Hồi năm: Đại Ngu doanh Quần Hào phóng hoả /cửa Muộn Hải quân Hồ rút lui

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hãy cùng trở về quá khứ khoảng nửa canh giờ trước khi Quận Gió ra mặt.

Quân doanh nhà Hồ...

Một đoàn người lùi lũi đi từ phía nam lên, hướng về phía quân doanh. Bọn họ mặc áo rách, ở vai lúc lỉu một cái bị vá chằng vá đụp, trông dáng đi lọm khọm và hơi run rẩy. Tóc và chòm râu trắng hiện ra bên dưới tấm vải rách chùm đầu. Cánh tay lộ ra ngoài không khí đen xạm những miếng cao thuốc bắc.

Họ là ăn mày ư? Có lẽ nói là dân chạy nạn thì hợp lí hơn. Một toán mấy trăm nạn dân già yếu đang làm gì ở nơi chiến tranh loạn lạc này kia chứ?

Phía sau lớp rào gỗ, sĩ tốt nhà Hồ đã phát hiện được những người này. Họ lập tức tỏ ra cảnh giác. Có người hô hào gọi thêm người, kẻ thì chĩa giáo vào đám người không cho họ tiếp cận tường thành.

Một tốp nỗ binh đứng trên những cái thang gỗ tạm thời, lăm le mũi tên hướng về phía nạn dân. Chỉ một tiếng hiệu lệnh thôi, một trận mưa tên sẽ dội xuống đầu đoàn người.

Thế rồi...

Phía mặt bắc bất thình lình vang lên tiếng trống báo hiệu có địch tập kích, đồng thời có một tiểu tốt chạy lại thông báo yêu cầu điều quân cứu viện. Nỗ binh quét mắt nhìn đám người một cái, sau đó lục tục hạ nỏ trèo thang xuống. Nếu như mặt bắc bị tập kích, thì họ nên dàn bớt lực lượng qua bên đó để cứu viện.

Ngờ đâu, những người ăn mày đột nhiên quăng nón lên không trung. Rắc! Tiếng kêu giòn tan bật lên, lớp rào gỗ gia cố bằng những thanh tra ngà bị một vật gì đó nhọn hoắt phạt đứt. Đồng thời, một đống ám khí đủ thể loại cũng được ném vào qua các chỗ thưa của hàng rào.

Nào là những loại thông thường như Kim Tiền Tiêu, Thiết Tật Lê, Văn Tu Châm... Cho đến cả các loại độc môn hiếm thấy trên giang hồ như Khổng Tước Linh của Bách Điểu Sơn Trang trấn Thái Nguyên, Long Đỗ Chuỷ của phái Bạch Mã xứ Nghệ.

Bị đánh úp bất ngờ, khiến nhóm nỗ binh chẳng kịp trở tay. Một bộ phận trượt chân khỏi thang, ngã lên những người bên dưới. Mấy người đi đầu vận kình lực, vỗ một chưởng thật mạnh vào tường rào đã đứt đôi.

Binh lính nhà Hồ chỉ kịp nghe đánh " ầm " một tiếng, sau đó cát bụi mờ mờ dần cuộn lên từng đám từng đám. Vừa định thần nhìn lại, thì một đám người giang hồ đã túa vào. Lúc này họ đã dùng tay bôi nhoe nhoét lớp hoá trang trên mặt, nhìn không rõ diện mạo ai với ai cả.

Lọt doanh thuận lợi, cả đám bắt đầu tản ra hành động. Người thì châm đuốc đốt trại, kẻ thì múa đao lao vào đánh nhau với quân triều đình.

Binh nhà Hồ biết là trúng kế " Dương Đông Kích Tây ", song hiện giờ binh lính các nơi đang túa cả về phía bắc thì lấy đâu ra quân nữa để chi viện? Ấy là còn chưa nói những nạn dân giả còn chuyên trị phái ra một người dùng khinh công lướt khỏi vòng chiến, tay nắm kiếm sắc chọc thủng lớp da căng mặt trống. Hết cái này đến cái khác bị tên này phá hoại, thành thử họ muốn kêu cứu viện cũng không được.

Thì ra từ nửa tháng trước quần hào võ lâm mấy tỉnh phía bắc từ đã nghe hiệu lệnh của " bắc phương thiên đạo kiếm " - Thiên Cơ Lão Đạo toả ra khắp nơi, nghiên cứu cẩn thận đường đi lối lại của quân nhà Hồ để dễ bề chuẩn bị cho hành động lần này. Kế đó quần hùng âm thầm bám theo, phá hoại quân Đại Ngu để góp sức " Phù Trần ". Trận thua nửa tháng trước của Hồ Nguyên Trừng cũng là do họ quấy rối mà nên.

May thay quân triều đình là binh lính chính quy được đào tạo bài bản. Họ nhanh chóng kết trận, phản kháng lại đợt tấn công như vũ bão của nhân sĩ võ lâm.

Những tay giang hồ thảo mãng này tuy võ công lợi hại hơn, nội lực cao thâm hơn thật, nhưng đánh chẳng có quy củ lề lối gì cả. Mạnh ai nấy đánh, sống chết mặc bay, chỉ thích hợp chuyện đánh tay đôi.

Trái lại, quân triều đình biết hỗ trợ, cảnh giới lẫn nhau nên lúc hỗn chiến thế này họ càng tỏ ra lợi hại hơn, dù bị đối thủ bỏ xa về chiến lực cá nhân.

Lúc này, Hồ Xạ đã kịp từ cánh tây chạy tới cứu viện. Y vốn đang trên đường tiếp viện cho mặt bắc, đi ngang qua đó thì nghe tiếng chém giết và ánh lửa vọng lại. Nhờ thế mà biết quân thủ trại do y và Hồ Đỗ cầm đầu đã trúng kế của địch.

Vội vàng gom được một cánh quân chừng trăm người, Hồ Xạ đang muốn đánh úp từ mé trái qua thì đã trông thấy một người lướt đi như bay, chọc trống nhanh thoăn thoắt. Y bèn cười khẩy, bảo thuộc hạ:

" Xem ta bắn rụng tên kia đây. "

Nói rồi không chần chờ chút nào, rút ngay một mũi tên nhắm vào kiếm khách nọ mà phóng. Thần kỹ ném tên này của Hồ Xạ đến cả Mộc Thạnh cũng khó lòng tiếp được, tốc độ và sức mạnh tất nhiên không phải bàn cãi.

Kiếm khách nọ nghe tiếng gió, biết có ám khí đang bắn tới. Y chậm rãi đưa tay lên, lưỡi kiếm trong tay đột nhiên biến từ màu trắng thành sắc đen. Mũi tên hiểm ác đã lao vọt tới, kình phong bật lên tanh tách nghe mà kinh hãi. E rằng chỉ một nửa cái hô hấp nữa thôi sẽ bắn thủng mắt toạc đầu người kiếm thủ.

Vụt!!

Thế rồi, lưỡi kiếm đen trũi chạm nhẹ lên thân tên một cái. Cạnh kiếm lách êm ru vào góc giữa đầu tên và thân tên. Người kiếm khách kia chân vẫn chạy, song cổ tay lại từ từ xoay tròn một cái.

Dưới con mắt trừng lớn của Hồ Xạ, mũi tên hắn ném ra với tám thành nội lực bị động tác nhẹ hều của người kiếm khách đẩy ngược về phía chủ. Cứ nghe tiếng gió thì biết, xét về lực bắn e là còn mạnh hơn trước.

Hồ Xạ giật cả mình, vội vàng phóng liên tiếp hai mũi tên mới hoá giải được đòn bắn ngược của kiếm khách. Y không dám không cẩn thận, thủ sẵn mấy mũi tên trên tay nghiêm cẩn đối địch.

Mà tay kiếm khách kia phát kì chiêu xong, bèn thu tay lại không đánh nữa. Lưỡi kiếm thò ra từ tay áo dài cũng đổi sang màu trắng tuyết. Dưới ánh nắng chiều, mọi người đều nhìn rõ hình dáng của nó. Không thẳng, chẳng cong, mà lại uốn lượn như một con rắn đang trườn. Đúng là một thanh quái kiếm, mà tay nghề của người rèn kiếm thì lại càng kinh khủng. Có lẽ chỉ có thể dùng " thần hồ kì kỹ, xảo đoạt thiên công " để miêu tả mà thôi.

Kiếm khách lại lấy cái ấm nhỏ bên hông ra. Ấy cũng là một ấm trà kì quái. Cái nắp ấm bằng đất sét như được gắn liền với thân, dù có lắc lư thế nào cũng không rơi ra ngoài. Mà ở vòi còn có nhét một cục đất nhỏ. Kiếm khách mở cái nút bịt ở vòi, châm trà vào li đất rồi nhấp một hớp.

Toán cung binh đứng la liệt ở xa, cung đã giương nỏ đã kéo chỉ chờ Hồ Xạ hô một tiếng là sẽ nhất loạt bắn vào người tay kiếm khách kia. Hiện tại chung quanh y không có lấy một nhân sĩ võ lâm nào, quả là thời cơ tuyệt hảo để triệt hạ.

" Tướng quân, hay... "

" Đồ ngu, muốn chết thứ cứ việc bắn! Ta cũng đang muốn xem xạ thuật của chú mày so với thiết kị Mông Cổ ngày xưa ai lợi hại hơn đây. "

Hồ Xạ khẽ quát, lại nhìn về phía tay kiếm khách kia. Binh sĩ tuy vẫn bán tin bán nghi, song thấy thái độ của Hồ Xạ đột nhiên trở nên nghiêm trọng tới vậy thì cũng biết điều mà thoáng lỏng dây cung. Kiếm khách nay đã uống hết nước chè trong chén, lại bình thản dùng tay áo lau khô đôi môi mình.

" Tản ra các hướng, chặn đánh bọn chúng. Cốt phải bẻ gãy được nhuệ khí, không để chúng đốt phá thêm nữa. Ta sẽ lo tên này. "

" Dạ. Các anh em nghe tướng quân nói rồi đấy, chia ra hành động. "

Quân sĩ túa ra các ngả, chỉ để lại mỗi Hồ Xạ mặt đối mặt với kiếm khách bí ẩn. Xạ thấy binh sĩ đã đi hết, lúc này mới nhét tên lại vào bao, cất tiếng:

" Lục Bình, chú cũng đến phá hoại việc công của bọn anh à? "

Thì ra kiếm khách vừa hoá giải một mũi tên thần tốc của Hồ Xạ chẳng phải ai khác ngoài Long Thành Kiếm Khách Phạm Lục Bình. Hồi còn định đô ở Thăng Long, Đỗ, Xạ và y từng có thời gian cùng phục vụ trong cấm quân, ba người thân như anh em ruột thịt. Về sau nhà Trần bị soán ngôi, Lục Bình mới xin xuất ngũ, đi làm kiếm khách lang thang.

Phạm Lục Bình lau hết đống hoá trang trên mặt, để lộ ra diện mạo của một thanh niên còn rất trẻ. Mái tóc đen tuyền cắt ngang vai, ôm lấy gương mặt phảng nét hào hoa nho nhã, lại vương vẻ hào sảng anh hùng. Nơi đáy mắt in rõ sự ương bướng ngang ngạnh. Hai hàng chân mày y đặc biệt sắc, không thua gì mũi kiếm trong tay.

" Thời thế thay đổi, chúng ta từ anh em sống chết có nhau, nay lại phải dùng đầu đao lưỡi kiếm mà giáp mặt trên chiến trường. Hồ Xạ, nếu còn coi Lục Bình này là anh em thì mau qua phía bắc gọi Hồ Đỗ tới đây đi. Hôm nay tâm trạng tôi rất tốt, nên chẳng muốn phá vỡ lời thề năm nào của tổ tiên. "

Phạm Lục Bình lắc đầu, sau đó vung tay ném một vật màu nâu to cỡ hạt mít về phía Hồ Xạ. Vị tướng nhà Hồ đưa tay bắt lấy, thì té ra là một cái chén con. Bên trong sâm sấp nước chè xanh, hương trà hãy còn vương lại chưa tan, mà sờ thì vẫn ấm lắm.

Chén đất rất giòn, ném nhanh và mạnh như vậy, thì cho dù bắt được cũng phải sứt vỡ vì phản chấn khi va vào lòng bàn tay y. Thế nhưng dù hiện giờ đã ngay ngắn nằm trong tay Xạ rồi mà nó vẫn lành lặn như chén mới. Miệng vẫn tròn vành, không méo hay nứt dù chỉ một góc. Muốn thực hiện được điều này, ắt phải khống chế được xảo kình ở vai và cổ tay đến một mức độ cực kì cao siêu.

" Lục Bình dùng trà thay rượu, xin kính người làm anh anh một chén. Uống hết trà, hai ta từ nay ân đoạn nghĩa tuyệt. Lần tới gặp lại, không phải ngày ấy tôi chết, thì năm sau ắt là giỗ đầu của anh. "

Hồ Xạ nhận chén, uống cạn, lại tiếp:

" Ta đã uống phần ta, song tên Đỗ thì không thay được. Chú cũng biết tính anh chú rồi, lỗ mãng đơn giản. Chẳng thế mà cứ bị người ta trêu là Hồ Đồ mãi. "

Phạm Lục Bình cụp mắt, cất bình trà rỗng với chén đi, lại nói:

" Hồ tướng quân, trên chiến trường một khắc quý ngàn vàng. Đừng phí thời gian kể lể chuyện cũ nữa, ta đã bao giờ quên đâu? "

Hồ Xạ thoáng thở dài. Chẳng phải ngẫu nhiên mà cách xưng hô giữa hai người lại thay đổi. Tiếng " Hồ tướng quân " ấy sao mà xa cách thế?

Y lại theo hướng cũ len lỏi qua các trướng bồng, hướng về phía bắc để cảnh báo cho Hồ Đỗ. Cuối cùng chỉ còn Phạm Lục Bình ở lại với mấy cái trống đã thủng. Y tựa lưng lên một mặt trống lớn, mắt nhắm lại lắng nghe âm thanh của cuộc chiến. Ngọn lửa bén vải lều cháy bùng lên phừng phực, tiếng người chửi bới rên la đang kéo xa dần về phía cửa biển. Y bất giác cao hứng hát khẽ mấy câu, lại lẩm bẩm:

" Trà hết rồi, chè cạn rồi. Lá trà hãy còn ở đây, song cũng chỉ có cái ấm biết mà thôi... "

Tình nghĩa anh em chiến hữu mấy năm ròng, một chén trà lau sạch được ư? Cho dù thực là trà cạn tình vong, thì lá trà hãy còn trong ấm, nhưng ngoại trừ cái ấm đất kì dị bị bịt mắt bịt mồm kia ra thì làm gì còn ai khác biết?

*) chú thích:

Kim tiền tiêu: nói thẳng ra là tiền xu. Đây là loại ám khí thông dụng và phổ biến do tính hợp pháp của nó ( không ai cấm mang tiền cả ). Tính sát thương không lớn, song dùng để điểm huyệt khá tốt

Thiết tật lê: ám khí nặng, bằng sắt dày, khi ném có thể gây thương tích lớn cho mô và gân

Văn tu châm: dịch ra là kim râu muỗi, mảnh như râu con muỗi vậy. Thường bôi chất độc gây tê. Tốc độ rất nhanh, song lực sát thương khá hạn chế trừ khi nhắm được vào mắt hay tử huyệt. Ngoài ra châm này khá yếu, nên dễ gãy nếu bị chém hay đập trúng

Khổng Tước Linh và Long Đỗ Truỷ sẽ được giải thích ở phần sau của truyện

Mặt bắc doanh trại...

Hồ Đỗ múa một đôi rìu chiến. Ấy là loại ngắn tay để giao chiến trên đất chứ không phải thứ có cán dài chuyên dùnh đánh trên lưng ngựa. Đôi mắt y trợn tròn vo, mồm quát oang oang:

" Cái đám giang hồ các ngươi đúng là được đằng chân lại muốn lân lên đằng đầu. Mồm xưng hiệp nghĩa, thế mà lại đi bán nước giúp giặc phương bắc. Quả thật là miệng nam mô, bụng một bồ dao găm! Rặt một lũ chó cả!!! "

Hồ Đỗ nóng tính, lại ít khi nghĩ trước khi làm. Thấy cái đám đục thuyền ngày nào nay lại dám đến phá hoại lần nữa, y lập tức thấy cáu sôi hết cả tiết lên, muốn vác rìu mà bửa cả đám ấy ra.

Lại có một tay đầu trọc, lưng xăm hình rồng ác nhảy chồm tới. Dáng người y thấp lùi, cánh tay không thô to cường tráng nhưng bắp thịt rắn chắc rõ ràng. Lùn nhưng bộ ngực lại nở vòng cung, trông khá là buồn cười. Một tay y cầm búa, tay kia xách đục xồ tới đánh với Đỗ. Búa bổ ngang quét dọc, còn dùi thì y dùng như một cây phán quan bút để đả huyệt, hoặc như một cây chuỷ thủ hơi cùn. Hồ Đỗ đang nóng máu, lại gặp kẻ thù chủ động nhảy tới thì lập tức vung rìu lên mà đánh.

Choang!!

Lực đạo của Hồ Đỗ rất lớn, sau khi phát động được thần công mà Lý Thân truyền lại thì càng thêm hùng hồn như cuồng phong bạo vũ, voi chiến Hai Bà. Mỗi rìu giáng xuống khác nào núi non sạt lở, từng cú phạt ngang mạnh tựa sóng biển vỗ bờ. Nhưng đối thủ của y cũng chẳng kém phần. Lợi dụng hình thể thấp lùn, y hết né trái lại tránh phải, liên tục dùng búa với dùi đánh vào Hồ Đỗ.

Tay này cũng là dạng nóng tính, nghe Hồ Đỗ chửi xong, y phản pháo ngay:

" Đám quan binh các người nặng sưu nặng thuế, bắt trâu trộm chó, ép buộc dân chúng tòng quân. Dân chúng bọn tao không sống nổi, mới phải vùng lên đạp đổ cái vương triều giặc cướp bọn mày xuống, phục hưng nhà Trần. "

" Ăn nói vớ vẩn, giặc đến nhà đàn bà phải đánh! Đã là Việt gian bán nước mà còn già mồm bao biện hả, tao phải chặt mày làm hai khúc! "

Hồ Đỗ gầm lên, múa rìu càng thêm hăng. Song tên trọc quả thực là tay hảo thủ. Y né ngang luồn dưới, giống như một con lươn trơn tuột cứ trượt qua trượt lại ngay trước lưỡi rìu của Đỗ. Đã vậy còn thuận thế dùng dùi tấn công Hồ Đỗ tới tấp nữa. Máu đỏ tứa ra nhuốm áo, song chỉ giúp hung tính của Đỗ càng mạnh lên

Đầu trọc phát hiện Hồ Đỗ càng bị thương, lực đạo lại càng lớn thì không khỏi giật mình. Điều này là trái ngược hoàn toàn với thường thức trên giang hồ về võ thuật. Mới phân thần thôi, một rìu của Đỗ đã vụt nghiêng tới. Y không kịp vận khí, chỉ đành dâng vội búa lên đỡ, liền bị quái lực khủng khiếp của Đỗ đập cho tê rần cả hai tay.

Thì ra Hồ Đỗ sau khi thua Thạnh thì cả ngày thất thần. Y biết chỉ vì mình háo thắng mà để nguyên soái quân địch chạy thoát, lòng không khỏi thấy uất ức và hối hận lắm. Trở về, y giam mình trong soái không ra gặp ai hết, thương thế cũng không thèm chữa trị, chỉ băng bó qua loa lấy lệ.

Vốn dĩ định lấy cái chết tạ tội, ai ngờ lại khiến thần công vô danh của Đỗ chỉ nội trong một đêm tinh tiến đến tầng thứ tư. Từ đó y mang sức mạnh gấp 4 lần lúc giao đấu với Mộc Thạnh.

Hiện tại mỗi cú đánh hời hợt của Đỗ cũng đã mạnh kinh hồn, chứ đừng nố đến một phát toàn lực. Song giờ thương thế hắn chưa lành, lại chưa kịp thích nghi với sức mạnh mới nên tay đầu trọc mới chiếm thế thượng phong.

Hồ Đỗ càng bị thương thì lực đạo càng lớn. Qua trận chiến với Mộc Thạnh, y càng hiểu thêm ưu thế của bản thân, bèn bất chấp việc trúng đòn, dùng đấu pháp liều mạng với đầu trọc.

Đầu trọc là người có danh tiếng khá lớn trong giang hồ, cũng là tay cao thủ thường xuyên nếm vị máu vương trên đầu dao mũi kiếm. Thành thử kỹ thuật đơn đấu của y thành thạo hơn cả Hồ Đỗ hay Mộc Thạnh, song so khả năng ứng biến chẳng thể nào bì được với các chiến tướng đã đạp lên hàng ngàn cái xác.

Chỉ mười mấy chiêu, lối đánh: chịu đấm ăn xôi của Hồ Đỗ đã phát huy tác dụng. Y đột nhiên dùng cán rìu thúc mạnh từ hai bên, đập trúng ngay hai huyệt Nhĩ Môn của đầu trọc. Đây là hai yếu huyệt nằm ở chỗ lõm trước vành tai con người.

Đầu trọc trúng cú ấy choáng váng cả đầu, suýt rơi vũ khí. Song y cắn răng nhịn đau, vội vàng gọi đồng bọn rút lui. Cả lũ nhảy tùm xuống nước, thoắt cái đã bơi đi mất dạng. Hồ Đỗ định cởi giáp nhảy xuống sông đuổi giết bằng được, thì Hồ Xạ mới vừa chạy đến đã lên tiếng gọi.

" Đỗ!! Bên mặt nam đang nguy, mày trúng kế người ta rồi. "

" Tiên sư bố nhà chúng nó chứ!! Mà Hồ Xạ, biết rồi sao còn chạy ra đây gọi tao mà không đánh chết cha chúng nó đi? Đến thằng Đỗ đần độn như con bò này còn thấy ấy là việc ngu xuẩn nữa là. "

Hồ Xạ trợn mắt nhìn Hồ Đỗ, nói:

" Biết là tốt. Đi! Trên đường rồi nói. "

Hai người kéo nhau dùng khinh công trở lại khu nam của trại, nơi đang bị quần hùng châm lửa đốt phá lung tung cả lên. Hồ Xạ vừa phát tên đánh nhân sĩ võ lâm vừa kể cho Hồ Đỗ chuyện của Phạm Lục Bình, về chung trà đoạn tình cắt nghĩa. Đỗ nghe xong, cười vang:

" Có thằng Bình ở đấy thì mày bắn thế chứ bắn giỏi nữa cũng bó tay bó chân là đúng. Mà thằng ấy trông thế mà vụng. Mấy năm rồi không được ngụm nước chè nào của nó, vậy mà không biết qua mời anh Đỗ nó một chén. Nào! Đi! Đánh cho xong còn uống chè nữa chứ. "

Hồ Xạ thấy Đỗ không hề bất ngờ, cũng chẳng tỏ vẻ mất mát như trong tưởng tượng thì hơi ngớ ra. Y lại hỏi:

" Đỗ, mày có bị dở người không? Bình thường mày coi tình anh em còn nặng hơn mạng kia mà, sao hôm nay lại... "

" Mỗi thời nó mỗi khác. Cứ đánh xong giặc Minh, thiên hạ thái bình, thì ta lại làm anh em. Khi ấy ngồi uống chè, ăn nhậu với nhau thì chả sướng à? Khổ não mà làm gì. Bã trà hãy còn trong ấm kia kìa. "

Hồ Đỗ vung rìu chém ngang người một hảo thủ phái Hy Cương, vốn ở mạn Phú Thọ ngày nay. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình là nơi họ hay hoạt động, nước thì lấy ở cái đầm gần xã Phù Lộc. Vì gắn liền với những quả đồi trong truyền thuyết " trăm voi chầu đất tổ ", nên phái này còn có tên là Bách Tượng.

Máu bắn ra, song Hồ Đỗ chỉ càng cười vang:

" Đám giả nhân giả nghĩa, Hồ Đỗ này bổ các ngươi như bổ củi, lát còn đi uống chè. "

Nhân sĩ võ lâm các phái chẳng hiểu y nói gì, song thấy thần lực của Hồ Đỗ kinh người thì không dám coi thường. Hồ Đỗ dựa vào dị bản của Lý Thân thần công, xông thẳng vào chỗ đông người mà chém giết. Y lấy một chống nhiều, tả xung hữu đột giữa vòng vây của quần hùng như chốn không người.

Hồ Xạ trông thấy cảnh này, chỉ biết cười khổ:

" Hồ Đồ ơi là Hồ Đồ, thực ra mày đâu có hồ đồ đâu? "

Đấu pháp nhìn như liều mạng ấy, đối phó với nhân sĩ võ lâm lại hiệu quả không ngờ. Vì không có kỷ luật, nên không ai dám phóng ám khí sợ đả thương người cùng phe. Còn Hồ Đỗ nào có quan tâm ba bảy hai mốt, cứ chỗ nào có người thì văng rìu vào đó. Nay lại thêm Hồ Xạ ở xa ném tên triệt hạ từng tên từng tên một, chẳng mấy chốc mà nhân sĩ võ lâm tổn hao nặng nề.

" Đốt nhiều lương, phá nhiều súng của quân Hồ rồi. Rút mau anh em! "

Chẳng biết là ai khởi xướng, song nhân sĩ võ lâm đang bị đánh cho vêu đầu mẻ trán thì đâu để ý được nhiều thứ như thế? Đến nhanh, rút đi càng nhanh hơn. Lúc này cái điểm lợi hại của khinh công được thể hiện ra rõ rệt. Trong võ lâm, ai mà chưa từng học qua những môn tối căn bản như Nhạn Hành công để giúp cơ thể nhẹ nhõm, Bích Hổ Du Tường để trèo tường leo vách?

Cả đám cứ theo đường cũ mà chạy, chẳng cần bao lâu đã mất tăm mỗi người một ngả. Hồ Đỗ Hồ Xạ đi kiểm tra, thống kê lại số thuốc súng và lương thảo bị cháy. Dù chỉ hao tổn mất ba phần, song ấy cũng là do họ tắc trách mà nên chuyện. Lại thêm chuyện Thái Bình thất thủ, nên hai người thấy tội mình to lắm.

Cách cửa biển năm dặm có gò đất cao giữa khoảng rừng thưa. Lúc này quần hào nước Nam vừa mới phóng hoả đốt trại Hồ, chính đang tập trung bàn tán đến

" Phạm huynh không hổ danh là Hồng giang giao long, cháu của lão tướng quân Phạm Hữu Thế. Cái nghề lặn đã luyện đến mức muốn sao được vậy. Cũng nhờ có huynh và anh em Thập Bát Liên Trại tập kích bất ngờ mặt bắc, chúng ta mới dễ dàng nhập doanh. "

Phạm Hách ôm quyền, nói mấy câu tỏ vẻ khiêm nhường. Nhưng ý cười trong đôi mắt thì chẳng che giấu chút nào.

Hình dáng y khá là kì lạ. Vóc người y thấp lùn, tay chân gầy gò, cũng chẳng thấy lực lưỡng gì cho cam. Song bắp thịt chắc khoẻ, xương cứng ngực nở, đủ thấy là một cao thủ nghề lặn. Tóc y húi trọc, là để xuống nước dễ bề hành động hơn.

So với tổ tiên là danh tướng Yết Kiêu xuống nước như trên đất bằng thì Phạm Hách còn kém xa, song vẫn là một tay hảo thủ trong cái nghề lặn nước đục thuyền. " Kim Quy Tức công " và sáu mươi bốn đường " Yết Kiêu chuy pháp " độc môn của nhà họ Phạm càng danh tiếng lừng thiên hạ, thành thử Phạm Hách trong chốn võ lâm cũng là nhân vật có chân tài thực học.

Thập Bát Liên Trại thực chất là mười tám trại thuỷ tặc phân bố dọc theo các nhánh chính và ở các cửa sông lớn của sông Hồng. Mười tám trại chủ tôn Phạm Hách làm đại vương, hoành hành khắp một vùng châu thổ rộng lớn. Chúng chuyên cướp bóc tàu bè lại qua, dân tình muốn được yên thân thì phải nộp phí bảo vệ cho chúng.

Song vừa rồi đánh với Hồ Đỗ lại bị y chiếm thượng phong, giáng cho một cái đau điếng vào hai huyệt Nhĩ Môn nên đến giờ Phạm Hách vẫn còn thấy đầu hơi ê ẩm. Y thầm nguyền rủa Hồ Đỗ, đồng thời cũng tự hỏi nhà Hồ có dũng tướng uy mãnh như thế từ bao giờ.

" Lần này quần hùng tụ hội, phóng hoả đốt lương ắt sẽ gây nên một trận oanh động truyền khắp võ lâm Nam quốc. Các vị anh hùng chốn đây chắc cũng cách ngày tiếng thơm vang dội không xa nữa, Phạm mỗ xin chúc mừng trước."

Mấy tay hiệp khách khác cũng cười cười đáp lễ, song trong lòng thì biết rõ trong chốn võ lâm mình chỉ là hạng vô danh tiểu tốt, lần này đến Muộn Hải hò hét trợ uy là chính.

Lúc này lại có một tay kiếm khách đứng ra:

" Khách sáo rồi, bọn tiểu tốt chúng ta sao xứng với hai chữ anh hùng Phạm huynh vừa tặng. Phạm huynh không hổ là hậu duệ của bậc lương đống ngày xưa, trong chốn võ lâm hiện tại ngoại trừ bảy vị tông sư ra, e chỉ có huynh mới xứng là bậc anh hùng chân chính mà thôi. Chẳng bù cho ai đó, không nhờ hồng phúc của tổ tiên thì e rằng ngay cả tư cách đứng ở chốn này cũng chẳng có. Nếu là ta, thì sẽ tự biết thân biết phận không đến. Trước là tự cứu thể diện dòng dõi hiền thần, sau là không hạ thấp mặt mũi Phạm Hách huynh đây, mọi người thấy có đúng không? "

Tức thì, vô số người nhao nhao hưởng ứng. Quả thực trong lần công doanh vừa rồi, Phạm Lục Bình - Long Thành Kiếm Khách - chẳng những không xuất thủ đánh người mà còn can gián mọi người đừng giết quá nhiều quân triều đình. Đánh xong, có người còn thấy y ở lại thưởng trà với thần tướng cầm hai rìu vừa đánh mọi người thất điên bát đảo.

Quần hùng có người cho hành vi ấy là hèn nhát, sợ phiền. Kẻ lại nói là vô năng chỉ biết hưởng phúc ấm tổ tiên. Thành thử không ít người đã có thành kiến sâu nặng với y. Nay lại có người kích động, tất nhiên sẽ có khá nhiều người hưởng ứng.

Lại nói từ sau khi nhà Hồ tiếm quyền, Phạm Lục Bình chỉ hoạt động ở vùng kinh đô Thăng Long. Nơi này thường xuyên có trọng binh nắm giữ chứ không lộn xộn như trên chốn giang hồ tỉnh lẻ. Không mấy khi động thủ, nên danh tiếng Phạm Lục Bình rất thấp, võ lâm các tỉnh ít ai biết tới.

Nếu không phải vì Thiên Cơ Lão Đạo tự thân mời, e là quần hùng còn chẳng biết Phạm là ai. Song cũng vì lẽ ấy, mà vô danh tiểu tốt lại càng tức Lục Bình anh ách.

Cách đó không xa, một người đột nhiên ngẩng đầu lên. Ánh mắt y như điện lôi xé trời, sắc như lưỡi đao cắt qua bóng tối. Chỉ riêng ánh mắt đã làm giật mình không ít người. Còn tưởng là sát thủ giết người không gớm tay, hoặc là độc sư sát nhân trong vô ảnh, ai ngờ nhìn kỹ té ra lại là một thư sinh.

Chỉ thấy người này mặc áo trắng phau như mây, tóc bện theo kiểu học trò. Sau lưng có đeo một cái hạp gỗ, không biết bên trong chứa thứ gì. Y nhìn về phía Phạm Hách giữa quần hùng, cười khẩy một tiếng:

" Phạm huynh cũng cho rằng lời ấy là phải? "

" Lục Bình lão đệ chớ nóng nảy, mọi người chỉ bày trò nói đùa với nhau cho bớt phần căng thẳng mà thôi. "

Phạm Hách thấy đôi mắt thư sinh đã rét lạnh như hàn sương, không khỏi ho khan một tiếng khuyên can.

*) Phạm Hữu Thế: tên thật của Yết Kiêu. Yết Kiêu thực chất là tên một loại cá lớn ngoài biển

Trên giang hồ, hiếm ai mà không biết Long Thành Kiếm Khách Phạm Lục Bình là hậu nhân của danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão. Đừng thấy Lục Bình này trông yếu ớt vậy mà lầm, một khi Thư Hùng Song Đầu Kiếm đã vào tay, hiếm khi không thấy máu.

" Có gì không đúng chứ?? Đừng thấy Phạm huynh khách sáo với ngươi mà nhầm tưởng. Sinh ra tên hậu bối nhược phu sợ phiền toái như mi, Phạm lão tướng quân đúng là vô phúc! "

Tên kiếm khách nọ còn chưa biết mình vừa dạo qua Quỷ Môn quan, bèn lớn tiếng ho to gọi nhỏ. Y ỷ có Phạm Hách sau lưng nên muốn tâng bốc vị trại chủ này mấy câu, sau sẽ thuận tiện nương nhờ Thập Bát Liên Trại. Nhưng y nào có biết Phạm Hách lại hết sức e ngại giao thủ với Phạm Lục Bình. Hai bên mà động thủ động cước thì e là giao long sông Hồng sẽ bị đánh vảy.

" Mi có thể nói lại?? "

Phạm Lục Bình cười nhẹ một cái, nét cười thoáng qua đôi môi nhanh như một cơn gió xuân lướt qua nhánh cỏ. Y từ từ tháo hạp gỗ trên lưng xuống, làm như muốn mở nó ra.

Phạm Hách vội can:

" Thư Hùng Kiếm là bảo kiếm năm xưa Hưng Đạo Vương ban cho Phạm lão tướng quân, vốn là để giết quân Thát Đát bảo vệ nước non. Nay lão đệ để nó nhuốm máu đồng tộc là không hay. "

Xoẹt!!!

" Phạm huynh, cần gì nói giúp hạng vô năng này?? Để Bình mỗ lĩnh giáo bảo kiếm do Hưng Đạo Đại Vương ban thưởng một phen. "

Họ Bình rút kiếm, tung mình vọt về phía trước. Một chiêu đâm của y cũng rất là khá, lực đạo cũng mạnh. Kể ra thì cũng được tính vào hạng hảo thủ tam lưu trong chốn võ lâm. Chỉ tiếc là...

Phạm Lục Bình cười một cái, chờ cho đối thủ đến ngay trước mặt mới ra chiêu. Họ Bình chẳng kịp nhìn thấy kiếm của đối thủ đã cười thầm trong dạ, trộm nghĩ:

[ Tên này đúng là tay mơ. Ta chạy đến trước mặt hắn, khí đã vận, thế đã súc. Chiêu Trường Hồng Quán Nhật nay sẽ càng thêm nhanh, thêm mạnh. Hắn thì lại khác. Tính từ lúc mở hộp, lấy kiếm, phản kích thì cũng phải mất mấy hô hấp liền, thì giờ đâu mà vận khí súc thế? Phen này ta thắng chắc rồi! ]

Vừa lướt qua nhau họ, họ Bình đã ôm mặt kêu gào, lăn lộn khóc than ngỡ như nhà chết mất trâu. Trong khi đó Phạm Lục Bình thì áo quần vẫn chỉnh tề, làn da lộ ra ngoài không có một vết xước. Chỉ cần một chiêu, chênh lệch như trời vực đã lộ rõ.

Những tay hảo thủ trong quần hào đều nhìn ra, ngay lúc mở nắp hộp lên thì Lục Bình đã thuận thế ấy mà nghiêng người đi nửa li, vừa vặn tránh khỏi nhát kiếm của đối thủ. Đồng thời, quái kiếm của y lại đâm trúng ngay má phải kẻ địch.

Nay thấy cảnh tay kiếm họ Bình ôm mặt, máu rỉ qua kẽ ngón tay đầm đìa thì ai cũng lạnh run lên. Nhát kiếm nặng cỡ đó, không biết có huỷ hoại luôn dung mạo của người ta không. Ấy là đối phương hãy còn lưu tình không hạ sát thủ, bằng không nhát kiếm thần tốc kia đã vọt thẳng tới cổ họ Phạm.

" Nhớ kỹ, cái miệng làm hại cái thân. Nếu còn có lần sau, e rằng nơi đây sẽ có thêm một nấm mồ. "

Phạm Lục Bình vẩy nhẹ vũ khí cho máu rơi khỏi lưỡi thép. Dưới ánh trăng đang lên cao và ánh lửa bập bùng, ai cũng thấy rõ hình dáng vũ khí của y. Đó là một thanh quái kiếm, trông cứ như là hai thanh trường kiếm phổ thông với phần chuôi được gắn vào nhau.

Hai lưỡi kiếm, một đầu đúc bằng sắc đen như mực, vuông vức không mũi nhọn cạnh sắc. Mà đầu còn lại làm từ thép lạnh trắng tinh, uốn lượn như con rắn đang trườn. Máu hãy còn nhỏ tong tỏng từ mũi thép sắc lẻm.

Tương truyền thanh quái kiếm này là vũ khí thành danh của Phạm Ngũ Lão năm nào. Ông tung hoành trên sa trường, giết được vô số binh tướng Nguyên Mông là nhờ công rất lớn của nó và bộ kiếm pháp " Đảo Nam Nghịch Bắc ". Tương truyền, Thư Hùng kiếm là do ông tổ nghề đúc Khổng Lồ chế nên dựa trên hình dáng của loài sóc và phương pháp tạo hình kiếm mới học ngoài hải ngoại.

Ban đầu kiếm có cái tên đơn giản là Sóc. Về sau Hưng Đạo Vương cảm thấy tên ấy không có được cái uy dũng của bậc chiến tướng, bèn đổi là Thư Hùng, lấy ý là đầu đen, thô tượng trưng cho đực ( Hùng )- là dương cương, còn mảnh nhọn đại diện cho mái ( Thư ) - là âm nhu. Ngoài ra còn có ý khen Ngũ Lão dũng mãnh phi phàm, kiếm ở trong tay, mấy ai dám quyết một trận thư hùng. Song Đầu Kiếm là những lãng khách giang hồ may mắn được diện kiến cổ kiếm thêm vào cho dễ hiểu.

Nếu tích ấy là thực, thì thanh cổ kiếm đã xuất hiện trong bài " Thuật Hoài " của ông. " Hoành sóc giang sơn kháp tỉ thu " có lẽ chữ " Sóc " trong này, chính là để chỉ huý danh của cổ kiếm chứ chẳng phải một loại thương cổ như người đời vẫn tưởng, mặc dù với một cây thương trong tay thì Ngũ Lão cũng vẫn là một hổ tướng.

Tiếc rằng thi nhân, cũng là chủ nhân đầu tiên của quái kiếm, qua đời đã lâu, nên trên thế gian chẳng còn ai biết được thực giả nữa.

Lại kể đến chuyện của Lục Bình. Y làm cho náo loạn một trận, khiến quần hùng vì lẽ ấy mà khiếp sợ. Vô số người thầm nghĩ: " hay cho một tên Lục Bình, giết quan binh thì chẳng dám, lại sẵn sàng đả thương người của mình. "

Căm ghét rồi, nên hễ ai có chút cốt khí đều toan tuốt đao rút kiếm ra sống mái một phen. Lục Bình nào có sợ, gác kiếm ngang lưng sẵn sàng nghênh đón. Không khí thoắt cái trở nên căng tựa dây đàn, kiếm bạt cung giương. Mà Phạm Hách tự nhận là có uy có vọng, hiện tại lại chẳng dám ngăn cản.

Đột nhiên, có tiếng quát ầm vang vọng lại từ phía đông:

" Vừa mới cùng chung chiến tuyến, chẳng mấy chốc quân ta đã quay qua đánh quân mình, còn ra cái thể thống gì nữa??? "

Thanh âm người nói trầm mà chắc, mặc dù có chút tang thương, nhuốm màu năm tháng nhưng chẳng lộ chút già yếu nào. Đáng sợ hơn là công lực. Tiêng quát bật lên giòn như tiếng pháo, vang như tiếng sấm. Rừng cây xung quanh rào rào trút lá, trên đất thì sỏi đá bật tanh tách.

Trong quần hào, những ai nội lực đã có chút hoả hầu thì cũng nghiêng trái ngả phải, nội lực thấp thì đua nhau ôm tai mà ngã. Chỉ có những người tầm cỡ Phạm Hách, Phạm Lục Bình mới có thể dựa vào một thân nội công không tệ mà chống đỡ, thế nhưng cũng chẳng lấy gì làm dễ chịu.

Mọi người tự giác tách ra một con đường, để cho vị mới tới bước lên đỉnh đồi.

Hướng đông tiến tới một lão đạo sĩ. Tấm đạo bào màu xám hơi sờn chỉ khẽ quét vào đám lá rơi trên mặt đất, một thanh kiếm chưa rời bao nằm ở trong tay. Tóc bạc dài tới vai, râu trắng lơ phơ ngang ngực. Dưới cái trán cao đã hiện nhiều nếp nhăn ngự một đôi mắt đen huyền, thâm sâu như biển rộng. Lão bước đi nhẹ tới nỗi, đất xốp bên sông cũng không in lại dấu giày.

Ấy là một trong bảy tông sư, tề danh với hai người Quận Gió và Khiếu Hoá Tăng: Thiên Cơ Lão Đạo. Trước khi Hồ Quý Li chính thức đăng cơ mấy năm, ông dựa vào hai bộ võ công kinh thế hãi nhân là Thiên Đạo Thần Kiếm và Thiên Cơ Thần Chưởng tham gia Hội Chí Tôn, đoạt được một trong ba thánh lệnh võ lâm là Quần Hùng lệnh.

Kể từ đấy, Thiên Cơ Lão Đạo được tôn làm minh chủ võ lâm mười trấn phương bắc, cả chốn võ lâm đất Nam đều sùng bái gọi một tiếng Thiên Sư. Lần này nam tiến, thâm nhập quân doanh đốt lương huỷ súng chính là do ông ta hiệu lệnh.

Thiên Cơ Lão Đạo bước lên đỉnh đồi, mới phất tay áo:

" Trước khi nhà Hồ sụp đổ, mọi người đều là anh em chiến hữu. Có câu anh em như thể chân tay, sau này đừng làm ra những việc đấu đá lẫn nhau như vậy nữa. Về phần Bình lão đệ, ở đây lão nhân có một bình Liên Sơn Mai Hoa Dịch, dù chẳng dám sánh với thuốc tiên của Đồng đảo chủ ngoài đảo Bạch Long, song đối với thương thế của lão đệ hẳn là có công dụng ít nhiều. "

Nói rồi tiện tay ném một bình ngọc về phía họ Bình. Y vươn tay định chộp lấy, nào ngờ bình ngọc đang rơi đột nhiên từ nhanh hoá thành chậm, xoay tròn mấy vòng thì đã đặt ngay ngắn trên đất. Thậm chí một tiếng vang nhỏ cũng không có. Công phu ngự khí cao thâm nghe mà rợn người.

" Đội ân Thiên Sư ban cho thuốc quý. "

Họ Bình tay ôm mặt, tay cất bình ngọc lùi lũi thối lui vào đám người, nháy mắt đã chẳng còn thấy đâu nữa. Hận ý chắc chắn là có, nhưng y cũng chỉ biết trách mình miệng tiện mà thôi, chứ muốn báo thù một kiếm này e rằng cả đời cũng không làm nổi.

Giải quyết xong mâu thuẫn, Thiên Cơ Lão Đạo mới ôn tồn cất tiếng:

" Chư vị, nửa tháng sau chúng ta tái ngộ ở Tây Đô, chứng kiến cảnh Hồ tặc bị bắt như thế nào. Có được không? "

" Được lắm!!!! "

Tiếng dạ ran của quần hùng vang xa đến mấy dặm, tuy không ẩn chứa nội lực hùng hậu như tiếng quát lúc đầu của Thiên Cơ Lão Đạo, nhưng thắng ở thanh thế.

___o0o___

Doanh trại nhà hồ bốc cháy một cách bí ẩn. Hồ Nguyên Trừng đang chiến đấu với quân Minh trên mặt sông buộc lòng phải từ bỏ truy kích, cho đội thuyền chiến quay đầu lui về cứu trại.

" Tướng quân, bọn thuộc hạ làm việc tắc trách vô năng, đã để mấy tay giang hồ thảo mãng ấy đột nhập vào quân doanh, mong tướng quân trách tội. "

Vừa bước xuống khỏi cầu tàu, Hồ Đỗ và Hồ Xạ đã dẫn theo binh sĩ đến quỳ trước Hồ Nguyên Trừng thỉnh tội. Hai tướng đều cúi thấp đầu, không dám ngẩng mặt nhìn chàng. Trước là để Mộc Thạnh chạy thoát, không giữ được cửa Thái Bình. Sau lại tắc trách để doanh trại bị hoả thiêu. Hồ Đỗ Hồ Xạ biết tội mình nặng vô cùng, chẳng những đầu không giữ được trên cổ mà có khi gia quyến cũng bị liên luỵ.

Hồ Nguyên Trừng, không nổi cơn lôi đình như trong tưởng tượng của hai tướng. Trái lại, chàng chỉ thở dài và nhìn xa xăm. Bàn tay vốn xiết chặt sau lưng từ khi ngọn lửa đầu tiên bốc cháy dần lỏng ra... Một tiếng thở dài buột ra, mang theo vẻ mất mát và thất vọng.

" Hai người đứng lên, dẫn ta đến chỗ đó. Ta muốn xem tận mắt thiệt hại do ngọn lửa gây ra. "

Hồ Đỗ và Hồ Xạ dẫn Nguyên Trừng đến kho lương. Mặt đất bị phủ lên một lớp tro dày, đen đặc. Vài mẩu gỗ khét lẹt cháy nham nhở. Thỉnh thoảng một cơn gió thoảng qua, lớp tro tàn lại bay về phương nam. Có những tia lửa bé nhỏ ánh cam thỉnh thoảng lại khẽ loé lên rồi biến mất.

Hồ Nguyên Trừng quỳ một gối xuống bên cạnh thi thể một người lính, nhẹ nâng anh ta dậy. Vị tướng quân dùng tay kiểm tra vết đao chém sâu hoắm ở cổ, những vết rám đen thui vì khói và tro trên mặt người lính. Hàm răng nghiến lại trong vô thức khiến cánh môi chàng bật máu.

" An táng họ cẩn thận, tăng cường phòng bị gấp đôi. Bây giờ ta sẽ viết một phong thư xin hoàng huynh vận lương tiếp tế. "

" Cẩn tuân mệnh lệnh của tướng quân! "

Các tướng đi khuất, ánh mắt Hồ Nguyên Trừng mới dần lộ ra vẻ bi thương mà chàng đã kiệt lực che giấu. Răng cắn chặt như hận không thể tự nghiến nát hai hàm răng, tay siết lại chỉ chực gãy rời xương mười ngón. Căm phẫn, đau khổ chất đầy trong lồng ngực, Hồ Nguyên Trừng đứng phắt dậy. Chàng hướng ánh nhìn ra xa, về Tây Đô – nơi trú ẩn hiện tại của em trai Hồ Hán Thương của chàng và người cha là Hồ Quý Li.

" Lòng dân đã chẳng thuận theo, thì dẫu rồng thần có đuôi đi nữa cũng khó mà vút bay."

Thở dài đầy bất lực, chàng vội quay đầu, không dám nhìn những thi thể ngổn ngang trên mặt đất phủ đầy muội than thêm một khắc nào nữa.

___o0o___

Sau khi nghỉ một lúc cho lại sức, Tạng Cẩu dìu Liễu Thăng và cô bé mang đao về doanh trại nhà Minh. Chỉ riêng Liễu Thăng đã nặng gấp rưỡi cậu, ấy là còn chưa tính thêm đống giáp trụ kim thương lỉnh kỉnh. Nay một mình phải gánh chịu trọng lượng của hai người cộng lại nên Tạng Cẩu mất sức rất nhanh.

Phiêu Hương chỉ bị Khiếu Hoá Tăng điểm huyệt Kiên Tỉnh cho hai tay vô lực, chứ đôi chân vẫn đi lại bình thường được. Cô nhóc tranh thủ lúc không ai để ý nhét cái bọc nhỏ bên yên ngựa vào bụng mình rồi giả như toàn thân mình bất động.

[ Bắt mi cõng thêm ta cho mi chết nặng, mới tí tuổi ranh đã biết làm Việt gian bán nước. ]

Tuy phải mang hai người, nhưng Tạng Cẩu vẫn hứng chí bừng bừng. Lớn lên ở một thôn làng bé nhỏ, đến hai chữ giang hồ nó cũng hiếm khi được nghe thấy, huống hồ là gặp những nhân vật võ công kinh thiên địa khốc quỷ thần như Quận Gió, Khiếu Hoá Tăng. Cuộc gặp với hai cao thủ đỉnh cấp vừa khiến cậu thấp thỏm, lại vừa vui mừng.

Đất Nam tôi nào có thiếu anh hùng?? Không biết đến là do anh kém hiểu biết, hoặc họ không muốn lưu danh mà thôi.

Nó vừa nhìn Liễu Thăng, vừa hếch hếch mũi như để khẳng định lên cái điều hiển nhiên ấy. Về phần tiểu tướng quân bắc quốc thì do vừa thua đau một vố trước hạng " nữ lưu yếu đuối của mảnh đất Man Di " nên Liễu Thăng chỉ biết nhìn xuống đất, một chữ cũng không nói.

Cô bé mang đao lại tranh thủ lớn tiếng thoá mạ. Ngay cả lúc chửi, hai má hơi phồng lên vì tức thì cô bé vẫn mang một nét đẹp rất riêng. Nếu lúc trước như một đóa hoa phượng đỏ rực, thì lúc nổi nóng trông cô như một ngọn lửa kiêu sa.

Tạng Cẩu mang theo hai người nên đi được một lúc là mệt lử. Nó nhìn về phía trước, thấy khoảng cách từ chỗ ba đứa tới doanh trại quân Minh còn khá xa mà trời đã gần tối nên đành phải dừng lại. Tạng Cẩu đốt một đống lửa lớn ven sông, lại mò cá đem lên nướng.

Trẻ lang thang từ bé như nó đọc viết thư văn đều không biết, nhưng riêng việc kiếm cái ăn thì rành chẳng ai bằng. Thạo việc, nên chỉ một chốc là Tạng Cẩu đã lôi được mấy con cá xinh xinh lên cạn.

Nó lấy đao của cô bé người Việt, thuần thục đánh vẩy và làm sạch cá. Mấy bộ lòng nó đem chôn thật xa, đề phòng nửa đêm có khách không mời mò tới. Thấy bảo đao của mình bị dùng như dao làm bếp khiến cô bé kia hơi bực bội, song lúc Tạng Cẩu vừa đưa con cá nướng đầu tiên qua là cô quên hết ngay. Tính cô là vậy, nóng nảy bộc trực như lửa, chóng giận mà cũng nhanh quên.

Liễu Thăng chỉ im lặng ngồi ăn. Cậu bé còn đang thấy bứt rứt vì trận thua lúc trước, đã vậy đối thủ đánh mình bại thê thảm còn đang ngồi ngay cạnh, thích thú xử lí phần ăn của mình.

Cô bé kia nhận ra ánh mắt kì lạ của Liễu Thăng, tính trẻ con bèn nổi dậy. Cô co chân lên, đụng vào bắp đùi cậu một cái. Liễu Thăng mới gãy chân, xương còn chưa liền. Ngay cả khi cô bé không vận nội lực được thì cậu cũng bị đau một trận thấu tận tâm can.

Ăn đau, khiến thiếu niên đang thời thanh xuân nhiệt huyết nhớ đến " nỗi nhục khi nãy ". Liễu Thăng tức giận với tay chộp lấy thanh kim thương, vận chút nội lực ít ỏi lên rồi vỗ xuống.

Ngoại công Liễu Thăng không kém, kết hợp với nội lực càng khiến phát đập này có uy lực không tầm thường. Giữa chốn đồng không mông quạnh thế này, bị trúng thương ở đầu như vậy thì chết là cái chắc. Tử Tiêm lại nghĩ thầm: [ Thân phận của ả man nữ này không thấp. Đem về doanh trại thì hai người Trương bá, Mộc bá ắt cũng sẽ đem ra hành hình. Chi bằng ta tiễn cô ả đi luôn để đỡ phải chịu nỗi khổ bị dày vò. ]

Viện một cái cớ nghe thật vĩ đại, thật thanh cao cũng chỉ là cách người ta tự thuyết phục mình hòng khiến hành vi tội ác của mình trở nên dễ chấp nhận, lương tâm đỡ bị cắn rứt hơn mà thôi. Thiết nghĩ, âu cũng là lẽ thường tình.

Mắt thấy đầu thương áp tới càng lúc càng gần, cô bé mang đao đang muốn giơ tay chụp lấy cán thương mới sực nhớ hai cánh tay đều tê dại. Thời gian để lăn mình né thương đã qua, cô chỉ đành trơ mắt ếch nhìn đầu thương hùng hổ giáng xuống mà thầm tự trách bản thân quá ham vui làm sinh chuyện.

Cũng may, Tạng Cẩu ngồi cạnh nhào vào cản cú vụt kịp thời. Nó không đành lòng thấy một người đồng tộc bị anh kết nghĩa của mình hành hạ. Cũng may vì nó nhào vào khoảng giữa hai người, nên chỉ có cán thương đánh trúng nó.

Liễu Thăng vụt trúng nghĩa đệ, dù Tạng Cẩu vẫn cười cười nói nói như thường nhưng cậu vẫn thầm trách bản thân quá nóng nảy.

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, cách cô bé kia nhìn Tạng Cẩu cũng đã thay đổi.

Tối...

Tạng Cẩu nằm quay lưng về phía hai người, ôm chặt cánh tay mình vào lòng, mắt ướt nhoè. Xuyên qua tay áo vải mỏng dính sẽ thấy bắp thịt nó đã sưng vù lên và tím thâm lại. Cú đánh của Liễu Thăng vẫn khá là nặng dù cậu chỉ dùng được nửa thân trên để vận kình. Ít nhất, đối với một đứa bé không có nội lực hộ thân như Tạng Cẩu, đây là một đòn đau. Dù không đến nỗi gãy xương toác thịt, nhưng vẫn làm máu ứ bầm tím cả tay.

" Này, ấy không sao đấy chứ?? "

Góc áo nó nhận phải một lực kéo khẽ, liên hồi trong mấy cái hô hấp liền. Tạng Cầu nén đau quay lại, chủ nhân của âm thanh trong veo ấy không phải cô bé cầm đao thì là ai?? Trong mắt lộ vẻ áy náy, cô dúi vào tay cậu một lọ thuốc.

" Suỵt, đây là Hồ Cốt Cao bí truyền của ông nội, đằng ấy mau mau bôi vào đi."

Cách xưng hô đã thay đổi, chứng tỏ ấn tượng của cô bé với Tạng Cẩu đã tốt hơn trước, ít nhất đã từ căm hận chuyển thành bình thường. Cậu khẽ gật đầu, mở nắp lọ dốc thuốc ra lòng bàn tay. Một thứ cao mát lạnh, thơm ngát một mùi thoang thoảng tựa gốc lan nơi vách núi cao, như bầy sen trong đầm nước thẳm. Tạng Cẩu mới chạm nhẹ, ngửi hương mà tinh thần đã phấn chấn hẳn lên.

Nó dùng cao xoa lên chỗ sưng, tức thì cơn đau nhức lui hẳn, thay vào đó là một cảm giác mát rượi kèm theo chút tê dại nhẹ nhàng xâm chiếm, lan mãi tới từng đầu ngón chân.

Thuốc ngấm, chỗ sưng ở tay nó từ từ xẹp xuống, làn da xanh tím cũng lấy lại được màu sắc tự nhiên.

Cô bé cầm đao thấy Tạng Cẩu đã không còn đau đớn mới thở phào. Thấy nó định đem bình cao qua trả, cô bèn đẩy trở lại.

" Cứ cầm đi, ta trả đằng ấy một thương vừa nãy, sau này hai chúng ta không ai nợ gì ai hết. Đúng rồi, ta tên Phiêu Hương, họ... Lê. Còn ấy? "

" Không biết. Trước người làng gọi là Con Chó Bẩn, giờ gọi Tạng Cẩu. "

Tạng Cẩu đáp gọn lỏn.

Lê Phiêu Hương bụm miệng, nhìn Tạng Cẩu với vẻ nửa hài hước nửa quái dị. Đây quả thực là lần đầu tiên cô nghe thấy một cái tên như thế. Hiếm ai khi biết được tên cậu mà không thấy lạ.

" Tên này xấu hoắc, là ai đặt cho đằng ấy thế? "

" Chả nhớ nữa. Từ năm nào ấy người làng cứ gọi thế, lâu dần thành quen. "

" Đằng ấy thích một cái tên khác không, tớ đặt cho. Nhìn tớ ham võ nghệ thế thôi chứ cũng thạo chữ nghĩa đấy. "

" Không cần đâu... "

Con trăng in dưới mặt sông bị bốn cái chân nho nhỏ quậy phá, vỡ tan thành từng mảnh nhỏ dập dờn, dập dờn xa mãi...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro