vào bàn, đứng phắt dậy.

Trần Đĩnh ôn tồn, nói:

" Kính xin hầu gia bớt nóng. Hồ Đỗ vẫn tin rằng tôi chỉ trá hàng, hôm trước có bí mật nói với tôi trong hàng ngũ quân ta có Vương tướng quân vốn là Cẩm Y vệ. Tôi ở nước Nam kiến thức về thiên triều hạn hẹp, nhưng cũng biết Cẩm Y vệ vốn là thân vệ của thiên tử. Lần này phái họ nam tiến, chắc chắn có mục đích. "

" Tinh ý lắm. Nói tiếp đi... "

Trương Phụ ngồi lại xuống ghế, khẽ nhướn lông mày.

" Trần Đĩnh tài hèn, nhưng cũng giao thiệp khá rộng rãi với giới võ lâm. Đám giang hồ thảo mãng chúng tôi đánh trận không so được với quân đội, nhưng tin tức linh thông. Nếu như để tôi làm hướng đạo, phối hợp hành động với Cẩm Y vệ, thì ắt tìm được Thuận Thiên kiếm về cho thành tổ. "

Y vừa nói dứt ba chữ Thuận Thiên kiếm, Trương Phụ đã hỏi bằng giọng ác liệt:

" Mi nghe tin này ở đâu? "

" Vương tướng quân trong lúc say xỉn có lỡ lời hai câu, tại hạ tình cờ nghe được. Thuận Thiên kiếm nghe theo ý trời, cũng tức là nghe lời thiên tử rồi. "

Phụ nghe lời ấy thật là hợp tai, bèn cười vang:

" Hà hà! Giỏi! Thiên triều ta vốn là mệnh trời chú định là bá chủ đại địa, Thuận Thiên kiếm phải quy về cho thiên tử Trung Hoa mới hợp với thiên ý, chứ ở trong tay đám man di này thì làm sao thần kiếm triển lộ được hết thần uy của nó được? Tốt lắm Trần Đĩnh! Ngươi muốn được thưởng cái gì? "

" Ồ... tại hạ chỉ muốn cái đầu của hầu gia mà thôi. "

Trần Đĩnh cười gằn, một cây chuỷ thủ thoắt cái thọc thẳng từ dưới lên, toan đâm thủng yết hầu Trương Phụ. Bị bất ngờ, Phụ chỉ đành phải ngả người ra sau theo bản năng. Song võ nghệ của Trần Đĩnh cũng không hề thấp, lưỡi dao đã muốn đụng vào chòm râu dưới cằm lão.

Sáng hôm sau...

Hôm nay giữa doanh trại lâm thời được Trương Phụ dựng nên có một bãi đất trống rất rộng. Tứ phía toàn người là người chật kín như nêm cối. Đứng có, ngồi có, từ trong lều thò đầu ra xem cũng có không ít.

Mấy vạn con mắt đều hướng về một người đàn ông đang bị trói nghiến lại giữa sân bằng mấy vòng xích sắt, đoạn nào đoạn nấy' to bằng cánh tay người lớn. Hai thanh việt to lớn cắm chéo nhau ngay trước người y, tạo thành một cái giá để gác cằm lên.

Người ấy không ai khác đúng là Hồ Đỗ. Hôm ấy sau khi đánh Mạc Viễn một cú trời giáng, làm Bạch Kê Tinh của sơn trang Bách Điểu trọng thương gần chết, Hồ Đỗ cũng bất tỉnh nhân sự luôn vì mất máu.

Chính giữa biển người tách ra một con đường, để Mộc Thạnh và Trương Phụ sóng vai bước vào. Vầng dương của buổi chiếu nhuộm đẫm màu máu, lơ lửng sau lưng hai người.

Bả vai Mộc Thạnh được băng kín - hậu quả của trận chiến hôm trước với Hồ Đỗ. Vương Sài Hồ cũng lẩn trong đám người, cắn răng nghiến lợi nhìn người đàn ông đang bị trói gô giữa khoảnh đất trống.

Trương Phụ lại hất tay, một người đàn ông khác bị hai gã lực lưỡng giải vào giữa khoảnh đất, quăng vào bên cạnh Hồ Đỗ. Ấy đúng là Trần Đĩnh!

Da thịt y rách toác và đỏ lòm, lẫn lộn cả vào nhau. Mặt y chỗ thì thâm tím, nơi thì đỏ ngầu. Lại có một vết chém dài trượt từ gốc tóc bên trái xuống tận má phải. Vết thương đóng vảy đen xì, như muốn chẻ đôi gương mặt hắn ra.

Mộc Thạnh cao giọng:

" Thằng này không biết lượng sức, hôm qua định ám sát Trương hầu gia. Thật may là bản soái ở đó, nên Trương hầu gia mới an nhiên vô sự. Mọi người xem loại giặc nhị tâm phản trắc này có đáng chém không?? "

" Nên chém! "

" Nên chém! "

Tiếng người trước còn run rẩy, không đành. Nhưng chỉ một thoáng sau là nghe lồng lộng như gió ngoài đồng. Chỉ có Trần Đĩnh là nằm im re, hô hấp cũng chỉ khe khẽ. Ai đứng xa còn nghi hay hắn chết luôn rồi ấy chứ.

[ Ai mà ngờ, Trương Phụ lại là cao thủ nội gia, võ công còn có phần nhỉnh hơn Mộc Thanh. Đã vậy y còn sắp sẵn Cẩm Y vệ túc trực bảo hộ. Hồ Xạ ơi, Trần Đĩnh phụ cái đầu của anh rồi. ]

Y chặc lưỡi, thầm than mình quá tự phụ. Nguyên bản, y nghĩ Mộc Thạnh nay đã cụt mất một tay, có thể dễ dàng trừ khử nên muốn làm thịt Trương Phụ trước, trả thù cho Hồ Xạ. Nhưng... y thất bại!

Mộc Thạnh tiến lên hai bước, quăng một vật xuống đất. Tiếng động ấy đánh thức Hồ Đỗ. Hắn nặng nề mở cặp mi mỏi mệt, nhìn ra. Đôi môi khô nẻ của hắn thoáng nhếch lên vì cái thứ bị ném chỏng chơ trước mặt mình.

Diều sáo...

" Hồ Đỗ! Bản soái nể ngươi dũng mãnh vô cùng, nên đã giúp ngươi hoàn thành ý nguyện cuối cùng của mình. Nhìn nó cho đã đi, chính ngọ sắp đến rồi đấy. "

Hồ Đỗ mấp máy miệng, thở ra từng tiếng:

" Ta... muốn thấy nó... bay cao. "

" Mày đừng có... "

Vương Sài Hồ đứng đó không xa, bèn lên giọng quát. Thế nhưng Mộc Thạnh bèn ngăn lại:

" Làm theo ý của y đi. Dù sao cũng là người sắp chết, đôi co làm chi? "

Nguyễn Công Khôi vội vàng vâng dạ, đoạn sai một binh sĩ dưới trướng đem diều sáo thả ra. Cánh diều nhẹ nhàng lượn lên tầng không theo từng bước chạy. Làn gió đồng nội thoảng qua, luồn vào những ống sáo treo ở đuôi diều. Tức thì, từng tiếng sáo cao có, thanh có trầm có, thấp cũng có thi nhau vang lên, hoà thành một bản nhạc đồng quê. Hương đồng nội quyện cùng tiếng sáo, phảng khắp ba quãng đồng.

Trương Phụ thì nắm tóc xách cổ Trần Đĩnh lên, nói khẽ vào tai y:

" Mày muốn sống đúng không? Đơn giản lắm. Hãy làm lại màn khổ nhục kế mày diễn ở Hàm Tử. Chiêu mà mày tự hào nhất là gì ấy nhỉ? À! Bóng trăng tây hồ. Dùng nó chém đầu Hồ Đỗ xuống, tao sẽ tha cho cái mạng chó của mày. Người thiên triều chúng tao có câu này: " còn núi xanh thì lo gì thiếu củi đốt ". Được sống là được trả thù đấy, nghe hấp dẫn đúng không? Nào! Cho tao thấy cái hành vi đáng tởm ấy một lần nữa. Chém đầu Hồ Đỗ rồi bỏ trốn như một con chó đi... "

Trần Đĩnh gào lên một tiếng trầm thấp nơi cuống họn, cặp mắt như toé lửa.

Hồ Đỗ đã thất hồn lạc phách từ lâu, nên chẳng thèm để ý đến động tĩnh giữa hai người. Hắn ngẩng đầu lên, lần đầu tiên trong suốt ba ngày trời hắn làm cái điều này. Cánh đồng nứt nẻ ngút tầm mắt chợt xanh ngát, đòng đòng thơm mùi sửa đội dậy cả không gian. Trâu lững thững từng đàn nơi đồi cỏ xa xa. Cuối con diều, bóng một bé mục đồng đầu cắt trái đào thoáng hiện.

[ Đỗ! Sao mày làm diều siêu thế? Sau mở hàng thì đắt khách lắm! ]

[ Không! Tao muốn học Đinh Tiên Hoàng! Diều này chính là cờ lau của tao! Tao sẽ đánh khắp thế gian, cho người ta biết người Việt ta không dễ bắt nạt! ]

[ Ha ha, mơ hả? Mày bẩm sinh đã có ốm yếu, gầy nhom thế này thì đòi đánh ai? Người ta thổi cho cái lại chẳng gãy xương hả? ]

...

Cuộc đối thoại ấy, ngờ đâu, đã thay đổi hẳn cuộc đời Hồ Đỗ.

Hắn ngẩng đầu, thầm nghĩ nếu ngày ấy hắn chẳng gặp được thầy hay cho thuốc, không theo học võ trên chùa mà nối nghiệp cha làm một người làm diều nuôi thân thì sẽ thế nào. Có lẽ hắn sẽ không có mặt ở đây, chờ người ta chém đầu. Có lẽ hắn sẽ có được gia đình nhỏ hắn hằng mong ước, êm ấm sống qua ngày.

Nhưng...

Hắn sẽ không quen Hồ Xạ, Lục Bình, các anh em trong quân ngũ, không biết được tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng.

Hắn sẽ chẳng được thiêu cạn nhiệt huyết trên chiến trường, tung hoành giữa tên bay bão đạn. Không thể va chạm với Mộc Thạnh, còn chém rụng cánh tay lão xuống nữa.

Chỉ mười mấy gần hai chục năm năm ngắn ngủi ấy thôi mà đã xảy ra biết bao điều đáng nhớ. Hồ Đỗ biết, trong suốt cuộc đời an nhàn sáu chục năm mà có thể hắn đã được hưởng, sẽ không bao giờ có nổi thứ gì đáng giá bằng một góc mười mấy năm ấy.

Cho nên, hắn không hối hận...

Hồ Đỗ ngước mắt nhìn cánh diều sáo lần cuối. Hắn muốn nhìn nó bay cao một lần nữa trước khi gió lặng, sáo ngưng. Bỗng, hắn giật mình phát hiện bốn chữ lớn viết dưới cánh diều. Chữ Nôm... Chúng đập thẳng vào mặt hắn, khiến một chút sinh khí và nhiệt huyết còn le lói trong tim hắn cháy lên.

Việt Nam trường tồn!

Đại Việt ở trời nam sống mãi với thời gian!

Nét chữ ấy quen lắm. Hồ Đỗ nhìn mà mắt ứa lệ. Hắn cười, mặt thanh thản lạ.

" Chú hứa với anh rồi đấy nhé... "

Lúc này thì Trần Đĩnh đã đứng dậy. Thanh gươm được trao vào tay hắn, không ngờ lại là thanh Huyết Ẩm hắn từng dùng năm nào. Hắn buông thõng tay, kéo lê mũi kiếm trên mặt đất. Trần Đĩnh cố tình bước thật chậm, ấy thế mà chẳng mấy đã đến trước mặt Hồ Đỗ.

Y run tay, nâng lưỡi kiếm lên. Răng y cắn chặt, còn đầu thì quay đi đặng né tránh ánh mắt của Hồ Đỗ.

Hồ Đỗ cười khẩy, nói nhỏ:

" Chết một đỡ hơn đi đời cả đôi, chú cứ chém thẳng tay... Nhớ! Chăm sóc Đồng Xuân cho tốt... "

Trần Đĩnh giật mình! Cái tên " Đồng Xuân " - tên vợ hắn - đối với hắn mà nói có khác nào hồi chuông nện thẳng vào đầu. Hắn loạng choạng, ngớ người ra một lúc lâu. Thế rồi...

Gió lặng.

Lúc Trần Đĩnh định thần lại, thì thanh Huyết Ẩm đã nhuốm màu từ lúc nào. Hắn rú lên, vứt thanh kiếm đi rồi bỏ chạy. Trên đường, Trần Đĩnh ôm mặt mình. Móng tay bẩn thỉu và dài nhọn do lâu ngày không được cắt tỉa cứ cào lên mặt hết nhát này đến nhát khác, đến khi mặt hắn đầm đìa máu mới ngừng. Đĩnh vẫn chưa đã tay, lại dùng hai tay mà dứt mạnh tóc mình từng nắm từng nắm một.

" AAAAAAAAAAAAAA "

Tiếng gào của hắn tan dần vào nền trời.

Mộc Thạnh thở dài, hạ lệnh an táng cho Hồ Đỗ tử tế rồi mới cho quân nhổ trại nam tiến. Trương Phụ thấy cả, nhưng không hề lên tiếng ngăn cản.

" Phụ... nay đất Đại Việt sinh ra Hồ Đỗ, Hồ Nguyên Trừng thì trước đây, sau này còn thế nào? Tại sao chúng ta không hề biết gì? "

" Nghĩ xem, nếu sử ta thừa nhận sức mạnh và sự anh hùng của đám man di, thì vị thế thiên triều còn được như trước? Chuyện ấy cũng là việc của nhà đế vương, ta với lão không nên nhiều chuyện. "

" Nói cũng phải... "

Mộc Thạnh nhảy lên ngựa, dùng cánh tay còn lại giục cương. Đoàn người lục tục tiến về phương xa.

Từ cánh rừng nơ từng là chiến địa, hai bóng người nhẹ nhàng lui ra khỏi bóng cây, tiến tới nấm mồ mới đắp của Hồ Đỗ. Một trong số ấy là Phạm Lục Bình, người còn lại là một thanh niên chừng hai mươi tuổi.

Phạm Lục Bình cẩn thận bưng một hũ tro bọc trong tấm chiến bào rách nát. Tro này là thịt xương Hồ Xạ, áo này nhuốm máu Hồ Xạ.

Sau khi y chết trận ở Hàm Tử, Trương Phụ đã cho người buộc thi thể y vào chiến mã rồi kéo đi suốt mấy ngày, cũng mặc kệ cho quạ mổ diều tha đến mức xác thân chẳng còn nguyên vẹn. Phụ còn cho loan khắp doanh trại, rằng ấy chính là cái giá phải trả cho việc " trợ Hồ vi ngược ". Cốt là để răn đe hàng binh Đại Việt.

Hành hạ mãi cũng chán, nên đến ngày thứ hai Trương Phụ ra lệnh cho Mạc Thuý cắt dây, rồi vứt thi thể Hồ Xạ ngay bên vệ rừng cho diều tha quạ mổ. Nhờ thế, Lục Bình mới tìm được thi hài người anh kết nghĩa.

Dù đầu cái xác đã mất tích, nhưng hai người làm anh em thân thiết đã gần hai chục năm trời, nên Phạm Lục Bình nhận ra được ngay. Hôm ấy y quỳ phục xuống trước di thể Xạ mà khóc hết nước mắt. Dòng lệ của người đàn ông trào dâng, ánh lửa dù có đượm như vầng dương trên cao đi nữa cũng không hong khô được.

Phạm Lục Bình không nói không rằng, nhẹ nhàng đặt hũ tro Hồ Xạ xuống cạnh nấm mồ Hồ Đỗ. Sau đó y lấy thanh Thư Hùng kiếm ra, đào một huyệt sâu phải mấy thước để giun dế không quấy rầy nổi tro cốt nghĩa huynh. Kiếm chẳng phải thứ dùng để đào đất. Loay hoay mất cả buổi trời y mới làm xong. Đoạn, Lục Bình cẩn thận đặt rải tro của Hồ Xạ vào huyệt.

Trèo ra khỏi hố, y dùng đôi bàn tay nhem nhuốc và sưng tấy chậm rãi vốc từng nắm từng nắm đất đổ lại vào huyệt. Làm thế, có chăng sẽ để y nhìn thấy bóng dáng người anh kết nghĩa lâu thêm một chút nữa. Y vừa làm, vừa nghẹn ngào.

Chén chè hôm ấy, vào cái ngày mà ba người chĩa mũi kiếm vào nhau, có ngờ đâu lại là chén cuối cùng ba anh em được ngồi cùng mâm mà dốc cạn. Lời thề khi ấy Hồ Đỗ trịnh trọng tuyên: " Đợi lúc thiên hạ thái bình, ba tên ngốc của thành Thăng Long sẽ lại tụ hội, chè chén thâu đêm " giờ mãi chỉ là một ảo vọng xa vời. Sẽ không, không bao giờ thành hiện thực được nữa...

Những cái vỗ vai đôm đốp và tiếng cười giòn rụm của Hồ Đỗ, cái nhếch mép cố nín cười của Hồ Xạ... nay chỉ còn trong dĩ vãng.

Lục Bình móc trong túi áo ra một gói chè xanh, mấy chén hạt mít với cái ấm đất nung kì lạ. Người thanh niên đi cùng dễ dàng nhận ra những vật này. Ấy là bộ ấm, chén bất li thân của con sâu chè xanh Phạm Lục Bình. Y quý cái này lắm, so ra có lẽ chỉ thua thanh Thư Hùng thôi.

Song, y vẫn xếp cả xuống huyệt cùng với nắm tro của Hồ Xạ. Đoạn, Phạm Lục Bình cất tiếng cười như tự giễu:

" Hai anh linh thiêng có nhìn thấy không? Thằng em cai được nước chè rồi này... "

Sấm nổ! Đùng! Đoàng! Nghe khô khốc.

Dăm con quạ. Kêu. Nháo nhác đằng xa.

Phạm Lục Bình giật mình ngoái đầu, phát hiện hai con sáo sậu hãy còn đang đậu trên cành cây nhìn xuống.

" Hồ Đỗ? Hồ Xạ!? Phải hai anh không!? Nếu phải thì xin xuống đây gặp mặt!? "

Phạm Lục Bình kêu lên, giọng khàn đặc lại. Lũ sáo sậu bị giật mình, hoảng sợ chấp cánh bay vút đi, mất hút nơi nền trời thăm thẳ'm.

" Phải rồi nhỉ, các anh chắc chẳng muốn nhìn mặt thằng Bình đâu... "

Phạm Lục Bình ngồi trở lại chỗ cũ, tiếp tục việc lấp đất vào huyệt.

Từng nắm, từng nắm đất theo tay người trôi xuống nầm mồ, khoả lấp đống tro xám trắng của người xấu số. Thời gian như dãn dài ra, lượt thượt não nề như nhạc đám ma. Huyệt đất nay đã bị lấp đi một nửa, tro tàn của người tử sĩ chỉ còn loáng thoáng giữa những vốc đất nâu đen mà thôi. Phạm Lục Bình chợt giật mình, phát hiện mình chẳng thể úp bàn tay xuống nữa.

Vốc đất cuối cùng hắn đang nắm lấy sẽ hoàn toàn vùi đi chút màu xám cuối cùng của tro tàn. Song vì một lí do nào đó, Phạm Lục Bình không để thêm một hạt đất nào trượt khỏi những kẽ ngón tay hắn nữa. Hắn bần thần ngồi nguyên tại chỗ.

Vẫn biết rằng trốn chạy sẽ chẳng ích gì, nhưng hắn không làm nổi. Một vốc đất ấy sẽ chôn vùi tất cả. Nào là ký ức, nào là bóng người, đều đi hết rồi...

Người thanh niên đứng cạnh bây giờ mới chép miệng một cái, vỗ vào vai Lục Bình mà nói:

" Hồn đã đi rồi, để anh ta về với đất mẹ đi thôi. "

" Lục Bình biết chứ, nhưng... vẫn không làm nổi. Chủ công, ngài nói xem, xuống dưới ấy tối tăm lạnh lẽo như thế có cô đơn không? Hai người họ... hai tên ngốc kia ưa nhất là chốn náo nhiệt phồn hoa, liệu có chịu nổi cái tịch mịch dưới suối vàng không? " - Phạm Lục Bình nghẹn nấc lên một cái, đôi mắt đỏ au lên hằn đầy gân máu. - " Bọn họ lại là loại chỉ mong làng trên chẳng được yên xóm dưới không được ổn. Với tính cách ấy ở dưới đó có bị đám quỷ sai đánh đập chăng? "

Người thanh niên nọ nghĩ thầm:

[ Thường ngày Phạm Lục Bình xử lí mọi chuyện đều đầu xuôi đuôi lọt, trơn tru đâu ra đó. Lại chẳng thèm tin vào ba cái chuyện quỷ ma thần thánh. Thế mà hôm nay lại kích động đến nỗi ngu ngơ ngốc nghếch thế này. Ây dà, xem chừng là đang tự ép mình đây. ]

" Lạnh lẽo tối tăm là thế nào? Anh Bình, anh nghe ta khuyên mấy câu. Chủ công cũ của anh, cũng tức là huynh trưởng ta, từng nói rằng phàm là các vị anh hùng liệt sĩ tuẫn thân vì nước thì linh hồn sẽ hoà cùng núi non Đại Việt, còn nhớ không? " - y gãi gãi mũi mình, tiếp: " Có khi họ đã được đón lên thiên phủ từ lâu, còn đang bận hưởng yến bên cạnh đức thánh Trần, Phù Đổng Thiên Vương trong phủ đệ của các ngài ấy chứ. Nên là chôn nhanh đi thôi, mồ yên mả đẹp rồi là được an nghỉ đời đời. Âyyyy... chỉ tiếc là Lam Sơn ta từ nay thiếu hai viên hãn tướng. Thôi! Chúng ta còn có việc lớn trên người, không thể dây dưa mãi ở đây được. "

Phạm Lục Bình nghe xong, gật đầu lấp cái huyệt lại. Hai nấm mồ nay đùn lên giữa cánh đồng, khác nào hai người huynh trưởng im lìm nằm bên nhau dõi theo đứa em út năm nào nay đã trưởng thành. Phạm Lục Bình rút phắt thanh Thư Kiếm ra, cắm xuống đất bên cạnh hai nấm mồ. Nói đoạn, y cúi người vái người thanh niên một cái dài, nói:

" Đội ơn chúa công đã nói lời dịu xoa an ủi. Cũng tại tôi đau thương quá độ, nên nhất thời không giữ được bình tĩnh, mới nói những lời viển vông ấy. Thật đáng xấu hổ. "

Người thanh niên nọ gãy gái, cười:

" Bị nhìn ra rồi? Ai... anh Bình ơi là anh Bình, anh không thể giả vờ một tí cho ta vui được à? "

Long Thành kiếm khách nhặt thanh Hùng kiếm lên, cất vào hộp gỗ. Y ngẩng đầu nhìn lên bầu không, rồi dứt khoát quay đầu cất bước, tay áo trắng khẽ xoay tròn trong không khí.

" Từ nay về sau, Phạm Lục Bình không còn trên đời này nữa. Hồn y đã nằm lại kia cùng thanh Thư kiếm. Khẩn xin về sau chủ công gọi tôi là Phạm Ngũ Thư. "

" Đổi cả tên nữa cơ à? Ài... thôi thì sao cũng được. Dù sao cũng chỉ là cách gọi nhau thôi. Đàn ông đàn ang, quan trọng gì ba cái tiểu tiết này? "

Thanh niên nhún vai, điệu bộ chẳng thèm để vào lòng.

Một chủ, một tớ bắt đầu cất bước. Khinh công Phạm Ngũ Thư nhanh nhẹn là thế, ấy vậy mà vẫn bị người thanh niên kia đuổi kịp. Vừa chạy, gã vừa nói:

" Lần này anh B... Thư sai rành rành, đáng phải phạt ba chén! "

" Cứ làm xong chuyến này, ba chục chén Ngũ Thư cũng xin cạn. "

Hai người lao nhanh về hướng nam, tiếng nói hoà trong gió. Có lẽ nếu âm tào địa phủ là có thực, thì ở dưới dòng Vong Xuyên nước vàng gió xám, trong những con sóng cuộn đầy những quỷ ma mắt xanh mỏ đỏ kia... hôm nay sẽ có một tấm bèo con con lững lờ trôi từ đâu tới, chờ anh hồn của hai tử tướng Đại Ngu dưới chân cầu Nại Hà.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro