Hồi hai mươi sáu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 295: Hồi hai mươi sáu(1)

Sái Già chiến, bạch vân hạo hãn

Mộ thiên vương, quái thú hoành hành

Lại kể chuyện hai người Tạng Cẩu Phiêu Hương ở Tây An.

Lúc này mọi chuyện đã định, ngày lành xuống mộ do Lý phủ chọn, hai người được thảnh thơi một đoạn thời gian.

Về phần các môn các phái cử ai xuống mộ cổ thì hai người không quan tâm lắm, bởi nhìn ánh mắt thiên hạ thì rất có khả năng cả hai sẽ bị cô lập, một mình một phe. Dù sao cũng là thay mặt quốc gia dân tộc mà tranh đoạt.

Lúc này, trên dưới Lý phủ có nhốn nháo thì hai người cũng không để vào lòng, không nghe không thấy gì hết. Dẫu biết chỉ là khoảng lặng ngắn ngủi trước cơn bão, thì hai người cũng cố mà thả lỏng tinh thần chuẩn bị đối phó với sóng gió trước mắt.

Trương Tam Phong và thiền sư Tuệ Tĩnh quyết định ở lại cho đến ngày quần hào xông vào cổ mộ, rồi mới đưa vợ chồng Tần Trảm tìm nơi an cư. Hồ Phiêu Hương và Đường Nhu lại được một cơ hội tỉ tê trò chuyện trong khuê phòng, chị chị em em ríu ra ríu rít.

Tạng Cẩu thì ngồi với ba người Tần Trảm, ông thiền sư và lão đạo sĩ.

Trên mặt bàn để hai vật, một là Quỷ Diện Phi Châu của các đời Quận Gió, thứ còn lại chính là đao Lĩnh Nam.

Hai thánh vật đúc bằng đồng đen này không khỏi khiến Trương Tam Phong tò mò. Mà cả thiền sư Tuệ Tĩnh cũng muốn nhìn cho rõ, rốt cuộc thứ kim khí màu đen bóng này có công dụng gì mà lại quý đến thế.

Không tìm hiểu còn đỡ, vừa nhìn vào thì lại đau đầu.

Đao của Hồ Phiêu Hương nhẹ như cái lông ngỗng, cơ hồ một người không biết võ công cũng cầm lên múa may dễ dàng. Phi Châu của Tạng Cẩu thì trái ngược hẳn, tuy chỉ to bằng quả quất, nhưng nặng nề vượt quá vẻ ngoài, đến nỗi khiến người trưởng thành phải dụng sức mới nâng lên nổi.

" Viên châu này nặng dễ đến hơn chục cân, thế mà thanh đao này lại tưởng như không hề có cân nặng. "

Tần Trảm có danh xưng là Bách Nhân Đồ, là tay sát thủ có tiếng từng giết cả trăm người, nhưng chưa bao giờ y thấy một thứ kim khí nào quái lạ đến thế cả.

Tuệ Tĩnh thiền sư bèn nói:

" Đâu chỉ có cân nặng? Đao thiên về chém bổ, trọng về thế và đà. Nên đao thường phải nặng, cho dù là liễu diệp đao cũng phải nặng hơn trường kiếm mấy phân. Nhưng chân nhân xem thử thanh đao này, lúc chém tuy nhẹ như cầm làn khói, nhưng thế mạnh lực trầm, chứ không phải ỷ y vào sự sắc bén mà thủ thắng, thực là đã quái dị càng quái dị. "

Trương Tam Phong cầm thanh đao, phạt thử một cái, thì thấy thế công không kém gì một thanh cửu hoàn đao, không khỏi giật mình.

Tần Trảm cũng chặc lưỡi, tấm tắc khen rằng đồng đen thực là thứ kim khí trên trời, không phải người phàm làm ra nổi.

Trương Tam Phong trả đao cho Phiêu Hương, rồi lại trêu:

" Đại sư Nguyễn Minh Không nước con luyện ra được thứ kim khí này thì thực là bậc kì tài nghìn năm không có một. Ài... biết thế mình không thèm để ý tới chút mặt mũi hư danh, cứ gật bừa với quần hào để độc chiếm mộ cổ quách cho rồi. "

Tạng Cẩu nghe thế thì giật mình một cái, còn Hồ Phiêu Hương thì đánh chỏ vào vai bạn, nhắc:

" Ông ấy trêu thế thôi, có mỗi Cẩu là tưởng thật. "

" May quá. Nếu phải đấu với Trương chân nhân, chớ nói tớ không ra tay được với ân nhân, cho dù có đánh thì cũng là tự chuốc khổ vào thân mà thôi. "

Thấy cậu chàng vừa vuốt ngực vừa thở phào, cả năm người đều bật cười ha hả.

Hôm sau, Tạng cẩu và Phiêu Hương thủng thẳng đến Thính Tuyết Lâu. Đương nhiên sau lưng không thiếu người của sáu môn phái lớn bám theo giám sát, phòng hờ hai người thừa cơ trốn mất. Quần hào muốn xuống mộ Thánh Chèm, không có Tạng Cẩu Phiêu Hương sao mà được?

Hai người đi chuyến này, chính là để gặp Lí Bân, nói đúng hơn là vợ vừa cưới của y cũng là cô bé Hằng ngày xưa ở cửa biển Kì La.

Bậc thang gấp khúc quanh co, đường núi đẫm sương đêm thực khiến người ta khoan khoái.

Tạng Cẩu và Phiêu Hương chọn một hành lang gỗ để ngồi, tự lấy rượu và đồ nhắm thưởng thức. Hai người đợi chừng một thoáng thì có kẻ dưới đến lau dọn, đưa thêm đồ nhắm và đổ đầy rượu. Tạng Cẩu mới kéo một người lại, nói:

" Phiền tiểu ca báo với bà chủ có người cũ muốn gặp. "

" Thiếu hiệp lại khéo nói đùa. "

Tay người ở gỡ tay Tạng Cẩu, vẻ mặt vẫn không thay đổi, vừa cười híp mắt vừa nói:

" Lâu chủ đến nay vẫn phòng đơn gối lẻ, đâu có phu nhân gì? "

Tạng Cẩu và Phiêu Hương nghe mà không tin vào tai mình.

Chuyện này rốt cuộc là sao?

Hồ Phiêu Hương đảo mắt, rồi nói:

" Thế cũng được. Phiền tiểu ca nói với gia chủ một tiếng, là có bạn cũ ở phương nam, từ Nam Kinh đến đây muốn gặp. "

Nói đoạn lấy bạc thưởng cho tên này.

Gã người ở nhét bạc vào túi, rối rít cảm ơn, rồi ba chân bốn cẳng đi làm chuyện được giao phó.

Lúc này chỉ còn hai người, Tạng Cẩu bèn hỏi:

" Này, Hương không phải nói Lí Bân hỏi cưới Thanh Hằng nhà mình sao? "

" Nhầm sao được? Bác tớ gửi thư báo chuyện này được hơn một năm nay rồi. Cậu không tin bác Trừng sao? "

" Hay mình nhận nhầm người? "

Tạng Cẩu gãi gáy.

Lúc đầu hai người nhận định cái ý tưởng quái lạ này tuyệt chỉ có Lí Bân mới nghĩ ra được. Mà chủ quán xuất hiện, trông cũng hệt như Lí Bân trong ký ức của Tạng Cẩu và Phiêu Hương.

Nay lại hay tin y chưa có vợ...

Hai người không khỏi cảm thấy quái lạ.

Hồ Phiêu Hương lại nói tiếp:

" Nếu y thực là Lí Bân, thì tự nhiên sẽ hiểu được ấy là chúng ta, rồi tự đến gặp. Còn nếu không thì coi như bỏ phí chuyến này vậy. "

Hai người lúc này không cần che giấu thân phận, cứ thản nhiên dùng tiếng Việt, đám nhân mã do lục đại phái cử đi bám đuôi nghe chẳng hiểu gì cả, ôm một bụng tức mà không làm gì được.

Tạng Cẩu và Phiêu Hương chờ thêm một canh giờ, vừa ngồi đối ẩm thưởng cảnh vừa chuyện trò nên không lấy gì làm nhàm chán. Lúc này mới có một người chậm rãi đi lên chỗ hai người đang ngồi. Trông y có vẻ gì áy náy và rụt rè, mấy bước chân đầu tiên cứ muốn đặt xuống lại thôi.

Hồ Phiêu Hương tự nhiên là đã thấy được những phản ứng này của y, dựa vào ấy có thể khẳng định y nhất định chính là Lí Bân. Nếu như là một người lạ, chưa từng quen hai người bọn Tạng Cẩu thì sẽ không phản ứng như vậy. Y sẽ tò mò, thậm chí là hoài nghi chứ không rụt rè thế này.

Mà y rụt rè như thế, lại thêm lời của tên tiểu nhị, thì Hồ Phiêu Hương đoán được chắc đến chín phần mười là cuộc hôn nhân giữa y và Thanh Hằng đã đổ bể. Tuy cô nàng chưa từng ưa Lí Bân, song lại thấy rõ mồn một là cô bé người hầu có cảm tình với y. Nay thấy cô bị gã phụ bạc, lại ngay sau khi đã dạm hỏi chuyện cưới hỏi thì càng bực mình.

Vừa thấy Lí Bân, cô nàng đã cười:

" Lí tướng quân... không ngờ bây giờ lại đến đây làm chủ quán rượu. Sao rồi, chuyện cưới hỏi lúc trước thế nào? "

Nghe Phiêu Hương hỏi, thì y như bị chạm trúng vết thương cũ, chỉ biết cúi đầu mà thở dài.

Mất một lúc sau, y mới lên tiếng:

" Liễu tướng quân cũng có ý với nàng. Y thiếu niên anh hùng, công lao hãn mã, Lí mỗ tự thẹn không xứng với nàng... nên... "

Hồ Phiêu Hương càng nghe càng tức, rồi đập bàn quát:

" Không có chí tiến thủ! Hằng thoát được người như ngươi ta còn thấy mừng! "

Tạng Cẩu thì vẫn yên lặng không nói gì cả.

Cậu chàng vốn tính ôn hòa hơn Phiêu Hương, thế nên nãy giờ cứ cảm thấy Lí Bân dường như có nỗi khổ riêng khó nói.

Lúc này Phiêu Hương đã đứng phắt dậy, nói:

" Đi thôi Cẩu, đến hỏi thăm cái Hằng luôn tiện nhờ chuyển cho bức thư, ai mà ngờ gặp được cái kẻ phụ tình bạc nghĩa này. "

Tạng Cẩu bèn cười, nói:

" Cậu đi đâu chơi một lát đi, tớ có chuyện cần nói riêng với Lí Bân. "

Cô nàng còn định căn vặn, nhưng thấy bạn cười hòa, thì cũng thở dài nhượng bộ.

Chương 296: Hồi hai mươi sáu (2)

Hồ Phiêu Hương đi ra một góc hành lang, để Tạng Cẩu nói chuyện riêng với Lí Bân.

Lúc này, cậu chàng mới hỏi:

" Lí huynh đài, ta gọi huynh đài như thế không vấn đề chứ? "

Lí Bân bèn thở dài:

" Tuỳ thiếu hiệp. "

Tên của Tạng Cẩu rất khó nghe, trừ người thân thuộc với cậu chàng, rất ít khi người ta dùng cái tên này. Thường họ gọi là thiếu hiệp để tránh đi, lần này cũng không phải là ngoại lệ.

Tạng Cẩu bèn tiếp:

" Lí huynh đài nói mình không tự tin, nên chắp tay nhường đoạn nhân duyên này cho nghĩa huynh ta Liễu Thăng??? Ta thấy còn nguyên do khác, đúng không? "

Lí Bân lúc này kéo ghế ngồi xuống với Tạng Cẩu, đoạn tự rót cho mình một chén.

Y ngửa đầu dốc cạn, rượu nóng tràn xuống hầu, tưởng như là bầu máu nóng của tuổi thiếu thời lần lại nữa chảy xuôi trong người. Có lẽ, xưa nay anh hùng ưa rượu, chẳng phải vì thưởng thức cái mùi vị, mà để tận hưởng cảm giác nhiệt huyết chạy rần rần này đây.

Nói đoạn, y mới khẽ hỏi:

" Sao thiếu hiệp lại nghĩ thế? "

Liễu Thăng là nghĩa huynh của Tạng Cẩu. Tuy hiện giờ đứng khác chiến hào, nhưng nghĩa kim lan không phải nói phủi sạch là phủi sạch. Càng hà huống cậu ta cũng là đệ tử của Quận Gió, chung một thầy với hai người Phiêu Hương. Còn Lí Bân thực tế chỉ là người ngoài, trước đây còn từng làm tù binh của cả hai.

Theo lẽ thường tình mà nói, Tạng Cẩu hẳn phải mừng khi nghe tin Lí Bân chấp nhận bỏ Thanh Hằng mới phải.

" Nếu đã có ý nhượng bộ, thì từ đầu đã không ngỏ lời dạm hỏi, khiến người ta đàm tiếu chê cười người mình yêu. Lí huynh đây tuy làm người còn nhiều thiếu xót, nhưng không phải hạng không có trước có sau. Thế nên, tôi mới đoán là huynh đài còn nỗi khổ khác. "

Tạng Cẩu nói xong, rồi tiếp:

" Nếu Lí huynh có chuyện khó giải quyết, xin cứ nói ra. Nếu giúp được thì tôi xin hết lòng. "

Lí Bân biết rõ võ công của Tạng Cẩu cao hơn mình không biết bao nhiêu lần, cũng từng làm được những chuyện kinh thiên động địa. Mấy năm gần đây truyền văn về hai đứa nhóc An Nam đâu phải ít? Lí Bân chậm rãi phân tích một hồi cũng đoán hai nhân vật chính trong lời đồn tám chín phần là Hồ Phiêu Hương và Tạng Cẩu.

Song lần này y chỉ thở dài:

" Sợ tôi nói ra, thiếu hiệp cũng không tin. Mà có tin, thì cũng không giúp gì được. "

Tạng Cẩu tự hỏi, rốt cuộc Lí Bân gặp phải chuyện gì mà lại mất niềm tin đến thế. Cậu chàng lại nói:

" Thì huynh đài cũng cứ phải nói ra tôi mới biết nó hoang đường đến thế nào, với lại có giúp được gì hay không chứ. Cho dù tôi có bất lực đi nữa, thì ít ra Lí huynh cũng nói ra được một lần, chẳng thoải mái hơn chôn chặt trong lòng sao? "

Lí Bân nghĩ một chốc, đoán chừng Tạng Cẩu cũng không phải nhân vật xuất hiện trong chính sử, bằng không cái tên đặc biệt như thế, há có chuyện người đời sau lại không có chút ấn tượng nào? Nói rồi mới thở dài:

" Được. Nếu thế thì xin thiếu hiệp chớ cười tôi điên khùng. "

Đoạn, y kể toạc hết thảy, không giấu diếm chút nào.

Tạng Cẩu nghe những gì Lí Bân thú nhận mà điếng cả người. Đến lúc y kể hết đầu đuôi, cậu chàng mới nuốt khan một tiếng, nhắc lại:

" Tức là... huynh đài tuy thân xác là Lí Bân, nhưng linh hồn lại là một thanh niên tên Đồ Ngu đến từ sáu trăm năm sau? Do bị trúng thuốc độc nên hồn phách mới vượt thời gian, nhập vào cơ thể của Lí Bân? "

Lí Bân kể rất nhiều thứ, từ chuyện đi học đại học, làm sinh viên đến chuyện mình ngộ độc như thế nào, song Tạng Cẩu nghe những từ này chẳng hiểu gì cả, nên chỉ tóm lược những gì mình hiểu mà thôi.

Lí Bân thở dài, gật đầu mà không đáp.

Tạng Cẩu nhấp một ngụm rượu, như thể cố ép trôi hết những điều kì quái mình vừa nghe vào ruột. Cậu chàng lại nghĩ:

[ Thế cũng dễ hiểu tại sao y có bao nhiêu là ý tưởng quái dị, chẳng giống ai. ]

Câu chuyện linh hồn vượt thời gian của Lí Bân tuy là khó tin, song trên đời còn bao nhiêu điều kì lạ không thể giải thích bằng lẽ thường, nên cũng không thể nói tuyệt đối được liệu ấy có phải sự bất khả thi hay không.

Tạng Cẩu xem chừng đã xuôi xuôi, song lại tiếp tục hỏi:

" Thế tôi lại lấy làm lạ, chuyện huynh đài là người từ sáu trăm năm sau đến thì can hệ gì tới chuyện cưới hỏi với Thanh Hằng? "

Nếu đã là hồn phách nhập vào người Lí Bân, thì đã xem như là người khác. Chuyện cưới người nào thì có can hệ gì tới tương lai?

Lí Bân bèn thở dài:

" Hồi ấy, lúc tôi đề cập chuyện cưới xin với Lê đại nhân, thì bỗng nhiên trời đất xoay chuyển, bụng dạ cồn cào như muốn nôn mửa. Lúc nhìn vào gương, thì một nửa bên mặt đã trở nên trong suốt như làn nước... "

Hồ Nguyên Trừng gần đây đã phải đổi tên thành Lê Trừng, do Vĩnh Lạc đế không công nhận họ Hồ của Đại Ngu. Chuyện này Nguyễn Phi Khanh đã nói cho hai người Tạng Cẩu rõ ràng qua thư từ rồi, nên cậu chàng không lấy làm lạ.

" Ý của huynh đài là? "

Y bèn thở dài, nói tiếp:

" Ban đầu tôi nghĩ chắc chuyện vượt thời gian này chỉ được một thời gian nhất định, đã đến lúc tôi phải quay về tương lai. Ngặt nỗi vừa có ý hủy hôn thì mọi điều dị trạng đều biến mất hết thảy. Lúc quay ra chuẩn bị sính lễ thì lại bị, còn bỏ ý định cưới xin đi sẽ hết, cứ thế năm bảy lần... "

Y chậm rãi lắc đầu, lại dốc cạn chén rượu trong tay:

" Bấy giờ tôi mới hiểu, Thanh Hằng có thể là bà tổ mấy trăm đời của tôi – tôi của tương lai. Nếu như cô ấy lấy tôi, thì bằng cách nào đó dòng họ Đồ sẽ tuyệt tự, nên mới có hiện tượng biến mất như thế. "

Tạng Cẩu ngẫm một chốc, lại hỏi:

" Nếu như tương lai là Tây An, còn bây giờ là Nam Kinh, thì chẳng phải có nhiều đường dẫn từ Nam Kinh đến Tây An hay sao? "

" Chắc do tôi xui xẻo, có ông tổ điên tình đi vậy... "

Lí Bân thở dài.

Tạng Cẩu cũng không biết phải khuyên bảo y ra sao, dù sao chuyện vượt thời gian này quá mức hoang đường, hoàn toàn vượt qua khỏi sức tưởng tượng của cậu. Thế nên cho dù cậu chàng có tài nhìn qua là nhớ đi chăng nữa thì cũng chỉ tạm nắm được một hai phần mà thôi.

Lí Bân nói được hết những bí mật trong lòng, tự thấy tâm tình thoải mái hơn nhiều, rất cảm kích. Y bèn cho người dưới lấy thêm rượu lên, đoạn nói với Tạng Cẩu:

" Thực lòng đa tạ thiếu hiệp không chê cười Lí mỗ đầu óc không bình thường, kiên nhẫn nghe hết những chuyện hoang đường tôi vừa kể. "

Tạng Cẩu bèn hỏi:

" Thế sau đó ra sao, tại sao Lí huynh lại đến Tây An, mở tòa Thính Tuyết lâu này bằng cách nào? "

Lí Bân lúc này đã mở lòng với cậu chàng, bèn kể tiếp:

" Lúc đó tôi rút lại chuyện cưới xin, không còn mặt mũi nào nhìn Lê đại nhân và Thanh Hằng, bèn xin một đội buôn cho đi theo làm chân sai vặt. Ai ngờ nửa đường gặp cướp, cũng may hồi ấy tôi đập đầu vào thành xe, ngất đi nên đám cường đạo không giết nốt. Bơ vơ lang bạt ăn xin thì đến được đây, thế rồi có bà con họ hàng xa nhận ra, báo cho quyến thuộc cũ.

Trước đây vì chuyện của Lí công công giả và Tửu Thôn mà tôi phải từ mặt người thân, cũng may chưa cạn nghĩa. Tuy có nhà không thể về, nhưng người thân vẫn chu cấp cho một khoản để sống ở Tây An. "

Tạng Cẩu tự nhủ, linh hồn người này là Đồ Ngu, thì người thân của Lí Bân không thể coi là người nhà của y được. Nhưng nghe giọng y run lên từng chặp, ánh mắt lộ rõ vẻ kích động, đủ thấy lúc y nhận món tiền cứu trợ thì cảm động tới mức nào. Tạng Cẩu lại nghĩ, bản thân là cô nhi tứ cố vô thân, nếu không có người dân trong thôn Điếu Ngư cưu mang trợ giúp thì đã chết từ lúc nào rồi. Lúc này nghĩ lại, Đồ Ngu vượt thời gian đến đây nhập vào thân xác một người xa lạ, chẳng khác gì đứa trẻ vừa đầu thai, cũng chịu cảnh không thân không thích như vậy. Thành ra lúc này cậu chàng lại cảm thấy mừng cho y.

Chương 297: Hồi hai mươi sáu (3)

Lí Bân bèn tiếp:

" Song cũng đâu có được thuận lợi gì cho cam? Lúc đầu mở Thính Tuyết lâu này, tôi không biết khẩu vị người thời nay, thế là thất bại thê thảm... Nhiều người ăn đồ tôi nấu, đau bụng tiêu chảy, thế là bị kiện lên quan trên thiếu điều táng gia bại sản. "

Phải biết khẩu vị xưa và nay vốn rất khác nhau, chất lượng thực phẩm và cơ địa, độ mạnh yếu của miễn dịch cũng không giống với thế giới hiện đại. Lí Bân chế biến theo khẩu vị sáu trăm năm sau, thành công được mới là chuyện lạ.

Lí Bân trầm mặc nhìn vào bầu không bên ngoài hành lang, rồi nói tiếp:

" Lúc ấy túng quẫn, tôi mới đến chỗ Lí viên ngoại vay mượn một khoản để làm ăn, cũng được ngài ấy khuyên bảo ít nhiều trong chuyện buôn bán. Đến khi ấy mở Thính Tuyết Lâu nhắm vào các cậu ấm cô chiêu thích sự mới lạ, lại dùng kiểu làm ăn tự phục vụ của tương lai, thế mới tạm gọi là có chút thành công nhất thời. "

Y nhìn ra bầu không bên ngoài lan can bằng gỗ, chậm rãi hồi tưởng lại mọi chuyện.

Bảy năm trước, giữa lúc đang đánh trận Đa Bang, thì linh hồn y vượt thời gian nhập vào thân xác Lí Bân. Khi ấy, y khấp khởi mừng thầm, nghĩ sẽ dựa vào kiến thức khoa học từ hơn sáu trăm năm sau để làm nên một phen cơ nghiệp. Nào có biết rằng, chưa nói từ lí thuyết tới thực tế vốn đã cách nhau cả vạn dặm đường, chỉ riêng xét về vốn sống, độ từng trải, cũng như mưu mô trí kế thì một tay sinh viên sống trong thời bình như y sao có thể đọ được với loại tướng lão luyện sa trường mấy chục năm như Trương Phụ, Mộc Thạnh? Càng không đáng xách dép cho kẻ quân vương đáng sợ như Chu Đệ.

Kiến thức trên trường lớp, căn bản không phải vốn sống.

Đáng tiếc trước giờ y vẫn đánh đồng hai thứ này với nhau trong vô thức, may sao nhận ra kịp thời, mới giữ được tính mạng đến bây giờ.

Lí Bân lại thở dài, nhiều lúc đến ngày cuối năm, một thân một mình ở nơi đất lạ, cũng không rõ ở nhà cha mẹ người thân ra sao, anh em bè bạn thế nào. Đáng tiếc là hiện giờ cho dù có tiền muôn bạc vạn, quyền thế nghiêng trời, cũng chẳng thể nào gặp lại, chúc nhau một câu " năm mới bình an ".

Quê hương y ở sáu trăm năm sau.

Tạng Cẩu bèn nói:

" Vậy thì không làm phiền Lí huynh đài nữa. "

Đoạn đứng dậy lấy ra một viên quỷ diện phi châu, đưa cho Lí Bân, nói:

" Huynh đài ở đây bơ vơ một mình, có cha có mẹ nhưng không thể báo hiếu, có bè có bạn chẳng thể tận nghĩa, có nhà không thể về. Có một vật này, xin giữ làm kỷ niệm, coi như để trừ tà. "

Tạng Cẩu tự nhủ, bản thân cậu chàng tuy cũng là cô nhi tứ cố vô thân, thôn nhỏ mà cậu coi là cả thế giới thì đã bị người ta san thành bình địa, song chí ít, mỗi năm vào ngày thanh minh, cậu chàng còn có thể thắp cho cô bác, ông bà ở thôn Điếu Ngư mấy nén nhang, đốt ít giấy vàng mã.

Còn Lí Bân... lẽ nào thắp hương thờ người sống?

Lí Bân nhận phi châu, thì đột nhiên giật nảy mình một cái, đánh rơi cả viên châu bằng đồng đen xuống đất phát ra một âm thanh trầm đục.

Tạng Cẩu quan sát thần sắc y biến đổi, đôi mắt mở lớn, như thể nhận ra lai lịch của đồng đen thì không khỏi thấy kinh ngạc.

Một ý nghĩ to gan xuất hiện trong lòng cậu chàng.

Lí Bân lúc này mới bình tĩnh, dùng sức nhặt quỷ diện phi châu lên, run giọng hỏi Tạng Cẩu:

" Làm sao cậu có được vật này? "

Tạng Cẩu bèn lướt đến chỗ Hương, lấy thanh Lĩnh Nam ra đưa cho Lí Bân xem qua một lượt. Đoạn nói:

" Đây vốn là vũ khí độc môn của tôi. Chẳng nhẽ, Lí huynh nhận ra thứ này? Hoặc giả phải nói là... viên châu này được làm từ thứ kim khí đến từ sáu trăm năm sau? "

Lại kể chuyện của nước Nam...

Hổ Vương dẫn Đinh Lễ về Lam Sơn chưa bao lâu, thì Phạm Ngọc Trần đã biết trước. Không đợi Hổ Vương và bà Thương vãn chuyện, cô nàng đã chạy lên nhà trên, nói:

" Cha. Cha về rồi sao? "

Hổ Vương Đề Lãm cười nhạt, nói:

" Con nỡm nhà cô thì tài rồi, mượn cớ để chào cha, thực ra chỉ muốn nghe ngóng tin thằng nhãi kia thôi đúng không? "

Phạm Ngọc Trần biết không qua mặt được cha, bèn chạy đến đấm bóp cho cha, nói:

" Cha... ở đây còn bác Thương. "

Hổ Vương cười vang, nói:

" Đấy! Chị xem! Người ta nói con gái lớn như chim xổ lồng đúng là chẳng sai. Được rồi. Đinh Lễ bây giờ chắc đang đi tìm Nguyễn Xí, chạy mau đi còn bắt kịp. "

Phạm Ngọc Trần gật đầu, nói:

" Thế con đi đây. "

Bà Thương nãy giờ vẫn im lặng, nay thấy cô nàng đã đi khuất rồi mới lên tiếng:

" Bác Lãm trước nay không phải người dễ thay đổi chủ ý, xem chừng là còn có ý khác rồi. "

" Không giấu được chị. "

Hổ Vương thở dài, buông tay đặt lên tai ghế.

Bà Thương nghĩ một thoáng, rồi ôn tồn:

" Có lời này khó nghe, bác nể mặt thầy thằng Lợi thông cảm tôi mới dám nói. "

" Đã là chỗ quen thân nhiều năm, lời chị dạy sao em dám không nghe? "

Hổ Vương đáp, trong lòng cũng đã đoán chắc được tám chín phần bà Thương sẽ khuyên bảo chuyện gì.

Bà Thương hắng giọng, đoạn bảo:

" Bác làm chúa một vùng, chắc tự biết cân nhắc. Nhưng chuyện con Ngọc Trần với thằng Lễ bác cứ phải xen vào làm gì? Có câu vật cực tất phản, tính cách con bé lại cương ngạnh, bác càng cấm cản con bé chỉ càng làm nó quyết tâm hơn mà thôi. Có câu yêu nhau chưa ắt đã thành quyến thuộc, bác hà tất phải cấm đoán đến thế? Lại nói, thằng Lễ ngoại trừ nan chứng trời sinh, thì nhân phẩm hay thân thế đâu đến nỗi nào? "

Hổ Vương nói:

" Em đâu phải hạng người chấp nhặt những chuyện này? Nếu không phải có nguyên do khác, em cũng muốn gả phứt con bé cho thằng Lễ. Còn cái ngai đang ngồi thì từ từ tìm người kế vị cũng được. "

" Ồ? Thế thì vì cớ gì mà bác lại phản đối đến thế? "

Hổ Vương chậm rãi nói từng chữ:

" Chị nghe đến ngậm ngải tìm trầm bao giờ chưa? "

Phạm Ngọc Trần rảo bước chạy ra, hai bên con đường đất là đồng ruộng trải dài. Phía trước đó không xa, đã có thể thấy rõ bóng lưng một thanh niên vác cây côn sắt, bên cạnh dắt một con trâu lông trắng như tuyết.

Ngoại trừ Đinh Lễ ra, trên đời còn ai có thể thản nhiên đi cạnh con Đại Thắng thần ngưu nổi tiếng là hung hãn như thế cơ chứ?

Thấy bóng y, cô nàng bèn cất tiếng:

" Này! Chờ tôi với! "

Người và trâu cùng đứng lại.

Đoạn, thanh niên chậm rãi quay đầu nhìn về phía Phạm Ngọc Trần, nhẹ giọng:

" Là cô à? "

Phạm Ngọc Trần đứng lại, thở dốc mấy hơi, lại cuống cuồng đưa tay lên đầu định chỉnh lại tóc tai, thì Đinh Lễ đã đến bên, đưa tay vuốt lại lọn tóc dài đang xõa tung của cô nàng. Phạm Ngọc Trần thấy lần này cử chỉ của y ôn nhu khác thường, bất giác trống ngực bắt đầu đập liên hồi.

Thì ra hồi Lê Lợi thành quyến thuộc với Ngọc Lữ, Phạm Ngọc Trần đã lấy hết can đảm nói rõ chuyện tình cảm với Đinh Lễ, tiếc là cọc đi tìm nhưng trâu không chịu. Đến nay thái độ lại thay đổi, không khỏi thấy có điểm kì quái.

Lúc này, Đinh Lễ chợt nói:

" Chuyện tình cảm vốn khó cưỡng cầu, cô đã không muốn cưới chúa công, thì cứ nói thẳng với Hổ Vương là được, đâu cần phải bám víu vào kẻ có bệnh bẩm sinh như tôi làm gì? "

" Chuyện này... tôi... "

Phạm Ngọc Trần không ngờ Đinh Lễ đột nhiên nghiêm mặt, sẵng giọng, không khỏi ngớ người ra.

Con Đại Thắng đột nhiên phất phất đuôi, cọ cọ móng, như thể muốn ra hiệu cho Phạm Ngọc Trần.

Nhưng Đinh Lễ chưa chịu thôi, y tiếp tục nói phũ:

" Tôi biết đàn bà miền núi các cô phong tục khác miền xuôi, nhưng thứ cho Đinh Lễ không tiện gần gũi với loại con gái lãng mạn phóng túng (*). Xin cô hãy tự trọng một chút, chớ có vọng tưởng rằng cứ tiếp tục như thế này thì tôi sẽ phải lòng cô, cũng đừng nghĩ có chút nhan sắc mà đàn ông sẽ quay chung quanh lấy lòng cô. Tưởng tôi dễ bị lợi dụng như thế sao? "

Đương nhiên thực tâm thì y không nghĩ như thế, song nhớ đến những gì Hổ Vương kể, thì Đinh Lễ cũng phải cắn răng mà làm.

Phạm Ngọc Trần dám yêu dám hận, nhưng cũng thừa hưởng cá tính kiệt ngạo ngoan cường của Hổ Vương.

Cô nàng nghe Đinh Lễ nói vậy, sắc mặt tối sầm, lui nhanh hai bước, giọng nói lạnh hẳn đi:

" Anh nghĩ thế thật sao? "

Đinh Lễ bèn nói:

" Chẳng nhẽ không phải sao? Nếu không phải vì dùng tôi làm kế hoãn binh, thì con gái của Hổ Vương, tìm đến một kẻ yểu mệnh như tôi làm gì? Ha ha, Đinh Lễ này số đã định không sống được bao lâu, cũng chẳng thể có con cháu nối dõi, thực là con bù nhìn hoàn hảo mà. "

Phạm Ngọc Trần nghe xong, cười lạnh, nói:

" Đinh tướng quân đã cho rằng tôi là loại con gái như vậy, thì Phạm Ngọc Trần này cũng chẳng còn gì để nói. "

Đoạn xoay người chạy nhanh về hướng ngược lại.

Đinh Lễ thở dài.

Phạm Ngọc Trần cá tính mạnh, dám yêu cũng dám hận, yêu sâu hận càng sâu. Muốn cắt đứt đoạn nghiệt duyên này, kì thực cách duy nhất là đánh vào tính cách kiêu ngạo của cô nàng, khiến cô nàng tự mình rút lui. Bằng không, đừng nói là Hổ Vương, cho dù có là ông trời cũng chẳng thể ngăn nổi.

Đinh Lễ cũng biết mình rất quá đáng, bởi lẽ trong chuyện tình cảm, điều đau khổ nhất không phải là mòn mỏi chờ đợi đối phương, cũng chẳng phải sinh li tử biệt. Nhát dao độc địa nhất... chính là tình cảm chân thành của bản thân ở trong mắt người thương lại bị hiểu thành một hồi dối gạt và lợi dụng.

Đại Thắng đột nhiên húc đầu vào hông chủ, kêu " ò ọ " một tràng tỏ ý bất mãn.

Đinh Lễ cười thảm, kí đầu con trâu, nói:

" Thằng ngốc, ngu như con bò. Trên đời có người con gái không vì thánh mạch của tao mà ghét bỏ, nguyện cùng tao đi tìm cách giải chứng nan y, lẽ nào tao không quý tiếc hay sao? Nhưng ở đời có duyên chưa chắc có phận, cũng chưa hẳn bắt buộc phải thành quyến thuộc mới là tình nam nữ. "

Tiếc là những lời này, người đã chạy đi xa là Phạm Ngọc Trần không thể nghe được.

Con Đại Thắng vẫy tai, khịt mũi, nhìn chủ bằng ánh mắt vô cùng khiêu khích.

Thế là một người một trâu vừa đuổi đánh nhau vừa chạy về phía ánh mặt trời đang dần khuất nơi cuối con đường đất.

Chương 298: Hồi hai mươi sáu (4)

Trong phủ nhà họ Lê, thì bà Thương bấy giờ đang ngồi tựa vào ghế.

Ánh mắt nhìn Hổ Vương nửa là hồ nghi, nửa là áy náy.

Hổ Vương Đề Lãm vốn là người không thích nói lời giả dối, lúc này ông lại càng chẳng có lí do gì phải dối gạt bà cả.

" Thì ra... ngậm ngải tìm trầm... lại là như thế. "

Chuyện kể rằng, trên một vùng núi cao, có hai vợ chồng nhà nọ đến sinh cơ lập nghiệp. Họ cũng trồng lúa bắp, chăn nuôi gà lợn và săn chim bắt thỏ như mọi nhà khác. Nhưng nhờ của cải của bố mẹ để lại, họ sống có vẻ phong lưu. Vì thế tuy có vất vả, hai vợ chồng vẫn vui thú gia đình với đứa con trai lên năm tuổi.

Đột nhiên một hôm có một người bạn cũ tới thăm. Hai người đàn ông lâu ngày không gặp, tay bắt mặt mừng. Người bạn nói: - "Nghe nói anh chị dời đến ở đây đã lâu. Nay có việc đi lối này, tôi mới ghé thăm được. Sẵn có cặp ngỗng mang tới biếu anh chị". Chủ hỏi: - "Mấy lâu nay anh ở đâu mà không hề có tin tức gì cả. Chẳng hay anh làm nghề gì?". - "Tôi chẳng nghề ngỗng gì cả. Chẳng giấu gì anh, từ lâu tôi đi tu tiên để mong đắc đạo. Trong năm năm liền ngồi tù cẳng một nơi, bây giờ có việc phải lên núi". - "Lên núi để làm gì?" - "Để tìm trầm. Phải có trầm đốt lên khi muốn đạt một lời cầu nguyện. Trầm sẽ đưa lời cầu của mình lên cung Tam-thanh. Nhờ đó "chư tiên" mới biết được điều ước muốn của mình và sẽ cho mình như nguyện". Chủ lại hỏi: - "Núi rừng trùng điệp, cây cối bạt ngàn, làm sao mà tìm cho ra trầm?". Khách đáp: - "Khó gì. Tìm trầm phải ngậm ngải". Nói rồi khách móc trong tay nải ra một gói nhỏ bọc vải điều, giở ra lấy ngải cho bạn xem rồi nói:

- "Đây là ngải tôi đã luyện, trải bao nhiêu năm nay mới thành. Chỉ cần ngậm mót tý ngải này, có thể đi suốt năm trong rừng sâu, không sợ hùm beo rắn rết làm hại, không cần phải ăn uống gì cả, lại có hy vọng được "chư tiên" phù hộ, giúp cho tìm thấy trầm. Lúc đó thì có thề cầu được ước thấy, trường sinh bất lão".

Chủ nhân thấy bạn cũ tu luyện sắp thành công, có thể cầm chắc sự phú quý trong tay, thì hoa cả mắt. Hắn cầm lấy ngải nâng lên đặt xuống mấy lần, bụng bảo dạ: - "Chà, chỉ một tý thuốc này có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão, sung sướng biết bao nhiêu". Vui miệng hắn cũng kể cuộc sống của mình trong mấy năm qua cho bạn nghe, rồi giục vợ làm cơm rượu khoản đãi. Trong mấy ngày cầm khách ở lại, vốn biết tính khách thích chơi cờ, chủ nhân lấy ra một bộ cờ bằng ngà mời khách cùng đánh. Hắn chọn một con cờ đưa cho bạn, nói:

- Bộ cờ này của tiền nhân tôi để lại bằng ngà rất quý. Nhưng chúng không quý bằng con tốt này. Nó bằng ngọc bích không mảy may tì vết, mà bao giờ cũng sáng óng ánh, kể cả khi để trong xó tối.

Khách cầm lấy con cờ bằng ngọc xem đi xem lại, thấy quả là của quý hiếm có ở thế gian thì tắc lưỡi khen thầm, đoạn tự nhủ: - "Làm sao ta có được một viên như thế để dâng lên Lão tổ...".

Tuy hai bên suy nghĩ nước cờ nhưng trong bụng người nào cũng chỉ những tìm mưu lập kế chiếm đoạt của nhau: một bên muốn làm chủ gói ngải, còn một bên muốn có con cờ bằng ngọc.

Ngày chia tay đã đến. Giữa khi chủ khách đang "vượt xe thách pháo" thì bỗng nghe tiếng gọi của vợ, chủ vội đi vào nhà trong. Sau đó một tiệc rượu bưng ra. Trong khi thu dọn con cờ, khách đã giấu biến con tốt bằng ngọc vào trong tay áo. Nhưng khách không ngờ chính mình cũng bị tước đoạt. Sau khi chén chú chén anh được một chốc, khách nằm vật xuống bên trường kỷ. Thấy người bạn đã bị mấy chén rượu pha thuốc của mình làm đổ gục, chủ nhân vội lục tay nải chọn lấy gói ngải, rồi lật đật ra đi không kịp từ giã vợ con.

Khách ngủ một giấc đến hai ngày sau mới tỉnh dậy. Hắn ta giật mình khi sờ vào tay nải đã không còn thấy gói ngải quý đâu nữa, tìm bạn bạn cũng đi mất đường nào, hỏi vợ con bạn cũng không ai biết đâu mà trả lời. Khách bèn lủi thủi ra đi quyết tìm cho thấy bạn để đòi lại vật quý.

Từ núi này sang núi nọ, khách trèo liên miên không nghỉ, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng kẻ bất lương. Một hôm, hắn trèo lên một đỉnh núi cao để phóng mắt nhìn ra xa, nhưng chẳng may trượt chân rơi xuống dốc, viên ngọc văng ra hóa thành đá, thân hắn hóa thành cây, rễ cây luôn luôn quắp chặt lấy đá như muốn bảo vệ của quý.

Còn về phía chủ nhân khi bước chân ra đi, nghe theo cách bày vẽ của bạn, hắn cũng bỏ ngải vào miệng để tìm trầm. Nhưng hắn đi mãi, đi mãi, vượt qua trăm núi ngàn khe mà trầm đâu chẳng thấy. Khi bụng đã chán nản muốn quay trở về thì khốn nỗi lại quên mất lối. Năm này qua năm khác, gói ngải dần dần chỉ còn lại một tí bằng cái móng tay.

Hắn đâu có ngờ rằng hễ bao giờ ngải tan hết thì con người sẽ hóa thành hổ. Lúc này da hắn lông đã mọc tua tủa thay cho những chỗ quần áo rách bươm. Rồi một hôm hắn biến thành con hổ xám.

Lại nói chuyện vợ con của hắn ở nhà trông đợi mỏi mòn. Nước mắt hai mẹ con mỗi ngày chảy một ít đã xói đất thành suối. Cuối cùng, ngày lụn tháng qua, hai mẹ con biến thành đá cùng với mấy gia súc và các đồ dùng quen thuộc.

Về sau, hổ xám ta cũng tìm được lối về nhà cũ. Từ đằng xa nhìn thấy bóng dáng vợ con, cả con chó, con gà đang quanh quẩn bên cạnh, hổ lấy làm mừng rỡ, bèn ba chân bốn cẳng vọt nhanh. Nhưng khi biết vợ con và gia súc đã hóa đá thì nó lồng lộn, gầm lên mấy tiếng đau xót, rồi bỏ đi biệt.

Ngày nay ở quận Khánh-dương, tỉnh Khánh-hòa, còn có núi đá gọi là núi Mẫu-tử, nổi bật là một hòn đá dựng, bên cạnh có một hòn nhỏ hơn, người ta nói đó là mẹ con. Xung quanh đá còn nhiều hòn khác nằm rải rác, người ta nói đó là con chó, con gà, cái rổ may và sợi chỉ, cái cối xay, cối giã, cái chày, cái sàng, cái chổi, v.v... Lại còn một tảng đá khác vuông vắn người ta nói đó là bàn cờ có nhiều quân nhưng thiếu mất con tốt. Gần đấy có một dòng suối gọi là suối Tiên, nước không bao giờ cạn, người ta nói đó là do nước mắt của hai mẹ con khơi thành.

Trên dòng suối thỉnh thoảng có bóng một cặp ngỗng vùng vẫy, người ta cho là dòng dõi của cặp ngỗng mà khách mang đến biếu, sở dĩ chúng không hóa đá là vì chúng chưa phải là gia súc quen thuộc của chủ.

Còn ở tỉnh Phú-yên, trên núi Tịnh-sơn có một hòn đá tròn gọi là đá Con cờ, người ta cho đó là con tốt bằng ngọc trong áo khách văng ra.

Bên cạnh là một cây cổ thụ to hàng vầng, rễ mọc chi chít, nhưng rễ cây bao giờ cũng quắp chặt lấy đá, người ta nói đó là người bạn biến thành[1].

Còn thực hư mọi chuyện, theo lời kể của Hổ Vương, thì khác đi một chút.

Quả trầm ở miền núi rất quý, mọc rất sâu trong rừng, rất cao trên núi, toàn những nơi hiểm trở khó đi, mà đi vào lại dễ lạc lối khó thấy lối về. Muốn tìm được nó, phải có võ lực rất cao, thường thì chỉ các đời Hổ Vương mới tìm nổi.

Trầm ngoại trừ là vị thuốc quý để luyện dược, nếu cho thai phụ vừa ngậm một miếng ngải, vừa uống nước trầm, thì có thể cứu một cái thai bị hư chưa lâu sống lại.

Phạm Ngọc Trần được sinh ra như vậy.

Thì ra, ngày trước Hổ Vương dẹp được các bộ lạc đối địch, thì vợ ở nhà có thai cô nàng Ngọc Trần. Nào ngờ mang thai bảy tháng có lẻ, thì tàn dư của những kẻ địch cũ phái cao thủ đến đánh lén. Hổ Vương tuy đánh chết được cả bọn, thế nhưng vợ lại động tới thai khí. Bắt mạch, biết khó giữ được cái thai, Hổ Vương mới mạo hiểm đi tìm trầm để cứu đứa trẻ chưa sinh.

May sao, tìm được trầm trở về, thì cái thai mới hỏng ngay tức thì. Hổ Vương lệnh cho người lấy nước trầm, đem ngải cho vợ ngậm, lại uống nước, thai khí mới hồi phục trở lại.

Tiếc là, truyền thuyết ngậm ngải tìm trầm kể thiếu một đoạn cuối.

Trầm có diệu dụng thần kì, chẳng khác nào cứu người chết sống lại, trái với ý trời, thế nên sản phụ nào mà có cái thai được cứu bằng trầm thì nghìn người chẳng thể sống nổi một, đều chết vì khó sinh.

Sau khi vợ mất, Hổ Vương điên người, mới cho đốt sạch hết toàn bộ sách vở về ngậm ngải tìm trầm, để người đời sau không còn ai phải chịu cảnh tự tay giết vợ như mình nữa. Những chuyện tản mạn trong dân gian cũng vì thế mà dần dà đổi thành người tìm trầm phải ngậm ngải, đi trong núi rừng tìm kiếm, song nếu ngải tan hết mà chưa thấy trầm thì sẽ hóa thành hổ. Còn những địa danh như đá mẹ con, cái cây ôm tảng đá...v.v... đều là các thần tích người đời sau pha thêm vào để tăng tính huyền ảo cho câu chuyện.

Hổ xám, ở vùng Lam Sơn Thanh Hóa được xưng là thần cọp xám, cũng gọi là ma cọp. Tương truyền là giống hổ ăn thịt đủ một trăm người thành tinh, vóc dáng to như con trâu, lại có hàng đàn ma trành đi theo hầu hạ trành người về cho. Thực chất, cả hổ xám trong truyện dân gian, cũng như hổ trành, đều là dân gian hình tượng hóa các đời Hổ Vương.

Phạm Ngọc Trần là con của trầm, thế nên bản thân cô nàng từ khi sinh ra đã có tử khí như người đã mất. Lớn lên, được Hổ Vương Đề Lãm chăm sóc nên mới bớt đi phần chết chóc, thêm được phần sinh cơ, tốn không ít tài vật mới có thể trở thành một thiếu nữ hoạt bát như bây giờ.

Song, điều ấy không thể thay đổi sự thật, cô nàng từng chết trong bụng mẹ một lần. Phù Đổng thánh mạch có khí dương cương rất nặng, nặng đến độ khiến người bị không thể có người nối dõi, anh hoa phát tiết ra ngoài mà tráng niên mất sớm. Người bình thường kết hợp với Phạm Ngọc Trần thì chẳng sau, nhưng nếu ấy là Đinh Lễ, thì sinh mạng của nàng sẽ giống như tuyết gặp ánh mặt trời, chỉ có kết cục là tan thành nước.

Lúc dò hỏi thiền sư Tuệ Tĩnh về cách giải Phù Đổng thánh mạch, chính miệng thiền sư đã nói như vậy với ông. Thiền sư đức cao trọng vọng, tâm địa bồ tát, thế nên ông sẽ không tùy tiện nói linh tinh, nhất là chuyện liên quan tới mạng người thì càng không có chuyện thiền sư nói hai thành một điên đảo thị phi.

Thế nên, Hổ Vương mới bất chấp tất thảy, mặc kệ ước nguyện của con gái cưng cũng phải ngăn bằng được chuyện hai người đến với nhau.

Chương 299: Hồi hai mươi sáu (5)

Bà Thương thở dài...

Bà cũng hiểu tại sao ông phải đi đường vòng chứ không thể nói thẳng cho con gái được. Lúc này cô nàng Phạm Ngọc Trần phải vào cái tuổi nửa cô nửa bà, sẽ nghe lời cha mẹ hay sao? Chẳng phải trước đây ít lâu, thì Lê Lợi con bà cũng y như thế, bà Thương không lựa lời dạy được mới phải bày vẽ ra cả một chuyện Hóa Châu dài dằng dặc đến thế hay sao?

Tuy nhiên, bà lại không tính tới rằng thằng quý tử nhà mình lại thực sự dẫn dân tạo phản, rốt cuộc chẳng ai còn sống cả.

Không biết có phải quả báo do ông trời trừng phạt không, mà bệnh hen của bà cũng vì thế mà ngày một nặng.

Hổ Vương nhìn bà ho khùng khục, thở dài lấy từ trong bọc ra một ít thuốc thang, nói:

" Ở đây có ít đồ bổ, chị chú ý giữ gìn sức khỏe. "

Ông chặc lưỡi một cái, lại tiếp;

" Biết sức chị thế này, thì em đã vác luôn thằng Lợi về, coi như một công đôi việc. "

" Sao mà thế được? Thằng Lợi còn đang ở tiền tuyến đánh giặc, mà đang buổi nước lửa giằng co ác liệt. Nó mà quay về, tôi không nhìn mặt đâu! "

Bà Thương nói xong, lại gập người ho.

Hổ Vương biết tính bà, bèn đổi qua chuyện khác:

" Đứa học trò em gửi lại đây thế nào rồi chị nhỉ? "

" Thằng Lê Lai phải không? Mắt nhìn người của bác được đấy. Nó là người trung hậu, lại nhanh nhẹn tháo vát. Bây giờ chắc đang ở chỗ thằng Nguyễn Xí đấy. "

Bà Thương chậm rãi.

Hai người lại nói mấy chuyện linh tinh, rồi Hổ Vương mới bảo:

" Lợi hãy còn một người anh, tuy là cậu ấy chậm một chút, nhưng lúc này còn đang được một lúc yên ả thì chị cũng nên giao bớt việc cho cậu ta, để con được báo hiếu cho mẹ. Chứ chị lao lực thế này, em lo lắm. "

Bà Thương bèn nói:

" Lê Trừ không có lòng tham quyền thế, giao việc cho nó thì cũng yên tâm. Nhưng mình không sợ kẻ trên có hai lòng, chỉ sợ người dưới có dạ khác, lúc ấy Lam Sơn chia năm sẻ bảy, mỗi phe thờ một người, tự nhận làm chính thất thì đúng là chuyện tai hại. "

Hổ Vương nghe thì nhíu mày, đoạn cũng cười:

" Té ra không phải mình em thấy Hậu Trần không phải bậc chân mệnh thiên tử. Nay chị đã sắp xếp như vậy, cũng tức là cách làm của nhà đế vương, hẳn là đã định Lê Lợi là thái tử rồi đây. "

Câu này ông dùng công phu truyền âm, tiếng nói chỉ như tiếng muỗi, đặng tránh tai vách mạch rừng.

Hổ Vương tuy không sợ, song Lam Sơn vẫn thuộc vào Đại Việt, vẫn phải chịu sự quản hạt của vua. Ngộ nhỡ những lời đại nghịch này bị truyền ra, thì thực không có chuyện gì tai hại hơn.

Bà Thương bèn cười, đoạn nói:

" Bác Lãm đã đến thì hãy thư thư mấy ngày, tôi nay đau bệnh triền miên không tiếp lâu được, xin về nghỉ trước. "

Hổ Vương dậy đỡ bà, thì thấy bà đã ghé tai ông nói nhỏ:

" Chuyện bác nói chị cũng đã đoán được. Công bằng mà nói, Trùng Quang hay Giản Định nếu có nhân tài như Đặng Dung, Đặng Tất, Cảnh Dị, Cảnh Chân phù trợ thì làm vua thời bình không phải là chuyện không thể.

Tiếc là thời nay loạn lạc nhiễu nhương, mà hoàng đế nhà Đại Minh là kẻ đại trí, tâm cơ sâu không thấy đáy. Muốn đấu lại với hắn, một vua bình thường là không đủ, mà phải là bậc minh quân sáng suốt hơn người. Đáng buồn là cả Trùng Quang lẫn Giản Định đều chưa được, trăm họ còn phải lầm than thêm mấy năm. Chỉ tiếc cho bậc kì tài như cha con Đặng, Nguyễn Cảnh. "

" Thời loạn thờ nhầm chủ, như lấy bảo kiếm đi cày, đao báu đập sắt. Rốt cuộc cũng gãy đôi, dã tràng xe cát. "

Hổ Vương cũng nói.

Lại nói đến Phạm Ngọc Trần.

Trước những lời lẽ gay gắt của Đinh Lễ, cô nàng tỏ ra chán nản, nhưng lại không muốn đi tìm cha, càng không muốn tới chỗ Nguyễn Xí tìm Lê Lai vì thể nào cũng chạm mặt Đinh Lễ. Cô nàng nghĩ mãi, rồi cũng đi tìm Ngọc Lữ tỉ tê chuyện trò.

Trịnh Ngọc Lữ thấy cô nàng tự nhiên lại đến tìm mình, đoán là giữa Ngọc Trần và Đinh Lễ lại có chuyện xảy ra. Thành thử cả buổi tối, cô cứ để Ngọc Trần kể chuyện mình, bản thân thì chăm chú lắng nghe. Thỉnh thoảng lắm Ngọc Lữ mới chêm vào hai ba câu để đưa chuyện.

Ngọc Trần uống cạn chén trà đặc, lại nhìn trăng, nói:

" Nãy giờ em kể phần em nhiều rồi, chị cũng nói phần chị đi. Sao mà chị với anh Lợi lại phải lòng nhau vậy? "

Trịnh Ngọc Lữ hơi đỏ mặt, song cũng lần lượt thuật lại ngắn gọn chuyện hai người gặp nhau ở Khoái Châu ra sao, Lê Lợi uất ức kêu gọi dân phu lao dịch phản kháng thế nào, rồi thất bại thảm thiết đến mức nào...v.v...

Phạm Ngọc Trần nghe xong, kinh ngạc thốt lên:

" Té ra còn có chuyện này. "

Đoạn, cô nàng lại kéo áo Ngọc Lữ, nói:

" Thế thì em lại thấy lạ. Khởi điểm của anh Lợi thấp như thế, Lam Sơn hào kiệt như mây, sao lại lọt vào mắt xanh của chị được? "

Thì nàng bèn cười:

" Phải rồi, lúc đó chàng quả thực rất tệ, văn võ đều không bằng người, hành sự lại nhanh nhảu không cân nhắc được mất. Thế nhưng, chàng làm được một chuyện người trong thiên hạ không ai làm nổi. "

" Chuyện gì? "

Phạm Ngọc Trần không khỏi thấy tò mò.

Rốt cuộc là chuyện kinh thiên động địa cỡ nào mà khiến cho Trịnh Ngọc Lữ nói rằng trên cả thế gian không ai làm nổi?

Trịnh Ngọc Lữ không trả lời ngay, mà lại hỏi:

" Thế cô Trần có biết lúc tôi vừa mới cứu chàng khỏi chết vì đòn roi sai dịch ở chỗ mỏ đá, chàng đã nói gì không? "

" Nói gì? "

Ngọc Lữ bèn tiếp:

" Lúc ấy những người dân lao dịch này cũng không tốt đẹp gì lắm. Ma cũ bắt nạt ma mới mà. Anh chàng bị đánh nhừ xương, lại bị dân đen tranh thủ lấy hết phần cơm, vừa đau vừa đói. Sau khi được chị chữa khỏi cho, anh chàng bực lắm, định bụng mặc kệ đám dân khổ sai ở đây. "

Phạm Ngọc Trần nghe thế, không khỏi nghi ngờ mà hỏi:

" Tự tư như thế thì có gì là khó, mà chị bảo cả thiên hạ này không ai làm được? "

Trịnh Ngọc Lữ cười, đáp:

" Để yên chị kể tiếp cho mà nghe. Lúc ấy chàng rủ chị đi trốn cùng, nói rằng có cao thủ đang làm việc ở gần đây, xong công chuyện sẽ đến đây giải cứu. Chị bèn hỏi: " tại sao có bao nhiêu người ở đây mà chỉ chịu cứu mình tôi? ". Thì chàng đáp rằng: " Người ta kính tôi một thước, thì tôi kính lại một trượng. Cả một xóm này chỉ có chị tốt với tôi, tôi không nỡ nhìn chị ở lại đây chịu cảnh phu phen. Chốn này lại rồng rắn lẫn lộn, chỉ e ". Chàng nói đến đây thì ngừng, không nói lời xui xẻo. "

Phạm Ngọc Trần nhủ bụng:

[ Mình vẫn chẳng thấy có gì đặc biệt cả... Hay là đây là yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông ti họ hàng? ]

Nhưng lần này cô nàng không xen vào nữa, mà yên lặng ngồi chờ.

Trịnh Ngọc Lữ bèn nói tiếp:

" Lúc ấy, chị bèn nói với chàng: " Cậu chưa kính người khác tí nào, đã đòi người ta kính nể mình một thước, có phải buồn cười không? Nếu người ta cũng nghĩ như cậu, cậu kính người ta một thước, người ta kính lại một trượng... thì không phải người ta đối xử với cậu như vậy là chuyện hiển nhiên hay sao? ".

Chàng nghe xong thì không nói gì, nhưng từ hôm đó trở đi, chàng ta cẩn thận theo dõi những người bị bắt làm phu dịch ở đấy, cũng thu liễm cái kiêu ngạo của cậu lớn Lam Sơn lại. Quả nhiên sau vài ngày, thái độ của mọi người với chàng cũng thay đổi, mà chàng cũng chậm rãi quyết định chuyện nổi lên làm loạn.

Một mặt thì chàng thuyết phục người dân, đánh thức tôn nghiêm của họ, mặt khác thì lại len lén đến sau làng, để kí hiệu lại cho cao thủ kia – cũng tức là Ngũ Thư. "

Phạm Ngọc Trần nói:

" Anh Lợi chuẩn bị sẵn đường lui cho mình phải không? "

Ngọc Lữ bèn lắc đầu, cười đáp:

" Ngược lại là khác. Chàng cố tình để lại một tin tức giả, là bản thân đã về Lam Sơn trước, Phạm Ngũ Thư không cần phải đến đón. Lúc chị phát hiện chuyện này, phải âm thầm báo lại cho y, bằng không giờ chị thành quả phụ rồi đấy. "

" Anh ta tự chặt đường lui của bản thân??? Thế thì càng ngốc, chứ ưu tú ở chỗ nào?? "

Trịnh Ngọc Lữ lắc đầu, nói:

" Ấy mới là điều đáng quý. Em thử nghĩ xem, những người lao dịch khổ sai đó với chàng không thân không thích, cũng chẳng ai có tài võ tài văn đủ sức cáng đáng chuyện gì lớn lao to tát cả. Nếu như xét lợi và hại, thì chàng có cứu họ cũng chẳng ích được cái gì. Chàng không cứu họ, thì cũng chẳng mất cái chi. Trước sau gì chàng cũng có Ngũ Thư đón về Lam Sơn an toàn. Đúng không? "

" Chuyện này... "

Phạm Ngọc Trần tự hỏi lòng, nếu như bản thân ở vào tình thế như Lê Lợi, sẽ làm thế nào.

Câu trả lời là... nàng không biết.

Nàng không biết tại sao phải đặt bản thân vào vị thế của Lê Lợi.

Ngọc Lữ bèn nói tiếp:

" Sở dĩ chàng tự cắt đứt đường lui, là bởi tự biết bản thân lúc ấy chưa đủ văn tài võ lực gánh vác trọng nhiệm. Nhưng... nếu như trong vô thức biết bản thân vẫn còn đường rút, thì liệu có hết lòng cầu thắng hay không? Lê Lợi làm vậy, là tự đặt bản thân vào thế " không thắng không được "... Bởi nếu chàng thất bại, thì những người đi theo đều sẽ chết. "

" Và anh ta thất bại thật? "

Lúc hỏi câu này, ánh mắt Phạm Ngọc Trần hơi sáng lên, như thể có chút mong chờ.

Đáng tiếc, câu trả lời của Ngọc Lữ lại không giống như những gì cô đang muốn nghe.

" Đúng vậy. "

Nàng thở dài, đoạn nói:

" Dựa vào một nhúm khổ sai, sao mà đánh lại quân Minh thiện chiến? Kết cục không nói cũng biết, để răn đe, bọn chúng kéo quân đến đàn áp, lùa hết nông phu nổi loạn ra đồng rồi cứ thế mà thảm sát. "

Như thể nhớ lại cảnh đồng thây suối máu khi đó, Trịnh Ngọc Lữ khẽ rùng mình một cái.

Phạm Ngọc Trần cũng hít một hơi thật sâu, rồi hỏi:

" Thế thì làm sao mà anh ta thoát thân được? "

Chương 300: Hồi hai mươi sáu (6)

" Lúc đó trên cánh đồng, có một vài người cố tình đánh ngất chàng, rồi tự sát, lấy thân xác đè lên che chắn. Quân Minh nghĩ đã giết hết cả bọn, bèn dùng thương dài chọc mấy cái vào đống xác rồi bỏ đi, chàng mới may mắn thoát chết. "

Trịnh Ngọc Lữ thở ra, nói:

" Cũng coi như là có thiện báo. "

Phạm Ngọc Trần lúc này mới lay lay vai áo nàng mà hỏi:

" Chị kể hết rồi, nhưng sao em vẫn chưa thấy anh chàng có gì hơn người cả. "

Ngọc Lữ nén cười, đáp:

" Trước đây thì chị cũng không hiểu lắm, chỉ biết là trong vô thức thấy chàng có điểm rất khác người. Bây giờ, sau khi hầu chuyện u một thời gian thì hiểu rồi. "

Nàng cố tình ngưng một chốc để trêu chọc cô nàng Ngọc Trần, rồi mới tiếp:

" Chàng hơn người ở chỗ, người khác kêu gọi quần hùng dấy binh tạo phản, tuy nhìn chung vẫn là vì việc khởi nghĩa đánh giặc quốc gia đại sự là trên hết, nhưng trong lòng khó tránh khỏi tính toán mấy phần lợi ích riêng tư, muốn sau khi công thành danh toại trở thành hoàng đế quân lâm thiên hạ. Chỉ riêng chàng ta thì lúc ấy hoàn toàn không có tính toán gì tới thiệt hơn được mất của bản thân, chỉ biết vì trăm họ mà tận hết tám chữ: " cúc cung tận tụy, chết cũng cam lòng ". Tuy văn tài võ lực còn hạn chế, nhưng cái tâm đã đặt đúng chỗ. "

Ngọc Trần nghe đến chỗ này, đột nhiên thốt lên:

" À!!! Thì ra bác Thương cho người đến Hóa châu bày trò, là để thử lòng anh Lợi sao? "

Ngọc Lữ bèn đáp:

" Đúng vậy. Nếu lúc ấy chàng không thể hiện được tâm đó, thì u sẽ bất chấp chuyện Trùng Quang đế có phải bậc chân long thiên tử hay không, để cả Lam Sơn đầu quân cho Hậu Trần, hết lòng dốc sức phụng sự đế Quý Khoáng. Khi ấy dù có mất cả cơ nghiệp tổ tông cũng sẽ quyết một phen sống chết với quân Minh, thà chết vinh còn hơn sống nhục. "

Ngọc Trần nghe đến đây, cũng đã có thể nói tiếp vế sau hoàn chỉnh:

" Nhưng anh Lợi lại có cái " tâm " đó mà bác tìm, nên bác mới quyết định sẽ tự lực cánh sinh? "

" Nơi này tai vách mạch rừng, hai cô nỡm lại oang oang bao nhiêu chuyện đại sự thế này, có ngày mất đầu như chơi đấy. "

Lúc này đã có một người thứ ba xuất hiện.

Giọng nói trầm như tiếng hổ, ấm rực như lửa, ngoại trừ Hổ Vương Đề Lãm e trên đời không còn người thứ hai có cái giọng đặc trưng như thế. Lúc này Hổ Vương đang ngồi vắt vẻo trên một chạc cây, khoanh tay nhìn xuống chỗ hai cô nàng đang đứng, vừa cười nhếch mép vừa nói.

" Hổ Vương đã đến đây thì cháu không làm phiền nữa ạ, cháu xin lui trước. "

Trịnh Ngọc Lữ đứng dậy, thi lễ cẩn thận với Hổ Vương rồi nhanh nhẹn đi khỏi cho cha con hai người được ở riêng với nhau. Tuy lúc này cô nàng đã có thể coi là bà trẻ ở Lam Sơn, Hổ Vương thì là khách, nhưng xét cho cùng thì Hổ Vương là tri giao của ông Lê Khoáng, cụ thân sinh của chồng nàng, nên nàng vẫn giữ lễ con cháu trong nhà với ông.

Phạm Ngọc Trần thấy cha, trước tiên là cúi xuống, mân mê vạt áo.

Hổ Vương thì nhảy xuống khỏi chạc cây, thở dài, đến xóc cô nàng lên, cõng lên lưng. Phạm Ngọc Trần bị bất ngờ, hơi hoảng loạn, vội vàng lí nhí:

" Cha! Bỏ con xuống đi. Con từng này tuổi rồi... người ngoài... "

" Người ngoài nào mặc kệ! Con là con gái cưng của cha, cho dù đến năm con ngũ tuần đại thọ sắp xuống lỗ cũng không thay đổi. "

Hổ Vương nói, đoạn đứng dậy.

Ngày bé, Ngọc Trần không có mẹ dỗ dành, nên mỗi khi cô nàng khóc lóc ông thường hay cõng cô nàng như vậy nhong nhong chạy khắp đầu bản đến cuối bản. Tuy bây giờ cô nàng đã là thiếu nữ, nặng hơn ngày còn bé cả mấy chục lần, nhưng Hổ Vương đâu phải hạng yếu ớt gì, nên vẫn cõng cô nàng trên lưng nhẹ bẫng.

Phạm Ngọc Trần ôm cổ cha, vùi mặt vào tóc ông. Lúc này Hổ Vương đã thấy đầu mình mát lành lạnh, biết là con gái đã khóc. Nghĩ đến chuyện ông chia uyên rẽ thúy, Hổ Vương lại chạnh lòng.

Ông bèn nghẹn ngào:

" Con gái lớn rồi, ngày xưa cha cõng con, con sẽ nín. Giờ đây cha cõng con, con lại khóc. "

Phạm Ngọc Trần thổn thức, lại nhìn lên mái đầu cha. Hổ Vương trước giờ vẫn sừng sững như tòa núi chống trời, cô nàng nhìn vào ông vừa yên tâm vừa sợ hãi, thế mà giờ đây đầu cũng đã hai màu tóc mất rồi.

Cô nàng bèn lí nhí:

" Thì ra cha sớm đã nhìn ra chỗ xuất chúng của anh Lợi, nên mới đề cập ước hẹn cũ với bà Thương. "

Hổ Vương lại thầm nghĩ, nếu như không phải ông phái người lần theo tung tích của Ngọc Trần đến tận bến Bô Cô, thì đã không phát hiện được mối nghiệt duyên giữa nàng và Đinh Lễ từ sớm để mà tìm cách ngăn chặn. Còn Lê Lợi hơn người thế nào, là chuyện sau này ông kiểm tra chàng trước cổng làng, lại nói chuyện với bà Thương mới biết.

Mà đề cập chuyện cưới xin cũng là để đem ván đóng thuyền cho sớm, tránh để tình cảm hai người thêm sâu đậm.

Nào ngờ lại sinh ra bao nhiêu là chuyện, Lê Lợi xin cả thánh chỉ về, mới buộc Hổ Vương ra hạ sách này.

Hổ Vương không nói những lời này với con gái, mà nói:

" Con nỡm nhà cô, dám nghĩ cha cô là loại người cổ hủ đấy phỏng? Nếu thằng Lợi là kẻ không ra gì, chẳng cần đến con, cha là người đầu tiên xé bỏ ước hẹn cũ giữa hai nhà, mặc kệ anh Khoáng có đồng ý hay không. "

Phạm Ngọc Trần bây giờ mới hiểu, đối với Hổ Vương, ước hẹn với người xưa tuy là quan trọng, nhưng vẫn không bằng hạnh phúc cả đời của con gái.

Hổ Vương trong lòng thấy bất nhẫn, bèn nói:

" Ngọc Trần, mấy hôm trước cha nói chuyện với thằng Đinh Lễ rồi. Ý nó muốn giữ lại thánh mạch không chữa, lấy thần lực thánh mạch ban cho để đánh giặc giúp nước. Chí của y không đặt ở nhi nữ tình trường, lại sợ làm lỡ dở con, nên mới phải ra hạ sách đó. Con nếu đã có tình cảm với nó, thì cũng nên ủng hộ hoài bão của nó. "

Nói ra được chuyện này, lòng ông tự nhiên thấy nhẹ nhõm hơn chút đỉnh. Tuy nguyên nhân sâu xa là do ngăn cản thánh mạch kết hợp với quả trầm, nhưng chuyện Đinh Lễ không muốn yên bề gia thất bây giờ cũng không phải là giả.

Phạm Ngọc Trần yên lặng một chốc, đoạn thở dài, rồi mới nói:

" Chuyện này, thực ra con cũng đoán được một hai rồi. Nhưng sao anh ta không nói ngay từ lúc đấy, mà phải đóng màn kịch phũ phàng như vậy. Làm con tức muốn khóc lên được. "

Hổ Vương đáp:

" Cô làm như cậu ta không dùng cái giọng ấy, thì cô sẽ nghe đấy. Tôi đẻ ra cô tôi còn lạ gì, kiêu ngạo thành tính, thân lừa ưa nặng. "

Phạm Ngọc Trần đang leo sau lưng ông, không thể nhìn biểu cảm trên mặt cha, nhưng nghe giọng thì cô nàng đoán chắc Hổ Vương vừa bĩu môi một cái dài cả dặm đường trước câu hỏi của cô. Nhưng khi Phạm Ngọc Trần nghĩ cẩn thận, thì quả thực lúc ấy nếu Đinh Lễ nói nhẹ, chắc cô nàng sẽ cố thuyết phục y bằng được. Mà cho dù có thất bại, thì cũng khó mà bình tĩnh tiếp nhận như bây giờ được.

Vậy mới nói kì thực trên đời, có những chuyện không phải ai nói cũng được tiếp nhận giống hệt nhau. Cô nàng đảo mắt một cái, lại đổi giọng:

" Cha này, hay bây giờ con đến chỗ Lê Lợi đánh trận, trước là có thể dùng thuật ngự thú giúp đỡ ít nhiều, sau cũng để từ từ quan sát xem anh ta là người ra sao. "

" Tiền tuyến là nơi giáo gươm va chạm, cung mác tung hoành, nghiêm hiểm trùng trùng như sóng, đâu phải chỗ cho trẻ con chơi? "

Hổ Vương nghe vậy, lập tức rắn giọng từ chối.

Phạm Ngọc Trần bấy giờ mới giở chiêu làm nũng, dụi mặt vào tóc Hổ Vương mà yêu cầu:

" Cha... đồng ý đi mà... cùng lắm cha cho chú bác nào trong bản theo sát bảo vệ con là được. "

Hổ Vương thở dài:

" Cái giọng này tức là nếu cha cô không đồng ý, thì cô lại tự ý chạy đến chỗ quân Trần có đúng không? Ài... con mới chả cái, từng này tuổi đầu rồi mà tôi còn phải đau đầu nhức óc lên vì cô mấy phen. "

Thấy Hổ Vương không phản đối nữa, Phạm Ngọc Trần mới khấp khởi mừng thầm.

Đêm hôm ấy, Hổ Vương không nghỉ ngơi mà cưỡi hổ chạy đến chỗ trại chó của Nguyễn Xí, tìm một gian nhà còn sáng đèn mà vào.

Vừa đẩy cửa, thì Đinh Lễ đã đặt quyển binh thư trên tay xuống bàn, vái chào ông một cái.

Hổ Vương bèn phất tay, lại nói:

" Chuyện hôm nay đúng là làm khó cậu. "

" Không có gì đâu Hổ Vương, Ngọc Trần dù sao cũng là bạn cháu, sao cháu đành lòng để cô ấy mất mạng vì cháu được? "

Đinh Lễ cười, kéo ghế để Hổ Vương ngồi, lại đi rót nước mời ông.

Có tiếng y vọng từ buồng trong ra:

" Thực lòng mà nói, nếu không làm theo kế của Hổ Vương, lấy cá tính kiêu ngạo ương ngạnh của Ngọc Trần chắc gì đã chịu nghe cháu giải thích. Hà huống chi, chuyện ngọc nát hương bay sau khi cháu và cô ấy kết hợp thực quá hoang đường. Nếu không phải Hổ Vương là người thẳng tính, lại có cả lời của thiền sư Tuệ Tĩnh thì ngay cả cháu chưa chắc đã tin nổi. "

Hổ Vương nói:

" Dù có thế nào đi chăng nữa, thì chuyện ta thiếu cậu một cái ân là có thật. Thế nên, vật này coi như là lễ tạ. "

Đinh Lễ chưa kịp nói lời chối từ thì Hổ Vương đã mất bóng. Trong căn phòng leo lét ánh đèn chỉ còn chén nước ông chưa từng đụng môi, và một hai trang sách vàng vọt cũ kỹ trên bàn.

Tờ thứ nhất ghi mấy chữ;

" Thần công này tuyệt đối không thể truyền cho bất cứ ai khác, học nằm lòng rồi thì mau đốt nó đi. Sau này nếu có người hỏi, thì tuyệt đối không thể khai ra tên của môn thần công này, bằng không cho dù cậu chạy tới chân trời góc bể, ta cũng tìm giết bằng được. "

Đinh Lễ thầm nghĩ:

[ Rốt cuộc là thứ thần công gì mà Hổ Vương lại đặt điều kiện nghiêm cẩn hà khác đến thế? ]

Đầu nghĩ, thì tay đã giở đến tờ thứ hai.

Bốn chữ đầu tiên đập vào mắt Đinh Lễ chính là " Phiên Thiên Chân Ngôn ".

Chương 301: Hồi hai mươi sáu (7)

Lại kể chuyện Hậu Trần đánh Minh đã đến lúc khẩn yếu.

Tháng ba tổng binh Hàn Quan ốm chết, Trương Phụ đoán là do quân Hậu Trần giở trò quỷ quái, nhưng không sao lần được chút dấu vết nào, bởi manh mối cứ đến Hải Thượng Hung Lang là đứt đoạn.

Lão thầm nghĩ ắt hẳn phải có chuyện bất thường gì, bằng không một tướng lão luyện như Hàn Quan khó mà sơ xẩy như thế. Song chuyện Hải Thượng Hung Lang và Đông Hải Kình Nương là đối thủ không đội trời chung không phải là giả, chính lão cũng từng thấy hai băng cướp cọ sát sống mái một phen.

Thành thử lão càng thêm nghi ngờ...

Lão cũng đã nói chuyện này với Mộc Thạnh, thì lão nói:

" Không phải đám giang hồ thảo mãng Giao Chỉ có một bọn lặn rất giỏi, lần trước đánh với quân Hồ chính bọn chúng âm thầm đục thuyền của Đại Ngu hay sao??? Có thể là bọn chúng giở trò quỷ. "

Trương Phụ trầm giọng:

" Cũng không loại trừ khả năng này. Nhưng bọn chúng dù có thở được dưới nước như là cá đi nữa, thì lúc đánh đắm thuyền cũng phải chìm lần lượt từng cái từng cái, Hàn tổng binh chắc chắn sẽ để ý. Đằng này đoàn thuyền neo ở bến bình an vô sự, vừa ra đến biển là chìm một loạt. Chẳng lẽ chúng bơi theo thuyền lớn mà đục không bằng? "

Mộc Thạnh bèn hỏi:

" Đúng là chuyện khó tin. Thế sắp tới đây chúng ta đánh tiếp hay thư thả dăm bữa nửa tháng? "

" Mộc hầu muốn tiến công ngay đúng không? "

Trương Phụ nhìn thẳng vào Mộc Thạnh, nhếch mép hỏi ngược lại lão. Cùng chinh chiến nhiều năm, trước sau đánh với quân Hồ và Hậu Trần đều trên đất Đại Việt này, thế nên lão rất hiểu cách cầm quân của họ Mộc.

Mộc Thạnh bèn nói:

" Cứ dựa theo chiến báo truyền về, thì quân Trần đánh vào các đồn trại của ta ở ven biển cũng tử thương thảm trọng, xem chừng chỉ còn ba bốn phần mười. Thiết nghĩ cơ hội đánh rắn dập đầu, nhổ cỏ tận gốc đã ở ngay trước mắt, không chớp lấy thì còn đợi khi nào??? "

" Chúng cử Nguyễn Biểu đem cống phẩm cầu phong, Mộc hầu không tin hay sao? "

" Đấy chỉ là kế hoãn binh của Đặng Dung, tôi nghĩ Trương hầu cũng chẳng để trong lòng, bằng không đã không cho người chém sứ. "

Mộc Thạnh đáp lại câu hỏi của lão bằng một tiếng cười nhạt.

Trương Phụ bèn nói:

" Đám người phương Nam này giống như cỏ dại. Nếu không đánh dập đầu thị uy, thì thể nào chúng cũng kéo nhau nổi dậy thêm lần nữa. Mộc hầu nói không sai, lúc này không dùng thế nổi gió to quét sạch lá khô, thông tổ kiến phá toang đê vỡ thì còn chờ tới khi nào? "

Lão cười gằn, lại tiếp:

" Riêng đám giang hồ thảo mãng thì tôi đã có biện pháp hàng phục, Mộc hầu hãy mau điểm tướng, xuất phát càng sớm càng tốt. "

Tháng tư năm ấy, Trương Mộc kéo đại quân đánh thẳng vào Nghệ An.

Quân tướng Hậu Trần vừa trải qua chiến trận dai dẳng khắp các vùng Hải Đông, Vân Đồn, mệt mỏi uể oải, lại chưa kịp chiêu mộ huấn luyện thêm tân binh bổ sung vào quân ngũ, lực lượng có hạn. Hai bên giao chiến mấy trận, quân Hậu Trần nhắm cự lại không nổi, Đặng Dung bèn cho rút quân về Hóa châu đặng bảo toàn lực lượng. Nghệ An rơi vào tay Phụ.

Không đợi quân Trần phục hồi nguyên khí, vừa sang tháng sáu, quân Minh lại được tăng viện từ phương bắc, binh lực hùng hậu, lương đủ ngựa nhiều, Trương Mộc lại kéo quân đánh vào Hóa châu, quyết phải giết sạch quân Trần không chừa một mống mới thôi. Thanh thế của chúng mạnh như vũ bão, thật là khiếp người.

Thấy thế quân Minh hung hãn, lúc Trương Phụ kéo đến Nghệ An, Thái bảo nhà Trần là Phan Quý Hựu xin hàng, Phụ mừng lắm. Được độ một tuần, Quý Hựu bị bệnh chết, Phụ trao cho con của Hựu là Liêu làm tri phủ Nghệ An, lại thưởng cho gia đình Liêu rất hậu. Liêu đem tình hình tướng tá nhà Trần kẻ hay người dở, núi sông trong nước chỗ hiểm chỗ bằng và số quân nhiều ít nói hết cho Phụ biết, bấy giờ Phụ mới quyết chí đánh lấy Hóa Châu.

Phụ họp các tướng bàn kế đánh chiếm. Hoàng Phúc nói: " Hóa Châu núi cao, biển rộng, chưa dễ mà lấy được đâu ". Phụ nói: " Tôi có sống được là ở Hóa Châu, tôi có chết cũng là ở Hóa Châu, Hóa Châu mà chưa bình định xong, thì tôi còn mặt mắt nào trông thấy chúa thượng nữa? ".

Phụ bèn đem chu sư tiến đánh Hóa Châu, tương truyền chỉ mất 21 ngày là đánh được vào thành châu Thuận Hóa.

Quân Hậu Trần tiếp tục thua trận, chạy miết về phía nam. Dọc đường, Đặng Dung bèn nói với Hoàng Thiên Hóa:

" Xem ra chuyện đập nồi dìm thuyền con bảo bác không thể không làm rồi. "

Hoàng Thiên Hóa cau mày, nói:

" Chuyện chuyển lời thì bác không ngại đi thay con một chuyến, nhưng người nọ sẽ đồng ý hay sao? Lại nói, Trùng Quang đế... "

Đặng Dung thở dài, đáp:

" Chỗ của thánh thượng bác cứ để con lo. Còn phía người nọ, thì chắc chắn y sẽ nể mặt sư huynh y từng có giao tình với cha con mà ra tay. Bác cứ chuyển giúp con bức thư này tới cho y. "

Hoàng Thiên Hóa đón phong thư từ tay cháu, lại hỏi:

" Còn bao lâu? "

" Không quá ba tháng. Chậm nhất thì trước khi đại quân rút binh tới sông Thạch Hãn, bác phải mang viện binh tới phục sẵn, bằng không bại cục này không thể vãn hồi được. "

Đặng Dung vừa nói xong, lại cho người đem thanh kiếm Long Tuyền đến, đưa cho Hoàng Thiên Hóa đặng làm tín vật. Đảo chủ đảo Bạch Long quẩy kiếm lên vai, nói lời từ tạ rồi phóng mình về phương xa.

Đặng Dung liệu sự không sai một li, mặc cho quân tướng liều chết tương chiến, cũng chỉ có thể làm chậm bước tiếng của quân Minh ít nhiều mà thôi. Bại cục của quân Trần cơ hồ đã thành chuyện khó mà tránh được, tuy hiện giờ như tảng đá cản giữa lòng sông, trước thế công như lũ quét của Trương Mộc thì chuyện thất bại đã là điều tất yếu.

Đến tháng chín năm ấy, quân Hậu Trần thua một trận lớn, bọn Đồng Mặc, Nguyễn Ngân Hà liều chết bọc hậu để đại quân thoát đi, hi sinh tráng liệt.

Quân Hậu Trần lúc này rút đến cửa sông Sái Giá, vốn là một nhánh của sông Thạch Hãn thì được tin quân Minh đã ở phía sau năm mươi dặm. Đặng Dung vẫn bình thản cho quân vượt sông.

Bấy lâu nay đánh trận thua nhiều thắng ít, các tướng khó mà giữ được bình tĩnh. Đến ngay cả Trùng Quang đế cũng cảm thấy chán nản, bèn nhân lúc ngồi thuyền vượt sông họp các tướng lại:

" Thế giặc quá mạnh, quả nhân thực không biết phải làm thế nào. Các tướng ngày thường ăn lộc vua, nay có thể phân ưu cùng ta không? "

Lúc này chư tướng đều trầm mặc.

Không phải không muốn đánh, mà thực sự không biết đánh ra sao.

Tàn quân trơ trọi, đấu với quân tướng tinh nhuệ của đối phương, làm sao mà chống đỡ?

Duy chỉ có Đặng Dung chậm rãi cất lời:

" Bẩm thánh thượng, bây giờ có chạy tiếp, thì cũng chỉ lâm vào thế gọng kìm, trước có đại quân của giặc bắc, sau có tàn quân rợ Miên. Chi bằng chúng ta lấy mặt nam sông Thạch Hãn làm đại doanh, quyết sống mái một phen với giặc. Cho dù có binh bại thân vong, cũng được oanh liệt với núi sông. "

Nguyễn Cảnh Dị chợt lên tiếng:

" Trận lần này tôi thực sự không thể đồng ý với ngài. Giặc đang được thế cuồng phong bạo vũ. Nếu như ta may mắn thắng được trận này, thì đúng là có thể giáng một đòn vào thanh thế của giặc, ngõ hầu cản bước tiến quân hung tợn. Nhưng ngài chớ quên rằng, muốn tiếp tục đại sự đánh giặc cứu nước, thì thắng thôi là chưa đủ, mà phải là đại thắng ròn rã mới xong. Nhưng nay quân ta chỉ rặt hơn vạn tàn quân, giặc thì đông tới năm bảy vạn, binh tướng tinh nhuệ thiện chiến... thú thực là cửa thắng của ta nếu có cũng chỉ mảnh như đường tơ, chớ nói chi đến chuyện đại thắng. "

Đặng Dung nói:

" Tướng quân đã quên đi một chuyện. Nếu chúng ta làm được, nguyên khí của giặc sẽ trọng thương, ít nhiều cũng năm bảy năm mới khôi phục nổi. Đến lúc ấy, tự khắc nghĩa quân sẽ có thời gian chiêu binh mãi mã, giành lại núi sông. "

Nguyễn Cảnh Dị nghĩ kỹ một chốc, chợt một ý tưởng điên rồ xẹt qua đầu y.

" Lẽ nào... ngài định giết thằng giặc già Trương Phụ? "

" Ấy là cách duy nhất. "

Đặng Dung nói xong, bỏ ghế, ngã xuống mặt thuyền quỳ với Trùng Quang đế mà tâu rằng:

" Nếu thánh thượng tin tưởng, trận này xin cho Dung toàn quyền. Nhược bằng không, xin hãy nghe lời Cảnh Dị Nguyễn Súy dẫn theo anh em còn lại ẩn náu trong rừng sâu núi thẳm, chờ thời lại vùng lên đánh giặc. Dung chỉ cần một ngàn quân, cũng xin học theo Bảo Nghĩa vương năm xưa, quyết cản giặc cho thánh thượng thoát thân. "

Y nói đến đây, thì có mấy chục người không nhịn được, kẻ đứng bật dậy người đập tay vào bàn. Trần Quý Khoáng lúc này cũng thấy máu nóng sục sôi, quát to:

" Chuẩn tấu! Trẫm có làm ma vong quốc, cũng không chịu cô đơn nơi suối vàng! Thể nào cũng phải kéo mấy ngàn quân giặc xuống bồi táng mới xong! "

Lê Lợi đến đỡ y dậy, nói:

" Chúng tôi xin được sống chết cùng ngài. "

Đặng Dung gật đầu, nhưng lại nói một câu rất nhỏ:

" Một lát phiền tướng quân đến chỗ ta, có chuyện cần nói riêng với cậu. "

Lê Lợi tuy không biết y muốn nói gì, nhưng cũng biết Đặng Dung không phải người hay nói lời thừa. Y đã muốn gặp chàng, có lời muốn nói, thì tất là có dụng ý riêng.

Cửa Sái Già địa thế phức tạp mười phần, nơi đây sông Thạch Hãn bị bẻ dòng, lại hợp dòng với vài con sông nhỏ rồi mới đổ ra cửa biển. Thành thử, ngay trên khúc sông lớn nhất cũng có hai cù lao lớn, nay thuộc địa phận làng Bác Phước. Đoạn sông hẹp dần về tây, chỉ độ hai mươi lăm trượng, phía đông phình ra, nơi rộng nhất đến hơn một trăm trượng.

Đặng Dung để một tướng chèo thuyền, dẫn theo mấy ngàn quân bẻ lái sang cù lao nhỏ ở phía tây, trước là hạ trại, sau là đóng cọc ở bờ sông, lại cho giăng xích ở cửa sông để cản thuyền quân Minh đổ vào dòng nhỏ phía tây. Nguyễn Súy xung phong lãnh binh. Trước khi lên đường, Đặng Dung còn dặn:

" Tướng quân chốt ở chỗ này, ắt phải cố sức chặn hầu không cho giặc dùng bộ binh và kị binh đánh vào mé tả của ta. Một khi nơi này mất, giặc sẽ có thể dùng thuyền xuôi dòng Thạch Hãn, vòng ra phía sau Bác Phước. Nam có thể đánh thẳng hầu hậu quân thánh thượng, bắc có thể thọc ngay lưng trung quân của ta. Chỗ tướng quân đóng quân ba phía là sông rộng, mặt bắc phải giáp trận với giặc, một khi thất thủ thì không có chốn nào để rút quân, chỉ có thể liều chết mà đánh. Nếu không phải đây là trọng địa không thể để lọt vào tay giặc, thì tôi cũng không muốn đưa quân lên trấn thủ, bởi đây là một con đường không có lối về. "

Trung quân đóng ở làng Bắc Phước, do Đặng Dung cầm đầu. Ngoại trừ việc đóng cọc phòng thủ, đắp hào công sự, thì Đặng Dung cho neo thuyền lớn ra giữa dòng chặn cứng lối vào hai cửa sông lớn không cho quân Minh vòng ra đánh móc từ sau lưng.

Lúc này, Nguyễn Cảnh Dị lại hỏi:

" Thế nhỡ giặc theo cửa biển đánh vào thì sao? "

Đặng Dung cười, đáp:

" Với cá tính của Trương Phụ, chắc chắn lão sẽ cho một cánh thủy binh đánh thọc từ biển vào. Công thì có thể làm một chi kì binh đánh thọc sườn ta, thủ thì có thể chờ ở cửa sông nếu cần rút chạy ra biển. Nhưng tướng quân chớ lo, Dung đã có chuẩn bị sẵn. "

Phía đông làng Bác Thước là làng Triệu An, là một làng chài duyên hải, giáp với biển Đông. Đặng Dung cho Nguyễn Cảnh Dị thống lĩnh tả quân, trước tiên là sang đó hội họp với Đông Hải Kình Nương nhận hỏa pháo chống giặc, sau là thủ vững bờ sông chớ để quân Minh vượt sông Thạch Hãn.

Nguyễn Cảnh Dị thấy y nhắc đến Đông Hải Kình Nương, lại có sẵn cả hỏa pháo, không khỏi kinh ngạc.

Té ra ngay từ ngày đầu xuân năm mới, Đặng Dung đã có phòng hờ chuyện hôm nay, nên mới chôn sẵn Đông Hải Kình Nương ở đây. Bằng không rút quân thần tốc, vừa chạy vừa đánh trả, đâu có thời giờ và sức lực mà tải theo hỏa pháo đạn dược?

Sở dĩ Nguyễn Cảnh Dị không nhắc chuyện cố thủ, là bởi địa thế Sái Già phức tạp, chỉ dựa vào công sự, bãi cọc, cung tên mà không có hỏa pháo thì chắc chắn không giữ nổi. Nhưng nếu có hỏa pháo trong tay, thì địa thế phức tạp lại thành có lợi cho Hậu Trần. Mà Trương Phụ có tài trí bằng trời cũng không thể tưởng tượng được đang lúc rút quân thần tốc mà Đặng Dung và Trùng Quang đế lại hóa phép được từ đâu ra một lô hỏa pháo.

Nguyễn Cảnh Dị thân là tướng chinh chiến sa trường, lập tức đáp ứng. Sở dĩ Đặng Dung không nhắc gì tới phòng thủ ở cửa biển, là bởi cánh quân đánh úp từ ngoài biển vào của quân Minh sẽ có hải tặc của Đông Hải Kình Nương xử lí, kìm chân.

" Tôi sẽ làm thật nhanh, bãi cọc, hào đất và xích sắt chỉ vài ngày là chuẩn bị xong theo lời ngài. "

Bất ngờ, Đặng Dung lại nói:

" Không cần phải nhanh, mà cần phải làm cẩn thận, chớ để sai sót. "

" Nhưng... "

Nguyễn Cảnh Dị tự nhủ quân Minh đã ở cách đấy có vài chục dặm, cho dù có mất công cho thám quân đi dọ thám tình thế mai phục quanh đấy thì cũng chỉ vài ngày là xong. Thời gian ngắn như vậy, liệu có làm xong nổi yêu cầu của Đặng Dung hay không?

Đặng Dung bèn đáp:

" Cha tôi bảo, lúc thằng giặc già họ Trương cầm quân, thường rất hay lợi dụng lòng người. Trước đây lão giở trò lợi dụng hàng tướng, hàng quân của Đại Ngu nhiễu loạn lòng dân, mà ngay cả trận đánh ở Hóa châu y cũng không công gấp. Nguyên do là muốn dùng áp lực từ từ nghiền nát ý chí của ta, suy bại sĩ khí của ta. Thêm nữa, hắn cũng phải đợi cánh quân ngoài biển vào. Mà chính cái tâm lí cầm quân này sẽ cho ta đủ thì giờ chuẩn bị kỹ lưỡng. Nếu bây giờ gấp lên mới là hỏng chuyện. "

Nguyễn Cảnh Dị thấy lời y có lí, mà Trần Quý Khoáng đã sớm cho Đặng Dung toàn quyền, nên không hỏi nhiều nữa.

Dù sao lần này cũng là ôm tâm liều chết...

Mà Đặng Dung, thì lại nghĩ bụng:

[ Tin đồn hẳn là cũng được loan đi rất xa rồi. ]

Số là, khi giao số pháo cho Đông Hải Kình Nương nhờ giữ hộ, thì y cũng đã bí mật nhờ thị giúp loan một tin đồn về sông Thạch Hãn. Ấy là, khúc sông này vốn là chiến trường cổ, có hàng ngàn hàng vạn oan hồn chết trận ám riệt lấy. Khi máu người đánh động chiến trường, đánh thức những oan hồn này, thì chúng sẽ hiện lên mặt sông.

Đặng Dung thấy đã sắp xếp mọi chuyện ổn thỏa đâu đấy, bèn nhẩm tính:

[ Trận tới đây đã dốc sạch vốn, Trương Phụ ơi là Trương Phụ, lần này nếu không lấy được đầu của mày thì quân ta thật là vạn kiếp bất phục, không gượng dậy được nữa. ]

Lúc này thì Lê Lợi tìm đến, trước là thi lễ, sau lại hỏi:

" Quan Bình Chương có gì căn dặn, mạt tướng có chết cũng xin hoàn thành. "

Đặng Dung bấy giờ ngước lên, đôi mắt như có lửa cháy nhìn chằm chằm vào chàng, nói:

" Tôi muốn tướng quân đào ngũ! "

Chương

Chương 302: Hồi hai mươi sáu (8)

Lại kể chuyện của Tạng Cẩu...

Lí Bân thấy Tạng Cẩu đột nhiên đặt một câu hỏi liên quan tới hơn sáu trăm năm sau, thì không khỏi kinh ngạc. Lúc này y tự nhủ không biết cậu thiếu niên trước mặt có phải cũng là người của thế giới tương lai vượt thời gian trở về thời Minh – Hậu Lê này hay không. Song, nhớ lại phản ứng của Tạng Cẩu lúc y trải lòng về thân thế thực sự của bản thân, thì Lí Bân nghĩ ấy không phải giả vờ. Mà cậu chàng đã kinh ngạc như thế, thì cái khái niệm " du hành thời gian " này hẳn phải mới lạ với Tạng Cẩu lắm, chứ ở thế giới tương lai thì thiếu gì truyện, phim sử dụng yếu tố này?

Lí Bân hít sâu một hơi, lại tiếp:

" Sáu trăm năm mươi năm sau, các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới đặt ra một giả thiết, tạo nên một siêu hợp kim dùng để du hành vũ trụ. Một hợp kim thông minh, với các thuộc tính như độ cứng, độ đàn hồi, độ chịu biến dạng, trọng lượng có thể được thay đổi một cách tự do. Mà viên châu của cậu khiến tôi nhớ đến thứ hợp kim ấy. "

Y nói xong mới nhận ra Tạng Cẩu đang ngẩn tò te nhìn mình, mới sực tỉnh đang nói chuyện với một người thời trung đại, bèn cẩn thận giải thích những từ như " nhà khoa học ", " hợp kim ", " vũ trụ "...v.v...

Đương nhiên, y không nói sâu về vấn đề này, mà chỉ giảng giải thoáng qua cho Tạng Cẩu đủ hiểu. Y nghĩ thầm:

[ Dù cậu ta không xuất hiện trong chính sử, nhưng trời mới biết suốt cuộc đời cậu ta tiếp xúc với những ai. Ngộ nhỡ sau này cậu ta chạy lăng quăng, nói cho Chu Đệ về Châu Âu, vũ trụ thì đúng là xong đời. ]

Tạng Cẩu nghe vậy thì gật gù, đoạn nói:

" Nhưng cớ sao anh lại nghĩ đồng đen là thứ hợp kim của tương lai, mà không nghĩ rằng đây là huyền thiết? "

Lí Bân bèn đáp:

" Cậu xem này. Những vật màu đen bình thường sẽ không phản chiếu ánh sáng, nhưng thanh đao màu đen này nếu như vũ động thì sẽ để lại một dải đao quang, tuy rất nhạt. Thiết nghĩ châu của cậu chắc cũng tương tự, nhưng vì nhỏ, nên khó mà nhìn rõ được bằng. Lấy kiến thức sáu trăm năm sau của tôi cũng không lí giải được nguyên do. "

Y nói đên đây thì nhún vai:

" Viên châu của cậu, và thanh đao kia, nếu thực là làm từ cùng một vật liệu thì tôi không nghĩ thuộc về thời đại này. Chắc đến tám chín phần là kim khí của tương lai. "

Hôm nay đã nghe bao nhiêu chuyện hoang đường không thể tưởng tượng nổi, thành thử đầu Tạng Cẩu đã có chút đau nhức. Nào là linh hồn vượt thời gian, nào là hợp kim của tương lai, những chuyện này quả thực có cho Tạng Cẩu đọc sách thêm trăm năm chắc cũng chẳng nghĩ đến.

Thấy sắc trời đã muộn, vài ngày tới là thời gian xuống mộ, Tạng Cẩu bèn từ tạ Lí Bân, đoạn cùng Phiêu Hương trở về Lí phủ. Những ngày sau đó, hai người vừa điều chỉnh trạng thái, vừa chuẩn bị những vật cần thiết để vào mộ cổ phá giải bí mật Rồng Không Đuôi. Tuy là nói, dựa vào chìa khóa Loa thành hẳn là có thể mở được cửa sinh của mộ thất, song cũng chưa nói chắc được chuyện gì sẽ xảy ra, thành thử cẩn tắc vẫn hơn. Mộ cổ một ngàn năm trăm năm tuổi, quỷ mới biết sẽ có những hung hiểm gì đang chờ sẵn.

Nhất là kể từ khi biết đồng đen rất có thể là một vật liệu đến từ thế giới tương lai thì hai người càng thêm cẩn trọng. Bởi... điều ấy có nghĩa những cạm bẫy đặt trong mộ cổ thực tế không hề bị giới hạn bởi kỹ thuật của người đời Tần như họ vẫn tưởng.

Con người sợ nhất thứ họ không biết...

Bởi họ không biết phải đối phó với chúng ra sao.

Lúc họ không rõ mình sẽ phải đối mặt với cái gì, thường thí trí tưởng tượng sẽ đưa đường dẫn lối, kết cục là tự mình doạ mình, chưa ra trận sĩ khí đã thành không.

Bây giờ, điều Tạng Cẩu và Phiêu Hương phải làm chính là giữ bản thân ở trên lằn ranh mong manh giữa tự mình doạ mình và chủ quan khinh địch. Lúc này hai người như nghệ sĩ đi trên dây, vắt giữa hai vách núi, ngã về bên nào thì kết cục duy nhất cũng là cái chết.

Thời gian này, Tạng Cẩu được Trương Tam Phong chỉ điểm ít nhiều, kiến giải về võ học tăng thêm không ít. Cảnh giới vô ngã ngộ ra trong lúc phá trận Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới cũng vững chắc thêm mấy phần.

Nguyên Mãn đại sư sau khi biết hai người bị oan, thì có âm thầm nhờ Trương Tam Phong chuyển lời cho Tạng Cẩu. Nếu dùng chìa đá mở cửa, thì lúc xuống mộ không lâu sẽ lọt vào một cái đầm. Bên trong đầm là một con rồng lớn, hung tàn vô cùng, lực lớn vạn cân. Phàm là kẻ rơi xuống nước, tức thì mặt nước sẽ nổi ba đào dữ dội, máu đỏ loang ra be bét cả đầm, rốt cuộc thứ nổi lên là một phần của một tấm lưng sần sùi đầy vảy cứng...

Đáng nói là thứ này dài tới một trượng.

Cá sấu ở sông Dương Tử lớn lắm cũng chỉ nửa trượng mà thôi, một tấm lưng nổi lên chưa hên đã dài gấp đôi một con cá sấu trưởng thành thì cũng thật là kinh khủng.

Quần hào vượt bao cạm bẫy, vốn đã hao tổn, lại gặp cái đầm ác thú, mới biết ấy là tuyệt lộ.

Lúc rút khỏi mộ, Lí Thông mới phát hiện ở mặt dưới ổ khoá có một chỗ khuyết. Y đặt ra giả thiết, muốn vào được cửa sinh của mộ cổ cần phải có đến hai cái chìa khoá.

Chuyện sau đó, xảy ra như đã kể...

Tạng Cẩu chưa thấy rồng bao giờ, nên cũng không hình dung được tràng cảnh lúc ấy. Nhưng nghe lời kể của Nguyên Mãn đại sư thì không khỏi rùng mình.

Một con hung thú dài đến hai ba trượng, hình thể khổng lồ như thế, võ công có cao bằng trời cũng không thể chống lại được.

Còn về tính chính xác của thông tin thì lại càng không có gì phải nghi ngờ cả.

Cậu chàng tin vào cách làm người của ông...

Tạng Cẩu bàn với Phiêu Hương, nói những gì mình biết cho quần hào. Cô nàng bèn cười nhạt:

" Trước hết, có nói, thì cũng chỉ nói cho Nguyên Mãn đại sư và Trương chân nhân. Sau nữa, cậu xem cái câu chuyện của cậu nói ra thì ai thèm tin? Mộ cổ một ngàn năm trăm năm trước, có bày cạm bẫy hơn sáu trăm năm sau? Cẩu ơi là Cẩu, cứ lúc cần thiết thì lại ngơ bất thình lình là thế nào?? "

" Nhưng đồng đen còn đây, tớ tin Trương chân nhân sẽ... "

Hồ Phiêu Hương bèn nói:

" Cẩu thấy mình dở hơi không? Trong mộ không khéo sẽ có cả cách luyện chế đồng đen! Thứ kim khí này có ai trên đời không ham?? Có dùng đồng đen thì chỉ càng khiến bọn họ trở nên tham lam hơn mà thôi. Mà chuyện khó tin như thế, Trương chân nhân đức cao vọng trọng hơn nữa thì cũng chẳng ai thèm tin.

Cẩu không nghe thấy người ta muốn gì sao?? Không thiếu kẻ muốn cướp lấy bí mật để ép nước ta làm quận làm huyện mãi mãi. Bí mật Rồng Không Đuôi này tớ và Cẩu buộc phải có. Thuận Thiên Kiếm là biểu tượng của ngôi vua, càng không thể để nó lưu lạc xứ người thêm được. Bây giờ không phải lúc để mềm lòng. "

Tạng Cẩu thở dài, nhìn lên bầu không:

" Chẳng nhẽ cứ phải tranh giành cướp đoạt nhau hay sao? "

Thời gian sẽ không vì cơn rối bời trong lòng người mà trôi chậm lại.

Thời gian thấm thoát, chẳng mấy mà ngày vào mộ đã đến.

Tinh sương, thì hai người Tạng Cẩu đã được đưa đến hậu sơn Lí gia trang, đến trước một khu mộ bề thế trải đá trắng, quay mặt về phía nam.

Mộ không có tên...

Cắm ở nơi đáng lẽ là đỉnh để hương khói là một cây côn sắt. Năm tháng qua đi, côn đã hoen gỉ, nhưng quần hào nhìn vào đều không tự chủ cảm thấy trong lòng chấn động, kính cẩn hơi cúi đầu. Phảng phất trong lòng là hình ảnh Thượng Đẳng Thiên Vương mình vận áo giáp, tay vung côn sắt, đội trời đạp đất đang sừng sững trước mắt.

Lúc này, Tạng Cẩu bèn nói:

" Người của các môn các phái vào mộ xin đứng ra phía trước một bước. "

Cậu chàng đang nắm chìa khoá mở cửa sinh, nên không ai dại gì xé rách da mặt lúc này cả. Cho dù không nể nang võ lực của Tạng Cẩu, thì cũng không thể không để Trương Tam Phong vào mắt.

Sáu môn phái lớn, trừ Không Động có Chấn Nguyên tử tự thân xuất mã, thì đều cử đệ tử ưu tú nhất ra.

Diệu Định sư thái đã bị thương, Quảng Thành tử hai tay đã bị đánh cho thành tật, không thể vào mộ. Mà các phái khác cự nhiên cũng sẽ giữ lại người mạnh nhất, phòng hờ bên ngoài có biến cố gì...

Tạng Cẩu thấy các môn phái này đều coi nguy hiểm bên ngoài lớn hơn cạm bẫy trong mộ thì cảm thấy không biết nói sao.

Chưa thành sự đã đấu đá, lần này vào mộ e là không có bao nhiêu người sống mà ra được.

Cậu chàng nghĩ vậy, song đương nhiên không nói lời xui xẻo này ra miệng.

Chờ sáu đại diện của lục đại phái bước ra rồi, lần này đến các thế lực nhỏ hơn, hoặc khách độc hành cũng tiến lên. Nháy mắt một đội này đã có số lượng hơn năm mươi người.

Tạng Cẩu bèn nói:

" Cảm phiền các vị lập thề, vào mộ rồi thì sống hay chết bỏ, bất luận ai có được cơ duyên thì người đó hưởng, cấm tuyệt đối chuyện trả thù, đánh cướp. "

" Tiểu tử, lẽ nào ngươi cho rằng bọn ta là hạng người vô sỉ sao mà đòi phải thề? "

" Các ngươi chớ có được đằng chân lân đằng đầu! "

Trong số quần hào, có vài người lên tiếng phản đối.

Hồ Phiêu Hương chợt nhún vai, nói chen vào:

" Các vị đã nói thế, đám man di chúng tôi cũng hết cách. Bây giờ tiểu nữ xin tuyên bố, các người không còn tư cách vào mộ kiếm cơ duyên nữa! Chư vị còn đứng đây một khắc, thì ta quyết không vào mộ. "

Đoạn, cô nàng nhìn quanh, cười nhạt:

" Bây giờ giải quyết ra sao thì tuỳ các vị. Hoặc là bọn họ không vào, hoặc là không ai vào mộ! Không có lựa chọn thứ ba. "

" Ngươi... các ngươi không nói đạo lí? "

Những kẻ vừa lên tiếng phản đối không ngờ hai người giở trò này, thành ra đều hét toáng lên, cố sức phân bua.

Hồ Phiêu Hương mỉm cười:

" Không phải các vị vẫn bảo người Nam chúng ta man di mọi rợ, không hiểu phong tục lễ giáo hay sao? Bây giờ lại bắt chúng ta nói lí? "

Cô nàng nói xong, quả nhiên những kẻ vừa phản đối thấy họng đắng như nuốt bồ hòn.

Không ai nói ra, nhưng ai mà chẳng nhớ mấy ngày trước lúc hùa theo Gia Luật Vân hạch tội hai người, bản thân đã buông lời mắng chửi ra sao.

Mồm năm miệng mười chửi kẻ khác là man di không hiểu lễ nghi, đến nay lại bị người ta nói cho cứng họng, đúng là sự buồn cười. Nếu không phải cơ duyên trong mộ thánh Chèm quá mê người, có lẽ bọn họ đã tự xấu hổ mà lủi mất.

Nhưng cũng phải nói, mật ngọt thì chết ruồi. Một số kẻ vẫn chưa từ bỏ, định kích động quần hào lao vào cướp chìa khoá Loa thành, nhưng lại sực nhớ Trương Tam Phong vẫn đang nhìn chằm chằm, nên lại rụt cổ thụt lưỡi.

Mà chính vào lúc những người này còn đang không biết làm sao thì số nhân tuyển vào mộ còn lại đã hùa nhau lên tiếng đuổi hết những kẻ không chịu thề độc đi.

Cơ duyên trong mộ to tày trời, ai lại muốn bỏ lỡ? Mà lúc này cửa sinh đã mở, kẻ vào mộ càng ít, cơ hội độc chiếm được báu vật càng lớn.

Thế là nhoáng một cái, năm mươi người vào mộ đã giảm xuống còn hai mươi ba mươi người.

Chương 303: Hồi hai mươi sáu (9)

Lúc này Tạng Cẩu lại tiếp:

" Được, xin các vị trưởng bối võ lâm ngoài đây cũng lập thệ cho. Nếu các vị từ chối, vậy cảm phiền rút lại nhân thủ. "

Cậu chàng nói đây, lại ho khan, nói:

" Đương nhiên là trừ phái Không Động ra, do Chấn Nguyên tử chân nhân đã thề rồi. "

Bấy giờ, Nguyên Mãn đại sư ghé tai Ngô trưởng lão, nói:

" Xem kìa, hai tiểu quỷ lại đang giở trò rồi đấy. "

Ngô trưởng lão gật gù:

" Đúng thật. Lợi dụng những thủ đoạn này, để giảm bớt số người vào mộ, đã vậy còn có thể khiến cho những môn phái còn suất đi ủng hộ mình. Tuy nhiên cũng phải biết chừng mực. Nếu được nước làm già, thì cho dù có nể mặt Trương chân nhân đi nữa, quần hùng cũng sẽ xông vào đánh cướp chìa khoá của chúng cho xem. "

Nguyên Mãn đại sư cười cười, bụng bảo dạ Tạng Cẩu và Phiêu Hương làm như thế ắt là có dụng ý khác khó nói. Bằng không, thì dựa vào khinh công của hai người, năm mươi người hay ba mươi người cũng hít khói như nhau cả thôi...

Lão không có bằng chứng, nên những lời này chỉ giữ trong lòng.

Tạng Cẩu bảo Phiêu Hương theo sát mình, đoạn âm thầm tiến vào trạng thái vô ngã...

Phía Lí gia, Lí Thông tự mình xông vào cổ mộ, đi theo sát Chấn Nguyên tử.

Sau nữa là nhân tuyển của năm phái lớn còn lại, rồi đến các thế lực bang hội khác. Đi chót mới là những hào khách độc hành.

Tạng Cẩu lần được chỗ khuyết, lại lấy chìa khoá Loa thành ra, chám vào.

Nói đoạn ngoái đầu ra hiệu. Lí Thông tuy là cực kì không tình nguyện, nhưng cũng ném chìa đá cho cậu chàng. Tạng Cẩu không tỏ thái độ gì, lặng lẽ tra chìa khoá vào ổ.

Đoạn, phân tâm lưỡng dụng, một tay vặn trống, một tay xoay chìa khoá.

Loay hoay thử một chốc, thì hai cơ quan trong ổ khoá đã khớp với nhau. Lúc này, bỗng nhiên vách núi sát bên mộ địa chợt sụt xuống, lộ ra một lối vào.

" Thì ra lối vào đích thực là ở đó! "

Quần hào thấy thế, cho rằng cửa sinh sẽ không có đặt cạm bẫy, cũng không có đầm rồng, bèn tranh nhau bổ nhào vào. Trong lòng không ít kẻ còn đang âm thầm khoái trá:

[ Đáng đời các ngươi, tưởng chiếm lấy vị trí trước nhất là ngon ăn ư, ai dè trời lại ban cho bọn ta cơ hội, người xưa xây mộ lại tính đến một chước này! ]

Lí Thông và Chấn Nguyên tử nhìn nhau, lại nhìn Tạng Cẩu và Phiêu Hương, rồi cũng rủ nhau phóng người về phía cánh cửa bí mật vừa được mở ra.

Rõ ràng, so với việc xử hai người, xông vào mộ kiếm chác bảo vật quan trọng hơn. Dầu sao trong đám người độc lai độc vãng kia không biết có bao nhiêu quái kiệt võ lực cao thâm khó dò. Nếu không nhanh chân, rủi thần khí bị cướp, thì đúng là mất cả chì lẫn chài.

Tạng Cẩu và Phiêu Hương là người đi cuối cùng...

Cậu chàng thấy quần hào giữ đúng lời hứa, không vì mình mở cửa sinh của mộ mà qua cầu rút ván thì trịnh trọng quay lại vái một vái. Đoạn cũng cùng Phiêu Hương lao vào mộ.

" Cẩu xem! Tảng đá lớn này cơ hồ liền một thể với vách đá. Nếu không phải cơ quan kéo xuống, thì chắc chắn chẳng ai dám tin trong quả núi này có giấu một con đường bí mật. "

Hồ Phiêu Hương chỏ tay vào tảng đá khổng lồ giờ đang nằm khít trong một cái rãnh dưới đất, nói.

Tạng Cẩu thì thấp giọng:

" Để tớ lấy mồi lửa. "

Đoạn mở ống đánh lửa, trong hang tối nhất thời sáng lên một chút.

Hồ Phiêu Hương đưa tay lên mũi, nói:

" Cửa đá hạ xuống chưa lâu, mà nơi này lại tuyệt nhiên không có chút trướng khí nào. Chứng tỏ phải có lối thông gió giấu ở đâu đây. "

Tạng Cẩu gật đầu, hai người tiến sâu vào trong động.

Con đường bí mật kéo dài cỡ năm trượng thì lộ ra một động đá. Chỉ thấy hang động chằng chịt, vách đá dọc ngang chẳng khác nào một mê cung thì hai người không khỏi kinh ngạc. Lúc này những kẻ vào mộ trước đó đang chia nhau thăm dò các hang động.

Tạng Cẩu bèn nói thầm:

" Hết sức chú ý, chớ kích hoạt cơ quan mà toi mạng. "

Cậu chàng vừa dứt câu, thì trong động thứ ba bên trái đã có tiếng người kêu lên thất thanh, rồi im bặt đi.

Chỉ thấy một lưỡi sắt tròn vo, răng cưa lởm chởm đang chuyển động với tốc độ khủng khiếp lia một đường từ trong động ra đến tận cửa. Lưỡi sắc còn dính máu và thịt nát...

Tạng Cẩu nghĩ thầm:

[ Lực xé nát của thứ này kinh khủng thật! Có khi cây lớn như cột đình nó cũng cứa như rọc giấy chứ đừng nói là con người. ]

Đoạn cùng Hồ Phiêu Hương chọn một hang động, cẩn trọng từng bước mà tiến lên.

Hai người bước được ba bước, thì Tạng Cẩu đột nhiên chặn Phiêu Hương lại.

Chỉ thấy cách mũi chân hai người căng một sợi tơ mảnh, ắt hẳn là cơ quan để mở cạm bẫy. Hai người nhìn nhau một cái, rồi bước qua...

Nào ngờ...

Vừa đặt chân, cảm thấy nền hang hơi trùng xuống như thể vừa đẩy một tầng đá, thì hai người lập tức biết là hỏng chuyện!

Cái dây bẫy là giả!!!

Nền đá mới là cơ quan thật!

Tạng Cẩu lúc này lập tức nhập vào vô ngã, chỉ thấy tứ phía có vô vàn đạo kình phong bắn đến rất rát. Cậu chàng vội chắn cho Phiêu Hương, đoạn rút thanh Lĩnh Nam của cô nàng ra múa liên tục.

Nháy mắt có tiếng tinh tang bật lên tanh tách như pháo trúc nổ ngày xuân.

Nhìn lại, thì dưới chân hai người đã nằm la liệt mấy trăm cây kim nhỏ như lông trâu.

" Gã nào xây cái mộ này cũng ác thật. "

Tạng Cẩu ném trả đao cho bạn, lau mồ hôi trán.

Tràng cảnh vừa rồi thực là hung hiểm, nếu không phải cậu chàng đã ngộ ra vô ngã thì dù có ba đầu sáu tay cũng không phản ứng kịp.

Lúc này, hai người lại càng thêm tò mò...

Tại sao người xây mộ cho Lí Thân lại đặt cơ quan ác độc như thế?

Hai người vượt qua được con đường hẹp thì tiến vào một gian phòng đá. Tạng Cẩu lần mò một chốc thì tìm được mấy cây đèn, bèn chắp mồi lửa thắp cho sáng lên.

Nơi đây ngoại trừ một bàn cờ ra thì không còn thứ gì cả...

Hồ Phiêu Hương bèn nói:

" Là cờ thế. "

" Muốn đi tiếp, ắt phải phá được thế cờ này? "

Tạng Cẩu nhìn lên bàn cờ đá, thấy lúc này trên bàn chỉ bày đã bày sắn hơn trăm quân cờ cả trắng cả đen. Mà bên ngoài bàn cờ có độc nhất một con cờ đen mà thôi.

Cậu chảng nghiêng đầu, nhìn sát vào bàn cờ thì phát hiện những quân cờ đen trắng trên bàn đã được gắn chắc vào mặt đá, không thể di chuyển được.

Hồ Phiêu Hương bèn nói:

" Cờ cứ để tớ, Cẩu không biết chơi thì cứ ngồi ngoài phòng bị là được. Nếu như tớ đặt sai, kích động cơ quan thì hãy ra tay yểm hộ. "

Tạng Cẩu gật đầu một cái, đoạn lại ngồi xếp bằng dưỡng thần.

Hồ Phiêu Hương quan sát trận cờ một lúc thật lâu...

Thế nhưng, bất luận cô nàng có quan sát bao lâu, gắng nhớ lại bao nhiêu thế cờ từng đọc trong sách thì câu trả lời cũng chỉ có một:

Chịu thua!

Bởi cờ trên bàn đã vào tàn cục, những chỗ còn trống trên bàn cờ nếu không phải là chỗ đã hết khí, thì là nơi không có tác dụng gì cả.

Lúc này Tạng Cẩu chợt mở mắt, lại chậm rãi nói với Phiêu Hương:

" Này, có khi đấy không phải cờ đen đâu! "

Tạng Cẩu tuy không biết chơi cờ, nhưng cờ vây dễ học khó tinh, bản thân cậu chàng cũng nắm được luật chơi.

Trí nhớ của Tạng Cẩu lại phi thường, chỉ nhìn thoáng qua trận cờ là ghi nhớ được hết thảy. Nãy giờ cậu chàng nhắm mắt dưỡng thần, thì cũng đã thử vô số nơi trên bàn cờ có thể đặt quân.

Nhưng cũng giống Phiêu Hương, quả nhiên là vô hiệu.

Tạng Cẩu đứng dậy, bước về phía bàn cờ, trong đầu nghĩ đến một chuyện to gan. Cậu lấy con cờ lên, dùng lực nhấn một cái. Chỉ nghe cách một tiếng, lúc mở tay, thì con cờ vốn thuần một màu đen tuyền đã trở thành một mặt trắng một mặt đen.

" Té ra trên con cờ có cơ quan!! Nếu như để mình chơi quân trắng thì dễ rồi! "

Hồ Phiêu Hương đón con cờ, thản nhiên đặt xuống một chỗ trên bàn cờ. Song, đáng lí nước cờ phải dồn quân đen vào thế bí, thì trên bàn cờ lại có biến hoá.

Chỉ thấy vang lên mấy tiếng loạt xoạt, một đám cờ đen đã biến thành cờ trắng!

Đồng thời, vách động cũng có tiếng gầm gừ kinh khủng của cơ quan đang vận hành. Tạng Cẩu nhìn lên trần, cả kinh:

" Trần động đang sập xuống!!! "

Quả nhiên lúc này trần đá của gian phòng đang lù lù ép xuống, mà cánh cửa nối ra con đường đá hẹp thì sớm đã bị chặn kín.

Trần động nặng cả vạn cân, nếu như ép xuống, thì cho dù là xương đồng gân thép cũng bị nghiến thành giấy.

Tạng Cẩu vội lấy con cờ vừa đặt xuống ra, ném cho Phiêu Hương, đoạn kêu thất thanh:

" Đây không phải cờ vây đâu!! Cờ chúng ta cần đi là cờ đen!!! Mau phá thế cờ này đi!! "

Cũng may trí nhớ cậu chàng hơn người, nên mới không mất thời gian tìm cờ.

Bản thân Tạng Cẩu thì phóng người lên, tung chưởng oanh kích vào trần động, hi vọng có thể kìm được thế hạ xuống của trần nhà.

Nếu đây là một hang động tự nhiên thì Tạng Cẩu sẽ không làm liều như thế, bởi nguy cơ làm sập động rất cao.

Nhưng hang động này rất rõ ràng được tạo ra bởi bàn tay con người, thế nên cậu chàng cũng không đi dùng lẽ thường mà nghĩ ngợi.

Hồ Phiêu Hương thì nghĩ thầm:

[ Vừa rồi mình đặt cờ vào sát một con cờ đen, về lí thì đã chiếm sạch tiên cơ. Nhưng nguyên một hàng quân đen của ta đều bị trở cờ... chứng tỏ cờ này không phải dùng luật ăn quân!

Đúng rồi!! Ở cuối hàng của mình cũng có một con cờ trắng chặn cứng! Tức là nếu như chặn hai đầu của một hàng quân, thì sẽ khiến chúng trở giáp quy hàng, cờ đen đổi thành cờ trắng? ]

Hồ Phiêu Hương chỉ kịp nghĩ đến đó, thì Tạng Cẩu đã thấm mệt mà trần hang càng lúc càng xuống thấp, nay còn cách đầu của hai người cỡ một gang tay mà thôi.

Đôi mắt cô nàng lia như điện xẹt, chọn trúng một vị trí hiểm mà đặt con cờ duy nhất xuống.

Tức thì...

Một đống quân trắng theo nước cờ được cô nàng đặt ra đó đã bị lật lại thành quân đen, mà trần hang cũng ngừng hạ xuống.

Sau đó, bàn cờ chậm rãi nhích sang một góc, để lộ một dãy cầu thang dẫn xuống sâu bên dưới.

Hai người nhìn nhau một cái, đoạn ngồi phịch xuống nền hang mà thở hồng hộc.

Chương 304: Hồi hai mươi sáu (10)

Tạng Cẩu thở không ra hơi  nói:

" Đứt hơi rồi... cửa sinh gì mà ác quá vậy? "

Hồ Phiêu Hương đáp:

" Nếu tớ đoán không sai thì nơi này dùng tư duy của người tương lai làm ra, sao có thể theo lẽ thường được? Xém nữa là tiêu đời rồi... "

" Tớ đoán cửa sinh tức là cửu tử nhất sinh, còn cửa tử thì thập tử vô sinh... "

Tạng Cẩu mất một lúc mới điều chỉnh lại được hơi thở. Hai người lúc này mới theo chiếc cầu thang đi dần xuống đất.

Cầu thang càng đi càng dốc, đoạn dẫn vào một động đá rất lớn. Tạng Cẩu quét mắt khắp bốn phía, chỉ thấy hang động này rộng lớn như một thao trường luyện binh, nền hang lại không bằng phẳng mà có rất nhiều ngách thượng, hõm dốc. Măng đá từ trần hang kéo xuống tua tủa như rừng, khiến hang động vốn dĩ rất rộng lại như trở thành một mê cung nhấp nhô trùng điệp.

Nhưng đáng nói là ở đây chẳng có lấy một lối thoát nào, trừ một cửa hang cỡ trung ở đầu bên kia của hang động.

Hồ Phiêu Hương nói khẽ:

" Chắc chúng ta cần phải đến chỗ đó mới vào sâu hơn trong mộ được. "

Tạng Cẩu nghĩ thầm:

[ Mộ cổ này cạm bẫy trùng trùng, trong này hẳn là có nguy hiểm gì đây. ]

Nói đoạn, cậu chàng như phát hiện ra thứ gì, bèn kéo cô bạn vào sát bờ tường.

Hồ Phiêu Hương tuy không hiểu chuyện gì đang xảy ra, song tin tưởng bạn, nên cũng thuận theo. Tạng Cẩu trước tiên dùng tay nhẹ nhàng lấy một vật đưa lên nhìn kỹ...

Không thấy thì thôi, lúc nhận ra thứ Tạng Cẩu đang cầm trên tay thì Hồ Phiêu Hương không thể không thất kinh.

Ấy là một cái nanh dài cỡ một gang tay rưỡi, nhọn hoắt như dao cạo...

" Thứ này... rốt cuộc là con quái thú gì mà lại... "

Răng mà đã hơn một gang rưỡi, thì người nó còn đến cỡ nào??? Hồ Phiêu Hương nghĩ những chuyện này, song vì quá kinh ngạc nên không nói ra được.

" Mặc kệ là thứ gì, thì rất có thể nó vẫn đang lởn vởn đâu đây trong này. Lại thêm cả cạm bẫy của mộ cổ, hang động này e là không dễ gì vượt qua được đâu! "

Tạng Cẩu nói xong, thì Hồ Phiêu Hương đã lấy ra một cái bình thuốc. Cô nàng đổ thuốc bột ra, vẩy lên người mình và cậu chàng.

" Thuốc của ông Tuệ Tĩnh đúng không? "

" Đúng vậy. Bột phấn này chuyên dùng để đối phó với chó săn, dùng để che đậy hơi người. "

Hồ Phiêu Hương đáp xong, lòng lại thầm cảm ơn thiền sư Tuệ Tĩnh.

Tuệ Tĩnh thiền sư đề phòng trong động có thứ chúng ta chưa biết, nên đưa cho hai người mấy loại thuốc phòng thân. Bột phấn để che mùi cơ thể này là một trong số đó.

Hai người đã được che mùi cơ thể, bèn dùng khinh công tuyệt đỉnh nhẹ nhàng tiến lên phía trước. Đi được một thoáng, thì phát hiện bên dưới có tiếng gầm khẽ. Tuy cách một tầng đá, song hai người cũng biết ấy là con quái thú đang chuyển mình. Tạng Cẩu không nghĩ nhiều, kéo Hồ Phiêu Hương nép vào một hốc nhỏ. Trong bóng tối, hai người phải nép sát vào nhau, đoạn vừa lấy tay lần mò kiểm tra kỹ xem cái hốc này có giấu cơ quan gì không. Nếu chẳng may trong này là nơi tên độc, kim độc gì đó bắn ra, hai người nép trong này thì dù khinh công bằng trời cũng phải đi đời nhà ma một cặp.

Song, cái hốc này không được mài nhẵn mà chỗ lõm vào chỗ thò ra, tên hay kim châm có đặt bên trong thì cũng không bắn ra ngoài được. Mà cái lỗ bé tí như vậy, cũng chẳng ai rảnh rỗi mà chui vào làm gì. Hai người lúc này mới thoáng yên tâm một chút.

Cậu chàng nghe thấy tiếng chân...

Không phải chân thú, mà là tiếng giày mài lên mặt đá.

Chứng tỏ những người vào mộ cũng đã tìm đến được hang đá này.

Con quái thú kia như thể cũng đánh hơi được có kẻ đang đi tới, không còn gây thêm tiếng động nữa. Trong bóng tối, nếu nheo mắt thì Tạng Cẩu có thể mơ hồ thấy một thân hình khổng lồ đang gợn sóng chuyển mình êm ru.

" Con dị thú này... mình đứng lên cũng chưa đến vai nó! "

" Nhìn cách nó chuyển động, thì có thể đoán được ấy là một loại na ná hổ, nhưng to lớn hơn nhiều. Từ chân đến lưng chắc phải hơn nửa trượng. "

Hồ Phiêu Hương cũng nhận xét

Rõ ràng luận về kiến thức Tạng Cẩu không bằng cô nàng, tâm tư cũng không tỉ mỉ cẩn mật bằng.

Lúc này, đã có hơn chục người chen nhau cầm mồi lửa tiến vào trong động. Nhìn những người này vẫn đang hăng hái tranh luận, cãi nhau ỏm tỏi thì đủ thấy họ vẫn chưa nhận ra nguy hiểm tiềm tàng nơi đây.

Tạng Cẩu tuy muốn cất tiếng nhắc nhở, nhưng Hồ Phiêu Hương đã đưa tay điểm ngay vào á huyệt của cậu chàng, lại thuận thế điểm mấy huyệt đạo không cho cậu chàng hành động. Đoạn nói thầm:

" Cẩu chớ có quên bây giờ mình với họ là đối thủ, ai cũng muốn có được bí mật trong mộ của thánh Chèm. Cẩu ra tay mà làm gì? Hà huống chi mình vào cảnh tương tự, họ chắc gì đã ra tay tương trợ? "

Tạng Cẩu vốn tin tưởng cô bạn, nên chưa kịp phòng bị đã bị điểm trúng vào á huyệt, thành ra không nói được, chỉ có thể dùng ánh mắt khẩn thiết nhìn Phiêu Hương.

" Tớ biết cậu không nỡ để họ chết, nhưng làm người không thể cứng nhắc quá. Nghĩ mà xem, Cẩu cứu mạng họ lúc này, đến khi thấy bảo vật thì có chắc họ sẽ để yên không, hay ra tay tranh đoạt. Mà tớ nói thật, với võ công của Cẩu, thì quên cái chuyện họ sẽ đường đường chính chính dùng thực lực tới tranh đi? "

Tạng Cẩu đâu phải không nghĩ tới những chuyện này?

Cậu chàng không phải kẻ đần, thừa biết lúc này là tình thế nào.

Cậu chàng cũng đã không phải đứa nhóc tì mù chữ năm nào, đã được dạy cho đại nghĩa dân tộc, cũng như trách nhiệm giữ vững non sông gấm vóc.

Song... chung quy cuối cùng vẫn chỉ là suy nghĩ lí trí. Đợi đến lúc Tạng Cẩu thực sự đứng vào cái vị trí hiện tại, cậu chàng chợt nhận ra mình không thể đứng nhìn cả chục người sống sờ sờ cứ thế mà chết.

Cậu chàng không máu lạnh đến thế.

Hồ Phiêu Hương thấy vai bạn run lên, bèn nhẹ giọng:

" Được rồi, biết Cẩu không nhịn được đâu mà, song không phải lúc này! Dị thú kia là thứ chúng ta chưa biết, thậm chí có thể là quái vật ở thế giới tương lai cũng không chừng. Trừ phi chắc chắn giết được nó, bằng không tớ không để cậu ra tay. "

Hai người mới nói chừng đó, thì thân ảnh con hung thú đã mất dạng trong bóng tối của hang động. Lấy nhãn lực của Tạng Cẩu, nhất thời cũng không tìm nổi vị trí chính xác của nó.

Tạng Cẩu biết trong hai người, cậu chàng là lực chiến đấu chủ đạo. Một khi bị trọng thương, việc tìm lại bí mật Rồng Không Đuôi ắt trở thành chuyện viển vông đã đành, thậm chí còn có thể liên lụy đến tính mạng của Hồ Phiêu Hương.

" Nhìn xem, những người còn sống có đệ tử của Ngô trưởng lão, một đạo cô của Nga Mi, lại thêm Chấn Nguyên tử và Lí Thông, còn lại hình như đều là khách giang hồ không môn không phái. "

Tạng Cẩu nhìn nhóm mười người, lặng lẽ gật đầu một cái. Cậu chàng quả thực không ngờ những quái khách độc lai độc vãng kia lại có thể tạo nên thế cân bằng với sáu môn phái lớn. Vậy mới nói trên giang hồ, người đông thế mạnh chưa chắc đã tốt.

Những khách giang hồ kia phải tự lăn lộn sinh tồn trong giang hồ hiểm ác, sau lưng không có trưởng bối chống đỡ, thành thử ánh mắt cũng cay độc, kinh nghiệm lịch duyệt thâm hậu. Nếu chỉ luận võ công thì so với những đệ tử đắc ý của sáu môn phái lớn chưa biết hơn kém ra sao, nhưng nếu là chuyện sống còn sinh tồn thì rõ ràng những người này giỏi hơn không chỉ một bậc. Mà trong mộ cổ quái dị, cơ quan bẫy rập đều được thiết kế bằng kỹ thuật tương lai này, võ công không có nhiều đất dụng võ thì những kẻ này đúng là như cá gặp nước.

Chấn Nguyên tử cơ hồ đã nhận ra sự khác thường, chỉ thấy lão đột nhiên ít nói hẳn, bước chân cũng vô tình chậm lại một chốc để cho những người khác lên trước. Số quái khách giang hồ quan sát một chốc, đã phát hiện cái hang nhỏ ở cuối động, bèn chỉ tay về phía ấy mà hô to:

" Xem kìa, bảo vật hẳn là ở phía sau ấy rồi. "

Lúc này mọi người giương đuốc, chậm rãi chọn một con đường ngắn nhất đi về phía hang động.

Đúng lúc này!

Con dị thú đột nhiên chồm lên từ một góc không ngờ, phóng mình về phía đoàn người. Tấm thân khổng lồ nặng hàng trăm cân của nó đang nằm im lìm như tảng đá, thế mà thoắt một cái đã có tốc độ kinh hồn chẳng khác nào tên rời cung cứng. Từ lúc nằm mai phục, đến lúc chồm dậy vồ người, lại chẳng hề phát ra một tiếng động nào.

Dẫn đầu lúc này chính là hai đệ tử Cái Bang và Nga Mi. Vừa thấy dị thú xồ tới là một người đã đề chưởng, người kia rút kiếm toan đâm. Nhưng quái vật nó lực lớn vô cùng, chỉ một cái vồ như thế mà vuốt chân của nó đã đâm thủng người cả hai. Hai vị đệ tử tinh anh của sáu đại môn còn chưa kịp nhìn thấy kẻ thù là ai thì đã tuyệt khí, ngọn đuốc ở tay rơi ra lăn xuống đất.

Bấy giờ mọi người mới nhìn rõ được hình dáng của quái thú...

Chỉ thấy thú này thân cao gấp hai một con hổ lớn, bắp thịt toàn thân nổi lên cuồn cuộn, lông trên người độc một màu xám nâu. Ấy thế mà cái đuôi chỉ ngắn một mẩu như đuôi thỏ, trông đến là mất cân đối. Đầu dị thú như đầu báo, cửa miệng chìa ra hai cánh nanh dài đến gần một xích...

Ấy là một con hổ nanh kiếm.

Giống thú này đáng lẽ đã tuyệt chủng từ mấy chục ngàn năm trước, hơn nữa cũng không có hóa thạch xuất hiện ở vùng Tây An này. Thế nên ở trong mộ Lí Thân đột nhiên lòi ra một con, tuyệt đối không phải tự nhiên.

Dị thú trợn mắt lên sòng sọc, nhìn đoàn tám người còn sống với vẻ đầy hiếu kì. Nó rống lên một tiếng, đoạn liếm mép, tựa hồ như đang nghĩ hai người này còn chưa bõ dính răng.

Chương 305: Hồi hai mươi sáu (11)

" Yêu quái, xem chiêu! "

Quần hào biết phải đánh bại con hung vật này may ra mới có thể có cơ hội kiếm chác, thành thử đều lăm lăm binh khí. Chấn Nguyên tử dẫn đầu múa âm dương đao, đánh ra mấy tuyệt chiêu trong đao pháp độc môn nhằm ngay cần cổ con dị thú mà bổ xuống. Lúc nó sống thì chưa có võ công, cũng chưa có vũ khí bằng sắt, thành thử bản năng của nó không mách bảo nó phải tránh. Con hổ trúng đòn, nhưng da lông nó quá dày, thành thử đao của Chấn Nguyên Tử chỉ đâm vào được nửa thốn là không cách nào tiến thêm. Nó lắc mình một cái bẻ gãy cả hai thanh âm dương đao, đoạn rú lên một trận, hung tính hoàn toàn bộc phát, đôi mắt đã hằn lên tia máu.

Con hổ hung tợn chồm đến, buộc Chấn Nguyên tử phải lùi nhanh về sau. Lúc này lại có hai quái khách trong đoàn chồm tới, vung khí giới đánh chặn. Nhưng một đòn của Chấn Nguyên tử đã dạy cho con hổ biết thứ vũ khí quần hào đang cầm có thể tổn thương đến nó. Thế là nó uốn thân một cái, hụp đầu né đi hai chiêu, đoạn lại nhướn cổ há miệng nhè ngay ngực của một tên mà cắn mạnh một cái.

Người nọ không kịp phòng hờ, hai cái nanh dài của dị thú tưởng như lưỡi dao găm, cắm ngập thẳng từ sau lưng xuyên qua đến tim. Y chỉ ú ớ được hai tiếng thì đã bị con thú lắc cổ quăng sang một chỗ, mũi máu xộc lên tanh lợm mũi. Tên còn lại chưa kịp hoàn hồn, không kịp tránh khỏi chỗ con thú quăng tên đồng hành xấu số, thế là bị cái đầu của nó nện cho một cái vào ngực. Đầu của quái thú vừa nặng vừa cứng, bị đánh trúng không khác gì bị chùy giáng. Y lập tức phun máu, rên một tiếng. Nhưng y chưa kịp chạy thì bàn chân của con thú đã tát cho một cái lệch mặt gãy cổ, lúc này chỉ còn thoi thóp.

Con thú bị mùi máu kích động, gầm lên một tiếng nữa.

Thấy nháy mắt bốn người đã bị nó giết, quần hào lúc này càng thêm khủng hoảng.

Hồ Phiêu Hương bỗng nói:

" Cái nanh của con thú này chìa ra quá dài, tuy là lợi hại, song cũng là nơi yếu nhược dễ gãy! Cẩu xông ra thì nhằm đó mà đánh. "

Đoạn đưa tay giải cả hai huyệt cho Tạng Cẩu.

Cậu chàng nhìn bạn gật nhẹ đầu, lại thầm kinh sợ trước độ hung mãnh của con hổ nanh kiếm. Nếu ban nãy cậu chàng xông ra trước tiên, thì e là đã ăn khổ dưới nanh vuốt của nó.

Chấn Nguyên tử mất đao, bèn lấy chưởng làm đao, cùng sáu người còn lại bày một thế trận để chống cự. Lão bèn nói:

" Yêu quái không quá thông minh, mọi người dùng thế trận thể nào cũng đánh được! "

Chẳng ngờ nói chưa dứt lời thì đã có một kẻ đá mạnh vào xương cụt của lão, làm lão ngã sấp vào nanh vuốt của con thú. Y vừa cười vừa mắng:

" Lão khôn thế thì đánh một mình đi! "

Y biết lão này mồm nói bày trận, nhưng rõ ràng lại chiếm vị trí chủ trận, có thể điều tiết công thủ. Nếu như tin theo trận thế của lão, thì chẳng khác gì tự biến mình thành con cờ để lão cho lão bày binh bố trận. Lúc ấy mọi người liều sống liều chết đến kiệt sức, thì lão hồ li kia sẽ đứng ở sau lưng làm ngư ông đắc lợi.

Nói đoạn, y phóng mình xuống hang đá bên dưới, lao mình về phía hang đá nhỏ bé.

Lí Thông bèn quát:

" Lão phu ngăn hắn lại, chân nhân hãy chống cự! "

Đoạn tranh thủ lúc này Chấn Nguyên tử phải vần nhau với con hổ mà đuổi theo kẻ kia về phía cửa hang.

Hai người còn lại thấy thế, bèn nói:

" Chân nhân võ nghệ siêu quần, bọn ta có ở lại cũng là cản tay cản chân. "

Đoạn cũng theo gót Lí Thông.

Tạng Cẩu thấy đoàn đội này thoáng cái đã quay ra hãm hại lẫn nhau, chia năm sẻ bảy thì rất đỗi kinh ngạc. Lúc này Hồ Phiêu Hương mới nói:

" Cậu xem, cái cửa hang kia rất thấp, một người bình thường có khi phải hơi cúi mới vào được. Con quái thú kia to như cái cột đình, đuổi theo làm sao? Có mỗi Cẩu là nghĩ nên hợp lực đánh chết nó thôi. "

Tạng Cẩu thấy chuyện đột nhiên rẽ theo hướng này, không khỏi cảm thấy ngao ngán.

Phiêu Hương thấy thế lại nhắc:

" Nếu tình thế đã thế này, Cẩu chớ có nhảy vào vội, bằng không chỉ khiến những kẻ này thêm chia năm sẻ bảy, hại nhau nhanh hơn mà thôi. "

Chấn Nguyên tử bị con hung thú dồn vào chân tường, nghĩ bụng cứ đau khổ chống đỡ thế này không phải là cách, lâu dần thể nào cũng vào bụng ác thú, bèn gọi với theo:

" Các người có lấy được bảo vật, có thứ này cản đường cũng chẳng thể nào ra ngoài được! "

Nhưng lời của lão như đá chìm đáy bể.

Tên khách giang hồ đi đầu cười hô hố, nói:

" Có được bảo vật địch lại ngàn quân, chúng ta sẽ là thiên hạ vô địch. Lúc ấy xưng bá võ lâm, thậm chí đăng cơ xưng đế còn được, nữa là dọn dẹp con quái thú nhãi nhép! "

Lí Thông lúc này đã đến sát sườn y, quát to:

" Chạy đi đâu! "

Đoạn tung chưởng đánh úp vào hậu tâm.

Nhưng kẻ này cũng là tay sâu cay, vừa nghe có tiếng chưởng phong rít lên là y đã xoay người tung ngay một chưởng đoạt mạng về phía Lí Thông. Lúc nét cười dữ tợn của y hằn sâu trong mắt hai kẻ đang đuổi sát phía sau thì Lí Thông đã trúng chưởng nôn ra một búng máu, cả người văng ra rồi lăn xuống một cái hốc, sống chết đã không rõ.

Hai kẻ đi sau nhìn nhau, chợt không hẹn mà cùng phóng ám khí, thừa cơ kẻ dẫn đầu vừa tung đòn sát thủ cũng phóng ra mấy mũi ám khí về phía trước. Gã dẫn đầu quả nhiên không kịp phòng hờ, trúng ngay mấy mũi vào ngực, nghẹn giọng trợn mắt nhìn một cái rồi cũng gục xuống.

Hai tên này thấy mình đắc thủ thì lập tức cướp đường vượt lên, lại tung cước đạp gã nọ vào cái hốc nơi Lí Thông quỵ ngã, cười cợt;

" Để các ngươi giải quyết ân oán với nhau dưới đó đi. "

Hồ Phiêu Hương thấy cảnh này, bèn ghé tai nói thầm với Tạng Cẩu:

" Hai người này muốn lợi dụng Lí Thông cầm chân đối thủ đây mà. "

Lúc này hai tên nọ như đã đạt được hòa ước, cùng lúc phóng mình vào cái cửa động nhỏ kia, đoán chừng sẽ tranh đoạt sau khi thoát được cái họa dị thú sau lưng.

Bấy giờ, chỉ còn một mình Chấn Nguyên tử chống đỡ...

Con hổ nanh kiếm càng đấu càng hăng, da dày lông cứng, chưởng của lão đánh vào không tạo được mấy thương tổn. Mà nanh vuốt của nó thì trái hẳn, chỉ cần cứa nhẹ qua là lão đã đứt da rách thịt. Chấn Nguyên tử lúc đầu còn có thể đứng mà đối chiêu, nay thì đã phải vừa lăn vừa nằm, vừa ngồi vừa lộn, bộ dáng thê thảm không nói nổi.

Hồ Phiêu Hương nói:

" Lão này cứ suốt ngày đòi tranh bí mật của thánh Chèm, thật lòng chả muốn cứu lão tí nào. "

Tạng Cẩu vỗ vai bạn, nói:

" Được rồi mà... Cậu cho tớ mượn thanh Lĩnh Nam, không thì không chém nổi con quái vật này đâu. "

Hồ Phiêu Hương biết chuyện này can hệ tới sống chết của bạn, nên cũng không phản đối gì. Song cô nàng trước giờ chưa từng tin tưởng nhân phẩm của lão Chấn Nguyên tử, bèn nói:

" Được. Nhưng giết quái thú xong, trừ phi tớ tự hiện thân, bằng Cẩu đừng gọi tớ, cũng chớ có đến đây đưa tớ ra. Đến khi Chấn Nguyên tử đi khuất rồi hẵng tính. "

Tạng Cẩu gật đầu, một tay cầm đao Lĩnh Nam, một tay mó vào túi lấy Quỷ Diện Phi Châu bằng đồng đen của Quận Gió ra thủ sẵn, đoạn lại tung mình ra khỏi chỗ ẩn thân. Lúc này thì Chấn Nguyên tử đã ngã vật ra, hai tay lão khóa lấy hai chân trước của con hổ không cho nó cào xé, còn toàn thân phải dùng một môn công phu gọi là Kim Xà Triền Thân để khốn khổ né những cú táp của quái thú. Lúc này hình thể quá lớn của con hổ lại thành ra vướng víu. Mặc cho nó cúi thấp cổ hết mức cũng không nhướn được xuống đến ngực Chấn Nguyên tử, chỉ có thể nhè phần đầu để cắn, thế nên lão mới chống cự được.

Tạng Cẩu lập tức nhảy tới, vung tay ném hai viên phi châu tới, nhè hai cái nanh của con hổ mà tấn công.

Hổ nanh kiếm tự biết nanh của mình quý giá, nên theo bản năng nghiêng đầu đi tránh. Nó sao mà ngờ được hai vật đen đủi như hòn đá bình thường kia lại cứng đến thế. Nó nghiêng đầu đi bảo vệ cặp nanh, thành thử má và quai hàm lần lượt trúng phải phi châu.

Quỷ Diện Phi Châu cực kì cứng rắn, nội lực của Tạng Cẩu lại vì nhiều cơ duyên đã đạt tới mức hùng hậu vô cùng, thành thử một đòn phi châu này vừa đánh ra đã đánh sái hàm con hổ, khiến nó gãy mấy cái răng hàm. Con thú nghiến răng gầm lên, bỏ mặc Chấn Nguyên tử mà phóng mình về phía Tạng Cẩu.

Tạng Cẩu thấy đôi chân con quái thú như sắt, không dám liều đỡ, bèn đảo hướng nghiêng người đi né đòn. Chỉ nghe đánh ầm một cái, vách đá nơi cậu chàng vừa đứng đã bị con thú đánh cho lở ra một miếng.

Đánh trượt, song con hổ dữ chưa chịu thôi. Chỉ thấy nó nhắm chuẩn vị trí, rồi cũng phóng mình theo Tạng Cẩu, cả cái đầu như quả đạn pháo nhè ngay bụng cậu chàng mà tông tới.

Tạng Cẩu sớm biết dị thú cực kì lợi hại, bèn lách mình tránh, đoạn lại cầm đao Lĩnh Nam phạt mạnh. Con hung thú đã biết đồ vật kì lạ trong tay mấy " con khỉ " kia lợi hại, bèn rùn mình tránh đi.

Lúc này Chấn Nguyên tử mới hết bàng hoàng, lão lại thầm nghĩ:

[ Té ra tên nhóc An Nam này nấp ở đây từ nãy đến giờ. Nó nhảy vào đánh con thú, hẳn là trên người thú này có giấu kho tàng đây. Lí Thông sống chết chưa rõ, mình cứ vào đòi chia một phần với nó thì hơn. ]

Nghĩ là làm, lão bèn nâng chưởng đao lên, nói:

" Thiếu hiệp chờ đó, ta đến trợ chiến đây! "

Đoạn cũng phóng người tới, đánh ra mấy chiêu. Tuy là khí thế hùng hổ, nhưng kì thực chỉ là diễn, còn nội kình lão sử xuất rất đỗi qua loa lấy lệ, rõ ràng là có ý bảo lưu lại nội lực. Tạng Cẩu được bốn lão Địa Khuyết Thiên Tàn dạy dỗ, rất nhạy cảm với kình khí, thành ra màn kịch này của lão đâu thể qua nổi mắt cậu chàng? Song cậu chàng không thèm nói gì, cứ ngưng thần chiến đấu với con dị thú.

Chương 306: Hồi hai mươi sáu (12)

Hai bên quần nhau một chốc, thì Tạng Cẩu đột nhiên đánh ra một chiêu sát thủ của Địa Khuyết Thiên Tàn: Ráng Mỡ Gà, Có Nhà Thì Giữ. Ánh đao lóe lên cực nhanh, đến Chấn Nguyên tử tự phụ là cao thủ dùng đao trong giang hồ cũng phải giật mình. Một đao chém ra, lập tức chém cụt được một chân của con hổ dữ.

Con hổ bị đau, bắt đầu dùng thân hình to lớn của nó húc bừa khắp nơi. Tạng Cẩu chỉ nghe những tiếng rít gió không ngừng vang lên, chỉ thấy từ những hốc đá trông rất đỗi tầm thường, độc châm bắt đầu bắn ra tới tấp, đồng thời cát từ trên trần lại đổ xuống che mờ tầm mắt của con thú. Lúc này cậu chàng mới hiểu té ra trong hang động này cũng bố trí cơ quan trùng trùng, nay bị con thú dẫn động mới bắt đầu nhả độc châm tới tấp. Lạ một nỗi là những người chạy trước ban nãy không dẫn động cơ quan, có lẽ là do may mắn...

Lúc này con hổ bị cát văng vào mắt không mở nổi, kêu lên từng tiếng lớn. Tạng Cẩu lại nhân lúc này rút phi châu ra, nhè mặt nó mà phóng. Chỉ nghe hai tiếng rắc rắc thật to, cặp nanh dài nhọn hoắt của nó đã bị đánh rụng. Bấy giờ Chấn Nguyên tử mới quát to một tiếng, tung một chiêu long tu chỉ vào cặp mắt của con thú, thừa lúc nó bị cát che mắt đánh cho nó mù hẳn.

Con hổ dữ rống lên, quẫy người thật mạnh. Những mũi châm độc kia bắn đầy trời, song cũng không xuyên thủng được lớp lông vừa dày vừa cứng của nó. Tạng Cẩu thấy vậy chặc lưỡi, nghĩ bụng:

[ Hung thú này quả thực khó đối phó. ]

Đoạn, cậu chàng búng mình lên, mượn trần hang làm điểm đặt chân, lại dùng một chiêu Tháng Mười Sấm Rạp, Tháng Chạp Sấm Động làm lực đẩy. Toàn thân Tạng Cẩu xé không lao xuống như một mũi tên, thanh Lĩnh Nam trong tay hoa lên một cái, cái đầu to lớn của con hổ đã rơi xuống đất.

May sao con thú bị cơ quan đổ cát vào mắt, bằng không Tạng Cẩu cũng không cách nào giải quyết nó bằng một đao như thế.

Chặt đứt đầu hổ nanh kiếm rồi, Tạng Cẩu mới chậm rãi ngồi xuống bên xác con thú, thanh Lĩnh Nam gác vào xác con vật.

Chấn Nguyên tử thấy thế, ngoài mặt thì khen ngợi võ công cậu chàng đạt tới cảnh giới cao thâm quá nhiều so với lứa, nhưng trong bụng thì âm thầm tính kế nếu cậu chàng chết vì cơ quan trong mộ thì đoạt lấy thanh bảo đao ra sao. Tạng Cẩu nhìn thấy ánh mắt khác thường của lão, song cũng mặc kệ. Cậu chàng đáng lẽ đã ra tay sớm hơn, nhưng trong động tối thui, mất dấu con thú, hai người đáng cứu nhất là đệ tử của Ngô trưởng lão và đệ tử Nga Mi lại ngây thơ đi hàng đầu, thành ra chưa kịp làm chuyện gì đã phải vùi thây trong mộ cổ.

Chấn Nguyên tử không thấy Hồ Phiêu Hương, trộm nghĩ:

[ An Nam man nữ không xuất hiện, khéo là chết rồi. Không có nó ở đây, thì thằng ranh này chỉ là đứa võ nghệ cao cường nhưng tâm cơ không đủ. Mình lợi dụng nó để kiếm bảo là được. ]

Tạng Cẩu hồi phục chân khí xong, chậm rãi đứng lên.

Cậu chàng bèn nói:

" Quái thú nay đã trừ, chân nhân có gì chỉ bảo? "

Chấn Nguyên tử lại nghĩ thầm:

[ Lẽ nào con thú này không có bảo vật? ]

Đoạn, lão lấy dao găm trong hành nang ra, cẩn thận mổ bụng con quái thú kiểm tra một lượt. Máu tanh tràn ra đầy cả động phủ.

Song tìm mãi cũng không thấy gì, lão bèn lấy dao xẻo mấy miếng thịt hổ gói vào trong bọc, đoạn nói:

" Thiếu hiệp ra tay cứu ta một mạng, không biết có muốn cùng ta phá mộ hay không? Bảo vật kiếm được, ta nhường cậu tám phần. "

Tạng Cẩu nói:

" Hay là thôi đi, ta và chân nhân mỗi người một trận doanh, ai thờ chủ nấy. Cứu mạng ngài, chẳng qua là thuận tay làm mà thôi, không cần để trong lòng. "

Cậu chàng nói xong thì quảy đao Lĩnh Nam lên vai, thận trọng bước về phía đệ tử xấu số của Cái Bang và Nga Mi. Lấy lưỡi đao đào hai cái mộ để chôn cất. Chấn Nguyên tử chặc lưỡi chửi thầm, nhưng rồi cũng mặc kệ, chạy nhanh về phía cửa động tối om om. Lần này thì không được may mắn như cái lúc bốn người rồng rắn dẫn nhau chạy ban nãy, mỗi bước chân của lão lại dẫn động một cái bẫy rập, khi thì dưới chân đột nhiên trồi lên mấy ngọn thương, lúc thì vôi sống trên trần đổ xuống, thậm chí các măng đá cũng có thủy ngân vẩy ra, có thể nói là mỗi bước chân đều giấu nguy cơ mất mạng. Nhưng Chấn Nguyên tử dầu sao cũng là trưởng môn một phái lớn, võ công không phải hạng xoàng, mà kinh nghiệm cũng không thấp, thế nên lão cũng vượt qua được khoảng cách hơn chục trượng để đến cửa hang mà không hư hao gì cả.

Chôn hai người xấu số xong, Tạng Cẩu lại dùng đao Lĩnh Nam chém xuống mấy viên đá nhỏ, dùng kình ném về bốn phía thăm dò. Lại có tiếng cơ quan vận hành ầm ầm vang lên, tên độc kim độc tiếp tục thi nhau bắn tới tấp. Đôi chỗ còn có chông sắt nhô ra thụt vào, sương độc phụt ra tới tấp. Cậu chàng phá hết cơ quan, lại nhẩm tính Chấn Nguyên tử đã đi một lúc lâu rồi hẳn là sẽ không quay lại, Tạng Cẩu mới tung mình về phía cái hốc đá, dẫn Hồ Phiêu Hương ra.

Cô nàng là người đứng ngoài, chứng kiến từ đầu tới cuối trận đánh với con hổ nanh kiếm. Thành thử, Hồ Phiêu Hương là người duy nhất có đủ thời gian để bình tĩnh nghĩ kỹ lại những chuyện vừa xảy ra.

Lập tức xuất hiện vấn đề...

Hồ Phiêu Hương kéo Tạng Cẩu ngồi xuống, giở lương khô ra ăn, lại nói:

" Cẩu có thấy kì quái không? "

" Kì quái thế nào?? "

Tạng Cẩu bụng đói cồn cào, đang ăn uống rất vui vẻ thì bị câu hỏi bất ngờ của bạn chẹn họng. Cậu chàng chưa kịp nghĩ, đã hỏi lại theo bản năng, bởi mỗi lần cậu chàng hỏi ngược lại như vậy là thể nào cô nàng cũng giải thích mọi chuyện tường tận.

Hồ Phiêu Hương bèn nói:

" Con thú này xuất hiện trong hang trước chúng ta. Nhưng Cẩu nhìn mà xem, hang này cả trước cả sau chỉ có hai cửa, vừa bé vừa thấp, nó vào bằng cách nào? Cứ cho là nó vào từ lúc còn bé, lớn lên trong này, thì nó ăn cái gì?? Trừ phi nó là thú ma thú quỷ, yêu quái thành tinh... Mà những thứ này cũng không có thật. "

Tạng Cẩu rụt cổ, nói:

" Biết đâu nó thành tinh thật. Dù sao cái mộ này cũng được xây bằng kỹ thuật sáu trăm năm sau, chuyện hoang đường thế còn là sự thật nữa là yêu tinh. "

Hồ Phiêu Hương biết bạn là chúa sợ ma, chẳng qua lúc vào trong lòng núi, gian thạch thất nào cũng trông như hang đá tự nhiên chứ không giống nơi thờ tự người chết nên cậu chàng mới không xanh mặt. Lúc này thấy Tạng Cẩu như thế thì phì cười, nói:

" Cứ cho là nó có phép hóa to biến nhỏ đi, sao lúc nãy đánh nhau nó không dùng phép? "

Thấy bạn á khẩu không đáp được, cô nàng mới phì cười, rồi nghiêm mặt không trêu chọc nữa:

" Thứ hai, Cẩu không thấy lạ à? Lúc đánh nhau con hổ vô tình dẫn động cơ quan, lúc Chấn Nguyên tử chạy về phía cửa động nọ cũng dẫn dộng cơ quan... Chứng tỏ trong cái hang này đầy rẫy bẫy rập. Thế nhưng cái con này nằm ở đây từ trước, coi như không chết đói chẳng nhẽ nó không đi lại trong hang, tại sao lúc ta vào đây lại không thấy dấu vết nào? Không cả một cái độc trâm, một vệt thủy ngân... "

" Ý Hương là... "

Tạng Cẩu nuốt cố một miếng cơm, trong đầu chợt nghĩ đến một khả năng đáng sợ.

Hồ Phiêu Hương bèn nói:

" Không sai! Tớ đoán con thú này chỉ vừa xuất hiện trong hang, hơn nữa còn là đột nhiên hiện ra như là có phép thần vậy. "

Kết luận này cực kì khó tin và hoang đường...

Song, bản thân ngôi mộ cổ này đã là một sự tồn tại cực kì hoang đường rồi. Thế nên thân ở trong mộ, cũng không thể suy nghĩ theo cách bình thường được.

Tạng Cẩu bèn cười:

" Đấy! Cậu cũng bảo là có phép... "

" Tớ bảo con thú hiện ra trong hang một cách rất phi lí, chứ không bảo nó có phép. Chẳng nhẽ Cẩu không nghĩ... trong mộ vốn đã có người hóa phép khiến con hung thú này hiện lên ở đây? "

Hai người ăn xong, nhưng những suy nghĩ về ngôi mộ điên rồ vẫn lởn vởn trong đầu. Tạng Cẩu chợt xách đao lên vai, định bụng nhảy xuống.

Hồ Phiêu Hương chợt hỏi:

" Này, định làm gì thế? "

Cậu chàng bèn cười:

" Lí Thông và một tên nữa bị trọng thương ngã vào một cái hốc, tớ định moi họ lên chôn cất. Nghĩa tử là nghĩa tận, bằng không thì cũng coi như nể mặt của Thánh Chèm. "

Hồ Phiêu Hương thấy vậy thì không phản đối nữa.

Tạng Cẩu leo xuống khỏi cái hốc, lại đảo mắt một vòng đặng tìm nốt hai người xấu số. Chỉ có điều...

Cả cái hang đều im lìm, không khí chết chóc phủ xuống tứ phía, bốn bề tuyệt nhiên không có một bóng người nào, đương nhiên không tính bản thân Tạng Cẩu và Hồ Phiêu Hương.

Tạng Cẩu có trí nhớ rất tốt, chuyện cậu chàng đã để tâm thì tuyệt không có khả năng nhớ nhầm. Lúc nãy ngồi trong hốc đá rõ ràng cậu chàng thấy Lí Thông trúng chưởng văng vào một hốc đá, sau đó kẻ phóng chưởng đánh y cũng trúng ám khí rồi bị đạp vào chỗ ấy. Cái hốc đá ấy nằm đối diện nơi hai người đang nấp, Tạng Cẩu thấy được rõ mồn một.

Nhưng nay đến kiểm tra thì lại không có người...

Cũng không có xác.

Lại càng không có máu.

Trong cái hốc đúng ra phải có hai người – hai bộ thi thể thì hiện tại chỉ có độc bóng tối và bụi đất.

Cậu chàng khịt mũi, gãi gáy, tự nhủ:

[ Chẳng nhẽ cái động cổ quái này còn ăn được người?? Hoặc giả... trong cái hốc này có cơ quan bẫy rập gì, ban nãy mình đại chiến với con dị thú vô tình kích hoạt nó? ]

Tạng Cẩu còn đang miên man suy nghĩ thì bỗng có tiếng hét kinh hoàng vang lên, cắt đứt mạch tư duy của cậu chàng. Cậu chàng giật mình một cái, phản ứng đầu tiên là đánh mắt về phía hốc đá nơi mình và Phiêu Hương vừa ngồi.

Chương 307: Hồi hai mươi sáu (13)

Nhưng nghe kỹ lại, thì Tạng Cẩu đoán chừng người vừa cất tiếng hét không phải cô bạn, thế thì ắt là ba người ban nãy xông vào trong. Cậu chàng nghĩ đến võ công cỡ như Chấn Nguyên tử mà cũng có thể xảy ra biến cố, ắt hẳn cạm bẫy bên trong cũng không tầm thường, thậm chí có thể là đường cùng. Nghĩ thoáng một chốc, cậu chàng bèn tung mình lui vào chỗ nấp cũ chờ xem thực hư.

Quả nhiên, một chốc sau đã thấy Chấn Nguyên tử chạy thục mạng ra khỏi cửa hang, mồm kêu oai oái. Một tay lão buông thõng ra, rõ ràng đã thụ thương, tay còn lại cầm đuốc quơ loạn, miệng không ngừng quát:

" Đừng qua đây! Không được qua đây! "

" La đi, ngươi có la rát cổ họng cũng không ai cứu đâu. "

Tạng Cẩu quay lại, nhìn Phiêu Hương – người vừa nói một câu cực kì dễ gây hiểu nhầm bằng ánh mắt cổ quái. Cô nàng nén cười, nói nhỏ:

" Chứ Cẩu không thấy câu này dùng đối đáp lão ta rất hợp sao? "

" Trong hoàn cảnh này thì không. "

Tạng Cẩu tiếp tục nén cơn ớn lạnh xuống, nói.

Hồ Phiêu Hương thì nhẹ giọng:

" Sao? Lỏng người ra rồi phải không? Thế thì chuẩn bị mà đón tiếp khách không mời. Tớ nghĩ thứ sắp xuất hiện không dễ chơi hơn con hung thú kia là bao đâu. "

Tạng Cẩu thấy cô nàng quả quyết, cũng hiểu dụng tâm của bạn, âm thầm súc khí chờ đợi.

Dưới ánh đuốc leo lét...

Điểm sáng độc nhất làm cái hang vốn tối tăm, lại càng thêm bí hiểm. Ánh sáng nhỏ bé căn bản không thể chiếu rọi những góc khuất không thấy trong hang động, thành thử ở một phương diện nào đó, lại càng khiến người ta cảm thấy bất an.

Dưới ánh lửa, bóng của những nhũ đá lởm chởm kéo dài ra, hóa thành miệng ma, răng quỷ, chỉ vừa nhìn là đã khiến lông tóc người ta dựng đứng cả lên.

Chấn Nguyên tử nhìn quanh nhìn quất, mắng:

" Bọn An Nam sớm đã biết đường đó là vực thẳm, trong hang còn lối khác. Chỉ trách ta quá chủ quan không nghĩ đến khả năng này. "

Lão nghĩ hai người đã sớm theo lối bí mật nào đó đi càng sâu vào mộ, nên không hề kiêng dè. Dù sao những thú đang đuổi theo lão chưa chắc đã hiểu tiếng người.

Chấn Nguyên tử không hổ là tay lão luyện giang hồ, lão bỗng vừa khua đuốc, vừa chạy về phía thi thể con hổ, tung cước đá cái xác về phía cửa hang.

Đoạn, lão ta cũng tắt đuốc, cúi xuống, nấp vào một hõm đá.

Độ mấy khắc sau, bỗng nhiên có vô vàn những âm thanh quái lạ bật lên, lởn vởn lẩn khuất từng hốc càng ngõ hẻm trong cái hang tối hun hút.

" Thứ... thứ gì vậy... "

" Không biết. Nhưng đông lắm. Có lẽ là đại bàng... có bốn cánh? "

Hang động tối mò, Chấn Nguyên tử lại vừa nổi đuốc, thành ra mắt người hãy còn chưa kịp thích nghi lại với bóng tối. Lấy nhãn lực của Tạng Cẩu thế mà cũng chỉ nhìn được loáng thoáng hình thù của những thứ vừa xuất hiện trong hang.

Ấy là khoảng chục con dị thú, to như con đại bàng, trên lưng chúng có bốn cái cánh dài không ngừng đập loạn. Tiếng đập cánh nghe rè rè, rè rè... Lúc xa thì tưởng như ở tận bên kia động đá, khi gần những tưởng như sát bên tai.

Hồ Phiêu Hương nghĩ thoáng một chốc, lại nói:

" Không đúng. Loài chim mà đập cánh, âm thanh lông vũ tạo nên nghe rất khác. Sao tớ nghe những âm thanh này na ná như tiếng ruồi muỗi... "

Tạng Cẩu nói:

" Làm gì có con ruồi con muỗi nào to đến thế? "

Hai người trao đổi một thoáng, thì Hồ Phiêu Hương cũng lấy sẵn bột thuốc đuổi côn trùng của thiền sư Tuệ Tĩnh ra rải trước cái hốc cho cẩn thận. Tạng Cẩu lúc này âm thầm quan sát, chỉ thấy những dị thú nọ đậu lên xác con hổ nanh kiếm, không ngừng cắn xé thịt tươi mà ăn.

Té ra Chấn Nguyên tử đã dùng xác con hổ làm mồi nhử bọn dị thú này.

Nhắc đến lão, thì đã thấy lão nhân lúc này lần mò tìm xuống cái hốc ban nãy Lí Thông ngã vào. Tạng Cẩu nghĩ thầm:

[ Lão này chắc chui vào ấy tìm nơi để lẩn trốn. ]

Được một chốc, tiếng cắn xé ngừng lại, Tạng Cẩu đoán bọn dị thú đã ăn no. Lúc này cậu chàng lại nghe tiếng đập cánh, nhận chuẩn phương vị rồi lấy một viên phi châu bắn mạnh về hướng đó, hòng đánh chết dị thú. Chỉ nghe bịch một cái, một con dị thú bị đánh rơi hẳn xuống.

Cả đàn lập tức phát rồ, luẩn quẩn trong hang một lúc tìm thủ phạm, song có lẽ trí tuệ bọn thú này không cao lắm nên được một chốc là cả đàn kéo nhau chui vào cái hang cũ.

Tạng Cẩu chờ cho những tiếng đập cánh tắt hẳn, rồi nói:

" Ra, xem thế nào. "

Hai người dùng khinh công, nhẹ nhàng búng mình về phía cửa hang nơi cái xác hổ đang nằm. Mở mồi lửa lên kiểm tra, thì chỉ thấy cái xác hổ to đùng đã bị gặm nham nhở, nhiều chỗ hở cả xương trắng hếu trông đến là đáng sợ.

Mà bên cạnh nó...

Là con dị thú bị phi châu đánh chết.

" Nó là... chuồn chuồn?? "

Nằm trên mặt đất, thế mà lại là một con chuồn chuồn, thân bọc trong giáp đen bóng lộn, từ đuôi đến đầu dài cả thảy hơn hai xích. Tuy cái đầu của nó đã bị phi châu đánh dập nát, nhưng hình dáng quen thuộc thế này thì không thể lẫn đi đâu được. Hai người nhìn sải cánh của con quái trùng, nhẩm tính thấy không thua gì độ dài từ đầu chí đuôi của nó thì không khỏi chết trân cứng họng.

Hồ Phiêu Hương bèn cười trêu:

" Con này bay thấp khéo mà bão lớn, bay cao có mà hạn to. "

Tạng Cẩu thì rùng mình, bỗng nhiên nhớ ra chuyện người dân chài lưới thôn Điếu Ngư hay nói với đám trẻ chăn trâu hồi bé:

" Có khi nào cụ Yết Kiêu bị con này cắn nên lặn mới giỏi thế không? Người ta bảo chuồn chuồn cắn rốn biết bơi, con này to thế này, cắn một cái chắc thành tay cự phách. "

Hồ Phiêu Hương bèn trêu:

" Cẩu thích thế thì để cho nó cắn một cái là biết, khéo lại lòi ruột ấy chứ. "

Đoạn, cô nàng lại hất đầu về phía cửa động:

" Giờ sao? Trong đấy cái thứ này bu thành bầy thành đàn đấy, có vào một chuyến không? "

Tạng Cẩu nói:

" Vào! Đường cùng với người ta, chưa chắc là đường cùng với mình. "

Phiêu Hương nhún vai, nói:

" Tớ chỉ nhắc là thuốc đuổi trùng của thiền sư chỉ có một bình này, dùng hết là mình toi đấy. "

Hai người không khỏi trầm ngâm...

Hành động ban nãy của Chấn Nguyên tử đã chỉ rõ, là đám chuồn chuồn ngoại cỡ này không sợ lửa như côn trùng bình thường. Đốt thì chúng vẫn chết cháy đấy, nhưng có dùng lửa cũng chẳng dọa nổi.

Thế nên, thứ hai người có thể dựa vào, ngoại trừ bản lĩnh của bản thân ra thì cũng chỉ có đống thuốc thiền sư Tuệ Tĩnh chuẩn bị cho.

" Đi bước nào hay bước đấy. "

Tạng Cẩu nói xong, lại lấy phấn diệt mùi rắc lên người mình. Cậu chàng vừa đánh một trận với con hổ răng kiếm, trên người không khỏi dính máu. Sau đó lại tiếp xúc với thi thể, tự nhiên là không khác gì bữa cơm biết chạy cho bọn chuồn chuồn khổng lồ cả. Thế nên, không xử lí mùi trên người trước, thì chuyện vượt qua khỏi bọn chuồn chuồn này quả thực khó còn hơn lên trời. Hai người tuy khinh công thân pháp đều cao quá đáng, nhưng dù sao cũng phải có chỗ mượn lực, không thể tùy ý chuyển hướng, đâu thể linh hoạt như bọn chuồn chuồn, sau lưng có cánh được?

Hà huống, so với chim lớn, ở trên không trung bọn chuồn chuồn càng linh hoạt hơn.

Tạng Cẩu tuy là muốn thử một phen, song cũng không nắm chắc lắm.

Hai người nhìn nhau, thấy ánh kiên quyết lóe qua đáy mắt người còn lại, thì đồng thời gật đầu, lao vào bóng tối của hang động.

Lại kể chuyện ở Sái Già...

Đặng Dung chậm rãi nói với Lê Lợi:

" Ta muốn cậu đào ngũ. "

Những lời này khác nào sấm rền sóng cuộn, Lê Lợi nghe mà không khỏi lấy làm ngạc nhiên, lại cực kì tức giận. Chàng bèn hỏi:

" Quan Bình Chương cho rằng Lê Lợi là kẻ văn không giỏi võ không thông, ở lại chỉ làm cản tay cản chân các vị hay sao? "

Đặng Dung lắc đầu, phẩy quạt:

" Ta không có ý này. "

" Vậy... ngài cho Lê Lợi này là kẻ tham sống sợ chết, lâm trận thoái lui sao? "

Lê Lợi nghiêm sắc mặt, nhìn y một cái.

" Tôi biết, tôi trì hoãn chuyện hội quân vài tháng. Sau trận đánh ở Ngọc Ma, cũng có ý về nhà cũ. Nhưng lần trước làm tròn đạo hiếu, lần sau cho vẹn chữ tín, chứ nào có phải ngại khó ngại khổ, thấy nguy hiểm mà trốn tránh? "

Đặng Dung lắc đầu, nói:

" Bản tính cậu thế nào, ta hiểu rất rõ. Thế nên... trận này cậu càng phải đào ngũ. "

" Tại sao? "

Y lặng lẽ nhìn ra cửa sông, nơi binh tướng đang hò nhau đắp đất, cắm chông, buộc xích mà chậm rãi:

" So với đế Quý Khoáng, thái thượng hoàng Giản Định, cậu không thấy mình rất được lòng người hay sao? Đinh Lễ, Lê Sát, Lê Văn An...v.v... những người này đặt ở đâu cũng có thể cáng đáng một phương, lại trước sau tụ về dưới trướng cậu, chịu nghe sai khiến. Một núi không thể có hai hổ, nhưng nay Lam Sơn khác nào nơi rồng cuộn hổ ngồi, phong vân tế hội? Đến thánh thượng dù biết cậu không có dã tâm ngồi lên ngôi cửu ngũ cũng không thể không sinh lòng đề phòng, song lại không giải thích được tại sao. Thế nhưng, ta thì biết... "

Y ngừng một chốc, lặng yên nghe tiếng nước sông đánh vào bờ, đoạn lại tiếp:

" Cậu cầm quân ra trận, nhưng kì thực chưa từng nghĩ cho bản thân, chưa từng mảy may có chút tư lợi nào. Các tướng sở dĩ tin theo cậu, là vì họ biết, đi theo cậu tức là dốc sức phụng sự cho muôn dân trăm họ, chứ không phải là dốc sức cho họ Lê. Mà chuyện này nói ra thì dễ, làm được lại chẳng mấy ai...

Ít nhất, vua quan nhà Hồ chẳng ai làm được. Mà hai vị Giản Định Trùng Quang, cũng không làm được... "

Lê Lợi cúi đầu, nhìn xuống bàn tay đang nắm chặt.

Đặng Dung lại đánh giá cao chàng như thế hay sao?

Đặng Dung thở dài một hơi, nói:

" Chuyện kháng Minh không thể nào đứt đoạn, bằng không chiến công thảm liệt của cha ta, của bác Dị, cũng như của Nguyễn Súy, của Chân sẽ nguội lạnh vào dĩ vãng. Ngọn lửa trong lòng muôn dân... cần có người giữ. Mà ngoài cậu ra, thiên hạ ta chưa thấy người thứ hai thích hợp hơn. "

Chương 308: Hồi hai mươi sáu (14)

Im lặng...

Chỉ có tiếng gió hiu hiu thổi vào đòng đòng, tiếng sóng đập vào bãi cạn...

" Trận này thú thực, mười phần hết chín là thua, cửa thắng không nằm ở quân ta quyết định. Cho nên, cậu an toàn thoát được khỏi đây, mới là kế sách lâu dài, phòng ngừa vạn nhất. "

" Chẳng phải, đế Quý Khoáng an toàn rút lui mới là chuyện quan trọng hay sao? "

Lê Lợi nhìn con thuyền rồng ở xa xa, vào bóng người mặc áo cổn đội mũ miện đứng nơi đầu thuyền phóng mắt ra phương bắc, nhẹ giọng.

Đặng Dung thở dài, lắc đầu:

" Đại thế nay đã mất, thánh thượng không có chúng ta phò trợ, không chống đỡ được bao lâu. Mà cậu, cho dù có thoát thân, cũng phải ẩn nhẫn chờ thời mới được. "

Lê Lợi còn muốn nói nữa, nhưng ánh mắt khẩn khoản của vị Bình Chương khiến chàng chẳng thể mở lời.

Rốt cuộc, chàng cũng nuốt khan một tiếng, hỏi:

" Còn ngài thì sao? "

Đặng Dung mỉm cười...

Y nhìn về xa xăm.

Đúng rồi, còn bản thân y thì sao?

Kì thực sớm đã có câu trả lời rồi...

" Tôi trung không thờ hai chủ. Hà huống, phục Trần vốn là tâm huyết cả đời của tiên phụ... phận làm con sao đành bỏ dở giữa chừng? Hoặc là làm quan nhà Trần, hoặc làm ma nơi chiến địa... vốn không có con đường thứ ba. "

Y nói những lời này, ngữ khí thì nhẹ nhàng, nhưng ánh mắt hiện lên vẻ quả quyết không gì lay chuyển nổi, khác nào núi lớn giữa trời?

Lê Lợi chỉ biết thở dài...

Chàng quay người, toan bỏ đi...

Bên tai, nhẹ nhàng vương lại mấy lời rất nhỏ:

" Đáng tiếc, cậu sinh sớm mười năm, thì có lẽ Đặng Dung đã dốc sức cho Lam Sơn. "

Lê Lợi ngừng bước, ngoảnh đầu nhìn, thì Đặng Dung đã quay lưng về phía chàng, lẳng lặng quan sát địa đồ trên tay.

Những lời ấy là chàng tưởng tượng ra, hay y thực sự nói như vậy?

Không có đáp án.

Lê Lợi nhìn lên bầu không, tự nhủ:

[ Vài năm trước mình hãy còn lông bông chưa hiểu gì, nào đã được như bây giờ? Xem ra là trời xui quỷ khiến, không có duyên với người tài... ]

Chàng cúi đầu, vái một vái, nói:

" Được đứng chung một trận doanh, đánh Minh với quan Bình Chương mấy năm là vinh dự của Lê Lợi tôi. "

Nói xong liền bỏ đi, chuẩn bị đánh một trận sau cùng với tư cách là Kim Ngô tướng của Hậu Trần.

Độ năm ngày sau, quân Minh cho thám quân sục sạo mấy nơi hiểm yếu quanh cửa Sái Già, chắc chắn không có phục binh nhà Trần rồi mới cho quân đóng trại ở bờ bắc. Bấy giờ thì bãi cọc, xích sắt, chiến lũy của quân Trần cũng đã chuẩn bị xong xuôi, thủ chắc ở phương nam. Hai bên cách một bờ sông hằm hè lẫn nhau, chia quân đánh thử mấy trận nhỏ, xong chưa chính thức khai chiến toàn diện. Trương Phụ thấy quân Hậu Trần trận nào cũng tung quân đánh chặn, hung hãn quyết thắng thì cực kì mừng rỡ. Tuy là thiệt quân, nhưng lão cũng thăm dò được phen này quân Trần đã quyết một trận tử chiến sau cùng. Chỉ cần lão thắng, quét tan Hậu Trần là chuyện sớm muộn.

Ngày khai chiến...

Quân Minh kéo thuyền lớn dàn trận ở bờ bắc, cờ xí rợp trời, thanh thế như nước tràn đê vỡ.

Thuyền của quân Minh là loại thuyền Phúc Kiến to lớn như nhà lầu, có thể chứa hàng trăm người. Ðáy nhọn, phía trên sàn rộng, đầu ngang và trương ra: đuôi cao, đặt bánh lái ba lớp vào nơi này: quanh biên đóng ván dựng rào tre như bức thành, thiết lập 2 cột buồm. Bên trong có 4 tầng: tầng đáy không thể ở, chỉ chất đá gỗ để lấy thăng bằng lúc bão tố: tầng 2 cho quân lính nghỉ, có cầu thang gỗ lên xuống: tại tầng 3 hai bên phải trái đặt 6 cửa tủ, đây là nơi kéo buồm, nấu nướng, trước và sau tầng này là nơi sử dụng neo thuyền, dây thừng kéo lên kéo xuống phải dùng sức. Tầng trên cùng là đài lộ thiên, cầu thang từ dưới lên tại đây, hai bên lát gỗ làm lan can, lính dựa vào mà chiến đấu, tên, đá, hoả pháo xuất phát từ đây: thuyền địch nhỏ hơn gặp phải sẽ bị vỡ chìm: đánh thành hoặc hải chiến đều lợi hại. Tuy nhiên thuyền này chỉ hành sử lúc thuận gió, thuận triều, quay chuyển bất tiện: lại không thể ghé ngay vào bờ, chỉ nhờ thuyền nhỏ chuyên chở hộ.

Trương Phụ cho rằng quân Trần chạy nạn không đào đâu ra hỏa pháo, nơi đây lại gần sát đất Chiêm Thành nên cũng không thể chôn giấu sẵn được, thành thử lão càng vững dạ.

Trên lâu thuyền gió lộng, Trương Phụ nheo mắt nhìn về phương xa, thu hết chiến trường vào tầm mắt. Lão đã thấy quân Trần có ba trận doanh đặt ở hai cù lao lớn, và một xóm chài ven biển. Bấy giờ ở các cửa sông hiểm yếu đều có thuyền chiến của Hậu Trần neo đậu ngang dọc, dàn thành trận chữ nhất, thuyền này được buộc xích vào thuyền khác, giữa hai bên đóng ván gỗ làm cầu. Hiển nhiên quân Trần sẽ dùng những con thuyền nối đuôi này làm cầu phao, chi viện qua lại cho nhau. Ngoài ra, cửa ngõ để đánh thọc sườn quân Trần ở các cù lao giữa sông cơ hồ đều bị " bức tường thành " này chẹn cứng cả.

Còn hai khúc sông chính ôm lấy hai cù lao thì không có chiến thuyền, mà Trương Phụ không lo, càng không dại gì đánh vào đó. Hai nơi này, sông rộng hai trăm trượng, muốn lấy thuyền chặn đứng là chuyện không tưởng. Nhưng nếu lão kéo thuyền vào, lập tức sẽ bị ở thế gọng kìm, bị quân Trần từ hai bên bờ tấn công thì không phải chuyện tốt.

Hà huống, mặc cho quân Trần thủ vững những nơi hiểm yếu, nhưng nếu chỉ dựa vào cung tên thì không cản nổi thế tiến của thuyền lớn. Lão thấy chẳng việc gì phải đi đường vòng cho mất công, cứ đánh vỗ mặt vào phòng tuyến của Đặng Dung, dùng hỏa lực bẻ gãy phản kháng của quân Trần là được.

Mà lúc này trong lòng các tướng cầm quân phía nhà Trần đều thấp thỏm lo âu, không biết trận này nên đánh ra sao.

Trương Phụ tuy có bản đồ sông núi, nhưng không thông thuộc thủy tính, không rõ thời gian nước triều lên xuống. Lão xua thuyền lớn ra lại gặp lúc triều rút, đang rẽ sóng băng băng thì gặp phải xích sắt chặn đường, thuyền lớn bèn dừng gấp một cái, người trên thuyền đều trao đảo.

" Cho quân chặt xích! "

Trương Phụ là tướng lão làng, biết chuyện gì vừa xảy ra. Song lúc này thuyền lão vẫn chưa vào tầm tên bắn nên lão chẳng ngại gì. Trái lại, từ vị trí này thì hỏa pháo đã có thể bắn với được vào hào lũy, bãi cọc của quân Trần, lát nữa quân Minh chiếm bãi cạn cũng sẽ thuận lợi hơn. Chứ nếu quân Trần có hỏa pháo thì Trương Phụ sẽ cho lui binh ngay tức khắc. Lão bèn ra hiệu cho thả thuyền nhỏ xuống hộ tống thuyền lớn.

Phía nam, Đặng Dung thấy có quân báo thuyền to của quân thù đã bị kẹt, lập tức hạ lệnh:

" Hạ lệnh, dùng pháo bắn thuyền.

Chư tướng mau chèo thuyền ra, chặn đánh thuyền nhỏ của giặc! "

Quân lệnh ban xuống, tức thì từ các mô đất cao, các thuyền chiến chắn ở giữa dòng không ngừng có pháo nổ rung trời. Thuyền lớn quân Minh bị kẹt ở giữa dòng, không thể quay đầu, bây giờ lại lọt vào trận địa của quân Trần, bị hỏa pháo bắn tới tấp thì vô cùng kinh ngạc. Trương Phụ thân chinh bách chiến cũng không ngờ đến sự lạ này, thành thử thuyền trúng mấy phát đạn rồi lão mới kịp định thần, vội vàng hạ lệnh cho quân sĩ mau chóng thả thuyền nhỏ xuống nước. Hỏa pháo bắn xong một lượt, cần phải mất một lúc mới có thể nhả đạn tiếp. Đây là thời khắc nghìn vàng để cắt xích giải phóng cho thuyền lớn.

Lại nói, trận này khác hẳn đại chiến trên bến Bô Cô. Khoảng cách giữa hai bờ sông lúc đó chỉ khoảng hai mươi lăm ba mươi trượng, còn hiện tại thì gấp bốn lần. Mà tầm bắn hiệu quả của hỏa pháo hạng nhẹ lắp trên chiến thuyền, cũng chỉ khoảng hai mươi ba mươi trượng đổ lại.

Thành thử, quân Minh không thể bắn pháo từ bên kia sông, mà phải bơi thuyền ra giữa dòng mới vào tầm bắn. Bằng không, Trương Phụ cũng không đến nỗi phải dùng thuyền lớn ra giữa dòng.

" Trương Hầu, ngài hãy xuống thuyền trước đi. "

" Nhớ kỹ lời ta dặn. "

Trương Phụ nói xong thì đã có một đám tướng sĩ thân cận của Phụ xúm lại che cho lão, đoạn lại đỡ xuống thuyền lá, cho người giỏi chèo nhanh đưa vào bờ. Lão thấy hỏa pháo bắn rung trời, tức giận đến độ mặt già đỏ tấy lên.

" Được lắm... Được lắm... "

Lão cười lên vài tiếng, ánh mắt quắc lên nhìn chòng chọc vào bãi sậy ven sông như thể sắp giết người. Gã chèo thuyền bắt gặp ánh nhìn của Phụ, sởn cả tóc gáy, không dám cả thở mạnh.

Lúc này, một đoàn thuyền nhỏ của quân Minh lướt nước mà đi, ý đồ cắt dây xích. Trương Phụ đã sớm biết quân Hậu Trần đã bỏ hầu hết thuyền chiến lớn, dùng làm tường ngăn cửa sông, thế nên lúc này nếu như thuyền lớn xông tới sát bờ, dựa vào lợi thế độ cao thì có thể chiếm được bãi cạn thả neo. Thế nên lão một mực không để thuyền lớn rút lui, quyết chịu hỏa lực của quân Trần.

Chuyện quân Trần có trong tay hỏa pháo nằm ngoài dự đoán của lão, song lão cũng đoán số lượng hẳn là không nhiều, nên cũng không vội cho lui thuyền lại.

Bấy giờ, lại có đến trăm chiếc thuyền nhẹ chở quân Trần ra đến giữa dòng, nhằm ngay đoàn thuyền con đang lục tục chèo từ bờ ra của quân Minh mà phóng tiễn. Bờ phía nam, trống trận nổi lên từng hồi từng hồi nghe lồng lộng, dội vào mặt sông, đập vào bầu không cao vợi. Trên thuyền, người nào người nấy đều hăng hái, thanh thế mười phần.

Quân Minh trên thuyền thấy thế, vội vàng lấy nào đá nào gỗ, nào hỏa pháo nào hỏa thương, cung tên nỏ cứng ra bắn xuống dòng sông. Bọn này đứng trên thuyền, có ưu thế về độ cao, nên sức sát thương tự nhiên cũng lớn. Nhưng lên trên mặt thuyền lấy vũ khí cũng đồng nghĩa là hứng hỏa pháo của quân Trần. Pháo gầm dậy đất, đạn bắn đầy trời, tức khắc đã có mấy trăm lính Minh trúng pháo rơi xuống đất, thuyền chiến bị trúng pháo hư hại nhiều chỗ. Thuyền nhỏ nhân được pháo trên bờ bắn yểm trợ, phi nhanh tới áp sát vào thuyền lớn của quân Minh, ném thừng leo lên. Chẳng mấy mà đã đã có vài trăm quân lính hai phe ngã xuống nước, kẻ chết người bị cuốn trôi.

Thấy quân Trần có ý muốn leo lên thuyền lớn, quân Minh vội vã cắt cử người bơi thuyền nhẹ ra chiến đấu hòng đẩy lui được đợt tấn công này. Song quân Trần thông thuộc thủy tính hơn, đấu thuyền nhỏ với nhau đương nhiên là có lợi, thế là giữ vững được trận chiến ở giữa sông, không để bị đẩy lùi quá những đoạn xích.

Chương 309: Hồi hai mươi sáu (15)

Lại qua nửa khắc thì quân Hậu Trần đã có những tốp đầu tiên leo lên được thuyền lớn nhà Minh, theo thang xuống tầng bắt đầu đánh giết. Trên thuyền nhiều chỗ vướng víu, chật hẹp, nhưng người Nam vóc người nhỏ bé, võ nghệ thiên hướng lăn xả, lại thạo thủy tính chòng chành, nên có lợi hơn. Quân Minh trên thuyền liều chết ra đánh, hai bên vừa chửi vừa giết nhau túi bụi, nhất thời cả khúc sông dậy tiếng kêu gào than khóc, tiếng trống trận có khỏe mấy cũng không át nổi.

Trương Phụ thấy người Nam bơi thuyền vừa nhanh vừa linh hoạt, chiến đấu lại liều mình không sợ chết, trên phương diện sĩ khí quân Minh dần bị áp chế thì không khỏi nghiến răng nghiến lợi. Người xưa dạy, " kiêu binh tất bại " thực chẳng sai. Quân Minh đánh trận mấy tháng nay, liên tiếp thắng lợi, không tránh khỏi có chút tự mãn đại ý. Thành thử lúc này quân Trần liều mạng mà đánh, khí thế hung hãn vô cùng, đạp nát sự kiêu ngạo của quân Minh, chỉ để lại sự kinh hoàng và bất lực.

Song, lão cũng là tướng kinh nghiệm dày dạn, thành thử vừa đặt chân lên bờ là đã hạ lệnh cho quân lính, cố giữ vững thế trận. Tuy không hiểu tại sao đột nhiên lại có pháo từ trên trời rơi xuống dưới đất chui lên giúp cho quân Trần, nhưng lão cũng hiểu hỏa lực của quân Trần không thể kéo dài được, do bản thân đoàn thuyền Hậu Trần vốn không có hỏa pháo.

Quả nhiên, được một chốc, tiếng pháo gầm đã vãn...

Lúc này, những thuyền chiến lớn của Trương Phụ tuy tổn thất mấy phần, nhưng phần lớn thì đã giằng ra được khỏi xích sắt giăng ngang, hoặc đã được thuyền con chặt văng xích giữ chân. Bây giờ được thế, lập tức nhằm những hướng ban nãy có tiếng pháo mà trả đạn.

Thế trận bỗng chốc đảo chiều.

Quân Trần chiếm lấy tàu lớn, vội vàng leo lên tầng trên cùng, lấy hỏa pháo cung tên bắn sang các tàu bên cạnh. Đáng tiếc, quân Minh ở trên thuyền đều là tinh nhuệ của Thần Cơ doanh, lại chiếm tiên cơ nhắm trước. Thành thử quân Trần vừa ló ra ngoài thì lập tức có một cơn mưa đạn dội ngay vào. Hậu Trần cướp súng trong kho bắn trả, ngặt nỗi sĩ tốt phần nhiều là nghĩa quân nông dân, trước giờ chưa từng tiếp xúc với " hỏa thương " bao giờ, lần đầu bắn thì lại càng lóng ngóng.

Trương Phụ thắng thế, nhưng không lấy làm vui vẻ, mà trái lại thần sắc lão càng lạnh đi như mặt nước. Lão lập tức cho giương lệnh kì lên cao, các tướng trên thuyền Phúc Kiến chỉ ngoái đầu một cái là thấy được ngay. Lúc phát hiện hiệu lệnh, các tướng này bèn trầm giọng, cho hiệu lệnh cho sĩ tốt trên thuyền của mình ngưng thần chuẩn bị, chỉ là không rõ muốn làm gì.

Độ nửa khắc sau, thì hai bên thành những con thuyền chưa rời bến đã có một toán quân xếp thành hai hàng. Những tên này cởi trần đóng khố, tóc cạo sạch từ trán đến đỉnh đầu, để lại một dải tóc lòa xòa kéo từ tai đến sau gáy, trông cực kì buồn cười. Bên hông bọn này đeo lủng lẳng một dao găm, một lưới cá, tay thì thủ sẵn đao bén.

Vừa có quân lệnh, bọn này đã lao người nhảy ùm xuống nước, lặn xuống đáy tàu. Quả nhiên phát hiện nhân mã của Thập Bát Liên Trại đang từ các bụi lau, bờ hoang bến vắng bơi tới toan đục thuyền. Những người này thấy bị quân Minh bắt thóp, bèn lấy sẵn dao ra, bơi tới giao chiến. Trên mặt nước, cung nỏ giao phong, pháo nổ ầm ầm, bọt nổi đỏ lòm, thì dưới nước cũng đang nổ ra một trận chiến thảm liệt chẳng kém. Quân Minh và nhân mã phe Thập Bát Liên Trại đánh nhau một hồi, song phương đều có tử thương, nhưng luận thủy tính thì rõ ràng người Tàu không bằng. Bấy giờ quân Minh hết khí trước phải ngoi lên mặt sông, rút về gần tàu lớn cho an toàn, tức thì nhân mã của Thập Bát Liên Trại hăng máu đuổi theo để giết. Nào ngờ, quân Minh ở trên thuyền Phúc Kiến đã chờ sẵn.

Chỉ thấy bọn này mang lưới ra, phía cuối buộc mấy quả nặng bằng sắt đổ chỉ, cứ nhác thấy bóng tên nào đỉnh đầu không trụi tóc là chụp lưới vào đầu. Chỉ thoáng chốc là cường đạo Thập Bát Liên Trại đã tử thương vô số. Tuy là liều mạng cũng đục chìm được hai con thuyền lớn, hơn chục thuyền nhỏ, song đủ thấy được không bù nổi mất, lợi bất cập hại. Sau khi Phạm Hách bị đám quân lặn tung lưới cá tóm gọn, lôi lên bờ thì tàn đảng còn lại của Thập Bát Liên Trại cũng mất sạch sĩ khí, mạnh ai nấy chạy.

Quân Minh trói gô Phạm Hách lại, điệu đến chỗ Trương Phụ.

Phạm Hách trước từng đục thuyền quân Hồ, song chưa từng giao thiệp với người Minh bao giờ. Nay y thấy Trương Phụ hung danh vang dội té ra lại là một lão già quắc thước, không có vẻ gi là hạng hung ác giết người ăn gan uống máu như giang hồ vẫn đồn đại thì không khỏi thấy nhẹ lòng một chút.

Trương Phụ vẫn chăm chú quan sát chiến địa, chưa một lần dời mắt về phía Phạm Hách, song chuyện nhân mã Thập Bát Liên Trại đến đục thuyền, và cả chuyện y bị tóm cổ điệu đến đây đều không nằm ngoài dự đoán của lão. Dù sao, chiến báo của Hàn Quan đã ghi lại cái gì, Trương Phụ đều đã nắm được cả.

Lão chậm rãi cất tiếng, đoạn lại có một kẻ phiên dịch sang cho Phạm Hách:

" Người Nam lặn như mày được bao nhiêu? "

Y nghe lão hỏi câu này, lòng khấp khởi mừng, nghĩ bụng:

[ Năm xưa tiên tổ cũng bị quân Thát tử hỏi câu này còn gì? Mình cứ làm y hệt, khéo lại có cơ thoát thân. ]

Đoạn, Phạm Hách hắng giọng, cười nhạt:

" Loại tôm tép như tao có hằng ha sa số, lại có mấy trăm người ở dưới nước như trên đất bằng, mười ngày nửa tháng không hề chi. Bây giờ dưới đáy sông bọn tao đang từng tốp từng tốp luân phiên, chỉ chờ đục thuyền của chúng bay. "

Cứ như truyện cổ kể, thì lúc này tướng địch sẽ đòi y phải giúp tìm bắt bằng hết những tay lặn giỏi này. Mà y sẽ tương kế tựu kế, chỉ cần xuống nước, thì sẽ lỉnh mất ngay.

Phụ nghe xong, gật đầu:

" Đúng là đáng sợ. Nếu đã thế, thì cứ giết thằng nào hay thằng nấy. "

Lão đánh tay ra hiệu, quả có hai ba tên lính cường tráng ấn đầu Phạm Hách xuống toan chém thật.

Lưỡi đao nặng đặt lên cổ, khiến cho y chẳng cách nào làm ra vẻ trấn định được nữa. Phạm Hách thấy có biến, mồ hôi tứa ra như tắm, tim đập bình bình như trống. Y vội vàng kêu:

" Chờ đã! Lẽ nào tướng quân không muốn bắt gọn hết đám người này hay sao?? Ta có thể dẫn các ngài đi. "

Trương Phụ vẫn không nhìn về phía y, chỉ chậm rãi nói:

" Trương mỗ làm người nhiều khiếm khuyết, nhưng được cái rất trọng anh hùng. Ngài đã là con cháu của bậc lương đống, cốt cách phẩm giá hơn người, nếu ta ép ngài vào chỗ bất trung bất hiếu bất nghĩa, thực là quá hạ thấp khí khái người quân tử. Thế nên vẫn nên để Phạm anh hùng vị quốc vong thân là hơn. "

Lúc này trước cảnh sống chết, bao nhiêu là suy nghĩ xẹt qua đầu Phạm Hách có khác nào mưa rào mùa hạ? Hắn nghĩ về những năm tháng nhung lụa xa hoa chưa kịp hưởng, thê thiếp yêu kiều chưa có mấy phen kề cận, nay đã phải chết thì thật quá lỗ. Còn thể diện nước nhà, đại nghĩa dân tộc, hắn sớm đã quăng khỏi đầu từ thuở nào rồi.

" Chậm đã. "

Trương Phụ nghe hắn hét lên, bèn lệnh cho đao phủ tạm thời thu lại bội đao.

Cảm giác vòng một vòng qua địa phủ rồi trở lại càng khiến Phạm Hách lạnh người sởn gáy, y vội vàng nói:

" Chỉ cần hầu gia nương tình không giết, thì tôi xin truyền dạy hết tài lặn của người Nam, không giấu diếm nửa phần! "

Phạm Hách nói xong những lời này, như thể hụt hơi kiệt sức, chân mềm nhũn ra như cọng bún thiu.

Trương Phụ bấy giờ mới nhếch mép:

" Trương mỗ trọng anh hùng, càng quý kẻ tuấn kiệt. Mà ngài cũng biết nước ta có câu kẻ thức thời ấy là trang tuấn kiệt rồi. "

Phạm Hách biết, y đã nói đúng những lời Phụ muốn nghe.

Y đã nhặt lại được cái mạng quèn.

Song đồng thời, cũng đã vứt bỏ tôn nghiêm, đạp lấy thanh danh của tổ tiên xuống đất.

Vậy mới nói, lửa thử vàng gian nan thử sức. Đến lúc khẩn yếu quan đầu, trên đe dưới búa, mới lộ rõ ai là kẻ anh hào ai là phường tiểu nhân.

Lúc này, đánh chính diện giữa trung quân của Đặng Dung và Trương Phụ đã vào thế giằng co thì ở phía tây, Mộc Thạnh đang chịu cảnh bất lợi.

Lão thám thính được quân Hậu Trần dùng thuyền lớn chặn cửa sông, lại cho quân đóng trên thù lao, đặng thủ vững ngã ba hiểm yếu. Thế là lão bèn cho kỵ kéo pháo ra ngã ba sông Cánh Hòm – Thạch Hãn, đặt pháo ở chỗ bây giờ thuộc về xóm Canh, nhắm thẳng vào cánh quân của Nguyễn Súy trên cù lao giữa sông.

Hai cù lao cách nhau đến gần trăm trượng, thành thử Súy đã ở thế không có đường lùi, chỉ có thể thủ chặt một chỗ. Chỉ cần lão dùng pháo công, kiên trì, sớm muộn cũng đánh nát được chiến hào, đánh đắm thuyền lớn, giải được nút chặn ngay cửa sông. Khi ấy quân của Trương Phụ ngược dòng Thạch Hãn, vòng ra phía sau trung quân của Đặng Dung, thì quân Trần ắt sẽ bị phá.

Mà từ chỗ lão đặt pháo, đến cù lao Nguyễn Súy đóng quân chỉ cách nhau vỏn vẹn hai nhăm ba mươi trượng, hẹp hơn nhiều so với dòng lớn của sông Thạch Hãn. Thành thử, lão chỉ cần đặt pháo trên bờ, cũng có thể bắn tới được quân doanh của Hậu Trần.

Nghĩ là làm, Trương Phụ dong thuyền ra, thì Mộc Thạnh cũng cho phát pháo tấn công.

Quân Hậu Trần chống cự yếu ớt bằng cung nỏ, càng khiến lão vững dạ, bèn cho quân châm toàn bộ số pháo, không cần chia đợt bắn xen kẽ lằng nhằng.

Dù sao, muốn dùng cung nỏ bình thường bắn được hai lăm ba mươi trượng, thì phải là hạng cung thủ thiện nghệ mới mong làm nổi. Mà cho dù bắn được tới nơi, thì tên cũng bay hết đà, sát thương cực kì hữu hạn.

Mộc Thạnh cho rằng, cù lao giữa sông này đối với Hậu Trần chẳng khác nào của nợ, bỏ không được, giữ chẳng xong. Bây giờ lão có hỏa pháo, đứng ở thế lão đánh được quân Trần, Nguyễn Súy thì có muốn phản công cũng chẳng được. Kẻ thù chỉ có thể co mình chịu trận, thì có gì mà sợ?

Ấy là cái sai đầu tiên của lão...

Bởi, trong tay Nguyễn Súy, cũng có hỏa pháo!

Chương 310: Hồi hai mươi sáu (16)

Y thấy quân Minh vừa ngừng bắn, bây giờ đang lúc nhồi thuốc thay đạn, bèn cho quân nổi trống, bắn hỏa pháo. Tức thì từ trên cù lao, trên chiến thuyền không ngớt có đạn pháo dội vào trận địa pháo của quân Minh. Quân Hậu Trần chiếm lợi ở chỗ bắn sau, biết đại khái vị trí đặt pháo của đối thủ, mà Mộc Thạnh lại không ngờ đối phương có pháo. Thành thử ngay trận đầu, Nguyễn Súy đã hủy được một số lớn hỏa pháo của quân Mộc Thạnh.

Mộc Thạnh biết có biến, nhưng chưa phản ứng kịp thì pháo đã bị bắn hỏng gần nửa. Lão một mặt cho quân kéo pháo lui lại giữ thế trận, tiếp tục bắn vào mấy con thuyền lớn đang chặn cửa sông, mặt khác lại cho khoái mã truyền tin về báo cho Trương Phụ.

Phía đông, nơi quân Minh do Hoàng Trung cầm đầu giáp trận với Nguyễn Cảnh Dị thì tình thế tương đối bình lặng. Sông Thạch Hãn phình to về phía đông, hai bờ cách nhau có đến một trăm hai mươi, một trăm ba mươi trượng. Thành thử, quân Minh chỉ kéo ra gây áp lực, ép Nguyễn Cảnh Dị phải thủ tại chỗ không chi viện cho hai cánh còn lại được, chứ không có ý dồn quân tấn công ngay.

Hoàng Trung còn chờ đoàn thuyền của Hoàng Phúc cập bờ, đánh từ đông vào, lúc ấy vượt sông diệt sạch quân của Nguyễn Cảnh Dị cũng không muộn.

Nhìn sắc trời, thì chỉ độ hai canh giờ nữa, quân của Hoàng Phúc sẽ vào bờ.

Đáng tiếc...

Quân của Hoàng Phúc, nội trong hôm nay chắc chắn không thể vào bờ...

Ngoài khơi, một toán thuyền hải tặc đang quần nhao với Hoàng Phúc, không ngừng dây dưa quấy rầy, quyết cầm chân cho được quân Minh. Hoàng Phúc không dám cho quân tùy tiện vào bờ, để hở lưng cho cướp biển, nên đành phải đánh tiếp với hải tặc.

Lần này, Hải Thượng Hung Lang cầm đầu, Đông Hải Kình Nương thì chỉ bàn giao số pháo cho quân Trần là lập tức lánh mặt. Các băng lớn nhỏ đến hội quân thì nghĩ nếu không phải Hoàng đảo chủ có lời thì hai người này chẳng nhìn được mặt nhau, tự nhiên không thể cùng đánh trận. Còn Nguyễn Cảnh Dị tuy biết rõ nội tình, nhưng đã hứa với lão họ Sa sẽ giữ kín mọi chuyện, nên tự nhiên không nói gì nhiều.

Có quân hải tặc trấn giữ bờ biển, quân Minh lại không tấn công dồn dập vì khúc sông rộng, thế nên Nguyễn Cảnh Dị không cần giữ quá nhiều quân thủ mặt đông. Số lều trại dựng lên, hào lũy đắp sẵn, đều là hư trương thanh thế. Đến quá nửa số quân đang thủ cũng là bù nhìn mặc quân phục cũ nát cả mà thôi.

Phía tây sông cánh Hòm, trên một đỉnh núi...

Có hai bóng người đang sóng vai mà đứng, gió thổi áo bào tung bay phần phật, lặng yên nhìn về phía chiến trường.

Một người vác gươm Xích Ngô, ăn mặc kiểu văn không ra văn võ chẳng ra võ, tự nhiên là Hoàng Thiên Hóa.

Người còn lại, lại là một thanh niên mặt ngọc mày kiếm, ngũ quan đoan chính, diện mạo thì anh tuấn, phong tư thì tiêu sái. Y vận một bộ giáp đen bóng, cầu vai và hộ uyển đều có gắn lưỡi dao nhọn hoắt, rộng cỡ hai ngón tay. Sau lưng y cắm một ngọn thanh long kích dài đến sáu xích, đúc bằng kim loại, đồ rằng ít nhất cũng nặng bốn năm chục cân. Có thể dùng được thứ binh khí này xung trận, đủ thấy y chẳng phải hạng thư sinh trói gà không chặt gì cho cam.

Mà bên hông y, bấy giờ đang buộc một thanh kiếm...

Ấy là kiếm Long Tuyền, vốn là vật Đặng Dung đưa cho Hoàng Thiên Hóa để làm tin, nhờ một người đến đặt phục binh ở sông Thạch Hãn, cửa Sái Già chỉ chờ đánh ập vào quân trại của đại Minh.

Giờ nhìn kiếm treo ở thắt lưng người nọ, đủ thấy thanh niên giáp đen là người mà Đặng Dung đã nhờ cậy.

Lúc này trên đầu hai người chợt có tiếng vỗ cánh. Đoạn, một con bồ câu màu xám nhẹ nhàng bay vù tới đậu lên vai của thanh niên nọ. Nhìn cách nó thuần thục tránh các lưỡi dao gắn trên cầu vai của y, đủ thấy đã được luyện thành quen.

Thanh niên vận giáp đen gỡ ống trúc ở chân bồ câu, rút phong thư bên trong ra.

Ấy tự nhiên là quân tình mà Đặng Dung bí mật gửi đi.

Y đọc xong thì quay sang Hoàng Thiên Hóa, cười mà nói:

" Đảo chủ an tâm, tối nay đã có thể xuất kích được rồi. "

Hoàng Thiên Hóa nghe y nói thế, thì cực kì kinh ngạc. Bởi lẽ, hiện tại trong tay hai người vốn không có một binh một tốt nào cả. Tuy y trước giờ vẫn tự thị võ học, độc công, nhưng đem ra đánh với đại quân cả vạn người của Trương Phụ thi tự nhiên hiệu quả không lớn.

Mà người thanh niên kia, cứ cho là dũng mãnh hơn người, thì cũng chẳng thể nào đánh xuyên qua ngàn quân được.

Lấy sức hai người, há có thể xoay chuyển được đại cục.

Thanh niên nọ mỉm cười, đoạn lấy ngón tay hơi cứa vào ngọn kích, cho máu nhỏ ra. Đoạn y chậm rãi vẽ một chữ nhất lên lưng con bồ câu. Làm xong xuôi, thì thanh niên nọ bèn thả con bồ câu lên không, chỉ thấy nó lập tức vỗ cánh bay về phía tây bắc.

Thanh niên nọ vác kích trên vai, lại huýt sáo một tiếng, tức thì từ khoảng rừng thưa có tiếng vó ngựa truyền tới. Chỉ độ mấy hơi thở sau, đã có một con ngựa ô lắc mình phóng ra, chạy đến bên người thanh niên, không ngừng cọ bờm cọ mặt vào tay y. Hoàng Thiên Hóa thấy cái bờm vàng óng như hoàng kim của con ngựa, lại thấy tròng mắt ngựa đỏ như máu, biết ấy là thứ ngựa chiến quý cực kì, bèn nói:

" Xem ra tướng quân đã có chủ ý. "

" Công chưa thành danh chưa toại, nào đã có sắc phong gì, đảo chủ đừng cười. "

Y nói xong, bèn nhoẻn cười, nhìn về phía doanh trại quân Minh, ánh mắt chứa đầy vẻ mong chờ.

Hai quân giao chiến trọn một ngày vẫn chưa phân thắng bại. Bấy giờ sắc trời đã nhá nhem mà cánh của Hoàng Phúc vẫn không cách nào vào bờ, mưu kế quân Minh đã không thành. Trương Phụ và Đặng Dung không hẹn mà cùng thu quân về.

Mộc Thạnh thủ vững ở ngã ba sông, đến tận chiều tối cũng không thấy quân Hậu Trần có ý định vượt sông, bèn cho hạ trại tại chỗ, thủ vững sườn cho đại quân.

Trương Phụ truyền tin, tạm thời chỉ cần án binh bất động, uy hiếp vị trí yếu hại của Nguyễn Súy, ngoài ra không cần đánh thủng tường thuyền của quân Hậu Trần vội.

Đêm xuống...

Trương Phụ tra hỏi Phạm Hách một lúc, đã biết được một trong những bí mật của người Nam, ấy là trước khi lặn nước thì uống nước mắm, người Tàu gọi là ngư lộ để giữ nhiệt, phòng được chết rét dưới sông. Ngày nay nghệ nhân rối nước vẫn có người dùng. Lão cho quân làm thử, quả nhiên chịu được nước sông lâu hơn trước nhiêu, không khỏi mừng thầm. Thế là Phụ chia quân làm nhiều nhóm, phân công nhau bơi ra sông, nghe tiếng mái chèo. Khi nào thấy động, tức là quân Hậu Trần tập kích, lập tức phải hét lên báo cho đại quân.

Mà Đặng Dung, thì lại nói với Lê Lợi:

" Hôm nay lão già Trương Phụ tóm được Phạm Hách. Người này tham sống sợ chết, ắt sẽ khai hết bí mật về nghề lặn của ta. Mà thần công của Yết Kiêu tướng quân, e là cũng sắp không thoát khỏi tay giặc. "

Y ngừng một chốc, lại nói:

" Đương nhiên, thằng giặc già họ Trương là kẻ cáo già, hẳn sẽ đoán được ý tập kích của quân ta đêm nay. Thậm chí bây giờ, cả nửa con sông rải đầy quân dọ thám của giặc cũng không biết chừng. "

Lê Lợi nghe xong, biết Đặng Dung đang tranh thủ lúc này truyền dạy thêm kinh nghiệm cầm quân cho mình, bèn hỏi:

" Ý của quan Bình Chương tức là, chúng ta lấy thật làm giả, lấy giả làm thật? "

" Không sai... "

Đặng Dung cười nhạt.

Y lệnh cho binh sĩ mỗi người mang một cái thuyền thúng, không cho để đèn đuốc gì cả, đoạn chèo ra khơi, rồi khua mái chèo như thể có quân vượt sông tập kích trại địch. Ngay khi quân giặc báo động, thì lập tức lui lại.

Canh hai...

Đêm không trăng, tối om như mực, sương mù lãng đãng phủ kín mặt sông, dù có đèn đuốc cũng không nhìn được quá hai trượng.

Thực là một thời điểm lí tưởng để tập kích.

" Phong Tiêu Tiêu Hề! "

Quân Minh đã được Trương Phụ dặn trước, sớm đã lăm lăm khí giới, tinh thần sẵn sàng, vừa nghe quân lặn ngoài sông hét lên là lập tức bật dậy, vào vị trí sẵn sàng chiến đấu.

Mà Trương Phụ thì cũng đã y áo chỉnh tề, chuẩn bị sẵn sàng...

Lão đếm đủ một khắc, đoạn cho quân bắn pháo ra giữa sông, hòng tấn công vào " đội thuyền tập kích " của quân Trần.

Chỉ nghe tiếng hỏa pháo gầm rú, tiếng nước sông bắn tung ào ào...

Song lại không có tiếng người.

Điều này khiến Trương Phụ không khỏi nhíu mày, chợt nghĩ đến một tin đồn về khúc sông Thạch Hãn này.

Còn nhớ, hồi đó Phan Quý Hựu hàng xong, có nhắc đến sông Thạch Hãn, cũng như khúc sông bị quỷ ám ở cửa Sái Già. Độ mấy ngày sau đột nhiên y bị bệnh chết, bao nhiêu danh y đều trở tay không kịp, cũng không nhìn ra bệnh trạng.

Trương Phụ khi đó vẫn lấy làm kì quặc, song chỉ coi là chuyện huyễn dị truyền kì dân gian, không đáng tin tưởng.

Nhưng lần này, thì lão không thể không hoài nghi liệu sông Thạch Hãn này có thực sự bị quỷ ám hay không.

Bởi...

Lão dùng quân rất nghiêm, tuyệt nhiên không có chuyện kẻ dưới dám báo hiệu linh tinh. Đồng thời, ám hiệu của mỗi nhóm quân dọ thám đều khác nhau, lại tuyệt đối bí mật, nhóm này không biết của nhóm kia. Còn cử nhóm nào ra trước, nhóm nào ra sau, chỉ mình lão biết.

Quân Hậu Trần tuyệt đối không thể giả được ám hiệu...

Trừ phi, Đặng Dung có tài thánh, có thể cài được ít nhất một tên gian tế vào mỗi đội. Nhưng điều này còn khó hơn cả lên trời, vì Trương Phụ phân đội cũng hoàn toàn là ngẫu nhiên.

Ám hiệu là thật, thế thì hà cớ gì một loạt đạn pháo bắn ra, mà ngay cả một tiếng người kêu khóc, một tiếng thuyền vỡ cũng không có??

Lão cho rằng quân lính dưới trướng nhiễm lệnh, chắc có chút thần hồn nát thần tính, bèn cho quân chèo thuyền ra gọi về, đổi một nhóm mới.

Quân Minh thấy có vẻ là báo nhầm, bèn buông vũ khí ngồi xuống toan nghỉ ngơi...

Nào ngờ chưa qua một tuần hương, thì nhóm dọ thám thứ hai cũng hô to ám hiệu có quân Trần tập kích!

Doanh trại quân Minh lại lần nữa giới bị, tinh thần tướng sĩ căng như dây đàn...

Chương 311: Hồi hai mươi sáu (17)

Pháo lại bắn.

Lần nữa, lại không có người...

Trương Phụ lúc này đâm tức, bèn gọi hai nhóm thám quân lại, tra hỏi kỹ càng một phen. Nhưng lão mắng vốn, hăm dọa cỡ nào thì quân dọ thám cũng chỉ nói rằng:

" Hầu gia đánh trận quân kỷ như sắt, bọn tôi có trăm nghìn lá gan cũng chỉ có một cái đầu này thôi, còn phải giữ lại cho vợ con chứ. "

Rồi phân trần là thực sự nghe thấy tiếng mái chèo khua nước giữa dòng, lão mới trầm mặc lại.

Đến lần thứ ba, thứ tư...

Vẫn là vậy.

Ám hiệu cất lên, quân Minh ngồi chưa ấm chỗ đã phải vùng dậy, thủ sẵn vũ khí phòng hờ.

Pháo lại bắn, nhưng không trúng ai cả.

Lúc này, Trương Phụ đã thấy mơ hồ có chuyện không ổn.

Nếu là oan hồn, hà cớ gì không quấy phá Hậu Trần? Quân Minh đã bắn ba loạt pháo, nhưng phía Đặng Dung lại tuyệt không thấy khai pháo lần nào. Nếu như nói người cầm quân lão lược như Đặng Dung lại không đề phòng quân của lão vượt sông đánh lén thì Trương Phụ là kẻ đầu tiên không tin.

Nhưng sự thực mà lão không thể nào gánh vác được, đó là tuy lão thì giữ được bình tĩnh, kẻ dưới thì đã cáu điên lên rồi.

Năm lần bảy lượt bị người ta quấy phá, nghỉ không được, đứng không xong, sao mà không nổi giận cho được? Trương Phụ trước bèn cho phạt vạ bọn thám quân, trước là an ổn lòng quân, sau lão lại nghĩ:

[ Không biết quân Trần làm cách nào mới có thể giả như thần quỷ, nhưng nếu quân ta không được ngủ nghê thì ắt sẽ phải bị vắt kiệt sức. Ngày mai giáp trận với quân giặc được nghỉ ngơi đầy đủ, tinh thần sáng láng, cửa bại sẽ xuất hiện. ]

Thế là, lão cho ba quân được phép nghỉ ngơi, bao giờ có tiếng pháo nổ mới cần dậy, ngoài ra chỉ cần một số quân độ hơn ngàn người thay phiên túc trực ở bờ nam con sông là được. Những kẻ này đều là người thuộc Thần Cơ doanh, thiện dùng hỏa pháo. Thế nên, để họ luân phiên túc trực, vừa thấy quân Trần là nhả pháo, thực không có ai thích hợp hơn được nữa.

" Nghe kỹ đây, quân Trần giả vờ tập kích mấy phen, chứng tỏ đã có quyết tâm hạ trại ta. Nội trong đêm nay ắt sẽ có một lần chúng làm thật. Các ngươi nhớ phải nghiêm cẩn đối địch, chớ vì mấy lần trước hữu kinh vô hiểm mà có chỗ sơ sót. "

Lão biết quân Trần thiếu lương, không thể đánh lâu với quân Minh, nên nội trong hôm nay phải thắng được. Bằng không ngày mai Hoàng Phúc đánh được vào bờ, thì quân Hậu Trần ắt phải bại vong.

Đặng Dung đánh giả mấy phen, thấy quân Minh nháo nhào, biết đã thành kế, không khỏi cười nhạt.

Lê Lợi thấy thế bèn hỏi:

" Kế của quan Bình Chương cố nhiên có thể khiến giặc mất ăn mất ngủ, song cũng chỉ là tiểu xảo, chứ doanh trại quân giặc vẫn ở đấy. Nay mai chúng kéo quân từ biển đánh vào, chỉ e ngài Nguyễn Cảnh Dị không chống nổi. "

Đặng Dung bèn đáp:

" Cậu nói không sai. Nội trong đêm nay, chúng ta phải đánh vào được bản doanh của Đại Minh. Việc này cậu biết, tôi biết, Trương Phụ cũng biết. "

" Vậy... quan Bình Chương thứ cho Lợi tôi ngu dốt, nhưng, chẳng phải ta năm lần bảy lượt dùng kế nghi binh chỉ càng khiến Trương Phụ hiểu rõ chúng ta muốn tập kích hay sao? "

Đặng Dung lúc này mới cười, nói:

" Chúng ta đúng là sẽ tập kích trại giặc, nhưng ai nói với cậu chúng ta sẽ tập kích bằng đường thủy? "

" Dương đông kích tây??? "

Lê Lợi lúc này mới hiểu, thì ra ngay từ đầu Đặng Dung đã không có ý định mạo hiểm cho thuyền vượt sông. Cho dù là thuyền nhẹ, đêm hôm tắt hết đèn đuốc, thì muốn vượt con sông hơn trăm trượng trong khi kẻ cầm quân lão luyện như Trương Phụ không hay biết gì thì thực là chuyện nực cười.

Đặng Dung bèn đáp:

" Không sai. "

Lê Lợi bấy giờ lại thấy hơi hoài nghi, bởi kế dương đông kích tây này không khỏi quá khó thực hiện.

Trương Phụ nắm thế chủ động về thời gian, bao giờ giao tranh là do lão quyết định. Mà trước khi khai chiến, lão đã bỏ hẳn ra năm ngày trời cho thám quân lùng sục mấy chục dặm xung quanh nơi hạ trại, đến khi chắc chắn không có một tên phục binh nào mới yên tâm tuyên chiến.

Trước lão chưa có địa đồ, thì còn có khả năng bỏ sót chỗ nọ chỗ kia. Song Phan Quý Hựu sớm đã cho Phụ biết sạch sẽ tướng tá Hậu Trần hay dở ra sao, núi sông phía nam hiểm trở thế nào. Thế nên, tuyệt nhiên không có chuyện lão tính bỏ sót cho được.

Thế thì, phục binh ở đâu ra??

Đặng Dung lúc này mới nói:

" Cậu đang nghĩ, ta đưa quân sang bên bờ bắc thế nào đúng không? "

Lê Lợi thấy thắc mắc của mình bị nhìn thấu, cũng không giấu dốt, gật đầu một cái, ánh mắt lộ rõ ý học hỏi.

Lúc này, Đặng Dung mới tiếp, vẫn nửa úp nửa mở:

" Ngày trước chưa có quân ở phía bắc, hôm nay sẽ có. "

Đạo quân mà y nói đến, tự nhiên chính là do Hoàng Thiên Hóa mời đến, phụng sự dưới trướng của thanh niên vận giáp đen.

Lúc này, chỉ thấy trên đầu nguồn sông Cánh Hòm, có mấy trăm con ngựa lội qua dòng sông rộng bảy tám trượng, hội họp với nhau trên một đỉnh núi. Bỗng nghe soạt một cái, từ dưới bụng ngựa đã có kị sĩ chuyển mình lên, thoáng chốc đã ngay ngắn trên yên cương. Những người này nhổ cây sậy trong miệng ra, đoạn hướng về phía thanh niên dẫn đầu mà nói:

" Tướng quân, có thể đánh được rồi. "

Sau lưng thanh niên giáp đen, chỉ qua một khắc, mà đã có năm trăm quân kỵ.

Hoàng Thiên Hóa đứng bên cạnh nhìn thanh niên trẻ tuổi nọ một cái, chặc lưỡi thầm than. Nếu trước ngày hôm nay có người bảo y, trong vòng một ngày có thể tập hợp năm trăm quân kỵ rải rác trong phạm vi trăm dặm, lại dùng vỏn vẹn một khắc vượt sông Cánh Hòm không gây một tiếng động thì y sẽ cười hắn bị điên.

Nhưng sự thực bày ra trước mặt, có khó tin đến đâu, cũng phải nhận mệnh.

Thanh niên giáp đen nhìn ra sau lưng, chỉ thấy năm trăm quân kị giáp bạc chỉnh tề, thần sắc nghiêm cẩn, ngựa trắng đạp vó, thương bạc tuốt trần, yên lặng chờ hiệu lệnh của mình. Ánh mắt y thoắt trở nên sắc bén, xốc thanh long kích lên chỉ vào phía đông, nói:

" Chiến!! "

Tức thì, giục con ngựa đen bờm vàng, phóng mình lao đi.

Sau lưng, năm trăm quân kỵ cơ hồ là cùng lúc đánh cương, ruổi ngựa đuổi theo sát chủ tướng. Vó ngựa gõ trên đường cơ hồ không thể phân biệt được trước sau, năm trăm quân kỵ tưởng như thở chung một nhịp. Loại tình trạng này chỉ có thể nói là tinh nhuệ đến đáng sợ, ba quân như một.

Hoàng Thiên Hóa chặc lưỡi, rồi cũng dùng khinh công lẩn mất.

Y tự biết, với quân đội cỡ này, mình chạy theo chỉ khiến bọn họ loạn trận thế. Chẳng bằng dựa vào võ công, thuốc độc, âm thầm quấy nhiễu trong tối.

Trương Phụ cho người thủ chắc mặt nam, bỏ mặc phía đông, tây và bắc là có năm nguyên do.

Thứ nhất, quân Trần trước đó bị đánh thua chạy liểng xiểng, bại như núi đổ, chẳng nhẽ còn có thể chia nhỏ đại quân đánh vòng lên tận phía tây?

Thứ hai, mặt tây đã có quân của Mộc Thạnh gườm chắc cánh quân của Nguyễn Súy đóng trên cù lao. Nếu như thực sự có quân vượt sông, đánh từ tây sang, về lí mà nói không tài nào thoát nổi phòng ngự của Mộc Thạnh.

Thứ ba, sông Thạch Hãn rất rộng, chỗ hẹp nhất cũng đến trăm trượng, muốn vượt sông không gây một tiếng động nào thực là chuyện hoang đường.

Thứ tư, lão bỏ hẳn năm ngày cho thám quân lần tìm hết mặt bắc sông một lượt, chỗ nào có thể giấu quân, nơi nào có thể cài người cơ hồ đều bị lật tung lên. Thành thử, khả năng Đặng Dung đặt phục binh ở bờ bắc từ trước là không thể.

Thứ năm, bỏ mặt đông là vì ngoài biển đã có Hoàng Phúc trấn thủ. Bỏ mặt bắc là bởi ấy vốn là đường tiến công của đại quân, quân Trần thua chạy từ bắc vào nam, cho dù có sót cũng là tàn đảng sao gây nên nổi sóng gió?

Quân Minh bị quấy nhiễu cả đêm, tinh thần mỏi mệt, nên đều ngủ thiếp đi. Duy chỉ có Thần Cơ doanh ở mặt nam là chia nhau canh phòng.

Đến canh tư, trời vừa qua giờ sửu, thì năm trăm quân kỵ lấy thanh niên giáp đen dẫn đầu xộc vào đại doanh, tưởng như một thần tướng kéo theo cả một biển mây trắng. Quân kỵ chạy đến chỗ nào, tức thì một tay hoành thương, một tay ném mồi lửa đốt trại. Bấy giờ là tháng chín, qua mùa mưa, tiết trời Sái Già hanh khô. Thành thử chỉ thoắt một cái, cả một góc doanh trại quân Minh đã có lửa bốc phừng phừng, soi rực cả một bờ sông.

Mộc Thạnh, Trương Phụ và binh sĩ Thần Cơ doanh đang thủ lấy bờ sông đều không kịp phản ứng.

Nguyễn Súy vừa thấy lửa cháy, lập tức cho quân nổ pháo, lại lấy thuyền nhỏ vượt sông đánh giáp mặt với Mộc Thạnh, không để lão quay về cứu viện. Đặng Dung cũng cho quân lấy thuyền nhỏ, tắt hết đèn đuốc vượt sông đánh úp vào mặt nam Minh doanh.

Tự nhiên lại có một đạo quân rơi từ trên trời xuống khiến Trương Phụ chẳng thể nào ngờ, đến lúc nhận ra có địch tập thì một góc lớn lều bạt đã cháy bùng bùng. Lão vội vàng xách quan đao chạy ra khỏi lều, lên ngựa. Lúc này binh lính trong trại cũng tỉnh người phần nào, thành thử lão cũng gom được một nhánh quân vài ngàn người, bèn dẫn đầu lao ra đánh chặn quân kỵ. Lại cho người báo với tướng Thần Cơ doanh thủ vững mặt nam, đề phòng quân của Đặng Dung vượt sông đánh trại.

Dưới ánh lửa hừng hực...

Trương Phụ nắm chắc quan đao trên tay, ánh mắt như dao nhìn vào thanh niên vận áo giáp đen dẫn đầu năm trăm quân kỵ, trong lòng có phần kinh ngạc vì tuổi tác của đối phương thực là quá trẻ. Song, lão vẫn quát:

" Chịu chết đi! "

Nói đoạn giục ngựa xáp lại.

Thanh niên nọ cười nhạt, không đáp, nhưng trong ánh mắt hiện lên bảy phần tự tin, ba phần cuồng ngạo. Y đánh gót vào bụng ngựa, chiến mã lắc bờm vàng một cái, ngửa đầu hí một tiếng dài to như tiếng sấm, rồi mới xông vào chỗ Trương Phụ.

Ngựa vừa cất vó, thì con ngựa của Phụ đã lép vế mấy phần.

Chương 312: Hồi hai mươi sáu (18)

Thanh niên xốc thanh long kích, đâm xéo một nhát vào mặt Phụ. Trương Phụ nghiêng người tránh, nhân đà ngựa chém trả một đao về phía y. Đao là bá giả trong binh khí, thế như lũ quét, khó mà có binh khí nào cản nổi. Đấu với tướng thiện dùng đao, thường thức là không được đấu trực diện.

Trương Phụ đoán chừng, thanh niên nọ một là phải giật cương cho ngựa né ra, hai là phải thu kích về đỡ.

Nào ngờ...

Điều y làm lại không phải việc nào trong hai việc lão nghĩ.

Chỉ thấy thanh niên nọ cười nhạt, kích trong tay từ đâm thẳng thành rút về, lợi dùng lưỡi dao cong toan cứa một nhát vào mặt Trương Phụ.

Hai quân đang đánh nhau nhìn cảnh này, đều cho rằng y dùng chiêu chịu đấm ăn xôi, thương địch được một ngàn cũng tự tổn tám trăm.

Bản thân Trương Phụ cũng nghĩ thế...

Lão không hiểu tướng trẻ này lấy đâu ra cái tự tin này.

Kích đã thu về sát cổ.

Đao đã chém tới sát người.

Trương Phụ đổ người thêm một chút, vừa vặn thoát được lưỡi bén của ngọn kích. Xong đai mũ của lão cũng bị chém đứt, mũ giáp rơi khỏi đầu đánh kịch một cái, làm mớ tóc bạc xõa tung ra.

Nhưng lão không vì thế mà cảm thấy tức giận, trái lại còn mừng rỡ.

Bởi, lão không trúng kích, thì thanh niên kia hẳn phải dính một đao của lão.

Chẳng ngờ, thanh niên nọ lại giơ tay, lấy hộ uyển ra đỡ lưỡi đao của lão.

Trương Phụ cho rằng y bị điên...

Cho dù có mặc giáp trụ, thì cùng lắm cũng chỉ ngăn được mũi tên, lưỡi kiếm chém vào không lấy được mạng, chớ nói chi đến một đòn quan đao toàn lực chém ra trên lưng ngựa.

Thế nên, để tay chặn trước lưỡi đao, kết cục chỉ có thể là mất cả tay lẫn mạng.

Lưỡi đao chém vào hộ uyển.

Trương Phụ cơ hồ đã nhìn thấy cảnh quan đao sáng bóng ăn ngập, xé nát hộ uyển màu đen, phạt đứt luôn cánh tay của tướng trẻ cầm kích.

Song...

Không có máu bắn ra.

Cũng chẳng có tiếng kim loạt nứt mẻ.

Trương Phụ chỉ thấy quan đao của mình chém vào hộ uyển màu đen thì bỗng nhiên bị chặn cứng, lưỡi đao thoắt cái nặng như đổ chì, cả thế lẫn đà chém mất tăm mất tích như gạo vào miệng chuột.

Tướng nọ chợt nắm chặt nắm tay, cựa mình một cái, tức thì từ hộ uyển màu đen có mấy lưỡi đao xồ ra, chém vào quan đao của Trương Phụ. Lão thấy tình thế không đúng, vội thu tay giục ngựa dạt ra xa.

Lúc này, lão mới có dịp nhìn lại thanh bảo đao đã theo mình chinh chiến nhiều năm. Chỉ thấy bấy giờ lưỡi đao sắc lẻm sáng bóng như tuyết đã có một phía bị rạch ra mấy đường dài toang hoác, chỉ thiếu điều xả lưỡi đao nặng nề đứt hẳn làm ba mảnh. Tuy là gặp chuyện kinh hoàng, nhưng Trương Phụ không hổ là tướng lão luyện sa trường, lâm nguy chẳng những không loạn mà càng thêm bình tĩnh. Lão nhìn đao quý của mình bị đánh thành một thanh phế phẩm thì đoán chừng tấm áo giáp người thiếu niên đang mặc cũng không phải vật phàm.

Thanh niên nọ khịt mũi, thúc gót vào bụng ngựa, xách kích đuổi theo Trương Phụ. Con ngựa xẹt qua chiến trường rực lửa, da như mây đen ngày bão, bờm như điện lóe giữa trời. Ngựa của Trương Phụ cũng là ngựa quý, song không cách nào so được với con thần mã lông đen bờm vàng của thanh niên giáp đen. Chỉ ba bốn hơi thở mà lão đã bị bắt kịp.

Trương Phụ chỉ thấy sau lưng có tiếng binh khí rít gió lạnh người, vội vàng nghiêng người tránh đi, song chiến bào cũng đã bị thanh niên nọ chém rụng. Lúc này, lại có mấy chục người túa ra cản đường thanh niên cầm kích, trong đó có cả Lương Nhữ Hốt.

Kẻ này tay cầm song thương, giục ngựa đến cứu Phụ, nhưng vừa thấy mặt thanh niên mặc giáp đen thì đã điếng người chột dạ, vội lấy vải bạt bịt mặt. Nhưng thanh niên nọ đã nhìn thấy hành động của y, bèn cười:

" Thằng phản thầy, tưởng vải thưa che được mắt thánh à? "

Đoạn vung kích, đánh dạt hai tướng Minh vừa xông vào cản đường.

Lương Nhữ Hốt thấy thế, không nói không rằng, thúc ngựa múa đôi thương xáp lại.

Lúc này, thanh niên giáp đen đã lại đuổi được đến chỗ Trương Phụ, mắt thấy ngọn kích đã sắp đánh ngay ót lão ta. Lương Nhữ Hốt bèn bất thần đánh áp từ bên mé sườn lại, cả hai ngọn thương đồng thời quất ra nhắm vào đầu đối thủ. Y biết chiến giáp của thanh niên nọ là thần vật, vũ khí bình thường đừng mơ đánh xuyên qua nổi, mới nhằm ngay đầu của thanh niên nọ mà công kích hòng lấy công làm thủ, dựa vào chiêu số ác liệt để giải nguy cho Phụ.

Thanh niên nọ chẳng thèm nhìn hai ngọn thương của Lương Nhữ Hốt, mà chỉ cười khẩy một cái.

Chỉ thấy ngọn kích ở tay phải vẫn đâm về phía Trương Phụ, còn tay trái thì đã buông lơi cương ngựa, hai chân kẹp chặt lấy yên cương để giữ cho thân trên thăng bằng. Đoạn, từ hộ uyển đeo ở cánh tay có mấy lưỡi đao bật ra, nhô lên cỡ hai ba tấc. Thanh niên nọ gạt mạnh một cái, dùng lưỡi đao của hộ uyển toan chém cụt luôn hai ngọn thương của Lương Nhữ Hốt.

Song, bản thân họ Lương cũng đã biết được lai lịch bộ giáp, đương nhiên cũng đã đề phòng một chiêu này. Chỉ thấy y đột nhiên nghiêng người sang, hai ngọn thương so le nhau giật về, bắt chéo ngay trước người. Lúc cánh tay của thanh niên nọ đánh xuống, thì vừa vặn bị hai ngọn thương khóa cứng.

Con ngựa đen bờm vàng rất thông minh, thấy có biến lập tức chồm lên dừng vó, không để chủ ngã khỏi lưng mình.

Lương Nhữ Hốt bèn nói:

" Sư thúc tuy rất mạnh, nhưng kinh nghiệm chiến trường chưa bằng ta đâu. "

Thanh niên nọ nhíu mày, đoạn rụt tay tóm vào cán một trong hai ngọn thương, nhấc bổng cả người y lên khỏi lưng ngựa. Lương Nhữ Hốt vội thả tay, xoay mình hai vòng rồi lại ngồi ngay ngắn trên yên cương, thủ chắc ngọn thương còn lại.

Thanh niên nọ thấy bóng Trương Phụ đã khuất hẳn, biết không thể đuổi xa hơn bằng không ắt lọt vào giữa trùng vây của quân Minh. Y bực dọc thu tay, ném phăng ngọn thương ngắn xuống đất, nói đoạn lừ lừ quay lại, quắc mắt nhìn Lương Nhữ Hốt:

" Quân phản thầy nhà ngươi cũng dám ngáng đường của ta? "

" Nếu không phải sư thúc muốn chặt đường làm quan của Nhữ Hốt, tôi cũng không muốn đối địch. "

Y một câu nói sư thúc, hai câu nói sư thúc, nhìn qua thì lễ độ, kì thực do e ngại ngọn kích của thanh niên giáp đen mà thôi.

Thanh niên hai ba hai tư tuổi đầu, nhưng lại có thân phận là sư thúc của Lương Nhữ Hốt, cũng là sư thúc của Lê Sát, thực là thần bí.

Nói chuyện năm xưa, Lê Sát và Lương Nhữ Hốt cùng theo học một thầy, là danh tướng Trần Khát Chân vốn là dòng dõi của Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng. Trần Khát Chân được chân truyền một bộ thương pháp hội tụ tinh hoa của mười tám ban võ nghệ, phân làm hai lộ, chia ra dạy cho hai người.

Lê Sát học được bộ dùng thương dài hai đầu, thiên về tấn công, gọi là Tung Hoành Thiên Hạ. Lương Nhữ Hốt thì học được bộ dùng hai ngọn thương ngắn, thiên về khống chế kiềm tỏa, hiệu là Uy Chấn Bát Phương. Hai bộ võ công này vừa khắc chế lẫn nhau, vừa hỗ trợ lẫn nhau, thế nên Lê Sát và Lương Nhữ Hốt đánh nhau mới không phân thắng bại.

Trừ hai lộ thương pháp, Trần Khát Chân còn có một bảo bối, chính là giáp Phù Đổng.

Giáp đúc từ đồng đen, nhẹ như áo lụa, nhưng đao thương thông thường khó mà làm tổn hại nổi. Hộ uyển, giáp vai và giáp lưng đều có giấu lưỡi đao. Chỉ cần kéo cơ quan ở thắt lưng, thì sẽ khiến lưỡi dao đồng đen bật ra, có thể kiềm chế, đánh gãy khí giới của đối thủ.

Trần Khát Chân đại chiến với Chế Bồng Nga ở Bình Than, nguy hiểm trùng trùng, chính nhờ có áo giáp này mà mấy lần thoát hiểm. Sau này ngộ nạn bị Hồ Quý Li giết chết, lão có cho quân đến lùng sục tìm giáp quý, nhưng đã không biết tung tích. Nay xem ra là lọt vào tay của thanh niên này.

Chỉ thấy thanh niên xách kích lên vai, cười gằn:

" Nhà ngươi còn dám già mồm? "

Lương Nhữ Hốt thấy thanh niên nọ đã động tâm muốn giết mình, đảo mắt một cái, lại nói:

" Chẳng... chẳng phải sư thúc đã nói rằng không giúp Quý Khoáng hay sao? Tại sao lại nhân đêm tập kích doanh trại? "

Y biết, thanh niên này cùng một thầy với Trần Khát Chân, cũng là người học được cả hai lộ Tung Hoành Thiên Hạ - Uy Chấn Bát Phương. Hai ngọn thương của y với người khác còn có thể diễu võ dương oai, cho dù Lê Sát đến đây dùng Tung Hoành Thiên Hạ cùng lắm cũng chỉ đánh ngang tay được với y, nhưng thanh niên này thì khác.

Hai lộ thương pháp tương khắc, lại cũng tương hỗ, người nọ đã học được hoàn chỉnh, thì tự nhiên có thể phá giải Uy Chấn Bát Phương của y.

Lương Nhữ Hốt không vì thanh niên nọ dùng kích đánh thương pháp mà coi thường. Y luyện Uy Chấn Bát Phương cả chục năm trời, tự nhiên hiểu được độ thực dụng của chiêu số.

Hà huống, y còn có giáp Phù Đổng và con ngựa đen bờm vàng.

Thanh niên cười nhạt, nói:

" Chuyện của ta không đến lượt tên phản thầy nhà mày quản. "

Đoạn vác kích lên vai, giục ngựa phóng đi, không quên để lại cho Lương Nhữ Hốt một câu:

" Mạng chó của mày, tạm giữ lại để truyền nhân của sư huynh ta định đoạt! "

Lương Nhữ Hốt rút ngọn thương còn lại lên, nghiến răng nghiến lợi nhìn bóng lưng của thanh niên, chửi thầm:

" Trần Nguyên Hãn, thằng ranh con vắt mũi chưa sạch cũng dám lên mặt với tao? Mày cứ chờ đó! "

Song, y biết mình không cản nổi năm trăm kị binh dưới tay Trần Nguyên Hãn, chỉ biết thất thểu ruổi ngựa về tây.

Y đoán chừng, lần này phải có người cần y cứu một mạng.

Thần Cơ doanh ở bờ sông cũng bị tấn công...

Quân của Đặng Dung lấy thuyền nhỏ vượt sông, tiếp cận doanh trại của quân Minh. Trước giờ Trương Phụ Mộc Thạnh tự phụ mình là phía tiến công, có hỏa pháo, quân Trần chỉ là phía phòng thử, tự nhiên là không rải chông cắm cọc để giữ bờ sông. Tuy dựa vào pháo có thể ngăn trở phần nào thế tiến, nhưng lúc này trời tối như bưng, sao có thể bắn chuẩn như lúc mặt trời treo trên đỉnh đầu được?

Chương 313: Hồi hai mươi sáu (19)

Quân Trần vào bờ, bao nhiêu nghẹn khuất mấy tháng này phải hứng chịu, đều dùng võ khí trong tay mà phát tiết. Lê Sát, Lê Văn An, Lê Lợi, và mấy tướng khác hò hét xông vào trại địch. Trong ánh đuốc lập lòe, hai bên lao vào nhau mà giáp trận, giết đến đỏ mắt bù đầu, bóng đao ánh kiếm loang loáng cả một khúc sông. Lê Sát được lên bờ như rồng về nước hổ về rừng, vung thương hai đầu giết địch như cắt rạ, không ai cản nổi. Quân Hậu Trần chia nhau chạy theo, ném đuốc đốt trại, đánh giết lung tung.

Đến lúc này, Trương Phụ thoát khỏi Trần Nguyên Hãn, cho quân nhanh chóng giữ vững thế trận, đại quân vừa chạy trên bộ vừa dùng thuyền nhỏ lui về phía đông chờ Hoàng Phúc tiếp ứng. Quân Minh sau khi bình tĩnh lại, thì đã chiến đấu bài bản hơn hẳn, vừa mở đường máu vừa cố ngăn không cho quân hậu Trần khép được vòng vây.

Sức phản kháng của quân Minh cũng khiến binh tướng Hậu Trần thoáng chùn tay. Song sĩ tốt nhìn gương Lê Sát tả xung hữu đột, xông pha oanh tạc ngay giữa lòng quân Minh thì không khỏi thấy máu nóng sôi trào, càng đánh càng hăng. Tuy không thể triệt để vây trọn quân Minh, cũng khiến Trương Phụ phải phí quân tổn tướng để chặn hậu, thương vong của quân Minh ngày một nhiều.

Mà trên thủy, cũng có Nguyễn Cảnh Dị tung quân ra đánh, hai bên giao chiến ác liệt trên sông, máu loang đỏ nước. Dưới ánh đuốc lập lòe, binh tướng quân Trần đều nháo nhào, thề phải tìm giết cho bằng được Trương Phụ. Nhưng chiến trường hỗn loạn, muốn tìm một tướng được bảo vệ bởi trùng trùng binh tốt không phải chuyện dễ, lại đánh lúc đêm hôm, nên cũng khó mà biết lão đi dưới bộ hay ở trên thuyền.

Lê Sát kéo quân đuổi đến tận cửa sông, Trương Phụ một mặt cho quân thủ gắt gao, một mặt lại cho đốt lửa ra hiệu với Hoàng Phúc. Đoàn thuyền của Phúc là loại thuyền Phúc Kiến lớn, quân của Hải Thượng Hung Lang chỉ có thể quấy nhiễu được tối đa là một ngày mà thôi, đến gần sáng thì hải tặc cong đuôi bỏ chạy. Hoàng Phúc chính đang định cho quân đổ bộ, thì thấy lửa ở bờ bắc nổi lên. Biết là có sự chẳng lành, lão bèn cho quân dong thuyền vào viện trợ.

Lê Sát lúc này giết đỏ cả mắt, một mực nhìn quét bốn phương quyết tìm cho ra Trương Phụ. Cả Lê Sát, Lê Văn An và Lê Lợi, cũng như hết thảy tướng sĩ quân Trần biết rõ một điều, hôm nay nếu không giết được Trương Phụ thì quân Trần sẽ không gượng dậy được.

Trương Phụ trốn giữa ba quân, một mặt ra hiệu lệnh, một mặt lại cảm thấy khuất nhục. Hai lần lão công phạt Đại Việt thì đây là lần đầu tiên lão bị đánh cho thất thểu như bây giờ. Nhất là ban nãy hai lần bị Trần Nguyên Hãn đuổi sát, mém chút là toi mạng dưới kích của y, chỉ nghĩ lại thôi mà khiến da đầu Phụ lạnh căm căm. Nay thấy trên sông có quân của Nguyễn Cảnh Dị ép sát lại, bộ thì có Lê Sát đánh úp vào, lão bèn đảo mắt một cái, đoạn rút kiếm cắt phăng chòm râu, cạo tóc, cởi giáp, ném bào. Thậm chí soái ấn và bội kiếm cũng vứt luôn xuống đất.

Lê Sát đánh xộc được vào hàng ngũ của quân Minh, thì toàn thân đã nhuốm máu đỏ lừ, cả người bốc lên mùi tanh của máu. Cũng không rõ đâu là máu của y, đâu là máu của kẻ thù, chỉ biết là cả người hiếm nơi nào kịp khô vết máu. Lê Sát vung thương đâm chết hai người nữa, lại quát:

" Thằng giặc già Trương Phụ, cút ra đây! "

Trương Phụ biết đối phương quả thực nhắm vào mình, bèn lẩn giữa đám quân. Mặc dù với một kẻ tự phụ trăm trận trăm thắng như lão mà nói thì nhục này không bút nào kể xiết, song lúc này lão hiểu, chỉ cần lão sống thì coi như trận Sái Già quân Trần tuy thắng mà không vui cho nổi.

Quân Hậu Trần ùa vào đánh giết, Lê Sát nhặt soái ấn giương cao lên trời, quát:

" Vứt cả soái ấn để trốn, loại người hèn nhát này đáng để các ngươi phí mạng sao? "

Quân Minh một phần không hiểu, phần lại không đáp, còn một bộ phận nữa là hàng quân từ thời Đại Ngu thì cúi gằm mặt không đáp. Lê Sát chửi thêm hai câu, thấy phía xa đã có bóng thuyền của Hoàng Phúc, to như nhà lầu, đèn đuốc sáng rực thì không khỏi tiếc rẻ. Y bèn ném soái ấn lên không, lấy thương chặt vỡ, rồi cho quân lui gấp.

Thuyền của Hoàng Phúc là thuyền Phúc Kiến loại lớn, so với thuyền chiến dùng trong trận Sái Già còn phải to hơn. Mà thuyền như thế, hỏa lực thật là đáng sợ. Có ở lại không rút thì cũng chỉ là chịu pháo ăn đạn mà thôi...

Trương Phụ tuy là sống sót, nhưng phải cắt râu chém tóc, vứt ấn bỏ kiếm thì cũng mất mặt vô cùng. Đến khi lên thuyền rồi, mới lấy lại bình tĩnh.

Lão lớn tiếng nhìn trời mà chửi, chửi Trần Nguyên Hãn và năm trăm quân kỵ của y thần không biết quỷ không hay xuất hiện đánh trại, khác nào từ trên trời rơi xuống dưới đất chui lên?

Còn Hoàng Phúc, thì cũng mang hận trong lòng với các băng cướp dưới trướng của Hải Thượng Hung Lang. Nếu không phải tự nhiên cướp biển nhảy vào quấy nhiễu, thì lão đâu có đem quân đến muộn, quân Trần đã sớm bị vào thế gọng kìm rồi.

Về phần Mộc Thạnh thì đã ứng trước với Phụ, nếu như có gì bất trắc, lão sẽ dùng ngựa khỏe chạy về phía bắc, đến bến sông chờ thuyền của Hoàng Phúc. Trước khi ra trận, hai lão Trương – Mộc hãy còn nghĩ mình quá cẩn thận, cho rằng trận này chắc thắng, bàn đường lui chỉ là làm cho đúng thông lệ.

Nhưng không ngờ được...

Bọn hắn lại bại.

Bại, bởi hai biến số cực lớn là hải tặc và năm trăm quân kị tinh nhuệ của Trần Nguyên Hãn.

Mộc Thạnh rút quân nhanh, quân của Nguyễn Súy vừa dùng thuyền làm cầu, vừa nhảy ùm xuống sông bơi vào bờ, rồi đuổi theo rất gắt.

Lão chạy được non hai ba dặm thì trời dần tảng sáng, ánh mai ló qua đầu ngọn tre. Những tưởng đã thoát được truy binh, Mộc Thạnh toan cho quân ngồi nghỉ ngơi lại sức thì bỗng nhiên ở phía đông có tiếng người quát:

" Mộc Thạnh, mày chạy đằng trời! "

Lão ngoái đầu lại, đã thấy một thanh niên giáp đen, cưỡi trên con ngựa ô bờm vàng, tay nắm thanh long kích chạy tới. Sau lưng y, mấy trăm quân kị đồng thời xung phong, giáp bạc bào trắng, nhìn tưởng như một biển mây vậy.

Trần Nguyên Hãn thấy Trương Phụ đã trốn, bèn kéo quân vòng theo hướng tây bắc, chặn đường Mộc Thạnh.

Mộc Thạnh thấy tướng này lạ mặt, bèn vung siêu, nói:

" Nhãi con tí tuổi ranh, tưởng ta sợ hay sao? "

Đương nhiên hai bên chẳng hiểu nhau nói gì, nhưng hò hét một phen như thế cũng khiến cho khí thế của bản thân tăng lên, không phải chuyện gì xấu.

Trần Nguyên Hãn vung ngựa chạy tới, xỉa một kích ngay mặt. Thạnh vung siêu đỡ, chỉ thấy cánh tay tê rần, người thiếu chút nữa là ngã khỏi lưng ngựa, thầm khen khí lực thanh niên không nhỏ. Cũng phải nói ngày trước lão đánh trận, Hồ Đỗ chặt đứt một tay, nên hiện giờ cầm quân thì dễ, đấu tướng lại hơi bất lợi. Chẳng qua nhìn thấy Trần Nguyên Hãn còn trẻ, tưởng y yếu thế, lão mới ra đánh. Không ngờ võ lực thanh niên nhìn diện mạo thư sinh lại hung hãn đến thế.

Thắng được nửa chiêu, Trần Nguyên Hãn thừa thế công mạnh, muốn nhân lúc này giết chết Mộc Thạnh. Y tin rằng Đặng Dung sẽ xử được Trương Phụ, nên mới kéo quân chặn đường định tung lưới bắt nốt Mộc Thạnh. Một khi Trương – Mộc cùng chết, quân Minh không đánh tự tan.

Mộc Thạnh thấy thế kích đâm rất gấp, vội trở siêu đao lên đỡ. Lại có một tiếng kim khí chát chúa vang lên, tay lão bật máu tê bại, nhưng lần này đã có đề phòng nên hạ bàn vững vàng hơn. Bất thần, con ngựa ô bờm vàng lại tung vó đá một cái ngay vào đùi con ngựa của lão. Thấy ngựa chiến đang cưỡi đã hơi loạng choạng muốn đổ, lão vội vàng tóm lấy yên cương ghìm lại, giúp con ngựa lấy lại thăng bằng. Nhưng đồng thời, siêu của lão cũng rơi xuống đất.

Bấy giờ, có mấy bộ hạ của Mộc Thạnh giục ngựa tới, vừa chém vừa đâm vào lưng của Trần Nguyên Hãn hòng cứu lão. Lại có hai tên vòng ra trước, múa vũ khí chặn đường, không cho con ngựa ô bờm vàng tung vó vọt khỏi bóng đao ánh thương đến chỗ Mộc Thạnh. Trần Nguyên Hãn liếc ngang một cái, đoạn mặc kệ cho đao thương của địch đánh lên người mình. Quân Minh thấy y không thèm né, mừng như mở cờ, càng dồn lực vào đôi tay. Nào ngờ, chỉ nghe xoảng một tiếng, lưỡi đao đầu thương của chúng chẳng một cái nào chém được vào chiến giáp màu đen dù chỉ một chút. Trần Nguyên Hãn gõ vào cơ quan ở đai lưng, tức thì từ sau lưng giáp cũng có lưỡi đao bật ra, phá hủy bằng sạch vũ khí của đối thủ.

Y lại giục ngựa, con ngựa đen chồm vó, hất bờm, lao đi như điện xẹt.

Hai tướng cản đường Trần Nguyên Hãn đang khấp khởi chờ cảnh y bị thương đâm đao chém chết tươi, thế nên lúc này không kịp vận lực, chỉ đành liều mình dựng khí giới lên định đỡ. Nào ngờ ngọn kích của Trần Nguyên Hãn chỉ lách nhẹ một cái, đã xảo diệu lùa qua phòng ngự của một tên, đầu mũi kích thọc ngay một nhát chí tử vào nách. Nói đoạn, Trần Nguyên Hãn lại kéo cơ quan, khiến lưỡi dao ở hộ uyển bật ra. Mắt y lóe lên như điện, nhằm chuẩn ngay cần cổ đối thủ còn lại, nhè dao cứa một nhát.

Thoắt một cái, hai tướng cản đường đổ khỏi lưng ngựa, một tên hấp hối một kẻ bay đầu.

Mộc Thạnh giục ngựa chạy gấp, lúc thấy mấy trăm quân kị giáp bạc càn quét qua đạo quân của lão thì lão cũng đã đoán chắc bảy tám phần đội quân tập kích vào đại doanh quân Minh đêm qua ắt hẳn chính là những người này chứ không ai khác. Bấy giờ Mộc Thạnh chỉ thấy giật mình, không hiểu tại sao quân Hậu Trần lại có một đội kị binh tinh nhuệ đến thế này. Càng khó hiểu hơn tại sao cánh quân này và tiểu tướng mặc áo giáp đen không ra trận ngay từ đầu mà lại đợi đến lúc sắp thua mới đột nhiên xuất hiện.

Lão mới nghĩ tới đây, thì sau lưng đã nghe tiếng vó ngựa khua vang. Quay đầu nhìn, thì thấy Trần Nguyên Hãn cưỡi con ngựa chiến bờm vàng, tay xách kích dài chạy tới. Ngựa ô giáp đen, hung hãn thần tốc, thực không khác gì một cơn bão táp giữa đêm.

Chương 314: Hồi hai mươi sáu (20)

Mộc Thạnh tự biết tuy ngựa của lão cũng là ngựa tốt, nhưng tốc độ chẳng thể nào so bì được với con ngựa bờm vàng. Thoắt một cái, mà lão đã bị Trần Nguyên Hãn đuổi kịp. Ngọn thanh long kích phóng ra, lưỡi bên toan chém phăng đầu lão, ngọn mác định xuyên thủng lưng ra trước ngực.

Thình lình, từ phía trước, có một người một ngựa phóng đến, dùng hai ngọn thương ngắn đỡ hộ lão một đòn lấy mạng.

" Hầu gia chớ lo, có Lương Nhữ Hốt ta đây! "

Trần Nguyên Hãn thấy y hai lần cản mình giết tướng quân địch, lửa giận cháy ngút trời, giật quát lớn:

" Quân khốn nạn được đằng chân lân đằng đầu, tưởng tao không giết được mày phỏng? "

Chỉ thấy y vung chéo ngọn kích, nhằm ngay eo lưng của Lương Nhữ Hốt mà đánh. Họ Lương bình tĩnh trở ngược đôi thương ngắn, khóa lấy mũi kích. Nhưng chiêu này của y, vốn nằm trong chiêu số của Uy Chấn Bát Phương, tự nhiên không thể làm khó nổi Trần Nguyên Hãn. Chỉ thấy ngọn kích trong tay chuyển hai vòng, rồi đột nhiên hất ra một cái, thế khoá của hai đầu thương lập tức bị phá giải. Chẳng những thế, dư kình từ thân kích truyền sang, Lương Nhữ Hốt còn thấy cả hai cổ tay đau buốt tưởng lên tận óc.

Song, do cùng được chân truyền, nên y thừa biết thế công Tung Hoành Thiên Hạ của ngọn kích chưa dứt mà mới chỉ bắt đầu mà thôi, bèn vứt thương cúi đầu, nghiêng người ngã khỏi lưng ngựa. Ấy thế mà cũng chỉ vừa vặn thoát khỏi một nhát đâm sau cùng của Trần Nguyên Hãn.

Thanh thanh long kích của Trần Nguyên Hãn có một mũi thương thứ hai gắn ở đốc, thế nên lúc vừa đẩy bạt được song thương phá thế kìm kẹt, là y mượn đà hất để trở ngược đầu kích, nói đoạn phóng chuôi kích tấn công Lương Nhữ Hốt. Đuôi kích xé gió xẹt qua mặt, đâm rách một bên tai y khiến máu chảy ròng ròng.

Nếu như hồi nãy Lương Nhữ Hốt chần chờ trong nửa hơi thở thôi thì bây giờ yết hầu của gã đã bị kích của Trần Nguyên Hãn xỏ xuyên qua rồi. Họ Lương lăn lộn dưới đất, bụi đất dính đầy người, máu đổ ròng ròng nóng bừng cả nửa bên mặt và dưới cổ. Gã lồm cồm bò sang một bên, con ngựa chiến mất chủ hoảng hồn tung vó loạn xạ. Bên tai họ Lương giờ chỉ còn nghe những tiếng vó ngựa cà rộp, cà rộp. Điều này thực khiến hắn lạnh gáy, vì bây giờ không nghe được tiếng ngọn kích xé gió thì hắn thật không biết phải đón đỡ thanh thanh long kích trong tay Trần Nguyên Hãn ra sao.

Trần Nguyên Hãn đâm xong, lại nhân đà chưa hết phạt ngang ngọn kích, lưỡi bên chém phăng đầu con ngựa Lương Nhữ Hốt vừa cưỡi. Đoạn, y lại cho con ngựa ô bờm vàng đuổi theo, toan lấy vó giày xéo Lương Nhữ Hốt đang bò dưới đất.

Lương Nhữ Hốt nhặt vội đôi thương, vừa vặn đỡ một kích bổ xuống như trời giáng của Trần Nguyên Hãn. Lưỡi kích cách đỉnh đầu y độ hai thốn, còn đôi chân y thì bị đánh cho lún hẳn xuống đất ngập đến tận mắt cá.

Trần Nguyên Hãn lật cổ tay trở lưỡi kích, quét ngang một cái chém đứt luôn búi tóc của Trần Nguyên Hãn. Đoạn, lại hất ngược đuôi kích chém một phát trúng vào cằm của Lương Nhữ Hốt, kéo theo một vòi máu dài phóng vọt lên trời. Nếu không phải họ Lương sử đôi thương tài tình, thì đuôi kích của Trần Nguyên Hãn đã thừa thế lùa thẳng vào yết hầu của y.

Song, chống tới năm chiêu chí mạng cũng khiến y buông thõng đôi thương ngã vật ra đất. Thoạt nhìn, có vẻ đã đến lúc sơn cùng thuỷ tận, nỏ mạnh hết đà.

Y thở hào hển, lòng thầm thấy kinh sợ.

Người xưa dạy, kiếm chẳng quấn đầu, kích chẳng múa hoa. Xưa nay kích không thể vung lên thành một vầng như thương, đao, ấy vốn là lẽ thường của nhà binh.

Thế nhưng, Trần Nguyên Hãn lấy ngọn thanh long kích làm thương, hiển lộ hết thảy biến hoá thần kỳ của Tung Hoàng Thiên Hạ và Uy Chấn Bát Phương.

Kích là một loại vũ khí bắt đầu từ đời Thương, Chu, từ ngọn qua diễn biến mà thành. Có thuyết bảo kích " tượng hình một con rồng " tức là có đầu rồng, miệng rồng, thần rồng, bốn vuốt rồng, đuôi rồng. Đầu có thể thọc tới miệng có thể lừa, thân có thể dựa ép, vuốt có thể vồ, đuôi có thể vẫy.

Ngọn kích trong tay Trần Nguyên Hãn, thực giống như rồng thần vùng vẫy giữa sóng, chiêu số thu phát tự nhiên, phát huy bốn chữ " nhanh ", " mạnh ", " chuẩn ", " ổn " đến mức tận cùng.

Trần Nguyên Hãn chỏ ngọn kích vào mặt y, cười gằn, hỏi bằng giọng châm chọc:

" Nhà ngươi bán nước cầu vinh, giờ vinh hoa phú quý chưa kịp hưởng đã chết dưới kích của tao, đáng không? "

Lương Nhữ Hốt thở hào hển, đáp mà lời nói đứt đoạn:

" Ta... đương nhiên... vì lợi. Nên... không để... mình chết... đâu! "

Trần Nguyên Hãn nghe hắn nói, thầm thấy không ổn, đoạn phóng kích toan lấy mạng của hắn tránh khỏi có biến. Nào ngờ, ngọn kích của y vừa động, thì bên tai đã có tiếng rít gió vang lên. Trần Nguyên Hãn bị công bất ngờ, nhưng trên thân mặc giáp Phù Đổng nên không sợ hãi gì, chỉ giơ tay ra đỡ.

Nào ngờ người nọ cũng không có ý định chiến, khí giới đánh một nửa đã thu về, lại dùng roi ngựa quất vào cuốn lấy thân kích của Trần Nguyên Hãn, khiến y nhíu mày một cái.

Lương Nhữ Hốt đột nhiên bật dậy, tung mình bỏ chạy về phía người nọ.

Hắn sớm biết không phải đối thủ của Trần Nguyên Hãn, nên không hề bung hết sức liều mạng. Bề ngoài nhìn như kiệt lực, nhưng trước sau vẫn giữ một hơi chân khí trong bụng, mặc cho có bị ngọn kích uy hiếp tới suýt chết cũng không chịu dùng tới. Nãy giờ nhân lúc Trần Nguyên Hãn hả hê châm chọc, y lại tranh thủ hồi phục được thêm một chút chân khí, giấu cả trong đan điền.

Lương Nhữ Hốt thừa hiểu, giáp Phù Đổng là báu vậy trong thiên hạ, cho dù y có ở lúc toàn thịnh cũng khó lòng làm xây xước nổi. Hơi chân khí này y để dành, vốn định dùng để chưởng một phát vào chân con ngựa ô bờm vàng.

Ngựa thần tuy thông minh hung hãn, nhưng cũng không phải xương đồng da sắt. Chỉ cần Lương Nhữ Hốt đánh gãy được chân ngựa, thì sẽ khiến Trần Nguyên Hãn mất đà, y sẽ có cơ hội chạy trốn.

Nhưng thấy viện binh y chờ đã đến, Lương Nhữ Hốt không cần liều mạng, bèn dùng khinh công chạy thật nhanh.

Trần Nguyên Hãn không ngờ họ Lương giảo hoạt đến thế, lúc này mà vẫn còn sức khinh công chạy mất. Hôm nay đã xổng mất hai con cá lớn, há lại có chuyện để lọt nốt tên này sao?

Y thấy bất nhẫn, bèn giật mạnh ngọn kích toan giằng đứt roi ngựa, đặng đuổi theo giết Lương Nhữ Hốt. Song người kia có công phu nội gia không hề tầm thường, ngọn roi cuốn lấy thân kích cứng như đeo đá. Trần Nguyên Hãn giật mạnh hai cái không suy suyển, biết gặp kình địch, bèn lấy dao ở hộ uyển chặt phăng ngọn roi ngựa.

Lúc này Lương Nhữ Hốt đã leo lên lưng ngựa của người kia, kẻ đến tiếp tế đánh cương tế ngựa, đoạn phóng mình về phía đông.

Người có nội lực cỡ này, trong quân Minh, trừ Hoàng Phúc ra không có người thứ hai.

Trần Nguyên Hãn tức mình, chửi to một tiếng. Bấy giờ quân kị của y đã quét phăng đội kị binh dưới trướng Mộc Thạnh. Mà đằng xa, đã có cờ sí giương cao, báo hiệu Mộc Thạnh đã có viện binh, không tiện truy sát.

Đã không còn chuyện để làm, Trần Nguyên Hãn bèn cho quân lui về.

Y vỗ một cái vào kiếm Long Tuyền đeo ở thắt lưng, lại lấy một tờ giấy trên có ghi mấy chữ ra, tự nhủ:

[ Lê Lợi, không biết y là người thế nào, mà cả quan Bình Chương Đặng Dung và ông anh họ của mình đều khen hết lời. Lần này phải gặp tận mắt xem sao. ]

Nói rồi tế ngựa, kéo quân lui về phương nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro