TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN SƠN NAM

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ðêm ấy, ngôi nhà lầu của cai tổng Báu rộn rịp khác thường. Hàng chục cây đèn măng xông cháy sáng rực ở ngoài sân và trong phòng khách. Từ bốn hôm trước, bọn gia nhân phải thức khuya dậy sớm để treo bông kết tuột, chuẩn bị ngày gắn huy chương Nông Nghiệp (Mérite agricole) do quan phó tham biện cử hành.

Các thân hào, hương chức hội tề đã tề tựu từ hồi bốn giờ chiều.

Ông tổng Báu mặc áo dài khăn đóng đứng ngoài cửa bắt tay từng người. Mặt trời xuống dần, cảnh vật trở nên âm u. Ông tổng chạy tới lui, quát tháo từng chập:

- Xong chưa! Nhớ un muỗi bốn phía sân. Quan phó tham biện là người Lang Sa. Ổng sợ muỗi lắm. Muỗi cắn... tức là chích nọc vi trùng sốt rét. Hôm trước, ông căn dặn làm thế nào đừng cho muỗi cắn ổng!

Rồi ông tổng nói với tên tổng khậu (đầu bếp):

- Sửa soạn cho xong đi! Chừng một giờ nữa...

Tên tổng khậu đáp:

- Dạ, đâu đó xong xuôi rồi. Bữa này, nhứt định quan phó tham biện hài lòng. Món này đặc biệt... ngon hơn đồ Tây.

Rồi anh tổng khậu chạy vào phòng khách. Anh ta trở ra, mặt mày hơ hãi:

- Chết cha! Ông cho phép tôi sửa soạn ngay giữa sân này... Phải đốt lửa trước để có than...

Ông tổng Báu gật đầu:

- Cứ dọn ngay giữa sân. Nãy giờ, tao nói trừ hao... Còn sớm mà.

Dưới ánh đèn măng xông sáng trưng còn hơn ban ngày, bọn gia nhân hì hục làm việc dưới sự điều khiển của anh tổng khậu. Họ chất hàng bảy tám chục khúc củi, đốt cháy rực trời, theo kiểu... hướng đạo đốt lửa trại, có điều khác là đống lửa ấy dài như hình chữ nhựt. Hồi lâu lửa ngọn hạ xuống, họ đem tới năm ba cần xé đựng đầy vỏ dừa, lolại vỏ dừa tươi, phơi khô.

Mấy ông hương chức hội tề khen nức nở:

- Than vỏ dừa đượm lắm.

Mớ vỏ dừa được tung vào đống lửa. Một mùi thơm thơm bay ra... Trong khi ấy anh tổng khậu đến phía sau nhà, truyền lịnh:

- Ðập đầu con bò con cho mau. rồi cạo lông sơ sơ. Nhớ mổ bụng, đem bộ đồ lòng ra cho sạch. Phải giữ nguyên hình dạng con bò: đuôi, móng, lưỡi, lỗ tai... Mất một món là bọn mình... mất danh dự.

Bọn gia nhân đốt đuốc, đập đầu con bò con. Anh tổng khậu vào nhà bếp thúc hối:

- Nhớ chưa! Bàn thứ nhứt đầy chuối chát; bàn thứ nhì, khế chua; bàn thứ ba, bánh hỏi; bàn thứ tư, bánh tráng; bàn thứ năm, mắm nêm; bàn thứ sáu, muối tiêu.

Mấy chỉ ở nhà bếp cười dòn!

- Ðầy đủ hết rồi. Còn bàn thứ bảy?

Anh tổng khậu nói:

- Bàn thứ bảy thì dành riêng để uống rượu. Cứ khiêng lên sau, khi tôi ra lịnh...

Ðống lửa than đã ngún đỏ rực giữa sân.

Hai tên gia nhân cắm sẵn bốn cây nọc, mỗi đầu hai cây tréo lại. Ông tổng Báu cười hì hì:

- Món này đặc biệt lắm, bò gác tréo! Bên Tây, họ chưa ăn uống sang trọng như ở xứ mình.

Một ông hương chức hội tề nói phụ họa:

- Hồi nào tới bây giờ, tôi nghe nói thịt bò gác tréo nhưng chưa nếm lần nào. Ðêm nay, dịp may hiếm có...

bỗng dưng mọi người đều nhảy nhổm. Từ phòng khách có tiếng con chim gì kêu to:

- Ré... ré... ké... ké...

Ông tổng Báu đứng dậy, giận xanh mặt:

- Bà Hai đâu? Tôi căn dặn mấy bữa rày mà cứ để như vầy. Con trích phá đám. Ðêm nay, coi chừng...

Cử toạ cười vang lên. Con trích vừa nhảy vừa bay sập sận ra sân. Nó to bằng con gà tre, lông xanh mướt như lông chim sa sả (chim chả). Cái mồng con trích cứ đưa qua đưa lại, đỏ hói... Ðôi chân đỏ đậm nhảy tới, quơ móng nhọn lễu, bén như dao cạo. Ông Tổng Báu la tiếp:

Bà Hai chính là người vú già nuôi bé Kiều, đứa con gái út của ông tổng. Bà cố sức chạy theo... Con trích cứ"ré" lên, bay vòng quanh đống lửa. May quá, bà Hai chận đầu con trích, ôm vào lòng, nói khẽ với ông tổng như để giải thích, xin lỗi:

- Dạ, cô bé Kiều mở cửa thình lình.

Vừa dứt lời, bé Kiều chạy tới, khóc thút thít:

- Ba ơi! Con trích đâu rồi? Ba rầy con hả?

Ông tổng báu vuốt tóc con:

- Thôi nín đi. Ba rầy bà Hai chớ đâu có rầy con, con lên lầu mà ngủ đi.

Bé Kiều nũng nịu:

- Con không ngủ đâu. Tại sao ba nhốt con trích trong lồng. Nó kêu hoài, tội nghiệp nó lắm.

Từ ngoài sân, đứa gia nhân chạy vào, nói giọng nghiêm trang:

- Thưa ông! Ca nô ông phá tham biện tới rồi!

Ông tổng Báu giật mình, nói với bà Hai:

- Ðược rồí Bà thả con trích ra khỏi lồng. Cho con trích vô ở trong phòng với bé Kiều nghe không?

Rồi ông nài nỉ:

- Bé Kiều! Ðêm nay, ba mắc công chuyện. Con ở trong phòng mà chơi với con trích. Kẹo bánh thiếu gì ở trong đó.

Bà Hai ôm con trích, vào phòng khách rồi lên lầu, bé Kiều chạy theo bà. Nó mừng rỡ, ông tổng không nhốt con trích nữa. Nó tha hồ đùa giỡn, bẻ bách bích qui cho con trích ăn...

*

* *

Con trích, gọi nôm na là"trích ré" thuộc vào loại chim rừng đẹp nhứt. Nói đúng hơn, nó là loại chim sống ở nơi đồng cỏ hoang dại. Trích bay rất thấp, lủi trong cỏ rất khéo một khi lâm nguy, bay không kịp. Thịt trích ăn khá ngon, nào kém thịt gà.

Qua lúc sa mưa, nếu lội bộ qua vùng cỏ mênh mông, ta có thể gặp hàng chục ổ trích, trong mỗi ổ có năm sáu trứng. Như người, trích cất cánh bay bổng hoặc chui xuống cỏ, đứng như chết.

Trích lại có tài đá lộn như gà. Nhiều người nuôi trích để giữ nhà. Mỗi khi gặp người lạ, trích"ré" lên inh ỏi để báo động, rồi chạy tới, vừa cắn, vừa đá, vừa bay... Bị tấn công thình lình, khách lạ khó bề xoay trở, thường chịu rách quần áo, trầy da hoặc đui mắt.

Bé Kiều là con gái út của ông tổng Báu. Ông tổng có đưa con trai lớn, chết vì bịnh ban đen hồi năm ngoái. Bé Kiều là đưá con gái duy nhất còn lại trong gia đình. Mẹ bé Kiều mất khi bé Kiều được đầy tháng. Vì vậy, bé Kiều là hòn ngọc trong gia đình.

Một hôm, lúc dạo xóm với ông tổng, bé Kiều gặp con trích nuôi trong nhà người tá điền. Bé Kiều khóc lóc, đòi đem con trích ấy về nhà nuôi cho bằng được. Ông tổng chiều con, sắm chiếc lồng sơn son để nuôi trích. Nhưng bé Kiều giận lẫy, không muốn nhốt con trích vào lồng.

Con trích trở thành con búp bê được bé Kiều nân niu... Hễ bé Kiều đi đâu là cont rích chạy theo đó như hình với bóng.

Thỉnh thoảng, con trích phóng uế nơi phòng khách. Bà Hai đành phải làm công việc lau chùi... và lau chùi không hở tay nếu con trích ăn uống không tiêu. Những lúc ấy, bé Kiều khóc lóc, đòi kiếm thuốc cho con trích uống... Ông tổng Báu đành xuống nước nài nỉ con, hứa mai hứa mốt. Ban đêm bé Kiều để cont rích ngủ bên giường, sợ kẻ trộm lẻn vào nhà bắt con trích cưng.

Ông tổng lắm lúc bực mình và tỏ ra thông cảm với nỗi khổ nhọc của bà Hai:

- Bà đừng phiền, bé Kiều thiếu tình thương của mẹ. Nó gắt gỏng khó tánh, tội nghiệp nó. Vái trời cho con trích sống hoài. Rủi con trích chết, chắc nó mang bịnh theo.

*

* *

Buổi gắn huy chương Nông Nghiệp đã cử hành xong. Ông tổng Báu đứng im như một người lính, ưỡn ngực, nín thở. Sau đó, ông xin phép với quan phó tham biện:

- Mang huy chương lúc ăn uống là điều thất lễ với... chánh phủ Lang Sa. Tôi muốn đem cái huy chương này cất trong tủ thờ...

Quan phó tham biện cười nhếch mép rồi gật đầu, vỗ tay... Tất cả cử toạ đứng dậy, vỗ tay phụ hoạ hồi lâu mới dứt.

Cai tổng Báu bước ra sân, nói khẽ với anh tổng khậu:

- Ðem món ăn ra giữa sân!

Quan phó tham biện hơi ngạc nhiên. Ban nãy ông tổng Báu giới thiệu món ăn duy nhất: thịt bò con. Bây giờ, bốn đứa gia nhân đặt con bò con lên kiệu, khiêng ra sân, gác lên mấy cây tréo, trên đống lửa than đỏ rực.

Trông con bò ngỗ nghĩnh, ngây thơ và nên thơ quá! Nhờ tài khéoléo của anh tổng khậu, con bò như sống lại, nhăn răng cười trên đống lửa hồng! Ban nãy, anh ta đã dùng hai khúc cây nhỏ, chỏi mí mắt khiến con bò vẫn thức tỉnh trong cái chết, đôi mắt tròn xoe, trao tráo!

Anh tổng khậu khoát tay làm dấu hiệu với mấy người nhà bếp.

Họ xúm nhau khiêng bàn, mấy cái bàn riêng biệt đầy chuối chát, khế chua, mắm nêm. Ðâu đó xong xuôi, ông tổng Báu trịnh trọng đứng dậy.

- Thưa quan phó chủ tỉnh, thưa quí anh... hương chức hội tề. Hôm nay là ngày vui, chúng tôi xin đãi tiệc mọn. Muốn ăn món thịt bò gác tréo này, xin quý vị chịu phiền dời gót ngọc dạo chung quanh con bò. Lời tục thường nói: Ngồi một chỗ ăn ít, trái lại, nếu vừa đứng vừa ăn thì ta ăn nhiều hơn...

Quan phó chủ tỉnh nhờ hiểu chút ít tiếng Việt nên gật đầu, vỗ tay. Chờ khi tràng pháo tay chấm dứt, quan phó chủ tỉnh nói to:

- Ông cai tổng là chủ nhà, chủ tiệc. Vậy thì mời ông ăn trước cho mọi người bắt chước theo...

Ông tổng Báu cúi đầu:

- Cám ơn quan lớn.

Quan phó chủ tỉnh rót ly rượu chát để tán thưởng:

- Ông cai tổng uống, uống cạn ly...

Uống xong ly rượu, ông tổng Báu càng cao hứng, nói thao thao bất tuyệt:

- Món ăn này ăn bằng cây dao và đôi đũa. Trước tiên mình cầm dao, đâm lụn vào da con bò...

Quả đúng như lời, mũi dao vừa xắn vào da bò là một lỏi thịt đỏ tươi từ từ vọt ra. Ông tổng Báu cắt khúc thịt nửa sống nửa chín ấy, gắp trong đũa.

Ðến bàn thứ nhứt, ông lượm một miếng chuối chát, kế đến, miếng rau sống, miếng bánh tráng rồi ông gói lại, đem chấm tại bàn có mắm nêm. Tràng pháo tay nổi lên... Ông tổng đưa miếng thịt bò vào miệng. Rồi ông đến bàn rượu, nâng lên chén rượu đế!

Cử toạ lần lượt vào tiệc.

Họ sáp hàng một, lụi mũi dao vào hông con bò, cắt thịt rồi đi dạo vòng quan con bò, từ bàn chuối chát đến bàn rượu... theo cái vòng lẩn quẩn thú vị. Ðêm càng khuya, bao tử của đám thực khách càng đầy thịt rượu... Lần đầu tiên, được thưởng thức món ăn đầy đủ hương vị "bản xứ thuộc địa miền nhiệt đới," quan phó chủ tỉnh uống rượu say mèm... Ông ta nói:

- Uổng quá! Phải chi ở chợ... mình mở ra dạ hội khiêu vũ.

Ông tổng Báu chắp tay, kiếu lỗi:

- Dạ, chốn này quê mùa, thiếu gái đẹp...

Ðâu được. Ðàn ông có thể khiêu vũ với đàn ông... Nãy giờ, ăn thịt bò hơi nhiều, ăn chỉ có một thứ.

Bỗng dưng, từ trong phòng khách có tiếng"Ké! Ké! Ré! Ré!" lanh lảnh!

Cử toạ giựt mình và ông tổng Báu như sống trong cơn ác mộng! Trời ơi! Con trích ré của bé Kiều lại chạy xuống, vừa chạy vừa vỗ cánh, vừa vỗ cánh há mỏ, hươi móng.

Tất cả quan khách đều là kẻ lạ! Bản năng con chim rừng ấy thúc dục nó phải liều mạng để báo động, hành hung đánh đuổi... quân thù! Và trong đám quan khách ấy, người xa lạ và khó thương nhất chính là kẻ lớn con, ăn mặc lạ lùng mà hồi nào đến giờ nó chưa từng thấy.

Ông tổng Báu la lên:

- Bà Hai! Tôi giết bà bây giờ. Bộ bà ngủ gục ở trển hả?

Cử toạ xô ghế, đứng dậy... ông phá tham biện cứ ngồi lì một chỗ. Ông ta khòm xuống thấp, dang hai tay ra để chào đón cho chim quá đẹp.

Con trích nhảy tới, đá túi bụi... Ông phó tham biện chủ tỉnh cố gắng chụp nó vào lòng để vuốt ve...

Ông tổng Báu la hoảng:

- Quan lớn coi chừng!

Ông tổng vừa dứt lời, quan phó tham biện cau mày, rút khăn mù soa chùi mấy vết máu tươm ra trên làn da tay vừa bị đâm, bị mổ.

Con trích thối lui, thủ thế.

Từ phía sau, bé Kiều la lên:

- Trích! Trích! Mầy chạy đi đâu vậy? Nãy giờ tao thức dậy kiếm mầy gần chết! Lạ lắm hả?

Con trích lại phóng tới, mổ vào mặt quan phó tham biện. Tức giận, quan phó tham biện đứng dậy, đá mạnh. Trúng mũi giày da, cont rích đau điếng, té nhào vì mất thế quân bình.

Ông tổng Báu đổ mồ hôi hột vì linh tính như báo trước điềm không may. Ông chạy tới, chụp con trích rồi xin lỗi:

- Quan lớn đừng phiền. Nãy giờ tôi nhốt con trích này ở trên lầu. Chẳng qua lạ sự sơ sót. Ðể tôi lấy thuốc thoa cho quan lớn.

Nhưng... đường đường một đấng thượng quan, lẽ nào quan phó tham biện lại chịu thua một con chim nhỏ bé... Ông ta nói:

- Ðưa cho tôi coi!

Tổng Báu run rẩy, nghĩ đến phản ứng của bé Kiều. Con trích ré lên thật to, mổ vào mắt ông phó tham biện.

Lầnnày ông đề phòng trước, chụp mỏ nó rồi vặn cổ.

Bé Kiều khóc thét lên:

- Trả cho tôi! Trả lại cho tôi!

Ông phó tham biện đắc thắng, mặt mày vênh váo như vừa giết được kẻ thù. Bé Kiều là đứa con nít quèn, đâu xứng mặt đối thoại với ông ta. Ông ta tiếp tục làm công việc của kè chiến thắng:

- Ðể tôi"rô ti" con trích này, thịt nó ngon lắm.

Vừa dứt lời, ông ta quăng xác con trích vào đống than đỏ rực. Bé Kiều từ nãy giờ theo dõi mọi hành động của ông Tây tàn ác. Nó chạy tới để cấu xé ông Tây lạ mặt. may thay, bà Hai chận lại, nài nỉ:

- Tội nghiệp tôi, cô ơi!

Mùi lông trích bay lên khét lẹt, bé Kiều cắn tay bà Hai để giải vây rồi chỉ ngón tay vào mặt quan phó tham biện:

- Chết mẹ mầy! Mầy nướng...

Nhanh như chớp, ông tổng Báu tới bên cạnh bé Kiều, bụm miệng con rồi giả vờ đóng kịch:

- Bà con xem... Thấy con trích cắn quan lớn, bé Kiều nổi giận, đòi nướng con trích, đòi giết con trích cho hả giận... À! Thôi, lên phòng nằm, sáng mại ba kiếm cho con một con trích khác.

Rồi ông nói với bà Hai:

- Ðem bé Kiều lên tầng lầu trên. Còn bà thì đứng lẩn quẩn gần đây, coi chừng nó chạy trở xuống, nói bậy, ở tù cả đám.

Bé Kiều, nổi điên lên. Hai bàn tay bà Hai nhấc nó khỏi mặt đất, bồng nó lên tầng lầu. Rồi bà Hai trở xuống ngồi chận ngay thang lầu.

Bé Kiều nhớ tới con trích khôn ngoan hằng đêm ngủ với nó, hằng ngày ăn uống đùa giỡn với nó. Trời! Con trích này chết rồi! Giận quá. Thủ phạm lại là cha nó. Nếu cha nó không trao cho ông Tây thì con trích vẫn sống nhăn. Bé Kiều quyết trả thù. Phải làm một việc mà cha nó khi hay tin sẽ khóc... như nó đã khóc. Nó sực nhớ đến cái hồ nước ở gần nhà bếp. Mọi khi cha nó căn dặn, ngăn cấm không cho nó lại gần. Ðêm nay, lát nữa, nó sẽ bắc ghế, rình lúc người ở nhà bếp sơ ý... Nó nhảy vô hồ nước để trốn. Hồ nước mát lắm. Nhảy vào đó như nhảy xuống sông. Tại sao cha nó ngăn cấm không cho nó tắm dưới sông...

*

* *

Tàn bữa tiệc, sau khi quan khách ra về, ông tổng Báu đến tủ thờ, đem cái huy chương Canh Nông ra gắn trước ngực. Rồi ông ta chạy lên lầu để an ủi bé Kiều, khoe khoang với bé Kiều rằng cái huy chương quý hơn con trích. Nếu cần, ông sẵn sàng cho bé Kiều mang cái huy chương để ngủ đêm nay.

Ông trố mắt:

- Bé Kiều đâu? Bà Hai.

Bà Hai đáp:

- Dạ, cô bé ở đâu đó mà!

Bọn gia nhân đốt đuốc, chạy lăng xăng. Hồi lâu, công việc tìm kiếm được chấm dứt vì một đứa gia nhân đã sực nhớ tới cái hồ nước. Anh ta cầm đuốc, dựa bên thành hồ, trố mắt... bàn tay rụng rời buông ngọn đuốc...

NGƯỜI MÙ GIĂNG CÂU

Ðứa con trai độc nhứt của ông đã bị "A lơ măn" (người Ðức) giết lúc phải cầm súng giữ vùng An Sác Lo Ren cho Pháp. Ta có thể nói: ông mù vì khói lửa của trận Âu châu đại chiến kỳ nhứt. Còn lại một mình, ông cất căn chòi ở Rộc Lá, ấp Tây Sơn. Rộc là con rạch nhỏ ngoằn ngoèo, bắt nguồn từ môt gò đất cao giữa đồng, chảy thẳng vào một cái lung, phần đất thấp hơn, đầy những rau muống, cóc kèn, ô rô và cá.

Ở Rộc Lá này, cá tôm quá nhiều so với mấy nơi khác trong ấp. Từ tháng mười đến tháng giêng, cá lội từng bầy trở về sông Cái, suốt ngày suốt đêm không ngừng. Ban ngày, cá đi đớp bọt, trắng bờ rạch. Ban đêm thức giấc vào bất cứ lúc nào, ta cũng nghe cá lóc táp mồi, cá trê chép miệng kế bên nhà. Nguồn lợi to tát vô cùng!

Nhưng nào đâu cái cảnh "Một vùng trời đất vui thầm ai hay?" Cá ăn câu về đêm. Muốn giăng câu phải thức trót canh gà, thức bốn năm tháng ròng rã, hao phí bao nhiêu sức lực! Ngày thì đi gặt lúa mướn, thời giờ đâu để ngủ bồi dưỡng lại. Ðêm thì muỗi mòng, gió bấc lạnh, lắm khi gặp mưa. Nhiều em bé đuối sức ngủ gục, té xuống sông, leo trở lên xuống ướt loi nhoi như chuột...

Ông thường bảo:

- Phải có kinh nghiệm mới đỡ cực nhọc. "Con cá trương vi quạt đuôi ra biển Bắc thì còn mong gì cá ấy trở lại chốn cũ ao nhà". Câu ca Vọng cổ đó nói sai. Cá có hang ở sông Cái. Mùa mưa, cá tìm đường lên ruộng, vào rừng mà đẻ. Bắt đầu mùa hạn, cá bỏ ruộng, bỏ rừng quay trở về hang cũ ở sông. Sự khôn ngoan của con người là chặn chuyến về của loài cá. Chặn cho đúng nơi, đứng lúc.

Vào đầu mùa, cá thường ăn mồi khi nước lớn. Giữa mùa, cá ăn lúc chạng vạng, lúc trăng sửa soạn mọc. Hừng sáng, chừng đâm mây ngang, cá trở lại ăn một lần chót.

Khó nhứt là chọn nơi để giăng câu. Cá sợ ngọn nước ngoài biển chảy tràn vào sông. Gặp nước mặn, cá hết nhớt ngoài da, con mắt xốn xang, nhưng nơi nước quá ngọt lại ít có cá vì cá chưa đi tới. Cá tập trung nơi lằn ranh nước lờ lợ và nước ngọt.

Tại lằn ranh đó, nên biết chọn từng điểm nhỏ. Rạch nào lắm ghe xuồng qua lại, cá ăn ở sát bờ. Rạch nào im lặng, cá lội ngay giữa dòng. Trước khi giăng cá trê, phải quậy cho nước đục. Mỗi chỗ cá chỉ ăn một lần. Vì nó đi lưu động, mình nên khéo dời chỗ...

Gió bấc thổi ròng rã, cá lần lần về sông Cái. Nếu bỗng nhiên trời trở nực, chuyển mưa, cá lui trở lại rừng và không ăn mồi. Những ngày ấy, đi giăng câu cũng hoài công.

Có người chất vấn: Ðã mù sao còn giăng câu được?

Ông đáp:

- Mù lòa là mắt không thấy, chớ nào phải vô tri vô giác? Con người có thể thấy bằng lỗ tai, bằng hai bàn tay, bằng mũi... Nghe hát máy, thiên hạ đâu dùng cặp mắt mà vẫn hiểu thấy được cảnh ly biệt, cảnh giặc giã... trong vở tuồng! Ban đêm, nằm nhà đóng cửa lại, tắt đèn nhưng thiên hạ vẫn thấy hiển hiện cảnh ngoài trời: ếch nhái kêu, tàu chuối phất phơ, chó sủa ma hay sủa kẻ trộm. Người ta thường nói: "xanh mát, đỏ hực". Mát, là màu xanh, màu đen. Nóng, là màu vàng, màu đỏ. "Bần hàn", là nghèo lạnh. Vô nhà nào mà mình có cảm giác lạnh lẽo, đó là nhà nghèo. Gặp người bạn, rờ lên vai áo thấy rách, chắc là người ấy đang suy sụp... nghèo "rã bánh tô". "Ði lâu", là đường dài. "Ði mau" là đường ngắn. Tôi thường bơi xuồng đến tiệm mua đồ một mình. Trong kinh nhỏ có bông súng cản mái dầm, khó bơi. Tới ngã ba, khúc quẹo, là chỗ nghe tiếng con sáo, con cưỡng ăn trái trên cây gừa bên miễu ông Tà. Gần mương vàm, hơi xông nồng nực, hôi tanh vì nước ít lưu thông. Chưa tới tiệm, có cầu ván bắc ngang. Chân cầu lớn lắm, tôi thấy nhột nhột màng tang, vì sợ đụng. Người mù có thể vá quần áo. Lại còn nấu cơm, nghe tiếng củi nổ, nghe hơi nước nóng để biết cơm sôi, cơm khét... Tóm lại, thiếu cặp mắt vẫn còn sống được! Người ta có đủ cột kèo thì cất nhà lớn, đúng ni tấc. Mình đây đui mù, như thiếu cây cột cái, nhưng nếu khéo léo một chút cũng cất được mái nhà nhỏ che gió che mưa... hà huống là việc giăng câu! Giăng câu lúc ban đêm, cặp mắt không cần thiết. Người không mù, họ đốt lửa trước xuồng un muỗi cho vui mắt, ấm lòng, chớ nào phải soi đường đi. Ðó là chưa nói tới loài cá! Nó ở dưới nước, núp trong cỏ, người có mắt cũng như tôi, làm sao thấy cá được. Phải dùng óc xét đoán để hiểu tánh ý của nó, nhờ đó mình mới giăng được nhiều cá, ngày càng vui thú với nghề nghiệp của mình.

Dân trong xóm thường gọi ông là ông Vân Tiên lại có biệt danh là "Sư tổ giăng câu". Dường như tạo hóa đã dành cho ông một số phận: sinh trong thời pháp thuộc, chết trong thời Pháp thuộc. Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng rằng ông còn đó, đêm đêm hiện ra ngồi trước mũi thuyền, trên sông nước, không phải để làm ma nhát những người yếu bóng vía nhưng để giải nỗi lòng đối với con cháu đời sau.

Ðêm tạnh vắng. Trăng sao đều khuất trong sương mù.

Nước dưới kinh lạnh ngắt. Bếp un đỏ lên, xua đuổi đàn muỗi rừng. Khói bay lan tỏa, lẫn lộn vào mái tóc bạc, chòm râu bạc. Thỉnh thoảng, gà gáy lên eo óc.

Lền khên rong đuôi chồn, Ðặc nước, bông súng bông.

Ô ro và ráng, sậy, Mọc đầy theo mé lung.

Mắm đen, chen dà diệp, Che khuất mấy cánh đồng.

Nơi đây, nơi giáp giới, Ba ngã, một đường lung. Ðôi mắt ông vẫn còn trập trừng. Miệng ông vẫn còn nói lên mắp máy, buồn buồn, chậm rãi.

THÁNG CHA2P CHIM VỀ

Nó hiện ra từ mí rừng phía đông. Ban đầu chỉ là một đốm đen. Ngỡ đó là con chim đầu đàn, tôi chờ đợi những con khác bay theo sau nhưng tôi ngạc nhiên:

- Con diệc này sao bay về có một mình? Thường thường nó bay về nhiều lắm, sắp thành hai hàng như mũi tên, phải không ông Tư?

- Không phải! Không phải đâu!

Ông Tư trả lời cho có chừng. Mắt ông nhướng lên, theo dõi đốm đen cô độc nọ. Ông bước tới bước lui, quay tròn vòng rồi la lên mừng rỡ:

- Nó đó mà! Tội nghiệp quá. Năm nào cũng như năm nào...

Trên ngọn cây gòn, kìa một con chim to tướng đen thui, đầu có đốm trắng, cao nghệu như đứa trẻ lên mười tuổi. Mặt trời đã gác lên mí rừng dọi lên lông cánh của nó, mướt rượt.

- Năm nay nó già đi nhiều... Tội nghiệp!

Khỏi cần lượn vòng quanh, nó cũng nhìn được con rạch Ðường Sân này...

Nóng ruột tôi hỏi:

- Con chi gì mà coi dữ quá vậy ông Tư?

- Con chim già sói. Thứ này bây giờ ít lai vãng tới miệt Cạnh đền này, chớ hồi đó thì ôi thôi...

- Làm sao bắt nó xuống coi thử. Phải chi mình có súng...

Ông Tư nhìn tôi, nhăn mặt lắc đầu:

- Súng với ống mà làm gì? Ðừng nói bậy, nghe được nó bay đi luôn. Giống già sói gan dạ lắm. Cháu chưa biết sao? Hồi năm đó ông kiểm lâm Rôbe lại đây, cũng vào tháng này gập nó. Ông nổ nghe cái "rầm", con già sói không thèm nghe, cứ đứng im. Qua phát thứ hai nó ngóng mỏ, coi bộ tức mình bực bội. Tiếng súng thứ ba nổ lên. Già sói nhè nhẹ cất cánh bay đi, buông xuống một cục phẩn, nhè cái nón của ông Rôbe mà rớt trúng. Báo hại ổng mắc cỡ, tôi phải thay mặt con già sói nọ mà xin lỗi ông... Con già sói này sống ít nhứt là năm chục năm rồi. Nó có nghĩa lắm, bỏ sân chim không đành. Hồi năm chục năm về trước, hồi trăm năm về trước rạch Ðường Sân ở Chắc Băng này phồn thịnh lắm.

Vùng Rạch Giá, Hà Tiên nổi danh là nơi tập họp nhiều sân chim, của trời đất dành riêng cho. Từ vàm đến ngọn sông Cái Lớn, bao nhiêu là sân: sân Cái nước, sân Thầy Quơn, sân Thứ Nhứt... Ðó là chưa kể mấy sân ở giữa rừng mà chưa ai bước chân tới. Từng vùng rộng chừng mười ngàn thước vuông, tụ tập hàng vạn con chim lớn.

Chúng nó sanh sôi nẩy nở, tạolập một thế giới riêng biệt náo nhiệt, ở khắp nhành cây và mặt đất. Dân chúng kéo đến các sân chim này để bắt chim, nhổ lông bán cho ghe buôn từ Hải Nam đến, họ mua về để kết quạt. Ta có thể chia hai loại chim: thứ làm ổ trên cây và thứ làm ổ trên mặt đất.

Làm ổ trên cây thì có chim chàng bè, chim già sói, chim chó đồng. Là ổ dưới đất thì co chim bồ nông là đáng kể.

Chim bồ nông tụ tập nhiều nhứt là ngọn rạch Chắc Băng đổ ra sông Cái Lớn. Ở đây hoàn toàn hẻo lánh, ít cây to lớn, ít cọp hoặc rắn. Hai loại này hay tìm chim mà ăn thịt hoặc ăn trứng. Ngoài ra trên mặt đất phủ dày nhiều dây choại, dây dớn để cho chim làm ổ. Nước dưới đất U Minh lại ngọt, xa xa lấp lánh nhiều vũng bùn chi tha hồ mà bơi lội. Chim bồ nông giống hệt chim thằng bè nhưng lông nó nhuộm màu xám tro. Bắt đầu tháng Chín tháng Mười, chúng bay từ Biển Hồ hoặc từ sông Hậu về rừng U Minh để làm ổ. Chúng lấy chân đạp dây choại xuống sát mặt đất và dùng mỏ để dò xét bên dưới. Gặp nơi đất ẩm hoặc có trũng, chúng bỏ đi nơi khác vì e sau này trứng sẽ thúi. Gặp chỗ vừa ý, chúng nhổ cỏ xung quanh, dọn một vùng nước khá rộng để bầy con sau khi nở ra có chỗ bơi lội.

Tháng Mười Một, chim bồ nông đẻ ra ba trứng, lớn hơn trứng ngỗng chút ít. Sau đó, chim trống và chim mái thay phiên nhau ấp. Khi trứng nở, chúng tiếp tục ấp con dưới cánh cho ấm. Chờ khi chim con có lông ống thì chim trống lẫn chim mái bay đi tận Biển Hồ để tìm mồi nuôi con. Chừng hai ngày sau, khi trở về trong dãy (bọc da dưới mỏ) mỗi con đều đầy cá. Cứ mỗi ngày chim con được đút mồi một lần. Lúc cha mẹ đi vắng bầy chim con tha hồ đùa giỡn trong vũng nước đã dọn sẵn kế bên.

Ngày qua ngày, bầy con lớn lên nhanh chóng, hễ đói là la hét lên inh ỏi. Khi thấy cha mẹ đem mồi về, chim con đạp chân quạt cánh, bay sập sận lên không trung. Lúc chim bồ nông đút mồi cho con, chúng ta có thể nói là một trận giặc lớn. Hàng ngàn con già sói, con chim chó đồng bay lại để giựt mồi cho con mình. Vì vậy khi con cá ở Biển Hồ từ trong đãy moi ra là chim bồ nông phải tranh đấu với ba loại chim kia. Và chính loại chó đồng, già sói lại phải đánh lộn cắn nhau để giành giựt, như ăn cướp chia của...

Trứng bồ nông vừa nở, người chủ sân bắt đầu lo mướn "bạn giữ sân." Nhiệm vụ của"bạn" là dọn một con đường tương đối trống trải từ mé rạch lên sân. Ðồng thời, họ cất trại dựng hai vòng thành lớn bằng tre chung quanh sân.

Vòng thành thứ nhứt hơi vuông, mỗi cạnh dài cỡ sáu trăm thước, cao hai thước tây.

Kế đó là vòng thành thứ nhì bên trong là tường để xử tử loài chim. Nền đất dọn sạch cỏ. Giữa hai vòng thành có cánh cửa lớn bằng tre.

Ðâu đó xong xuôi, chủ sân mướn chừng hai chục người bạn, khác, gọi là"bạn giết". Họ ra tay khi đàn chim bồ nông con bắt đầu bay sập sận nghĩa là mọc lông cánh đầy đủ. Nếu để trể, chim con sẽ bay mất.

Ðêm ấy trời tối, vào khoảng canh ba. Sau khi được cha mẹ đút mồi, đàn chim bồ nông con vui chơi hả hê, bơi lội tung tăng dưới ao rồi trở về ngủ trên ổ. Mẹ cha của chúng đã đi vắng tận Biển Hồ, tìm mồi cho ngày mai.

Bỗng đâu từ bốn phía có tiếng la ó, gầm thét của loài người. Mở mắt ra, bầy chim con phải choá mắt vì những đốm lửa đỏ rực. Mấy người bạn giết đã xông vào, hai tay cầm đuốc quơ qua, quơ lại. Ðàn chim con chạy tứ tung, tìm một lối thoát tuyệt vọng. Chúng bắt đầu chạy dồn vào một xó để lần lượt gom vào vòng thành thứ hai như cá vào rọ.

Cạnh cửa tre hạ xuống, hàng chục người đứng bao vây phía ngoài pháp trường nọ, miệng la inh ỏi, tay quơ đuốc lửa.

Dầu muốn xé rào chui ra, lũ chim nọ cũng không dám. Khi ấy, hai chục người"bạn giết" bước vào phía trường để thi hành nhiệm vụ đao phủ với hai bàn tay không. Quần áo của họ nai nịt gọn gàng. Ngang lưng thắt sợi dây nịt lớn làm bằng yếm dừa để đề phòng loại mòng chim chun vào người. Loại mòng này hay đeo theo cánh chim bồ nông để hút máu như chí, như rận.

Hai chục người phải đối phó với chín mười ngàn chim bồ nông! Họ lanh lẹ lắm, tả xông hữ đột như Triệu Tử Long, Ðương Dương Trường Bản, tay trái họ nắm cần cổ chim tay mặt nắm đầu chim. Họ vặn lọi lại. Chim chết không kịp ngáp. Giết rồi quăng xuống tại chỗ. Phải lanh tay lắm mới giết kịp. Ðể chậm trễ thì chừng mặt trời mọc, bầy chim lớn từ Biển Hồ sẽ chứng kiến cảnh tượng đẫm máu này. Chúng sẵn sàng đáp xuống chiến đấu một mất một còn với loài người để giải thoát cho đàn con.

Trời sáng. Thống thiết dường bao, tiếng kêu la của đàn chim lớn khi trở về không gặp con nghe vang dội cả góc rừng! Vài con may mắn hơn, tìm lại được bầy con nhờ chạy lạc nên thoát chết đêm vừa qua. Chúng tiếp tục đút mồi. Nhưng vài đêm sau, chủ sân mở cuộc tảo thanh lần thứ hai để tóm trọn gói.

Riêng về bầy chim mất con thì cứ bay tới bay lui trên sân, kêu la ba bốn ngày liên tiếp rồi trở về Biển Hồ với niềm oán hận, thề không bao giờ trở lại đất Kiên Giang này nữa.

Xong xuôi công việc, mấy người"bạn giết" về nhà uống rượu nghỉ ngơi. Giờ đấy đến lúc người"bạn nhổ" làm việc. Họ nhổ lông cánh từng con, xong một con là bó lại, giao phó nắm lông cho chủ sân. Chủ sân ngồi kế bên, trao cho họ cây thẻ để sau này làm bằng chứng tính tiền công... Xen vào đó, còn mấy người cán hôi. Mấy người nầy tình nguyện nhổ lông không ăn tiền. Họ xin lại xác chim bồ nông, đem về lóc mỡ ra, nấu dầu để thắp đèn.

Không cần nói rõ, ai cũng có thể hình dung được bãi chiến trường, hôm sau xác chim bồ nông vun lên cao ngất, như đống lúa ba bốn trăm giạ.

Ðó là cách giết loại chim bồ nông ổ trên mặt đất. Ðối với loại thằng bè, già sói, chó đồng làm ổ trên cây thì phải tốn công hơn. Vào khoảng canh ba, mấy "bạn giết" trèo lên tìm ổ chúng bẻ cổ từng con rồi ném xuống đất.

Lông chim bán cho ghe buôn từ Hải Nam đến. Họ mua về để kết quạt. Giá thị trường như sau:

- Lông bồ nông một bó một quan.

- Lông thằng bè, già sói thì hai quan mỗi bó.

Mỡ chim thì đem về nấu dầu như trên kia đã nói. Thịt chim đem xào sả nghệ, nước cốt dừa ăn cũng ngon ngon. Nhưng ai mà ăn cho hết? Có thể muối phơi khô. Thời bấy giờ, không ai cần làm chuyện đó. Họ thảy bỏ xác chim dưới sông cho diều, cho quạ...

Ðất hoang, rừng rậm lần lần được khai thác ở vùng Kiên Giang. Vì động đất động rừng, chim bay đi, bỏ sân cũ.

Chúng bị tiêu diệt lần lần. Số chim còn lại bay về đâu? Ngày nay cùng Rạch Giá, Cà Mau còn vài sân chim. Nhưng toàn là cò, diệc, cồng cộc, loại chim nhỏ.

Vài cÔn Nghichim còn nhớ sân cũ, hàng năm cứ tới tháng Chạp là bay về. Như con chim già sói này trở về rạch Ðường Sân.

Và ông Tư - Ngưòi giúp chúng tôi những tài liệu trên đây - hồi còn trai tráng chính là người"bạn giữ sân" và người"bạn giết" - hai danh từ xa xăm mà không ai nhắc tới nữa.

- o O o -

Con chim già sói đứng cao nghệu trên cây gòn, day mỏ qua phía nhà ông Tư.

Ông Tư đứng tần ngần, lấy tay che mắt nhìn nó, cố sức nhìn kỹ từ nét mặt như hỏi han sức khoẻ của người bạn già quen thuộc, biết giữ thủy chung đạo bằng hữu.

Ông nói:

- Mấy chục năm rồi, năm nào tháng Tết nó cũng về đây vài ngày. Năm nay nó già nhiều rồi. Ðầu sói hơn mọi năm, cháu thấy không?

Như lời ông Tư, tôi thấy rõ ràng một đốm trắng ở giữa đầu con chim nọ. Là kẻ sanh sau đẻ muộn tôi nào gặp con chim này hồi mấy mươi năm về trước để so sánh cho biết nó già nhiều hay già ít? Mặt trời gần lặn rồi, nền trời đỏ khé. Con già sói đứng sững đó, im lìm như đúc bằng đồng đen, phía sau có hào quang.

Nó nhìn ông Tư, râu tóc bạc phếu.

Ông Tư nhìn nó. Có lẽ ông nghĩ đến phận mình mà nảy sinh ra bao mối cảm hoài. Trong con tim già, qua thời gian, giờ đây chắc chắn đã lắng xuống hết bao hung bạo của thời xuân xanh của ông và của đất nước hoang vu. Giữa ông và con chim nọ, không còn oán thù. Biển im lặng sau cơn dông tố. Ðây là Bá Nha với Tử Kỳ cảm thông nhau. Cầu cho ông Tư với con chim già sói được sống lâu hơn trăm tuổi! Xin tạ ơn đấng tạo hóa đã dành cho đất nước này bao nhiêu đặc ân như những sân chim đây là một. Hiên ngang thay! Ðẹp đẽ thay! Hỡi người Việt đầu tiên đến vùng Kiên Giang hưởng ơn Trời lộc Nước mà khai phá miền Nam...

CON HEO KHỊT

Từ hồi tháng mười một năm ngoái, mấy người cuốc rẫy ở ven rừng Ngã Bát không ngớt bàn tán xôn xao:

- Con heo Khịt về đây rồi. Nó lớn bằng con bò con lận mà.

- Phải! Tôi nghe danh nó từ lâu. Chú vợ của tôi ở Rạch Ruộng có nói lại: nội một đêm, nó ủi phá gần hai chục công rẫy khoai mì. Củ lớn ăn đã đành, củ nhỏ cũng không chừa.

- Sao không đâm nó? Thợ săn ở dưới Rạch Ruộng coi bộ dở quá, chưa xứng đáng là thợ rừng. Rầu lắm. Coi chừng con heo Khịt phá hại mùa khoai ở xóm mình. Nó đâu phải cọp mà mình sợ!

- Nói bậy đi. Chừng nào con heo Khịt phá hại, đụng chạm tới tài sản của mình thì hãy hay. Nói trước, xui xẻo lắm. Thợ săn ở Rạch Ruộng giỏi lắm chớ. Một người bị đổ ruột. Một người khác bị tét đùi. Phen đó, con heo Khịt mắc bẫy dây chì. Vậy mà nó tẩu thoát được.

- Bằng cách nào?

- Nó cắn một khúc giò, bỏ lại coi chơi. Khúc giò còn dính trong cái vòng dây chì. Coi mà phát ớn. Nó cắn giò nó cho đứt, một mình nó đánh chét bón con cho săn. Tôi đoán chừng con heo Khịt này ít nhât đã bảy - tám tuổi, nanh dài trên một tấc, mình mẩy nổi dấu chì. Thôi chuyện đâu còn đó. Nó chưa tới nhà mà bàn tán hoài, ngán lắm. Cứ lo làm ăn cho vợ con nhờ.

*

* *

Chuyện ấy thấu đến tai ông Hai Cháy và ông Năm Tự. Vốn là thợ săn chuyên nghiệp, hai ông giữ vẻ mặt trầm tĩnh nhưng làm sao che giấu được bao nhiêu nỗi lo âu áy náy trong lòng.

Tháng này nhằm mùa hạn, rừng khô nước, heo rừng không ngủ nơi nào nhất định, chi bằng chờ lúc Sa trại chủmừa, nước nổi chừng ba tấc, heo rừng phải tìm nơi gò đất cao ráo mà ngủ, dễ tìm tông tích nó. Nhưng phải đề phòng! Mặc dầu mình nặng nề, chân nhỏ thó, heo rừng lội nước khá nhanh. Ðối phó lại, thơ săn nên tìm loại chó săn biết lội nước. Ðã có người chống xuồng cản chận đầu con heo rừng đang lội. Heo thản nhiên, hụp đầu xuống rồi hất lên như cõng vào chiếc xuồng nọ lên vai.

Ông Hai Cháy đến nhà ông Năm Tự mà nói:

- Mình ăn thịt hơn trăm con heo rừng. Nhung mà chuyến này coi bộ khó nuốt.

Năm Tự cau mày:

- Sao vậy? Tôi dọ kỹ rồi. Nó thành danh con heo Khịt vì nó dữ, khi dod63 quạu là sôi bọt mồm, khịt lên một tiếng lớn. Vậy thôi. Mình chưa ngán nó...

Ông Hai Cháy đáp lại chậm rãi:

- Bà con ở Rạch Ruộng cho biết: nó là heo độc giác. Theo chữ nho, chẳng hiểu nanh heo kêu bằng gì. Mình tạm kêu là"giác" đi. Trâu độc giác, voi một ngà, heo một nanh và... người một mắt đều là thứ dữ.

Năm Tự im lặng:

- Ờ! Nếu con heo Khịt lên tới xóm này, nên lo liệu...

- Ðánh nó cho chết chớ lo liệu cái gì. Tôi dám liều chết nếu nó là heo Khịt. Rủi gặp heo nhỏ, tầm thường thì uổng công quá. Năm nay, gần sáu mươi tuổi rồi, tôi làm biếng lắm.

Năm Tự nói nhanh:

- Miễn là ông anh đi theo để làm quân sư, thằng em này vui vẻ ăn thua. Ông Anh cứ nhường cái bổn phận đó cho em. Em nhờ bà con dọ thám thử.

Giết heo là chuyện khó. Rình xem heo là chuyện dễ. Ðêm đó, theo lời yêu cầu của Năm Tự và Hai Cháy, một đám con nít xúm nhau rình bên giồng khoai mì đã bị heo phá hại đêm trước. Ðêm sáng trăng. Mù sương rắc xuống nhỏ từng hột trắng mỗi lúc thêm dày. Biết chống muỗi, vắt, lũ trẽ xúm nhau ngồi quanh gốc cây tràm. Cảnh rừng đêm mơ hồ. Ngồi hồi lâu không thấy gì lạ, lũ trẻ ngóng lên trời nhìn sương mù đang trôi gờn gợn như chất gì lỏng lẻo. Thích chí quá. Như ngồi dưới đáy biển sâu mà lớp sưong kia là sóng gió trôi trên đầu. Nhìn mãi sanh chán. Vài đứa ngủ gục ngáy to tiếng.

Bỗng đâu sậy đế gãy nghe rôm rốp. Rồi một bóng đen lộ ra đứng sát bụi mì ngóng mỏ rồi quay lưng, chạy về phía rừng tràm.

Lũ trẻ lập tức cho ông Năm Tự hay:

- Nó rồi! Nè ông Năm, nó như con bò con. Tưởng sao chứ vậy tụi tui đâu sợ. Nó chạy cong đuôi.

Ông Năm cười:

- Tại tụi bây đứng trên gió, nó đánh hơi được. Nó đâu sợ, nó xáp tới nhưng nó quay lưng vì sợ sụp nhầm bẫy hoặc hầm hố.

Nghe đến sáng kiến làm cần bẫy, bọn trẻ mừng quýnh. Vài đứa có kinh nghiệm lập tức bơi xuồng ra chợ Thới Bình để mua dây chì làm vòng bẫy. Gặp thầy đội kiểm lâm có mang súng, chúng nó mời thầy vô xóm Ngã Bát để bắn con heo Khịt. Nghe tin ấy, ông Năm vô cùng mừng rỡ. Nếu bắn được con heo ghê tởm ấy, ông khỏi ra tay. Vả lại, bắn sớm chừng nào hay chừng ấy. Từ bây giờ cho đến mùa mưa. Khi thời cơ thuận lợi. Còn năm - sáu tháng nữa lận. Biết đâu tới chừng đó; con heo Khịt sẽ bỏ xóm Ngã Bạt, sau khi phá hại mùa màng.

Trời chạn vạng.

Thầy đội kiểm lâm tới xóm. Ðêm đó, thầy ta hăng hái lắm vì mới vừa mượn được cây đènpin , loại năm pin của ông xếp kiểm lâm. Dịp may để thầy ta luyện tập về cách săn đèn!

Lại một đêm đầy sương, thứ sương mù khét lẹt, lạnh lẽo của rừng tràm U Minh khi mặt trời vừa chen lặn. Thầy đội mang đèn, ánh sáng chói mạnh tới trước soi một vòng tròn thấy rõ rệt từng nhành cây chiếc lá từng con muỗi.

- Tao làm gì thì làm. Tụi bây đừng nói chuyện. Ðứa nào sáng mắt, coi chừng tiếp với tao. Hai đốm đỏ tức là con mắt ông hổ. Nếu hai đốm vàng tức là mình chiếu ngay mắt con heo Khịt. Tao nghe đồn đãi như vậy.

- Kìa! Hai đốm vàng hiện ra.

Thầy đội từ từ bước tới.

Một bước rồi hai bước.

- Ðùng!

Súng nổ chát chúa, xé rừng. Một tiếng kêu rống. Lạ quá! Tiếng rống ấy nghe một chỗ và con thịt run rẫy, chẳng vang ra tiếng... khịt nào cả. Chừng xúm lại coi thì ô hô, thầy đội vừa bắn trúng một con heo rừng bé tí teo vừa mắc bẫy, chân còn treo lủng lẳng trên cây cần. Làm sao bây giờ. Ai dám gỡ nó xuống? Âu là bỗi thêm một phát nữa.

Ðằng xóm, ai nấy đều thức giấc, chờ kết quả. Sau khi nghe hai tiếng súng, họ đốt đuốc, chạy tới nơi, hô to:

- Rồi rồi. Xong rồi. Con heo Khịt đi dodòi!

Chừng đụng đầu với con heo nhỏ bé, ai nấy cười ngã nghiêng.

*

* *

Ông Năm Tự đổ quạu:

- Làm chuyện bá lạp! Mấy đứa con nít thì rình trene gió. Người lớn thì bắn trúng cảm ơnheo"hà nàm" mắc bẫy. Không khéo, ai nấy là hề hạng bét. Bà con ở dưới Rạch Ruộng hay được là cười cả đám, chê đất này thiếu nhân tài.

Ông uống chút xíu rượu đế rồi thét to:

-"Vực một" đâu?

Từ ngoài sân, một con chó săn chạy vào đứng ngay trước mặt ông, phía tay mặt.

-"Vực hai" đâu?

Con khác chạy vô, đứng im bên trái.

-"Vực ba"!

Nó đứng ngoan ngoãn phía sau, và con chó"Vực Tư" giành góc còn lại. Cái bộ ván nhỏ bé mà ông đang ngồi trở thành cái ngai vàng.

Vỗ đầu từng con, ông bảo:

- Hồi nào tới giờ, tụi bây ở nhà, chưa bao giờ ra trận đủ bốn đứa. Mai này, Vực một, Vực hai phải ứng phó cho lanh:"Vực" là cánh, mỗi đứa là một cánh quân. Vực ba, Vực tư cũng vậy. Dưỡng sức đi. Thôi đi ngủ sớm, mùa nắng khó săn heo lắm. Ðây là thể diện của ta.

Bốn con chó vẫy đuôi, ra chiều hăng hái. Chúng ra ngoài hàng ba, trước khi nằm xuống, mỗi con đều quay tròn dod6i ba vòng, nhìn kỹ chung quanh. "Chó ba khoanh mới nằm." ông Năm Tự lẩm bẩm như vậy, tự hào cho rằng cho săn của mình là giống tốt nhứt. Còn lại năm - sáu con chó nhỏ đứng xớ rớ chung quanh bộ ván, sủa gâu gâu, như kêu nài, bất mãn, ông nói:

- Còn tụi bây nữa. Chưa tới tuổi ra nghề. Tao lo cho tụi bây mà. Ði chỗ khác!

Gày gáy dứt canh hai. Sương lùa vào đầy nhà, vậy mà ông Năm Tự chưa nhắm mắt ngủ. Dựng đứng gần vách, ông ngắm nghía rõ ràng kìa... Một cây lao cổ phụng, một cây lao bay một cây mác thông. Tất cả khí giới này từ bảy tháng qua chưa xài tới mà vẫn sáng chói, không một bợn sét, nhờ ông lau chùi hằng ngày.

"Hừng đông, mình đi kêu Mười Hy phụ lực với mình. Khỏi cần bận rộn tới ông Hai Cháy, ổng già rồi."

Nghĩ vậy, ông Năm Tự ngủ yên. Ông có biết đâu là sự bố trí chua đáo ấy không được đúng với tình thế và đem lại nhiều hậu quả mà ông không đoán nổi.

*

* *

- Tu... Tu... u...

Còi vừa túc lên. Bốn con chó Vực và năm con chó săn nhỏ bé đồng hè nhau chạy miết vô khu rừng tràm gáp ranh với đám rẫy khoai mì. Ông Năm Tự nói với Mười Hy:

- Chú Mười thấy chưa! Chó mà ăn cơm nguội thì lanh lẹ. Ăn cơm nóng, nó hư lỗ mũi đánh hơi hở ẹt. Cây lao bay với cây lao cỏ phụng của tôi đây nè chú cầm dùm. Tôi hô lên cây nào chú nhớ đưa cây đó cho kịp.

Chim rừng hót vang. Bước chân của hai người dẫm lên mớ lá vàng ẩm ướt. Muỗi, bù mắc... động ổ bay lên. Họ chen vào khoảng giữa chật hẹp mấy gốc tràm chòi. Nắng lên chui vào vòm cây lộ ra những đốm vàng tươi. Cá lóc, cá trê mắc cạn lăn tròn trên bùn nọn, mọi khi hễ gặp mồi nhậu thì hai người bắt liền. Hôm nay có khác. Ông Năm Tự thỉnh thoảng tháo khăn trên đầu, bịt lại chặt hơn, quần xà lỏn được vo lên sát vào bắp đùi. Ông nhướng mắt:

- Lâu quá vậy!

Rồi túc còi. Trong phút giây đàn chó gom lại. Ông căn dặn:

- Ðừng sủa bậy nghe! Tụi bây gặp trăn sủa cách khác, gặp rùa sủa cách khác. Giỏi lắm. Nhưng bữa nay, khi nào gặp heo rừng thì hãy sủa. Làm động rừng con Khịt đi xa.

Dứt lời, bầy chó tản ra. Hai phút sau, phía Lung Cây Kè, có tiếng chó sủa to, ba tiếng còi túc lên liên hồi. Ông Năm Tự và Mười Hy vạch lau sậy, chạy đến.

Con heo Khịt đứng sững, hai chân trước cao nghệu, mình mẩy đen thui, hươi nanh. Tiếng đồn không sai: nanh dài trên một tấc, con heo Khịt như con bò nhỏ, mớ lông gáy dựng lên vàng hực, lấp lánh.

- Vực một!

Ông Năm quát to.

Con Vực một nhảy vô cắn chân phía trước, bên hữu của con Khịt. Con Khịt vừa quay đầu là ông Năm ra lịnh:

- Vực hai!

Con Vực hai xốc tới cắn chân trước, bên tả. Con Khịt trở mình ngó phía sau tìm cách thủ thế, lui vào lùm cây!

- Vực ba! Vực tư!

Bị vây bốn góc, Khịt đứng nhóng lên. Thật ra răng của chó dầu bén nhọn nhưng làm sao cắn lủng da nổi chì của con Khịt được. Con Khịt lại đầy đủ kinh nghiệm: đây là thợ săn lão luyện và bầy chó hung hăng.

Nó tìm cách chạy tới. Mười Hy trao ngọn mác cho ông Năm Tự. Ông Năm ghìm ngọn mác trước ngực.

Heo Khịt thối lui, dùng hai chân sau bươi đất làm cái hố nhỏ, tạm che khuất cái mông dưới đất để hạn chế sự tấn công của Vực ba và Vực tư. Nhưng đất cứng quá. Nó quỳ hai chân sau. Mấy con chó nhỏ bao vây, đứng ngoài xa, sủa vang lên nhưng hưởng ứng, thúc hối bốn con Vực đang quyết chiến.

Bỗng nhiên, con heo Khịt thở mạnh nghe... khịt một tiếng. Ông Năm Tư thối lui. Heo Khịt trợn mắt trắng, miệng sôi bọt, đang lướt qua phía Vực một, bất chấp Vực hai.

Lẹ như chớp, con chó Vực một nhảy dựng đứng lên không trung ngang tầm đọt sậy. Nó vừa rớt xuống là con heo Khịt chĩa nanh lên, hứng ngay bụng.

Vực một giãy đành đạch, lủng ruột. Thừa cơ hội ấy con Khịt phá vòng vây, chạy nhanh.

Thấy con chó thân yêu vừa thiệt mạng, gan mật ông Năm Tự sôi lên. Chụp ngọn lao bay trong tay Mười Hy, ông phóng mạnh, buông tay. Ngọn lao ghim vào ngực con Khịt.

Nó mang ngọn lao mà chạy.

Nhanh như hớp, ông Năm vớicây lao cổ phụng - Loại lao cong, giống như cổ con phụng, có ngạnh như cái mồng - Mũi lao ghim vào hông con Khịt, đúng như sự tính toán của ông.

Bị đau điếng, con Khịt chạy nhanh, bất chấp cây cối, lau sậy, gò nỗng, ao vũng. Bày chó sủa vang, cố chạy cho nhanh hơn để chận đầu, cản mũi con Khịt. Nhưng may quá! Ông Năm Tự nói với Mười Hy:

- Nó chịu trận rồí

Mười Hy hơ hãi:

- Nó chạy như vầy, làm sao chịu trận. Bầy chó của mình đuối sức rồi.

Ông Năm Tự nói:

- Kìa! Cây lao cổ phụng này... hay quá. Con Khịt chạy không lâu đâu... Mình ráng theo nó cho kịp.

- Làm sao theo kịp được? Nó mất dạng rồi. Mấy con chó làm sao dám xáp vô để ăn thua?

- Thằng Mười này dở hơi quá. Chưa biết cây lao cổ phụng sao?

Chớ cứ sủa, ngày càng xa, xa dần. Con Khịt đã khéo léo chọn phương hướng, tìm nơi rậm rạp mà chui, mà nhủi. Trong khi đó, hai người thợ săn chạy chậm hơn, và chạy vòng quanh tránh mấy bụi chà là gai. Gai chà là đâm nhức nhối, mỗi bẹ chà là là một cái bàn chông.

Chó sủa rộ lên, càng gần, Mười Hy nói:

- Coi chừng! Hay là con Khịt trở lại ăn thua với anh em mình. Còn cái gì không!

Ông Năm Tự nói gắt:

- Bộ thằng Mười mất trí rồi sao? Có ba cái"bửu bối," xài hết hai rồi. Còn cây mác thông này mà thôi.

- Tôi ngán lắm. Tôi... chạy à! Hai bàn tay không, làm sao tôi dám đứng lại.

- Ai biểu mày ăn thua với nó. Ðứng ngoài xa mà coi. Chạy mau. Câu lao cổ phụng"ngon" rồi đó!

Phía trước mặt họ, con heo Khịt xuất hiện. Ngọn lao cổ phụng gồm hai bộ phận rời: Lưỡi và cán. Hai bộ phận này dính nhau nhờ một sợi dây dài. Lúc phóng tới, lưỡi và cán dính nhau, tạm thời nhờ cái khâu lỏng lẻo. Vì nhúc nhích, lưỡi cứ ghim vào hông con Khịt trong khi cái cán sút ra, tòn ten, lê lết trên mặt đất, có sợi dây nối liền.

- Nó kìa!

Ông Năm Tự la to trong khi Mười Hy sợ sệt. Cái cán lao bị kéo dài... Nhưng vài phút sau, vô tình con heo Khịt chui vào bụi rậm.

Cái cán trở thành chướng ngại vật, day ngang giữa hai gốc cây, trở thành một cái neo...

Con heo Khịt đứng lại, trì níu. Hai gốc cây tràm rung chuyển... Nó kêu rống vì càng trì níu thì ngọn lao càng xoáy bên họng, giữa hai cái be sườn rướm máu.

- Chết cha mầy!

Cây mác thông của ông Năm Tự lại cắm vào mông con heo Khịt, làm lủng da.

Con Khịt cảm ơnchân, phóng tới, ghê thật. Ngọn lao cựa quậy từ bên hông con Khịt vì cái ngạnh lút khá sâu.

Ngọn lao sút ra, làm gãy một khúc như be sườn. Nhờ vậy, con Khịt thoát nạn.

Bầy chó xáp lại hiểu rằng con Khịt đã đổ máu quá nhiều... Chó bao vây con Khịt.

Lúc con Khịt bối rối, ông Năm Tự đến trước mặt nó, cắm một mũi mác vào ngực. Khịt gào thét nhóng lên. Tay ông Năm ghì xuống chịu đựng.

Và cứ như vậy suốt mười phút, con Khịt chưa chết, nhưng ông Năm đã run tay, mồ hôi xuống ướt mặt. Mười Hy đứng xớ rớ chưa biết liệu lẽ nào.

Lâu lâu con Khịt rống lên xoay trở. Ông Năm Tự quỳ xuống hai tay bám chặt cây mác. Bầy chó giữ phía sau khiến con Khịt hết đường tháo lui. Hai hàng nước mắt tuôn ra tràn trề rưng rưng chảy trên má ông Năm. Ông dư hiểu: nếu con Khịt chạy vuột thì nó sẽ cắm đầu phóng cái nanh"độc giác" vào bụng ông trong tức khắc.

Mắt ông đổ hào quang, cảnh vật chấp chóe đất trời nghêng ngửa, cây rừng như trở gốc lên trời dang ngọn xuống đất. Nhưng may thay từ xa có bóng người chạy tới:

- Dữ ác hông? Sao không cho tôi hay trước?

Ông Hai Cháy xuất hiện như một vì cứu tinh, phóng vô yết hầu con Khịt một lưỡi mác, ghim vô thật sâu gần lút hết lưỡi thép.

Con Khịt ngã lăn và ông Năm cũng ngã ngửa, xuối tay thỏn mỏn.

Hôm sau, ông Năm Tự nằm mê man tại nhà, cơm ăn không trôi, phải nuốt nước cháo cầm hơi. Nhưng khi có ông Hai Cháy tới, ông Năm ngồi dậy như cái máy:

- Sao?

Hai Cháy đáp:

- Một trăm bảy chục ký lô! Cái nanh dài hai tấc.

Ông Năm Tự gật đầu lia lịa:

- Non ba tạ hả? Sướng quá! Cọp mà gặp con Khịt thì cọp đã rút lui. Tôi cầm cự chừng nửa giờ rồi anh tới... tiếp cứu đó. Mộ Di Phật! Hú hồn.

CAO KHỈ U MINH

Tôi ngả lưng vào gốc cột, nằm lim dim. Mùi rượu đế xông lên khiến mắt tôi lờ đờ, hơi thở bắt đầu nóng như sắp nhiễm bịnh cảm cúm. Ông Tư Huỳnh nói to:

- Thầy Hai bỏ cuộc rồi sao? Ăn thêm nữa chớ. Rừng U Minh thiếu gì cá.

Tôi đáp:

- Dạ, ngán quá. Ăn nhiều sanh bịnh.

- Thầy nói vậy đâu được. Ăn nhiều để trừ bịnh tật. Xưa nay, kẻ ăn ít thường chết sớm.

Ông Tư Huỳnh với tay ra sau lưng đập muỗi, xoè bàn tay lốm đốm máu tươi cho tôi xem rồi tiếp lời:

- Mỗi ngày mình mất bao nhiêu máu, nếu không ăn nhiều để tẩm bổ thì chết luôn. Hơn nữa, mùa này mà nhịn thì đợi bao giờ mới ăn!

Lý luận của ông Tư Huỳnh khiến tôi ngồi dậy, ăn thêm, ăn mãi. Từ phía nhà bếp con gái ông Tư Huỳnh lui cui nướng cá. Chúng tôi đã ăn tuốt năm con cá lóc to, gọi là cá lóc nái, mỗi con nướng chín thơm phức, nằm trên miếng lá chuối tươi. Sau khi dùng đũa xẻ một lằn dưới bụng cá, chúng tôi trải con cá ra, gáp chừng ba bốn đũa là quăng bỏ cái xương sống cá, mặc dầu trong xương còn dính khá nhiều thịt. Ông Tư Huỳnh lãnh phần thanh toán bộ ruột, nuốt gan và mật cá:

- Ồ! Cái mật cá đắmng thiệt nhưng vị đắng đó ngọt xớt, trị bịnh yếu mật. Còn cái đầu cá, ngon lắm, thầy Hai ăn đi. Cứ gắp hai cục thịt ở gò má con cá là đủ. Nghe đâu ở Biển Hồ Nam Vang, người ta đem thú gò má ấy phơi khô, nhậu rượu ngon lắm.

Chập sau, tôi ngán ngẫm, sợ mang chứng trúng thục. Ông Tư Huỳnh nói:

- Chưa hết. Bây giờ mình ăn qua món cá sặc rằn...

Mỗi gắp là bốn hoặc năm con cá, mỗi con sặc to bằng bàn tay xoè, tươm mỡ. Ông Tư Huỳnh mời mọc:

- Ăn thêm nữa đi.

Tôi cầm đũa, chưa gắp miếng cá nào chợt nghe ông nói to với đứa con gái;

- Nướng thêm một chục con cá nữa. Nghe chưa con!

Tôi vội cản ngăn:

- Thưa ông, đủ rồi.

- Chưa đủ đâu, thầy Hai. Ăn nhiều cho đủ sức lực. Bà con xứ này nhờ ăn cá mà khỏi chết vì bịnh rét rừng. Muỗi cắn sanh bịnh rét. Nhưng nhờ muỗi mà cá được mập mạp. Cá U Minh lớn con nhờ ăn muỗi. Tóm lại, vì muỗi mà mình mang bịnh, vì muỗi mà mình có đủ cá để ngừa bịnh...

Vừa rồi, ông Tư Huỳnh vừa dạy tôi cách ăn cá sặc rằn nướng,"mỗi con ăn hai đũa." Ta cứ cầm đũa, giẻ một bên, đưa vào miệng rồi thì trở con cá, giẻ thêm đũ anữa, giẻ xong, cứ quăng cái xương cá... Tôi ngậm ngùi nhìn đống xương cá vun lên khá cao, nếu rỉa cho kỹ, trong đống xương đó còn dính chừng một ký lô cá.

- Mình lãng phí quá, thưa ông.

Ông Tư nheo mắt:

- Ăn theo kiểu ông bà để lại. Ở sau hè này, còn một cái nền nhà xưa, từ đời nào không ai biết. Tôi đào nền nhà đó, tìm vàng bạc. Biết đâu hồi xưa, Gia Long tẩu quốc đã hạ trại đó rồi bị quân Tây Sơn rượt, bỏ quên nhiều món ngọc ngà châu báu. Rốt cuộc tôi gặp từng đống xương cá. Thầy hai hiểu chưa? Hồi xưa, họ ăn như bọn mình từ nãy giờ.

Tôi mang tật hiếu cổ nên mừng quýnh:

- Vậy hả ông? Lát nữa, nhờ ông dẫn tôi ra nền nhà đó.

Ông Tư Huỳnh nói:

- Cỏ mọc um tùm như trước sân nhà này, vậy thôi.

- Nghĩa là rắn ở đó chớ gì!

- Rắn thì không đáng ngại. Chỉ ngại một điều khó nói trong lúc đang ăn...

- Thưa ông, chuyện gì quan trọng?

Ông Tư ghé miệng sát bên tai tôi, nói thật khẽ:

- Mấy cha nội giăng câu, đón củi thường tới cái nền nhà xưa đó mà... phóng uế. Hôi hám lắm.

Tôi thất vọng, buột miệng nói một câu sầu thảm:

- Uổng quá. Nếu ở xứ khác, có lẽ cái nền nhà xưa đó trở thành nơi quan trọng, được các nhà bác học chiếu cố tới.

- Thầy Hai nói thiệt hay nói chơi đó?

- Dạ, nói thiệt chớ. Mấy đống xương cá vụn đống là những"sử liệu biết nói." Nó ghi lại hình ảnh oai hùng của người... di khai hoang. Và biết đâu, nói đánh dấu những nơi của loài người ở rừng U Minh từ ngàn năm về trước. Ở xứ Ðan Mạch, các nhà khảo cổ đã gặp nhiều đống võ sò vỏ ốc quến cục với nhau, chôn vùi trên bờ biển. Bên cạnh mớ vỏ sò ốc đó còn nhiều thanh củi, tro bếp. Họ phỏng định: xưa kia hồi thời cổ sử, loài người tới đó cư trú... Lại còn nhiều món đồ gốm thô sơ nữa. nếu tìm cho kỹ, biết đâu cái nền nhà sau hè này là...

Ông Tư Huỳnh cười dòn:

- Thầy Hai điên chữ rồi? Thầy muốn nói đó là dấu tích của người Bàn Cổ hả? Ăn cá là kiểu săn bắn, hái trái cây chớ gì?

- Dạ, ông nói đúng. Ở xứ sình lầy, phù sa mộ địa, ngưòi Bàn Cổ bắt cá ăn thay thịt nai, thịt chồn và hái rau rừng ăn thay cho trái cây...

Hồi lâu, ông Tư Huỳnh nói:

- Dễ lắm. Ở xóm này có Hai Khị là người già nua, hiểu rành chuyện xưa tích cũ, ăn nói có đầu có đuôi. Nếu muốn biết về những Bàn Cổ ở rừng U Minh, thầy Hai nên tới thăm Hai Khị một phen. Như vậy chắc ăn hơn là đào cái nền nhà sau hè. Nhưng tôi căn dặn thầy một điều: Hai Khị nói hơi nhiều... Thầy ráng mà nghe một lần. Tôi nghe nhiều lần quá rồi...

Tôi nài nỉ ông Tư Huỳnh:

- Nhờ ông dẫn tôi tới nhà Hai Khị. Ông Hai Khị chắc già lắm rồi hả? Ông tới đây lập nghiệp từ bao giờ?

- Thời giờ rảnh rang, tôi sẳn sàng... Hai Khị đã lớn tuổi... Ừ! Cha nội đó rành lắm, ăn nói nghe mà mê. Làm nghề săn khỉ!

*

* *

Từ nhà ông Tư Huỳnh đến nhà Hai Khị, chúng tôi bơi xuồng, qua nhiều con rạch quanh cảm ơn. Mùa mưa, lá tràm xanh biếc, xa xa có vài gốc cây đước, cây vẹt. Muỗi rừng bay ra khá nhiều, tôi chăm chú nhìn lên trời, tìm vơ vẫn...

Ông Tư Huỳnh nói:

- Muỗi cắn no tròn trên mặt thầy Hai kìa! Kiếm cái gì ở trên ngọn cây?

- Dạ kiếm khỉ.

- Trời đất ơi! Rừng này đâu còn khỉ nữa.

- Hồi nãy, ông nói rằng Hai Khị sống bằng nghề săn khỉ mà.

- Ðó là chuyện đời xưa. Lát nữa, thầy Hai mặc sức mà nghe. Bây giờ, nói sớm quá, hết vui. Vả lại, Hai Khị tới rừng này trước tôi. Tôi là kẻ vong gia thất thế, từ Tân An xuống đây làm ăn...

Tại sao ông Tư Huỳnh đố kỵ với Hai Khị tới mức đó? Ông đề cao Hai Khị, đồng thời ông lại hạ địa vị mình một cách quá đáng. Hay là hai lão già này có mối cựu thù. Vô lý quá. nếu thù hằn nhau thì ông Tư Huỳnh đâu sẵn sàng tới nhà Hai Khị. Hai Khị là ai?

Chiếc thuyền rẽ nước khá nhanh. Vò trời mỡ rộng. Tôi ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao giữa rừng mà lại có ngôi nhà ngói ba căn hai chái, cất theo kiểu xưa, giống như nhà mấy ông cai tổng ở vùng Cần Thơ. Mái ngói tuy đóng rêu đen nhưng vẫn giữ dáng điệu cong cong. Trước nhà có cửa ngõ và vài chậu kiểng. Chó sủa vang dậy. Ông Tư Huỳnh nói nhanh:

- Hai Khị ngồi hút thuốc đó! Bên gốc cột...

Hai Khị đứng dậy, ngó xuống bến, miệng cười tươi. Ông ta dường như còn tươi trẻ hơn ông Tư Huỳnh.

- Anh Tư tới đó hả?

- Ừa! Sẵn có thầy Hai này muốn biết chuyện cổ tích, tôi đưa thẩy tới đây.

Hai ông lão nói chuyện khá nhiều, nào là mùa màng, thời tiết, ong, mật, rùa, rắn, cá tôm. Hồi lâu, ông Hai Khị mới ngỏ lời:

- Ờ... Thầy Hai đây hả!

Tôi cúi đầu:

- Dạ, cháu ở Sài Gòn, lâu lâu về đây chơi một lần.

Cả ba người vào nhà. Mặt trời lên quá cao rồi, bầu không khí bên trong dường như ẩm ướt. Mái nhà thấp, che khuất ánh nắng. Vách nhà đóng bằng ván, đóng kín, chẳng khoét một cái cửa sổ nào hết.

Ông Hai Khị mời ngồi nhưng cứ tần ngần, như lạc vào một thế giới nào xa lạ. Trên cái bàn khá to, bốn con khỉ đang ngồi - Những con khỉ chết khô - rụng hết lông, thịt da đen ngòm, thịt bám chặt vào xương giống như... xác ướp Ai Cập. Có một con to xác nhứt, ngồi lum khum trên nhánh cây, chân thòng xuống đụng vào mặt bàn, hai tay đặt trên đầu gối, hố mắt sâu hoắm, ra dáng suy tư. Tôi vừa sợ, vừa buồn cười:

- Khỉ ở đâu vậy ông? Ðể trong nhà như vầy coi ghê quá!

Ông Hai Khị im lặng, đi thẳng đến tủ kiếng, mở cửa tủ, đem ra một ngọn đèn sáp, đốt lên. Ông nói mơ hồ:

- Nhà này cất theo kiểu xưa ở ngoài... Huế, ban ngày cũng như ban đêm...

Mặc dầu chưa đến xứ Huế lần nào, tôi cũng cải lại:

- Thưa ông, ở ngoài Huế nhà cửa sáng sủa... theo tân thời.

Ông Hai Khị vừa thắp ngọn nến, vừa nói:

- Thầy Hai còn trẻ quá. Tôi muốn nói tới kiểu nhà xưa của mấy ông quan đại thần, của vua chúa. Suốt ngày suốt đêm, đèn sáp cháy không dứt. Nếu tắt đèn thì tối om om. Mấy ông vua cũng vậy. Lúc đọc sách, lúc ngâm thơ, mấy ổng thắp đèn sáp giữa ban ngày.

Ông Tư Huỳnh nheo mắt, che miệng, cười. Thừa lúc ông Hai Khị xuống nhà bếp. Ông Tư nói với tôi:

- Ngán chưa! Thầy Hai thấy chuyện lạ chưa? Mấy con"khỉ khô" đó. Tôi dặn thầy điều này: đừng cãi với ông Hai Khị. Ổng ghét bất cứ kẻ nào dám cãi. Thầy cứ thưa thưa dạ dạ. Lát nữa, ổng nói chuyện sự tích mấy con"khỉ khô" đó, vui lắm.

Ông Hai Khị trở lại bộ ván, mời chúng tôi uống trà. Tôi ngỏ ý muốn hiểu vì sao ông chưng bày mấy bộ xác khỉ trong nhà rồi nói tiếp:

- Khỉ này đâu có lớn con! Ở Sở Thú Sài Gòn, tôi gặp nhiều thứ lạ hơn. Hay là con... xà niên, con đười ươi?

Ông Tư Huỳnh đưa tay khều nhẹ tôi. Tôi chợt nhó lại lời căn dặn ban nãy nên nói vuốt ve trở lại:

- Thưa ông, chác mấy con khỉ này có nguồn gốc lạ lùng...

Ông Hai Khị gật đầu:

- Quý lắm đó thầy Hai... Bởi vậy, tôi ít khi nói chuyện xưa cho người khác nghe.

Ông Tư Huỳnh nói xen vào:

- Thầy Hai này hơi bịnh. Thầy chưa hiểu tại sao ở đây thiên hạ sống hoài ăn cá quá nhiều. Thầy muốn tìm thuốc bổ đó.

- À! Hồi xưa, ông bà mình tới rừng U Minh này, mang bịnh nhưng cố gắng mà sống."Bịnh ở đâu thì thuốc ở đó." Ông bà mình nói nghe thậm phải.

Rồi thì ông Hai Khị bắt đầu kể chuyện. Xưa kia, thời ông Mạc Thiên Tứ - con của Mạc Cửu, một người Trung Hoa sang tị nạn ở Việt Nam vùng chợ Hà Tiên - thì sung túc nhưng rừng U Minh còn sầm uất, khỉ sống từng bầy đôi ba chục con. Người Việt Nam đến rừng U Minh tìm huê lợi thiên nhiên. Họ chê cá tôm vì cá tôm bán rẻ hơn cọp và khỉ. Bấy giờ, cọp, khỉ và rừng rậm nuôi dưỡng cho nhau. Khỉ ăn trái rừng, lớn lên khỉ làm mồi cho cọp; cây sanh trái làm thức ăn cho khỉ.

Ông Hai Khị nói:

- Cách đây một trăm năm, ông cai Thoại đến U Minh, ra tài đánh cọp. Cọp chết quá nhiều hoặc chạy trốn về phía núi Tà Lơn, bên Cao Miên.

Tôi chợt nghĩ ra một ý:

- Thưa ông... Thế là khỉ sanh sản nảy nở quá nhiều.

Ông Hai Khị gật đầu lia lịa:

- Ðúng vậy. Ðúng vậy. Xưa kia, thiên địa tuần hoàn theo luật riêng. hết cọp, khỉ sống hoài trở thành... chúa sơn lâm. Ông cai Thoại đã vô tình là thay đổi luật trời đất. Nhưng may quá, người Việt Nam đến rừng U Minh, tìm cách để bắt khỉ.

Tôi hỏi:

- Bắt để làm gì? Ăn thịt khỉ à? Nhiều quá, làm sao ăn hết... Hay là ông bà mình hồi đời xưa bắt khỉ... làm khô, hoặc phơi khô nguyên xác khỉ, đem bán qua bên Tàu cho mấy người giàu có chưng bày trong phòng khác như vầy...

Vừa nói, tôi vừa liếc qua mấy cái xác khỉ.

Ông Hai Khị lắc đầu:

- Ông bà mình hồi xưa khôn ngoan hơn nhiều. Họ bán khỉ qua bên Tàu, bán cái"tinh túy" của con khỉ.

Theo lời ông Hai Khị, người tiền phong khai hoang ở U Minh đã bày ra nhiều cách lạ lùng để săn khỉ. Họ dùng lưới, mỗi tấm lưới to bằng cái nhà, lưới đang bằng dây gai thật chắc. Thợ săn khỉ vào rừng một mình, mang theo tấm lưới và vài nải chuối chín. Ðến nơi nào có nhiều khỉ, họ chọn khoảng đất trống, trải lưới ra, phủ trên cỏ.

Ðâu đ1o xong xuôi, họ leo lên cây mà ngồi, chờ đợi, nắm trong tay sợi dây buộc dính liền với bốn góc tấm lưới.

Từ trên cao um tùm, họ quăng xuống từng trái chuối chín, quăng vào tấm lưói vô hình ấy.

Bọn khỉ thấy chuối thì ham, xúm nhau chạy tới, con này gọi con kia, mỗi lúc một đông. Ngưòi thọo săn cứ quăng chuối để làm mỗi nhử. Ðến lúc nào đó, người thợ săn bèn giựt bốn sợi dây. Lũ khỉ mê ăn bị tóm lại, gói trọn trong tấm lưới. Lẽ dĩ nhiên, nhờ lanh chân nên vài con khỉ chạy thoát kịp, nhưng đa số đành ở lại, chờ chết.

Thợ săn đem khỉ về nhà. Rồi họ tiếp tục đi săn mãi mãi.

Tôi hỏi:

- Thưa ông, săn nhiều quá, làm cách nào tiêu thụ. Mỗi ngày, phải tốn bao nhiêu trái cây để nuôi khỉ. Rủi bán ế thì làm sao?

- Thầy Hai chớ lo xa. Ông bà mình hồi xưa bày ra nhiều cách: nấu khỉ làm thuốc cao.

Vẫn theo lời ông Hai Khị, thợ săn đem khỉ về, đập đầu lột da, mỗ bụng, lóc thịt để lấy xương khỉ làm thuốc. Họ bỏ xương khỉ vào một cái chảo thật to, nấu với nước, nấu ngày nấu đêm, thỉnh thoảng, họ cầm muỗng mà vớt màng màng, đổ bỏ. Năm bày ngày, năm bảy đêm trôi qua, xương khỉ trở thành mềm mại như"xí quách." Họ quăng bỏ xương ấy. Dưới đáy chảo, còn sót lại môt thứ keo sền sệ. Ðó là"cao khỉ" theo kiểu cao hổ cốt. Cao hổ cốt"sọ khỉ" tuy yếu hơn"cao cọp" nhưng bổ về đường khí huyết.

Ông Hai Khị cho biết: mỗi người chỉ có thể uống một miếng cao khỉ mỏng như đồng xu mà thôi; uống quá độ lượng thì sanh bịnh. Hồi thuở còn nhỏ, ông Hai Khị đã rắn mắt, cắn vào cục cao khỉ. Sau đó, ông nằm mê man, ngủ li bì, mình mẩy nóng ran, sắp chết. May thay, cha của ông h;ay kịp, đem ông lên trên bộ ván rồi đốt lửa phía dưới. Lửa sưởi ấm bộ ván và hơi ấm ấy truyền qua cơ thể ông Hai. Nhờ vậy, ông toát mồ hồi sống lại đến... giờ này, đến tuổi sáu mươi mà sức khoẻ vẫn còn đầy đủ.

Tôi hỏi:

- Lúc uống cao khỉ quá nhiều, chắc ông chết giấc?

- Ừ! Hồi đó, tôi mới có mười ba, khi tỉnh dạy, mình mẫy tôi ê ẩm, tứ chi bải hoải...

Rồi ông ghé miệng vào tai tôi mà nói khẽ:

- Giống như người thừa sức lức... Chất"cao khỉ" gồm tinh túy của loài khỉ đó thầy Hai.

- Dạ, bây giờ rừng U Minh còn lai rai vài con khỉ già, chắc nghề nấu cao khỉ không còn nữa phải không ông?

Ông Hai Khị chỉ vào mấy cái xác khỉ khô:

- Tôi còn chút cí cao khỉ của ông bà để lại. Nếu thầy Hai muốn hiểu sự tích khai hoang rừng U Minh, nếu thầy Hai muốn sống dai, ngừa bịnh rét rừng, sanh con để cháu nhiều hơn thiên hạ thì...

Nói xong, ông Hai Khị mở tủ, đem ra một cục cao khỉ đen thui, gói trong giấy hút thuốc. Tôi hửi thử: mùi cao khỉ hơi thum thủm, giống mùi a dao vậy thôi.

Bây giờ, ông Tư Huỳnh khều nhệ tôi, nói nhỏ:

- Mình về, đủ rồi. Ðừng thèm mua.

Tôi nói to giọng:

- Thứ cao này ngộ quá. Thôi, hẹn với ông Hai sáng mai tôi trở lại...

Ông Hai Khị nói:

- Tôi chờ thầy Hai. Sáng mai, tôi cho thầy Hai uống thử một lát cao khỉ...

Tôi đứng dậy, cáo từ. Trước khi ra về, tôi đến gần mấy con"khỉ khô" sờ thử và nắm tay từng con. Có một con khỉ mới ướp xác ngồi chết đó, xoè bàn tay. Tôi nhướng mắt nhìn kỹ. Trong lòng bàn tay khỉ có nào là đường trí đạo, đường vận mạng giống hết bàn tay con người. Và đường sạnh đạo của con khỉ đó lại đứt khúc, hèn gì nó... chết sớm.

- Về cho kịp nước ròng, thầy Hai!

Ông Tư Huỳnh nhắc nhở một lần nữa. Tôi với ông xuống xuồng. Ông Tư Huỳnh bơi sau lái, cười to:

- Ðó, sự tích rừng U Minh huyền bí như vậy đó. Nói theo kiểu ông Hai Khị thì chắc là chung quanh nền nhà của ông có... hàng ngàn khúc xương khỉ, của ông bà hồi xưa nấu cao rồi quăng bỏ.

Tôi hỏi:

- Ông Hai Khị nói thiệt không vậy ông Tư?

- Phần đầu, chuyện săn khỉ bằng lưới, ổng nói đúng sự thật. Nhưng tới phần sau, chuyện nấu cao khỉ rồi... chuyện nằm mê mang, ổng nói dóc để bán cao khỉ! Thức cao đó làm giả mạo. Nếu muốn bổ khoẻ, thầy Hai cứ ăn cá cho nhiều như mình ăn hồi nãy là đủ. Nói thiệt với thầy Hai, ba năm rồi, Hai Khị bán cao khỉ ế ẩm lắm vì bà con trong xóm đều chán ngán. Cha của Hai Khị hồi xưa săn khỉ giỏi lắm. Tới đời Hai Khị thì khỉ đã hết, thợ săn khỉ trở thành thợ... nói chuyện đời xưa giữa ban ngày mà đốt đèn sáp trong nhà!

Chiếc xuồng trôi từ từ theo nước xuối. Trong rừng sâu, vài người đốn củi ca vọng cổ nghe văng vẳng.

CHUYỆN RỪNG TRÀM

Rừng Cà Mau âm u và mênh mông đến mức nào? Ðể trả lời câu hỏi đó, người ở địa phương thường xúm xít lại để kể cho nhau một câu chuyện giải trí như vầy:

Năm đó thầy đội kiểm lâm X. vừa đáo nhậm ở lô rừng 321. Thầy ta thích bắn chim nên luôn luôn đích thân bơi xuồng đi rong khắp đường quanh nẻo tắt trong rừng. Cho đến ngày nọ, thầy nghe có tiếng chim gõ kiến, thứ chim chỉ ở vùng đất cao chớ không bao giờ ở nơi rừng tràm trầm thủy. Lấy làm lạ, thầy từ từ bơi xuồng lại ngay hướng đó, lắng tai xác nhận rõ ràng:

- Cóc! Cóc! Cóc! Cóc!

"Chắc là chỗ này chim gõ kiến nhiều lắm." Thầy đội nghĩ thầm như vậy. Mái dầm khoát nước càng lúc càng hăng. Và ngạc nhiên làm sao, tiếng "cóc cóc" lần lần nghe trầm xuống, thở thành tiếng "cum cum" giống na ná tiếng mõ của đình làng.

Trước mặt hiện ra một cảnh lạ mắt khiến thầy bỡ ngỡ như hai chàng Lưu Nguyễn khi giã từ non cao để trở về gặp trần gian. Cảnh rừng tràm dày bịt "cây chen vạn gốc" không còn nữa. Một vòm trời xán lạn hiện ra. Hàng trăm mái nhà cất san sát thành một xóm lớn, trong bản đồ tự hồi nào đến giờ chưa có ghi vào. Chừng điều tra lại thì ô hô! Ðó là một số người lén lút vào đây cất nhà phá rừng để bán củi lậu thuế đã ba năm qua mà nhà cầm quyền không bao giờ hay biết.

Sau khi thương lượng, họ đồng ý chịu cho thầy một số tiền "trà nước" hai ngàn đồng, hồi xưa đó là số vốn khá to. Nghe nói nhờ đó mà thầy đội sắm được chiếc đò máy và đến năm sau, thầy đâm đơn lên quan trên để xin từ chức, dưỡng già.

Sở dĩ nãy giờ chúng tôi đi hơi xa vấn đề là cốt ý giúp độc giả hiểu tối thiểu về lối sinh hoạt của một số người khá đông sống bằng nghề phá củi lậu thuế thời Pháp thuộc.

Anh Tư Hưng ở trong số người ấy.

Qui mô làm ăn của anh so với xóm trên kia thì nhỏ bé hơn nhiều. Anh đã được người bạn giới thiệu vào kinh Mười Lăm. Ở đấy, chỉ có bốn gia đình, thêm anh nữa là năm. Nhờ họ khéo che đậy bằng hình thức giăng câu bắt rắn, nên lính kiểm lâm thời đó ít chú ý.

Hừng sáng, họ đi vào rừng đốn củi. Gạp cây nào to lớn, ngay thẳng họ hạ xuống lột vỏ, ngâm bùn chôn giấu để làm cột nhà, bán với giá đắt hơn. Cứ mười bữa, họ cho người chở củi ra chợ Thới Bình giao cho nhà vựa củi. Vựa này có giấy phép của nhà nước. Ðường đi thật gay go. Lắm khi họ phải chịu trần truồng nhảy xuống bùn, đẩy xuồng củi xuyên qua rừng hàng năm, ba cây số. Ðêm hôm tăm tối, họ phải nhìn hướng sao trên trời mà đi. Lắm khi đi lạc đàng trở về xóm cũ, họ chờ ngày khác. Mùa mưa thì trên rừng có nước, việc đi lại tương đối dễ. Qua mùa hạn, muốn buôn bán lậut huế như vậy phải vác củi đi qua nhiều khu rừng nổi tiếng có rắn và cọp.

Sống như vậy lâu ngày, anh Tư Hưng lần lần mến người mến cảnh.

Ngày nào bán được củi là nhóm người nọ chở về một xuồng đầy gạo, đường, trà, vải.

Lúc nào bán được một bộ cột nhà thì đó là phần thưởng chung. Họ mở tiệc ăn uống suốt ngày, thâu đêm, mời người ở xóm khác tới dự. Anh Tư Hưng thích dự những cuộc ăn uống đó.

Ðây là Hai Ðẹt, người đã từng nhậu ba lít rượu đế với ba yến khô cá sặc rằn.

Ðó là Bảy Vĩnh, người hồi tháng trước đã ăn một lượt ba kí-lô mỡ heo luộc chín, chấm với muối ớt. Sau khi ăn xong, anh còn đòi uống thêm bốn gáo nước lạnh.

Lại còn Tư Cần, đối thủ lợi hại của Bảy Vĩnh, Chính Tư Cần đã ăn bốn chục viên bánh xôi nước và một con vịt luộc, Bảy Vĩnh đáp lại, sẵn sàng ăn tám kí lô sầu riêng. thứ trái này khó kiếm ở rừng Cà Mau, phải gởi tàu đò ra chợ Rạch Giá mua về.

Ngày hôm sau đúng lời hứa, Bảy Vĩnh ăn tất cả. Có điều lạ là sau đó anh trợn trắng, mửa ra toàn sầu riêng, khiến cho cử toạ phải một phen khó xử vì cái mùi "thơm béo" không đến nỗi khó chịu.

Nói chung, anh Tư Hưng không chịu tham dự các cuộc tiêu khiển ấy, không phải anh không có tài ăn nhiều như thiên hạ, ngặt vì anh muốn giữ thể diện để mưu cầu chuyện khác.

Trong số người tụ họp, anh chú ý đến cô Một, cô gái thùy mị của ông lão Bích.

Lão Bích là người đứng tuổi nhứt trong xóm. Lão thường đến chung vui với tư cách người thạo chữ nho. Phen đó thấy lão đến, có người dùng chữ nho để cười cợt với lão:

-Tử viết thiện giả, có con không gả; tích thiện phùng thiện, để lâu sanh chuyện; tích ác phùng ác, để lâu tác hoác.

Lão nâng tô rượu mà cười.

- Tôi chỉ có mụn con gái nên phải kén rể đông sàng cho kỹ lưỡng. Cậu nào biết văn chương mới mong.

- Văn chương là thế nào? - người nọ hỏi.

- Là biết hát đối. Ðây tôi ra một câu, ai đối được tôi gả con gái cho:Thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời, thuở tạo thiên lập địa, ông trời do ai sanh?

Anh Tư Hưng xiết đỗi vui mừng sực nhớ hồi nhỏ anh đã từng nghe câu trả lời như sau, nên anh lập tức lên tiếng:Nghe em hỏi tức, anh trả lời phức cho rồi, thuở tạo thiên lập địa, hai đứa mình chưa sanh!

Ai nấy vỗ tay hoan nghinh. Cô Một e thẹn, cắm đầu chạy về nhà.

Từ đó về sau, anh Tư Hưng thường gặp cô Một để trò chuyện. Lão Bích khuyên anh nán một đôi năm, chờ khi là ăn khá. Anh vui mừng nhận lời. Từ sáng đến chiều đôi trai trẻ cố sức đốn củi để đi bán. Nhưng phen đó, rủi bị lính kiểm lâm bắt được, tịch thâu chiếc xuồng. Vô cùng buồn bực, lão Bích chạy mượn cho Tư Hưng số vốn nhỏ để anh ta xoay qua nghề buôn nồi. Nồi trách, cà ràng ở Hòn Ðất giá rẻ, chở về Cần Thơ bán lại lời gấp ba gấp tư. Nhưng họa vô đơn chí, vì chở quá cao nên khi ghe đến Cần Thơ thì bị sóng đánh chìm...

Nghĩ rằng đã đến lúc mặt vận, anh Tư bèn lên chợ tìm nhà anh em bạn quen nhờ bảo lãnh để mướn chiếc xe kéo. Không còn cách nào nhắn tin về gia đình lão Bích, anh hằng yên tâm suy nghĩ rằng:

- Năm xưa mình hứa một hai năm sau mới cưới cô Một. Chờ năm mười tháng nữa, mình dành dụm số tiền mọn trở về rừng cũng không thất hẹn.

Như chim gãy cánh, vào một chiều tháng ba năm sau, anh Tư cùng một người bạn ở Cần Thơ trở về kinh Mười Lăm để thăm viếng lão Bích và cô Một.

Rừng tràm không có mùa hạ hay mùa thu rõ rệt. Mãn năm, luôn luôn lá xanh tươi và lấm tấm vài chiếc lá vàng sắp rụng. Anh Tư và người bạn hối hả bơi xuồng vào ngọn kinh. Lòng anh khấp khởi mừng thầm. Nhưng dòng nước hôm nay có khác, nó chảy lờ đờ, trong veo không một miếng xác mía, một manh lá chuối trôi ra. Ðiều ấy chứng tỏ không còn người nào ở trong ngọn kinh.

Ðến xóm cũ thì hỡi ôi, ai nấy đều dời mất chỉ còn sót lại vài căn nhà hoang xiêu vẹo, cất xa nền nhà lão Bích chừng non công đất. Hỏi ai bây giờ? Cây cỏ toàn là lạ, căn nhà xưa đã đóng cửa. Anh in trí rằng gia đình lão Bích đã dời đi nơi khác. Không còn đủ thời giờ để cho anh buồn tủi nữa vì mặt trời sắp lặn sau rừng. Làm sao tìm chỗ ngủ gấp ở chốn rừng này? Người bạn của anh quá nóng lòng đòi trở ra sông Cái, nhưng trở ra sao kịp? Thôi thì đành đi sâu vào rừng tìm nơi nào có đất trống, có củi mục để đốt ngừa rắn rít, cọp beo.

Anh Tư khuyên bạn nên vào gần rừng với anh để giấc ngủ bảo đảm hơn. Cách đó không xa, đúng như anh ao ước, có một đống củi lớn chắc là của ai đốn lậu thuế chưa kịp lưu đi.

Hai người trải nóp ra, nằm hút thuốc. Chập sau vì quá mệt mỏi không ai bải ai họ chui vào nóp ngủ say.

Một tiếng hú lớn khiến cây cối vang dội. Anh Tư giật mình, hé nóp. Bên ngoài trăng sáng vằng vặc, không biết rõ vào canh mấy, anh Tư lắng tai định thần, để tìm hiểu tiếng hú quái dị đó. Anh ngỡ là tiếng chim ụt. Mà kìa! Có bóng trắng thấp thoáng từ xa len lỏi vào rừng tràm và tiếng cười rú lên:

- Hả! Hả! Hả!

Lập tức, anh Tư Hưng gọi bạn:

- Mầy! Mầy thức hay ngủ?

Bạn đáp liền, giọng run run:

- Tao thức nãy giờ.

- Mầy nghe gì không?

- Nó hú, nó cười phải không? Chắc mình gặp con xà niên rồi.

Anh Tư Hưng quả quyết rằng này ẩm thấp, không bao giờ có xà niên như ở vùng núi cao. Anh nhướng mắt lên. Bóng trắng ban nãy đang lù lù tới quá rõ rệt.

Chắc chắn đó là một người con gái bỏ tóc xõa, mình mẩy trắng ngần, tay cầm một món gì ngắn, lòng thòng tựa như cây phất trần...

Anh buột miệng:

- Ma... ma thiệt rồi. Mầy tỉnh trí không? Mầy nằm sát xuống coi chân nó có đụng đất không? Ma thì đi hỏng chân khỏi mặt đất.

Bạn anh trả lời:

- Tao coi kỹ nãy giờ rồi. Nó đi hỏng mặt đất.

Bóng trắng nọ dường như chỉ còn gần đề anh chừng một công đất, hai tay quơ lên rồi lại cười lớn. Làm sao bây giờ? Tâm trí đang bối rối lại càng bối rối hơn. Anh vụt đứng dậy khi nghe từ trong rừng có tiếng hú thứ hai đáp lại:

- Hú... Hú...

Anh Tư Hưng ra lịnh cho bạn cùng tẩu thoát sau khi cuốn nóp thật gấp, e bóng ma nọ nhìn được dấu người mà truy nã theo. Họ núp trong bụi rậm, thủ trong tay khúc tràm ngắn để tự vệ.

Bóng trắng nọ là một cô phụ nữ.

Cô ta ngồi xuống đống tràm mà hai người vừa trải nóp ngủ khi nãy. Cô ta vẻ giận dữ; đôi tay cấu xé vào đống tràm nghe rột rột. Chập sau ông lão hiện tới, mặc áo ngắn, quần đùi đen.

Anh Tư Hưng đứng dậy nắm tay bạn:

- Phải chạy mới được, mau!

Bạn cãi lại:

- Ðể tôi ăn thua với nó...

Bỗng dưng, ông lão đứng ngoài đống tràm la lớn:

- Ai đó? Bà con nào đó? Phải mầy đó không Tư Hưng? Tao là Hai Bích đây...

Nhờ vậy mà anh Tư nhận được bóng ma nọ: cô Một, người hứa hôn với anh ngày nào.

Lão Bích cho biết thêm giọng mếu máo:

- Bây giờ nó điên rồi. Mầy đi vài tháng nó mang thai. Nó chờ mày về, chờ hoài. Rồi nó đẻ trong rừng, không ai làm mụ bà. Tao làm mụ cho nó... Mầy tưởng tượng cái cảnh não nề. Con mầy chết non. Kiểm lâm vô đây với hương quản để bắt củi xét thuế thân. Xóm mình tản lạc, tao với vợ mầy phải chạy vô trong nầy. Mầy coi vợ mầy không thèm bận quần áo nữa mà có bận thì cũng không mua nổi. Nó khóc, nó cười, nó chửi tao. Ban đêm muỗi mòng quá, nó cầm cây xơ quất này đập muỗi. Nó điên vì tình, vì đời...

Anh Tư Hưng khóc không ra nước mắt. Anh cũng không còn mặt mũi nào để nhìn mặt cô Một ngày xưa.

Chắc chắn là anh không cưới cô Một. Năm sau có người gặp anh chạy xích lô ở Sài Gòn. Hỏi anh về vấn đề vợ con, anh đáp:

- Khổ quá. Tôi bây giờ là thằng khùng. Vợ con gì...

CON RẮN RI VOI

Một buổi trưa, vào năm 1937, chú biện Tống đang đánh tứ sắc cầu vui với vài người bạn, chợt nghe tiếng canô chạy ầm ầm, ngày càng gần. Chú biện giựt mình, buông tay bài, nheo mắt:

- À! Ông cò Lơ Hia lùng bắt chuyện gì đó...

Một người đưa ý kiến:

- Chẳng lẽ ông cò bắt bọn mình. Chú biện quen thân với ổng mà?

Biện Tống lắc đầu:

- Ông Lơ Hia lợi hại lắm. Tôi làm biện làng, tức là làm thơ ký cho thầy xã trưởng vậy thôi. Bất cứ giờ phút nào tôi cũng có thể mất chức, bà con dư biết: lương bổng của tôi có bảy đồng năm cắc. Mấy người giăng câu, bắt cua hàng tháng huê lợi nhiều hơn tôi.

- Nhưng mà thầy được ngồi trong mát, khỏi dầm sương dãi nắng. hễ cúng đình thì thầy ngồi gần mâm của mấy ông hương chức hội tề.

Tiếng máy canô im bặt. Cả bọn ngơ ngác. Ông cò Lơ Hia mặc quần áo kaki và độikết trông oai vệ làm sao: dấu hiệutrái lựu đạn đặc biệt dành cho ngành cảnh sát thời Pháp thuộc... chói ngời màu bạc. Theo sau ông cò là một người mặc quần áoxá xẩu bằng lụa trắng.

Chú biện Tống thủ lệ, chắp tay xá theo phong tụcAn Nam , nhung ông cò lơ Hia đã vui cười, đưa taybông rua:

- Rảnh chưa? Chú biện. Dường như chú đánh bài tứ sắc với mấy người kia hả?

- Dạ, đâu có...,

- Ðừng chối. Dòm bộ tịch của mấy người tôi đủ biết. Từ xưa tới giờ, tôi bắt hơn... ngàn vụ cờ bạc rồi. Lần này là vụ thứ một ngàn lẻ một.

Biện Tống nài nỉ:

- Xin quan lớn thương dùm.

- Nếu không thương thì nãy giờ chú biện phải bị còng rồi. Còng rồi đem xuống canô, đem về nhốt tại khám đường ở chợ Ngã Năm. Bây giờ, chú biện theo tôi, khỏi còng. Chú là người ốm yếu, còng tay làm chi thêm vô ích.

Nói xong, ông cò Lơ Hia khoát tay, ra lịnh giải tán đám người hiếu kỳ đang dụm năm, dụm bảy từ phiá xa xa. Thật là hồn phi phách tán. Chú biện Tống riu ríu bước theo ông cồ. Người Huê kiều nói tiếng Việt khá rành:

- Ðừng sợ. Ðừng sợ. Thầy Hai đừng sợ. Thầy Hai làm việc ở xóm này lâu mau rồi?

Biện Tống liếc qua ông cò Lơ Hia như để xin phép trả lời. Là người am hiểu chút ít việc quan việc làng, biện Tống đã thuộc làu nguyên tắc: khi bị bắt thì tội nhơn chẳng được quyền nói chuyện với kẻ khác, nhứt là khi quan trên chưa lấy khẩu cung.

Ðến bờ kinh xáng, ông cò Lơ Hia nói nhanh:

- Chú biện gặp dịp may rồi đó. Tôi làm bộ như vậy để dân làng đừng nghi kỵ. Thôi, chú cứ xuống canô uống rượu chát, bàn chuyện riêng với người này, ông Xìn Phóc, làm má chín giàu có lắm, ở Sanh Ca Bo mới qua.

Xuống canô, biện Tống mừng rỡ vì thoát nạn. Nhưng mấy tiếngmá chín, Sanh Ca Bo mơ hồ quá. Bấy lâu nay, biện Tống ăn học rồi giao thiệp lẩn quẩn với những người làm ăn bậc trung ở chọ Gò Quao mà thôi. Người tên là Xìn Phóc tỏ bặt thiệp, vui vẻ. Ông ta mở cặp da - thứ cặp da hơi lạ - đem ra tấm danh thiếp:

- Thầy Hai uống rượu đi. Làm quen với thầy Hai, tôi mừng lắm.

Torng khi hai người đàm đạo với nhau, ông cò Lơ Hia ra sau lái canô ngắm cảnh rồi đem máy ảnh ra mà bấm. Xìn Phóc mới giải thích rõ ràng hai tiếngmá chín. Biện Tống tỏ vẻ... lanh lợi, nói mơ hồ:

- Vậy mà tôi tưởngmá chín là kẻ làm công hạng sang trọng, bạn thân của chủ tiệm hoặc có phần hùn trong công ty nào đó.

- Má chín, đúng ra là người mại bản, tiếng Tây kêu bằngcơm ra đo. Tôi làmcom ra do cho hãng buôn lớn nhứt ở Sanh Ca Bo, thuộc về miền Hạ Châu. Hãng này giàu bạc triệu chớ đâu phải ít. Phen này, nếu chịu hợp tác làm ăn với tôi thì thầy Hai lời bạc ngàn...

"Làm ăn"chuyện gì đây? Biện Tống chợt nghĩ đến những giai thoại về buôn lậu quốc tế, bọn ăn cướp biển ở vịnh Xiêm La. Xóm này, ai nấy kiếm đủ cơm gạo qua ngày, tư bề là vườn rậm, nước mặn đồng chua. "Hay là Xìn Phóc muốn tổ chức gián điệp quốc tế? Ông cò Lơ Hia đưa hắn đến để gài bẫy mình chăng?" Biện Tống thở dài:

- Cám ơnmá chín. Tôi dở lắm. Xóm này đâu có huê lợi gì. Dân chúng lo đặt lương, bắt rùa, bắt rắn...

Xìn Phóc gật đầu:

- Ông cò chỉ dạy tôi điều đó. Tôi tới đây, sau khi hiểu rõ tình hình. Nhưng còn chuyện nầy... nhỏ xíu thôi, tôi muốn nhờ thầy Hai giúp sức. Tôi ở lại đây với thầy Hai, bàn tín sau.

Ôn cò Lơ Hia nhìn đồng hồ, nói nhanh:

- Ðủ rồi. Má chín với biện Tống quen biết rồi hả? Nầy chú biện Tống.

- Dạ quan lớn dạy điều chi?

- Dịp may hiếm có. Nếumá chín bị cướp bóc, bắt cóc thì chú hoàn toàn chịu trách nhiệm nghe chưa? Má chín ở lại đây chừng một hoặc hai - ba tháng.

*

* *

Xìn Phóc nhờ biện Tống tìm cho kỳ được một con rắn"qúi báu" có vảy nhỏ và mịn giống như miếng da rắn đã thuộc xong làm kiểu. Xìn Phóc đem trọn con rắn ấy về Sài Gòn rồi trở xuống, mang theo khá nhiều tiền.

- Thầy Hai ơi! Con rắn đó... trúng lắm, tốt lắm. Chẳng hay ở xứ này bà con bắt nó dễ dàng không?

Biện Tống cười dòn:

- Loại rắn ri voi, hàng hà sa số. Nó lội dưới sông rạch trong rừng vào tháng ngập nước như vầy.

- Bên Sanh Ca Bo, ông chủ tôi muốn đặt mua chừng bốn ngàn miếng da rắn thứ đó, chở gấp về bển, trong vòng hai mươi bữa. Bảo lãnh nổi không? Cứ một miếng da rắn, tôi để cho thầy một đồng xu tiền huê hồng. Lần đầu tiên trong đời, biện Tống mới gặp một trường hợp may mắn như vậy. Từ trăm năm rồi... nghe ông già bà cả nói lại thì rắn ri voi là loại vô dụng. Nó sống dưới nước, mỗi con to bằng bắp tay, cắn không chết ai cả. Mấy tay bợm nhậu chê rắn ri voi, thịt nó ăn không ngon bằng rắn hổ đất. Thỉnh thoảng, nếu bắt được rắn ri voi, mấy tay nhậu ăn tạm hoặc thả nó xuống nước, phóng sanh. Xìn Phóc quả quyết da rắn rất có giá tại Sanh Ca Bo. Người ta mua nó đem về, thuộc lại làm bóp đầm bán giá cao. Rắn ri voi có vẩy mịn, vảy ấy bám sát vào da, nổi hột sáng ngời: Người Âu châu xem da rắn ri voi là bảo vật, quí gấp mấy lần da bò, da ngựa.

- Ðược không? Một miếng da rắn, tôi chịu hai xua huê hồng!

Biện Tống nói, thật thà:

- Một xu, hai xu huê hồng tuy là số tiền khá to nhưng làm sao tôi nói cho bà con lối xóm nghe. Họ bị gạt nhiều lần rồi. Năm xưa, có người đến mua con cắc kè, bảo rằng đem về lột da bán ra ngoại quốc cho Tây với đầm làm bóp, làm dây nịt. Hắn cho hàng mấy chục tay em vào thôn quê, mua cắc kè với giá hơi cao...

Người khá giả trong vùng nghĩ ra cách: xuất tiền mua cắc kè của bọn tay em này bán lại cho tay đầu nậu ở chợ Gò Quao. Bọn tay em này làm giàu. Nhưng số cắc kè dự trữ ấy chỉ bán được lần đầu mà thôi vì tay tổ lưu manh làm đầu nậu ấy chỉ mua một lần đầu lấy lệ. Mấy người khá giả làm trung gian đành ôm bụng kêu trời với số cắc kè quá nhiều dự trữ trong nhà, mua bằng giá khá cao, tưởng rằng bán lại thì lời to nhưng chẳng ai mua lần thứ nhì. Tay tổ lưu manh và số tay em nọ đã cao bay xa chạy... một cách hợp pháp.

Má chín Xìn Phóc cười dòn:

- Cắc kè là chuyện khác. Rắn ri voi là chuyện khác. Thầy Hai hãy cầm số tiền này, mua về cho tôi.

- Tiền nhiều quá, nếu tôi giữ trong mình, tụi bất lương dám cướp bóc bất tử...

- Thầy Hai quen với họ, chẳng lẽ họ giết thầy Hai...

Biện Tống nhận số tiền hơn ngàn đồng - số tiền to tát, thời bấy giờ. Xìn Phóc xem kỹ lần nữa. Ðứng lắm. Rắn ri voi của miền U Minh đã được các nhà thuộc da ở bên Ăn Lê gọi là"Acrochordusjavanicus" với lời chú thích:serpent - éléphant d'eau douce (rắn voi ở vùng nước ngọt). Ông ta chỉ dạy cho biện Tống về giá cả, cách lột da... Ðâu đó xong xuôi, ông ta nằm nhà, chờ ngày gom góp da rắn, đem về Sanh Ca Bo. Nếu biện Tống giựt tiền thì ông ta sẽ nhờ sự can thiệp của tên cò Lơ Hia.

Hôm sau, biện Tống trở thành nhân vật quan trọng nhứt trong xóm. Bà con bao vây chú ta, để mượn tiền trước. Biện Tống báo tin long trọng: - Xứ người ta có mỏ vàng. Xứ mình có rắn ri voi, quí như vàng. Da rắn này đem về thuộc lại, bán cho ông hoàng bà chúa ở bên tây. Hồi mấy năm trước, đã xảy ra vụ mua cắc kè. Lần này khác hẳn. Cắc kè nhỏ quá, lột da nhỏ xíu. Da rắn to hơn da cắc kè gấp bội, đẹp hơn da trăn. Bấy lâu nay, người Huê kiều mua da trăn, bà con dư biết điều đó.

Lời giảng giải ấy được đa số tán thành. Họ xin lãnh tiền trước. Biện Tống cho mượn, mỗi người năm đồng để làm sở phí, chừng nào nạp da rắn thì trả thêm. Tuy nhiên, điều kiện nêu ra khá gay go:

- Da rắn bán mắc hay rẻ, tùy theo bề ngang. Nếu bề ngang không đủ một tất thì bị loại.

- Da phải lột sạch sẽ, cạo hết mỡ rắn.

- Nếu da bị lủng lổ thì mất giá. Miếng da nào lủng năm lổ thì kể bỏ.

Làm sao tìm ra da rắn cho thật nhiều, thật tốt để bán? Thiệt là thế gian hi hữu. Rắn ri voi vì nó to lớn ( như con voi!), da nó mang nhiều vảy rằn ri, đẹp hơn da trăn được nâng lên hàng đầu, quí hơn rắn hổ, rắn mái gầm hoặc cá tôm. Nó quí hơn con gà con vịt, gà vịt phải nuôi, ấp trứng... tốn thì giờ. Ðằng này rắn ri voi thuộc vào loại chim trời cá nước, ai bắt được nấy hưởng, khỏi đóng thuế cho sở kiểm lâm. Mọi người đều mặc nhiên được quyền truy kích rắn, chẳng cần xin phép hương chức làng, chủ đất, chủ vườn!

Bình thường dân trong xóm ưa... cờ bạc, đờn ca vọng cổ mùi mẫn hoặc hát huê tình đối đáp. Giờ đây, ai nấy đều bận việc, bất luận già trẻ bé lớn, chẳng ai thèm cờ bạc vì bắt rắn của trời đất, lột da nó ra, bán bằng giá quá cao... Cũng là hình thức cờ bạc tinh vi mà mọi người trong sòng đều hưởng lợi.

Vui sướng quá! Biện Tống lấy làm hãnh diện. Chú tìm ra công ăn việc làm cho bà con lối xóm. Số da rắn mua được tuy nhiều nhưng vẫn còn ít.

Ngày đầu, hai trăm miếng da.

Ngày kế đó, ba trăm miếng da.

Ngày kế, năm trăm miếng da.

Ðến ngày kế, năm trăm miếng da... thứ thật to.

Thật là kỳ lạ, đáng suy nghĩ. Làm thế nào dân làng tìm ra năm trăm con rắn mỗi ngày? Ban đầu. Xìn Phóc sanh nghi, ngỡ là loại rắn khác. Nhưng sau khi xem kỷ, anh chàngmá chín gật đầu xác nhận:

- Ðó là rắn ri voi thứ thiệt. Dịp này, ta nên mua da rắn với giá thấp hơn. Thầy Hai nghĩ sao? Rắn ri voi ở xứ này sao mà mau lớn quá. Nè, mỗi tấm bề ngang hơn ba tất!

Biện Tống đáp:

- Ðể tôi dạo khắp xóm làng rồi cho ý kiến sau.

Xìn Phóc ghé tai nói nhỏ với biện Tống:

- Hai người mình làm giàu rồi. Nếu rắn quá nhiều, tôi mua tám ngàn tấm da thay vì bốn ngàn như đã định. Ðừng nói họ biết, họ làm núng. Luôn dịp, thầy Hai ghi chép cách bắt rắn của họ để sau này tôi qua bên Xiêm, qua Miến Ðiện dạy cho dân chúng. Dân Việt Nam giỏi quá.

Ban đêm hàng trăm chiếc xuồng tới lui khắp hang cùng ngõ hẻm. Dân làng đốt đèn như mở hội hoa đăng. Từ hồi lập quốc, khai hoang, chưa lần nào vùng rừng tràm U Minh Hạ lại tưng bừng như vậy. Biện Tống đã hiểu: dân làng không bắt bằng tay hoặc không dùng mũi chĩa mà xom. Phương pháp ấy quá chậm chạp, làm hỏng da rắn, mất giá. Xưa nay, họ quen nghề câu: câu giăng, câu cắm. Mỗi người sắm hàng trăm cần câu, móc mồi cá sặc rồi cắm xuống bãi bùn, tùy thích. Cứ năm bảy phút, họ bơi xuồng trở lại chổ để gỡ rắn.

Rắn vi voi đớp mồi chậm chạp, lưỡi câu mắc vào mép miệng rắn. Nếu gỡ ra quá chậm thì rắn sẽ sứt mép, tẩu thoát.

Biến Tống đến gặp Hai Kỳ, người đó bán trên hai trăm miếng da rắn. Nhà Hai Kỳ trở thành một cái xưởng khai thác rắn sống. Trước sân, hàng chục tấm da, căng ra, đóng đinh cho thẳng thớm. Trong nhà, Hai Kỳ đang lui cui lột da rắn. Rắn bị siết cổ, buộc vào gốc cột nhà. Bàn tay khéo léo của Hai Kỳ cầm dao nhỏ, rọc một đường dài từ cổ tới hậu môn rắn. Lột da là chuyện dễ, đàn bà có thể làm được.

Biện Tống hỏi:

- Xác rắn đâu hết rồi?

- Dạ, mấy bữa đầu thì tôi nướng, nấu cà ri, thắng mỡ để dành. Mỡ rắn làm thuốc dán trị ghẻ, trị phỏng lửa. Lâu ngày tôi đào lỗ mà chôn... Uổng quá.

- Làm cách nào bắt rắn cho nhanh?

Nghe câu hỏi ấy, Hai Kỳ nghĩ hồi lâu:

- Khó nói lắm. Tôi chỉ biết câu rắn mà thôi, câu cắm như chú biện thấy. Ðằng xóm, có ông Bảy Ðăng câu rắn theo kiểu này lạ lám.

- Kiểu gì?

- Ông ngồi một chổ, thả cần câu xuống nước, tay ôm cần như ông Khương Thượng trên thạch bàn. Kế bên có chai rượu. Vậy mà mỗi ngày ổng câu hơn ba chục con rắn, giỏi hơn tụi trai tơ, tụi này buồn bã suốt ngày, cắm hàng trăm cần, bơi xuồng tới lui vất vả quá.

Bảy Ðăng là một ông lão khật khùng, uống rượu, li bì, say té lăn, ngủ bờ ngủ bụi. Riết rồi bà con hàng xóm chẳng ai màng săn sóc lão. Biện Tống bơi xuồng đến gần chòi Bảy Ðăng buông cần câu, nói vồn vã:

- Vui lắm. Nhờ ông má chín Xìn Phóc mà sau này, tôi chết trong hòm. Mai chiều tôi mua cái hòm (quan tài) thứ tốt cho bà con ngán chơi. Nếu má chín Xìn Phóc ở đây vài năm, tôi sắm cái hòm bằng vàng.

- Ông làm cách nào mà câu rắn giỏi hơn thiên hạ?

Bảy Ðăng cưòi khì:

- Tôi câu bằng thuốc mê.

- Thuốc gì? Dùng chất... hoá học hả? Hay là ông làm bùa?

- Ðây nè!

Bảy Ðăng chỉ vào chai rượu:

- Nó là rượu đế, thứ ngon.

Nói xong, lão mời biện Tống uống. Biện Tống từ chối. Lão nốc môt hơi rồi để chai rượu xuống bãi cỏ. Chai rượu nằm hơi nghiêng, không đậy nút.

- Lát nữa, chú biện coi!

Hai ngưòi im lặng. Từ mé nước, một con rắn ri voi trườn lên... đến gần miệng chai rượu rồi thập thò, rút lui như hoảng sợ. Bảy Ðăng nâng chai rượu, nhểu vài giọt xuống nước, trên cỏ. Con rắn... hăng hái bò trườn, đến gần miệng chai. Bàn tay lanh lẹ của Bảy Ðăng chụp xuống, bỏ rắn vào giỏ.

- Rắn xưa kia không biết uống rượu. Nhưng mà cho tụi nó tập tánh nếm mùi... cay đắng. Bữa đó, tôi uống rượu, ngủ quên rồi quơ tay kiếm chai rượu đổ hết. Chừng thức dậy, tối thấy rắn bò lại để hửi hơi.

Biện Tống như phát giạc điều gì quan trọng:

- Té ra cái chai rượu là cái cần câu rắn.

Bảy Ðăng vội đính chính:

- Là cái bẫy thì đúng hơn. Cần câu này, tôi cầm trong tay để che mắt thế giang, vậy thôi. Rắn mê rượu. Nếu giàu thì tôi giữ độc quyền bắt rắn, ngặt vì tôi nghèo. Tôi sẽ mua vài ngàn lít rượu, đổ xuống rạch. Rắn trồi đầu lên mà nhậu, lờ đờ ai muốn bắt thì bắt.

Nhưng biện Tống vẫn chưa thắc mắc. Mớ rắn của Bảy Ðăng đều nhỏ. Làm sao mà lột được tấm da ba tấc bề ngang? Bảy Ðăng gật gù:

- Chuyện đó bí mật. Muốn am tường thì nên tới nhà Sáu Kiến. Tôi bán cho Sáu Kiến. Thằng cha đó chuyên môn lột da.

Biện Tống đến nhà Sáu Kiến. Hắn đang làm việc trong căn chòi bí mật, sau hè, nài nỉ lắm vợ con hắn mới chỉ rõ địa điểm, Sáu kiến trợn mắt:

- Ủa! Chú biện, làm sao chú biết tôi ở đây?

- Thì vợ con của anh nói.

- Ðồ mắc dịch! Vợ con tôi báo hại tôi...

Vừa nói Sáu Kiến vừa liếc lên trần nhà. Ô hô! Biện Tống ngỡ mình lạc vào một cái hắc điếm trong truyện Tàu, loại hắc điếm làm thịt người mà bán cho thân chủ. Hàng chục con rắn no tròn, bón láng, treo lủng lẳng, đong đưa, như những khúc dồi to tướng. Sáu Kiến nói lẩn thẩn:

- Này chú biện. Chẳng lẽ tôi bắt buộc chú uống máu ăn thề. nếu chuyện này tiết lộ ra, chắc tôi giết chú.

- Sao? Nói gì ghê quá vậy? Giữa anh em mình nào xảy ra chuyện xích mích. Treo mấy con rắn đó lên nóc nhà để làm gì? Sao mà nó lớn quá vậy? Hèn gì mỗi tấm da lột ra ba tấc.

Sáu Kiến đưa ra một cái ống bơm xe máy:

- Ðó! Chú hiểu chưa. Tôi buộc lỗ đít rắn lại rồi thì bơm hơi vô miệng rắn. Con rắn trở thành cái ruột xe máy, căng thẳng, no tròn và chẳng bao giờ nổ. Tôi bơm hoài, bơm mãi rồi vuộc miệng rắn lại, treo tòn ten. Tới nước nào đó, tôi lột da, tấm da rắn bề ngang hai tấc sẽ trở thành ba tấc, nhờ khí... của trời.

Biện Tống cười chua chát:

- Bà con mình sáng chế nhiều kiểu hay quá.

Sáu Kiến nói:

- Cho thằng má chín Xìn Phóc nó biết một trận. Nếu bị bơm hơi, da rắn phải mỏng. Hễ mỏng thì Tây với đầm xài cái bóp mau rách hoặc sợi dây nịt mau đứt. Tụi nó phải qua đây mua thêm nữa...

Nhưng Sáu Kiến lầm to.

Phen đó, Xìn Phóc mua mấy ngàn tấm da rắn, trả tiền sòng phẳng, đi biệt tích. Mùa rắn năm sau, bà con lối xóm có lòng mong đợi nhưng hắn không trở lại. Hỏi lý do thì biện Tống không biết. Ðến tết, tình cờ biện Tống ra chợ Ngã Năm gặp ông cò Lơ Hia. Ông cò cho biết:

- À! Cái ông má chín Xìn Phóc. Ổng gởi thơ cho tôi, chúc mừng năm mới. Ổng nói da rắn ở xứ U Minh mỏng quá, chuyến đó đem về, ổng lổ vốn.

Biện Tống giả bộ ngây thơ:

- Tại sao lỗ vốn?

- Xìn Phóc nói: khi đem ngâm chất hoá học thì da rắn cũng như giấy hút thuốc, nhiều chỗ bị đứt theo lằn ngang, lằn dài. Thay vì làm được sợi dây nịt cho người lớn thì da nó chỉ dùng làm dây đeo đồng hồ tay. Thay vì làm bóp cho đàn bà thì da nó chỉ dùng làm bóp cho con nít. Mà con nít bên Tây đâu có xách bóp.

CON RẮN

Con rắn ấy vừa nhỏ vừa dài, giống như chiếc đữa ăn cơom. Nó bờ tới, bò lui trên nệm rồi kéo dài thân hình ra, vặn ngược, vặn xuôi. Cặp mắt rắn đỏ ngầu như tóc lửa, lưỡi le dài thòng. Chập sau, bụng rắn tươm ra hai giọt máu long lanh như hai giọt nước mắt... Bụng rắn lại xé ra, hàng chục con rắn nhỏ nhô đầu phá bụng mẹ rồi nhảy lên chiếc mền của bà cai tổng Bá.

Bà cựa quậy nhưng tay chân đều tê liệt. Bầy rắn con chui xuống mền, bò lăng nhăng, lạnh ngắt trên bụng bà cai tổng. Bà ú ớ, co tay, duỗi chân, đôi mắt mở thao láo trong bóng đêm. Từ trong gan ruột bà lửa bốc phừng phừng... bầy rắn con ấy bò tới bò lui, cắn lộn nhau để giành thức ăn, giành chỗ ở.

Ngọn đèn chong lu dần trên đầu giường. Gà gáy văng vẳng, báo hiệu đầu canh năm. Bà cai tổng vặn tim đèn lên cao, bước ra khỏi phòng ngủ...

Mụ Hai đang ngủ ở giường ngoài lồm cồm ngồi dậy:

- Thưa bà, bà làm gì mà thức quá khuya vậy?

Bà cai tổng đáp:

- Mệt quá. Nhưng cũng may. Như vầy là tôi dậy sớm.

Ðến bộ ván, bà cai mở nắp ô trầu, đem chai dầu cù là, xoa trên bụng. Mụ Hai im lặng. Từ ba tháng qua, cứ thỉnh thoảng là bà cai tổng lên cơn đau, một thứ đau đớn... không thể tả được. Bà hồ nghi rằng từ khi ông cai tổng mãn phần đến giờ, bà con bên chồng toa rập nhau để ám hại bà, hòng chia gia tài. Ðứng về mặt pháp lý mà xét, bà là người chánh thức được quyền thừa hưởng tài sản cò bay thảng cánh ấy. Tuy vợ chồng ăn ở với nhau không con nhưng xưa kia giữa hai người có làm giấy hôn thú. Bà đã nhiều lần nghe bà con bên chồgn hăm doạ sẽ giết, sẽ thuốc, sẽ thư... Bao nhiêu kế hoạch đề phòng dường như gãy đổ. Bà mang chứng đau bụng kỳ lạ. Mấy ông thầy thuốc ta trong xóm bảo rằng bà đau máu. Thầy thuốc tây ở Rạch Giá nói ngược lại: bằng chẳng đau đớn gì cả.

Hai khoa Tây y và Ðông y đều vô lý. Bà linh cảm rằng mình đã bị "thư" một vật gì trong bụng. Và vật đó là một con rắn hoặc một bầy rắn. Giấc mơ kinh khủng hồi nãy là bằng chứng tuy mơ hồ nhưng đáng tin cậy nhứt.

Mụ Hai thừa hiểu tâm bịnh của chủ nhà:

- Thưa bà, trước sau gì bịnh cũng hết. Bà ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức. Kẻ gian manh không dám hại bà đâu!

Bà cai tổng lắc đầu:

- Chắc nó thư một con rắn vô trong bụng tôi.

- Xin bà đừng nói nhảm mà hao gầy thân thể. Thưa bà, nếu bà tin cậy thì con sẽ chỉ cách.

- Kiếm người mở bùa, mở thư à? Tốn kém bao nhiêu, bà không tiếc. Bà chỉ sợ tiền mất tật còn. Nhứt là tiếng đồn đãi xấu xa của thiên hạ. Con Hai biết không? Tụi nó trông cho bà chết, nếu không chết thì bà phải có chữa hoang để tụi nó chia gia tài.

Mụ Hai nhớ tơói người tình nhân của mình, giờ phút này đang ngủ chèo queo trong lò gạch cũ hoang vắng của cậu Ba Chiêu. Anh ta tên là thầy Ngọc, chuyên nghề xem địa lý, xem tử vi và đánh bài gian lận. Mấy lần rồi, mụ đến gặp thầy Ngọc để vấn kế. Thầy Ngọc một mực từ chối: "Dục tốc bất đạt, Bà cai tổng ưa nghi ngờ." Mụ Hai thúc hối: "để quá trễ, bà cai tổng chết thì sao." Thầy đáp: "Trước sau gì, trái cây chín cũng phải rụng nhưng bây giờ nó còn hơi xanh."

Trời tờ mờ sáng, bà cai tổng nằm lim dim trong khi mụ Hai lui cui nấu nước pha trà. Bà lại dụi mắt:

- Thôi! Mệt lắm. Con Hai biết cách nào trị bịnh cho bà không?

Mụ Hai nhớ tới Thầy Ngọc nên trả lời:

- Dạ, có ông thầy này mở bùa hay lắm. Ðể con tới nhà ổng, nói rõ chứng bịnh của bà rồi thỉnh thuốc về.

- Thỉnh thử coi. Nhớ dặn thầy đừng tiết lộ cho ai biết. Bà hồ nghi tron bụng... có con rắn sống nhăn đang cựa quậy. Ban đêm, thỉnh thoảng bà nằm chiêm bao thấy bầy rắn hiện về, chun vô bụng.

*

* *

Nảy giờ, ngồi nói chuyện với thầy Ngọc hơn nửa tiếng đồng hồ, mụ Hai ấm ức quá chừng:

- Mình hãy cố gắng. Nếu trị dứt bịnh, bả dám đền ơn năm bảy trăm hoặc một ngàn đồng.

Thầy Ngọc ngồi chồm hổm, đôi mắt lấp lánh trong khung cảnh tối om:

- Tiền bạc, ai mà không ham. Tôi đâu ngu dại bỏ lỡ cơ hội. Ði chơi ngoài đường, gặp ai bỏ rơi một hai xu tôi còn cúi xuống lượm huống chi số bạc to tát. Thôi, em mang gói thuốc này về, nói rằng bả bị thư như vầy, như vầy... chớ không phải bị thư bầy rắn. Ðừng cãi lời tôi mà hư hỏng đại sự.

Mụ Hai ra về, tức giận vô cùng. Tại sao thầy Ngọc chỉ biểu những việc lạc đề, gãi không trúng chỗ ngứa của bà cai tổng.

Mụ vừa vào tới sân, bà cai tổng chạy ra hỏi:

- Xong không?

Mụ đáp:

- Tôi đem gói thuốc này về cho bà. Thầy giảng nghe hay lắm. Vô nhà, tôi nói đầu đuôi căn bệnh cho bà rõ.

Ðể giữ bí mật, mụ Hai đóng cửa ngõ, đóng cửa cái rồi trình bày dông dài về kỹ thuật "thư, ếm" do một ông thầy vô danh nọ tiết lộ:

- Thầy đàng hoàng lắm, muốn làm việc nghĩa, cứu dân độ thế chớ không cầu danh, cầu lợi. Vì vậy thầy giấu tên thầy và chẳng bao giờ tọc mạch hỏi tên tuổi của bệnh nhân.

Bà cai tổng thích chí, khen tấm tắc:

- Con Hai mầy khôn lanh quá. Ðùng nói cho bất cứ ai biết rằng bà mang bệnh. Bà con của ông cai tổng hay không, họ đàm tiếu hoặc tìm cách"thư" loại bùa khác, độc hại hơn.

Bằng một giọng bí mật, mụ Hai cho biết: Mấy thầy"thư" thường bỏ thuốc vô thức ăn hoặc nước uống. Sau khi ăn uống nhằm thuốc, bệnh nhân chẳng bao giờ hay biết. Nhiều người bị thư từ hai ba năm rồi sau đó ăn nhằm thịt gà, thịt bò, thịt ngỗng... bệnh mới phát ra. Nếu muốn tìm thủ phạm bệnh nhân chẳng còn nhớ là vào dịp nào, do ai thuốc.

- Ông thầy bí mật suy luận rất lâu, phân biệt mấy kiểu thư, nào thư cây đinh, nào thư con rùa...

Bài cai tổng hỏi nhanh:

- Con gì trong bụng của bà đây?

Mụ Hai nói e dè:

- Dạ, con muốn nói nhưng sợ bà không tin.

- Cứ nói. Ai giận hờn mà sợ.

- Dạ, thầy nói trong bụng của bà có một miếng da trâu. Lâu ngày miếng da trâu ấy dày lên, nở lớn, lông trên bụng mọc ngày càng dài.

Bà cai tổng lắc đầu:

- Thầy nói bậy! Con rắn. Nó thư hàng chục con rắn con, trong bụng bà.

Mụ Hai vẫn trả lời đúng theo lời dặn riêng của thầy Ngọc:

- Dạ, đó là miếng da trâu, cắt miếng nhỏ dài nên nó nhút nhít giống như con rắn. Bà còn nghi ngờ sao? Thầy nói, da trâu phơi khô, tán ra nhuyễn như bột, nếu bỏ vô nước thì nó nở ra.

Bà cai tổng sực nhớ tới bao nhiêu"điều tai nghe mắt thấy" liên quan tới thịt trâu. Loại thịt trâu ngâm trong nước lạnh, chẳng bao giờ hôi thúi hoặc rã xác, trái lại nó cứ tươi thêm. Khi gặp xác trâu nổi lềnh bềnh trên sông, nhiều người bơi xuồng ra, cầm dao lóc mớ thịt khuất dưới mặt nước đem về ăn ngon lành. Lại còn sự mầu nhiệm khác: thịt trâu khó tiêu, có người mới nằm chỗ, ăn thịt trâu rồi trúng mà chết trên giường với miếng thịt còn nằm ngoài cuống họng.

Bà gật đầu:

- Cũng có lý. Bao tử của mình đầy nước và nóng hổi. Da trâu nở ra, còn tươi xanh. Ðể bà uống thử một phen. Thuốc đâu rồi?

Mụ Hai trao cho bà cai tổng gói thuốc bọt của thầy Ngọc rồi khuyên bà nên uống lúc còn đói và nhịn ăn để chờ đợi lúc miếng da trâu nọ xổ ra.

Sáng hôm sau, bà cai tổng thở dài. Mụ Hai đã đoán trước những lời bà cai tổng sắp phiền hà. Và mụ cứ im lặng, hồi lâu mới dám thưa với chủ nhà:

- Thuốc dở quá! Nếu vậy, phải tìm thầy khác. Nếu thuốc công hiệu, miếng da trâu đã tuôn ra ngoài rồi.

Bà cai đáp:

- Nhớ kiếm ông thầy thuốc khác. Thằng cha thầy da trâu này bói lạc quẻ. Báo hại bà đói bụng rồi"trả nợ" muốn thụt con mắt, đứt hơi. Ðấy, cầm năm cắc bạc... đền ơn tạm cho thằng cha da trâu đó... Nhớ ăn nói khéoléo, kẻo nó giận rồi thư vô bụng bà một miếng da trâu thứ thiệt khổ quá! Trời ơi... bầy con rắn cứ quậy trong bụng bà hoài... Hồi tối, bà nằm mê...

Mụ Hai lẩm bẩm:

- Một con rắn đủ nguy hại rồi, nói chi tới mười con rắn. Bà rán chờ đợi. Ðể con kiếm thầy khác.

Ðang nằm lim dim trong lò gạch, thầy Ngọc chợt thấy mụ Hai bước vào. Mụ cằn nhằn:

- Mình báo hại quá. Bà cai tổng đòi thứ thuốc khác, thứ nào xổ ra nguyên bầy rắn con trong bụng bả.

Thầy Ngọc mỉm cười:

- Bà ta là tay đa mưu, đa nghi. Dục tốc bất đạt. Cái trái cây mới chín nhưng chưa mùi. Hái quá sớm, thất bại, uổng lắm.

Rồi hút thêm điếu thuốc, thầy gật gù:

- Nhứt là trái này vừa bổ, vừa ngon. Em Hai ơi! Mình ơi! Lại nằm gần anh để nghe anh làm bài toán thứ nhì. Ráng chịu cực với anh chừng một hai ngày nữa. Em về thuật lại như vầy... như vầy... rồi cho bả uống gói thuốc này.

Nói xong, thầy Ngọc tiễn người yêu ra ngoài cửa lò gạch:

- Phải kiên nhẫn, ban đầu mình dở rồi sau đó mới trở thành hay. Nhớ nghe không! Em cưng nhớ nói rằng em đã bỏ ông thầy thứ nhứt và đó là gói thuốc của ông thầy thứ nhì.

Trưa hôm ấy, mụ Hai tường thuật việc gặp gỡ với ông thầy"mở thư" thứ nhì. Theo lời mụ, ông thầy này đã lớn tuổi, đầu rậu tóc bạc, mới xem qua ngỡ như ông tiên trên núi Tà Lơn. Ông"tiên" này cho rằng gia chủ bị thư một con đĩa trong bụng.

Bà Cai tổng sáng mắt lên:

- Có lý hơn ông thầy thứ nhứt. Con đỉa nó dài, nó cựa quậy, sanh đẻ ra đỉa con. Hèn chi trong giấc chiêm bao bà thấy nó dài... như con rắn. Nhưng xưa nay bà đâu có ra ngoài vườn hoặc ra ngoài ruộng mà bị đĩa chun vô bụng.

Mụ Hai cười dòn:

- Bà nói nghe chưa xuôi. Con đỉa sống dai lắm. Tụi bất lương đem con đỉa phơi khô... vài ngày sau đem ngâm xuống nước, nó sống nhăn. Ông"tiên" còn cho biết: Ðỉa sanh con đẻ cháu bằng trứng và bằng da... tụi bất lương cắt một khúc da đỉa, đemphơi, tán ra thành bột rồi bỏ vô lu nước. Bà uống nhằm thứ nước đó. Miếng da đỉa vô bao tử, nở ra, trở thành đỉa mẹ. Rồi da của đỉa mẹ sanh ra đỉa con.

Lý thuyết ấy hơi khó tin nhưng bà cai tổng cố gắng dung nạp, như kẻ chết đuối ngoài biển khơi, tình cờ vớ được một cái phao nhỏ xíu, một thứ phao không phải là phao, vì bản thân của nó cũng sắp chìm.

Nhưng thà có còn hơn không! Ðêm ấy, bà cai tổng uống liều thuốc thứ nhì với thái độ gượng gạo... để đi tới kết quả là nghe con vật gì cấu cào trong bụng nhưng chẳng bao giờ thấy nó bị tống ra. Bà nằm thiêm thiếp, trong giấc mơ kinh khủng lại thấy con rắn nhỏ màu vàng hiện về. Rắn ta níu đầu níu đuôi vào góc giường như giăng võng rồi xé tét cho bụng nứt ra... Hàng chục con rắn nhỏ nhảy xuống mền, chui vào bụng bà. Rắn ấy càng ngày càng to dần, trở thành hàng chục con rắn mẹ, mỗi con rắn mẹ lại đẻ hàng chục rắn con khác. Bà tưởng tượng bầy rắn khổng lồ đang nô đùa, bò tới lui, le lưỡi, phun hơi độc vào tim, gan, phổi phèo...

Mụ Hai chạy vào:

- Thưa bà...

Bà cai tổng ngừ ngừ như con thú bị thương:

- Chết rồi... Con Hai mầy kiếm dùm bà một ông thầy khác. Bụng của bà có con rắn, thứ gì nho nhỏ chớ đâu phải miếng da trâu hay con đỉa... Phải kiếm ông thầy biết"mở thư".

Mụ Hai sực nhớ lời căn dặn của thầy Ngọc:

- Dạ. thầy"mở thư" bây giờ khó kiếm lắm. Bà cho con xin chút ít tiền để con đi vài ngày ở bên Giồng Riềng...

- Tiền đây. Con Hai nhớ đi cho nhanh rồi về cho gấp nghe... Bà trông cậy vào một mình mầy mà thôi. Bà khổ lắm, chỉ còn là cái xác chết để cho bầy rắn con rúc rỉa. Tốn kém bao nhiêu, bà chẳng tiếc. Bán nhà bán đất, bà không màng... miễn là đem con rắn mẹ với bầy rắn con ra khỏi bụng... Ác độc quá.

*

* *

Sau một đêm ân ái với thầy Ngọc, mụ Hai khoan khoái nghĩ tới số tiềncúng tổ khá to:

- Mình nên cẩn thận.

- Em đừng dạy tôi điều ấy. Em về trước đi.

Thầy Ngọc lắc đầu:

- Em ngu quá vậy? Em phải về trước, bảo cho bà cai tổng biết. Hai đứa mình là kẻ xa lạ... Anh tới sau.

- Mình nói đúng. Ðể em về.

Thầy Ngọc nói gắt:

- Mắc dịch! Có cái đó, anh căn dặn kỹ mà em vẫn quên.

Mụ Hai trở vào lò gạch, nhận lãnh một cái ống trúc khá nhỏ rồi giấu trong ngực. Thầy Ngọc nói rỉ vào tai mụ vài câu, mụ đưa ống trúc lên tai để nghe rồi nhướng mắt.

*

* *

- Thưa bà. Thầy sắp tới. Ông thầy này khó lắm. Ông hứa bảo đảm sẽ mở thư cho bà thấy nhãn tiền.

Bà cai tổng mừng quýnh:

- Thiệt vậy không?

- Dạ... ổng tới kìa!

Thầy Ngọc được bà cai tổng đón rước trọng thể. Thầy xem sắc mặt bà cai rồi nói khẽ:

- Xin phép bà cho tôi xem mạch và coi mấy lằn gân xanh nổi trên bụng:

Bà cai tổng nói:

- Nhưng... xin thầy vô buồng của tôi mà xem mạch, kẻo thiên hạ dị nghị. Hai à! Con vô đây với bà...

Thầy Ngọc sờ vào cườm tay bà cai tổng. Mụ Hai đứng đó để đóng vai tuồng của người thứ ba. Bà cai tổng nói:

- Hai à... con ra ngoài, khép cửa cho kỹ. Hễ có ai tới thăm thì nói là đang mệt. Ðừng để họ vô nhà rồi đàm tiếu.

Thầy Ngọc gật đầu:

- Ðàm tiếu thì tôi không sợ. Tôi chỉ sợ... là bùa của tôi mất linh nghiệm.

Mụ Hai bước ra khỏi phòng. Trong này, thầy Ngọc tiếp tục bắt mạch ở cườm tay rồi xem gân trên bụng của bà cai tổng.

Thầy mỉm cười:

- Ðêm nay là biết... Thôi, để tôi ra ngoài, lo bào chế thuốc cho bà uống. Cỡ chín hay mười giờ khuya là xổ ra. Nhớ kêu đứa ở để nó coi chừng kẻo... con thú đó còn sống. Tôi cũng thức tới giờ phút đó...

Sau khi uống mớ thuốc tán, bà cai tổng nằm liệt giường, nhịn đói. Giây lâu, thầy Ngọc vào phòng của bà để xem lại bộ mạch, rót nước cho bà uống rồi đưa ra các lý luận tràng giang đại hải về rắn trung, rắn nạp dưa, rắn Xiêm, rắn Ấn Ðộ, rắn Tà Lơn.

Trời đã tối. Thầy Ngọc nói ta:

- Ðứa ở đâu rồi? Tôi muốn uống trà.

Mụ Hai đến gần tình nhân, mắng yêu:

- Mình dám kêu tôi bằng đứa hả?

Thầy Ngọc nói:

- Chừng bảxổ bùa em giấu cái ống tre trong áo rồi la hoảng, gọi anh tới. Nó còn sống không? đừng sợ gì ráo.

Từ trong buồng, bà cai tổng kêu rú lên:

- Hai ơi! Bà mệt quá. Hai ơi. Vô đâytiếp sức với bà. Trời ơi... cái gì nôn nao trong bụng quá!

Mụ Hai dạ thật to, chạy tất tả, tay sờ vào cái ống tre.

Ngoài này, thầy Ngọc lắng nghe... chờ hiệu lịnh.

bỗng nhiên, mụ Hai quát to:

- Bà ơi! Con gì sống nhăn đây nè! Ðể con đem cây đèn chong lại coi cho kỹ... Úy trời đất ơi!

Bà cai tổng rú lên:

- Con rắn hả? Thầy ơi! Vô coi dùm thử coi. Thuốc hay quá... Từ rày về sau...

Thầy Ngọc đốt thuốc hút rồi đến cửa phòng, gõ vài tiếng xin phép vào để tỏ rằng ta đây là người đứng đắn, tôn trọng thuần phong mỹ tục... Chập sau, mụ Hai mở cửa:

- Thầy coi thử... Con rắn ghê quá. Nó nằm lờ đờ...

Thầy Ngọc nói lông bông, để đùa với mụ Hai:

- Bị nhốt trong... bụng, nó ngộp thở.

Rồi day qua bà cai tổng, thầy nói:

- Bà thấy khoẻ khoắn chưa? Bà đói bụng không?

Bà cai tổng nói nhanh:

- Hai à? Con ra ngoài, lo nấu cháo cho bà ăn.

Mụ Hai bước ra. Trong phòng, chỉ còn bịnh nhân và thầy bùa. Ai nấy đều thoả mãn, vui ra mặt. Kẻ thì mừngđược hết bệnh, kẻ thì mơ ước xa xăm hơn:

- Bà cai à! Tôi muốn về gấp nhưng... bà đã thấy, mỗi lần uống thuốc chỉ có xổ ra một con rắn thôi. Trong bụng bà, còn chừng mười con rắn khác... Mười ngày nữa, mỗi ngày xổ một con.

Bà cai gật đầu:

- Tôi hiểu rồi. Thầy chịu phiền thức với tôi mười đêm nữa, tại đây chớ gì?

- Nếu bà hiểu... tấm lòng của tôi, tôi đâu ngại thức khuya dậy sớm.

Vài tháng sau, bà cai tổng bỗng lớn bụng. Rồi sau tháng Giêng, bà xổ ra một đứathầy rắn con , giống hết gương mặt láu cá của thầy Ngọc.

BỐN CÁI NGU

Mấy người hàng xóm la hoảng lên:

- Tư Hưng đâu rồi! Nuôi heo bầy mà bỏ nó chạy cùng đường cùng sá. Sao không nhốt lại?... Thiệt hết nói. Tanh rình tanh ói, chỗ nào cũng một đống, ai hơi đâu mà hốt. Nó còn ủi nền nhà, phá mấy liếp cải. Nói ra thì mích lòng, để trong bụng thì ấm ức.

Tư Hưng từ đầu xóm chạy lơn tơn về, lên tiếng thanh minh:

- Bà con ơi! Tôi nhốt heo lại rồi. Chắc lại vợ tôi quên... Vợ tôi nó dại dột thì tôi chịu tội.

Nói xong, Tư Hưng chạy lùa ba con heo nái. Heo chạy tán loạn, đâm ngay vào vách lá, chui vào trong nhà. Anh ta nói to:

- Em ơi! Coi chừng heo chạy bể đồ đạc.

Nhưng hỡi ơi! Trong nhà không có một tiếng trả lời. Anh ta vào nhà, chạy tới trước cửa ngõ nhìn dáo dác. Vợ anh đâu rồi? Hay là đã xách gói trở về nhà cha mẹ ruột? Bốn tháng qua, vợ chồng anh ta gây lộn liên tu bất tận, tính đổ đồng hai ngày là xẩy ra một cuộc cãi vã.

Tư Hưng nói:

- Ði đâu đi phứt cho rảnh. Gặp con vợ như vầy mau tàn mạt lắm. Thật là...

Vừa lúc ấy, ông Hai Kiểm đi ngang qua, lên tiếng:

- Chuyện gì đó Hưng? Vợ chồng mới cưới, nếu cơm không lành canh không ngọt thì đóng cửa dạy nhau...

- Dạ, chuyện rắc rối lắm, đổ bể tùm lum.

- Cái gì đổ bể?... cháu nói mau.

Ông Hai Kiểm xụ mặt, tưởng tượng đến những hậu quả tai hại mà ông gánh lấy. Chính ông đã làm mai mối cho Tư Hưng cưới vợ. Bên gái đò một đôi bông búp, hai chiếc vòng đúng một lượng vàng. Vì muốn tác hợp cho hai trẻ là người dưng nhưng ông Hai Kiểm vẫn làm gan lãnh nợ, vay dùm cho gia đình Tư Hưng số tiền khá to. Chủ nợ hỏi:"Rồi làm sao vợ chồng nó đủ sức trả?" Ông Hai Kiểm đáp:"Vợ chồng nó sẽ nuôi heo nái, bán heo con lần hồi."

Những chuyện đáng buồn đã xẩy ra, thấy tai ông Hai Kiểm. Dư luận hàng xóm đã đồn đãi quá nhiều. Ban nãy ông gặp cô vợ trẻ của Tư Hưng ở bờ chuối, sát ven đường. Ông hỏi:

- Cháu làm gì vậy đó?

Cô vợ nó đáp:

- Dạ, cháu cắt lá chuối khô đem về bó lại, làm ụ cho heo ngủ.

- Cháu biết lo xa, bác mừng lắm. Xứ này nhiều muỗi, để heo ngủ trần mà mang tội. Làm sao heo mau lớn đúng tạ được? Sao thằng Hưng không ra đây làm công việc tiếp với cháu?

Cô vợ nọ ôm mặt khóc. Bấy giờ, ông Hai Kiềm mới nhìn tường tận: gò má cô ta bầm tím. Ông thở dài, định tìm Tư Hưng để dẫy dỗ. Dè đâu vừa đi ngang cửa là nghe giọng nói vô lễ của anh ta.

Ông Hai Kiểm vào s; ân, nói lẩm bẩm:

- Làm gì mà quát nạt? Cái gì đổ bể?

- Dạ, mời bác vô nhà, cháu nói hết đầu đuôi cho bác nghe.

Rồi Tư Hưng tố cáo bao nhiêu sự lơ đễnh của vợ: nào vợ ngủ trưa, nào vợ kho cá ăn mặn đắng, nào vợ lười biếng nuôi heo. Và nhứt là ưa cãi vã với chồng. Hễ giận hờn, lập tức cô vợ bỏ nhà ra sau vườn. Ông Hai Kiểm dùng tình cảm để khuyên nhủ:

- Nó lo cắt lá chuối kho chớ đâu phải dạo xóm ngồi lê đôi mách hoặc đánh bài tứ sắc. Cháu hãy bình tĩnh. Vợ nó có lỗi thì dậy dỗ bằng lời nói nhỏ nhẹ.

Tư Hưng nói nhanh:

- Dạ, nó cứng đầu lắm. Hễ cháu đánh thì nó đứng lì một chỗ, không thèm chạy.

- Ừ... Nhưng mà cháu đừng đánh ngay con mắt vợ.

Tư Hưng phục thầm sự nhận xét của ông Hai Kiểm:

- Sao bác biết?

- Trời đất xui kiến như vậy. Bác sống tới năm nay là sáu chục tuổi rồi. Ðàn ông ưa bạt tai vợ, táng ngay con mắt. Rủi đui con mắt thì sao?

*

* *

- Cục cu cu... cu! Cu!

Ông Hai Kiểm bước tới lui, ngắm nghía con cu mồi mới mua ở Xẹo Bần với giá là mười giạ lúa. Ông bắc ghế, đứng lên, mang cặp kiếng, nói thì thầm:

- Ồ! Con cu hai cốt. Chưa chắc! Hồi bữa hổm, nó gáy tới bốn cốt.

Rồi bác đưa tay lên miệng, bụm lại, nhái giọng gáy:

- Cục cú cu... cu!

Tức thời con cu mồi nhảy nhót, vỗ cánh, đòi bay ra khỏi cái lồng bằng tre. Nó đứng lại, há mỏ, ưỡn ngực:

- Cục cúc cu... cu! Cu! Cu!

Ông Hai Kiểm cười dòn:

- Giỏi quá! Trót làm thằng ngu thì ngu luôn cho trọn kiếp. Sáng mai, mầy nhớ gáy đủ bốn cốt cho tao!

Từ ngoài cửa, Tư Hưng bước vào. Anh ta nghe lóm tiếng được tiếng mất:

- Bác Hai ơi! Nói chuyện với ai vậy?

- Tư Hưng đó hả? Bác nói chuyện với con cu mồi. Gần tết rồi. Cu gáy vang dậy ngoài đồng, bác tính cho con cu mồi này ra nghê. Mua tới mười giạ lúa đó.

Tư Hưng vẫn thắc mắc:

- Con cu này mua quá mắc nhưng tại sao ngu dại. Nếu nó khờ thì luyện tập lại. Bác rành nghê gác cu lắm mà.

Một dịp may để ông Hai Kiểm giải toả bao nhiêu thắc mắc. Ông rót nước trà ngồi cao hứng rung đùi:

Ở đời có bốn cái ngu,

Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu...

- Mấy câu đó ý nghĩa như thế nào?

- Khó lắm. Nó ra sợ cháu hiểu lầm. Ông bà mình hồi xửa hồi xưa đặt để câu đó, nhắn nhủ mấy người lớn tuổi mà ưa làm chuyện ba vơ như bác. Cháu thử nghĩ: bác ở không suốt ngày, chỉ còn biết tiêu khiển bằng cách thăm viếng người chòm xóm, giúp đỡ lặt vặt. Rồi thì dưỡng nhàn. Cháu biết tại sao làm mai là cái ngu dại thứ nhứt?

Tư Hưng đáp:

- Dạ cháu hiểu mơ màng thôi...

- Nói ra, cháu đừng giận nghe không. Mình làm mai, giúp hai gia đình bên trai, bên gái kết tình thông gia. Nếu con cái họ ăn ở với nhau êm ấm thì thôi. Nhược bằng gặp thứ trai lỗ mãng, thứ gái lười biếng hỗn hào thì thế nào bên trai hay bên gái cũng trách móc mốc ông mai. Nào là thằng rể hoặc con dâu đó tệ quá. Không khéo, vài ngày nữa, nếu vợ chồng cháu chưa hoà thuận với nhau được....

Tư Hưng cúi đầu:

- Dạ, cháu hứa...

- Ðây là cái ngu thứ nhì của bọn già cả, có chút ít thể diện hoặc điền sản như bác. Mình lãnh nợ dùm cho thiên hạ, nếu con nợ trả đủ thì chủ nợ vui sướng, hưởng tiền lời. Bằng không, họ lại mắng vốn... Còn cái ngu thứ ba là gác cu.

Nghe đến đó, Tư Hưng mỉm cười. Gác cu tức là đem con cu mồi ra ngoài ruộng để cho cu gáy lên, nhử bắt con cu rừng. Mấy ông cai tổng, ông hội đồng địa hạt thường gác cu vào mùa này. Tư Hưng còn nhớ năm ngoái ông cai tổng đi gác cu với vài đứa tiểu đồng, mang theo nào trả ấm, thịt gà, cơm nếp. Tại sao gác cu là cái ngu dại thứ ba? Anh ta hỏi mãi nhưng Hai Kiểm cứ lắc đầu. Sao rốt, anh ta gợi ý:

- Dạo này, hễ ở nhà thì gây gổ với vợ. Cháu muốn theo bác, làm đứa tiểu đồng để học nghề. Hồi đó tới giờ, cháu ưa đá gà, đá cá thia thia. Mai kia mốt nọ, về già, cháu sẽ gác cu như bác.

- Ðừng, cháu ơi. Dại dột lắm.

Con cu mồi gáy vang lên. Ngoài bờ tre xa xôi dường như có tiếng đáp lại. Khiêu khích -"Cu kêu ba tiếng cu kêu, cho mau tới Tết dựng nêu ăn chè." Ông Hai Kiểm căn dặn Tư Hưng nên về nhà giúp công việc lặt vặt cho vợ bớt mệt. Nhứt là sửa các chuồng heo, đừng để lối xóm phiền hà...

Sáng hôm sau, Tư Hưng đã có mặt tại nhà ông Hai Kiểm. Hai người ăn cơm rang dằn bụng rồi lên đường. Ông Hai Kiểm đi trước, xách cái lụp, tức là cái lồng bằng dây chì, trong đó có để con cu mồi. Tư Hưng theo sau, vác một cây sào dài, đầu cây sào có cái móc nhỏ bằng sắt. Lại còn có cái bình tích, đầy trà nóng, hộp quẹt và chiếc chiếu.

Gió chướng thổi lao xao mang hơi lạnh từ phía tây bắc, báo hiệu ngày gần Tết. Mặt trời lên cao, bầu trời vẫn chưa trong sáng. Vài đám mây đen bay lởn vởn, thứ mây chuyển mưa còn rơi rớt. Mùi lúa chín xông lên vừa nồng vừa ấm. Qua khỏi bờ ven, hai người đều xăn quần lên tận gối. Lá lúa cứa vào da, hơi rát. Ðôi khi, bùn ngập tới nửa ống chân. Vài con cò trắng đáp xuống vũng nước cạn, rình cá tôm. Ông Hai Kiểm bước khá nhanh, dod6i mắt nhìn đăm đăm về hướng cây gáo cổ thụ, giữa đồng.

Ðến nơi, Tư Hưng đứng lóng nhóng. Ông Hai Kiểm nói:

- Trải chiếura, ngồi xuống. Nếu khát nước thì uống trà cho thấm giọng.

Trèo lên cây gáo, bẻ vài nhánh cây nhỏ, quăn xuống cho bắc.

Ông Hai Kiểm đem lá cây ghim lên cái lụp:

- Nhờ làm như vầy để cho cu rừng không thấy cái lồng bằng dây chì. Lát nữa, cu rừng sẽ bay tới, đậu trên cái sàn, trước mặt lụp.

- Còn mớ lưới này?

- Mình giương lưới lên, gài chốt. Cu rừng đến trước mặt cái lụp, khiêu chiến. Nếu cu đạp nhằm cây chốt, lưới chụp xuống cái sàn, túm con cu rừng.

Ðâu đó xong xuôi, ông Hai Kiểm dùng cây sào có móc sắt mà đưa cái lụp lên gần trên ngọn cây gáo. Ông bước ra xa, nhìn đôi ba lần khen ngợi:

- Ðược rồi, Cu rừng chẳng bao giờ biết con cu mồi đang bị nhốt trong cái lụp. Và trước mặt lụp là cái sàn nhỏ, có lưới giương lên. Êm lắm!

Hai người rút lui vào lùm cây mua, hơi thấp, vạch một lỗ khá to trong lùm rồi chui vào. Tư Hưng nói nhanh:

- Giống như ngồi trong hang...

- Ồ! Người gác cu ngồi ngoài bờ ngoài bụi như vầyl. Nếu đứng lom khom ở ngoài chỗ trống trải, cu rừng đâu thèm tới nạp mạng.

Ngồi giữa lùm cây, ông Hai Kiểm hút hết điếu thuốc này qua điếu thuốc khác. Con cu mồi bị nhốt trong lụp bắt đầu gáy vang:

- Cúc cù cu... cu! Cu! Cu!

Ông cười dòn:

- Giỏi quá! Ra đây, nó gáy tới ba cốt.

Tư Hưng hỏi:

- Dạ, cốt là cái gì?

- Theo tiếng lóng của nhà nghề, mấy tiếng cúc cú cu, gọi là tiếng cốt. Con cu mồi này gáy ba cốt. Bảnh quá! Cháu nghe lại thử. Nó gáy kìa!

Từ ngọn cây gáo, con cu mồi cất tiếng thảnh thót:

- Cúc cù cu... cu! Cu! Cu!

Ông Hai Kiểm nhướng mắt!

- Ðó... Nó gáy đủ bốn cốt. Loại cu nào nhiều cốt thì được cu mái say mê. Lúc lúa chín, cu rừng bắt đầu"phân đồng" mỗi con cu trống, chiếm một khu vực riêng biệt, từ cây này qua bờ tre bên kia. Nó tha hồ ăn lúa chín và tìnht ự với bọn cu mái. Nếu con con cu trống nào toan vào khu vực của nó, nó sẽ đánh đuổi, đá và cắn tơi bời. Thí dụ như khu vực này, từ cây gáo qua bờ tre, đã có sẵn một con cu trống làm bá chủ. Mìnhd dem con cu mồi này tới để xâm chiếm. Lát nữa, con cu trống sẽ ra tranh cắn, đánh đuổi con cu mồi này để rồi bị lưới chụp xuống.

Thời khắc trôi qua chậm chạp. Tư Hưng bắt đầu nản chí, muốn xin phép rút lui về nhà để... nuôi heo trả nợ đám cưới. Bỗng đâu từ phía bờ tre đối diện có giọng gáy thanh tao:

- Cúc cù cu... cu cu!

Ông Hai Kiểm ngồi nhốm tới, nép sát vào bụi cây mua, mang kiếng, nhìn qua kẽ lá:

- Ðó! Con cu rừng lên tiếng, đòi đá lộn với con cu mồi của bác.

- Sao nó chưa qua?

- Cháu nên bền chí. Cu rừng khôn ngoan lắm. Nó hồ nghi điều gì... bất an. Nhiều con cu rừng đã bị lưới chụp hụt vài trận rồi. Nó còn dè dặt, dò xét tình hình.

Trên ngọn cây, cu mồi gáy lên, thúc giục:

- Cú cù cu... cu! Cu! Cu!

Từ phía bờ tre, cu rừng bay nhanh qua cây gáo, đảo hai ba vòng, toan đáp xuống.

Tư Hưng nói:

- Nó tìm kẻ thù hả bác?

- Nói chuyện nho nhỏ một chút. Coi chừng nó nghe. Nó tìm kẻ tình địch. Cu rừng này cho rằng con cu mồi trong bụi là kẻ từ nơi xa lạ đến xâm chiếm cánh đồng lúc để ăn no và chiếm đoạt người yêu của nó.

- Tại sao nó bay qua đây! Hồi nãy bác nói con cu rừng này đầy đủ kinh nghiệm, chết hụt nhiều lần nên khôn ngoan....

- Lời tục thường nói: Biết chết nhưng cũng nhào vô. Con chim ghét nhauv ì tiếng gáy. Cu rừng gáy hai cốt ghét con cu mồi gáy tới bốn cốt. Nó cho rằng có kẻ bảnh trai hơn, toan chiếm đoạt sự sống của nó... Im đi.

Qua kẽ lá, Tư Hưng thấy rõ ràng con cu rừng. Nó thuộc loại cu cườm, mớ lông chung quanh cổ nhuộm màu hường dợt, lấm tấm những điểm trắng tuyết, mỏ và đôi chân đỏ sậm, nhứt là con mắt tròn xoe, sáng ngời lấp lánh như giọt máu tươi.

- Nó khôn quá. Nó nhảy trên nóc lụp chớ không thèm nhảy trước cái sàn để vướng vào bẫy!

- Cháu nói đúng. Nhưng con cu mồi của bác còn khôn hơn!

Con cu mồi nhảy nhót, vỗ cánh ngược lên trời... nhưng bầu trời của nó quá hẹp, nó té xuống. Nó bước tới sát lưới, quơ chân. Cu đá nhau như gà, dùng mỏ mà cắn, đưa chân mà quào. Con cu rừng cứ bay quanh quẩn rồi đứng trên lụp mổ xuống, để khỏi Sa trại chủvào cạm bẫy. Lát sau, nó bay lên trên cao... trở qua bờ tre gáy inh ỏi, thứ tiếng gáy kém đẹp, có hai cốt "cu, cu" khi chấm dứt.

Ông Hai Kiểm đưa tay lên miệng, nhái tiếng gáy để thúc giục cu mồi. Cu mồi lại gáy, khoe giọng thiên phú, đến bốn cốt. Nắng lên cao. Cu rừng dường như còn phân vân, chưa chịu xáp chiến.

Tư Hưng thở dài:

- Chừng nào nó bay qua đây...

Ông Hai Kiểm đáp:

- Bữa nay không xong thì chờ ngày mai, ngày mốt không xông thì ngày nọ, ngày kia... Gác được một con cu rừng khôn ngoan, mình vui hơn là gác con cu rừng thứ dại dột. Cháu mệt mỏi rồi hả?

Tư Hưng ngáp dài:

- Ðể cháu về nhà, lo cái chuồng heo.

- Cháu muốn về thì cứ về. Bác không dám cản cháu.

Nghe vậy, Tư Hưng lật đật cầm cây sào, bước ra khỏi lùm cây. Ông Hai Kiểm kêu lên thất thanh:

- Làm gì vậy? Cháu về thì về một mình. Ðể bác ở lại...

*

* *

Bảy ngày sau, Tư Hưng đã quên hẳn chuyện gác cu của ông Hai Kiểm. Hàng ngày, anh ta lo nuôi heo, quét nhà, sửa sang bồ đựng lúa. Vợ chồng đối xử với nhau êm ấm.

Lúc vợ chồng Tư Hưng đang ăn cơm chiều, bà Hai Kiểm chạy vô sân, nói hơ hãi:

- Tư! Mầy thấy bác Hai mầy ở đâu không?

Trời mưa lất phất, lạnh lẽo. Trận mưa bấc dai dẳng, còn rơi rớt. Tư Hưng nhìn bà Hai Kiểm, thương hại:

- Chuyện gì mà bác gái dầm mưa? Lâu rồi, cháu không gặp bác trai.

- Ổng đi gác cu với mầy mà! Mỗi ngày mỗi đi, từ bữa đi chung với mầy đó.

- Dạ, cháu theo bác trai có một buổi đầu mà thôi...

- Kiếm bác trai mầy dùm tao! Tao hồ nghi quá.

Lập tức, Tư Hưng buông chén đũa, chạy ra sau vườn. Trời vẫn mưa. Mặt trời khuất đâu mất, cảnh vật tối om. Cây gáo đứng trơ vơ giữa đồng như bóng ma trơi. Tư Hưng lục soát bụi cây, chẳng có cái lụp nào cả. Tư Hưng thất vọng, trở về. Bỗng dưng, anh ta nhớ tới cái bờ tre bên kia, đối diện với cây gáo. Anh ta chạy qua, nhướng mắt: giữa bụi tre, cái lụp gác lơ lửng, trên đó có con cu mồi và một con cu rừng bị lưới chụp.

Cu rừng và cu mồi đều cú rũ, bất phân thắng bại vinh nhục, lông cánh lù xù vì dầm mưa quá lâu. Nhưng ông Hai Kiểm ở đâu? Tư Hưng toan kêu lên nhưng sợ làm lộ bí mật nhà nghề. Anh ta bèn đưa hai tay lên miệng, bụm lại, nhái tiếng cu kêu:

- Cúc cù cu... cu! Cu! Cu!

Bỗng nhiên, bụi nhãn lồng nhúc nhích. Có tiếng rên hừ hừ. Tư Hưng ngỡ là ma nhát, sửa soạn co chân tẩu thoát. Nhưng giọng run rẩy của ông Hai Kiểm vang ra từng đọt:

- Cứu... tao... tao gần chết... á khẩu...

Tư Hưng cõng ông Hai Kiểm vào nhà, đốt lửa hơ, cạo gió, mua thuốc cảm mạo, nấu cháo thương hàn... vài phút sau, ông Kiểm mới tỉnh táo, nói thân mật:

- Tao chờ đợi... mắc mưa suốt buổi. Con cu mồi bay quá. Rốt cuộc con cu rừng chịu đá lộn, mặc dù bị gài bẫy nhưng cũng đá. Vui quá... Ủa! Ngu quá. Con cu rừng đó, tao cho vợ chồng bây nướng ăn. Hồi xưa, nhiều người đi gác cu như tao, ngồi rình mò dè đâu phía sau lưng có con cọp đang chờ ăn thịt họ. Gác cu không đem lợi lộc gì ráo mà mình ham. Cái thói phong lưu đó nguy hiểm lắm. Nếu mày không ra ngoài cứu kịp thì tao á khẩu, chết luôn ngoài bụi tre rồi. Ðó là cái ngu thứ ba: "Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu mà!"

Tư Hưng mỉm cười, nhờ đến cái ngu thứ nhứt, thứ nhì:

- Dạ, hai vợ chồng cháu cỡ này đề huề lắm. Ba con heo nái đang có chửa, món nợ mà bác bảo lãnh hồi cháu sửa soạn cưới vợ...

- Tao hiểu rồi. Ráng mà làm ăn. Thôi tao về kẻo bác gái mầy trông đợi.

- Dạ, trời còn mưa lai rai. Ðể cháu nhắn tin cho bác gái hay... Còn cái ngư thứ tư nó ra làm sao bác?

- Cầm chầu hát bội. Rằm tháng giêng, cháu sẽ thấy. Hễ mình ít"chầu" bọn đào kép cho rằng mình là thằng già cầm chầu khó khăn, phách lối, khinh khi kẻ xướng ca vô loại. Nhưng nếu mình đan1h chầu đúng điệu thì có kẻ giềm siểm, cho rằng mình là thằng già dê, cứ đ1nh chấm khen ngợi mấy cô đào trẻ mà quên mấy cô đào già.

Tư Hưng nắm bàn tay gân guốc của ông Hai Kiểm:

- Bác tử tế quá.

- Sao mầy biết? Ðừng nịnh tao. Vợ chồng mầy nên ăn ở thuận thảo đi.

Giọng Tư Hưng như ngậm ngùi:

- Bác dám lãnh đủ bốn cái ngu trên đời... Không màng tiếng bấc, tiếng chì. Cái tiêu khiển của bác không làm hại cho ai. Và bác dám gánh trách nhiệm để cho kẻ khác vui sướng. Cháu phục mấy ông già xưa quá trời.

CON SẤU CUỐI CÙNG

Một tai hoạ thảm khóc vừa xảy đến cho gia đình ông cai tổng Hy. Hôm ngày cưới vợ của đứa con trai út, đoàn ghe rước dâu bị sấu cản mũi, bà con hai họ kêu la ỏm tỏi. Sấu lặn xuống rồi trồi lên đập đuôi ngay chiếc ghe chở cô dâu, chú rể.

Ai nấy trở về bình yên, trừ trường hợp đặc biệt của cô dâu. Nàng mất dạng sau khi quơ đôi chân ngược lên trời, lần cuối cùng, đầu và mình đều khuất dưới mặt nước xao động, trong miệng sấu.

Tôi đến chia buồn với ông cai tổng Hy. Ông nói giọng buồn bã:

- Nó mất xác. Bây giờ chỉ còn chờ báo thù.

Vì chưa biết rõ, tôi hỏi kỹ:

- Dạ thưa ông, ai báo thù?

- Sấu báo thù cho sấu... Theo tục lệ hồi xửa hồi xưa, sấu là loài thú bị đầy, mỗi con muốn thành tinh, để đầu thai kiếp khác cần phải nuốt... chín mươi chín nhơn mạng, thêm một người nữa là đúng một trăm chẵn. Nhưng mấy thầy câu sấu ở xứ mình quả quyết rằng họ có thể sửa đổi luật lệ của quỷ thần. Họ sẵn sàng giết sấu để báo thù cho người chết với điều kiện phải mướn bằng một số tiền khá cao.

- Ông mướn thầy câu sấu nào chưa?

- Họ đòi giá cao quá, dầu bắt được hay không, mình phải đặt tền tổ trước khi họ ra tay. Khổ lắm. Họ biết rằng kẻ bị"hùm tha, sấu bắt" chẳng bao giờ trở về nhà hưởng nhang khói nếu con sấu, con cọp sát nhân kia còn sống. Vì muốn cúng kiếng cho con dâu, bác dọ hỏi giá cả.... sơ sơ trên hai trăm đồng. Còn thêm điều kiện: bao nhiêu vòng vàng trong bụng sấu đều thuộc quyền của họ. Cách đây vài bữa, lão Năm Hên tới đây hỏi han kỹ lưỡng rồi xin phép bắt con sấu đó, không ăn một đồng xu nào hết.

- Người đâu mà tử tế quá vậy?

- Khó hiểu lắm. Ông ta nói rằng muốn bắt một con sấu cuối cùng, trước khi giải nghệ...

Rồi ông cai tổng Hy nói khẽ:

- Chắc ông ta biết con dâu tôi... nó mang theo hai chiếc neo đúng hai lượng vàng nên động lòng tham. Hễ bắt được con sấu. ông ta mổ bụng nó lượm trước hết rồi tri hô sau, hoặc chẳng thèm tri hô gì ráo. Như vậy, ông ta vừa... làm giàu, vừa được tiếng tốt với hậu thế!

*

* *

Ðể hiểu rõ hơn, tôi đến Ngã Ba Ðình để làm quen với ông Năm Hên. Biết tôi là người quen thuộc với gia đình ông cai tổng Hy, ông Năm tỏ vẻ ái ngại:

- Nguy lắm. Tốt hơn cháu về nhà chờ đợi. Khi nào bắt được nó, bác cho cháu hay.

Tôi nài nỉ xin phép ở lại căn chòi che tạm ấy. Ông mải im lặng. Tôi sanh nghi, liên tưởng đến hai chiếc neo hai lượng vàng còn nằm trong bao tử con sấu ác nghiệt. Gương mặt ông Năm Hên trông hiền nhưng bí hiểm lạ thường. Ông đi ra đi vào, quan sát bãi bùn, nhìn mấy giề lục bình trôi ngang qua rồi nói:

- Sợ cháu không đủ kiên nhẫn. Chuyện nguy hiểm này, bác muốn chịu đựng một mình. Nếu có mặt một người thứ nhì, bác e xảy ra nhiều tiến dị nghị. Hồi xưa, cháu nên nhớ rằng: bác làm nghề này vì miễn cưỡng. Hôm nay bác muốn tự ý bỏ nghề không trống, không kèn. Thôi, được rồi. Cháu ráng ở sớm hôm với bác. Ðiều quan trọng là cháu đừng làm điều gì mà bác ngăn cấm. Ðừng chàng ràng hỏi tới hỏi lui. Ðừng thắc mắc là tại sao cháu hỏi mà bác không trả lời. Bây giờ thì cháu ăn cơm rồi ngủ cho thẳng giấc.

Vì tò mò muốn điều tra những thủ đoạn của thầy câu sấu, tôi nhận lời và ngoan ngoạn ăn cơm. Ăn xong tôi lựa một nhánh bần cổ thụ, trèo lên nằm co mình. Gió thổi mát rượi. Ông Năm Hên cứ hút thuốc phì phà. Tôi vui sướng như nằm trên chiếc ghế dựa. Con sông Ngã Ba Ðình nổi tiếng có nhiều sấu hung ác nên ghe xuồng qua lại rất thưa thớt. Trời xế dần, chưa chi mà cò, diệc hay giăng hàng về rừng. Lục bình trôi hết giề này tới giề kia, mấy cây khô trốc gốc nổi lềnh bềnh quay qua quay lại như xác người rũ tóc.

Tôi ngủ từ bao giờ, không hay biết.

Bỗng nhiên, tôi giật mình thức dây. Một trái bần chín khá to, vừa rụng xuống bãi bùn. Tôi mừng quýnh, nhảy xuống đất, chạy ra ngoài bãi, cúi xuống lượm, chợt nghe nhiều tiếng động lạ lùng, giống như giọng cười the thé củacô hồn ma quái.

Trên chòi, ông Năm Hên vụt đứng dậy mỉm cười:

- Coi chừng. Không nguy hiểm nhưng đừng giật mình, đừng la lớn. Nó đó!

"Nó" là ma hay là con sấu ăn thịt đứa con dâu của ông cai tổng Hy? Tôi muốn hỏi to nhưng sực nhóo lời căn dặn. Vả lại, tôi muốn tỏ rằng mình đây chẳng phải thợ câu sấu nhưng vẫn đầy đủ bản lãnh.

Hai chân tôi đau điếng như đạp nhằm gai. Vừa ngó xuống, tôi hoảng hốt: Hàng chục con thú nhỏ - vóc dáng bằng con cắc kè - chạy tới bao vây, nhe răng, phóng mình cắn khỏi mắt cá. Tôi rút chân khỏi bùn, toan rút lui về phía cây bần để tìm một nhánh cây làm roi. Không cần suy nghiệm, tôi hiểu ngay! Ðó là bầy sấu con mới nở, dưới bụng mỗi con đều dính những bệt màu vàng - màu của tròng đỏ trứng sấu. Ông Năm Hên quát to:

- Chạy luôn đi!

Tới gốc bần, tôi leo lên thật cao rồi ngóng xuống bãi. Kìa, một con sấu dài hơn ba thước từ mé nước bò trườn, bao vây đàn con, lùa xuống mé nước.

- Xuống đi!

Nghe theo lệnh ông Năm Hên, tôi tới căn chòi. Ông cứ ung dung hút thuốc, nhìn mơ màng theo làn khói. Trên vách lá, hang chục cây mun - mũi tên bằng cây cau già phía trước có mũi nhọn bằng sắt - nằm im lìm trong cái ống tre khá to. Bỗng dưng, tôi nổi giận, thầm trách:

- Lão Năm Hên này quá ác, muốn nhử cho sấu ăn thịt kẻ khác. Ðã ác, lão còn nhát gan. Cớ sao ông chưa chịu phóng vài cây mun bịt sắt để giết con ác thú?

Tôi nói:

- Sao bác thờ ơ quá vậy!

Lão trợn mắt:

- Ðó là con sấu cái. Nó lo giữ bầy con. Con sấu đực mới là chánh phạm.

-"Nó" đâu rồi? Tại sao bác biết là"nó"?

- Cháu đừng hỏi.

Rồi ông nói lảng qua chuyện khác. Nào loài sấu đẻ hàng đôi ba chục trứng, đẻ xong khoét lỗ, sắp trứng từng lớp, cứ mỗi lớp trứn glà có một lớp lá cây mục, cỏ khổ. Ðâu đó xong xuôi, sấu kiếm lục bình, nhánh cây, rác rến mà phủ lên giống như mô đất, cao đến sáu bảy tấc. Khi trứng gần ngày nở, sấu mẹ bò quanh quẩn, nghiêng tai nghe tiếng động trong lòng trứng... Lúc mới nở, sấu con sống bằng chút ít tròng đỏ còn dính dưới bụng. Hằng ngày sấu mẹ cạnh chừng sấu con, sợ sấu cha trở về ăn thịt con...

Chúng tôi ăn cơm chiều. Trời sụp tối. Ông ngồi chồm hổ, bấm đốt tay, tính lẩm bẩm.

Ðến khoảng đầu canh hai, ông vỗ nhẹ vào vai tôi:

- Thức chưa hay còn ngủ?

Tôi trố mắt:

-"Nó" hả?

- "Người ta"hồi đầu mùa rồi, đừng hỏi nữa. Nếu buồn bực thì lại đây cói cái này cho vui.

Tôi bắt đầu lo ngại, nghĩ tới bao nhiêu giai thoại về hồn ma hiện về cỡi trên lưng loại sấu đội đèn. Ông Năm thúc hối:

- Mau mau!

Qua khi đìa, tôi thấy dưới này năm ba vật gì đen thui, giống như khúc củi nổi lều bều. Ông Năm giải thích:

- Tụi nó điếm đàng như vậy đó. Nó xuôi chân xuôi đuôi và cứ nổi phêu phêu trên mặt nước. Con sấu cái ở chính giữa, xung quanh là bầy sấu đực tới ve vãn. Sấu cái lội tới đâu, mũi"xạ" trong miệng nó hôi thúi tới đó, rù quến bầy sấu đực... Tụi đực rựa đánh mùi, giành"mèo". Coi kìa!

Mặt nước xao động. Mấy"đốm đen" chuyển mình rượt nhau, đập đuôi nghe ầm ầm vang lên chấp choá dưới ánh trăng non. Chập sau, bầy sấu mất dạng.

Ông Năm Hên khép kín cánh liếp, nói nhanh:

- Cháu thấy nhãn tiền chưa? Con sấu cái này chờ"chồng". Nó đánh bạt bầy sấu đực xấu máu. Bọn sấu đực giành mèo dữ tợn lắm. Bác gặp nhiều phen lạ lùng: sấu đực cắn lộn, con này cyui xuống bụng con kia để thiến lẫn nhau.

Rồi ông tắc đèn chui vào nóp ngủ.

*

* *

Ngày qua ngày, ông Năm Hên xuống bãi bùn, cắm nhánh cây để ghi mức nước lớn, nước ròng. Ðôi khi, thừa lúc tôi nằm lim dim, ông xách cây dao phay, đi ra sau nhà, khuất dạng trong vùng rừng tràm lưa thưa. Tôi sực nhớ tới tập quán của vài người mỗi lần vào rừng phóng uế,"bón phân cho cây" là họ mang theo cây dao để đào lỗ rồi lấp lại cho hợp vệ sinh. Nhưng tại sao ông Năm Hên che dấu cái nhu cầu đơn giản ấy? Mội buổi sáng, nghe tiếng quạ kêu sau rừng, lão hối hã chạy ra khỏi nhà, hò hét inh ỏi:

- Quả đùng! Quạ đùng!

Lão trở vào, hút thuốc, bấm đốt tay rồi chạy xuống bãi bùn. Hồi lậu, lão trở lên:

- Cháu ở nhà một mình nghe không? Bác qua bên kia chừng vài giờ đồng hồ. Ở nhà, nhớ đuổi quạ. Và đừng bao giờ ra sau nhà, phía rừng tràm.

Tôi gật đầu, hứa vâng lời. Chờ lão khuất dạng, tôi làm bài toán liều mạng. Ra sau rừng để xem thử. Tại sao lão ngăn cấm? Nhứt định lão chôn giấu một vật gì bí mật. Rủi lạo bắt gặp, tôi bị rầy, bị đuổi ra khỏi nhà là cùng. Vùng rừng tràm quá thấp, nước đọng quanh năm. Giữa ban ngày muỗi mòng cứ bay vo ve, từ mặt nước, bầy lăng quăng thoát xác bay lên nhu con ngài lột vỏ kén. Hồi lâu, tôi đến vùng đất cao ráo, in tỏ rõ dấu chân người. Tôi dừng bước, ngạc nhiên và sợ sệ, nhận ra một nấm đất vuông vức. Kho tàng chăng? Bùa phép hoặc cạm bẫy gì đây? Sau khi hái một nhánh cây khôn, tôi xới đất: Hai khúc xương lòi ra, xương ống chân và xương bắp đùi và mớ xương vụn khác. Lập tức, tôi lấp đất lại rồi chạy nhanh về chòi để tránh mùi hôi thúi. Té ra ông Năm Hên đã chôn nguyên cái chân của một người, người ấy phải chăng là cô dâu của ông cai tổng Hy?

Chừng hai giờ sau, ông Năm Hên trở về, nhìn thẳng vào mặt tôi như muốn nói điều gì... Ông vấn thuốc hút, mỉm cười:

- Hổm rày, cháu buồn bực, hồ nghi công việc làm của bác hả? Ráng ở thêm tối nay, tới trưa mai cháu về nhà được rồi.

- Xin lỗi bác. Lúc bác vắng mắt...

- Cháu đừng hiểu lầm. Bác mời cháu ở lại chớ đâu muốn đuổi. Cái gì bác cũng tha thứ được hết. À, tuổi trẻ, người ngoại cuộc như cháu ưa tò mò. Bác muốn cháu tò mò cho tới nơi tới chốn. Ðời bác quá già rồi. Bác làm rẫy khoai mì ở rạch Ngan Trâu, tính giải nghệ từ lâu nh; ưng chưa giải nghệ được. Bữa nay hoắc sáng mai, bác giết con sấu cuối cùng. Sanh nghề tử nghiệp, bác đều sợ, vì nếu "tử vì nghiệp" thì đó là luật quả báo. Bác sợ những người tò mò, mới xem nửa chừng rồi bỏ cuộc...

Tôi im lặng, cúi đầu nghe lời trách mắng quá nghiêm khắc ấy. Dường như ông Năm Hên muốn trút bao nhiêu bất mãn chồng chất từ bao nhiêu năm qua lên đầu tôi.

Lão day mặt, hỉ mũi, nói nghẹn ngào:

- Cháu nên ở lại. Bác sợ cháu đồn đãi... bậy bạ. Giờ phút này, cháu thấy sự thật khi đào lên sau rừng. Nhưng cháu có thể hiểu lầm... cũng như ông cai tổng Hy hiểu lầm.

Chiều hôm ấy, ông Năm Hên nhịn ăn, vì buồn bực. Tôi lục nồi cơm nguội, nuốt lua láo nửa chén rồi chun vô nóp.

Ông đốt đuốc lên, nói khẽ:

- Ðừng ngủ. Hễ nghe phía sau rừng có tiếng sấu"nghé" đừng giật mình nghe không! Nước ở cái lung bên kia cạn rồi. Tối nay nó về đó.

Tôi đứng lóm thóm bên ngoài cửa, nhướng mắt... Bỗng nhiên, ông Năm Hên chạy ra ngoài, ngoắt lia lịa:

- Ðừng sợ. Cháu coi kìa! Nó trườn lẹ ghê, giống của nó dữ lắm. Bữa hổm, sấu cái lo ấp trứng, nó rảnh rỗi sanh tật hung hăng đón ghe... đám cưới. Hôm nay, đoán chừng bày sấu con đã nở, nó bò về để ăn thịt con.

Dưới bãi bùn, con sấu hiện ra, đen ngòm giống như cái xuồng độc mộc. Trăng sáng vằng vặc. Con sấu trườn dài, dọc theo bờ sống, day mũi qua bên tả, bên hữu. Ông Năm Hên nói:

- Cháu cầm cây đuốc dùm bác. Ðừng la hoảng nghe không. Ðể bác giết nó. Cầm đuốc cho thật chắc!

Tôi nhận lấy bó đuốc...

Ông Năm Hên bước xuống bãi với hai bàn tay không.... Sực nhóo tới cái ống tre đựng mấy ngọn mun bịt sắt, tôi nói nhỏ:

- Ðem ngọn mun theo chớ?

- Khỏi cần. Chắc ăn lắm rồi. Nó đó. Nhất định là nó.

Con sấu tiến lần về cái ổ trứng - đúng nơi tôi bị bầy sấu con bao vây hôm nọ. Bầy sấu con hoảng chạy... Sấu đực lướt tới đớp con. Nhanh như chớp, ông Năm Hên nhảy lên sấu mà cỡi... Ông cúi đầu xuống, hai tay cựa quậy... Sấu day mũi xuống nước rồ8i quẹo lên bãi, trở mình, vật ông Năm Hên nằm ngửa dưới bải... Trong phút giây, người và sấu chỉ là một đống đen thui. Khói từ bó đuốc thổi tạt ngang mặt tôi... Gió thổi hù hù. Ông Năm Hên hò hét, làm vang động khu rừng tràm sau hè. Tôi đứng không vững vì dường như mặt đất rung rinh. Bỗng dưng ông Năm Hên đứng dậy, chạy bò càn lên bờ đến bên cạnh tôi rồi quỵ xuống, thở hổn hển:

- Nó gần chết rồi kìa.

Dưới bãi bùn lấp lánh ánh trăng, con sấu đen ngòm nằm im. Tôi hỏi:

- Tại sao bác không kéo xác nó lên. Hay là... để cháu tiếp sức với bác.

Ông khoát tay:

- Kìa! Con sấu cái với bầy sấu đực bữa hổm trườn lên đó. Tụi nó kéo xác con sấu chết, ngâm vùi dưới đáy sông rồi chia phần với nhau. Mình giành cái xác đó làm gì?

Lão nhìn trưòng trừng vào mắt tôi:

- Bộ cháu tiếc hai lượng vàng trong bụng của nó hả?

Tôi im lặng, cúi đầu:

- Xin lỗi bác.

- Lỗi phải gì? Bác giải nghệ rồi. Cháu tưởng bác vì tham hai lượng vàng mà liều mạng, cỡi trên lưng sấu hả? Thôi mình vô nhà, nói vài lời nữa rồi ai về nhà nấy.

Ánh đuốc tàn rụi dần. Ông Năm Hên nói:

- Sợ ma không? Nếu sợ thì cháu cứ dỡ cái nóc nhà lá này mà bó lại làm đuốc.

Ánh lửa tắt. Tôi lính quýnh chưa biết ứng phó ra sao. Thật ra tôi sợ ma, vì sực nhớ tới hai khúc xương chânchôn vùi sau hè. Giọng ông Năm Hên trổi lên trong bóng tối, ghê rợn như giọng nói của ma:

- Ông cai tổng Hy hiểu lầm. Bữa nay, bác ra nghề lần chót... Ồ, sức bác còn dẻo lắm, cháu thấy không? Bác cỡi lên lưng sấu, lật hai cái chân trước của nó cho trở ngược lên lưng rồi bác điều khiển như người cầm cương ngựa. Nó phải quẹo lên bãi như ý muốn của bác. Rồi bác thọt cho nó đui hai con mắt. Kỳ sau, nếu muốn bắt sấu, cháu làm theo cách đó. Bốn mươi năm kinh nghiệm của đời bác!

- Dạ, cháu không dám. Ðể cháu thuật lại cho ông cai tổng Hy biết đầu đuôi.

Ông Năm Hên nói gắt:

- Ðừng cho ổng biết gì ráo. Hồi cỡi trên lưng sấu bác đâu nhớ tới hai lượng vàng? Bác ra nghề lần chót đâu phải vì ông cai tổng Hy mà vì lý do khác. Nếu tiếc hai lượng vàng, ổng cứ mướn thợ chài tới đó mà vãi... mò lên. Trời đất chứng minh cho bác.

Bầu không khí trở nên nặng nề. Dưới mé sông, sấu quậy đùng đùng, con sống giành xác con chết. Ông Năm Hên vụt đứng dậy:

- Cháu ở đây ngủ, bác về liền bây giờ. Tới đây là dứt.

- Trời đất! ban đêm, bác đi đâu? Tội nghiệp cháu.

Ông Năm Hên ra khỏi cửa, mắt đăm đăm hướng về phía bãi bùn:

- Nhắn với ông cai tổng: cứ cúng cơm trên bàn thờ, vì người chết đã ngậm cười.

Tôi lính quýnh, tìm cách cầm chân ông Năm:

- Thưa bác, còn cái ống tre đứng mấy ngọn mun nè!

Nhưng ông Năm mất dạng trong bóng tối. Tiếng nói của ông, ngày càng nhỏ rí nói vọng về căn chòi:

- Bỏ đi. Hay là cháu muốn giữ làm kỷ niệm để khoe khoang với bà con rằng ta đây... dám bắt sấu như ai kìa. Nếu muốn kỷ niệm, tốt hơn cháu nên ra về, im lặng, với hai bàn tay không, trong bóng tối.

XÓM CÙ LÀ

Xin tạm giải thích cái địa danh ấy. Dân trong xóm sống vui vẻ tập trung tại Ngã Tư, nơi gặp gỡ tự nhiên của hai con rạch cong queo và dùng đến ba thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng Miên, tiếng Triều Châu.

Các vị bô lão cho biết: xưa kia, vài người mộ đạo đã cất ngôi chùa tại Ngã Tư. Một vị tướng nhà Nguyễn có tá túc tại chùa, dâng cho chùa một tượng Phật nhỏ mà ông đã thỉnh tại xứ Cù Là, lúc bôn ba hải ngoại. Các vị bô lão còn nói rõ: gọi là Cồ Là mới đúng sách vở, Cồ Là tức là xứ Miến Ðiện giáp ranh Xiêm La.

Nhân vật nổi danh nhứt ở xóm Xù Là tên là Trần Hanh. Ông ta là chức cai tổng, có ruộng đất khá nhiều. Ðiền đất được giao cho người khác bao thầu, với số lúa phỏng định là mười ngàn giạ. Do đó, ông không tiếp xúc trực tiếp với đám tá điền. Vợ lớn của ông chết sớm để lại cậu Hai và cô Ba. Ông cai tổng Hanh ít khi có mặt tại xóm Cù Là. Dường như ông thăm viếng luân phiên ba bốn nàng hầu thiếp ở những vùng xa cách xóm Cù Là hàng ba bốn chục cây số.

Về mặt khai phát đất hoang, giúp đỡ dân chúng thì ông cai tổng Trần Hanh đã ghi thêm vài nét hơi đậm trên bản đồ xóm Cù Là. Ông mướn người đào kinh, xẻ ngang thửa ruộng, giúp tá điền chở lúa dễ dàng từ đồng rượng đến lẫm lúa: đó là"kinh Thầy Cai Hanh". Lại còn con lộ gọi nôm na là"lộ Thầy Cai Hanh". Só là vào năm 1936, thầy Cai mua được chiếc xe hơi du lịch hiệuÐờlahay. Ðiều ấy làm hãnh diện cho toàn thể dân chúng trong vùng. Trong lúc thầy cai còn do dự, chưa biết làm cách nào đem xe đến tận nhà tại ngã tư Cù Là, dân chúng thúc hối:

- Thầy cứ mua. Tụi tôi sẵn sàng ra sức đắp con lộ từ đường xe của nhà nước vô tới nhà thầy.

Chỉ trong vòng bốn hôm, con lộ bề ngang hai thước, bề dài hơn tám thước được hoàn thành, cao nghệu như bờ đê. Chiếc xeÐờlahay trông oai vệ làm sao! Nó giống hệt chiếc xe bò, với bốn bánh có từng cây căm tua tủa. Thùng xe hình vuông trước mũi có chưng hình đầu con đầm mọc cánh, màu bạc, khi đổ xăng là vặn con đầm ra. Ngày nay, xe hơi biến hoá tiến đến những hình dáng huê dạng hơn, giống như con rùa, con chim, con cá nược. Các bạn dưới hai mươi tuổi cứ tra các quyển tự điển là gặp kiểu xe cổ lỗ"vang bóng một thời" ấy.

Chiếc xe ấy bị hư, trước khi thầy Cai Hanh chết. Và thầy cai Hanh chết tại xóm Cù Là, trước khi việc tống táng người chết được nâng lên hàng tiểu công nghệ với những cửa hiệu chuyện nghề bao thầu quan tài, tẩn liệm. XeÐờlahay hư máy, nằm tại nhà, không được ai mua theo kiểu"ve chai". Và việc tống táng thầy cai Hanh - lúc bấy giờ - trở nên rắc rối. Nếu hồi còn sống thầy cai đào kinh, đắp lộ điểm tô nét nhỏ trong bức địa đồ xóm Cù Là thì lúc chết - sau khi tắt thở - được vài phút, thầy cai bắt đầu đóng vai trò lịch sử trong xóm nhỏ, với cái xác nặng hơnbảy mươi ký lô (chi tiết này rất quan trọng). Muốn mô tả lại, không gì tốt hơn là dùng phương pháp..."chép sử" ngày qua ngày mà các phóng viên mặt trận hồi Ðệ Nhị Thế Chiến thường áp dụng.

Ngày thứ nhứt: Vào khoảng bốn giờ chiêù, cai tổng Trần Hanh tắt thở. Già thì chết, con người ai cũng chết một lần. Ông mang bệnh nan y - bệnh đau ruột - từ lâu, ông hy vọng được kéo dài thời gian sống, nhờ kỹ thuật điều trị của các bác sĩ Tây và ta ở Sài Gòn. Ðến giờ chót, cái chết ấy quá đột ngột, một sự đột ngột nho nhỏ nằm trong cái phạm vi bình thường to lớn.

Ông nhắm mắt, sau khi làm"xung" chừng ba phút. Chẳng ai khám nghiệm thi hài ông, nhưng cậu Hai (con trưởng nam) quả quyết:

- Ổng bị đứt ruột. Năm ngoái, ông bị cắt khúc ruột, bác sĩ Tây ở Sài Gòn nối hai khúc bằng một ống cao su. Vì mệt mỏi và quên thay ống nên cái ống ấy tuột ra, hai khúc ruột không nối liền được. Trễ rồi!

Cậu Hai leo lên cái giường nệm, sờ vào ngực cha. Ngực đã lạnh ngắt. Cậu đánh diêm quẹt và đốt ngọn đèn sáp giữa ban ngày.

Cô Ba cằn nhằn:

- Làm gì vậy? Chưa tẩm liệm tại sao anh đốt đèn cúng vái? Nên giữ đúng tục lệ ông bà, kẻo xảy ra...

Cậu Hai nói gằn:

- Mầy đừng làm bộ. Lát nữa mầy biết. Mầy là em tao, chưa khôn hơn tao đâu.

Cô Ba gạt nước mắt:

- Anh đừng nói vậy! Anh đuổi tôi hả?

Nói xong, cô Ba bước ra khỏi phòng, khóc thật to, khóc quá to. Bọn gia nhân an ủi cô với những câu thường lệ. Cô vào phòng riêng lấy xâu chiềa khoá mở tủ, lục lạo rồi khoá tủ. Ðâu đó xong xuôi, cô ra khỏi cổng, hơi bí mật.

Bên giường nệm của cha, cậu Hai đi tới đi lui, tay cầm ngọn đèn sáp. Cậu đốt vào đầu ngón tay, vào lòng bàn chân của cha. Hỡi ơi! Da thịt người chết... đã chết thật. Nó không phồng lên, giộp da, chứa đựng nước giữa da và thịt. Bàn chân người chết không cựa quậy, mất tất cả cảm giác khi ngọn lửa châm vào.

Cậu Hai tắt ngọn đèn sáp. Ông đại hương cả đến, gương mặt thiểu não. Lẽ dĩ nhiên, ông đại hương cả sẵn lòng giúp đỡ cậu Hai trong việc tẩn liệm và tống táng. Trong một phút xúc động, cậu Hai ngỏ ý rót rượu dâng cho ông hương cả và lạy tạ, cám ơn ông trước khi ông ban ơn. Ông đại hương cả nói:

- Cậu Hai nên lo"giàn ngoài". Lúc bình sinh, ông cai tổng giao thiệp rộng, quen biết nhiều người, có ơn nghĩa qua lại. Ðây là đám tang của người làm"chức việc". Tất cả hương chức hội tề mười làng trong tổng sẽ tới bái điếu, quan chủ quận, quan chánh tham biện chủ tỉnh nữa.

- Cháu hứa... báo hiếu tận tình.

Nói cong, cậu Hai trao cho ông đại hương cả một số tiền để mua sắm các dụng cụ cần thiết. Cậu ra khỏi cổng, trong khi cô Ba từ ngoài cổng bước vào sân nhà. Hai anh em lườm nhau, không nói.

Tư Tề là người chuyên lo tống táng ở xóm Cù Là. Năm ấy, Tư Tề gần năm mươi tuổi. Tư Tề lo tống táng, không lấy tiền thù lao. Dưới quyền ông ta, có gần hai mươi cậu thanh niên lực lưỡng, bọn này được tập dượt kỹ lưỡng về kỹ thuật khiêng quan tài ra khỏi nhà, đưa quan tài lên nhà vàng rồi hạ huyệt... một cách êm thắm.

Tư Tề mừng rỡ, đến nhà bọn đệ tử, thúc hối:

- Tụi bay chiều nay tới nhà tao để tập dượt. Ông cai tổng Hanh là người quá mập. Tụi bây dư hiểu: khi chết rồi, vài ba ngày sau, cái xác con người nặng thêm gấp đôi, gấp ba. Lại còn cái quan tài bằng cây trai Phú Quốc. Nặng lắm phải đủ mười sáu đứa mới mong khiêng nổi. Nếu làm xong phận sự, bọn mình được thưởng và được tiếng... thơm lây. Quan chủ quận, quan chánh tham biện và hương chức hội tề của mười làng trong tổng này tới chứgn kiến đó. Cô Ba tới gặp mặt tao, nhờ tao lo dùm. Chôn thật gấp. Chắc là ngày mai, ngày mốt.

Bọn đệ tử của Tư tề chưa phải làđô tuỳ (đạo tỳ) chuyên nghiệp. Tư Tề muốn bắt chúng nó tập dượt suốt đêm. Trước khi thực hiện kế hoạch, ông ta vào quán mua năm lít rượu đế, đưa ra tấm giấy bạc"con công" - năm đồng - số tiền to tát thời bấy giờ. Bỗng nhiên, cậu Hai bước vào quán, nói to:

- Tư Tề! Tiền đâu nhiều dữ vậy?

Tư Tề hơi sửng sốt. Mọi khi, cậu Hai tỏ ra rộng lưỡng đối với kẻ dưới.

Tư Tề đáp, thật thà:

- Dạ, của cô Ba gởi cho tôi. Tôi mua rượu để anh em đạo tỳ tập dượt gấp.

Cậu Hai bỉu môi, cười dòn:

- Cô Ba ngu dại quá, xài tiền không nhằm chỗ.

Người trong quán ngồìm. Tại sao cậu Hai tỏ ra keo kiệt lúc tang gia bối rối? Số tiền năm đồng bạc này chưa phải là nhiều, chưa xứng đáng với công lao của Tư Tề. Cậu Hai nói tiếp, không nhìn vào mặt Tư Tề:

- Cho nó uống rượu, ăn vài miếng thịt vụn là nó khiêng dùm. Tụi dưng quan, tụi đô tùy ưa rượu thịt. Hễ thấy có đám ma là mừng như kiến, như ruồi thấy mật mỡ. Không mời, tụi nó cũng năn nỉ mà bò tới...

Bị chạm tự ái. Tư Tề nói bâng quơ:

- Vậy thì tụi nầy nằm nhà ngủ chơi...

Cậu Hai bước ra khỏi quán.

Chờ khi cậu Hai khuất dạng. Tư Tề lắc đầu nói ba hoa với cử toạ:

- Ðể cho xác cai tổng Hanh hôi thúi tại nhà... mới hả giận tôi. Bà con nghĩ coi. Cô Ba tử tế bao nhiêu thì cậu Hai phách lối bấy nhiêu.

Lão chủ quán mỉm cười:

- Rắc rối lắm. Cậu Hai có tâm sự riêng. Thôi, ông về đi. Chừng nào họ cần tới mình thì mình tới.

Ngày thứ nhì: Xác cai tổng Trần Hanh còn nằm trên giường trong khi ông đại hương cả đi ra đi vào, thúc hối:

- Cậu Hai đừng làm vậy! Ông cai nhắm mắt rồi, con cháu nên sống thuận thảo. Không khéo, ông cai trở mình dưới mộ. Ổng trở mình, cậu ơi!

Cậu Hai đáp:

- Tức mình lắm, bác ơi. Trước khi nhắm mắt, ba tôi còn giấu hai mươi lưỡng vàng trong tủ, do con Ba giữ chìa khoá. Hồi khuya này, con Ba cho biết: trong cái hộp vàng không còn... lưỡng nào cả. Tôi hỏi tại sao? Con ba gẫy gỗ với tôi...

Cô Ba chạy vào:

- Anh đừng nói bậy. Anh là con trưởng nam. Ba để tất cả của cải cho anh. Em là gái, nào biết chuyện gì?

- Mầy không đưa vàng ra thì tao không đồng ý tẩn liệm.

Cuộc trang chấp kéo dài cho đến hừng sáng. Cậu Hai đành nhượng bộ. Mãi xế chiều, bao nhiêu nguyên liệu tẩn liệm đã chuẩn bị đầy đủ. Cái quan tài bằng cây trai đã nằm giữa nhà, nơi phòng khách. Ông đại hương cả thở dài:

- Khổ quá. Chờ đợi quá lâu, bác e rằng nó bay mùi.

Cậu Hai thấy ngoài sân, nơi che rạp, đã xuất hiện quá nhiều thân hào. Họ chờ đợi để phúng điếu bằng... tiền bạc. Số tiền nầ, nhứt định cậu nắm giữ. Cậu nói:

- Xin bác điều khiển tẩn liệm.

Ông đại hương cả nói:

- Phải tẩn liệm cẩn thận. Bác coi rồi... Ðiệu này khó xong.

Bên cạnh quan tài, một số gia nhân lo quết một mớ ổ muối, quết thành bột mĩn, đem trộn với cháo nếp. Họ dùng thứ"xi măng" ấy trét vào đáy quan tài, nơi mấy tấm ván ráp với nhau. Trong đáy hòm, còn đổ thêm một lớptòng chỉ (nhựa thông). Hằng trăm cái kèn đã cuốn sẵn chất đống. Kèn là những gói giấy bên trong chứa gòn. Gòn là chất rút nước, thứ nước từ xác chết xảy ra khi bị biến chất...

Ông đại hương cả lật quyển lịch để xem ngày, xem giờ. Ðã từng sống nhiều năm, ông đại hương cả dư biết sự tranh chấp giữa hai đứa con ông cai tổng Trần Hanh. Cô Ba muốn làm lễ tống táng thật sớm để rồi sau đó, cô ra chợ Rạch Giá, với số vốn hai chục lượng vàng và khá nhiều bạc mặt do ông Cai tổng để lại. Cậu Hai muốn kéo dài thời gian, để quàn cái quan tài lại nhà hòng làm áp lực với cô Ba. Ðồng thời, vì phương tiện giao thông và phương tiện báo tin khó khăn, cậu Hai tin chắc: "nếu quàn suốt nửa tháng thì vẫn còn vô số thân bằng quyến hữu đến điếu. Tổng cộng số tiền ấy... tính đổ đồng mỗi người năm đồng..."

Theo phe nào bây giờ? Ông đại hương cả nói, lưỡng lự:

- Ngày nào cũng tốt, ngày nào cũng xấu. Khi nào cậu Hai và cô Ba đồng ý thì tôi xem giờ để chôn cất. Bởi vì trong ngày tốt có giờ xấu, ngày xấu nhưng nếu động quan nhằm giờ tốt thì mọi sự bằng an.

Xác ông cai tổng đã buộc lại, tấn ém kỹ lưỡng. Số kèn bông gòn dường như dư dùng vì xác ông cai choán gần trọn cái lòng quan tài. Bọn gia nhân trèo lên nắp quan tài, nhún nhảy để ém xuống, trước khi đóng bốn cái khoá sắt: nó giống như bản lề cửa. Nắp quan tài trở thành cái cửa không bao giờ mở ra được vì có đóng bản lề ở hai bên. Ðinh đóng thật chắc, được kiểm soát cẩn thận. Rồi thì nhang đèn cháy không dứt. Dưới quan tài ngay đầu và chân ông cai tổng, bọn gia nhân thay phiên nhau ngồi, đốt liên miên nào vàng bạc, nào bạch đàn, huỳnh đàn. Trước quan tài, đỉnh lư trầm toả khói, bức ảnh ông cải tổng được chưng trên bàn thờ. Qua làn khói người ta thấy dường như bức ảnh biết cười, biết nhăn nhó... mờ mờ nhân ảnh.

Ngày thứ ba: Cô Ba rót rượu mời ông đại hương cả ngõ ý thúc hối:

- Ðể như vầy, cháu đau khổ quá. Thấy cái quan tài, cháu cầm lòng không đậu... Anh Hai của cháu muốn quàn cái quan tài chờ khi nào cháu đem mấy chục lượng vàng ra chia với ảnh, chừng đó ảnh mới cho động quan. Làm sao có đủ vàng? Ba cháu đâu thương con gái bằng con trai...

Ông đại hương cả gật gù:

- Cháu đừng lo. Chôn sớm mà!

Cô Ba chắp tay, cảm tạ tấm lòng ông đại hương cả. Ðến trưa, ông đại hương cả ngủ lim dim chợt nghe tiếng gọi. Ông mở mắt nhìn. Đó là thầy hương quản làng Giục Tượng. Thầy ta đến làm lễ điếu, mặc áo dài, đội khăn đen trông thật chỉnh tề nhưng gương mặt tái mét:

- Ông đại hương cả! Mệt quá. Tôi nín thở mà lạy. Nó... có mùi rồi.

- Thôi đừng nói, thầy có thể qua nhà khác mà ở tạm cho khoẻ khoắn, chờ ngày dudua đám...

- Chừng nào lận?

- Ðừng lo. Cũng gần ngày rồi.

Ðột nhiên, bọn gia nhân nói lên một lượt rồi rời bỏ phòng khách.

- Ðứt néo!

Cậu Hai lắc đầu, đến cầu cứu với ông đại hương cả:

- Bác... giúp cháu. Ðứt néo là làm sao! Tụi gia nhân này... chó chết quá.

Vừa lúc ấy, cậu Hai bắt gặp một thứ mùi khó chịu. Ông đại hương cả lấy khăn che mũi:

- Ðứt néo là cái quan tài xì hơi.

Cậu Hai cằn nhằn:

- Tại trét không cẩn thận.

- Cháu đừng nói bậy mà anh em chòm xóm họ giận. Xưa nay hễ lúc quàn quan tài trong nhà mà anh em xích mích gây gỗ để chia của thì người chết trở mình trong quan tài, sanh ra chuyện đứt néo. mấy cái bản lề còn nguyên nhưng nó xì hơi ở dưới đáy quan tài, nó xì hơi và nó xì ra... nước!

Cậu Hai bước tới nghiêng mình lên bên quan tài. Nước nhểu nhểu từ đáy quan tài xuống nền gạch, thứ nước xanh lè và sôi bọt.

- Trời! Làm sao bây giờ bác? Tất cả mười làng, hai ngày rày, mới có năm làng tới điếu. Còn năm làng nữa, ở xa xôi. Nhứt là mấ người bà con ở ngoài Hòn Tre, sóng gió bất thường, làm sao họ vô trong đất liền được? Ðứa em gái tôi thì ngỗ nghịch. Hổm rày tốn hao khá nhiều. Tiền mua quan tài, tiền rượu thịt... Nếu không gom góp tiền bà con đi điếu thì khó bề xoay xở...

- Cậu đừng lo. Người ta chạy tứ tán hết rồi. Ở đây thanh vắng. Cậu lại gần quan tài kiếm cái nùi giẻ, chùi cho khéo léo. Cậu nhớ nghiêng mình, lom khom... cho thiên hạ tin lời của tôi.

Ðám khách khứa ăn uống đã kéo nhau đến gần mé sông để đổi gió. Ông đại hương cả gọi:

- Bà con ơi! Hế rồi! cứ vào đây cho ấm cứng. Bà con dư biết: hễ xảy ra chuyện đứt néo thì con cái le lưỡi mà liếm để chịu tội với người trong quan tài. Cậu Hai là đứa con chí hiếu dám làm chuyện ấy.

Các quan khác vào trong. Họ thấy cậu Hai và cô Ba đang quỳ lạy, xin lỗi cha. Theo lệnh ông đại hương cả, bọn gia nhân đem thêm bạch đàn, huỳnh đàn, cây tóc... quăng vào lư đồng. Khói bay cuồn cuộn, trở thành bức trường thành ngăn cản luồng ám khí từ quan tài bốc ra. Tuy màn khói khá dày, khá thơm nhưng thỉnh thoảng vài người"thính hơi" đã nín thở. Dường như luồng ám khí tuôn ra từng đợt.

Ðêm ấy, quan khách chạy tán loạn, đâu vào khoảng canh tư. Ông đại hương cả giải thích với cậu Hai:

- Hễ đứt néo một lần thì nó đứt hoài, độ ba giờ đứt một chập. Ðốt trầm hương là chuyện tạm thời, có lỡi gần nhưng có hại xa. Mùi trầm hương đánh tan, che khuất làn hơi ô uế, đã đành. Ngặt nó nóng quá, làm cho người trong quan tài mau"trở mình". Cháu lo liệu là vừa. Ngày mai này, nếu đốt trầm hương tới xế trưa thì hơi lửa, hơi nắng dồn lại, ắt không chịu nổi.

Ngày thứ tư: Tư Tề nằm trằn trọc, đau khổ như kẻ có tài nhưng chưa được dịp thi thố. Ông ta uống rưọu khan, một mình. Nếu cậu Hai đừng ăn nói hỗn hào thì ông ta đã tình nguyện biểu diễn, là lễ động quan. Ông ta nhớ những giờ phút oai hùng đã qua: đám đô tùy cắm cây nhang trong miệng quỳ xuống lậy như con ếch, theo hiệu lịnh. Rồi ông ta xung phong phá quàn. Cái quan tài quàn trong nhà lâu ngày thì luôn luôn có ma quỉ kéo níu. Ông ta làm phận sự"dưng quan," tức là giành giựt cái quan tài, chống bọn ma quỉ, để đem quan tài ra khỏi nhà. Trên nắp quan tài ông ta yêu cầu chủ nhà đặt một miếng vàng bạc, trên miếng vàng bạch, có chén rượu tràn đầy. Dưới sự điều khiển âm thầm của ông ta, bọn đô tùy khiêng quan tài , khiêng ngay ngắn, không lắc qua lắc lại. Chén rượu không bao giờ nghiêng, rượu nằm im trong chén, miếng giấy bạc vẫn khô ran. Khó nhưng mà dễ! Cứ rót rượu đầy chén vì chén đầy thì ít lúc lắc. Và lúc cầm ngọn đèn sáp để múa men đánh với bọn ma quỉ, ông ta đã khéo léo cho nhểu một giọt sáp vào chén. Giọt sáp ấy đóng vai trò những nhánh cây mà ngưòi gánh nước giếng thường bỏ vào thùng, để nước ít xao động.

Phèn la và trống nổi lên inh ỏi!

Tư Tề thức dậy, tức giận:

- Úy! Mình tẩy chay đám ma này rồi! Ai dám lãnh công việc động quan...

Vài người đi rộn rịp trước nhà Tư Tề. Họ bàn tán:

- Hay lắm. Bà con lối xóm dám liều mạng, bất chấp bịnh tât, tới nhà ông cai tổng lo dùm cậu Hai. Ðể lâu ngày, hơi độc bay ra, cả xóm phải mắc dịch. Ở đầu xóm, cách xa năm bảy trăm thước mà... mùi bay nhức đầu. Cái hòm bị đứt néo liên miên, chảy nước vàng nước xanh... linh láng.

Tư Tề chạy ra sau hè đi xem "người ta không mời mình tới làm gì." Trên con đường lộ xe, tức là con lộ mang tên thầy Cai, hàng chục thanh niên xỏ đòn ngang, đòn dọc để khiêng quan tài. Mỗi cây đòn dài chừng năm sáu thước, xỏ qua xỏ lại trên vòng dây. Cái quan tài trở thành cái bánh xe, mỗi cây đòn là một cây căm tua tủa. Gió thổi mạnh. Bọn người khiêng quan tài và bọn người đưa đám đều tỏ ra khôn ngoan, hiểu tình thế.

Cái quan tài di chuyển theo hướng gió xuôi, vì vậy, mùi ô uế luôn luôn bay về phía trước. Ðôi khi gió trở ngọn, bọn đô tùy dừng chân, xoay tròn một chỗ. Ðám quan khách cũng xoay tròn để tránh hơi ô uế. Hễ đi được vài chục bước, bọn dod6 tùy như bịn rịn, để quan tài xuống đất. Quan tài bằng cây trai, chứa đựng một người to xác đâu phải là nhẹ. Khi quan tài vừa dudụng mặt đất là bọn đô tuỳ và quan khách chạy dang xa. Cái quan tài nằm cô độc như cục đá, thiếu bóng cây tùng, con cò còn hạc. Lát sau, bọn đô tùy xáp vô, khiêng quan tài lên. Gió lại thổi. Bọn đô tùy xoay trở theo hướng gió. Họ di chuyển theo đường gãy đường con để tránh các hiểm hoạ mất vệ sinh. Lúc thì đầu quan tài đi trước, lúc thì chân quan tài đi trước.

Sau rốt, gần tới huyệt. Cái quan tài được di chuyển theo bề ngang, như con cua bò. Một tràng pháo nổ đì đẹt, vài tiếng súng nổ, ấy là mấy người lính mã tà do làng sở tại phái đến làmlễ hạ gộng.

Từ Tề lủi thủi đến nhà ông cai tổng Trần Hanh, không vui, không hối hận. Gian nhà vắng vẻ quá. Tại gian nhà để xe hơi, Tư Tề nghe tiếng lụp cụp. Năm sáu đứa bé xúm nhau trèo vào xe, cầm tay lái, lúc lắc. Chúng nó bắt chước ông cai tổng hồi thời nào: đạpga xăng , bóp kèn nhưngga xăng không rồ, kèn thì kêu te te. Tư Tề quát to:

- Tụi bây không sợ ổng bắt hả?

Khi lũ trẻ chạy tán loạn. Tư Tề đến nhà xe, nhìn trước nhìn sau rồi vặn cái nắp đậy bình xăng, cái nắp có gắn hình đầu con đầm mọc cánh. Tư Tề nhủ thầm:

- Xe hư rồi, để cái hình này cũng vô ích. Mình đem về để dành, lén lén coi chơi. Vài chục năm nữa, mình gắn nó lên hòn non bộ, coi cũng sướng.

SÔNG GÀNH HÀO

Hồi đó ông kiểm lâm "Rốp" được dân chúng thương mến lắm.

Ông Rốp có vài đức tánh mà các tay thực dân khác không có. Từ hồi đáo nhậm tại vùng rừng sông Gành Hào đến giờ, chung qui là hai năm nhưng ông Rốp chỉ đi "rỏn" có bốn lần. Mổi chuyến đi, mục đích của ông không phải là rình bắt các ghe xuồng chở củi lậu thuế. Vào rừng ông ngắm nghía từng lá cây, lắng nghe từng tiếng chim kêu, đập muỗi rồi xem giò, xem cánh từng con. Ông lại còn hái các loại ráng, dây bòng bong, dây choại, tầm gởi... đem về đồn phơi khô để nghiên cứu. Cây súng đem theo xuồng cũng chỉ để bắng khỉ, bắn lọ nồi; bắn mà chơi chớ không cần trúng đích.

Dân chúng trong vùng sông Gành Hào bàn tán qua lại để tìm hiểu ông Tây khác thường này:

- Ông "Rốp" hiền hậu quá! Bà con có biết tại sao không? Ổng thỏ thẻ với thầy hương quản rằng nhà ổng ở bên Tây nghèo quá mức. Nhờ lập công đánh A Lơ Măn hồi Âu châu đại chiến nên ổng được phong chức kiểm lâm qua xứ Nam kỳ này. Mẹ của ổng trồng nho ở cù lao "Cọt" cù lao "Kiệt" gì đó. Phen nọ, bà mẹ đốt đống lá khố, rủi cháy qua mấy vườn nho lân cận. Thiên hạ đòi bắt thường, kiện tới toà. Bên này, ông Rốp vô cùng sầu thảm vì không tiền dư gởi vể để cứu nguy, báo hiếu.

Người khác nói thêm:

- Phải! Phải! Cha nội nghèo thiệt, hèn chi muốn ở xứ này luôn, đòi ăn mắm sống, tập nói chuyện "An Nam" rành như tụi mình. Bà con giữ kín giùm chuyện này: phen đ1o thầy hương quản làm thịt chó rồi nói gạt là thịt nai, mời ổng tới nhậu. Ổng khen nức nở: thịt nai Cà Mau ăn sao mềm quá.

Một ông lão tỏ vẻ không bằng lòng:

- Ông Rốp là người mộ đạo. Gạt như vậy, tội chết. Nghe anh "bồi" nói lại trên lầu đồn kiểm lâm, ổng có treo tượng Phật. Kế bên là tủ sách văn chương đạo đức, toàn chữ Tây và chữ nho... Ðêm nào ổng cũng thức đọc sách bằng đèn cầy, tới khuya.

Rốt cuộc họ kết luận: Ông Rốp là người nhơn đức, ít làm khó dễ dân chúng, lãnh trách nhiệm cầm chừng, tuy đang hành sự nhưng cũng như đã về hưu trí, ẩn sĩ qui điền. Họ càng yên tâm mà tiếp tục phát triển việc phá rừng, đốn củi lậu thuế.

Hôm đó, cha con của Tư Ðức chở xuồng củi ngang đồn kiểm lâm.

Trời tối như mực, sắp chuyển mưa to, ngửa bàn tay cũng không thấy. Trên đồn yên lặng. Ánh đèn vàng vọt chiếu ra ngoài cửa sổ hé mở.

Bên bờ sông, một giọng lơ lớ, sửng sốt:

- Ghé lại! "Chéc" ghe hay là con "xấu"?

Tư Ðức điếng hồn, nhận ra được giọng của ông kiểm lâm Rốp. Trời đất hỡi! Quá nửa đêm giờ Tí rồi mà ổng còn làm gì dưới bến này? Chú Tư Ðức nín tiếng, toan bơi lẹ cho qua khỏi ải. Ngặt ông Rốp trên bờ nói lần nữa:

- Con "xáu" hay là "chéc" ghe. Ông lớn bắn đà!

Ðốn củi lậu thuế nào phải tội nặng đáng xử tử, lỡ bề gì, chết cũng lảng quá! Cực chẳng đã, chú Tư đành lên tiếng:

- Chiếc ghe, quan lớn ơi... Tôi đi rước mụ cho vợ đẻ. Xin quan lớn cho tôi đi.

Ông Rốp càng trầm tĩnh:

- "Chéc" ghe thì ghé lại! Thầy đội đâu rồi! Ðem đèn xuống coi thử...

Bước lên bờ, chứ Tư Ðức năn nỉ ỉ ôi, xin tha tội một phen, thề nếu tái phạm thì ở tù rục xương cũng cam đành. Ông Rốp lắc đầu, ra lịnh quăng củi lên bờ, kéo xuồng vào tận "phú de" sát vách đồn. Ðêm đó, báo hại hai cha con chú Tư Ðức phải ngủ trần, tay đập muỗi lia lịa, trí óc buồn đã nhớ đến ngày mai đen tối thiếu gạo nấu. Và đứa con trai đang đau bịnh rét rừng.

Sáng hôm sau, ông Rốp bảo chú Tư Ðức cứ về nhà, chờ ngày trát đòi đến đóng tiền phạt vì đây với là lần phạm tội đầu tiên thôi. Chú Từ bèn làm núng:

- Chết thì tôi chịu chớ tôi thề không đi về. Cha con tôi không có nhà cửa gì ráo.

- Vậy chớ mọi khi chú ăn cơm tại đâu, ngủ tại đâu?

- Dạ thưa ăn tại xuồng này, ngủ tại xuồng này. Nó là cái nhà của tôi.

Như động lòng trắc ẩn, ông Rốp suy nghĩ rồi nói:

- Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. Chú làm biếng, không chịu tạo lập.

Chú Tư Ðức cố nén cơn giận:

- Bởi vì tôi không có đất, quan lớn thương dùm. Tôi đã cất nhà nhiều lần rồi mà ở không yên. Ban đêm hai cha con tôi phải thức quá khuya, quan lớn cũng thấy. Chịu đựng mưa gió muỗi mòng, đâu phải là làm biếng sợ cực!

Có lẽ nhờ câu nói khảng khái ấy mà cha con Tư Ðức được ông Rốp cho ở đâu tại nhà dưới của đồn kiểm lâm, cơm ăn không tính tiền, bù lại hai cha con phải làm cỏ, quét nhà. Tội nghiệp thằng nhỏ con trai của chú Tư! Mấy viên "ky ninh" của ông Rốp không chặn được cữ rét hằng ngày hoành hành nó. Nó khóc đồi trốn về rừng. Buổi trưa không ngủ, nó lấy than bếp vẽ lên vách tường nào là hình xe hơi, hình con chim, hình cọp, hình sấu... báo hại chú Tư phải lau chùi sạch sẽ, e ông Rốp thấy mà bị rầy to.

Ðứa con trai khóc sụt sùi:

- Mình phải về, ba à!

Chú Tư chép miệng:

- Ở đây có cơm ăn qua ngày. Con đừng lo. Ổng đuổi mình, mình cũng không thèm về.

Thằng bé không hiểu cha nó đang suy nghĩ mưu kế gì.

Lâu ngày rồi quen, hằng đêm chú Tư Ðức được phép lên phòng riêng của ông Rốp để châm nước pha trà. Ngạc nhiên làm sao, trong phòng nọ toàn là sách vở, tranh ảnh! Trên vách treo nào là sừng nai, da cọp, cây tằm gởi, hình Phật Thích Ca ngồi thiền dưới cội bồ đề. Ngay trước mặt ông Rốp là tấm bản đồ lớn, ghi nhiều mũi tên xẹt qua lại. Bên dưới bản đồ có tấm hình hai người mặc áo rộng màu vàng: họ quì gối đâu mặt lại, chắp tay xá lẫn nhau.

Ðoán sự tò mò của chứ Tư Ðức, ông Rốp hỏi:

- Biết hình gì đây không? Quí lắm đó.

Chú Tư Ðức đáp:

- Dạ, chưa biết vì hồi nào tới giờ tôi không được vô trường mà ăn học.

- Chú theo tín ngưỡng nào?

Chú Tư suy nghĩ hồi lâu:

- Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng nghĩa là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ cha kính mẹ, quí mến ông già bà cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Ðất có Thổ Công, sông có Hà Bá.

- Nhiều thứ quá vậy. Tôi hỏi cái đạo kia. Chú theo đạo gì?

- Dạ, theo cha mẹ tôi nói lại thì người "an Nam" mộ đạo Phật. Tôi cũng như cha mẹ tôi.

Ông Rốp cười đắc chí:

- Nghĩa là chú Tư theo đạo Phật. Tốt lắm. Theo đạo Phật mà sao không biết hình này? Ðó là ông vua Hy Lạp tên Mi Lanh Ða hỏi kinh với pháp sư Ấn Ðộ tên Na Ga Sơ Na. Vua Hy Lạp phục tài của thầy tu Ấn Ðộ, thầy tu Ấn Ðộ phục tài của vua Hy Lạp. Hai người chắp tay xá lẫn nhau. Họ đối đáp hay lắm, ghi lại thành một bộ kinh đây này...

Ông Rốp bèn rút trong tủ hai ba cuốn sách hơi dày mà nói tiếp:

- Chữ Phạn gọi nó là "Mi lanh đa băng ha". Chữ nho dịch lại... là Na Tiên Tỳ Kheo Kinh. Na Tiên là dịch âm lại tên thầy tư Ấn độ Na Ga Sơ Na.

Mấy tiếng "Băng ha, xơ na" khiến chú Tư Ðức rối trí quá. Chú cố gắng nhớ lại trong chuyện Tàu những đoạn nói về Ấn Ðộ, tứ là nước Thiên Trúc.

- Sao trong Tây Du không nghe nói vậy ông?

- Trước Tây Du của thầy Huyền Trang cỡ tám chín trăm năm lận! Hồi 150 năm trước Thiên Chúa, phía bắc Ấn Ðộ có mấy ông vua Hy Lạp cai trị, giống như người Pháp cai trị An Nam bây giờ. Hồi đó, người cai trị với người dân bổn xứ thương nhau.

- Tại sao vậy, quan lớn?

- Tại người dân bổn xứ tài giỏi quá, đâu phải như người An Nam bây giờ. Bây giờ không còn cảnh đó nữa! Thí dụ tôi là vua Hy Lạp từ Âu Châu tới, chú là thầy tu Ấn Ðộ bị tôi cai trị. Chú có điều gì giỏi hơn tôi đâu mà hàng dạy lại tôi.

Chú Tư Ðức buồn bực vô cùng khi thấy ông kiểm lâm Rốp khinh rẻ người Việt Nam ra mặt. Phận vậy, đành chịu vậy, biết sao bây giờ! Cãi lại thì rất nguy hiểm, ngoài tội ăn cắp cây rừng của nhà nước, chú có thể mang thêm tội làm "quốc sự"!

Hằng đêm, ông Rốp thức đến canh ba để đọc sách.

Ðưới này, chú Tư gác tay lên trán suy nghĩ liên miên. Ông Rốp có mòi mến chú hơn trước, bằng có là ổng bố thí cho cái mùng và chiếc áo bành tô cũ! Lúc đứa con trai ngủ say, chú Tư thường ra sân, nhìn trở lại ngọn đèn cầy mà ông Rốp đốt lên để đọc sách trên lầu. Chú lẩm bẩm, phì cười một mình:

- Tại ổng thức đêm đọc sách Phật cho nên mình mới bị bắt giam như vầy. Ðêm đó, có lẽ ổng suy nghĩ một chuyện xưa tích cũ "ga xơ na, ma lanh đa" gì đó. Suy nghĩ không ra, ổng mới đi dạo như mình đang đi bây giờ. Rồi ma đưa lối, quỉ dẫn đường, ổng nhè gặp xuồng củi lậu của mình. Cái việc cầu đạo của ổng có hại cho bá tánh vì dục vọng của ổng còn quá nhiều.

Gió thổi hiu hiu. Dừa nước bên bờ sông uốn éo, vang lên rào rạt. Ðằng xa, một vật gì từ từ nổi lên, đi ngược giòng nước đang chảy xiết. Chú Tư Ðức nghĩ:

- Thằng cha nào ngu quá! Xe trước gãy bánh, xe sau phải tránh. Ðêm trước, cũng vào giờ này mình đi ngang qua đây bị rình bắt. Bộ họ chưa hay biết sao vậy kìa?

Nhưng dường như vật nó không phải là chiếc xuồng; khi thì nó thối lui, cập vào bờ, khi thì tiến tới, day ngang qua, chậm chạp. Khúc cây chăng? Thây ma chăng? Vô lý! Nếu vậy thì nó theo nước xuôi, mất dạng rồi. Ðằng này, nó từ từ trôi ngược. Chú Tư Ðức cố nhướng mắt chấp chóa như muôn ngàn con đom đóm đậu khít nhau. Và trước mũi của chiếc xuồng quái dị nọ. Hai tia sáng xanh ngời rọi tới như hai cái đèn "bin". Nghi ngờ gì nữa! Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường nghe mấy người đóng đáy nói lại. Hồi đó, chu Tư không tin. Bây giờ chú đã thấy tận mắt con sấu thần đó.

Thiên hạ nói sấu ấy đi có cặp. Tu luyện hàng trăm năm rồi, nước mặn đóng trên da nó một lớp dày, sáng chiếu lên như nước biển, đêm có trăng. Người thì cãi lại, bão rằng đó là ánh sáng của các cô hồn bị sấu ăn thịt.

Chú Tư Ðức phập phồng trong dạ, vừa mừng vừa sợ. Có lẽ ông Rốp đã nghe nói đến cập sấu thần này nên quá bị ám ảnh, hôm nọ ông hỏi chú: "Chéc" ghe hay là con "xáu"! Chú vào đồn kiểm lậm, lập tức đốt đèn lên. Chú lục mấy cái hũ để tìm nếp. Không có nếp, chú hốt tạm vài nắm lúa, bắc chảo lên bếp nhúm lửa mà rang.

Lúa nổ ra trắng phếu, nhảy tưng bừng trong chảo, văng tứ phía.

Chú Tư Ðức bước ra sân, khấn vái lâm râm rồi thảy mấy hột nổ ấy khắp tám hướng đen ngòm:

- Ngay cô hồn các đẳng. Sống thì khôn, thác thì thiêng. Những ai xa cây, xa cội, xa nhành, đầu bãi cuối gành, hùm tha sấu bắt... Tôi tên là Ðức, họ Trường, tuổi Dần.

- o O o -

Thầy hương quản tất tả chạy vào đồn mà hỏi rối rít:

- Ông kiểm đâu rồi? Có ở nhà không?

Chú Tư nói:

- Dạ có, ổng đọc sách trên lầu.

Tức thời, thầy hương quản đến chào ông Rốp rồi trình bày:

- Sấu cỡ này lộng quá rồi! Hôm kia nó đập đuôi nhận chiếc xuồng trên đó có hai mẹ con. Mẹ mất xác, đứa con gái bị táp cụt chưn.

Ông Rốp hoảng hốt:

- Dữ quá vậy! Con "xáu" là thú dữ. Bên Phi Châu, bên Ấn Ðộ cũng có nó. Người Ai Cập hồi xưa sợ con "xáu" ăn thịt nên tôn thờ nó.

Thầy hương quản nóng ruột quá:

- Nhưng mà bên nước mình, tại sông Gành Hào này, nó giết người.

Ông Rốp cảm thấy áy náy:

- Nó giết người dưới sông. Thầy hương quản nên ra lịnh khuyên dân chúng tạm ngưng việc lưu thông dưới sông. Như vậy tiện hơn.

Thầy hương quản nói:

- Dạ không được. Không lui tới dưới sông, dân chúng phải chết đói hết. Lại còn ghe xuồng từ xứ khác tới, làm sao họ biết mà đề phòng. Người ở trên bờ cũng bị sấu táp nữa kì.

- Sấu chạy lên bờ à?

- Hôm qua, sấu nổi lên lần nữa. Cô gái nọ ngồi rửa chén dưới bến, bị sấu táp, rinh luôn cái cầu thang. Hồi lâu, sấu nhả ra, cô nọ tỉnh trí lội vào bờ.

- Làm sao bây giờ, thầy hương quản?

- Khó lắm, ông kiểm ơi! Dân chúng trông cậy sự bảo hộ của nhà nước Tây trong lúc này. Mình phải giúp họ.

Ông Rốp nhìn mấy cuốn sách bìa da mạ chữ vàng trong tủ rồi lắc đầu, thở dài:

- Trong sách không có nói tới. Mình cứ bắn nó thử. Cây súng của thầy đâu rồi? Bì đạn còn không? Tôi cho thầy mượn cây súng trận của tôi.

Thầy hương quản tỏ vẻ thất vọng. Thầy dư hiểu rằng súng đạn khó mà bắng lũng da con thú nọ. Không khéo, nó bị thương rồi trở nên hung tợn hơn trước. Hơn nữa làm sao mà bắn nó? Phải đứng dưới ghe. Nghĩ tới đó, thầy sợ quá, muốn nhường vai tuồng anh hùng nọ cho ông Rốp:

- Tôi bắn dở lắm, ông kiểm lâm à. Ông từng đánh giặc A Lơ Măn, cầm súng giỏi hơn tôi, ông phải trổ tài mới được. Hồi nào tới giờ tôi chỉ quen cây "cà líp xây", nó yếu lắm.

- Chiều nay, tôi sẽ tính.

Ông Rốp tạm trả lời như vậy để tống khô thầy hương quản một cách khéo léo. Ông rất sợ sấu, đó là nhược điểm của trời phú cho. Ðó cũng là nguyên nhơn khiến cho ông ít dám đi "rỏn" bắt củi lậu thuế; do đó dân làng tưởng lầm rằng ông là kẻ nhơn từ.

Ðứng trước tình trạng khó xử đó, ông chợt nghĩ đến Tư Ðức, hy vọg rằng "muôi quân ba tháng, dụng quân một ngày".

Chú Tư Ðức nói với ông:

- Việc đó không khó cho lắm. Từ mấy bữa rày, tôi có ý mong chờ để ra tay. Có hồn đã hiện về báo tin cho tôi biết. Dè đâu, sấu này dữ tợn quá vậy!

- Chú hay trước à? Chú có phép? Tôi không tin.

Tư Ðức bèn dẫn ông Rốp ra sân, chỉ mấy hột nổ rải ra khắp hướng, đêm hôm trước.

Ông Rốp gật đầu hỏi tiếp:

- Bây giờ mình làm thế nào?

Tư Ðức hỏi ngược lại:

- Tôi là kẻ quê mùa. Ông cần dạy tôi trước chớ!

- Tôi kiếm chiếc ghe thật lớn. Chú Tư chèo sau lái; tôi đứng trước mũi, rình bắn nó. Ðược không?

Chú Tư Ðức mỉm cười:

- Sấu lâu lâu mới nổi lên một lần. Biết nó nổi ngay khúc sông nào, đúng giờ phút nào mà rình. Chứng hay được thì nó lặn mất. Nếu nó không lặn mất thì...

Chú Tư cố tình không nói dứt. Ông Rốp nhướng mắt:

- Thì sao?

- Thì nó quật đuôi, ghe phải chìm. Sấu này dài ít nhứt năm thước. Ðứa con nít có thể ngồi chàng hảng cưởi trên đuôi của nó được. Lớn lắm! Nó nhai luôn cây súng của ông. Sấu đội đèn mà!

Ông Rốp hoảng hồn, chú Tư Ðức nói tiếp:

- Ðể đó cha con tôi trị nó. Miễn là hương chức làng giúp chừng vài trăm cây tre là bè. Mồi thì dùng heo, chó. Dân "An Nam" xưa nay bắt sấu không cần súng đạn, họ bắt sấu từ hồi Tây chưa qua lận kìa! Phải là thứ sấy nhỏ, tôi lặn xuống sông, bắt lên trong nhấp nháy cho ông coi chơi.

- Cách nào?

- Tôi móc con vịt cô lưỡi câu rồi tôi đúng dưới nước, cầm đầu sợi dây. Chừng sấu lại ăn mồi vịt, tôi lặn xuống đáy sông, đi vô bờ, ghịt đầu dây vào gốc cây mà kéo con sấu nọ lên. Cặp sấu dưới sông kỳ này lớn lắm. Ông cho phép tôi về rừng đem vài món đồ nghề lại. Ông nhắc thầy hương quản cho tôi xin chừng bảy trăm cây tre và bốn người dân phụ sức.

Tre đốn về, Chú Tư Ðức nhờ bà con kết một cái bè thật to, trên dựng hai cái thang, cao chừng ba thước.

Năm sáu lưỡi câu sắt đã buộc vào chung quanh; trên sàn bè, chú Tư xây cái chuồng nhỏ trong có để hai con heo, một con chó. Nóc chuồng có rơm, lá dừa che lại kỹ.

Hai hôm sau, chú nói:

- Mời quan lớn, thầy hương quản và anh em quen biết xuống bè làm lễ. tới giờ rồi.

Ông Rốp hỏi:

- Lễ gì?

- Dạ, lễ cúng cô hồn.

Heo nọ thọc huyết ra để tế cô hồn. Chú Tư rảy hột nổ khắp sàn và trên mặt sông. Nhang đen tỏa nghi ngút. Chú bèn đánh lên ba hồi mõ. Xác con heo nọ bị móc vào lưỡi câu, thả xuống.

- Bây giờ thì mời quan lớn lên bờ. Nếu quan lớn muốn đi theo cũng được.

Ông Rốp nói:

- Thôi... tôi ở trên bờ ghi chép. Bậy quá! Ở đây mình không có máy chụp hình, tôi muốn chụp làm kỷ niệm để gởi về bên Tây. Cái bè này sao giống chiếc tàu binh ở Âu Châu quá. Hai cái thang bắc cao lên coi như cây cột dây thép gió.

Ông Rốp, thầy hương quản lần lượt vỗ vai, "bủa xua" hai cha con chú Tư. Chú hút thuốc rồi hỏi đứa con trai:

- Thúng cơm khô con có đem theo không?

Nó đáp:

- Dạ có.

- Nhiều hay ít vậy con?

- Nhiều lắm. Ðủ ăn ba bốn người. Con có mua chịu cho cha một lít rượu.

Ðứa bé trao chuyền qua Tư Ðức bốn cái ống tre đựng đầy ngọn mun (lao sắc). Phần nó thì cầm cái mỏ bằng tre.

Ngày qua, ngày lại.

Chiếc bè trôi lên trôi xuống theo nước lớn nước ròng. Hai cha con Tư Ðức ngồi cú rũ bên chuồng nọ. Thỉnh thoảng, chú nhắc chừng thằng bé, bảo nó chọc cho con heo, con chó kêu lên.

Trên này, ông Rốp mãi theo dõi, nhưng lần lần thất vọng. Qua ba ngày sau, miếng mồi (con heo) đã sình nổi lên, diều quạ, kên kên bu lại kêu ỏm tỏi, chú bèn thọc huyết con heo còn lại mà thay vào.

Con chó sủa ngày một thỏn mỏn, vì mệt, vì đói.

Ðã đến ngày thứ tư. Mặt trời chưa mọc, ông Rốp bỗng giựt mình thức dậy vì tiếng mõ nổi lên inh ỏi.

Ông lập tức xuống lầu, chạy lại mé sông nhưng nào thấy gì đâu! Sương mù chưa tan, chỉ nghe dưới sông tiếng ồ ồ như bầy trâu đang lôi. Ông thủ cây súng trận nạp đạn vào nòng, chờ bóp cò.

Thầy hương quản đã đến:

- Ông kiểm ơi! Nó mắc câu rồi! Ông có nghe tiếng mõ không?

Rồi thầy quát to:

- Hương ấp đâu? Hương tuần đầu? mấy người chạy khắp xóm mà truyền rao mỗi nhà phải đánh mõ, đánh trống lên... Không thì đập xuống ván ngựa, đánh vô mâm thau, nồi đồng gì cũng được. Mình phải tiếp sức với hai cha con Tư Ðức!

Nắng lên cao.

Tiếng mõ dưới sông càng thúc giục. Rõ ràng cha con Tư Ðức đang đứng chót vót trên hai cái thang, lú khỏi mặt nước. Chiếc bè đâu không thấy. Hai cái thang nọ chạy tới hàng trăm thước, đứng sựng lại rồi vụt chạy lui, nhanh hơn tàu đò.

Tư Ðức cầm ngọn lao, hờm sẵn. Ðứa con đứng kế bên gõ vào mõ lia lịa. Hai cái thang lắc qua lắc lại như cột buồm ghe bị bão, vậy mà họ không té. Chập sau, cách chiếc bè chừng năm mươi thước, con sấu mắc câu bỗng nổi lên thoi thóp, dài như chiếc ghe độc mộc.

Chiếc bè từ từ nổi lên.

Dân chúng hai bên bờ la lớn:

- Nó kìa! Trời ơi! Làm sao giết nó mau.

- Mình phải tiếp sức với Tư Ðức.

- Trời thần ơi! Thằng nhỏ con của Tư Ðức gan dạ quá. Thiệt cha nào con nấy!

Ông kiểm lâm Rốp liền nói với thầy hương quản:

- để tôi bắn con sấu!

Thầy hương quản vô cùng e ngại:

- Không nên! Quan lớn đừng làm vậy! Sấu hoảng hồn chạy mạnh quá đứt dây đỏi thì sao?

Một người phía sau nói với tới:

- Sợ bắn không trúng con sấu mà nhè bắn trúng sợi dây! Báo hại công trình của người ta chịu cực mấy ngày rày.

Thầy hương quản day lại:

- Ðứa nào đó? Ðừng nói bậy. Ông kiểm lâm ổng buồn.

Hằng chục người, một tiếng thét to:

- Giết chết nó đi!

Mặc dầu bị nước văng lên, mình mẩy ướt loi ngoi lóp ngóp, chú Tư đức vẫn tỉnh táo phóng xuống lưng con sấu một ngọn lao.

Sấu nó hụp xuống, ghì chiếc bè khuất dưới nước.

Hai cha con Tư Ðức đứng cheo leo trên thang mà chờ, ngọn lao khác hờm sẵn nơi tay. Ông Rốp há miệng, nói với thầy hương quản:

- Hay quá! cái bè này giống chiếc tàu lặn đó. Khuất hết chỉ còn hai cái thang.

Chưa dứt lời, sấu nó nổi lên, uốn éo đập đuôi đùng đùng. Ngọn lao ghim trên lưng nó khi nãy đã văng đâu mất!

Tư Ðức hươi tay lên phóng xuống ngọn lao khác. Rối không đợi nó lặn xuống, nhanh như chớp, chú phóng thêm ngọn nữa, cũng ngay lưng.

Sấu ta lại chìm.

Nhưng từ phía xa, một con sấu lạ hiện ra, lội nhanh tới sát hai cái thang của cha con Tư Ðức. Ai nấy rú lên:

- Sấu đực chạy lại tiếp sấu cái. Coi chừng nó nghe chú Tư!

Thầy hương quản la lớn:

- Ðánh trống, đánh mâm thau cho nó sợ. Bà con mình cứ đứng co hoài, quên hết phận sự. Tệ quá!

Một mình mà đối phó với hai con sấu! Tình thế của chú Tư Ðức càng nguy nan! Lợi hại nhứt là con sấu mạo hiểm vừa xuất hiện đến cứu bạn. Nó còn sung sức, dám đánh bạo lại sát bè. Miệng nó đỏ hói, hàm răng dài như lưỡi cưa. Bình tĩnh, chú chờ nó lại gần.

Hai cây lao phóng xuống.

Sấu ta quay mình lại, đập đuôi thật mạnh vao hai cái thang. Hai cha con Tư Ðức đề phòng kịp thời nên không té nhào.

Con sấu lạ nọ lại nổi lên đằng xa, quậy nước rồi lặn mất.

Trong khi ấy, bè tre từ từ nổi lên. sợi đỏi dài rung rinh. Nơi đầu dây đằng kia, con sấu bị mắc câu đã quá mệt mỏio, nằm lé đé.

Mấy cây lao còn lại trong ống tre đã lần lượt phóng xuống, sấu ta không còn đủ sức để hất mấy mũi sắt đó nữa. Nắn lắc lư cái đầu rồi khuất dạng như chiếc tàu chìm.

Phen này, chiếc bè không bị ghì xuống như trước.

Chú Tư vô cùng mừng rỡ, đoán chừng sấu nọ chịu chết. Ðứa con trai của chú ngưng tiếng mõ. Chú lấy khăn chùi mấy giọt nước trên mặt rồi quơ khăn lên, làm dấu hiệu:

- Bà con đâm xuồng ra mau để kéo bè này vô bờ! Tôi mệt quá rồi!

Hằng chục chiếc xuồng va 2ghe biển đâm ra. Ai nấy buộc đỏi vào bè rồi cố sức kéo. Họ vừa mừng vừa cảm động. Trên bè, không có một món gì ráo; chuồng heo, thúng cơm khô, chai rượu đều văng mất. Nhiều nuột mây bị đứt, chiếc bè dường như sắp rã ra từng cây tre nếu cuộc chiến đấu kéo thêm vài giờ nữa.

Vừa bước lên bờ, chứ Tư Ðức liền gặp ông kiểm lâm Rốp. Ông ôm chú và thằng bé nọ vào lòng rồi nói tiu tít:

- Giỏi quá! Chú Tư giỏi quá! Thằng nhỏ gan quá! Nó bị bịnh rét mà cón mạnh quá! Tôi mời hai cha con vô đồn.

Chú Tư Ðức nhìn lại xác con sấu mà mỉm cười:

- Ðể tôi ở lại coi nó.

Ông Rốp nói:

- Thầy hương quản ơi! Trước khi mổ bụng con sấu, thầy phải cho tôi hay nghe. Tôi dẫn chú Tư vô đồn uống rượu ấm, thay quần áo để chú Tư ngừa bịnh.

Vào đồn, ông Rốp bắt buộc chú Tư phải nằm xuống nghỉ mệt, thay quần áo ka ki mới, đắp mền.

- Rượu "cổ nhác" bên Tây nè! Uống đi chú Tư. Rượu này của mẹ tôi bên cù lao "Cọt" gởi riêng qua cho tôi.

Chú Tư hớp một miếng:

- Ðược rồi, quan lớn.

Ông kiểm lâm nói:

- Uống hết đi! Tôi rót nữa cho.

Miệng nói, tay của ông thoa bóp lia lịa dùm chú Tư:

- Hết sức giỏi! Người "An Nam" hết sức giỏi. Chú Tư câu được bao nhiêu sấu rồi? Học nghề với ai vậy?

Chú Tư nói:

- Dạ, nghiệp của ông bà truyền lại. Bây giờ con cháu noi theo.

Ông Rốp gật đầu:

- Phải! Bữa nào chú nói kỹ lại cách thức câu sấu để tôi viết thành cuốn sách, gởi về bên Tây cho mẹ tôi được biết. Rồi chú rán câu con sấu còn lại. Chừng đó tôi đi theo, đứng trên cái thang đánh mõ thử một lần.

Chú Tư suy nghĩ:

- Không được đâu!

- Con sấu kia lợi hại lắm. Phải trừ cho hết. Tôi đọc trong sách thấy rằng loại sấu lớn thường ở nơi yên tịnh, luôn luôn đi hai con đực và cái.

- Ông lớn nói đúng. Nhưng mình giết một con đủ rồi, giết hết mình có tội với Trời Ðất.

- Tội gì vậy, chú Tư?

- Tội sát sanh. Ðể con còn lại cho nó đi tu. Ðạo Phật của ông bà có nói lại như vậy đó.

Ông Rốp mãi suy nghĩ, vuốt râu:

- Dân "An Nam" giỏi quá, hiền từ quá. Chú Tư họ gì, mấy tuổi. Ðể tôi chạy tờ về quan Tham biện chủ tỉnh xuất số tiền về thưởng công lao cho chú. Chú muốn làm lính kiểm lâm không? Tôi cho chú làm chức "bếp", ăn lương mỗi tháng mười lăm đồng bạc.

Chú Tư Ðức cười:

- Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có chữ: "Kiến nghĩa bất vì vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng". Công việc của tôi đã làm tròn. Tôi ao ước hương chức làng mình cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu nọ. Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ...

- Chi vậy?

- Ðể tỏ rằng mình sợ nó nhưng mà cũng... không sợ nó. Phải để cho nó tu tâm dưỡng tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát sanh. Tôi muốn làm nghề khác.

- Nghề gì?

- Nghề đốn củi. Chừng hết củi thì đào kinh, làm ruộng. Phen này tôi mừng vì cứu được vong hồn mấy người đã bị sấu ăn thịt. Theo lời tục truyền: họ thành cô hồn, sống vất vưởng trên lưng sấu. Lần lần cô hồn nọ bị sấu mê hoặc nên dẫn đường dắt nẻo cho sấu đi sát hại kẻ đồng loại. Bây giờ sấu chết, bao nhiêu cô hồn đã thảnh thơi, có thể tự do đi đầu thai trở thành người lương thiện.

Ông Rốp trầm ngâm suy nghĩ. Ông dè đâu người đốn củi lậu nọ có tài, có đức, biết thương người, thương cuộc đời đến mức ấy.

Ông chắp tay lại mà nói:

- Tôi khen chú nhiều lắm.

Chú Tư Ðức bèn chắp tay xá ông Rốp mà trả lễ:

- Ông xá tôi, tôi ngại quá. Giống như hình ông vưa Hy Lạp với thầy tu Ấn Ðộ trên vách, dưới tấm "bông đồ". Hôm nọ, hồi tôi mới bị bắt, ông nói cái tích "xơ lanh đa" gì đó...

Ông Rốp giựt mình, nhìn lại bức tranh, tấm bản đồ Châu Âu, Châu Á rồi sực nhớ tới mấy lời nói hôm trước. Tấm hình nọ diễn lại cảnh đẹp ngàn xưa: hai ngàn năm về trước, tại hoàng thành của tiểu quốc nọ ở phía bắc Ấn Ðộ, lần đầu tiên người phương Ðông và phương Tây thông cảm nhau, cư xử bình đẳng. Giờ đây, qua bao cuộc luân hồi, hưng vong đầy nước mắt mà máu trên giải đất tận cùng của nước Việt Nam lại có hai người cũng đồng cảnh ngộ, đồng niềm thông cảm.

Ông Rốp buột miệng:

- Chú Tư Ðức là thầy tư Na Ga Sơ Na.

Chú Tư nói:

- Trời ơi! Không dám, tồi chết! tôi là người làm ăn. Tôi không xứng đáng lên Niết Bàn. Quan lớn có thương thì cho tôi xin lại chiếc xuồng bị tịch thâu bỏ "phú de" hổm rày. Nó là nồi cơm của tôi. Ðể trên khô, nó mau hư lắm.

Chú Tư Ðức muốn nói thêm nữa. Chú muốn ví phận mình như một cô hồn bị sấu ăn thịt, hổm rày sống vất vưởng trong đồn này như sống trên lưng con sấu đội đèn nọ. Không khéo, thiếu khí phách ngang tàng, chú có thể bị ông Rốp quyến rũ làm "bếp" kiểm lâm.

Chú không dám nói ra điều ấy e mất lòng ông Rốp. Chú lắng tai, chờ lịnh xá tội, trả lại chiếc xuồng. Nhưng ông Rốp dường như không chú ý. Có lẽ ổng đang suy nghĩ chuyện khác. Ổng chắp tay sau lưng, đi tới đi lui cứ nhìn bức tranh và tấm bản đồ, đôi mắt mơ mơ màng màng như sám hối trong giây phút những sự hiểu lầm chồng chất trong tâm ông từ mấy chục năm qua.

Bỗng từ dưới lầu, thầy hương quản gọi vọng lên:

- Quan lớn ơi! Chú Tư ơi! Xuống đây mà xem. Bà con đang mổ bụng con sấu, lớn lắm. Thằng con của chú Tư cưỡi trên cái đuôi sấu mà hai chân nó như hỏng mặt đất lận kia!

CHUYỆN Ở TRÀN CHIM

Hôm đến Tràm Chim viết bài về loài sếu đầu đỏ, nghe đồn cái quán nhậu quay mặt ra kinh Đồng Tiến có món đặc sản ngon nhất xứ, tôi lò mò dò tới uống vài li chơi.

Món đặc sản Đồng Tháp là thịt chuột. Có tới hàng chục món, hàng chục cách chế biến. Luộc, hấp, nướng than nguyên con. Chả băm viên vo tròn chiên giòn. Xào lăn, nấu cà ri, nấu măng , nấu sả, nấu ớt, nấu giả cầy... Đương nhiên trong lúc chờ dọn món, khách hàng cũng được dịp thưởng thức đủ mọi loại âm thanh vang lên từ nhà bếp. Khi thì xèo xèo, lục bục. Lúc thì chát chát, cạch cạch... Mùi thơm xực nức cứ xộc vào mũi. Chưa dùng món, nước miếng đã tứa ra...

Chủ quán hỏi tôi ngoài món chuột đồng, ông có dùng thêm món rắn nước bơi trên kinh Đồng Tiến không. Tôi bảo ông cho tôi một tô cháo là được. Một tô be bé thôi. Sau khi nhậu xong. Mà nhớ nhắc tôi nghe, tôi không kêu lại đâu. Vì tôi có tật nhậu xong là chẳng nhớ được gì mình dự định hoặc nói trước đó mà. Vâng, tôi họ Hứa đấy ông chủ ạ. Nghĩa là chớ vội tin những gì tôi hứa. Nhưng nhớ tính tiền cho sòng phẳng nghe. Chớ có thấy bộ dạng tôi loạng choạng mà tưởng tôi say nghe. Bị lỏng túi là tôi tỉnh liền à...

Chủ quán nói ông vui tính quá. Nhất định là ông sẽ được hài lòng thôi. À, mà ông có cần kêu các bạn ông đang nghỉ ở nhà khách huyện tới góp vui thì tôi cho cháu nó đi ngay. Tôi nghĩ các bạn ông sẽ không ai nỡ từ chối ông đâu. Một người hào hoa như ông mà lại đi nhậu có một mình, xem ra có cái gì đó không bình thường. Hay ông có tâm sự? Tiếc rằng ở miệt heo hút này không có mấy em như ở thành phố. Nhưng món nhậu thì tuyệt. Tôi bảo đảm cả thế giới không nơi nào có những món nhậu hết chê như ở Tràm Chim...

Tối ấy tôi nhậu một mình. Cũng phải nếm cái cảm giác ăn một mình đau tức ra sao chớ. Ngon thiệt! Món nào tôi cũng kêu hai miếng. Chỉ hai miếng thôi. Miếng thứ nhất nhấm nháp tìm hương vị. Miếng thứ hai đưa cay. Giữa các món đảo mắt một vòng nhìn xuống lòng kinh, coi thuyền gắn máy chạy ngược chạy xuôi, hoặc nghĩ tới một câu thơ viết về sông nước Đồng Tháp. Chậc, chả nghĩ ra câu thơ nào. Rồi tự an ủi mình: thời trân cũng là thơ chứ sao. Thơ từ thị giác, vị giác, xúc giác. Tứ thơ nhìn, ngửi, nhai nuốt. Dung tục mà cũng thanh tao biết mấy!

Tôi đã hình như ngà ngà say. Có lẽ vì thế mà khi thấy một cậu thanh niên ngoài hai mươi, tóc tai bù xù, mặt mũi bơ phờ, dài dại tự ý ngồi xuống bên cạnh, tôi cũng không tỏ ra bực bội, chỉ khẽ đưa mắt nhìn cậu ta, ra ý thăm dò. Người kia cũng không nói. Anh ta không tỏ ý xin ăn. Cũng không tỏ ý khiêu khích, trêu ngươi. Có vẻ như anh ta không hề biết tôi đang ngồi nhậu ở cái bàn này. Lạ hơn, anh ta bất ngờ hất hàm về phía chủ quán, giọng rất hách, tính tiền, tính tiền lẹ cho tui còn đi nào, chủ quán đâu, tính tiền...

Chủ quán tươi cười đi tới. Ông vỗ nhẹ vào vai người trai trẻ mặt đang ngớ ra như vừa sực tỉnh, nhẹ nhàng nói cậu cứ vô đây ăn uống cho thật đàng hoàng, thật no say đã, rồi đâu có đó, muốn tính bao nhiêu tiền tui cũng chịu, nào, mời cậu...

Người trai ngoan ngoãn vâng lời. Anh ta ra ngồi cạnh bờ sông, miệng lẩm bẩm tàu kia mà vào tay ba tui thì bỏ đời nhà nó rồi. Hên cho nó là ba tui về thành phố rồi. Mà tui lại không phải là giải phóng, tui cũng không phải là dì Tư. Tui không có lựu cũng chẳng có mìn, tui chỉ là con của ba tui...

Một lát sau, anh ta đứng dậy, chắp tay chào chủ quán: chào chú, con đi đây, tiền con thiếu chú cứ ghi vô sổ, vài bữa nữa ba con xuống tính, chú đừng buồn con nghe chú, mốt con lại tới nhậu giúp đỡ chú đó chú à. Rồi bỏ đi.

Thấy tôi tỏ ý lạ, chủ quán nhậu giải thích: nó là con anh Hai Rắn đấy ông ạ. Đại tá Hai Rắn lừng lẫy một thời mà ông không biết a? Nó theo xe của công ty du lịch gần nhà xuống đây. Nó vậy nhưng hiền khô à, chẳng hại ai đâu...

À, thì ra đó là một cậu bé mát! Và đúng thế, tội nghiệp cho ba nó thiệt.

Nhưng anh Hai Rắn là ai nhỉ? Mà nổi tiếng tới mức một ông chủ quán nhậu cũng hay tên? Nổi tiếng tới mức cậu con trai mát tính của ông đi tới đâu, không một cắc một đồng dính túi cũng vẫn được người ta cho ăn cho uống tử tế?

***

Sáng hôm sau, chúng tôi huyện mời đi tham quan một số địa danh nổi tiếng trong thời chống Mỹ.

Nghe báo cáo viên kể lại trận đánh thủy phi cơ ngụy trên kênh Đồng Tiến đầu năm 1960, tôi ghi kín cả hai trang giấy. Thú vị nhất là chiến tranh ác liệt thế mà người ra trận cứ coi như trò chơi vậy. Cái chết kề bên cạnh mà người ta vẫn cứ yêu nhau. Yêu say đắm. Yêu như thể lấy tình yêu mà giật sự sống ra khỏi tay cái chết!

Trận này do chị Tư Chuột và anh Hai Tỵ đánh. Lý do phải cử hai người cũng đơn giản. Anh Hai biết cách đánh tàu nhưng lại không thạo sử dụng ghe máy. Còn chị Tư thì lại nổi tiếng là người thạo ghe thuyền sông rạch vùng này. Tính chất của trận chiến rất ác liệt nên đơn vị đã làm lễ truy điệu cho hai người trước khi họ xuất kích.

Tới vị trí lựa chọn trước, Hai Tỵ đào một cái hố giấu xuồng, lại trùm lên bên trên xuồng một lớp bùm mỏng. Anh bàn tính với Tư Chuột chọn lúc chập tối làm thời điểm khai hoả. Vì sau trận đánh, muốn tránh bị máy bay và bộ binh địch truy đuổi, họ rất cần bóng tối che chở để bơi xuồng rút êm về cứ...

Đôi trai gái nằm phục tới mười mấy ngày dưới một lùm bần ken kín mít dây dại leo ven kinh mà thời cơ vẫn chưa đến. Hết đồ ăn dự trữ, tối tối, anh Hai lại bò ra khỏi lùm cây, kiếm rắn nước, kiếm chuột. Hai người che chắn lửa khói kĩ càng rồi thay nhau nướng thịt ăn cho ngày hôm sau. Nhiều bữa, thấy anh Hai cứ lặng lẽ hút thuốc rồi lại thở dài trong đêm Tháp Mười hun hút gió, chị Tư khóc thút thít, biểu sao anh không hiểu lòng chị. Hai Tỵ nói là anh biết chớ, chờ hết giặc nhất định anh sẽ cưới chị làm vợ. Họ hôn nhau đắm đuối nhiều lần rồi ôm nhau ngủ. Về sau, có nhiều người cùng thời nói, trong những ngày ấy hai người đã sống với nhau như vợ như chồng vậy. Nói cho vui chứ chả ai có bằng chứng gì...

Kết quả là một cái thủy phi cơ của địch đã bị nổ tung bởi vướng một dây lựu đạn anh Hai Tỵ giăng qua kinh. Còn hai người thì trở về cứ ở Hồng Ngự an toàn, được cấp trên đề nghị thưởng Huân chương chiến công hạng ba.

Họ chưa kịp cưới nhau thì anh Hai được trên điều sang Bến Tre làm đại đội trưởng một đơn vị vũ trang hỗ trợ cho đồng khởi.

Bao nhiêu là nước mắt chia li đã nhỏ. Nhưng nhiệm vụ là trên hết. Anh Hai và chị Tư hẹn chờ nhau mãi mãi rồi lại hôn nhau nhiều lần. Họ chỉ chịu rời khỏi nhau khi chiếc xuồng đưa hai người tới đầu kinh Đồng Tiến, nơi có một chiếc ghe máy nhỏ chờ sẵn để chở anh Hai xuôi sang vùng đất đồng khởi. Ở đấy, những trận đánh ác liệt đang chờ anh...

Anh Hai Tỵ và chị Tư Chuột bặt tin nhau từ đó. Về sau, lúc liên lạc được với nhau thì hoàn cảnh éo le lại đã đẩy số phận mỗi người về một phía...

Bây giờ họ đang ở đâu? Nghe chúng tôi hỏi thế, anh báo cáo viên ngượng ngịu nói anh cũng không biết. Dạ, thưa các anh, chiến tranh tàn khốc thế đấy, lớp hậu sinh chúng em cũng chỉ nghe tới đó, biết tới đó, còn số phận từng người sau cuộc chiến như thế nào, chưa có ai tổng kết. Nhưng em tin tốt đẹp cả thôi. Vì hiện tại chính là tương lai của quá khứ. Một quá khứ đau thương nhưng rất đẹp...

***

Một bổi tối sau đó mấy bữa, tôi lại ghé quán nhậu.

Quán đã có hai thực khách. Ngồi bên cạnh cậu con trai mát tính là một người đàn bà tóc bạc trắng như cước. Tôi không đoán nổi tuổi của bà. Nếu dựa theo khuôn mặt đỏ hồng và đôi mắt sáng, có lẽ bà còn đang độ năm mươi. Bà gọi chàng trai là con, xưng má. Má lấy thêm đồ ăn cho con nghe? À, con thích món cháo rắn chớ? A, hay là má kêu thêm cho con chai bia nghe?

Chàng trai dạ dạ, vâng vâng, hì hụp húp cháo. Ngon lắm má ạ. Con nói thiệt đó, ngon lắm. Ba con chưa cho con ăn món nào ngon thế. Mà sao má đi hoài vậy. Sao giờ con mới hay mình có má. Con cứ tưởng mình ra từ nách ba. Hi hi, hoá ra má sanh ra con, hi hi...

Hai người ngồi thêm một lát nữa rồi mới chào chủ quán, đi xuống một cái thuyền máy lớn. Hình như đây chính là con thuyền chở khách du lịch chạy lòng vòng trên kinh rạch Tam Nông. Nếu khách bao gọn chuyến, thuyền có thể chạy bất cứ lúc nào, trên bất cứ dòng kinh ngang dọc nào trên đất Tràm Chim mênh mông nước và tràm này.

Chủ quán nhậu bảo tôi, bà hồi nãy chính là chị Tư Chuột tôi kể cho ông nghe tối qua đó ông. Bả mới ở bên Úc về. Nghe nói về tìm ông Hai Rắn.

Tôi gặng, nghe ông kể thì chị Tư là người yêu ông Hai Tỵ, lại là chiến sĩ hồi chống Mỹ, bây giờ sao lại ở bên Úc, lại đi tìm một ông Hai Rắn nào đó là cớ làm sao?

Chủ quán cười hì hì lấy lòng, bảo: ông chưa hay Tỵ tức là Rắn ư? Là Tỵ, là Tý hay là gi gỉ gì gi là gì cũng được mà hay bắt rắn, nhậu rắn thì tên là rắn cũng chẳng hề hấn đến ai. Ông Tỵ mà tôi kể, trước đây ai cũng kêu là ông Rắn. Rắn cắn chết kẻ ác đấy. Thằng giặc nào nghe tên ông cũng khiếp vía hết. Chỉ có bà con, nhất là chị Tư Chuột, cứ nghe tên ấy là khoái mới đã chớ! Hay thiệt ông nhỉ. Chuột chỉ mong được rắn bắt. Mà đàn bà mong được đàn ông yêu thì trúng phóc rồi, có gì để phải bàn trái lẽ hay hợp lẽ nữa chớ?

Ông ạ, chủ quán tiếp, số chị Tư lận đận lắm. Anh Hai qua Bến Tre chừng một năm thì có tin báo ảnh hi sinh. Chị Tư khóc hết nước mắt, thề không lấy ai nữa. Cấp trên cử chị về Cao Lãnh hoạt động trong một nhóm tình báo cài trong nội bộ quân ngụy. Rồi chẳng rõ do yêu cầu của công việc hay vì một căn nguyên nào đó, chị lấy một viên thiếu tá ngụy. Viên thiếu tá này bị chuyển đi nhiều nơi, lúc về Cần Thơ, lúc lại ra Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa. Năm 1969, tổ chức nội gián của ta ở Cao Lãnh bị lộ, chị Tư mất hẳn liên lạc. Và cũng không ai liên hệ lại với chị nữa. Là vợ sĩ quan ngụy, tới đâu chị cũng bị người ta nhìn với ánh mắt không mấy thiện cảm. Năm 75, sau khi người chồng chết trận ở Bảo Lộc, chị Tư đã dẫn đứa con trai duy nhất của mình di tản qua Úc. Về sau, nhờ một tờ báo nước ngoài đưa tin, ảnh về trận chiến ở Bảo Lộc, chị mới hay anh Hai Rắn vẫn còn sống. Anh chính là người chỉ huy quân giải phóng chọc thủng phòng tuyến do chồng chị đảm nhiệm, mở cửa cho đại quân tiến về Sài Gòn. Bữa ấy, chị đã bị ngất xỉu, tỉnh dậy lòng vẫn còn hoang mang...

Nhiều năm sau nữa, con trai chị Tư đã trở thành một tiến sĩ nông học, trong những lần về thăm Tràm Chim, chị vẫn ngấm ngầm điều tra về anh Hai. Chị được biết cho tới năm 1975 anh mới lập gia đình. Vợ anh là y tá thuộc sư đoàn do anh chỉ huy. Chị bị nhiễm chất độc màu da cam trong trận càn của quân Mỹ vào Tây Ninh năm 1969. Chị sinh cho anh Hai hai đứa con. Đứa đầu là một bé gái, ba tháng nó vẫn không mở được mắt và mất vào đầu tháng tuổi thứ tư. Còn cậu con trai của anh, bảy tuổi nó mới biết đi, lại chẳng có tí trí khôn nào. Nhà anh Hai ở gần một công ti du lịch nên tình cờ thằng bé đã xuống được Tràm Chim. Chủ quán nhậu thấy nó giống anh Hai thời trẻ quá, gọi lại hỏi, cho ăn, cho uống tử tế, lại cho cả tiền để nó về thành phố. Chị Tư còn biết chị Hai đã mất từ năm 1983. Anh Hai ở vậy nuôi thằng bé. Và hình như anh vẫn có ý chờ đợi một ai đó. Chị nao lòng nhận ra chính mình cũng có ý đó! Chao ôi, xót thay, cả hai đều đã bước qua tuổi lục tuần! Mà duyên nợ thì vẫn chưa dứt được ư, hả trời?

***

Đầu tháng tám, tôi vô tình gặp chủ quán đặc sản Tràm Chim ở thành phố. Ông khoe mùa này cỏ non mọc nhiều, chuột đồng béo lắm. Rắn cũng thế. Con nào con lấy lườn cứ tròn căng. Người đi bắt chuột, bắt rắn chỉ cần lùa chúng chạy từ các đám cỏ vào lưới, không phải mất công đào hang, hun khói vất vả nữa. Giá lại rẻ. Rẻ đến bất ngờ.

Mấy anh cán bộ huyện, lúc có khách, cũng thường ghé qua quán cho tiện. À, mà cái anh tiến sĩ con trai chị Tư Chuột mới rồi cũng theo mẹ về thăm Đồng Tháp đó ông. Anh ta cũng mê món thịt rắn nước ra trò. Nhậu với mấy anh bên huyện, anh ta bảo anh rất kính phục, không phải vì các ông ấy có tài lai rai mà vì bữa nhậu rất bình dân. Người bình dân nhậu chơi với nhau lấy con chuột con rắn làm mồi cốt chỉ vì tình. Mấy ông nhậu bình dân thế, tức là còn gần dân lắm. Rồi anh ta hứa sẽ góp phần giúp tỉnh sống chung với lũ. Lạ lắm ông ạ, lo nhà cho người ở đã đành, anh tiến sĩ kia còn nói phải lo cho chuột cho rắn chỗ sống nữa thì chưa nghe ai nói bao giờ!

Nhưng nghĩ mãi thì thấy cũng có lí. Từ bao đời nay, con rắn con chuột là thiên địch của nhau mà chúng vẫn sống bên nhau được. Đành rằng con rắn có ăn con chuột đấy, nhưng có giống nào bị tuyệt diệt đâu? Lại nữa, cứ nói chuột là loài phá hoại lúa; nhưng mùa nước thiếu chuột thì lấy thịt nào mà cải thiện nhậu lai rai chờ nước rút? Ở đâu tôi không hay, chớ ở Tràm Chim, tôi nghĩ bậy bạ rằng, chuột cũng là một con vật nuôi đó ông ơi. Nhưng trời lấy cỏ mà nuôi nó là chính. Trời nuôi chuột cũng là để nuôi con người ta chớ bộ...

Tôi ngỏ ý mời ông chủ quán Tràm Chim về nhà chơi. Ông biểu: không, tôi phải đi cho được việc đã. Thôi chết, gặp ông mải nói chuyện chuột, chuyện rắn mà quên chưa nói chuyện người là cái thằng tôi dở ẹt quá cỡ rồi. Hồi nãy ông hỏi tôi lên thành phố mua bán gì đó phải không? Không, tôi đi đám cưới. Ông còn nhớ chị Tư Chuột không? Cón nhớ a? Ừa, tôi đi đám cưới bả với ông Hai Rắn đó. Bà ấy hồi hương rồi. Bả thương thằng nhỏ nhà anh Hai dữ lắm! À, hay là ông đi với tôi cho vui? Rồi về Tràm Chim nhậu vài ngày cho đã đời? Ông cũng sắp lục tuần rồi nhỉ? Nhưng còn trai chán! Còn nhai được cả mấy tạ rắn nữa chớ bộ...

Tôi cười. Chợt nghĩ tới anh Hai Tỵ. Nghĩ tới những con sếu đầu đỏ.

Hôm ở Tràm Chim, lần đầu tiên nhìn thấy loài sếu qúy hiếm này, tôi biết đó là hồng hạc, loài chim hồng báo tin vui trong thơ Nguyễn Đình Chiểu.

Chúng rất mê củ năng Đồng Tháp, thứ củ rắn và chuột cùng rất thích...

CÂU CÁ MÙA HÈ

Bố nói mùa hoa phượng đỏ là mùa ve sầu kêu ve ve. Nhưng đã mấy mùa hè, Bắc đến sân trường bố dạy học, không nghe thấy tiếng ve. Rất nhiều ô tô, xe máy vọng từ ngoài đường vào. Tiếng chát chúa, tắc, bụp rõ mồn một từ dãy sau hàng rào bằng gạch cho biết đấy là phim kiếm hiệp gì đó. Rụng xuống sân trường vắng lặng là những trái bàng quế vẫn lặng thầm rơi khẽ, âm thanh nghe như vọng về từ năm ngoái.

Bố đang dạy một lớp luyện thi vào lớp mười. Bố dạy bài "Thu điếu" mà cả lớp cười như chợ vỡ...

Rồi tất cả lặng phắc. Lặng như Bắc ngồi trên ghế đá tự học tiếng Anh, mắt dán vào cuốn sách.

Nói là tự học chứ thật ra là bắt buộc. Sáng, hai bố con dậy lúc 5 giờ. Bố giảng sơ sơ bài tiếng Anh cho Bắc, giao phải thuộc lòng, dịch thông nghĩa vào lúa 10 giờ trưa... Vậy là có đến ba giờ học. Học dưới gốc bàng...

Bài học thêm hôm nay có mục câu cá. Chú bé người Anh tên là Steven sướng ơi là sướng. Hè, đi píc-níc, đi câu cá với bố mãi tận bờ biển Nha Trang. Lạ nhỉ ! Sao bố Bắc không chịu nghỉ hè? Ôồ, giá chỉ được bố đưa về quê thăm ông bà, ngồi thõng chân xuống dưới nước ao từ cái cầu ao bằng tre ghép lại, cũng đã sướng rồi...

Bắc bỗng giật mình khi nhìn vào vườn cảnh. Giữa khuôn viên nhô lên một hòn non bộ. Hòn non bộ chìm một nửa dưới cái hồ nước trong leo lẻo, xây hình bán nguyệt. Dưới hồ bao nhiêu là cá...

Bắc chạy đi tìm bác Phúc bảo vệ. Nó nói nhỏ gì đó vào tai bác.

-Ôồ, tưởng cái chi, sợi chỉ thì bác có ngay, có ngay...

Bác Phúc mở ngăn kéo, lấy ra một cuộn chỉ màu. Chỉ này dùng cho mấy anh chị lớp P Mười quên không khâu phù hiệu vào ngực áo đây... "Mà con lấy chỉ làm cái chi?", bác Phúc hỏi. Bắc gỡ cặp kính cận ra lau, từ tốn thưa: "Con buộc chân con chuồn chuồn..."

Bẻ một cành liễu mềm đã có một cái cần câu. Dây cước là sợi chỉ. Thiếu con mồi.

Thì kia, một chú chuồn chuồn kim mới lột xác đang chúi đầu trên một đám hoa mười giờ còn chúm chím nụ đỏ. Chẳng khó khăn lắm, chú chuồn kim đã bị hai ngón tay Bắc nhón gọn lấy đuôi, cánh đập đập yếu ớt.

Bắc đặt cuốn sách bên cạnh,buông câu. Nó thu lu dưới gốc liễu rủ. Những cành liễu mềm phủ kín thân hình bé nhỏ.

Những đàn cá cảnh bơi đi bơi lại, giương mắt nhìn con chuồn chuồn kim nổi lềnh phềnh trên mặt nước.

Chúng nhìn rồi lại vẫy đuôi bơi đi.

Bắc nghe loáng thoáng tiếng xe ,tiếng người. Hình như có cả tiếng "Bắc ơi" giọng hơi lạc đi của ai đó.

Song lũ cá cảnh quẫy trong nước khiến Bắc hầu như không nghe thấy gì cả... Nó đang chờ một con cá kim đã đến ngửi ngửi vào cánh con chuồn chuồn. Con cá bỏ đi, rồi quay lại... Nó chưa đến bữa đấy má! Cứ chờ xem...

Bóng mặt trời đã lóa hồ cá cảnh.

Bắc chưa kịp nhấc con cá kim vừa ngậm chặt con mồi ra khỏi mặt nước. Con cá giãy giụa, rơi tõm trở lại hồ nước...

Bắc tiếc rẻ, òa khóc.

Bác Phúc bảo vệ nghe tiếng trẻ khóc, vội chạy lại.

-Trời ơi! Thì ra mày ở trong bụi cây! Thằng nhóc...

Bác mắng nhưng lại ôm chầm lấy Bắc, bác nhấc bổng lên đầu: "Mày làm cả nhà giờ này còn đang đi tìm. Thôi để bác gọi điện..."

Bắc giật mình khi đồng hồ trong phòng bảo vệ chỉ con số 12.

"Chỉ một chút nữa bố sẽ đến đón", Bắc nghĩ , "Mà có nên nói với bố về chiếc cần câu mình giấu dưới gốc cây liễu không nhỉ?".

Kết Thúc (END

CÁC BẠN CÓ YÊU CẦU TRUYỆN THÌ ADDNICK iu_mua_longkhanh RỒI NÓI ĐỂ MÌNH UP LÊN.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro