Hồi mười: đồng cổ, mật thư bày mê cục / Quý Li, Thánh Dực phá giặc Minh (2)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

" Làm tốt lắm. "

Quận chợt ôm nó, ghì sát đầu Tạng Cẩu vào mình. Ông vỗ mấy cái vào lưng nó, trong thanh âm run rẩy không còn che giấu nổi sự tán thưởng nữa. Còn thằng bé, kẻ đang được khen và mái tóc đang đón lấy những giọt nước lã chã rơi, thì lại nghệt mặt ra lần thứ hai chỉ trong chưa đầy một khắc.

" Thầy... không trách... con?? "

" Trách?? Không! Ta mong được như con còn không được ấy. "

Quận Gió nheo mắt, lấy tay áo quệt nhanh qua mặt.

Chưa bao giờ Tạng Cẩu thấy thầy mình gần gũi đến thế. Trước đây, lần nào nó cũng phải ngước lên nhìn bóng Quận bay xa dần sau những ngọn cây. Chưa bao giờ nó có cái ý nghĩ, rằng Quận cũng biết buồn đau, cũng rơi nước mắt.

" Đời là gì? Ôi. Kẻ sống uổng mới sáu chục năm như ta cũng chẳng thể cắt nghĩa được. Nó là tất cả con ạ. Mọi màu sắc con nhìn, âm thanh con nghe, hương vị con nếm đều chỉ chiếm một góc nhỏ của nó mà thôi.

Nếu thù hận nhấn chìm con, thì con chỉ nhìn thấy màu đen u tối, nghe toàn những tiếng quỷ khóc ma gào, trong miệng chỉ độc vị chát xít và lưỡi co rụt vì đắng ngoe đắng ngoét quanh năm suốt tháng. Thế là con sống được có một nửa mà thôi.

Con rất giống một người ta quen, Cẩu ạ. Cũng như con, gia đình hắn bị người ta bắt đi. Cũng như con, hắn bị cướp đi thứ duy nhất hắn hằng trân trọng trong suốt cuộc đời vô dụng của mình. Song, hắn không thể làm được như con, ấy là biến thù hận thành động lực. Không... ôi, không! Kẻ ngu si ấy để mối thù hắn mang trở thành chính con người hắn. Việc trả thù trở thành cuộc sống của hắn. "

Quận Gió kể tới đây, bèn lấy cặp guốc luôn đeo bên mình ra. Giờ Tạng Cẩu mới để ý, rằng đôi guốc này có hai cái cùng một bên. Mặt dưới nứt một đường dài, cháy đen thùi một mảnh to.

" Và rồi hắn đã phải trả giá! Ah ha ha. Ông trời có mắt lắm mà. Hắn lùng sục, hắn lần tới tận nhà kẻ đã ra tay với vợ con hắn. Và hắn giết tất cả. Đoạn, hắn thiêu trụi căn nhà và chờ kẻ chủ mưu quay lại, đinh ninh thi thể người đàn bà và cô bé con hắn thấy treo ngoài sân là vợ con hắn.

Chẳng bao lâu sau, gã chủ mưu quay về. Thấy hắn lăm lăm thanh đao, sau lưnh là ngôi nhà cháy rừng rực, y bèn giơ hai tay lên tỏ vẻ chẳng buồn phản kháng."

Không cần nghe tiếp, Tạng Cẩu cũng biết Quận Gió đang nói về chuyện cũ của chính ông chứ chẳng ai khác. Nó thầm nghĩ:

[ Nếu mình không lúc nào ngừng nghĩ về việc báo oán, có lẽ sẽ trở nên giống như thầy. ]

Quận kể tiếp. Giọng ông khàn khàn đục đục, thoảng qua chút nghẹn ngào.

" Gã chủ mưu khinh khỉnh nhìn hắn, rồi cười sặc sụa. Hắn nói: " Lâm ơi là Lâm, chẳng lẽ mày không nghe thấy tiếng ai đập cửa tủ đùng đùng, nỉ non kêu cứu à? ". Tên ngu si kia bèn đáp: " Chẳng liên quan tới ta. ". Hắn nghĩ: vợ con mình còn chết cả, cứu kẻ không can hệ tới bản thân mà làm gì?

Nếu khi ấy, hắn có một chút vị tha trong lòng thì bi kịch của đời hắn đã không xảy đến. Nhưng, cặp mắt, đôi tai hắn đều đã bị hận thù bịt kín thì nghe gì nổi, nhìn gì được? Kẻ chủ mưu khi ấy bèn tiết lộ: " Vợ con mày tao giấu trong tủ áo. Còn hai cái xác, chẳng lẽ mày không nhận ra là ai? "

Đến lúc này, tên ngu xuẩn kia mới điếng người. Sợ hãi, hối hận, đau khổ như nuốt chửng, kéo hắn tuột thẳng địa ngục A Tỳ. "

Tạng Cẩu nghe ông kể mà rùng mình. Nó tự hỏi lòng mình, nếu như đặt nó vào hoàn cảnh của ông thì nó sẽ phản ứng như thế nào. Liệu nó có giữ được bình tĩnh không? Hay cũng sẽ như điên loạn như ông để rồi...

Cảm giác được ban cho một tia hi vọng mong manh rồi lập tức bị vùi dập của hai mẹ con sẽ đau đớn đến mức nào? Nỗi đau của người cha người chồng khi biết chân tướng sẽ quằn quại tới đâu? Nó không tưởng tượng nổi, cũng không dám tưởng tượng nữa.

" Con thấy người ấy đáng thương hơn đáng trách. "

Cuối cùng, Tạng Cẩu vẫn thấp giọng, an ủi.

Quận vận hết sức bình sinh đấm mạnh vào thân cây bên cạnh. Ầm một cái. Thân cây to lớn gãy rạp chẳng khác gì một que củi yếu ớt.

" Đáng thương?? Đáng thương ư??? Đáng đời hắn thì có! Con biết hai thi thể kia, một thiếu phụ mà một bé gái do đâu mà có không?? Là do hắn! Chính hắn mà ra chứ chẳng ai khác!

Hắn vốn là một tên đao phủ, chuyên chém phạm nhân. Lưỡi đao của hắn vấy máu của chẳng biết bao nhiêu người. Những người ấy có tội hay bị oan, ác độc hay thiện lương hắn cũng mặc xác. Triều đình nói thì hắn làm, như con chó ngoan vẫy đuôi liếm chân của nhà chủ hòng chiếm miếng thịt thừa, đòi mẩu xương thối. Thế nhưng, ấy còn chưa phải tội tày đình nhất!

Tên đao phủ ấy nhận lệnh chém một gã tử tù, hình như là người Minh giáo. Vợ người tử tù nọ hay tin, bèn đến van lơn hắn cho được gặp chồng một lần cuối. Thấy nàng có chút nhan sắc, hắn mới động lòng... "

Quận kể đến chỗ này, thì nội lực trong cơ thể không tự chủ được nữa mà dâng trào, khiến ông loạng choạng ngã xuống đất. Nón tre rơi khỏi mái đầu, tóc ông loà xoà phủ xuống mặt. Từng lọn từng lọn tóc trắng như cước bị nội lực của ông đạn cho xổ tung ra, lơ phơ như chùm rễ si già.

" Hắn... thằng khốn nạn ấy đưa cô vợ trẻ đến trước mặt chồng cô ta trong địa lao mà hành dâm. Tiếng van lơn đứt quãng mà khẩn khoản của người phụ nữ, từng tràng hú liên hồi thấm đượm nỗi thê lương của tử tù càng khiến con súc sinh mặt người ấy hưng phấn hơn. Hắn nghĩ tử tù kia đằng nào cũng phải chết, nên đã tính đến chuyện cướp vợ của người khác.

Con nói xem, ông trời có mắt hay không? Tên mặt người dạ thú ấy nào có ngờ được đêm đó lại có một kiếm thủ Bồng Lai chạy vào trong cung, huyên náo loạn lên. Đồng bọn của gã tử tù nhân lúc rối loạn, cứu hắn thoát khốn.

Kẻ tử tù trở về nhà, thì vợ hắn đã xấu hổ quá mà tự vẫn. Thi thể đã không còn hơi ấm của con gái lớn thì hắn tìm thấy ở sau nhà. "

Tạng Cẩu nhìn ông trân trân, không dám hó hé lấy một lời. Có những thứ nó không hiểu trong câu chuyện của ông. Nhưng cứ nhìn phản ứng của Quận Gió, thì chúng ắt phải là những điều tệ hại lắm. Rốt cuộc Quận là người tốt hay kẻ xấu? Nó cũng không biết nữa. Chỉ rõ ràng một điều, rằng từ bấy tới giờ ông vẫn luôn sống trong nỗi ân hận vì những gì mình đã làm ra.

Kể cả hai đứa Thăng, Hương dù đã nghe hết câu chuyện từ đầu chí cuối đều chẳng biết phải nói gì cho phải vào lúc này. Chỉ có Khiếu Hoá Tăng là thở dài thườn thượt.

Quận Gió đâu phải con người mà đám nhóc con có thể hiểu trong một sớm một chiều? Khiếu Hoá cũng chỉ mong có một ngày đám nhóc thôi hiểu lầm vua trộm. Thế nhưng Quận không muốn giải thích, ông sư ăn mày cũng chẳng tiện xen vào.

Sớm hôm sau, đoàn người lại khởi hành. Lần này bầu không khí đã trầm xuống, vắng hẳn tiếng cười nói vui đùa của đám trẻ. Năm người cứ yên lặng lên đường, chẳng ai nói với ai lời nào. Thỉnh thoảng lắm mới nghe tiếng Khiếu Hoá Tăng ngáp dài ngáp ngắn.

Đi chừng nửa ngày đường, thì đường lớn vẫn vắng bóng dân chạy loạn bắt đầu tấp nập hẳn. Từ các châu các phủ, không biết cơ man nào là người là ngựa tràn về thành Tây Đô theo lời triệu tập của Thiên Cơ lão đạo. Trước là dự anh hùng yến mừng công phù Trần mã đáo thành công. Sau lại họp mặt lãnh tụ đầu lĩnh của các bang các phái trên giang hồ, mở đại hội võ lâm.

Hai vị tông sư không muốn bị chú ý, bèn thả chậm tốc độ lại.

Anh hùng yến do đích thân Thiên Cơ lão đạo làm chủ, thành thử đường cái nhìn đâu cũng thấy nhân sĩ giang hồ. Kẻ độc hành lãng khách thì lưng bối trường đao, eo đeo bảo kiếm. Đệ tử danh môn đại phái lại kết đoàn mà đi. Nhóm nhỏ của Quận Gió và Khiếu Hoá Tăng thoắt cái đã lẫn vào đoàn người như muối chìm đáy bể.

Phiêu Hương lấy con trâu lá Tạng Cẩu tặng, cài lên tóc. Màu đỏ lá bàng hiện lên trên nền đen bóng mượt, như một vầng dương đậu lại trên dòng sông đêm tối. Sự tương phản mà đẹp đến tuyệt diệu.

Tạng Cẩu thò đầu lên từ vai Quận Gió, nhìn ngó khắp nơi. Lần đầu tiên nó thấy nhiều nhân sĩ võ lâm đến thế, không khỏi thấy vô cùng hứng thú. Nó lại nhớ lại đặc điểm của các môn, các phái Quận Gió dạy cho hồi trước mà bắt đầu nhận dạng.

Đi ở góc đường phía trước họ không xa là một đám người ăn vận như ngư phủ. Mỗi người có một tấm lưới vắt trên đôi vai trần rắn rỏi, rám vị mặn mòi của biển. Tạng Cẩu đoán ấy ắt là phái Cửu Cung rồi.

Một mình độc bá hẳn một đoạn đường khiến không ai dám lại gần đúng là đội hình của sơn trang Bách Điểu. Đệ tử sơn trang này phân làm bốn đội, do bốn Tinh cầm đầu. Trong bốn người, cước bộ của Bạch Kê Tinh Mạc Viễn là phù phiếm nhất. Y mới bị Hồ Đỗ dùng man lực đánh cho suýt thì đi đời. Dù may mắn giữ được mạng, nhưng nội thương trong người còn nặng, khó mà hồi phục được trong một sớm một chiều.

Đi hàng trước nhất là một trung niên vận áo đối lĩnh màu trắng. Thời Lí, Trần đàn ông bị cấm tuyệt đối mặc đồ màu trắng. Người này lại dám ngang nhiên mặc cấm phục, chứng tỏ trong mắt hầu như chẳng có triều đình.

Kẻ đứng trên cả bốn Tinh, tất nhiên phải là trang chủ của Bách Điểu sơn trang rồi.

Tạng Cẩu lại đảo mắt nhìn ra một chỗ khác. Chỉ thấy ở hướng đó có một nhóm thanh niên khoan thai bước đi. Đoàn người ai nấy đều bận một bộ áo giao lĩnh phẳng phiu màu tối, đầu búi tóc đóng khăn cẩn thận. Nhìn họ mà Tạng Cẩu nhớ ngày xưa ở thôn Điếu Ngư, lúc tiễn mấy anh học trò hàng xóm trảy kinh đi thi họ cũng ăn mặc thế này.

Thấy kì lạ, nó bèn hỏi Phiêu Hương:

" Thời buổi này mà còn học trò đi thi ư? "

Học trò xưa thường là những người quanh năm dùi mài kinh sử, chong đèn đọc sách những mong đỗ đạt hiển vinh, vinh quy bái tổ. Nước nhà đang có loạn, mà học trò còn kết bè kết đội đi lại khơi khơi kể cũng lạ.

" Suỵt. Be bé mồm thôi. Đấy đều là giám sinh của Quốc Tử Giám đấy. "

Phiêu Hương ngoắt Tạng Cẩu một cái, nói khẽ.

Liễu Thăng nghe xong, không khỏi thấy không phục, bèn nói:

" Quốc Tử Giám?? Đấy chẳng phải là nơi các tế tửu, tư nghiệp giảng đạo thánh hiền, khảo nghiệm đức độ của đám học trò ư? Bắc quốc ta ngay nhà Tuỳ đã mở một nơi. Trong ấy toàn là giám sinh trói gà không chặt thì có gì phải sợ? "

Phiêu Hương bĩu môi, nói:

" Mỗi nơi mỗi khác, cứ làm như nước Nam này là bản sao của bắc quốc mấy người không bằng! " - cô bé lại nhìn hướng qua đoàn giám sinh của Quốc Tử Giám, tiếp: " Quốc Tử Giám có thực lực rất đáng sợ, cao thủ ẩn tàng nhiều vô kể, nội tình sâu không thấy đáy. Bang chủ các bang phái lớn như Bách Điểu sơn trang cũng phải nể mặt tế tửu của Quốc Tử Giám ba phần. "

" Đâu chỉ sơn trang Bách Điểu. Bần tăng và bác Quận đến chơi Quốc Tử Giám cũng không dám vô phép. "

Khiếu Hoá Tăng thấy ba đứa nhỏ bàn tán đến chỗ cao hứng, bèn đế luôn một câu vào.

Liễu Thăng nghe mà giật mình, âm thầm toát mồ hôi lạnh.

[ Nước Đại Việt đúng thực là nơi đầm rồng hang hổ. Bình thường tìm lòi mắt cũng chỉ thấy rặt một đám nông dân khố rách áo ôm, chân lấm tay bùn. Thế mà đụng chuyện một cái, là kì nhân dị sĩ thi nhau túa ra chẳng khác nào kiến càng vỡ tổ. ]

Giờ lại kể chuyện mấy ngày trước.

Ngày mồng bốn tháng năm dương lịch, quân Hồ đại bại trận Hàm Tử, bị nhà Minh đuổi đánh rất rát, bại thế như núi đổ. Thành thử kinh đô Tây Đô một thời phồn hoa cũng náo loạn cả lên. Hoàng Hối Khanh được lệnh Hồ Hán Thương, bèn gom một phần ba dân Việt di cư vào khẩn hoang vùng Thăng Hoa chiếm của Chiêm Thành khi trước với quân địa phương thành một nhánh quân " cần vương " giao cho Nguyễn Lỗ. Hoàng tử cũ của Chiêm Thành, tức con trai của Chế Bồng Nga - Chế Ma Nô Đà Nan được phong tước " quận vương " để vỗ về dân Chiêm ở đây.

Về phần Hồ Hán Thương đã cho quân về thủ ở Lỗi Giang. Trận thua ở Hàm Tử có hai vạn quân đầu hàng, một vạn tử trận, tính ra hãy còn bốn vạn tàn binh. Song những người này phần nhiều đã đào ngũ đi nương nhờ vào các hào trưởng địa chủ địa phương, thành thử bảy vạn hùng binh chỉ có chưa đầy hai vạn quân đến chờ xa giá của vua về Tây Đô. Mùng mười về tới Tây Đô, trông thấy cảnh sĩ tốt khôi giáp tả tơi rách rưới, thương mác gãy rụng tả tơi mà bất giác chạnh lòng.

[ Chỉ vì một phút tự cho là thông minh, mà nay nguy cơ mất nước đã kề cận. ]

Y bèn cho người vào thành đón thái thượng hoàng Hồ Quý Li, rồi toan cùng nhau rút về Thăng Hoa thì quân Minh đã đánh ập tới. Hồ Hán Thương không kịp nghĩ nhiều, vội phất cờ hiệu cho đại quân kéo vào thành, dựa vào tường cao hào sâu chống giặc.

Trống nổi, cờ giương, hai cánh quân bắt đầu thả mình vào chiến trận.

Pháo gầm, tên rít, ngàn thanh kiếm thi nhau rơi cắm dưới chân thành.

Trương Phụ nắm cương, thúc ngựa chạy lên trước nhất. Lão vác thanh quan đao trên vai, hiên ngang nhập trận. Ánh dương dát vàng rực sáng sau lưng. Y giục ngựa chạy dưới chân thành mấy vòng, cười nhạo quân Hồ nhát chết. Hồ Hán Thương cho dùng nỏ cứng bắn xuống, Thạnh vung đao gạt hết tên rồi thúc ngựa chạy khỏi tầm bắn của quân Đại Ngu.

Hồ Hán Thương thấy sĩ tốt dưới tay mình uể oải như người mất hồn, bèn cắn chặt răng. Cứ theo binh pháp, thì điều quân Đại Ngu cần hiện giờ là một trận thắng để xốc lại lòng quân.

Y đang muốn tìm Hồ Nguyên Trừng để bàn kế thủ thành lâu dài, thì hay tin kho lương trong thành đã bị vét rỗng tuếch. Một hạt thóc cũng không còn.

Thì ra sau khi thắng trận ở Tây Đô, Mạc Thuý đã lựa khoảng một toán chục con tuấn mã, ngày đêm thúc ngựa chạy về phủ Thiên Xương. Y vừa chạy vừa loan tin quân Hồ thảm bại ở Hàm Tử, khiến từ làng trên đến xóm dưới phải xôn xao một bận. Nhưng cho đến khi ấy mới chỉ có một vài hộ, phần lớn là nhà quan lại với đám địa chủ, là gom người gom của đi chạy nạn.

Phải đến mấy ngày sau, tàn binh đào ngũ từ Hàm Tử tìm được về nhà, sự hoảng loạn mới bắt đầu truyền khắp dân gian. Dân chúng như đám bèo trên ao, sóng đánh tới thì mạnh ai nấy trôi.

Thậm chí ở thành Tây Đô, còn xảy ra bạo loạn. Một đám nhân sĩ võ lâm phối hợp với dân đen cả thành, nhân lúc đêm tối không trăng đánh vào kho vũ khí. Trước vũ trang cho bản thân, sau ghé thăm kho lương vét cho đến hạt thóc cuối cùng để chia nhau. Xong xuôi đâu đấy mới cướp cửa thành mà chạy.

Phần lớn binh mã đã theo Hồ Hán Thương đến Hàm Tử, lính lác cả thành chỉ còn chưa đến một ngàn, mà hầu hết là nam đinh mới tòng quân chưa được quân huấn kĩ càng. Thành ra lúc bạo loạn xảy ra, cả đám cứ loạn lên như lũ gà mất đầu vậy.

Chính ra đám gia nhân gia đinh của các nhà quan lớn phú hào cũng là một lực lượng dân binh không yếu, thế nhưng mấy tên này lại là những kẻ bỏ chạy trước tiên.

Hoàng cung cũng chẳng ngoại lệ. Vừa hay tin quân Hồ thua thảm là đám thái giám, phi tần cung nữ đã chia nhau vét cho kì hết kim ngân châu báu rồi bỏ trốn khỏi cung. Thái thượng hoàng Hồ Quý Li tự nhốt mình trong tẩm cung, thế nên chẳng cản ngăn cũng không trừng phạt được.

Thành Tây Đô bỗng trở thành một toà thành ma.

Lương cạn, song Khai Đại dế chỉ còn biết cắn răng giấu sĩ tốt dưới trướng. Quân lính đã chẳng còn tinh thần chiến đấu thì chớ, giờ lại hay tin Tây Đô cạn lương thảo hết khí giới thì khéo có hơn nửa ra hàng.

" Cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra. Lương thảo mang theo được chỉ còn đủ dùng ít ngày, không sớm thì muộn lính cũng bị đói. Chẳng bằng chia binh hai ngả, Trừng dẫn một phần đại quân cản hậu cho hoàng huynh rút về Thăng Hoa. "

Hồ Nguyên Trừng thấy Hán Thương bắt đầu bế tắc, bèn lên tiếng khuyên.

Khai Đại hẵng còn lấn cấn mãi chưa chịu quyết. Y nói:

" Tây Đô là kinh đô, cũng là trái tim của Đại Ngu. Mất thành rồi, sĩ khí quân ta sẽ ra sao? "

" Nhà Trần hai lần để Thăng Long thất thủ, nhưng vẫn có thể chuyển bại thành thắng. Hàm Tử ta thua đau, nhưng so với trận thua ở Bình Lệ Nguyên năm xưa thì có là gì? Hoàng huynh xin chớ bỏ cuộc. "

Hồ Nguyên Trừng cố gắng khuyên can, nhưng ngữ khí đã bắt đầu chất chứa sự mệt mỏi.

[ Đến hoàng đế cũng không muốn đánh, thì tướng sĩ lấy đâu ra tinh thần mà liều mạng? Hoàng huynh không sánh được với tiên đế Trần Nhân Tông năm xưa. ]

Những lúc thế này, chàng rất muốn hỏi ý kiến lão Bộc. Tiếc là vừa vào thành Tây Đô không lâu thì lão mất tăm biệt tích luôn. Hồ Nguyên Trừng đã cho quân lính đi tìm, nhưng tạm thời không có chút tin tức gì của lão hết.

Đúng lúc này, thì phía nội thành truyền đến tiếng chân người dồn dập. Một đội quân nhỏ cỡ hai trăm người lao nhanh trên đường lớn, tốc độ còn hơn cả tuấn mã. Trên người họ vận giáp da nhẹ, tay mỗi người cầm một thanh gươm bén với hộ thủ chạm theo hình con Nhai Xải.

Đi đầu không ai khác, chính là Hồ Quý Li. Chòm râu trắng như cước rủ xuống giáp ngực, mái tóc bạc tựa mây búi gọn ẩn trong mũ trụ. Ông vác một thanh quái phủ bản rộng, đầu gắn lưỡi thương dài nhọn hoắt. Cứ nhìn cách con thiên lí mã chạy thì thanh rìu pha thương ấy phải nặng độ ba chục cân là ít. Sau lưng ông cắm lá cờ thêu tám chữ " văn võ toàn tài, quân thần đồng đức " do chính Trần Nhuệ Tông ban cho.

" Phụ hoàng... "

" Thái thượng hoàng... "

Hồ Hán Thương và các tướng sĩ thấy ông xuất hiện, bèn quỳ xuống hành lễ. Quý Li phất tay cho mọi người đứng hết dậy. Đội ưuaan sau lưng ông rõ ràng đã nhìn thấy Hồ Hán Thương, nhưng cũng chỉ hơi cúi đầu hành lễ, ngoài ra không có vẻ gì là quy phục hết. Hồ Quý Li đứng lên đầu thành nói. Tiếng ông rung chuyển như thiên quân xuất chiến, vạn mã bôn đằng, Trương Phụ cưỡi ngựa cách Tây Đô vài dặm cũng nghe thấy.

" Đại Việt ta nay có nạn, vận nước như chỉ mành treo chuông. Nay Quý Li xin nhờ sức của các vị Thánh Dực dũng nghĩa đánh một trận với giặc Minh, cho chúng thấy bản lĩnh nam nhi nước Nam ta. "

Thấy hai trăm tráng sĩ vẫn im như cục đá, ông bèn chặc lưỡi, tiếp:

" Thánh Dực quân xin hãy nghe ta nói một lời.

Hồ Quý Li này phế Trần lập Hồ, là tội thứ nhất! Mộ lính gắt gao, ban hành tiền giấy khiến dân chúng lầm than, là tội thứ hai! Ta xin nhận hết!

Nhưng... "

Nói đến đây, bất giác ông nhìn sang Hồ Nguyên Trừng. Tả tướng quốc của Đại Ngu vốn đang vì sĩ khí của ba quân mà chán chường thì nay bỗng tỉnh ngộ.

" Thằng ranh con Trần Thiêm Bình rước quân Minh vào bờ cõi nước Nam, ấy là tội phản quốc.

Giặc bắc vào nước ta, đầu tiên là gây cảnh máu chảy thành sông xương chất thành đồng, ấy là tội hại dân.

Hồ Quý Li này có tội với nhà Trần, đúng! Nhưng thử hỏi ta có tội gì với Đại Việt?

Bất trung với triều Trần so với bất trung với tổ quốc thì bên nào đáng chết? Hà khắc với trăm họ so với tài hại cả đồng bào thì tội ai nặng hơn?"

Thánh Dực quân đáp:

" Chỉ bằng một Thiêm Bình không thể đánh giá cả vương triều nhà Trần. "

" Vậy thì một Hồ Quý Li cũng đâu thể đại diện cho cả Đại Ngu ta? "

Im lặng...

" Chỉ có người Việt khổ

Quyết không có Việt nô!

Thà làm ma Đại Việt

Hơn làm chó Nam Kinh!! "

Dũng Nghĩa quân chẳng ai bảo ai, đột nhiên rống lên, rõ ràng từng chữ. Giữa một toà thành trống không, tiếng người bỗng cất lên nghe lồng lộng, đâm thủng xé nát bầu không khí lặng yên chết chóc.

" Chỉ có người Việt khổ!! "

Hồ Nguyên Trừng thấy vậy, bèn chum tay vào hét lên. Hồ Hán Thương và các tướng cũng vội vàng học theo.

" QUYẾT KHÔNG CÓ VIỆT NÔ!!! "

Tiếng rống của đại quân nhà Hồ làm át cả tiếng cửa thành đang nặng nề mở tung.

Khai chiến!

Hồ Quý Li thúc con Thiên Lí chạy đầu, theo sát đằng sau là hai trăm binh sĩ Thánh Dực quân. Những người này rảo bước như bay, mỗi lần vung chân là bắn mình đi xa bằng năm sáu bước dài của người thường. Liền đó mới là Hồ Hán Thương dẫn theo tướng sĩ và hai vạn tàn binh hối hả theo sau.

Quân Minh nhìn thấy cảnh ấy, bèn cười hô hố khinh thường. Có người nói:

" Bọn Nam man đó cùng đường mạt lộ rồi, muốn liều thân đây mà. "

" Hơn hai mươi vạn quân còn bị đánh tan, huống chi một lũ tàn binh bại tướng? "

Vương Sài Hồ khịt mũi, khinh khỉnh mỉa mai. Mấy hôm trước đánh trận Hàm Tử, Hồ Xạ từng phao tin quân Đại Ngu đông tới hai mươi mốt vạn. Nay tên Cẩm Y Vệ lấy ra diễu nhại, khiến cả đám thao tướng xung quanh cười ồ lên theo.

Chỉ có Trương Phụ là thấy hơi e dè trước sự thay đổi đột ngột của quân Hồ. Trong những dòng sử lão từng đọc, người An Nam vốn thiện nghề sông nước, thạo đường qua núi biết lối trên rừng. Thế nên lối đánh truyền thống của họ là đánh trường kì.

Còn một khi đã đem quân ra đánh vỗ mặt, thì chỉ có là thắng lợi ròn rã hoặc là thất bại liểng xiểng.

Mới nghĩ đến thế thôi, còn chưa kịp ra lệnh cho cung tiễn thủ khai tên thì nhánh quân Thánh Dực do Hồ Quý Li dẫn đầu đã đánh ập vào cánh tả của quân Minh. Người bắc quốc hoàn toàn ngây người. Họ di chuyển với tốc độ của một ánh chớp, một cơn bão táp.

Gươm sáng tuốt trần vung đến đâu, đầu quân Minh rụng xuống đến đó. Không hề có một tiếng kêu khóc rên la. Bởi lẽ thường nhân thì làm sao nghe được thanh âm của người cõi dưới?

Thánh Dực dũng nghĩa lầm lầm lì lì, lướt qua xẹt lại giữa ba quân như những cái bóng. Quân trận của quân Minh chẳng mấy mà bị hai trăm binh sĩ khuấy đảo cho rối tung hết cả.

Thấy tình thế không hay, Vương Sài Hồ nhảy phắt tới trước một binh sĩ của Thánh Dực quân, nhuyễn kiếm hất một cái như chớp giật vào gáy địch thủ. Người nọ vốn đang địch lại năm sáu bộ binh Minh triều, e rằng không phản ứng lại kịp.

Bất thình lình, một cái bóng đen bay vèo tới từ mé tả, đập trúng cánh tay đang xuất kiếm của họ Vương khiến y trẹo cả tay. Vương Sài Hồ ngã lăn kềnh ra đất, nhuyễn kiếm cũng văng đi tận nơi nảo nơi nao. Gã Cẩm Y vệ rên lên một tiếng vì đau, rồi mới định thần nhìn kỹ lại. Té ra " thứ " vừa mới đụng trúng y lại là cái xác còn ấm của một cung thủ bắc quốc.

Phát hiện ấy khiến y hãi lắm. Từ sau lần bị Hồ Đỗ hành hạ ở Hàm Tử, y đặc biệt sợ những kẻ có sức trâu.

Đúng lúc này tráng sĩ Thánh Dực quân bị Vương Sài Hồ đánh lén đã xử xong địch thủ. Y quay lại lườm họ Vương một cái, sau đó búng mình nhảy về phía đối thủ.

Ban nãy tên Cẩm Y Vệ bị thi thể cung tiễn thủ xô ngã, đám bộ tốt quân Minh cũng dây dưa kéo người nọ ra xa thêm một quãng nữa. Ước tính khoảng cách song phương phải đến gần ba trượng. Thế mà người của Thánh Dực dũng nghĩa chỉ nhảy một cái là tới nơi.

Quả đấm rắn rỏi vung lên, tung một đòn sấm sét nhắm thẳng vào ngực Vương Sài Hồ. Đối thủ vốn thấp bé nhẹ cân hơn mình nhiều, ấy thế mà họ Vương cứ có cảm giác bản thân y thật nhỏ bé trước cú đấm của kẻ địch.

Không dám chọi cứng, Vương Sài Hồ xoè bàn tay đánh ra một chiêu trong Võ Đang Miên Chưởng. Trong một phát chưởng tưởng như đơn giản hàm chứa áo nghĩa của thái cực bát quái, có thể lấy bốn lạng đẩy ngàn cân. Thật là ảo diệu.

Nhưng mục nát có thể hoá thành thần kì, thì điều ngược lại cũng có thể xảy ra. Chỉ thấy đầu quyền của tay lính Thánh Dực quân đáng lí phải bị miên chưởng của họ Vương dời đi thì lại trơ ra như cục đá. Tên Cẩm Y vệ chợt phát hiện nắm đấm vốn bị chưởng tâm của mình chặn lại chợt rung lên một cái. Tức thì bao nhiêu xảo kình của y đều bị kình lực của kẻ địch phá nát.

Vương Sài Hồ lui năm bước liền, cánh tay buông thõng xuống không còn tí cảm giác nào nữa. Hãi hùng tột độ là thứ cảm giác duy nhất tồn tại trong đầu y lúc này.

Võ Đang miên chưởng bị phá giải dễ dàng, chứng tỏ võ công của đối thủ hơn y nhiều lắm. Tính ra trong hàng ngũ quân Minh, họ Vương cũng là cao thủ đứng hàng đầu. Thế thì còn ai ngăn nổi người nọ nữa?

Mộc Thạnh bị Hồ Đỗ chém rụng một cánh tay, nhất thời vẫn chưa quen được. Nội việc giữ thăng bằng trên lưng ngựa đối với lão đã là chuyện khó, chứ chưa nói đến cái ngón giương cung bắn tên. Nhưng chiến lực của Thánh Dực quân thực là cao đến doạ người, lão không thể không ra giúp một tay.

Mộc Thạnh giục ngựa phóng vào chiến trường. Nơi lão tiến tới có hai chục binh sĩ Đại Minh đang dần trận chữ khẩu, vây lấy một lính của Thánh Dực quân. Người này dáng người cao lớn, đầu cắt trọc, hai tay còn múa tít thanh gươm sáng choang.

Trước khi lọt vào vòng vây y đã tàn sát hơn năm chục kẻ địch, chạy giữa chiến trường mà như người ta phát rạ gặt lúa vậy. Quân Minh sợ uy của y, không dám tiến lên.

Thạnh vung siêu, chém mạnh một nhát nhắm ngay đầu Thánh Dực binh. Lão thầm nghĩ:

[ Đà chạy của ngựa thêm vào công lực của ta, muốn cản lại trong khi đứng yên dưới đất e rằng chỉ có Hồ Đỗ mới làm được. ]

Nào ngờ người nọ chẳng né chẳng tránh, mà lại vung gươm lên đánh trả một đòn. Trong một tích tắc, âm thanh chát chúa nổ vang lên tựa sấm rung thác đổ.

Mộc Thạnh bị đánh văng ngược ra khỏi yên ngựa, nặng nề ngã bịch xuống đất. Thanh đao của lão văng xa, chém chết tươi mấy binh sĩ Đại Minh liền.

Lưỡi gươm sắt của người lính Thánh Dực gãy làm bốn đoạn, rơi lả tả xuống. Kẻ địch thấy y đã tay không tấc sắt, bèn nhào cả đến. Chẳng hề nao núng, y luôn chân đá mấy cái liền. Từng đoạn từng đoạn kiếm gãy bắn lên không, vọt đến cứa đứt cổ họng của bộ binh quân Minh.

Làm xong chuyện, y cũng dùng cạn chân khí, cơ thể bắt đầu thoát lực. Chỉ chờ có vậy, Trương Phụ từ đâu vọt tới, một đao chém chết luôn người lính Thánh Dực. Trước khi ngã xuống, một mình y đánh chết bảy mươi quân địch, trọng thương ba tướng. Đúng là một chiến tích đáng sợ.

" Mẹ kiếp! Nhánh quân quái quỷ gì đây?? "

Trương Phụ thấy để giết chết một người của Thánh Dực quân thôi mà cũng hao binh tổn tướng đến thế thì hãi hùng không thôi. Lão không sao ngờ được Đại Ngu hãy còn một chi kì binh lợi hại đến thế.

Noi gương của binh sĩ Thánh Dực quân, quân Đại Ngu bắt đầu đánh anh dũng hơn trước không biết bao nhiêu lần. Bình thường một lính Hồ đánh bại được một binh sĩ Đại Minh, thì nay có thể một chống hai chống ba. Thậm chí có người bị chặt đứt hai tay rồi vẫn nhảy chồm tới cắn vào cổ địch thủ.

Chiến lực cá nhân lợi hại là thế, cách Thánh Dực quân ngang dọc chiến trường cũng hết sức bài bản. Tam quân dưới trướng Trương Phụ bị bọn họ xé nhỏ ra, sức chiến đấu giảm đáng kể. Quân Minh cố gắng kết trận hòng giữ vững đội hình, nhưng bất lực. Thỉnh thoảng lại có binh sĩ bị Thánh Dực quân dùng sức lẳng ra ngoài, xô vỡ cả một hàng.

Nói đến Thánh Dực quân, cũng không thể không nói về Hồ Quý Li.

Lão tuổi đã cao, mà sức chẳng thua thanh niên trai tráng. Tấm lưng cao ngất trên con ngựa Thiên Lí tung hoành trong ngàn quân, bàn tay gân guốc nắm chắc thanh quái phủ mà vung giữa chiến trường. Ngọn cờ " văn võ toàn tài, quân thần đồng đức " bay phấp phới có khác gì như ánh lửa đỏ rực tô điểm cho chiến thần Phù Đổng. Hồ Quý Li xuất chiến, đúng thật khiến người ta phải thốt lên. " gừng càng già càng cay ".

Ở trên chiến trường, đặt bên cạnh người cha đang dẫn đầu cánh quân mà công phá tan tác trận thế quân Minh, thì phong phạm của Hồ Hán Thương kém không chỉ một phần.

" AAAAAA!!! "

Cả chiến trường chuếnh choáng trong mùi tanh hương, nồng say giữa tiếng kiếm đao va chạm. Chỉ có tiếng hét thất thanh của Lý Bân vang lên đều đều. Trong khi hai quân đang ập vào nhau chém giết quên mình, thì tên này lóng ngóng để bị gươm của Thánh Dực dũng nghĩa khua trúng. Cả một mảng tóc to tướng bị hớt trụi, đũng quần thì ướt sũng. Hắn chỉ biết ôm cái đầu nay hói một nửa mà chạy, vừa trốn vừa gọi cha khóc mẹ inh ỏi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro