yamamoto va nhung tran danh o tbd p2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mãi suy nghĩ về những chuyện đã xảy ra mà tôi quên rằng mình đang đứng trên đài chỉ huy của chiếc Shigure. Nhìn đại dương bao la và đen thẫm trước mặt, tôi tự hỏi không biết bao nhiêu chiếc, và chiếc nào trong số 4 khu trục hạm do tôi chỉ huy, có thể vượt thoát được cơn sóng gió sẽ xảy đến trong lần ra khơi này? Khi đêm xuống hẳn, tôi cảm thấy nhẹ người. Với màn đêm đen như mực này, hy vọng phần lợi thế sẽ nghiêng về phía chúng tôi.

Chúng tôi tiến vào eo biển Blackett. Đoạn nằm giữa Kolombangara và ba đảo nhỏ hơn, đến tận phía Tây Nam của eo biển này rất hẹp, đầy dẫy đá san hô và nhiều chỗ rất nông kéo dài cả Km. Tôi ra lệnh cho tàu tắt máy trước khi đến điểm hẹn. Ba chiếc tàu chở đầy nghẹt hàng hóa và binh sĩ lặng lẽ lướt tới.

Hàng chục chiếc tàu nhỏ từ trong bờ chạy nhanh ra để nhận hàng và người. Công việc diễn ra chỉ trong vòng 20 phút, tất cả hàng tiếp tế và binh sĩ đều được chuyển đi. Chúng tôi nhẹ hẳn người khi nhận được đèn hiệu của chiếc Hagikaze: "Quay trở về."

Khu trục hạm Amagiri đã thoát chạy trước dẫn đường trong khi 3 chiếc khác còn lo cho máy chạy lại. Trong vòng 5 phút, chúng tôi rời khỏi điểm đổ hàng, chạy ngược trở lại đoạn hải trình nguy hiểm, đầy dẫy chướng ngại vật của eo biển Blackett. Tôi đã lưu ý đài chỉ huy và các quan sát viên của chiếc Shigure phải cẩn thận. Trong khu vực này địch quân đã giăng một mạng lưới tình báo rất chặt chẽ, có thể họ đã biết được những hoạt động của chúng tôi. Họ có thể xuất hiện để tấn công chúng tôi, tại bất cứ khoảng nào thuộc vùng đá ngầm của eo biển Blackett này.

Di chuyển hơn 10 phút, chúng tôi bắt đầu cho tàu chạy 30 hải lý một giờ để lướt nhanh qua đoạn hải trình nguy hiểm, mà ngay cả trong thời bình cũng không có một chiếc nào dám di chuyển ban đêm với tốc độ quá 12 hải lý một giờ, dầu mở sáng tất cả các đèn. Dĩ nhiên, hiện thời chúng tôi phải di chuyển âm thầm. Khí trời ban đêm thật oi bức, nhưng mồ hôi lạnh lại lấm tấm trên trán của mọi người. Chúng tôi di chuyển qua Arundel, Wana-Wana và đến ngang Gizo thì bắt kịp khu trục hạm Amagiri. Chúng tôi tiếp tục di chuyển theo đội hình hàng dọc, mỗi chiếc cách nhau 600m. Mắt tôi, nhìn rất rõ trong đêm tối, chợt nhìn thấy một vật nhỏ màu đen đang di chuyển khá nhanh trên mặt biển, ở mạn trái con tàu. Vật màu đen này di chuyển về hướng chiếc Ammagiri, đang chạy phía trước chiếc Shigure chừng 1.500m.

Chưa xác định rõ vật đen đó là gì, nhưng tôi tự nói với mình "tàu địch mò đến", và cố trấn áp hồi hộp.

Vật đen mờ dần trong đêm tối, và biến mất hẳn. Không một tiếng nổ, không một ánh đèn, không một tiếng súng nào. Thật là kỳ quái. Ngay lúc đó, hoạt động trên Amagari có vẻ rộn ràng, và từ chiếc tàu này, một tín hiệu bằng đèn được gửi đi: "Gặp các ngư lôi đĩnh địch. Một chiếc bị đụng và chìm."

Súng trên hai khu trục hạm Hagikaze và Arashi bắt đầu khai hỏa. Tôi nhận thấy hàng loạt đạn như mưa tuôn ra từ tả mạn của hai chiếc tàu này. Hai ngư lôi đĩnh địch bốc cháy dữ dội, soi sáng cả quang cảnh xung quanh hai khu trục hạm Arashi và Hagikaze. Tôi cũng ra lệnh cho chiếc Shigure khai hỏa. Toàn thể thủy thủ đoàn nãy giờ vẫn kìm súng, bắt đầu ra tay thật chính xác. Hai ngư lôi đĩnh địch bốc cháy dữ dội hơn, và dần dần biến mất trong dòng nước đen ngòm. (Thật ra, đây chỉ là hai phần của chiếc PT-109 bị Amagari đụng và cắt rời ra.)

Những tiếng cười hân hoan vang lên trên các khu trục hạm Nhật, lúc chúng tôi tiếp tục xả hết tốc lực trên đoạn hải trình còn lại để trở về căn cứ. Cảm thông được niềm vui của mọi người, nhưng tôi không thể hòa mình cùng với họ, vì đầu óc của tôi vẫn còn lảng vảng hình ảnh của chiếc PT-109 lúc tàu tôi lướt ngang qua. Chiếc tàu này đã làm tôi nhớ đến chiếc Terutsuki bị đánh chìm vào tháng 12 năm 1942, bởi các trái ngư lôi do hai ngư lôi đĩnh địch có trọng tải 50 tấn phóng ra. Có lẽ chúng tôi cũng chịu chung số phận với chiếc khu trục hạm Terutsuki đêm nay, nếu địch quân nhận ra chúng tôi và phản ứng trước một vài phút sớm hơn.

Chúng tôi giảm tốc độ lại khi ra khỏi Vịnh Vella, và sau đó trở về căn cứ Rabaul an toàn. Thủy thủ đoàn của chúng tôi vẫn còn phấn khởi với chiến công vừa qua, nhưng tôi thì rất dè dặt và lo ngại. Sự lo ngại thật sự đã đến với tôi, khi tôi đến trình diện tại tổng hành dinh và nhận một tin tức chính thức.

"Khu trục hạm Mitkazuki (thuộc Hải đội 30 Khu trục hạm) và Ariake (thuộc Hải đội 27 Khu trục hạm) trong lúc thi hành sứ mạng chuyển vận đến Tuluvu, New Britain. Đã mắc cạn gần mũi Gloucester vào ngày 27 tháng 7, và hôm sau cả hai đã bị các oanh tạc cơ B-25 oanh kích hủy diệt hoàn toàn, nhưng chỉ có 7 thủy thủ thiệt mạng."

Tôi buồn bã quay trở về khu trục hạm Shigure. Một lần nữa, tôi lại trở thành vị hải đội trưởng chỉ có một khu trục hạm dưới tay. Tai biến dồn dập biết bao. Không đầy một tháng, năm chiến hạm đã từng tạo nên những chiến công lẫy lừng chỉ còn lại hai chiếc.

Hai chiếc Mikazuki và Ariake vụng về, đần độn đến bậc nào mà cho đến nỗi phải bị mắc cạn? Mệt mỏi và mất tinh thần, đêm đó tôi đã nốc cạn rất nhiều chai sake, Thiếu tá Yamagachi đã cùng tôi đối ẩm để chia sẻ nỗi đau buồn cùng cực với tôi. Nhưng ông ta chỉ lưu lại một giờ đồng hồ, và sau đó tôi độc ẩm suốt đêm.

Hai ngày sau, lúc sáng sớm ngày 4 tháng 8, Đại tá Kaju Sugiura, chỉ huy trưởng Hải đội 4 Khu trục hạm, đạt giấy mời Yamagachi và tôi đến soái hạm của ông để dự một phiên họp. Đó là một buổi sáng đầy nắng. Chúng tôi dùng ca nô chạy đến khu trục hạm Hagikaze. Bàn ghế của buổi họp đặt trên sàn tàu, phía trên căng một tấm vải nhỏ để che nắng. Hai chúng tôi đến muộn hơn hết. Các hạm trưởng và sĩ quan thuộc các khu trục hạm khác có mặt trên tàu tiếp đón chúng tôi một cách thân mật. Đại tá Sugiura, huynh trưởng của tôi ở Eta Jima và đã tốt nghiệp Trường Tham Mưu Cao Cấp, sau khi chào hỏi mọi người, ông bắt đầu ngay phiên họp, Ông nói: "Thưa toàn thể quý vị, tôi rất vui mừng thông báo cùng quý vị rõ, chúng ta đã thành công mỹ mãn trong sứ mạng chuyển vận đến căn cứ Kolombangara vừa qua. Sự thành công này sở dĩ đạt được là nhờ sự cộng tác chặt chẽ của quý vị. Bộ Tư Lệnh Tối Cao Lục quân và Hải quân rất hài lòng, và nhờ tôi chuyển đến quý vị lời khen nồng nhiệt nhất. Đồng thời, thượng cấp ra lệnh tiếp tục công tác chuyển vận vào ngày mốt. Khu trục hạm Kawakaze sẽ thay thế khu trục hạm Amagari bị móp ở mũi vì chạm phải ngư lôi đĩnh của địch quân. Tôi yêu cầu quý vị cho biết ý kiến, và điều cần đề nghị tôi cũng rất mong quý vị nêu ra.

Nhìn chung quanh bàn họp, tôi nhận thấy toàn thể các hạm trưởng thuộc quyền Sugiura lắng nghe một cách bình thản. Không một ai đứng lên phát biểu ý kiến nhằm chống lại Đại tá Sugiura. Trong buổi họp, tôi là người duy nhất mang cùng một cấp bậc Đại tá, và cũng là một Hải đội trưởng, dù chỉ một chiếc, như Sugiura, nên tôi đứng dậy và lên tiếng:

"Thưa Đại tá, tôi hiểu Đại tá muốn nói gì khi bảo rằng chúng ta cần phải tiếp tục thi hành sứ mạng của chúng ta. Điều đó, thưa Đại tá, có phải Đại tá muốn nói rằng chúng ta cần phải thi hành công tác theo cùng một hải trình mà chúng ta đã sử dụng trong chuyến vừa qua?"

"Đúng vậy, thưa Đại tá Hara. Chúng ta cũng sẽ đi ngang qua Vịnh Vella và eo biển Blackett. Chúng ta xuống hàng tại căn cứ Kolombangara vào lúc 23h30 ngày mốt, y như lần trước chúng ta đã thực hiện."

"Xin lỗi Đại tá, tôi nghĩ rằng lặp lại một phương thức mà chúng ta đã sử dụng là một hành động không mấy khôn khéo. Chúng ta đã sử dụng hải trình ngang qua Vịnh Vvella hai lần rồi. Tôi tự hỏi chúng ta không thể sử dụng một hải trình khác được sao? Riêng eo biển Blackett đã là hải trình không an toàn, vì nó đầy dẫy đá ngầm và có những khoảng rất nông, đó là chưa nói đến chuyện phải qua eo biển Gizo như thế nào trước khi vào được Blackett mà không bị địch quân phát giác?"

"Thưa Đại tá Hara, tôi đồng ý quan điểm của Đại tá, nhưng tôi đã lỡ ban theo chỉ thị của thượng cấp. Do đó, việc thay đổi hải trình theo như Đại tá vừa nói, sẽ đưa đến việc thay đổi toàn bộ hệ thống liên quan đến công tác mà chúng ta đảm nhận, nhất là về phương diện liên lạc. Như Đại tá đã rõ, hệ thống liên lạc của Lục quân chúng ta vô cùng yếu kém. Nếu eo biển Blackett bất lợi đối với chúng ta thì nó cũng nguy hiểm đối với địch quân. Các ngư lôi đĩnh của địch có thể chạm vào đá ngầm trước khi chúng đương đầu với chúng ta."

Ba hạm trưởng của Đại tá Sugiura gật đầu nhè nhẹ, tỏ ra họ đồng ý những điều mà vị chỉ huy của họ vừa phát biểu. Những phản đề nghị của tôi rõ ràng đều bị tất cả mọi người có mặt trong buổi họp chống đối, ngoại trừ Yamagami. Tôi cảm thấy hơi choáng váng. Bên tai tôi lại văng vẳng những câu trong quyển tự truyện của Musashi Miyamoto"

"Lập lại một phương thức đã từng sử dụng quả là tệ hại, và còn tệ hại hơn nữa nếu lặp lại lần thứ ba....... Khi đối phương nghĩ mình đánh cao, mình đánh thấp. Khi đối thủ nghĩ thấp, mình sẽ đánh cao. Đó là bí quyết của kiếm thuật."

Đại tá Sugiura không phải là người xa lạ gì với tôi. Chúng tôi đã là bạn nhau từ nhiều năm nay. Ông được thượng cấp tín nhiệm và có nhiều biệt nhãn đối với ông. Có nhiều dấu hiệu cho thấy ông sẽ được thăng cấp Đề đốc. Một người có tương lai như vậy thì khi nào lại dám cãi lại mệnh lệnh của cấp trên đưa xuống.

Đại tá Sugiura phá tan sự im lặng và tiếp tục lên tiếng một cách rất hòa hoãn:

"Đại tá Hara, nếu Đại tá bằng lòng thì tôi sẵn sàng giao nhiệm vụ thám báo cho chiếc Shigure. Như vậy Đại tá sẽ được rảnh tay và khỏi phải lo lắng về vấn đề chuyển vận nặng nhọc. Nhiệm vụ này trước đây do chiếc Amagiri đảm trách và hiện được chiếc Kawakaze thay thế, nhưng thủy thủ đoàn của chiếc tàu này lại thiếu kinh nghiệm. Tôi mong rằng với tài khéo léo và kinh nghiệm sẵn có của Đại tá, Đại tá sẽ hoàn tất công tác một cách tốt đẹp trong nhiệm vụ thám báo."

Đây lại là một lời đề nghị chứng tỏ sự khôn khéo của Đại tá Sugiura. Ông ta muốn đẩy tôi, kẻ duy nhất chống đối lệnh hành quân, vào thế không thể từ chối trước một trách nhiệm quan trọng như vậy trong cuộc hành quân này.

Tất cả mọi người đều nhìn về tôi chờ xem sự phản ứng. Tôi trả lời một cách chân thành: "Tôi cảm ơn sự lưu tâm của Đại tá đối với tôi, nhưng rất tiếc tôi không thể nào chấp nhận sự đề nghị của Đại tá."

Tất cả những người tham dự trong buổi họp đều ngạc nhiên. Các hạm trưởng có mặt đều áy náy lúc nghe tôi trả lời như vậy. Tôi tiếp tục: "Khu trục hạm Shigure, một chiếc tàu chậm chạp, cũ kỹ, nhiều tuổi nhất trong số 4 khu trục hạm tham dự cuộc hành quân này. Bộ máy 42.000 mã lực của Shigure đã đến thời kỳ phải sửa chữa, do đó tôi sợ nó không đạt nổi tốc độ 30 hải lý. Giao nhiệm vụ thám báo cho nó thật không thích hợp chút nào. Tôi đề nghị nên giao nhiệm vụ này cho Trung tá Koshichi Sugioka, hạm trưởng khu trục hạm Arashi. Chiếc tàu của ông còn mới, và với dàn máy 52,000 mã lực, nó có thể đạt đến tốc độ 35 hải lý dễ dàng."

Trong lúc bầu không khí im lặng bao trùm buổi họp, Sugiora vẫn ngồi lặng lẽ và đôi mắt của ông ngó lặng chỗ khác. Cuối cùng, nột cách trầm tĩnh, Đại tá Sugiora đã phá tan bầu không khi im lặng với ý kiến nhân nhượng:

"Được rồi, thưa toàn thể quý vị, soái hạm Hagikaze sẽ đi đầu và lãnh nhiệm vụ thám báo. Tuy nhiên vẫn phải chia sẽ gánh nặng trong nhiệm vụ chở binh sĩ và đồ tiếp liệu. Ba chiếc Arashi, Kawakaze và Shigure theo sau, chiếc nọ cách chiếc kia 500m. Bằng lòng chưa, thưa Đại tá Hara?"

Tôi bằng lòng với sự xếp đặt này, vì nhận thấy Đại tá Sugiura chiều lòng tôi như vậy đã là quá mức. Buổi họp chuyển sang bàn cãi những vấn đề khác thuộc về chuyên môn.

Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ rời khỏi Rabaul vào sáng sớm để có thể đến được vùng luôn luôn nằm dưới mắt của trinh sát cơ địch xuất phát từ căn cứ Russells khi đêm xuống. Đại tá Sugiura cho biết rằng tầm hoạt động của phi cơ Hoa Kỳ tại căn cứ này là 300 dặm.

Tin tức của Đại tá Sugiura có lẽ đúng trước đây một tuần, nhưng chúng tôi không thể nào cứ cho rằng bây giờ những chiến đấu cơ địch không thể xuất phát từ căn cứ tiền phương của chúng ở Rendova. Căn cứ này bắt đầu hoạt động từ tháng 7. Ngoài ra, lực lượng chúng tôi còn có thể bị các tiềm thủy đĩnh địch phát giác. Tuy nhiên, điều này không đáng quan tâm mấy.

Cuộc họp này kéo dài 2 giờ. Tôi giữ thái độ im lặng và lo âu khi rời buổi họp về Shigure. Yamagari nói với tôi:

"Thưa Đại tá, tôi rất lấy làm khâm phục sự can đảm của Đại tá, qua những ý kiến mà Đại tá đã phát biểu trong buổi họp. Nhưng tôi e rằng tất cả những sĩ quan thuộc hải đội 4 sẽ không bao giờ lưu tâm đến quan điểm của Đại tá."

"Đây không phải chỉ là vấn đề can đảm mà tôi phải phát biểu trong buổi họp, như ý nghĩ của mọi người. Nhưng chính vì mạng sống của nhiều người mà tôi phải nói lên những điều đó. Cuộc hành quân thật ra rất vô lý, nhưng bây giờ tôi chỉ biết làm một việc đơn giản là cầu nguyện cho chúng ta được nhiều may mắn trong sứ mạng mà cấp trên giao phó."

Tôi luôn nghĩ đến buổi họp vừa qua với nỗi buồn sâu xa. Tôi sẽ không bao giờ khuất phục trước chính sách điên rồ của giới chỉ huy tối cao. Giả sử mà quan điểm của tôi được họ lưu ý đến thì hàng ngàn mạng người sẽ được cứu sống ở cuộc hành quân đang phát động và những cuộc hành quân sắp được phát động sau này. Tuy nhiên, tập đoàn chỉ huy tối cao của binh chủng Hải quân có khi nào lại chú ý đến quan điểm của tôi. Sau đó, tôi biết được những lời chống đối rất hữu ích của tôi trong cuộc họp kể trên còn tạo nên rất nhiều chỉ trích trong giới sĩ quan tại căn cứ Rabaul.

Vào 3h sáng ngày 6 tháng 8, chúng tôi rời căn cứ Rabaul tiến về hướng Nam. Mặt biển lặng sóng, bầu trời nhiều mây, thỉnh thoảng những cơn mưa luồng chợt đến, và xen vào đó là ánh nắng chiếu loáng thoáng từng khoảnh trên đại dương.

Lúc 14h30, chúng tôi di chuyển ngang qua đảo Boka. Một trinh sát cơ địch xuất hiện, nhưng rồi mất hút trong mây. Truyền tin của tôi cho biết vừa chặn bắt được một công điện được mã hóa. Có lẽ đây là công điện của phi cơ địch báo cáo hướng tiến của chúng tôi về bộ chỉ huy. Thật ra, cuộc hành quân này không làm cho địch quân phải ngạc nhiên.

Tôi tiếp tục theo dõi soái hạm Hagikaze, để xem Đại tá Sugiura đối phó với tình hình như thế nào. Tôi rất buồn lòng khi thấy chúng tôi vẫn tiếp tục đi theo một lộ trình, và với tốc độ như cũ, dầu rằng địch quân đã phát hiện chúng tôi. Tôi nghiến chặt răng và thi hành nhiệm vụ.

Lúc 19h, chúng tôi tiến vào eo biển Bougainville, xoay hướng 140 độ và gia tăng tốc độ lên 30 hải lý. Hai giờ hai mươi phút sau đó, chúng tôi tiến thẳng vào mặt Đông Bắc của đảo Vella Lavelle. Chiếc Shigure rơi về phía sau, chứng tỏ nó không đủ sức chạy mãi với tốc lực 30 hải lý. Sĩ quan hoa tiêu là Trung úy Toshiro Tsukihara báo cáo với tôi: "Thưa Đại tá, chúng ta ở mãi tuốt đằng sau chiếc Kawakaze đến 1000m, Làm thế nào gia tăng tốc độ để giữ khoảng cách 500m?"

"Không," tôi lớn tiếng, "như thế này được rồi. Thật là điên khùng để giữ khoảng cách 500m. Đừng bắt máy chạy nhanh hơn nữa."

Căn cứ Kolombangara hiện ra thấp thoáng ở mạn phải chiếc Shigure, với ngọn núi cao ngút bao phủ toàn mây đen. Ở mạn trái, tôi không nhìn thấy gì cả ngoài một màu đen kịt mà từ đó địch quân có thể xuất đầu lộ diện bất cứ lúc nào. Tôi cảm thấy hơi nao núng.

Tôi lớn tiếng ra lệnh: :"Sẵn sàng chiến đấu. Tất cả trọng pháo và ngư lôi nhắm về mạn trái, đặt súng ở tầm 3.000m, ngư lôi ở tầm sâu 2m, giác độ 20. Tăng cường gấp đôi các vị trí quan sát."

Mười phút năng nề trôi qua, tôi vẫn nhìn chăm chú về mạn trái xem coi có dấu hiệu hoặc chuyển động nào của địch quân hay không. Tầm nhìn của tôi không xa hơn 2.000m. Sự căng thẳng trên tàu chợt bị xé tan khi tiếng nói từ phòng kiểm soát vang lên qua ống liên lạc nội bộ. Đó là tiếng nói của Đại úy Doi hỏi tôi xem tất cả những ống phóng ngư lôi có phải di chuyển hết từ mạn phải sang mạn trái theo lệnh hay không?

Tôi la lên: "Không".

Và tiếp đó tôi giải thích rõ hơn: "Không di chuyển Doi, ở mạn phải nhìn rất rõ, chúng ta có thể nhìn thấy cả những lớp san hô của đảo Vella Lavella. Nhưng ở mạn trái, chúng ta không thể nào nhìn xa quá 2.000m, chúng ta không biết địch quân ở đâu mà mò. Hãy cứ giữ vị trí các ngư lôi như cũ và riêng hướng tả mạn, sẵn sàng phóng bất cứ lúc nào."

Tiếng nói của tôi chưa kịp dứt, quan sát viên Yamashita la lên: "Những làn sóng trắng! Những vật đen xuất hiện!... Rất nhiều chiếc tàu đang tiến về phía chúng ta!"

Lập tức, tôi ra lệnh cho tàu xoay hẳn về phía phải, đồng thời ra lệnh phóng ngư lôi vào các mục tiêu ở mạn trái. Bây giờ thì những vệt sóng trắng đã hiện rõ trên mặt đại dương. Tôi cảm thấy hơi nao núng, liếc nhìn về phía ba khu trục hạm dẫn đầu. Cả ba đang tiếp tục tiến về phía trước, như không để ý gì những chiến hạm địch đang đâm thẳng đến. Tôi chửi thề! Shigure của tôi vẫn còn lẽo đẽo tận mãi phía sau, cách chiếc Kawakaze đến 1500m. Khoảng 45 giây sau lệnh đổi hướng, Shigure vung sang mạn phải, ngay khi những quả ngư lôi được phóng ra và lướt nhanh trên mặt nước. Lúc đó là 21h45. Khi sắp ra lệnh phóng thêm 8 quả ngư lôi nữa, tôi chợt thấy nhiều quả ngư lôi xé nước chạy về phía chúng tôi. Quả ngư lôi gần nhất chỉ cách tàu chúng tôi 800m. Tôi ra lệnh cho chiếc tàu xoay cấp tốc về phía phải. Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy một cột lửa bốc lên từ khoảng giữa khu trục hạm Arashi, và 2 cột lửa khác từ khu trục hạm Kawakaze. Riêng chiếc tàu dẫn đầu Hagikaze ở mãi tít đằng xa và chạy cùng hàng với hai chiếc tàu phát hỏa, nên tôi không hiểu được tình trạng nó ra sao.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro