Hồi mười tám

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phủ Tần Hoài khói sương kín đất

Dục Thuý Sơn liệt hoả phần thiên

Trước kể đến đoạn Tạng Cẩu quậy phá tưng bừng ở Lại gia trang, trấn áp quần hào một mẻ, lại ra tay đánh chết người đàn bà cay độc. Bấy giờ ba người bọn nó đứng bên bờ sông Tần Hoài chờ đò, Tạng Cẩu thò tay xuống dòng nước mát lạnh để rửa trôi hết những vết máu còn dính lại.

Hồ Phiêu Hương đứng giữa hai người, lúc thì ngó bên trái khi thì nhìn sang phải, nhất thời bối rối không biết phải làm sao, chỉ đành mong ông lái đò quay lại bờ bên này thật nhanh mà thôi.

Tạng Cẩu vẫn đặt tay dưới dòng sông. Hững hờ trôi con nước lạnh căm căm, vuốt ve da thịt nó.

Nó không ngẩng đầu, cũng không nhìn cô gái họ Trương lấy một cái.

Trong thâm tâm nó cứ tự hỏi mãi: nó làm thế là đúng hay sai?

Đò cập bến...

Người ta lọc cọc xuống thuyền, rồi lại tất bật hoà vào dòng người xuôi ngược. Ba người bọn họ đứng đứng ngồi ngồi bên bờ bãi, chẳng khác nào ba hòn đá bên dòng sông... Dòng người chảy cuồn cuộn. Dòng sông cũng vận động theo cái chu kì hàng năm của nó. Chỉ có ba người là lặng im, đứng bên lề cái sự chuyển động ấy, cùng ông lái đò.

Ông lái lấy chão buộc đò, rồi nằm khểnh ra, chân vắt chữ ngũ. Thường thường cứ phải đủ khách, ông mới chống sào chở đò sang bên kia.

Có kẻ đến sớm, đợi đến trưa mới sang nổi.

Có người tới muộn, đành phải chờ chuyến sau.

Lại có những kẻ may mắn, đến vào cái lúc vừa đủ số.

Đò với người, có lẽ cũng là duyên.

Tạng Cẩu và Phiêu Hương muốn cô gái hàng rong cùng về biệt phủ Chu Đệ cấp cho mấy người Nguyên Trừng. Nhưng cô nàng chỉ từ tạ, rồi lặng lẽ về căn nhà bỏ hoang của ông bà, nằm khuất dưới thanh lâu.

" Này, mình bám theo chị ấy đi. "

Tạng Cẩu chợt lên tiếng.

Trước là nó sợ cô gái kia nghĩ quẩn.

Sau cũng muốn tìm về căn nhà nọ, bái tế thầy.

Hồ Phiêu Hương không chần chừ dù chỉ một chút, đồng tình ngay. Thực ra cô bé cũng đang có ý này, nhưng đã để Tạng Cẩu nói trước.

Hai đứa đều giỏi khinh công, có thể lẳng lặng theo sát cô gái hàng rong mà người ta không hay biết gì.

Trong căn nhà vốn có một cái cây to.

Cô gái họ Trương lặng lẽ cởi bỏ áo loan mũ phượng, dập đầu mấy cái liền. Căn nhà bỏ hoang, nhưng chỉ có một lớp bụi mỏng đóng tại hiên cửa, đủ thấy vẫn có người lui tới quét tước dọn dẹp.

Trong ba người, duy chỉ có Tạng Cẩu biết...

Người vẫn thường tới đây quét dọn, lấy tò he cắm xuống đất chính là thầy nó – Quận Gió – người từng làm đao phủ.

Tạng Cẩu thở dài...

Càng tìm hiểu nó càng thấy mọi chuyện phức tạp thêm.

Cô nàng họ Trương dập đầu xong, lại khấn:

" Cha mẹ. Bất hiếu có ba, vô hậu là nặng nhất. Họ Trương nhà mình chỉ còn mình con, đành phải nuốt nhục muối mặt sống tiếp. Hôm nay đến đây cầu xin, dưới suối vàng hai người linh thiêng tha cho nghĩa mẫu một lần. Bà ấy dù cay nghiệt, bạc nghĩa đến mấy cũng có công ơn nuôi dưỡng con bấy lâu. "

Khấn xong lại dập đầu bái lạy.

Phiêu Hương kéo áo Tạng Cẩu:

" Về thôi. "

" Ừ. "

Hai đứa nhóc lặng lẽ thối lui.

Cô gái họ Trương thì trở về căn nhà nơi mình được nuôi lớn, lần vào buồng mẹ nuôi lấy con dao kỷ vật. Nàng ta không hề hay biết ba mươi năm trước, mẹ nàng lúc còn là một đứa trẻ đã vứt con dao này xuống đất, tha cho một tên đao phủ hai tay ướt máu.

Cuối cùng, đồ đệ của tên đao phủ này, đã thay thầy trả món nợ với dòng họ nàng.

Tạng Cẩu và Phiêu Hương dắt nhau về phủ.

Trong sảnh chính, hai cha con Hồ Quý Li đang chờ sẵn, sắc mặt nghiêm nghị. Đặc biệt là Hồ Nguyên Trừng.

Chúng nó làm náo loạn đám cưới, hạ nhục mệnh quan triều đình, còn ra tay giết người. Chuyện tày đình như thế không truyền đi khắp nơi mới là lạ.

Hai người lớn chỉ nhìn chúng.

Thực tình họ cũng thấy khó giải quyết.

Nếu như phạt nặng hai đứa, thì không ổn. Thấy chuyện bất bình rút đao tương trợ vốn là biểu hiện của tính hiệp nghĩa. Ngộ nhỡ chúng sợ, sau này thấy ác làm ngơ, cũng chẳng khác nào tiếp tay cho đảng gian cả.

Song cái chuyện lạm sát cũng chẳng phải chuyện gì tốt lành.

Cuối cùng, Hồ Nguyên Trừng mới lên tiếng:

" Đáng lẽ hai đứa nên dạy cho bà ta một bài học là được rồi. Chú phạt cả hai ở trong nhà luyện công, một tháng tới không được đi đâu. "

Hai đứa nhóc vâng dạ, rồi lủi thủi lui về hậu viện.

Trong nhà trừ cô bé Thanh Hằng ra không có người hầu kẻ hạ, thế nên hai đứa nhóc định cứ xuống bếp tự lo chuyện cơm nước trước, rồi mới hỏi kỹ chuyện hồi sáng.

Đột nhiên Lí Bân chạy đến, rồi Thanh Hằng vốn như người câm từ Cao Vọng đến giờ lại đột nhiên mở miệng nói chuyện, quả thực khiến người ta tò mò.

Bữa cơm vốn là nơi người Việt quây quần.

Chẳng rõ vì sao, có những chuyện bình thường rất khó mở lời, lúc ngồi bên mâm cơm nói ra lại rất dễ.

Nhà bếp có sẵn bàn ghế, vốn dùng cho hạ nhân trong nhà ăn uống. Mâm trên là để cho chủ. Hai đứa nhóc trong nhà vốn chẳng có kẻ hầu người hạ gì, nên ăn luôn dưới bếp cho tiện.

Hồ Phiêu Hương không nói. Không phải không muốn, mà là không biết phải bắt đầu mở lời như thế nào.

Tạng Cẩu cũng im lặng, chỉ cúi gằm đầu và cơm một lúc...

Nhưng cứ mấy miếng là nó lại nhè ra, như thể nuốt không trôi.

Thế rồi bất giác nó lên tiếng:

" Này. Hương thấy tớ làm thế là đúng hay sai? "

Tạng Cẩu muốn nói về một chưởng hồi nãy.

Là đúng hay sai?

Bà mẹ nuôi chết là đáng đời ư?

Hồ Phiêu Hương gác đũa, thở dài:

" Tớ đoán tớ nghĩ gì không quan trọng, quan trọng là phía Cẩu. "

Sắc mặt Tạng Cẩu sa sầm:

" Chắc vậy. Nhưng... tớ nghĩ gì thực sự có quan trọng không? "

Hồ Phiêu Hương biết nó muốn nói gì, cũng hiểu tại sao thằng nhỏ lại úp úp mở mở.

Tính ra cô bé, lẫn Tạng Cẩu, đều là người ngoài. Ai đúng ai sai, ai nên sống ai phải chết, chúng nó lấy quyền gì ra mà quyết định? Tạng Cẩu nghĩ bà ta sai, bà ta đáng chết, nhưng Trương thị thì sao? Nàng ta có nghĩ thế không?

Trong chuyện đó, không phải Trương thị nghĩ gì mới quan trọng hay sao?

Tạng Cẩu đã nghĩ rất nhiều.

Nhất là từ khi nó về căn nhà hoang, nơi thầy nó được tha mạng năm nào, nó cứ mãi trăn trở.

Nếu phải so sánh...

Lúc đó Quận Gió còn đáng chết gấp năm, gấp bảy bà mẹ. Thế nhưng sau đó, ông trở thành một quái hiệp, dành cả cuộc đời để cứu nhân độ thế.

Tạng Cẩu cứ nghĩ mãi.

Liệu nếu lúc ấy nó nương tay, thì bà mẹ có thể giống như thầy – người nó vẫn hết mực kính trọng hay không?

Hồ Phiêu Hương thở dài, rồi gác đũa.

" Cẩu. Có phải cậu muốn biết cảm nhận của tớ khi đó, lúc vung đao chém cậu phải không? "

Lần đầu gặp ở Muộn Hải, cô bé đã vung đao muốn chém chết Tạng Cẩu. Nếu không phải Quận Gió ra tay can thiệp, thì giờ thằng nhỏ đã thành hồn ma bóng quế vất vưởng chốn lạch nước cầu mương nào rồi.

Tạng Cẩu nhìn sang chỗ khác, cố gắng tránh né ánh mắt của Hồ Phiêu Hương. Cứ mỗi lần nó nhìn vào đó, đôi mắt của cô bé trong veo, phản chiếu nó rõ mồn một.

Cạch.

Đao Lĩnh Nam đặt lên bàn.

Nước đồng đen bóng, đặc quánh như đúc ra từ trời đêm ba mươi Tết.

Hồ Phiêu Hương duỗi ngón tay trỏ, lướt nhẹ lên mặt đao như chuồn chuồn lướt nước. Nói đoạn, cô bé chậm rãi:

" Thực ra lúc đó tớ chẳng nghĩ nhiều như Cẩu bây giờ đâu. Khi đó cậu theo quân Minh, tớ là công chúa của Đại Ngu, thành thử... lúc ấy cậu là người xấu. "

Nghe kể, mà Tạng Cẩu nhớ lại chuyện cũ.

Lúc ấy nó không biết Mạc Thuý nhận lệnh Trương Phụ, bám theo quân Minh chỉ mong được sống. Bây giờ ngẫm lại, chẳng khác nào cùng hội cùng thuyền với kẻ thù phá làng đốt xóm. Đôi tay nó siết chặt, răng nghiến lại cố nén xung động vung tay đánh xuống mặt bàn.

Phiêu Hương thấy nó lại giở tật cả nghĩ tự trách, bèn tiếp:

" Thực ra, bảo tớ xuống tay chém Cẩu, thì dễ thôi. Lúc đang nóng đầu thì xoẹt một cái là xong. Nhưng cái khó là sau đó, sẽ đối mặt với nó như thế nào. "

Tạng Cẩu nhìn chăm chăm vào lòng bàn tay, thở hắt ra:

" Đúng vậy. "

Lửa giận bốc cao, chưởng phong áp xuống. Thế là đã xong rồi.

Hồ Phiêu Hương nhún vai:

" Thế nên, cậu bảo tớ phải khuyên bảo cậu nên làm thế nào, thì tớ chịu. Vì tớ cũng chỉ là con nhóc tì vắt mũi chưa sạch, chín tuổi đầu. Nhưng, có một điều tớ chắc chắn. Ấy là ánh mắt của cậu vẫn chưa trở nên giống với cái nhìn của tên Tửu Thôn đâu. "

" Hy vọng là thế. "

Tạng Cẩu đáp, không để ý rằng Hồ Phiêu Hương đã dùng khinh công lướt tới ngay cạnh nó. Cô bé thò hai bàn tay, tóm lấy má thằng nhóc, véo lấy véo để.

" Thôi nào, làm gì mà thở dài thườn thượt như ông cụ non thế? Cẩu phải nhớ mình mới có tám tuổi thôi đấy. "

" Auuuuu... ả ớ a... "

Tạng Cẩu khua tay loạn xạ, giãy lên đành đạch, nhưng không hề vận công. Nó đã dần quen với việc khống chế được chân khí trong người, thu phóng đã phần nào tự nhiên.

Hồ Phiêu Hương cười khúc khích, lấy tay vỗ má Tạng Cẩu hai cái, rồi mới chịu buông.

Tạng Cẩu vỗ trán đánh bốp một cái:

" Thôi đúng rồi! Cậu còn giận tớ chuyện ở ngự thư phòng đúng không? Cùng lắm tớ cho cậu trả đũa. Đây! Truyền chân khí đi, tớ mà phản kháng thì không phải Tạng Cẩu. "

" Truyền cái đầu nhà cậu!!!! Cậu là con chó hay con dê??? "

Hồ Phiêu Hương đỏ chín cả má, tung cước gạt phăng cái ghế của Tạng Cẩu, khiến nó ngã dúi dụi.

Tạng Cẩu cũng chẳng vừa. Nó vỗ hai chưởng xuống đất, mượn phản chấn đứng thẳng người dậy.

Lúc cô bé Thanh Hằng vào bếp, thì chỗ đó đã trở thành một mớ hỗn độn. Đầu Tạng Cẩu dính bết cả trứng với nước, còn má Phiêu Hương thì trắng bệch những bột.

Cô bé bèn cười, bảo:

" Cô lớn, cậu lớn thích vần nhau thì vào buồng riêng mà làm. Cớ sao lại làm dưới này? Nhỡ ai thấy thì sao? "

Sau câu nói ấy trong bếp còn xảy ra bao nhiêu chuyện rùm beng, thì chỉ có ba đứa nhóc biết với nhau. Song có thể chắc chắn một điều, Hồ Phiêu Hương đã tung cú đá cuối cùng đặt dấu chấm hết cho tất cả lùm xùm.

Còn cô bé đá vào đâu mà khiến Tạng Cẩu nằm co ro một góc nhà? Đấy lại là một chuyện chỉ có ba đứa chúng nó biết với nhau.

Thì ra...

Hôm ấy Lại Bố Y cho người đến bắt cô gái họ Trương, phá tanh bành cả đại sảnh. Trong nhà chỉ có Thanh Hằng chạy ra ngăn cản, làm sao chống nổi lũ gia đinh sức dài vai rộng?

Đến khi cô bé được lay tỉnh, thì phát hiện chỗ da thịt tím tái vì máu bầm đã khỏi hẳn, cái lưỡi vốn bị liệt bấy lâu cũng đột nhiên bình thường lại. Lúc bật ra được âm thanh, bản thân cô cũng chẳng ngờ nổi.

Tạng Cẩu, Phiêu Hương nhìn nhau...

Mặt đứa nào đứa nấy nhăn nhó như khỉ ăn ớt.

" Lẽ nào là hắn?? "

Mới nhắc thôi, mà hình ảnh Lý Bân lúc nào cũng nhìn đời bằng con mắt chán trường và cái giọng than thở treo thường trực trên miệng hiện lên trong óc bọn nó.

" Không thể nào. Tên đó lúc nào cũng ra cái vẻ than trời trách đất, làm như mình là nhân tài sinh chẳng hợp thời như Lí Nam Đế, Mai Hắc Đế không bằng. "

Tạng Cẩu cũng gật đầu.

Hiển nhiên nó cũng chẳng có cảm tình gì với cái tên Lý Bân ấy cả.

Thầy nó vẫn dạy, muốn giỏi thứ gì, trước hết phải biết nhận mình còn kém. Bằng không, trong đầu lúc nào cũng đinh ninh mình đã giỏi, vô hình trung khiến người ta mất đi động lực phấn đấu. Chung quy thành tựu sẽ có hạn.

Mà Lý Bân, chẳng hiểu vì sao, lúc nào nó cũng có cảm giác y coi thường hết mọi người, ai cũng nhìn bằng nửa con mắt.

Hồ Phiêu Hương nhìn Tạng Cẩu, rồi rỉ tai:

" Mình cứ đến hỏi y một chuyến, biết đâu lại tìm hiểu được cái gì. "

Thằng bé đáp:

" Mấy ngày nay, hết chuyện bí ẩn này lại nối tiếp chuyện kì lạ kia. Tớ cứ có cảm giác mình đang chơi trò giải đố với ông trưởng làng, cứ đáp được một câu là lại ra một câu khó hơn vậy. "

Biết thằng nhóc này đã nhớ nhanh, lại còn nhớ dai, nên cô bé cũng chỉ đành kéo tay nó chạy. Hi vọng, một lát nữa tra hỏi Lý Bân sẽ biết thêm được gì đó khiến Tạng Cẩu thôi nghĩ linh tinh.

Hai đứa băng qua đại sảnh từ lâu đã lịm ánh đèn, đến phòng chứa củi.

Trước đó ít lâu...

Hồ Nguyên Trừng nhìn bóng cây đèn, ngọn lửa lay lắt chiếu lên gương mặt. Nay chàng trông đã góc cạnh, có nét gì đó phảng phất như gió mưa, lại na ná bụi đường. Da dẻ đã không còn trắng bóc như trứng gà, song nét nho nhã thư sinh thì không giảm bớt.

" Thiền sư quả thực là rồng ẩn trong mây, cọp vờn giữa núi. Mới đó đã đi khuất rồi. "

Hồ Quý Li nói:

" Bài thuốc giải độc thiền sư để lại, mai con và ta ra ngoài thị tập mua dược liệu về sắc cho con bé. Khổ thân. Tí tuổi đầu... ai lại nỡ dùng Ngũ Tuyệt độc lên người nó chứ? "

" Cha... Ngũ Tuyệt độc này đáng sợ lắm sao? Có phải dùng ngũ độc rắn bò cạp rết cóc nhện để bào chế? "

Hồ Nguyên Trừng không khỏi thấy tò mò.

Rốt cuộc là thứ độc gì, mà đến Tuệ Tĩnh thiền sư cũng phải nói: Trong thiên hạ chỉ có một người giải được, đến ông cũng không hoá giải nổi hoàn toàn độc lực.

Hồ Quý Li trầm giọng:

" Cha cũng chỉ nghe người ta rỉ tai nhau lúc đi chinh chiến. Sở dĩ gọi là ngũ tuyệt, vì nó tuân theo nguyên tắc vật cực tất phản. Năm nguyên liệu của nó là linh chi, nhân sâm ở đất Nam ta, hà thủ ô, tuyết liên trên dãy Ngũ Lĩnh nay thuộc Đại Minh và mật gấu rừng Chiêm Thành. Đấy đều là vật đại bổ, nhưng bào chế bằng phương pháp độc môn, sẽ thành kịch độc đáng sợ.

Trước tiên, đôi mắt sẽ dần dần không phân biệt được màu sắc.

Sau đó, cái lưỡi không biết thế nào là đắng cay mặn ngọt, rồi câm luôn.

Thứ ba, mũi ngửi không ra thơm thối.

Thứ tư, xuất hiện tiếng lạ văng vẳng bên tai.

Cuối cùng, da mất hết cảm giác nóng lạnh ngứa ngáy. Độc này không giết người, nhưng thử hỏi một người mà ngũ giác đều rối loạn, sống được bao lâu?? Chỉ sợ sau một hai tháng, là mất hết thú vui trên đời chẳng thiết sống nữa. "

Hồ Nguyên Trừng ho khan, giọng đã nghe nghèn nghẹt. Xem chừng vẫn chưa dám tin vào điều mình vừa nghe.

" Không giết người ta, mà khiến người ta không muốn sống. Không cần tra tấn thể xác, lại hành hạ tâm can. Thứ độc này đúng là ác ôn. "

Chàng lại nhớ đến lúc gặp nhau lần đầu, cô bé Thanh Hằng không phân biệt được màu chiến bào của mình. Đến khi tái ngộ, thì đã hoá câm.

Bà già kia muốn cô bé theo chàng sang đất bắc, phải chăng là nuôi một tia hi vọng mong manh mọi người sẽ gặp được Tuệ Tĩnh thiền sư, cháu bà ta sẽ được ông ra tay cứu chữa?

Lúc hai đứa nhóc tìm đến chỗ họ Lại tính sổ, Lý Bân đã toan chuồn thẳng. Nào ngờ mới ra đến cửa, đã gặp ngay hai cha con Hồ Nguyên Trừng về nhà.

Hai người họ thấy bọn nhóc hành xử khác lạ, nên sinh nghi.

Lý Bân thấy người đến, chột dạ, bèn giở ngay ngón đấm bốc mèo cào chẳng hiểu học ở đâu ra. Kết quả của việc múa rìu qua mắt thợ đã quá rõ ràng.

Hồ Quý Li tống cho một đấm, làm y nổ cả đom đóm mắt, lăn đùng ngã ngửa ra xỉu. Thế nên giờ mới bị nhốt trong phòng củi.

Tạng Cẩu nhìn Phiêu Hương một cái, rồi mới đẩy khẽ cánh cửa, vào phòng.

Thiếu vắng ánh đèn dầu khiến phòng chứa củi càng thêm lạnh lẽo và trống trải. Trên đống rơm gần đó, Lý Bân đang nằm co ro, run cầm cập vì rét. Có thể thấy từng đầu ngón tay đang tím tái lại, hơi thở hoá khói tràn ra khỏi khoé miệng.

Tạng Cẩu bước đến, vỗ một cái vào đầu vai Lý Bân. Y vốn chỉ ngủ được chập chà chập chờn vì rét, nay bị vỗ một cái liền bừng tỉnh. Thấy thằng bé, lập tức nhớ lại chuyện hồi chiều nó in đầu quyền xuống sàn, thế là hoảng hồn lên ba chân bốn cẳng bò lóp ngóp ra góc nhà.

Tạng Cẩu thấy y như vậy, không khỏi nghĩ tới việc ngày trước thầy nó cải trang thành Lý Bân đến thử thách ba đứa, trong lòng lẫn lộn niềm vui nỗi buồn.

Hồ Phiêu Hương thì che miệng cười, nụ cười bị giấu đi bởi bàn tay ấy vẫn thường khiến Tạng Cẩu nổi hết da gà da vịt lên.

Bình

" Lý đại nhân, ngài vẫn khoẻ đấy chứ? "

" Ý... ý mày là gì? "

Lý Bân đáp, lắp bắp. Trông y có vẻ chột dạ.

Y có điều gì không muốn người ta biết ư?

Tạng Cẩu nghĩ thầm. Nhưng nó không chõ mũi vào. Người ta vẫn nói con gái nhạy cảm, cảm tính hơn trong hai giới. Thế nhưng giữa hai đứa, nó lại là đứa hay hành động theo cảm xúc hơn. Đến lạ...

Hồ Phiêu Hương nhún vai:

" Còn phải hỏi sao, hả ngài tướng quân? Ba tên thích khách bay khỏi điện Thái Hoà bằng một thứ kì quặc. Chà. Hình như ngài đây cũng có sở thích chế tạo những thứ tương tự phải không? "

Quả vậy...

Ở trong cung mấy ngày, nhưng chúng nó nghe được không ít tiếng xấu của Lý Bân. Nào là làm cái thứ nước hoa gì đó, khiến cung nữ nổi mẩn ngứa ngáy khắp người. Nào là làm ra cái xà phòng, nghe đâu đun từ mỡ, mùi hôi khắm khú không ngửi nổi.

Thế nên, Hồ Phiêu Hương đoán ngay, cái thứ dù lượn kia cũng là thành quả của hắn.

Mà sự thực cũng gần giống thế...

Có một hôm, " Lý công công " giả tìm đến chỗ Lý Bân, lân la làm quen. Trước là lão tỏ ra coi trọng những sáng chế của gã, chép miệng tỏ vẻ đáng tiếc cho một nhân tài sinh nhầm thời. Rượu được mấy tuần, lão lại kể lể phận làm thái giám cả đời phải ru rú trong cung, chỉ ước rằng giá có một ngày được như cánh chim, bay lượn tự do một lúc thôi cũng mãn nguyện.

Lý Bân tuy là nhiều tính xấu, nhưng cũng được cái nghĩa khí. Thành ra bèn vẽ cho Lý công công một bản vẽ " dù lượn ".

Tất nhiên, khi Lý công công giả đưa bản vẽ đó cho bọn Tửu Thôn, Hổ Hùng Quỷ lập tức phát hiện thứ này căn bản quá sơ sài, hầu như chỉ là một gợi ý. Nếu dựng theo đúng bản vẽ, căn bản là đống rác.

Song hắn cũng chỉ cần đúng một cái gợi ý rất nhỏ đó.

Cuối cùng dù lượn thành hình, tam quỷ vào cung hành thích không thành, đoạn tung mình bay khỏi hoàng cung trước ánh mắt ngỡ ngàng của nhiều người.

Mà Lý Bân, hay tin Lý công công hành thích Vĩnh Lạc thì chân tay rã rời ra vì sợ. Thám thính một ngày thì nghe tin thích khách dám lên thẳng điện Thái Hoà, hành thích Chu Đệ thêm một lần, rồi dùng chính phát minh " của gã " để đào thoát.

Lý Bân càng nghe càng hãi, vội vội vàng vàng tìm cách lẩn khỏi kinh thành lánh nạn, rồi mới báo cho thân nhân ở quê nhà.

Đúng lúc đi ngang qua phủ đệ đổ nát của đám Hồ Nguyên Trừng thì gặp vệ binh túa ra sục sạo thích khách. Có tật giật mình, y bèn chui bừa vào cái phủ đệ không gài cửa nẻo để náu mình một lúc.

Lý Bân thấy Tạng Cẩu bẻ tay rôm rốp, thì khai rằng:

" Ta đi ngang qua đây, thấy chỗ này như vừa bị cướp, bèn đi vào xem có ai thương tích gì không để còn tri hô người ta cứu giúp. Nào ngờ bị kẻ nào đấy ra tay ám toán, bất tỉnh nhân sự. Lúc vừa tỉnh lại thì bị tên quái thai nhà ngươi, chưa kịp đi thì lại gặp hay cha con nhà kia! Đấy! Chuyện chỉ có như vậy thôi! "

Thì ra sau khi đóng màn kịch chém đầu, tranh thủ lúc cả bốn còn ở trong cung, thiền sư Tuệ Tĩnh đã lần về biệt phủ, áp chế chất độc, lại chữa trị cả thương thế bên ngoài cho cô bé Hằng. Thiền sư không biết chuyện hai đứa nhóc giấu mẹ con cô hàng rong trong nhà, chỉ đoán phủ viện gặp cướp nên mới bị đập phá tan hoang như vậy.

Thầy Tuệ Tĩnh bấm đốt tay tính giờ, biết bốn người cũng sắp về đến, bèn ẩn mình trong tối bảo vệ cô bé Thanh Hằng.

Sau đó, Lý Bân chạy đến, khiến ông tưởng rằng đám người xấu kia quay lại, bèn ra tay trấn áp. Thiền sư vốn là người hành y, tính tình ôn hậu, nên chỉ đánh Lý Bân bất tỉnh.

Chờ một lúc, thì nhác thấy bóng hai cha con Hồ Quý Li đằng xa. Thiền sư bèn để lại phương thuốc áp chế độc lực của độc Ngũ Tuyệt, rồi đi mất.

Tất nhiên, bọn Tạng Cẩu thì chưa biết chuyện Chu Đệ chỉ vờ chém thiền sư, thực ra thầy Tuệ Tĩnh vẫn chưa chết. Thành thử, hai đứa có thông minh cách mấy, cũng chỉ đoán được là có cao thủ âm thầm giúp đỡ, chứ không cách nào liên hệ nhân vật thần bí kia với ông thiền sư già hiền hậu.

Rủ nhau ra khỏi phòng chứa củi, hai đứa nhóc ngóc đầu lên nhìn vầng trăng đang khuất dần sau những áng mây.

Hồ Phiêu Hương trông thấy Tạng Cẩu rõ ràng đang có tâm trạng gì, bèn bảo:

" Sao nào, lại nghĩ đến chuyện gì nữa? "

Tạng Cẩu đáp, nhưng giống như tự nói cho mình nghe thì đúng hơn:

" Té ra phương bắc này cũng có anh hùng, cũng có hiệp nghĩa. "

Sau khi trấn áp quần hào ở nhà họ Lại, không thể không nói nó đã hơi có chút coi thường võ lâm phương bắc.

Hồ Phiêu Hương thì lại thở dài, tự trách bản thân.

Nếu không phải hai đứa nó giấu chuyện Trương thị với hai người Hồ Nguyên Trừng, tự mãn cho rằng tự chúng có thể giải quyết ổn thoả, thì chắc sự thể đã khác.

Nếu không phải có cao nhân âm thầm giúp đỡ trong chỗ tối, thì có lẽ cô bé Thanh Hằng đã phải trả giá cho sự bất cẩn của hai đứa nó.

Hồ Phiêu Hương vỗ vai Tạng Cẩu, nói:

" Chúng ta vẫn còn phải học nhiều. "

Hai chúng nó thường chê đứa còn lại là cụ non...

Nhưng lại chẳng đứa nào nhận ra, bản thân mình cũng không thể suy nghĩ giống một đứa trẻ cùng tuổi được nữa.

Chiến tranh bắt những đứa trẻ trưởng thành bằng cách này hay cách khác.

Điều ấy là xấu, là tốt? Lại tuỳ ở mỗi người...

Đông sang...

Tuyết rơi lắc rắc như muối, đậu lên mái nhà thành một lớp dày trắng phau. Trong vườn cây cối trơ trọi, đám cỏ mọc bên lối đi lạnh cứng lại, đội lên lớp tuyết mới phủ, xanh xanh trắng trắng cả một góc sân.

" Tiếp chiêu!! "

Hồ Phiêu Hương hét lên, sau đó nhảy vụt xuống, tay nắm cục tuyết ném mạnh về phía trước. Trời lạnh, khiến hai má cô bé hồng ửng lên.

Tạng Cẩu hụp người né, tay vươn ra chộp nắm tuyết dưới đất, rồi quăng ngược lại. Cục tuyết nén chặt bay đi với thế công sét đánh.

Phiêu Hương nhón gót, nghiêng người một cái. Vạt váy quét lên mặt tuyết một cái, còn cục tuyết của Tạng Cẩu thì rơi cái bộp lên thân cây.

" Chú ơi, chú không chơi nữa à? "

Cô bé Thanh Hằng bưng khay trà, nghiêng đầu hỏi.

Từ sau chuyện hành thích, Lý Bân quyết định ở lại chỗ này với tư cách tân khách của Hồ Nguyên Trừng. Ít nhất mặt ngoài thì là thế. Y vẫn âm thầm nghe ngóng động thái của Chu Đệ từ bấy đến giờ.

Lý Bân ưỡn thẳng ngực, dùng giọng nghiêm túc nói:

" Ba cái trò ném tuyết chỉ đám trẻ con mới ham. Người lớn là phải chơi cái này, vừa tôi rèn sức sáng tạo, vừa luyện sức chịu đựng. Mau! Kiếm hai cái cành cây lại đây, người tuyết mới có tay được. "

Chẳng là hôm trước tuyết xuống nhiều, Lý Bân mới bày cho hai đứa nhóc trò ném tuyết, bụng bảo dạ: [ Võ công chúng mày có thể giỏi đấy, nhưng làm sao biết ngón này? ]

Hồ Nguyên Trừng định can, thì Hồ Quý Li lại lên tiếng:

" Càng tốt. Cho hai đứa nó vừa chơi, vừa luyện khinh công luôn. "

Thế là chỉ cần không đến nửa khắc, hai đứa quỷ sứ đã vờn y như mèo vờn chuột, quay y như trẻ quay dế. Còn lúc chúng nó bắt đầu " luyện ám khí " thì Lý Bân mới biết thế nào là khổ. Y cơ hồ biến thành cái bia cho chúng nó ném, mà ức ở chỗ là chẳng trả đũa nổi cái nào.

Khinh công của cả hai đều hơn y chẳng biết bao nhiêu lần. Y đụng vào chéo áo của chúng được mới lạ.

Sau hai hôm, Lý Bân đâm dỗi, quay ra xây người tuyết.

Hồ Nguyên Trừng vừa thưởng trà, vừa đánh cờ cùng cha. Nhất thời cũng bắt đầu thích ứng với cuộc sống nhàn nhã. Cuộc cờ bao giờ dứt, tuần trà khi nào thôi? Chẳng ai biết rõ.

Cũng chẳng muốn để tâm đến.

" Chu Đệ đáng lẽ có thể kéo quân xông thẳng vào Ngự Thư phòng, tóm gọn cả đám Tạng Cẩu và thiền sư Tuệ Tĩnh, thu lại bản vẽ thuyền Cổ Lâu và pháo Thần Cơ. "

Hồ Quý Li đi một nước cờ.

Quân đen của ông rời rạc, tán loạn khắp bàn, rõ ràng chẳng thành một thế cụ thể nào. Nếu không phải Hồ Nguyên Trừng vẫn biết kì nghệ của cha, chàng sẽ nghĩ mình đang đấu cờ với một người dùng luật chơi Ô Ăn Quan để thả quân.

Hồ Nguyên Trừng đáp:

" Con biết. "

Cuộc chiến ở Đại Việt...

Lại thêm những gì mắt thấy tai nghe trên điện Thái Hoà khiến chàng hiểu rất rõ.

Ném cao thủ võ lâm lên chiến trường chả khác nào bắt chó trèo cây, cho mèo gáy sáng.

Tác dụng lớn nhất của họ là làm kì binh, tức là đi ám sát.

Lại nói...

Cẩm Y Vệ chẳng lẽ lại thiếu cao thủ ư???

Thế thì vì cớ gì, Chu Đệ lại cố tình để mất hai bản vẽ vào tay người Mông Cổ và Bồng Lai???

Đáp án thực ra rất đơn giản.

Bản thân Hồ Nguyên Trừng cũng biết...

Song chàng không nói. Hồ Quý Li cũng chẳng ép con mình. Cả hai đều hiểu, đến lúc Hồ Nguyên Trừng tìm ra cách đối mặt với vấn đề, tự chàng sẽ lên tiếng. Trước giờ vẫn thế. Mấy chục năm qua vẫn vậy.

" Đúng. Con hiểu là tốt. "

Hồ Quý Li đi một nước sau cùng.

Con cờ đặt vào, như vẽ mắt cho rồng. Lập tức, đống cờ lẻ tẻ tan tác trở nên mạch lạc và rành rọt, vây chặt lấy quân trắng của Hồ Nguyên Trừng.

Con cờ trên tay rơi xuống đất...

Chàng đã thua.

Hồ Nguyên Trừng thở dài, đặt quân cờ trên tay xuống bàn nghe cách một cái.

Hồ Quý Li lại nói:

" Chuyện trong thiên hạ cũng như bàn cờ hai ta mới chơi vậy. Có những lúc, những thứ tưởng như rời rạc và đơn giản nhất lại là nhát dao trí mạng nhất...

Quá đơn giản đến nỗi, khiến người đời chẳng thể nhìn ra chúng chỉ là từng nét, từng nét vẽ của một bức họa lớn.

Có những lúc...

Người ta phải nhận ra cặp long nhãn trước cả khi con rồng mở mắt. "

Hồ Nguyên Trừng thở dài:

" Quả vậy. Trước đây, chúng ta đi những thế cờ phức tạp, nước nọ nối nước kia. Nhưng phức tạp cũng có nghĩa là cồng kềnh. Cồng kềnh, thì sẽ lộ sơ hở.

Đơn giản chưa chắc đã là ngu dốt.

Phức tạp không hẳn đã là thông minh.

Đấu với người ngây ngô, dễ nhất là dùng nước cờ phức tạp để thủ thắng. Đánh với kẻ cao cờ, lại phải như cuộc cờ của cha, phải vậy không? "

Họ đang nói về cuộc cờ?

Hay nói về chuyện gì khác nữa??

Chỉ có họ biết với nhau mà thôi.

" Mọi người đều ở nhà cả? Tốt quá. "

Liễu Thăng đẩy cửa, bước vào trong sân.

Tuyết rắc lên giáp vai ánh bạc, đậu xuống mũi đoản thương gác sau lưng. Tuyết lạnh, thép càng lạnh, chỉ có lòng người là ấm áp.

Lý Bân nhác thấy bóng cậu chàng, kêu khẽ một tiếng, sau đó núp vội sau đống tuyết mới đùn lên, chưa kịp đắp thành hình người.

Bép!!

Liễu Thăng đưa tay, gạt một cái. Cục tuyết lạnh cóng bị đánh văng xuống đám cỏ, vỡ tan. Từng nhánh cỏ cứng còng vì rét, bỗng run bắn lên một cái, hệt như người ốm trở cơn ho.

" Này!! "

" Tiếp chiêu! "

Hai đứa nhóc gom tuyết lên, đoạn dùng khinh công lướt nhẹ, khiến cho Liễu Thăng lọt vào khoảng trống ở giữa hai chúng nó.

Liễu Thăng giật mình.

Vị trí ấy chẳng khác nào đứng giữa hai chiến hào đối lập, cung binh nỗ binh của song phương đều đã giương cung căng nỏ.

Vèo! Vèo!

Cậu chàng chỉ kịp gỡ thương, thì hai cục tuyết đã thi nhau phóng ngang mặt.

Pọc. Pọc.

Liễu Thăng dậm chân, tuyết mỏng bắn vụt lên ngang tầm eo. Nói đoạn, tay phải vung ngược thương đâm lên, tay trái xoè thành chưởng vỗ ra. Cả hai cục tuyết đều bị đánh rụng.

Tạng Cẩu đã phi thân tới, tay trái tống ra một chiêu Hàm Chó Vó Ngựa ngay vào mặt Liễu Thăng.

Cốp!!

Liễu Thăng dốc đoản thương, đỡ được cú đánh của thằng nhóc. Nơi nắm đấm giao với cán thương, kình lực thổi quét, đẩy Liễu Thăng dạt về sau gần một thước. Gót chân mài lên lớp tuyết tạo thành hai cái rãnh nông.

Đúng lúc này, Hồ Phiêu Hương nhảy tới một bước, tung chân hất lớp tuyết vào Tạng Cẩu. Tuyết lạnh đập vào mặt, khiến thằng bé tạm thời không mở nổi mắt.

Liễu Thăng đột nhiên xốc ngược ngọn thương, đốc thương vụt từ dưới hất lên, nhắm vào huyệt Phong Thị ở đùi Phiêu Hương.

Hồ Phiêu Hương vung đao, gạt vào thân thương. Lực đạo cương mãnh trên thương của Liễu Thăng bị nhu kình hoá giải, đuôi thương bị dẫn sang bên phải nửa xích.

Đuôi thương hướng về phía Tạng Cẩu.

Liễu Thăng chỉ thấy cán thương hơi trùng xuống, mũi thương ngóc lên phản chiếu sự bất ngờ thoáng qua khoé mắt.

Tạng Cẩu đạp vào đốc thương, tung mình lên không. Hai tay nó vung mạnh, mấy hòn sỏi dưới đất thi nhau rải xuống đầu hai người còn lại. Lần này nó không dùng nội lực, những hòn đá phóng đi với lực đạo rất bình thường.

Hồ Phiêu Hương không kịp tránh, bèn rút đao ra múa tròn, gạt hết đá Tạng Cẩu rải xuống đầu mình. Xong xuôi, lưỡi đao lại dứ ra chém thêm hai nhát về phía Liễu Thăng.

Liễu Thăng gạt hết đá vụn, lại xốc thương đâm sang tiếp đao, gối nhướn lên theo đà lao về phía Tạng Cẩu.

Ba đứa nó cứ đánh qua đánh lại như thế ngót một canh giờ mới ngừng. Trừ Tạng Cẩu có nội lực cao nhất, hai đứa nhóc kia đều mệt lả.

Bấy giờ chúng ngồi dưới gốc cây nghỉ ngơi, cô bé Thanh Hằng đã bưng một cái khay đến, nói:

" Mời cô cậu dùng trà. "

" À... à... cám ơn... "

Liễu Thăng đưa tay đón chén trà, ngón tay hai người đụng nhau một chút. Thế là cậu chàng lúng ta lúng túng suýt nữa thì đổ úp cái chén xuống tuyết.

" Cậu này lạ. Thương nặng thế còn cầm được, mà có chén trà con con cũng lóng nga lóng ngóng. "

Liễu Thăng cúi đầu, song vẫn cứ lấm lét nhìn Thanh Hằng. Hai đứa nhóc ở phía xa được mẻ cười to, bò lăn kềnh cả ra đất.

Hồ Nguyên Trừng lắc đầu, nói:

" Cha xem kìa. Mấy đứa nhóc này giờ lớn nhanh thật đấy. "

Hồ Quý Li gật gù.

Không hiểu vì sao, kể từ khi sang Tàu, Hồ Nguyên Trừng thấy cha mình thanh thản hẳn. Có lẽ, là do không còn bị hai chữ " đế hoàng " đè nặng trên đầu nữa.

Một cái bóng bất ngờ xuất hiện ngay trong sân, tóm lấy đầu vai Tạng Cẩu, sau đó nhảy phốc ra ngoài.

Mọi người ai nấy võ công cũng chỉ tầm tầm, duy có Hồ Quý Li là kịp phản ứng lại. Ông phi thân lên đầu tường, song quyền tống ra nhắm ngay vào các đại huyệt sau lưng đối phương. Kình lực nặng như núi đè sóng vỗ.

Chỉ thấy người nọ xoay đầu, mớ tóc bạc trắng xổ tung xơ xác như rễ tre phủ xuống che một nửa tấm mặt nạ. Y không nói không rằng, bàn tay xoay chuyển, vỗ một chưởng vào đầu quyền của Hồ Quý Li.

Xoạt! Xoạt!

Tức thì, ống tay áo bằng vải của Hồ Quý Li bị xé toạc, trên cánh tay xuất hiện những vết chém dài như bị đao cứa. Ông mất đà rơi xuống chân tường, còn cái bóng đã biến mất khỏi tầm mắt của mọi người.

" Ông ơi! Cẩu! "

Hồ Phiêu Hương chạy vội đến, chỉ thấy Hồ Quý Li đưa tay ra ngăn lại. Máu đỏ nhỏ xuống tuyết từng giọt, từng giọt.

Mất một chốc điều hoà khí huyết, ông mới lên tiếng nổi:

" Kẻ này có võ công cực cao, đi theo chỉ chịu chết. "

" Nhưng... "

Hồ Phiêu Hương định nói gì đó, môi run run nhưng không mở lời được.

Tạng Cẩu hẳn đã bị chân khí của đối phương xuyên phá huyệt Kiên Tỉnh, phong toả huyệt đạo toàn thân.

Cứ theo lẽ thường mà nghĩ, thì hiện tại thằng nhóc ấy phải như ngọn đèn trước gió, lành ít dữ nhiều.

Nhưng khi bình tĩnh rồi, Hồ Phiêu Hương lại nghĩ:

[ Không đúng. Tạng Cẩu có cái gì mà người kia phải bắt? Nó tứ cố vô thân, trên người chẳng có gì đáng giá. Võ công kẻ ấy so với thầy không biết thế nào, nhưng ắt cũng là tông sư một phái. Những người như thế có cái cao ngạo và phong phạm của họ, chẳng làm những chuyện trộm cướp võ công của một thằng nhóc đâu.

Tạm thời không biết kẻ đó bắt Cẩu đi làm gì, nhưng có thể chắc chắn một điều nó sẽ không bị nguy hiểm gì. ]

Đến đoạn này thì cô bé thở ra một hơi dài, đoạn quay sang chỗ Hồ Quý Li.

" Ông! Ông dạy thêm võ công cho con đi ông! "

Hồ Quý Li nói:

" Rồi. Đợi thương thế ông lành hẳn, ông sẽ dạy cho. "

Phiêu Hương hướng ánh mắt ra phía ngoài khoảng tường bao bọc mảnh sân nhỏ, ánh mắt lộ vẻ khẩn trương.

Thành thử, cô bé bỏ qua một tia bối rối thoáng hiện nơi đáy mắt Hồ Quý Li.

Lại nói về nhóm Lê Hổ...

Sau khi đánh bật quân tiên phong của nhà Minh, ba người đã chiếm được đỉnh núi Dục Thuý. Bây giờ chỉ cần chờ đại quân Hậu Trần kéo tới, là hoàn thành nhiệm vụ.

Cô nàng có tài ngự thú tự xưng là Phạm Ngọc Trần, người vùng núi phía tây mới xuống miền xuôi được dăm bữa nửa tháng. Chứng kiến Đinh Lễ đại phát thần uy, chỉ cần một cây côn một con trâu thôi mà giết lính Minh như giết gà, cô nàng không khỏi ngưỡng mộ. Cả ngày trời bám theo Đinh Lễ, hỏi hết chuyện này đến chuyện kia.

Cậu chàng đau đầu nhức óc mãi, song không cách nào dứt được cô nàng ra, lại không thể lên tiếng đuổi đi.

Số là hôm qua, Phạm Ngọc Trần đã nói:

" Tôi sẽ giúp mọi người với một điều kiện. Ấy là sau khi phá được giặc rồi, thì phải dẫn tôi theo. "

Lê Hổ nghĩ thầm:

[ Chắc cô nàng muốn đi chơi, nhưng không rành đường đi lối lại, mới bám theo bọn ta. Chết thật. Không có ngự thú thuật của cô nàng, khó mà phá được giặc. Thôi đành đáp ứng rồi đến đâu thì đến... ]

Chủ công đã đồng ý, điều kiện lại chẳng phải cái gì to tát, cũng không vi phạm đến nhân nghĩa. Thành ra Đinh Lễ thân là gia tướng chỉ có đường chịu trận.

Con Đại Thắng đứng cạnh bụi tre, đầu lúc la lúc lắc, hông uốn éo, luôn mồm ò ọ trêu ngươi chủ. Lê Hổ nhìn con trâu " ngu như bò ", mà chỉ biết nhún vai cười khổ không ngớt.

" Này, Đại Thắng, bao giờ mày thành tinh? "

Cậu chàng đấm vào vai con trâu, biết cú đánh của mình chẳng hề gì so với da dày thịt chắc của nó.

Con trâu cong đuôi, ọ một tiếng dài.

Kị binh tiên phong của nhà Hậu Trần hoả tốc đến núi Dục Thuý vào chiều hôm đó.

Ba người Lê Hổ xuống đón đoàn tiên phong, lại thuật lại chiến sự với vị đầu lĩnh. Nghe ba người kể xong đâu đấy, y bèn bĩu môi:

" Chỉ ba người các ngươi? Đánh tan hai trăm kị binh của Mộc Thạnh? "

Những kị binh còn lại cũng cười phá lên, chê rằng ba người nọ nói khoác không biết ngượng mồm.

" Thiếu niên ham công tiếc lợi, quả thật là rặt một đám thùng rỗng kêu to! "

Rốt cuộc, vị đầu lãnh cũng buông một câu, kèm theo cái nhìn khinh khỉnh.

" Nhà ngươi mới là đồ thùng rỗng kêu to! "

Phạm Ngọc Trần nhao lên, nói thật lớn.

Đinh Lễ thì từ từ gõ côn vào vai, chậm rãi:

" Thùng nó rỗng hay đầy, phải đánh cho nó kêu thì mới biết. "

" À... thằng này láo! "

Đám kị binh trợn mắt quát, khí giới lăm lăm trên tay.

Tên đầu lĩnh giơ tay, ngăn thuộc hạ của mình. Nói rồi, y hé mắt nhìn Lê Hổ, nói nhỏ:

" Quản thuộc hạ cho tốt vào, cậu Kim Ngô tướng quân ạ. Biết câu chó sủa là chó không cắn rồi đấy. "

Đoạn thúc ngựa, phi lên triền núi.

Lê Hổ đánh mắt, ra dấu cho Đinh Lễ ngưng tay. Bằng không với tính khí của Lễ, con ngựa kia không ăn một côn ngang giò mới là lạ.

Đinh Lễ nói:

" Chủ công, cậu việc gì phải ngăn tôi? Cái đám tiểu nhân nhìn người bằng nửa con mắt này cứ phải dạy cho một bài học, không lại rác hàng ngũ nghĩa quân. "

" Đúng vậy! Đồ nhát gan! "

Phạm Ngọc Trần gật đầu tỏ ý đồng tình, lại le lưỡi hòng trêu tức Lê Hổ.

Lê Hổ nói:

" Ba người đánh tan hai trăm quân, người ta tin mới là lạ. Cứ chờ Đặng đại nhân đến đây rồi tính tiếp. "

Còn một điều mà cậu ta không nói.

Trong hàng ngũ quân Trần Ngỗi, không mấy người biết cậu từng cứu Giản Định đế. Lê Hổ áp tải quân lương tới rồi được phong chức ban tước, người ngoài nhìn vào, ắt nghĩ cái danh tướng quân của cậu là do mua bán mà có.

Cậu chàng biết điều này, nên cũng hiểu vì sao tên đầu lĩnh kia gây sự với mình.

Thời gian thấm thoát...

Lúc Giản Định và Đặng Tất dẫn đại binh đến chân núi Dục Thuý, bóng cờ quân Minh đã phấp phới ở bờ sông đối diện.

Đinh Lễ dắt con Đại Thắng đi dọc triền núi, lẳng lặng quan sát ghi nhớ cách song phương dựng luỹ đào hào, bố binh hạ trại.

Bên Hậu Trần chiếm được địa lợi, là phe phòng thủ. Các chiến luỹ đóng dọc theo hai bên bờ sông, nối liền với các rặng tre thành một dải tường thành tự nhiên. Cọc nhọn được đóng ở các phần cạn, đặc biệt là ngã ba sông Vân – Đáy.

Hai quân đều cử một bộ phận ra quấy rối lẫn nhau, thành thử việc xây đắp cũng không lấy làm thuận lợi cho lắm.

Bờ bắc bến Bô Cô...

Mộc Thạnh nhấc một tay đặt lên bả vai, ống tay áo bay phần phật trong cơn gió thổi ngang mặt sông. Mỗi lần trái gió trở trời, vết thương ở mỏm vai cụt lủn lại nhức nhối.

Cánh diều sáo đã bay cao, xác Hồ Đỗ cũng đã vào đất. Song cũng như đám cỏ dại – thứ thảo mộc cứng đầu nhất – người An Nam lại đứng dậy một lần nữa... ở bên kia chiến tuyến.

Lão bước nhanh mấy bước, nhặt cây cung lên, ngón tay gõ lên thân gỗ cong cong. Đoạn dời xuống đoạn dây căng cứng, gảy một cái, như muốn tấu một bản đàn hoà vào ngọn gió trên sông.

Cờ bay phần phật, sóng gầm từng hồi từng hồi. Mộc Thạnh nhặt cây siêu đao của mình, gác lên vai. Ống tên ở eo giờ chỉ là một vật trang trí, không hơn không kém.

Nói rồi như nhớ ra chuyện gì đó, lão lại rảo chân bước về phía hậu phương.

Phía bắc quân doanh có một dãy xe tù.

Lúc nhúc trong xe ngồi mấy chục người, ai nấy mặc áo tù rách rưới, tóc mái xổ xuống che kín nửa khuông mặt. Cổ ai cũng đeo gông nặng, chân ai cũng có cùm cứng.

Ấy đúng là tù binh quân Minh bắt được ở hai trận Tam Giang và Đông Quan.

Thấy Mộc Thạnh đến, lính gác đều hơi cúi đầu chào lão một cái. Duy chỉ có một người vẫn chưa nhận ra sự xuất hiện của Thạnh, cũng như cái im lặng đến bất bình thường của quân doanh. Y hãy còn đang tính xem, một chốc nên xử trí đám người trong xe ra làm sao.

" Này! Lữ Nghị! "

" Ai?? Á! Mộc đại nhân! Tiểu nhân thất lễ. "

Lữ Nghị cúi thấp đầu, tay vẫn nắm chặt chiếc roi da bò.

Mộc Thạnh cau mày.

Người làm tướng, phải có khí độ của người làm tướng, mới có thể phục chúng.

Gần một năm trước Lữ Nghị để người Nam cứu được Trần Ngỗi, vẫn cho đấy là nhục. Danh dự, tôn nghiêm đánh mất hôm ấy, đáng lẽ phải đường đường chính chính tìm lại trên chiến trường. Thế nhưng hôm nay y trút giận lên tù binh, chỉ thể hiện bụng dạ bản thân hẹp hòi.

Song...

Mộc Thạnh không thể làm gì được.

Hai quân giao chiến, sĩ khí làm đầu. Mà muốn sĩ khí bốc cháy rừng rực, theo lão không có cách nào tốt hơn thù hận. Thành ra, lão vẫn cứ nhắc đi nhắc lại mối hoạ nam bang trước ba quân. Mộc Thạnh vẽ ra một tương lai, lúc con rồng phương nam bay cao, cắn ngược lại trung thổ một cái. Lão lại nhấn vào cái chết thảm thương mà thân nhân của các sĩ tốt sẽ phải nếm trải nếu chuyện ấy xảy ra.

Khi người ta sợ cái gì, người ta tấn công tiêu diệt nó. Ấy vốn là tâm lí bình thường của loài người. Suốt chiều dài lịch sử tồn tại của nhân loại, không biết đã có bao nhiêu cuộc chiến đã nổ ra vì nguyên nhân này.

Người ta nói...

Bóp nát hiểm hoạ từ trong trứng nước.

Thế là, toàn quân người nào người nấy đều ít nhiều có ý muốn tiêu diệt quân " phản loạn " phương Nam.

Mà trong quân ngũ, chỉ có Lữ Nghị căm giận quân Đại Việt nhất. Giờ mà Mộc Thạnh ngăn y lại, khác gì dội nước vào than ấm? Chưa ra trận đã tự dập tắt sĩ khí của quân mình trước,

Thành thử...

Mộc Thạnh chỉ có thể hỏi:

" Đám Nam man này cứng cỏi lắm hay sao? "

Lữ Nghị đáp. Mắt hắn sáng rỡ. Rực lên một tia khát máu và bệnh hoạn. Cái nhìn của đao phủ.

" Bẩm tướng quân, quả thực chúng không vừa. Mạt tướng thiết nghĩ sẽ thử đốt vài ngón tay của chúng, xem có cạy nổi họng chúng hay không. "

Nói rồi hắn nhìn đống giẻ nhúng đẫm dầu để trên bàn, cười sặc sụa.

Mộc Thạnh nói:

" Lữ Nghị tướng quân, phải bảo trọng thân thể. Trận chiến với quân của Trần Ngỗi đang tới gần, đừng quá phí tâm phí sức vào đám tù nhân này. "

" Trận chiến ấy sao thiếu phần mạt tướng được??? Tướng quân yên tâm, mạt tướng nhất định sẽ lấy đầu Giản Định, Đặng Tất về như Quan thánh chém Nhan Lương, Văn Xú vậy. "

Lữ Nghị cười gằn.

Hẳn nhiên, hắn vờ như không hiểu lời nhắc khéo của Thạnh.

Kẻ " lương thiện " như hắn sao có thể giết những tù nhân này được kia chứ?

Mộc Thạnh rảo bước đi.

Lúc Lữ Nghị nhắc đến chữ " tay ", mỏm vai cụt của lão lại nhói lên. Một chút hoa lửa tàn nhẫn âm ỉ cháy trong đáy mắt.

Đêm đã rón rén về tới, ôm lấy doanh trại của song phương từ lúc nào. Đuốc hồng rực, thi nhau mọc lên như giá đỗ sau mưa, lấm chấm lấm chấm khắp cả một khúc sông. Bến đò Bô Cô bình thường vắng hơi người, nay lại sinh động hẳn lên.

Mai kia cái nhiệt náo nọ hẳn sẽ chỉ còn tiếng kiếm khua tên bắn hoà trong giọng người thét gào đau đớn. Nhưng chí ít, đêm nay, bóng tối đã quên mang anh bạn tĩnh lặng theo cùng.

Tiếng rên la văng vẳng, tiếng xèo xèo của thịt da cháy trụi cứ chìm dần, chìm dần theo những con sóng vỗ vào hai bên bãi bồi.

Mưa rơi tháng chạp.

Không khí lạnh, quện trong nước mắt rả rích rơi lên vết thương hãy còn đang co quắp từng cơn từng cơn, hệt như dao chém kim đâm.

Phía nam doanh trại...

Trăng mờ náu sau biển mây đen xì. Sấm ì oàng phía xa xa cuối chân trời. Chớp loé, rọi sáng hai bóng người đang đứng đối diện nhau.

Ánh mắt hiện lên dưới màn mưa, sắc bén và quyết liệt. Hai thanh bảo kiếm lăm lăm trên tay, ánh chớp sáng loà cũng bị nước đồng đen tuyền nuốt lấy.

Hoàng Thiên Hoá thu gươm sát má, mũi gươm trỏ về phía đối thủ. Mọi thứ... từ thủ pháp, đến bộ pháp của y đều rất cổ quái. Gươm Xích Ngô đón mưa, kêu lên những tiếng tinh tang.

Đối thủ của y lừ lừ ngóc đầu dậy...

Mái tóc ướt nhẹp dán chặt vào gò má gầy guộc, phủ lên đôi mắt đỏ quặc lên vì sát ý.

Chớp loé!

Gương mặt tiều tuỵ của Hoàng Phúc xuất hiện.

So với lần trước ở sông Vân, lão gầy rộc đi không ít. Xương hai bên gò má nhô ra, lộ rõ hẳn dưới làn da sần sùi những vết nhăn. Y già đi. Già đi trông thấy.

Hoàng Thiên Hoá trầm giọng:

" Bại tướng, muốn phục thù phỏng? "

Hoàng Phúc không đáp.

Y chỉ tuốt kiếm ra, tay phải nắm hờ lấy chuôi kiếm thủ thế.

Mũi kiếm đen bóng trỏ xuống đất, lóc tóc lóc tóc tiếng từng hạt mưa nhỏ xuống nền cỏ.

[ Chả lẽ nào là nó? ]

Hoàng Thiên Hoá nghĩ thầm, nói đoạn tung mình đến trước mặt Hoàng Phúc, nhứ một chiêu gươm.

Ấy là đòn Phi Ngư Xuất Hải.

Phi ngư, hay gọi dân dã là cá chuồn, là loại cá biển kì lạ. Nó có cặp vây ngực rất khoẻ, khi gặp kẻ thù, nó sẽ bay vọt lên khỏi mặt biển để trốn chạy.

Chiêu Phi Ngư Xuất Hải phảng theo cách loài cá chuồn bất thình lình bay vọt khỏi mặt nước. Đường kiếm đâm ra bất ngờ hiểm hóc, nhanh như điện xẹt. Thoạt nhìn tưởng chừng ấy là sát chiêu nguy hiểm trùng trùng, nhưng thực ra lại là cách lấy lui làm tiến dùng trước cướp sau.

Cao thủ đối chiêu, thường sẽ dạo quanh đối thủ trước, chờ khi kẻ địch lộ sơ hở sẽ ra tay tức khắc. Nói ngắn gọn, chẳng ngoài bốn chữ: hậu phát chế nhân.

Nhưng Phi Ngư Xuất Hải vốn là chiêu thức dùng để phá vỡ thế quân bình hai hổ vờn nhau ấy. Nói cách khác, là đòn sinh ra để đấu với cao thủ.

Nó không chỉ là đòn đánh nhứ, mà còn là một chiêu sinh ra để dụ địch phản kích. Xuất thủ, cũng như con rắn phóng người ra mổ, ắt sẽ để lộ sơ hở.

Hoàng Phúc dựng kiếm.

Kiếm pháp của y cũng lăng lệ, cũng ác liệt như ngón ưng trảo của y!

Oooooonnnggggggg.

Hai thanh thần khí va chạm, khiến tiếng kêu thanh thoát bật lên giữa sấm nổ ì oàng. Trong khoảnh khắc, từng hạt mưa xung quanh như cũng rung lên theo tiếng thần binh gào thét.

Hoàng Phúc chủ động lấy kiếm đụng gươm, Hoàng Thiên Hoá không thể không đón chiêu. Lưỡi kiếm của tên Hoàng Phúc cứ đuổi sát, dí cứng lấy Xích Ngô. Thành thử, bao nhiêu biến số còn chưa thi triển của Phi Ngư Xuất Hải bị chặn đứng hết cả!

Phi Ngư Xuất Hải đã cao, nhưng lần này Hoàng Phúc lại còn cao tay hơn một bực. Chỉ mới ra tay, mà đã cướp được thế chủ động.

Hoàng Thiên Hoá rung tay, gươm Xích Ngô vẽ một đường bán nguyệt, đặng đẩy lui kiếm của Hoàng Phúc. Đồng thời, bàn tay phải cũng chém ra một chiêu: Thị Huyết Hung Sa.

Thị huyết, tức là khát máu. Còn sa là con cá mập.

Chỉ thấy thủ đao của Hoàng Thiên Hoá như hoá thành cái miệng há rộng tua tủa răng của loài cá mập. Y liên tiếp vạch ngang, cứa dọc, vồ trái, táp phải. Trong bán kính ba bốn xích chỉ toàn thấy thủ đao tung hoành, tưởng như không gì cản nổi.

Hoàng Phúc cũng buộc phải phân tâm lưỡng dụng, tay phải ngự kiếm, tay trái thì đổi sang ưng trảo công đánh lại Hoàng Thiên Hoá.

Hai bên giao chiến đã đến hồi kịch liệt, người nào người nấy cố gắng tranh thủ từng mẩu lợi thế dù là nhỏ bé nhất.

Chưởng gạt trảo, kiếm bạt gươm, âm thanh thâm trầm của quyền chưởng tranh đấu hoà lẫn vào tiếng va chạm lảnh lót của hai thanh thần binh. Đám cỏ mọc phân cách hai người, không hứng được nổi một giọt mưa.

Mưa rơi...

Hai cao thủ đấu dưới màn mưa cũng đã ngót một ngàn chiêu.

Lần này cả hai đều đã biết đại khái võ lực của nhau, ra tay hoàn toàn không lưu thủ, càng không có chuyện khinh địch. Có bao nhiêu độc chiêu, tuyệt kỹ cũng đã giở ra gần hết, chẳng ai dám giấu nghề. Thế nhưng, song phương cứ gặp chiêu chiết chiêu, gặp thức phá thức, mãi đến tận bây giờ cũng không phân được thắng phụ.

Ooonggg!

Đồng đen ngân nga.

Hai cao thủ lần nữa lao vào nhau!

Lần này...

Cả hai đều quyết định dùng cái chiêu chịu đấm ăn xôi, những tưởng kết thúc thế cuộc bình thủ.

Gươm Xích Ngô dùng hàng răng cưa lách vào tà áo, cứa trúng bả vai của Hoàng Phúc. Nhưng cùng lúc, ưng trảo của Phúc cũng vạch trúng được be sườn của Hoàng Thiên Hoá.

Song phương cùng kêu một tiếng, loạng choạng lui mấy bước.

Mưa rơi lóc tóc...

Hoàng Phúc mặc kệ bả vai đẫm máu, kéo lê thanh kiếm tiến từng bước nặng nề về phía Hoàng Thiên Hoá. Miệng vết thương ở vai hứng nước mưa lạnh buốt, khó chịu vô cùng... nhưng lão dường như không cảm thấy gì.

Trong lòng, Hoàng Phúc bấy giờ chỉ một mực muốn lấy lại danh dự...

Hoàng Thiên Hoá hít sâu một hơi, vẩy thanh Xích Ngô vào màn mưa một cái.

" Sao?? Chưa dùng đến phục binh ư?? "

Hoàng Phúc trầm ngâm nhìn đối thủ.

Rồi...

Lão mấp máy mép. Chòm ria đẫm nước mưa khẽ chuyển động lên lên xuống xuống:

" Ta thừa nhận. Ta không thắng nổi ngươi. Ít nhất, với tư cách là người học võ, không thắng được. Nhưng ta là tướng, và nơi đây là chiến trường. "

Gió lặng.

Sấm cũng không nổ nữa.

Thành thử, Hoàng Thiên Hoá có thể nghe rõ từng tiếng tành tạch của dây cung căng cứng chỉ chực quất vào không khí.

Hoàng Thiên Hoá thở dài, nói:

" Đúng! Lần này ngươi đã thắng. Ta và ngươi cũng coi như là đối thủ cân sức cân tài. Trước lúc lâm chung chỉ xin ngươi giữ cho được toàn thây, mặt mũi nghiêm chỉnh xuống suối vàng nhận tổ nhận tông vậy. "

Hoàng Phúc nói:

" Được! Nể võ công của ngươi, ta chấp thuận. "

Đây là chiến trường.

Hôm nay Hoàng Thiên Hoá đến doanh trại cứu tù binh, thì đã là chuyện giữa hai quân giao tranh chứ chẳng còn là tranh chấp ân oán giang hồ nữa. Thành thử, Hoàng Phúc cũng phải lấy cương vị là tướng mà đối đãi.

Đấu với Hoàng Thiên Hoá ngàn chiêu, là để giải đáp khúc mắc trong lòng. Cũng có thể coi đấy là màn đấu tướng trước khi hai quân túa vào tàn sát lẫn nhau.

Nói đoạn...

Tiếng dây cung đập vào không khí, gãy gọn như tiếng sấm.

Mũi tên sáng lóa rời dây xé rách màn mưa, đâm thủng giáp ngực, cắm xuyên vào ngực trái Hoàng Thiên Hóa.

Người ngã xuống, gươm Xích Ngô văng vào dòng nước sông Vân lạnh căm căm. Trước ngực, đuôi mũi tên vẫn rung rinh mãi không dứt, hệt như quả chuông nguyện hồn lắt lay theo cơn gió âm u. Hoàng Thiên Hóa ôm chặt lấy vết thương, máu đỏ rỉ ra qua từng kẻ tay. Y mấp máy môi, như thể muốn nói điều gì, nhưng chỉ có hơi thở lắt lay thoát ra chứ không thành tiếng. Một lúc sau, thì đồng tử dãn hẳn, người cũng thở hắt ra một hơi dài...

Mưa vẫn rơi...

Nhưng người đã nằm lại.

Hoàng Phúc cất cung, cẩn trọng đến gần thi thể Hoàng Thiên Hóa.

" Tim đã ngừng. Mạch bất động. Cũng không thấy thở nữa. "

Y quệt lấy máu ở kẽ tay đảo chủ đảo Bạch Long, đưa lên ngửi. Mùi tanh của máu xông vào choán đầy hai khoang mũi, khiến tóc gáy lão hơi hơi dựng lên.

" Y đã chết rồi! Thu quân! "

Đoàn người lục tục kéo nhau đi khuất vào trong màn mưa dày đặc. Thỉnh thoảng, vẫn có tiếng xì xào to nhỏ về một lão hòa thượng mới bị bắt hồi nãy, lúc Hoàng Phúc tướng quân giao thủ với kẻ thần bí người An Nam.

Chuyện có cao thủ võ lâm đến tìm cách cứu viện, ý đồ phóng thích tù nhân vốn chỉ là chuyện hiển nhiên trong lúc hai quân giao chiến. Lần trước đại chiến với quân nhà Hồ, Mộc Thạnh cũng đã nếm thử, thành ra cũng không lấy gì làm lạ. Lão chỉ coi việc hôm ấy là như một giọt nước nhỏ xuống đại dương, so với những cuộc du kích hàng ngày của quân Đại Việt còn vô nghĩa hơn nhiều.

Thế là, lão gọi hết tướng tá lại, bàn bạc xem phải vượt qua bến Bô Cô bằng cách nào để thương vong ít nhất. Hoàng Phúc cũng chẳng ngoại lệ

Chủ tướng chẳng buồn hỏi, sĩ tốt cũng không có ý đi mua việc vào người. Thế là cái xác của Hoàng Thiên Hóa bị vứt chỏng chơ ở bên sông, không ai thu dọn.

Lạ một chỗ, là sau khi bị bắt, Khiếu Hóa Tăng cứ ngồi im ru trong xe tù. Hoàng Phúc biết lão là kẻ máu mặt trong giới võ lâm, vẫn muốn giết quách đi. Song... y ngoại trừ là tướng, còn là một tên võ si. Lúc hạ quyết định, lại tiếc trận đánh dang dở hồi đó. Thành thử, y lấy khóa bằng huyền thiết cùm tay Khiếu Hóa, lại dùng châm huyền thiết khóa cứng xương tì bà của ông.

Khiếu Hóa Tăng tạm thời bị phong bế nội công, nhưng xem chừng vẫn còn nhởn nhơ lắm. Đến bữa thì mở mắt đòi ăn, xong lại khép mi tĩnh tọa chẳng khác nào tượng gỗ. Nếu không phải thỉnh thoảng lão phát ra tiếng ngáy, người ta còn tưởng lão đã chết rồi.

Trước hôm khai chiến một ngày, một người quen có đến gặp Khiếu Hoá Tăng.

" Trần Triệu Cơ? Ngươi đến đây làm gì? "

Lữ Nghị nhíu mày, giọng tỏ rõ vẻ hồ nghi.

Kẻ phản chủ cầu vinh, bán đứng bạn bè, đi đâu cũng chẳng thể ngóc nổi cái đầu lên làm người. Đừng nói là Lữ Nghị vốn căm ghét người Nam, đến tên lính lác tầm thường trong quân ngũ Đại Minh cũng chẳng ngửi nổi nhân cách những tên hàng tướng như vậy. Thường là họ tránh giao du, không thì cũng hết sức đề phòng.

Trần Triệu Cơ nói:

" Chẳng dám giấu tướng quân. Ta được lệnh của hầu gia, đến đây khuyên hàng tra khảo lão ta. "

" Cứ làm... "

Lữ Nghị cười khinh khỉnh, đáp.

Lão sư già như kẻ ngố, cứng mềm đều không ăn, dụ dỗ đe doạ lão đều không để vào mắt. Lữ Nghị không tin tưởng dù chỉ một chút rằng Trần Triệu Cơ có thể lung lay lão.

Quả nhiên, mặc cho Triệu Cơ nói ngả nói nghiêng ra sao, lão Khiếu Hoá Tăng vẫn cứ nhắm tịt mắt trơ trơ ra đấy.

Rốt cuộc, Lữ Nghị nghe thấy tiếng Triệu Cơ quát lớn:

" Cái đồ không biết phải trái! "

Đoạn có thanh âm kim loại va chạm cao vút lên, tổng cộng bốn lần liền.

Kế, chỉ thấy Trần Triệu Cơ bước ra, cằn nhằn:

" Tên này quả thực cứng cựa, nói mãi không chịu nghe. Thành ra ta mới tức mình chém cho bốn kiếm vào cũi sắt. Chi bằng sau trận chiến, chém quách nó đi cho rảnh nợ. "

Lữ Nghị cười khẩy, từ chối cho ý kiến.

Ngày khai chiến...

Mặt sông từ lúc nào đã đậu đầy chiến thuyền của quân Minh, xuôi từ thượng nguồn sông Đáy xuống. Dưới bóng tinh kì phấp phới phản chiếu nơi mặt sông là cơ man không biết bao nhiêu chiếc thuyền con mà đếm xuể. Chúng vây lấy các chiến thuyền lớn, như cách sao trời vây lấy ông trăng vậy. Ấy vốn là thứ thuyền dùng đánh giáp lá cà trên mặt nước. Mộc Thạnh biết người Nam giỏi thủy chiến, ba lần thất bại ê chề thời Nam Hán, Tống, Nguyên hãy còn ở trước mắt.

Về phía quân Hậu Trần, thuyền chiến cũng đã kịp tải khí cụ thủ thành dọc theo sông Vân đến nơi. Đặng Tất cho quân sắp xếp lượng lớn hỏa lực vào mặt bắc núi Dục Thúy, dọc theo triền núi, dựa vào sự che chắn của lũy tre để ẩn mình. Một lát nữa, khi hai quân giao chiến, sẽ dựa vào yếu tố độ cao chiếm lĩnh ưu thế.

Trống trận gióng thùng thùng, rơi xuống dòng sông rồi dội ngược lên tận đỉnh núi Dục Thuý cao chót vót.

Mộc Thạnh đứng bên bến đò, nheo mắt nhìn phía xa.

Phía tây, cửa sông nơi sông Vân giáp ranh với sông Đáy, thấp thoáng dưới những lớp sóng thét gào là bóng từng lớp từng lớp cọc nhọn cắm chi chít ở đáy sông. Gió thổi áo bào tung bay theo tay áo. Tay lão nắm chắc cây siêu đao, trong lòng không khỏi cảm thấy hừng hực, ngay cả khi đôi môi khô nẻ chưa thấm men cay.

Trên núi Dục Thúy, Đặng Tất tự mình đi đến đốc thúc pháo binh.

Ông biết, Mộc Thạnh chẳng phải kẻ tầm thường.

[ Lão chắc chắn sẽ đợi lúc thủy triều lên rồi mới tấn công, lúc ấy bãi cọc sẽ vô dụng. ]

Theo lẽ thường, chẳng ai làm tướng mà lại ngu ngốc đi tấn công vào lúc này, nhất là khi thủy triều đang đà rút, đầu cọc đã thấp thoáng ẩn hiện giữa từng con sóng.

Song...

Trống trận bắt đầu vang động.

Đặng Tất giật mình, nheo mắt nhìn về phía sông Đáy.

Chỉ thấy những thuyền chiến lớn của quân Minh đã bắt đầu lắc mình, rẽ nước tiến về phía bờ bắc núi Dục Thúy.

Mộc Thạnh xua quân ra trận ngay trong lúc nước triều đang rút xuống.

" Chuyện này... "

Đặng Tất tỏ vẻ hồ nghi. Hiển nhiên, Mộc Thạnh chẳng ngốc đến nỗi nghĩ rằng cái trò giả vờ thô kệch lỗ mãng của lão sẽ hiệu quả thêm lần nữa. Thế thì tại sao lão lại làm cái chuyện chẳng khác nào tế sống đại quân như thế?

Thắc mắc thì thắc mắc thật, nhưng chẳng còn thời gian để mà nghĩ nhiều. Bởi... thuyền chiến của quân Minh đã lọt vào tầm pháo.

" Khai Hỏa!!! "

Đặng Tất vung tay, quát to ra hiệu. Tức thì trên sườn núi, tiếng giáo mác gõ lên thân tre lóc cóc vang lên liên hồi, âm vang ngâm nga chẳng khác nào trống trận. Lá tre lác đác rơi nghiêng, đậu lên nòng pháo lạnh buốt.

Đoàngggg!!!

Tiếng gầm đầu tiên, kéo theo một loạt những tiếng rít gào khác của dàn hỏa pháo. Đạn sắt to và nặng hàng chục cân, từng viên từng viên một xé tung lũy tre xanh rì, giáng mạnh xuống mặt nước bên dưới. Chỉ nghe ùm ào một trận dài, nước sông bắn tung lên thành từng hàng cột nước, có những cái cao cả trượng.

Sông Đáy sủi bọt, chỗ trắng chỗ đỏ.

Quân của Thạnh cũng nâng họng pháo, bắn trả vào lũy tre dày mọc chi chít trên núi.

Cái thứ cỏ kì lạ ấy, oằn mình dưới sức nặng của viên đạn pháo, nhưng không chịu tan tác. Cây nọ gối lên cây kia, đỡ cho nhau. Trong khi đó, tốp pháo thứ hai của quân Hậu Trần cũng khạc ra những viên đạn đầu tiên.

Nhưng rồi tốp thứ hai cũng bắn xong.

Pháo muốn gầm tiếp, giờ lại phải nhờ những bàn tay gân guốc nhễ nhại mồ hôi làm việc không ngơi.

Mộc Thạnh thì chỉ đợi lúc này phát lệnh, để quân lính trèo khỏe gấp hai, gấp ba bình thường. Thuyền chiến của quân Minh sống sót qua dàn hỏa pháo đầu tiên, băng băng tiến về phía bờ bắc của núi Thúy. Đặng Tất thấy vậy, một mặt thì cho quân chỉnh lại họng pháo, mặt khác lại ra hiệu cho cung thủ.

Thuyền địch đã vào tầm bắn.

Nỏ cứng đã kéo căng, lúc này nhất tề phát xạ.

Pâng! Pâng!

Trong một khoảnh khắc ngắn, bầu trời trên sông Đáy bị bao phủ bởi một đám mây đen đặc. Tên tre, tên sắt thi nhau dội lên đoàn thuyền chiến. Trong đó không thiếu những cây mâu sắt dài cả mấy xích được bắn bằng nỏ công thành.

Mộc Thạnh cũng đã liệu trước. Một mặt thì lão ta cho quân giơ khiên lên đỡ tên, mặt khác thì gọi cung thủ kéo lên bắn trả. Những mũi tên tẩm dầu, cháy rừng rực thi nhau thắp sáng khoảng không trước mắt quân lính Hậu Trần.

" Cứu hỏa! "

Quân Trần, vừa thấy lửa từ mũi tên lẹm vào đám cỏ, là lấy nào đất nào cát lấp kín dập tắt ngay, không để lửa lan rộng hơn. Có thể thấy, chỉ thị của Đặng Tất được truyền lưu và chấp hành trong tam quân một cách nhanh chóng và trơn tru đến như thế nào. Đừng nói là chỉ dùng cờ hiệu bình thường, cho dù có lấy bộ đàm hiện đại ra, cũng chưa chắc hoàn thành nổi.

Bấy giờ, Lê Hổ được phân cho một đám lính vừa già vừa yếu, một mình thủ một góc hẻo lánh phía đông.

Thì ra ở phía Đông núi Dục Thúy cũng có một nhánh cửa sông, cách chiến trường chính một quãng cỡ mười dặm đường.

Trần Ngỗi thì một mực cho rằng, Mộc Thạnh sẽ không kéo quân đánh úp từ mặt đông qua. Đặng Tất cũng thấy chuyện đó hơi vô lí, nhưng xuất phát từ việc cẩn trọng, thế nên phái Đinh Lễ - Lê Hổ dẫn theo một cánh quân đến đó canh chừng. Cả hai đều không ngờ, tướng lãnh dưới trướng vì ganh ghét chức Kim Ngô tướng quân của Hổ, nên xếp cho cậu toàn lính già yếu, đa phần là người của ngôi làng hẻo lánh nọ.

Chúng nghĩ, quân Minh chắc chắn sẽ không đánh mặt đông đâu.

Đinh Lễ gặp chuyện này thì bực mình ghê gớm lắm. Cậu chàng nằm khểnh trên lưng con Đại Thắng, chân vắt chữ ngũ, mồm ngậm nhánh cỏ, trong họng hãy còn ngâm nga một giai điệu không tên.

Về phần Lê Hổ, cậu chàng tranh thủ cơ hội này ngồi quan sát hết thảy chiến cuộc, xem thử có đúng với những gì binh pháp vẫn chép hay không.

[ Ồ, lạ thật. ]

Lê Hổ phát hiện, quân Hậu Trần mặc dù ô hợp hơn, nhưng vận hành sách lược, thực thi mệnh lệnh được giao lại trơn tru hơn hẳn. Chẳng phải vô lí ư?

Thực ra... hoàn toàn khả thi.

Đặng Tất chia quân thành từng nhóm nhỏ, cứ một binh lính tinh nhuệ cũ của ông ở Hóa Châu sẽ cầm đầu chín người thuộc các cánh nghĩa quân. Mỗi khi ông phất cờ lệnh ra hiệu, thì những người này có nhiệm vụ nhìn và thực hiện mệnh lệnh được giao. Chín người còn lại chỉ việc nhìn theo và bắt chước.

Thành thử mới có cái chuyện ngược đời kia.

Bấy giờ thì Mộc Thạnh đã giúp thuyền chiến của lão vượt qua năm đợt pháo kích, mấy chục trận mưa tên lớn nhỏ. Mà quân Hậu Trần, được Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân dẫn dắt, cũng sống sót qua bảy lần công phá của chiến thuyền. Quân Hậu Trần có lợi thế độ cao đấy, nhưng đại pháo đặt trên núi chung quy là tĩnh, còn thuyền trên sông là động. Tức là, Mộc Thạnh chiếm thiên thời, Đặng Tất nắm địa lợi. Kết cục sẽ ngả về bên nào, thực tình khó mà đoán trước.

Hai quân đã giao tranh hơn nửa ngày, thủy triều bắt đầu dâng lên.

Cũng đồng nghĩa, thời cơ mà Mộc Thạnh còn thiếu để tấn công một đòn toàn lực đã đến.

Đặng Tất thấy vậy, không thể không xua thủy quân ra đánh. Nháy mắt, vô số thuyền con đậu ở cửa sông Vân – Đáy nhất tề trút bỏ lớp ngụy trang từ lau sậy và đất cát, đồng loạt lao về phía chiến thuyền của quân Minh.

Mộc Thạnh không có vẻ gì là bất ngờ, thuyền độc mộc của quân Minh cũng chèo ra nghênh chiến.

Luận về thủy chiến, người Đại Minh thua xa người Đại Việt. Nhưng quân Minh hơn ở số lượng, lại cậy ở gần chiến thuyền, thế nên đánh hăng hơn hẳn. Thuyền nhỏ của quân Hậu Trần chống trả ngoan cường, song trước chiến thuật lấy thịt đè người của thuyền lớn địch, cũng phải núng thế.

Quần nhau thêm mấy canh giờ, cánh thủy quân phục ở cửa tây buộc phải rút về.

Mộc Thạnh biết đây là cơ hội hiếm có, bèn cho nổi trống lớn, dốc toàn lực tấn công bờ bắc núi Dục Thúy. Được sự yểm hộ của hỏa lực dồn dập, chiếc thuyền con đầu tiên của quân Minh rốt cuộc cũng chạm được mũi vào chiến lũy đắp bằng đất của quân Trần. Chỉ cần húc đổ được bức tường đất này, là sẽ có chỗ để đổ bộ.

Thuyền lớn không dám tiến vào sâu hơn vì bãi cọc còn đó, nên chỉ có thể ở cách bờ một quãng độ mấy trượng.

Quân Hậu Trần ở sau những bức lũy đất bắt đầu vùng lên, lấy đá lấy cây lẳng vào đầu quân Minh. Cùng lúc ấy, Đặng Tất và quân sĩ chỉnh thấp được họng pháo. Thế là, ông cho pháo toàn lực nã đạn xuống chiến thuyền của địch.

Mộc Thạnh một mặt vẫn phản bắn phá chiến lũy yểm hộ quân của mình, mặt khác cũng phải cho tàu ổn định lại sau mỗi lần mặt nước bên cạnh trúng phải đạn pháo.

Tiếng xương người gãy rụp trong giáp trụ vụn vỡ luẩn quẩn trong âm thanh rầm rầm của đá lăn, gỗ nện, của sóng nước vỡ tung dưới từng viên đạn pháo, của tre ngà đổ rụp trươc đạn của ngoại xâm.

Rốt cuộc, thủy triều cũng đến lúc phải xuống.

Thuyền con của Quân Minh sợ lúc bãi cọc nhô lên sẽ sa lầy, tiến thoái lưỡng nan, thế nên cả bọn hò nhau chèo thuyền ngược ra giữa sông hội họp với thuyền lớn.

Hai bên tiếp tục giằng co, tranh giành từng tấc chiến thuỷ. Nước sông cuộn trào, sục lên toàn những bọt máu đỏ lòm.

Cuồn cuộn chảy...

Vậy là thuỷ quân Đại Minh đã giao chiến với quân Hậu Trần được một ngày đêm.

Sáng sớm. Phía đông, cách chiến trường chính mười dặm.

Đinh Lễ ngồi thẳng người trên con Đại Thắng, đoạn lấy cây côn sắt ra thủ thế.

" Địch đến! "

Lê Hổ nhìn những người lính dưới trướng mà lòng trùng hẳn xuống. Chẳng những ô hợp mỗi người đến từ một toán nghĩa binh khác nhau, trong quân người thì già kẻ lại yếu. Có cả những ông bác đầu đã hai thứ tóc, tuổi tráng niên đã qua đi từ lâu.

Xa xa, quân Minh võ trang cẩn thận, gươm giáo chỉnh tề, hành quân ngay hàng thẳng lối, quy củ rõ ràng. Chỉ riêng việc ấy thôi là đủ thấy sự chênh lệch giữa hai bên là lớn đến mức nào.

Lê Hổ cắn môi, nghĩ thầm:

[ Mộc Thạnh cho quân đánh thọc từ phía đông sang, chắc chắn là quân tinh nhuệ. Là mình mình cũng sẽ làm như thế thôi. Làm sao mà cản địch đây? ]

Quân số của Lê Hổ đã ít, chất lại còn kém xa. Đừng nói là đánh lui, cầm cự được một canh giờ cũng đã khó lắm rồi.

Đến Đinh Lễ không sợ trời chẳng sợ đất cũng đổ mồ hôi.

" Chiến thì tôi chẳng sợ, nhưng chết vô ích như thế thực là chẳng đáng tí nào. Chủ công, có cách nào không? "

Lê Hổ lắc đầu, thở dài:

" Đối phương không cưỡi ngựa, ngự thú thuật của Phạm Ngọc Trần có thần kì hơn cũng vô ích. Dựa vào mình chúng ta, không đấu nổi. "

Đinh Lễ nắm chặt sừng trâu, chặc lưỡi một cái.

Bản thân cậu cũng thừa biết điều đó.

Lê Hổ lại tiếp:

" Đinh Lễ, cậu có Đại Thắng Thần Ngưu đi được ngàn dặm. Hãy mau mau về núi Thuý, xin Đặng đại nhân chi viện. "

Đinh Lễ gạt phắt, nói:

" Không được! Nếu chủ công mà có mệnh hệ gì, tôi phải ăn nói sao với bà lớn? "

" Ở lại cũng chỉ chết cả đám! Cậu cũng biết mà!! "

Lê Hổ quát lớn, tay lại đặt lên vai Đinh Lễ, vỗ mấy cái ra chiều trấn an.

Nói đoạn, cậu chàng cười khì, bảo:

" Yên tâm đi! Vừa đánh vừa lui, cầm chân thì chắc tôi làm được. Mạng tôi cứng lắm. "

Đinh Lễ nói:

" Nếu thế, chủ công dùng Đại Thắng mà đi, tôi ở đây chống giặc... "

Lê Hổ hít sâu một hơi, đang định nói gì đó, thì chợt sau lưng có tiếng nói:

" Ai ở lại mà chẳng được! Hai người cứ ở đó lải nhải, lề mà lề mề!, quân địch đánh đến thì chết cả đám! "

Người xen vào là Phạm Ngọc Trần.

Lê Hổ lúc này mới sực nhớ ra cô nàng. Cậu đang định lên tiếng bảo Đinh Lễ chở cả cô về hậu phương, thì Phạm Ngọc Trần đã nói:

" Huống hồ, có tôi đây, chúng không làm gì được chủ công của cậu đâu. "

Đinh Lễ ngẫm kỹ lại, nhận ra mình đi sớm chút nào, Lê Hổ sẽ đỡ phải cầm cự chút ấy. Mà chiến trường hiểm ác, đôi khi một hoặc hai giây, cũng có thể là lạch trời ngăn cách giữa sự sống và cái chết. Nghĩ thông, cậu bèn giật cương con Đại Thắng. Trâu trắng lồng lên, sau đó hóa thành một cái bóng trắng lao vút về phương tây. Chỉ có lời nói của Đinh Lễ là còn vọng lại:

" Chăm sóc chủ công của tôi! "

Lê Hổ quay lưng, nắm chặt thanh đao, nhìn xuống ba quân mà nói:

" Tôi biết mọi người vẫn coi tôi là kẻ bất tài vô dụng, dùng thủ đoạn đút lót đưa tiền, mua quan bán tước. Mọi người không muốn nghe theo lệnh tôi, hẳn cũng là lẽ thường. Nhưng giặc bắc đang ở trước đầu mũi đao, ngoại xâm đã đến ngay tầm tên bắn. Thế nên, xin mọi người hãy tin tôi một lần! "

Lại có người lớn tiếng hỏi ngược:

" Nhà ngươi đã tự nhận mình bất tài vô dụng, phải dùng mấy đồng tiền thối mà tiến thân. Thử hỏi tại sao chúng ta phải nghe lời ngươi, mà không tự mình nghĩ cách phá giặc? Có khi cửa sống còn rộng hơn! "

Lê Hổ từ tốn:

" Lần này địch đông ta ít, giặc lại dày dạn trận mạc, kinh nghiệm phong phú. Nếu anh hùng có sách lược nào đối kháng nổi, tôi xin rửa tai lắng nghe. "

Toàn quân chìm vào im lặng.

Địch thủ chẳng những đông hơn, lại còn tinh nhuệ thiện chiến, thạo chuyện binh lửa, hay nghiệp gươm đao. Nhìn lại phía ta, toàn là nghĩa binh tự phát, đã vậy còn kiếm cung vụng về, ngoại trừ một bầu máu nóng ra thì chẳng có gì hết.

Làm sao mà thắng nổi?

Phạm Ngọc Trần chắp tay sau lưng, bước hai bước, cười khì:

" Không nhìn ra ngươi lại là kẻ gan lớn bằng trời đấy. "

Lưng Lê Hổ quay về phía cô nàng, thành thử Phạm Ngọc Trần chẳng thể thấy nổi nét cười chua chát của cậu chàng.

Bi kịch sẽ lặp lại lần nữa?

Lê Hổ hít sâu một hơi, chậm rãi:

" Trận này xem ra phải nhờ cô. "

Giờ nói lại chuyện của đám Tạng Cẩu.

Tính đến giờ, nó sang Tàu cũng đã được hơn một năm. Thế mà tung tích của thiền sư Nguyễn Minh Không vẫn chẳng có gì hơn bốn câu thơ thiền sư Tuệ Tĩnh để lại.

Bấy giờ năm cũ cũng sắp hết, năm mới đã sắp sang.

Không khí tân niên thì đã kịp lan khắp các phố to, phố nhỏ của thành Kim Lăng hoa lệ. Phủ Tần Hoài, vốn gần dòng sông nổi tiếng lắm giai nhân tài tử, lại càng nhiệt náo hơn. Từ hàng quán ven đường đến tửu lâu bề thế, từ nhà dân ọp ẹp đến phủ viện cao sang đều khoác lên một màu hồng đỏ ấm áp. Đèn lồng lấp lánh, tiếng pháo ì ùng.

Hồ Phiêu Hương đứng trên đầu tường, tuyết nặng phủ đầy lên chóp ô, song cô bé cũng chẳng buồn phủi. Đôi mắt long lanh như ngọc lặng yên quan sát khung cảnh phố xá lúc xuân sang mà tưởng như, ngồi ngay bên cạnh, là một đứa nhóc con... Tuyết sẽ phủ kín lấy vai áo nó, lấy đỉnh đầu. Thế rồi nó sẽ rung cả người, cả mái tóc lòa xòa như cái tổ quạ, như con chó mắc mưa vậy.

Và sau cùng, thằng bé ấy kiểu gì cũng sẽ thở ra một câu gì đó sâu xa, hệt như ông cụ non.

" Có lẽ, Tạng Cẩu sẽ nói thành Kim Lăng phồn hoa và cái thôn Điếu Ngư nhỏ bé của nó thế mà có không ít điểm chung... "

Tạng Cẩu bị bắt đi đến nay đã gần năm trời.

Tung tích của nó cũng giống như manh mối về thiền sư Nguyễn Minh Không vậy.

Một năm đã trôi qua...

Chuyện Tửu Lâu xách đao lên điện Thái Hoà toan chém Vĩnh Lạc đã chìm hẳn vào quá khứ. Cáo thị truy nã vẫn dán đầy đường, nhưng tiếng chân sục sạo của binh lính đã ngớt hẳn.

Sau khi Tạng Cẩu mất dạng cỡ hai tháng, Lý Bân cũng ra làm quan trở lại, không cáo bệnh ở nhà nghe ngóng nữa.

Lạ một cái, là Chu Đệ vẫn cứ để y nhởn nhơ... ngay cả khi miệng lưỡi quan trường đều đổ dồn mũi nhọn vào phía y.

Vĩnh Lạc nghĩ gì, cũng không ai biết.

Pâng!

Tiếng gió rít sau lưng, khiến Hồ Phiêu Hương cũng động thân. Chân trái cô bé co lên, nhìn không khác gì bộ pháp thủ thế của hạc hình quyền. Chỉ nghe chóc một cái, viên sỏi tròn nảy bật lên khỏi mái ngói, văng tận xuống con hẻm vắng người.

Tránh xong chiêu bất ngờ, nhưng Hồ Phiêu Hương không hề buông lỏng. Trái lại, cô bé lập tức chuyển eo, nửa người trên đổ ra trước, cái chân đang co cũng hất ngược lên không. Chẳng biết từ lúc nào, đao Lĩnh Nam đã nằm ở trong bàn tay của Phiêu Hương. Mượn đà chuyển mình, cô bé vạch luôn ra một đao.

Đấy lại là một quái chiêu khác của đao pháp tổ truyền Hồ Quý Li từng dạy, tên là Hồi Quang Phản Chiếu.

Một trong ba đao chiêu khó luyện nhất.

Trước đây, cô bé chưa từng làm được. Nhưng kể từ sau khi Tạng Cẩu bị bắt, Hồ Phiêu Hương dụng tâm luyện công hơn hẳn. Thế là chỉ sau hai tháng, chẳng những căn cơ nội công vững chắc, quái chiêu cũng đã có mấy phần hỏa hầu. Lại dành mấy tháng khổ luyện, đến nay đã có thể sử dụng tự nhiên.

Thủ pháp quăng viên sỏi về phía cô, chính là thủ pháp bắn Quỷ Diện Phi Châu.

Trên đời này chỉ còn lại hai người biết dùng. Một trong số đó chính là người mà Quận Gió đã gửi gắm hai đứa – Ứng Long Nguyễn Phi Khanh.

" Bác Khanh, bác có thử võ công của con cũng không nên nương tay đến th... "

Cô bé không thể nói hết câu. Cũng chẳng kịp nghĩ cái gì nữa.

Âm thanh êm ái chẳng khác nào tiếng ngọc như gặp gió lạnh, đông thành đá, rơi nghiêng xuống lớp tuyết dịu êm lạnh buốt.

Chỉ thấy, ở cuối con đường trải đá, hiện lên một thằng nhóc trong cái áo tơi to xù xụ dài chấm đất. Bàn tay vươn ra phóng viên sỏi vẫn còn chưa kịp thu lại.

Thằng nhóc ngẩng đầu, ánh mắt dưới bóng nón tre vừa sáng vừa sắc:

" Ô! Hơn một năm không gặp, Hương tiến bộ hơn trước nhiều. "

" Cẩu??? "

Thằng nhóc quẹt ngón tay qua mũi, khụt khịt:

" Chẳng tớ thì ai? Ma chắc? "

Nó nói dứt câu, thì Hồ Phiêu Hương đã lướt đến ngay trước mặt nó. Bóng người phiêu phiêu đãng đãng nhẹ nhàng như mây, thân pháp uyển chuyển phiêu hốt tựa cánh én. Vạt áo lòa xòa tung bay theo sau, trông như ngọc nữ đạp ngang qua tuyết trắng.

Hai đứa nhóc đứng trước mặt nhau.

Hồ Phiêu Hương hơi kiễng lên, tay đặt lên đầu Tạng Cẩu, rồi đưa về phía mình. Ngón cái cô nhóc chạm trúng vầng trán thanh tú.

" Cẩu lùn đi nhiều thế? "

" Lùn đi là thế nào? Hương cao hơn thì có. "

Tạng Cẩu nói.

Tính ra, nó thua Phiêu Hương khoảng năm tháng. Thế mà lúc nào cũng lùn hơn một khúc.

Nó vẫn lấy làm khó chịu, không hiểu vì sao cùng là trẻ con, tuổi sàn sàn nhau mà Phiêu Hương lại cao lên nhanh hơn, nó đuổi mãi cũng không kịp. Thỉnh thoảng thằng nhỏ còn trộm nghĩ, rằng cứ cái đà này, đến năm chúng nó lớn, thì nó lùn hơn Phiêu Hương cả xích mất.

Hồ Phiêu Hương quay ngoắt đi, hỏi:

" Sao không đi luôn đi, về làm gì nữa? "

Cô bé thì lại phát hiện...

Hô hấp của Tạng Cẩu ngày càng dài, thời gian giữa hai lần hít thở cũng càng ngày càng dãn ra.

Võ công cô bé tiến bộ, thì thằng nhỏ cũng chẳng dậm chân tại chỗ.

[ Cứ thế này không được! Mình thể nào cũng bị Cẩu bỏ xa cho xem! ]

Chẳng biết tự lúc nào, hai đứa nó đã sinh ra thói quen ganh đua với nhau, từ chiều cao đến võ công. Theo đó, cũng tự nhiên mà coi đứa kia là một phần của tương lai lúc lớn.

Tạng Cẩu nói:

" Đói nên mò về có được không? "

" Đúng là cái đồ chó con. Đi theo tớ. Xem thử trong bếp có gì ăn không. "

Tạng Cẩu cười khì, để mặc cho Hồ Phiêu Hương kéo tay nó chạy xuống bếp. Nội lực của thằng nhóc bây giờ đã hơn trước, nếu nó cố ý ghìm lại, trâu cày cũng chưa chắc kéo nổi chân nó đi một li. Tất nhiên, nó chẳng việc gì phải làm thế cả.

Hay tin Tạng Cẩu về nhà, Nguyễn Phi Khanh và Liễu Thăng cũng sang chúc mừng.

Thấy nghĩa đệ chẳng những bình an vô sự, võ công còn tăng thêm, Liễu Thăng vừa thấy mừng, vừa thấy hơi bất lực. Lần nào cũng vậy, người được hết cao thủ này đến cao thủ kia để ý, truyền thụ hết bản lĩnh cho luôn là Tạng Cẩu. Mặc cho cậu cố gắng đến mức nào, cũng không đuổi kịp.

Mọi người xúm vào, hỏi xem một năm qua thằng nhóc này biến mất tận đâu mà không báo nổi lấy một câu bình an về nhà.

Tạng Cẩu bèn kể:

" Vị hôm ấy bắt con đi, té ra là có giao tình không cạn với thầy. Hay tin Quận Gió mất, chính y đã tìm đến dạy con một năm, coi như là để tang thầy. "

Nó không tiết lộ, rằng kì nhân sang Tàu dạy nó chẳng phải chỉ có một, mà đến bốn người.

Chính là bốn vị chí tôn của giới sát thủ - Địa Khuyết Thiên Tàn.

Bốn người họ không tiện xuất hiện trên giang hồ, thành thử chỉ có thể chậm rãi nghe ngóng tin tức về Quần Hùng yến đẫm máu hôm ấy. Nhưng... cũng chẳng có tác dụng gì lớn.

Bốn ông lão lại nghĩ: Tạng Cẩu ở đất khách quê người cũng nguy hiểm chẳng kém. Võ công như nó bây giờ cũng chưa tính là gì trước mặt cao thủ đích thực, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì khiến truyền thừa của danh hiệu Quận Gió đứt đoạn thì thực đúng là không biết ăn nói thế nào với anh linh các đời vua trộm.

Thế là bốn lão phân công, hai người sang Tàu rèn giũa thằng nhỏ, hai người tiếp tục ở đất Đại Việt giải oan cho Quận. Sau sáu tháng, thì đổi chỗ cho nhau.

Người hôm ấy giao thủ với Hồ Quý Li chính là Tàn lão.

Hồ Phiêu Hương nói:

" Nếu đã là bạn cũ của thầy, cớ gì lại đánh ông nội một chưởng? "

Người kia ra tay không phân nặng nhẹ, đả thương ông nội cô bé. Thành thử, ấn tượng của Phiêu Hương với Tàn lão cũng không lấy gì làm tốt đẹp cả.

Hồ Quý Li nói:

" Cao thủ có mấy phần tà khí, mấy phần bá đạo, cũng chẳng có gì là lạ. Đối chưởng với y một lần cũng khiến ông ngộ được mấy điều trước giờ vẫn thắc mắc, võ học có chỗ tiến bộ không nhỏ. Xem như là được nhiều hơn mất. "

Ông nội đã lên tiếng, Hồ Phiêu Hương cũng không tiện nói thêm gì. Chỉ là cô bé vẫn phồng má lên, đoạn ngó lơ Tạng Cẩu, ra chiều ấm ức lắm.

Liễu Thăng ngồi được một lúc, đoạn đứng dậy cáo từ mọi người ra về. Lúc ra đến cửa, ánh mắt lại không tự chủ được rời xuống nhà bếp.

.........

Đêm hôm ấy, trăng treo cao.

Trong đại sảnh, ánh đèn cầy lắc lư lắc lư, rọi lên tận lò hương đang nghi ngút ở góc phòng.

Năm người: hai cha con họ Hồ, hai đứa nhóc và Nguyễn Phi Khanh ngồi quây quần trước ngọn đèn. Tấm khăn thiền sư Tuệ Tĩnh lưu lại trải ở chính giữa.

Vạn lí thanh giang vạn lí thiên

Nhất thôn tang giá nhất thôn yên

Ngư ông tuý trước vô nhân hoán

Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền

Bốn câu, hai mươi tám chữ. Nét bút bình phàm đơn giản, mà mềm mại khoan thai, tỏ ra khí độ rộng lượng của thư gia.

Đấy là bài thơ Tuý Trước của Hàn Ốc đời nhà Đường.

" Con nói, con phá giải được chút gì về manh mối thầy Tuệ Tĩnh để lại?? "

Nguyễn Phi Khanh nghiêm hẳn sắc mặt.

Nhìn ông lúc này, chẳng ai nghĩ ấy là cái người lúc nào cũng nhởn nha nhởn nhơ bình thường.

Hồ Quý Li, Hồ Nguyên Trừng cũng nín thở lắng nghe.

Hai người mất nguyên một năm ròng mà không tài nào phá giải nổi bí ẩn của bài thơ. Tại sao Tuệ Tĩnh thiền sư chỉ đề bài Tuý Trước lên tấm khăn rồi bỏ đi? Tại sao ông không quay lại giải thích rõ ràng, khiến hai người bị mê cục bủa vây cả năm trời??

Tạng Cẩu gật đầu, nói:

" Có hôm luyện công xong, con bèn ngâm bài thơ này lên chơi, không cẩn thận bị tiền bối kia nghe được. Ông nghe xong, lại tấm tắc bảo ấy là bút tích của thiền sư Dương Không Lộ!

Con nghĩ mãi, không biết ông Hàn Ốc với ông Dương Không Lộ có họ hàng gì với nhau, nhưng có lẽ người Tuệ Tĩnh thiền sư nói đến không phải Hàn Ốc... mà là Dương Không Lộ! "

Nó nói hết câu, mới ngẩng đầu lên, thì phát hiện ba người lớn đều đã á khẩu vì cái tên " Dương Không Lộ ".

Hồ Nguyên Trừng nghĩ một lúc, chợt vỗ trán:

" Tôi hiểu rồi! "

Bộp!

Quay ngoắt sang, té ra người vừa vỗ bàn đánh rầm một cái là Nguyễn Phi Khanh.

Hồ Phiêu Hương nhíu chân mày lá dăm, đoạn quay sang hỏi ông nội:

" Ông ơi, Dương Không Lộ là ai? Sao con chưa nghe bao giờ? "

Có lẽ do quá hưng phấn, nên trước khi Hồ Quý Li kịp nói câu nào, Nguyên Trừng đã cướp lời đáp:

" Ông ta chính là Lí Quốc Sư! "

" Không phải Lí Quốc Sư là Nguyễn Minh Không hay sao? Sao lại có thêm một Dương Không Lộ? "

Tạng Cẩu tròn vo mắt, hỏi.

Nguyễn Phi Khanh bèn đáp:

" Theo sử sách còn ghi lại được, thời Lí từng có hai ông quốc sư cùng được ban quốc tính. Một là thiền sư Minh Không, người còn lại chính là thầy Không Lộ.

Tuy nhiên, ba lần đánh Nguyên Mông khiến nước ta bị đốt huỷ nhiều sách sử quý báu. Ghi chép về thầy Không Lộ vốn đã ít, nay lại vì truyền miệng mà sinh ra lắm dị bản, không đồng nhất nữa. Những gì còn sót lại của ông đều mang tính truyền kì hư ảo, giả giả thật thật khó mà phân biệt. Đến độ liệu ông có phải người thật, hay huyền sử, chẳng ai biết cả.

Lâu dần trăm năm sau, người ta chỉ còn nhớ đến một ông Lí quốc sư mà thôi. "

Hồ Phiêu Hương lại nói:

" Nhưng đức thánh tổ Khổng Lồ là thầy Nguyễn Minh Không. Chuyện ông Không Lộ là sao? Còn bài thơ nữa... sao mọi người càng nói càng thấy mâu thuẫn thế? "

Hồ Nguyên Trừng như không nén nổi hưng phấn, cười:

" Thế mới nói, manh mối chính là miếng vải này! Sư thầy Tuệ Tĩnh giao bài thơ này... ngay trước khi ông giả bị tử hình. Tức là kế thay mận đổi đào! Bài Tuý Trước của Hàn Ốc, có lẽ là do khi sang Tàu, thánh tổ có tức cảnh ngâm đọc. Rồi tuỳ tùng theo sau chép lại. "

Nguyễn Phi Khanh lại tiếp:

" Theo suy đoán của bác, thánh tổ biết mình sang nước Tàu lấy đồng là chuyện nguy hiểm đến bang giao hai nước. Thế nên để tránh phiền hà không đáng có, có thể đã dùng tên giả là Dương Không Lộ! Không Lộ, đọc chệch đi chẳng phải là Khổng Lồ đấy ư?

Về sau giặc Nguyên đun kinh đốt sử ta, không loại trừ khả năng hai cái tên thánh tổ từng dùng bị hậu thế hiểu nhầm là hai người khác nhau. Bài Tuý Trước cũng vì thế mà bị hiểu nhầm là bút tích của ông luôn... "

Hồ Phiêu Hương thốt lên:

" Thế tức là chúng con đáng lẽ phải tìm tên Dương Không Lộ, chứ không phải Nguyễn Minh Không sao? "

" Rất có khả năng này. "

Hồ Nguyên Trừng nói.

Tạng Cẩu lôi cái trống đồng to bằng quả cau ra, cong ngón tay búng vào mặt trống đánh coong một cái.

Tuy còn xa lắm mới phá giải được bí mật của cái gọi là Chìa Khoá Loa Thành, nhưng... chí ít, cũng đã biết phải bắt đầu từ đâu.

Thì ra...

Hôm đó sau khi bị bắt, giải vào lao ngục, Chu Đệ đã bí mật đến gặp thiền sư Tuệ Tĩnh và tỏ ý sẽ thả ông. Thiền sư già nghĩ một hồi, bèn quyết định diễn vở kịch giả chết với Vĩnh Lạc luôn. Thế nên... mới có tấm vải mang đầy hàm ý như vậy. Chu Đệ có thông minh bằng trời, đọc bài thơ, cũng chỉ biết đấy là Tuý Trước của Hàn Ốc mà thôi. Sao y ngờ được, phía sau hai tám con chữ là cả một đống uyên nguyên sâu xa từ tận thời nhà Lí kia chứ?

Đêm giao thừa đã tới...

Đây là cái đêm ba mươi tháng chạp đầu tiên trong cuộc đời nó, Tạng Cẩu được ăn một cái Tết đoàn viên.

Giữa sân, nồi bánh cháy bập bùng, sáu nhân ảnh ngồi quây quần trông cái nồi gang. Ánh lửa hồng hào, phả lên gương mặt háo hức của đám nhỏ. Người lớn ngồi đàm đạo, nhưng thỉnh thoảng mắt vẫn đá về phía ánh lửa.

Tạng Cẩu thoăn thoắt thêm lửa, quạt gió, lại bắc cái ghế lên ngó xem nước luộc ra sao, đặng còn thay nước...

" Này nhé, bánh luộc được già nửa thời gian thì thay nước ra, ngâm bánh qua nước lạnh. "

" Mấy chuyện bếp núc này Cẩu biết nhiều quá nhỉ? Trông bánh chưng cũng biết làm... "

Hồ Phiêu Hương biết...

Nãy giờ Tạng Cẩu liến thoắng luôn mồm mà ba người Hồ Quý Li, Hồ Nguyên Trừng và Nguyễn Phi Khanh chẳng mở miệng câu nào, chứng tỏ nó nói không sai.

Tạng Cẩu nói:

" Hồi trước ở thôn Điếu Ngư, Tết đến là tớ trông nồi bánh ngoài sân đình suốt ấy mà. Không làm thì làm gì có bánh ăn. Cứ xem các cô làm mãi cũng quen. "

Cộp! Cộp!

Tiếng vó ngựa khua vang dội từ ngoài ngõ vào. Ánh lửa dưới đáy nồi cũng theo đó mà càng thêm lung linh, huyền ảo.

" Chắc Liễu Thăng đến. "

Hồ Nguyên Trừng thở dài.

Ông trời cũng xếp đặt thật khéo.

Liễu Thăng ấy thế mà trở thành nghĩa huynh của Tạng Cẩu, mấy lần cứu mạng nó. Không có họ Liễu, thì Tạng Cẩu e đã thành thứ ma đầu chỉ biết có thù hận rồi.

Đến người từng đứng ở đầu bên kia chiến tuyến với cậu chàng là ba người Nguyễn Phi Khanh cũng không phải nể phục tình huynh đệ của chúng.

Liễu Thăng đẩy cửa vào. Lần này đến, cậu chàng đã bận y giáp chiến khôi chỉnh tề, thương vàng gác sau lưng, chiến bào bay trong tuyết.

" Mọi người đang đón giao thừa sao? "

Thấy cảnh đầm ấm, Liễu Thăng bất giác dừng bước chân.

" Đúng. Ngồi xuống luôn cho vui. "

Tạng Cẩu nói.

" Thôi... ở... ở nhà còn đang có người chờ. Huynh qua chúc Tết mọi người một tiếng, rồi đi ngay thôi. "

Liễu Thăng ấp úng.

Ánh mắt cậu như đang tìm kiếm ai đó.

Nguyễn Phi Khanh cười khà, mặt đỏ ửng như gấc chín. Đoạn dốc cạn chén rượu trong tay, lên tiếng mà giọng nhè nhè như người say:

" Nói là chào bọn ta... hấc... chi bằng nói là chào... híc... con bé Hằng. "

Liễu Thăng giật mình một cái, ánh mắt đảo qua hướng khác.

" Hằng xin nghỉ, ra ngoài chợ rồi. "

Tạng Cẩu gẩy thêm củi vào ngọn lửa, giọng vẫn chậm rãi.

" Vậy... vậy à? Nè, Cẩu, Hương. Lì xì cho mấy đứa. Mấy nữa huynh thăm nhà xong, quay lại kinh thành, chúng ta sẽ tỉ võ tiếp. "

" Nhất định! Hứa rồi đấy nhé. "

Tạng Cẩu giơ bàn tay, nói vọng ra, đầu vẫn chúi vào nồi bánh.

Liễu Thăng ấp úng dúi hai gói lụa điều vào tay hai đứa nhóc, đoạn lao ra khỏi phủ viện.

Tiếng ngựa gầm gió bấc vang lên ngoài ngõ.

Nguyễn Phi Khanh thở dài:

" Tết nhất đến nơi rồi, mà còn phải xuất chinh. Tội nghiệp thằng nhỏ thật. "

Bốn người còn lại đều im lặng.

Tính cả hai đứa Hương, Cẩu.

Chúng nó từng lang bạt trong chiến trường, nên cũng hiểu được phần nào trách nhiệm của người làm tướng. Đôi khi, thắng ngựa giục cương, cũng vì thân bất do kỷ.

Tạng Cẩu hít vào một hơi, rồi nói:

" Đợi sau cái Tết này, bọn con sẽ tìm cách thâm nhập vào Tàng Thư Các lần nữa. "

Bấy lâu nay, mọi người tìm mua cơ man không biết bao nhiêu quyển Tống sử trôi nổi trong dân gian, nhưng không có lấy nổi một trang đề cập đến Dương Không Lộ.

Sau cùng, mọi người mới nghĩ tới Ngự Thư phòng.

Nếu có nơi nào có thể có chút manh mối về thiền sư Không Lộ, thì chỉ có thể là Ngự Thư phòng mà thôi.

Tuy nhiên lần trước nhờ có thiền sư Tuệ Tĩnh dẫn theo, chúng nó mới được vào cùng. Hiện giờ thân cô thế cô, đến hoàng cung còn không thể tuỳ tiện tới lui, nữa là Ngự Thư phòng của hoàng đế.

Trong cung cao thủ như mây, lấy khinh công học chưa đến nơi đến chốn của đám nhỏ, nói là đi đột nhập không bằng bảo là đi tự sát.

Cả tháng nay mọi người cùng nghĩ cách, thế mà cũng chẳng tìm được kế vẹn toàn để nhập cung.

Bất thình lình, Hồ Nguyên Trừng lên tiếng:

" Sắp tới sẽ có cơ hội, thậm chí đích thân Vĩnh Lạc sẽ mời hai đứa vào Ngự Thư phòng luôn. Chớ có lo quá. Điều hai đứa cần làm bây giờ là trau dồi võ công, đọc sách thánh hiền cho tốt. "

Tạng Cẩu nghe đến bốn chữ " đọc sách thánh hiền " là cổ họng đắng nghoét. Nó rụt cổ lại, hỏi:

" Thế cháu không đọc có được không? "

" Cái gì??? Không là không thế nào??? Có biết sách thánh hiền là nhân sinh, là đạo đức, là tinh hoa của cổ nhân, là lời dạy của tiên hiền, là...v.v... "

Tạng Cẩu làu bàu:

" Mấy ông thánh hiền Tàu chỉ giỏi khoe chữ. Sau không nói đơn giản như tục ngữ ca dao ấy? "

" Tục ngữ ca dao...? "

Hồ Nguyên Trừng đang định nói ấy chẳng qua là lời của giới nhà nông chân lấm tay bùn, ít học. Nhưng Nguyễn Phi Khanh đã lên tiếng:

" Kẻ đọc sách cứ nghĩ mình khôn ngoan tài trí, nhưng được mấy người không phải mọt sách ngu đần?? Kẻ đọc sách cứ nghĩ người dân là ngu phu xuẩn phụ, nhưng đầy người mắt còn sáng hơn cái lũ bụng toàn kinh sử trong cung kia.

Lời dạy của thánh hiền hay, lời các cụ răn cũng chẳng hề kém cạnh. Nhất bên trọng, nhất bên khinh, thì đã là kẻ tầm thường. "

Tạng Cẩu nghe xong, chợt nhớ lại lời Quận dạy trước đây: " Đạo học vốn là kẻ biết dạy cho người không biết! " và " Chẳng những Trung Hoa, mà Đông Tây gì cũng phải vậy tuốt! ".

Bất giác nó thấy hổ thẹn.

Hồ Nguyên Trừng thì lại có kiến giải khác.

Chàng nhẩm lại những câu tục nhữ mình biết, rồi ngơ ngác nhận ra, hoá ra cũng sâu xa lắm.

[ Sách thánh hiền thì lời văn hàm súc, ý tứ cao thâm, ngôn từ mạc trắc. Nhưng cũng vì thế mà thâm ảo khó hiểu. Tục ngữ, ca dao, thì tuy lời lẽ thô kệch, nhưng bài học lời răn đã vị tất lại không thâm thuý? Hình ảnh lại gần gũi...

Ai hơn ai kém, đúng là không thể so sánh được. ]

Cứ thế, lửa dưới nồi bánh vẫn bập bùng...

Lại kể chuyện của Lê Hổ...

Thấy quân địch đã loáng thoáng hiện lên ở cuối chân trời, Lê Hổ nghĩ một chốc, rồi hạ lệnh cho quân rút về ngôi làng nằm khuất dưới mặt đông núi Dục Thuý.

Lúc này đang là sáng sớm...

Bãi sông thoáng đãng, xông vào đánh bừa chỉ là đi tìm chết.

Phạm Ngọc Trần nhíu mày, hỏi:

" Giờ sao đây? Không biết anh thế nào, chứ tôi không có ý định chết ở đây đâu. Tôi còn bao nhiêu chỗ phải đi chơi... "

Mới nãy, Lê Hổ đã thì thầm vào tai mấy đầu lĩnh, nhưng nhất quyết không chịu tiết lộ cho cô nàng.

" Rồi sẽ biết. "

Lê Hổ nhún vai, đoạn kéo Phạm Ngọc Trần cúi rạp hẳn xuống bãi sậy, đề phòng bị địch quân trông thấy.

Cậu lại rẽ cỏ, trỏ về phía bãi đất phía xa, hỏi:

" Trên miền ngược các cô có chỗ nào như thế không? "

Phạm Ngọc Trần thấy bên sông, giữa đám lau sậy um tùm, ngoài những mô đất chỗ cao chỗ thấp ra thì chẳng có gì đặc biệt.

" Cỏ, với đất... rồi sao? "

" Chỗ đó là bãi bồi. Đêm qua mới mưa tầm tã một hồi, chỗ đó hẳn là đang ngập tới mắt cá, đất mềm tơi ra thành bùn. Một lát nữa cứ làm như thế... "

Phạm Ngọc Trần nghe Lê Hổ nói nhỏ vào tai, mà bắt đầu tủm tỉm cười. Chẳng biết hai người họ nói gì với nhau.

Cánh quân phía đông do Lưu Tuấn cầm đầu tấp nập hành quân về phía núi Dục Thuý. Cả một bãi sông rộng lớn cờ sí căng rợp trời, thanh thế to lớn vô cùng.

Lưu Tuấn chính là kẻ dẫn đầu. Y mặc khôi giáp bằng sắt đen bóng lộn, hông đeo bội kiếm tua vàng, trông oai tợn. Gã nện giày lên mặt đất lớp nhớp bùn lầy, gắt gỏng:

" Cái xứ quỷ quái. "

Đại Việt sông ngòi kênh rạch phức tạp, ẩm thấp. Hôm qua lại giở trời mưa to một trận trái mùa, thành ra khí hậu đã ẩm lại còn lành lạnh. Cái buốt giá chỉ chầu chực ăn vào xương người ta như mọt khoét gỗ lẩn trong từng cơn gió thật chẳng lấy gì làm dễ chịu. Trong quân ngũ nhà Minh, hễ ai không ở vùng ven biển là thấy không thích ứng, trong người nôn nao ngay.

Nhưng khó chịu nhất vẫn là lũ côn trùng. Nào muỗi, nào dĩn... cái giống ở náu trong các bụi bãi nên háu đói hung hăng tợn. Chúng chỉ cần thấy có hơi người là rúc vào quần áo mà đốt lấy đốt để. Những vết cắn sưng tấy lên, ngứa ngáy khó chịu, song càng gãi càng ngứa. Đã vậy có những người còn bị nhiễm trùng.

Lưu Tuấn mặc giáp gần như kín mít, vải mai cũng dày mấy lớp để giảm thiểu sát thương từ tên đạn. Thành ra chẳng những bí, nóng, mà còn chịu chết không gãi nổi. Thành thử, y đi đường cũng không thẳng lưng được, cứ hơi tí là co người một cái vì ngứa.

Càng ngứa ngáy, y lại càng chỉ mong đánh cho xong cái trận này, còn về rửa ráy.

Càng muốn thắng nhanh, lại càng mất kiên nhẫn.

Có câu dục tốc bất đạt là vậy.

Y chờ thêm một lúc. Thời gian cỡ uống hết chén trà, thì quân dọ thám trở về.

Không! Phải nói cho chính xác!

Ấy là chạy trở về!

Cả toán do thám mấy chục người hớt hơ hớt hải, cắm đầu cắm cổ vào mà chạy. Đuổi sát sau lưng họ, khua vó liên hồi một con ngựa...

Lưu Tuấn cả kinh, quát to:

" Lũ vô dụng! Có con ngựa mà cũng tá hỏa lên là thế nào? "

" Không... không phải... Rắn!!!! "

Tên do thám vừa nói dứt lời, thì đổ gục xuống đất, co quắp run rẩy, ra chiều đau đớn lắm.

Lưu Tuấn mặc dầu hay cằn nhằn kêu ca đâu đâu, nhưng kinh nghiệm sa trường dày dạn. Y chỉ cần nhìn thoáng qua là hiểu, vì sao tên lính do thám mình phái đi lại chết tức tưởi đến thế.

[ Gã ngu này xem chừng là trúng phải nọc rắn, sau đấy lại chạy hộc tốc như vậy, khiến khí huyết lưu thông. Độc khí cũng theo đó mà xâm nhập vào tâm tạng nhanh gấp mấy lần bình thường. Nay nọc rắn công tâm, e là khó mà cứu nổi. ]

Chỉ duy có một điều Lưu Tuấn chẳng cách nào hiểu nổi.

Gã do thám kia y biết khá rõ, là một bộ hạ thân tín của y. Kẻ kia nào có phải loại nhát gan? Y xứng đáng là kẻ gan hùm mật gấu, đội trời đạp đất ở đời. Há có thể vì mấy con rắn nhép mà sợ hãi đến độ vứt cả mạng mà chạy như thế được?

Bên cạnh y, quân Minh nhìn đồng bọn quằn quại đến chết, mà không khỏi hít vào một hơi khí lạnh.

" Hắn nói... rắn?? "

Đám lính do thám gục hết một lượt, đều vong mạng do độc rắn thấm vào tim gan. Bấy giờ, đám lính mới phát hiện con ngựa đuổi đằng sau quân do thám của mình có điểm bất thường.

Ngựa nước Nam lùn, dáng xấu, ngoại trừ việc chịu khổ giỏi thì chẳng thể so với ngựa phương bắc. Có thể nói là tầm thường. Thế nhưng, lúc này con ngựa lùn kia lại tung vó phóng như bay, toàn thân bóng nhẫy một thứ mồ hôi đỏ ối, trông chẳng khác nào thứ Hãn Huyết bảo mã của quân Nguyên Mông cả.

Mồ hôi đỏ rỏ xuống đất, lập tức có hương tanh lợm giọng bốc lên.

Sau đó, cỏ cây dao động liên hồi...

Nói đoạn, từ những bụi cỏ lau, không biết cơ man bao nhiêu con rắn túa ra, hệt như kiến vỡ tổ. Có đám liu điu chỉ to độ gang tay, lại có cả hổ mang vừa đi vừa phun lưỡi phì phì. Cả đám trườn xoèn xoẹt xoèn xoẹt theo sau con ngựa lùn, mắt trợn lên tròn xoe.

Đất Nam lắm rừng núi, nhiều sông ngòi, khí hậu lại ẩm thấp, đúng là chốn thiên đường cho họ hàng nhà rắn.

Ngàn lời vạn chữ khó tỏ bày, chỉ xin mạn phép mượn một bài thơ của cụ Lê Quý Đôn, để nói rõ hết cái sự đa dạng của loài rắn.

" Chẳng phải Liu Điu vẫn giống nhà!

Rắn Đầu biếng học quyết không tha.

Thẹn đèn Hổ Lửa đau lòng mẹ,

Nay thét Mai Gầm rát cổ cha.

Ráo Mép chỉ quen tuồng lếu láo,

Lằn Lưng chẳng khỏi vết roi da.

Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,

Kẻo Hổ Mang danh tiếng thế gia! " ( Lê Quý Đôn )

Lưu Tuấn trông thấy rắn, cả kinh, quát:

" Mau!! Dàn trận! Mau dàn trận!! "

Quân Minh lập tức kết phương trận ( trận vuông ), lưng dán chặt vào nhau không dám hở ra một kẽ nào.

Con ngựa lùn trồm lên thêm một lần cuối, rồi đổ gục xuống ngay trước đống xác người la liệt.

Bầy rắn lớn nhỏ như chỉ chực chờ có thế, lập tức phi vào, trèo lên, cuốn quanh thân xác con ngựa mà xâu xé. Lập tức, mùi máu tanh hoà vào thứ mồ hôi đỏ ối, quện thành một mùi gây hôi khó ngửi.

Quân Minh thấy đám rắn chỉ chăm chăm xơi con ngựa, tưởng mọi chuyện đã yên, bèn lỏng tay đao tay kiếm.

Thế nhưng Lưu Tuấn đã quát lên thất thanh:

" Cẩn thận! "

Lời chưa dứt, thì kiếm đã rời khỏi bao, lưỡi kiếm vẽ một dải trăng khuyết, chém rụng đầu con rắn hổ lửa vừa phóng người về phía chân toan cắn một tên lính.

Té ra...

Đám rắn chồm lên người con ngựa là để liếm thứ mồ hôi đỏ lòm kia. Sau khi nuốt vào, chúng lại càng trở nên hung hăng táo tợn, thế nên mới chủ động tấn công con người.

Bởi lẽ thông thường, loài rắn cắn người là do bị hoảng sợ, chứ không phải chúng cố ý.

Lưu Tuấn hiểu rõ điều này, nên vẫn luôn cảnh giác. Có thế mới giữ được một mạng cho thuộc hạ.

Xì! Xì!!!

Lũ rắn phun lưỡi phì phù, máu đồng loại chẳng những không làm chúng sợ hãi, mà trái lại càng khiến chúng điên loạn. Cả đám nhao nhao xông vào trận địa của quân Minh.

Xoẹt! Xoẹt!

May được Lưu Tuấn đề tỉnh, nên quân Minh đã có chuẩn bị sẵn. Đón đầu lũ rắn chẳng phải da thịt, mà là một màn bóng đao ánh kiếm kín kẽ đến độ nước mưa cũng khó mà lọt.

Chỉ nghe những tiếng gai người, vảy cứng tróc bong, lũ rắn đã bị xả cho đầu lìa khỏi cổ. Ấy thế mà đuôi rắn vẫn còn giãy lên mấy cái, nhìn rất nguỵ dị.

Lê Hổ đứng từ xa nhìn, vừa lau mồ hôi vừa than:

" Trong cái túi đó rốt cục chứa cái gì vậy? "

Cậu chàng còn nhớ Phạm Ngọc Trần lấy miếng vải con, thấm chút dầu đỏ rồi lau qua mình ngựa. Nói đoạn lấy cái còi câm, để nó phi về phía quân Minh.

Ngựa đổ mồ hôi, tức thì đám rắn chung quanh như bị đánh động, túa cả ra ngoài mà trườn theo chân ngựa, đông nghìn nghịt. Cả bãi cỏ lau chẳng cần gió cũng xao động, giữa từng thân cỏ lúc nhúc toàn rắn là rắn, thấy mà gai người.

" Anh đoán thử xem... "

Phạm Ngọc Trần vỗ vào cái túi thổ cẩm, nói.

" Giờ cô có lấy ngải ra tôi cũng không lấy làm lạ. "

Lê Hổ thấp giọng, nói nhỏ.

Thuở ấy, nước Nam ta có một truyền thuyết, ấy là chốn rừng thiêng nước độc giấu một cây trầm hương thần. Trầm chẳng ở yên một chỗ, mà suốt năm dài tháng rộng nó chạy khắp đại ngàn. Muốn tìm trầm, phải có ngải, ngậm lấy mới mong tìm được.

" Xì. Ngậm cái thứ đó, trầm hương chưa thấy, hoá hổ lúc nào cũng chẳng biết. Ai mà thèm! "

Phạm Ngọc Trần nói.

Người ngậm ngải tìm trầm, nếu ngải tan hết mà chưa thấy trầm, sẽ hoá thành hổ.

Cái chuyện ngậm ngải tìm trầm, con người hoá hổ này trước giờ vẫn bị người ta coi là cổ tích, cùng lắm là cuộc chuyện lúc trà dư tửu hậu của đám  vô công rỗi nghề. Nhưng xem chừng, Phạm Ngọc Trần rất tin tưởng chuyện này.

Cô gái miền ngược rốt cuộc là ai??

Lê Hổ nói:

" Đám rắn bị thuốc của cô kích động, chỉ biết công bừa. Không làm khó được quân tinh nhuệ lâu đâu. Mau! Chúng ta về làng cố thủ. "

Nói đoạn, cậu kéo Phạm Ngọc Tràn dậy, chạy như bay về phía đông.

Mặt đông núi Dục Thuý, nơi có ngôi làng toàn những người già dựa vào vách đá cheo leo dốc đứng. Quân Minh sẽ không thể công lên núi, huỷ đại pháo theo hướng đông được.

Lúc ấy Lê Hổ nghĩ đơn giản thế thôi.

Lưu Tuấn một tay hua kiếm gạt đám rắn, nhưng vẫn chú ý tìm kiếm xem ai là hung thủ đứng đằng sau. Bỗng nhiên thấy một đôi nam nữ đứng phắt dậy khỏi bãi lau, rồi cắm đầu cắm cổ chạy theo hướng đông...

Quả nhiên là đáng ngờ.

Y vung kiếm nhanh hơn, lại quát to hạ lệnh:

" Mau!! Mở đường máu! Đánh về phía đông! "

Quân Minh được lệnh, hăng hái hơn hẳn, nhưng trước mặt có rắn độc, không phải nói tiến tới là tiến tới được.

Lê Hổ và Phạm Ngọc Trần cũng vì thế mà rút lui được an toàn về đến ngôi làng.

Lúc hai người đến nơi, thì sĩ tốt dưới trướng Lê Hổ đã y theo lời cậu dặn, chuẩn bị xong xuôi đâu đấy cả.

Nhác thấy bóng cả hai, mọi người mới thoáng dừng tay.

Một trung niên râu rậm đầu hói bước lên hai bước, nói:

" Tướng quân, chúng tôi đã di dời hàng rào các nhà, ngăn cản đường đi lối lại trong làng. Sau đó lại đào thêm hố bẫy hầm chông rải rác khắp nơi. "

" Mái nhà thì sao? "

Lê Hổ vỗ đao, hỏi.

" Làm gần xong rồi. Ngài xem thử xem thế này đã được chưa? "

Trung niên ấy vừa nói, vừa dâng một cái bát lên.

Phạm Ngọc Trần chỉ thấy trong bát đựng một thứ chất lỏng sanh sáng, màu xanh ngọc rất bắt mắt. Ngửi thử còn thấy cả mùi thơm.

Cô nàng này vốn nhiều thủ đoạn linh tinh. Trong cái túi thổ cẩm, độc dược cũng có mấy loại. Nhìn bát nước xanh là Phạm Ngọc Trần nghĩ ngay đến khả năng Lê Hổ dùng thuốc độc đánh giặc, bèn chặc lưỡi:

" Sao không bảo tôi sớm? Tự nhiên để chết bao nhiêu rắn độc, phí cả nọc. Cái thứ xanh xanh này chế từ độc gì, giết được bao nhiêu người chứ? Này! Sao lại nhúng tay vào??? "

Thì ra Lê Hổ đã thọc hai ngón vào bát nước xanh, lại miết hai đốt tay đẫm nước vào nhau mấy cái. Phạm Ngọc Trần tá hoả, bèn chộp lấy cổ tay cậu chàng.

" Độc?? Cô nói gì thế? Độc nào?? "

" Gì chứ?? Không phải chất độc, sao đánh lại quân giặc?? "

Lê Hổ cười nhạt, nói:

" Đánh được mới hay chứ. "

Nửa canh giờ sau...

Toàn thân nhuộm đỏ bởi máu, đế giày ướt đẫm mùi tanh, Lưu Tuấn và đoàn quân của hắn tiến đến trước ngôi làng dưới chân núi Thuý.

Phương bắc nước chảy quanh co, phía nam có đồi cỏ bạt ngàn. Ngôi làng xây dọc theo triền dốc của một quả đồi lớn, chung quanh có luỹ tre mọc thành bãi dày. Phía tây là vách núi Thuý. Thành ra, nếu tiến vào làng từ hướng đông, chỉ có con đường độc đạo đủ cho hai con trâu đi sát nhau.

Lưu Tuấn thầm nghĩ:

[ Đường nhỏ thế này, muốn hành quân qua ắt sẽ phải dãn dài đội quân của mình thành trận trường xà. Như thế sẽ mất ưu thế số đông. Nhưng chặt hết đống tre này lấy lối thì tốn sức quá. Thời gian không còn sớm, trước khi nước triều lên kiểu gì cũng phải đánh thủng được mặt đông của giặc. ]

Đoạn, y chặc lưỡi, nói:

" Kệ mẹ nó! quân ta tinh anh thiện chiến, cần quái gì phải sợ!!?? "

Thế rồi, y cũng mặc kệ, cho quân theo đường độc đạo kéo vào làng.

Bốn phía vắng teo, có thể nghe thấy cả tiếng lá rơi nghiêng bên thềm nhà. Trong làng chẳng có lấy một chút hơi người, tưởng chừng như ngôi làng ma.

Lưu Tuấn phái một tốp hàng binh cỡ mấy trăm người dẫn đường vào làng. Những kẻ này quá nửa là binh tướng của Mạc Thúy, theo hầu quân Minh từ lúc chúng mới tràn sang. Trên tay nhuốm không biết bao nhiêu máu người vô tội.

" Chắc chúng nó sợ mình chạy cả rồi. "

" Lũ ô hợp của Trần Ngỗi toàn một lũ nhát cáy có gì mà đáng sợ đâu? Nhưng không trách chúng được. Là ta ta cũng làm thế. "

" Đúng! Đối đầu với thiên triều khác gì trứng chọi với đá? "

" Ta thấy phải khen chúng thông minh mới phải. "

Cả lũ vừa đi, vừa nói chuyện, rồi cười phá lên ra chiều khoái trá lắm.

" Mẹ kiếp! Cái lũ mất tổ mất tông này dám chửi ta? "

Lê Hổ thấy ông trung niên râu rậm nấp bên cạnh nhoái người dậy định xông ra liều mạng, bèn vận lực giữ chặt, lại đánh mắt ra hiệu cho các toán phục binh khác không được lỗ mãng.

" Tướng quân, ngài thả lão ra. Hôm nay ta phải đánh cho chúng nó không ra hình người nữa mới hả giận! "

Lê Hổ gằn lên:

" Chúng cố tình chọc tức để ta xông ra đấy. Bọn này đông hơn, không đánh bất thình lình không thắng nổi chúng nó đâu. Ông cứ coi đấy là mấy con mụ chanh chua chửi đổng vì mất gà là được. "

Ông râu xồm bèn ngồi xuống lại, thở ra:

" Tướng quân nói đúng. Bọn ta đúng là cái lũ đầu óc ngu si, tứ chi phát triển. Suýt thì lỗ mãng hỏng việc. "

Lê Hổ gật đầu, rồi nghĩ thầm:

[ Hỏng bét. Gặp phải hãn tướng rồi. ]

Quả nhiên, Lưu Tuấn và quân của hắn dễ dàng phát hiện dấu vết đất mới đào, nhẹ nhàng tránh được hố bẫy, hầm chông của quân Lê Hổ. Hắn lại cho hàng quân hết chửi bới, rồi khuyên hàng, lại chuyển qua đe dọa. Mục đích không gì ngoài lung lay lòng quân của cánh quân dưới tay Lê Hổ. Thấy quân Minh đông như kiến cỏ, không thiếu người bắt đầu sinh lòng thoái chí.

Lê Hổ bị ép đến đường cùng, không thể không xua quân ra đánh.

Nếu đợi quân Minh phá hết bẫy chông rồi mới túa ra, e rằng lúc ấy lòng tâm lỏng lẻo, các lộ nghĩa binh sinh ra do dự, thì không thể đánh được nữa.

[ Khốn thật. Đáng ra đám hố bẫy, hầm chông còn giữ chân hắn được thêm một lúc nữa. ]

Lê Hổ không thể không thừa nhận.

So với tên chủ quản cậu từng đối đầu mấy tháng trước ở Khoái Châu, Lưu Tuấn thực sự giỏi hơn mấy chục lần.

[ Liệu... liệu mình có thắng nổi hắn không? ]

Bất giác, trước mắt Lê Hổ hiện lên khung cảnh ở Hóa châu. Lửa cháy, ăn lẹm vào cả những tử thi vốn dĩ đã chẳng còn vẹn nguyên. Dưới đất, lem nhem một đống máu lẫn bùn đen. Trên trời, đìu hiu ngàn cơn gió quện mùi tanh. Lê Hổ đứng giữa cánh đồng toàn là thi thể, lưỡi đao vẫn cắm ngập trong cổ họng tên chủ quản. Xa xa, tiếng vó ngựa dồn dập lui xa dần.

Cậu chàng đứng. Đứng và chờ. Chờ tiếng hân hoan reo hò. Chờ cái vỗ vai thân thiết sau mỗi lần khuân đá, vác cây, đào đất... Nhưng hơi ấm nơi bàn tay chai sần đâu chẳng thấy, chỉ có những cơn gió ngoài đồng hoang mang hơi máu quật liên tiếp vào lưng áo, gợi Lê Hổ nhớ về sự thật phũ phàng.

Chẳng còn ai sống cả...

Hai gối Hổ chạm đất.

Quỳ xuống ư? Không bằng nói là ngã gục. Máu lẫn với bùn đen bốc lên hơi tanh, theo gió âm tào thấm vào từng kẽ da thớ thịt, khiến xương cốt toàn thân Lê Hổ mềm nhũn đi như cọng bún.

Chiến thắng ư? Thắng rồi đấy...

Đổi lại được gì???

Đồng thây, núi xác. Bập bùng xa xa, là ngôi làng vẫn đang cháy dở.

Lê Hổ ngồi đấy, không lê một bước.

Ánh lửa đánh động quân Minh đóng trú ở các làng khác. Chẳng mấy chốc đã có gần trăm bộ binh đổ xuống chi viện.

Cuối cùng, Phạm Ngũ Thư đánh thủng cánh viện quân của quân Minh, cứu cậu chàng đi.

Tiếng người xung trận đánh thức Lê Hổ khỏi hồi ức. Cậu đứng dậy trên mái nhà đang nấp, gió thổi lồng lộng sau lưng...

" Giết!! "

Tức thì, một trận mưa tên phóng vút đi như sao trời, giáng mạnh xuống đầu quân Minh, biến mấy chục kẻ xấu số thành con nhím. Lực tên bắn mạnh đến độ, những mũi bắn trượt cắm xuống đất ngập cả ngón tay.

Quân Minh nhìn kỹ những mũi tên, lại cười gằn vẻ chủ quan.

Chỉ có Lưu Tuấn múa kiếm gạt gãy một mũi, lại vươn chưởng chộp một mũi khác đưa lên ngắm thật kỹ. Chỉ thấy ấy cũng là loại tên tre đơn giản, một đầu được vót nhọn chứ không có sắt thép gì như mấy mũi tên cắm dưới đất.

Cái thứ này đáng lẽ phải vừa nhẹ vừa yếu, có găm trúng người cũng không đáng sợ lắm, trừ phi những nơi yếu hại như yết hầu hay mi tâm trúng tên thì không nói.

Nhưng hắn lại để ý thấy trên đầu nhọn của mũi tên bám một thứ gì nhão nhão như bùn, màu nâu vàng, lại bốc lên nồng nặc mùi xú uế.

Ông trung niên râu rậm ôm bụng cười phá lên:

" Này lũ giặc mọi, thấy mùi tên cứt trâu có ngon không? "

Thời xưa, ngoài rơm rạ người ta cũng hay lấy phân phơi khô làm chất đốt. Thành thử trong ngôi làng hẻo lánh này, phân chó phân trâu không thiếu lắm. Nếu bôi thứ này lên đầu ngọn chông, hay đầu mũi tên, thì vết thương rất dễ nhiễm trùng. Nhất là thời cổ y tế không phát triển.

Lưu Tuấn nghe phiên dịch, gầm lên:

" Lũ An Nam đúng chỉ giỏi mưu hèn chước bẩn! Giết!! "

Quân Minh hung hãn khuơ gươm giáo, xung phong về phía làng. Đứa thì nghiêng mộc giơ khiên che cho đồng bọn. Kẻ được che chắn lại múa đao lộng kiếm gạt bớt mưa tên giáng xuống đầu.

Song quân Minh vốn đông, con đường độc đạo lại khiến toàn trận kéo dài ra như con rắn. Quân Hậu Trần nhắm mắt vung nỏ mà bắn bừa, có không ít kẻ trúng phải tên bẩn.

Nói đi cũng phải nói lại. Quân Minh quá đông, mà quân của Lê Hổ thì ít ỏi, khí giới cũng không có nhiều để mà phung phí. Đợi đến lúc quân Minh kéo đến nửa con đường thì tên cạn.

Lê Hổ thấy vậy, nhưng không hoảng hốt. Cậu chỉ nắm chặt quả đấm đang giương cao, ra hiệu cho ba quân chuẩn bị sẵn sàng.

Nói đoạn, cậu chàng tuốt cây hổ đầu đao, quát:

" Trụ vững! Giết! "

Quân Hậu Trần dạ ran, lập tức lấy cột kèo bàn ghế giường tủ lấy trong nhà dân ra ném vào đầu quân Minh. Song quân địch cũng chẳng vừa. Chúng cứ tay kiếm tay đua vung mạnh là giường tủ, nồi niêu quăng xuống thi nhau vỡ vụn.

Đường vốn đã nhỏ hẹp khó đi, càng chém chỉ càng khiến mặt đất thêm gồ ghề khó đi.

Nhưng cũng chỉ được một chốc ngắn. Đám lính tiên phong thấy thế, bèn lật đao kiếm, không chém thẳng nửa mà đẩy bạt nồi bát sang luỹ tre hai bên. Bàn ghế thì chúng dùng khiên quẳng sang ven đường.

" Giết!!! "

Quân Minh đạp tung lớp rào thấp, xộc vào làng.

Làng nhỏ vốn chẳng có gì, những hàng rào rải rác này là Lê Hổ cho người nhổ từ nhà dân, đem ra kháng địch.

Những cung thủ nấp trên mái nhà khi thấy quân Minh, vội vàng tụt xuống, vừa lui vừa bắn trả tên ngược lại.

Quân Minh khoẻ hơn một bậc, nếu không phải bị lớp rào gỗ ngăn cản chút đỉnh thì những người này đã chết hết.

Song...

Đạp ngã rào rồi, quân Minh hung hãn nhào lên, chỉ sải mấy bước chân là đuổi kịp. Gươm gõ lên khiên mộc ầm ầm, hoà lẫn cũng tiếng chân rầm rập, nghe mà doạ người.

Xoạt!!!

Lần đầu tiên trong hôm nay, lưỡi đao thấy máu.

Nhưng tuyệt nhiên sẽ không phải lần cuối cùng.

Chỉ thấy, cung thủ Hậu Trần chẳng thèm lui bước nữa. Ai nấy vứt cung ném tên, rút gươm ra nhào vào liều mạng với quân Minh. Tiếng hét vọng lên tận đỉnh núi Thuý.

Kết cục cũng chỉ có một.

Đó là nhát chém ngay cần cổ.

Tiếng cười, tiếng khóc, tiếng gào la lẫn lộn vào nhau.

Khi người ta say, người ta cũng cười khóc gào thét mất kiểm soát như vậy.

Hôm nay, những người này cũng say.

Họ say men chiến trường, ủ bằng mùi máu tanh nồng và hơi thép lạnh toát.

Lúc tiếng kiếm đao va chạm ngưng lại...

Nằm la liệt dưới đất chỉ có xác người còn ấm.

Chẳng phân biệt được địch ta, bắc nam, những kẻ say máu lừng lững bước qua những con đường tử thi vất vưởng mà tiến lên.

Lưu Tuấn quát:

" Trèo lên mái nhà! "

Quân Minh chộp lấy cung và ống tên mà quân Hậu Trần vứt lá, hăng hái leo lên mái lá, bụng bảo dạ:

[ Cho chúng mày nếm mùi " dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân "! ( câu này tương đương với gậy ông đập lưng ông ) ]

Bỗng!

Oạch!

Mấy chục tên leo nhanh nhất vừa đặt được bước đầu tiên đã ngã lộn cổ xuống đất. Có kẻ may mắn thì chỉ gãy tay gãy chân. Kẻ nặng hơn thì mất mạng chẳng kịp ngáp lấy một cái.

" Trơn... trơn lắm... "

Những kẻ còn sống thều thào trong cơn đau.

Lưu Tuấn thất kinh, nhìn lên trên đồi. Thế mới phát hiện đám thuộc hạ đang thi nhau vồ ếch.

Bấy giờ quân Trần lại túa ra từ các ngách cao, thi nhau quăng gỗ sứ vào đầu quân Minh. Gặp lúc lóng ngóng đứng còn không vững, thì tránh né đỡ gạt thế nào được?

Thế là, quân Minh nháy mắt bị thương mấy trăm, chết mất mấy chục người. Có những kẻ không may bị mảnh sành bắn vào mắt, đâm mù loà. Lại có những tên bị ghế gỗ ghè trúng đầu, máu chảy ròng ròng.

Trung niên râu rậm hợp lực với mấy người khác lăn cả cái chum kiệu toàn nước vào một toán quân Minh, vừa mới ngơi tay đã cười sảng khoái:

" Kim Ngô tướng quân, quả thật là đáng nể. Cái chiêu nấu mồng tơi thành hồ rồi quết khắp nơi thế này quả nhiên dùng được. "

Té ra, hàng rào nơi này trồng rất nhiều mồng tơi.

Lê Hổ chẳng những nhổ hàng rào lên cắm khắp nơi cản bước địch, mà còn cho người nấu mồng tơi thành một thứ hồ đặc sệt.

Trước tiên là quét lên lá chuối, rồi lợp lại một lớp xen kẽ rơm rạ trên mái nhà phía đông các nơi. Sau hồ còn thừa thì đem quết lên mặt đất.

Thứ hồ này trơn còn hơn cả mỡ. Quân Minh đi đến đâu, trượt chân ngã bổ nhào đến đó.

Phạm Ngọc Trần thì nói nhỏ vào tai cậu chàng

" Này anh Cường Bạo, không mau ra lệnh đi. Quân địch đánh tới thì sao. "

Lê Hổ nói, giọng trấn an:

" Yên tâm. Tôi tự có cách. "

Vừa cất tiếng, cậu chàng vừa giấu bàn tay nhễ nhại mồ hôi vào trong áo.

Cậu hết cách rồi.

Giờ được đến đâu thì hay đến đó, cố thủ chờ viện binh mà thôi.

Đang mải mê suy nghĩ cách cầm chân quân giặc, thì bất chợt có ánh cam đỏ hắt lên từ phía đông.

Mặt trời đã ngả sang đằng tây...

[ Làm gì có chuyện bình minh sớm thế? ]

Lê Hổ nghĩ thầm trong vô thức, rồi bất giác hoảng hồn đứng dậy.

" Cháyyyyyyy!!! "

Lại nói chuyện của hai canh giờ trước...

Đinh Lễ cưỡi Đại Thắng thần ngưu, chẳng mấy chốc đã về đến núi Dục Thuý.

Cậu chàng nhảy khỏi lưng trâu, hộc tộc vác gậy sắt phóng thẳng lên núi. Quân Hậu Trần túa ra từ các ngả, quát:

" Kẻ nào vô lễ như thế? "

Đinh Lễ nghĩ đến chủ công đang nguy khốn trong sớm tối, bèn vung luôn gậy đập ngã mấy người cướp đường mà chạy.

Lúc này lại có người nhảy ra giữa đường, vung đôi chuỳ quất xuống đầu Đinh Lễ. Đinh Lễ đi từ dưới núi lên, y đứng từ trên cao đánh xuống, về lí mà nói Đinh Lễ phải thua thiệt nhiều.

Chỉ thấy cậu chàng giơ ngang gậy sắt, eo xoay nửa vòng, chân phải thì cong gối làm trụ, chân trái đặt ra sau thẳng như cột cờ.

Choangggg!

Chân trái Đinh Lễ đạp nứt toác cả phiến đá, chân phải thì lún xuống độ nửa ngón tay. Còn kẻ đánh lén cậu thì bị phản chấn đánh văng ngược ra sau, rơi cả đôi chuỳ.

" Phản rồi! Phản rồi!! Người đâu! "

Đinh Lễ ngóc đầu, chỉ thấy nằm sõng soài trước mặt một tên tướng mặc giáp. Tay y hãy còn ôm chặt lấy ngực, bên mép vương tơ máu.

Y chính là tên đầu lĩnh lăng mạ Lê Hổ hôm trước.

Đinh Lễ không ưa tên này, bèn nhổ toẹt bãi nước bọt, nói:

" Cút! "

Nói đoạn giộng mạnh cây côn sắt xuống đất nghe ầm một cái.

Tên đầu lĩnh kia cười khẩy, vừa ho khùng khục:

" Ra là mày. Sao lại bỏ chủ chạy ra đây vậy?? Ba người đẩy lui hai trăm thiết kị của Mộc Thạnh mà cũng biết sợ à? "

" Ngại mình sống lâu quá rồi đấy à? "

Đinh Lễ hất hàm, quắc mắt nhìn tên đầu lĩnh.

" Mày... "

Nhận thấy vẻ khinh thường trong đôi con ngươi đen láy, gã đầu lĩnh nọ chỉ biết nghiến răng nghiến lợi, âm thầm ghi hận.

" Có chuyện gì thế? "

Người lên tiếng chẳng phải ai khác ngoài Đặng Tất.

Thì ra mới nãy Đinh Lễ đánh một chiêu với tên đầu lĩnh, đã kinh động đến cận vệ của ông. Thành ra mới theo đường núi đi xuống, xem thử có chuyện gì xảy ra.

Đinh Lễ cúi chào một lễ, đang định phân trần, thì tên đầu lĩnh đã hét toáng lên:

" Bẩm đại nhân, kẻ này ngông nghênh bạo ngược, chẳng những không nghe bọn thuộc hạ ngăn cản tự tiện xông lên núi, lại còn đánh bị thương người của ta. Cái thứ chó không nghe lời này, giữ lại có ích gì? "

Đinh Lễ không nói không rằng vung tay, phang một bổng đánh què luôn đôi chân của tên đầu lĩnh.

Gã rú lên đau đớn, nhưng chẳng làm gì nổi.

Đặng Tất thấy thế, bèn nhíu mày.

" Hai chúng ta không thờ cùng chủ. Đinh Lễ này cũng chẳng phải chó của ai cả. Thích làm cái thứ ăn cứt ngoáy đuôi ấy thì đi mà làm một mình. "

Đinh Lễ buông lại một câu, rồi cung tay:

" Đặng đại nhân. Giặc Minh phái đại binh đánh ập từ phía đông vào, nay chắc đã đến sườn núi. Quân của chủ công quá ít, không thể cầm chân được. Thế nên mới giao cho Lễ trọng trách về đây báo cáo, xin ngài phái viện binh. Binh tình nguy trong sớm tối, không thể chần chừ, đành phải mạo muội xông lên núi rồi tiền trảm hậu tấu. "

Gã đầu lĩnh càng nghĩ chuyện của Lê Hổ càng tức, quát to:

" Mẹ kiếp! Cái thứ buôn quan bán tước như chủ ngươi thì có cái cốt khí chó gì? Chắc đã mang quân ra hàng quân Minh từ lâu rồi! Đặng đại nhân. Thần nghĩ nên giết quách tên này đi. Phía đông núi vách đá cheo leo, không thể vượt qua. Giặc ở đó đợi một chốc nữa rồi đánh cũng chẳng muộn. "

Đinh Lễ nói:

" Nghe câu cái miệng hại cái thân chưa? "

" Đinh tướng quân, xin hãy dừng tay. "

Đặng Tất vội vàng đưa tay lên khuyên can, rồi nói:

" Chủ công của cậu, và chủ công của ta đều có chung hoài bão kháng Minh phục Trần, không phải sao? Cậu là thuộc hạ của chủ công, hay của Giản Định đế thì có gì khác biệt? "

Đinh Lễ biết Đặng Tất muốn chiêu nạp mình, bèn khảng khái ôm côn:

" Năm đó Quan công hàng Hán không hàng Tào. Thứ cho Đinh Lễ bảo thủ, nhưng tôi trung chẳng thờ hai chủ. Xin đại nhân hiểu cho. "

Đặng Tất thở dài:

" Tướng quân có lòng trung nghĩa sánh với Quan thánh, võ lực lại vị tất dưới chiến thần Lữ Bố. Thực là kẻ trung dũng nhân nghĩa. Chuyện của chủ cậu, tôi tự có sắp xếp. "

Nói rồi phất tay áo, ra lệnh cho thuộc hạ:

" Ngươi mau điểm năm ngàn quân, theo Đinh Lễ cứu chủ. "

" Nhưng... mặt tây của ta sắp thủng rồi... "

" Ta tự có sắp xếp. Cứ làm đi. "

Thấy Đặng Tất quả quyết, thuộc hạ chỉ đành cúi đầu tuân lệnh.

Đinh Lễ ôm quyền:

" Ơn này của đại nhân, Đinh Lễ chắc chắn sẽ trả. "

Thời gian quá một tuần trà, cận vệ của Đặng Tất đã điểm đủ năm ngàn tinh binh, trao lại soái kì cho Đinh Lễ. Cậu chàng nhảy phốc lên lưng con Đại Thắng thần ngưu, lá cờ cắm sau lưng bay phấp phới. Lông trâu trắng phau như tuyết cũng rung rinh, rung rinh.

Đinh Lễ chỏ gậy ra trước mặt mà quát...

Một tiếng đơn giản, chấn động cả chiến trường.

" Chiếnnnnnnn! "

Lúc này, tại ngôi làng phía đông núi Thuý, lửa cháy ngút trời.

Lại kể chuyện của Tạng Cẩu...

Đông qua xuân đến.

Tính từ lúc nó sang Tàu đến giờ đã hai lần hoa đào trổ bông.

Bệnh tình của Thanh Hằng đã thuyên giảm nhiều. Cô bé rất thích ngồi cùng với Lý Bân, nghe hắn kể chuyện.

" Chẳng rõ vì sao Hằng lại vừa ý hắn nữa. "

Phiêu Hương chun mũi.

Trước giờ cô bé vẫn không có hảo cảm gì với tên Lý Bân nọ.

Tạng Cẩu xoay xoay vai hai cái, nói:

" Cậu cứ nói quá. Tớ thấy y dễ gần hơn hồi trước nhiều rồi. "

" Có sao?? "

Hồ Phiêu Hương nghiêng đầu.

" Có mà. "

" Sao tớ không để ý?? "

Vừa hỏi, cô bé vừa vươn tay, tóm lấy cái lá xanh cắm trên mái tóc của Tạng Cẩu.

Tạng Cẩu nhún vai:

" Sao mà tớ biết được. "

Xuân sang...

Khiến người ta cũng thấy nhàn hạ hơn mấy phần.

Nguyễn Phi Khanh lấy ghế ra giữa sân, nằm dài dưới gốc cây đào. Cái quạt lông úp lên mặt, còn bụng cứ phập phồng, phập phồng đều đều theo từng tiếng ngáy.

Trong vườn, ngồi bên ao sen, hai cha con Hồ Quý Li vừa câu cá, vừa thưởng trà.

Sau khi lục tung cả kinh thành cũng chẳng nghe ngóng thêm được tin tức gì của thiền sư Không Lộ, mọi người chỉ đành sống an nhàn cho qua ngày.

Hai đứa nhóc vẫn theo Hồ Nguyên Trừng học lễ nghĩa. Lúc rảnh rang, Nguyễn Phi Khanh sẽ sang truyền thụ cho Tạng Cẩu thủ pháp phóng Quỷ Diện Phi Châu.

Hồ Phiêu Hương thấy võ công thằng bé tiến bộ thần tốc, bèn vòi vĩnh ông nội. Song Hồ Quý Li chỉ nhất mực rằng cô bé cứ nên học thông dùng thạo những võ công cũ mình từng truyền cho trước đã.

Tạng Cẩu cũng khuyên:

" Đao pháp, chưởng pháp, thân pháp của Hương tinh diệu lắm, chỉ thiếu điều là hoả hầu chưa đủ mà thôi. Nếu đã quen tay, chưa chắc đã thua tớ đâu. "

Cô bé thầm cho là phải, nên không bám theo Hồ Quý Li cả ngày nữa.

Liễu Thăng ra chiến trường đến giờ cũng đã sắp tròn mười hai con trăng. Nghe đâu, Chu Đệ phái cậu chàng lên tận miền biên cương phía bắc đánh trận với người Mông Cổ.

Cho đến hôm nay vẫn chưa thấy có tin tức nào truyền về.

" Ông, bác, chúng con ra ngoài chơi nhé! "

Lúc hai người Nguyên Trừng, Quý Li còn đang tập trung tinh thần vào cái phao câu, thì giọng nói của hai đứa nhóc đã lãng đãng rơi ở đầu hiên, hoà vào lớp tuyết mỏng đã tan một nửa.

" Hai cái đứa này... "

Hồ Nguyên Trừng thở dài.

Hồ Quý Li thì đánh hai chòm ria mép, nói:

" Tập trung vào đi con. Kệ hai đứa chúng nó. Chẳng nhẽ mày quên lời hứa với cha mày? "

" Lời cha dạy con đâu có dám quên? Nhưng cha cũng thấy rồi đấy. Đúng ra, luyện công xong, chúng nó phải viết chữ một canh giờ, rồi... "

" Vô vị. Vô vị quá... "

Nguyễn Phi Khanh đứng nhổm dậy, phe phẩy cái quạt lông, lại lững tha lững thững đi về phía hai cha con.

" Cậu Trừng cái gì cũng tốt, chỉ phải tội cứng nhắc quá. "

" Nề nếp là cái phải giữ, đâu thể như anh Khanh được, nhàn nhã thích làm gì thì làm... "

Nguyễn Phi Khanh được giao nhiệm vụ phân loại thư tịch cướp được ở Thăng Long, bộ nào chữ Nôm thì phiên sang chữ Hán, rồi đóng thành tập. Công việc cũng tính là nhẹ nhàng.

Nguyễn Phi Khanh cười cười, vuốt chòm râu:

" Xuân này cũng lạnh thật. "

Rồi ngâm:

" Ngưng vân mạc mạc vụ trầm trầm,

Nhưỡng tác dư hàn thập nhật âm.

Đái vũ hữu ngân niêm thụ nhứ,

Thương xuân vô ngữ cách hoa cầm.

Thư trai tịch tịch duy cao chẩm,

Thế sự du du chính bão khâm.

An đắc thử thân như thác lược,

Như phong khư biến cửu châu tâm. "

( Nghĩa là:

" Ùn ùn mây đọng trĩu phù sa

Cơn rét cuối mùa lạnh buốt da

Hạt nước long lanh đeo liễu biếc

Thương xuân lặng lẽ tiếng chim oa

Thư phòng vắng vẻ kê cao gối

Thế sự mênh mang quẫn nổi nhà

Mong được thân này như ống bể

Gió lành thổi mát khắp miền xa " – bản dịch bài Xuân Hàn – tác giả Nguyễn Phi Khanh; của Trương Việt Linh – thivien.net )

Rồi cười ha hả, vừa phe phẩy quạt vừa lóc cóc đi ra đầu ngõ:

" Thú vị. Thú vị. "

Hai cha con Hồ Quý Li thấy y tiện mồm ngâm một bài thơ mà nói rõ nỗi lòng mình như vậy, không khỏi lấy làm phục.

Chẳng biết có phải trùng hợp hay không, mà Nguyễn Phi Khanh vừa đi khuất, sứ giả của Chu Đệ đã đến tận cửa.

" Lê Quý Li, Lê Trừng tiếp chỉ. "

Thái giám giơ cao tờ chiếu thư, húng hắng giọng đọc.

Chẳng là sau khi bị bắt, Chu Đệ đã hạ khẩu dụ, bắt hai người phải đổi về họ Lê như cũ. Từ đó trong chiếu thư mới có Lê Quý Li, Lê Trừng.

" Tiếp chỉ. "

" Thánh thượng cho vời hai cha con các ngài vào cung. "

Tên thái giám nói xong, rồi khom người chỉ tay ra ngoài cổng, làm một thủ thế " mời ".

" Kiệu đã chờ sẵn. "

Hồ Quý Li ngửa mặt, cười.

" Cái gì đến xem chừng cũng phải đến. "

Hồ Nguyên Trừng gật đầu.

Kể từ khi hay tin bản vẽ sang pháo bị cướp, chàng đã biết là sẽ có ngày hôm nay rồi.

" Chúng ta bắt bọn nhỏ luyện công cũng chỉ chờ ngày này mà thôi. "

Hồ Nguyên Trừng thấp giọng...

Chu Đệ vẫn ngồi theo cái kiểu nửa nằm trên ngai rồng. Đôi mắt y vẫn khép hờ như lần trước, tưởng như bễ nghễ chẳng để ai vào mắt, kì thực là không để ai nhìn thấu được nội tâm y.

" Lui hết xuống đi... "

Y chậm rãi lên tiếng, hạ lệnh một cái.

Tức thì... văn võ bá quan trong triều vội vàng khom người xuống, lui hết cả.

Sau lần bị ám sát, Chu Đệ đã mở một cuộc đại thanh trừng đẫm máu. Không biết bao nhiêu quan viên vốn có tư tưởng trung thành với vua cũ bị xử trảm vì tội " nghi ngờ tạo phản ".

Thực chất, chỉ là Chu Đệ muốn mượn cớ này, nắm hết triều chính trong tay.

Tửu Thôn đồng tử cho hắn một cái cớ quá hoàn hảo mà thôi.

Những viên đá cản chân đều bị loại bỏ, Chu Đệ mới thực hiện ngay mặt hai quyết sách lớn. Một là dời đô về Bắc Bình. Hai là thi công lại Đại Vận Hà.

Quan văn võ trong triều tất nhiên không ai dám phản đối. Dù sao, gương của những kẻ đi trước... còn chưa mục nát.

Chiếu dời đô Chu Đệ đã thảo sẵn. Chẳng qua chưa kịp xây cung điện phủ đệ ở Bắc Bình, nên còn chưa chuyển qua đó. Thành Kim Lăng vì thế tạm thời vẫn là kinh đô của Đại Minh.

Song, sử quan đời sau vẫn lấy năm ngoái – cái năm Chu Đệ thanh trừng quan viên – làm dấu mốc dời đô.

Tất nhiên, mấy chuyện lằng nhằng ấy chẳng can hệ gì tới cha con Hồ Nguyên Trừng, Hồ Quý Li.

Hai người cũng hiểu điều ấy.

Còn Chu Đệ?

Y sao có thể không biết?

Chu Đệ ngồi thẳng lại trên ngai rồng.

Ngón tay y gõ lên mặt bàn. Cạch. Cạch. Cạch. Từng tiếng nặng nề.

Hồ Nguyên Trừng, Hồ Quý Li đều đang phải quỳ gối, mặt cúi xuống không ngẩng lên. Song, cả hai đều đang chờ đợi cùng một câu nói.

Thời gian như dãn dài ra...

Bất tận.

Sau cùng, Chu Đệ mới nhẹ buông một câu:

" Quân ta ở biên cương... đã bại. "

Ngữ khí nhẹ nhàng, mà đối với hai cha con Hồ Quý Li còn nặng hơn trăm khẩu đại pháo cùng gầm vang.

[ Đến rồi. ]

Hồ Nguyên Trừng chỉ thấy mồ hôi tứa ra khắp lòng bàn tay.

Đôi khi, chờ đợi thứ không biết, cũng không khó chịu bằng bất lực chờ kết cục mình biết trước ập đến.

" Bại bởi... Thần Cơ sang pháo. "

Câu thứ hai, cũng nặng tựa tiếng rít gào của Thần Cơ sang pháo.

" Liễu tướng quân phải cầm binh cố thủ Nhạn Môn quan, nhưng thế như ngọn đèn trước gió. "

Cuối cùng, Chu Đệ đứng dậy.

Một mảnh giấy da nhẹ nhàng, hờ hững, trượt xuống trước mặt Hồ Nguyên Trừng.

" Phải làm thế nào... là tuỳ ở khanh. Trẫm! Không! Ép! "

Nhấn mạnh ba chữ cuối cùng, Chu Đệ phất tay áo, bỏ đi.

Để lại hai cha con Hồ Nguyên Trừng ở lại điện Thái Hoà.

Tiếng giày của Vĩnh Lạc đã loẹt xoẹt, loẹt xoẹt đi xa mãi, nhưng hai cha con Hồ Nguyên Trừng vẫn quỳ mãi ở chỗ đó.

Mãi một lúc sau...

Cả hai người mới ngồi phệt xuống đất, người như mềm nhũn ra.

Nước mắt lã chã rơi... nhuộm đẫm gương mặt Hồ Nguyên Trừng.

" Chu Đệ. Ông thật lợi hại. Ta... thua... rồi... "

Trên mảnh giấy Chu Đệ lia xuống chỉ viết đúng ba chữ.

Phá Thần Cơ!

Cho chàng sống ở đất Kim Lăng, giữa những con người tầm thường nơi bắc quốc.

Bản vẽ pháo Thần Cơ lọt vào tay của Tửu Thôn đồng tử...

Cho Liễu Thăng lên đường xuất chinh.

Tất cả... tất cả... đều là những đường tơ mà con nhện giăng sẵn ra chờ con ruồi xấu số.

Con nhện ấy tên Vĩnh Lạc đế.

Còn con ruồi ngu ngốc sắp sửa tự sa đầu vào lưới...

Chính là Hồ Nguyên Trừng.

Chàng không đang tâm.

Không nỡ nhìn những con người tầm thường, biết yêu biết hận chung quanh chịu cảnh lầm than.

Không nỡ để những đứa trẻ thơ ngây ngoài hẻm phải chịu nỗi đau tan nhà, nỗi nhục mất nước.

Lại càng không nỡ để kẻ thiếu niên anh hùng phí mạng nơi sa trường.

Không nỡ...

Nên không thể không quy phục. Tự nguyện mà quy phục... dâng lên cách phá giải của Thần Cơ sang pháo.

Biết địch, biết ta.

Trăm trận trăm thắng!!

Hồ Quý Li thở dài, lặng lẽ ngâm:

" Canh cải đa đoan tử phục sinh,

Du du hương lý bất thăng tình.

Nam quan điều đệ ưng đầu bạch,

Bắc quán yêm lưu giác mộng kinh.

Tướng quốc tài nan tàm Lý Bật,

Thiên đô kế chuyết khốc Bàn Canh.

Kim âu kiến khuyết vô do hợp,

Đãi giá tu tri ngọc phỉ khinh. "

( dịch thơ:

Bao sự đổi thay, chết lại sinh,

Mờ mờ quê cũ xiết bao tình.

Ải Nam xa cách nên đầu bạc,

Quán Bắc lâu ngày chợt mộng kinh.

Cứu nước, tài hèn, thua Lý Bật,

Dời đô, kế vụng, khóc Bàn Canh.

Bình vàng đã mẻ làm sao gắn,

Đợi giá, ngọc vàng chẳng dám khinh. – Cảm Hoài, Hồ Quý Li, bản dịch của Điệp Luyến Hoa thivien.net )

Lại nói đến chuyện của Lê Hổ.

Ánh lửa xuyên qua từng ô cửa sổ, xách cái nóng đến đâm liên tiếp liên tiếp vào da thịt người ta.

Hai người Lê Hổ, Ngọc Trần nhìn nhau một cái, rồi nhất tề xông ra ngoài.

Chỉ thấy bốn phía khói tung mù mịt, nheo mắt cũng không nhìn được quá hai dặm. Xa xa phía dưới làng, nơi những căn nhà tranh đơn sơ toạ lạc, vô vàn vô vàn lưỡi lửa đỏ rực. Chúng uốn éo, kêu gào trong vũ điệu hoang dại và man rợ. Thỉnh thoảng trở gió, đám lưỡi lửa lại thi nhau chồm lên như một lũ cá tranh mồi.

Lửa thổi quét càng lúc càng dữ dội, tưởng như muốn vét sạch cả biển mây trên thiên không.

" Khốn kiếp! Chúng đốt làng! "

Gã trung niên râu rậm vừa hớt hải chạy lên đồi, vừa thở hào hển. Mặt ông dính đầy muộn than, râu mép cũng bám một đống tàn lửa.

Phạm Ngọc Trần hốt hoảng, kéo vai Lê Hổ mà khóc nấc lên:

" Phải làm sao? Phải làm sao? Tôi chưa muốn chết đâu... "

Lê Hổ cũng sợ lắm. Con người mà. Bị khốn trong biển lửa thì ai mà không sợ?

Nhưng lúc này cậu lại không được phép sợ. Sợ hãi sẽ hỏng chuyện, sẽ khiến vô vàn sinh mạng phải chết oan.

Chỉ thấy cậu ta lên tiếng:

" Quanh đây có giếng nước nào không? "

" Không. Làng này cách sông chỉ có mấy bước chân, căn bản là không cần đào giếng. "

" Chết thật... "

Lê Hổ nghiến răng.

Lửa muốn cháy lan lên đồi thực ra cũng cần một chốc nữa. Nhưng đáng sợ là khói. Chỉ sợ lửa chưa lan tới nơi, mọi người đã lăn ra ngất hàng loạt rồi.

" Phải làm sao... "

Lê Hổ đã hết mưu thật rồi.

[ Phía đông có hở một cửa. Chắc chắn là chỗ hắn đặt phục binh rồi... ]

Lưu Tuấn cho quân phục sẵn trong các ngôi nhà tranh lụp xụp, lấy chính ngôi làng hắn đàn vây đánh làm chỗ mai phục.

Để hở lưng cho quân Hậu Trần?

Thực tế là không!

Lưu Tuấn cho quân đào hào ngăn lửa rồi phóng hoả, đốt các căn nhà ở vòng trong của làng. Lửa sẽ từ từ cháy lan lên tận đỉnh đồi, dồn chết lực lượng mỏng manh còn sót lại trong làng của quân Trần.

Huống hồ, thế lửa đánh động quân Trần...

Đặng Tất tuyệt nhiên sẽ không thể làm ngơ.

Mà nhiệm vụ của Lưu Tuấn cũng chỉ có vậy. Hắn cần phải kéo được càng nhiều quân Trần sang mặt đông càng tốt.

Khi đó, lực lượng ở hai phía tây – bắc sẽ giảm sút.

Thời cơ để Mộc Thạnh công núi sẽ đến.

Nếu quân Trần không cản? Hắn ngại gì mà không chém giết thẳng vào đầu não?

Kế sách có thể nói là thập toàn.

Thế nên Mộc Thạnh không tiếc điểm cho y năm ngàn tinh binh.

" Địch tới! "

Lưu Tuấn liếm mép.

Tiếng chân người rầm rập kia, không phải là tiếng hành quân thì là gì?

[ Phen này ta sẽ cho các ngươi chôn xác ở đây! ]

Đinh Lễ cầm đầu đại quân, vừa đi được mấy bước, thì thấy phía đông núi Thuý lửa cháy rừng rực. Cảm thấy sự chẳng lành, cậu bèn dẫn quân vòng qua phía đông...

Lần trước đã qua làng một lần, nên Đinh Lễ biết rõ, muốn vào làng chỉ có độc một con đường.

Độc đạo chơ vơ...

Hai bên đường tre trúc xanh rì...

Lác đác gỗ vụn, mảnh bát, mẻ kho vỡ tung toé khắp nơi.

Đinh Lễ giục trâu đến đầu con đường thì Đại Thắng bất chợt dừng lại. Nó cọ cọ đầu mũi xuống đất, tai phe phẩy.

Chư tướng sĩ chưa thấy con trâu nào cổ quái như thế, nên rất lấy làm lạ.

Bất ngờ...

Đại Thắng chồm người dậy, rống lên một tiếng " Ọoooo " rung trời chuyển đất. Nói đoạn, nó cọ liên hồi móng guốc chân trái xuống đất, đầu hất mấy cái về phía làng ra hiệu cho Đinh Lễ.

" Mày nói có mùi máu sao? "

" Ọooooo... "

Đinh Lễ bật môi, nhìn qua một hồi.

[ Không được. Xem chừng chủ công đã phản kháng một phen, giờ đang bị vây trong làng, hoặc bị bắt để uy hiếp ta. Mạng ngài nguy trong sớm tối...

Mình nợ ơn cưu mang dưỡng dục của bà Thương... bà chỉ có cậu chủ là con một! Đinh Lễ này chết có xá gì? Nhưng nhà họ Lê không thể tuyệt tự! ]

Nghĩ xong, Đinh Lễ bèn gỡ cây côn xuống, mở miệng quát lớn:

" Ọoooooo!!! "

" Con trâu ngu! Ngu như bò!!! Nói bao nhiêu lần là đừng có át lời tao!! "

Cậu chàng vừa nói, vừa thụi một cú vào đầu Đại Thắng.

Ba quân ngơ ngác nhìn nhau, ai nấy trông đều ngu ngơ như bò xem khẩu hiệu. Họ đang nghi ngờ không biết đầu óc vị tướng nhỏ trước mặt và con trâu chiến của cậu có được bình thường hay không.

Đinh Lễ hắng giọng ho khan một tiếng, rồi quát:

" Chiến!!!!!!!!! "

Nói rồi giục trâu xông thẳng vào làng.

" Nó điên rồi sao?? "

Thấy Đinh Lễ xông bừa lên trước, không chỉ có quân Hậu Trần, đến quân Minh cũng cảm thấy kinh ngạc không thôi.

Lưu Tuấn quát:

" Bắn tên! Giết!! "

Nào ngờ Đại Thắng xung trận một cái, lập tức hoá thành một con trâu điên. Tốc độ của nó chẳng thua gì Xích Thố thần mã cả.

Huống hồ...

Thể hình nó to lớn, sức khoẻ kinh hồn, lại có cặp sừng lợi hại. Nếu để hai bên gặp nhau trên chiến trường, linh hoạt Đại Thắng có thể không bằng, đấu trực diện Xích Thố chỉ có đường chết!

Chỉ thấy con Đại Thắng húc thủng lớp tường rào như người ta lấy đao bén đâm tờ giấy mỏng. Tốc độ của nó chẳng giảm, còn tăng thêm, phi bừa vào một nhà gần nhất.

Rầm! Uỳnh!

Tường đổ sập xuống, đè lên mấy tên lính Minh đang náu trong đó. Giữa lúc lớp bụi mờ vừa tan, Đinh Lễ đã ra tay. Cây côn sắt tung hoành đập ngang bổ dọc, đánh chết cả bọn.

" Không có... "

Không thấy bóng chủ công, Đinh Lễ lập tức thúc con Đại Thắng.

Trâu thần lấy đà, rồi rống lên, húc thủng bức tường khác, lao vào căn nhà kế bên.

Lưu Tuấn trông con thần ngưu chở Đinh Lễ hung hãn san phẳng hết nguyên một tá nhà dân, biến cả một góc làng thành bình địa nhoe nhoét máu thì kinh sợ đến độ không ngậm nổi miệng.

Đây còn là con người hay sao???

Lúc này quân Hậu Trần cũng đã ùa vào.

Sự dũng mãnh của Đại Thắng, thần uy của Đinh Lễ khiến quân Minh cứng hết cả người, đến giờ mới kịp phản ứng lại.

" Trên đó!! "

Đinh Lễ ngước mắt lên, thấy ngôi đình làng đặt trên đỉnh đồi bị bủa vây trong ngọn lửa bèn đoán ngay ấy là nơi chủ công gặp nạn.

" Toàn quân! Giết!!! "

Một tiếng rống giận, một tiếng kêu trợ uy cho chủ của Đại Thắng, sĩ khí quân Hậu Trần tưởng như Phạm Nhũ được chắp lại đôi cánh thần, bay lên tận chín tầng trời.

Đinh Lễ hung mãnh, nhưng không phải ngốc.

Cậu chàng biết địch quân có mai phục.

Nhưng chúng không biết con Đại Thắng thần ngưu lợi hại.

Nên cậu đề phòng chúng, chúng không đề phòng cậu.

Cái đó gọi là... biết địch biết ta.

Đinh Lễ múa côn xông thẳng lên đồi, đi đến đâu là vung côn đến đấy. Côn lia qua, quật nát cả vách đất, kéo cả một ngôi nhà sập hẳn một góc.

Còn con Đại Thắng, cứ cắm đầu lao tới trước không cần biết trước mặt nó là cái gì.

" Mau!! Kết thuẫn trận! "

Lưu Tuấn gầm lên trong kinh hãi.

Tại sao lại có con trâu ghê gớm như thế?

Quân Minh kết thành phương trận, thuẫn bài giơ hết ra trước, tay lại khoá lấy nhau. Người này đặt tay lên lưng người kia trợ lực, dần dà hình thành một bức tường thành con con. Thoạt nhìn, thì vững chắc vô cùng.

Đáng tiếc...

Đại Thắng thần ngưu có sức húc chết cả voi chiến.

Ruỳnh!!!

Con Đại Thắng thấy người ta cản nó, càng hung hãn.

Nó xông thẳng tới trước, đầu cúi thấp, cổ quất mạnh sang hai bên.

Thuẫn trận tưởng như vững chắc nháy mắt vỡ tan tành, chẳng khác nào tổ kiến dưới cơn nước lũ.

Lưu Tuấn sợ quá hoá giận, gầm lên:

" Đến đây!!! "

Nói đoạn vung kiếm nhảy xổ tới.

Đinh Lễ vung bổng, quát:

" Cút! "

Đầu gậy đúc bằng sắt đặc vụt ngang, thế như sấm sét, nhanh như điện chớp.

Kiếm của Lưu Tuấn gãy vụn...

Cánh tay Lưu Tuấn cũng bị ngọn bổng quét trúng, gãy rồi

Y ngã vật ra đất, thổ huyết, toàn thân đau ê ẩm. Kình lực của Đinh Lễ mạnh như sấm gầm sét nổ, lại tầng tầng lớp lớp như sóng biển. Trước ngọn bổng của Đinh Lễ, Lưu Tuấn cơ hồ không có sức đánh trả.

Tròng mắt y mở to, kinh hoàng nhìn móng con Đại Thắng phủ bóng đen chết chóc lên mặt mình.

Rầm!

Ngực y trúng một đạp của trâu thần.

Xương ngực tức thì gãy làm ba bốn đoạn, tim cũng bị chấn nát bấy. Máu tươi ộc ra khỏi miệng, đầu ngoẹo đi, tức tưởi mà chết không nhắm mắt.

Y cho quân mai phục trong từng căn nhà, khắp các hẻm to ngách nhỏ trong làng chỉ chực chờ quân Trần đến là lao ra. Có ngờ đâu, lại có một kẻ điên cưỡi trâu có thể đánh thẳng một đường từ đầu làng lên tận đây?

Y đã tính rằng, kẻ địch sẽ thận trọng tiến lên, cẩn thận cùng y đi từng chiêu từng nước, đấu trí sinh tử.

Nhưng nào có ngờ...

Đại Thắng tuy xác là trâu, nhưng ăn thịt uống rượu chả khác gì hùm beo lang sói. Thành thử, nó đặc biệt mẫn cảm với hơi máu.

Trâu thần thông linh, hiểu ý chủ nhân muốn xông lên cứu người cho sớm. Thế nên nó cứ nhè chỗ nào hương máu nhạt nhất mà xông vào. Quân Minh vừa chém giết một mẻ, thân toàn mùi máu rắn. Muốn bao vây con Đại Thắng?? Đúng là khó hơn cả lên trời.

Đinh Lễ xông đến trước ngọn lửa nóng rực, lưỡi lửa bùng lên thổi rát mặt, mắt thấy không thể nào xông lên được. Cậu chàng nghĩ một lúc, bèn thúc bụng Đại Thắng.

Con trâu rống lên, lui mấy bước lấy đà.

Đinh Lễ hít sâu một hơi, đoạn vung côn thật mạnh một cái:

" Rầm! "

Đất mùn ẩm, bị lửa đốt khô lại. Đinh Lễ giộng côn một cái, là đã bị đánh nát ra. Cậu chàng lại chuyển thân, quét gậy một cái, đánh văng hết đám đất đá đó vào ngọn lửa.

Thế lửa thoáng yếu bớt...

Không đợi chủ ra hiệu, Đại Thắng thần ngưu đã xông thẳng vào ngọn lửa.

Đinh Lễ nằm sát lưng trâu, một tay nắm sừng, tay kia kẹp côn. Lưỡi lửa xung quanh chồm lên, thiêu da đốt thịt.

" Ọoooo! "

" Ahhhhhh! "

Cả người và trâu đều kêu lên đau đớn.

May sao, trời mới đổ mưa lớn, cây cỏ còn ướt. Thành ra lửa không lan ra quá nhanh được. Tường lửa còn mỏng, người và trâu phóng qua, mà chỉ bị bỏng nhẹ. Bộ lông trắng như tuyết của con Đại Thắng đã lem nhem đen lại mấy chỗ. Có vài nơi lông bị hun đến dựng lên.

Đinh Lễ nén đau, lảo đảo ngồi thẳng dậy trên lưng trâu.

Chỉ thấy trước đình làng có mấy chục người, đều tựa người vào cửa hoặc dựa lên cột đình. Lê Hổ và Phạm Ngọc Trần ở cùng một chỗ.

" Cậu lớn! Tôi đến rồi đây! "

Đinh Lễ cao giọng quát, đoạn cưỡi Đại Thắng chạy đến.

Lê Hổ nhíu chân mày, khó nhọc mở mắt.

" Lễ... đấy à... "

Chỉ có ông trung niên râu rậm là còn tỉnh táo. Ông đỡ Ngọc Trần lên ngồi phía trước Đinh Lễ, lại xé áo của mọi người, bọc chặt lấy hai người họ. Những tấm áo ướt đẫm mồ hôi...

" Cứu... người... mau... "

Lê Hổ thều thào, tiếng cậu càng lúc càng nhẹ như tơ.

Đinh Lễ nhìn sang phía mọi người, bàn tay siết quanh sừng con Đại Thắng càng chặt hơn.

Trung niên nhìn ra phía đông, đôi mắt phản chiếu ánh lửa, cháy lên một cái vẻ mơ màng... lơ đãng như người say.

" Ngoài kia chắc vẫn đánh giết dữ lắm. "

Ông nói.

Đinh Lễ gật đầu, một cách nặng nề. Cậu cứ è è cái gì ở cổ họng, nhưng không ra tiếng được.

" Cậu nhớ chuyển lời giúp tôi đến chủ cậu. Tấm lòng của cậu ta đối với chúng tôi, tôi rất biết ơn. "

Nói rồi, ông chắp tay sau lưng, đi về phía bậc thềm của ngôi đình.

" Cậu ta có tài lắm đấy. Hơn tôi nhiều. Sau này kháng Minh ắt làm nên cơm nên cháo. Chớ có vì mấy tên vô dụng chúng tôi mà lỡ dở. "

Ngồi xuống.

Lửa đã bén vào mái đình. Cột kèo sơn son đã có những chỗ chuyển thành một màu than cháy khét.

" Đi đi... "

" Ahhhh! "

Đinh Lễ hét nấc cả lên, lệ anh hùng rơi xuống, vỡ tan trên đầu con Đại Thắng.

Không kịp.

Dù cậu có xông ra, gọi hết mọi người lên đây cứu hoả cũng đã không còn kịp nữa. Lính Minh đâu phải gà đất chó kiểng mà nói bỏ qua là bỏ qua? Thậm chí, lát nữa đây, Đinh Lễ xông qua màn lửa... chờ cậu có phải thiên quân vạn mã hay không cũng còn chưa biết.

Để Đinh Lễ và Đại Thắng xuyên thủng hàng ngũ chỉ là nhất thời bất ngờ. Quân Minh dù mất đầu lãnh, nhưng tinh nhuệ thiện chiến, không ngoại trừ khả năng sẽ kết đoàn chờ sẵn sau lớp rèm rừng rực.

Mà trung niên xem chừng cũng bị khói hun yếu lắm rồi. Tự xông ra ngoài là chuyện không thể...

Ấy là lí.

Nhưng tình...

Chẳng lẽ cứ trơ mắt nhìn người ta chết cháy thành than?? Ấy là đồng loại, đồng bào của Đinh Lễ... Cậu có phải lũ lòng lang dạ thú đâu mà bảo bỏ mặc là bỏ mặc.

" Cứu cậu lớn quan trọng... Chư Vị!! Đinh Lễ thề sẽ đánh chết Mộc Thạnh, rửa hờn cho mọi người! "

Đinh Lễ quát vang, rồi thúc chân vào Đại Thắng.

Lần này, cậu chàng gác gậy ngang eo, đùi kẹp chặt Phạm Ngọc Trần, một tay còn lại giữ thật chặt Lê Hổ.

Con Đại Thắng rống lên, phóng qua ngọn lửa.

Trung niên nhìn lưng trâu trắng biến mất trong biển lửa rực trời, bèn ngồi xuống, chậm rãi nhắm mắt lại.

Cột kèo cháy thành than, mái đình bốc cháy phừng phừng đổ sụp xuống đám người đang bất tỉnh bên dưới.

Tiếng nhà đổ vang lên sau lưng, nhưng Đinh Lễ không khóc ra nước mắt được nữa.

Lệ đã bị nong khô.

Gương mặt cũng lấm lem vết than đen sì, ngang dọc vệt bỏng sưng tấy đỏ rộp.

Quân Minh lo lắng chĩa mũi đao, đầu kiếm về phía Đinh Lễ.

Thiếu niên gác gậy sắt trên vai, sau lưng phấp phơ lá soái kì đang bắt lửa. Đằng xa truyền về tiếng chân trâu chạy huỳnh huỵch, tưởng như khiến cả mặt đất phải rung chuyển theo từng bước.

May sao, con Đại Thắng lao bừa ra ngoài, lại đúng chỗ quân Minh chưa vây kín. Đinh Lễ bèn thoăn thoắt đặt hai người họ ngay ngắn lên lưng trâu, đoạn vỗ vào mông con trâu một cái.

Thần ngưu hiểu ý chủ, lập tức cọ móng lao vút về phía dòng sông.

" Lên! Lên đi! "

" Không có con trâu quỷ quái ấy thì sợ gì thằng nhóc này? "

Đinh Lễ gỡ chiến kì cháy dở ra, quăng xuống đất.

Đôi mắt cậu long sòng sọc, đỏ quạch lên. Ấy là vì khói hun, hay do nguyên nhân nào khác? Chỉ có mình Đinh Lễ biết mà thôi.

" Giết... "

Ánh mắt cậu vẫn mải dõi theo hoa lửa cuốn tro bụi bay lên lần cuối cùng từ ngôi đình làng, nhưng cánh tay đã vung bổng sắt một cái.

Lời nói hẵng còn lãng đãng trên tầng không, nhưng người thì đã sấn ngay tới chỗ quân Minh đang đứng. Đinh Lễ xoay bổng, đánh ra một chiêu Lão Mai Nghinh Phong.

Ngọn bổng quét mạnh, đánh trúng ngay be sườn của một tên lính Minh. Chẳng đợi y kêu đau, kình lực khổng lồ của Đinh Lễ đã nhấc bổng y lên, quăng mạnh hắn về sang mé hữu, nhằm ngay lúc đồng bọn gã đang lố nhố chạy tới cứu viện.

Chỉ nghe đánh rầm một cái, năm sáu người ngã lăn ra đất, quằn quại.

Bổng chưa thu về, Đinh Lễ đã bước chéo sang bên trái, bàn tay phóng ra chụp trúng trán của một tên lính Minh khác. Năm ngón tay như sắt ròng quặp vào đầu, như muốn bấu thủng xương mặt khiến y đau thấu tâm can.

Đinh Lễ nhướn lên, đẩy vai, giộng cả người tên lính xuống đất.

Máu tươi bắn lên đôi má, nhuốm tanh vết bỏng phồng rộp.

Đinh Lễ có thể cảm nhận được hơi thở của kẻ thù hắt qua kẽ tay cậu yếu dần, yếu dần. Người hắn run bắn lên mấy cái, hệt như tàn lửa lắt lay trước gió cố gắng cháy lên một lần cuối... Đỏ rực. Rồi tắt phụt.

Mé trái, bảy mũi kiếm đồng loạt đâm tới.

Bên phải, năm lưỡi đao nhất tề chém ngang.

Tiếng thét gào, tiếng chửi bới, tiếng kiếm vung đao chém tinh tang...

Bỗng chốc hóa thành tiếng rên la, tiếng khóc van, và tiếng sắt thép gãy vụn...

Chỉ một cây gậy nặng chình chịch, cùng một nắm đấm gân guốc. Ấy thế nhưng có cảm giác như trăm đao, ngàn kiếm cũng không thể cản nổi bàn chân trần lấm đất. Quân Minh thi nhau ngã rào, như lúa trên đồng bị liềm gặt ngang thân. Có kẻ quằn quại rên rỉ, có kẻ thì chẳng có cái cơ hội ấy, mồm rỉ máu tắt hơi chẳng biết tự bao giờ.

Ấy là may mắn, hay xui xẻo, có lẽ chỉ có chúng mới tự quyết định được.

Đinh Lễ càng đánh càng hăng, càng đánh càng khỏe. Phảng phất như thể lực của cậu ta mênh mang hơn cả biển Đông, ngút ngàn hơn cả núi Tản. Bước chân dậm xuống, mang theo cái thế hung hãn của sông Đà đổ sập. Ngọn bổng vung ra, biến ảo như núi Hồng chín mươi chín ngọn.

Hôm nay...

Tắm máu!

Đinh Lễ vừa đánh vừa chạy, từ giữa trùng vây đánh ra một con đường nhuộm máu.

Quân Hậu Trần thấy y uy dũng hiên ngang, phong thái lẫm liệt, nhất thời trong tim cũng rạo rực một bầu máu nóng. Khí thế phản chiếu qua ngọn lửa trong đáy mắt, cháy lên càng lúc cao.

" Đinh tướng quân... "

Có không ít người chạy đến, tri viện cho Đinh Lễ.

" Giết! Một tên cũng không để thoát! "

Đinh Lễ chống gậy xuống đất, thở ra một hơi thật dài.

" Tướng quân đừng lo. Ngài cứ dưỡng sức, chỉ chúng tôi đánh thế nào là được! "

Đinh Lễ gật đầu, đoạn ánh mắt chuyển hướng ra bờ sông.

Lê Hổ nhíu mày, rồi choàng dậy. Mặt cậu chàng ẩm ẩm, ấm ấm, kì lạ lắm.

Té ra con Đại Thắng quăng cậu xuống bên bờ sông, rồi ngậm nước nhả vào mặt cả hai cho tỉnh.

" Đại Thắng?? Mày đến cứu bọn tao?? Chủ mày đâu? Mọi người nữa... Cứu được không? "

Lê Hổ vừa nghĩ đến chuyện ở làng nhỏ, hốt hoảng hỏi.

Kì lạ làm sao, khi một người lại đi hỏi một con trâu chuyện phức tạp đến như vậy. Thế nhưng, con Đại Thắng đâu phải trâu bình thường. Chỉ thấy nó gật gật đầu, rồi lại lắc mạnh đầu sang hai bên.

" Không... cứu được... sao? "

Lê Hổ nhả từng chữ, khó nhọc.

Con trâu gật gật.

Nghe hiểu được tiếng người, đối với nó đã là chuyện khó. Bảo nó biết nói dối, biến báo, chỉ e quả thực phải đợi đến khi nó thành tinh mới được.

" V... vậy à... "

Lê Hổ ngồi thụp xuống, ngơ ngác nhìn ra dòng sông đang chảy xiết.

Đoạn...

Bốp!

Lê Hổ đấm mạnh xuống đất, hét lên một tiếng thật dài.

Đến cuối cùng, cậu vẫn chẳng cứu được ai hết. Hai lần liền... Chẳng còn ai sống sót cả.

Con Đại Thắng cọ mũi vào áo cậu, kêu lên mấy tiếng như thể an ủi.

Lê Hổ bần thần mất một lúc, rồi đứng dậy, vỗ vào mông Đại Thắng, lại hất đầu về phía ngôi làng:

" Chạy qua chỗ chủ của mày đi. "

Đại Thắng lắc đầu.

" Yên tâm. Tao không nghĩ quẩn đâu. "

Đại Thắng cọ móng, đoạn ngồi phịch xuống nhất quyết không đi.

Lê Hổ phì cười, nói:

" Mày nghĩ tao ngu lắm chắc, chả lẽ khi không lại đi tìm chết? "

Đại Thắng nheo mắt nhìn cậu chàng đầy nghi ngờ.

" ... "

Uỳnh!

Bất thần, có tiếng động lớn vang lên, đánh động cả mặt sông đang yên ả.

" Có chuyện gì?? Tiếng động phát ra ở phía tây... lẽ nào? "

Lê Hổ vùng dậy toan chạy, nhưng người còn yếu ớt vì khói nong, chưa được mấy bước đã ngã phịch xuống.

Phía tây núi Thuý...

Gian kế của Mộc Thạnh, đã thành!

Đặng Tất cắt năm ngàn binh cho Đinh Lễ, lực lượng thủ núi mỏng đi thấy rõ. Quân của Mộc Thạnh chỉ chờ có vậy, bèn xua thuyền nhỏ lên đánh kịch liệt vào cửa sông mé tây núi. Hai bên giằng co thêm nửa canh giờ, cuối cùng quân Hậu Trần không chống cự được đến lúc nước triều xuống, đành phải lui gấp.

Quân Minh do Lữ Nghị dẫn đầu được thể kéo cả lên bờ, nhưng không vội đánh hạ núi Thuý. Một mặt Nghị cho quân cắm chốt giữ chặt bờ sông, sau đó đóng cầu phao, chờ sẵn đại binh từ thuyền lớn.

Mộc Thạnh đưa thuyền lớn đến vùng ngã ba sông thì dừng, mượn đội quân của Lữ Nghị làm bàn đạp, đánh thẳng lên núi.

" Giết! "

Quân Trần nấp sau các khóm tre, bụi rậm bắt đầu túa ra, đánh chặn quân Minh.

Đường núi nhỏ hẹp gập ghềnh, khúc khuỷu khó đi. Quân Trần túa ra đánh từ trên đánh xuống, đại quân Mộc Thạnh nửa bước cũng khó mà tiến lên. Quân Hậu Trần ăn vận giản dị, võ khí cũng thô sơ hơn hẳn. Nhưng lại hơn ở địa lợi, và liều mạng. Mộc Thạnh thấy kẻ địch người nào người nấy mắt đều đỏ quạch, đứt tay đứt chân cũng chẳng coi là gì, chỉ biết xung phong thì không khỏi đổ mồ hôi.

Lão thuận thế vung siêu chém chết hai người, rồi hét to:

" Cờ của Trần Ngỗi ở trên núi! Người nào bắt được Giản Định, thăng quan ba phẩm! "

Quân minh nghe lão hứa hẹn, lòng tham nổi lên, mới bắt đầu liều chết mà đánh.

Hai mặt tây, nam núi Dục Thuý, kiếm thay cây, đao thay cỏ, nhất tờ giương lên như muốn chọc thủng cả bầu trời, chém đứt cả quả núi. Chân người dậm xuống ầm ầm. Tiếng người hét lên inh ỏi. Tiếng thép gầm, sắt rú thi nhau vang lên dội vào vách đá. Núi Dục Thuý rung chuyển ầm ầm.

Mộc Thạnh múa siêu xung phong, quân tướng Hậu Trần không ai đỡ nổi mấy hiệp với lão. Tay lão đã bị Hồ Đỗ chém rụng, nhưng tháng năm sa trường đã ăn vào máu thịt. Quân tướng nhà Hậu Trần, dẫu ai cũng có võ nghệ, cũng không phải đối thủ của lão.

Lữ Nghị vốn có lòng hận người Nam, nay lại càng được thể ra tay tàn độc. Chiêu nào chiêu nấy của hắn cũng thâm hiểm tàn nhẫn, khiến người ta đau đớn mà không thể chết nổi.

Đặng Tất đứng trên đầu con dốc, vừa điều binh khiển tướng, vừa cho đại binh lui gấp lên núi.

Mộc Thạnh vừa nhác thấy y khuất dạng sau những tán cây, lập tức gầm lên:

" Bọn chúng đã cùng đường! Đánh! Đánh thẳng lên núi! "

" Mọi người mau đánh lên, quân Hậu Trần không thể chạy nổi nửa đâu!! "

Lữ Nghị cười gằn, lại hớn hở dẫn quân xông tới trước tiên, theo sát chân Mộc Thạnh.

" Triệu Cơ, lần này ngươi lập được công lớn! "

Mộc Thạnh thấy quả nhiên trên núi tung bay lá cờ của Trần Ngỗi thì lấy làm mừng rỡ lắm. Có trận chiến ngày hôm nay, công lao không nhỏ thuộc về gã người nước Nam nhỏ bé đang theo sát sau lưng lão.

Trần Triệu Cơ!

Người dựng cờ ở Mô Độ, đưa Giản Định lên ngôi.

Trần Triệu Cơ thấp giọng:

" Nhà Hậu Trần đang lúc dùng người, quân tướng ô hợp. Để mấy tên gian tế trà trộn vào không khó... "

Mộc Thạnh cười vang:

" Đúng vậy! "

Mộc Thạnh dẫn quân đánh lên tận đỉnh núi...

Rừng cây đã ngưng lại, lộ ra một bãi đã ngổn ngang lổn nhổn. Trên núi dựng mấy cái lều, nóc treo cờ của Trần Ngỗi. Bên cạnh lại đặt một cái trống trận rất to.

" Nghịch tặc Giản Định, giả danh con cháu nhà Trần, cấu kết với bọn Đặng Tất, Cảnh Chân ý đồ bất chính! Nay Mộc vương gia ngài đem thiên quân đến tiễu trừ, còn không ra chịu chết!?? "

Im lặng.

Lữ Nghị cười gằn:

" Không ra?? "

Nói đoạn, y sấn tới, dùng kiếm chém bục vải lều...

" Hả?? Không có ai?? "

" Bên này cũng không có! "

Mộc Thạnh xách siêu chém đổ một cái lều, cũng không thấy một bóng người nào.

" Chẳng lẽ... "

Lão bất giác nghĩ đến một khả năng.

Một khả năng cực kì đáng sợ.

Phừng!!!!

Đoàng! Đoàng! Đoàng!

Pháo gầm vang.

Tiếng gươm giáo khua vang tưởng như đã ngớt, nay lại bắt đầu vang lên không ngừng.

Chẳng rõ từ lúc nào, hoả pháo đặt ở bờ bắc núi Thuý đã quay ngược đầu, thi nhau bắn phá đỉnh núi tựa hồ muốn dần nát từng hòn đá thành bùn nhão!

Phía tây, phía nam đều bốc lửa phừng phừng. Lửa bén vào hoả dược, dầu và lá khô cháy lan ra càng lúc càng nhanh.

" Lí nào lại thế??? "

Mộc Thạnh gào lên.

Hai lần!! Đến hai lần liền, lão trúng phải kế tự đốt doanh trại của người Nam.

Một lần do Hồ Nguyên Trừng làm.

Lần này lại do Đặng Tất.

Tiếng người quát lên lanh lảnh càng khiến cơn giận của Mộc Thạnh bốc cao, có khi còn cao hơn cả ngọn lửa đang vây chặt lấy đại quân.

" Mộc Thạnh!! Không ngờ sẽ có ngày này đúng không? "

Lên tiếng...

Chính là Trần Triệu Cơ!

" Hôm nay, dù có đốt trụi núi Thuý, ta cũng phải bắt ngươi chôn cùng!! "

Y gầm lên một tiếng, nói đoạn, lao thẳng về phía Mộc Thạnh. Y đứng quá gần Thạnh, thành thử thân vệ của lão không cách nào phản ứng kịp.

" Không tự lượng sức! "

Mộc Thạnh còn đang cáu điên vì bị vào tròng, nhất thời không thể nào nhịn được nữa, vung siêu lên chém ngang bụng Trần Triệu Cơ. Đòn này lão đã dùng toàn lực, cộng thêm ngọn siêu sắc bén khôn cùng. Nếu không lánh mũi nhọn, ắt phải bị siêu của Thạnh xả làm hai nửa.

Nào ngờ, Trần Triệu Cơ chẳng những không tránh không né, còn lao vào lưỡi siêu.

Phụt!

Một đống bột văng vào người, vào tay, vào râu tóc Mộc Thạnh.

Còn Trần Triệu Cơ, lặng lẽ ngã xuống đất, bất động trong vũng máu tanh ngòm.

" Đây là... hoả dược! "

Thứ mà Trần Triệu Cơ quăng vào Mộc Thạnh...

Chính là thuốc súng.

Người khác có thể liều mạng chịu bỏng, lao ra khỏi lửa.

Nhưng bây giờ Mộc Thạnh không thể nào làm như thế được.

" Hay... hay cho một Trần Triệu Cơ... giỏi cho một khổ nhục kế... "

Mộc Thạnh ngửa cổ, cười vang...

Núi Dục Thuý, lửa cháy ngập trời!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro