1 9 la bat vi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đôi lời về tác giả

Hàn Diệu Kỳ là hội viên của Hiệp hội các nhà văn Trung Quốc. Ông sinh tháng 6 năm 1951 tại thị trấn Công Chủ Linh. Năm 1975 tốt nghiệp khoa trung văn Học viện Sư phạm Tây Bình. Ông đã từng là thành phần trí thức, thương gia, sáng tác gia, biên tập viên, phóng viên, thư ký của Bí thư Ủy ban nhân dân thành phố, nhưng ông hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sáng tác những tác phẩm văn học mang tính ghi chép lại sự thực. Những tác phẩm nổi tiếng: tiểu thuyết "Nơi xa xưa", những tác phẩm chuyên ngành "Diện mạo Mãn tộc đời Thanh". Hiện nay ông giữ chức Phó chủ nhiệm Trung tâm sáng tác văn học tỉnh Cát Lâm, kiêm Tổng thư ký Hội liên hiệp hữu nghị thương - tác gia tỉnh Cát Lâm.

Lời nói đầu

Khi chúng ta dùng ngòi bút của mình để phủi đi những lớp bụi lịch sử trên con người Lã Bất Vi thì chúng ta không những bị thu hút bởi những biến cố thăng trầm rung động lòng người mà con người này đã trải qua, bởi một tình yêu sâu đậm mà còn bị những tư tưởng mới vượt xa hơn người của ông ta lôi vào vòng cuốn. Ví như Lã Bất Vi có khí phách của người anh hùng dám đương đầu với sóng gió. Ông ta và phụ thân của mình đều là thương nhân của nước Vệ. Có lần Lã Bất Vi hỏi cha: "Làm ruộng thì số lời sẽ thu là bao nhiêu?", cha ông ta trả lời: "Một trăm lần"; ông ta lại hỏi tiếp: "Lập một Quốc vương thì có thể thu lợi là bao nhiêu?". Lần này cha ông không biết trả lời sao. Ông ta nói với cha mình rằng : "Lập một Quốc vương thì món lời đó sẽ không thể tính được". Vậy mà trong cuộc chém giết nhau trên chiến trường và tranh giành nơi triều chính, thậm chí đôi lúc mạo hiểm cả tính mạng; nhưng Lã Bất Vi vẫn không hề tỏ ra run sợ, ông ta sẵn sàng đương đầu đón nhận những nguy hiểm đó. Và sau những nỗ lực, gian khổ, cuối cùng ông ta đã thành công. Ví như tư tưởng thiên hạ chi công của Lã Bất Vi trong cuốn "Lã Thị Xuân Thu. Qúy Công" có viết: "Thiên hạ giả, phi nhất nhân chi thiên hạ, thiên hạ chi thiên hạ dã. Âm dương chi hòa, bất tưởng nhất loại, cam lộ thời vũ, bất tư nhất vật; vạn dân chi chủ, bất a nhất nhân". Câu nói này thật hay biết bao. Nó có nghĩa là: Thiên hạ không phải là thiên hạ của riêng ai, mà là thiên hạ của mọi người; khi âm dương kết hợp với nhau một cách tự nhiên thì những vật phẩm được sinh ra từ sự kết hợp đó sẽ không phải chỉ có duy nhất một loại; khí hậu mưa thuận gió hòa thì những sinh vật được hưởng những ưu đãi này cũng không phải chỉ có một loài: chủ của muôn dân cũng không phải chỉ có một người.

Lại ví như chủ trương mai táng của Lã Bất Vi.Ông ta bảo: "Ngày xưa vua Nghiêu sau khi mất đã được chôn cất tại Cốc Lâm, trên mộ trồng vô số cây: Vua Thuấn sau khi mất thì được chôn tại Kỉ Thị và vẫn cho mọi người buôn bán, họp chợ tại nơi đó; vua Vũ thì được chôn tại Hội Kê, cũng không phải sử dụng đến nhân lực, vì vậy tiên vương cũng phải tiết kiệm trong việc chôn cất" (Xem Lã Thị Xuân Thu. An Tử).

Có thể nói một cách không khoa trương rằng những tư tưởng tiến bộ của dân tộc Trung Hoa từ thời xa xưa đều có thể tìm thấy trong quỹ đạo khởi đầu trong thế giới tinh thần của Lã Bất Vi.

Tính cách chính là vận mệnh. Năm 246 trước CN, Tần Thủy Hoàng mới chỉ có mười tuổi đã lên kế vị. Lã Bất Vi nhiếp chính với danh nghĩa "Trọng phụ" và Tướng quốc, và đã trở thành người cầm quyền sinh sát chính thức của nước Tần. Lúc này cũng chính là lúc nước Tần cầm quân đi thôn tính sáu nước và giành được thắng lợi liên tiếp. Trên một góc độ nào đó, thì chính Lã Bất Vi là người đã đặt nền móng cho sự thống nhất thiên hạ của nước Tần.

Mười một năm sau đó, Tần Thủy Hoàng chính thức lên nắm quyền. Lã Bất Vi bị cách chức, cuối cùng trên đường cùng uống thuốc độc tự kết liễu đời mình. Kết cục bị thảm của Lã Bất Vi là do hai mâu thuẫn gây ra. Thứ nhất là mâu thuẫn giữa cái tôi trong tính cách của ông ta. Mâu thuẫn giữa ông ta và Tần Thủy Hoàng là đối lập nhau. Trong cuốn "mười điều phê phán" của Quách Mạt Nhược đã nêu ra mười nội dung: chú trọng việc dùng đức để trị hay dung hình phạt để trị? Quan thiên hạ hay gia thiên hạ, quân chủ chiêu hiền hay là quân chủ cực quyền, tôn sự trọng Nho giáo hay là đốt sách bài Nho v.v... Tần Thủy Hoàng không thể tha thứ cho những ai có ý chống đối với mình, mặc dù người đó là Lã Bất Vi - người cùng dòng máu với mình, người đã giúp ông ta xây dựng cơ nghiệp. Những mâu thuẫn: tiến thủ và trốn tránh, bác ái và nhỏ nhen, khôn khéo và thẳng thắn trong tính cách của Lã Bất Vi. Ví như, ông ta phải ghìm lòng để dâng người thiếp yêu của mình là Triệu Cơ cho Dị Nhân trở thành vua Nước Tần, nhưng tình yêu của Triệu Cơ đối với Lã Bất Vi vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi hai người lén lút gặp nhau thì cái chủ trương kiềm chế và tâm lý phòng nguy hiểm đã khiến Lã Bất Vi phải rời xa chốn buồng the nơi hậu cung và tìm Lao Ái - tên giả hoạn quan để thay thế mình. Hành động rút lui đó của Lã Bất Vi không chỉ tạo ra một khoảng trống trong tâm hồn của Vương hậu mà còn tạo ra không gian quyền lực, rất nhanh Lao Ái đã tạo dựng cho mình thế lực chính trị trong cung. Bị vây chặt giữa hai thế lực là Tần Thủy Hoàng và Lao Ái, Lã Bất Vi không còn sức chống chọi nữa. Con người nếu rơi vào cái mâu thuẫn nội tại của chính bản thân mình thì có thể coi như vô tội, đồng thời với việc tạo dựng và phân tích con người Lã Bất Vi, chúng ta có lý do để thông cảm với nhân vật đầy tính bi kịch này.

Xem tiếp Chương 1 Quyền uy sụp đổ

Một trận mưa không to nhưng không dày và dai dẳng xuống cả vùng Cảo Kinh - kinh đô của triều nhà Chu. Trận mưa mang đến cho mùa xuân 770 trước CN một không khí ẩm ướt.

Một thời gian dài trước đó thời tiết lạnh khô đến lạ kỳ.

Trận mưa kéo dài suốt mười ngày, đúng như dự toán của ông thầy cúng. Mặc dù vậy, trong các ngôi đền, chùa vẫn mù mịt khói hương, người dâng cúng lễ vật và những người cầu mưa đều vui mừng nhìn ra giá ngoài và ê a hát lên bài cầu chúc.

Trong cung Hổ Tước, nơi mà thường xuyên được Chu vương cho sửa sang và quét vôi, những tên lính hầu và đám cung nữ luôn luôn thấy vị Thiên tử Tây Chu này đi đi lại lại. Ông ta thường cáu giận với các triều thần trong triều vì những chuyện không đâu vào đâu, buổi tối cũng không lui tới thẩm cung của các phi tần. Tiếng chuông treo trên mái hiên phát ra những âm thanh trong trẻo cũng không làm ông ta thích thú mà trái lại ông ta cảm thấy rất chói tai, bèn sai người tháo hết những cái chuông đó xuống. Vị Thiên tứ ngũ tuần này biết rằng, tâm tính khó chịu này cũng một phần là tại thời tiết. Dưới bầu trời nắng như thiêu, không có lấy một gợn mây nào ông ta mong ước có một mỹ nhân cùng với mưa xuân bay xuống. Ông ta cũng chẳng muốn quan tâm đến công việc ruộng đồng, trồng hạt. Đống kê, thóc trong kho lương thực của vị Thiên tử họ Chu cũng đủ để nuôi đám hậu duệ cháu chắt mấy đời và đám phi tần, mỹ nhân của ông ta. Hơn nữa ông ta cũng đã khoán mức thuế phải đóng hàng năm cho các chư hầu, riêng chỗ đó cũng đủ cho việc chi tiêu, ăn mặc trong vương thất. Mặc dù như vậy, Chu U vương vần mong chờ mưa xuống, không hiểu tại lý do gì. Thậm chí ông ta còn cho vời rất nhiều thầy cúng danh tiếng đến điện ở cung Hổ Tước để xem bói. Những thầy mo mặt vẽ chằng các hoa văn, họ đem đốt những mai rùa, xương thú còn dính nguyên máu tươi trên những đống than, làm phát ra những tiếng lốp bốp, sau khi nhìn thấy những vết rạn nứt ở phía trên những vật đó thì thiên cơ cho Chu U vương sẽ tiết lộ.

Trận mưa dai dẳng đó đã quét sạch bụi bẩn trên những mái hiên rong rêu trên tường, trên những thềm lan chạm ngọc đồng thời cũng tăng them nhiều màu sắc, dáng vẻ cho những cây liễu, cây mai trong ngự hoa viên của Thiên tử. Mùa xuân đã hiện diện trong tất cả các sự vật. Chu U vương cũng hiểu rỏ rằng, mùa xuân trong ông ta chính là do một người con gái mời vào cung không lâu đem lại. Đột nhiên, Chu U vương cảm thấy tinh thần phấn chấn, trong lòng sảng khoái và thoải mái như bầu trời sau cơn mưa, trong mát và thoáng đãng. Mấy tên thái giám hầu hạ bên cạnh cũng thấy ngạc nhiên. Một Thiên tử thường ngày rầu rủ ủ dột giờ đây dường như đã lột xác thành con người hoàn khác. Ông ta đứng lên đi lại, động tác mạnh mẽ khiến cho chiếc vương miện trên đầu hết nghiêng bên này rồi ngả bên kia.

Một ngày, ông ta cùng với người con gái mới đến hân lạc trong thẩm cung, ông ta cởi từng lớp quần áo trên người nàng, để lộ ra một thân thể trắng muốt như ngọc và họ bắt đầu cuộc vần vũ mây mưa. Đây vừa là "sở trường" vừa là sở thích của Chu U vương. Cô gái sau một hồi run rẩy như bị co giật mới thì thầm với Chu vương: nàng tên Bao Tự, mới 17 xuân xanh. Chu U vương nhận thấy rằng "nghệ thuật" chăn gối của Ba Tự quả không tồi, nàng như được trời phú cho cái tài nghệ này, bèn chỉ báo cho nàng chút ít. Thân hỉnh của ông ta như con rắn, lúc thì quấn quanh lúc thì lật đi lật lại, để cho nàng biết được lạc thú của chuyện gối chăn mà từ trước tới nay nàng chưa từng được biết.

Lúc Chu U vương ôm Bao Tự vào lòng, ông ta để ý tới đôi mắt long lanh và làn môi mọng như trái anh đào của nàng. Từ đó trở đi, đôi mắt và làn môi đó lúc nào cũng quanh quẩn trong đầu Chu vương.

Nhiều năm sau đó, sau khi Chu U vương bị giết chết tại Ly Sơn, Bao Tự trở thành món đồ chơi trong tay của Tây Nhung vương thì cũng là lúc trên các đường phố, ngõ ngách ở Cảo Kinh bắt đầu lưu truyền những truyền thuyết kỳ lạ về Bao Tự.

Ngày trước, vào thời suy vi thuộc nhà Hạ, có hai con rồng thần đáp xuống cung điện của Thiên tử nhà Hạ và cứ quấn ở trên hai cái cột đó không rời "Chúng ta là hai vị tiên vương của nước Bao". Vua nhà Hạ lung túng chẳng biết làm sao, vội mới thầy cúng đến để xin chỉ thị của Thượng Đế là giết, đuổi đi hay mời ở lại. Kết quả của những lần xin đầu đều không được, bèn cầu xin tiếp. Thượng Đế phán phải xin rồng thần ban cho nước bọt, đồng thời phải cất cẩn thận chỗ nước bọt đó, có như vậy mới gặp được sự lành. Hạ vương bèn sai trải ngọc và lụa dưới cái cột trong cung, viết những lời khấn lên các thẻ tre, quì xuống cầu xin: "Kính xin rồng thần hãy ban cho nước bọt, kính xin rồng thần ban cho nước bọt".

Hai con rồng thần đó chấp nhận lời thỉnh cầu của Hạ vương, sau khi để lại nước bọt của mình thì bay đi mất. Hạ vương sai người đựng chỗ nước bọt vào một cái hộp gỗ. Sau khi nhà Hạ bị diệt vong, cái hộp này được truyền đến đời Chu - Trải qua ba đời nhưng không có một vị Thiên tử nào dám mở ra xem. Đến cuối triều vua Chu Lệ, cũng chính là thời ông của Chu U vương, ông này bèn sai người cho mở chiếc hộp đó ra, và không ngờ chỗ nước bọt đó tràn ngập khắp trong cung, không có cách nào dọn sạch được. Lúc đó Chu Lệ vương đang ôm ấp phi tử trong lòng, thấy vậy bèn sai lệnh cho nàng ra sức gọi nước bọt. Đám nước bọt đó bỗng nhiên biến thành một con thằn lằn màu đen, bò vào hậu cung của Chu Lệ vương. Trong hậu cung có một cung nữ rất trẻ, nàng ta dẫm phải bãi nước bọt đó; sau khi trưởng thành, mặc dù không cưới gả cho ai tự nhiên mang thai, sau đó sinh được một bé gái. Cung nữ này rất khiếp sợ bèn đem vứt đứa bé gái đó đi, vào thời Chu Tuyên vương, có một đứa bé gái hát bài ca dao: "Cung nỏ bằng gỗ cây dâu, mũi tên bằng gỗ ki, tiêu diệt sạch nhà Chu". Sau khi Chu Tuyên vương nghe được, ông ta hoang mang hết sức, bèn sai người đi khắp nơi dò hỏi, cuối cùng đã bắt được đôi vợ chồng bán cung nỏ làm bằng gỗ dâu, mụi tên bằng gỗ ki và chuẩn bị hành hình. Đôi vợ chồng nọ tìm đủ lý do để gỡ tội, họ kể trên đường họ gặp đứa bé gái do cung nữ nọ vứt bỏ. Nghe thấy tiếng nó khóc rất tội nghiệp bèn nhặt về nuôi. Đôi vợ chồng nọ đem đứa bé chạy đến nước Bao. Mười mấy năm qua đi, đứa bé nọ giờ đã trở thành một tuyệt sắc giai nhân. Sau này khi người nước Bao đắc tội với Chu U vương, sợ bị nước Chu thôn tính nên đã xin cô gái nọ cống nộp cho nước Chu để tạ tội. Bởi vì cô gái đó lớn lên ở nước Bao nên gọi là Bao Tự. Bao Tự là kết quả của câu chuyện hoang đường: thần rồng hiện hình, chỉ có thể có trong những điển tích của Sầu thời Tần.

Thực ra Bao Tự có nguồn gốc thật của mình. Nàng chính là con gái của một vị đại phu nước Bao, gia cảnh bình thường, là con nhà gia giáo, giỏi đàn hát múa ca. Năm thứ hai đời Chu U vương; ba châu: Kinh Hà, Vị Hà, Lạc Hà bị động đất, trên đường đi chạy nạn nàng đã bị lạc mất người thân, trở thành nô lệ, sau khi kẻ dưới của Chu U vương là Quắc Thạch Phụ mua về. Tên này vốn là một tên bợm quan, suốt ngày chỉ lo cách lấy lòng Chu U vương nên khi thấy Bao Tự tài sắc vẹn toàn, trong những ngày cuối của đợt mưa xuân đó đã dâng Bao Tự cho Chu U vương. Bao Tự vốn là cô gái xuất thân từ gia đình gia giáo, những ước muốn của nàng thật thanh cao, Chu U vương cũng rất biết cách lấy lòng nàng. Bên cạnh thẩm cung của chính cung Hoàng hậu bỗng xuất hiện một tòa nhà to đẹp đàng hoàng, đặc biệt Chu U vương còn cho vời những người văn hay chữ tốt đến để đặt tên cho tòa cung đó và lấy tên là Phụng Minh các. Cùng với tòa cung đó là vô vàn đồ bày biện quý giá, đám kẻ hầu người hạ nhanh nhẹn và một ban nhạc với đàn, trống, ai nấy đều áo quần súng sính. Bao Tự như bị đính chặt vào hậu cung. Trước Phụng Minh các, Chu U vương còn cho trồng vô số loài hoa như mẫu đơn, hoa hồng, hoa cúc, mai vàng, để cùng người đẹp thưởng hoa.

Một người con gái vào cung được sủng ái như vậy khiến cho bao kẻ thầm ghen tức và cũng từ đó trở thành trung tâm của những câu chuyện kỳ quái. Kể từ sau ngày người con gái đa tình ấy vào cung thì hình ảnh của nàng lúc nào cũng quanh quẩn trong đầu Chu U vương. Cả ngày lẫn đêm lúc nào Chu U vương cũng ở lại Phụng Minh các, điều này khiến cho chính cung Hoàng hậu - Thân Hậu và vô vàn các phi tần khác không tránh khỏi sự cô đơn lẻ bóng. Trong cảnh vắng vẻ đó luôn luôn nảy sinh những âm mưu độc ác và những nguy hiểm rình rập xung quanh Bao Tự.

Chính cung Hoàng hậu - Thân Hậu lúc đó chưa đầy ba mươi tuổi, bà ta là chị gái của quốc quân nước chư hầu - Thân Hầu. Bà có hàng lông mày thanh tú nhỏ nhắn, đôi mắt dịu dàng, đẹp nhưng lẳng lơ; thân hình thướt tha, mềm mại như cành liễu trước gió. Dung mạo của bà so với đám phi tần trong cung như con hạc lạc giữa bầy gà. Nhưng tính nhân hậu ở bà lại có phần trội hơn nhan sắc. Lúc vào cung bà mới mười hai tuổi, chỉ là một nàng hầu, do cần cù chăm chỉ nên được cho giữ chức Thế phụ, cai quản việc dâu tằm trong cung, không lâu sau được chọn làm cửu tần của Chu vương. Thiếp, phụ, Tần đều là những kẻ lao động trong cung, cũng là người danh chính ngôn thuận được cùng qua đêm với Thiên tử. Trong "Lễ ký. Hôn nghĩa" có chép: "Ngày xưa, sau Thiên tử lập sáu cung, ba Đại phu, chín Tần, hai mươi bảy Thế phụ, tám mươi mốt Ngự Thế". Thân Hậu được làm phi tần mới có nhiều cơ hội gần gũi Chu U vương, sau khi được sủng ái thì sinh hạ được Thái tử Nghi Hữu và được lập làm Hoàng hậu.

Sau khi trở thành chính cung Hoàng hậu, Thân Hậu càng tỏ rõ sự hiền đức và càng cần cù cố gắng. Chu U vương thì bỏ bê công việc triều chính, thậm chí càng ngày càng đam mê tửu sắc, không để ý, quan tâm đến việc học hành của Nghi Hữu. Thân Hậu mời một thầy văn, một thầy võ vào cung dạy Thái tử học. Thầy dạy võ tên là Tản Nghi Quảng, tính tình tuy hiền lành nhưng khí phách rất cương trực, về tài kếim thuật hay võ thuật có thể nói vô địch thiên hạ. Thầy dạy văn tên Kế Nhiên, tài học uyên thâm, tính tình khảng khí trung thực. Kế Nhiên hơn Thân Hậu hai tuổi nên được bà coi như huynh trưởng và là người tâm phúc của mình. Mặc dù được hai vị thầy giỏi ở bên ngày đêm dạy bảo nhưng Thân Hậu vẫn thường lui tới để giám sát việc học hành của Thái tử, thậm chí mỗi lần Nghi Hữu học xong trở về, Thân Hậu đích thân kiểm tra những bài mà Thái tử đã học. Do hay phải lật giở những cuốn sách bằng tre nên đôi tay của Thân Hậu bị tre đâm chảy cả máu. Nghi Hữu thông minh nhân hậu, phong thái đĩnh đạc, thêm vào đó ngày ngày được hai thầy và Thân Hậu kèm cặp nên phẩm chất, văn chương, binh kiếm... tiến bộ rõ rệt. Mỗi lần Chu U vương đến thăm, Nghi Hữu lại nhanh trí đọc cho phụ vương nghe một bài văn, múa một bài kiếm, Chu U vương vui đến mỗi lớn tiếng cười to. Tiếng cười của Chu U vương vang vọng khắp trong điện, khiến cho những vị đại thần đang khoanh tay ngồi đợi lệnh và đám cung nữ nhìn nhau ngơ ngác, cùng ngước mắt nhìn cái gia đình gồm ba con người chí cao vô thượng này.

Kể từ ngày Bao Tự vào cung thì chẳng thấy bóng dáng và tiếng cười của Chu U vương bên cạnh hai mẹ con Thân Hậu đâu nữa. Lúc đầu Vương hậu tỏ ra vô cùng khó chịu, oán hận Chu U vương bội phần, suốt ngày than ngắn thở dài không thiết ăn uống, thân hình tiều tuỵ. Dần dần về sau, nhờ những lời an ủi khuyên bảo hết lời của Kế Nhiên nên Thân Hậu cũng quen dần với sự lạnh nhạt, cô đơn. Nhưng Thân Hậu lại lo rằng Chu U vương quá sa đà vào khoái lạc thâu đêm suốt sáng như vậy, không những ảnh hưởng đến long thể mà còn buông lỏng kỷ cương, khiến cho cơ đồ mà tiên vương tạo dựng sẽ sớm muộn tiêu tan. Mỗi lần nghĩ đến điều này, lòng bà nóng như lửa đốt. Có lúc ba tháng không được gặp mặt Chu U vương, hoặc nếu có gặp được thì lại bị Bao Tự và đám vũ nữ trong cung mê hoặc đến hồn xiêu phách lạc, tinh thần mệt mỏi nên không còn tâm trí và hứng thú để nghe những lời chỉ giáo của Thân Hậu, nào là đạo trị quốc, dưỡng sinh... Thời gian trong cung Hổ Tước cứ lặng lẽ, vô tình trôi đi nhanh chóng. Thấm thoắt Nghi Hữu giờ đây đã tròn mười sáu tuổi, ngày mai, ngày 18 tháng 5 sẽ là sinh nhật của Thái tử. Thân Hậu muốn tổ chức lễ sinh nhật của Thái tử thật to, thật long trọng, có lẽ chỉ có lần sinh nhật này hai mẹ con nàng mới có dịp đoàn tụ với Chu U vương và cũng là cơ hội để khiến cho Chu U vương hồi tâm chuyển ý.

Trong một buổi sớm tràn đầy hy vọng và niềm hứng khởi như vậy, Thân Hậu cũng dậy sớm hơn so với mọi ngày. Sau khi trang điểm một cách rất kỹ càng, bà bắt đầu sai người đi trang trí. Buổi sớm ban mai vẫn chưa sáng tỏ; chỉ nhìn thấy bóng người lờ mờ, lay động đang chăng đèn kết hoa, bày biện, dọn dẹp. Nghi Hữu hôm nay cũng quần áo xúng xính, phong thái mạnh mẽ, đĩnh đạc, đến vấn an mẫu hậu từ rất sớm. Sau khi mọi thứ đều được chuẩn bị tươm tất, Thân Hậu đích thân đến mời Chu U vương. Đến cung Hổ Tước thì được biết Chu U vương ở chỗ Bao Tự tại Phụng Minh các. Thân Hậu đến Phụng Minh các thì gặp hai tên lính gác đang canh giữ trước chính điện, thấy bà đến chúng bèn chặn lại không cho vào. Thân Hậu thẹn quá hóa giận, một tên lính gác quèn quả là mắt không tròng, không còn nhận ra được một vị mẫu nhi thiên hạ nữa! Tên lính gác mặt nhỏ thó vội quỳ xuống, nói như muốn khóc: "Khởi bẩm Hoàng hậu nương nương, xin hãy tha tội cho chúng thần, Thiên tử đã có chỉ không cho bất cứ ai vào nếu kháng lệnh sẽ bị xử trảm, bất cứ người đó là ai, xin nương nương hãy giữ gìn hai cái đầu của chúng thần mà lui bước!"

Thân Hậu sau khi suy nghĩ một lát mới bảo: "Vậy thì được thôi, hãy vào bẩm với Thiên tử điện hạ rằng hôm nay là sinh nhật của Thái tử, lễ mừng đã chuẩn bị xong, mời thánh giá đến tham dự".

Tên lính gác nọ cao giọng truyền những lời của Hoàng hậu tới thái giám của Phụng Minh các. Sau một hồi lâu, thái giám lại truyền đạt ý chỉ của Thiên tử tới Hoàng hậu: "Bẩm Vương hậu nương nương! Hoàng thượng bảo hiện Hoàng thượng không được rảnh rỗi, mời Hoàng hậu nương nương và Thái tử cứ tiến hành buổi lễ!"

Vương hậu giận tím mặt, nước mắt tuôn rơi. Bà hiểu rõ tính cách bảo thủ cố chấp, nóng lạnh thất thường của Chu U vương, nếu làm không theo ý ông ta thì tất sẽ có kết quả chẳng tốt đẹp gì.

Mặt trời đã lên tới nóc lầu Phụng Minh các, ánh nắng chiếu vào nóc lầu tỏa ra những tia xanh vàng rực rỡ, còn Thân Hậu thì mặt mày ủ dột. Một cung nữ đứng bên cạnh đi lên trước để dìu bà nhưng bị bà từ chối, đứng được một lúc, bà quay gót lui ra. Vừa đi bà vừa nói một mình: "Thật khiến người ta khó lòng tha thứ".

"Vương hậu nương nương tại sao lại phải cam chịu rút lui như vậy chứ?" Một giọng nói chua cay từ phía sau Thân Hậu vọng lại.

Thân Hậu quay lại, hóa ra là phu nhân Tề Dư. Vị này vốn là nàng hầu hạng thấp của nước Tề, mồm mép nhanh nhảu, tư chất thông minh, hồi trước hay giở trò vặt để thu hút sự chú ý của Chu U vương. Kể từ hồi Bao Tự vào cung thì hoàn cảnh của nàng ta cũng không khác gì Thân Hậu, một mình một bóng, phòng đơn gối chiếc. Thân Hậu thấy mặt nàng ta lột đầy vẻ ghen tuông, thật không ngờ được rằng sau khi Tề Dư bị đối xử lạnh nhạt lại trở nên thù hận, tức tối lồng lộn điên cuồng đến như vậy.

Thân Hậu vội dừng bước, thân mật nắm tay nàng ta nói: "Đại vương sủng ái Bao Tự, chúng ta làm gì được Đại vương cơ chứ?"

Tề Dư tức tối: "Chúng ta không làm gì Đại vương, nhưng phải nghĩ cách để trị cái con tiểu yêu tinh kia chứ! Nói xấu nó, mắng nó, mời thầy bỏ bùa, dùng âm khí để bắn chết nó, dùng thuốc độc để đầu độc, làm cho nó khó ăn khó ở, ăn không ngon ngủ không yên, phát mủ chảy máu, khiến cho nó đau đớn, nói năng linh tinh rồi sẽ chết!"

Thân Hậu cười nói: "Tề phu nhân cũng chỉ nói cho bõ tức thôi, có giỏi thì làm thật cho ta xem xem".

Đôi mắt Tề Dư đưa đi đưa lại, giảo hoạt nói: "Đúng thật, đúng thật! Cũng chỉ là lời nói chút lưỡi đầu môi, nói thì ai mà chẳng nói được. Thôi chẳng bàn đến chuyện này nữa. Hôm nay là sinh nhật của Thái tử, em cũng đến để cùng chị chung vui, em cũng có món quà xin chúc mừng!"

Thân Hậu đứng một mình ở hành lang hậu cung đang mải suy nghĩ thì bị một cung nữ va phải. Mấy ngày nay, tâm tư của Thân Hậu đang mải nghĩ về chuyện của Chu U vương và Bao Tự, nên lúc đi lại hay làm việc gì đều không để tâm.

Bị va mạnh bà như chợt tỉnh giấc mộng, nhìn kỹ hóa ra con hầu tên Quyên Chi mới vào Phụng Minh các. Đứa cung nữ mặt vẫn còn nét ngây thơ này vội vàng giấu bó rau dại đang ôm trong lòng, nhưng không ngờ dải váy bị tụt nên bó rau rơi hết xuống đất. Quyên Chi biết đã đụng phải thánh giá của Hoàng hậu nên vội quỳ xuống tạ tội. Thân Hậu nhặt bó rau dại đó lên, đó là rau hao tử tên là hương chi bồng. Hồi nhỏ lúc còn ở quê nhà bà cũng thường nhìn thấy loại rau này ở vùng sơn dã, từng khóm từng khóm một, mọc khắp cả vùng núi, khi ra hoa trông rất rực rỡ, hương thơm bay khắp nơi. Nhưng lá và cành của loại hoa này vô cùng độc, nếu dùng nước ngâm cành hoặc lá cây này trộn với thức ăn thì sau khi chuột ăn phải lập tức chết ngay. Thân Hậu trả lại những thứ đó cho Quyên Chi nói: "Bọn trẻ các ngươi đều không biết được loại rau này rất độc, đừng đem nó ra làm trò chơi".

Quyên Chi đỡ lấy bó rau vội vàng nói mấy tiếng "Tạ ơn Vương hậu nương nương" rồi đứng dậy đi tiếp.

Khi Thân Hậu về đến cung thì thấy Nghi Hữu đùng đùng nổi giận cùng thầy Kế Nhiên kể cho bà nghe một chuyện mà mọi người trong cung đều đang bàn luận. Nước Tần dùng vũ lực để cướp mất lúa mạch của nước Bao, nay nước Bao quyết định tấn công nước Tần. Để rút ngắn đường đi nên phải mượn đường đi qua Phong Cảo. Tướng quân của nước Bao hết sức lo sợ vội đến Phong Cảo, nhưng không gặp được Chu U vương bèn cống đến hàng trăm lượng vàng, 10 con ngựa tốt, châu lụa 10 thếp, mỹ nữ 10 cô cho Quắc Thạch Phụ. Quắc Thạch Phụ vốn biết Bao Tự đến từ nước Bao nên đã nhận món lễ vật đó và nhận lời. Hai mươi vạn quân của nước Bao, chiến xa thì chắc ngựa chiến thì sung mãn hùng hùng hổ hổ tiến qua Phong Cao, đến thành Bình Dương của nước Tần sớm hơn hai ngày. Trong thành Bình Dương chỉ có một vạn quân binh. Tần vương cũng không ngờ rằng quân nước Bao tiến đến thần tốc như vậy, đợi đến khi quân tiếp viện không quản ngày đêm đến được thành Bình Dương và sau khi thành Bình Dương bị công phá thì vội ôm của cải, lương thực gái đẹp chạy ra khỏi thành Bình Dương.

Thân Hậu nghe xong, bán tín bán nghi hỏi lại: "Chuyện này có thật sao?"

Kế Nhiên miêu tả sinh động: "Hai mươi vạn đại quân của nước Bao khí thế hừng hực, khi đi qua Phong Cảo thì bụi bay mù trời, phủ dầy cả các mái ngói của thái miếu. Dân trong thành chen chúc nhau người đông như nêm đứng hai bên đường xem cảnh náo nhiệt".

Nghi Hữu nói: "Quả đúng như vậy".

Thân Hậu nghe xong rất đỗi lo sợ: "Nếu quả thật Quắc Thạch Phụ cho giặc đi qua thì quả là đã vượt quá quyền hạn của ông ta mà làm càn rồi!"

Kế Nhiên khẳng khái bẩm: "Khởi bẩm Vương hậu nương nương, không chỉ có như vậy mà nguy hại hơn là việc cấu kết với vua Tần sẽ gây họa lớn cho nước Chu ta!"

Nghi Hữu tiếp: "Việc này có lẽ phụ vương cũng chưa biết!"

Trong lúc ba người còn đang bình phẩm việc cho nước Bao mượn đường thì tên thái giám thường hầu ạh bên cạnh Chu U vương sấp sấp ngửa ngửa đến gặp Thân Hậu, mời Thái tử Nghi Hữu và Kế Nhiên vào triều nghị sự. Hóa ra, nước Tần bị lâm vào thế bất lợi, sau khi biết rằng nước Chu cho nước Bao mượn đường thì Tần vương trong lúc tức giận đã phái hai mươi vạn quân bao vây chặt Phong Cảo, bắt Chu U vương phải bồi thường tổn thất với hàng nghìn lượng châu báu.

Khi Quắc Thạch Phụ mặt cắt không còn hột máu bẩm báo với Chu U vương rằng quân Tần đã bao vây chặt Phong Cảo thì Chu U vương đang ở trong Phụng Minh các cùng Bao Tự hát múa hưởng lạc. Sau khi nghe bẩm báo, Chu U vương tưởng như sấm đánh bên tai, sợ quá toàn thân toát cả mồ hôi. Ông ta vội vàng đẩy người đẹp như tiên giáng thế ra, bắt bọn thái giám và lính hầu dìu mình lên thành để nhìn xuống phía dưới. Ông ta nhìn thấy quân Tần đông như nêm, bụi bay mù trời, rợp cả trời cờ Tần, áo giáp sáng loáng, bài binh bố trận, chiến xa san sát. Chu U vương căm phẫn nói: "Lại một phen làm loạn nữa rồi!"

Vị Thiên tử của Chu triều này vẫn không biết trên núi Ly Sơn đang dành cho ông ta một nơi yên nghỉ ngàn thu. Còn lúc này ông ta đang khoa chân múa tay đạo diễn một màn kịch sử diệt vong "quyền lực bá vương như mặt trời gác non tây".

Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước CN, Chu Vũ vương Cơ tiêu diệt Thương Trụ lập nên triều Chu, sau đó nối tiếp nhau các đời Vũ vương, Thành vương, Khang vương, Chiêu vương, Mục vương, Công vương, Ý vương, Hiếu vương, Di vương, Lệ vương, Tuyên vương, U vương, tổng cộng mười hai đời. Hồi đó toàn bộ ruộng đất và nô lệ trên cả nước đều thuộc về quyền sở hữu của Thiên tử Chu.

Đúng như trong cuốn "Thư Kinh. Bắc Sơn" có viết rằng: "Ruộng đất trong khắp thiên hạ, không đâu là không thuộc đất của vua; còn ở những vùng duyên hải là thuộc quyền cai quản của vương thần". Thiên tử Chu phân cho tầng lớp quý tộc dưới mình những người có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ thân thuộc với Thiên tử các vùng khác nhau của mọi miền đất nước. Những người này được gọi là chư hầu; các chư hầu lại cử những người có quan hệ huếyt thống hoặc họ hàng thân thích đến cai quản các vùng đất được phân, những người này được gọi là Khanh hoặc Đại phu; những Khanh hoặc Đại phu lại tiếp tục phân đất cho những người có quan hệ huyết thống hoặc họ hàng thân thích đến cai quản các vùng được phân, những người này được gọi là Sĩ hoặc Gia thần... Cái kết cấu xã hội thời Chu về chế độ phân chức vị, phân đất đai này cũng giống như một mô hình của Kim tự tháp. Chu vương là người cao nhất có quyền uy tối cao, chỉ cần ban bố mệnh lệnh cho các Chư hầu thực hiện, vênh mặt hất hàm sai khiến, có quyền lực vô song. Lễ nhạc, chinh phạt chỉ cần Chu vương nói một tiếng là đâu vào đấy. Các Chư hầu có nghĩa vụ là ngoan ngoãn vâng lời, phục tùng mệnh lệnh. Khi Chu Di vương lâm bệnh, thì các Chư hầu phải tổ chức buổi tế lễ tại nước mình cai trị, cầu cho Chu vương tai qua nạn khỏi. Nếu các Chư hầu có điều gì bất cẩn thì sẽ bị Thiên tử Chu trừng phạt nghiêm khắc. Tề Ai hầu chỉ biết suốt ngày săn bắn, du ngoạn, hoang dâm, không hiểu lễ pháp, Chu Di vương liền cho triệu tập các Chư hầu lại, lôi Tề Ai hầu ra ném vào đỉnh dầu ngay trước mặt các đại thần, bọn Chư hầu thất kinh khiếp đảm, mặt trắng bệch cắt không còn giọt máu. Nhưng đến cuối thời Chu, đặc biệt là thời Chu U vương mà chúng ta vừa nói đến ở trên, sau khi ông ta bị giết hại thì chín cái đỉnh cửu đỉnh bị đổ theo, miếu tổ tông cũng hoang vắng, vương quyền sụp đổ, hữu danh vô thực. Hàng trăm các Chư hầu lớn bé đều không thèm quan tâm đến Thiên tử nữa. Họ bắt đầu tranh giành nhau, chém giết lẫn nhau. Theo sự ghi chép cúa cuốn "Xuân Thu", trong vòng hai trăm bốn hai năm có bốn trăm tám ba cuộc chiến tranh giữa các Chư hầu, có năm trăm linh bốn cuộc họp liên kết đồng minh của triều đình.

Lã Bất Vi được sinh ra giữa lúc vương quyền của Tây Chu phát triển lên đến đỉnh điểm và bắt đầu chuyển sang xã hội chính trị đa trị: Xuân thu chiến quốc.

Khổng Tử người nước Lỗ, đã từng chu du khắp vùng núi nước Tần khi đi du ngoạn nhìn những đám mây lơ lửng đã có bài văn rằng: "Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên tử xuất; Thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Chu hầu xuất. Tự Chu hầu xuất, cái thập thế hy bất thất hĩ; tự Đại phu xuất, ngũ thế hy bất thất hĩ; bồi thần chấp quốc mệnh, tam thế hy bất thất hĩ. Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị". Vị thánh nhân nhìn xa trông rộng này nói thật sâu xa, nếu chúng ta đi sâu vào giải thích thì câu trên có nghĩa: "Ví như thiên hạ thái bình thì những việc như lễ, nhạc, hiệu lệnh chinh phạt... đề do Thiên tử quyết định; nếu như thiên hạ hỗn loạn thì việc lễ, nhạc, chinh phạt là quyết định bởi các Chư hầu. Khi Chư hầu quyết định việc lễ, nhạc, chinh phạt thì đến khoảng đời thứ mười rất hiếm có người kế tiếp; nếu những việc đó do Đại phu quyết định thì rất hiếm truyền được đến đời thứ năm. Nếu như Gia thần của Đại phu nắm quyền lực quốc gia thì rất ít truyền được đến đời thứ ba. Thiên hạ thái bình, quyền uy không còn nằm trong tay của Đại phu, nếu như vậy, thì nhiều người sẽ không bàn tán xôn xao". Chúng ta hãy lấy luận đoán này trong cuốn "Luận ngữ, Lý Thị" của Khổng Tử để phân tích cục diện của Xuân thu chiến quốc, thì quả là Khổng Tử đã thật sự thấy trước được đặc trưng phát triển của thời đại. Vậy mà sự phát triển này lại đi ngược với những lý tưởng chính trị của vị đại thánh nhân này. Lễ, nhạc, bị bại hoại. Kỳ lân [1] con vật được tôn quý như vậy cũng bị mọi người tranh nhau săn bắn, Khổng Tử cũng không thể làm gì được chỉ biết than dài: "Cái đạo của chúng ta hỏng thật rồi!"

Chu U vương từ đầu thành trở về đại đường trong cung Hổ Tước. Mặt ông ta hầm hầm, cáu giận với bá quan văn võ dưới điện, quăng hết những bản tấu nghiên, bút... xuống đất, bọn cung nữ đứng sau đứa nào đứa nấy thất kinh biến sắc. Sau một lúc im lặng, Chu U vương lo sợ đảo mắt khắp cả quần thần dưới điện, cuối cùng mới cất lời: "Tần vương quả là một kẻ vong ân bội nghĩa! Quả nhân đối đãi với anh ta không còn gì đáng chê trách, giúp anh ta liên minh các chư hầu, hơn một trăm quốc quân chọn hắn làm minh chủ; thanh minh tổ chức tế lễ cũng mời hắn đến tham dự; mỗi lần quả nhân ban thưởng đều không quên phần của hắn; mùa thu khi đi săn bắn còn mời hắn ngồi trên chiến xa của quả nhân... Nhưng tên loạn thần tặc tử này lại lấy oán đền ơn, dấy binh thảo phạt quả nhân!"

Quắc Thạch Phụ quỳ xuống bẩm: "Lời của Đại vương thật có lý, hiện nay việc cấp thiết trước tiên là phải điều binh để bảo vệ xung quanh Cảo Kinh, đánh tan quân Tần để bảo vệ sự an toàn của xã tắc".

Kế Nhiên cướp lời: "Quân binh trong thành Cảo Kinh chưa đầy mười vạn, nếu đánh một trận lớn với quân Tần thì như trứng chọi với đá thôi. Bây giờ chỉ còn cách tới núi Ly Sơn đốt lửa báo động, gõ chiêng đánh trống để triệu tập các Chư hầu lại, kêu họ phái binh tới cứu giá!"

Đối với một tên vua không bao giờ quan tâm đến việc triều chính như Chu U vương như vậy nhưng khi ra lệnh thực hiện biện pháp của vị đại thần học sĩ cũng không lấy gì làm khó khăn lắm, vội phái binh tướng đến Ly Sơn trước. Chu U vương thấy các triều thần của mình hành quân thần tốc như dòng chảy xiết liền tưởng tượng khi đến nơi sẽ có hàng nghìn vạn quân tướng đứng hai bên những con đường nhỏ uốn lượn như rắn để nghênh đón thánh giá lên Ly Sơn.

Ngọn núi Ly Sơn cao chót vót, cỏ cây um tùm, đá núi lởm chởm. Trên đỉnh núi cao tít có mấy chục cái nồi, đặt mấy chục cái trống lớn. Đây là di tích để lại từ đời Chu Lệ vương; hồi đó bởi vì Tây Nhung rất hùng hậu, nhiều lần đánh phá Cảo Kinh nên ông cho xây dựng những thiết bị này để tiện cho việc triệu tập các Chư hầu xung quanh. Mỗi khi có việc quân cấp bách bèn cho đốt phân sói trong những cái nồi đó; khói bốc tận lên cung mây, các nước Chư hầu thấy vậy liền xuất binh tướng cứu. Rồi lại đánh chiêng đánh trống nhằm giục quân nhanh đến.

Số quân sĩ mà Chu U vương phái đi đã lên đến núi Ly Sơn, châm lửa đốt cháy những đống phân sói trong nồi, một mùi tanh và khai tỏa khắp sơn cốc, những cột khói cao to lượn lờ bay lên. Tiếp đó là tiếng trống vang trời động đất. Các Chư hầu ở gần Cảo Kinh nhìn thấy tín hiệu trên núi Ly Sơn biết là Thiên tử đang gặp nguy hiểm, nên vội vã xuất quân. Nước Sở điều năm vạn quân, nước Trịnh bảy vạn, nước Tề ba vạn, nước Hoạt năm vạn, nước Ngu năm vạn, Thân quốc mười vạn. Thống soái của Thân quốc chính là Thân hầu, em của Thân Hậu. Hàng mấy trăm nghìn quân tướng của các nước Chư hầu rầm rộ kéo đến. Những vị tướng soái tinh nhuệ này khi giáp chiến với quân Tần thì liền hạ lệnh cho quân sĩ bài binh bố trận. Trống trận âm vang, tiếng ngựa chiến hí ầm trời, tiếng kêu la của các tướng sĩ dội lên tận trời xanh. Nhìn qua đã thấy quân Tần nhuệ khí giảm đi rõ rệt, thế trận hỗn loạn. Cướp lấy thời cơ này, tất cả các tướng quân của các nước Chư hầu đồng loạt hạ lệnh tấn công, hàng vạn quan, mà như hổ đói vồ mồi tiến đánh quân Tần. Lúc đó thế trận quân Tần rối loạn, xác chết như rạ trên chiến trường. Cuộc chiến đẫm máu giữa hai bên diễn ra trong vòng ba canh giờ thì kết thúc, sự thất bại nặng nề của quân Tần đã bắt đầu chấm hết cho cuộc chiến.

Trong lúc bại trận quân Tần đang lặng lẽ thu dọn chiến trận rút khỏi Cảo Kinh thì cũng là lúc trong cung Hổ Tước Chu U vương đang cho bày tiệc thưởng công chiến thắng. Sau khi Chu U vương hớn hở ban thưởng cho các Chư hầu và những triều thần có công thì những tiếng hô "Kính chúc Quốc vương vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!", vang lên như sấm dậy. Lần đầu tiên được chứng kiến cảnh tượng huy hoàng như vậy, Bao Tự không cầm nổi nước mắt, sau lúc phấn chấn nàng phải đứng dậy múa hát bài "Văn vương hữu thanh". Tiếp nối những lời dạo đầu tưởng như đứt hơi khản tiếng của Quắc Thạch Phụ thì hàng trăm vũ nữ đẹp như tiên nga bắt đầu xuất hiện hai bên chính điện.

Bao Tự lộng lẫy và diễm lệ bước ra khỏi bàn tiệc tiến dần đến đại sảnh, nàng đứng giữa đám vũ nữ quả thật như hạc đứng giữa bầy gà, trong tiếng đàn nhạc như đinh tai nhức óc thì vang lên tiếng hát:

Văn vương hữu thanh,

Duật tuấn hữu thanh,

Duật cầu quyết ninh,

Văn vương chủng tai!

Văn vương thọ mệnh,

Hữu thử võ công,

Ký phạt vu sùng,

Tác ấp vu phong,

Văn vương chủng tai! [2]

Vào lúc này lựa chọn bài hát ca ngợi Văn vương diệt xong Sùng dời đô đến Phong, Võ vương sau khi dẹp yên Trụ thì định đô tại Cảo, hai việc lớn này thật là quá hợp. Thêm vào đó là sự biểu diễn uyển chuyển của Bao Tự trong điện không ngớt lời ca ngợi, tán thưởng. Nàng Bao Tự kiều diễm biết rằng những lời tán thưởng đó đều dành cho nàng nên điệu múa lại càng uyển chuyển, khuôn mặt càng thêm phần rạng rỡ.

Sau khi màn hát múa kết thúc, Thân Hầu vốn đã đứng ngồi không yên nay lập tức đứng dậy nói để các quần thần nghe thấy: "Khởi bẩm Đại vương, trong buổi lễ long trọng mừng chiến thắng này, thần được Đại vương ban tặng nên thấy vui mừng hết sức. Thần nghe nói, thưởng phạt phải phân minh, có như vậy mới cai trị đất nước một cách anh minh được. Lần này quân Tần dấy binh làm loạn, vây phá Cảo Kinh, đó là do triều đình ta đã cho nước Bao mượn đường. Theo thần được biết đây hoàn toàn không phải là thánh ý của Đại vương, mà có kẻ mạo giả thánh chỉ! Đối với những kẻ to gan không coi Đại vương ra gì như vậy cần phải nghiêm trị, để tránh hậu họa về sau!"

Những việc như Chu U vương sủng ái Bao Tự, lạnh nhạt với Thân hoàng hậu, Quắc Thạch Phụ lạm dụng quyền thế cho nước Bao mượn đường... Thân Hầu trong cung cũng đều biết hết, sau lần xả thân cứu giá lần này, ông bèn ở lại cung Thân Hậu nghỉ ngơi và ông ta cũng được biết qua lời kể của Hoàng hậu.

Con người nhanh trí như Quắc Thạch Phụ đã hiểu được ngầm ý của Thân Hầu nên vội đứng lên cùng đối chất với Thân Hầu: "Thân quốc quân, tiểu nhân không hiểu ngài nói ra những điều này là có ý gì? Lẽ nào ngài lại có ý muốn trách sự quyết đoán anh minh của Đại vương sao?"

Ý tứ sâu xa của Quắc Thạch Phụ chính là muốn nói việc cho nước Bao mượn đường là thánh ý của Chu U vương, những lời nói gian trá, hoàn toàn bịa đặt này đã khiến cho toàn thể triều thần xôn xao bàn tán.

"Nhà ngươi đã giả truyền thánh chỉ!" - Thân Hầu mặt đỏ tía tai quát lớn.

"Nhà ngươi có chứng cứ gì cho là Đại vương không ban thánh chỉ này?" - Quắc Thạch Phụ thản nhiên hỏi lại.

Cuộc tranh cãi giữa hai vị đại thần làm Chu U vương như bị rơi vào đám sương mù, ông ta lẩm bẩm một mình: "Quả nhân nhận lời chuyện này từ bao giờ chứ?"

Quắc Thạch Phụ nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác của Chu U vương nên đã nhân cơ hội đó tiếp: "Khởi bẩm Đại vương, hôm đó lúc Đại vương cùng phi tử Bao Tự đang ngắm hoa mai ở trong Ngự hoa viên, hạ thần đã dẫn quốc quân của Bao quốc đến yết kiến Đại vương nhưng Đại vương không tiếp, người hỏi thần có việc gì. Thần thưa, quân binh nước Bao muốn mượn đường qua Cảo Kinh của ta. Đại vương bảo thì cứ cho họ mượn là xong!"

Quắc Thạch Phụ nói xong, bèn đưa mắt nhìn Bao Tự cầu xin sự cứu viện, Bao Tự hiểu ý, cũng thêm vào: "Đại vương người quên rồi sao, đúng là có chuyện ấy. Lúc đó thiếp còn nói đùa một câu rằng không thể cho mượn không được mà phải trả tiền mua đường".

Chu U vương đã nói như vậy thì Thân Hầu cũng không tranh luận thêm nữa. Nhưng trong lòng Thân Hầu hiểu rõ Quắc Thạch Phụ và Bao Tự đã thông đồng với nhau, lừa gạt Thiên tử nhằm che đậy những sai trái. Bản nhạc thứ hai bắt đầu cất lên nhưng Thân Hầu không còn hứng thú gì nữa bèn cáo từ, đến thẩm cung của chị gái nghỉ ngơi. Thân Hầu thấy chị gái mặt mày ủ dột, khí sắc kém tươi bèn bảo ngày mai khi khởi quân về nước sẽ xin cho Thân Hậu về cố quốc để giải phiền cho khuây khỏa. Thân Hậu bảo việc này phải xin ý của Đại vương. Nhưng Kế Nhiên đứng bên cạnh nhắc Hoàng hậu rằng, năm ngày nữa sẽ là tết trùng cửu (ngày 9 tháng 9), Đại vương phải đi tế lễ. Mỗi lần như vậy, Hoàng hậu nương nương cũng phải đi cùng.

Trước lúc Thân Hầu và chị gái mình chia tay, Thân Hậu vẫn lưu luyến không muốn rời, dặn dò em trai đợi khi nào cùng Đại vương cúng tế xong sẽ về Thân quốc để giải phiền tĩnh dưỡng. Thân Hầu để ý thấy rằng tuy nói những lời này nhưng trên nét mặt chị gái mình đang giấu một nỗi buồn mà từ trước tới nay Thân Hầu chưa thấy bao giờ, thật kỳ lạ và khó hiểu. Nhưng cuối cùng Thân Hầu cũng hiểu ra cái điều mà chị gái mình đang thiếu.

Cái bụng Bao Tự mỗi ngày một lớn và cuối cùng đã sắp đến ngày khai hoa kết quả. Trước khi đứa bé được ra đời thì tin không biết từ đâu đưa đến rằng: Chu U vương đã nhận lời với Bao Tự, nếu sinh con trai sẽ lập đứa bé làm Thái tử. Lời đồn đại như vậy truyền đi mọi nơi và đến tai Thân Hầu và nó như tiếng sét ngang tai Thân Hậu và Nghi Hữu. Nghi Hữu như con kiến bị ném vào mồi lửa, nóng lòng muốn đi tìm Thân Hầu để cùng bàn bạc đối sách. Những tin đồn nhảm rác rưởi đó khiến cho Thân Hậu đau đớn vô cùng, ngày ngày than khóc. Kế Nhiên không tin lắm vào lời đồn này, ông nói với Thân Hậu và Nghi Hữu rằng, Bao Tự sinh con trai hay con gái giờ đây vẫn còn chưa rõ, làm sao có căn cứ gì để nói đến việc lập Thái tử. Hơn nữa, việc lập Nghi Hữu làm Thái tử, Đại vương đã tuyên chiếu khắp thiên hạ. Thiên tử đại Chu, nhất ngôn cửu đỉnh, làm sao có thể sớm ra lệnh tối lại bãi bỏ được? Huống hồ Nghi Hữu giữ gìn phép tắc, chuyên tâm học hành, văn thao võ lược, khoan hậu yêu dân, phàm những ai đã từng tiếp xúc với Thái tử đều phải kính nể, phế cũ lập mới, có cái gì làm căn cứ.

Cho dù câu nào của Kế Nhiên cũng đều có lý, vô cùng sắc sảo nhưng Thân Hậu vẫn cảm thấy không yên tâm, tư tưởng không tập trung, bà muốn yết kiến Chu U vương để hỏi rõ nguồn cơn.

Hôm nay, Thân Hậu lấy tất cả vàng bạc chấu báu, đồ tế nhuyễn cất từ trong rương ra. Trong đó vẫn còn hai xếp lụa màu mà bà thích nhất. Khi bà vuốt lại tấm lụa mát như ngọc ấy, một ý nghĩ bỗng hiện ra. Bà sai cung nữ mang hai xếp lụa này đến Phụng Minh các, bà muốn đem tấm lụa quý mang từ nước Tề này tặng cho Bao Tự, có lẽ như vậy sẽ biết thêm chút gì đấy.

Thân Hậu đến Phụng Minh các thì đã có cung nữ thông báo cho Bao Tự biết. Bao Tự đi đến hành lễ với Thân Hậu, bảo cung nữ nhận lấy chỗ lụa. Mới trò chuyện được vài câu thì Bao Tự lãnh đạm hỏi Hoàng hậu nương nương có gì dặn dò. Thân Hậu thấy thái độ không có gì mặn mà của Bao Tự bèn đứng dậy ra về.

Không lâu sau, trong cung có tin đồn rằng Bao Tự đã dùng chỗ lụa đó để may áo cho ngựa của Thiên tử. Thân Hậu bèn sai một cung nữ thân tín nhất đi nghe ngóng, khi đến chuồng ngựa của Phụng Minh các quả thấy đúng như vậy.

Lúc này, Thân Hậu mới hiểu rõ rằng bà đang bị xúc phạm ghê gớm. Đường đường những tấm lụa mà một vị mẫu nghi thiên hạ ban thưởng lẽ nào chỉ đáng may áo cho ngựa sao? Mấy đêm rồi Thân Hậu thức trắng không ngủ, tự nhốt mình trong tẩm cung, nước mắt ròng ròng. Nghi Hữu cũng đã biết rõ ngọn nguồn của sự việc thông qua đám cung nữ. Sau những đêm trằn trọc không ngủ cuối cùng anh ta cũng nghĩ ra cách để rửa nhục cho mẫu hậu.

Tiếng gà gáy sáng đổ dồn và ý nghĩ muốn báo thù Bao Tự đã làm cho Nghi Hữu giật mình tỉnh giấc. Nghi Hữu bắt đầu chuẩn bị để "ra trận". Anh ta chân tay rối loạn ngắt hết những bông hoa trong vườn của Phụng Minh các, hành động của anh ta cũng làm cho lũ ong, bướm giật mình ngơ ngác, những cánh hoa bay lả tả khắp nơi.

Đám cung nữ trong Phụng Minh các ra ngăn anh ta lại, chúng bảo vườn hoa này là do Đại vương sai trồng để nương nương Bao Tự thưởng ngoạn. Đám cung nữ đi theo Nghi Hữu cũng không chịu lép vế bảo rằng chính Hoàng hậu múôn ngắt bỏ hết chỗ hoa này đi, ai dám ngăn cản. Từ trong phòng Bao Tự đã chứng kiến hết đầu đuôi sự việc, nàng xuất hiện, trông giống như một đóa hoa vĩ đại đang nở trong vườn hoa trước Phụng Minh các.

Bao Tự bước ra với cái bụng vượt mặt, lớn tiếng: "Kẻ nào dám làm loạn vậy? Trong mắt các ngươi còn có Bao nương nương này hay không?"

Nghi Hữu từ chỗ nấp giữa những cây hoa bước ra, thấy Bao Tự huênh hoang như vậy, mắt anh ta long lên lòng sọc. Vừa nghe thấy bà ta xưng là "nương nương", bèn chạy nhanh đến nắm tóc bà ta đồng thời thượng cẳng chân hạ cẳng tay, mắng mỏ: "Con tiện nhân này, ngươi chỉ là một đại phu vô danh tiểu tốt vậy mà dám lộng xưng "nương nương", thật là không biết xấu hổ! Hôm nay bổn Thái tử đến dạy cho ngươi một bài học!"

Cung nữ của hai phe biết rằng Bao Tự đang mang thai rồng, sợ gây ra chuyện không hay, vạn nhất có gì sai sót thì không biết làm sao, vội đồng tâm hiệp lực kéo Nghi Hữu ra. Nghi Hữu đã trút được mối hận trong lòng, khoát tay ra hiệu cùng đám hơn chục cung nữ nghênh ngang bỏ đi.

Bao Tự nhìn thấy cảnh tượng hoa rụng lả tả trên mặt đất, lại còn đầu tóc bù xù bất giác bật òa lên khóc.

Chu U vương đã lâu không lên triều, hôm nay đột nhiên đến cung Hổ Tước lật giở đống tấu chương cao như núi, sau khi rời cung thì lại gặp Bao Tự đầu tóc rối bời, nước mắt lã chã đòi Đại vương cứu lấy mạng mình và đứa trẻ trong bụng. Sau khi biết được nguồn cơn sự việc, Chu U vương cáu giận đùng đùng, mắng Nghi Hữu là đồ súc sinh ngỗ ngược.

Tiếp đó Bao Tự lại thêm thắt bịa đặt: "Thái tử mồm vẫn chưa hết hơi sữa, hành động vô lễ , thô bạo đối với thần thiếp có lẽ là do chủ ý của Vương hậu nương nương và Quốc cữu!"

Chu U vương hạ chỉ phạt Nghi Hữu ba mươi roi, cho đến nước Thân đóng cửa tự suy nghĩ về hành động của mình; Thái học sĩ Kế Nhiên dạy dỗ không nghiêm khắc phạt bãi bỏ chức quan giáng xuống làm thứ dân. Hoàng hậu sau khi cầu xin U vương niệm tình tha thứ, nhưng bị ông ta lớn tiếng quát mắng, chỉ còn biết đau xót nhìn thấy con trai của mình bị đánh đến trầy da róc thịt rồi bị đưa đến nước Thân mà thôi.

Mấy ngày nay Bao Tự lúc nào cũng cản thấy da thịt ngứa ngáy khó chịu, nàng ta cũng không để ý lắm, cho rằng đó là do nàng đang mang thai; còn Chu U vương thì nhẹ nhàng xoa xoa giùm nàng. Mấy ngày sau, Bao Tự phát hiện thấy toàn người rộp đỏ, có vài chỗ có nốt nổi lên, sau khi châm cho vỡ thì thấy có nước mủ màu vàng đục chảy ra. Chu U vương vội cho truyền ngự y đến. Sau khi ngự y khám xong, bảo đây không phải là bệnh lâu ngày khó chữa, chỉ là do khi tắm gội nước độc ngấm vào gây ra bệnh, chỉ cần dùng một ít cao tán là có thể trị khỏi. Chu U vương cho người kiểm tra lại chỗ hoa cỏ thơm dùng cho Bao Tự khi nàng tắm thì phát hiện trong đó có rất nhiều hoa hương chi bồng độc, bèn cho gọi bốn đứa cung nữ hay hầu hạ Bao Tự lúc tắm lại, tra khảo nghiêm khắc, nếu không khai thành thật sẽ bị xẻ thịt nấu nhừ. Bốn đứa cung nữ này nói chắc như đinh đóng cột, đều nhận là không làm. Bao Tự bảo Chu U vương, bốn đứa cung nữ này không có gan to như vậy đâu, e là do người ấy làm. Chu U vương hỏi người đó là ai, Bao Tự nói rằng do Thân Hậu gây ra.

Chu U vương nổi giận lôi đình cho gọi Thân Hậu đến cung Hổ Tước để điều tra sự tình, Thân Hậu nói bà không hề hay biết gì về chuyện này. Chu U vương hỏi có phải chính Thân Hậu làm việc này không, Thân Hậu oan ức quá bèn bật òa lên khóc, bà còn thề với trời xanh rằng nếu có ý xấu với Bao Tự thì trời chu đất diệt, chết không yên thân. Bởi vì Chu U vương chưa có bằng chứng xác thực gì, nên sau khi páhn "đợi ta làm sáng tỏ sự việc rồi sẽ hỏi tiếp" bèn rũ áo bỏ đi.

Chu U vương trở lại Phụng Minh các, ngọt ngào an ủi Bao Tự, nói nhất định sẽ tìm ra kẻ nào đã hại nàng, sẽ chặt chân cắt tay, mổ ruột moi tim nó ra để báo thù rửa chục cho nàng. Sau đó ông ta cho gọi quan trấn phủ, quan coi sự việc trong hoàng cung và quan cai quản lũ binh lính bảo vệ bên cạnh Chu vương lại, bắt họ phải nghiêm khắc tra xét tất cả đám phi tần, cung nữ, thái giám và bọn tạp dịch trong cung.

Chuyện vừa xảy ra với Bao Tự cũng làm Thân Hậu được an ủi đôi chút. Nhưng khi nghĩ đến sự tra khảo ghê gớm của Chu U vương thì niềm vui nho nhỏ mà bà vừa cảm thấy đã bị nỗi sợ làm tan biến đi. Bây giờ trong lòng bà chỉ còn nỗi lo sợ. Bà ngồi một mình trong thẩm cung để lục lại trí nhớ của mình. Bà nhớ lại cảnh tượng ngày hôm sinh nhật Thái tử, bà đến Phụng Minh các mời Đại vương thì đụng phải Quyên Chi. Thân Hậu chỉ nhớ nàng hầu đó tên Quyên Chi còn mặt mũi hay thân thế của Quyên Chi thì bà cũng không được rõ. Thân Hậu đoán việc này mười phần thì có đến tám, chín phần là do con hầu đó làm. Nhưng đứa cung nữ vô danh đó thì có thù hằn gì với Bao Tự cơ chứ? Hay là có người sai nó đi làm chuyện này mà lại dám cưỡi lên đầu hổ? Thân Hậu quyết định đi tìm con hầu đó để hỏi cho ra nhẽ.

Con hầu Quyên Chi này là họ hàng xa của Tề Dư. Trước kia vốn ở Tề quốc trồng sen, sau được Tề Dư tiến cử vào cung làm việc. Thân Hậu đoán quả không sai, chỗ hương chi bồng đó là do nàng bỏ vào. Nhưng điều Thân Hậu không ngờ tới đây chính là do Tề Dư chỉ thị.

Khi thấy Quyên Chi mặt mày thanh tú, trong lòng Hoàng hậu thấy hơi buồn, bà thầm khen: "Con bé này quả là xinh đẹp" Quyên Chi vẫn quỳ bên dưới đợi sự cho phép của Thân Hậu. Vương hậu sau khi quan sát Quyên Chi một lượt mới hỏi: "Nhà ngươi là Quyên Chi, cung nữ trong Phụng Minh các ư?"

Quyên Chi gật đầu. Hai mắt Thân Hậu nhìn chằm chằm vào Quyên Chi hỏi: "Bây giờ trong cung xảy ra chuyện chắc ngươi cũng biết rồi chứ, phi tử Bao Tự bị nước độc của những cành hương chi bồng đó làm cho phồng rộp cả da rồi".

Lúc bấy giờ Quyên Chi cũng đã nhớ lại chuyện hôm nàng giấu bó hương chi bồng thì đụng phải Thân Hậu, bị bà phát hiện. Nàng cho rằng Thân Hậu đã biết việc nàng làm, việc đã đến nước này thì e rằng cũng như giấy không bọc được lửa. Nghĩ đến đây, nàng không thấy cần phải giấu diếm gì nữa: "Chẳng phải Hoàng hậu đến hỏi ai đã cho chỗ lá độc đó vào trong chậu nước tắm của phi tử Bao Tự ư? Khởi bẩm Hoàng hậu nương nương, việc này là do Quyên Chi làm, quả thật là do Quyên Chi gây ra!".

"Ai đã sai ngươi làm như vậy?"

"Dạ bẩm không ai sai nô tỳ cả, là nô tỳ can tâm tình nguyện làm".

"Nhà ngươi với Bao Tự chẳng có thù oán gì, tại sao lại hại cô ta cơ chứ?"

"Bao Tự đã dùng tài sắc của mình để mê hoặc lừa dối Đại vương, làm mất cả kỷ cương xã tắc, lòng dân oán hờn! Nô tỳ nghĩ rằng mọi người và cả Vương hậu nương nương nữa có lẽ rất căm hận bà ta!"

Mấy câu nói này của Quyên Chi công thêm sự nói năng lưu loát, đứng trước nguy hiểm mà không run sợ đã khiến cho bà cảm thấy mến phục nàng. Thân Hậu bảo: "Bình thân. Đứng dậy nói đi".

Quyên Chi đứng dậy, mặt nghiêm nghị: "Việc đã đến nước này, muốn chém muốn giết xin tùy ý Đại vương và Vương hậu nương nương!"

Vương hậu cười rất tươi bảo: "Nhà ngươi hãy lui ra đi, việc này chớ nên nói với ai vội".

Khi Quyên Chi lui ra thì cũng là lúc nàng ý thức được rằng sẽ có máy chém và vạc dầu hay tương tự như vậy đang chờ để róc thịt róc xương nàng. Khi nghĩ đến đây toàn thân nàng bất giác run rẩy. Tội chết chắc không thể tha được. Nhưng nghĩ đến xác thịt của mình bị đày đọa trước khi chết nàng cảm thấy vô cùng sợ hãi, nàng muốn tự nàng kết thúc vận mệnh một cách nhẹ nhàng. Nghĩ vậy, nàng bèn đi về phía cái giếng gần chuồng ngựa của Phụng Minh các. Tận mắt nàng chứng kiến một tên thái giám vì phạm tội mà nhảy xuống giếng tự tử, khi được vớt lên, sắc mặt nhợt nhạt như đang ngủ say, chẳng có chút gì đau khổ cả.

Khi Quyên Chi quyết định đi thẳng tới cái giếng đó, nàng dường như ngửi thấy mùi của những cây thực vật mục nát xung quanh giếng, nhìn thấy mảnh trời xanh nho nhỏ trong lòng giếng. Quyên Chi nghe thấy sau lưng có tiếng người gọi nàng, âm thanh đó lúc rõ lúc không, phảng phất bên tai giống như trong ảo mộng. Nàng quay đầu lại nhìn thì thấy một người đàn ông thân hình vạm vỡ như chiếc đỉnh, đã lớn tuổi đi về phía nàng. Nàng biết người ấy, ông ta là Lã Nhượng, là người canh cửa tại Thủ Cung của Phụng Minh các. Mỗi lần Quyên Chi ra khỏi cung đều thấy ánh mắt thân thiện của người đàn ông có thân hình như con gấu ấy chào nàng, nhưng không hề nói một lời nào.

Lã Nhượng hoảng hốt bảo Quyên Chi: "Hiện nay trong và ngoài cung đang lan truyền rằgn Quyên Chi là người bỏ những cành lá độc đó vào trong nước tắm của Bao Tự, lát nữa Đại vương sẽ cho người đến bắt cháu, cháu mau chạy trốn đi!"

Bỏ trốn? Điều này Quyên Chi vẫn chưa nghĩ đến. Chạy như thế nào đây? Chạy đi đâu? Ánh mắt Quyên Chi hướng về phía Lã Nhượng như muốn dò hỏi.

Lã Nhượng bảo ông ta có chìa khóa của cửa hậu trong cung, bây giờ muốn để nàng chạy trốn. Ông còn dặn sau đó hãy đến thẳng nước Thân, Thân Hầu và Thái tử Nghi Hữu sẽ giúp nàng ẩn giấu tung tích.

Khi Quyên Chi đã ra đến ngoài vẫn thấy Lã Nhượng đứng chôn chân nhìn ra phía nàng. Nàng chấn chỉnh lại xiêm áo, quỳ xuống đất hướng về phía Lã Nhượng khấu đầu ba cái rồi đi theo con đường quanh co trước mắt, chẳng mấy chốc bóng nàng đã mất hút phía xa.

Nhiều năm sau đó, sau khi nhân vật chính của cuốn sách này - Lã Bất Vi - trở thành một vị Tể tướng quyền lực vô biên tiếng tăm muôn trượng, ông ta thường quỳ trước tấm gia phả bằng lụa vàng treo trên bức tường phía nam trong phủ Tể tướng. Nếu lấy đời ông ta làm mốc tính ngược lên trên mười một đời sẽ tìm thấy một vị tổ tiên từng canh giữ cửa Thủ cung cho Bao Tự, vị tổ tiên này chính là Lã Nhượng. Lúc đó Lã Bất Vi liên tưởng đến người cha của ông ta, Lã Hâm đã từng làm người gác cửa Thủ Cung nước Vệ. Ông ta lờ mờ hiểu được rằng lịch sử giàu sang của gia tộc Lã Thị có một chút dư vị của quy luật luân hồi.

Vị tổ tiên tốt bụng, giúp người lúc hoạn nạn của Lã Bất Vi sau khi giúp cho Quyên Chi chạy trốn, lại khóa cửa lại như cũ. Lã Nhượng biết rõ rằng một trận trừng phạt kinh thiên động địa sẽ diễn ra trong bốn bức tường của cung điện nguy nga tráng lệ này.

Sau khi Quyên Chi đi khỏi, Thân Hậu luôn luôn nghĩ tới và cảm thấy nếu để cho người cung nữ dũng cảm phi phàm này trở thành hồn ma dưới lưỡi đao của Đại vương thì thật là đáng tiếc và có tội. Bà quyết định sai cung nữ sang mời Tề Dư để cùng bàn bạc làm thế nào để cứu Quyên Chi. Con hầu trở lại rất nhan, lúc trở về mặt cắt không còn hột máu kể lại với Thân Hậu. Quyên Chi bỏ trốn thoát tội, nhưng Tề Dư bị Đại vương trừng phạt, bà ta bị ném vào chảo dầu nấu chín.

Sau khi cung nữ lui ra, bỗng nhiên bà nhớ tới một câu mà thái học sĩ Kế Nhiên dạy Thái tử Nghi Hữu học bài: "Kinh tâm động phách". [3]

Dưới bầu trời thu xanh thăm thẳm, từng đàn chim nhạn bay từ bắc sang nam, sau những tiếng kêu thê lương những thân chim như những chiếc mỏ neo từ từ hạ xuống hai bên đường từ Cảo Kinh đến Ly Sơn. Đội ngũ cúng tế với lọng, cờ quạt rực rỡ của Chu U vương cũng đang đi về nơi cần đến.

Từ trước tới nay chưa bao giờ thấy có mặt Bao Tự tại buổi tế lễ trùng dương hàng năm, bà ta luôn mong ngày này để có dịp tham dự vào không khí náo nhiệt. Một số đại thần khuyên Chu vương, Bao Tự bụng đang mang thai, nên sắc khí không được trong sạch e sợ sẽ làm ô ếu đến các đấng thần linh. Hơn nữa không đem theo Thân Hậu đi cùng cũng là đã làm trái với lễ nghi. Quắc Thạch Phụ đỡ lời: lễ, nhạc chinh phạt đều do Thiên tử quyết định; những lời, những việc mà Đại vương đã nói và làm đều là những điển lễ mà vạn dân phải tuân theo. Trước khi khởi hành, Chu vương ban chiếu, cho Bao Tự đi cùng thánh giá đến lễ tổ ở Ly Sơn còn Thân Hậu ở hậu cung muốn làm gì thì làm.

Thân Hậu thấy Chu vương chỉ mang theo Bao Tự đến Ly Sơn, bỏ mặc mình ở lại thì trong lòng sốt ruột không yên. Sau khi Chu vương khởi hành, bà quyết định đến Thân quốc, chỗ của Thân Hầu nghỉ ngơi, đồng thời thăm Thái tử Nghi Hữu. Sau khi chuẩn bị chu tất bèn cho người đi sửa soạn chiếc kiệu long phụng có người khiêng chuyên dùng cho Hoàng hậu; đến lúc đó mới hay chiếc kiệu đó đã dành cho Bao Tự đi Ly Sơn rồi, bà đành phải ngồi kiệu do xe ngựa kéo dành cho đám phi tần. Đoàn người của Thân Hậu rầm rập tiến đến cửa thành của Thân quốc, một cung nữ đến báo cho tên lính coi giữ cổng thành. Ngày trước Thân Hậu đi đâu đều dùng kiệu long phụng, như vậy mới xứng đáng với thân phận của bà. Lần này bọn coi thành thấy đâu không phải là kiệu long phụng mà kiệu sơn đỏ dành cho bọn phi tần nên người ngồi trên kiệu kia nhất định không phải là Hoàng hậu nương nương, nên chúng không cho đi qua, Đám cung nữ cũng cãi lý với bọn lính gác, Thân Hậu thấy vậy bèn vén rèm kiệu lên, hé mặt ra hỏi có chuyện gì: Lẽ nào chúng ta giả mạo không thành ư? Bọn lính lúc đó mới nhận ra đúng là Hoàng hậu nương nương tôn quý nên vội cúi chào nhường đường.

Khi Thân Hậu đến phủ Thân Hầu thì thấy Thân Hầu đang cùng đám văn võ quan bàn việc khai hoang trồng trọt. Hồi đó là "đất đai trên khắp thiên hạ đều là đất của vua", ruộng đất trên toàn quốc được phân thành những ô vuông giống như chữ "tinh" (nghĩa là giếng), ruộng đất này đều thuộc quyền sở hữu của Chu vương, Chu vương phân cho các Chư hầu, mỗi năm họ phải nộp một khoản thuế nhất định. Cùng với sự nâng cao về năng lực sản xuất, đặc biệt là việc sử dụng những dụng cụ làm bằng sắt trong việc cày ruộng và trồng trọt, một số chư hầu đã bí mật khai hoang để thêm ruộng, vì vậy ngoài những thửa ruộng chữ "điền" thì bắt đầu xuất hiện một số lượng lớn "tư điền" (ruộng riêng). Lúc mới đầu, Chu vương không chấp nhận "tư điền". Nhưng về sau "tư điền" càng ngày càng nhiều, Chu vương chẳng còn cách nào khác đành phải thu thuế đất, điều này chứng tỏ trên thực tế đã chấp nhận sự tồn tại của "tư điền", như vậy, cơ sở kinh tế của triều Chu - chế độ "tỉnh điền" - bắt đầu bị tan vỡ. Số lượng "tư điền" mà các chư hầu có thường thường trở thành một loại tượng trưng cho uy vọng và thực lực của người đó.

Chiếc xe chở Thân Hậu dừng hẳn, Thân Hậu được đám cung nữ dìu xuống xe. Vừa xuống xe đã thấy Thân Hầu và toàn bộ gia quyến quỳ đón trước cửa phủ tự bao giờ, tiếp đó là những tiếng hô: "Chúc Vương hậu nương nương thiên tuế!"

Những vết thương trên người Nghi Hữu đã lành, cậu ta chạy lại sà vào lòng Thân Hậu. Hai mẹ con ôm nhau mà khóc, nhiều người đứng xung quanh cũng không khỏi ngậm ngùi. Thân Hầu dìu Thân Hậu vào trong phòng khách, đuổi hết bọn lâu la ra ngoài, hai chị em cùng nhỏ to chuyện trò. Lát sau một cô ra bái kiến Vương hậu, Thân Hậu giật bắn mình, đây không phải là cung nữ Quyên Chi sao? Nếu che giấu tội nhân mà Chu U vương đang cho cáo thị thì sẽ bị chu di chín đời. Thân Hậu cố hết sức lấy lại bình tĩnh, vui vẻ hòa nhã trò chuyện cùng Quyên Chi. Quyên Chi kể lại rằng nàng thoát thân được là do Lã Nhượng - người trông coi cổng cugn đã giúp nàng. Sau khi Quyên Chi lui ra, Thân Hậu lo sợ nói với em trai, nếu Đại vương biết chúng ta giấu Quyên Chi ở đây thì toàn gia tộc e khó tránh khỏi tội chết. Thân Hầu đáp, Quyên Chi là một cô gái hiệp nghĩa, đã trừng trị được Bao Tự, mặc dù chưa giết được con yêu nữ ấy nhưng cũng đã thay chúng ta rửa hận. Lúc cô ấy gặp khó khăn xin đến nương nhờ lẽ nào chúng ta không giúp. Em đã để cô ta ở ngôi nhà phụ, không ai có thể biết được.

Ánh nắng mùa thu không đủ rực rỡ nhưng khi chiếu vào những bộ trang phục điểm vàng dát bạc của Thân Hậu cũng làm cho bộ trang phục sáng lấp lánh. Ở trong phủ của Thân Hầu, lánh xa những phiền toái, lo âu nơi Cảo Kinh, bà cảm thấy lòng nhẹ nhõm, khoan khoái hẳn, bà cảm thấy lòng mình như đứa trẻ, không phải lo lắng gì. Thấy bảo hôm nay Thân Hầu muốn đến chỗ khai khẩn đất hoang ở núi Nam Sơn phía ngoài thành để thị sát, bà cũng muốn đi để tận mắt thưởng thức cảnh mùa thu ở nơi xa xôi đó xem sao.

Đi ra khỏi thành về phía Nam, ở nơi dưới chân núi có tên là Lạc Phụng Pha có hàng trăm người và nô lệ của Thân Hầu đang chặt cành, phát bụi, cày ruộng một cách miệt mài. Những con người khai phá này quần áo lam lũ, đầm đìa mồ hôi, khi bọn họ biết trong đám quý tộc xa xa kia có Thân Hậu nương nương và tướng quân Thân quốc thì họ hân hoan nhảy nhót, không ngừng giơ những bàn tay còn dính đầy bùn đất lên vẫy vẫy.

Thân Hậu sau khi chứng kiến sự nồng nhiệt tiếp đón của bọn họ, bắt đầu đi thưởng ngoạn cảnh sắc nơi vùng núi xanh biếc dưới ánh nắng trong trẻo. Thân Hậu dừng chân bên cạnh một dòng suối nhỏ, nước suối trong như ngọc, nghe tiếng nước róc rách chảy lòng bà cảmt hấy nhẹ nhõm khoan khoái vô cùng.

Lúc đó có tên quân uý giám sát việc thi công quỳ bẩm với Thân Hậu và Thân Hầu, rằng trong lúc đào đất mọi người phát hiện được vô số ngọc thạch. Thật là ngoài mong muốn khiến cho hai chị em Thân Hậu vui đến nỗi cứ hoa chân múa tay. Họ cũng không còn để ý đến cảnh đẹp xung quanh mà chạy nhanh đến chỗ ngọc thạch được xếp từng đống từng đống. Những viên ngọc thạch thật đẹp mỗi viên một màu sắc, ánh sáng của chúng làm cho người ta lóa cả mắt. Chúng được xếp thành từng đống từng đống. Thân Hầu ra lệnh tiếp tục đào, cuối cùng phát hiện đây là một cánh đồng ngọc thạch sâu và dài.

Thân Hầu lập tức sai người về giết lợn mổ dê làm vật tế lễ, bày tiệc rượu cúng trời và tổ chức buổi lễ khai thác ngọc thạch.

Đây quả là một món của cải kếch sù ngoài sự tưởng tượng!

Tại Tây Chu, ngọc được dùng để làm đồ tế lễ, tín vật, đồ trang sức và tiền tệ, được mọi người rất coi trọng, đồng thời có giá rất cao. Trong "Chu Lễ. Xuân Cung. Đại Tông Bá" có ghi lại rằng: "Ngọc được chế biến thành sáu loại, để cúng tế bốn phương trời đất: Màu xanh lam dùng để tế trời, màu vàng nhạt dùng để tế đất, màu xanh da trời để tế phía Đông, màu đỏ để tế phía Nam, màu trắng để tế phía Tây, màu vàng đậm để tế phía Bắc". Đồng thời, việc dùng ngọc cúng tế này chỉ phục vụ cho chế độ đẳng cấp, "Ngọc được coi như sáu điều may mắn, để phân biệt các nước láng giềng, Vua dùng ngọc khuê, Công dùng ngọc hoàn, Hầu dùng ngọc tín, Bá dùng cung khuê, Tử dùng cốc bích, Nam dùng bạc bích". Ngoài ra ngọc còn được tầng lớp quý tộc coi như tín vật dùng cho việc cưới hỏi, điều động quân sự... Ngọc dùng vật trang trí thì công dụng lại càng rộng rãi. Trong cuốn "Lễ ký. Ngọc Tảo" có viết: "Quân tử ngày xưa phải đeo ngọc trên mình... Nếu không có biến cố gì thì ngọc bất ly thân".

Có thể thấy rằng hồi đó việc đeo ngọc được mọi người, đặc biệt là tầng lớp quý tộc hết sức coi trọng. Hồi đó, trên các lễ vật phải có hai miếng ngọc tương đồng với nhau, hai bên trái phải của phần eo, mỗi bên đeo một miếng. Mỗi miếng ngọc đều được đeo bởi sợi dây gai. Trên đầu dây đeo miếng ngọc hình bán cung, gọi là Hoành (tức viên ngọc nằm ngang), hai bên đầu của Hoành mỗi bên treo miếng ngọc tròn, màu xanh, gọi là Hoàng (vòng ngọc hình bán cung), ở giữa dây xâu hai miếng ngọc, gọi là Xung Nha. Đeo dây ngọc này vào khi bước đi thì miếng ngọc Hoàng và Xung Nha sẽ đập vào nhau, phát ra những âm thanh trong trẻo, tượng trưng cho sự phú quý và nho nhã.

Khi Thân Hậu trần đầy hứng khởi cầm những viên ngọc thạch lên xem thì trong đầu bà hiện lên những hình ảnh vừa đep vừa quý phái gắn liền với ngọc.

Sau này rất lâu, Lã Bất Vi mạo hiểm ca tính mạng để bắt đầu nghề kinh doanh châu ngọc. Địa điểm đầu tiên ông ta mua hàng chính là cánh đồng ngọc Lạc Phụng Pha này. Chỉ có điều là bấy giờ nơi đây không phải vùng đất hoang vu nữa mà đã trở thành một thị trấn buôn bán nhỏ có quán xá, nhà trọ tương đối sầm uất. Khi Lã Bất Vi mua những miếng ngọc được chạm trổ tỉ mỉ với những hình dáng muôn hình vạn trạng thì cũng đã được nghe những truyền thuyết xa xưa về việc khai khẩn cánh đồng ngọc này. Nhưng ông ta không tin vào câu chuyện rằng Vương hậu nương nương dùng những ngón tay như búp măng của mình xoa xoa vào những viên ngọc thạch vẫn còn dính bùn đất, và ông ta cho rằng đó là sự hư cấu của người đời sau.

Khi Thân Hầu đang cùng với đám quần thần bàn bạc tìm cách mở rộng vùng đất kinh doanh thì tại cung vua ở Ly Sơn, Chu U vương và Bao Tự vui mừng khôn siết khi nghe thấy tiếng khóc to khỏe của một đứa trẻ mới chào đời. Một buổi chiều tà, sau một tháng tế tổ, Bao Tự đã sinh hạ được một bé trai đặt tên là Bá Phục. Đây là kết quả mong đợi của những cuộc mây mưa thâu đêm suốt sáng giữa Chu U vương và Bao Tự.

Vào một ngày sau khi trở về kinh thành, Quắc Thạch Phụ nói với Chu U vương: "Khởi bẩm Đại vương, thần có một điều không rõ khiến thần băn khoăn bấy lâu nay. Bao Tự nương nương tuy sinh hạ được quý tử nhưng làm sao mà vẫn không vui, đến một nụ cười cũng chẳng có".

Chu U vương nghe xong như sực tỉnh nói: "May mà ái khanh nhắc nhở quả nhân mới phát hiện ra, hà cớ gì mà Bao Tự chẳng cười. Từ ngày vào cung đến nay, ta chưa bao giờ thấy nụ cười của nàng cả". Quắc Thạch Phụ lắc đầu nói: "Thật là kỳ lạ". Chu U vương lập tức khởi giá đến Phụng Minh các, hỏi với giọng điệu đầy nghi ngờ: "Ái cơ, vì sao mà từ trước tới nay quả nhân chưa bao giờ thấy nàng cười?" Bao Tự trả lời: "Thần thiếp không thích cười, từ xưa đến nay chưa bao giờ cười cả". Chu U vương thề thốt: "Quả nhân sẽ làm cho nàng cười". Bao Tự nói: "Thần thiếp e rằng Hoàng thượng không đủ bản lĩnh thôi".

Chu U vương nghe nói Bao Tự thích nghe âm thanh của vải lụa bị xé liền lệnh cho Tổng thái giám đem một trăm cuộn vải lụa vào cung, sai cung nữ xé từng cuộn. Khi nghe thấy âm thanh vừa trong vừa giòn, Bao Tự rất chăm chú. Chu U vương thăm dò sắc mặt của Bao Tự nhưng vẫn không thấy nàng cười. Chu U vương lại gọi đến mười người lùn bảo họ kể chuyện cười với những động tác kỳ quái, họ làm trò suốt một ngày một đêm, Chu U vương, Quắc Thạch Phụ và các thái giám cung nữ đều ôm bụng cười ngật ngưỡng nhưng Bao Tự vẫn không hề hé môi, vẻ mặt vẫn bình thản. Chu U vương lại gọi một gánh xiếc đến biểu diễn. Các chú hề với những động tác nhào lộn trên không trung rất sống động khiến cho mọi người vô cùng thích thú nhưng Bao Tự vẫn không hề cười.

Chu U vương nghĩ mãi không ra cách nào, bèn ra cáo thị khắp trong ngoài cung: ai có thể làm cho Bao Tự cười sẽ được thưởng một trăm lạng vàng. Cáo thị đã được ban ra vài ngày nhưng không ai dám đến. Quắc Thạch Phụ nghĩ nát óc cuối cùng cũng tìm ra một cách, liền nói với Chu U vương: "Đại vương hãy cùng với Bao Tự nương nương di giá đến Ly Sơn, đốt khói phân sói lên, các nước chư hầu lân cận ắt sẽ nghĩ Kinh đô có biến động lập tức phái quân đến Ly Sơn tiếp viện. Khi quân đến nhưng không có chuyện gì xảy ra, Bao Tự chắc chắn sẽ cười".

Chu U vương nghe xong liền nhìn chằm chằm vào mặt Quắc Thạch Phụ đang đầy những nếp nhăn trên trán, Chu U vương kinh ngạc đến lạ lùng: làm sao vị cận thần này lại có thể nghĩ ra được một cách thông minh, một diệu kế tuyệt vời đến vậy. Quắc Thạch Phụ bị vua nhìn chằm chằm luống cuống, líu lưỡi nói: "Đại vương, điều này...". Chu U vương mặt mày rạng rỡ nói: "Tuyệt quá, tuyệt quá!"

Ngay đêm đó Chu U vương cùng với Bao Tự đến Ly Sơn, sai người đốt ba mươi đống khói phân sói. Ngay lập tức ánh lửa ngút trời, cả một vùng trời được soi sáng như dải lụa hồng rực rỡ. Các nước chư hầu lân cận cho rằng kinh thành xảy ra chuyện bất trắc liền lập tức điều binh khiển tướng vượt ngày, vượt đêm vội đến Ly Sơn. Nhưng chỉ thấy Ly Sơn bốn bề im ắng, không hề biến động. Trong cung của Chu U vương đèn thắp sáng, ca hát vui vẻ., Chu U vương và Bao Tự lấy rượu làm vui. Quắc Thạch Phụ đứng dựa lan can ở mái hiên lầu hai nói với xuống: "Các vị Quốc vương chắc hẳn rất kinh ngạc vì không có biến động nào cả. Đây chỉ là do Đại vương uống rượu nổi hứng phái các vị đến để làm trò tiêu khiển".

Các vị chư hầu đứng dưới cung của Chu U vương đưa mắt nhìn nhau đầy bất lực bàn tán xôn xao. Thân Hầu bực tức nói: "Đây chẳng phải là trêu đùa hạ thần đó sao!"

Bao Tự nhờ ánh sáng của ngọn nến thấy các vị chư hầu kinh hồn bất định, đi đi lại lại bất giác đã bật lên tiếng cười. Chu U vương vui mừng khôn xiết nói: "Nụ cười của nàng thật vô cùng tuyệt diệu!"

Đêm hôm đó Chu U vương và Bao Tự ở lại cung Ly Sơn. Nằm trên giường Chu U vương hài lòng nói với Bao Tự: "Ái cơ, cuối cùng ta đã làm cho nàng cười rồi".

Bao Tự nói: "Đại vương có thể hàng ngày điều khiển các nước chư hầu đến giúp thiếp cười không? Dù cho như vậy thần thiếp cũng không cười nữa đâu".

Chu U vương lúng túng nói: "Như vậy là từ giờ trở đi Ái cơ không bao giờ cười nữa hay sao?"

Bao Tự nhân cơ hội nói: "Chỉ có một chuyện khiến cho thần thiếp vui đến suốt đời thôi, không biết Đại vương có bằng lòng không?"

Chu U vương nói: "Nàng cứ nói đi đừng ngại".

Bao Tự nói: "Lập Bá Phục làm Thái tử".

Chu U vương tiếp lời: "Ta cũng có ý như vậy, thằng Nghi Hữu ngang ngược bất hiếu phải sớm phế truất".

Ngày hôm sau, Chu U vương khởi giá hồi cung, tại cung Hổ Tước Chu vương tuyên bố phế trưởng lập thứ, phong Bao Tự làm Hoàng hậu, lập Bá Phục làm Thái tử. Trước biến sự này rất nhiều đại thần trình tấu can gián. Tin tức này truyền đến Thân quốc, trước sự khóc lóc kêu than của mẹ con Nghi Hữu, Thân Hầu lại tỏ ra bình tĩnh. Một mặt Thân Hầu trình tấu chống lại chuyện này: "Tích Kiệt vì cưng chiều Muội Hỉ nên nước Hạ bị diệt vong, vua Trụ vì Đắt Kỷ nên mất Thương. Đại vương nay vì Bao Tự mà phế trưởng lập thứ vừa trái với đạo nghĩa vợ chồng lại làm tổn thương tới tình cảm cha con. Nếu không lấy chuyện của Kiệt, Trụ làm bài học cho hôm nay, thì việc bị diệt vong như Hạ, Thương không phải là chuyện sau này. Mong Đại vương thu lại lệnh truyền để tránh họa diệt vong về sau". Mặt khác Thân Hầu chuẩn bị binh giáp, liên lạc với các nước chư hầu để đề phòng bất trắc.

Chu U vương xem xong tấu chương của Thân Hầu vô cùng bực tức. Quắc Thạch Phụ nhân cơ hội đó nói: "Việc Đại vương đưa Thái tử đi đày, Thân Hầu đã ôm mối hận từ lâu. Nay lại nghe tin Thân Hậu và Thái tử bị phế truất nên có ý làm phản vì vậy mà ông ta mới to gan đánh đồng Đại vương với Hạ Kiệt, Thương Trụ, bôi nhọ thanh danh của Đại vương".

Chu U vương nghe xong lập tức phái quân đánh dẹp Thân Hầu.

Do sớm chuẩn bị từ trước Thân Hầu liên kết với quân đội nước Tăng và các nước phương Tây nhanh chóng hành động trước, tấn công vào kinh thành. Quân của Thân Hầu thế như chẻ tre không gì chặn được mau chóng tiến vào chân thành. Chu U vương phải chạy về Ly Sơn, lệnh cho quân phóng hỏa nhưng quân cứu viện đến lác đác không đáng kể. Quân đội của các nước phương Tây mau chóng chiếm gọn kinh thành, giết chết Chu U vương ở Ly Sơn, vơ vét của cải và bắt Bao Tự đi.

Khi khói lửa còn chưa tan hết, Thái tử Nghi Hữu lên ngôi Hoàng đế với hiệu Chu Bình vương, năm đó là năm 770 trước CN.

Phụng Minh các ngày xưa đàn hát náo nhiệt nay bỗng trở thành phế cung xơ xác tiêu điều. Người gác cổng Lã Nhượng mấy ngày nay co rúm lại trong góc cung, kinh hoàng khiếp sợ lắng nghe tiếng va đập của đao kiếm và tiếng chân ngựa trong và ngoài cung Hổ Tước. Ngày Chu Bình vương lên ngôi rất nhiều người thấy cánh cửa Phụng Minh các vẫn mở rộng, có một người dáng già nua, lụ khụ vừa nhặt lá khô vừa lẩm bẩm nói: "Thay triều đổi đại rồi". Đó chính là Lã Nhượng.

Hôm sau khi đang quét sân, Lã Nhượng thấy cạnh đống lá của cây bông có một đôi giày có thêu hình đầu con chim phượng. Lã Nhượng ngẩng đầu lên nhìn, thì ra là Quyên Chi trong bộ quần áo đẹp tuyệt vời, lúc ấy người cung nữ này đã trở thành một vị quốc sắc thiên hương. Sau lưng Quyên Chi là tốp cung nữ rất mực cung kính. Lã Nhượng nói: "Đây không phải là Quyên Chi đó sao?" Các cung nữ nói: "Đối với Hoàng hậu nương nương không được chỉ đích danh". Việc Quyên Chi trở thành vợ của Nghi Hữu khiến cho Lã Nhượng vui mừng khôn xiết, liền vội vàng quỳ lạy. Quyên Chi nói để tạ ơn cứu mạng Đại vương ân chuẩn cho Lã Nhượng không phải gác cổng Phụng Minh các nữa mà theo Thân Hầu làm quan ở Thân quốc.

Lã Nhượng cưỡi ngựa cùng Thân Hầu thắng trận trở về. Cùng đi với Lã Nhượng là Thái phó Kế Nhiên. Khi đoàn người đi đến dốc Lạc Phượng, Kế Nhiên nói với Thân Hầu: "Hãy để thần ở lại đây, vừa để thay Quốc vương quản lý Ngọc Điền, vừa để trước thư lập thuyết". Thân Hầu ân chuẩn.

Khi đoàn người tiến vào cổng thành, Lã Nhượng nói với Thân Hầu: "Thần vô cùng cảm tạ ân điển của Đại vương đối với thần nhưng thần đã nhiều tuổi rồi, mong Đại vương cho phép thần được làm việc cũ: gác cổng thành cho Người". Thân Hầu gật đầu ân chuẩn.

Kể từ đó vị quan gác cổng không ham vinh hoa phú quý, cam chịu cuộc sống thanh bần và hai cánh cổng thành màu đỏ tươi trở thành mục tiêu chú ý của người dân Thân quốc.

Nhiều năm trôi qua.

Vào năm thứ hai, khi vua Tần Doanh Chính chính thức chấp chính, Lã Bất Vi bị bãi chức quan Tể tướng, bị đuổi khỏi Hàm Dương quay về An Dương sống những ngày tháng cuối đời. Vào buổi chiều hôm ảm đạm, Lã Bất Vi đặt chân đến khu mộ hoang thấp thoáng trong đám cỏ khô tìm được tấm bia đá khắc ngay ngắn dòng chữ "Lã Nhượng chi mộ". Lã Bất Vi quỳ lạy, hai tay ôm chặt tấm bia đá, nhìn nay nhớ xưa, nước mắt giàn giụa, than thở về cuộc đời chinh thương chua ngọt đắng cay, sóng gió của mình...

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Kỳ lân: ngày xưa được coi là điềm lành.

[2] Dịch văn: Danh tiếng Đại vương vang bay xa, ân đức như cồn vang bốn bể, muốn tìm nơi an cư lạc nghiệp, cuối cùng đã xây dựng thành công Chu bang. A! Văn vương thật quả vua anh minh! Văn vương vâng theo thiên mệnh, đánh đông dẹp bắc trăm trận thắng, diệt gọn Sùng bang gậy nghiệp lớn, dời đô đến Phong, ban chức tước. A! Văn vương quả thật vua anh minh!

[3] Giải nghĩa: "Kinh tâm động phách": Sợ đến lòng, động đến phách ý nói rất sợ hãi, rất xúc động.

Xem tiếp Chương 2 Bỏ quan tòng thương

Hàn Diệu Kỳ

Chương 2 Bỏ quan tòng thương

Giữa trưa hè trời xanh trong không một áng mây, Lã Bất Vi là công tử trong một gia đình có cha làm nghề gác cổng ở thành Bộc Dương, như trút được gánh nặng khi học xong khóa cuối cùng ở trường tư thục, hành lý nặng trĩu thư tịch rời khỏi nhà sư phụ Bá Hạ. Nghiệp học hành mười năm gian khổ cuối cùng đã hoàn thành mỹ mãn, con đường tiến thân của Lã Bất Vi như được trải thảm hoa. Công tử họ Lã đón ánh nắng mặt trời, tràn đầy tin tưởng về tương lai.

Bá Hạ là một người thầy có óc kinh luân, dạy hỗ học trò không biết mệt mỏi. Thầy Bá Hạ đặt niềm hy vọng rất lớn vào Lã Bất Vi - người học trò ông thương yêu nhất.

Lã Bất Vi quay đầu lại, cúi chào nói: "Thầy không phải tiễn con nữa, gia phụ bảo hai ba hôm nữa sẽ mở tiệc rượu để cảm tạ công ơn dạy dỗ của thầy".

Thầy Bá Hạ nhẹ nhàng nói: "Bất Vi này, về nói với lệnh tôn đại nhân đừng có lãng phí".

Bất Vi vui vẻ bước đi, bước chân khoan thai nhẹ nhàng. Chàng năm nay mười chín tuổi, to cao khỏe mạnh, đôi mắt sáng sắc ẩn dưới đôi lông mày lưỡi mác đen và rậm, cánh mũi to tròn chỉ có điều nhân trung hơi dài. Theo thuyết tướng số, con người này phúc họa luôn đi liền nhau, vinh quang đấy mà cũng cay đắng đấy. Quanh cằm Bất Vi lún phún ria mép, biểu hiện của sự trưởng thành. Lã Bất Vi là một chàng trai khôi ngô tuấn tú.

Trường học của thầy Bá Hạ cách thành Bộc Dương không xa, chỉ qua con sông Bộc Dương xanh biếc hiền hòa là tới. Vì vậy Lã Bất Vi có thể nhanh chóng vào thành, hòa mình vào những con đường phồn hoa náo nhiệt. Rẽ vào một góc đường, Lã Bất Vi thấy rất nhiều người tụ tập. họ ghé tai thì thầm với nhau dường như là đang bàn luận về một vấn đề gì hiếm lạ kỳ quái!

Mười năm nay Lã Bất Vi không hề biết chuyện ngoài xã hội, chỉ toàn tâm toàn ý đọc sách thánh hiền. Mặc dù hàng ngày đều đi qua đường ngang ngõ dọc nhưng không hề dừng chân quan sát tò mò hỏi han. Ngày hôm nay việc học đã xong, nên cũng muốn nghe ngóng chuyện hiếu kỳ, bèn thẳng tiến hòa vào đám người đông vui nhộn nhịp. Rất nhanh Lã Bất Vi đã hiểu ra mọi chuyện.

Vào một đêm sáng trăng, một con rắn độc đã cắn chết công tử Nộ Khiên. Con rắn đó thân dài mười trượng, vằn đen trắng, trườn nhanh thoăn thoắt, dưới ánh nến và gươm của hàng trăm quân lính nó lẩn mất không thấy tăm hơi. Vua Vệ Nguyên quân trong những ngày đau thương buồn bã đã mời thầy mo đến xem bói và đem kết quả dán ở ngoài cổng thành: con rắn này chính là do yêu ma biến hóa thành, hiện vẫn đang ẩn nấp trong thành Bộc Dương, mong rằng quần chúng nhân dân chú ý cảnh giác và tìm bắt.

Lệnh thư của vua ban bố chưa được bao lâu thì trong cung lại truyền ra một cách lý giải khác. Có người nói con rắn đó là do An Ly vương của nước Ngụy thả ra với ý đồ để nó cắn chết Vệ Nguyên quân, nhưng kết quả lại không như ý muốn. Nguyên do là vào năm thứ 31 đời Vệ Hoài quân, Quốc vương đến nước Ngụy triều cống. An Ly vương đã tống giam Hoài quân vào ngục rồi giết chết, đưa con rể của mình là Vệ Nguyên quân lên làm Quốc vương. An Ly vương muốn biến một huyện nhỏ của nước ngụy thành nơi nuôi ngựa nhưng Vệ Nguyên quân không chấp thuận, vì vậy An Ly vương muốn trả thù đứa con rể vong ơn bội nghĩa này. Lại có người nói con rắn là do mẹ của Quân Giác thả ra. Nguyên nhân là vì bà này phát hiện thấy Hoàng thượng ngày càng thân thiết với công tử Nộ Khiên và xa lánh Thái tử Quân Giác, bà lo một ngày nào đó Hoàng thượng sẽ phế truất Quân Giác, lập Nộ Khiên làm Thái tử. Nhưng rốt cuộc con rắn kia do ai thả ra thì không ai rõ cả. Trong cung của Vệ Nguyên quân luôn được bảo vệ chặt chẽ còn ngoài cung khắp đường cùng ngõ hẻm luôn có đội quân đi tuần tra bất kể ngày đêm. Khi nào tìm con rắn không chân này họ thường xoi mói vào những người dân qua lại.

Lã Bất Vi thấy khi mọi người bàn luận về chuyện này luôn lộ rõ vẻ ưu tư lo sợ trên gương mặt họ. Chàng mang theo hình ảnh con rắn kia về nhà. Phụ thân của Lã Bất Vi là Lã Hâm đỡ hành lý cho con, vui mừng kể với con trai rằng ông đã nhờ một người làm cho quan đại phu Vệ Hoành xin vị trí môn khách trong phủ. Lã Bất Vi biết quan đại phu Vệ Hoành là chỗ thân thích với vua Vệ Nguyên quân, nếu được Vệ Hoành mến mộ thì có thể đi cùng với vị đại phu này vào triều yết kiến, nắm bắt cơ hội này để trổ tài văn thao võ lược, khiến vua nể phục ắt sẽ được phong hầu phong tướng. Lã Bất Vi đắc ý kể với cha về những điều biết được qua mười năm học tập vất vả và những ý tưởng lớn lao trong tương lai. Lã Hâm liên tục gật đầu say sưa lắng nghe từng lời nói của đứa con trai độc nhất. Sau đó chàng kể cho cha nghe về chuyện con rắn, người cha nói rắn không cắn đến nhà ta thì quan tâm đến nó làm gi, chi bằng ta dắt con đến bái kiến đại phu Vệ Hoành.

Lã Bất Vi mãi mãi không quên cảnh tượng huy hoàng khi lần đầu tiên đến bái kiến Vệ Hoành. Khi cha dắt chàng vào trong phòng khách của nhà đại phu, Vệ Hoành với mũ cao đai rộng đang cùng với các môn khách bàn luận chuyện kim cổ. Những chiến đàn sắt được bầy khắp phòng và tiếng của Vệ Hoành cao đàm khoát luận khiến cho chàng có cảm giác bị kìm nén. Sau khi Vệ Hoành ca ngợi một hồi về tài năng của chàng, liền tiện thể hỏi luôn một số điển cố về "Thi Kinh", "Quốc Ngữ", chàng đều đối đáp trôi chảy. Vệ Hoành vui vẻ cười nói: nhân tài này có thể lập nên cơ đồ. Lã Bất Vi thấy cha và các vị môn khách đều cùng cười với đại phu.

Khi cha của Lã Bất Vi cáo từ ra về, Vệ Hoành nói: lát nữa ta sẽ vào triều yết kiến Hoàng thượng, để Bất Vi đi cùng ta. Lã Hâm vội khấu đầu tạ ơn.

Sau khi Lã Hâm đi khỏi, Vệ Hoành lại tiếp tục tán chuyện với các vị môn khách và sai chàng làm một số việc vặt như lấy sách, gọi người hầu. Điều này khiến cho chàng có cơ hội được đi lại trong phủ của đại phu, tận mắt chứng kiến sự xa hoa lãng phí của cuộc sống vương giả, làm cho chàng liên tưởng đến gia cảnh nghèo khó địa vị thấp, ít bổng lộc của cha chàng. Điều đó làm dịu đi cảm giác kiềm nén, nhưng lại như có đám mây phủ lên tâm tưởng của chàng. Khi được đối mặt với cung điện nguy nga tráng lệ của Hoàng thượng thì chàng vô cùng sửng sốt, chợt hiểu ra thế nào là sự tôn nghiêm và phú quý thực sự. Các vị hạ thần và môn khách khác đều theo vua Vệ Nguyên quân vào cung điện, vì Lã Bất Vi là người mới nên đứng đợi ở ngoài cửa cung. Chàng phóng tầm mắt qua cánh cửa rộng mở vào tới khu vườn của vương cung. Bên trong là những lầu son gác tía. Ở một khoảng đất trống rộng lớn có một đàn tuấn mã khoác những chiếc áo màu muôn tía nghìn hồng, thỉnh thoảng chúng lại phát ra tiếng phì phì trong mũi. Bên cạnh là những chiếc xe lọng vàng của Hoàng thượng, của các đại phu, ngoài ra còn có chiếc xe mui của người Hậu Kỳ xinh đẹp, tất cả đều được vẽ vời cầu kỳ. Hai bên cổng thành là những võ sĩ thân đeo kiếm đầy vẻ cương nghị. Các thái giám, cung nữ đi lại như mắc cửi, thỉnh thoảng lại nghe thấy những tiếng cười lanh lảnh của họ.

Lã Bất Vi than thở nói: "Đại trượng phu phải được hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý như vậy".

Bóng của mái hiên ngoài hành lang ngày càng dài ra, mặt trời đang lặn dần. Lã Bất Vi đã đợi khá lâu mới thấy Vệ Hoành và các môn khách chuyện trò vui vẻ từ cung đi ra.

Câu chuyện về rắn độc cắn chết công tử Nộ Khiên lam đi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến thành Bộc Dương. Trong lúc lòng người đang lo lắng hoang mang thì có hai gia đình hàng xóm ở phía đông và tây trong một ngõ hẻm rất sâu của thành Bộc Dương lại đón nhận tin vui thật đáng chúc mừng. Cụ ông họ Tống trong gia tộc họ Tống ở phía đông làm lễ mừng thọ tròn bảy mươi tuổi. Công tử Bất Vi trong gia đình họ Lã ở phía tây hoàn thành nghiệp học hành, trở thành môn khách trong phủ của đại phu.

Cụ ông họ Tống là Tống Nhưng tước vị không cao, chỉ là quan bát phẩm nhưng vì có cửa hàng tơ lụa ở thành Bộc Dương làm ăn rất phát đạt nên kiến được nhiều tiền trở thành người giàu có nhất vùng. Tống Nhưng ở vào tuổi xưa nay hiếm lại giàu có nên cũng muốn tổ chức linh đình. Sáng sớm cổng nhà Tống gia đã chăng đèn kết hoa, giết lợn mổ dê và dựng một bàn tiệc lớn ở ngoài cửa, đoàn nhạc công chơi không biết mệt mỏi, làm cho cả ngõ nhỏ nhộn nhịp vui vẻ hẳn lên.

So với nhà họ Tống thì lễ chúc mừng của nhà họ Lã lại có phần trầm lặng và tẻ nhạt hơn. Lã Hâm lòng đầy hoan hỉ tổ chức vài mâm rượu cho con trai mình, mời bạn bè tụ tập để họ thấy con trai ông là một nhân tài đã trở thành môn khách trong phủ của quan đại phu.

Lã Bất Vi đứng trước phòng khách lịch sự lễ phép nghênh đón các vị khách đến. Đúng hẹn, bạn bè người thân đã đông đủ, chỉ thiếu mỗi sư phụ Bá Hạ. Chàng lưỡng lự một hồi bèn ra cửa đứng ngóng. Chàng vừa ra cửa thì thấy khách của gia đình họ Tống ra vào nhộn nhịp, xe ngựa kiệu võng choán hết cả ngõ; trước cửa nhà họ, người tấp nập khiến hoa cả mắt. Các vị khách đến chúc mừng nhà họ Tống đa phần là các quan thần có thân phận cao quý, các nho sĩ và thương gia, họ không đi xe thì cũng cưỡi ngựa. Sau khi họ vào nhà Tống gia thì đều để xe ngựa chặn kín trước cửa nhà họ Lã, khiến cho con đường to như vậy mà không còn một chỗ đứng. Bọn súc vật lại còn thi nhau bậy ra hết lượt này đến lượt khác, mùi tanh khai đậm đặc của nước giải bao bọc lấy chàng. Chàng nghĩ đến thầy Bá Hạ khi đến đây sẽ không khỏi khó chịu. Trong lú Lã Bất Vi đang trông ngóng thì một con ngựa lắc đầu vẫy đuôi, sau khi thả ra một nhát rắm rất kêu liền ị ra một đống phân lớn ngay trước bậc thềm của nhà chàng. Chàng vô cùng khó chịu liền với cây gậy ở trên mái nhà quật vào mông con ngựa. Con ngựa bị đánh bất ngờ giật mình hí lên một tiếng rồi lồng lên chạy như điên, phi qua con đường đầy xe và người. Người và ngựa trước cổng nhà họ Lã và họ Tống nháo nhác tạo thành một mớ hỗn độn. Con ngựa ban nãy hùng hổ vọt lên phía trước, phóng qua bàn tiệc và hội nhạc công. Lúc này gậy gỗ loạn xạ, người ngã ngựa đổ. Chiếc xe điểm vàng quý giá đặt trước cửa để dành riêng cho ông cụ Tống Nhưng ngồi bị đè bẹp rúm ró bởi chân ngựa và người.

Cảnh hỗn loạn này sớm được những người canh cổng của gia đình họ Tống nhìn thấy, họ vội vàng hốt hoảng vào báo với chủ nhân. Tống Nhưng đang cùng với bè bạn chén tạc chén thù, nghe người hầu bẩm báo vội nói với quản gia đây là do Lã Bất Vi cố tình gây ra, phải phạt tiền. Sau khi người quản gia hoa chân múa tay chỉ trích Lã Bất Vi một hồi liền đòi phạt năm trăm lượng vàng. Lã Bất Vi dùng lý để cãi, nói là đuổi súc vật trong phạm vi đất nhà mình không phải là phạm pháp nên không thể bị phạt. Trong lúc chàng và quản gia nhà họ Tống đang đỏ mặt tía tai tranh luận thì khách khứa của hai nhà cũng tham gia, ai cũng thi nhau nói phía mình có lý. Lã Bất Vi thấy đối phương ngang ngược vô lý nên yêu cầu chờ trưởng Châu Bá đại nhân đến giải quyết.

Người quản gia dương dương tự đắc nói, đây là do công tử nói đấy nhá. Châu Bá đại nhân đang cùng với đại gia của chúng tôi uống rượu trong nhà, mời công tử vào.

Lã Bất Vi phẫn nộ bừng bừng tiến vào phòng khách tìm Châu Bá đang say bí tỉ. Châu Bá mắt lờ đờ sau khi nghe xong lời biện bạch của Lã Bất Vi và quản gia liền phán quyết: "Phạt Lã Bất Vi 500 lượng vàng".

Lã Bất Vi không phục lại tranh luận với Châu Bá đại nhân, lúc này Tống Nhưng đang ngồi bên bàn rượu đứng lên hòa giải nói: "Lã Bất Vi gia đình nghèo hèn, quả thật là không có số tiền lớn như vậy, hãy để Bất Vi đến cửa hàng tơ lụa của ta làm một tháng coi như là hòa".

Châu Bá lè nhè nói: "Tội nặng phạt nhẹ, thật lương thiện tốt bụng".

Lã Bất Vi đang tủi thân vì oan ức thì thấy một gương mặt thanh tú ngồi ở mâm rượu khác. Chàng nhận ra đó là Vệ Hoành liền chạy lại nhờ vị hoàng thân quốc thích này lấy lại công bằng cho mình. Vệ Hoành đã ngà ngà say, thờ ơ nói: "Phán quyết của Châu Bá rất sáng suốt không thể thay đổi".

Chàng đứng ngây ra ở đó không hiểu chuyện gì đang xảy ra, hôm qua còn khen mình là nhân tài có thể dựng nên cơ đồ mà sao hôm nay lại lạnh nhạt thờ ơ như vậy.

Cha của Lã Bất Vi sau khi biết môi chuyện thấy việc đi làm công một tháng vẫn hơn là nộp năm trăm lượng vàng. Nếu nộp năm trăm lượng vàng thì đem đầu của bốn người trong gia đình cân lên cũng không đủ, chi bằng đi làm công một tháng. Lã Hâm còn nói với con, gia đình còn phải tiêu một khoản lớn: vua Vệ Nguyên quân hạ chỉ Thiên thần sắp đến thàng Bộc Dương nên mỗi nhà phải xây Thần đường để đón tiếp.

Lã Bất Vi cũng đành bó tay không còn cách nào khác.

Cửa hàng tơ lụa của Tống Nhưng nằm ở đoạn đường phồn hoa náo nhiệt nhất của thành Bộc Dương, mặt ngoài của cửa hàng trải dài và tráng lệ, tổng cộng có mười mấy người làm công cho cửa hàng, họ luôn luôn bận bịu.

Lã Bất Vi làm ở cửa hàng tơ lụa là chuyện bất ngờ nên có phần lúng túng, đo vải tính sổ không thạo, có lúc còn rối loạn lung tung. May mà trong cửa hàng có một người tên là Vương Khuê rất thông minh lanh lợi thạo về buôn bán đã giúp đỡ chàng không ít. Đến đây mua vải đa số là phụ nữ đầy mùi son phấn, chàng không dám nhìn thẳng vào họ.

Đột nhiên ở một nơi cách cửa hàng không xa có một đám đông tụ tập hò hét rất to. Lã Bất Vi dõi nhìn thì thấy tại nơi buôn bán súc vật và nô lệ có một người con gái bị cắm cọc tiêu bằng cỏ đang bị mọi người xét nét bình phẩm từ đầu đến chân. Vương Khuê và một vài người làm công khác dừng việc bán hàng, thích thú hòa vào đám đông. Hồi lâu mới quay lại, họ hết lời khen ngợi: "Tuyệt sắc giai nhân, thật là nghiêng nước nghiêng thành", bảo Lã Bất Vi ra xem để mở rộng tầm mắt. Chàng thấy một người nô lệ là phụ nữ chẳng có gì đáng xem. Vương Khuê lại tiếp tục khen ngợi: "Nói về tướng mạo thì tất cả phụ nữ trong thành Bộc Dương này không ai sánh bằng. Chỉ mỗi tội thời vận không tốt, số phận long đong phải bán thân làm nô lệ. Không biết sẽ bọ ai mua về sử dụng và làm nhục đây".

Nghe vậy, chàng rời khỏi cửa hàng tiến về phía đám đông. Trông thấy trước đầu gối của người nô lệ nữ dựng một tấm thẻ tre viết dòng chữ: "Giá của người nô lệ tuyệt hảo này là mười lạng vàng". Chàng thấy người con gái đó dáng vẻ duyên dáng nhưng mặt mũi bẩn thỉu tóc tai bù xù, giữa hai lông mày có một cái chấm màu đỏ to bằng đầu ngón tay. Mọi người đều bảo cô ta xinh đẹp, xinh đẹp ở điểm nào cơ chứ. Chàng ngắm kỹ, qua lớp bụi bẩn quả thật vẫn giấu một gương mặt thanh tú, người con gái này quả là có một khuôn mặt rất đẹp. Chàng ngắm đi ngắm lại bỗng dưng nảy sinh tâm tình thương hoa tiếc ngọc, thở vắn than dài: "Con gái nhà ai lại rơi vào cảnh đáng thương như vậy".

Khi Lã Bất Vi quay về cửa hàng, Vương Khuê hỉ hả cười hỏi: "Thế nào?". Chàng trả lời: "Rất tuyệt! Rất tuyệt!". Những người làm công trêu đùa nói: "Lã Bất Vi mua cô gái này về... làm vợ hay thiếp đi". Chàng châm biếm lại: "Để làm vợ hay thiếp các anh thì có".

Không biết tự lúc nào đoàn người tụ tập lúc nãy đã tản hết. Lã Bất Vi lại chợt nghĩ tới cô gái nô lệ khi nhìn thấy một gương mặt thiếu nữ được trang điểm rực rỡ, không biết giờ đây cô ta đang bị rao bán nơi góc phố nào, hoặc giả đã rơi vào tay bậc nho tướng giàu sang nào...

Lã Bất Vi đóng chặt cửa hiệu, kết thúc một ngày buôn bán bình thường như bao ngày khác, rảo bước về nhà với một tâm trạng phấn chấn. Con đường nhấp nhô sáng rực trong ánh hồng của buổi chiều tà. Những làn khói tỏa lên từ mái bếp của các ngôi nhà loang ra, quyện lấy bầu không gian đang dần thẫm màu, lơ lửng như mơ ảo. Trước cửa nhiều nhà đã chất đầy gỗ, gạch, có nhà đang hối hả xếp gỗ, vọng lại những tiếng lách cách vui tai. Lã Bất Vi biết, mọi người đều tuân theo chiếu lệnh của Vệ Nguyên quân, chuẩn bị xây điện rước thần.

Về tới nhà, qua bờ rào nhìn vào phía trong, Lã Bất Vi cũng thấy ngổn ngang những cột gỗ, hai bên là hàng đống gạch. Cha Lã Bất Vi cho hay, ngày mai nhà chàng sẽ động thổ xây điện rước thần. Chàng để ý, từ phía Tây Viện Tống Gia cũng đang vọng lại tiếng cưa gỗ hối hả, và trong ánh sáng chiều tà nhập nhoạng lờ mờ những dáng người đang kéo gỗ dựng cột.

Ăn cơm xong thì trờ đã tối, mặc dù ngày mai đã là ngày động thổ, cha chàng vẫn cần phải nghỉ ngơi sau một ngày đã quá bận rộn mệt mỏi, nên Lã Bất Vi một mình cứ ra ra vào vào để tính toán trước công việc. Khi đi ngang qua một đống gỗ, chợt nhìn thấy một bụi cỏ đang nằm ở giữa trông rất vướng mắt, sợ sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng của ngày mai, Lã Bất Vi liền cúi xuống giật bụi cỏ lên. Đúng lúc đó, tiếng "ai a" của một cô gái khiến chàng giật thót người. Lã Bất Vi nhìn thấy lờ mờ hình dáng của một người con gái đứng bật dậy, sau đó, vẫn cái hình dáng lờ mờ ấy lại quỳ thụp xuống, giọng khản đặc cầu xin: "Công tử, xin hãy cứu tôi!". Không biết là bởi lạnh hay đói mà cái hình hài cứ không ngớt run lên bần bật.

Lã Bất Vi cầm cây đèn dầu ra, cái đầu tiên đập vào mắt chàng là vết dấu đỏ rõ nét giữa hai hàng lông mày của cô gái. Tim chàng thót lại: đây chẳng phải là cô gái nô lệ bị buộc cỏ đem bán sáng nay sao? Tại sao cô ta lại đến đây lúc nửa đêm?

Chàng đưa cô gái vào trong nhà kho chứa lương thực và đồ đạc linh tinh hỏi han sự tình. Cô gái nước mắt lã chã kể cho Lã Bất Vi hay, gia đình cô vốn là bồi thần của đại phu nước Tấn, cha cô là Hoàng Phủ Hồ, cô là Hoàng Phủ Kiều và một người anh trai là Hoàng Phủ Thượng Nghĩa. Mùa hè năm ngoái, Vệ Nguyên quân dẫn mười vạn đại quân tiến công nước Tấn, khi đi qua nhà cô đã giết chết cha cô và bắt cô cùng người anh trai. Nửa đường anh trai cô tháo chạy được, còn cô bị đem về, tặng cho một vị tướng quân lập nhiều công trạng để làm nô lệ. Người này rất ghét kẻ nô lệ suốt ngày khóc lóc vì cảnh nhà tan cửa nát nên ngày hôm sau đã đem bán cô lấy mười dật vàng cho một thương nhân giàu có trong thành tên là Phàn Bình. Cha của Phàn Bình mắc bạo bệnh mà chết, muốn được mai táng cùng hai người con trai và hai người con gái, Hoàng Phủ Kiều chính là một trong hai người con gái được mua về để đem chôn cùng. Hoàng Phủ Kiều không cam tâm vùi chôn sinh mạng tuổi trẻ của mình vĩnh viễn hầu hạ cái xác khô của kẻ có tiền kia, và thế là nhân lúc tên gia đinh giữ cô đi vệ sinh, cô đã bỏ trốn ra ngoài.

Lã Bất Vi an ủi Hoàng Phủ Kiều đôi câu, đoạn lẻn vào nhà mang một bát cơm ra, để Hoàng Phủ Kiều ăn một chút cho ấm bụng rồi mới bàn cách giải cứu cô ra sao. Chàng thấy cô gái ăn ngấu nghiến. Thân hình mảnh mai của cô dưới ánh đèn dầu, in lên trên bức tường. Hoàng Phủ Kiều có lẽ bị nhịn đói rất lâu rồi nên chả mấy chốc, thức ăn đã hết sạch.

Cô gái ngước đôi mắt lấp lánh, ánh mắt ấm áp khẽ nói: "Xin hỏi, vị đại ca tên họ là gì?"

Lã Bất Vi nói tên mình cho Hoàng Phủ Kiều.

Hoàng Phủ Kiều liền đứng dậy cáo từ: "Ơn sâu của Lã công tử, kẻ hèn mọn này sẽ mãi mãi khắc lòng tạc dạ, sau này có dịp, nhất định sẽ báo đáp!"

Lã Bất Vi hỏi: "Hoàng Phủ cô nương định đi đâu bây giờ?"

Hoàng Phủ Kiều đáp: "Tôi không thể làm phiền gây liên luỵ đến công tử nữa. Tôi phải đi tìm anh trai của tôi, hai anh em gặp nhau sẽ báo thù cho cha tôi!"

Lã Bất Vi nói: "Sau khi cô bỏ trốn, nhà Phàn Bình quyết không bỏ qua đâu, nếu chúng không báo quan dán cáo thị thì cũng sẽ sai người đi bắt. Cô một thân con gái yếu ớt thế này, lại đang là kẻ mang tội, e là còn chưa tìm được anh trai thì đã bị bắt rồi!"

Hoàng Phủ Kiều đáp: "Tôi đã sa vào bước đường cùng rồi, cũng đành phải vậy!"

Lã Bất Vi nói: "Cứ thử nghĩ kỹ xem, không lẽ hết cách rồi sao?"

Hoàng Phủ Kiều nói: "Bây giờ chỉ còn cách lấy mười dật vàng đến nhà họ Phan chuộc tôi thì mới yên chuyện, đổi được tự do cho tôi. Nhưng mà..."

Lã Bất Vi nói: "Hoàng Phủ cô nương, cô cứ tạm lánh trong nhà kho này đã, đợi tôi suy nghĩ thêm, ngày mai ta bàn tiếp".

Hoàng Phủ Kiều cảm động dập đầu cảm tạ rồi nép mình nơi góc tường đợi ngày mai.

Ánh trăng sáng soi tỏ Lã Bất Vi đang trằn trọc trên giường. Cứ nghĩ đến cô gái Hoàng Phủ Kiều đang nằm trong nhà kho kia, người đã khiến chàng hành động như một bậc anh hùng trượng nghĩa sẵn sàng ra tay cứu giúp kẻ gặp nguy khốn là lòng chàng lại dậy lên một cảm giác tự hào. Chàng thậm chí còn tưởng tượng ra viễn cảnh tươi đẹp sau khi Hoàng Phủ Kiều đã được chàng cứu, khi ấy có thể nàng sẽ được tự do không một chút sợ sệt đi khắp bốn phương để tìm anh trai mình, cũng có thể sẽ gửi gắm đời mình cho chính chàng để cùng chàng kết tóc xe tơ, mà cũng có thể nàng sẽ trở thành thê thiếp cho một bậc thương gia và mang vàng bạc tới trứơc cửa nhà chàng xin cảm tạ... Nhưng, khi cái viễn cảnh về một hạnh phúc xa xôi làm rung động lòng người ấy vỡ tan thì Lã Bất Vi lòng đầy lo lắng khi phải đối mặt trước câu hỏi tìm đâu cho được mười dật vàng. Chính chàng cũng biết, ngoài số tiền dùng để xây điện rước thần ra thì nhà chàng gần như không còn tiền nữa. Cha chàng ngày nào cũng run rẩy sờ soạng mười dật vàng giấu trong chiếc rương nhỏ, đây là món tiền dàng dụm cuối cùng phòng lúc ông cụ trăm tuổi. Cha chàng không thể hào phóng mở hầu bao chỉ để giải cứu một cô gái nô lệ cho chàng, thậm chí ông cụ hẳn còn cho rằng hành động của chàng là to gan và hoang đường. Lã Bất Vi nghĩ đến đôi ba người họ hàng nghèo của mình, nghĩ đến sư phụ Bá Hạ nghĩ đến đôi ba người anh em làm trong cửa hàng tơ lụa mà chàng mới quen...

Mặt trời đỏ ối nhô lên từ phương đông, tiếng rìu đẽo gỗ từ nhà họ Tống bên cạnh vang lên nghe tựa một bản nhạc. Lã Bất Vi vội vã bật dậy đến nhà kho, Hoàng Phủ Kiều vẫn đang ngủ say sưa. Chàng lấy vài manh áo khẽ đắp lên người cô.

Lã Bất Vi trầm tư nghĩ ngợi hồi lâu trong nhà kho. Chàng không hay biết giờ đây vừng đông nhô cao đang tỏa những tia nắng chói chang và phủ sáng lấp lánh lên số phận của Hoàng Phủ Kiều...

Lã Bất Vi là người đầu tiên đến cửa hiệu tơ lụa, chàng vừa vẩy nước quét nhà vừa quan sát mọi người đang lục đục kéo đến. Lã Bất Vi để mắt tìm Vương Khuê. Mới gặp chàng đã có cảm giác đây là con người có thể gửi gắm tâm sự được. Đợi Vương Khuê đến, chàng sẽ đem chuyện mượn tiền nói với anh ta xem sao. Rất nhiều người đã tụ tập trò chuyện trước quầy mà vẫn chưa thấy bóng Vương Khuê. Lã Bất Vi đang nghĩ không biết có nên đợi nữa không hay đi tìm chỗ khác. Đúng lúc chàng đang do dự, chợt một bà lão trông rất chậm chạp cầm theo một mảnh gấm màu nho tới nói: "Hôm qua tôi mua mười thước gấm ở đây, về nhà thử đo lại trước khi đem may áo thì thấy thiếu một thước, mong anh bù lại cho tôi". Lã Bất Vi hỏi bà lão rằng bà mua gấm do ai bán, bà lão nhìn quanh rồi nói: "Là cái anh đứng sát anh đấy, mắt to, trông rất nhanh nhẹn. Sao hôm nay không thấy anh ta nhỉ?"

Lã Bất Vi biết đó là Vương Khuê. Chàng lại nói: "Quả thực có việc này sao?"

Bà lão thề thốt nói: "Tôi ngần này tuổi đầu mà lại có thể đi lừa gạt vì một thước gấm hay sao?"

Lã Bất Vi nghĩ, thấy lời bà lão cũng có lý, lại nhìn đôi mắt hiền hậu của bà, quả không giống với loại người đi lừa bịp. Chàng liền giữ lại mảnh gấm màu nho trong tay bà lão rồi đo lại đầy đủ mười thước mới đưa cho bà.

Bà lão vừa đi thì Vương Khuê miệng thở hổn hển chạy đến. Lã Bất Vi kéo anh ta qua một bên, hạ giọng hỏi: "Sao huynh lại bán gấm thiếu cho người ta?"

Vương Khuê giật thót người, hỏi lại: "Sao đệ biết?"

Lã Bất Vi lại nói: "Nói thật đi, có phải có một bà lão mua mười thước gấm màu nho và huynh đã đo thiếu một thước không?"

Vương Khuê bất đắc dĩ phải nhận: "Đúng vậy?"

Lã Bất Vi đưa lại mảnh gấm đã gấp lại cho Vương Khuê xem, Vương Khuê vội hỏi với giọng hỏi lo lắng: "Thế đệ đã nói cho ông chủ chưa?"

Lã Bất Vi lắc đầu. Vương Khuê vỗ vai chàng nói thế mới là tình nghĩa huynh đệ, mời chàng buổi trưa đi uống rượu. Lã Bất Vi quả thực đang muốn nói với Vương Khuê mượn tạm mười dật vàng, nhưng chàng lại nghĩ, đem chuyện này ra nói khi mình vừa bắt "thóp" được bạn thì cứ như là chàng lợi dụng bạn vậy. Lã Bất Vi im lặng hồi lâu, đắn đo không biết phải mở miệng ra sao với Vương Khuê. Cứ mấy lần định nói, rồi lại không thốt nên lời. Sau cùng, chàng quyết định đi vay tiền ở chỗ khác.

Người làm ở hiệu tơ lụa luân phiên nhau đi ăn cơm trưa. Lã Bất Vi đang định đi ra thì Vương Khuê kéo chàng bắt đi uống rượu, Lã Bất Vi nói mình có việc phải đi. Vương Khuê nói uống với nhau đôi ba chén đâu mất nhiều thời gian, uống xong Lã Bất Vi đi cũng chưa muộn.

Lã Bất Vi lần đầu tiên được đến tiệm ăn ngào ngạt hương vị các món ăn như thế này. Chàng không hiểu sao cứ có cảm giác hơi xa hoa. Vương Khuê khoản đãi chàng rất thịnh tình. Anh ta ra sức nài Lã Bất Vi uống thoải mái, còn nói đây là loại rượu ngon hảo hạng. Vương Khuê uống mặt đỏ tía tai, tâm sự rất cởi mở với Lã Bất Vi rằng, đã là buôn bán thì phải có thủ đoạn để kiếm lợi cho mình. Bán lụa mỗi lần chỉ cần đo thiếu đôi ba tấc thì dần dần cũng được một món lớn. Lã Bất Viừa nghe vừa thầm nghĩ: "Quả đúng như người ta vẫn nói, vi thương bất gian bất vi thương".

Vương Khuê thao thao một mạch về kinh nghiệm buôn bán của anh ta rồi hỏi Lã Bất Vi hôm nay dường như có tâm sự gì đang lo lắng. Lã Bất Vi thở dài, Vương Khuê sa sầm nét mặt nói: "Lã Bất Vi, huynh đã coi đệ như bạn tâm giao, có chuyện gì nếu đệ không cho huynh biết, thì chứng tỏ đệ không thật lòng, đệ mau nói ra đi, nếu huynh không ra tay giúp đỡ thì huynh không phải kẻ trượng nghĩa". Lã Bất Vi đành kể lại cho Vương Khuê chuyện chàng muốn cứu Hoàng Phủ Kiều nhưng đang lực bất tòng tâm.

Vương Khuê nghe xong, chân thành nói: "Ai da, đệ đã mắc vào chuyện hồng nhan, việc này huynh có thể giúp".

Vương Khuê nói đoạn rảo bước về nhà mang đến cho mười dật vàng, nói với Lã Bất Vi: "Khi nào có trả hết cũng được, nếu không có thì trả dần ít một, hà tất phải bận tâm!"

Lã Bất Vi lao như bay về nhà, chạy thẳng đến nhà kho, định gọi Hoàng Phủ Kiều cùng chàng đến nhà Phàn Bình giao tiền chuộc thân. Nhưng chàng tìm khắp nơi trong nhà kho mà không thấy bóng Hoàng Phủ Kiều. Lã Bất Vi biết chuyện này không tiện dò hỏi cha chàng nên quyết định một mình mang tiền chuộc đến phủ họ Phàn, sau đó sẽ tìm Hoàng Phủ Kiều.

Phàn phủ chìm trong không khí tang thương, Lã Bất Vi gặp Phàn Bình nói: "Có một nô lệ tên là Hoàng Phủ Kiều bỏ trốn, nhờ tôi đem mười dật vàng chuộc thân trao cho đại nhân".

Phàn Bình vốn đang sai người đi tìm Hoàng Phủ Kiều mà chưa thấy tăm hơi gì, nay nghe người thay cô ta mang tiền chuộc đến, nghĩ rằng mua đâu chả được một nô lệ khác đem mai táng cùng cha nên nhận lấy mườu dật vàng của Lã Bất Vi và trao lại cho chàng tờ khế ước bán thân của Hoàng Phủ Kiều viết trên tấm trúc.

Lã Bất Vi trở về nhà lúc trời nhập nhoạng tối, cứ nhìn đăm đăm vào cánh cửa nhà kho trầm tư suy nghĩ: "Hoàng Phủ Kiều có thể đi đâu được cơ chứ?"

Cha Lã Bất Vi đang chỉ bảo đám thợ xây điện rước thần, thấy Lã Bất Vi cứ thẫn thờ nhìn vào nhà kho liền gọi chàng lại dặn dò: "Bất Vi, sau này nhà ta sẽ có các vị thần bảo vệ. Sáng nay, cha đã phát hiện một kẻ nô lệ bỏ trốn trong nhà kho, cha đã đuổi đi rồi!"

Lã Bất Vi vờ như không để ý lơ đãng hỏi lại: "Không biết cô ta đi đâu nhỉ?"

Lã Hâm nói: "Ai mà biết được".

Lúc trưa nay khi về đến nhà, Lã Bất Vi để ý thấy trước cửa nhà họ Tống có mấy cỗ xe trông rất sang trọng với những con tuấn mã phủ đệm rực rỡ, lại còn có cả một đội kỵ binh oai vệ. Chàng dò hỏi mới biết, thì ra điện rước thần của nhà họ Tống xây rất đẹp, có người đã bẩm báo với Vệ Nguyên quân, Vệ Nguyên quân rất khen ngợi, họm nay ngự giá đến Tống gia ngự lãm ban thưởng.

Lúc này Lã Bất Vi mới để ý, khoảng đất phía Tây Bắc Tống gia đã được dựng một tòa lầu rường cột chạm trổ sơn son thiếp vàng cao vút tới tận trời xanh.

Lã Bất Vi chưa từng được thấy long nhan Vệ Nguyên quân nên đứng nấp sau cánh cửa nhà chờ đợi. Một lát sau, chàng nghe thấy tiếng nhạc vang lên rộn rã, rồi tiếng hô "vạn tuế" rền vang. Lã Bất Vi nghĩ: "Có lẽ Quốc vương chuẩn bị hồi cung". Chàng liền thò đầu ra nhìn về phía cổng nhà Tống gia. Ngay lúc ấy, chàng chỉ kịp nhìn thấy một người chừng tuổi trung niên đầu đội vương miện đính chuỗi ngọc, tư thế uy phong bước ra.

Lã Bất Vi đoán chừng, đây hẳn là Vệ Nguyên quân.

Chuỗi ngọc đính trên vương miện khiến Lã Bất Vi kông nhìn rõ mặt Vệ Nguyên quân. Mũ mạo rữc rỡ của quân vương được gọi là "diên", vốn là chiếc mũ hình ống tròn được cách điệu. "Diên" trước cao sau thấp, hơi nghiêng về phía trước thể hiện cái tư thế của bậc quân vương đứng từ trên cao mà nhìn xuống thiên hạ. Bên ngoài quan diên là màu đen, bên trong màu hồng ngọc. Phần trước của diên được trang điểm bởi những dây tua mảnh màu sắc sặc sỡ được đính bởi những viên ngọc trân châu lóng lánh, gọi là "chuỗi ngọc". Thiên tử có mười hai chuỗi ngọc, mỗi chuỗi có mười hai viên ngọc, tổng cộng là một trăm bốn bốn viên. Đây là mũ mạo từ thời Châu Thiên tử quen đội. Rồi lễ nhạc bị băng hoại nhiều nhưng các bậc quân vương vẫn cứ mô phỏng kiểu mũ ấy, có khác chăng chỉ là số lượng những viên ngọc. Những viên ngọc rực rỡ sắc màu buông phía trước diên ấy không chỉ là lối phục sức của bậc hào hoa mà còn thể hiện cho sắc thái thần bí và vẻ tôn nghiêm của bậc quân vương. Khi tiếp kiến các hạ thần, Quốc vương có thể quan sát thần thái của họ qua những khe hở giữa các chuỗi ngọc nhưng kẻ hạ thần thì không thể nhìn rõ thái độ của nhà vua.

Khi chiếc mũ miện đính các chuỗi ngọc lúc lắc của Vệ Nguyên quân cùng đoàn vệ binh rầm rộ đã khuất nơi cuối phố, Lã Bất Vi run lên thầm nghĩ: "Tiền bạc có thể đem lại cho con người ta thật nhiều thứ!"

Chẳng mấy chốc một tháng vui vẻ ở cửa hiện tơ lụa đã trôi qua, Lã Bất Vi lại phải quay trở về chỗ đại phu Vệ Hoành tiếp tục làm môn khách. Chàng hoàn toàn không ngờ rằng, chàng bị cấm cửa. Môn dịch của Vệ Hoành lạnh lùng cho chàng hay, Vê đại phu nói chàng đã đánh ngựa trước cửa phủ Tống Kỳ làm kinh động phủ nội, hành vi thất lễ, nếu chàng tiếp tục làm môn khách ở đây sẽ làm tổn hại đến danh tiếng của Vệ đại phu, nay chàng hãy tìm nơi chốn khác.

Lã Bất Vi đâu ngờ cảnh ngộ u ám này của đời mình, lảo đảo đi về nhà. Cái tin này khiến Lã Hâm vô cùng đau đớn, nước mắt cứ thế giàn giụa trên gương mặt in hằn bao sóng gió cuộc đời của ông.

Lã Bất Vi an ủi cha: "Cha à, đừng đau lòng nữa, trời đã cho con sinh mạng ắt chẳng bạc đãi con. Vệ Hoành từ chúng ta nhưng đâu thể tuyệt đường của cha con ta. Muốn làm bồi thần môn khách mong hưởng bổng lộc chứ không vì tiền bạc ở cái thành Hàm Dương rộng lớn này thì ông trời quyết không thể tuyệt đường của con người ta!"

Ánh trăng sáng và bóng cây rợp bao trùm đình viện nơi Lã Bất Vi đang ngồi suy ngẫm day dứt. Những sự việc xảy ra trong một tháng nay mang lại cho chàng biết bao cảm xúc. Đánh ngựa làm kinh động ư, tại sao không phạt chàng tiền công một tháng thôi? Hay là tại bởi vì Tống gia có tiền, có thế, kết giao với các bậc quyền quý, đến Vệ Hoành đại phu và Châu Bác đều đến Tống gia ăn cơm chúc thọ; Vệ Nguyên quân hà tất lại ngự giá đến Tống gia, làm rạng danh tổ tiên, được hưởng lộc triều đình, đây chẳng phải là vì Tống gia có tiền nên mới xây điện rước thần mái cao thân lượn, khắc phượng chạm rồng, sơn dầu dát bạc đấy sao! Lã gia nhà ta nếu lưng dắt vạn quan thì cũng có thể xâu được điện rước thần mang màu sắc hoàng gia như thế, Vệ Nguyên quân khi ấy lại cũng sẽ chẳng ngự giá đến Lã gia sao! Hoàng Phủ Kiều đi về đâu không rõ, sao chẳng thấy chút tăm hơi? Hay nàng vẫn mang nỗi xấu hổ trong lòng, nếu ta cũng giàu có như Tống gia thì đừng nói là mười dật vàng, đến một trăm dật vàng cũng dễ như trở bàn tay, cũng sẽ chẳng đến nỗi bỏ lỡ thời cơ mà dễ dàng kết giao được với Hoàng Phủ Kiều! Tiền bạc có thể làm cho con người ta được tôn quý, hiển vinh, tiền bạc có thể mua được tước vị, tiếng tăm, tiền bạc có thể trải ra con đường tiến thân đầy những gấm hoa dẫu cho con người ta đang ở trong cũng lầy đen tối... Người khác, trước là mưu cầu quan chức, tước vị, sau dựa vào quan tước để tranh điền ấp, bổng lộc, rồi tích tụ tiền của, giàu có vang danh. Ta lại muốn đi một con đường ngược lại, làm kẻ buôn bán, tích luỹ bạc tiền, sau đó mới tranh quan đoạt tước, phong hầu bái tướng.

Hoài bão về tiền đồ mà chàng tự vẽ nên khiến cho Lã Bất Vi háo hức đến không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, Lã Bất Vi điềm tĩnh nói với cha rằng hôm nay chàng rỗi rãi nên muốn đi thăm sư phụ Bá Hạ. Chàng muốn tạm thời không để người cha già đang rất khổ tâm lại thêm một lần nữa phải nhọc lòng suy nghĩ bởi những toan tính được mất chỉ vì những ý tưởng còn rất mơ hồ, mung lung của chàng. Lắng nghe một câu từ miệng người quân tử hơn cả đọc sách cả mười năm. Lã Bất Vi vừa đi vừa phỏng đoán không biết Bá Hạ tiên sinh sẽ tỏ thái độ ra sao trước sự lựa chọn của chàng.

Đã một tháng Lã Bất Vi mới lại đặt chân đến chốn này, gia cảnh Bá Hạ tiên sinh vẫn vậy, nhà nhỏ dậu thưa, bụi gai che cửa sổ. Tất cả cảnh vật nơi đây đều mang lại cho Lã Bất Vi một cảm giác rất đỗi thân quen. Thấy chàng đến, Bá Hạ mừng rỡ ra đón. Rồi, một bình trà đặc, hai thầy trò ngồi trên đất, Lã Bất Vi rủ rỉ tâm sự với thầy về ý tưởng từ bỏ con đường mưu cầu quan tước để dấn thân vào chốn buôn bán, thương nhân.

Bá Hạ chăm chú nghe, nghe xong, ông trầm ngâm hồi lâu rồi nói: "Bất Vi, ta rất khâm phục cốt cách và hoài bão biết nhìn xa trông rộng của con".

Lã Bất Vi vội vàng đứng dậy, khẽ cúi người lo lắng nói: "Thầy nói vậy, con quả xấu hổ vô cùng".

Bá Hạ vẩy tay ra hiệu cho Lã Bất Vi ngồi xuống, rồi cất giọng chân tình nói: "Bất Vi, đừng vì lễ nghi khách khí thầy trò. Suy nghĩ của con quả thực là cờ cao một nước hơn người, hợp thời thuận thế. Con cũng biết Khổng Khâu tiên sinh vốn là quan đại thần nước Lỗ từ thời hơn hai trăm năm về trước, trước đây ta vô cùng bái phục văn chương đạo đức của ông ta. Đặc biệt là khi nghiền ngẫm tập "Luận ngữ", mỗi câu mỗi chữ trong đó đều soi rạng thứ ánh sáng hiền triết, đều là những danh ngôn chí lý. Nhưng bỗng gần đây, khi đọc những trước tác của Khổng tiên sinh, ngẫm nghĩ suy tư thì tình cảm sùng bái của ta dành cho ông ấy đã bị dao động, nói cách khác, ta nhận thấy, không phải tất cả những lời của Khổng tiên sinh đều là những chân lý bất di bất dịch. Ví như, Khổng Tử nói, bậc quân tử trượng nghĩa còn kẻ tiểu nhân hám lợi; bậc quân tử lo việc đạo nghĩa chứ không vì bần hàn mà bận tâm. Ta không cho là như vậy. Cớ sao có thể nói mưu cầu lợi ích vật chất, tránh cảnh cơ cực bần cùng tất thảy đều là bụng dạ, suy nghĩ của kẻ tiểu nhân? Không có bạc tiền, nghèo hèn khốn khó mà nói đến đạo, đến nghĩa há chẳng phải viễn vông sao? Ta có vừa được nghe một câu nói của Quản Trọng, vốn từng làm đến chức Thượng khanh cho Tề Hoàn công, rằng: "Gạo đầy kho mới hiểu lễ tiết, áo ấm thân mới thấu nhục vinh". Đó quả là một lời răn dạy sâu sắc mà mới mẻ, người dân chỉ có thể hiểu được lễ tiết là gì khi họ đã được ăn no, chỉ có thể biết cái gì là vinh, cái gì là nhục khi họ đã được mặc ấm. Cho nên quân tử phong lưu thì dễ lòng hành đức, tiểu nhân no đủ thì dốc sức dốc công. Bậc quân tử khi đã rương cao hòm đầy thì có thể thi ân hành đức, còn kẻ bình dân khi đã có chút của dư thừa thì có thể thêm sức cần lao. Cũng giống như nơi nước sâu mới có cá lội, chốn núi cao mới có thú về, có giàu sang mới tính được chuyện nhân nghĩa. Kẻ giàu có tiền có thế, dang tiếng càng bay xa, mất tiền mất thế, môn khách cũng sẽ đều quay gót bỏ đi, bởi vậy đã có người nói rằng: thiên hạ nô nức, khi còn lợi, thiên hạ quạnh hiu, lợi chẳng còn. Ôi, bậc quân vương nghìn cỗ xe, kẻ chư hầu vạn mái nhà, bậc khanh tướng trăm phòng thất chẳng vẫn sợ bần hàn sao, trách chi được kẻ thất phu với đôi gian nhà chật?"

Từng lời của Bá Hạ thâm thuý diệu kỳ, khiến Lã Bất Vi mở mắt bao điều, chàng vội nói: "Những lời rao giảng của tiên sinh khiến cho đệ tử thấy được những việc chưa từng thấy, nghe được những điều chưa từng nghe. Xin tiên sinh chậm rãi từng lời để đệ tử chắp bút ghi lại, treo nơi đầu giường, bên cạnh án thư mà răn dạy bản thân".

Bá Hạ cười lớn mà rằng: "Ấy, hà tất phải câu nệ như vậy. Hôm nay con tới, ta rất vui mừng; Con muốn thay đổi sự lựa chọn về sự nghiệp của mình, quả là điều trọng đại. Thế nên ta mới góp nhặt đôi câu, nhiều lời một chút, vị tất đã khúc chiết chỉn chu, có chăng chỉ là bàn bạc cùng con để con tham khảo".

Lã Bất Vi vô cùng thành tâm nói: "Không, từng câu từng lời của tiên sinh đều là lời khuyên quý báu, khiến cho tâm tư mơ hồ của con như được rạng soi".

Bá Hạ nói tiếp: "Nếu quả thực như vậy, thì thầy sẽ lại có đôi lời dông dài cùng con. Tử Hạ là một trong những đệ tử xuất sắc nhất trong số bảy hai đệ tử của Khổng Tử. Tử Hạ có một học trò rất nổi tiếng, tên là Lý Khôi.

Ngụy vương Ngụy Văn Hầu chiêu mộ nhân tài, đã phong cho Lý Khôi làm Tể tướng. Trong thời gian chấp chính, Lý Khôi đã thực thi biện pháp tấc đất tấc vàng, phá bỏ ranh giới canh điền, phát triển điền canh thủy lợi, thậm chí còn tính toán giúp Ngụy Văn Hầu. Có một lần Lý Khôi đã tính toán cho Ngụy vương xem về một mảnh đất vuông vức rộng trăm lý, có chín vạn hecta ruộng, nếu trừ đi diện tích rừng núi, hà trạch, thành ấp, làng mạc thì thực tế diện tích canh tác chỉ còn được sáu vạn mẫu. Nếu lúc thuận thời, cần cù canh tác, mỗi mẫu tăng sản ba đấu thì sáu vạn hecta cũng tăng được một trăm tám mươi thạch. Ngụy vương vốn là bậc hiền minh rất nghe theo lời Lý Khôi, tiếp thu kế sách hoa màu: quốc cường dân phú của ông, Ngụy quốc nhờ vậy nhanh chóng cường thịnh. Hay chuyện Sở vương tin dùng Ngô Khởi, Tần Hiếu vương tín nhiệm Thương Ương, những nước chư hầu này đã thực thi biến pháp, tích của tụ tài, trở nên cường thịnh, từng bước hoàn thành bá nghiệp. Thời thay đổi, sách lược trị quốc của các bậc quân vương cũng phải thay đổi, thế gọi là thức thời vậy. Thời thượng cổ thiên vị đạo đức, trung cổ xem trọng trí mưu, cận kim phát huy vũ lực và đương thời trọng thị kinh tế. Thời nhà Thuấn, có bộ lạc Miêu không chịu khuất phục, tướng Vũ xin chinh phạt, Thuấn nói: làm vậy không được, chúng ta không dùng đức trị người mà nay lại dùng lực, há chẳng phải bất đạo hay sao? Suốt ba năm, vừa thuyết giáo, vừa răn đe, người Miêu mới khuất phục. Bất Vi, con xem, Thuấn phái quân tay cầm rìu cầm khiên nhưng lại cùng người Miêu ca hát, thế người Miêu mới khuất phục, thật diệu kỳ biết bao, dùng đạo cảm hóa lòng người thời ấy quả có sức mạnh vô biên. Đến thời cận đại thì sao? Có một lần, nước Tề toan tiến công nước Lỗ, Lỗ vương liền phái Tử Cống - một môn sinh xuất sắc của Khổng Tử đi thuyết giáo, hòng dùng đạo đức mà cảm hóa nước Tề bãi binh hòa hiếu. Tử Cống lý lẽ sắc sảo tới nước Tề diễn thuyết một hồi, người nước Tề nghe xong liền cười mà rằng: "Tử Cống tiên sinh, không phải tiên sinh nói lời vô lý, nhưng cái chúng ta cần là đất đai chứ không phải những lời căn vẻ bùi tai". Và, quân đội nước Tề tấn công nước Lỗ, khuyếch trương biên giới đến cánh cửa thành nước Tề có năm trăm mét. Bất Vi, thử so sánh mà xem, thời thượng cổ, dùng đạo đức đi giáo hóa đã hàng phục được cả một bộ lạc, đến thời cận đại, lại dùng đạo đức đi thuyết giáo thì suýt dẫn đến họa diệt vong cho cả một quốc gia! Thời thế nay, chư hầu đua tiếng, mưu đồ thôn tính đối phương, độc dựng cơ hồ, theo ta, gốc rễ là kinh tế hưng thịnh, nước phú quân mạnh".

Sau một hồi thao thao bất tuyệt, Bá Hạ ngừng lời, chậm rãi nhấp trà.

Lã Bất Vi nói: "Trước kia nghe kẻ bình dân quê mùa nói: Lời châu ngọc không kén chọn sang hèn; vẫn cho là lời phi lý. Giờ mới thấy, lời kẻ tiện nhân cũng đâu kém sâu xa". "Chính vì vậy nên ta ủng hộ hoài bão của con, Bất Vi ạ! Hãy can đảm lên!"

"Có sự khích lệ của thầy, con thấy mình vững vàng biết bao!". Lúc chia tay, Bá Hạ tháo chiếc vòng ngọc khắc rồng chạm phượng đang đeo trên mình trao cho Bất Vi, chân tình nói: "Rồi đây con đặt chân vào chốn thương trường. đi Nam về Bắc, thầy trò thật chẳng dễ gặp mặt nhau, con hãy giữ miếng ngọc bội này bên mình nhé! Có thể nó sẽ giúp con nhớ đến ta!"

Lã Bất Vi lưu luyến từ biệt Bá Hạ. Trên đường trở về nhà, chàng đã biết nên thổ lộ với cha chàng ra sao về những toan tính của mình.

Về tới nhà, chàng thấy cha đang một mình với chén rượu, thẫn thờ. Bất Vi không biết cha đang uống rượu mừng vì điện rước thần đã hoàn tất, hay đang uống rượu giải sầu vì chuyện chàng đã bị khước từ cho làm môn khách ở nhà Vệ Hoành. Bất Vi nghĩ, bất luận là cha đang uống rượu gì thì bây giờ chàng vẫn phải nói cho ông hay về ý tưởng của chàng.

Nghĩ vậy, Bất Vi ngồi xuống giường, rót đầy chén rượu cho cha. Rồi chàng kể hết một mạch cho cha những diễn biến trong lòng cháng một tháng nay, ý nghĩ của Bá Hạ tiên sinh và ý tưởng rời bỏ con đường mưu cầu tước vị, dấn thân vào chốn thương trường của mình.

Lã Bất Vi nói xong, nhìn cha không chớp mắt.

Thoạt tiên chàng thấy cha tỏ ra vô cùng kinh ngạc, sau đó lại hết sức bối rối. Chén rượu trong tay ông nghiêng đi khiến rượu tràn xuống. Nhưng rồi Lã Hâm cầm chén rượu ngay lại, đôi mắt ưu tư nhìn Bất Vi nói: "Những lời của con cũng có đạo lý. Nhưng việc này có can hệ đến tương lai của đời con và sự hưng suy của Lã gia, bởi vậy hãy để cha suy nghĩ rồi sẽ trả lời con".

Suốt đêm, Lã Bất Vi cảm thấy mình như rơi vào trạng thái mơ màng, mung lung. Sớm hôm sau tỉnh dậy, đầu tiên đập vào mắt chàng là một thỏi vàng sáng chói được đặt nơi đầu giường. Lòng chàng rộn lên vì sung sướng: cha chàng đã đồng ý. Cha chàng bước tới, đặt tay nắm chặt vai Bất Vi nói: "Đây là số tiền mà ta và mẹ con dành dụm để lo chuyện hậu sự, con hãy dùng nó!"

Lã Bất Vi cầm lấy thỏi vàng, trông nó tựa chiếc khánh đá. Thỏi vàng ánh lên muôn ngàn tia sáng lấp lánh, như làm hiển hiện trước mặt chàng một không gian rực rỡ tựa gấm hoa. Chàng nhủ thầm: "Có tiền rồi, trước tiên ta phải trả mười dật vàng cho Vương Khuê".

* * * * *

Một kẻ tha hương lòng mang hy vọng làm giàu đang xuôi thuyền trở lại cố hương.

Kẻ đó chính là Lã Bất Vi.

Chàng đã đem đổi thỏi vàng thành một nghìn tiền xu tới vùng sơn cước nước Lỗ mua trái đào nước, mua nửa đồng một cân, về Bộc Dương có thể bán được ba đồng, rất có lời lãi. Một thuyền chất đầy những trái đào tươi tỏa hương thơm ngọt cả lòng người. Lã Bất Vi đang ngược dòng, chỉ còn hai ngày đường nữa là chàng sẽ về tới nhà.

Sông rộng nước lặng, chỉ có tiếng mái chèo hối hả. Ông lão chèo thuyền vừa khua mái chèo vừa khen ngợi Lã Bất Vi, rằng chàng là con nhà giàu có mà chịu thương thịu khó. Lã Bất Vi cay đắng không biết nên khóc hay cười, hỏi ông lão tại sao có thể biết được chàng là con cái nhà có của. Ông lão bảo chàng mặc đồ xa hoa, chỉ riêng đôi ủng chàng đi cũng đáng giá trăm đồng. Lã Bất Vi nói, lão bá tuổi cao mắt kém rồi, đôi ủng này đâu phải đồ quý, chẳng qua cũng chỉ là thứ rách nát tầm thường, có chăng chỉ là màu sắc hoa văn trông vừa mắt chứ chẳng đáng giá là bao.

Lã Bất Vi từ trong khoang ngắm nhìn con thuyền chở hàng của mình đang xuôi mái rẽ sóng trên dòng Bộc Dương. Hai bên bờ sông núi cao trùng điệp, rừng xanh mênh mông. Tình cờ thay có một người con gái xiêm y rực rỡ đang ngắt lá đùa cành. Lã Bất Vi tức cảnh sinh tình, ý thơ dào dạt, cất giọng trầm bổng ngâm bài "Cô gái hái sắn dây".

Hỡi cô hái rau

Một ngày không gặp

Ba tháng xa nhau

Hỡi cô hái rau

Một ngày không gặp

Ba năm xa nhau

Hỡi cô hái rau

Một ngày không gặp

Mùa thu xa nhau.

Trong giây lát, Lã Bất Vi bỗng chợt nhớ tới Hoàng Phủ Kiều, cô gái nô lệ mà chàng đã từng phải đi mượn bạn số tiền chuộc cô. Giờ đây không biết cô đang lưu lạc phương nào, nương thân nhờ ai, hơi người con gái dễ khiến lòng người xao động! Cái vết dấu đỏ hằn lên giữa hai hàng lông mày như một ký ức khó quên lưu lại trong lòng người. Bắt đầu nghiệp thương nhân từ những trái đào, ta sẽ phải tích tiểu thành đại, kiến tha lâu ắt đầy tổ, rồi tiền bạc ắt sẽ như dòng nước này chảy về Lã Bất Vi ta. Ta phải đi tìm Hoàng Phủ Kiều để thổ lộ lòng ta với người con gái xinh tươi tựa hoa nguyệt này. Dẫu cho không tìm được nàng, ta cũng sẽ phải cưới một người con gái tài sắc vẹn toàn làm vợ, rồi ta sẽ mua thêm một, hai nô thiếp xinh đẹp, lễ phép, dịu dàng làm bầu bạn, cuộc sống ngát hương, phong lưu hạnh phúc.

Hoàng hôn buông xuống bao phủ một màu xanh mênh mang lên núi đồi đen sẫm.

Trời chẳng mấy chốc tối hẳn. Thuyền neo bờ, Lã Bất Vi cùng ông lão chèo thuyền ăn cơm tối trong khoang thuyền. Quãng nửa đêm, tiếng sấm ì ầm chợt vang lên, dội xuống mặt sông. Lã Bất Vi bừng tỉnh, thấy trời đang trút mưa ào ào. Chàng nghiêng tai lắng nghe tiếng nước vỗ mỗi lúc một to, biết rằng mưa đang lúc một dữ dội trong đêm. Trời sáng, Lã Bất Vi cũng chỉ đành ngồi nhìn không chớp mắt vào màn mưa trắng xóa đến tận buổi trưa mà chưa hề có ý dứt. Lã Bất Vi vội giục ông lão chèo thuyền khởi hành nhưng ông lão nhìn dòng nước chảy xiết đục ngầu nói, đỉnh lũ ở thượng nguồn quá mạnh, thuyền không xuôi nổi, Lã Bất Vi lấy hai trái đào từ sọt lên nhìn, đào đã nhũn do bị nóng. Chàng hiểu, nếu nhỡ nhàng ở đây chờ đợi hai ngày thì cả thuyền đào tươi của chàng e là nẫu như cháo mất.

Lòng chàng nóng như lửa đốt, khẩn khoản xin ông lão khởi hành mặc trời mưa. Ông lão cho chàng hay ông chưa bao giờ chèo thuyền giữa lúc nước cuộn dữ dội như thế này, nếu mạo hiểm lên đường thì đừng có nói là đào chứ đến cả hai con người trên thuyền này cũng làm mồi cho hà bá. Sau buổi trưa, mưa to hơn, dòng nước cuộn sóng gầm lên nghe như tiếng trâu rống. Sau một ngày một đêm đợi chờ trong mưa, Lã Bất Vi như đứng trên đống lửa ngồi trên đống than. Chàng muốn lên bờ bán tống bán tháo số đào nhưng hỏi ông lão chèo thuyền mới biết thị trấn gần nhất cũng cách đây đến ba mươi dặm. Đường thì trơn, ngựa khó đi. Hy vọng bán đào của chàng cũng tan như bong bóng.

Lại thêm một ngày trôi qua, sau cơn mưa trời sáng dần, mây tan trời quang. Chàng thấy ông lão chèo thuyền đang trút sạch đống đào nhũn nhoét đầy khoang của chàng xuống sông, nhẹ nhàng thoải mái như đấy là một đống phân thải vậy. Và rồi sau đó con thuyền lướt đi tựa như chiếc lá trôi.

Lã Bất Vi bắt đầu lê những bước chân nặng nề trên mặt đường đầy bùn nước hướng về phía Bộc Dương. Lòng trĩu nặng buồn đau, chàng thấy con đường như dài thêm. Mãi đến lúc chiều tà, Lã Bất Vi mới đến một thị trấn nhỏ có bóng người. Tìm một lữ điếm, ăn một chút lót dạ, chàng hỏi thăm và biết Bộc Dương còn cách đây chừng chín mươi dặm đường, thân thể rã rời, chàng cũng chỉ còn cách trú chân ở đây một đêm, đợi sáng mai lên đường sớm. Chỉ kịp đặt lưng xuống giường, Lã Bất Vi ngủ say một mạch, sáng hôm sau lúc mặt trời đã lên cao ba con sào mới tỉnh giấc. Chàng sờ khắp người, chỉ còn sót lại vài đồng bạc. Bất Vi sợ toát mồ hôi, lấy gì để trả tiền ăn ngủ đây? Chẳng lẽ đào tẩu ư? Chàng khẽ gạt bức mành nhìn ra, chủ tiệm cùng đám gia nhân đang bận rộn làm việc. Giá có đào tẩu mà bị tóm lại thì chắc hết chốn dung thân, cầm chắc bị dẫn lên quan phủ. Đã đến nước này thôi thì đành mặt dạn mày dày mà đi tìm chủ tiệm xin khất nợ.

Chủ tiệm cười khẩy nói, "Khất nợ ư? Thế ngươi không trả thì ta biết tìm ngươi ở đâu?" Chủ tiệm lướt ánh mắt khinh thị nhìn từ đầu xuống chân Lã Bất Vi một lượt bảo, nói không đủ tiền thì lột đôi ủng dưới chân ra mà trả. Lã Bất Vi đành tháo ủng trước con mắt của bao nhiêu kẻ vây quanh, vội vã bước đi, ngậm đắng nuốt cay trước ánh mắt giễu cợt của những con người xa lạ.

Lã Bất Vi thất thểu tới bờ sông Bộc Dương, ấp điền nơi chàng sống đã hiện ra trước mắt, chàng cảm thấy hai chân rã rời. Sông Bộc Dương chảy uốn lượn theo thành ấp, vừa là mạch đường thủy vận, vừa là nơi người dân trong thành ra giặt giũ tắm rửa. Vào những ngày nóng nực, khắp bờ sông rộn rã tiếng hồ đập quần áo, tấp nập những cánh buồm và râm ran tiếng cười nói. Giờ đây, trước mắt chàng là mấy cô gái má thắm môi hồng, váy dài lướt thướt đang đuổi nhau nô đùa trên bãi cát. Lã Bất Vi sợ người khác trông thấy cái bộ dạng thảm hại của chàng, vội vàng ẩn mình trong đám rau khao tử um tùm bên bờ sông. Chàng cảm thấy hai bàn chân rát như phải bỏng, liền nằm xuống bãi cỏ nhìn lên bầu trời. Lã Bất Vi khẽ ngước đầu lên, trên kia, những đám mây trắng nhẹ nhàng trôi, lúc thì chụm lại, lúc lại tản ra, tựa hồ như cuộc đời phiêu du của con người. Chàng từ chỗ là một môn khách của nhà Vệ Hoành đại phu tiền đồ sáng lạn bỗng chốc trở thành một tay buôn đào đắc ý tiền nhiều để rồi cuối cùng chỉ trong nháy mắt trở thành một kẻ khốn nạn bần cùng gục ngã. Người cha già vì chàng mà dốc cạn hầu bao với bao kỳ vọng về chàng, dõi theo từng bước chàng đi và mong ngày khải hoàn, vậy mà chàng đã làm tiêu tan hy vọng của cha, đã bỏ sông bỏ bể số tiền mà cha mẹ chàng dành dụm, chàng còn phụ những lời răn dạy chí tình của Bá Hạ tiên sinh và trở thành trò cười cho Tống Kỳ, cho đám bè bạn, anh em ở tiệm tơ lụa. Đường đường một đại trượng phu sống nhục nhã với đời chẳng bằng chết đi hay sao. Nghĩ quẩn quanh một hồi, Lã Bất Vi quyết định nhảy xuống sông tự vẫn, đặt dấu chấm hết cho cuộc đời mình - một chàng trai mới mười tám tuổi. Dòng sông êm ả trôi, siêu nhiên thoát tục, rồi linh hồn chàng cũng sẽ dạt trôi nơi chân trời, tìm đến với sự giải thoát và bình yên.

Lã Bất Vi biết lòng mình đã quyết, chàng cố sức lê đôi chân giờ đã rã rời không còn muốn nghe theo sự điều khiển của chàng nữa khó nhọc bước tới bên bờ sông. Đúng vào lúc chàng đang cúi nhìn những gợn sóng lăn tăn và những xoáy nước trên mặt sông để tìm nơi trẫm mình, bỗng chàng nghe thấy có tiếng ai tựa như tiếng chuông ngân đang gọi tên chàng. Bất Vi ngỡ là mình đang mơ. Chàng hướng mắt về phía tiếng gọi, và đập vào mắt chàng là một vết dấu đỏ xinh xắn đến nao lòng. Là Hoàng Phủ Kiều, chính là Hoàng Phủ Kiều, đích xác là Hoàng Phủ Kiều!

Bất Vi nhìn thấy Hoàng Phủ Kiều mặc một chiếc váy mới tinh, hoa văn sặc sỡ, gương mặt nàng hồng hào, tràn trề sức sống, chàng không còn nhận ra đó là cô gái nô lệ hôm nào phải lánh nạn trong kho thóc ở nhà chàng nữa. Lã Bất Vi vội hỏi Hoàng Phủ Kiều về những chuyện đã xảy ra sau khi nàng rời khỏi nhà chàng. Hoàng Phủ Kiều nhìn Bất Vi hồi lâu, ánh mắt như nói bao điều, rồi kể, sau khi rời khỏi nhà chàng, nàng đã đi khắp nơi để tìm anh trai, sau đó, nàng được một người tốt bụng tên là Phùng Quân Úy cứu giúp và nàng đã nhận ông làm nghĩa phụ. Khi Phùng tiên sinh mang mười dật vàng đến nhà Phàn Bình định chuộc thân cho nàng mới được người ta cho hay đã có một người trả tiền chuộc cho Hoàng Phủ Kiều rồi. Nàng đoán người đó hẳn là Lã công tử. Hai ngày trước đây đến nhà chàng hỏi thăm mới hay Lã công tử đã đi buôn bán đào rồi.

Lã Bất Vi xấu hổ kể lại cho Hoàng Phủ Kiều nghe chuyện buôn bán đào của mình, đoạn nói: "Buôn bán đến trắng tay, lòng như lửa đốt, chẳng thà chết đi còn hơn!" Hoàng Phủ Kiều vội nói: "Sao Lã công tử lại nói năng hồ đồ đến vậy! Như thiếp phận gái liễu yếu đào tơ, lâm vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc mà vẫn chẳng nghĩ đến cái chết. Buôn bán lỗ lãi là lẽ tự nhiên, đâu có gì là lạ? Công tử đợi ở đây một lát, thiếp đi sẽ quay lại ngay!"

Một lát sau, Hoàng Phủ Kiều ung dung ngồi trên một chiếc xe ngựa lớn quay lại, từ trên xe bước xuống, tay ôm một bộ quần áo với mũ, giày mới tinh trao cho Lã Bất Vi, còn có hai mươi dật vàng, mười dật là trả lại cho chàng tiền chuộc thân của nàng, còn mười dật là chút bù đắp cho số tiền lỗ vì buôn đào lần này của Lã Bất Vi. Lã Bất Vi hỏi: "Nàng mang những thứ này đi, nghĩa phụ của nàng có biết không?" Hoàng Phủ Kiều vô cùng tự hào nói: "Thiếp đã kể cho nghĩa phụ nghe về nhân cách của công tử cùng việc buôn bán rủi ro lần này, nghĩa phụ rất ngưỡng mộ chàng, lại còn chuẩn bị tiệc mời chàng đến nữa!"

Lã Bất Vi vội xua tay nói: "Đâu dán, đâu dám!"

Trước khi chia tay Hoàng Phủ Kiều cho biết nơi nàng đang ở. Lã Bất Vi tháo chiếc vòng ngọc khắc hình rồng bay mà chàng mang bên mình tặng Phủ Kiều. Nhìn theo bóng Hoàng Phủ Kiều cùng chiếc xe ngựa thong dong theo con đường uốn lượn khuất dần, Lã Bất Vi cứ ngỡ ngàng không tin nổi số mệnh con người ta lại có thể đổi thay không ngờ đến vậy.

Lã Bất Vi quần áo chỉnh tề, tay cầm hai mươi dật vàng gặp lại cha trong tư thế ngẩng cao đầu. Lã Hâm nghĩ rằng con trai trận đầu đã thắng lợi, nhẹ nhàng kiếm được nhiều tiền đến vậy nên mừng vui khôn xiết, không ngớt hỏi han. Không muốn để cha phải bận tâm, không an lòng, Bất Vi không đả động đến câu chuyện buôn đào thất bại thảm hại của mình thay vào đó, chàng thêm thắt đôi câu, nào là chàng đã thắng lớn một cách bất ngờ ra sao, nào là chàng đã mã đáo thành công thế nào, những lời chàng nói khiến cho gương mặt người cha rạng ngời niềm hạnh phúc.

Bất Vi cầm mười dật vàng đến hiệu tơ lụa tìm Vương Khuê trả nợ bạn. Vương Khuê hỏi chàng lần này đi buôn đào hẳn là phát tài lớn, Bất Vi lắc đầu kể lại sự tình cho bạn nghe. Vương Khuê hỏi thế sau này chàng định tính toán ra sao, Bất Vi nói chàng cũng chưa nghĩ được gì cả. Vương Khuê động viên Bất Vi đừng nản lòng thối chí, rằng vạn sự khởi đầu nan, và khuyên bạn một cách là mở một cửa hiệu tơ lụa ở gần hiệu này; đầu tiên thì làm ít vốn, thuê một gian cửa hàng, hai người giúp việc, một người thu mua hàng, một người đảm trách việc bán hàng, Bất Vi làm chủ hiệu. Cửa hiệu này bán giá bao nhiêu thì hiệu của Bất Vi cũng bán ngần ấy, cầm chắc có lãi mà lại không rủi ro gì. Bất Vi nói có lẽ cũng phải thử xem sao.

Lòng tràn đầy niềm tin, Bất Vi chạy ngược chạy xuôi, lo liệu sắp đặt, và chỉ sau vài ngày, hiệu tơ lụa của chàng đã treo biển đón khách. Mặc dù hai cửa hiệu chẳng khác gì nhau chỉ cách nhau có vài bước chân, cửa hiệu của Bất Vi vẫn nhộn nhịp. Vương Khuê còn bí mật giới thiệu khách hàng cho bên cửa hiệu của chàng, giúp cho việc làm ăn của chàng trở nên phát đạt.

Nhưng vài ngày sau, cửa hiệu của Lã Bất Vi bỗng vắng tanh vắng ngắt. Nguyên do là vì cửa hiệu bên kia bán giá rẻ hơn bên chàng. Vương Khuê cho chàng hay, Tống Kỳ thấy chàng ăn nên làm ra nên cố tình ép giá, hòng khiến Bất Vi lâm cảnh lụn bại. Vương Khuê khuyên Bất Vi hãy tính nước cờ khác, bởi lẽ chàng tiền ít vốn mỏng, sẽ không ép giá lại nổi với Tống Kỳ.

Lã Bất Vi đâu dễ nhún nhường, Tống Kỳ muốn ép chàng nhưng sẽ ép không nổi. Làm ăn ở đây khó bề vượt mặt hắn ta thì chàng sẽ đi tứ phương làm ăn, sẽ bán hàng ngay nơi thôn quê chợ làng vậy. Thế là, Bất Vi cùng hai gia nhân vai vác tơ lục, leo lên một gò đất cao, quan sát bốn phía, hễ thấy ai cũng lập tức mời chào, hễ có cơ hội làm ăn là chụp lấy không bỏ sót. Năm ấy, chính Mạnh Kha đã gọi loại hoạt động buôn bán này là "lũng đoạn" và ghi chép lại trong cuốn "Mạch Tử - Công Tôn thiên". Buôn bán kiểu này lãi ít mà vất vả, quanh năm dầm dãi nắng mưa, chịu sương chịu gió, vậy mà Lã Bất Vi cùng hai gia nhân vẫn kiên trì thức khuya dậy sớm vác lụa trên vai in từng bước chân trên những bờ ruộng dọc ngang khúc khuỷu.

Xem tiếp Chương 3 Hành trình tới Hung Nô

Hàn Diệu Kỳ

Chương 3 Hành trình tới Hung Nô

Lã Bất Vi cùng hai gia nhân chờ đón từng người qua lại trên khắp mọi nẻo đường để bán lụa. Giờ đã là mùa thu. Những thửa ruộng sau mùa gặt giờ chỉ còn trơ ra những gốc rạ. Chưa có sương rơi, vẫn còn có thể trông thấy sắc màu xanh non của vài sợi cỏ ngọn cây lưa thưa giữa những khoảng đất rộng trên những thửa ruộng. Những cơn gió thu xào xạc cuốn theo từng đợt lá vàng rơi. Vài gốc cây khô trụi lá gầy guộc bất lực nhìn sắc trời cuối thu âm vang tiếng lá rụng mang theo hơi mùa đông tới.

Trời se lạnh, Lã Bất Vi nhóm lửa sưởi ấm, hâm nóng vài ngụm rượu để uống cho huyết mạch lưu thông, người ấm áp lên. Thời gian này, rất ít ai đi về vùng ruộng đồng ngoài thành ấp vì sợ cái lạnh tê người nơi đồng không hoang vắng ấy. Và chuyện làm ăn kiểu "lũng đoạn" của Lã Bất Vi cũng lắng nhạt đi tựa như sự tiêu điều của thời tiết vậy.

Một hôm, Lã Bất Vi tình cờ gặp người biểu diễn rắn cưỡi một con ngựa, lưng đeo kiếm. Không biết tại bởi đã quá mệt hay do quần áo mặc trên mình quá mỏng mà vừa nhìn thấy đống lửa trước mặt Lã Bất Vi, anh ta liền nhảy xuống ngựa, co mình sưởi ấm.

Lã Bất Vi nhận thấy đó là một chàng trai nhiều hơn mình dăm tuổi, dáng vẻ cương nghị, trầm tĩnh. Anh ta không hề bắt chuyện với Lã Bất Vi và hai gia nhân mà ngồi sưởi ấm một lát rồi tháo bầu rượu đeo bên sườn ra, định hớp vài ngụm. Lã Bất Vi liền giữ tay anh ta lại, đoạn đưa cho anh ta một ly rượu đã được hâm nóng, nói: "Uống rượu lạnh hại tỳ sinh bệnh, uống rượu ấm này đi".

Người biểu diễn rắn không từ chối, cũng chẳng cám ơn, cầm lấy ly rượu tu ừng ực hai ngụm, chùi mép rồi đưa lại chiếc ly cho Lã Bất Vi.

Lã Bất Vi cảm thấy thật kỳ lạ, không lẽ người này bị câm hay sao?

Chợt con ngựa đứng bên cạnh hý lên một tiếng dài. Lúc này Lã Bất Vi mới để ý, con ngựa của người biểu diễn rắn là thuộc giống long mã mặt sư tử. Con tuấn mã lông đỏ thẫm có điểm những đốm đen đang lúc lắc cái bờm trông tựa một tấm lụa đỏ. Bốn chân cao, khỏe đứng tựa hồ còn vững hơn cả bốn cột chống nhà. Toàn thân nó láng bóng như bôi mỡ. Mặc dù phải thồ theo xe đựng mấy con rắn nhưng bốn chiếc móng ngựa như đá chôn xuống đất, vững vàng không nhúc nhích.

Lã Bất Vi không ngớt miệng khen: "Con ngựa tuyệt quá! Con ngựa tuyệt quá!"

Hai gia nhân cũng nói: "Ở Bộc Dương chưa bao giờ được thấy một con tuấn mã to khỏe như thế này, đến con ngựa dùng để kéo xe vàng cho Vệ Nguyên quân e là cũng không sánh kịp!" Lã Bất Vi tò mò hỏi người biểu diển rắn: "Con ngựa quý này là giống ở đâu vậy?" Người biểu diễn rắn rốt cục cũng mở miệng: "Hồ Địa". Lã Bất Vi hỏi tiếp: "Đó chẳng phải là quốc gia của người Hung Nô ở phương bắc đó sao?" Người biểu diễn rắn gật đầu. Lã Bất Vi lại hỏi: "Anh đến đó rồi ư?" Anh ta lại gật đầu. Lã Bất Vi nghe nói, ở nước Triệu, kể từ khi Triệu Võ Linh đề xướng: "Hồ phục kỳ lạ", ở thành Hàm Đan nơi đâu cũng thấy người mặc trang phục của người Hồ, học cưỡi ngựa bắn cung. Bởi vậy, ở đó, ngựa và trang phục của người Hồ rất đắt.

Đã có người đến Hồ Địa mang theo lục là ngọc trân châu vốn rất rẻ đổi lấy ngựa tốt, quần áo bằng da thú đem về bán rất đắt trong thàng, kiếm lãi kếch xù. Lã Bất Vi cũng từng có ý tưởng này trong đầu nhưng ngặt nỗi đường sá không thuộc, ngôn ngữ không thông nên đành nhìn mà nuối tiếc. Người biểu diễn rắn đã từng đi tới quốc gia Hung Nô đang đứng trước mặt chàng đây chợt trở nên đầy lôi cuốn với Lã Bất Vi. Lã Bất Vi đến gần hơn một chút, thân mật hỏi: "Xin hỏi vị đại ca, nghe nói mười thước lụa như chúng tôi đang bán đây có thể đổi được mười mấy con ngựa của người Hồ có đúng không?" Người biểu diễn rắn đáp: "Đúng. Người Hồ đặc biệt thích lụa". Lã Bất Vi lại hâm nóng thêm một ly rượu mời người biểu diễn rắn uống.

Lã Bất Vi thấy ánh mắt lạnh lùng của anh ta giờ đã trở nên ấm áp hơn đôi chút. Cũng có thể là sự nhiệt tình của chàng đã làm anh ta cảm động. Chợt, người biểu diễn rắn lên tiếng trước: "Ba người các anh can đảm, nhiệt huyết ở đây dầm mưa dãi nắng kiếm chẳng nổi vài đồng. Chi bằng các anh mang vải lụa của mình tới chỗ người Hung Nô, cầm chắc đổi được 180 con ngựa tốt đem về Hàm Dương bán thì có thể kiếm được bằng với số lãi các anh kiếm ở đây 18 năm!" Lã Bất Vi vội đỡ lời nói tiếp: "Chúng tôi đâu phải không muốn như vậy! Hiềm nỗi núi cao, đường xa, lại không biết lối, ngôn ngữ chẳng thông, bởi vậy không dám mạo hiểm lên đường".

Nói xong câu này, Lã Bất Vi nhìn chằm chằm, quan sát sắc mặt của người biểu diễn rắn, đoạn thăm dò tiếp: "Nếu mà được một người đã từng đi tới Hung Nô dẫn đường cho chúng tôi thì quả thực chẳng còn gì bằng!" Người biểu diễn rắn nhận thấy ý bóng gió trong lời nói của Bất Vi, do dự một lát rồi nói: "Như thế này vậy, ta sẽ đưa các anh đi một chuyến".

Lã Bất Vi không giấu nỗi vui mừng hỏi: "Thật sao?"

Người biều diễn rắn đứng dậy, đập đập vào chiếc áo cho bụi đất bay xuống, nói: "Sáng ngày kia hẹn gặp tại đây, anh phải có một con ngựa để cưỡi và thồ hàng". Nói rồi nhảy lên ngựa, lao vút đi.

Con người đến tên cũng không để lại mà nhận lời giúp đỡ một cách dễ dàng đến vậy khiến cho Lã Bất Vi vừa cảm thấy ngạc nhiên, vừa có cảm giác nghi hoặc. Nhưng rồi chàng nghĩ anh ta trông thật thà, nghĩa hiệp hẳn sẽ không đến nỗi hứa hươu hứa vượn, lời nói gió bay.

Về tới nhà, Lã Bất Vi kiểm tra lại toàn bộ số hàng, còn bảy trăm thước lụa, mua vào thêm ba trăm thước là vừa đủ một nghìn thước. Có việc vào thành mua ngựa là khiến chàng đau đầu một chút bởi lẽ chàng chưa hề cưỡi ngựa, nhìn thấy những con tuấn mã to khỏe hung dữ mà phát run. Bất Vi cưỡi thử vài con, sau cùng cũng mua được một con có vẻ ngoan ngoãn vâng lời và dắt về nhà.

Ngay tối hôm ấy, Lã Bất Vi tìm đến nhà Phùng Quân Úy để từ biệt Hoàng Phủ Kiều. Kể từ lần chia tay trước nên bờ sông Bộc Dương, chàng và Hoàng Phủ Kiều mới gặp lại nhau một lần. Đó là vào ngày đầu tiên Lã Bất Vi đi buôn bán tơ lụa, chàng đã cắt ra một mảnh vải bông hình lá nho đẹp nhất tốt nhất và mua thêm một chiếc thoa cài đầu bằng vàng mang đến trước cửa nhà Phùng Quân Úy, vội vàng gặp rồi vội vàng chia tay với Hoàng Phủ Kiều.

Lần đầu tiên Lã Bất Vi nhìn thấy Phùng Quân Úy, vị lão tướng đã bao phen mặc giáp cầm gươm nam chinh bắc phạt với phong thái cởi mở, râu dài, nét mặt đôn hậu. Phùng Quân Úy vui mừng nói: "Con gái nuôi của ta thường nhắc đến công tử, ngợi ca công tử, hôm nay được gặp mặt quả là bậc hào hoa phong nhã, khí khái hơn người. Lần trước công tử đi mua đào từ vùng sơn cước trở về, lão phu vốn định bày tiệc tiếp công tử, tiếc một nỗi là phải tháp tùng Tể tướng đại nhân đi tuần thị vùng biên ải nên lỡ mất, quả thựa đáng tiếc. Hôm nay nhất định lão phu phải bày mâm đãi công tử!" Nói đoạn, không cần biết Lã Bất Vi có đồng ý hay không, liền sai quản gia chuẩn bị rượu thịt. Lã Bất Vi mặc dù vừa dùng bữa xong nhưng thấy lão Quân Úy chân thành nhiệt tình đến vậy nên chẳng tiện nói lời từ chối.

Lã Bất Vi cùng lão Quân Úy thưởng thức những món ngon vật lạ bên Hoàng Phủ Kiều đi tới đi lui tiếp rượu hầu thịt, chàng đã có một buổi tối đầy mãn nguyện.

Sáng sớm ngày hôm sau, một con ngựa tắm mình trong ánh nắng ban mai mang trên lưng chàng thanh niên ôm mộng tới Hung Nô quyết liều mình một phen, chẳng mấy chốc đã ra khỏi thành Bộc Dương.

Lã Bất Vi vừa phi ngựa tới điểm hẹn vừa nghĩ: "Không có lẽ nào anh ta lại không tới!", chỉ đến khi chàng nhìn thấy từ xa bóng một người đang dắt ngựa đứng đợi ở đó, chàng mới trút được gánh nặng âu lo trong lòng.

Lã Bất Vi cùng người biểu diễn rắn trèo đèo vượt suối, ngày đi đêm nghỉ. Tới mỗi thành ấp, người biểu diễn rắn lại dựng rạp mời gọi người xem xiếc rắn đi thu tiền. Người biểu diễn rắn thâm trầm ít nói, biểu diễn xong quay về lữ điếm cũng không chuyện trò gì cùng Lã Bất Vi, mà một mình tới khoảng đất trống để đi quyền múa kiếm. Lã Bất Vi đã mấy lần hỏi quý tính đại danh của anh ta song anh ta đều cười nhạt mà rằng, công tử cứ gọi tôi là người biểu diễn rắn. Thấy anh ta nói vậy, Lã Bất Vi cũng không hỏi thêm nữa. Người biểu diễn rắn này kiệm lời nhưng rất hào phóng, anh ta thường lấy tiền biểu diễn để trả chi phí ăn ngủ dọc đường, điều này khiến Lã Bất Vi trong lòng áy náy.

Cuối cùng, hôm đó, Lã Bất Vi theo người biểu diễn rắn đến vùng biên giới gió thổi lồng lộng, có đồng cỏ rộng trải dài tít tắp. Người biểu diễn rắn thở phào thốt lên: "Đến rồi!"

Khi Lã Bất Vi cùng người biểu diễn rắn đặt chân lên mảnh đất hàn bắc, đi nghìn dặm chưa thấy bóng người. Là tác giả mà tài mọn, tôi không có cách nào miêu tả cho bạn đọc bức tranh sinh động về cuộc sống của dân tộc du mục Hung Nô này. May thay, đã có nhà sử học, nhà văn học Tư Mã Thiên, đành trích đôi lời thần diệu của ông để miêu tả phong tục, sinh hoạt của người Hung Nô thời bất giờ hầu bạn đọc.

Thủy tổ Hung Nô là hậu duệ họ Hạ Hậu, gọi là Thuần Duy. Trước thời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, có Sơn Tuấn, Hiển Doãn, Hồn Châu... sinh sống ở Bắc Nam, di chuyển theo sự chăn nuôi gia súc. Số lượng gia súc của họ phần lớn là ngựa, bò, dê, một số gia súc đặc thù như lạc đà, lừa... Họ tìm đến những nơi có nước và cỏ, do vậy thường xuyên di chuyển. Không có thành quách và nơi ở cũng như vùng đất nông nghiệp nhất định, nhưng cũng có những khu đất không có văn tự thư tịch, dùng ngôn ngữ làm ước thúc. Trẻ con biết cưỡi dê, bắn chim thú, lớn một chút có thể săn bắn cáo, thỏ làm thức ăn. Đàn ông của họ đều biết bắn cung, cưỡi ngựa. Tập tục của họ là: bình thường vô sự, thì theo đàn gia súc, lấy việc săn bắn để duy trì cuộc sống; gặp tình hình nguy cấp, mọi người đều tập luyện binh sĩ, dàn trận, đi xâm lược người khác là thiên tính của họ. Binh khí mà họ thường dùng là cung tên, binh khí ngắn là dao kiếm, mâu, thuẫn. Khi tác chiến, nếu thuận lợi thì tiến công, không lợi thì rút lui, bỏ chạy không cho là nhục. Chỉ cốt có lợi, không để ý đến lễ tiết. Từ vua cho đến thường dân, ai cũng ăn thịt súc vật mặc áo da thú, khoác chăn lông. Thanh niên khỏe mạnh được ăn thức ăn ngon, người già ăn những thức dư thừa. Họ coi trọng trai tráng khỏe mạnh, coi thường người già cả yếu đuối. Bố chết, con có thể lấy mẹ kế làm vợ; anh em chết, anh em của người đó có thể lấy vợ của người chết làm vợ mình. Tập tục của họ là mỗi người đều có tên, không kiêng kị, lại không có họ và chữ...

Phóng tầm mắt ra xa trên bình nguyệ trải rộng bao la, Lã Bất Vi thấy có những túp lều nho nhỏ tựa như những hạt đậu được vãi ra tứ phía. Hai con ngựa phi lên phía trước mặt cho từng đợt gió táp, những túp lều nhỏ mỗi lúc một rõ nét và trở nên to hơn. Lã Bất Vi nhìn rõ trước mặt chàng có năm túp lều vải, trong đó một lều trướng cao và to hơn hẳn những lều khác, trên vải lều có hình họa đẹp đẽ, trên đỉnh lều, một lá cờ đỏ thắm viền xanh đang tung bay trong gió. Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn nhảy xuống ngựa, mở túi ra, dùng một thứ mực đen đựng trong túi xoa lên mặt. Người Hung Nô quy định, sứ thần và khách thương người Hán nếu không theo phong tục mà bôi đen lên mặt sẽ không được phép vào nhà họ.

Người biểu diễn rắn cho Lã Bất Vi hay, lều trướng lớn trước mặt là của Hữu Cốc Lãi Vương quan tước tương tự như Tể tướng của nước Vệ và bảo Lã Bất Vi cùng anh ta vào triều kiến ông ta. Người biểu diễn rắn bảo Lã Bất Vi đừng sợ, đã có anh ta nói giúp chàng.

Hai bên cửa lều là hai tên lính lưng dắt dao, sau khi bẩm báo, Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn được đưa vào trong. Khi tấm dạ trên cửa buông cũng là lúc mùi tanh khét ở đâu hầm hập bao lấy Lã Bất Vi, trong giây lát, Bất Vi cảm thấy lạnh toát sống lưng.

Đây là lần đầu tiên đến Hung Nô. Trước mặt chàng giờ là một toán người đang ngồi trên một tấm thảm dạ, ở giữa là một người trông rất cao lớn vạm vỡ mình khoác da thú, hai bên là một vài vị quan thần và thê thiếp. Lã Bất Vi nghĩ, người này hẳn là Hữu Cốc Lãi Vương rồi.

Người biểu diễn rắn quỳ lạy Hữu Cốc Lãi Vương theo nghi lễ của người Hung Nô, Lã Bất Vi cũng làm theo, quỳ xuống thảm. Lã Bất Vi nghe thấy người biểu diễn rắn dùng một thứ ngôn ngữ lai tạo giữa tiếng Hồ và tiếng Hán rất khó nói để bẩ, với Hữu Cốc Lãi Vương về mục đích chuyến đi của họ. Sau đó, người đã dùng tiếng Hồ trò chuyện cùng vị thủ lĩnh của người Hung Nô. Hai người nói chuyện say sưa, Hửu Cốc Lãi Vương cười phá lên khoái trá.

Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn được một trưởng bộc có bộ râu quai nón đưa ra khỏi lều. Người biểu diễn rắn cho hay, chuyện làm ăn đã bàn bạc xong mười thước lụa sẽ đổi một con ngựa. Lã Bất Vi giao một nghìn thước lụa cho vị trưởng bộc này. Đổi lại chàng sẽ được nhốt trên một bãi đất bao quanh bởi hàng rào gỗ, trong đó những con ngựa đang hý vang ầm ĩ như một dàn đồng ca, màu lông sặc sỡ như một bức tranh dưới hoàng hôn tuyệt đẹp. Vị trưởng bộc mời Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn kiểm tra những con ngựa.

Lã Bất Vi đếm nhanh, nhưng cứ đếm chưa được hơn mười con thì lại bị những con khác nhảy nhót xung quanh làm hoa cả mắt, đếm không nổi. Người biểu diễn rắn nói, không cần phải đếm, hơn vài con thiếu vài con cũng chẳng sao, trâu ngựa đối với người Hung Nô cũng chỉ như gà vịt đối với chúng ta mà thôi.

Bên cạnh chuồng ngựa có độc một chiếc lều, bên trong có giường đệm, thức ăn và bếp lửa. Vị trưởng bộc nói, nơi này được chuẩn bị cho những thương gia người Hán tới Hung Nô. Người biểu diễn rắn nói: "Sáng mai phải đưa hết số ngựa này đi, về đến chợ ở thành Hàm Dương rồi, chúng chỉ cần hý mấy tiếng thôi là lập tức đã biến thành tiền trong túi Lã đại thương gia rồi!"

Đây là cấu nói dài nhất, hài hước nhất mà người biểu diễn rắn thần bí, khó hiểu nói với Lã Bất Vi trên suốt chặng đường dài nghìn dặm mà hai người cùng đi bên nhau. Trên mảnh đất hoang vu giữa cái lạnh tê tái của trời đất Lã Bất Vi chợt nghĩ: vận mệnh con người, chớp mắt vạn biến. Việc mà mới đây thôi còn tưởng là chỉ biết nhìn mà tiếc, không với tay nổi thì trong chốc lát, tựa hồ như trăm nghìn đóa sen chợt nở bừng trước mắt ta! Nửa tháng trước đây, chuyện đổi lụa lấy ngựa đối với ta vẫn còn rất lờ mờ, không rõ nét, vậy mà bây giờ thì sao? Ôi, một món tiền lớn đã ở gần trong tầm tay rồi, thật dễ như trở bàn tay vậy!

Ở nơi thảo nguyên mênh mang, khoáng đạt này, màn đêm buông xuống nhanh hơn ở thành Bộc Dương. Khi mặt trời vừa lặn, trời vẫn còn hơi sáng, nhưng rồi sau đó, rất nhanh, ánh hoàng hôn lẫn sắc thần bí ùa xuống bao phủ bốn xung quanh những túp lều. Từng cơn gió tây thổi rào rào, tựa hồ như những cô thiếu nữ xấu hổ, chỉ khẽ làm lay động cỏ cây vàng khô bên ngoài lều trướng, tạo nên những âm thanh trống trải và xa xôi.

Lúc đi ngủ, người biểu diễn rắn thái độ rất lạ ra hiệu cho Lã Bất Vi rằng, đêm ở đất Hung Nô này có thể có những hiểm nguy khó lường, và anh ta thì thầm: "Chúng ta mặc áo vào nhưng phải nằm dưới gầm giường". Sau này Lã Bất Vi nhớ lại, đêm ấy, chàng đã bị đánh thức. Có hai vệt lửa quét sáng trong lều rồi tắt ngay. Sau đó chàng nghe thầy có tiếng Hung Nô loáng thoáng chen lẫn tiếng gió. Chàng nín thở hồi lâu, rồi một cánh tay kéo chàng ra khỏi gầm giường.

Trong bóng tối đen như mực, Lã Bất Vi nghe thấy giọng nói run run của người biểu diễn rắn: "Có người muốn giết chúng ta, chúng ta phải đi mau thôi". Bên ngoài lều tối mù mịt. Dưới ánh sao yếu ớt, Lã Bất Vi nhìn thấy một lưỡi dao trắng đang lay động trông như một con rắn, thanh kiếm sắc trong tay người biểu diễn rắn càng làm cho chàng cảm thấy dường như sắp có một trận quyết tử diễn ra. Đằng xa, có hai quầng lửa soi sáng cả một khoảng tối. Hai kẻ Hung Nô tay cầm đuốc, tay cầm dao tìm kiếm. Người biểu diễn rắn nhẹ nhàng không một tiếng động tiến lại sau lưng chúng, chỉ kịp nghe thấy hai tiếng kêu khô khốc "Ai a", "Ai a", rồi hai bó đuốc rơi xuống đất. Lã Bất Vi kinh hãi nghĩ: "Có lẽ anh ta đã giết chết cả hai tên rồi". Người biểu diễn rắn đang lật giở quần áo của hai tên Hung Nô đã hồn lìa khỏi xác, Lã Bất Vi vội vàng lao tới nói: "Tìm gì vậy? Chúng ta mau chạy thôi!" "Tù và" Người biểu diễn rắn có lẽ đã tìm thấy, đứng dậy nói với Lã Bất Vi: "Công tử cưỡi ngựa của tôi, tôi cưỡi ngựa trong chuồng, mau!" Lã Bất Vi dắt con ngựa màu đỏ thẫm đang buộc ngoài lều, người biểu diễn rắn mở cửa chuồng ngựa, phóng mình nhảy lên lưng con ngựa lao ra trước, nói với Lã Bất Vi: "Chạy nhanh theo tôi, kiểu gì cũng phải ghìm được cương ngựa cho chắc!"

Hai con ngựa lao đi trong đêm tối. Người biểu diễn rắn thổi tù và, những tiếng "tu... tu... tu..." giục gọi hơn một trăm con ngựa trong chuồng cùng lao ra vùn vụt. Lã Bất Vi nắm chặt bờm ngựa, người tung lên tung xuống. Lúc đầu chàng còn nghe thấy tiếng gió thổi vun vút, sau đó chỉ còn tiếng vó ngựa rầm rập tựa tiếng gió thét mưa gào làm rung chuyển mặt đất. Màn đêm dày đặc vùng hàn bắc dần lùi lại sau lưng họ...

Hai cánh cửa lớn hai thành Hàm Dương của nước Triệu vốn đã bị thời gian làm cho phai màu đỏ thẫm, giờ trước dòng cuộn chảy của hơn một trăm con ngựa tiền hô hậu ủng dường như đã trở nên chật chội. Bụi cuốn dưới vó ngựa tựa như một lớp mây mù dày đặc phủ trên nóc nhà. Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn đang gò mình trên lưng ngựa trong lớp gió bụi như đang cưỡi mây vờn sương vậy. Mọi người nhìn thấy một đội quân người ngựa lao tới vùn vụt như giông bão kéo đến trước cơn mưa đều vội vàng nhường đường. Hàm Đan là đô thành nổi tiếng từ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Theo sự giải thích của chú giả Trương Yến trong cuốn "Hán thư" thì Hàm, là tên núi; Đơn, nghĩa là tận cùng. Bởi lẽ núi Hàm cao vô cùng tận cho nên được gọi là Hàm Đơn. Thành bắt nguồn từ ấp, bởi vậy thêm chữ ấp vào chữ "Đơn" thành chữ "Đan". Mảnh đất người đông vật nhiều này, phố phường chằng chịt, xóm ngõ giăng giăng. Đi men theo các đường phố dọc ngang, hai bên đường lần lượt hiện ra rất nhiều nơi buôn bán, nào là các cửa hiệu cờ bay phấp phới, nào là các quán trà, tiệm ăn, tiệm rượu. Cách một đoạn phố lại xuất hiện một lầu các cao vút có vọng lâu với rường cột chạm trổ, thoáng nhìn biết ngay là một nhà dòng dõi trâm anh thế phiệt. Trên phố người đi lại như mắc cửi, thỉnh thoảng lại có xe ngựa lộng lẫy của một bậc vương hầu khanh tướng nào đó hoặc những chiếc xe có đính tua cờ của các tiểu thư đi qua, quả là "xe ngọc ngà của bậc vương hầu tấp nập lại qua, dây cương vàng của bậc khanh tướng rộn ràng lui tới". Còn có biết bao thiếu nữ xinh đẹp, cổ đeo vòng ngọc, xiêm áo thanh thoát, gương mặt thắm hồng. Ngoài ra còn có một vài người mặc trang phục của người Hung Nô, đây là vết tích của chủ trương "Hồ phục kỳ lạ" do Triệu Linh vương từng khởi xướng. Ngồi trên lưng ngựa, Lã Bất Vi không biết nên nhìn ngắm gì trước biết bao cảnh đẹp của một đô thành phồn hoa thịnh vượng như thế này. Khi chàng và người biểu diễn rắn dẫn đoàn ngựa tiến vào cổng chợ, Bất Vi càng cảm thấy hoa mắt trước bao nhiêu là thứ đẹp. Được bày bán có ngọc trân châu, lụa là gấm vóc, rồi giày da, đồ gốm, dao găm, xe ngựa. Người bán người mua chen chúc, tiếng mời gọi vang lên rộn ràng. Người đi không có chỗ vòng lại, ngựa xe chẳng có chỗ quay đầu.

Hơn một trăm con ngựa của Lã Bất Vi chả mấy chốc bán hết. Bất Vi cùng người biểu diễn rắn tìm một nhà trọ loại hảo hạng để nghỉ ngơi, tính ra được lãi trọn hai trăm dật vàng. Lã Bất Vi chia đôi số vàng đưa cho người biểu diễn rắn một nửa, anh ta nói đưa cho anh ta quá nhiều, anh ta lại chẳng phải bỏ vốn nên kiên quyết không nhận. Lã Bất Vi cau mày nói, nếu đại ca từ chối không nhận, hẳn là chê kẻ tiểu đệ đền ơn không xứng chăng? Lần này đi lên vùng đất của người Hồ ở miền Bắc, may mà có đại ca dẫn đường chỉ lối, chuyển nguy thành an, nếu không, đừng có nói là hai trăm dật vàng chứ đến hai mươi dật cũng không kiếm nổi. Tiểu đệ nhận một trăm dật, cũng cảm thấy hổ thẹn vô cùng! Người biểu diễn rắn thấy Lã Bất Vi không phải hạng người tham lam gian xảo nên cũng không từ chối nữa!

Lã Bất Vi dặn chủ quán cẩn thận làm mấy món ăn thơm phức, mua một hũ rượu, muốn cùng người biểu diễn rắn nâng ly chúc mừng, uống cho thỏa sức. Rượu thịt đã được mấy hồi, Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn đều đã ngà ngà say. Lã Bất Vi không úp mở nói thẳng những lời bấy lâu nay vẫn giấu trong lòng: "Huynh đệ sống chết có nhau đã được hơn một tháng. Đệ thấy huynh là bậc quân tử hiệp nghĩa, trung dũng, đệ cũng chẳng phải kẻ tiểu nhân tham tiền vô đạo, huynh đệ chúng ta cũng coi như là duyên phận trời ban, tâm đầu ý hợp. Nhưng, quý tính đại danh, xuất xứ lai lịch của đại huynh ra sao, đối với đệ vẫn là điều bí ẩn, điều này khiến cho tiểu đệ suy nghĩ, day dứt". Người biểu diễn rắn vẫn lặng thinh không nói. Lã Bất Vi hỏi: "Huynh tên họ là gì?" Người biểu diễn rắn đáp: "Người biểu diễn rắn". Lã Bất Vi nổi giận: "Đệ không hiểu, tại sao huynh lại phải giấu kín tên họ của mình?" Người biểu diễn rắn đỏ mặt tía tai nói: "Bởi vì ta là kẻ đã thả rắn trong cung của Vệ Nguyên quân cắn chết công tử Nộ Khiên, có lẽ Vệ Nguyên quân giờ đang sai thích khách đến các nước chư hầu truy bắt ta!"

Thì ra vụ án mạng mà dân chúng đang bàn tán xôn xao xảy ra ngay chốn hoàng cung lại do người biểu diễn rắn thâm trầm ít nói đang đứng trước mặt chàng đây gây ra. Lã Bất Vi hỏi: "Huynh và Vệ Nguyên quân có thù oán gì?" Người biểu diễn rắn nói: "Kể ra thì dài lắm! Công tử có biết cũng chẳng để làm gì! Lời của bậc quân vương mới đáng giá nghìn vàng, quân vương đâu có thể là kẻ gian xảo, vô đạo, cạn nghĩa được! Tôi có một bảo vật, có thể sẽ giúp ích cho việc buôn bán của công tử. Ở phía Tây bắc nước Tề có một thái ấp nhỏ, nhà tôi ở đó. Trong vườn tử có một cây thân cong, dưới cây này có chôn bảo vật đó, công tử hãy đi đào lấy nó". Người biểu diễn rắn nói xong, vòng tay chào từ biệt Lã Bất Vi. Lã Bất Vi lưu luyến rơi lệ hỏi: "Đại huynh đi thế này, chẳng biết về phương nào, huynh đệ còn có cơ họi gặp lại không?" Người biểu diễn rắn cảm động mà rằng: "Bốn bể là nhà, giang hồ phiêu bạt. Bao giờ được gặp lại nhau, còn phải xem chúng ta có duyên phận không đã!" Lã Bất Vi tiễn người biểu diễn rắn ra cửa lữ điếm, nhìn theo cái bóng đơn độc cho đến khi đã chìm vào dòng người qua lại mới quay gót về phòng. Lòng chàng chợt cảm thấy hơi hối hận, nếu chàng không cố tình căn vặn tên họ thân thế của người biểu diễn rắn thì anh ta hẳn sẽ không bất đắc dĩ mà nói chuyện thả rắn cắn chết công tử Nộ Khiên. Có lẽ anh ta thấy hối hận vì đã nói ra, sợ bị sát hại, vội vàng bỏ đi. Lã Bất Vi tự quyết với lòng rằng, rồi sẽ có một ngày, chàng sẽ trở thành một thương gia ở cái thành Hàm Đan này.

Về tới nhà, Lã Bất Vi đem câu chuyện chàng mạo hiểm đi đến Hồ Đại bắc hàn làm ăn kể cho cha mẹ nghe, không quên thêm đôi ba chi tiết cho sinh động. Hai vị song thân nghe mà giật mình kinh sợ. Nghe xong, cả hai nhìn Lã Bất Vi với một ánh mắt lạ lùng. Có lẽ nào chàng trai râu ria đã mọc lởm chởm đầy mặt kia lại là con trai của họ? Đây chính là đứa con đã bất chấp hiểm nguy, đùa giỡn cái chết đến tận vùng Hồ Địa của họ đó sao? Ánh mắt hiền từ không rời khỏi khuôn mặt, niềm tự hào dâng tràn trong lòng họ: "Đây đích thực là con trai Lã Bất Vi của chúng ta rồi!" Tiếc là họ không được gặp mặt người biểu diễn rắn tốt bụng ấy.

Bảo vật của người biểu diễn rắn rốt cục là cái gì? Chắc chắn nó phải kích thích sự tò mò ghê gớm nên mới khiến cho Lã Bất Vi quyết băng ngàn dặm đường đến nơi thành ấp nước Tề. Khi đến nơi rồi, họ cảm thấy đây là một mảnh đất thần bí. Khi đã đặt chân vào vườn tử, Lã Bất Vi không lập tức chạy tới gốc cây thân cong để đào bới tìm kiếm mà đưa mắt nhìn khắp quang cảnh đổ nát, từng đống gạch ngói ngổn ngang - hậu quả của ngọn lửa chiến. Lã Bất Vi cản thấy, nơi đây, khi loạn lạc chưa xảy ra, cũng là nơi ở của một gia đình giàu sang có địa vị. Giữa cảnh hoang tàn này, có mấy con chim lông cánh sặc sỡ nhìn thấy Lã Bất Vi tới liền cất giọng hót vang khắp nơi rồi bay đi. Lã Bất Vi dõi nhìn đàn chim dần bay xa, thầm nghĩ: "Chủ nhân ngôi nhà nay liệu có được bình an vô sự như những con chim này không, có tìm được nơi khác nương thân không?" Nghĩ đến đây, chợt Lã Bất Vi đoán rằng, nhất định trong đó chủ nhân của ngôi nhà này có một người là người ấy!

Lã Bất Vi là người đầu tiên xắn tay áo dùng chiếc xẻng sắt sắc nhọn đào xuống lớp đất sét mềm dưới gốc cây tử thân cong, lòng chàng chợt run lên hồi hộp: một lát nữa thôi, ở đây sẽ lộ ra ngọc ngà châu báu, hay tiền đồng tiền bạc, hay là vô số tơ lụa?...

Lã Bất Vi thấy mấy người cùng đến với mình thi nhau đào bới. Lộ dưới lớp đất đầu tiên là mấy cái hộp miệng nhỏ bụng phìng to, miệng bịt bằng da thú. Lã Bất Vi bóc miếng da thú, lấy ở trong ra một quyển sách. Bên trong mấy cái hộp còn lại cũng đều là những thẻ tre. Lã Bất Vi sai người nhấc những cái hộp để sang một bên, tiếp tục đào bới sâu rộng dưới tán cây tử cành lá lưa thưa. Đất bùn ẩm ướt dưới gốc cây chất dần thành gò. Chẳng có gì ngoài những con giun đỏ hỏn. Mọi người mồ hôi đầm đìa, có người ngồi thở hổn hển.

Lã Bất Vi ngồi nghỉ tại đó, trong lòng nghĩ: "Hay là chúng ta đào không đúng chỗ?" Ông căng mắt nhìn xung quanh chỉ có chỗ này có mấy cây tử và chỉ có cây này chếch ngọn. Hay là đào chưa tới nơi? Người biểu diễn rắn nói với mình, đây là vật quý mình có thể dùng cả đời không hết, nó nhất định có giá trị rất lớn. Là vật có giá trị như vậy, ông ta càng không thể chôn một cách qua loa đại khái được. Huống hồ, ở đây lại không có người canh giữ, nên phải chôn thật sâu. Tục ngữ nói, đào sâu ba thốn, bây giờ cũng không còn kém bao nhiêu nữa! Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi lại ra lệnh cho mọi người đào tiếp. Càng đào xuống dưới, lượng nước trong đất càng lớn, giày cũng bị nước ướt sũng. Đào một chập nữa, chân của mọi người đều sũng dưới bùn đất. Nhìn thấy đất bùn đen nhão, Lã Bất Vi nghĩ: người biểu diễn rắn này có lừa dối mình không? Xem anh ta xương cốt cứng cỏi, mi mắt ngay ngắn. Không thể giảo quyệt đưa mình chui vào bẫy. Anh ta có thể hứng lên mà nói vậy thôi, lấy câu chuyện làm quà. Hai người không quen biết gặp nhau, người ta dựa vào cái gì mà tặng những thứ quý giá cho mình.

Lã Bất Vi nghĩ đi nghĩ lại, cho rằng người biểu diễn rắn chỉ thuận miệng nói ra mà thôi. Ông nhìn những người phía trước mình mẩy đầy đất và mồ hôi, giống như những con rắn vừa chui ở trong hang ra, bị người biểu diễn rắn làm trò chơi.

Lã Bất Vi nghĩ đến đây, vung tay nói: "Đừng đào nữa". Mấy người từ trong hố đất sâu rộng mệt mỏi chui lên. Chàng bảo mọi người nghỉ ngơi một lát, sau đó về Bộc Dương. Lã Bất Vi ngồi đó hết sức chán ngán, thò tay vào trong hộp lấy ra một tấm thẻ tre tiện tay lật xem, giở đi giở lại. Lã Bất Vi như bừng tỉnh: "Người biểu diễn rắn nói muốn tặng mình vật quý vô giá dùng cả đời không hết, chính là bộ sách này đây!"

Bộ sách này có tên là "Kế Nhiên". Lã Bất Vi nhớ khi còn đi học nghe thầy giáo giảng qua. Kế Nhiên... bảy thiên, Phạm Lãi mới dùng năm thiên đã khiến cho người nước Việt hưng thịnh, xưng bá Trung Nguyên. Sau này Phạm Lãi từ quan đi buôn, vận dụng sách "Kế Nhiên" trở thành người giàu có ức triệu. Mãi về sau này, Lã Bất Vi hết lòng hâm mộ quyển sách này, nhưng chưa được đọc qua. Không ngờ, hôm nay vô tình lại được nó ở đây.

Người soạn sách "Kế Nhiên" chính là Kế Nhiên trong "Ý Lâm" của Mã Thông viết: Kế Nhiên, người Khâu Bồ Thượng đất Thái, họ Tân Thị, tự văn Tử, vốn là công tử nước Tấn. Sau nam du xuống nước Việt, Phạm Lãi theo học. "Kế Nhiên" là một bộ trước tác bao quát muôn vật, kế sách dân giàu nước mạnh. Tư Mã Thiên trong "Sử Ký Hóa Thực Liệt Truyện" viết: Trước kia Việt vương Câu Tiễn bị khốn trên núi Hội Kê mới sử dụng Phạm Lãi, Kế Nhiên. Kế Nhiên nói: "Biết sẽ đánh nhau thì phải chuẩn bị chiến tranh, biết mùa vụ của hàng hóa và nhu cầu của mọi người mới được coi là biết hàng hóa. Nắm vững quan hệ giữa mùa vụ với nhu cầu, tình hình cung cấp và nhu cầu hàng hóa trong thiên hạ thì có thể thấy được rõ ràng. Năm ở hành "Kim" thì được mùa, ở hành "Thủy" thì mất mùa, ở hành "Mộc" sẽ mất mùa, khó khăn, ở hành "Hỏa" sẽ khô hạn. Khi trời hạn thì phải chuẩn bị thuyền, khi ngập lụt phải lo chuẩn bị xe. Đây là nắm vững đạo biến hóa của vạn vật. Thông thường cứ sáu năm một lần được mùa, sáu năm một lần hạn hán, mười hai năm có nạn đói lớn. Thóc gạo bán ra mỗi đấu giá hai mươi tiền, nông dân chịu thiệt; mỗi đấu giá chín mươi tiền, người làm nghề thủ công, buôn bán sẽ chịu thiệt. Người làm nghề công thương bị tổn thất, ruộng sẽ bỏ hoang, không ai đi khai khẩn. Đo đó giá ngũ cốc cao nhất cũng không được quá tám mươi tiền, thấp nhất không thể dưới ba mươi tiền, như vậy công, nông, thương đều có lợi. Giá ngũ cốc bán ra cũng có sự điều chỉnh với giá các mặt hàng khác. Thu thuế chặt chẽ và cung cấp thị trường đều không thể thiếu. Đây là đạo lý trị quốc. Ngay như tích luỹ hàng hóa, cần phải tích trữ chắc chắn, có thể để được lâu dài, để tiêu thụ, mới không lo lỗ vốn. Trong buôn bán, hàng hóa dễ hư hỏng thì không nên tích trữ chờ giá. Nghiên cứu hàng hóa dư thừa hay thiếu thốn thì biết được xu hướng gái cả của hàng hoá. Giá cao đến đỉnh điểm thì sẽ hạ, giá thấp đến kịch điểm thì sẽ tăng. Khi giá cả tăng đến điểm cao nhất thì phải đem hàng hóa tích trữ ra bán ngay, khi giá hành thấp nhất thì phải nhanh chóng thu mua vào. Phải để cho đồng tiền chu chuyển giống như dòng nước chảy không ngừng". Việt vương Câu Tiễn theo sách lược của Kế Nhiên thực thi trong mười năm, đất nước cường thịnh, dùng tiền bạc đi mua quân sĩ, các chiến sĩ xung phong lâm trận, không sợ tên đạn, giống như khi khát muốn uống nước, Việt vương rút cục đã báo được thù, tiêu diệt nước Ngô hùng mạnh. Sau đó lại dẫn quân lên phía bắc vào Trung Nguyên, thị uy chư hầu, xưng là một trong ngũ bá thời Xuân Thu.

Sau khi Phạm Lãi giúp nước Việt rửa sạch mối nhục ở núi Hội Khê, thở dài nói: "Sách lược của Kế Nhiên có bảy điều, nước Việt mới dùng năm điều đã báo được thù. Sách lược đó trong trị quốc rất hữu hiệu, ta phải dùng nó trị gia". Vậy là làm một chiếc thuyền nhỏ vượt sông lớn, thay tên đổi họ. Đến nước Tề, tự gọi là: "Xích Di Từ Bì"; đến đào ấp gọi là "Chu Công". Chu Công cho rằng đào ấp là trung tâm của thiên hạ, thông với các nước chư hầu, là yếu địa trong giao dịch hàng hóa, ông liền đặt mua sản nghiệp, tích trữ hàng hóa, tùy cơ ứng biến, không khắt khe với mọi người - Sở dĩ giỏi về kinh doanh sản nghiệp, biết dùng người tài, lại nắm vững thời cơ. Trong mười chín năm, ba lần kiếm được cả ngàn vàng, hai lần phân tán tài sản cho bạn bè khó Khăn và các huynh đệ ở xa. Đây chính là khi giàu có thì thực thi ân đức, sau khi Phạm Lãi già yếu, giao cho con cháu nắm giữ cơ nghiệp, con cháu kế thừa sự nghiệp của ông, không ngừng phát đạt, cho tới khi già yếu lên tới triệu lạng vàng. Do đó, khi nói đến phú hào, mọi người đều nhắc đến Chu Công.

Lã Bất Vi như vật được chi bảo, bê bộ "Kế Nhiên" đã đem đến cho ông biết bao sự tin tưởng và bí quyết về Bồ Nương. Sự vui sướng của thành công ban đầu đã đem đến cho vị thương nhân trẻ tuổi lần đầu bước chân vào sự sinh nhai mạo hiểm một sự phấn khích và cổ vũ to lớn.

Lã Bất Vi mong muốn được gặp Hoàng Phủ Kiều, kể cho người con gái đã khiến ông xao xuyến từ lâu này quá trình buôn ngựa mang đầy màu sắc thần bí, kể về người biểu diễn rắn đối với ông ân trọng như núi nhưng bây giờ không biết ở đâu, lại cho nàng xem bộ sách dày kể những chuyện về buôn bán này, cuối cùng sẽ trao tặng nàng những vàng bạc tế nhuyễn đã mua cho nàng ở Hàm Đan. Hoàng Phủ Kiều sẽ đưa ánh mắt say sưa, đầy vẻ phấn khích nhìn mình, và không ngừng kêu lên: "Chà, nguy hiểm thế!"... Khi nàng trông thấy những món quà hậu hĩnh mà chàng mang về, nàng sẽ càng vui sướng và...

Nghĩ tới những điều này, Lã Bất Vi thấy trái tim mình rạo rực. Chỉ có điều chàng muốn những điều này sẽ diễn ra tại nhà mình. Chàng nghĩ: hay là mời Hoàng Phủ cô nương đến nhà, vừa thân mật lại thuận tiện, như vậy hai người sẽ không có cảm giác không tự nhiên thoải mái như ở nhà Phùng Quân Úy. Chàng có thể khua chân múa tay, có thể thoải mái bộc bạch...

Lã Bất Vi ôm ấp giấc mộng đẹp này trong suốt lúc đi dạo trong buổi chiều tà. Lã Bất Vi nhìn lên nền trời phía tây rộng lớn, những đám mây hình thù kỳ lạ, nhiều màu sắc, có cả hình long lân quy phượng. Lã Bất Vi phấn chấn, rảo bước nhanh hơn trong ngõ nhỏ đang nhập nhoạng tối.

Đã có kế sách để làm giàu, hơn lúc nào hết Lã Bất Vi càng khao khát thứ tình cảm ngọt ngào với một người con gái.

Lã Bất Vi cùng Hoàng Phủ Kiều vai kề vai thong dong bước bên nhau. Hoàng Phủ Kiều hôm nay trang điểm rất kỹ lưỡng, hương thơm từ nàng tỏa ra khiến Lã Bất Vi thấy lòng xao xuyến, mơ màng. Chưa bao giờ chàng có cảm giác gần gụi với một người con gái như thế này, gần đến mức chàng cảm nhận được cả hơi thở lẫn nhịp tim của nàng.

Bất Vi lắng nghe Hoàng Phủ Kiều nói, chàng cảm nhận được sự lo âu tận đáy lòng qua giọng nói run rẩy của nàng.

"Lần này chàng đi biệt hơn hai mươi ngày, thiếp quả vô cùng lo lắng"

"Ta và người biểu diễn rắn ấy đều cưỡi ngựa, nếu đi bộ thì phải mất đến một năm rưỡi ấy chứ".

"Gặp bọn Hung nô ấy, chàng có sợ không?"

"Sợ chứ, bọn chúng kẻ nào cũng cao to vạm vỡ, tanh hôi khủng khiếp. Khi ta và gã thích khách vào được hang ổ của Hữu Cốc Lãi Vương, ta thấy quân hung nô kẻ nào cũng dao gươm sáng loáng, mắt mũi trợn trừng. Người bình thường trông thấy ắt phải sợ đến hồn bay phách lạc, chẳng khác gì nơi hang hùm miệng cọp! Nhưng ta vẫn bình thản, không chút kinh hãi, đường hoàng tự tin tranh luận với chúng, đối đáp sắc sảo. Sau cùng, tất cả bọn chúng đều tròn mắt há miệng, ngoan ngoãn lặng im nghe ta nói". Lã Bất Vi cảm thấy những lời khoa trương tự mãn này của chàng, nói được cho Hoàng Phủ Kiều nghe, chàng thật hạnh phúc biết bao! Ánh trăng như dát bạc soi rọi bóng chàng và nàng bên nhau trên con đường mờ mờ ảo ảo.

Bước chân vào sau cánh cửa nhà mờ tối, Lã Bất Vi chợt cất giọng run run khẽ gọi "Hoàng Phủ cô nương"! Chàng biết, ngay lúc này và chính tại đây, tất cả đã chín muồi đủ để Hoàng Phủ Kiều đáp lại tấm tình cảm mà chàng sẽ biểu lộ với nàng. Và quả vậy, Phủ Kiều lặng lẽ quay nghiêng sang phía Bất Vi. Chàng biết, giờ đây, đôi tay chàng đang sắp đón đợi một niềm hạnh phúc.

Bất Vi giang tay ôm Hoàng Phủ Kiều vào lòng và cảm thấy bờ môi mình khao khát. Gương mặt Hoàng Phủ Kiều, từ sống mũi, nét môi đều nổi bật sáng rõ dưới ánh trăng. Bất Vi không kìm nổi lòng mình, áp khuôn mặt thô ráp bởi những sợi râu vào mặt Hoàng Phủ Kiều và đặt lên môi nàng một nụ hôn. Hai đôi môi nồng nàn gắn chặt vào nhau. Họ say đắm trong nụ hôn đầu...

Ánh đèn dầu soi tỏ tất cả căn phòng. Lã Bất Vi sau khi đã trấn tĩnh lại chậm rãi kể cho Hoàng Phủ Kiều nghe về quãng thời gian mà chàng đi buôn lụa kiểu "lũng đoạn" bất chấp bao khó khăn cực nhọc. Và đương nhiên, đối với Lã Bất Vi, anh chàng đã khổ luyện với văn chương thơ phú mười năm thì thêm thắt đôi lời khoa trương cho câu chuyện của mình thì không khó. Lã Bất Vi thấy Hoàng Phủ Kiều chăm chú lắng nghe, mắt mở to không chớp. Đến đoạn chàng đi tới vườn tử ở một thành ấp nghèo nọ, Bất Vi chợt cảm thấy dường như trống ngực Hoàng Phủ Kiều bỗng đập dồn dập, rồi nàng bật khóc, nức nở thành tiếng.

Lã Bất Vi ngạc nhiên, im bặt hỏi Phủ Kiều: "Hoàng Phủ cô nương, có chuyện gì vậy?"

Hoàng Phủ Kiều đứng dậy, bước tới bên cuốn sách "kế nhiên" đang mở, tay khẽ khàng vuốt nhẹ từng mặt trúc trơn láng, gọi: "Đại ca ơi, đại ca ơi!"

Lã Bất Vi càng kinh ngạc không hiểu, hỏi: "Đại ca? Ai là đại ca của nàng?"

Hoàng Phủ Kiều đáp: "Chính là người biểu diễn rắn ấy"

Lã Bất Vi bán tín bán nghi hỏi: "Anh ta đích thực là đại ca của nàng ư?"

Hoàng Phủ Kiều thổn thức kể: "Cái vườn tử nơi thành ấp nghèo nàn ấy chính là nhà thiếp. Thiếp còn nhớ ngày nhỏ thường cùng đại ca Hoàng Tử Nghĩa chơi đùa dưới cây tử thần cong ấy. Có một lần, anh ấy nhanh thoăn thoắt như khỉ leo lên trốn trên cây làm thiếp sợ phát khóc tìm kiếm khắp nơi... Bộ "kế nhiên" này là do một người bạn tên Tư Không Mã tặng đại ca thiếp bởi lẽ anh ấy vốn là người không ham hố chuyện buôn bán làm giàu mà chỉ thích đao thương kiếm thuật, dạy chó luyện rắn..."

Lã Bất Vi áy náy: "Giá mà anh nàng không giấu tên giấu họ thì ta đã sớm giúp được hai người đoàn tụ rồi".

Hoàng Phủ Kiều đáp: "Thiếp nghĩ, đại ca thiếp hẳn sẽ đi tìm Vệ Nguyên quân báo thủ rửa hận, phanh xác, băm thây Nguyên Quần, con trai của hắn, thê thiếp của hắn làm trăm mảnh! Chúng tôi là gia tộc Hoàng Phủ, sống ở nước Tấn, ở cả nước Vệ, đại ca e liên luỵ đến họ và liên luỵ đến cả thiếp nữa!". Lã Bất Vi hiểu ra gật đầu, cảm thấy thương cho hoàn cảnh của hai anh em Hoàng Phủ Kiều.

Hoàng Phủ Kiều hỏi: "Khi chia tay với chàng ở Hàm Đa, đại ca không nói sẽ đi đâu ư?". Lã Bất Vi đáp: "Ta cũng hỏi nhưng anh ấy chỉ bảo, bốn bể là nhà, phiêu bạt giang hồ". "Thiếp phải đi tìm đại ca của thiếp" Hoàng Phủ Kiều quả quyết.

Lã Bất Vi phát hiện, trong đôi mắt tuyệt đẹp của Hoàng Phủ Kiều ánh lên tia nhìn sắc nhọn mà chàng chưa từng bắt gặp.

Lại một lần nữa, Lã Bất Vi lang thang giữa thành Hàm Đan tấp nập người xe để tìm kiếm Hoàng Phủ Kiều, những ngọn lạnh buốt làm tuyết trắng bay đầy trời mang đến cho đô thành của nước Triệu một mùa đông đáng nhớ.

Khi mới nghe Hoàng Phủ Kiều nói: "Thiếp nhất định phải đi tìm đại ca của thiếp!" Lã Bất Vi cho rằng đó chỉ là lời nói gió bay của một nữ nhi dễ xúc động, đâu ngờ Hoàng Phủ Kiều lại nói sao làm vậy. Hôm đó là buổi chiều sau khi Hoàng Phủ Kiều đã rời nhà chàng đi được 3 ngày, có một người nô bộc của Phùng Quân Úy hớt hải đến tìm chàng. Phùng Quân Úy gửi cho Lã Bất Vi một mảnh lụa bạc, trên đó là dòng chữ nhỏ nhắn nắn nót: "Con đi Hàm Đan đây". Phùng Quân Úy vừa giận vừa thương người con gái nuôi đã ra đi mà không một lời từ biệt. Lã Bất Vi miện an ủi Phùng Quân Úy nhưng trong lòng chàng đang nghĩ đến cảnh người con gái một thân một mình lang thang trên từng con phố nhỏ nơi đô thành rộng lớn xa lạ với bao mối hiểm nguy.

Lã Bất Vi biết rõ khắp đường phố ngõ ngách ở cái thành Hàm Đan đất rộng người đông này để hỏi một cô gái tên là Hoàng Phủ Kiều thì chẳng khác gì mò kim đáy bể. Mấy ngày trời đội mưa đội tuyết tìm kiếm mà dã tràng xe cát. Chàng vừa cảm phục ý chí người con gái trọng tình anh em, vừa giận hành động bướng bỉnh điên rồ của nàng khiến chàng phải lao tâm khổ tứ như thế này.

Có điều, Lã Bất Vi hoàn toàn chẳng thể ngờ rằng, chính bước chân tìm kiếm của chàng in dấu trên con đường phủ tuyết trắng đang dẫn chàng đến với một mảnh đất mới cho cái nghiệp làm thương nhân của chàng.

Khi ta men theo dòng chảy thời gian, cùng bước chân của Lã Bất Vi trên con đường tìm kiếm kế sinh nhai, tìm kiếm những mốc đáng chú ý của lịch sử, ta rút ra kết luận Lã Bất Vi là kiểu thương nhân luân có khả năng có phát hiện mới cho công việc buôn bán của mình.

Khi Lã Bất Vi đang ở Hàm Đan thì nước Triệu xảy ra một sự kiện chính trị quan trọng. Chính sự kiện này đã khiến cho Bất Vi hiểu được thế nào là món lời kếch sù do một viên ngọc nhỏ đem lại. Sự kiện xảy ra ở nước Triệu chính là cuộc đấu tranh ngoại giao xung quanh viên ngọc - ngọc bích họ Hòa.

Về lai lịch viên ngọc bích họ Hoà, "Hàn Phi Tử, Hòa Thị Bích". Có viết như sau: trước kia có người nước Sở, tên là Biện Hòa, nhặt được ở núi Kim Sơn một viên ngọc quý vẫn chưa mài rũa mang hiến cho Sở Lệ vương, Sở Lệ vương sai người thợ ngọc xem thử, thợ ngọc nói là đá. Sở vương cho rằng, Biện Hòa mang ngọc giả đến lừa dối mình, phán xử Biện Hòa tội hình, chặt của anh ta chân phải. Sau khi Lệ vương chết, Sở Vũ vương kế vị, Biện Hòa lại đem hiến viên ngọc, Vũ vương sai thợ ngọc kiểm tra, thợ ngọc lại nói đây là một hòn đá, Vũ vương lại chặt chân trái của Biện Hòa. Sau khi Sở Vũ vương chết, Sở Văn vương kế vị, Biện Hòa không dám mang ngọc đi tặng nữa mà ôm viên ngọc khóc ở núi Kinh Sơn ba ngày ba đêm, chảy khô cả nước mắt, chảy cả ra máu. Sở Văn vương nghe được tin này cho người đến hỏi tại sao lại khóc thống thiết như vậy? Biện Hòa trả lời: "Tôi không phải bị chặt mất hai chân mà đau buồn. Tôi đau buồn vì tôi hiến ngọc cho Đại vương rành rành là một viên ngọc quý, lại nói nó là đá; rõ ràng là kẻ trung thần thì lại nói là lừa dối. Đây là cái cớ vì sao tôi đau buồn!"

Vậy là Sở Văn vương đem cho người thợ mài ngọc rũa, quả là một viên bảo ngọc màu sắc lóa mắt, trên đời chỉ có một. Gọi nó là Ngọc Bích họ Hòa.

Thấm thoắt thoi đưa, đến năm 283 trước CN, Ngọc bích họ Hòa đã trở thành báu vật trong tay Huệ Văn vương nước Triệu. Các nước chưa hầu và sứ thần của họ khi đến Hàm Đan đều yêu cầu Huệ Văn vương mang Ngọc Bích họ Hòa cho họ xem, lấy làm no mắt. Phàm những ai đã xem qua viên ngọc này đều không ngớt lời ca tụng.

Khi đó nước Tần đã trở thành một trong thất hùng thời Chiến Quốc. Tần Chiêu Tương vương rất ao ước có được Ngọc Bích họ Hoà, vì vậy ông ta phái sứ giả mang quốc thư sang bái kiến Huệ Văn vương nước Triệu, nói muốn đổi mười năm thành trì lấy viên ngọc đó. Huệ Văn vương xem xong bức thư bèn cùng đại tướng quân anh dũng thiện chiến Liêm Pha cùng các đại thần bàn bạc, muốn đem Ngọc Bích họ Hòa mang sang nước Tần nhưng lại sợ Tần vương bội tín không giao mười năm thành trì, sẽ bị lừa; nếu không đem viên ngọc sang Tần lại sợ bị Tần vương đánh. Huệ Văn vương cùng bá quan văn võ bàn bạc đi bàn bạc lại nhưng vẫn không đưa ra được một kế sách vẹn toàn. Trong khi đó, việc đồng ý hay không đồng ý đem viên ngọc đổi mười năm thành trì nước Tần cũng phải trả lời sớm. Chọn đi chọn lại cũng không tìm ra ai đi sứ nước Tần. Huệ Văn vương vô cùng lo lắng. Chính lúc đó, quan Tổng quản Diệu Hiền tiến cử một người với Huệ Văn vương: "Môn khách tại hạ có Lạn Tương Như trí dũng song toàn, tôi thấy để người đó đi sứ nước Tần là hợp lý nhất". Huệ Văn vương bèn cho triệu kiến Lạn Tương Như tại cung tấu Dương, Huệ Văn vương nói: "Tần vương muốn đổi viên Ngọc Bích họ Hòa lấy mười năm thành trì, ông thấy thế nào?"

Lạn Tương Như thẳng thắn nói: "Nước Tần mạnh, nước Triệu yếu. Chúng ta không thể không đồng ý". Huệ Văn vương lo lắng hỏi: "Điều quả nhân lo lắng là nếu Tần vương có được ngọc quý của quả nhân rồi lại không giao thành trì cho chúng ta nữa, lúc đó làm thế nào?".

Lạn Tương Như đã có chủ định sẵn nói: "Nước Tần dùng mười năm thành trì đổi lấy viên Ngọc Bích họ Hòa của nước Triệu, Triệu không đồng ý tức là Triệu đuối lý, Triệu đem ngọc bích sang Tần, Tần không trao mười năm thành trì cho Triệu, vậy thì nước Tần đuối lý. Hai cái này cái nào hay hơn? Tôi thấy đem viên Ngọc Bích họ Hòa sang nước Tần vẫn là thượng sách. Tôi phụng chỉ đi sứ, nếu quả thật nước Tần đem mười năm thành trì trả cho Triệu, tôi sẽ để viên ngọc lại Tần và đem bản đồ mười năm thành trì về; nếu Tần không giao mười năm thành trì, tôi sẽ đem viên ngọc về nguyên vẹn".

Huệ Văn vương thấy Lạn Tương Như nói năng trôi chảy, có chủ kiến liền phái ông làm sứ thần mang ngọc đi sứ nước Tần. Tần Chiêu vương triệu kiến Lạn Tương Như trong Chương Đài, Lạn Tương Như mang Ngọc Bích họ Hòa trình lên, Chiêu Tương vương nhận lấy viên ngọc yêu thích không muốn rời tay, ngắm đi ngắm lại, rất vui sướng. Sau đó đưa cho bọn thị tì, cung nữ và ái thiếp xem. Mọi người đều vô cùng tán thưởng, đồng loạt chúc mừng Tần vương.

Một mình Lạn Tương Như bị bỏ quên dưới điện, đứng đợi rất lâu không thấy Tần vương nhắc tới chuyện giao cắt mười năm thành trì. Lạn Tương Như nghĩ: "Tần vương quả nhiên muốn chiếm đoạt viên ngọc họ Hòa này". Ông bèn nói với Tần vương: "Trên viên ngọc có một chút vết, xin để tôi chỉ cho Đại vương xem".

Tần Chiêu vương đem viên ngọc đưa cho Lạn Tương Như nói: "Viên ngọc hoàn mĩ như thế này, sao quả nhân không thấy vết nứt của nó?"

Lạn Tương Như nắm chặt viên ngọc, lui lại mấy bước, sát vào cây cột trong cung, phẫn nộ nói với Tần vương: "Đại vương muốn có được viên ngọc quý này, sai người đưa thư cho Triệu vương tôi, Triệu vương triệu tập bá quan văn võ bàn bạc, mọi người đều nói: "Nước Tần lòng tham vô đáy, dùng thế mạnh bức người, muốn dùng mấy lời nói suông để lừa bịp nước Triệu lấy viên ngọc". Vậy nên sau khi bàn bạc không muốn đem viên ngọc này đi. Nhưng tôi cho rằng, dân thường khi giao kết với nhau còn biết giữ tín nghĩa, không đến nỗi lừa dối nhau, huống hồ đường đường là Quân vương nước lớn! Và lại vì một viên ngọc mà để mất hòa khí với nước Tần, như thế không tốt. Triệu vương nghe lời tôi, trai giới năm ngày, trên triều đình đích thân giao quốc thư cho tôi, sai tôi mang ngọc bích sang Tần. Đây là Triệu vương tôn trọng uy vong của Đại vương, biểu thị đặc biệt tôn kính! Giờ tôi đã đến quý quốc, Đại vương không tiếp kiến tôi tại triều đình mà ở cung thất tầm thường, lễ tiết đơn giản, thái độ ngạo mạn còn đưa ngọc cho bọn mỹ nhân làm trò đùa với tôi. Tôi thấy ý Đại vương không muốn giao cắt mười năm hành trì, muốn đoạt không lấy viên ngọc. Nếu Đại vương nhất định muốn bức ép tôi, tôi tự nguyện mang cả đầu mình lẫn viên ngọc đập nát trước cây cột này". Nói xong, Lạn Tương Như bê viên ngọc, nghiêng mắt nhìn cây cột, nộ khí bừng bừng, dường như sắp lao vào cây cột.

Tần Chiêu Tương vương vô cùng hoảng sợ, sợ rằng sẽ vỡ mất viên ngọc quý vội tạ tội với Lạn Tương Như, khuyên ông không nên làm như vậy. Lại giả nhân giả nghĩa sai người mang bản đồ đến, chỉ cho Lạn Tương Như xem, mười năm tòa thành từ chỗ này tới chỗ này sẽ trả về Triệu. Lạn Tương Như biết Tần vương lòng dạ gian trá, ông nói với vua Tần: "Ngọc Bích họ Hòa là vật báu trong thiên hạ, Triệu vương tuy rất yêu quý nó nhưng sợ thế nước Tần mạnh nên không dám không hiến cho Đại vương. Trước khi Triệu vương giao viên ngọc này đã từng trai giới năm ngày, bây giờ Đại vương cũng cần trai giới năm ngày, cử hành nghi lễ long trọng trong triều, khi đó tôi sẽ dâng viên ngọc lên Đại vương".

Tần Chiêu Tương vương không thể chiếm đoạt, đành phải đồng ý.

Lạn Tương Như biết rằng, Tần Chiêu Tương vương nhất định sẽ bội ước, đêm đó ông sai một tên tùy tùng mặt quần gai áo ngắn giả làm dân thường, bí mật đem viên ngọc họ Hòa trở về nước Triệu.

Năm ngày sau, Tần Chiêu Tương vương cử hành nghi lễ trọng thể tại Triều đình, chuẩn bị tiếp nhận viên ngọc. Lạn Tương Như hiên ngang đi vào triều, nói với Tần vương: "Quý quốc từ Tần Mục Công đến nay, trước sau đã hai mươi mấy vị quân vương, chưa ai giữ tín bao giờ. Tôi cũng sợ bị Đại vương lừa gạt cho nên đã sai người đem ngọc về Triệu. Tần là nước mạnh, Triệu là nước yếu. Chỉ cần nước Tần có thành ý đổi mười năm thành trì lấy ngọc thì hãy sai sứ thần sang Triệu, Triệu vương không thể không đồng ý. Tôi biết đã lừa gạt Đại vương, không coi trọng Đại vương, xin Đại vương cứ trị tội tôi!".

Tần vương và các đại thần nghe xong nhìn nhau, vừa tức giận nhưng cũng không biết làm thế nào. Đành phải thả Lạn Tương Như về Triệu.

Lạn Tương Như trở về. Vua Triệu thấy ông là người có công đi sứ sang nước lân bang không để nhục quốc thể bèn phong ông là Thượng Đại Phu.

Mặc dù cả ngày đi tìm kiếm trong xóm nhưng tối về tệ xá ông lại nghiền ngẫm chuyện Lạn Tương Như. Giá của một viên ngọc bằng mười năm tòa thành, là một vị thượng đại phu, là danh tiếng lưu truyền muôn thuở... Lã Bất Vi quyết định buôn bán vàng ngọc.

Mấy đêm nay, dưới ánh sáng bập bùng của ngọn nến, với chất giọng trầm bổng, Lã Bất Vi ngâm lại bài thơ mà ông đã đọc trong Kinh Thi miêu tả về ngọc. Trong đêm khuya thanh vắng ở Hàm Đan, giọng ngâm thơ càng thêm sâu lắng, một cảnh tượng đẹp đẽ chiếu rọi lòng ông, nó làm nảy sinh những cảm giác mãnh liệt với những viên ngọc lạnh lẽo kia.

Nước sông Ky chảy bên trái

Bên phải là đầu của con suối

Chàng thiếu niên xinh đẹp

Tiếng ngọc réo rắt vang

Bốn con ngựa to khỏe

Cao lớn khí hiên ngang

Hân Hầu vào triều kiến

Dâng ngọc khuê làm quà

Quỳ phục bái Chu vương

Thưởng cho người lễ vật bằng ngọc

Người có Quốc Bảo phóng quang minh

Đi đi, Quốc Cữu đang chinh chiến

Giữ cho miền nam mãi thanh bình.

Ngâm xong, Lã Bất Vi lại nghĩ đến những thủ thuật cần phải có sau này khi buôn bán ngọc, nó khiến ông cả đêm không ngủ. Bản thân Lã Bất Vi rất cẩn thận, ít khi làm việc gì một cách phiêu lưu, thiếu suy nghĩ. Trong khi đi tìm Hoàng Phủ Kiều ở Hàm Đan, ông đã đến các tiệm châu ngọc để khảo sát việc buôn bán.

Đây là một tiệm hàng buôn bán vàng bạc lớn nhất thành Hàm Đan. Những gì bày trí ở đây lộ rõ sự hưng thịnh của cửa hàng. Lã Bất Vi bước vào bên trong, màu sắc, ánh sáng của vàng bạc, ngọc ngà bao bọc ông, ông thấy như đang đứng giữa thiên thường với các cây cối toàn là vàng ngọc. Các loại ngọc được bày trí theo thứ tự, lấp lánh trong tủ, Lã Bất Vi thấy lóa mắt. Sự bày trí, sắp xếp các loại ngọc chứng tỏ chủ tiệm là người rất sành sỏi trong kinh doanh. Dãy đầu là các loại ngọc dùng trong tế lễ như Khuê Bích, Hoàng Bích, chúng thường dùng làm vật làm tin và đem lại sự may mắn như khi vào triều kiến vua, minh ước, dẫn cưới, phúng viếng... Loại khác là vật trang sức như Quyết, Hoàng, Xuyến... Ngoài ra còn có một số loại ngọc khác.

Có người đã mô tả thế giới ngọc mà Lã Bất Vi đã xem như sau: Hồng Bảo Thạch như ánh lửa đỏ rực, Lam Bảo Thạch như trời xanh biển biếc, Thạch Lưu Thạch màu vàng pha đỏ, ánh sáng rực rỡ, Thủy Tinh Thạch lung linh trong suốt, đá mắt mèo mai vàng xanh, Ngọc Dương chỉ trắng như tuyết, Trân Châu hạt nhỏ trong suốt, giống đẩu tinh đầy trời, Ngọc Phỉ Thuý màu xanh bích ngưng lại như muốn níu giữ mùa xuân, Mã Não màu sắc rực rỡ như bảy sắc cầu vồng, San Hô cành lá rậm rạp, giống cây quỳnh cành ngọc... nhìn những viên ngọc được chạm khắc tinh tế, tỉ mỉ khiến ta liên tưởng tới:

Ông Bàn Cổ khai thiên lập địa, vũ dũng dựng càn khôn.

Nữ Oa luyện đá vá trời, nhi nữ vá trời xanh.

Nghệ bắn cung chín mặt trời, chống hạn cứu muôn loài.

Để giết Xuy Long, ngăn gió mưa, giết ác thú.

Chim Vệ ngậm đá lấp biển, nghĩa trùm bể đông.

Na Tra nức tiếng anh hùng, bắt yêu long giết hà bá

Thái Công câu cá, thần sắc thư nhà, chí ở ngàn dặm.

Vũ vương kéo xe, ôn tồn cung kính, lễ đãi hiền sĩ.

Những ngọc phẩm này hàm chứa những câu chuyện thần kỳ. Những truyền thuyết đẹp. Ngoài ra còn có công tử đi săn, ngự giả đánh xe, võ sĩ chinh chiến, nông dân đi cày, quý nhân vày nước, mĩ nhân dạo chơi, lưỡng long chầu mặt ngọc, tam dương khai thái, lồng ngọc gà vàng, du long hí phượng...

Lã Bất Vi sau một lúc choáng ngợp, tươi cười đến bên người bán hàng trẻ tuổi, hỏi giá cả, nguồn gốc và tính chất của từng món hàng. Lã Bất Vi thấy chàng trai này mặt mũi thanh tú, khi nói chuyện gần gũi dễ gần. Trong tiếng ồn ào của người mua kẻ bán, Lã Bất Vi cố gắng thâu tóm tất cả các lời lẽ mà người làm công này nói. Theo Lã Bất Vi nó là kỹ xảo bán hàng. Lã Bất Vi chú ý nghe chàng trai nói về sự khác nhau giữa hai viên ngọc: viên chuyền ngọc này được làm ra ở nước Ngô, loại ngọc này được tạo hình đẹp đẽ, mài mã tinh vi, đó là đồ ngự dụng trong cung đình nước Ngô. Đặc điểm cơ bản của loại ngọc hiện nay là hình rắn cuộn, chim muông và hoa văn mây tụ trên bề mặt. Ngọc cứng được chế tác dưới thời chu Thiên tử thường thô ráp, phần lớn thường trang trí hình con quỳ. Lát sau chàng trai này lại chỉ cho Lã Bất Vi một bộ ngọc bội nói, tốt nhất là tiêu thụ một nhóm ngọc bộí sáu chiếc, bán một bộ hai chiếc.

Nghe người này nói năng rất lưu loát, trôi chảy, Lã Bất Vi trong lòng rất khâm phục. Lã Bất Vi nghĩ mình mở cửa hàng vàng bạc tiền vốn nhờ bán ngựa cũng tạm đủ, tính toán quản lý mình có thể tự lo. Bây giờ chỉ thiếu một người hiểu biết về ngọc, nếu thiếu điều này thì buôn bán khó mà phát đạt được. Nghĩ đến đây, trong đầu Lã Bất Vi nảy ra suy nghĩ: mời chàng trai này theo mình về Bồ Dương mở cửa hàng vàng bạc. Trong cửa hàng người ra vào đông đúc, hơn nữa vì có chủ tiệm ở đây nên không tiện nói ra lời này. Lã Bất Vi tin rằng, chỉ cần trả tiền công thật cao thì có thể mời chàng trai này về chỗ của mình. Đã đi làm thuê ai chẳng muốn kiếm được nhiều tiền; sau khi cảm ơn chàng trai, Lã Bất Vi mang những suy nghĩ của mình rời khỏi cửa hàng. Ông ngước nhìn mặt trời đang treo trên đỉnh đầu, biết giờ đóng cửa của cửa hàng còn lâu mới tới, ông liền đi lang thang trên phố, vào những cửa hàng khác thăm thú và nhân tiện kiếm tìm Hoàng Phủ Nghĩa. Mặt trời chếch về phía tây, Lã Bất Vi biết trời đã về chiều, ông bèn tới một góc khuất của tiệm vàng kia dõi mắt hướng về phía cửa hàng. Người mua thưa vắng dần, nhà hàng bắt đầu đóng cửa. Những người làm công từng tốp nhỏ vừa ra về vừa chuyện trò vui vẻ. Lã Bất Vi chăm chú tìm kiếm những nét quen thuộc của chàng thanh niên kia, ông như kẻ vô công rồi nghề nhìn theo những người làm tan vào trong ngõ vắng. Cuối cùng thì ông cũng nhận ra chàng thanh niên trên con đường tuyết ngập chân người. Tiếng bước chân của những người đi làm về đã xa dần. Lã Bất Vi và chàng trai. Kẻ trước người sau đi trên con đường đầy tuyết. Trời mỗi lúc một tối, khoảng cách giữa Lã Bất Vi và chàng trai càng lúc càng gần. Những áng mây chiều gom lại những tia sáng cuối cùng, trên nền trời, những vì sao bắt đầu lấp lánh. Chàng trai đã về đến nhà. Anh đẩy cánh cửa đi vào một gian nhà cỏ, Lã Bất Vi cũng lập tức vào theo.

Người thanh niên đã sớm quên người khách trong cửa hàng ban ngày vì hàng ngày anh tiếp xúc với rất nhiều khách hàng, rất nhiều gương mặt mà anh đã gặp nhanh chóng trở nên xa lạ. Với vị khách không mời mà đến này, anh cảm thấy rất kinh ngạc. Với vẻ mặt hồ nghi, anh ta nói với Lã Bất Vi: "Tôi không biết ông là ai?". Lã Bất Vi giới thiệu với anh ta về mình. Chàng trai hỏi: "Lã tiên sinh có việc gì cần tôi giúp đỡ chăng?" Lã Bất Vi nói rõ ý định của mình và khẩn thiết mong anh ta chấo nhận. Cuối cùng ông nói: "Tôi sẽ trả công cho anh cao".

Chàng trai nói: "Lã tiên sinh thật biết người, tôi là Triệu Khả Tín, là người ông có thể tin cậy, tôi đồng ý đi theo ông".

Một buổi sớm cuối đông đầu xuân, người dân Hàm Đan không để ý đến hai người sau khi rời khỏi thành, băng đi trong gió tuyết mịt mù. Không ai biết trước được rằng, một trong hai người đó sau này chính là người sẽ đem đến sự diệt vong cho nước Triệu của họ - Lã Bất Vi.

Trong cái lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông, Lã Bất Vi và cha mình là Lã Hâm ngồi nói chuyện với nhau về việc buôn bán ngọc. Có lẽ vì cái lạnh hay vì xúc động khiến cho những lời Lã Bất Vi nói thiếu đi sự mạch lạc, Lã Bất Vi hỏi: "Làm ruộng có thể thu lãi mấy lần?"

Người cha nói: "Mười lần". Lã Bất Vi lại hỏi: "Buôn bán vàng ngọc lãi bao nhiêu lần?"

Lã Hâm nói: "Trăm lần".

Quả thực với việc buôn bán vàng ngọc sắp tới, trên đường đi, dưới sự giúp đỡ của Triệu Khả Tín, Lã Bất Vi đã suy đi tính lại nhiều lần. Sở dĩ ông bàn bạc lại với phụ thân là vì ông không muốn để cha buồn, cho ông là đứa con độc đoán.

Thấy Lã Bất Vi không đưa được Hoàng Phủ Kiều về, Lã Hâm rất buồn rầu, uất hận. Vậy mà khi nghe kế hoạch buôn bán vàng ngọc quy mô mà Lã Bất Vi nói nỗi buồn hận trong ông đã vơi đi phần nào. Một thời gian sau, cửa hàng buôn bán vàng ngọc của Lã Bất Vi đã được khai trương trên một con phố đông người qua lại ở thành Bồ Dương, bên ngoài treo một tấm biển đem lại sự may mắn: "Long xướng quảng". Lã Bất Vi mua được hàng với giá rẻ nhưng lại bán với giá cao, ông mua ngọc cũ của người trong thành, đem về chế tác lại sau đó bán ra. Ông còn đi sang các mỏ vàng ngọc tại các nước chư hầu, mua về những món đồ hợp với nhu cầu của mọi người.

Công việc của Lã Bất Vi ngày càng trở nên bận rộn, ông đi tìm mua ngọc khắp nơi, cứ ba ngày lại phải tính toán hàng hóa kiểm tra sổ sách. Trong con mắt của người dân Bồ Dương, người môn khách từng bị đại sư Vệ Hằng không nhận khi xưa, nay đang làm trò ảo thuật kiếm được tiền nhiều như nước, họ căng mắt nhìn tài sản của Lã Bất Vi đang đầy lên. Tất cả đã thay đổi cách nhìn với Lã Bất Vi. Cứ ba ngày lại có chiếc xe chở hòm to hòm nhỏ nặng nề dừng trước "Long xướng quảng". Lã Bất Vi ra hiệu, chỉ trỏ cho những người làm của mình nhanh chóng vận chuyển vào trong. Chỉ ít lâu sau, người đến cửa hàng mua bán đông nghịt. Lã Bất Vi cũng thường dùng những kỹ xảo nhỏ khuyếch trương hàng hoá, ví như mua một món ngọc quý được tặng một gói trà sen thơ... phàm mua một bộ ngọc bội hai chiếc thì một chiếc chỉ bán một nửa giá; nếu không có tiền mặt thì cũng có thể đổi bằng lúa, gạo, đồ sứ, mai đồi mồi... Sau đó ông đem tất cả những hàng hóa đổi với giá thấp này bán ra với giá cao.

Việc buôn bán ngọc quý của Lã Bất Vi không ngừng phát đạt, vậy mà ông vẫn cảm thấy chưa thỏa mãn. Ông không phải hạng phú thương chỉ biết bo bo giữ của, ông có tham vọng dựa vào tiền bạc để làm chính trị.

Lã Bất Vi đã chọn đất xây thêm một khu nhà mới, bên trong cùng là lầu son gác tía, chín khúc hồi lang rồi đến đó ở. Lã Bất Vi nhìn thấy ánh mắt khó chịu của chủ tơ lụa họ Tống đối với nhà mình. Cuộc sống hào hoa phú quý, áo lông, ngựa béo, mâm ngọc, sơn hào hải vị đã khiến ông vĩnh viễn từ biệt với cuộc sống quẫn bách và lạnh lẽo trước kia. Vị môn khách trước kia mà nhà Vệ Hằng không dùng thì giờ đây cũng đã có môn khách. Điều ông thấy buồn nhiều nhất là vàng bạc càng lúc càng nhiều thì thời gian trong tay mỗi lúc một ít. Mặc dù thời gian nhàn rỗi rất ít, ông vẫn tiếp tục nghiền ngẫm, nghiên cứu quyển "Kế nhiên". Mỗi khi ngồi trước cuốn sách, Lã Bất Vi lại nghĩ tới người biểu diễn xiếc rắn Hoàng Phủ Nghĩa. Không biết bây giờ anh ta cùng con rắn của mình lăn lộn ở góc phố nào, biết đến bao giờ mới gặp lại vị hạo nhiên quân tử này? Mỗi khi đọc được một thiên "Kế nhiên..." Lã Bất Vi đều thấy được sức mạnh và tác dụng của sách vở. Từ sớm Lã Bất Vi đã manh nha ước vọng soạn sách, ông muốn cùng môn khách viết một bộ sách bao quát tất cả mọi sự vật trong thiên hạ, tập hợp mọi chước tác của bạch gia chư tử, lưu lại cho muôn đời sau. Chẳng phải đã có một bộ "Án Tử Xuân Thu" của học sĩ Nha Tử đã truyền tụng hay sao, ta cần phải viết một bộ sách như thế, sẽ lấy tên "Lã Thị Xuân Thu". Ông thấy trong thời đại trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng này, có thể đưa ra được một giọng điệu riêng trong tư tưởng, cũng như một cuộc buôn bán vốn mỏng lãi lớn khiến ta sung sướng, ngây ngất.

Có một việc khác khiến Lã Bất Vi trong lòng bối rối, lo lắng không yên. Đó chính là Hoàng Phủ Kiều bỏ đi không để lại chút tin tức gì. Ông vừa mua bán vừa tìm kiếm. Thậm chí còn phái một số môn khách tới các nước chư hầu dân biển tìm kiếm. Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng, Lã Bất Vi đã đến cái tuổi lấy vợ sinh con, hơn nữa làm ăn buôn bán lại đang hết sức hưng thịnh.

Lã Bất Vi biết có ba thê bảy thiếp cũng là thói phong lưu thường tình của các bậc đại trượng phu. Vậy mà, Lã Bất Vi muốn đem vị chí danh chính ngôn thuận của người vợ chính cho người mà ông ngày đêm mộng tưởng - Hoàng Phủ Kiều. Nếu không tìm được tin Hoàng Phủ Kiều, Lã Bất Vi sẽ phải chọn người nào vào vị trí đó?

Một hôm, một người khách diện mạo bí hiểm đến cửa hàng, xem cách ăn mặc và giọng nói giống như người nước Triệu đến từ thành Hàm Đan. Ông ta kéo Lã Bất Vi sang một bên nói nhỏ: "Có ngọc khuê không?". Lã Bất Vi lắc đầu. Người kia nói: "Tôi có thể trả giá cao". Lã Bất Vi hỏi: "Ông có thể mua được bao nhiêu?". Người kia trả lời: "Năm kiệu".

Chà! Lã Bất Vi kinh ngạc. Như vậy phải dùng đến năm ngàn lạng vàng! "Ông mua nhiều ngọc khuê như thế để làm gì?"

Người kia cũng nhìn thái độ bán tín bán nghi của Lã Bất Vi nói rất thần bí: "Nói cho ông biết nhé, tôi đến từ Hàm Đan, phụng chiếu lệnh của Triệu vương đi mua ngọc khuê, vì Triệu vương sắp phong quan phong ấp".

Lã Bất Vi trầm tư nói: "Được, một tháng nữa ông đến lấy hàng". Người kia nói: "Được".

Lã Bất Vi nói: "Tốt nhất ông để lại chút vàng làm tin". Người kia lôi trong ngực ra một trăm lạng vàng. Lã Bất Vi nghe nói có nợ là Lạc Phượng Ba sản xuất ra loại ngọc khuê này, quyết định cùng Triệu Khả Tín đến đó.

Thương hải tang điền, trời đất đổi thay. Thân Hầu ngươi đã vì Thiên tử năm nào vào sinh ra tử giúp đỡ Thái tử Nghi Cữu làm chủ giang sơn xã tắc, bây giờ đã tuyệt tự. Mỏ ngọc đã trở thành sản nghiệp trong đất phong của một vị đại phu nước Tề. Ở đây bán cả loại ngọc thô và ngọc đã qua chế tác. Vị đại phu nước Tề này, trên bãi đất rộng rãi và bằng phẳng trước Lạc Phượng Ba đã cho xây thêm một kỳ đình mái hiên, đó là trụ sở quản lý các hoạt động chợ búa. Đứng trên kì đình có thể nhìn thấy xe cộ của thương nhân các nước qua lại không dứt, bụi bay mù mịt.

Đây là lần đầu Lã Bất Vi thấy một mỏ ngọc sản xuất sầm uất đến thế. Không thể kìm được sự trầm trồ thán phục. Triệu Khả Tín từ lâu đứng bên cạnh nói, hai năm trước qua đây, vẫn chưa thấy có sự thịnh vượng như vậy.

Trong nhà hàng để mẫu, Lã Bất Vi bị ánh sáng chiếu rọi của các loại ngọc xếp tầng tầng lớp lớp làm hoa cả mắt. Lã Bất Vi nhắm mắt bình tâm lại, sau đó mới tập trung được ánh mắt của mình quan sát vào thế giới của các loại ngọc.

Lã Bất Vi đang chăm chú quan sát một lô ngọc khuê đắt tiền. Quan sát hồi lâu, ông xoa xoa lên bề mặt những viên ngọc, chúng phát ra những âm thanh vang dài. Lã Bất Vi dùng mắt nói cho Triệu Khả Tín biết, ông đã tìm được chỗ ngọc ưng ý.

Triệu Khả Tín thì thầm với Lã Bất Vi một hồi lâu, Lã Bất Vi đã biết, Triệu Khả Tín nhắc Lã Bất Vi rằng chỗ ngọc này dùng để định tước vị vương công quý thích. Ở đây buôn bán thoải mái nhưng ở nước Vệ nghiêm cấm việc buôn bán và vận chuyển ngọc. "Chu Lễ, Xuân Quan, Đại Tông Bá" quy định: "Dùng ngọc định ra sáu bậc, phân loại quý tộc: Vương Cầm Trần Khuê, Công Cầm Hằng Khuê, Hầu Cầm Tín Khuê, Bá Cầm Cung Khuê, Tử Cầm Cốc Bích, Nam Cầm Bạch Bích... Qua đó cho thấy những ngọc khuê này không thể tùy tiện mua bán mà ngoài Vương, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam ra thì những người khác cũng không được đeo và sở hữu".

Lã Bất Vi nói: "Ta có cách, mua về chúng ta sẽ không bán ở thành Bồ Dương".

Lã Bất Vi thấy khi ông và Triệu Khả Tín nói chuyện với nhau, có ánh mắt thỉnh thoảng liếc xéo về phía họ. Lã Bất Vi chăm chú nhìn đôi mắt lia láu trên khuôn mặt kia một hồi lâu, ký ức bị ngủ quên mới tỉnh lại. Đó là một khuôn mặt dường như đã quen, Lã Bất Vi lục tìm trong ký ức một hồi lâu, cuối cùng vẫn không nhớ ra đó là ai.

Triệu Khả Tín không chú ý đến biểu hiện của Lã Bất Vi và người kia, anh ta nói với Lã Bất Vi: "Lã tiên sinh, buôn bán khuê bích dĩ nhiên là một vốn bốn lời. Nhưng ngộ nhỡ bị kiểm tra, hàng hóa bị thu, vốn đã mất lại còn chịu phạt nữa".

Lã Bất Vi nói: "Người không phải lo trời sập như thế, ta khắc có cách".

Lã Bất Vi đã bỏ ra một khoản tiền lớn để mua đầy hòm khuê bích. Vào một buổi sáng còn đẫm hơi sương ông cho xuất lên xe ngựa nhằm hướng Bồ Dương xuất phát.

Khi chiếc xe ngựa của Lã Bất Vi đang đi trên con đường núi quanh co thì một con tuấn mã cũng đang theo hướng đó phóng như bay. Người cưỡi trên ngựa chính là người đã nhìn trộm Lã Bất Vi ở tiệm ngọc, Lã Bất Vi không biết rằng, người này chính là em của Tống Kỳ, hàng xóm cũ của ông. Anh ta tên là Tống Hoảng. Vì người em này có nhiều đặc điểm giống anh trai của mình, cho nên Lã Bất Vi cảm thấy Tống Hoảng có nét gì đó rất quen. Nhà nạp thần Tống Kì xây được mọi người tán thưởng. Vệ Nguyên quân rất hài lòng, phong tặng cho con của ông ta Tống Hoảng làm Tề nhân chuyên đặt mua các đồ ngọc khí cho cung đình. Do tính chất công việc khiến ông ta thường xuyên qua lại giữa các mỏ ngọc ở Lạc Phượng Ba và thành Bồ Dương.

Lã Bất Vi vừa tới đấy, Tống Hoảng đã nhận ngay ra ông. Ông ta trước mặt vua thì sợ hãi rụt rè nhưng, trong con mắt người khác lại là hình tượng uy quyền. Vừa thấy Lã Bất Vi trong nơi để hàng mẫu, ông ta đã thấy kẻ đối đầu với nhà mình trước kia đang mua ngọc mà nhà vua đã cấm. Ông ta quan sát rất lâu, không bỏ qua một cử động nhỏ nào của Lã Bất Vi.

Đợi cho xe của Lã Bất Vi về gần tới thành Bồ Dương. Vị Tư Khấu nắm hình phạt dẫn một nhóm quân sĩ đứng hai bên cổng thành đang chăm chú đợi xe của Lã Bất Vi chạy tới cổng thành thì bị chặn lại. Người có bộ mặt uy nghiêm là Tư Khấu chưa từng giáp mặt Lã Bất Vi mà mới chỉ nghe qua sự miêu tả của Tống Hoảng, giờ nhìn thấy một vị thương nhân có thân thể nở nang ngồi trên xe ngựa, thì nhận ra ngay là Lã Bất Vi.

Từ trên xe bước xuống, Lã Bất Vi kéo Triệu Khả Tín đang run rẩy ra phía sau lưng, sau khi chắp tay hành lễ, ông thẳng thắn hỏi: "Tư Khấu đại nhân, sao lại truy hỏi người thương gia như tôi?"

Tư Khấu nói: "Tôi muốn đợi xem xem quý thương gia mua được những thứ ngọc quý gì từ dốc Lạc Phượng".

Lã Bất Vi chỉ tay vào hòm hàng trên xe nói: "Tuân mệnh". Sau khi Lã Bất Vi để cho Triệu Khả Tín mở nắp hòm hàng, đám lính tay chân khua khoắng, cởi bỏ sợi dây buộc túi, tất cả ngọc đều bị đổ xuống nền đất; sau đó từng thùng, từng thùng cũng được mở ra. Những cơn gió mềm mại thổi lướt qua những viên ngọc lấp lánh ánh sáng, óng ánh như những dải lụa đang rủ xuống.

Lã Bất Vi nhìn thấy vẻ mặt đắc ý tự mãn của Tư Khấu cùng ánh mắt sắc nhọn ác hiểm của y.

Tư Khấu nói: "Những thứ ngọc khí này, vua đã cấm, các người đã phạm vào điều cấm, hãy đi theo bọn ta!".

Lã Bất Vi cười khẩy nói: "Tư Khấu đại nhân, hòm hàng của tôi có hai tầng, không thể chỉ kiểm tra lớp thứ một mà không kiểm tra lớp thứ hai. Dưới lớp vách ngăn còn có món hàng nữa đấy!"

Tư Khấu có chút ngạc nhiên, sai đám lính lục soát lại lần nữa. Quả nhiên, một tên lính nhìn thấy có một lớp vách ngăn, sau khi mở ra thì không thấy vật gì cả, chỉ thấy một miếng thẻ tre. Tư Khấu lấy lên xem qua, chỉ thấy những nét chữ rất chỉnh tề viết: "Xin kính dâng lên đấng tối cao Vệ Nguyên quân một chút ngọc mọn, gọi là có chút ít biểu thị sự chúc phúc. Đại phu Tề Quốc Trịnh Doanh". Tư Khấu mơ hồ hỏi: "Đại phu Tề Quốc Trịnh Doanh là ai vậy?"

Lã Bất Vi cười lớn nói: "Tư Khấu đại nhân hiểu biết ít cũng chẳng đáng trách, người có tiếng tăm lừng lẫy của dốc Lạc Phượng chính là ấp của ông ấy. Ông ấy do bận việc không có thời gian nên bảo ta chuyển lên cho Vệ Nguyên quân. Tư Khấu đại nhân nghĩ xem, số ngọc khí này sẽ do tôi trình lên hay do đại nhân đưa vào cung đây?"

Trên mặt Tư Khấu có một chút ngượng ngùng, ấp úng nói: "Vẫn là người trình lên chứ".

Lã Bất Vi lại thấy những viên quan uý đó cẩn thận liệm những viên ngọc đóng gói cẩn thận và xếp lại vào trong hòm.

Trên đường đi đến tiệm ngọc "Long xương quảng". Triệu Khả Tín trong lòng chưa hết sợ hãi nói: "Tôi sợ toát cả mồ hôi thay cho Lã tiên sinh! Ngộ nhỡ bị bại lộ thì không dễ gì kết thúc chuyện này đâu".

Lã Bất Vi nói: "Ngươi thử nghĩ xen, có ai lại dám đi hỏi vua, là có hay không đại phu nước Tề Trịnh Doanh đem ngọc quý cho Đại vương".

Triệu Khả Tín nói: "Ngược lại, tôi chỉ cảm thấy chuyện này rất nguy hiểm".

Lã Bất Vi nói: "Làm ăn chân chất, há có mấy ai phát tài được? Muốn vơ vét của cải để trở nên giàu có thì phải dám lao vào chỗ mạo hiểm. Có những cái mạo hiểm nhìn từ bên ngoài thì kinh sợ, vào sinh ra tử, nhưng nếu từ bên ngoài quan sát kỹ xuyên vào bên trong, thì lại không phải là như vậy. Cứ nói đến chuyến đi đến dốc Lạc Phượng để mua những thứ ngọc quý này của chúng ta thì cũng chẳng giống như những hậu quả không thể tưởng tượng nổi mà ngươi lo lắng. Trừ những điều ta vừa nói, thì không có ai dám tới chỗ vua để hỏi xem có nhận được tặng vật của đại phu Tề quốc Trịnh Doanh hay không? Ngươi thử nghĩ mà xem, Trịnh Doanh sống ở trong thành ấp của ông ta, cách dốc Lạc Phượng mấy trăm dặm thì việc điều tra cũng chẳng lấy gì làm dễ cả! Dù cho nhà vua có cho rằng đúng là có việc Trịnh Doanh tặng biếu ông ta ngọc bích, thì chỉ cần chúng ta bỏ ra vài kiệu biếu tặng ông ấy là có thể chuyển họa thành tốt".

Lã Bất Vi cũng chẳng đưa số ngọc bích trên về tiệm "Long xương quảng" mà lại ngầm mang về giấu ở đệ phủ của mình. Chỉ vài ngày sau là Trung Thứ Tử của nước Triệu sẽ cho người tới lấy số ngọc bích này, thế là Lã Bất Vi lại kiếm được khoản tiền lớn.

Được mấy ngày sau, tên quan uý họ Phùng hấp tấp chạy đến phủ đệ của Lã Bất Vi và nói với Lã Bất Vi rằng có người đặt lời gièm pha trước mặt Vệ Nguyên quân, nói rằng ngài buôn bán phi pháp, vận chuyển ngọc bích mà vua cấm bán, Vệ Nguyên quân vẫn còn chưa xác định được đúng hay sai. Nhân tình hình này, hãy cao chạy xa bay, tới các nước chư hầu khác để buôn bán. Chỉ cần có bản lĩnh thì tới đâu cũng có thể làm ăn phát tài được. Nhân tiện, còn có thể nghe ngóng tin tức của Hoàng Phủ Kiều.

Lã Bất Vi hỏi: "Không biết kẻ tiểu nhân ấy là ai?"

Viên quan uý họ Phùng nói: "Nghe nói là người giúp Vệ Nguyên quân đặt mua ngọc bích của Tề nhân Tống Hoảng, anh ta có thể gặp vua bất cứ lúc nào, nói không ngoa với ngài rằng, ngài có đề phòng cũng không thắng được đâu. Không chừng, nếu lần này Vệ Nguyên quân tin cho là phải mà giáng tội thì có hối cũng muộn rồi".

Lã Bất Vi nói: "Lời của quan uý nói rất có lý. Thế giới vô biên, đất trời rộng lớn, chắc sẽ có chỗ để ta làm ăn chứ!"

Tên quan uý họ Phùng nói: "Vậy bây giờ ngài định đi đâu, việc này phải quyết sớm chứ không thể muộn được".

Lã Bất Vi sau một hồi suy ngẫm, ông nói một cách quả quyết rằng: "Vậy thì tôi sẽ đi Đô thành Dương Trác nước Hàn!"

Tên quan uý họ Phùng nói: "Khi nào có tin tức của Hoàng Phủ Kiều, hãy lập tức báo cho tôi biết".

Tổ tiên của người Hàn cùng với Chu thiên tử, cùng có họ Cơ. Con thừa kế của ông ta sau này phụng dưỡng vua nước Phổ, được phong Hàn Nguyên, gọi là "Hàn Vũ Tử". Hàn Vũ Tử truyền ngôi được ba đời, Hàn Quyết làm thống soái ba quân cho nước Phổ giúp Phổ Cảnh công đánh bại Tề Khoảnh công và trở thành quan úy một trong sáu công thần hiển hách. Bắt đầu từ Hàn Quyết dùng phong ấp làm họ, không còn dùng họ Cơ nữa.

Khi Lã Bất Vi tới nước Hàn buôn bán, lúc bấy giờ Thái tử Cữu lên làm vua, chính là Hàn Ly vương. Đô thành Dương Trác của nước Hàn cũng là một thành ấp rất phồn hoa của thời Chiến Quốc. Lã Bất Vi chuyển tiệm bán ngọc của mình đến Dương Trác, ông vẫn dùng cái tên vốn có của nó là cửa hiệu "Long Xương Quảng". Sống ở đất khách quê người, Lã Bất Vi vẫn kiên trì trên con đường làm giàu. Lịch sử làm giàu của Lã Bất Vi như là đề tài sống động dưới ngòi bút của rất nhiều nhà lịch sử học. Những nhà du thuýêt tung hoành thời Chiến Quốc đã viết: "Chiến Quốc sách. Người Bộc Dương Lã Bất Vi, nhà buôn ở Hàm Đan". Tư Mã Thiên đời Hán viết cuốn "Sử ký. Lã Bất Vi liệt truyện". Mã Túc đời Thanh viết cuốn "Dịch sử. Tướng Tần Lã Bất Vi".

Trong những điển tích này đều không thể thiếu được những câu chuyện kể sinh động về những việc buôn bán của Lã Bất Vi ở Dương Trác và sự tích luỹ hàng ngàn lạng vàng của ông cho gia đình.

Nhưng ở tại Đô thành của người Hán, những truyền kỳ về sự gặp gỡ tình cờ giữa Lã Bất Vi và Hoàng Phủ Kiều càng làm xúc động lòng người hơn so với cuộc làm ăn buôn bán của ông.

Vừa mới tới, Lã Bất Vi vẫn chưa dốc toàn sức vào việc đi tìm Hoàng Phủ Kiều, người mà lâu rồi ông không được gặp mặt. Không phải là ông đã quên lãng người con gái có dáng vẻ dong dỏng, phong thái nhẹ nhàng đó mà là ông đang chìm sâu trong tình sâu nghĩa nặng với một người. Đối với việc cần phải thay đổi từ một phú ông giàu có tới một chức quan trong triều đình, ở vào hoàn cảnh không thân không sơ này thì Lã Bất Vi không thể dễ dàng bỏ qua một người khách thân cận với nhà vua tới từ nước Hàn được.

Ánh nắng của mùa đông giống như dòng nước lười nhác chảy vào cửa hiệu, những chiếc tủ kính bày bán ngọc trai lạnh lẽo được trùm lên một luồng khí ấm áp. Khi cánh cửa tiệm được mỏ ra, một vị khách ăn mặc lịch lãm bước vào. Lã Bất Vi nhìn ra phía ngoài, vị khách này tuổi tác có lẽ chỉ bằng ông hoặc hơn ông vài tuổi. Ông ta có dáng vẻ gày guộc, trắng xanh của một nho sĩ. Sau một hồi đi đi lại lại, Lã Bất Vi đã biết được tên ông ta là Hàn Trọng Anh. Ông ta là khách khanh kề cận bên cạnh Hàn Ly vương. Ở các nước chư hầu thì hạng khách khanh như thế này không được coi trọng lắm, nhưng ở nước Hàn thì lại có thể nhận được rất nhiều bổng lộc, chính vì thế trong bảng "quan chức tiên tần" viết: "Người nước Hàn rất coi trọng khách khanh và chức này chỉ có dưới Tướng quốc".

Vị khách khanh có lối ăn nói trau chuốt này dường như có điều gì bí ẩn. Ông ta là người đến "Long Xương Quảng" nhiều nhất. Ông ta không cò kè thêm bớt giống với bất kỳ một người khách nào. Sau khi quan sát kỹ một hồi và hỏi rõ giá cả và trả tiền ngay. Ngày này qua ngày khác, Lã Bất Vi phát hiện ra rằng số ngọc bích mà ông ta mua toàn là thứ hàng rẻ nhất. Có một lần Lã Bất Vi lấy một viên ngọc quý - ngọc Toàn Cơ - và bán cho ông ta bằng giá của một viên ngọc bích. Ông ta từ chối nhiều lần vì lý do ông ta chẳng có công cán gì nên không tiện nhận. Để báo đáp tấm thịnh tình của Lã Bất Vi, ông ta đã mời Lã Bất Vi tới phủ đệ của mình dự yến tiệc.

Phủ đệ của Hàn Trọng Anh so với tưởng tượng của Lã Bất Vi thì rất khiêm tốn hơn nhiều và giản dị hơn nhiều so với ngôi nhà của ông. Trong cái bất ngờ đó, Lã Bất Vi vô hình chung lại có một cảm giác ưu việt. Sau khi vào tới phòng khách, thì ông mới thấy những tiên đoán của mình là đúng. Vị khách khanh mua ngọc khi này thực chất là để thu gom. Nhìn gia cảnh và những gì ông ta mua được, Lã Bất Vi mới biết được vị khách khanh này là người rất giàu có nhưng khiêm nhường. Hàn Trọng Anh dường như đã hiểu rõ nội tâm của Lã Bất Vi. Ông ta tự phân trần giảng giải: "Chút bổng lộc mọn ấy mà".

Tuy không có gì là quý báu đẹp đẽ nhưng những người hầu của Hàn Trọng Anh vẫn bày ra một bữa tiệc khác thường. Trên bàn ăn thịnh soạn đầy rượu và thức ăn. Trong lúc Lã Bất Vi và Hàn Trọng Anh ngồi đàm đạo với nhau, từ chuyện bảo ngọc tới đạo đức văn chương, từ tình hình nước Hàn tới cục thế của thiên hạ, hai người đều cảm thấy đối phương của mình tài cán hơn người, là trụ cột của đất nước.

Hàn Trọng Anh thật thà nói: "Dựa vào những tài cán kinh doanh và học thức của Lã hiền đệ, hai chân không thể đi tới triều đình, chỉ có thể quanh quẩn vài bước trong ngoài quầy hàng, đúng là không được thoải mái, trí không được phát triển!". Lã Bất Vi trầm tư: "Ở đời ai chẳng thích được tiến thẳng tạo công lập nghiệp, nhưng khổ nỗi là không có đường tiến và cũng không có chỗ bám dựa!". Hàn Trọng Anh nói: "Nếu như hiền đệ thực sự muốn chen chân vào chốn cung đình, bước lên cửa rồng, có một người sau này sẽ giúp hiền đệ được!" Lã Bất Vi hỏi: "Người ấy là ai vậy?" Hàn Trọng Anh nói: "Lý Triển, con người này rất có chí hướng, văn võ song toàn, từng làm thầy dạy cho Thái tử Hoàn, là người vạch mưu sách, tìm mưu kế cho Thái tử, tình như thủ túc. Có một lần do sơ ý có lời đắc tội với Đại vương đã bị bãi xuống làm dân thường. Rồi một ngày núi non như sụp đổ, Đại vương băng hà, Thái tử Hoàn lên làm vua, trao cho Lý Triển ấn Tướng quốc. Bây giờ Lý Triển phải sống ở nơi sông núi khốn quẫn, lấy việc kiếm củi câu cá làm nghề. Nếu như bây giờ hiền đệ khẳng khái mở hầu bao, lúc đói cho cơm, một ngày nào đó con rồng ở núi đông uốn mình trỗi dậy trở lại, tất sẽ phải báo đáp tri ân, tiến cử người hiền có năng lực, lúc đó cuộc sống quân thần của hiền đệ chắc chắn sẽ nhiều triển vọng lắm!". Lã Bất Vi nói: "Nên làm như thế nào, xin huynh trưởng chỉ giáo cho vài điều". Hàn Trọng Anh nói: "Lý Triển bây giờ đang ngụ tại thôn Tuyết Nê, đông thành Dương Trác. Trước tiên hiền đệ hãy đến hỏi thăm, dốc bầu tâm sự, kề gối nói chuyện với nhau là được rồi". Lã Bất Vi nói: "Đến đó với hai bàn tay trắng thì còn gì là có ý kính trọng người ta nữa. Vậy nếu mang theo lễ vật đến có đường đột hay không?" Hàn Trọng Anh cười lớn và nói: "Các người là dân buôn bán, lời đi đôi với lợi, chuyện gì cũng lấy tiền bạc ra để nói. Nhưng vị Lý Triển tiên sinh này không giống như những người phàm tục khác, coi chuyện phú quý và quyền lực như cỏ rác. Hiền đệ đi tới đó, chỉ cần mang theo những lời thành thực là được rồi. Sau này hãy nói chuyện biếu xén, tùy cơ mà hành sự!" Lã Bất Vi hỏi: "Bèo nước gặp nhau, huynh trưởng có thể vì hiền đệ mà tiến cử một lần nữa được không?" Hàn Trọng Anh nói: "Có những cái hiền đệ chưa biết, Lý Triển tiên sinh dường như không xem trọng những khách khanh và hoạn quan kề cận bên cạnh Hoàng thượng. Ta và ông ấy không có hiềm khích cũng không có mối thâm giao. Nếu như tùy tiện tiến cử, sợ rằng lợi bất cập hại".

Trời đã tối, Lã Bất Vi muốn đi nghỉ nhưng những lời nói trên cứ trở đi trở lại trong đầu ông. Khi ông thấy Hàn Trọng Anh không nói gì, hai mí mắt nhắm khép lại, ông nhớ lại ngày xưa hồi còn nhỏ ông đi bắt ngọc trai sông ở Bộc Dương.

Lắc lư cùng với chiếc xe ngựa đi trên con đường nhỏ gập ghềnh của bờ ruộng trong sương khói lờ mờ. Lã Bất Vi nhìn thấy mặt trời giống như lòng đỏ trứng gà cũng đang run rẩy lay động. Tiết trời khá lạnh, thỉnh thoảng ông lại thở ra đánh khà một tiếng, những hạt nước nhỏ giống như những hạt ngọc nhanh chóng đọng lại trên bộ ria cắt ngắn, cạnh khóe mép của ông.

Khi chiếc xe ngựa của Lã Bất Vi tiến vào thôn Tuyết Nê, ông thầm nghĩ: "Mảnh đất này đúng là giống với cái tên của nó, mỗi căn nhà giống như bị chôn vùi trong tuyết sương vậy". Cái đầu tiên mà Lã Bất Vi nhìn thấy trong sân vườn nhà Lý Triển là con chó vàng rất béo. Cùng với tiếng sủa vang dội của nó, một vị trưởng giả bước ra. Khuôn mặt ông nề nề khiến người ta rất khó nói ra nét đặc trưng trên khuôn mặt ông. Trên chiếc áo thì vá chằng vá đụp giống như những cánh bèo nổi phồng phềnh trên mặt nước. Nhìn cách ăn mặc này, cũng lộ rõ thân phận dân thường ăn đói mặc rét của ông ta. Lã Bất Vi cảm thấy kỳ lạ ở chỗ: từng bước chân của ông ta vẫn mạnh mẽ và nhanh nhẹn, mỗi lần ông bước, tuyết ở dưới chân ông phát ra những tiếng chút chít, như những tiếng kêu cò vạc khi bị trói chân vậy.

Đợi khi vị trưởng giả tới gần, Lã Bất Vi nhìn thấy mắt ông ta rất sáng, hàm răng trắng tinh. Giọng nói của vị trưởng giả lạnh lùng như tuyết: "Tìm ai?" Lã Bất Vi đáp: "Lý Triển". Vị trưởng giả lại hỏi: "Người là bạn của ông ta" Lã Bất Vi đáp: "Không phải". Vị trưởng giả vẫn hỏi: "Người không quen cậu ta, không thân thiết với cậu ta, vậy tới tìm cậu ta có chuyện gì?" Lã Bất Vi nói: "Tôi ngưỡng mộ danh của ông ta mà tới, tôi muốn kết thành bạn của ông ta". "Lý Triển không có nhà". "Tôi sẽ đợi". "Không biết khi nào cậu ta mới trở về". "Ông ấy đi đâu vậy?". "Rất khó đoán được. Nếu không lên núi đốn củi thì vào trong thành bán than". "Vậy thì phiền lão bá phải tiếp tôi rồi. Tôi sẽ ở lại đây đợi Lý Triển tiên sinh". "Tôi đã nói với ông rồi, không biết khi nào cậu ấy trở về đâu!". "Vậy thì tôi sẽ cung kính đứng đây chờ đợi, mạn phép hỏi lão bá, ông là người như thế nào với Lý Triển?" "Ta là Lý Trọng, huynh trưởng của cậu ta!"

Lã Bất Vi cởi con ngựa ra khỏi xe rồi buộc nó vào gốc cây trong sân vườn. Lã Bất Vi thấy chỗ ở của Lý Triển giống như một lò than, có một cái võng vải giống như một chiếc lưới đánh cá được treo ở góc tường. Đây có thể nói là mảnh đất không yên ổn với hai anh em, ăn uống cũng chỉ là gạo nứt với đậu, lê, rau cỏ. Mức độ nghèo đói như thế này, quả là quá sức tưởng tượng của Lã Bất Vi.

Lý Trọng rất lạnh nhạt với Lã Bất Vi, chỉ ngồi trước cửa lò để đốt than, bên cạnh chẳng còn có ai nữa. Lã Bất Vi lấy một cái đôn bằng gỗ để làm ghế, ông ngồi lên đó và nhìn vào những tia sáng được hắt ra từ cửa lò; dưới sự phản chiếu của những tia sáng đó, Lã Bất Vi thấy mặt Lý Trọng đầy vết nhăn.

Khi trời nhập nhoạng tối, cũng chẳng thấy bóng dáng của Lý Triển đâu. Cho dù Lã Bất Vi bụng đói cồn cào nhưng cũng khó có thể nuốt được bát cơm thô kém mà Lý Trọng mang cho ông. Đợi Lã Bất Vi cố gắng nuốt hết bát cơm, Lý Trọng nằm vào trong chiếc võng vải ngửa mặt nhìn ra tứ phía. Lã Bất Vi nghĩ, người ngủ bên cạnh chiếc võng vải của Lý Trọng buổi tối hôm nay là một người buôn giàu có đến từ Dương Trác.

Buổi sáng hôm sau, Lã Bất Vi vẫn cứ chờ đợi trong sự suốt ruột và khô khát. Lã Bất Vi vẫn ngồi trên chiếc ghế đôn đối mặt với ánh sáng của bếp lò và một khuôn mặt dưới sự phản chiếu của thứ ánh sáng kia. Lã Bất Vi không thể chờ đợi hơn nữa. Ông tỏ ra rất bất bình với người có tên là Lý Trọng kia, người được coi là huynh trưởng mà không biết Lý Triển em trai mình đi đâu. Lã Bất Vi biết câu hỏi của mình có ý vị như hồi chuông báo thức: "Lý huynh trưởng, rút cục Lý Triển tiên sinh đã đi đâu, ông không thể đoán ra sao?" Lý Trọng nói: "Tối hôm qua ta đã nói rồi, nếu không lên núi đốn củi thì vào thành bán than". Lã Bất Vi hỏi: "Lý huynh trưởng vừa nói, nếu không lên núi đốn củi thì vào thành bán than. Vậy thì xin mạn phép hỏi: ngọn núi đó là núi nào, thành đó là thành nào?" Lý Trọng nói: "Đó là núi Hùng Thoán Lĩnh và thành Dương Trác". Lã Bất Vi lại hỏi: "Núi Hùng Thoán Lĩnh cách đây bao nhiêu dặm và đi bằng cách nào?" Lý Trọng nói: "Đi ra cửa, hướng về phía tây, có một khe hẻm to, đi tới đầu hẻm là đến, chừng khoảng mười dặm". Lã Bất Vi vẫn hỏi: "Đã là anh em thì như da với xương, môi hở răng lạnh, xin lỗi tôi nói thẳng, tôi thấy Huynh trưởng không mấy quan tâm đến việc lành dữ của anh em mình lắm!" Lý Trọng chỉ cười đáp lại lời chỉ trích của Lã Bất Vi và phớt lờ như không có chuyện gì.

Lã Bất Vi buộc ngựa vào xe, và lại ngồi lên chiếc xe ngựa của ông chuẩn bị ra khỏi nhà họ Lý, hướng về phía Tây, đến Hùng Thoán Lĩnh xem sự thể rút cục là thế nào. Sau khi Lý Trọng biết được dụng ý của Lã Bất Vi ông nói với Lã Bất Vi đợi khi em ta về ta sẽ nói lại với cậu ấy.

Lã Bất Vi sau khi nói rõ mình là ai, liền quất ngựa cho xe chạy. Hai chiếc bánh quạnh quẽ, mòn vẹt lại bắt đầu chuyến đi hướng về phía trước, trên con đường phủ tuyết đầy gian nan. Khi Lã Bất Vi quay đầu lại để cáo biệt ngôi nhà như chiếc lò than ấy, ông nhìn thấy trên bộ mặt như hun khói của Lý Trọng xuất hiện một nụ cười rất khó hiểu. Một con người kỳ quái.

Con đường nhỏ rất bằng phẳng, tuyết trên đường đã bị ánh nắng mặt trời làm rắn kết lại, khiến chiếc xe ngựa như chạy nhanh hơn. Chiếc xe lắc lư như người say, phải khó khăn mới tới được đầu của khe hẻm, một chiếc dốc lớn, thẳng đứng đã cắt đứt con đường đi, Lã Bất Vi nghĩ, chẳng lẽ đây chính là Hùng Thoán Lĩnh mà Lý Trọng đã nói đó sao. Lã Bất Vi nhìn xung quanh, trên đỉnh núi trắng mờ chỉ toàn là cây cối màu xám. Lã Bất Vi gọi lớn, tiếng gọi vang vọng khắp núi rừng: "Lý Triển". Chốn thâm sơn cùng cốc vang vọng đáp lại lời của chính mình: "Lý Triển". Lã Bất Vi cảm thấy chút cô đơn, lẻ loi. Lã Bất Vi đánh xe chạy chầm chậm, men theo đường núi, đảo mắt tận thu cảnh vật xung quanh.

Khi Lã Bất Vi thất vọng tay không quay về Viên Lạc (nơi ở của Lý Triển), Lý Trọng dường như đã đoán ra được sự việc, tươi cười ra tận cửa đón Lã Bất Vi. Lã Bất Vi ngạc nhiên, hỏi: "Lý Trọng tiên sinh, hình dáng anh em ngài như thế nào? Ngày mai đến bán than ở thành Dương Địch, tôi nhất định đi tìm bằng được!". Lý Trọng trả lời: "Cùng một mẹ sinh ra, ngài xem hình dáng phải như thế nào? Giống như tôi vậy!"

Hai ngày sau, Lã Bất Vi lại chở than lên thành Dương Địch tìm Lý Triển. Bán hơn mấy chục xe than mà khuôn mặt Lý Triển vẫn biệt tăm.

Lã Bất Vi quay về, vừa ra cửa thành thì gặp Lý Trọng, chào hỏi một hồi rồi hỏi Lý Trọng đến thành Dương Địch này có việc gì. Lý Trọng nói cũng đi tìm em. Bất Vi về phủ ngồi chưa ấm chỗ, đã thấy Lý Trọng theo phía sau, Bất Vi hỏi:

"Vẫn chưa tìm thấy em ngài sao?" Lý Trọng trả lời: "Tìm thấy rồi" Lã Bất Vi hỏi: "Ở đâu vậy?" Lý Trọng nói: "Ở trước mặt tiên sinh đó" Lã Bất Vi quay mắt nhìn xung quanh, trong phòng chỉ có Lý Trọng vội hỏi: "Là tiên sinh định trêu đùa tôi à?" Lý Trọng nghiêng mình thi lễ, trịnh trọng nói: "Người đang nói cùng Lã tiên sinh là Lý Triển đây" Lã Bất Vi ngẩn người hỏi: "Ngài không phải là anh của Lý Triển sao?" Lý Trọng nói: "Họ Lý nhà tôi cô quả, làm gì có anh em. Tôi thân mang trọng tội, ẩn mình nơi sơn dã, muốn tránh điều phiền phức nên phải lấy tên là Lý Trọng. Hai ngày nay thấy Lã tiên sinh hao tâm tổn lực, thành tâm tiếp kiến, giao tiếp bạn hiền, ngài vì tôi mà nhọc người mệt sức, thực bụng muốn tới tạ tội với ngài!" Lã Bất Vi thận trọng nói: "Lý Triển tiên sinh, xin ngài cẩn thận!" Rồi mời Lý Triển ngồi, sai người đem áo hoa lụa gấm cho Lý Triển thay, bày yến tiệc, mời cả Hàn Trọng Anh, ba người chén tạc chén thù, rất tâm đầu ý hợp.

Lã Bất Vi mời Lý Triển chuyển đến phủ của mình, rũ bỏ khó khăn, thiếu thốn. Lý Triển nói: "Tôi ở triều đường có bao nhiêu kẻ thù, nhất thủ nhất động đều bị người ta chú ý. Nếu thân ở Dương Địch, tiếng tăm thị phi tất sẽ lọt tới triều đường, quan quân lấy làm hiềm khích có khi không tránh nổi họa vào thân. Ẩn mình ở Tuyết Nê thôn, sinh sống đạm bạc có thể tránh khỏi mọi sự dòm ngó, càng thuận lợi cho việc hành sự sau này". Hàn Trọng Anh cho biết Lý Triển nhìn xa trông rộng. Lã Bất Vi cũng cảm thấy rằng việc nhỏ không biết nhịn sẽ tổn hại tới đại sự, Lý Triển tính toán sâu xa quả là bậc kỳ tài.

Lúc chia tay, Lã Bất Vi phái người đánh xe đưa Lý Triển về tận thôn Tuyết Nê, trên xe chở nhiều lương thực và tiền bạc. Quay trở về, Lý Triển cởi bỏ áo gấm, khoác trên mình bộ quần áo rách rưới, bôi mặt nhọ nhem bẩn thỉu. Để tránh phiền phức, hàng tháng vào lúc nhá nhem tối hoặc đêm khuya Lã Bất Vi mới tới thôn Tuyết Nê.

Cha của Lã Bất Vi là Lã Hâm thấy con giao kết với hạng người khố rách áo ôm, nghèo nàn thì trách con: "Con nên bỏ công sức tiền tài vào việc buôn bán mới sinh lời phát đạt được" Bất Vi nói: "Xin cha tin con! Con giao kết với Lý Triển tiên sinh cũng là một vụ buôn bán hời đấy" Lã Hâm nói: "Vị đại công tử này chẳng phải là người bán than sao? Lẽ nào con dùng tâm sức, hy vọng sinh lời trong việc buôn bán than củi?" Lã Bất Vi mỉm cười, kể cho cha biết lợi ích thực tế việc kết bạn với Lý Triển. Lã Hâm cảm thấy lo lắng: "Con làm việc này không từ thủ đoạn, mưu cầu quan tước. Mai này nếu bại lộ, e miệng thế chê cười". Lã Bất Vi rành rọt nói: "Ngày mai, giở mọi mưu kế, tìm trăm phương ngàn cách giành chức quan không phải là việc của phường tiểu nhân vong ơn bội nghĩa. Ngày xưa, người ta luôn kính trọng vua Nghiêu Thang Tuấn Vũ, tôn kính như bậc thánh thần, bây giờ xem ra chỉ như trò đùa thôi!". Thấy con ngang nhiên chỉ trích, Lã Hâm kinh ngạc nói: "Từ cổ tới kim, chưa có ai nói Nghiêu Thuấn không tốt bao giờ". Bất Vi nói tiếp: "Vua Nghiêu khi trị vì thiên hạ, sống ở nhà cỏ không che nổi sương gió, ăn lương khổ, uống canh rau rừng. Ông ta mặc cái gì? Quá lắm là tấm lông thú tránh rét mùa đông, tấm vải không choàng tạm mùa hè. Bây giờ hạng người bần cùng trong thiên hạ cũng còn sang hơn nhiều. Vua Nghiêu trị vì thiên hạ, tự tay cầm cuốc kiếm sống, nhọc công mệt sức không có nổi thịt ăn, tay dài hơn chân, so với bọn nô tì hầu hạ bây giờ còn kém vài phần. Vì thế có thể nói là, thời cổ đại, người ta trao ngôi Thiên tử cho người khác dễ dàng vì cuộc sống của họ cũng chẳng khác mọi người, cũng phải lao động làm lụng nên ngôi báu trao tay không tiếc nuối. Bây giờ tình hình đã khác xa rồi. Một huyện lệnh - chức quan thấp nhất cũng có ai bì được, không chỉ bản thân hưởng vinh hoa phú quý và ân trách còn lưu cho hậu thế, con cái đời sau được lên xe xuống ngựa, nên ai cũng xem trọng ngôi vị này. Vì thế, theo chuyện này mà nói, thời xưa nhường ngôi Thiên tử dễ dàng, thời nay theo đuổi huyện lệnh cũng khó. Đó là chuyện lợi ích thực tế hoàn toàn khác nhau. Làm Thiên tử chẳng lợi lộc, lại chịu khổ, ai muốn làm? Làm huyện lệnh lại khác hẳn, chắc chắn mọi người ai cũng cố theo đuổi.

Người sống nơi núi cao, phải xuống khe suối sâu lấy nước, mỗi lần gặp dịp lễ tiết lấy nước làm quà biếu tặng, người sống nơi ngập úng, chuyên khổ vị bị thủy tai lại muốn tiêu bớt nước đi. Vì thế đến mùa giáp hạt, đến cả anh em cũng không cho nhau nổi bữa cơm, mùa thu hoạch lương đống đầy đồng thì khách sơ giao cũng đãi tiệc, chẳng phải họ có lòng tốt hiếu khách quên tình cốt nhục mà vì của cải quá nhiều; ngày nay người ta sống phải tranh giành nhau không phải tâm địa hẹp hòi mà vì tài vật hiếm quý. Cổ nhân dễ thoái bỏ ngôi vị không phải vì lòng cao thượng mà vì quyền lợi ít ỏi, ngày nay tranh quan vô chức không phải hạng vô sỉ mà vì bổng lộc dồi dào".

Lã Hâm ban đầu cảm thấy kinh ngạc sửng sốt, càng nghe càng thấy thán phục ý chí lớn lao của con, luôn miệng tán thưởng: "Diệu kế, thật diệu kế!" Bất Vi nói tiếp: "Xin cha đừng quá khen con, có một chút lời lãi nào đáng kể gì; chút lời ấy chỉ là tạm thời thôi, chưa có tiền đồ lớn nhưng phải buông câu được con cá lớn, có như thế lãi lời mới không đếm xuể được!" Lã Hâm hỏi: "Lý Triển có phải là con cá lớn không?" Lã Bất Vi dương dương tự đắc: "Tất nhiên rồi!"

Công lao của Lã Bất Vi quả là không uổng phí.

Năm 273 trước CN, liên quân hai nước Triệu, Ngụy tiến công Hoa Dương nước Hàn, tình hình nguy cấp. Nước Hàn cầu viện nước Tần, xin binh ứng cứu, lúc đầu, nước Tần khoanh tay đứng nhìn, án binh bất động. Hàn tướng quốc nói với Trần Thệ đang bị ốm nằm trên giường rằng: "Nay việc quân gấp gáp, hy vọng ngài dù lâm bạo bệnh cũng xin đêm tối đến Tần một phen". Trần Thệ đến nước Tần gặp Nhương hầu Ngụy Nhiễm. Nhương hầu nói: "Chẳng phải việc binh khẩn cấp sao? Vì thế mới cho ông đến đây!" Trần Thệ đáp lời: "Không gấp gì cả". Nhương hầu nổi giận: "Ngài tới đây không phải làm sứ giả cho quân vương nước mình hay sao? Nước Hàn cho sứ giả đến không ngừng, báo với tệ quốc tình hình rất khẩn cấp, thế là tại sao?" Trần Thệ nói: "Nước Hàn muốn là khẩn cấp thì có thể thay đổi tình hình thuận theo quý quốc. Chính là vì chưa có nghiêm trọng mới sai tôi tới đây". Nhương Hầu nghe xong lập tức nói: "Ngài không cần đến gặp Tần vương, tôi lập tức cho quân tiếp ứng".

Quả nhiên, tám ngày sau, quân Tần đã tới núi Hoa Dương, đánh bại liên quân Triệu, Ngụy. Năm ấy, Triệu Ly vương qua đời, con là Hoàn Huệ vương lên ngôi.

Ngày hôm sau, Hoàn Huệ vương lập tức đến thôn Tuyết Nê đón thầy giáo Lý Triển hồi cung. Khổ tận cam lai, Lý Triển được phong làm Thái tể, đức cao trọng vọng. Lã Bất Vi trở thành khách khanh, hưởng hàm Tam phẩm, có thể ra vào cung vua. Hôm thiết triều, Lã Bất Vi thấy Hoàn Huệ vương oai nghiêm khí phách, trong lòng xốn xang, ông biết, tự mình sẽ bước lên đài cao phay hầu bái tướng.

Lã Bất Vi tuy chỉ có tước hầu, không có quan chức nhưng được đoàng hoàng ra vào triều đường. Hoàn Huệ vương bày yến tiệc, mời các chư hầu và sứ thần, có lúc mời cả Lã Bất Vi; vì thế chẳng bao lâu Lã Bất Vi thiết lập được quan hệ khá tốt với vài người trong triều, cho dù cẩn trọng trong từng lời nói song trước mắt vua, rốt cuộc vẫn chỉ là khách thương tầm thường. Ngày trước khi vào thành buôn bán, không ai chú ý tới Lã Bất Vi, chỉ nghỉ ở quán trọ thường hạng, bây giờ mọi việc đã khác mỗi lần tới đây đều có bè bạn. Ngoài việc buôn bán, Bất Vi thường vào cung vương hoặc nghỉ ngơi trong phủ tướng hầu. Đây chính là cơ hội để Lã Bất Vi nắm vững tình hình các nước chư hầu. Bất Vi không còn là thương nhân giống người khác nữa.

Sau khi chia tay ở Dương Quang, Bất Vi vẫn tiếp tục buôn bán châu ngọc ở xưởng "Long Xương Quảng"

Một hôm, khi Lã Bất Vi đang ngồi tính toán, có hai người một gày một béo cầm ngọc hỏi bán. Lã Bất Vi đồng ý mua nhưng muốn xem qua đồ bán. Người béo nhẹ nhàng lấy trong mình chiếc vòng ngọc đưa cho Lã Bất Vi.

Bất Vi sửng sốt, đây chính là chiếc vòng ngọc mà Bá Phụ tặng mình. Chính Lã Bất Vi đem tặng cho Hoàng Phủ Kiều, cớ sao lại lọt vào tay hai gã này? Bất Vi giật mình lo sợ, xem đi xem lại, đích thực là tín vật đã đưa cho Hoàng Phủ Kiều.

Bất Vi biết đã có chuyện xảy ra, cố nén nỗi sợ hãi, lấy giọng trấn tĩnh hỏi: "Chiếc vòng này có phải đích thực của các ông không?"

Người béo vội hỏi lại: "Không phải của chúng tôi. Hay là các ông không mua?"

Bất Vi lại hỏi: "Thế ở đâu ra?"

Người gầy gạt đi: "Ông không phải là quan phủ, không phải hỏi gốc tích ngọn nguồn, có không can hệ gì tới ông. Ông xem qua ngọc rồi, cuối cùng ông có mua hay không?"

Bất Vi nói: "Tất nhiên là mua". Sau một hồi ngã giá, Lã Bất Vi trả tiền. Hai người mừng rỡ, cầm tiền ra về.

Họ vừa bước chân ra khỏi cửa, Lã Bất Vi cùng một người gia nhân bước vội theo sau. Bất Vi theo hút bóng áo đen của người béo, qua một lối rẽ, đột nhiên bóng áo ấy bước nhanh vào quán rượu ven đường.

Hai người bán ngọc sung sướng hả hệ gọi bày rượu thịt, bắt đầu chúc tụng nhau.

Bất Vi và người hầu ngồi kế bên cạnh, cũng vờ gọi cơm rau, lắng nghe từng lời hai người béo - gày nói chuyện. Họ nói rất nhỏ nhưng Lã Bất Vi không bỏ sót lời nào.

Người gày nói: "Anh, anh thật tinh đời, vừa nhìn biết cô gái ấy là con nhà trâm anh, lại còn mang ngọc quý bên mình". Người béo nói: "Cô gái ấy thật kiều diễm. Ôi! Đôi mày thanh thoát, thật đáng quý tướng đài các!" Người gày nói: "Anh không cưới được cô ấy thà để em bán quách cho xong". Người béo nói: "Nói dễ làm sao! Mày không nhìn thấy cô ấy chống cự quyết liệt thế nào à, chết cũng không thuận, chẳng phải đợi lên thành, trên đường mà thấy thì quan phủ sẽ gô cổ bọn mình hỏi tội đấy!". Người gày nói: "Thế thì đem trói rồi nhốt nó vào nhà kho là thượng sách" Người béo: "Sự việc không thành, ta bắt nó phải chết, chiếc vòng này cũng đủ dùng rồi". Hai người thì thầm nhỏ to, hồi lâu đứng dậy trả tiền ra về.

Bất Vi và người hầu nhẹ nhàng theo gót, thấy hai người liêu xiêu trên đường rồi rẽ vào sân bao quanh bởi bức tường rêu phong.

Bất Vi quan sát rồi nhớ kỹ vị trí ngôi nhà, bảo người hầu đứng đó canh chừng rồi chạy như bay đến phủ Tư Khấu, đưa ra vòng ngọc Long Vân, trình báo mọi chuyện đã nghe được. Tư Khấu biết Lã Bất Vi là khách khanh, hưởng hàm tam phẩm, lại muốn gần gũi hơn, vội phái người đến Dương Địch điều tra.

Rất nhanh chóng, đầu lĩnh mang quân đến bao vây ngôi nhà Bất Vi kể, bắt hai người một béo một gày về tra xét. Ban đầu, hai kẻ trốn tránh, quanh co chối cãi, sau khi đối chất với Lã Bất Vi đành cung khai nhận tội. Hôm qua đã vào nhà cô gái cướp bóc của cải, bắt cóc cô gái về làm vợ nhưng bị chống trả quyết liệt bèn trói cô giam vào trong nhà kho.

Bất Vi cùng vài tên lính tới nhà kho, chỉ thấy một mùi ẩm mốc xộc vào mũi. Bất Vi gọi liền mấy tiếng: "Hoàng Phủ Kiều, Hoàng Phủ Kiều". Không có ai đáp lời. Bất Vi khom lưng chui vào trong, chỉ thấy mạng nhện giăng đầy, nhìn kỹ từng góc nhà cũng không thấy bóng dáng Hoàng Phủ Kiều đâu.

Quan binh trong kho nổi giận, thét hỏi anh em gày béo dấu cô gái chỗ nào. Hai người than khóc thấu trời, thề thốt rằng không biết việc gì xảy ra, không biết ai đã giúp cô trốn thoát.

Bất Vi quắc mắt nhìn họ, quan binh xin Lã Bất Vi giảm cơn thịnh nộ, xin giải hai tên giam vào ngục, nghiêm trị cực hình, xét xử bọn điêu dân xảo trá.

Thất vọng nặng nề, Lã Bất Vi lặng lẽ quay về phủ. Con đường vắng lặng lạnh lẽo nhưng càng làm tăng thêm nỗi mệt mỏi chán chường. Vừa vào tới cửa, gia nhân báo có hai người xin gặp. Một người là Hoàng Phủ Kiều, người kia tự xưng là Dương Tử đang nóng lòng đợi trong phòng khách.

Thật là tạo hóa khéo xoay vần, Lã Bất Vi vội bước, mọi việc xảy ra như sóng cồn gió dập, cuộc sống với bao điều ngẫu nhiên dễ thay đổi. Bước vào phòng khách, Lã Bất Vi vội đưa mắt nhìn hai người trong phòng.

Đầu tiên, Lã Bất Vi nhìn thấy Hoàng Phủ Kiều, ánh mắt rưng rưng chảy lệ chạy tới, rồi bóng dáng mảnh mai như lá mùa thu ào tới bên mình. Trên khuôn mặt còn vương nỗi sợ hãi của bao chuyện xảy ra, Hoàng Phủ Kiều kể cho Lã Bất Vi nghe. Cô vừa đến Dương Địch tìm anh thì bị hai người một béo một gày bắt giữ, trói rồi giam vào nhà kho.

Cô lấy hết sức bình sinh kêu cứu, một lúc lâu sau, có Dương Tử nghe thấy, chạy tới giải thoát cho cô. Cô từ lâu đã nghe thấy trong thành có một vị buôn bán vàng ngọc giàu lòng nhân nghĩa là Lã Bất Vi.

Lúc đó, Lã Bất Vi mới nhìn rõ người thanh niên gọi là Dương Tử. Đôi mày rậm, khuôn mặt lanh lợi hồng hào, bờ vai rộng dường như có thể mang tròn khối đá vạn cân. Bất Vi nói, nếu anh ta đồng ý sẽ lưu anh ta lại trong phủ làm người giúp việc với tiền công hậu hĩnh. Dương Tử gật đầu mỉm cười. Hoàng Phủ Kiều nói, cô cũng muốn ở lại, nhưng để vừa lòng cô, không phải là chút tiền công. Câu nói mang bao ý tứ sâu xa khiến môn khách trong nhà Lã Bất Vi đều bật cười.

Đêm dài nhiều mộng, tiết đông lạnh lùng dường như cũng chuyển sang xuân. Đêm ấy, người con gái xuân sắc hoa nhường nguyệt thẹn trở thành vợ của Lã công tử hào hoa.

Xem tiếp Chương 4 Số phận khó lường

Hàn Diệu Kỳ

Chương 4 Số phận khó lường

Độc giả đọc tới chương này, giống như người đang xem một vở kịch mà trên sân khấu dần chuyển tới bối cảnh mới. Thành Hàm Đan năm năm sau, Lã Bất Vi đã khác xa với anh buôn ngựa xưa kia. Theo ngòi bút, tới những con phố lớn, bạn có thể gặp nhiều cửa hiệu của dân thường rất nguy nga. Ngựa xe tấp nập, thanh nữ ngày thêm nhuận sắc, tất cả đều nồng thắm, nét mặt ánh lên niềm hứng khởi. Từ quán lầu lớn vọng ra tiếng nhạc réo rắt mê hồn như ru lòng người vào cõi mộng. Tiếng rao bán của gánh hàng rong trên phố lại càng khiến người ta như muốn lạc bước ngơ ngẩn hồn xiêu phách lạc. Cuộc sống giàu có phù hoa khác hẳn với nước Hàn nghèo nàn vắng lặng.

Cuộc sống đã làm thay đổi cả cuộc đời Lã Bất Vi. Trong ngõ phố phồn hoa nhất thành Hàm Đan, một cửa hiệu biển hàng phấp phới, tấp nhập kẻ ra vào, nhìn kỹ là biển hiệu rất quen thuộc, không nói cũng hiểu, Lã Bất Vi đã tới thành Hàm Đan buôn bán, sinh lời bội phần ở xưởng "Long Xương Quảng".

Bất Vi ở nước Hàn có chỗ đứng vững chãi, vây cánh đông đảo, tại sao còn dời tới nước khác, bỏ công phí sức làm gì? Chính vì Lã Bất Vi là người có nhãn quang chính trị rất sâu rộng. Lúc đó ở nước Tần, Chiêu Tương vương tuổi cao, cầm quyền khá lâu, sủng ái vị Tướng quốc Phạm Thư. Phạm Thư thực hiện chiến lược "Viễn giao cận công" (gần thì đánh, xa thì giữ mối giao hảo). Bất Vi dự đoán, nước Hàn sẽ là mục tiêu đầu tiên để Tần quốc thực hiện đường lối này. Nước chư hầu này giống như chiếc lá vàng trong gío thu sớm muộn sẽ bị cuốn trôi. Vị trí nước Tần là: phía Bắc là nước Ngụy, nước Sở phía Nam, nước Thục phía Tây, nước Hàn phía Đông. Trong bốn nước chư hầu này, đất đai giữa nước Hàn và nước Tần đan cài xen chéo, núi sông một dải vì thế nước Hàn trở thành mối họa bên trong của Tần quốc. Vì thế, nếu Tần khởi binh, nước Hàn sẽ là nước đầu tiên cần tiến đánh. Năm 265 trước CN, sau khi chiếm được Tiểu Khúc và Cao Bình của nước Hàn, Bạch Khởi được cử làm Nguyên soái thống lĩnh binh Tần. Đây là vị Tả đô Trưởng đa mưu túc trí, tàn sát không ghê tay, quyền lực lớn mạnh dưới Chiêu Tương vương. Triều Tần nếu nào có quan hệ huyết thống, tông tộc với vua gọi là Đô Trường, còn không có họ hàng gì gọi là Tả Đô Trường. Vị Tả Đô Trường này có công lớn trong việc dẹp tan liên quân Hán, Sở, Ngụy được phong là Vũ An quân. Mấy mươi vạn quân dưới sự thống soái của Bạch Khởi tiến quân ra trận làm quân Hàn chưa đánh đã tan, ùn ùn tháo chạy.

Lã Bất Vi biết rõ, lòng binh sĩ nước Hàn dao động, bất yên, lòng dân ly tán. Nam đinh trong thành Dương Địch đều bị sung vào quân đội, số trẻ em phụ nữ còn lại lo sợ hoang mang. Có không ít người đã bỏ nhà, dời đến các nước chư hầu khác. Lã Bất Vi không thể khoanh tay nhìn bao châu báu ngọc ngà của mình bị mất. Bất Vi thấy rằng ở nước Hàn, đừng nói là phong hầu bái tướng mà kể cả quân vương, rốt cuộc cũng trở thành vị vua vong quốc "mỏi mắt trông tin nhạn, nơi miếu từ hát khúc bi ca" mà thôi.

Cho dù nước Hàn đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng, chỉ cần nhìn thấy lợi, Lã Bất Vi vẫn không bỏ cơ hội kiếm tiền. Bây giờ, Lã Bất Vi đang cùng Triệu Khôi Tử bắt tay vào vụ buôn bán lương thực lớn.

Một hôm, người đến mua hàng lương thực vẫn ra vào tấp nập như mọi ngày, mấy người gia nhân mồ hôi như tắm đang tính toán giá cả lên xuống, gạo kê trong các thăng trắng như ngọc, long lanh như giọt mồ hôi của đám người làm. Bụi cám gạo, kê bốc lên như bụi đường, càng thu hút ánh mắt mọi người. Mấy ngày nay, mấy vạn thạch lương đã chất đầy trong kho của Triệu Khôi Tử. Người ở thành Hàm Đan luôn nhìn thấy dáng vẻ phương phi của Lã Bất Vi và dáng điệu gày ốm của Triệu Khôi Tử đứng nhìn kho lương thực, ánh mắt thỏa thuê như người đàn bà chửa vớ được của chua. Chưa đầy vài ngày sau, giá lương thực bán ra đã cao vọt. Đầu mùa xuân, hạn hán kéo dài làm cho đất đai nước Hàn khô cằn nứt nẻ, người dân nước Hàn chỉ tuyệt vọng nhìn đồng ruộng hoang tàn, thu về những hạt thóc lép. Ở nước Hàn, đặc biệt tại thành Dương Địch, giá lương thực tăng vọt. Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử đã không bỏ lỡ dịp này.

"Không nhận nữa, không nhận nữa!", một tiếng nói đanh gọn vang lên trong kho. Mấy người lau mồ hôi ngoảnh ra mới biết là tiếng của lão quản gia. Đó là Triệu Thành, mấy chục năm nay, chân chất phục dịch cho nhà Triệu Khôi Tử. Triệu Thành nhìn xung quanh với ánh mắt ngờ vực rồi dõng dạc nhắc lại một lần nữa: "Không nhận nữa, không nhận nữa!". Đám gia nhân hiểu đó là chủ ý của Triệu Khôi Tử. Họ rút tay khỏi đấu thăng, đứng thẳng dậy, thở hổn hển.

Những xe lương xếp đống, xếp hàng trước cửa, theo lời của Triệu Thành không nhận lương thực, tiếng xì xào bàn tán rộ lên, lẽ nào họ thức khuya dạy sớm để xếp hàng bán đồ lại trở về tay không, tại sao lại không mua lương thực nữa?

Triệu Thành rỉ tai đám gia nhân vài câu rồi vội vàng quay về. Triệu Thành biết là Lã Bất Vi và chủ nhân của hắn đang nóng lòng chờ tin tức.

Quả nhiên, lúc này, Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử như đang ngồi trên lửa, họ ngồi trong phòng khách của Triệu phủ nhâm nhi chén trà, mỏi mắt chờ trông Triệu Thành đi phát lệnh trở về.

Khi ấy lưu truyền lại câu nói: "Xiêm áo ưa hát, tiền bạc mong buôn". Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử vốn là những thương nhân giỏi giang, lại cùng nhau sinh lợi thật như hổ thêm cánh, rồng thêm vây. Hai người đang tính toán tiền lời trong vụ bán mua lương thực này, có một vị hộ vệ ngày đêm bên thành Triệu Hiếu Thành Dương, ngày thường cũng qua lại với Lã Bất Vi, báo cho Bất Vi một tin động trời: Nước Tần chuẩn bị xuất binh tiến đánh nước Hàn. Vua Trần Chiêu Tương vương sai sứ giả đến nước Triệu và các nước chư hầu không được cấp lương thảo và binh khí cho nước Hàn, nếu ai dám giúp nước Hàn, binh lính Tần sẽ quay lại tấn công ngay nước ấy.

Lã Bất Vi biết rõ, cho dù hiện tại Triệu Hiếu Thành vương chưa chính thức tuyên triệu, cũng chưa xuất binh và lương thực giúp Hàn nhưng vị vua này không dám chống lại vua Tần bạo sát, uy danh lừng lẫy thiên hạ. Việc tuyên triệu làm theo ý chỉ của Tần vương chỉ là chuyện sớm chiều mà thôi.

Tình hình thay đổi khiến Triệu Khôi Tử nao núng, lóng ngóng hỏi Lã Bất Vi: "Chúng ta giữa đường đứt gánh, không mua nữa nhé?" Nói xong, Triệu Khôi Tử nóng lòng như lửa, đi đi lại lại trong phòng. Bất Vi nhìn thấy vị thương nhân thường ngày đĩnh đạc nay sốt ruột như kiến gặp mưa thì cảm thấy buồn cườn. Nhưng Lã Bất Vi biết, lúc này mà cười sẽ khiến người ta tức giận, không chừng sẽ hỏng mọi việc, Bất Vi muốn thay đổi tình hình nhưng cố nén không muốn bộc lộ cảm xúc.

Bất Vi nói: "Còn mua gì nữa? Bây giờ còn chưa biết phải sắp xếp hơn trăm thạch lương ra sao đây?"

Triệu Khôi Tử nói: "Chúng ta không thể đứng giương mắt trông bụi phủ kho được!"

Bất Vi nói: "Triệu huynh đừng đùa! Không mất triệu thạch lương sao được? Theo lão đệ, trừ khi Triệu vương không tuyên triệu, may ra mới đem số lương này về nước Hàn, chỉ còn cách bán lỗ để giữ vốn thôi".

Triệu Khôi Tử nói: "Bán lỗ giữ vốn, định giở vai cho trời xem sao, hai lần tiền bỏ xuống sông biển à?"

Lã Bất Vi thấy thật hài hước, chỉ nói tới lỗ vốn, thì vị công tử ăn nói nho nhã hàng ngày đã biến thành hạng thô tục rồi. Triệu Khôi Tử thấy Lã Bất Vi như vậy bèn trách: "Lẽ nào Lã huynh lại ung dung tự tại, ngồi chờ buông câu! Tình thế này lại còn cười đùa. Theo ý tôi, nên dùng một số xe ngựa, mau chóng chuyển số lương này đến Dương Địch".

Bất Vi nói: "Việc này không thể tùy tiện như vậy. Điều xe đánh ngựa chuyển hàng đi xa, sẽ không tới được cổng thành, Triệu vương hạ lệnh bắt quay về thì mất cả chì lẫn chài!" Triệu Khôi Tử nói: "Từ Hàm Đan đến Dương Địch, quá lắm cũng chỉ mất bốn ngày đường, lệnh của Triệu vương không thể tới nơi nhanh như thế!"

Bất Vi nói: "Đây là lời nói của quân vương, chỉ hạ lệnh thì nửa ngày cũng tới".

Thấy Bất Vi dùng dằng, Triệu Khôi Tử nói: "Nếu là tôi thì ngay bây giờ sẽ điều chuyển xe chở lương".

Lã Bất Vi nói: "Không thể hồ đồ! Không thể hồ đồ như vậy! Nếu kháng lệnh chỉ, lời lãi đâu chưa thấy, còn nguy đến tính mạng".

Khi Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử đang bàn đi tính lại cho việc bán buôn, thì nghề ca xướng kỹ nữ vẫn tiếp tục thịnh hành như không có chuyện gì xảy ra. Đây là nghề kỹ nữ kinh doanh thân xác phụ nữ, đem thân làm món hàng lại qua, song chỉ vài ba năm hương phấn đã phai tàn.

Ca kỹ vẫn là ca kỹ. Thời cổ đã có nhiều "xóm đào" kiểu này. Người đặt nền móng cho nghề này là Tề Hoàn công. "Sách Đông Chu Chiến Quốc" viết: "Tề Hoàn công quản năm sáu thành, xóm liễu đào có tới 700 nơi"; sách "Hàn Phi Tử - Thuyết nan" cũng viết: "Chư hầu Tề Hoàn công quản hai thành với 300 xóm nữ ca". Xóm nữ ca mà Tề Hoàn công đặt ra là có thật, chỉ có điều số lượng ghi trong các sách không giống nhau. Ban đầu, nghề ca kỹ vốn chỉ ý là những người chuyên mua vui cho thiên hạ, họ sống trong các kỹ viện hoặc các "xóm liễu đào" gọi là kỹ nữ. Cư Chử Nhân "Kiên Hồ tập tục" có nói: "Quân tử trị tề, tri nữ lư tam bách, chinh kỳ dạ hợp chi tư, dĩ tư quốc dụng. Ti Khước giáo phường hoa phấn tiền chi thủy dã" ý chỉ là mục đích của Quản Trọng trong việc đặt ra xóm chị em đã chưng thuế làm giàu đất nước. Việc này cũng thường thấy ở các nước Quy Từ, Vu Điền (Tây Vực) và một số nước chư hầu sau này. Theo "Thập tam châu chí" ghi: "Phía Đông thông linh, con người háo sắc, Quy Từ, Vu Điền đặt xóm nữ thu tiền". "Ngụy Thư - Quy Từ Tuyền" cũng nói: "Quy Từ thông thục, đặt chức quan thu thuế phường ca kỹ".

Đây là Lạc Dương Cốc thay Triệu Hiếu Thành vương quản lý kỹ viện. Người này thường mua lương thực cho xóm chị em nên cũng biết Triệu Khôi Tử song chưa từng gặp Lã Bất Vi. Triệu Khôi Tử giới thiệu: "Vị tiên sinh này là thương nhân buôn châu ngọc...", không đợi Triệu Khôi Tử nói hết, Dương Cốc kính cẩn nói: "Nếu như tôi không nhầm, vị này chính là Lã Bất Vi danh bất hư truyền". Triệu Khôi Tử bật cười sảng khoái: "Đúng là Dương cốc tiên sinh có con mắt tinh đời!" Bất Vi vội cúi mình hành lễ, nói với Dương Cốc: "Hân hạnh, hân hạnh được biết". Dương Cốc nói: "Lã tiên sinh phong thái đường hoàng, từ trước tới giờ chưa từng lui đến xóm liễu đào này, thật đáng mặt một vị chính nhân quân tử". Bất Vi cười, khiêm tốn trả lời: "Thực không dám. Lã Bất Vi không phải là chính nhân quân tử như lời Dương Cốc ngợi khen, chỉ là thương nhân tầm thường, không xứng với lời của Lạc tiên sinh". Lạc tiên sinh nói: "Chỉ cần Lã huynh có nhã hứng, sau này có tuyệt sắc giai nhân tôi xin tặng lại cho Lã tiên sinh".

Hàn huyên một hồi, Lạc Dương Cốc và Triệu Khôi Tử quay ra ngã giá lương thực. Vị này mỗi tháng đến mua một lần cho xóm chị em. Bất Vi thấy nét mặt phốp pháp, trơn bóng của Dương Cốc, dường như tự mình tìm được viên ngọc quý hiếm. Bất Vi biết tên "đại trân châu" này sẽ giúp mình tới bên Triệu Hiếu Thành vương dễ như trở bàn tay. Vì chỉ là người thân tín của Thành vương mới được giao trọng trách này.

Bất Vi thấy cuộc nói chuyện giữa hai người gần kết thúc, không bỏ lỡ dịp may hỏi Lạc Dương Cốc: "Nghe nói vua Tần đưa thư cho Triệu vương, không cho phép xuất binh và lương thảo giúp nước Hàn, không biết Đại vương chúng ta dự định như thế nào?" Dương Cốc nói: "Trong cung chưa thấy động tĩnh gì, nhưng xem ra Đại vương không thể kháng lại ý chỉ của Tần vương".

Sau khi Dương Cốc ra về, Khôi Tử mời Bất Vỉ ở lại phủ uống rượu, bàn tính về cách giải quyết cho hơn một trăm thạch lương. Suy đi tính lại vẫn chưa có lối thoát. Tiệc rượu sắp tàn. Khôi Tử gọi con gái độc nhất của mình là Triệu Cơ ra múa hát mua vui.

Triệu Cơ chỉ trang điểm qua loa, thoa chút phấn hương, nhẹ nhàng bước ra, tới trước yến tiệc, phất nhẹ tay áo, múa nhẹ như bay. Năm nay Triệu Cơ mười tám tuổi, đang lúc dậy thì khoe hương. Lã Bất Vi nhìn sắc mặt hồng hào của Triệu Cơ tưởng như đá mã não mịn màng, đôi lông mày thanh tú, đôi mắt như hớp hồn người khác, đôi môi chúm chím hoa đào, chiếc mũi cao nhỏ nhắn, tất cả như nét điêu khắc tinh xảo trên khuôn mặt trái xoan kiều diễm. Cổ áo hơi rộng để lộ khoảng ngực trắng ngần gợi cho người ta lạc vào cõi mê với bao liên tưởng kỳ bí. Triệu Cơ dùng tiếng hát ngọt ngào ngân lên điệu ca réo rắt thu hồn Lã Bất Vi. Bất Vi biết từng tế bào trong con người đang thay đổi. Trước đây khi đến Triệu phủ cũng từng gặp mấy vị ở vườn hoa hay trong phòng khách. Không biết do tâm ý thô thiển hay do mải buôn bán mà Lã Bất Vi không hề có ấn tượng gì.

Hôm nay Bất Vi mới phát hiện vẻ đẹp quyến rũ của Triệu Cơ. Triệu Cơ vừa hát vừa múa:

Quan quan tư cưu

Tại hà tri châu

Yểu điện thục nữ

Quân tử hảo cầu

Tham sai hạnh thái

Tả hữu lưu chi

Yểu điệu thục nữ

Ngộ mị cầu chi...

Khoảng 23 năm sau, Triệu Cơ với Trường Tín hầu thông dâm làm loạn nội cung, sau khi bình định phản loạn, Triệu Cơ bị chính Tần vương Doanh Chính con đẻ của mình đày sang đất Ung hoang sơ vắng vẻ, cô độc với ngọn đèn thâm cung. Ba trăm lính hầu như một hàng rào vững chắc, Triệu Cơ trở thành vị Thái hậu bị gông cùm. Lúc ấy, Lã Bất Vi cũng bị bãi chức Thừa tướng, sức tàn lực kiệt quay về thực ấp ở Hà Nam. Trước khi đi, một mình lặng lẽ tới Hàm Dương, muốn cáo biệt với người con gái bao lần chung chăn gối. Bất Vi nghe trong gió như lời ca của Triệu Cơ như oán như than, đúng là tiếng hát của Triệu Cơ. Tuy không còn trong trẻo như hồi trẻ nhưng tiếng ca vẫn réo rắt như dạo nào:

Quan quan tư cưu

Tại hà tri châu

Yểu điện thục nữ

Quân tử hảo cầu

Tham sai hạnh thái

Tả hữu lưu chi

Yểu điệu thục nữ

Ngộ mị cầu chi...

Bất Vi lắng nghe, bất giác rơi lệ, trong lòng rộn lên bao mối tơ vương, trong tim thốt bao tiếng nghẹn ngào: "Ôi, Triệu Cơ! Quyến rũ, si tình..."

Kẻ hầu người hạ trong cung Tấn Dương nhớ rõ ràng, Triệu Huệ Văn vương triệu tập quần thần thảo luận về việc nên hay không giúp nước Hàn, không khí ảm đảm như bóng đêm giữa trời quang. Vị quân vương ngày thường oai phong đĩnh đạc lộ rõ vẻ bần thần. Ấn tượng sâu nhất của vua Triệu trong lòng kẻ hầu người hạ là hình ảnh quân vương quên cả đeo ngọc bội, quần áo mớ ba mớ bảy lôi thôi luộm thuộm. Họ hiểu rằng, vị Đại vương này bị bức thư của vua Tần dồn vào thế tiến thoái lưỡng nan.

Họ đoán không sai, vua Triệu bị bức thư ấy làm rối loạn tâm thần đứng ngồi không yên. Ông ta triệu tập đủ văn võ bá quan trong cung Tấn Dương hoành tráng nghị sự. Thiết triều có nhiều vị quan lớn như Tướng quốc, Bình Nguyên quân Triệu Thắng, Thượng khanh Lạn Tương Như, Đại tướng quân Liêm Pha, Tướng quân Triệu Xa... Trong số đó, Triệu Huệ Văn vương coi trọng Bình Nguyên quân hơn cả.

Triệu Thắng ngoài ba mươi tuổi, tuổi quan đang độ, sớm quen việc triều đình. Đây là anh em với Triệu Huệ Văn vương, trong đám huynh đệ, là vị công tử tài ba hơn cả. Bình Nguyên quân thích nuôi môn khách, trước sau tới vạn người, Thời Chiến Quốc có rất nhiều tông phái, họ chủ trương: "nhân, nghĩa" hay tuyên truyền: "hình danh", "vô vi"... Vì thế có các học phái Nho, Đạo Mặc... Kẻ sĩ đương thời là thế lực quan trọng trong xã hội, họ đều có sở trường và trình độ văn hóa nhất định. Chỉ dùng tấc lưỡi đi du thuyết các nước không từ quốc gia, tôn giáo hay địa vị chính trị, kinh tế. Đem tài năng của mình mưu cầu đãi ngộ, quan tước các nước chư hầu. Những người này vì mưu cầu phú quý, ra nước ngoài thường làm quân sư ở chư hầu. Trên đài chính trị, cũng có nhiều người thực tài góp công lớn. Các nước chư hầu muốn thực hiện sự nghiệp thống nhất thiên hạ, nên không tiếc công sức, hao tốn của tiền, đua nhau chiêu hiền đãi sĩ. Bấy giờ có bốn vị công tử nổi tiếng là: Mạnh Thường quân (nước Tề), Bình Nguyên quân (nước Triệu), Tín Lăng quân (nước Ngụy) và Xuân Thân quân (nước Sở). Họ đều dùng bổng lộc, của cải của mình mà đãi ngộ khách, gọi là "thực khách". Cả bốn vị này đều đua tài tranh sức, xem ai là người có nhiều môn khách nhất. Nghe nói, nước Triệu cho người khách què, chân khập khiễng ra múc nước, mỹ nhân của Triệu Thắng trên lầu cao trông thấy cười rộ. Hôm sau người què đến cửa nhà Bình Nguyên quân nói: "Tôi nghe nói ngài yêu kẻ sĩ, sở dĩ kẻ sĩ không ngại xa ngàn dặm mà đến đây là vì ngài biết quý kẻ sĩ mà khinh thường bọn tì thiếp. Tôi không may bị tàn tật mà hậu cung của ngài lại cười. Tôi xin cái đầu của con người đã chế nhạo tôi". Bình Nguyên quân cười đáp: "Vâng" Người què đi ra, Triệu Thắng cười mà rằng: "Thằng kia lại muốn lấy cớ một nụ cười mà đòi giết mỹ nhân của ta, thật là quá đáng". Rốt cuộc, Bình Nguyên quân không giết.

Được hơn một năm, tân khách, môn hạ, xá nhân dần dần bỏ đi quá nửa. Bình Nguyên quân lấy làm lạ nói: "Thắng đối đãi với các vị chưa hề dám thất lễ. Tại sao nhiều người bỏ đi như thế?" Một môn khách đứng ra nói: "Vì ngài không giết mỹ nhân đã cười nhạo con người què kia, vì ngài yêu sắc đẹp mà khinh thường kẻ sĩ nên kẻ sĩ bỏ đi đó thôi". Bình Nguyên quân bèn chém đầu mỹ nhân đã cười nhạo, đoạn thân hành đến nhà người què tạ lỗi.

Sau đó, môn hạ dần dần trở lại. Trong hàng vạn môn khách cũng có kẻ theo đám ăn tàn, gà què ăn quẩn cối xay, cũng có không ít người thực tài, có tầm nhìn xa trông rộng. Triệu Thắng cũng hội tụ nhiều tinh hoa, trở nên tiếng tăm lừng lẫy nước Triệu, vị quân tử có tài kinh bang tế thế.

Triệu Huệ Văn vương đem nội dung bức thư của nước Tần thuật lại một lượt, sau đó nói: "Chư vị ái khanh, có diệu kế gì, xin nói để quả nhân nghe thử".

Triều đường im lặng như tờ.

Thấy văn võ bá quan ngồi bất động, Triệu Huệ Văn vương hai tay chống ngự án, lo lắng ưu sầu nói: "Tần vương không cho phép giúp nước Hàn thương thảo binh khí, thật khéo ép quả nhân lắm. Không làm theo, Tần vương động binh một lời nói ra không làm trái, không tránh nổi nạn can qua cho nước Triệu. Nếu làm theo thì đắc tội với nước Hàn. Nếu nước Tần trở mặt đánh nước Triệu, nước Hàn khoanh tay đứng nhìn hay vỗ tay trợ giúp, chúng ta trở thành nhà cô nước lẻ..."

Triệu Thắng tiến lên một bước nói: "Khởi bẩm Đại vương, theo ý thần chúng ta nên đồng ý với vua Tần, không xuất binh và lương thảo giúp Hàn, không giao ước với Hàn nhưng nước Tần cũng phải đồng ý cho chúng ta điều kiện là nước Tần không được xâm hại nước Triệu, nếu Hàn cất quân báo thù Triệu, nước Tần phải ra tay giúp đỡ".

Triệu Huệ vương trầm ngâm hồi lâu rồi nói: "Thế cũng được nhưng chỉ y lòng người khó lường, nói rồi lại nuốt lời. Chuyện Ngọc Bích họ Hòa, nếu không có Lạn Tương Như đa mưu túc trí, mang ngọc trở về Triệu, chúng ta mới không bị lừa. Chuyện này Tần vương cũng có thể thề thốt nhưng lời nói gió bay, đến lúc vua Tần trở mặt, mình làm mình chịu, hắn đem lời thề ước ban đầu cho lên chín tầng trời, quả nhân không thể van xin hắn!"

Triệu Thắng quả quyết: "Chúng ta có thể xin Tần vương phái cháu con đến Triệu làm con tin. Nếu người đến thì họ thực tâm theo lời thề ước. Nếu người không đến, ta có thể đoán trước sự việc, tùy cơ ứng biến, tất sẽ phòng được!"

Nghe chủ ý của Triệu Thắng, Triệu Huệ Văn vương cảm thấy như trút được gánh nặng, tấm tắc ngợi khen: "Thật là thượng sách, không gì sánh bằng!" Quần thần cùng đồng thanh: "Đúng là thượng sách!"

Triệu Huệ Văn vương thấy như đám mây mù bấy lâu che phủ chợt tan biến, gánh nặng chất trên vai mấy hôm nay bỗng dưng nhẹ bẫng. Vương sung sướng hồ hởi nói: "Lạn thượng khanh, mau thảo một bức thư, đưa đến Tần quốc. Xin vua Tần phái người đến Triệu làm con tin, ta lập tức ra lời hiệu triệu, nghiêm cấm xuất binh và thương thảo giúp Hàn".

Triệu Khôi Tử suy đi tính lại, thấy tốt hơn cả là nhân lúc Triệu vương chưa ra lời hiệu triệu, đang đêm xuất phát, vận chuyển số lương thực mà hắn cùng Lã Bất Vi đã mua về Dương Địch. Không muốn Bất Vi ngăn cản, tự mình điều hơn ba mươi chiếc xe ngựa, chất đầy lương thực, cùng Triệu Thành lặng lẽ đi trong đêm. Ba mươi chiếc xe ngựa lộp cộp đi trong đêm thanh vắng, giữa trời khuya lặng lẽ ở thành Hàm Đan nghe như quỷ hồn kêu hú làm cho người ta kinh khiếp ớn lạnh.

Lã Bất Vi biết nỗi sợ hãi bắt nguồn từ lời hiệu triệu của Triệu vương. Buổi trưa sau hai ngày, Bất Vi đã tin đích xác vào lệnh của vua Triệu, vội vã đến nhà của Triệu Khôi Tử. Bất Vi nhớ rõ, nắng ngập trên đường phố, từng tia từng tia như muôn ngàn ánh kim ngân nhảy nhót trước mặt. Trong ánh sáng huy hoàng ấy, bóng người ngựa dường như nhạt nhoà, mờ ảo.

Lã Bất Vi đến phủ của Triệu Khôi Tử, bị ánh mặt trời chiếu chói mắt cảm thấy xung quanh tối tăm mù mịt. Lã Bất Vi nhắm mắt, lắc đầu mấy cái sắc diện mới trở lại bình thường.

Nghe nói Triệu Khôi Tử đang đêm chuyển lương về nước Hàn, toàn thân như bị sốc nặng. Lã Bất Vi thấy như có muôn vàn con sóng lớn nhấn chìm mình xuống đáy sâu. Bất Vi sợ hãi, hoảng hốt, tim đập thình thịch. Kháng chỉ, tội phải rơi đầu, hắn lo cho tính mạng của nhà Triệu Khôi Tử, nghĩ tới mạng mình mà toát mồ hôi lo sợ.

Bất Vi hiểu rõ rằng bằng chứng về việc kháng chỉ giữa Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử nằm trong Triệu phủ.

Đó là nửa phiến tễ nằm trong tay Triệu Khôi Tử là hợp đồng ký giữa Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, cái làm bằng chứng được sử dụng phổ thông nhất là khoán. Có loại khoán ngắn, khoán dài, loại khoán dài dùng trong các vụ mua bán nhỏ gọi là Tễ. Sách "Chất Nhân - Chu Lễ" có ghi:

"Phố lớn dùng Chất, phố nhỏ dùng Tễ", nếu sau này phát sinh ra việc tranh chấp hoặc kiện tụng, quan phủ sẽ căn cứ vào Tễ, Chất để xử án. Chính Như - Chu Lễ, Tiểu Tề nói: "Trong bán buôn lấy Tễ, Chất". Để tiện cho việc mua bán, người ta thườn dùng khoán. Cho dù trong trao đổi dùng Tễ, Chất hay Khoán, tất cả đều làm bằng thẻ tre. Đầu tiên họ viết hợp đồng hay các điều khoản lên thẻ, sau đó phân làm hai, người mua hoặc uỷ thác giữ nửa phải, người bán hoặc uỷ thác cầm nửa trái. Người mua hoặc uỷ thác cầm khoán phải yêu cầu người bán hoặc uỷ thác thực hiện hợp đồng, nên gọi là "cầm mảnh khoán làm chất". Người mua và người bán thỏa thuận các điều khoản và lợi tức gọi là "hợp khoán". Nếu hai bên xảy ra tranh chấp hoặc kiện tụng, hai bên cầm "hợp khoán" đến quan phủ.

Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử cùng ăn chia trong vụ buôn bán lương thực này, nên mỗi người cầm một nửa thẻ Chất. Quan phủ, xem một nửa thẻ Chất, sẽ biết được tên họ hai bên, số lượng, mức tiền mua bán... Nếu Triệu Khôi Tử bại lộ, quan phủ đến Triệu gia điều tra, tìm được thẻ Chất còn lại, sẽ tìm hiểu ngọn nguồn và cả Lã Bất Vi cũng phải vào ngục. Mới nghĩ đến đây, Bất Vi cảm thấy như ớn lạnh xương sống.

Làm thế nào đây? Tuân theo số trời? Thúc thủ chờ đợi? Bất Vi trong vườn hoa của Triệu gia thẫn thờ tự hỏi, lập tức Lã Bất Vi trấn tĩnh lại, không thể chờ ông trời tự sắp đặt hay buông tay chịu trói. Còn nước còn tát, phải tự cứu lấy mình. Lã Bất Vi nghĩ ra ngay một cách đối phó, lập tức quay về phủ, cầm mảnh Chất phải, rồi vội vã đến phủ họ Triệu, gặp Triệu Cơ nói hiện tại quan phủ đang xem xét vụ buôn bán, cần phải "hợp khoán", mau tìm mảnh còn lại ghép với thẻ Chất phải của Lã Bất Vi.

Lã Bất Vi nhìn thấy đôi mắt đẹp của Triệu Cơ thoáng sợ hãi khi nghe nói xong, Triệu Cơ cùng Lã Bất Vi vào phòng ngủ của Triệu Khôi Tử tìm thẻ Chất. Triệu Cơ để Lã Bất Vi ngồi bên ngoài rồi vào phòng lấy ra một chiếc hộp khảm sừng tinh xảo, lấy ra từng chiếc thẻ Chất, xem qua mười mấy chiếc, vẫn không có chiếc nào hợp được với thẻ của Lã Bất Vi.

Bất Vi vô cùng hoảng hốt, tại sao lại không có? Vì Triệu Cơ cố ý không hợp khoán với Bất Vi hay Triệu Khôi Tử còn để ở chỗ nào khác?

Triệu Cơ rất lo sợ, khuôn mặt lấm tấm mồ hôi, Bất Vi quan sát sắc diện của nàng, biết không phải Triệu Cơ cố tình đùa giỡn. Bất Vi nhẹ nhàng nói: "Cô cố nghĩ lại xem, lệnh tôn có để thẻ ở chỗ nào khác không?"

Triệu Cơ khẽ lắc đầu.

Lã Bất Vi và Triệu Cơ lục tung cả phòng trong phòng ngoài vẫn không tìm thấy mảnh thẻ còn lại.

Vợ Bất Vi là Hoàng Phủ Kiều thấy chồng đờ đẫn cầm mảnh thẻ về phủ, lúc đó ánh trăng bị che lấp bởi những đám mây lớn âm u, Hoàng Phủ Kiều cảm thấy sắc diện của Lã Bất Vi cũng leo lét như ánh trăng trời.

Đi khá lâu mới nhìn thấy phong đài và cờ xí bay trên thành Biên Ấp, trong ánh hoàng hôn, đoàn xe ngựa lại càng nhạt nhoà. Triệu Khôi Tử thúc giục đoàn tùy tùng đi, đi liền không ngủ hai ngày hai đêm, cuối cùng cũng tới được biên giới nước Triệu và Hàn. Trên đường họ nghe nói chiếu lệnh của Triệu vương đã ban truyền nhưng không hiểu tại sao vẫn chưa tới đây.

Tại một nơi cách Biên Ấp khá xa, Triệu Khôi Tử bảo gia nhân dừng lại, đem lương thực giấu trong rừng, rồi cùng Triệu Thành và hai người gia nhân, cầm vàng bạc và dao hộ thân. Hắn muốn vào xem xét tình hình trong thành, tùy cơ mà liệu việc. Có thể qua được thì qua, không qua được thì cũng có đường thoát thân.

Bốn người nhân lúc nhá nhem, tìm đường vào thành. Khi vào thành, họ bị hai người lính gọi lại, ba lần bảy lượt hỏi họ vào thành làm gì, họ nói là thương nhân nước Triệu. Triệu Khôi Tử vừa nói vừa quan sát. Dưới chân thành, gươm kích chất thành đống, ánh sáng chói loà

Người lính hỏi bọn họ làm gì, họ đáp tới nước Hàn, lại hỏi có giấy phép qua thành không, họ trả lời có.

Lời qua tiếng lại, họ càng gần bọn lính hơn. Họ thấy rõ sau lưng người lính là thanh kiếm sáng rợn người, lại còn nhìn thấy một trong hai người bị khuyết chiếc răng cửa, có những âm thanh vang gọn từ xa vọng lại. Khôi Tử nhìn thấy có bốn tên lính quay lưng đứng bậy ở góc thành.

Hai tên lính nhanh chóng đi lấy những ống lương khô và dao kiếm của họ.

Triệu Khôi Tử hỏi: "Sao anh lấy lương khô của chúng tôi? Từ nửa đường chúng tôi đã đói lắm rồi?" Tên lính đáp: "Đại vương có lệnh, một hạt gạo cũng không được mang khỏi đất nước". Triệu Khôi Tử nói: "KHông thể bao gồm cả lương thực mang đi ăn đường của thương nhân được". Tên lính nói: "Cũng không từ, chúng tôi thấy lương là bắt lại". Triệu Khôi Tử làm bộ thở dài: "Ngay cả lương ăn cũng không có, chúng ta đi làm gì, chúng ta quay về thôi".

Khôi Tử cố nhìn lần nữa, trong thành tổng cộng có mười mấy tên lính. Lúc quay về, Triệu Khôi Tử không đi đường lớn mà vòng vào đường rừng. Thấy xung quanh thành ấp rất bằng phẳng, có thể đánh xe ngựa đi, tránh được sự kiểm soát của quan binh.

Về tới chỗ túc, Triệu Khôi Tử sai người bọc cỏ xung quanh có dao hộ thân, nguỵ trang xe lương, bọc vải vào móng ngựa, chuẩn bị nửa đêm sẽ qua biên giới. Trời khuya, Khôi Tử và Triệu Thành mỗi người mang một con dao, dẫn đầu đoàn xuất phát, ba mươi chiếc xe lặng lẽ không một tiếng động, ra đi trong đêm tối mịt mùng.

Xung quanh vô cùng yên tĩnh, thỉnh thoảng mới nghe tiếng thở phì phò của ngựa kéo xe. Gió mơn man lướt nhẹ trên mặt. Thảo nguyên bao la chan hòa ánh trăng.

Đoàn xe lương của Triệu Khôi Tử chưa đi xa thì bị quân tuần canh bắt gặp. Ngay lập tức, trong thành, những bó đuốc được thắp sáng, tiếng hò hét vang vọng bốn phương, quân đội nhất tề chuẩn bị xuất phát. Khôi Tử huy động cả mấy tay dao, không ngừng hô hào: "Không được lo lắng, không được cuống". Rồi bảo gia nhân dừng ngựa, vạn nan cũng không được nản lòng, chuẩn bị nghênh chiến.

Quân đội mau chóng ập tới, lửa sáng lập loè, chiếu rõ mặt Triệu Khôi Tử và bọn gia nhân. Bọn lính hiểu ngay chuyện gì xảy ra, chỉ gươm hô giết. Một trận quyết chiến bùng nổ, Khôi Tử và bọn gia nhân chỉ có dao ngắn không thể chống lại gươm sắc kích dài của binh lính nhanh chóng thiệt mạng.

Tiếng vó ngựa dập dồn phi nhanh về hướng Hàm Đan. Bụi cuốn mù mịt che khuất cả mặt trời, cảnh tượng giống như đang xảy ra đám cháy lớn. Mọi người ngó ra cửa xem xét, biết đã xảy ra chuyện kinh thiên động địa gì.

Lát sau có tin rằng Triệu Khôi Tử chở lương chống lại lệnh chỉ, người bị giết, lương thảo bị tịch thu, quan quân đang ập tới đây để niêm phong tài sản, bắt hết người trong nhà, nô lệ, tì thiếp.

Nghe tin, Lã Bất Vi đang ngồi uống trà trong phủ giật mình kinh hãi, chén trà rơi xuống đất, vỡ tan tành.

Lã Bất Vi và mấy người tâm phúc biết rằng, nếu thẻ Chất - bản giao kèo buôn bán giữa Triệu Khôi Tử và Lã Bất Vi lọt vào tay quan quân có nghĩa là Bất Vi sẽ xếp vào hạng đầy phạm phải chịu tội cùng Triệu Khôi Tử. Mọi người nhất loạt khuyên Lã Bất Vi đi trốn vài ngày. Đợi tin tức xác thực, họ sẽ báo cho Lã Bất Vi. Lã Bất Vi cùng Hoàng Phủ Kiều đành nhân lúc trời tối ra miếu từ ngoài thành ẩn thân lánh nạn. Trước khi đi còn mang theo nhiều vàng ngọc châu báu, e sợ quan binh truy tìm gốc sẽ tịch biên gia sản, đưa tiền cho mấy người tâm phúc lo lót cho quan binh.

Trời sáng, Lã Bất Vi cùng Hoàng Phủ Kiều vừa đói vừa mệt, lại nơm nớp lo sợ, ngọn cỏ rung cũng thon thót giật mình. Mặt trời xuống núi, trời chạng vạng tối mới có người mang thức ăn tới. Lã Bất Vi sống ở đó, đếm thời gian dằng dặc trôi qua, hai ngày hai đêm sau mới một người tâm phúc của gia đình kể, trong nhà của Triệu Khôi Tử không phát hiện được tấm thẻ tre, làm Lã Bất Vi áy náy băn khoăn.

Khi Lã Bất Vi đầu bù tóc rối, thất thểu quay về, ngồi yên trong phủ hàn huyên cùng môn khách và gia nhân nhưng trong đầu vẫn đè nặng hình ảnh tấm thẻ tre.

Bất Vi mơ hồ nhận thấy rằng dường như thần linh đã lấy đi tấm thẻ nếu không tấm thẻ ấy có thể ở nơi nào...

Xem tiếp Chương 5 Con tin Dị Nhân

Hàn Diệu Kỳ

Chương 5 Con tin Dị Nhân

Hàm Dương, thành đô nước Tần. Đây là thành ấp bắt đầu được xây dựng vào năm mười hai đời Tần Hiếu công. Vì phía Nam có núi Ly Sơn, phía Bắc có sông Vị Thủy, núi nước đều hướng về phía mặt trời nên tên cổ gọi là: "Hàm Dương". Chữ Hàm có nghĩa là đô thành, là đều tất cả.

Nước Tần đã định đô ở đất Ung và Lạc Dương nhưng vị trí và quy mô đô thành không thể sánh nổi với Hàm Dương. Hàm Dương gần sông Vị Thủy. Những con đường lớn trải dài dọc theo hai bờ Đông - Tây. Một dòng nước xanh mềm mại chảy uốn quanh trong thành phố. Men theo bờ sông là những tòa vương phủ nguy nga và nhà cửa san sát của dân thường. Mấy con đường lớn phân thành phố thành những khu đối xứng như khu nhà của các quan, của dân và khu chợ. Người Tần làm nông nghiệp, lấy pháp luật trị quốc. Cảnh tú ở Hàm Dương cũng thể hiện rõ điều này. Ta thường nhìn thấy nam nữ Tần ăn mặc giản dị, vác cày cuốc đi trên đường. Trong chợ, ngoài những sản vật của sáu nước xunh quanh, nhiều nhất là trâu bò béo tốt phục vụ cho nghề nông, rồi gà chọi, chó săn, gia súc gia cầm, trống kèn, đàn sáo rất ồn ào náo nhiệt, không hề giống như Hàm Đan, Lâm Tri, Bộc Dương hay Dương Địch. Con gái trang điểm nhẹ nhàng, cử chỉ khỏe khoắn khác hẳn với vẻ tô son điểm phấn, phiêu du thanh thoát như con gái nước Triệu. Trên đường, người ngựa đi lại tấp nập, đan xen như mắc cửi. Hai bên đường là vô số những cửa hàng, quán trọ, hàng trà, tiểu lầu, khách điếm... đây thường là nơi tập trung của thương nhân, người từ nước khác đến.

Trong toàn thành Hàm Dương, Chương Thái cung nguy nga hoành tráng hơn cả. Chiêu Tương vương Doanh Tắc văn võ song toàn, đến hơn sáu mươi tuổi mà đã già nua ốm yếu. Mỗi lúc lâm triều, khệ nệ bưng chiếc đai lưng khảm thiều châu ngọc lung linh. Trong các vua nước Tần, đây là vị vua sống lâu và nắm quyền binh dài nhất. Nắm quyền chấp chính đã năm mươi sáu năm mà đến bảy mươi tư tuổi vẫn chưa đành lòng xuôi về nơi an nghỉ.

Người hầu trong cung Hiếu Văn vương Trang Tương vương đều nhớ rõ hình ảnh Chiêu Tương vương trai tráng anh hùng hoạt bát như thế nào.

Vương trưởng thành cao lớn đường bệ, tiếng nói sang sảng như chuông. Mỗi lần cầm quân đánh giặc trở về, không biết mệt mỏi vẫn luyện tập cung nỏ, mũi tên bắn ra bách phát bách trúng. Tiếp đãi chư hầu, có thể uống liền hơn mười vò rượu không say. Chốn hậu cung, đêm đêm có thể ngự lãm một lúc vài thiếu nữ. Sau cuộc mây mưa, ai cũng khai hoa nở nhuỵ.

Thế nhưng hôm nay lại khác hẳn, Chiêu Tương vương đang cảm thấy lực bất tòng tâm. Trước mắt vương đang khó xử bởi việc phái con tin đến nước Triệu. Ông có hai mươi ba đứa cháu có thể thoải mái chọn lựa nhưng phái ai đi đến Triệu thật khiến ông đứng ngồi không yên, suốt đêm không ngủ.

Con tin trước thời Xuân Thu dùng làm vật tin lấy lòng quỷ thần. Khi Chu Vũ vương bị ốm, Chu Công Đản phụ tá của Vũ Vương lập đàn tế trời cầu mong cho Thiên tử khỏi bệnh rồi lấy mình làm vật tín. Nhưng đem người làm con tin giữa các nước chỉ bắt đầu từ thời Chu thiên tử, Vương muốn giữ chữ tín với Trịnh Vũ công, đã phái con mình sang nước Trịnh làm tin. Lần trao đổi với nước Trịnh ấy đã làm cơ sở cho việc làm con tin giữa các nước chư hầu thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Thời Xuân Thu, các chư hầu rất trọng chữ tín, việc đổi người không nhiều, con tin ở các nước rất an toàn, không có gì nguy hiểm. Nhưng đến thời Chiến Quốc, chư hầu luôn bội tín, nhân nghĩa đức tín chỉ như gió thoảng mây bay. Vì thế, việc phái con tin ngày càng nhiều, con tin đến nước chư hầu đều rất nguy hiểm. Người làm con tin có thể là Thái tử hoặc Công tử, cũng có cháu của vua hoặc quan đại thần. Những người này khi ở trong nước đều được tôn kính, sống giàu có sung sướng, liệu ai can tâm đến nước khác mà hứng lấy gian khổ hiểm nguy? Vì thế họ đều xem việc đi làm con tin như một đại hoạ, tất cả đều sợ hãi như thú bị dồn tới bước đường cùng.

Phái đứa cháu nào đến nước Triệu làm tin đây? Chiêu Tương vương sau khi thao thức mấy đêm liền gọi Thái tử An quốc dân Doanh Trụ đến trước điện, nghiêm giọng nói: "Ngô nhi, nước Triệu đã đồng ý với phụ vương không kết giao với Hàn, không phụ giúp lương thảo, binh khí nhưng tất nhiên phải có điều kiện, phái một vương tôn đến Hàm Đan, con hãy chọn trong số hơn hai mươi nhi tử lấy một người đến đó".

Đây là vấn đề khó khăn, Doanh Trụ không đồng ý với quyết định này liền tìm cớ thoái thác: "Đây là chuyện lớn, xin phụ vương nghĩ kỹ lại". Nghe con nói như vậy, Chiêu Tương vương sa sầm nét mặt nói: "Ta đến tuổi xưa nay hiếm, sắp đến lúc sức tàn lực kiệt, không bao lâu nữa sẽ nhường ngôi cho con, con cũng nên quen dần với việc triều chính, xử lý đối đáp việc chính sự trong ngoài, không nên lúc nào cũng đắm mình trong đam mê tửu sắc".

Doanh Trụ ấm ức nhìn Chiêu Tương vương trong lòng tự nhủ: "Con đã cao tuổi như thế này, chẳng có việc gì làm, không tìm khoái lạc chốn hậu cung thì biết làm việc gì?"

Doanh Trụ ấm ức, không nghe. Chiêu Vương thái tử không phải là Doanh Trụ mà là Doanh Diệu. Doanh Diệu sức khỏe ốm đau, sớm yểu mệnh nên Doanh Trụ được lập làm Thái tử. Có một chút tài năng Doanh Trụ muốn đem ra thi thố, đăng vị ngôi báu, trị sự quốc gia. Nhưng Chiêu Tương vương tuổi cao song sức còn tráng kiện, Doanh Trụ đã hơn 40 mà Chiêu Tương vương vẫn còn trong cung Chương Thái phê chuẩn tấu biểu, tiếp đãi sứ giả. Thái tử nước khác đến tuổi này đã tự mình nắm giữ ngôi cao vậy mà Doanh Trụ đã qua tuổi "bất hoặc" (không mê muội) mà Chiêu vương vẫn không có dấu hiệu của tuổi già. Doanh Trụ biết cái ngày đăng đài của mình còn quá xa vời, đành đắm mình trong truỵ lạc với đám cung nhân, trong hậu cung có không biết bao nhiêu mỹ nữ đã qua tay Doanh Trụ. Thái giám và kẻ hầu trong hậu cung biết rằng, ngay cả bậc đá hay ngọn đèn cũng quen thuộc bước chân Doanh Trụ. Doanh Trụ có 23 con trai, 20 con gái, từ đám con đông đảo ấy có thể tưởng tượng được thời gian và công sức mà Doanh Trụ dành cho hậu cung là lớn như thế nào.

Chiêu Tương vương nhìn thấy Doanh Trụ có vẻ chần chừ liền hối thúc: "Chuyện này gấp lắm rồi, con phải mau chóng quyết định đi!" Doanh Trụ liếc nhìn Chiêu vương hỏi: "Thế phụ vương định chọn ai?" Chiêu vương khoát tay nôn nóng: "Con tự quyết định đi, chọn ai báo cho ta một tiếng!"

Thấy phụ vương có vẻ bực bội, Doanh Trụ vội vã cáo từ, quay về Loan Minh, nơi có phu nhân Hoa Dương yêu dấu của mình.

Lúc đó, Hoa Dương phu nhân cùng với anh là Hoa Dương quân đang nóng lòng chờ Doanh Trụ quay lại. Hoa Dương còn sai người hầu là Tiểu Song ra tận cửa đón trông. Vì gần đây nước Tần đánh nhau với nước Sở, thu được Kinh Thành. Kinh Thành là đất phồn hoa, rất nhiều công tử vương tôn muốn Kinh Thành là thực ấp của mình. Hoa Dương quân qua em mình muốn xin Chiêu Tương vương ban cho Kinh Thành làm thực ấp. Vừa ngồi nói chuyện với Doanh Trụ và chị em Hoa Dương thì có người đến báo Chiêu vương cho triệu Thái tử. Chị em Hoa Dương nhân cơ hội, càng cố xúi giục Doanh Trụ nói xin Chiêu Tương vương.

Trong đám cung nga nơi hậu điện, Doanh Trụ sủng ái nhất là Hoa Dương phu nhân. Nàng chưa đầy 30 tuổi, có sắc đẹp lộng lẫy. Dáng người yểu điệu, da trắng như ngà ngọc. Nét mày như liễu, đôi mắt hồ thu hút hồn người khác. Gò má cao ửng hồng như trái đào chín mọng, gợi bao vẻ xuân tình. Nàng có thể chiếm vị trí số một trong cung vàng không chỉ vì là mỹ nhân khuynh quốc, nàng còn là cháu gái của Tuyên Thái hậu. Tuyên Thái hậu vốn là người nước Sở, tên là Mễ Bát Tử. Tuy không là chính cung Hoàng hậu của Huệ Văn vương nhưng vì sinh hạ ra Chiêu vương Doanh Tắc mà được hiển quý. Sau khi Huệ Văn vương chết, Doanh Tắc còn nhỏ nên Thái hậu nhiếp chính. Lúc bà nắm quyền mười mấy năm, họ Mễ trở thành đại gia có thế lực trong triều. Ngụy Nhiễm làm Tướng quốc, hai anh em khác cũng được phong hầu bái tướng. Cho dù sau này Thái hậu bị phế truất, Ngụy Nhiễm bị bãi chức thì họ Mễ vẫn có ảnh hưởng không thể thay thế trong vương triều Tần.

Hoa Dương phu nhân sau khi trở thành Thái tử Phi thì anh là Dương Hoa Quân cũng được thơm lây, trở thành tướng quân thống soái mười mấy vạn đại quân.

Thấy Doanh Trụ thẫn thờ trở về, anh em Hoa Dương đồng thanh hỏi: "Thế nào, Đại vương ngài có đồng ý không?"

Doanh Trụ thở dài nói: "Việc xin kinh thành làm lạc ấp của Hoa Dương quân, ta chưa có cơ hội nói với phụ vương".

Hoa Dương phu nhân hỏi: "Thế phụ vương năm lần bảy lượt triệu kiến ngài có việc gì thế?"

Doanh Trụ nói: "Mọi người đều biết ta với nước Hàn giao chiến, phụ vương sợ Hàn Triệu liên minh, không muốn Triệu giúp Hàn binh khí, lương thực, Triệu vốn đồng ý nhưng muốn ta phải phái người đến Triệu làm con tin".

"Thế Đại vương bảo ai?" Hoa Dương quân hỏi.

"Muốn bảo ai thì người ấy đi". Hoa Dương phu nhân nói thờ ơ.

Cho dù Thái tử suốt ngày quanh quẩn bên nàng nhưng Hoa Dương phu nhân vẫn giữ được dáng người thon gọn. Vì chưa có con nên giọng Hoa Dương rất lạnh nhạt.

Doanh Trụ nghe Hoa Dương liền nói: "Phái ai đi? Nàng bảo ai cũng được?"

Hoa Dương phu nhân mặt lạnh như tiền, cười nhạt: "Thiếp không phải là phụ vương, làm sao dám nói ai đi hay không? Thiếp bảo Thái tử điện hạ đi, bảo Hoa Dương quân đi, bảo Tiểu Song đi?" Nói xong, Hoa Dương phu nhân đưa mắt nhìn mọi người.

Doanh Trụ vội nói: "Phụ vương bảo ta tìm một nhi tử. Bảo ta quyết cũng không phải là bảo nàng quyết hay sao?"

Hoa Dương phu nhân và Hoa Dương quân kinh ngạc thốt lên: "Cho Thái tử điện hạ quyết định à?"

Doanh Trụ nói : "Đúng vậy"

Hoa Dương phu nhân đảo mắt nhìn quanh rồi bảo nữ tỳ Tiểu Song: "Ngươi ra ngoài trước đi!"

Tiểu Song đáp dạ, lui ra.

Hoa Dương phu nhân và Hoa Dương quân đưa mắt nhìn nhau rồi nói: "Thái tử điện hạ, người xem nên phái công tử nào đi".

Doanh Trụ nói: "Ta cũng chưa có chủ ý".

Hoa Dương phu nhân mượn dịp nói: "Thế thì chọn con cả của ngài là Tử Hề đi, nó không muốn làm Thái tử sao? Đây là lúc tạo tiền đề vì nước mà hiến thân!"

Hoa Dương quân cũng tiếp lời: "Phạm Thư, Đỗ Thương hay đưa chuyện, có gì không hay lại sai Từ Hề đi gặp Đại vương, để Từ Hề đi, xem hai người ấy còn chọc gậy bánh xe nữa không".

Phạm Thư là Tướng quốc. Đỗ Thương cũng đảm nhiệm chức trọng thần, lại là thầy dạy của Tử Hề - con trưởng của Doanh Trụ. Một mặt họ gia sức hạn chế quyền lực của gia tộc họ Mễ, một mặt nỗ lực cho việc lập Tử Hề làm Thái tử, trở thành người kế vị của Doanh Trụ. Vì thế chị em Hoa Dương với họ không thể đội trời chung.

Doanh Trụ hiểu rõ là chuyện trong cung có quan hệ rất phức tạp, tuy Vương sủng ái Hoa Dương nhưng cũng không muốn gây thù oán với Phạm Thư, Đỗ Thương.

Hoa Dương phu nhân lại càng hối thúc: "Thái tử điện hạ, người quyết định cho Từ Hề đi, vì quốc gia mà đứng mũi chịu sào, đảm nhiệm trọng trách này!"

Hoa Dương quân cũng nói: "Thái tử điện hạ, đây cũng là lý do chính đáng để công bố giữa triều chính".

Doanh Trụ chần chừ nói: "Để ta xem xét kỹ!"

Bóng hình nhỏ nhắn của Tiểu Song trong đêm như tấm lụa mỏng lặng lẽ đi về hướng phủ Tướng quốc.

Hoa Dương phu nhân bảo Tiểu Song lui nhưng cô gái xinh đẹp này thực ra không quay gót, cô nép ở cửa nghe trọn câu chuyện của Doanh Trụ và chị em Hoa Dương. Nhớ lại ban đầu, Tiểu Song vốn là người nước Sở bị bắt sang Tần làm nô tỳ, phải làm công việc phục dịch quét dọn trong cung vô cùng cực khổ. Một lần, Tướng quốc Phạm Thư thấy cô gái nhỏ nhắn xinh đẹp làm việc vất vả, bèn động lòng thương gọi cô đến và nói: "Còn nhỏ như cô mà phải kiếm sống khổ cực, cô tên là gì?" Tiểu Song quỳ xuống thi lễ rồi kể cho Phạm Thư nghe về thân phận của mình. Phạm Thư nói: "Từ nay cô không phải làm công việc khổ cực như thế nữa, hãy đến cung Thái tử phi làm người hầu ở đó!" Tiểu Song vô vàn cảm tạ chịu ơn, Phạm Thư dặn dò: "Ở cung Thái tử phi nghe hoặc nhìn thấy việc gì lạ, lập tức bí mật đến phủ Tướng quốc báo ngay cho ta". Tiểu Song tâm niệm ghi nhớ, cô biết việc gì cần gấp rút báo với Phạm Thư. Tiểu Song đến Loan Minh Các, lúc đầu chỉ ở vườn hoa, chăm sóc cây cỏ, nhưng vì chịu khó lại nhanh nhẹn nên sớm được Hoa Dương để ý và cho vào cung làm người hầu tâm phúc của mình.

Tiểu Song đến phủ Tướng quốc, mau chóng đến thư phòng gặp Phạm Thư đang ngồi đọc sách.

Vị Tướng quốc nước Tần quyền cao chức trọng, râu tóc đã điểm bạc, mắt hằn nét chân chim. Nghe Tiểu Song nói, thốt lên một tiếng "À". Xem qua thì biết đây là người đầy mưu sâu kế hiểm. Ông bảo người nhà mang vài lạng bạc tới thưởng cho Tiểu Song và nói: "Mau về đi!".

Tiểu Song đi khỏi, ông không kịp mặc quan phục, một mình một ngựa đi đến Tử Hề.

Phạm Thư vốn là người nước Ngụy, thông hiểu thi thơ lễ nhạc, chí lớn ngút trời. Phạm Thư đi du thuyết ở các nước chư hầu, ý muốn giúp việc cho vua Ngụy nhưng vì nhà nghèo, không có gì để làm vốn đành phải giúp việc cho trung đại phu nước Ngụy - Tu Giả.

Một lần Tu Giả vâng lệnh Ngụy Chiêu vương đi sứ nước Tề, Phạm Thư cũng đi theo. Hai người ở Tề mấy tháng vẫn không có kết quả gì. Vua Tề vương nghe nói Phạm Thư có tài biện luận, bèn sai người biếu 10 cân vàng cùng thịt bò và rượu. Thư từ chối không dám nhận. Tu Giả biết được giận lắm, cho rằng Thư được những tặng phẩm ấy là đem những điều bí mật của nước Ngụy nói ra với Tề nên sai Thư nhận rượu, thịt và đem vàng trả lại. Sau khi về nước, Giả giận Thư nên đem nói với Tướng quốc nước Ngụy là Ngụy Tề. Ngụy Tề cả giận, sai môn hạ lấy roi đánh Thư. Đánh gãy xương sườn, rụng răng. Thư giả vờ chết, bị người ta lấy chiếu bó lại bỏ trong nhà xí. Khách uống rượu thịt no say, thi nhau đái lên người Thư, cốt làm nhục Thư để răn dạy những người sau đừng nói bừa bãi.

Thư nằm trong chiếu nói với người giữ nhà xí: "Nếu ông có thể đưa tôi ra thì thế nào tôi cũng hậu tạ".

Người nước Ngụy là Trịnh An Bành biết Phạm Thư là người có tài bèn cứu. Phạm Thư chạy trốn rồi đổi tên là Trương Lộc. Lúc bấy giờ Tần Chiêu vương sai người yết giả là Vương Kê sang Ngụy, Trịnh An Bành giả làm lính hầu hạ Vương Kê, tiến cử Phạm Thư. Vương Kê nhìn thấy Phạm Thư nói chưa hết buổi, biết Phạm Thư là người giỏi. Sau khi quay về Hàm Đan tiến cử với Tần Chiêu Tương vương, vua Tần gặp Phạm Thư cùng nhau bàn chuyện thiên hạ, thấy Phạm Thư là người mưu lược tài giỏi, phong ông làm Tướng quốc, Phạm Thư sau khi thành Tướng quốc, hoạch định chính sách, chiến lược trị quốc, tăng cường luật pháp làm cho nước Tần ngày càng trở thành hùng mạnh.

Phạm Thư làm Tướng quốc vẫn lấy tên là Trương Lộc. Nước Ngụy không biết cho rằng Phạm Thư đã chết từ lâu. Vua Ngụy nghe tin vua Tần đem quân sang đánh hai nước Hàn Ngụy, sai Tu Giả đến nước Tần cầu hoà. Phạm Thư nghe vậy, cải trang mặc quần áo lam lũ, đi bộ đến nhà khách yết kiến Tu Giả. Giả thấy Thư liền kinh ngạc hỏi: "Phạm Thư, ngươi vẫn chưa chết sao?" Phạm Thư đáp: "Phải!" Tu Giả cười hỏi: "Ngươi đến nước Tần làm thuyết khách phải không?" - "Thưa không. Trước đây Thư có tội với Tướng quốc nước Ngụy, cho nên bỏ trốn đến đây, đâu dám làm thuyết khách?" "Nay ông làm việc gì?" "Tôi làm thuê cho người ta". Tu Giả trong lòng thương hại, giữ lại cùng ăn cơm và nói: "Ngươi có biết Tướng quốc nước Tần là Trương Lộc không? Nghe nói ông ta được nhà vua yêu quý, việc trong thiên hạ đều do thừa tướng quyết định. Nay việc của tôi phụ thuộc vào Trương quân. Ngươi giúp ta gặp Tướng quốc được không?"

Phạm Thư nói: "Ông chủ của tôi quen biết ông ta nên tôi có thể bái yết. Thư này xin giúp ông gặp Trương quân".

Phạm Thư về lấy xe tứ mã đưa cho Tu Giả, đánh xe đưa vào tướng phủ. Trong phủ mọi người nhìn thấy Tướng quốc đều ẩn nấp, trốn lánh. Tu Giả thấy làm lạ. Đến cửa nhà thừa tướng, Phạm Thư nói với Tu Giả: "Ông chờ một lát để tôi vào báo trước".

Tu Giả ngồi ngoài đợi hồi lâu vẫn không thấy Phạm Thư bèn hỏi người môn hạ: "Phạm Thư không ra là tại sao?". Người môn hạ nói: "Không có ai là Phạm Thư cả. Người mà ông cùng đi xe là Tướng quốc Trương Lộc của chúng tôi".

Tu Giả cả kinh biết mình bị lừa, bèn cởi trần đi bằng đầu gối, nhờ người môn hạ vào xin tha tội. Bấy giờ Phạm Thư bày màn trướng nghiêm chỉnh, kẻ hầu người hạ rất đông, Tu Giả cúi đầu nói: "Tôi không ngờ ngài có thể tự mình lên tới mây xanh. Tôi phạm tội đáng chết. Từ nay không dám đọc sách thiên hạ, bàn việc thiên hạ nữa. Giả có tội phải bỏ vào vạc nước sôi, cúi xin ngài đuổi đến nơi man rợ, sống chết tùy ngài định đoạt".

Phạm Thư không giết Tu Giả, đem chuyện kể với vua Tần, xin thả Giả về Ngụy quốc. Tu Giả tới từ biệt Phạm Thư, Phạm Thư bày tiệc lớn, mời sứ giả các nước chư hầu đến dự. Bắt Tu Giả ngồi dưới thềm, sai người đặt máng ngựa ăn trước mặt, sai hai tội nhân bị chạm vào mặt đứng hai bên, cảnh tượng y như người ta cho ngựa ăn vậy.

Phạm Thư nói với Tu Giả: "Ngươi về quê nói với vua Ngụy, mau mang đầu Ngụy Tề tới đây. Nếu không ta sẽ làm cỏ thành Đại Lương".

Tu Giả trở về báo với Ngụy Tề. Ngụy Tề sợ hãi, trốn đến nước Triệu, ở nhờ Bình Nguyên quân.

Tần Chiêu vương biết chuyện, muốn báo thù cho Phạm Thư, giả vờ viết một bức thư đưa cho Bình Nguyên quân: "Quả nhân biết ngài là người cao nghĩa, muốn ngài làm bạn áo vải, nếu may mắn được ngài tới, xin uống rượu với ngài mười ngày".

Bình Nguyên quân sợ Tần, vả lại cũng cho là phải bèn đến Tần yết kiến Chiêu vương. Chiêu vương cùng Bình Nguyên quân uống rượu mấy ngày rồi nói với Bình Nguyên quân: "Xưa Chu Văn vương được Lũ Thượng cho làm Thái công. Tề Hoàn công được Quản Di ngô cho làm trọng phụ. Phạm Quân cũng là bậc thúc phụ của quả nhân, kẻ thù của thúc phụ ở nhà ngài, xin cho người về lấy đầu hắn đem lại đây, nếu không ta không cho ngài qua cửa ải!".

Bình Nguyên quân nói: "Tuy mình sang nhưng kết bạn với người là người không quên cái nghĩa lúc mình còn thấp hèn. Tuy mình giàu nhưng chơi với người ta là không quên cái lúc mình nghèo túng. Ngụy Tề là bạn của tôi, nếu ở nhà tôi, tôi nhất định không đem ra nộp, lại rằng ông ta không ở nhà tôi".

Chiêu vương đưa thư cho vua Triệu nói: "Em trai của nhà vua ở Tần, kẻ thù của Phạm Thư là Ngụy Tề hiện đang ở Bình Nguyên quân. Nhà vua mau sai người đem đầu hắn đến đây, nếu không ta sẽ đem binh đánh Triệu, không cho em nhà vua qua ải đâu".

Triệu Hiếu Thành vương xem xong thư cả kinh, đem binh lính đến vây nhà Bình Nguyên quân rất gấp, đang đêm Ngụy Tề trốn ra, ra mắt Tướng quốc nước Triệu là Ngu Khanh. Ngu Khanh xem chừng không can nổi vua, bèn cởi ấn Tướng quốc, cùng Ngụy Tề bỏ trốn. Nghĩ không thể trốn tránh ở nước chư hầu nào bèn chạy về Đại Lương muốn nhờ Tín Lăng quân để chạy sang nước Sở. Tín Lăng quân nghe tin, sợ Tần, do dự chưa quyết, bèn hỏi: "Ngu Khanh là người như thế nào?"

Hầu Doanh bên cạnh nói: "Con người không dễ biết hết. Biết người cũng không phải là dễ. Ngu Khanh đi giày rơm, mang ô đi yết kiến vua Triệu lần thứ nhất, được thưởng một đôi thạch bích, một trăm cân vàng. Lần thứ hai được phong làm Thượng khanh. Lần thứ ba được cử làm Tướng quốc, phong vạn hộ hầu. Trong thiên hạ đua nhau muốn biết ông ta. Thế mà khi Ngụy Tề cùng khốn đến nhà ông ta, Ngu Khanh không dám cho tước lộc là tôn quý, cởi ấn tướng cùng Ngụy Tề trốn chạy. Công tử, người nói xem. Ngu Khanh là người như thế nào?"

Tín Lăng quân nghe xong cả thẹn, sai người ra ngoại thành nghênh đón. Ngụy Tề nghe nói Tín Lăng quân lúc đầu ngại đón mình nên cả giận tự đâm cổ chết. Vua Triệu nghe tin, lấy đầu của Tề đưa cho vua Tần. Tần Chiêu vương cho Bình Nguyên quân về nước.

Chiêu vương rất thân cận và gần gũi với Phạm Thư, cho phép ông được đánh xe ra vào cung vương.

Tử Hề là con cả của An Quốc quân, năm nay tuổi đã trưởng thành. Tử Hề không giống kẻ phàm nhân tục tử, không dễ để người khác biết được suy nghĩ tâm sự của mình. Hình dung oai phong, hiên ngang khí phách. Vẻ ngoài luôn như ngây dại nhưng tâm trí rất sâu xa. Tuy cả ngày trong phòng đọc sách nhưng không hề hứng thú với chuyện cay đắng cuộc đời. Thi thơ lễ nhạc giúp Tử Hề hiểu rằng trong cung đình luôn xảy ra tranh đoạt tước quyền. Tử Hề cảm thấy rằng, quan tước mê hoặc con người giống như bông hoa hồng, tuy đầy sắc hương nhưng cũng lắm gai nhọn. Muốn thưởng hoa phải cầm cả hai tay, hoa mới không gây đau đớn. Tử Hề muốn sớm trở thành Thái tử của An Quốc quân, mau chóng gánh vác việc thiên hạ, lại có Tướng quốc Phạm Thư ủng hộ. Tuy nhiên bên cạnh cha luôn có người đẹp Hoa Dương sớm hôm kề cận, lời nói xúc xiểm, thêm Vũ An quân Bạch Khởi quyền cao chức trọng, tấn cử Dị Nhân trước mặt vua Tần, nói Dị Nhân trí dũng song toàn, trí tài tuyệt đỉnh, không ai sánh bằng, lại nói sợ trở thành Thái tử của An Quốc quân. Tử Hề căm giận xiết bao những con người ấy.

Người hầu trong phủ Tử Hề thấy Tướng quốc quần áo xộc xệch, tự đánh xe tới phủ, biết có chuyện chẳng lành. Đến phủ, Tướng quốc sửa sang quần áo, gấp rút vào thư phòng gặp Tử Hề. Nhìn bộ dạng Phạm Thư, Tử Hề bíêt xảy ra chuyện lớn. Phạm Thư thấy Tử Hề và thái phụ Đỗ Thương, bèn đem chuyện anh em Hoa Dương muốn Tử Hề tới nước Triệu làm con tin một lượt.

Tử Hề hỏi: "Chẳng phải vua cha không đồng ý sao?"

Phạm Thư nói: "Bây giờ An Quốc quân chưa có chủ ý gì nhưng ngài cũng biết, Hoa Dương phu nhân nói sao thì An Quốc quân theo vậy mà". Đỗ Thương nói: "Phạm tướng quốc, ngài tiến cử với Đại vương một vương tôn khác, như vậy sẽ sớm thoát khỏi chuyện này".

Phạm Thư nói: "Đại vương không muốn tốn công phí sức đã để cho An Quốc quân quyết định chuyện này".

Tử Hề nói: "Để ta đi? Như thế có quá lắm không? Hai mươi ba con trai tất cả đều hưởng phúc lộc phú quý vinh hoa, tại sao lại chọn ta?"

Đỗ Thương nói: "Mọi người có thể viện lý do ngài là con trưởng".

Tử Hề nói: "Con trưởng lớn lên làm Thái tử, lẽ nào định không cho ta được thế sao?"

Phạm Thư nói: "Tình hình này không nên oán trách hay đổ lỗi cho ai. Chúng ta nên nghĩ kế chu toàn không để Tử Hề tới Hàm Đan làm con tin nước Triệu".

Tử Hề nói: "Tôi ăn không ngon, ngủ không yên, hay thoái thác ốm đau mấy tháng cho yên chuyện?"

Đỗ Thương lắc đầu: "Ngài cáo ốm, người ta bảo là ngài trốn tránh, sai thái y đến thăm bệnh thì vỡ lở mọi chuyện!".

Phạm Thư đi đi lại lại trong thư phòng và hỏi: "Hôm nay là ngày bao nhiêu?" "Hôm nay là ngày 19 tháng 6, Tướng quốc không nhớ sao?" Đỗ Thương cảm thấy vì chuyện con tin đã làm cho Phạm Thư bấn loạn tâm trí. Phạm Thư bấm tay phấn khởi: "Phải, hôm nay là ngày 19, sau bảy ngày là ngày 26".

Tử Hề và Đỗ Thương thấy vị Tướng quốc túc trí đa mưu bộ dạng như vậy biết Phạm Thư có chủ ý rõ ràng.

Phạm Thư sung sướng nói: "Ngày 26 tháng 6 là ngày sinh nhật của vua Sở là Khoảnh Tương vương. Nếu ta nhớ không nhầm, năm nay ông ta 52 tuổi. Ngày ngày 2 năm về trước, ta là sứ thần Tần quốc đến chúc thọ ông ta".

Đỗ Thương nói: "Tướng quốc đại nhân, lúc này nước sôi lửa nóng lại còn nhớ tới ngày sinh của vua Sở hay sao? Thật là không đúng lúc chút nào!"

Phạm Thư nói: "Thái phụ, cứ theo như chuyện này, bảo Tử Hề viết thư cho Khoảnh Tương vương, nói với vua Sở rằng Tử Hề rất muốn đến chúc thọ Tương vương vào ngày 26 nhưng chưa có lời mời của Đại vương nên không dám thất lễ. Nhất định Tương vương sẽ phái người tới mời Tử Hề. Tương vương và An Quốc quân là chỗ tình thân, nhất định vì việc chúc thọ này mà phái người khác đến Hàm Đan làm con tin".

Đỗ Thương vô cùng thán phục: "Quả là diệu kế! Tử Hề thay mặt nước Tần tới chúc thọ Tương vương, tránh việc đến Hàm Đan, thật nhất cử lưỡng tiện".

Đỗ Thương theo kế Phạm Thư, đọc thư để Tử Hề viết đưa tới vua Sở. Ngày hôm sau bèn phái một viên Tả Đồ nắm công việc trong cung thất mang thư diện kiến Chiêu Tương vương, mời Tử Hề đến Sính Đô tham dự tiệc mừng thọ vua Sở Khoảnh Tương vương. Chiêu vương đem quốc thư của nước Sở giao cho Phạm Thư xử lý việc này.

Phạm Thư tiếp quốc thư, trong bụng mừng thầm. Sự việc đã bộc lộ rõ kết quả mà ông dự liệu. Ông cầm quốc thư, mặt mày rạng rỡ, cùng Tử Hề đến từ biệt An Quốc quân Doanh Trụ.

Doanh Trụ mấy hôm nay cùng Hoa Dương phu nhân cân nhắc xem rút cục phái công tử nào tới Hàm Đan.

Phạm Thư mang quốc thư của Sở vương đến trước mặt Doanh Trụ lắc lư nói: "Đại vương đã ân chuẩn để Tử Hề đi sứ nước Sở" Tử Hề mừng ra mặt, cúi đầu thi lễ nói: "Hài nhi cung kính từ biệt phụ vương và vương phi nương nương". Hoa Dương phu nhân không nén nổi tình cảm hỏi: "nói như vậy, Tử Hề không thể đến Hàm Đan làm con tin được sao?"

Phạm Thư không hề giữ ý nói: "Tử Hề mang gánh nặng trên vai, không hổ với sứ mệnh, sẽ nhanh chóng lên đường". Hoa Dương phu nhân nhìn cái vẻ đắc ý của Phạm Thư và Tử Hề, phẫn nộ hỏi một câu: "Việc này ngoài Tử Hề không còn ai gách vác được sao?" Phạm Thư không chút e dè đem quốc thư đưa cho Hoa Dương nói: "Trong này mời đích danh Tử Hề đi, chúng tôi tự tiện thay người, chính là phạm tội bất hiếu với nước Sở!"

Doanh Trụ nói: "Phạm tướng quốc, người xem tốt nhất nên để ai đi làm con tin?"

Phạm Thư nói: "Còn hai mươi hai công tử nữa, ai đi cũng được. Dị nhân rất thích hợp. Đây chỉ là thiển ý của tại hạ mà thôi, cuối cùng vẫn phải do Thái tử điện hạ định đoạt"

Tử Hề đi sứ nước Sở, có quốc thư của Khoảnh Tương vương, lại có lệnh của Chiêu Tương vương, Hoa Dương phu nhân cũng chỉ còn cách nghe theo.

Vậy mà chẳng bao lâu Hoa Dương phu nhân đã vén được bức màn bên trong việc Tử Hề đi sứ. Hóa ra vị Tả Đồ phụng mệnh Khoảng Tương vương mang bức thư chẳng biết đầu cua tai nheo thế nào lại có chút quan hệ thân thuộc với Hoa Dương quân. Rời khỏi cung Chương Đài chỗ Chiêu Tương vương, liền đến thăm chỗ Hoa Dương quân. Chẳng biết lòng dạ để đâu lại đem việc Tử Hề yêu cầu đi Sính Đô mừng thọ Sở vương và Sở vương phái ông ta mang quốc thư đi sứ như thế nào nói ra hết.

Khi Hoa Dương quân và người này nói chuyện với nhau, mau chóng đã hiện ra tình cảnh người nói vô ý, người nghe hữu tình. Hoa Dương quân thấy rõ việc này Phạm Thư đã làm tay chân. Hoa Dương quân nghĩ: "Phạm tướng quốc, tiếc rằng ông không thể qua được con mắt của Hoa Dương quân này".

Sau khi vị Tả Đô này rời khỏi chỗ của Hoa Dương quân lại lên lầu Loan Ô bái kiến Hoa Dương phu nhân. Hoa Dương phu nhân vì việc Tử Hề đi sứ nước Sở mà trong lòng tức tối, nên tiếp đãi vị Tả Đồ đến từ quê hương mình với vẻ mặt lạnh lùng. Tả Đồ thấy vị Thái tử phi xinh đẹp này mặt mày rầu rĩ, dường như không mấy hứng thú với sự viếng thăm của mình nên cũng chào hỏi vài câu xã giao rồi đứng dậy cáo từ.

Doanh Trụ vẫn chưa tới, Hoa Dương phu nhân buồn rầu gọi con hầu Tiểu Song vào đánh cờ với mình. Hoa Dương phu nhân và Tiểu Song, tay cầm hộp gốm đựng cờ ngồi bên chiếc bàn con. Đen trước, trắng sau. Hoa Dương phu nhân dùng những ngón tay búp măng nõn nà của mình đã đặt một quân cờ vào bàn cờ. Tiểu Song không hề suy nghĩ cũng thêm vào một cây cờ. Hoa Dương phu nhân lại nhúm một cây, cánh tay dừng lại ở giữa. Suy nghĩ muốn đặt lại không đặt.

Tiểu Song nhìn thấy, trời chiều đã lọt qua song cửa, đem ánh sáng trắng như dải lụa lọt vào trong phòng. Ánh sáng lóa mắt chia khuôn mặt Hoa Dương phu nhân làm hai phần sáng tối. Phần bị ánh sáng chiếu sáng làm hiện lên cơ thể đầy đặn, kiều diễm thoát tục khiến người ta có thể nảy sinh những dục vọng ve vãn. Phần không được chiếu sáng, tạo ra sự u buồn, ám ảnh đầy vẻ thấp thỏm mong ngóng. Nghĩ đến đây Tiểu Song lại nhìn thấy hình bóng bí hiểm của mình ra vào tướng phủ.

"Đi đi chứ!" Hoa Dương phu nhân không biết từ lúc nào đã đặt cây cờ trong tay của mình vào bàn cờ. Tiểu Song như vừa tỉnh giấc mơ lại đi một cây cờ. Khi bàn cờ đã đầy một nửa thì Hoa Dương quân tới. Hoa Dương quân đi thẳng vào vấn đề nói: "Thái tử phi, tôi có chuyện quan trọng cần bẩm báo". Hoa Dương quân thấy Tiểu Song đang bốc những quân cờ vào hộp. Thu dọn xong, Tiểu Song lui ra.

Hoa Dương quân đem chuyện Tử Hề đi sứ nước Sở kể cho Hoa Dương phu nhân nghe.

Hoa Dương phu nhân nghe xong, hỉ mũi một cái nói: "Tên Phạm tướng quốc này thật là một lão tặc gian thần, chúng ta phải tương kế tựu kế". Hoa Dương quân không rõ ý người chị xinh đẹp của mình như thế nào.

Hoa Dương phu nhân nói: "Vừa rồi chằng phải Phạm Thư nói để Dị Nhân đi làm con tin ở Hàm Đan hay sao? Chúng ta cũng sẽ lấy danh nghĩa Dị Nhân viết cho Khoảnh Tương vương một bức thư, cầu khẩn ông ta cho Dị Nhân đi dự lễ mừng thọ của ông ấy. Đợi Dị Nhân đi tới nước Sở rồi, ta sẽ nói với An Quốc quân đợi hai vị công tử từ Sở trở về sẽ quyết định ai đến Hàm Đan làm con tin".

Sở Khoảnh Tương vương lại nhận được thư của Dị Nhân xin tham gia lễ mừng thọ, cười ngặt nghẽo, nói: "Đúng là mặt trời mọc ở đằng Tây, chiếu cung điện nước Tần đến chỗ ta. Chẳng lẽ các vương tôn nước Tần lại tranh nhau mang lễ vật đến mừng thọ quả nhân sao? Không từ chối người đến, ta sẽ phái một Tả Đồ tới nước Tần mời Dị Nhân".

Hạ Cơ vì sắc đẹp sớm tàn phai bị An Quốc quân lạnh nhạt bỏ xó trong hậu cung không để mắt tới. Khi Tả Đồ của nước Sở đến mời con trai mình là Dị Nhân đến dự tiệc mừng thọ, hai mẹ con vẫn bị bịt tang trống, không biết rằng mọi người đang vì chuyện con tin mà ngấm ngầm bày mưu tính kế.

Hạ Cơ vốn là người con gái trong dân gian bị quân Tần bắt được khi đang vây thành của nước Trịnh, làm phục dịch trong hậu cung. Sau một lần được An Quốc quân sủng ái mà có thai. Ít lâu sau sinh hạ được bé trai một mắt cao một mắt thấp. Hạ Cơ sai cung nữ mời An Quốc quân tới xem mặt đứa con của ông ta, đặt cho nó một cái tên. Vị Thái tử phong lưu này, đâu còn nhớ tới người cung nữ phục dịch có dáng người thô kệch, tướng mạo bình thường này. Khi có người nói với ông ta Hạ Cơ xinh con và mời ông tới xem, ông nghĩ mãi mới nhớ ra cái cô Hạ Cơ này. Phụ nữ sinh con thì có gì đáng xem? Hình dạng của đứa trẻ này chẳng có chút dị thường sao? Vậy thì gọi nó là Dị Nhân đi.

Cái tên mà Doanh Trụ tặng cho đứa con thứ bảy này là Dị Nhân. Hai mẹ con Dị Nhân sống ở trong hậu cung giữa các mĩ nữ như hai cây cỏ dại lay lắt trong ruộng, không có hương thơm, không được ai chú ý. Đơn độc lạnh lẽo, tự sinh tự diệt. Trong một cơ hội ngẫu nhiên gặp được Trần Cơ là vợ chính của Vũ An quân đến tứ ấp Trần nước Trịnh, hai người đồng hương chuyện trò rỉ rả. Trần Cơ rất thông cảm với cảnh ngộ của Hạ Cơ, về đến nhà kể hết với Bạch Khởi. Bạch Khởi kể khắp trong triều ngoài chợ nỗi bất bình của Hạ Cơ, còn lấy vị quân uý ở bên cạnh mình Chu Kiệm văn võ song toàn sang chỗ Hạ Cơ, làm Thái phó cho Dị Nhân.

Trong tình thương và sự đùm bọc của Hạ Cơ, Dị Nhân ngày một khôn lớn. Vậy mà đôi mắt bên cao bên thấp, không đều nhau của Dị Nhân đang trở về đường trung bình. Cái đôi mắt hơi lồi ra ấy long lanh có thần, vui như mắt rồng. Vầng trán cao rộng, sống mũi thẳng. Hạ Cơ ngắm con của mình càng thấy nó giống quân vương. Sự mong ngóng trông đợi của Hạ Cơ vào con trai Dị Nhân của mình đang từng ngày từng ngày trôi đi mất. Bà mãi về sau mới biết được tin cháu của vua Tần phải tới Hàm Đan làm con tin, bà âm thầm cầu khấn cho Dị Nhân, không muốn đứa con trai của mình sang nước khác làm con dê thí mạng. Bà nghe người ở trong cung nói với nhau, làm con tin sẽ gian khổ và nguy hiểm như thế nào. Bình thường có nhà không được về, một khi hai nước trở mặt giao chiến với nhau, con tin nếu nhẹ thì cũng bị mang ra làm trò đùa, nặng thì bị giam cầm giết chết. Thỉnh thoảng nghĩ tới đứa con có thể trở thành con tin, Hạ Cơ không rét mà cảm thấy run.

Càng nghĩ Hạ Cơ càng cảm thấy lo sợ. Khi Sở Khoảnh Tương vương sai Tả Đồ tới mời Dị Nhân làm sứ thần tới Sính Đô dự lễ mừng thọ thị trong lòng bà thư thái hơn rất nhiều. Bà tháy An Quốc quân Doanh Trụ lúc này không thể phái một công tử của mình đi làm con tin. Việc này luôn làm Hạ Cơ không yên, làm việc gì cũng hỏng. Nghĩ đi nghĩ lại, bà thấy cần phải đến thỉnh cầu Doanh Trụ, nói rõ lợi hại, tuyệt đối không thể để Dị Nhân tới Hàm Đan làm con tin. Hạ Cơ biết, Doanh Trụ một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, giống như một cái rễ cây cắm trong phòng Hoa Dương phu nhân. Hạ Cơ nghĩ không sai, khi bà tới cung Loan Ô, Doanh Trụ đang ở đó. Trong một năm, Hạ Cơ không mấy khi tới đây. Ở đây vàng bạc rực rỡ, các trang trí sặc sỡ yêu kiều, tiếng đàn tiếng sáo dìu dặt. Có cả những lễ vật, điệu múa của người Hung Nô, Tiên Ti hoàn toàn tương phản với sự lạnh lẽo, vắng vẻ với nơi ở của Hạ Cơ. Ngày tháng trôi qua, Hạ Cơ từ lâu đã quen với cuộc sống như thế. Bà còn tự răn mình, nếu Doanh Trụ không quan tâm đến bà thì bà cũng phải chịu. Khi Hạ Cơ nhìn thấy Doanh Trụ thì vị An Quốc quân này đang hầm hầm giận dữ với hai người thiếp khác. Hạ Cơ mau chóng hiểu ra tất cả, hai người thiếp này cũng đến để thưa rằng con họ không thể đến thành Hàm Đan làm con tin.

Hạ Cơ thấy vị phu quân này tự mình không thể tùy tiện gặp mặt, thẹn quá hóa giận, đang nhiếc móc hai người thiếp kia: "Ta vẫn chưa nói để ai đi, các người nước mắt ngắn nước mắt dài đến đây khóc lóc làm gì? Con ngươi có bệnh, con ngươi yếu đuối, vậy thì để ai đến Hàm Đan? Để ta đi chắc? Ngày xưa Vũ vương cho phụ vương đi làm con tin, phụ vương không rơi một giọt nước mắt, uy phong lẫm liệt ra đi. Các ngươi là một lũ hám lợi tránh hại, không hề nghĩ cho non sông xã tắc. Mai này không còn nước Tần nữa, để ta xem các ngươi lấy gì mà sống! Hừm, vào lầu xanh bán thân cũng không xong".

Hai người này bị Doanh Trụ mắng cho một trận, không nói được câu nào lủi thủi ra về. Hạ Cơ vội quỳ xuống thỉnh an Thái tử điện hạ. Mặc dù đã có sự chuẩn bị nhưng những lời nói vừa rồi của Doanh Trụ cũng khiến bà hoảng sợ, lắp ba lắp bắp, hơn nữa ở đây còn có Hoa Dương phu nhân.

Doanh Trụ lạnh nhạt nói: "Con mụ già đến đây làm gì, lại muốn ta lặp lại những lời vừa nãy hay sao?" Nước mắt Hạ Cơ trào ra, bà dường như nhìn thấy vẻ mặt mãn nguyện của Hoa Dương phu nhân hiện rõ trên mặt. Trước mặt Doanh Trụ, ý chí của bà bị tan đi như băng vậy.

Lúc Hạ Cơ trở về nghe tiếng ngọc đai đeo ở lưng giòn lạnh như tiếng giọt mưa.

Hoa Dương phu nhân thấy mọi người đã về cả rồi mà Doanh Trụ vẫn ngồi đó tức tối bèn tới vòng cánh tay nõn nà của mình quanh cổ Doanh Trụ, nũng nịu nói: "Thái tử điện hạ vẫn còn đang giận hay sao?"

Doanh Trụ nói: "Bọn thê thiếp khốn khiếp này chỉ biết nước mắt ngắn nước mắt dài làm ta thật khó xử, đau cả đầu".

Hoa Dương phu nhân ngồi vào lòng Doanh Trụ nói: "Thái tử điện hạ dễ nổi giận thế, sau này làm Tần vương rồi, phải giải quyết trăm công nghìn việc, ngay như việc cử con tin sẽ rất nhiều, chàng không quyết mà cứ tức giận như thế thì sẽ tức đến chết được! Gặp nguy nan không sợ, gặp sự phiền não không giận, đó là đức tính của bậc quân vương!"

Chỉ một lời nói của Hoa Dương phu nhân đã khiến Doanh Trụ trút hết phiền não, mặt mày tươi tỉnh, vẫn là sự chăm sóc tỉ mỉ, lời nói thấu tình đạt lý của Hoa Dương phu nhân. Quả thực như thế, sau này làm Tần vương rồi, những việc khó khăn hơn việc cử con tin rất nhiều, chàng có thể tức giận mãi được không?

Doanh Trụ vuốt má Hoa Dương phu nhân hỏi: "Ái phi, chuyện đã đến mức này, nàng xem sai công tử nào đi Hàm Đan là tốt nhất?" Hoa Dương phu nhân nói: "Mấy hôm nay thiếp luôn nghĩ tới việc này cho Thái tử điện hạ. Thiếp vốn cho rằng nên để Tử Hề đi, sau đó nghĩ lại thấy việc đó không ổn. Như vậy sẽ đắc tội với bọn Phạm Thư, Đỗ Thương. Thiếp thấy nên xem một quẻ bói để xin ý thần linh ra sao. Ý nguyện của thần để ai đi thì người đó đi. Như vậy người đi cũng không thể thoái thác được, cũng không thể oán trách được Thái tử điện hạ".

Doanh Trụ sung sướng nói: "Ái phi thật cao kiến".

Hoa Dương phu nhân nói: "Việc này không thể chậm trễ, đợi Dị Nhân và Tử Hề ở nước Sở về, lập tức mời thấy bói bốc quẻ".

Doanh Trụ nói: "Thiện tai!"

Hạ Cơ không nề hà hỏi Dị Nhân một câu: "Con trai, con hỏi chắc chưa?" "Hỏi chắc rồi, hoàn toàn chính xác. Thầy bói bốc quẻ ngày mai là hoàn toàn bịp bợm. Con vừa từ Sính Đô trở về, người mỏi rã rời, lại còn phải chạy đến chỗ thầy bói mù kia!" Dị Nhân oán giận nói, Hạ Cơ trách móc: "Con thật là không biết lý lẽ gì cả! Đây là một việc rất lớn! Lại là việc của con, hơn hai mốt tuổi rồi, đi một đoạn đường thì có nghĩa lý gì!"

Hạ Cơ vừa nói như vậy, Dị Nhân không lên tiếng nữa.

Dị Nhân sống trong cảnh mẹ mình bị lạnh nhạt, tính cách lập dị, lẻ loi cũng kèm theo tinh thần phản kháng không khuất phục số phận. Không giống như các công tử khác, luôn lấy lòng phụ thân, làm thân chó ngựa, tụ họp bè đảng. Dưới sự đốc thúc của Hạ Cơ, cùng với Chu Kiệm người thân cận của An Vũ quân Bạch Khởi học tập văn võ. Nhưng sự kiềm chế trong thời gian dài đã tạo nên tính cách nhấp nhổm không yên. Suy tính thiệt hơn. Phàm làm việc gì cũng ôm ấp hoài bão, muốn thử xem làm sao, ngộ nhỡ gặp khó khăn gian khổ thì lại trách trời oán người, xịt hết hơi.

Hạ Cơ gói lấy trăm lạng vàng đến chỗ thầy bói. Thầy bói sống trong nhà Chúc Từ bên cạnh cung Chương Đài. Vị thầy bói của vương thất này tướng mạo tinh anh, đôi mắt có thần, dường như có thể loé lên thể hiện ánh sáng của thần linh. Vị thầy bói này xưa nay không có qua lại gì với Hạ Cơ nhưng đều biết nhau.

Vừa thấy phu nhân Thái tử thân tới Chúc Từ, thầy bói vội cúi đầu thi lễ.

Hạ Cơ nói: "Miễn lễ".

Thầy bói khiêm nhường hỏi: "Muộn thế này Thái tử phi còn thân chinh đến đây, không biết có gì chỉ bảo?"

Hạ Cơ hỏi: "Việc bốc quẻ ngày mai do ông chủ trì phải không?"

Thầy bói nói: "Vâng"

Hạ Cơ nói: "Ông học thuật cao thâm, đoán được mệnh trời. Tôi và Dị Nhân cô độc lạnh lẽo, số mệnh nương tựa vào nhau. Nếu như Dị Nhân phải đến Hàm Đan xa xôi, đối với tôi khác nào trời tuyết thêm sương, chắc tôi không thể sống được. Hôm nay tôi mạo muội tới đây, chính là vì việc này. Xin ông bẩm báo với thần linh, đừng phái Dị Nhân tới Hàm Đan làm con tin. Đây là một trăm lạng vàng, xin ông vui lòng nhận cho. Nếu được như thế, mẹ con tôi sẽ không bao giờ quên".

Hạ Cơ nói xong đặt túi vàng lên trên bàn.

Ông thầy bói là người thông minh, biết rõ thịnh tình của Hạ Cơ. Kết quả quẻ bói ngày mai, cho dù có phải là Dị Nhân hay không thì cũng không được nói là Dị Nhân. Nghĩ đến đây, ông hiểu ý nói: "Tôi đã hiểu dụng ý của Thái tử phi, xin hãy yên tâm mà về đi. Thần linh nhân từ, lấy thiện làm gốc, sẽ để cho Thái tử phi được toại ý".

Hạ Cơ đẩy hai cánh cửa nặng chình chịch của nhà Chúc Từ bước ra, để lại phía sau không gian đen kịt và niềm hy vọng vô hạn. Chiều hôm sau, nghi lễ bốc quẻ được cử hành tại cung Chương Đài. Ánh mặt trời chênh chếch, bị làn khói hương quấn lấy lộ rõ màu trắng xanh. Các loại nhạc khi phát ra âm thanh réo rắt, mơ hồ không rõ như nồi canh đang hầm trên bếp. Tiếng mỡ lách chách chảy ra từ những miếng mai rùa, xương thú đang nướng trên than. Thỉnh thoảng lại vang lên những âm thanh phát ra do mai rùa, xương thú bị đốt nóng, truyền đi rất lâu trong cung điện rộng. Mùi khói lửa mang theo cái mùi tanh tanh, mọi người đứng đầy hai bên. Doanh Trụ và Hoa Dương phu nhân đã tới. Còn có một số quan sử mũ cao áo rộng, họ đều là các hoàng thân quốc thích, thầy bói, sứ uỷ có liên quan đến bốc quẻ và ngoại giao. Các thầy bói đeo mặt nạ, mặc áo lễ đang vây lại mỗi lúc một đông bên những vết nứt của mai rùa, xương thú bàn tán, phán xét.

Hạ Cơ cảm thấy tim mình đập thình thịch, dường như sắp bắn ra khỏi lồng ngực. Bà cảm thấy phía trước như có một làn sương mù bao phủ. Vị thầy bói đang ngồi trước bàn thờ lắc la lắc lư kia không phải là vị thầy bói hôm qua. Định thần lại, bà cảm thấy chính là ông ta. Bà buồn cười vì mình quá lo sợ mà nhìn ra như vậy.

Ánh lửa chiếu vào những người ngồi xung quanh đã nhạt đi, những vết nứt trên mai rùa xương thú càng rõ, càng tỉ mỉ. Kết quả chiêm bốc lập tức được công bố.

Thầy bói bỏ mặt nạ xuống và bắt đầu tiên đoán về những vết nứt kỳ quặc trên các mai rùa, xương thú.

Vào cái khoảnh khắc mà thầy bói bỏ mặt nạ ra, Hạ Cơ ngạc nhiên há hốc mồm, đó đâu phải là viên thầy bói cỏ thi mà là một gã gieo quẻ lạ hoắc. Hạ Cơ như vướng vào một mớ bòng bong, lơ mơ không hiểu: thế này là thế nào? Người đàn bà đáng thương ở chốn hậu cung này đâu có hay, chút ân huệ mà bà giành cho viên thầy bói cỏ thi ấy, nếu đem so với "chiêu" của những kẻ đã lão luyện ngón nghề đấu đá ở chốn cung đình như Phạm Thư và Đỗ Thương thì chỉ như trứng đem chọi với đá mà thôi. Ngay khi An Quốc quân tuyên bố việc chọn ai đi Hàm Đan làm con tin sẽ nhờ gieo bói cỏ thi quyết định, Phạm Thư đã nhắm ngay tới viên thầy bói ấy. Tối hôm ấy, khi Hạ Cơ đến điện thờ nhờ viên thầy bói, nhất cử nhất động, từng câu từng lời của hai người đã được một kẻ báo lại cho Phạm Thư không sót một chi tiết nhỏ. Sau đó, Phạm Thư sai hai thích khách bịt mặt, trói viên thầy bói đó lại đưa đến giam ở một hang núi thành Hàm Dương. Doanh Trụ thấy viên thầy bói mất tích liền sai Phạm Thư tìm một viên thầy bói khác để chủ trì nghi lễ vào ngày mai. Phạm Thư tìm về một thầy bói có thể hành sự theo ý mình và căn dặn hắn những điều cần nói, những việc cần làm.

Những việc này đối với Hạ Cơ vĩnh viễn là một điều bí mật không thể lường tới.

Viên thầy bói đằng hắng rồi cao giọng tuyên bố: "Dị Nhân là con tin!"

Nghe câu nói ấy, Hạ Cơ cảm thấy đau như xé ruột, ngất đi. Đám đông quần thần sau mấy giây lặng người giờ ồn ã những tiếng tranh cãi.

Viên thầy bói nhắc lại: "Dị Nhân là con tin!"

Hạ Cơ cảm thấy trời đấy xoay chuyển. Được Dị Nhân và Chu Kiệm dìu về tẩm cung. Sau một lát hồi tỉnh, Hạ Cơ nức nở than rằng: "Vũ An quân Bạch Khởi lại đang đi cầm quân, cả thành Hàm Dương này không có lấy nổi một ai giúp ta định đoạt cơ sự!"

Chu Kiệm nói: "Việc này còn mong định đoạt được gì nữa, vương mệnh như sơn, công tử Dị Nhân chỉ còn cách sang Triệu làm con tin thôi".

Dị Nhân giọng đầy căm giận: "Thế ta không đi thì sao?"

Chu Kiệm nói: "Điều này mà còn phải hỏi sao, nặng thì bị chém, nhẹ thì bị giáng xuống làm thứ dân".

Hạ Cơ và Dị Nhân đều lặng thinh không đáp. Lát sau một vị quan đại thần của Chiêu Tương vương đến công bố chiếu lệnh của Quốc vương: "Đại vương có lệnh, Tần vương Tôn Dị Nhân sáng sớm mai lên đường sang Triệu, tối nay đến Trương Đài cung dự tiệc đưa tiễn".

Viên quan đi rồi, Dị Nhân nói: "Bữa tiệc tối nay ta cũng chẳng muốn đi nữa".

Hạ Cơ nói: "Con không đi là kháng mệnh bất kính".

Chu Kiệm cũng nói: "Mẫu hậu nói rất phải. Công tử phải đi".

Hạ Cơ rằng: "Dị Nhân con ta, xem ra con phải đi rồi. Mẹ không thể cùng con tới Chương Đài cung uống rượu, mẹ sẽ ở nhà thu xếp tư trang cho con!"

Dị Nhân nói: "Vội gì cơ chứ!"

Chu Kiệm nói: "Thái tử phi đại nhân, từ khi đại thần được Vũ An quân sai tới đây, Thái tử phi và công tử đối đãi không bạc, bề tôi nguyện tri ân báo đáp. Công tử đại nhân cất bước tha hương, lành dữ khó lường, họa phúc đâu biết, một mình quạnh quẽ, vắng bóng người thân, công tử cần có một người bạn, dám xin Thái tử phi cho kẻ hạ thần này được làm tên đánh ngựa hầu hạ công tử đến Hàm Đan".

Hạ Cơ nghe Chu Kiệm nói mà trong lòng vô cùng xúc động.

Hạ Cơ cho Chu Kiệm về nhà từ biệt cha mẹ.

Dị Nhân bước ra từ Chương Đài cung, khoát tay gạt hai tên thái giám đang đỡ hai bên, liêu xiêu đi về. Bước vào phòng, nhìn thấy Hạ Cơ liền nói: "Mẫu hậu, nhi thần uống hơi nhiều! Quả là một lũ người không ra người, đầu to bụng phệ, hả hê với nỗi đau khổ của người khác! Đợi sau này nhi thần xưng vương, sẽ phanh thây xẻ thịt chúng ra, cho chúng không có chân mà đi, cho chúng chỉ là những bộ xương, những hũ mắm!"

Hạ Cơ thấy Dị Nhân đã say vội sai cung nữ dìu công tử về giường. Dị Nhân vừa đặt lưng xuống đã ngủ thiếp đi...

Khi Dị Nhân mở mắt ra đã thấy mình đang nằm trên chiếc xe ngựa do Chu Kiệm cầm cương. Trên xe có chất rương hòm, dao kiếm và cờ tiết. Trời cao đất rộng, chung quanh là một không gian hoang dã mênh mông. Mặt trời chiếu những tia nắng chói chang xuống con đường quanh co uốn khúc. Ngồi phía trước là Chu Kiệm, tay vung dây cương, phong thái thanh nhàn. Dị Nhân chợt giật mình, giọng rung lên theo tiếng lắc lư của xe: "Đây là đâu?"

Chu Kiệm đáp: "Chúng ta đang ở con đường lớn giữa Hàm Dương và Hàm Đan".

Dị Nhân lại hỏi: "Nói vậy nghĩa là sáng nay các ngươi đã khiêng ta lên xe hay sao?"

Chu Kiệm đáp: "Đại vương có lệnh sáng sớm phải lên đường, không được chần chừ".

Dị Nhân từ trên xe nhảy xuống, ghìm cương ngựa lại nói: "Chu Kiệm, ngươi đưa ta đến ẩn náu ở phong ấp của An Vũ quân, bọn chúng sẽ không tìm thấy ta! Ai muốn đến Hàm Đan thì đến!"

Chu Kiệm dừng xe an ủi: "Chứa chấp kẻ kháng chỉ tội cũng nặng như vậy, liệu Vũ An quân dám chăng? Nếu không đến Hàm Đan làm con tin hậu quả nghiêm trọng như thế nào, hạ thần đã nhiều lần thưa cùng công tử, nhẹ thì phế truất làm dân thường, nặng thì bị sát thân diệt tộc. Nếu đến Hàm Đan làm con tin, chịu qua được sóng gió này, chí ít công tử cũng còn có thể quay lại thành Hàm Dương, vẫn là Tần vương tôn. Nếu kịp chuyển mình theo thời thế, còn có thể được thăng tước thăng vị. Một bên là thân bại danh liệt, đại họa trước mắt, một bên là khổ tận cam lai, tiền đồ sáng lạn, đi theo hướng nào công tử hãy tự mình lựa chọn!"

Chu Kiệm nói thêm: "Đến nước Triệu rồi, chúng ta phải biết nắm lấy thời cơ. "Kinh Thi-Tiểu Nhã" đã nói: Trăm con sông nước cuộn sục sôi, ngàn vách đã cheo leo hiểm trở; vách cao thì tạo nên vực sâu, vực sâu thì lại có núi non. Thủy vô định hình, nhân vô định thế! Lợi hại là ở chỗ biết nắm bắt thiên thời địa lợi nhân hòa mà vận dụng cho mình".

Dị Nhân lên xe, Chu Kiệm lại cho xe xuất phát hướng tới Hàm Đan xa xôi. Dị Nhân đã thấy lòng thanh thản đôi chút liền nói với Chu Kiệm: "Kể chuyện gì nghe đi, đi đường dài buồn quá".

Chu Kiệm đáp: "Xin vâng, chúng ta đang trên đường sang Triệu, vậy kẻ hạ thần xin kể cho công tử nghe chuyện một con tin ở nước Triệu".

Hồi ấy, sau khi Triệu Huệ Văn vương băng hà chưa được bao lâu, Triệu Hiếu Thành vương mới đăng cơ, tuổi còn nhỏ, chưa rành thế sự, việc triều đình nước Triệu do một tay Triệu thái hậu nắm giữ. Nước Tần chúng ta thấy đây là một cơ hội, Chiêu Tương vương liền liên minh với nước Yến đánh nước Triệu. Triệu thái hậu nhận thấy Triệu quốc thế đơn lực mỏng, không thể chống chọi với liên minh Yến Tần nên cầu viện nước Tề. Tề vương đồng ý xuất binh nhưng có một yêu cầu rất khắc nghiệt, đó là con trai nhỏ của Triệu thái hậu là Trường An quân phải sang nước Tề làm con tin.

Trường An quân là bảo bối tâm can của Triệu thái hậu, được Thái hậu nhất mực thương yêu, Thái hậu dĩ nhiên không cho công tử sang Tề quốc làm con tin. Nguy cơ liên quan Tần Yến tấn công nước Triệu ngày càng nguy ngập, nước Triệu đã rơi vào tình thế cấp bách sinh tử tồn vong. Các văn võ bá quan thay nhau khuyên can Triệu thái hậu, hãy để Trường An quân sang nước Tề làm con tin, Tề quốc sẽ xuất binh sang cứu viện nước Triệu.

Triệu thái hậu không đồng ý, còn cao giọng tuyên bố: "Ai dám tiếp tục đến khuyên ta để Trường An quân đi làm con tin, ta sẽ nhổ vào mặt kẻ đó!"

Thấy Thái hậu bảo thủ cố chấp như vậy, quần thần khiếp sợ không dám manh động nữa. Lần này có một viên quan tên Xúc Long, thấy quốc sự nguy cấp mà lòng đem lo lắng, quyết tâm sẽ đến khuyên can Triệu thái hậu. Người nhà đều khuyên ông đừng đi, có đi cũng chỉ chút lấy bẽ bàng, không cẩn thận thì giơ mặt cho Thái hậu phỉ nhổ.

Xúc Long nói: "Ta tự có cách chuyển Thái hậu". Triệu thái hậu đoán Xúc Long cũng chỉ đến vì việc đó nên nổi giận đùng đùng, cố ý chờ đợi. Xúc Long vào cung bộ dạng cung kính, khoan thai đến trước mắt Thái hậu tạ tội mà rằng: "Chân lão thần bị đau, không đi nhanh được. Lâu lắm rồi không vào yết kiến Thái hậu, biết mình có tội mà cũng chỉ tự dám nương tội cho mình. Có điều lòng hạ thần luôn lo lắng về sức khỏe cho Thái hậu, không hay Thái hậu có được an khang, nên hôm nay muốn đến vấn an Thái hậu".

Triệu thái hậu trả lời: "Ta ngồi xe thì được, đi bộ thì không nổi".

Xúc Long lại hỏi: "Thế Thái hậu dùng bữa có được ngon miệng không?"

Thái hậu đáp: "Ta chỉ ăn cháo được thôi".

Xúc Long liền tiếp lời, tâu với Thái hậu dăm ba điều dưỡng sinh: "Trước đây lão thần cũng khẩu vị không tốt, ăn không ngon miệng, sau đó đã tự ép mình phải đi bộ luyện tập, mỗi ngày kiên trì đi vài dặm, ăn dần dần thấy ngon hơn, cơ thể cũng thấy dễ chịu hơn".

Triệu thái hậu thấy Xúc Long không đả động đến chuyện Trường An quân, sắc mặt đã tươi vui trở lại nói: "Ta đâu thể đi xa được thế".

Xúc Long đáp: "Lão thần có một đứa con trai, tên gọi Thư Kỳ, văn võ kém cỏi, thần thương yêu nó nhất, giờ thần tuổi đã cao, xin Thái hậu khai ân cho nó làm chức vệ sĩ áo đen để bảo vệ vương cung".

Triệu thái hậu rất nể mặt Xúc Long, đồng ý ngay rồi hỏi: "Thế con trai ngươi bao nhiêu tuổi rồi?"

Xúc Long đáp: "Mười lăm tuổi rồi, dẫu nó còn hơi nhỏ tuổi một chút nhưng thần vẫn mong Thái hậu sẽ tiếp nhận nó trước khi nó được làm vệ sĩ, được như vậy lão thần dẫu có chết cũng không hối tiếc".

Triệu thái hậu giễu cợt hỏi lại: "Bọn đàn ông các ngươi mà cũng yêu con trai mình thế sao?"

Xúc Long cũng đáp lại không kém: "Bọn đàn ông chúng thần còn yêu con trai mình hơn cả mẹ chúng".

Triệu thái hậu cười nói: "Đã nói đến chuyện yêu thương con trai, thì đàn bà bọn ta phải hơn bọn đàn ông các ngươi".

Xúc Long nói: "Cũng chưa hẳn là như vậy. Lão thần thấy Thái hậu yêu Yến hậu còn hơn cả Trường An quân"

Thái hậu phản bác: "Người nhầm rồi, ta yêu nhất vẫn là Trường An quân con trai ta!"

Xúc Long làm bộ nói: "Cha mẹ yêu thương con cái thì phải nhìn xa trông rộng cho chúng. Còn nhớ khi Yến hậu xuất giá, công chúa lên xe rồi mà Thái hậu còn níu chân công chúa mà khóc, cứ nghĩ đến việc gả con tới nơi xa xôi là trong lòng lại buồn đau. Công chúa đi rồi, Thái hậu ngày đêm thương nhớ, tâm tư vấn vương, chẳng phải Thái hậu rất nhớ công chúa sao? Nhưng cứ mỗi khi cúng tế thì Thái hậu vẫn khấn cho công chúa rằng, đừng bao giờ công chúa phải quay trở lại! Thế chẳng phải Thái hậu đã nghĩ tới chuyện lâu dài cho công chúa đó sao, chẳng phải người sợ công chúa phạm vào điều gì thất thố mà bị người ta đuổi về hay sao? Thế chẳng phải Thái hậu mong công chúa sẽ con đàn cháu đống để thay nhau kế nghiệp quân chủ nước Yến sao?"

Triệu thái hậu giọng quả quyết: "Đúng như vậy! Quả là ý ta".

Xúc Long lại nói: "Thái hậu thử nghĩ xem. Từ ba đời trước cho tới nay, con cháu Triệu vương tại vị xưng hầu có được ai không?" "Không có!" "Chẳng riêng nước Triệu, các nước chưa hầu khác cũng đang tính, liệu có còn có ai có thể duy trì gia tộc địa vị quý tộc ba đời không?" "Cũng không có!"

Xúc Long nhận thấy những điều mình nói đã thuyết phục được Thái hậu, liền khảng khái nói liền một mạch: "Đây gọi là bản thân mình chịu họa trước mắt, con cháu mịnh chịu di họa sau này. Phàm là kẻ có chút địa vị đều tham vọng con cháu hậu duệ củng cố địa vị ấy. Ấy vậy mà tại làm sao không có ít con cháu các bậc quân vương đều không thể giữ vững địa vị do tổ tiên để lại? Lẽ nào đều do những kẻ hậu thế đều tài hèn sức mọn hay sao? Kỳ thực cũng đâu phải chỉ có vậy, mà là, địa vị tôn quý mà công lao không có, bổng lộc sung mãn mà thành tích thì không. Có địa vị tối cao, được đãi ngộ hậu hĩnh, lại gánh vác trọng trách về sự tồn vong của nước nhà, vậy nên nếu không có một chút công trạng nhỏ nhoi thì liệu có thể tồn tại được lâu không?"

Triệu thái hậu gật đầu đồng ý

Xúc Long nói tiếp: "Giờ đây Thái hậu đã phong Trường An quân tước vị tối cao, lại ban cho Thái tử đất đai màu mỡ, còn chưa để Thái tử nắm giữ triều chính, nhưng lại không cho Thái tử một cơ hội lập công với Triệu quốc. Ngộ nhỡ khi Thái hậu trăm tuổi, Trường An quân Thái tử không chút công lao, không chút nghiệp tích, vậy sẽ đâu có chỗ dựa để bảo trì cho địa vị của mình? Bởi vậy cho nên lão thần mới thấy Thái hậu đối với Trường An quân không có được con mắt nhìn xa trông rộng như đối với Yến Hậu, yêu nam tử có phần kém nữ nhi!"

Lúc này Triệu thái hậu đã hoàn toàn tỉnh ngộ. Thế là Thái hậu cho lệnh cho 100 cỗ xe đưa Trường An quân tới nước Tề làm con tin, nước Tề liền xuất binh ứng cứu. Và liên quân Tần Yến sau khi đã tiến đánh ba thành ấp, giờ đã phải rút quân khỏi nước Triệu.

Nghe xong câu chuyện, Dị Nhân thật lòng mà rằng: "Chu Kiệm, câu chuyện Xúc Long khiến Triệu thái hậu hồi tâm chuyển ý cũng làm động lòng người, khích lệ ta. Giờ ta đã không còn cảm thấy sợ hãi và bi quan quá mức chuyện đến Triệu làm con tin nữa".

Khi những tia nắng bình minh còn đang náu mình yên ắng trong những bụi cỏ khẽ lay động bởi cơn gió cuối hạ, chiếc xe ngựa của Dị Nhân cuối cùng cũng đã lăn bánh vào mảnh đất nước Triệu. Màn đêm bao la giờ đã lùi hẳn về phía sau, vả cả thế gian sáng bừng lên theo những tia nắng bình minh từ những bụi cỏ. Hai bên đường có rất nhiều bờ sông, bờ ao, nơi những vì sao cuối cùng đang sắp tắt hẳn. Từng lớp sương mù đang dần tan loãng ra trên những cánh đồng, thửa ruộng trước buổi ban mai.

Qua màn sương mù, thấp thoáng xa xa một thành ấp nhỏ. Dị Nhân lên tiếng: "Đã bao ngày rong ruổi trên đường rồi, ta và ngươi lâu nay chỉ biết ăn gió nằm sương, thức ăn là cây, nhà là đệm cỏ, đợi lát nữa vào thành rồi, phải tìm một lữ điếm hảo hạng mà ăn một bữa, ngủ một giấc cho thỏa lòng thỏa dạ".

Chu Kiệm nói: "Công tử Dị Nhân, mới đến nước Triệu, tình hình còn chưa rõ hay dở như thế nào. Vì sự an toàn của công tử, xin công tử hãy lên xe ngồi vào chỗ hạ thần, để hạ thần vào trong xe ngồi cầm cờ tiết".

Cờ tiết là một vật trang sức nhỏ, chứng tỏ danh phận của kẻ cầm nó. Xe vừa vào trong thành, Dị Nhân đã nhìn thấy ngay một lữ điếm cờ xí bay rợp, hai người liền đánh ngựa rẽ vào. Chủ nhà dẫn cả hai vào một gian phòng sạch sẽ yên tĩnh. Chu Kiệm và Dị Nhân vội vã rửa chân tay và chuyển các rương hòm trên xe vào phòng. Dị Nhân, Chu Kiệm tay cầm cờ tiết và đao kiếm cảm thấy hơi ngập ngừng giữa thành trì nhỏ xa lạ không lấy gì làm phồn hoa này. Dẫu vậy, một quán rượu rất rộng ngay trước cửa lữ điếm vẫn khiến cả hai bụng đói cồn cào hơn.

Dị Nhân và Chu Kiệm bước vào, gọi một bàn đầy thức ăn và cơm, rượu. Dị Nhân nói, đây là lần đầu tiên họ có một bữa ăn thực sự suốt mười mấy ngày qua. Dị Nhân và Chu Kiệm, từng bát rượu đầy, lần lượt uống cạn.

Tấm cờ tiết mà họ đặt trên bàn đã thu hút sự chú ý của một khách ăn trong quán. Vị khách ăn này cũng ăn mặc theo kiểu người nước Tần, gương mặt hồng hào, đôi mắt ánh lên vẻ nhanh nhẹn. Người này chính là môn khách của Lã Bất Vi, tên gọi Dương Tử, cũng vừa từ Hàm Dương trở về. Lã Bất Vi phát một số môn khách đến kinh đô của các nước chư hầu lớn để thu thập tình hình kinh tế chính trị đồng thời với việc buôn bán, tiện cho Lã Bất Vi nắm bắt động thái các bên, cao tay phát triển công việc buôn bán của mình.

Nghe tiếng Dị Nhân gọi chủ quán mang rượu thịt tới, Dương Tử đoán ngay họ không phải là người ở đây, song cũng hoàn toàn không ngờ rằng đây là một Tần vương tôn đại danh lẫy lừng.

Một lát sau, Dương Tử tiến lại hỏi: "Hai vị đây không phải là người nước Triệu đúng không?"

Dị Nhân và Chu Kiệm e ngại sinh chuyện phiền phức vội cùng đồng thanh đáp gọn: "Đúng"

Dương Tử xoa xoa tay lên lá cờ tiết không muốn rời tay, hỏi: "Nhị vị công tử, các vị nhất định là vương công quý khách của nước chư hầu nào đó!"

Chu Kiệm thề thốt: "Không, chúng tôi là thương nhân nước Tần"

Dương Tử tự đắc ý, nói: "Thương nhân? Tôi không tin. Chỉ có hoàng thân quốc thích mới có thể cầm cờ tiết chu du thiên hạ"

Chu Kiệm giấu diếm nói: "Đây là chúng tôi mua lại từ một vị quan to ở Hàm Dương, chuẩn bị tới buôn bán ở Hàm Đan"

Nghe Chu Kiệm nói vậy, Dương Tử rất vui. Mỗi lần ra ngoài mua đồ cho Lã Bất Vi, Lã Bất Vi đều không chú ý, lá cờ tiết màu sắc đẹp đẽ, cán nhẵn này mà mang về thành Hàm Đan, nhất định Lã Bất Vi sẽ rất thích. Nghĩ đến đây, Dương Tử hỏi: "Xin hỏi các vị công tử, lá cờ này bán bao nhiêu tiền?"

Chu Kiệm trả lời: "Một nghìn đồng"

Dương Tử đáp: "Tôi mua"

Quân tử nhất ngôn, bốn ngựa khó đuổi. Chu Kiệm và Dị Nhân sau khi đưa mắt nhìn nhau, ngấm ngầm gật đầu với nhau: bán đi.

Dương Tử mua được cờ tiết, vui mừng ra khỏi quán rượu. Anh ta ngẩng đầu nhìn, mặt trời đã treo trên đỉnh đầu. Vị môn khách trẻ tuổi này tiếp tục cuộc hành trình. Túi hàng không nặng lắm được đeo sau gáy, tay cầm cờ tiết, một cảm giác phong lưu tôn quý cứ thế nảy sinh.

Ấp thành rất nhỏ, chẳng mấy chốc đã bị Dương Tử bỏ lại sau. Phía trước là một cánh rừng rậm rạp. Con đường nhỏ này, Dương Tử không hề xa lạ.

Anh biết, qua cánh rừng này, đi tiếp khoảng mười dặm nữa sẽ đến tòa thành, con đường nhỏ này bị những cành lá xanh phủ đầy, nhấc chân lên bị những cành lá mắc vào chân. Giữa lúc ấy, Dương Tử bị vướng lảo đảo. Anh ta bực tức chửi đổng một câu: "Cái cành cây đáng chết này!" "Không phải cây đâu, người đấy!" Một kẻ náu sau một bụi rậm bỗng lao ra, khiến Dương Tử hồn siêu phách lạc.

Tay này cao to, tay cầm con dao sáng lạnh toát, sau lưng đeo một cái rọ có vài con rắn thò đầu ra.

Dương Tử run lẩy bẩy như chiếc lá bị quật đi quật lại trong gió nói: "Tôi không có tiền". Người kia cười vẻ lạnh nhạt: "Chẳng lẽ Tần vương tôn nhà các ngươi lại không có tiền!" Dương Tử quay đầu lại hỏi: "Tần vương tôn? Tần vương tôn nào?"

Người kia nói: "Ngươi không cần giả ngây giả ngô nữa, ngươi chính là Dị Nhân, cháu của Chiêu Tương vương đến Hàm Đan làm con tin!"

Dương Tử nói: "Ông khách hào phóng ơi, ông nhận lầm người rồi, tôi đúng không phải là Dị Nhân công tử của nước Tần!"

Người kia vung dao lên và nói: "Ngươi sắp chết rồi mà còn định giở trò lừa bịp ta ư? Công tử nước Tần là Tử Hề đã nói rõ cho ta biết, người mà trong tay cầm cờ tiết, đi trên con đường này đến thành Hàm Đan thì chính là Dị Nhân!"

Dương Tử nói: "Lá cờ này là do ta mua lại từ tay một vị công tử!"

Người kia hỏi: "Vậy thì ngươi không phải là Dị Nhân?"

Dương Tử trả lời: "Không phải"

Người kia bán tín bán nghi hỏi: "Ngươi không phải là Dị Nhân thì là ai?"

Dương Tử trả lời: "Là Dương Tử, môn khách trong thành Hàm Đan"

Người kia quyết chí đến cùng: "Môn khách? Chủ nhân của ngươi là ai?"

Dương Tử trả lời: "Lã Bất Vi"

Con dao trong tay người kia lập tứ rơi xuống đất, người đó lẩm bẩm "Lã Bất Vi?"

Dương Tử hỏi: "Sao, anh cũng biết ông ấy?"

Thực ra người mà chặn đường dùng dao đe dọa Dị Nhân trên chính là Hoàng Phủ Nghĩa. Phạm Tuy, Tử Hề, những người bạn đó đã đi dò la khắp nơi để tìm thích khách, họ gặp Hoàng Phủ Nghĩa, người chuyên dùng rắn để biểu diễn ở thành đô của nước Vệ, bọn họ biết Hoàng Phủ Nghĩa là người võ nghệ cao cường, là người có bản lĩnh, liền mời anh ta đến phủ Tướng quốc ở Hàm Dương, dùng tiền mua chuộc anh ta giết Dị Nhân. Lúc đầu Hoàng Phủ Nghĩa không đồng ý, Tử Hề nói giết Dị Nhân để hắn lên làm Thái tử thống lĩnh quân đội tiến vào thành Bộc Dương giết Vệ Nguyên quân, lúc này Hoàng Phủ Nghĩa mới đồng ý làm hiệp khách thích sát Dị Nhân. Lúc rời khỏi thành Hàm Dương, Tử Hề cho Hoàng Phủ Nghĩa biết, Dị Nhân công tử trong tay cầm cờ tiết. Nhưng Hoàng Phủ Nghĩa không hề nghĩ rằng mình nhận nhầm Dương Tử là Dị Nhân. Anh ta nghe Dương Tử là môn khách của Lã Bất Vi, chợt anh cảm thấy rất nhớ người bạn kể từ khi từ biệt đến nay mười mấy năm chưa gặp, và muốn cùng Dương Tử đến Hàm Đan bái kiến Phú Thương. Nhưng chợt nhớ đến sự uỷ thác của Phạm Thư và Tử Hề, anh vẫn chưa lần ra tung tích của Dị Nhân mà đã đến Hàm Đan gặp bạn bè thì không xứng là một đại trượng phu.

Dương Tử thấy rằng vừa nói đến Lã Bất Vi mà thái độ của người này đã thay đổi khác thường, liền tiếp tục miêu tả khuếch đại Lã Bất Vi phát tài giàu có như thế nào.

Hoàng Phủ Nghĩa quyết định trước hết trở về đi tìm Dị Nhân, anh bèn hỏi Dương Tử địa chỉ của quán rượu vừa rồi và dung mạo của Dị Nhân.

Dương Tử miễn cưỡng trả lời: "Quán rượu đó nằm ngay giữa phố, nhưng còn hai vị công tử đó tôi cũng không biết ai là Dị Nhân! Dù sao một người có đôi mắt sáng, còn người kia hai mắt lồi ra như mắt cá vàng. Còn nữa, hai người này có chiều cao không bằng nhau". Hoàng Phủ Nghĩa chắp tay cúi chào Dương Tử và nói: "Rất xin lỗi đã kinh động đến công tử. Tôi và Lã Bất Vi năm xưa đã từng là bạn của nhau, hiện giờ chịu uỷ thác của người khác, trượng nghĩa hành hiệp, không thể chối bỏ. Xin hãy về nói với chủ nhân của anh rằng, một ngày gần đây tôi sẽ đến Hàm Đan để thăm ông ấy".

Dương Tử nói: "Dám hỏi tôn tính đại danh của hiệp khách?"

Hoàng Phủ Nghĩa trả lời: "Người biểu diễn rắn giang hồ". Hoàng Phủ Nghĩa quay lại quán rượu trong thành, bằng ánh mắt của mình hòng tìm ra hai người có bộ dạng giống như Dương Tử miêu tả trong đám thực khách trong quán. Anh liếc mắt qua một lượt nhưng không phát hiện ra ai là người mà anh muốn tìm.

Trong thành ấp bé nhỏ này không có đến mấy quán rượu, nhà trọ, Hoàng Phủ Nghĩa đã bị Dương Tử lừa rồi, anh ta không nhìn thấy ai có đôi mắt sáng hay đôi mắt lồi ra như mắt cá vàng. Anh ta đành phải đến một con đường nhỏ trong rừng nơi mà anh vừa gặp Dương Tử để ngồi đợi.

Hoàng Phủ Nghĩa đã bỏ sót chi tiết Dị Nhân và Chu Kiệm cùng đi trên xe. Đúng lúc Hoàng Phủ Nghĩa dò xét ở dịch quán thì Dị Nhân và Chu Kiệm đang khoan thai đi ngắm hoa ở hai bên đường.

Hoàng Phủ Nghĩa khổ sở ngồi đợi tại một con đường nhỏ trong rừng, nhưng xe ngựa của Dị Nhân và Chu Kiệm lại khởi hành từ một con đường lớn đến thành Hàm Đan.

Hoàng Phủ Nghĩa giờ đây chỉ biết làm bạn với mấy chú rắn và qua đêm một cách phấp phỏng lo âu trên con đường trong rừng này. Sau tất cả những sự việc xảy ra, Hoàng Phủ Nghĩa không tìm được chút gì về manh mối của Dị Nhân, anh đành tự nhủ: "Chỉ có thể đến thành Hàm Đan mới tìm thấy".

Xem tiếp Chương 6 Tùng Đài phong úy

Hàn Diệu Kỳ

Chương 6 Tùng Đài phong úy

Triệu Hiếu Thành vương trong sự tưởng tượng của Dị Nhân và Triệu Hiếu Thành trên thực tế khác nhau rất nhiều. Dị Nhân đã từng nghe ông mình là Chiêu Tương vương kể, sau khi Triệu Huệ Văn vương chết đi, Triệu Hiếu Thành vương kế thừa cơ nghiệp tiên tổ, nam chinh bắc chiến, vũ dũng hơn người, hùng tài đại lược, trị quốc hữu phương. Trong số bảy nước là Tề, Sở, Yên, Hán, Triệu, Ngụy và nước Tần, ngoài nước Tần ra nước Triệu được coi là có thế lực lớn mạnh nhất. Như vậy, trong con mắt của Dị Nhân đã hình thành nên một vị vua có tướng mạo đường đường cao ngạo.

Nhưng khi Dị Nhân và Chu Kiệm đến Hàm Đan vào chầu vị quốc quân này, thì nhìn thấy một người gày gò yếu đuối thấp bé như một đứa trẻ mới lớn. Khuôn mặt bị che bởi chiếc mũ đế vương hầu như không còn một chút sinh khí. Nhưng điều khiến Dị Nhân có "ấn tượng" nhất là những chiếc râu lưa thưa mà người đó đang đeo.

Triệu Hiếu Thành vương nói trong hơi thở thều thào: "Dị Nhân công tử, trên đường đi thật vất vả!"

Dị Nhân cúi mình trả lời: "Đa tạ sự quan tâm của Đại vương. Ông nội thần là Chiêu Tương vương và bố thần là An Quốc quân gửi lời hỏi thăm Đại vương!".

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Ta và Chiêu Tương vương giao tình đã lâu, công tử đến đây không cần phải đa lễ. Hai người chủ tớ các ngươi xa rời quê hương, e rằng phải chịu nhiều cô tủi, ta ban cho các người một tên hầu để mà sai bảo".

Triệu Hiếu Thành vương vừa nói hết câu, từ trong trướng bước ra một người có thân hình cao to vạm vỡ, người này bước ra trước mặt Dị Nhân cúi chào lễ phép, nói: "Tại hạ là Công Tôn Càn, nguyện đi theo công tử, nghe theo sự sai bảo của công tử!".

Dị Nhân và Chu Kiệm đều hiểu rõ từ giờ trở đi bên cạnh họ sẽ luôn có một người theo sát. Đó là người do Triệu Hiếu Thành vương phái đến.

Sau khi tiếp kiến, Công Tôn Càn đưa Dị Nhân và Chu Kiệm đến ở một thôn nhỏ. Cư dân ở đây chủ yếu là người nghèo với đủ hạng người trong xã hội: sĩ, nông, công, thương. Đường đất thì khúc khuỷu quanh co, mùi nước bẩn và nước gạo do dân hắt ra, dính kết cáu bẩn trên đường, không khỏi làm cho người ta có cảm giác buồn nôn.

Dị Nhân nhìn thấy hai căn buồng của mình và Chu Kiệm, đồ đạc bày biện đơn sơ, trên góc tường có mấy con nhện đang giăng tơ. Điều này làm anh ta sực nhớ đến cảnh màn che trướng rủ huy hoàng ở Hàm Dương. Trên khuôn mặt lộ rõ sự chua xót.

Nơi đây không xa so với tùng đài của Triệu Hiếu Thành vương. Đó là nơi lầu ngọc, gác tía, vườn uyển. Ánh sáng tỏa ra bao trùm cảnh vật xung quanh.

Thêm vào đó tiếng đàn hát của các nhạc công và vũ nữ lại vang rất xa. Dị Nhân nhìn thấy sự nguy nga tráng lệ, giàu sang đó, trong lòng như có tảng đá đè nặng, vô cùng khó chịu.

Dị Nhân nhìn rất lâu về phí tùng đài, một cơn gió lạnh thổi qua làm anh ta trở nên trầm mặc...

* * * * *

Lã Bất Vi dửng dưng đối với tin tức của Dương Tử khiến Dương Tử cảm thấy vô cùng khó nghĩ. Dương Tử vốn có ý muốn khoa trương việc bạn của Lã Bất Vi và Tần vương tôn đến Hàm Đan để làm Lã Bất Vi ngạc nhiên. Nếu là trước kia thể nào Lã Bất Vi cũng sẽ rất quan tâm. Nhưng hôm nay sau khi nghe Dương Tử thuật lại, lòng như không để ý, chỉ nói vài tiếng "Hãy đi sắp xếp chỗ nghỉ đi".

Dương Tử đi hỏi mấy người tôi tớ vì sao Lã tiên sinh lại có tâm trạng không vui như vậy. Họ đều lắc đầu nói không biết. Dương Tử lại đi hỏi các môn khách, đa số họ đều nói không rõ. Chỉ có vài người biết. Lã Bất Vi không vui vì chuyện mua bán lương thực với Triệu Khôi Tử, chỉ sợ nếu hàng lọt vào tay quan phủ thì mình sẽ bị kết tội đồng đảng với Triệu Khôi Tử.

Dương Tử nói với mấy người môn khách: "Vậy các vị cứ để Lã tiên sinh u uất buồn rầu vậy sao? Nếu để lâu ngày e sẽ sinh bệnh mất. Các vị phải nghĩ cách gì để Lã tiên sinh giải sầu đi?"

Trong môn khách có một người rất chăm chú lắng nghe những lời của Dương Tử. Đó là Tư Không Mã. Người này rất giỏi về kiếm thuật và quyền thuật. Từ khi trở thành môn hạ của Lã Bất Vi vẫn chưa được chủ nhân chú ý đến, vì vậy cuộc sống trôi qua rất tẻ nhạt. Tựa như anh hùng không có đất dụng võ. Mặc dù chủ nhân không sai bảo làm những việc như đốt nhà cướp của hay xông pha nơi hiểm nguy nhưng trong lòng người ấy luôn cảm thấy không vui.

Giờ đây những lời nói của Dương Tử như phần nào thức tỉnh Tư Không Mã. Anh ta tự nghĩ phải tìm mọi cách để chủ nhân vui lòng như vậy mới lấy được sự quan tâm chú ý và thiện cảm của chủ nhân. Từ đó tài năng của mình mới được sử dụng. Trong đầu nghĩ ra mọi cách để Lã Bất Vi giải sầu và cuối cùng cũng tìm ra một diệu kế. Anh ta bắt đầu thực hiện để đưa dự định của mình thành hiện thực.

Kỹ viện của Lạc Dương luôn luôn náo nhiệt, bên ngoài nhà được trang trí cầu kỳ, dọc hành lang có treo vài lồng chim, bên trong lồng mấy chú vẹt không ngừng nhảy nhót, khi có người đến lại hót lảnh lót "Có khách! Có khách!". Khách đến kỹ viện đều là các đại thương nhân, vui chơi qua đêm suốt sáng.

Lần đầu tiên Tư Không Mã tới đây, bước chân dường như không theo ý muốn. Suốt dọc hành lang dài, mùi son phấn thoảng ra nồng nàn, tiếng cười đùa, những cái liếc nhìn của các cô gái làm Tư Không Mã trở nên bối rối, cảm thấy cổ họng mình như khát khô, nhịp im cũng đập mạnh hơn.

Người chủ kỹ viện bước lại gần và hỏi: "Công tử muốn tìm người như thế nào?". Tư Không Mã lúc này đã lấy lại được dáng vẻ bình thường, liền trả lời: "Người đó phải là tuyệt đại giai nhân". Người chủ nói: "Nghe khẩu khí của vị công tử này quả thật là không hề thấp". Rồi ông ta dẫn Tư Không Mã bước vào một nơi, gọi là "Lầu Uyên Ương". Ở đấy có một cô gái đang ngồi chải đầu. Người chủ kỹ viện hỏi Tư Không Mã: "Công tử, ngài hài lòng không?". Nhưng chỉ thấy Tư Không Mã lắc đầu.

Người chủ lại dẫn đến một nơi là "Loan Phượng Gác". Ở đó có một cô gái rất xinh, và lại hỏi: "Công tử, cô này thì sao?". Tư Không Mã vẫn chỉ lắc đầu.

Ông ta lại đưa đến nơi có tên là "Ngọc Thành Cư", rồi chỉ cô gái có nhan sắc tuyệt vời và hỏi "Công tử, ngài có vừa ý không?". Tư Không Mã lại lắc đầu.

Ông ta vô cùng ngạc nhiên, nói: "Những cô gái đẹp nhất chỗ tôi đều không làm ngài hài lòng. Vậy e rằng chỗ chúng tôi không thể đáp ứng được yêu cầu của công tử".

Tư Không Mã hỏi ông ta: "Quả thực ở đây không còn ai đẹp hơn nữa sao?".

Ông ta do dự một lúc mới nói: "Không dám giấu công tử, ở đây còn một vị nếu nói về nhan sắc thì quả thật là ngiêng nước nghiêng thành, chỉ e công tử không thể bỏ ra một món tiền lớn như vậy".

Tư Không Mã không ngần ngại nói: "Nếu ta hài lòng thì giá cả chẳng là gì". Ông ta đưa Tư Không Mã đến một nơi, vừa đẩy cửa đã nhìn thấy một tuyệt thế giai nhân. Đúng là chim sa cá lặn, khiến người ta phải mê mẩn.

Ông chủ hỏi Tư Không Mã: "Công tử, vị này thế nào? Có thể gọi là tuyệt thế giai nhân chưa?". Tư Không Mã mãi mới cất lên lời: "Đáng lắm, đáng lắm!". Người chủ lại nói: "Một đêm là mười lạng vàng". Tư Không Mã trả lời: "Không hề đắt, không hế đắt".

Sau khi trở về Lã phủ, Tư Không Mã tự nhủ "Mình đến kỹ viện lần đầu mà đã được gặp một trang quốc sắc thiên hương. Lã tiên sinh dù trong lòng có buồn phiền gì nếu gặp vị cô nương này cũng sẽ quên hết".

Dương Tử nói với mấy vị môn khách: "Tư Không Mã đừng có mà dối trời gạt đất, ở thành Hàm Dương này làm gì có ai đẹp đến mức Lã tiên sinh phải động lòng". Tư Không Mã thì nói có, Dương Tử lại nói không có. Hai bên cứ thế đôi co, lời qua tiếng lại, làm kinh động đến Lã Bất Vi.

Lã Bất Vi truyền hỏi: "Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Vì sao lại ồn ào vậy?".

Tư Không Mã liền đem đầu đuôi câu chuyện kể lại một lượt. Lã Bất Vi nghe xong khẽ mỉm cười nói: "E rằng ở thành Hàm Dương chẳng có người con gái nào làm ta có thể động lòng được!".

Tư Không Mã nói một cách quả quyết: "Lã đại nhân, ngài chỉ cần gặp vị công nương đó, nếu không có một chút động lòng thì ngài phạt tôi điều gì tôi cũng cam chịu".

Mọi người đều nói: "Nếu Lã tiên sinh gặp cô nương đó mà chẳng có chút tình cảm gì thì ngài phải thua mười lạng vàng". Tư Không Mã lại nói: "Nếu Lã đại nhân động lòng thì sao?". Mọi người trả lời: "Vậy chúng tôi sẽ thua ngài mười lạng vàng". Tư Không Mã nhìn Lã Bất Vi rồi nói: "Lã đại nhân, người có dám đánh cược không?".

Mọi người đều tranh nhau nói: "Lã đại nhân đánh cược với hắn ta đi, thua chúng tôi sẽ trả mười lạng vàng".

Cái chuyện này trăm người nói có, vạn người nói không, đã làm cho Lã Bất Vi cảm thấy hứng thú. Ông nghĩ: "Chuyện chơi ấy mà, hà tất phải nghiêm túc. Cứ đi vào phòng điếm thử xem để mở rộng tầm mắt, giải trí một lát".

Dưới sự tiền hô hậu ủng của Tư Không Mã và Dương Tử, Lã Bất Vi đi rất nhanh vào cửa lớn của nhà điếm.

Nhìn thấy tuyệt đại giai nhân, không biết Lã Bất Vi sẽ thế nào? Lạnh nhạt, thờ ơ chăng? Hay là vừa nhìn thấy đã ngưỡng mộ ngay? Trái tim thổn thức chăng? Hay là hồn bay phách lạc? Trong đầu Tư Không Mã vừa đi vừa nghĩ, chẳng mấy chốc Lạc Dương Cốc đã đưa Lã Bất Vi tới trước cửa "Dao Trì Đài", đẩy cửa vén rèm nói: "Tiểu thư, có khách quý tới thăm đây này".

Lã Bất Vi bước vào, những người khác đều ở bên ngoài. Cô gái làng chơi mà Lã Bất Vi vừa nhìn thấy không phải ai khác, chính là Thiên Kim Tiểu Thư Triệu Cơ của Triệu Khôi Tử. Triệu Cơ cũng nhận ra Lã Bất Vi, bèn lao vào lòng ông khóc rưng rức.

Lã Bất Vi hỏi cô vì sao lại đến nông nỗi này, Triệu Cơ nức nở nói với ông, các ngày mà quan phủ tới nhà cô tịch thu tài sản, cô đang nhảy dây chơi đùa ở phía sau vườn hoa. Nhìn thấy đại họa từ đâu ập tới gia đình, cô bèn trèo qua tường phía sau vườn hoa chạy trống, chuẩn bị đến cậy nhờ nhà chú ở dưới quê. Vừa mới tới đó, do cũng bị liên lụy tới bố mẹ nên chú ấy cũng bị thu nhà, không biết đã trốn đi đâu rồi. Triệu Cơ lang thang phiêu bạt. Đúng lúc gặp phải Lạc Dương Cốc về quê để chiêu dụ gái điếm, thấy Triệu Cơ có nhan sắc xinh đẹp, liền kèm ép đưa về đây.

Lã Bất Vi an ủi Triệu Cơ: "Tiểu thư, tất cả đều rất đau thương. Ta và nhĩ phụ là bạn cùng làm ăn buôn bán, không thể nhìn thấy nàng gặp hoạn nạn, ô nhục và không cứu. Ta cần phải chuộc thân cho nàng".

Lã Bất Vi quay người đi ra. Tới cửa ngoài, ông nhìn thấy Lạc Dương Cốc và các môn khách của ông vẫn ngồi yên ở đó thì thầm nói chuyện. Nhìn thấy Lã Bất Vi đi ra, họ cười đùa hỏi: "Sao rồi, đã nếm hàng tươi mát chưa?".

Lã Bất Vi không thèm đếm xỉa gì tới những lời đùa cợt vừa rồi, thẳng thắn hỏi Lạc Dương Cốc: "Người con gái này từ đâu mà tới?".

Lạc Dương Cốc nghênh bộ mặt trắng dã nói: "Tôi nói với Lã đại nhân, chúng ta đến đây là để mua vui tìm khoái lạc, chứ không phải đến để tìm người làm cơ thiếp, hà tất phải hỏi tới gốc gác vậy!".

Lã Bất Vi không cò kè với Lạc Dương Cốc chuyện này, ông hỏi thẳng vào vấn đề: "Bao nhiêu tiền?".

Lạc Dương Cốc vui vẻ nói: "Cô tiểu thư này lần đầu tiên tiếp khách, hoa tươi nước ngọt của hoàng hoa khuê nữ với đào mềm táo nát khiến người ta cảm thấy như là chín rữa thì dư vị không thể giống nhau được, vì vậy giá tiền cũng không thể giống nhau!".

Lã Bất Vi không kỳ kèo, nói: "Hai trăm lượng, thế nào?".

Lạc Dương Cốc cười: "Lã đại thương nhân, ông là người giàu đừng chế giễu chúng tôi phận nghèo!". Tư Không Mã đứng ở bên cạnh đã sớm biết được những suy nghĩ của Lã Bất Vi, anh ta nói: "Lạc Dương tiên sinh, Lã đại nhân nhà chúng tôi không đùa với ông đâu, ý của Lã đại nhân muốn mua vị nữ điếm này về phủ!".

Lã Bất Vi phụ họa nói: "Ý của tôi chính là như vậy, hai trăm lượng nhiều hay ít?".

Lạc Dương Cốc nịnh bợ nói: "Không ít, không ít, thực sự là không ít!".

Triệu Cơ cùng với Lã Bất Vi trở về phủ lúc trời đã gần trưa, cô đi vào từ cửa chính. Bọn người hầu của Lã phủ đang nhặt rau ở trong bếp, thấy Lã Bất Vi đường hoàng dẫn một cô gái mặt hoa da phấn đi vào, họ cho rằng đó là thiếp ông mua về. Khi thấy cô ăn mặc trang điểm xanh, đỏ và trong tay ôm một chiếc đàn thì họ cho rằng là ưu nữ đến phủ để đàn ca nhảy múa. Một lát sau, những người đi cùng Lã Bất Vi đến nhà điếm, mới nói rõ hết mọi chuyện về Triệu Cơ, bọn nha dịch mới biết được đây là một gái điếm được Lã đại nhân bỏ ra hai trăm lượng vàng để chuộc thân. Khi mọi người trên dưới trong phủ ngắm nghía soi mói Triệu Cơ, trong ánh mắt họ đầy sự khinh miệt. Hoàng Phủ Kiều không hiểu nổi dụng ý của chồng, cũng nói: "Trong nhà con gái có đầy ra, sao lại phải đến nhà điếm để vui chơi cơ chứ!".

Khi Triệu Cơ ở nhà, cô như viên minh châu của Triệu Khôi Tử. Cô có thiên tính thích sự náo nhiệt, vô tư, nhất là trong hoàn cảnh sung túc cô lại càng phát huy được thiên tính của mình. Hàng ngày, cô đánh đàn nhảy múa, nhanh nhẹn tháo vát. Có lúc thì xem sách, lúc lại ngâm vài câu thơ. Con gái Hàm Đan trong bảy nước, nổi danh nhẹ nhàng quyến rũ. Vào những ngày đẹp trời, những cô gái đó đong đưa lên phố, từng cô từng cô liếc mắt đưa tình với đàn ông. Thậm chí, có người còn sánh vai sát lưng, phóng đãng hình hài. Tới đêm khuya, trong các nhà quan lại giàu sang, từ trong các cửa sổ biết bao nhiêu lời ong tiếng ve được bay ra. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Triệu Cơ sống trong nhung lụa quần áo trang sức của Hàm Đan cũng đã phủ lên cái thói quen không tốt của rất nhiều bụi phấn và tiền bạc.

Mới đến Lã phủ, Triệu Cơ sống trong sự dèm pha chỉ trích của mọi người, vẫn còn nhiều thứ lạ lẫm và mất tự nhiên. Vài ngày sau những thói quen ở kỹ viện lại trở lại trong cô. Cô mặc những chiếc áo màu sắc diêm dúa, vẽ mi kẹp tóc, cái miệng nhỏ xinh xinh thường ngâm ngợi những đoạn trong Kinh thi. Hàng ngày vào buổi sáng, cô đều dạo một khúc đàn, khúc đàn đó như dòng nước quanh co chảy vào từng ngóc ngách của Lã phủ. Cô chủ động bắt chuyện với mọi người, nhiều lúc còn dốc sức giúp họ làm một số việc. Nhưng các nha dịch và môn khách thường cho rằng, cô gái đến từ nhà điếm, toàn thân đầy bùn nhơ bẩn thỉu, họ sợ sẽ bị lây nhiễm vào họ. Họ diễn tả lại sự nhiệt tình và giả tạo của cô. Không biết những chuyện đó Triệu Cơ quả thực không biết, hay là không để ý tới, mà cô vẫn cứ tỏ ra khinh thường.

Tư Không Mã tỏ vẻ bất bình trước sự đối xử không công bằng đối với Triệu Cơ, anh ta thường nói trước mặt mọi người: "Người ta vừa mới tới đây, từ trước tới giờ chưa từng tiếp khách!". Tư Không Mã rất khâm phục kỹ năng chơi đàn thuần thục của Triệu Cơ, vào mỗi buổi sáng Triệu Cơ lại dạo bản nhạc đó một lúc, anh ta đều đứng ở gần hoặc đứng ở một góc nào đó có thể nghe được âm thanh của tiếng đàn; anh tập trung toàn bộ tinh thần để thưởng thức những âm vang trong trẻo của nó. Vào một buổi sớm, anh không nghe thấy những âm thanh trong trẻo của tiếng đàn đó nữa. Anh thầm đoán rằng, có chuyện gì xảy ra với Triệu Cơ chăng? Nếu không, sao tiếng đàn đó tới giờ này vẫn chưa vang lên. Anh tìm tới chỗ Triệu Cơ mới biết chiếc đàn yêu dấu của cô đã hỏng. Anh vội vàng chạy lên cửa hàng đàn trên phố ôm về cho Triệu Cơ một cây đàn trúc mới tinh. Cô cười rất duyên dáng để lộ hai hàm răng trắng rồi bắt đầu so phím đàn thử qua một dạo, tiếng đàn đầy ắp sự tình tứ. Sau đó, Triệu Cơ ngẩng đầu lên hỏi: "Anh thấy sao?".

Tư Không Mã nhìn chăm chú vào khuôn mặt của Triệu Cơ. Triệu Cơ thấy trong đôi mắt của anh tràn đầy sự ấm áp. Kỳ thực, cô đã sớm để ý tới cái ánh mắt đặc biệt hàm chứa biết bao nội dung đó. Trong vô vàn những ánh mắt dồn vào cô ở Lã phủ, cô nhận thấy ánh mắt của Tư Không Mã thật ấm áp dễ chịu; cô thầm cảm ơn ân đức của Tư Không Mã. Nếu như không phải là anh ấy phát hiện ra cô ở nhà điếm, thì e rằng cô cũng sớm phải trần trụi rên rỉ dưới thân thể của một người đàn ông nào đó.

Do thân phận đặc biệt của Triệu Cơ, Lã Bất Vi chỉ cho cô làm những việc bình thường của người ở như cho ngựa ăn, hái rau, giặt quần áo. May mà ngựa trong phủ không nhiều, hơn nữa quần áo chỉ mặc qua hai lần là vứt bỏ. Cuộc sống này cũng chẳng lấy gì làm vất vả cho lắm, nó dễ như trở bàn tay. Mỗi lần cần phải giặt giũ, Tư Không Mã đã sớm ra giếng gánh nước về cho cô, ra chuồng ngựa tháo áo ra và mang về. Khi những chiếc áo ngựa mới đó được tạm thời nhúng xuống nước thì trong chậu không chỉ có đôi bàn tay nõn nà mềm mại mà còn có cả đôi bàn tay thô ráp của anh ra sức mài sát những chiếc áo đó. Có một ngày, cũng trong những giờ phút ấy, Tư Không Mã nói với Triệu Cơ: "Tôi nghe thấy rằng ở ngoại thành Hàm Đan, có một vị Thích Phu tinh thông âm luật, nếu như Triệu Cơ đến đó xin học thì năng khiếu đàn hát ca múa của cô sẽ bay lên như diều gặp gió".

Triệu Cơ tìm tới Lã Bất Vi để xin ông cho cô đến chỗ Thích Phu ở ngoại thành Hàm Đan học thêm về âm luật. Lã Bất Vi nói với cô là phải đi sớm về sớm.

Ngoại thành Hàm Đan, liễu rủ quanh hồ, ong bay bướm lượn khiến cho Triệu Cơ rất vui vẻ. Cơn gió xuân ấm áp thổi nhẹ chiếc váy cô mặc, chiếc khuyên tai như cũng được lắc lư theo. Đi đã mệt, cô ôm đàn ngồi xuống nơi bờ ruộng mà thở. Mặt trời đã nhô lên, hình dáng thon thả của cô như được mặt trời vẽ trên nền cỏ. Không có chuyện gì. Cô dạo một khúc "Bội phong - Tĩnh nữ". Đây là khúc nhạc mà cô thuộc và yêu thích nhất, nhưng chơi được vài đoạn, cô không thể tập trung được nữa. Cô biết rõ rằng, bởi vì hình ảnh của Tư Không Mã luôn ẩn hiện trong đầu cô, khiến cô không thể chuyên tâm để chơi đàn nữa.

"Triệu Cơ!". Có người ở phía sau gọi cô. Cô cho rằng đó là Tư Không Mã. Cô quay đầu lại nhìn, thật là kinh ngạc, đó chính là lão gia Triệu Thành.

Hơn một tháng nay không gặp, con người ông tiều tụy gầy yếu đi rất nhiều, giống như một viên ngói xám sau khi bị vỡ. Lúc này Triệu Cơ cảm thấy sống mũi mình cay cay, nước mắt cô trào ra, cô nói: "Chú, chú vẫn còn sống!".

Triệu Thành cũng rơm rớm nước mắt nói: "Chín phần chết, một phần sống".

Triệu Cơ liền hỏi: "Cha cháu vẫn còn chứ?".

Triệu Thành khóc không thành tiếng: "Lão gia, ông ấy...".

Triệu Cơ hỏi: "Cha cháu, ông ấy không còn ở trên trần thế nữa có phải không?".

Triệu Thành gật đầu, nói: "Đêm đó, lão gia dẫn chúng tôi xông vào biên ấp của Hàn Triệu, bị lính gác bắt và giết. Nhân lúc màn đêm dày đặc, chú bị thương giả vờ chết mới thoát được thân. Lão gia dường như linh cảm được chuyến buôn này sẽ xảy ra thảm họa, mang tờ hợp đồng gán nợ được ông và Lã Bất Vi ký ra, đồng thời khắc lên trên vài lời dặn dò, đề phòng bất trắc".

Triệu Thành nói xong, run lẩy bẩy lấy từ trong túi đeo ở phía sau lưng tờ gán nợ, đưa cho Triệu Cơ, cô chỉ thấy dưới những nét chữ hằn lên, có khắc một hàng chữ nhỏ rõ: "Cơ nhi gán cho Lã Bất Vi".

Triệu Cơ xem xong lời dặn dò của cha, cô xúc động khóc nức nở.

Triệu Thành nói: "Ta lẩn trốn về Hàm Đan, nghe ngóng tin tức của cháu khắp nơi. Biết rằng sau khi cháu đã được Lã Bất Vi chuộc ra khỏi nhà điếm, ta liền len lén ở bên ngoài cổng của Lã phủ đợi cháu. Nhưng mãi mà vẫn không có cơ hội. Chú cũng là tội phạm truy sát của quan phủ, không dám tới Lã phủ lúc thanh thiên bạch nhật, cũng không dám gặp gỡ cháu trên đường phố. Hôm nay đi theo cháu ra ngoại thành, đem tờ gán nợ dặn dò của cha cháu đưa tận tay cho cháu, đó cũng là tâm nguyện cuối cùng".

Triệu Cơ hỏi: "Đại thúc, sau này chú định ẩn thân ở đâu?".

Triệu Thành bi thương nói: "Từ nay về sau chú không thể ở nước Triệu được nữa. Nếu như lưu lại ở mảnh đấy này, một ngày nào đó bị người ta phát hiện, sẽ bị tống giam vào ngục hoặc bị giáng xuống làm nô tỳ. Thiên hạ rộng lớn, chú sẽ chu du các nước, tùy cơ xin chút cơm thừa canh cặn của những vị quan lại, nhà buôn giàu có để sống qua ngày".

Triệu Cơ lập tức ôm chầm lấy Triệu Thành, đau xót nói: "Đại thúc, cháu bây giờ chẳng còn người thân nào nữa, chú hãy tính giúp cho thân phận cháu gái bé nhỏ này đi. Chia tay lần nay, có lẽ phải sang thế giới bên kia mới gặp được nhau mất!".

Triệu Thành nói: "Chú đã đến lúc như ngọn đèn hết dầu rồi, đối với tất cả mọi thứ cũng chỉ biết nghe và chấp nhận mà thôi. Mà cháu như một bông hoa chưa nở, ngày tháng còn dài ở phía trước. Lã Bất Vi của cải giàu có, là người có đạo đức, cháu theo ông ta cũng được coi như là cả đời được nhờ cậy. Chỉ là cơ thiếp của người ta nên có những chuyện cháu nên nhẫn nhịn. Bỉ Ngạn Vân, người vợ trẻ nhiều năm mong muốn được làm mẹ chồng. Ngày này qua tháng khác, vị trí trong phủ cũng sẽ ổn định, rồi cũng có ngày được mở mặt thôi".

Triệu Thành nói xong, gạt nước mắt chia tay với Triệu Cơ.

Đối với việc đột nhiên sắp trở thành cơ thiếp của Lã Bất Vi, Triệu Cơ cảm thấy không biết làm thế nào. Cô đã không còn tâm trí nào để đi đến chỗ Thích Phu nữa, mà chỉ biết cầm tấm di chúc gán nợ, lòng cô nặng trĩu quay trở về Lã phủ.

Hai nước Tần và Hàn đứng đối mặt với nhau như cung đã căng, nỏ đã kéo, chỉ cần có va chạm là sẽ có chiến tranh, điều này không chỉ mang tới cho Triệu Hiếu Thành vương cái hứng thú đứng xa xem lửa cháy, mà còn cũng khiến ông nắm chắc cơ hội để chuẩn bị vũ khí và tăng thêm quân sĩ.

Sau một bữa sáng cơm no rượu say, Triệu Hiếu Thành vương tìm tới Bình Nguyên quân Triệu Thắng, để vị Tướng quốc lâu năm này chiêu mộ mười vạn quân lính.

Triệu Thắng nói: "Đại vương, người nước Triệu có thừa, chiêu mộ mười vạn quân dễ như trở bàn tay, chỉ có điều là khó khăn trong vấn đề ngựa và bính giáp".

Triệu Hiếu Thành vương lắc tấm thân vạm vỡ nói: "Từ dân gian hoặc mua của các nước chư hầu khác".

Triệu Thắng cười và nói: "Đại vương của thần, trong thương khố của quốc gia đã cạn kiệt mất ngân lượng rồi".

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Vậy thì hãy đi tịch thu của những nhà giàu có!".

Triệu Thắng không chần chừ nói: "Triệu Hiếu Thành vương đường đường là một nước chư hầu lớn mà lại đi thu tiền bạc của bách tính dân đen, đây không phải là chỗ dựa của dân, như vậy chẳng bị chư hầu thiên hạ chê cười hay sao?".

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Mượn chiêu bài mũ áo chỉnh tề, viết rõ là mượn tiền".

Triệu Thắng nói: "Vua đi mượn tiền của dân, trong lòng ai mà chẳng không rõ, đây là thịt bao tử đãi chó, có đi mà không có về. Đặc biệt là bọn thương nhân, nhìn thấy lợi là quên nghĩa, gian giảo cực độ, e rằng rất khó tiến phụng tiền của".

Triệu Hiếu Thành vương phẫn nộ bất bình nói: "Thương nhân của Quan đông sáu nước buôn bán kiếm chác rất nhiều trên đất của quả nhân, tất cả họ đều giàu nứt đố đổ vách, lẽ nào lại không chịu bỏ ra một ít tiền hay sao? Nước Vệ có người tên là Lã Bất Vi, chẳng phải là buôn bán ngọc bích ở Hàm Đan rất giàu có hay sao? Có rất nhiều quân thần nói với quả nhân rằng, vị Lã Bất Vi này bình thường vẫn nói, lấy Triệu quốc làm nước, coi Triệu vương là tôn, coi việc làm cho nước Triệu giàu có làm nhiệm vụ của mình. Lẽ nào lại là nói dối, treo đầu dê bán thịt chó, một cái lông cũng không chịu nhổ ra sao?".

Triệu Thắng nói: "Việc này tôi cũng không rõ lắm. Ngộ nhỡ có ngày nào đó chúng ta bị đuổi ra khỏi cửa, lúc đó cũng chẳng còn chỗ nào mà dung thân nữa, cái uy của vua tôi e rằng cũng chẳng còn!".

Triệu Hiếu Thành vương tràn đầy tự tin nói: "Ngày mai tuyên ông ta đến Tùng Đài, quả nhân muốn đích thân nói chuyện với ông ta, nhân tiện cũng muốn xem xem gã thương nhân tới từ nước Vệ này người ngợm ra sao!".

Triệu Thắng nói: "Đại vương triệu kiến, Lã Bất Vi không thể không tới, nhưng trong lòng ắt có sự chuẩn bị, có thể chúng ta sẽ gặp phải tay rắn mặt đấy!".

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Quả nhân không tin, một tên thương nhân oắt con lại dám coi thường sự tôn nghiêm của quả nhân sao!".

Triệu Thắng đành phải nói: "Vậy thì ngày mai Đại vương hãy thử xem sao!".

Sự vui vẻ của Triệu Cơ và hứng thú đánh bạc trong nhà điếm, cũng không làm giảm đi sự lo âu phiền muộn trong lòng Lã Bất Vi.

Có môn khách nói với Lã Bất Vi rằng: Tư Không Mã và Triệu Cơ có tư tình với nhau. Lã Bất Vi nghe xong vẫn chưa có phản ứng gì. Trước đây ông chưa từng có sự nghi ngờ gì đối với người môn khách hiểu biết, trung thành và anh dũng này. Lần này, anh ta lại vắt óc nghĩ ra trò đánh bạc ở nhà điếm, đã mang lại cho Lã Bất Vi biết bao nhiêu là niềm vui và sự thoải mái, là người rất được lòng Lã Bất Vi. Hơn nữa, anh ta chưa từng bị chao đảo trước dung nhan yêu kiều của Triệu Cơ, và cũng chưa thể nguôi ngoai được mối tình với con một người bạn của anh ta. Vì vậy, tuy có người đàm tiếu về việc tư tình giữa Triệu Cơ và Tư Không Mã thế này thế khác, ông vẫn chỉ cười mà thôi.

Hôm đó, Lã Bất Vi đang xem cuốn "Kế nhiên" trong thư phòng, Tư Không Mã dẫn Tư Qua người hầu bên cạnh Triệu Hiếu Thành vương tới, nói Lã Bất Vi đến Tùng Đài nghe Đại vương Triệu triệu kiến. Lã Bất Vi hỏi vị Tư Qua này, Đại vương sao lại triệu kiến ta. Tư Qua nói, Đại vương muốn nói chuyện với ông.

Một người được thua không quản như Lã Bất Vi cũng có chút băn khoăn khó hiểu. Lã Bất Vi đến nước Triệu đã hơn mười năm rồi, vất vả trầy trật quan hệ buôn bán với những khanh tướng trong triều. Bởi vì ông có một mục tiêu xa hơn, đó chính là thăng quan tiến úy. Dùng tiền tài để bước lên bậc thềm triều đình. Một số quan sứ quan trọng của nước Triệu hoặc thân hoặc sơ hoặc sớm hoặc muộn cũng đều có chút quan hệ qua lại với ông. Bao gồm cả một số quan thần có địa vị cao như Tướng quốc Triệu Thắng, Thượng khanh Lạn Tương Như, đại tướng quân Triệu Xa, Liêm Pha. Có người thì Lã Bất Vi tặng ngọc bội đến tận phủ, có người thì Lã Bất Vi dâng lễ chúc thọ. Còn một số người ông ngồi đấu cờ với họ... Nhưng từ trước tới giờ ông chưa từng gặp Triệu Hiếu Thành vương. Mong mỏi được yết kiến vị quân vương này là nguyện vọng mãnh liệt kể từ khi ông đặt chân đến Hàm Đan. Ông muốn được tiếp kiến vị quân vương này, muốn được vị quân vương này hiểu mình, đồng cảm với mình. Thế nhưng, ông vẫn chưa có được cơ hội. Tuy ông và Triệu Hiếu Thành vương cùng ở tại trong thành Hàm Đan, nhưng đối với ông, Triệu Hiếu Thành vương giống như đám mây ở cuối chân trời, có thể nhìn mà không thể tới được, như vết rêu hằn trong giếng sâu thẳm mà không thể đo được.

Cái thời khắc quý báu làm thay đổi cuộc đời của Lã Bất Vi, đến một cách rất tự nhiên, nó giống như một trận mưa trong ngày xuân, hay một cơn gió tự nhiên vậy. Ông đã từng tưởng tượng cái dáng vẻ phê duyệt tấu chương của Triệu Hiếu Thành vương, và cũng từng tưởng tượng những hành động, những trò tiêu khiển trong cuộc sống thường nhật của vị quân vương này, nhưng trong đầu ông từ trước tới giờ hình tượng đó chưa từng hiện ra một cách cụ thể.

Một vị vua hàng ngày bận rộn tìm một thương nhân để nói chuyện cũng chính là nói chuyện phiếm. Thật không thể tưởng tượng nổi. Không thể, quyết không thể. Vậy thì, tìm ông ta để làm gì cơ chứ? Không lẽ là chuyện ông và Triệu Khôi Tử buôn lương thực sang nước Hàn? Không thể. Nếu là chuyện này, thì quan phủ đã sai quân lính tới bắt giam ông vào ngục rồi. Vậy thì là chuyện gì đây?

Lã Bất Vi nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra lời giải.

Còn nhớ rõ lúc ông mới đến nước Vệ làm môn khách chỗ đại phu Vệ Hằng, khi cùng Vệ Hằng vào cung, ông bị giữ lại ở ngoài cửa cung, ông đang tính kế để được gặp Vệ Nguyên quân. Ý nguyện của ông không được đền đáp. Trong một khoảng thời gian dài, ông đã từng tiếc rẻ vì những điều đó. Còn bây giờ, ông không thể tính toán được điều gì, Vệ Nguyên quân, một vị vua nhỏ bé của một nước cỏn con. Hôm nay, Lã Bất Vi, ông sẽ tới gặp Triệu Hiếu Thành vương, một vị quân vương của một nước lớn mạnh.

Lã Bất Vi tự nhủ trong lòng, phải mặc bộ quần áo đẹp nhất, ngồi trên chiếc xe sang trọng nhất tới Tùng Đài. Gặp quốc quân phải lịch sự trang nhã, không kiêu ngạo, không tự ti, thong dong, đối đáp trôi chảy.

Lã Bất Vi trông thấy môn khách và những người phục dịch của Triệu Hiếu Thành vương đang bận rộn, ra ra vào vào chuẩn bị cho ông ta.

Triệu Hiếu Thành vương cũng đang thúc giục bọn sai dịch và cung nữ quét rửa trong ngoài điện sạch như mới, thay mới các tấm vải phủ bàn. Ông ta với tư cách là vua của một nước, là bộ mặt của quốc gia, đang cố hết sức biểu thị sự giàu có, hưng thịnh của vương cung. Ông ta biết rằng, cái mà thương nhân coi trọng chính là sự giàu có của một người. Ông ta không thể để Lã Bất Vi coi thường quốc gia này, cho rằng ông ta nghèo nàn thiếu thốn.

Sau khi dọn dẹp xong, Triệu Hiếu Thành vương đi quanh điện, vừa ý gật đầu.

Trong điện chính của Tùng Thái, cột kèo đòn nóc được chạm khắc tinh vi, toàn một màu sơn đỏ bắt mắt. Bậc nhà được dát vàng ngọc. Các vòng ngọc bích được xếp chồng lên nhau, kê vàng ở giữa, được trang sức bằng các hạt minh châu và lông chim trĩ, bên trên xếp chín con rồng vàng, miệng ngậm chuông vàng long lanh, rủ xuống những tua màu sắc rực rỡ. Xen vào đó là những màu xanh tím, vàng bạc. Mỗi khi ngọn gió thổi tới bay nhấp nháy, chiếu rọi vào trong điện, tiếng chuông khánh leng keng. Hai bên ngự án (bàn vua thường dùng) đã mắc những tấm bình phong bằng gỗ được chạm khắc những hình thù sặc sỡ, được chạm khắc tinh tế sắc sảo giống như con nhện giăng tơ. Trên chiếc giường của vua phủ một tấm da hổ có vằn sặc sỡ, người ngồi trên đó giống như ngồi giữa bãi cỏ rậm rạp. Bên trên đặt bốn viên ngọc, lung linh óng ánh. Trên cánh cửa sở khảm lưu ly xanh, óng ánh trong suốt, từ trong có thể nhìn thấy lông mày và tóc của người đi đường. Trên các cột kèo đều khắc hình rồng bay phượng múa... Triệu Hiếu Thành vương thấy rằng, để cho Lã Bất Vi vào trong cung điện như thế, thì sẽ làm tiêu tan đi cái vẻ kiêu ngạo của các phú thương.

Lúc này, vị thái giám có chức sự cất tiếng lanh lảnh: "Thương nhân Lã Bất Vi nước Vệ kiến giá!".

Triệu Hiếu Thành vương vội tới vén vạt áo quỳ ngồi ở chính giữa ngự sạp, đợi Lã Bất Vi tới. Sau lưng ông ta có các cung nữ cầm quạt lông quạt, mấy vị văn thần võ tướng chắp tay đứng chầu ở dưới. Lát sau, qua tấm kính khảm trên cánh cửa, Triệu Hiếu Thành vương đã nhìn thấy Lã Bất Vi ngồi trên chiếc xe lớn hoa lệ, xe dừng trước điện, Lã Bất Vi cùng hai môn khách xuống xe đi vào điện.

Vào điện, Lã Bất Vi thi lễ nói: "Quả dân nước nhỏ Lã Bất Vi khấu kiến Đại vương!".

Triệu Hiếu Thành vương ban cho Lã Bất Vi ngồi dưới điện. Cái đầu tiên đập vào mắt ông là đôi giày của Lã Bất Vi, nó làm ông kinh ngạc. Đó là một đôi giày được thêu bằng bông mềm, miệng giày viền vàng, đầu và giữa thêu hình phượng rắn năm sắc, vàng ngọc đan xen. "Chỉ đôi giày này cũng đáng giá 200 lạng vàng!", Triệu Hiếu Thành vương cảm khái tự nói trong lòng: "Mình là vua một nước, vậy mà đôi giày mình đi cũng không đáng giá như vậy!".

Triệu Hiếu Thành vương ngắm Lã Bất Vi một lượt từ trên xuống dưới, bây giờ ông mới bắt đầu tin, ngồi trước mặt ông là một vị thương gia tướng mạo đường đường, giàu có ức vạn.

Sau mấy lời thăm hỏi chẳng lấy gì làm mặn mà, Triệu Hiếu Thành vương hỏi Lã Bất Vi: "Quý thương đi nam về bắc, học rộng biết nhiều, thông thuộc công việc các nước, tất có sự nghiền ngẫm về thế lớn trong thiên hạ, kiến giải thấu đáo, quả nhân xin nghe theo". Nghe xong những lời này của Triệu Hiếu Thành vương, Lã Bất Vi nghĩ "Vị quốc quân này triệu mình đến, vốn không phải là nghe mình bàn luận về việc lớn trong thiên hạ". Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi cung kính nói: "Đại vương buông màn ngồi trong, quyết định thắng lợi ngoài ngàn dặm, biết rõ thế lớn trong thiên hạ như nắm trong lòng bàn tay, tiểu nhân đâu dám mạo phạm trước mặt Đại vương!".

Triệu Hiếu Thành vương lại nói: "Quả nhân muốn nghe".

Lã Bất Vi nói: "Đại vương coi trọng tiểu nhân như thế, tiểu nhân cũng đành phải mạo muội nói thiển kiến của mình. Thiên hạ Vũ vương diệt Thương, Chu công đông chinh, thực hiện tông pháp phân phong, chư hầu không dưới hai nghìn nước. Khi Vũ vương duyệt binh, vẫn có một nghìn tám trăm chư hầu.

Trong mấy trăm năm, các nước chư hầu này giết hại thôn tính lẫn nhau. Đến khi Khổng phu tử san định lại "Xuân Thu", chư hầu chỉ còn lại mấy chục nước. Các nước mạnh chẳng qua chỉ có: Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Tần, Ngụy. Cho đến các nước nhỏ như Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ, Doanh, Chu, Khởi, Thái, Đàm... đều là loại lép xịt lung lay sắp đổ, không thể giữ được lâu dài. Sau thời Xuân Thu, nước Ngụy kế thừa nền móng của nước Tấn. Đến khi Ngụy Huệ vương dời đô về Đại Lương, thế nước ngày một hưng thịnh. Tiếp đó, nước Tề thay cũ đổi mới, không ngừng phát triển, trở thành đối thủ cạnh tranh nghiệp bá với nước Ngụy. Năm Triệu Túc hầu thứ tám, hai nước Tề Ngụy đại chiến ở Mã Lăng, Tôn Tẫn dùng kế đánh cho quân Ngụy đại bại không còn mảnh giáp, từ đó, nước Ngụy không bao giờ phục hưng được nữa. Sau trận Mã Lăng, Tề Uy vương cũng bắt đầu hội họp chư hầu, triều Thiên tử, thay nước Ngụy xưng bá. Nước Tần sau biến pháp Thương Ưởng, thế nước ngày một mạnh, cùng tranh chấp với nước Tề. Do nước Tề và nước Yên kéo dài, vắt kiệt sức nước, do đó không thể xưng vương xưng bá với chư hầu được nữa. Nước Tần nhân hai nước Tế nước Yên đánh nhau, nước Tề suy yếu mà tập trung lực lượng đối phó với một nước lớn khác là nước Sở. Đại tướng quân nước Tần là Bạch Khởi dẫn quân đánh thẳng vào Sính Đô, quân Sở thua tan tác, buộc phải rời bỏ thủ đô.

Khi các nước lớn Ngụy, Sở, Tề đang suy yếu, tiên tổ của Đại vương Triệu Vũ Linh vương đề xướng mặc quần áo người Hồ, cưỡi ngựa bắn cung, nước ngày một thịnh, đạt thế quân bình với nước Tần".

Triệu Hiếu Thành vương nghe rất say sưa, ông không ngờ rằng, một thương nhân buôn ngọc lại có thể phân tích thấu đáo về sự hưng thịnh suy vong của các nước chư hầu.

Triệu Hiếu Thành vương cao hứng nói: "Theo ý của quý thương thì ai có thể thâu tóm thiên hạ?".

Lã Bất Vi khoan thai nói: "Đưa ra điều thần cơ diệu toán này có lẽ phải phiền tới các thầy bói mới được".

Triệu Hiếu Thành vương hỏi: "Vậy thì, quý thương muốn ai xưng vương thiên hạ?".

Lã Bất Vi không chút suy nghĩ nói: "Đại vương, điều này không phải nói cũng biết. Tiểu nhân lấy nước Triệu là nước của mình, coi Đại vương là bậc tôn kính nhất, lấy sự hưng thịnh của nước Triệu làm nhiệm vụ của mình. Nhất thống thiên hạ, chẳng mong Đại vương thì còn ai? Đó chính là niềm hy vọng của tiểu nhân!".

Triệu Hiếu Thành vương bật cười khoan khoái, tấm thân mỏng của ông lắc lư như sắp đổ. Sau cơn ho, nói: "Quả nhân muốn rèn quân luyện tướng, chỉ vì trong bụng còn e dè!".

Nghe câu này của Triệu Hiếu Thành vương, Lã Bất Vi chợt bừng tỉnh. "Ông ta đã hiểu sai bụng mình, mình đâu có ý như vậy. Ông ta muốn mình hào phóng, cống hiến cho nước Triệu. Xem ra nếu không tốn kém một chút, thì hôm nay sẽ phải xấu hổ rời khỏi Tùng Đài. Đơi Triệu Hiếu Thành vương nói số tiền ra thì khó mà mặc cả lại được, chi bằng mình chủ động nói trước. Đây cũng coi như là đi đánh bạc vậy! Sau này nước Triệu hùng mạnh, thống nhất thiên hạ, Triệu Hiếu Thành vương không thể tiêu không số tiền của một thương nhân; ông ta sẽ phải nhớ tới lúc này, sẽ phải phong quan tước cho mình; nhưng nếu như nước Triệu suy vong, tài sản hao tán thì số tiền này cũng coi như cho quạ ăn. Cho dù bị mất, thì mình cũng phải thưởng trước cho vị vua này một chút". Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi nói: "Đại vương có cần tiền của tiểu nhân không?".

Triệu Hiếu Thành vương vội nói: "Có chứ, có chứ! Quả nhân lần đầu gặp quý thương, đã biết quý thương là bậc hào hiệp chuộng nghĩa!". Lã Bất Vi lại nói: "Tiểu nhân thân là thương nhân, thương nhân lấy lợi làm đầu. Đại vương cần chút tiền nhỏ của tiểu nhân, là vay mượn hay dâng tặng".

Câu hỏi này của Lã Bất Vi làm cho Triệu Hiếu Thành vương cảm phục trong lòng: "Lợi hại thay một thương nhân, hùng hổ hăm dọa!". Triệu Hiếu Thành vương cũng không hàm hồ, khôn ngoan nói: "Quý thương là bậc hào hiệp trượng nghĩa, lẽ nào lại nói đến chuyện vay mượn!". Lã Bất Vi phản ứng nhanh nhẹn nói: "Tiểu nhân có ý dâng tặng, nhưng sợ Đại vương chê ít!".

Triệu Hiếu Thành vương lại cười, nói lấp lửng: "Được rồi, thương nhân các ông thông minh lanh lợi không ai bằng, quả nhân xin nghe theo, không quanh co với ông nữa. Ông cho quả nhân mượn trước một vạn lạng vàng".

Một vạn lạng, một con số không nhiều, không ít. "Đại vương đã nói vay mượn, vậy thì đến bao giờ thì trả?".

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Ngắn thì nay mai, xa thì không biết đến bao giờ".

Lã Bất Vi nói: "Tuân mệnh".

Triệu Hiếu Thành vương hỏi: "Quý thương đến nước Triệu đã được bao nhiêu năm rồi?".

Lã Bất Vi nói: "Đã hơn mười năm".

"Đã có tước vị gì chưa?".

"Nói ra sợ Đại vương chê cười, chỉ là chức thứ sử tầm thường mà thôi!"

"Ngay đại phu cũng chưa được sao?" Triệu Hiếu Thành vương quay người sang bên trái, nói với quan quản lý việc thăng giáng quan chức nói: "Phong cho Lã Bất Vi chức đại phu thất đẳng". Trong tước vị của nước Triệu, giữa cao cấp và thấp cấp, phía trên có lục đẳng, theo thứ tự là quân, tước hiệu cao nhất, nắm giữ việc hành chính phong đất, sưu thuế, như con trưởng Huệ Văn vương là An Dương quân, đại tướng Triệu Xa là Mã Phục quân; Nhị đẳng phong làm hầu, được phong đất, như cha con của lại tử Lý Đồng được phong làm Lý hầu; Thượng khanh, bổng lộc cao nhất, đồng thời là danh hiệu vinh dự, như Lạn Tương Như, Liêm Pha; Khách khanh là khanh vị của người dị quốc sống ở nước Triệu, như Đông Lý Tử; Ngũ đại phu, tước hiệu cao nhất; Thượng đại phu là một quan tương đối cao.

Đại phu tuy chỉ là tước thất đẳng, nhưng Lã Bất Vi rất có hy vọng bước vào thế giới quý tộc của nước Triệu. Do vậy, Lã Bất Vi cảm động rưng rưng nói với Triệu Hiếu Thành vương: "Tạ ơn Đại vương!".

* * * * *

Khi Dị Nhân trở thành một thành viên đích thực trong dân chúng thành Hàm Đan, ban đầu anh ta còn an tâm chấp nhận một cuộc sống như vậy. Mọi người có thể nhìn thấy một vị công tử có khẩu âm vùng Tần, chạy đi chạy lại trong cái ngõ nhỏ, có lúc thì đến giếng múc nước, đi chợ mua kê, khi gặp người đi đường thì luôn chủ động chào hỏi. Điều không giống với mọi người ở vị công tử này là sáng nghe gà gáy đã thức dậy luyện võ, luyện tập kiếm pháp. Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ nghi hoặc hay là một vị kiếm khách du hiệp đến một nơi phàm phu tục tử như ngõ nhỏ này. Qua mấy hôm, họ mới biết con người quái dị có đôi mắt lồi ấy là tôn vương nước Tần.

Mấy hôm nay, Dị Nhân thấy lòng thư thả, hành động thoải mái, điều này là bởi hôm trên đường đến Hàm Đan anh ta được nghe Chu Kiệm kể câu chuyện Thái hậu Triệu - Xúc Long thuyết, câu chuyện này đã có tác dụng khích lệ anh ta trong một thời gian ngắn. Không lâu sau, thói xấu thâm căn cố đế của các công tử nhà giàu đã phơi bày ra hết, như: chí cao, tài mọn, suy tính hơn thiệt, sáng nắng chiều mưa, ham đồ an dật... Những thói xấu này, bắt đầu càng ngày càng lộ rõ thân phận của một con tin ở Hàm Dương, Dị Nhân tuy không phải là một vương tôn được yêu chiều, nhưng cũng được ăn sơn hào hải vị, mặc lụa là gấm vóc, có nô tỳ sai khiến, có xe lọng rước bước. Nay làm con tin ở nước người thì không thể so với ngày xưa được. Tuy Chu Kiệm vừa là Thái phó vừa là gia tướng nhưng cũng phải nhịn ăn nhịn mặc để chi tiêu trong hai lạng bạc được chi viện từ Hàm Dương. Dị Nhân thường phải nghiến răng nhắm mắt ăn mấy thứ cơm đạm canh nhạt. Nơi ở tuy không phải là chướng khí mù mịt, bốn bề gió lọt, nhưng nếu đem so với hoa đường đại ốc ở Hàm Dương thì đúng là một nơi lạnh lẽo nương mình. Đi chợ ra phố đều phải lấy đôi chân thay xe, gặp hôm trời mưa tầm tã thì Dị Nhân phải đặt đội bàn chân mình lên những đám bùn nhão nhoét. Điều làm Dị Nhân bực nhất là cái tên mặt to phè Công Tôn Càn đi theo anh ta như hình theo bóng, khi đi ra ngoài Dị Nhân luôn bị trong tầm giám sát của ông ta. Có lúc Dị Nhân và Chu Kiệm có điều gì bí mật muốn nói với nhau thì đều phải tìm cơ hội như đi ăn trộm, ăn cướp. Điều làm Dị Nhân khó chịu nữa là cuộc sống làm con tin này không biết ngày kết thúc, có khi là nửa năm, một năm, cũng có khi là mấy độ xuân thu, thậm chí là mấy chục năm. Sự chờ đợi không biết tương lai bắt đầu giày vò Dị Nhân khi lẫn trong đường phố đông đúc, náo nhiệt, nhìn thấy những quan lại, phú hào thê ôm, thiếp ấp, hô hào sai khiến nô tỳ ngạo nghễ qua phố, Dị Nhân vừa cảm thấy ngưỡng mộ, vừa thấy đố kị. Liên tưởng đến cuộc sống vương tôn náo nhiệt ở thành Hàm Dương, một cảm giác đau khổ giày vò làm anh ta không thiết sống nữa. Sau đó, anh ta không muốn đi ra ngoài để phải chứng kiến những cảnh làm mình buồn rầu, thấy kém cỏi không bằng người, nối tiếc ngày xưa đó mà ở dịt trong phòng. Ngày trước, anh ta chưa đến hai mươi tuổi, huyết khí phương cương, vui thú với việc kết bạn kết bè. Như hôm nay, hoàn cảnh cô đơn, vắng lạnh tạo ra một khoảng trống to lớn cho tuổi thanh xuân sôi sục của anh ta. Anh ta bắt đầu thèm khát nữ giới một cách điên cuồng. Có một hôm, anh ta lấy hết hai đồng bạc trong hòm ra đi kỹ viện, như đói như khát tìm các kỹ nữ dốc hết dục vọng, ham muốn mà anh ta phải kìm nén bao lâu nay. Chu Kiệm hết lời khuyên can, dùng những lời nhủ: "Chơi bời mất nết", "Thành công là do cần kiệm, thất bại là do xa xỉ" để ngăn can những hành vi dâm dật mất tự chủ của Dị Nhân.

Dị Nhân ra chợ mua về một con chó cái chỉ biết lắc cổ vẫy đuôi, còn đặt cho nó một cái tên mỹ miều: "Thuyền Quyên". Hàng ngày mỗi buổi chiều, Dị Nhân uể oải dắt "Thuyền Quyên" ra bãi cỏ trước cửa chơi. Chu Kiệm và Công Tôn Càn không hứng thú với việc này, ngồi ngáp dài nhìn cảnh Dị Nhân dắt chó đi dạo.

Chính khi Dị Nhân hàng ngày dắt chó đi dạo ở bãi cỏ, anh ta và Chu Kiệm phát hiện thấy một chú chó khỏe mạnh hoạt bát cùng hai vị công tử cũng đến nơi đây.

Vị công tử này nhìn trẻ và tuấn tú hơn Dị Nhân, sau khi đến thì luôn chuyên tâm học võ luyện kiếm. Con chó luôn ngồi im như đá bên cạnh, chăm chú nhìn chủ múa những chiêu, những động tác rắn rỏi mạnh mẽ. Người này, hàng ngày dù mưa hay nắng đều đến đây luyện đao mấy giờ liền, sau đó gọi chú chó cùng ra về.

Vị công tử đó là Thái tử Đan nước Yên, cũng đang làm con tin ở nước Triệu. Anh ta là con cả của Yến Vương Hỷ, một quân tử hiệp nghĩa, có chí hướng lớn, chịu khó chịu khổ. Khi còn phò tá ở nước Triệu, anh ta đã vất cả gây dựng cơ nghiệp và tỏ ra là một con người sắt đá không gì lay chuyển nổi, rất nhiều người có học can tâm tình nguyện đi theo anh ta, chịu sự sai bảo của anh ta, dù có phải đi vào chỗ chết cũng không hề hối tiếc.

Tần Thủy Hoàng có một người em cùng cha khác mẹ, tên Kiều, chính là con của Di Hồng, được phong làm Trường An quân, sau này làm phản, đầu hàng Triệu. Đồng đảng của anh ta là một đại tướng quân dưới quyền - Phàn Ô Kỳ. Sau khi việc dấy binh làm phản của Kiều thất bại, Phàn Ô Kỳ phải chạy trốn khỏi Tần. Tần Thủy Hoàng đã treo thưởng hàng nghìn lạng bạc lấy đầu anh ta.

Phàn Ô Kỳ chạy đến chỗ Thái tử Đan, Thái tử Đan đối đãi với anh ta rất tốt, xây cho một "cung Phàn" hoa lệ. Sau đó, Thái tử Đan đạo diễn vở bi kịch nổi tiếng "Kinh Kha hành thích Tần vương", cần cái đầu của Phàn Ô Kỳ và mưu đồ của Đô Cang Thỉ mới lấy được tín nhiệm của Tần Thủy Hoàng. Thái tử Đan không nhẫn tâm cho Phàn Ô Kỳ biết việc này, sợ khó dễ cho Phàn Ô Kỳ.

Nhưng Phàn Ô Kỳ đã nghe được việc này, để báo đáp ân tình của Thái tử Đan, Phàn Ô Kỳ đã cắt cổ tự vẫn, hiến đầu của mình. Nhưng sau này việc hành thích Tần Thủy Hoàng không thành công, làm người ta cảm thấy đúng là "Mưu sự tại nhân, hành sự tại thiên".

Tư Mã Thiên, một người quý mực như vàng cũng đã dùng rất nhiều bút mực để miêu ta vị Thái tử nước Yên này.

Thái tử Đan, trước đây đã từng bị giữ làm con tin ở nước Triệu, mà Doanh Chính lại sinh ra ở nước Triệu, khi nhỏ anh ta và Đan chơi rất vui vẻ với nhau. Đến lúc Doanh Chính được lập làm Tần vương, đúng lúc Đan lại bị giữ làm con tin ở nước Tần, Tần vương đối đãi với Thái tử Đan không được tốt, do vậy Thái tử Đan ôm mối hận trốn về nước. Sau khi về nước, Thái tử Đan tìm cách báo thù Tần vương, nhưng nước nhỏ, lực lại không đủ. Sau này nước Tầan thường xuyên xuất binh đến vùng Thái Hành Sơn về phía Đông, công phá nước Tề, Sở và Tam Tấn, thôn tính chủ hầu, sắp đánh đến nước Yên. Quần thần nước Yên đều sợ tai họa chiến tranh, Thái tử Đan càng lo lắng việc này, liền thỉnh giáo Thái phó của ông ta là Cúc Vũ. Cúc Vũ đáp: "Đất đai của nước Tần đã rộng khắp thiên hạ, uy hiếp các nước Hàn, Ngụy, Triệu. Phía Bắc nước Tần có cửa khẩu quan trọng, vững chắc Cam Truyền, Cốc Khẩu; phía Nam là đồng ruộng màu mỡ lên lưu vực Kinh, Vị, chiếm một vùng phì nhiêu của vùng Ba, Hàn; phía bên phải là vùng núi cao Lũng, Thục; phía bên trái là thiên hiểm Quan, Hào; dân đông, binh sĩ dũng mãnh, binh khí, áo giáp lại càng hoàn mỹ. Nếu họ muốn mở rộng ra bên ngoài thì vùng nước Yên của chúng ta từ Trường Thành về phía nam, Dịch Thủy về phía Bắc thì càng không thể bảo đảm an toàn. Làm sao có thể vì mối hận bị làm nhục mà định hành thích Tần vương được?".

Thái tử Đan nói: "Vậy thì nên làm thế nào mới được?".

Cúc Vũ đáp: "Hy vọng dùng kế sách lâu dài thôi".

Qua một thời gian, xảy ra việc tương quan nước Tần - Phàn Ô Kỳ đắc tội với Tần vương, chạy sang nước Yên. Thái tử Đan thu nạp ông ta và còn cho ông ta chỗ ở. Cúc Vũ can gián: "Không thể được. Tần vương bạo ngược như vậy, luôn có mối thù với nước Yên, luôn muốn gây chiến với nước Yên, huống hồ nay lại nghe tin tướng quân Phàn lại được thu nạp ở đây, khác nào đổ thêm dầu vào lửa, thả thịt trên đường hổ, nhất định xảy ra tai họa. Cứ coi như có các tài năng như Quản Trọng, Yến Anh cũng không thể nghĩ cách giúp chúng ta được. Mong Thái tử mau gửi tướng quân Phàn sang Hung Nô, để dẹp trừ cớ xâm lược Yên của Tần. Đồng thời hy vọng trước tiên kết mối bang giao với Tam Tần ở phía tây, liên hợp với Tần, Sở ở phía Nam, liên lạc với Hung Nô ở phía bắc, sau đó mới có thể nghĩ cách đối phó với nước Tần được".

Thái tử Đan nói: "Kế hoạch của Thái phó, bỏ phí thời gian, kéo dài quá lâu, lòng ta rất rối loạn, sợ rằng một khắc cũng không đợi được nữa. Huống hồ không chỉ có vậy, tướng quân Phàn khi chạy vào ngõ cụt, đến dựa vào nơi ta, ta không thể vì sự uy hiếp của Tần mà hy sinh người bạn mà ta thấy tâm đầu ý hợp, đáng thương, xua đuổi anh đến Hung Nô. Đây chính là lúc ta dùng ngươi tác sự, hy vọng Thái phó thay ta suy nghĩ lại một chút!".

Cúc Vũ nói: "Làm việc nguy hiểm thì cầu bình an, tạo họa thì lại cầu hạnh phúc, kế hoạch nông cạn sẽ càng làm khắc sâu thêm sự căm hận với nước Tần, để kết giao với một người bạn tri âm mới mà bất chấp đại họa của nước nhà, điều này có thể nói là càng tạo tai họa lớn. Thậm chí một nước hung mãnh, dữ tợn như một con diều hâu như nước Tần, một khi hậu quả đó ra sao chẳng nhẽ còn phải nói ra ư? Nước Yên có một người là Điền tiên sinh, ông vốn trí tuệ hơn người lại dũng cảm, có thể thương lượng". Thái tử Đan nói: "Hy vọng nhân sự giới thiệu của Thái phó có thể kết giao với Điền tiên sinh, được không?". Vũ nói: "Được". Thái phó cáo từ lui ra, liền đi gặp Điền tiên sinh, nói: "Thái tử điện hạ muốn bàn bạc chuyện quốc gia đại sự với tiên sinh". Điền tiên sinh nói: "Tuân lệnh", liền đi gặp Thái tử. Thái tử điện hạ ra nghênh tiếp, đi giật lùi dẫn đường ở phía trước, lại quỳ xuống trải chiếu. Sau khi Điền tiên sinh ngồi xuống, Thái tử Đan đứng lên thỉnh giáo Điền tiên sinh: "Hai nước Yên, Tần như nước với lửa không thể hợp tác, mong tiên sinh lưu ý!". Điền tiên sinh nói: "Tôi nghe nói ngựa tốt khi thể lực dồi dào có thể đi nghìn dặm, đợi đến khi nó yếu mệt, thì ngựa tồi cũng có thể vượt lên trước được. Nay Thái tử điện hạ biết được là những sự tích lúc rực rỡ nhất của Điền Quang thần, chắc không biết sức lực của thần đã tiêu hao hết rồi. Tuy thần hiện giờ không dám tham gia mưu kế việc nước, nhưng người bạn tốt của thần là Kinh Kha có thể giúp được". Thái tử Đan nói: "Mong cậy ở sự giúp đỡ của tiên sinh, có thể kết giao với Kinh Kha?". Điền Quang nói "Được". Liền đứng dậy cáo từ. Thái tử tiễn ra ngoài, trịnh trọng nói: "Những điều ta và tiên sinh bàn bạc đều là quốc gia đại sự, xin tiên sinh đừng để lộ ra ngoài". Điền Quan cúi người vâng lệnh.

Điền Quang đi gặp Kinh Kha nói: "Tôi và tiên sinh tình cảm sâu nặng, người nước Yên đều biết. Hôm nay Thái tử điện hạ nghe nói về những chiến công khi tôi còn khỏe mạnh nhưng không biết được giờ đây ta không còn được như xưa nữa. Được Thái tử tin tưởng đề cử ta nói: Hai nước Yên, Tề như nước với lửa không thể sống chung, mong tiên sinh chú ý. Ta nghĩ rằng tiên sinh cũng không phải người ngoài, đã giới thiệu tiên sinh với Thái tử điện hạ rồi. Mong tiên sinh vào cung bái kiến Thái tử", lại nói thêm: "Người trung nghĩa không muốn để người khác nghi ngờ. Hôm nay Thái tử nói với tôi: "Những điều ta và tiên sinh bàn bạc là quốc gia đại sự, không thể để lộ ra ngoài". Đây là Thái tử không tin tôi. Như vậy theo lời mà làm khiến cho Thái tử nghi ngờ thì không còn là môn khách nữa".

Điền Quang muốn tự sát để thúc giục Kinh Kha bèn nói "Mong tiên sinh khi đi gặp Thái tử, thì nói Điền Quang đã chết". Kinh Kha vội vào bái kiến Thái tử đồng thời truyền đạt lại lời Điền Quang. Thái tử lạy vái, quỳ hai đầu gối xuống lê đi, khóc lóc một hồi, lúc sau mới nói "Ta nói với Điền Quang tiên sinh không được để lộ đại sự. Nay Điền Quang lại tự sát để chứng minh không để lộ bí mật, chẳng nhẽ đây có thể là ý của ta sao?".

Đợi Kinh Kha ngồi xuống, Thái tử Đan nói: "Điền tiên sinh không biết sự bất tài của ta, khiến ta được gặp tiên sinh, đây quả là do trời thương cho nước Yên, không nỡ bỏ rơi hậu duệ của người. Nay người Tề tham lợi, tham vọng khôn lường, không thu hết đất đai thiên hạ, không khiến Quốc vương trong thiên hạ xưng thần, chừng đó họ chưa thỏa mãn dã tâm. Nay nước Tần bắt Hàn vương làm tù binh, chiếm hết đất đai của họ, lại hưng binh tiến lên phía nam, tấn công nước Sở, tiến lên bắt uy hiếp nước Triệu, nếu nước Sở thất bại, thì họa đó sẽ giáng lên đầu nước Yên. Nước Yên vốn nhỏ lại yếu, đã nhiều lần gặp phải họa chiến tranh, nay nếu đem tất cả sức lực quân Yên ra cũng không chống trọi được nổi quân Tần. Các nước chư hầu đều khiếp sợ Tần quốc, không dám liên kết chống Tần. Theo chủ kiến của ta, cho rằng nếu có được dũng sĩ trong thiên hạ, cử đến Tần quốc, đưa ra món lợi lớn để lôi cuốn Tần vương, khơi dậy lòng tham của hắn, lúc đó có thể ép buộc hắn, khiến hắn trả lại toàn bộ đất đai đã chiếm cho chư hầu, như Tào Mục ép buộc Tề Hoàn công, thế thì quá tốt; vạn nhất việc không thành, cũng có thể nhân cơ hành thích hắn. Các đại tướng của Tần đang cầm quân ngoài thành, mà trong thành lại có chuyện hỗn loạn như vậy, quân thần với nhau sẽ có những nghi kỵ. Thừa cơ, các nước chư hầu có thể liên kết lại, thế thì việc đánh bại nước Tần nhất định thành công rồi. Đây là mong muốn lớn nhất của ta. Xong không biết nên nhờ cậy ai đi, xinh Kinh khanh để tâm giúp".

Một lúc lâu sau Kinh Kha mới nói: "Đây là quốc gia đại sự, hạ thần bất tài, e rằng không dám đảm nhiệm". Thái tử Đan tiến lên dập đầu kiên quyết thỉnh cầu Kinh Kha không nên từ chối, lúc đó Kinh Kha mới đồng ý. Bèn phong Kinh Kha làm Thượng khanh, mời Kinh Kha ở trong phòng sang trọng. Thái tử Đan ngày ngày thăm hỏi, cấp cho ngựa tốt, dê, bò, cùng vàng bạc châu báu, có lúc lại tặng cho xe ngựa, mỹ nữ, hết sức đáp ứng mong muốn của Kinh Kha, để làm hài lòng Kinh Kha.

Rất lâu sau, Kinh Kha vẫn không có dấu hiệu sang Tần. Lúc này đại tướng Tần là Vương công phá nước Triệu, bắt Triệu vương làm tù binh, chiếm toàn bộ đất đai Triệu quốc. Lại tiến quân lên phía bắc chiếm lĩnh địa bàn. Đến biên giới phía Nam nước Yên. Thái tử Đan vô cùng lo lắng, bèn thỉnh cầu.

"Quân Tần sắp qua Dị Thủy, vẫn muốn đợi tiên sinh lâu hơn, nhưng e rằng không đợi được". Kinh Kha nói: "Chính là Thái tử điện hạ không nói câu này, thần cũng đang chuẩn bị bái kiến ngài. Nếu bây giờ đi ngay cũng không có điều gì khiến Tần vương tin, thế thì vẫn không có cách tiếp cận Tần vương. Thế chỉ còn Phàn tướng quân, Tần vương muốn bắt ông ấy, treo thưởng nghìn lạng vàng, vạn lương thực. Nếu thật có được đầu của Phàn tướng quân và bản đồ của nơi hiểm yếu nhất của nước Yên, đem dâng cho Tần vương, Tần vương nhất định sẽ vui mừng gặp thần, lúc đó thần mới có cách thực hiện sứ mệnh". "Thái tử Đan ta, không đành lòng vì lợi riêng mà làm tổn thương ông ta được, mong tiên sinh nghĩ cách khác cho". Kinh Kha biết Thái tử Đan không nhẫn tâm, bèn tự mình đi gặp Phàn tướng quân, nói: "Nước Tần đối xử với tướng quân có thể nói là quá tàn nhẫn! Tất cả gia tộc của ngài đều bị giết hoặc bắt làm nô lệ. Nay nghe nói treo thưởng nghìn lạng vàng và vạn lương thực để mua lấy đầu tướng quân, ngài định làm thế nào?". Phàn Ô Kỳ ngẩng đầu thở dài, khóc nói: "Phàn Ô Kỳ ta mỗi lần nghĩ đến chuyện này, thường đau như cắt thịt, chỉ hiềm chưa có cách gì!". Kinh Kha nói: "Giờ tôi có một cách, có thể giải cứu nước Yên khỏi nguy khốn, báo thù cho tướng quân, ngài cho rằng nên làm thế nào?". Phàn Ô Kỳ liền tiến lên trước nói: "Làm thế nào?". Kinh Kha nói: "Mong có được đầu của tướng quân đến Tần dâng cho Tần vương, Tần vương sẽ vui mừng tiếp kiến tôi. Lúc đó tôi sẽ dùng tay trái nắm lấy hắn, tay phải cầm dao đâm vào ngực. Như vậy báo thù cho tướng quân, lại rửa được mối nhục bị uy hiếp của nước Yên. Tướng quân có ý kiến gì không?". Phàn Ô Kỳ nắm chặt cánh tay mình, tiến lên nói: "Đây chính là việc tôi ngày đêm cắn răng, thắt ruột dằn vặt suy nghĩ, không ngờ hôm nay mới được nghe cao kiến của ngài". Nói đoạn liền tự sát.

Thái tử biết tin, vội chạy đến, ôm lấy xác khóc lóc thảm thiết. Cực chẳng đã chỉ còn biết gói đầu Phàn Ô Kỳ, đặt vào trong tráp. Thế là Thái tử Đan nhờ cậy thanh kiếm ngắn tốt nhất thiên hạ, được đoản kiếm của người Từ phu nhân nước Triệu, đem bạc trắng mua về, gọi thợ đem độc dược truyền vào đoản kiếm. Dùng người thử kiếm, chỉ cần rách thịt, chảy một chút máu là không ai thoát chết. Thế là chuẩn bị xong hành trang cho Kinh Kha lên đường. Nước Yên có một võ sĩ tên là Tần Vũ vương, đã ba mươi tuổi, giết người không ai dám kêu oán. Thái tử Đan liền bảo Tần Vũ vương làm phó sứ, Kinh Kha đợi thêm một người bạn, muốn đi cùng luôn. Nhưng nói người đó ở rất xa, chưa đến kịp, Kinh Kha liền chuẩn bị hành trang thay cho bạn, qua vài hôm vẫn không đi. Thái tử Đan nghi Kinh Kha trì hoãn, nghi ngờ Kinh Kha sinh phản trắc, liền giục Kinh Kha "Thời gian đã gấp gáp lắm rồi, chẳng nhẽ Kinh khanh vẫn còn biện pháp gì khác chăng? Ta nghĩ nên để Tần Vũ vương đi trước". Kinh Kha tức giận, trách Thái tử Đan: "Sao Thái tử điện hạ làm vậy! Đi rồi không hoàn thành việc lớn, trở lại là tên tiểu nhân vô dụng ư? Huống hồ chỉ cầm theo một thanh đoản kiếm xông vào nước Tần tai họa khó lường. Thần sở dĩ vẫn chưa đi là do còn đợi một người bạn đến, cùng đi. Nếu nay Thái tử trách thần chậm trễ, vậy thì thần từ biệt đi đây, đi luôn cũng được". Nói đoạn lên đường. Thái tử Đan cùng mấy binh khách biết việc này, đều mặc áo trắng, đội mũ trắng đến tiễn đưa. Đến bờ Dị Thủy, qua sông là đã vào biên giới Tần. Lúc này Kinh Kha vỗ tay hát, hát khúc "biến uy" thê lương, những người đưa tiễn thảy đều nước mắt chứa chan. Kinh Kha lại tiến lên trước hát "gió vù vù a... a sông Dị Thủy lạnh, tráng sĩ một đi không trở lại!". Lại hát một khúc "Vũ thanh" bi tráng, mọi người ánh mắt đầy phẫn nộ, căm hờn, thế là Kinh Kha lên đường, không ngoảnh đầu lại. Kinh Kha đến Tần, cầm theo lễ vật giá trị ngàn vàng, đút lót cho bọn trọng thần của Tần vương là Mông Gia, thứ tử Mông Gia báo trước với Tần vương: "Yên vương quả thật đã khiếp sợ uy danh của Đại vương, không dám xuất binh chống lại quân đội Tần, muốn đem toàn bộ đất nước thần phục Tần vương, xếp vào hàng các nước chư hầu của Tần, cống nạp như một quận huyện để cúng tế tông miếu tiên vương. Do tâm lý lo sợ không dám đích thân đến tâu trình, đã chặt đầu Phàn Ô Kỳ, mang theo bản đồ Đốc Kháng nước Yên, đặt trong mai rùa, gói ghém cẩn thận. Yên vương đích thân đến trước cung đình bái kiến, cử sứ giả đến trước bẩm báo Đại vương. Đợi lệnh của Đại vương. Tần vương nghe xong hết sức vui mừng, bèn mặc triều phục, thiết yến tiệc cửu tân, triệu kiến sứ giả tại Hoặc Dương cung. Kinh Kha bưng chiếc tráp đựng đầu Phàn Ô Kỳ. Tần Vũ vương bê chiếc tráp đựng bản đồ, hai người một trước một sau tiến vào. Đến trước điện, Tần Vũ vương sợ đến nỗi biến sắc, toàn thân run bắn, quần thần cảm thấy kỳ lạ. Kinh Kha quay đầu nhìn Tần Vũ vương cười rồi tiến lên trước tạ tội: "Anh ta là người chuyên bắt thú hoang ở miền bắc, từ trước đến giờ chưa bao giờ nhìn thấy Thiên tử, cho nên trong lòng hết sức sợ hãi. Mong Đại vương khoan dung tha thứ để anh ta hoàn thành sứ mạng sứ giả". Tần vương nói Kinh Kha: "Đem bản đồ trên tay Vũ vương dâng đến". Kinh Kha bèn lấy bản đồ trình lên. Tần vương mở bản đồ ra xem, mở đến trang cuối thì lộ ra đoản kiếm Kinh Kha. Kinh Kha bèn nắm chặt tay áo Tần vương, tay kia cầm đoản kiếm đâm vào Tần vương, chưa đâm trúng người Tần vương, Tần vương thất kinh, cố gắng bật dậy, ống tay áo bị xé toạc. Tần vương muốn rút kiếm, kiếm rất dài, bèn dùng một tay nắm chặt đầu kiếm. Lúc này trong lòng hết sức hoảng sợ, kiếm lại rất chặt, nên không thể rút ngay ra được. Kinh Kha nhanh chóng đuổi kịp Tần vương, Tần vương chạy quanh cột trụ để tránh, quần thần đều hết sức kinh hoàng, do sự việc quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng nên hoàn toàn mất bình tĩnh. Theo lệnh Tần vương quần thần không được đem theo vũ khí vào trong điện. Những vệ binh mang binh khí đều xếp hàng dưới điện, không có lệnh Quốc vương không dám lên điện. Đang trong lúc nguy khốn không kịp hạ lệnh cho vệ binh, nên Kinh Kha mới kịp đuổi theo Tần vương.

Quần thần đang lúc hoảng hốt, tay không vũ khí đối phó với Kinh Kha. Lúc này, quan ngự y Hạ Vô Trở dùng gói thuốc đang cầm trên tay đến tấn công Kinh Kha. Tần vương đang chạy quanh cột trụ tránh, hoảng hốt không biết nên làm thế nào. Quần thần xung quanh hét to: "Đại vương, quay kiếm lại!". Lúc này Tần vương mới quay kiếm ra sau, rút ra đánh Kinh Kha, chém đứt chân trái của Kinh Kha. Kinh Kha cầm kiếm đâm về phía Tần vương, nhưng không trúng, lại trúng vào cột đồng. Tần vương lại dùng kiếm tấn công Kinh Kha. Kinh Kha khắp người thương tích. Biết việc không thành, bèn dựa vào cột đồng cười, quỳ trên đất mắng chửi: "Sự việc không thành công, là do muốn bắt sống ngươi, để ép ngươi hứa hoàn trả đất đai, để báo thù cho Thái tử". Thế là mọi người dồn đến giết chết Kinh Kha. Tần vương còn hoảng sợ một hồi lâu. Lúc này ở nước Yên, Thái tử Đan cùng Dị Nhân bị giam hãm, lúc đầu không biết có một thích khách là Kinh Kha xuất hiện trong thanh cuối của cuộc đời mình, càng không biết sự cố của thích khách Kinh Kha mà mình đang chỉ huy đó, chấm một dấu chấm hết bằng một bi kịch. Thái tử Đan mãi về sau mới biết vị công tử bên cạnh chính là Tôn Dị Nhân, cháu của Tần vương. Sự bắc cầu quen biết giữa hai người là con chó vàng của Thái tử. Lúc đầu Thái tử cũng không thích con chó đực không biết phục tùng này, trong lòng Thái tử chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó là trở thành một Quốc vương có tài thao lược, chỉ huy thiên hạ an bang hưng quốc. Thái tử không muốn để các nước khác có chút mảy may hình ảnh nào. Khi tên nô tài thoạt đem đến trước mặt Thái tử một con chó vàng, Thái tử nổi giận mắng Hoạt một trận, nói anh ta đến Hàm Đan vẫn chỉ nghĩ chơi bời. Con chó vàng không biết xảy ra việc gì, nhìn Thái tử đang lửa giận bừng bừng bằng ánh mắt sợ hãi, bất ổn. Hoạt nước mắt lã chã. Tên nô tài trung thành đến từ nước Yên này nói vẻ biết lỗi: "Nô tài mua con chó này không phải là để cho mình mà là vì Thái tử điện hạ". Thái tử Đan nói: "Vì ta? Sao lại là vì ta?" Hoạt nói: "Con chó vàng này rất tinh, có thể giúp Thái tử giải sầu. Còn có thể làm vệ sĩ, một khi có việc nguy hiểm, nó sủa lên oăng oẳng mấy tiếng, cũng coi là báo hiệu. Vào lúc gay cấn còn có thể chiến đấu với kẻ thù nữa!" Điều tra sự trung thành của nô tài, đối với Thái tử không có gì khó. Thái tử biết lời Hoạt nói là những lời từ tâm can. Thái tử dằn vặt không yên vì đã trách lầm Hoạt, liền xin lỗi: "Ta nghĩ sai rồi, ta nghĩ sai rồi. Như ngươi đã nói vậy, thôi hãy nuôi con chó vàng này". Hoạt cười bảo Thái tử Đan đặt cho con chó một cái tên là "Võ Sĩ". Chẳng lâu sau, Thái tử phát hiện "Võ Sĩ" quả là đáng yêu, là một người bạn giúp giải sầu. Có lúc Hoạt không ở trong phủ, bên ngoài có người gõ cửa, "Võ Sĩ" sủa mấy tiếng, Thái tử Đan biết là có người đến, nói với nó "Đi, xem là ai?" "Võ Sĩ" cuống quýt chạy trước Thái tử, đến cổng dùng mõm mở cửa, dùng thân mình chặn cửa để chủ nhân và khách vào. Có lúc Thái tử Đan vùi đầu nghiên cứu điển tích, buồn ngủ quá "Võ Sĩ" liền lăn tròn qua lại đùa với Thái tử, hoặc làm trò rất ngộ nghĩnh, khiến cho chủ nhân phải bật cười. Có lúc, những đồ vật của Thái tử như bao kiếm chẳng tìm thấy đâu, Hoạt lo lắng đến nỗi mồ hôi nhễ nhại. "Võ Sĩ" dùng mõm gặm lấy từ một góc nào đó ra, nhẹ nhàng đặt ra trước mặt Thái tử. Dần dần, Thái tử Đan thật sự cảm thấy nó là một người bạn thân không thể thiếu được. Có một lần Thái tử múa kiếm mệt quá muốn gọi "Võ Sĩ" đến tiêu khiển, gọi nó một hồi lâu cũng không thấy tăm hơi con chó thính đâu cả. Thái tử Đan tìm kiếm một hồi khắp phòng, ngoài vườn, cũng không thấy tông tích, bèn ra ngoài ngõ tìm. Đúng lúc Thái tử bước ra cửa ngó xung quanh, một loạt tiếng sủa oăng oẳng từ trong phòng ngay đó vang lên. Thái tử Đan theo tiếng sủa đi tìm, mở cửa phòng thấy "Võ Sĩ" đang đùa với một con chó cái ở trong vườn, sau đó hai con chó chạy nhảy, nô đùa lăn lộn trên mặt đất. Thái tử Đan cảm thấy vừa tức vừa buồn cười, mắng thầm "Gã này cũng biết ra ngoài tìm hoa bắt bướm rồi!"

"Con chó ghẻ nhà ai dám đến trước phòng ta sủa bậy cắn càn!" Dị Nhân bực bội từ trong phòng đi ra. Mấy hôm trước, Thái tử Đan đã sớm nghe nói Tần vương Tôn Dị Nhân cũng đến Hàm Đan làm con tin. Hoạt còn miêu tả chi tiết hình dáng Dị Nhân. Thái tử Đan muốn đi thăm hỏi, chưa tìm ra lý do, bất chợt đến sẽ khiến người ta cảm thấy đường đột. Hôm nay nhìn thấy cặp lông mày của Dị Nhân, Thái tử Đan đoán người này hai mắt lồi, hơi có chút gì đó không bình thường, có thể là Tần vương Tôn Dị Nhân, liền vội thi lễ nói "Làm phiền công tử, xin ngài xét tội". Dị Nhân lạnh lùng liếc Thái tử Đan một cái. Sau khi Thái tử Đan tự giới thiệu mình là ai, lòng khấp khởi đợi lời mời nhiệt tình của Dị Nhân. Thái tử Đan trong lòng nghĩ: "Hai số phận giống nhau đều là ở Hàm Đan làm con tin, có thể khiến họ vừa gặp mà đã như thân". Dị Nhân rời mắt khỏi Thái tử Đan, nhìn về phía hai con chó nói: "Đáng ghét không biết chui từ đâu ra. Nhanh đem về đi!" Thái tử Đan thấy Dị Nhân đối với mình không thân thiện, vẫn cho rằng Dị Nhân chưa nghe rõ câu mình nói, lại hắng giọng nói: "Ta là Thái tử Đan, cũng là con tin ở Triệu, ở ngay gần chỗ của công tử, chúc mừng công tử đã đến tệ xá". Dị Nhân nói: "Ta biết, tiên sinh chẳng phải là Hỷ Yên Vương đại công tử sao?" Thái tử Đan nói: "Vâng, vâng". Dị Nhân nói: "Thế tiên sinh đem chó về đi, hôm khác gặp lại". Thái tử Đan dắt "Võ Sĩ" về, trên đường về nghĩ vị Tần vương Tôn Dị Nhân này trông thần thái có chút gì đó không bình thường. Nghĩ một hồi, Thái tử Đan cảm thấy mình hay đa nghi quá thôi, vẻ lạnh lùng của Dị Nhân, cũng có thể là do lần đầu gặp gỡ. Về đến phòng, Thái tử Đan cười nói với Hoạt: "Vị Tần vương Tôn Dị Nhân này trông hình dáng thật phù hợp với tên, hai con mắt cứ hướng ra ngoài như mắt cá, hơn nữa lại không đều". Hoạt nói: "Thần vẫn chưa nhìn thấy ông ấy. Nhưng nghe mọi người nói họ chưa bao giờ nhìn thấy một con người có tướng mạo lạ kỳ như thế. Sau này có cơ hội, thần và Thái tử điện hạ sẽ đi thăm hỏi vị Tần vương Tôn Dị Nhân này". Thái tử Đan hỏi Hoạt: "Ngươi nói xem, vị Tần vương tôn này liệu có coi thường chúng ta không?" Hoạt nói: "Coi thường chúng ta? Hắn coi thường thần là lẽ đương nhiên. Một người là Tần vương tôn, một người là lê dân nô bộc. Nhưng hắn làm sao dám coi thường điện hạ? Thái tử điện hạ là bậc vương giả danh chính ngôn thuận, đợi đến khi Yên vương nghìn thu, Thái tử sẽ đường đường là vua một nước. Theo thần biết, Dị Nhân trong số hai ba Tần vương tôn là người kém cỏi nhất, việc lập làm Thái tử e rằng không đến lượt hắn. Hơn nữa cùng cảnh tha hương như nhau, làm con tin nơi nước người, có gì là khác biệt, cao, thấp, sang, hèn đâu?" Thái tử Đan nói: "Ta cũng nghĩ như vậy, cùng cảnh ngộ xa quê hương, làm con tin nơi nước người còn phân biệt đâu là cao thấp sang hèn nữa! Cho nên khi ta bước ra, thành tâm mời hắn đến chỗ chúng ta chơi". Hoạt nói: "Thế Thái tử điện hạ chuẩn bị sơn hào hải vị bày tiệc rượu, Tần vương Tôn Dị Nhân sao lại không thể đến thăm Thái tử được?" Thái tử Đan thích giao du, kết giao với nhân sĩ trong thiên hạ, có thể kết bạn với người khác ở Hàm Đan, là điều vui. Cho dù hai nước Tần, Yên đã nhiều lần binh đao khói lửa, đã nhiều lần ân oán. Nhưng Thái tử Đan nghĩ, đó là việc của thời cha ông họ. Cũng có thể sau này hai nước Yên, Tần còn giao tranh, nhưng bây giờ vẫn còn mưa tạnh gió ngừng. Kết bạn, nhiều bạn vẫn còn tốt hơn, sớm ngày nào hay ngày đấy. Huống hồ vị Tần quốc Tôn Dị Nhân này vẫn là hậu duệ của Quốc vương Tần hùng mạnh, một khi trở thành Yên vương, chắc chắn sẽ cần đến hắn chứ.

Thái tử Đan sai Hoạt mua về một ít rượu, cất vào bình đợi sẵn. Khi không còn việc gì, Thái tử Đan đưa mắt nhìn ra phía cửa. Hoạt nói: "Thái tử điện hạ, ngài muốn gặp Tôn Dị Nhân đến mức mỏi mắt rồi!" Thái tử cười không nói gì. Một buổi trưa, Thái tử Đan đang mải mê trong những câu kinh thư tuyệt đỉnh. "Võ Sĩ" cất tiếng sủa ròn giã khiến Thái tử rời mắt khỏi cuốn sách nhìn ra cửa. Sau khi Hoạt mở cửa thì thấy Dị Nhân đi vào. Thái tử Đan vội bước ra, nhìn thấy vẻ lạnh lùng trên nét mặt Dị Nhân dưới ánh nắng, Thái tử rất bất ngờ. Dị Nhân đùng đùng nổi giận nói với Thái tử: "Thái tử Đan, ngươi đừng có bức hiếp người quá!" Thái tử Đang ngơ ngác không hiểu, không biết câu nói này từ đâu, liền vội gập người thi lễ nói: "Xin Dị Nhân công tử bớt giận, có chuyện gì từ từ nói". Dị Nhân nói: "Võ Sĩ của ngươi nhiều lần lén vào trong phòng ta giao cấu với con "Thuyền Quyên" của ta, làm cho nó đẻ ra một lũ nhóc con, oăng oẳng suốt, thế mà con "Võ Sĩ" lại không thèm đếm xỉa gì, để ta phải chăm sóc lũ nhóc, làm gì có chuyện phi lý thế!" Thái tử Đan và Hoạt nghe xong đều cười ồ. Dị Nhân hỏi: "Các người cười cái nỗi gì?" Thái tử Đan nói: "Chỉ là trò của động vật với nhau thôi mà, sao lại nói là chúng ta bức hiếp người quá đáng!" Dị Nhân nói một cách bực tức: "Con chó đực của các ngươi nếu không đến gạ gẫm, thì con chó cái nhà ta sao có kết cục thế này! Tòi ra một đống "giẻ rách", đều do ta phải trông nom, sao vô lý thế?" Thái tử Đan ngừng cười, nghiêm túc hỏi: "Việc đã đến nước này, công tử điện hạ nói xem nên làm thế nào?" Dị Nhân nói: "Hoặc là giết chết "Võ Sĩ" hoặc là cấp tiền để nuôi lũ chó con, hai cách tùy Thái tử chọn một". Dị Nhân nói câu này, Thái tử Đan cảm thấy vô cùng bất ngờ, Thái tử không ngờ đường đường một Tần vương tôn lại nhỏ nhen đến vậy, một tên tiểu nhân với những toan tính vụn vặt. Thái tử không buồn tranh luận đôi co với hắn, bèn nói với Hoạt: "Lấy 500 quan tiền đưa cho công tử điện hạ, coi như tiền nuôi dưỡng lũ chó con". Rất nhanh, Thái tử Đan thấy Dị Nhân đón lấy túi tiền nặng trịch, ra về vẻ mặt đầy tự đắc. Bước đi nhẹ tênh cùng túi tiền nặng trong tay, nhìn Dị Nhân tạo nên một sự tương phản mạnh. Trong lòng hắn nghĩ: "Xem ngươi một Thái tử nước Yên bé nhỏ, còn dám ức hiếp một Tần vương tôn này nữa không?" Sau khi tỏ ra đắc thắng, Dị Nhân bước vào cửa lớn, Công Tôn Càn hớn hở hỏi: "Dị đại công tử, trong túi là tiền hả?" Dị Nhân đáp: "Ta không lấy tiền thì còn lấy gì, không ít đâu!" Công Tôn Càn nói "Bao nhiêu? Có đến hai trăm quan tiền không?" Dị Nhân cười, nói: "Bốn trăm còn đủ!" Dị Nhân bước vào trong phòng, nhìn thấy bốn con mắt xanh ngọc như ánh lửa ma quái, sợ đến mức mặt mày méo mó. Hắn nhận ra đó là con "Thuyền Quyên" và "Võ Sĩ". Hai con chó nằm sóng đôi nhìn Dị Nhân. Trong ánh nắng buổi sáng rực rỡ, hai hàng lông mi của chúng chớp liên tục, mắt lóe sáng. Dị Nhân chú ý đến ánh mắt của "Thuyền Quyên" và "Võ Sĩ" có sự khác biệt một trời một vực, như sự tương phản tự nhiên của ngọc bạch và sắt rỉ.

Khi Dị Nhân đẩy cửa bước vào, "Võ Sĩ" thè cái lưỡi như ngọn lửa liếm liếm, thể hiện sự thèm ăn. Dị Nhân chẳng thèm để ý đến nó, mở cửa đi thẳng vào phòng trong. "Thuyền Quyên" và "Võ Sĩ" bắt đầu âu yếm nhau bằng những cử chỉ trìu mến mà tạo hóa đã ban cho từ muôn đời.

Xem tiếp Chương 7 Trường Bình phong hỏa

Hàn Diệu Kỳ

Chương 7 Trường Bình phong hỏa

Đúng vào lúc hai con "Võ Sĩ" của Thái tử Đan và "Thuyền Quyên" của Dị Nhân đang giao hợp trong hưng phấn tột độ thì hai nước chư hầu lại tranh giành, xâu xé lẫn nhau như chó điên. Đầu xuân, cuối tháng mười hai năm 260 trước công nguyên, mười vạn đại quân Tần tấn công nước Hàn. Trên đường đi trời đang lúc giá lạnh, mọi thứ đóng băng cứng như đá. Vó ngựa và bánh xe quan Tần đi trên mặt đường, cày mặt băng bắn lên tung toé. Những con quạ đói đậu trên cành cây trơ trụi, thấy vó ngựa quân Tần như nước triều ầm ầm kéo đến liền vỗ đôi cánh đen xì bay toán loạn trên bầu trời, nhanh chóng mất hút. Mười vạn quân Tần thế như chẻ tre, không gì cản nổi. Đối mặt với thế tấn công hùng mạnh của quân Tần, vua Hàn là Hằng Huệ vương ruột như lửa đốt, khiếp sợ vô cùng.

Thám báo liên tục đêm ngày phóng ngựa đến Đô thành, tin thất trận tới tấp đưa đến ngự án của Hằng Huệ vương.

Thiếu Điển thất thủ!

Cao Bình thất thủ!

Cảnh Thăng thất thủ!

Năm 262 trước công nguyên, quân Tần dưới sự chỉ huy của Vũ An quân Bạch đã tiến vào vùng phụ cận của quân Thượng Đảng. Nhanh chóng công phá thành Dã vương - bức bình phong của Thượng Đảng. Tin này như tiếng sét dội vào khiến Hằng Huệ vương hồn siêu phách lạc. Sau khi thành Dã Vương thất thủ, quân Thượng Đảng giờ như bị cô độc với bên ngoài, trước mặt, sau lưng đều bị công kích. Đất của Thượng Đảng thuộc phía Nam Sơn Tây ngày nay. Khu vực phía đông lưu vực Tẩm Thủy, bố phòng trấn thủ quận ở Hồ Quan. Nhưng đất vốn dĩ của nước Hàn, lại ở phần đông nam Sơn Tây và phần trung của tỉnh Hồ Nam ngày nay. Quân Tần chiếm được thành Dã Vương liền chia tách quận Thượng Đảng và nước Hàn. Hàn Hằng Huệ vương biết rằng quận Thượng Đảng khó giữ nổi, trong lòng nghĩ chi bằng bó tay dâng cho nước Tần, đổi lấy sự hòa hiếu với Tần. Thế là lệnh cho Dương Thành Quân đem ý chỉ vào Tần, thấy Tướng quốc Phạm Tuy yêu cầu cắt đất cầu hòa. Phạm Tuy đi gặp Chiêu Tương vương, truyền đạt ý của Hằng Huệ vương. Chiêu Tương vương mừng đến nỗi vểnh cả râu, luôn mồm nói: "Hằng Huệ vương cắt đất cầu hòa, xem ra là người biết thời thế!" Phạm Tuy thấy Chiêu Tương vương vui mừng tột độ liền nhắc nhở: "Đại vương, Hàn Hằng Huệ vương tự động hiến thành là có điều kiện". Chiêu Tương vương không vui hỏi: "Điều kiện gì?" Phạm Tuy đáp: "Sau khi quân Thượng Đảng quy về Tần, quân Tần ngừng tấn công Hàn". Chiêu Tương vương mỉa mai: "Đại tướng quốc của quả nhân ơi! Sao lại thông minh cả đời mà hồ đồ một lúc thế! Trước tiên lấy được Thượng Đảng, rồi sau đó sẽ hay. Hàn Hằng Huệ vương, lẽ nào có thể trói chặt được mười đầu ngón tay của vạn quân của Vũ An quân!"

Sau khi được sự chấp nhận của Chiêu Tương vương, Hàn Hằng Huệ vương thở phào nhẹ nhõm, lại cử Dương Thành Quân đến Hồ Quan truyền đạt với tướng giữ thành là Cận Hoàng Trọng mệnh đầu hàng Tần. Cận Hoàng Trọng là một vị võ tướng anh dũng nghi ngờ việc quân Tần công thành, không chịu nghe triệu lệnh Hàn Hằng Huệ vương. Dương Thành Quân hung hăng dọa nạt: "Cận Thủ Thành, ngài làm quan cao hơn 20 năm, sao lại ngày càng hồ đồ thế! Chống lại quân lệnh, tội không thể tha!" Cận Hoàng Trọng khảng khái nói: "Mọi người thường nói "Khiết bình tam tri, bất thất thủ khí", tức là đã giúp người giữ một bình nước, không thể tùy tiện làm mất, huống hồ ta trấn thủ một vùng đất rộng lớn thế này! Xin Dương Thành Quân bớt giận sự cố chấp của bản tướng, quyết không thể bó tay đem dâng quận Thượng Đảng cho quân Tần lang sói. Thần khẩn thiết xin ngài truyền đạt đến Đại vương. Thần nguyện dốc sức chống Tần". Dương Thành Quân cười lạnh lùng: "Thế không phải là lấy trứng chọi đá sao". Cận Hoàng Trọng đầy khí phách nói: "Nếu không chống được quân Tần, thì chết là cùng!" Dương Thành Quân lại nói: "Thường nói, thiên mệnh bất khả kháng, quân mệnh bất khả vi! Ta phụng mệnh, khuyên Cận Thủ Thành hãy nghĩ kỹ hãy hành động!" Cận Thủ Thành không hề nao núng nói "Ý thần đã quyết, dù thế nào cũng không thay đổi, không hối hận". Dương Thành Quân tức giận nói: "Cận Thủ Thành, ta nhắc nhở ông một chút những điều ta nói lúc nãy là triệu lệnh của Đại vương!" Cận Thủ Thành rút kiếm chém bể một góc án, trợn mắt nói: "Dương Thành Quân nhanh chóng về kinh thành đi, nếu còn lôi thôi tiếp, sẽ như miếng bàn này đó!" Dương Thành Quân lập cập nói, đi khỏi Hồ Quan chạy miết về kinh thành. Hàn Hằng Huệ vương nghe nói Cận Hoàng Trọng không tuân lệnh, nổi giận lôi đình nói: "Việc cắt đất cho Tần đã nhận lời với Phạm Tuy, nếu không làm chằng hóa ra nói lời nuốt lời sao, thất tín với người. Tên Cận Hoàng Trọng đáng ghét này, làm hỏng việc lớn của Quả Nhân, thật đáng muôn chết. Ngự sử, truyền lệnh quả nhân, triệu Cận Hoàng Trọng về kinh chịu tội!" Dương Thành Quân vội nói: "Đại vương, hai nước Hàn, Yên đang chinh chiến, nếu làm vậy e sẽ gây nên biến ở Thượng Đảng". Hàn Hăng Huệ vương hỏi: "Một tên quan trấn thành nhỏ nhoi, lại dám to gan, không nghe theo lệnh Quả nhân, nếu không nghiêm trị, chẳng phải sẽ làm gương xấu cho kẻ khác sao? Huống hồ, nếu nước Tần không chiếm được Thượng Đảng, sẽ dấy binh tấn công, kinh thành nước Hàn cũng sẽ bị vó ngựa quần nát!" Dương Thành Quân nói: "Đại vương, tiểu thần có một cách, theo ý thần, chi bằng cử một người thay Cận Hoàng Trọng, chấp hành lệnh của Đại vương". Hàn Hằng Huệ vương hỏi: "Người nào có thể gánh vác được nhiệm vụ này?" Dương Thành Quân nói: "Phùng Đình Khả!"

Hàn Hằng Huệ vương nói: "Quả nhân sao không biết người này?" Dương Thành Quân nói: "Đại vương quên rồi sao? Người này đã từng làm quan, là một điển quan tuyệt vời, sau đó làm nhiệm vụ bên ngoài làm huyện lệnh. Ông ta tướng mạo đường hoàng". "Quả nhân nhớ ra rồi, người này được". Phùng Đình đến Hồ Quan vào một buổi sáng đẹp trời. Quân úy thủ thành thấy một người khẳng khiu như ống lửa cho rằng là ngự sử của Hàn Hằng Huệ vương. Đến khi biết Phùng Đình là quân thủ mới đến, thảy đều há mồm trợn mắt. Một người trông bộ dạng yếu đuối, trói gà không chặt thế này, có thể liệu có đủ uy phong thống lĩnh họ chống lại quân Tần được không? Rất nhiều người thấy đôi giầy bé nhỏ của Phùng Đình giắt ở bàn đạp yên ngựa, càng lộ rõ yếu nhược. Phùng Đình nghiêm nghị đi trên phố, nhanh chóng bỏ lại những lời bình phẩm sau lưng, tiến vào sở huyện.

Cận Hoàng Trọng đã cùng các quan lại cung kính chờ đợi nghênh tiếp tại trị Sở. Ông hiểu rõ dụng ý cử Phùng Đình đến của Hàn Hằng Huệ vương, thay ông chấp hành chiếu lệnh hàng Tần. Sau khi Cận Hoàng Trọng bái kiến Phùng Đình, rút kiếm nước mắt chứa chan nói: "Mưu đồ chống Tần giữ đất của ta coi như đã tiêu tan! Trở về, Đại vương nhất định không tha cho ta tội chống lệnh; Hàng Tần rồi, quân Tần cũng sẽ trừng phạt gay gắt quân đội do ta thống soái. Đã vậy để ta tự kết liễu đời mình!" Nói đoạn rút kiếm định tự vẫn. Phùng Đình vội tiến đến giằng thanh kiếm trong tay Cận Hoàng Trọng, nói: "Ta nghe nói người tự vẫn sẽ đau đớn vô cùng, hay là để ta thay Thủ Quân thực hiện!" Phùng Đình giơ kiếm, lệnh cho đem đến một chung rượu, để Cận Hoàng Trọng giơ tay lên dùng kiếm rạch một nhát, để cho dòng máu đỏ tươi nhỏ vào chung rượu; sau đó cũng tự cắt tay mình để máu chảy vào. Trong lúc mọi người còn đang không hiểu chuyện gì, Phùng Đình nâng chung rượu lên, nói một cách đầy chí khí: "Bản Quận Thủ nguyện sống chết cùng Hồ Quan, quyết không hàng Tần!" tiếp đó nâng chung rượu uống một ngụm, sau đó đưa cho Cận Hoàng Trọng. Lúc này Cận Hoàng Trọng phấn khởi tiếp lấy chung rượu uống cạn, nói: "Tiểu thần Cận Hoàng Trọng nguyện cùng Quận Thủ đại nhân dù tan xương nát thịt quyết không từ nan!" Sau khi lễ ăn thề kết thúc, Quận Thủ mời Phùng Đình bắt đầu bố trí thủ thành chống Tần. Chiêu Tương vương lúc đầu nghe tin Hàn Hằng Huệ vương cắt đất bó tay xin hàng thì vô cùng vui mừng, mở tiệc ăn mừng cùng văn võ bá quan. Sau đó nghe tin Quận Thủ Phùng Đình chống lệnh, còn thề nguyện sẽ chiến đấu đến cùng. Chiêu Tương vương tức giận vô cùng trước sự nói nuốt lời của nước Hàn, lệnh cho Ngũ An Quân lập tức tăng tốc tiến công Hồ Quan. Ngũ An Quân đem quân đến vây chặt Hồ Quan, sau đó dùng thang tiến công thành từ bốn phía. Phùng Đình không kể ngày đêm luôn túc trực ở đầu thành chỉ huy quân dân trong thành dốc sức chống Tần. Ban ngày, Phùng Đình chỉ cần nhìn xuống dưới là thấy rõ quân Tần dày đặc bốn phương tám hướng. Trong tiếng chuông trống, la ó ầm ĩ, Phùng Đình hô hào chỉ huy quân sĩ trong thời gian dài, đến nỗi giọng khản đặc. Ông hiểu rõ lương thực đã bị cắt. Đường ra vào Hồ Quan đã bị quân Tần chiếm cứ, hown nũa ông đã chống lại mệnh lệnh hàng Tần của Hàn Hằng Huệ vương, sẽ không có bất cứ sự chi viện nào nữa của nước Hàn. Phùng Đình chỉ huy quân sĩ kiên trì thủ thành hơn hai mươi ngày, đẩy lùi hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác. Nhưng lương thảo và củi đốt trong thành Hồ Quan đã cạn kiệt, bắt đầu phải giết ngựa chống đói, dùng xương ngựa làm củi. Một hôm Phùng Đình đang bố trí quân phòng ngự ở đầu thành phía bắc, bỗng có một thiếu phụ đầu tóc rối bù, máu me ròng ròng bất chấp sự ngăn cản xông đến nhảy lên đầu thành quỳ phục trước mặt Phùng Đình, khóc lóc thảm thiết nói: "Tiểu nữ bẩm đại nhân nhà tiểu nữ có ba đứa con trai, con trai út đã bị người đàn ông lòng lang dạ sói đổi cho con trai nhà khác giết thịt ăn rồi, tiểu nữ đến nhà đó tìm con thì nó đã bị nuốt vào bụng bọn chúng từ lâu rồi". Phùng Đình sau khi nghe xong, kinh hãi, trong thành Hồ Quan đã bắt đầu ăn thịt lẫn nhau rồi! Người thiếu phụ đó dùng hai bàn tay run rẩy ôm lấy chân Phùng Đình nói: "Hãy mau cứu hai đứa con của tiểu nữ!" Trước lời thỉnh cầu ai oán của thiếu phụ, Phùng Đình lòng như dao cắt. Ông đỡ thiếu phụ dậy, cắt một ít thịt ngựa đưa cho thiếu phụ. Rồi ra lệnh không ai được ăn thịt lẫn nhau. Nếu ai trái lệnh sẽ bị chặt đầu.

Thế là, tuân theo quân lệnh, được truyền đi nhanh chóng mọi ngõ ngách trong thành. Nhà nhà bếp núc đều tắt, rất nhiều người đói chỉ còn thoi thóp. Quân lính giữ thành, mỗi ngày chỉ được húp hai bát cháo loãng để cầm hơi.

Trông thấy trước mắt chỉ là một đội quân đã mất đi khả năng chiến đấu như vậy, Phùng Đình trong lòng nóng như lửa đốt, liền đi tìm Cận Hoàng Trọng và một số bộ hạ thương lượng, quyết định mang quận Thượng Đảng hiến cho Triệu. Như vậy có thể khiến quân mũi nhọn của nước Tần quay sang nước Triệu, giảm nhẹ được áp lực về quân sự của Tần đối với nước Hàn. Nhân cơ hội mà kết giao với nước Triệu. Hàn Triệu hợp sức lại với nhau cùng đối phó với nước Tần.

Phùng Đình sau khi bàn bạc cân nhắc cùng bộ hạ của mình đã quyết định như vậy. Cận Hoàng Trọng nghi hoặc nói: "Hồ Quan sơn cùng thủy tận như vậy, cùng với Quận Thượng Đảng trong cuộc chiến đã trở thành đám tro tàn. Triệu Lý Thành vương có dám giơ tay ra hứng không?"

Triệu Lý Thành vương đứng trước vận may tự nhiên đến, nay cảm thấy lúng túng. Không phí một tân binh nào, cũng không mất một mũi tên nào, tự nhiên chiếm không được mười bảy thành của Quận Thượng Đảng nước Hàn. Ông triệu tập quần thần lại bàn bạc. Khi vị quân vương cười, bộ mặt càng thêm dài ra. Ông lướt nhìn một lượt quần thần, nói giọng rất đắc ý: "Tên ngu ngốc Hàn Huệ vương nước Hàn này! Cũng không giữ nổi Hồ Quan, lại còn chuẩn bị mang mười bẩy thành ở Quận Thượng Đảng cống cho Chiêu Tang Vương nước Tần. Bọn binh sĩ không muốn theo Tần mà muốn theo Triệu Quốc. Phùng Đình đã phái người đến hiến thành rồi, các người xem làm thế nào đi tiếp nhận chúng đây".

"Đại vương, chúng ta không thể thu nhận Hiến Thành của nước Hàn được". Triệu Lý Thành vương dứt lời không ngờ lại bị Bình Dương quân Triệu Báo Nhi tâu. Triệu Lý Thành vương hỏi lại với giọng không vui: "Sao khanh lại nói như vậy?"

Bình Dương quân Triệu Báo trả lời: "Tôi nghe thánh nhân có nói, đối với những vật vô duyên vô cớ mà đạt được thì nỗi lo sau này là vô cùng".

Triệu Lý Thành vương hỏi lại: "Quân dân ở mười bẩy thành quận Thượng Đảng ngưỡng mộ nhân đức của quả nhân một lòng muốn theo Triệu Quốc, cam tâm tình nguyên theo ta, làm sao gọi là vô duyên vô cớ được".

Bình Dương quân Triệu Báo phân tích: "Hồ Quan đã bị quân Tần bao vây hơn một tháng, lương thực đạn dược trong thành đều cạn kiệt, không được tiếp viện. Binh bại thành vỡ, gần đến chỗ tiêu vong rồi. Trong tình hình vô phương cứu vãn mới mang Thượng Đảng dân cho Đại vương. Miếng mồi ngon đến miệng lại để người khác cướp mất, liệu Chiêu Tang Vương có chịu khoanh tay đứng nhìn không, nhất định sẽ mang quân khiêu chiến với nước Triệu ta. Phùng Đình không phải là có ý tốt mang đất đai dâng cho Đại vương, mà là giáng họa cho chúng ta vậy".

Quần thần trên triều, bao gồm cả Thượng khanh Phổ Tướng và đại tướng quân Liêm Pha đều cho rằng Triệu Báo nói rất có lý, chụm đầu vào bàn tán: "Bình Dương quân nói rất đúng, rất đúng".

Triệu Báo phân tích kỹ hơn các lợi hại cho Thành Vương nghe: "Ngày nay, nước Tần đang mạnh, khí thế đang lên, bình hùng thế vượng, nước chư hầu nào mà dám chống lại thì như trứng chọi đá là tự tìm đến chỗ diệt vong".

Lúc này Triệu Lý Thành vương đã bị cái lợi trước mắt làm mê hoặc, bỏ ngoài tai những lời trung nghĩa nghịch tai của Bình Dương quân, khăng khăng làm theo ý mình nói. "Quả nhân đã dùng đến thiên binh vạn mã, công thành dã chiến bao lâu rồi, đã chiếm được một mũi tên, lại được mười bảy thành. Nếu các khanh còn lo lắng do dự không muốn thì chẳng phải là ngốc nghếch đó sao?" Rồi cười "Ha... Ha... thông qua Thượng khanh Lạn tướng".

Lã Bất Vi biết được Triệu Lý Thành vương chuẩn bị tiếp nhận mười bảy thành của Quận Thượng Đảng. Lã Bất Vi dò hỏi cặn kẽ tình hình trên triều, thì cho rằng Bình Dương quân có tầm nhìn xa trông rộng. Lạn Tướng lòng vừa buồn vừa lo lắng nói với Lã Bất Vi: "Đại vương tiếp nhận mười bảy thành quận Thượng Đảng thì nước Triệu sẽ lâm vào tình thế nguy cấp rồi!" Lã Bất Vi hỏi: "Sự việc lẽ nào lại không thể cứu vãn được?" Lạn Tương Như nói "Triệu Lý Thành vương nhận của Ngài năm trăm lạng vàng, có cảm tình với Ngài, phiền Ngài vào dùng lý lẽ phân tích lại cho Đại vương một lần nữa". Lã Bất Vi lắc đầu nói: "Tôi thấp cổ bé họng, e rằng đi chỉ tìm thấy cái phiền phức thôi".

Lạn Tương Như nói: "Võ thì chết trận, Văn chết vì lời can gián. Ngài đi gặp Đại vương bàn về chuyện này, tôi nghĩ không thể co nguy hiểm gì đến tính mạng đâu".

Lã Bất Vi nói: "Không có tước vị, cũng không có mưu lược kế sách gì. Tôi chỉ là một thương nhân nước Vệ đến tạm trú ở Hàm Đan, đâu có thể tùy tiện tham gia vào chính trị của nước Triệu được".

Lạn Tương Như nói: "Ngài nói vậy là sai rồi, Ngài buôn bán ở Hàm Đan đã hơn mười năm, cũng coi như là thâm căn cố đế rồi. Nước Triệu có suy thịnh thì tài sản của ngài cũng không suy, nước Triệu mà suy vong thì chẳng phải việc kinh doanh buôn bán của ngài cũng đi xuống sao? Người ta nói, đây là suy thì cùng suy, thịnh thì cùng thịnh. Huống hồ, ngài còn dắt hơn năm trăm lạng vàng chỗ Đại vương. Một khi Triệu Quốc có điều gì bất trắc, thì năm trăm lạng vàng đó của ngài cũng ra tro bụi sao? Đại vương đã biết rõ con người ngài, đây chính là lúc ngài tận dụng cơ hội mà phát triển, lẽ nào ngài lại mong cho nước Triệu sa vào bẫy của Phùng Đình giăng ra. Tự đi tìm đến chỗ chết sao?" Kỳ thực, Lã Bất Vi không hề nghĩ như vậy, mấy câu ông nói vừa rồi chỉ là có ý thăm do Lạn Tương Như. Ông muốn biết, lúc phong vân bất biến này, Lã Bất Vi trong con mắt quần thần nước Triệu, có phải là nhân vật quan trọng không. Ông xem ra qua những lời bộc bạch của Lạn Tương Như vừa xong, Lã Bất Vi trong lòng cảm thấy rất mừng: "Ta trong con mắt Thượng khanh của Triệu quốc rất được coi trọng".

Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi khiêm nhường nói: "Ý Thượng khanh đại nhân đã như vậy, thì tôi cũng đến bái kiến Đại vương một chút xem sao". Lạn Tương Như nói: "Phiền ngài nhọc sức đến yết kiến Đại vương Hàn". Lã Bất Vi lần thứ hai lên điện yết kiến Triệu Lý Thành vương, Triệu Lý Thành vương đưa mắt chau mày nhìn Lã Bất Vi một cách rất thần bi. Triệu Lý Thành vương hỏi: "Ngài đến đây là có việc gì muốn dậy quả nhân chăng?" Lã Bất Vi nói: "Tiểu nhân không dám, chỉ là tiểu nhân lo lắng cho Đại vương bận bịu việc triều chính, ảnh hưởng đến long thể, vì vậy mới mạo muội đến quấy quả Đại vương, muốn nói chuyện cùng ngài, mong Ngài nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, để sống lâu muôn tuổi".

Triệu Lý Thành vương cười rất vui nói: "Vậy được, khanh hãy cùng trẫm trò chuyện đi".

Lã Bất Vi hỏi: "Không biết là Đại vương đối với câu chuyện này có hứng thú không?"

Triệu Thành vương hỏi: "Quả nhân thích nhất là nghe chuyện cười, những chuyện thần thoại như tinh Vệ lấp biển, Nữ Oa vá trời, Thường Nga bón nguyệt, những chuyện ngụ ngôn như: Giữ cây đợi thỏ, Hạ xe lập tội, Trương Quân Lý tái, v.v... quả nhân nghe trăm lần cũng không chán".

"Được, vậy tiểu nhân xin kể cho Đại vương nghe một câu chuyện: Vợ chồng nhặt của rơi".

Lã Bất Vi cao hứng kể: "Có một đôi vợ chồng kia vào trong thành, trên đường trở về, nhìn thấy một thỏi vàng người ta đánh rơi. Người chồng cúi xuống nhặt, bị sức nóng của thỏi vàng suýt làm bỏng, nói với vợ: "Đi thôi, thỏi vàng nóng như vậy không lấy được". Người vợ hỏi làm sao. Người chồng nói: "Nóng như vậy, nhặt về không có chỗ để, không biết chừng còn rước họa vào thân". Người vợ nói: "Chàng sao mà nhát vậy, miếng ăn đến miệng còn không dám ăn sao?" Thế là người vợ dùng que gắp thỏi vàng bỏ giỏ mang về. Về đến nhà liền cất vào cái hũ cẩn thận. Đến giữa canh ba, thỏi vàng phát hỏa thành một mồi lửa, thiêu trụi toàn bộ số tài sản của vợ chồng nhà nọ".

Triệu Thành vương nghe xong câu chuyện của Lã Bất Vi, cười lớn: "Nhà ngươi thật túc trí đa mưu, ngươi đang châm biếm quả nhân, mang mười bảy thành ở Quận Thượng Đảng, ví với thỏi vàng phát hỏa, đem quả nhân ví với đôi vợ chồng hám của kia sao?"

Lã Bất Vi hoảng hốt thưa: "Xin Đại vương đừng trách tội, tiểu nhân đều nghĩ cho Đại vương và nước Triệu mà thôi".

Triệu Thành vương nói: "Thành ý của khanh rất đáng quý. Quả nhân không thể trách tội khanh được. Khanh có thể chưa biết, quận Thượng Đảng có ba vạn binh, dân binh trăm vạn, đất đai trăm mẫu. Nếu quả nhân không lấy, nhất định sẽ lại về tay Tần quốc, lúc đó đối với nước Tần há chẳng như hùm thêm vậy sao?"

Lã Bất Vi nói: "Thấy vàng phải nhặt, nhưng cần phải đợi, nếu không sẽ bỏng tay".

Triệu Thành vương nói: "Vàng mà không bỏng tay thì mọi người đều muốn lấy, lúc đó còn đến lượt ngươi không?"

Lã Bất Vi nói: "Tiểu nhân lo rằng, được vàng rồi thì sẽ dẫn đến tự thiêu mình, khiến đội tinh binh nhuệ của nước Tần hướng sang nước Triệu".

Triệu Thành vương đáp: "Tần quốc không dám tấn công nước Triệu đâu. Vì Tần vương có hoàng tôn là Dị Nhân đang bị áp giải ở Hàm Đan làm con tin rồi".

Lã Bất Vi nói: "Như tiểu nhân được biết thì Chiêu Tương vương có 24 người cháu, Dị Nhân là một trong những tôn tử bất tài. Tần vương quyết không vì Dị Nhân ở đây mà chịu để mất quận Thượng Đảng về tay Đại vương đâu".

Triệu Thành vương nói: "Ý quả nhân đã quyết, khanh đừng nhiều lời nữa!"

Lã Bất Vi thấy Triệu Thành vương khăng khăng quyết đoán như vậy, nhất thời không tìm ra lời nào để can gián, trầm tĩnh một lúc.

Triệu Thành vương cho rằng Lã Bất Vi muốn nhắc đến số vàng năm trăm lạng mà mình mượn nhưng còn ngại do dự không dám nói ra, vì vậy thẳng thắn nói:

"Phải chăng khanh đang lo năm trăm lạng vàng của khanh? Quả nhân cũng nói thẳng với khanh, nếu Quận Thượng Đảng về tay ta bình an vô sự thì ta sẽ hoàn trả lại ngươi. Nếu như thật sự phải giao chiến với nước Tần, sau khi thắng lợi ta sẽ trả ngươi. Nếu bại..."

Không đợi cho Triệu Thành vương nói tiếp, Lã Bất Vi liền cắt ngang: "Với tài nghệ mưu lược như thần của Đại vương, thì nhất định là thắng. Hơn nữa nước Triệu lại có binh hùng tướng mạnh, đồng tâm tác chiến thì đánh đâu thắng đó, quyết không thể bại".

Câu nói này của Lã Bất Vi khiến Triệu Thành vương rất vui, đắc ý nói: "Nếu quả thật đánh thắng được Tần rồi, ngoài năm trăm lạng vàng này ra, quả nhân còn ban thưởng thêm cho ngươi mỹ nữ và xe ngựa nữa".

Lã Bất Vi nói: "Đa tạ Đại vương".

Lã Bất Vi bước thấp bước cao xuống mấy bậc đá ở trước cửa Tùng Đài, chiếc lá từ trên mái rớt xuống cắm vào lưng ông khiến ông đau nhói. Ông cảm thấy mồ hôi đổ ra ướt đầm, ông bình tĩnh lại, ngồi nghỉ một lúc. Đến lúc này, ông mới biết mình đã đổ rất nhiều mồ hôi. Trước vẻ uy nghiêm của Triệu Thành vương, áp lực to lớn đã khiến ông quên đi sự sợ hãi. Rời khỏi đại điện rồi, ông mới bắt đầu thấy hoảng sợ. Mình đã ví Triệu Thành vương với người vợ tham của, thật là gan to hơn trời. Thật kỳ lạ, vị hoàng thượng này lại không hề giáng tội Lã Bất Vi vì đã xuất ngôn phạm thượng. Ánh mặt trời chói chang chiếu rọi cả cung điện. Lã Bất Vi cảm thấy màu son đỏ tươi làm chói mắt trên cột trụ cung điẹn kia như tràn đầy sức sống. Lã Bất Vi đột nhiên nghĩ cột trụ này có thể giữ được dây cương của chiến mã quân Tần không? Nghĩ đến đây khiến ông thất kinh bởi ý nghĩ không lành này của mình.

Lã Bất Vi biết, Triệu Thành vương một khi cử người đi tiếp nhận mười bảy thành của quận Thượng Đảng, thì Triệu Tần sẽ xảy ra một trận chiến tranh long trời lở đất. Lã Bất Vi ra khỏi điện Tùng Đài với tâm trạng u uất liền đánh xe ngựa đến thẳng phủ Thượng khanh.

Lạn tướng lắng nghe từng câu mà Lã Bất Vi đã tâu với Đại vương lúc yết kiến xong, thì thở dài than một cách rất đau buồn: "Nước Triệu đã đến ngày diệt vong rồi".

Mấy hôm nay, Lã Bất Vi lo lắng đứng ngồi không yên. Trước đây thì ông lo đêm lo ngày sợ vật cầm cố mà ông ký giao kèo với Triệu Quỷ Tử rơi vào tay quan phủ - từ sáng đến tối mất ăn mất ngủ không để tâm đến chuyện gì khác. Sự lo lắng này dần dần nguôi đi thì lại xảy ra việc Triệu Thành vương tiếp nhận Thượng Đảng, mang đến cho ông hết cái lo này tiếp cái lo kia. Năm trăm lạng vàng của ông, và cả cái tiệm vàng bạc đá quý "Long Xương Xương" kia, ông đều đổ vào chỗ Triệu Thành vương hy vọng thăng quan tiến chức, lẽ nào lại chỉ trong phút chốc tiêu tan theo mây khói.

Mỗi lần Lã Bất Vi suy tư ngổn ngang trăm mối trong lòng ra khỏi cửa là bọn Hoàng Phủ Kiều, Triệu Cơ, Tư Không Mã, Dương Tử và vài kẻ môn khách nô bộc trong nhà lại liếc nhìn nhau dò hỏi: "Lão gia nhà chúng ta làm sao vậy?"

Khi Lã Bất Vi quay về phủ mình, mọi tâm sự như thế hiện rõ trên khuôn mặt, môi mím chặt, bọn nô bộc, thuộc hạ cất lời chào, ông cũng không để ý, chỉ hừm một tiếng, khiến nhiều kẻ đã cảm thấy e ngại.

Lã Bất Vi bỏ bễ những công việc thường ngày như kê khai sổ sách, bàn chuyện mà tiêu hao thời gian vào việc ngồi trâm tư trong thư phòng. Ông ngồi bất động trước thư án, đưa ánh mắt xa xăm nhìn ra ngoài cửa sổ, bầu không khí trong lành như dồn về phía ông. Mây quang trời tạnh, tỏa khắp muôn nơi, mây bay trên cao lúc tụ lúc tản. Những án mây muôn hình đa dạng.

Bất giác ông liên tưởng ra những hình dạng kỳ quái như núi, cây, người,... Ông cũng không đếm nổi những áng mây, ông suy nghĩ về con đường của mình, ông tự nhủ với lòng mình: "Lã Bất Vi, sự việc xảy ra như ngựa đi trên tuyết vậy, có thể thấy rõ. Nước Triệu mà tiếp nhận quận Thượng Đảng của nước Hàn, thiên binh vạn mã của quân Tần sẽ tiến sang đoạt lại, Đại vương sẽ điều binh đi cố thủ. Thế là máu chảy thành sông, cuộc chiến Tần Triệu mà kết quả là thây chất thành núi sẽ nổ ra". Tình thế của quận Thượng Đảng đã phát triển theo đúng phán đoán như thần của Lã Bất Vi.

Triệu Thành vương sai Bình Nguyên quân Triệu Thắng tiến vào Hồ Quan, tiếp nhận quận Thượng Đảng. Lúc này Tần Triệu chưa nảy sinh giao chiến, quân lính vây thành của quân Tần trông thấy chú của Triệu Thành vương là Bình Nguyên quân Triệu Thắng đều để yên.

Sau khi Triệu Thắng vào thành, liền đến doanh trại của quân cố thủ thành, ban thưởng cho những quân dân anh dũng giữ thành, và ban bố với trăm họ trong thành "Ba mươi vạn hộ do Phùng Đình quản lý ở Thượng Đảng, phong thưởng huyện lệnh đất đai nghìn hộ, Chư Sử ban thưởng tặng ba cấp quan. Dân trong thành phàm là những ai có thể giữ thành đều ban cho sáu lạng bạc, và vận chuyển lương thảo từ Hàm Đan sang tiếp viện".

Quận thủ Phùng Đình khấu đầu tạ ơn Bình Nguyên quân Triệu Thắng thưa: "Hạ quan có ba điều bất nghĩa, không dám nhận sự ban thưởng của Bình Nguyên quân".

Triệu Thắng hỏi: "Phùng đại nhân có công giữ thành, quy về Triệu vương nhân đức, sao lại nói là phạm ba điều bất nghĩa".

Phùng Đình nét mặt xấu hổ đáp: "Hạ quan đúng là phạm ba điều bất nghĩa, không thể chết để bảo vệ được thành là điều bất nghĩa thứ nhất, Hàn vương lệnh cho hạ quan giao thành cho nước Tần, nhưng hạ quan lại kháng lệnh quy về nước Triệu, là điều bất nghĩa thứ hai, hạ quan là mệnh quan của nước Hàn mà đem đất đai của nước Hàn dâng cho nước khác mà lại nhận sự ban thưởng là điều bất nghĩa thứ ba".

Những lời nói chân thành của Phùng Đình khiến Triệu Thắng rất cảm động, nói: "Phùng đại nhân có khí tiết cao cả như vậy, không thể tính là có tội, nhất định phải chỉ huy quân dân kiên trì cố thủ Hồ Quan".

Phùng Đình nói: "Kẻ bất nhân bất nghĩa khó mà phục tùng. Có điều bất nghĩa thứ nhất, không thể làm tướng, phạm điều bất nghĩa thứ hai thì không thể làm quan. Nay hạ quan phạm ba điều bất nghĩa trên, không còn mặt mũi nào làm quận thủ nữa rồi. Xin Bình Nguyên quân chọn người hiền đức khác thay hạ quan!" Phùng Đình nói xong, liền bỏ áo quan, lấy ấn tín giao lại Triệu Thắng. Cho dù Triệu Thắng níu kéo, thuyết phục thế nào, Phùng Đình kiên quyết không ở lại và thỉnh cầu: "Triệu Thắng Bình Nguyên quân đã vào Hồ Quan rồi, nhân dân Thượng Đảng cũng đã phục, tôi không có gì lo lắng nữa. Xin cho phép tôi ra khỏi thành, ẩn tích nơi thôn dã".

Bình Nguyên quân Triệu Thắng sau khi gạt lệ tiễn biệt Phùng Đình, cử Cận Hoàng Trọng làm quận thủ, bố trí quân đội trong thành. Thay những lá cờ thêu "Hàn" và "Phùng" đã bị rách tả tơi bởi tên, đạn bằng lá cờ mới thêu chữ "Triệu" và "Cận". Thống lĩnh quân Tần là Võ An quân ở ngoài thành lúc này mới vỡ lẽ, trông thấy cờ hiệu mới cắm trên thành Hồ Quan, mới biết được là quận Thượng Đảng đã rơi vào tay Triệu. Nhưng nếu khiêu chiến với Triệu, còn phải có chiếu mệnh của Chiêu Tương vương. Chiêu Tương vương khi biết miếng mồi ngon đến miệng lại bị rơi vào tay kẻ khác, vô cùng tức giận, liền hạ chỉ lệnh cho Võ an quân làm đại tướng quân, Ngũ đại phu Vương Linh làm phó tướng, tấn công Thượng Đảng.

Nước Triệu quả nhiên là đã rước họa vào thân. Quân Tần với thiên xa vạn mã, cờ xí tung bay ầm ầm tiến về phía Thượng Đảng như nước lũ. Số binh lính của Triệu cố thủ ở Thượng Đảng rất ít, thêm vào đó số quân Hàn cũng không bằng một phần mười số quân Tần. Quân Tần lấy thanh thế dễ dàng đè bẹp quân địch hướng Thượng Đảng tiến công. Quân Triệu bị đẩy lùi đến Trường Bình, thì phái người về xin Triệu Thành vương tăng viện.

Triệu Thành vương liền phong Liêm Pha làm chủ soái, thống lĩnh bốn mươi vạn đại quân, rầm rầm đến Trường Bình chi viện cho quân Triệu. Liêm Pha dùng kế sách "Giữ thành không chiến, lấy sức nhàn chống lại quân địch mệt mỏi" nhằm tiêu hao sức lực quân Tần. Quân Tần từ xa đến, đã mệt mỏi rồi. Sẽ rất bất lợi nếu quân Triệu quyết giữ thành đợi cho lương thực của quân Tần tiêu hao, hơn nữa một số binh lính của Tần không thích hợp với môi trường này nên bắt đầu sinh bệnh. Chiêu Tương vương thấy nếu tình hình cứ kéo dài như vậy sẽ gây bất ổn với quân đội Tần, liền sử dụng kế ly gián của Phạm Thư, phái Gian Điệp Huề mang nghìn lạng vàng, hối lộ cho cận thần của Triệu Thành vương và rêu rao rằng: "Liêm Pha quá già, không đủ sức lực để chỉ huy quân Triệu, đâu có dám giao chiến với quân Tần! Nếu như Triệu Quát trẻ tuổi dũng mãnh đi, thì đã sớm đánh cho quân Tần thất bại tơi bời rồi" Triệu Thành vương vốn đã thấy không vừa ý với kế sách "cố thủ không đánh" của Liêm Pha, nay lại nghe lời đàm tiếu như vậy, quyết định lệnh cho Liêm Pha hồi cung, phong Triệu Quát làm thống soái chỉ huy quân Triệu chống Tần.

Đừng xem Triệu Quát chỉ có hai mươi hai tuổi, nhưng gia thế nhà hắn thì lại có danh tiếng và lâu đời như mặt trời ở thành Hàm Đan này. Cha hắn, Triệu Xa nguyên là quan Điền bộ sử ở nước Triệu, phụ trách công việc trưng thu thuế đất, tài hoa cái thế của ông ta không được phát huy, chỉ là ngồi ngày ngày tính sổ sách. Sau đấy quen thân được với em của vua là Triệu Thắng, được tiến cử với Triệu Huệ Văn vương. Triệu Huệ Văn vương giao cho ông ta quản lý thuế má trong cả nước, ông ta làm rất xuất sắc. Năm đó, quân Tần tấn công nước Hàn, đội quân Hàn bị kẹt ở Yên Dư, lúc đó nước Hàn cầu cứu nước Triệu đem quân tăng viện, Triệu Huệ Văn vương phái Triệu Xa làm chủ soái, đem quân đi cứu viện. Kết quả là quân Triệu đã thắng lợi, quân Tần bị đại bại ở Yên Dư. Khi khải hoàn trở về, Triệu Huệ Văn vương phái Triệu Thắng cùng văn võ bá quan nổ trống đón ở cổng thành Hàm Đan. Huệ Văn vương rất ca ngợi Triệu Xa, ban cho hiệu "Mã Phục Quân", phong cho Kỳ Lam viên rộng ba trượng khiến nhiều hoàng thân quốc thích trong hoàng tộc cũng phải ghen tị. Ngoài ra còn ban cho rất nhiều vàng bạc gấm vóc, lương thực kiếm cung. Phu nhân của Triệu Xa, là người nhân hậu, biết nhìn xa trông rộng, nói với chồng đang rất vui mừng đắc ý: "Tiền bạc chỉ là thứ phù phiếm bên ngoài, không thể sinh sôi trong nhà họ Triệu được. Phu quân nếu một mình hưởng thụ hoang phí, thì sẽ tổn hại đến thân, hơn nữa kẻ khác lại đem lòng đố kỵ. Chi bằng hãy mang ban phát cho quân lính thuộc hạ, những vật này coi như mọi người cùng hưởng, có thể quân lính sẽ phục phu quân, quyết một lòng sống chết cùng chàng". Triệu Xa nghe theo lời nhân nghĩa của vợ, mỗi lần Đại vương Triệu Huệ Văn vương ban thưởng cũng đem ra ban cho thuộc hạ dưới quyền. Do đó, tiếng tăm công đức yêu quân như con của Triệu Xa lan rộng khắp thành Hàm Đan, lừng lẫy Triệu quốc. Triệu phu nhân không chỉ bày kế làm rạng danh cho chồng, mà còn sinh cho Triệu Xa một nhi tử thông minh lanh lợi, Triệu Xa rất hy vọng vào đứa con này, ông mong con trai mình sẽ thành một khanh tướng tài giỏi xuất chúng trong đám bá quan, vì vậy đặt tên là "Triệu Quát". Triệu Quát ngày một trưởng thành, nhưng lại phát triển không như Triệu Xa mong đợi. Triệu Quát từ nhỏ đã thích nghiên cứu sách binh pháp, thích bàn về chiến lược, nhưng một chút kinh nghiệm thực tiễn đối địch lại không có. Mỗi lần đàm đạo về cách dùng binh, đều giảng lưu loát, thao thao bất tuyệt không ngơi, đâu đâu cũng là đạo, không ai bì kịp. Lúc đó mọi người đều ví phong thái của Triệu Quát là "đàm luận binh pháp trên giấy", "nói suông" mà không hề có thực.

Triệu Thành vương nghe nói vị công tử này rất giỏi giảng binh pháp liền triệu vào cung để thử, không ngờ bị Triệu Quát làm lóa mắt trước tài nghệ thuyết giáo về binh pháp của mình, Triệu Thành vương khâm phục vô cùng, nói: "Thật đúng là Cao Tàng, Tôn Vũ tái thế". Triệu Thành vương nghĩ đến cử Triệu Quát đi thay Liêm Pha, thì đúng là khiến quỷ thần cũng phải bại.

Sau đó, vì sự kiện Triệu Quát được phong làm chủ soái thay Liêm Pha đã làm náo động cả kinh thành Hàm Đan, nhân dân trong thành đều biết rằng Triệu Thành vương đã mang bốn mươi vạn quân giao cho Triệu Quát, một thằng nhãi "hỷ mũi chưa sạch", chưa hề biết giao chiến là gì mà đều cảm thấy kinh hoàng.

Triệu phu nhân, mẫu thân của Triệu Quát có linh cảm như sắp có đại họa giáng xuống đầu, vội đi yết kiếm Triệu Thành vương, dập đầu cầu xin không ngớt: "Xin Đại vương thu hồi mệnh lệnh, đừng để con trai của tôi làm đại tướng, thống lĩnh binh mã của nước Triệu".

Triệu Thành vương nói rất nghi hoặc: "Triệu phu nhân, bà làm mẹ nhưng lại thật là kỳ lạ. Những bà mẹ khác khi thấy con trai mình được phong hầu phong tướng đều rất sung sướng hãnh diện, vậy sao bà lại buồn rầu đau khổ, hơn nữa còn cắt đứt cả đứa con mà mình đã rứt ruột đẻ ra?"

Triệu phu nhân nghẹn ngào nói: "Tôi đều lo nghĩ cho Đại vương, cho nước Triệu. Khi phu quân tôi còn sống đã từng nói: "Đứa con này nói về binh pháp trong chiến tranh thì giống như rồng bay phượng múa, nhưng không hề có kinh nghiệm bản lĩnh, một ngày nào đó mang quân đi chiến đấu thì nhất định sẽ làm tổn hại đến quân đội nước Triệu ta". Nó và phu quân tôi hoàn toàn khác biệt. Triệu Xa khi tại thế, đối với thuộc hạ dưới quyền rất gắn bó, thân thiết như cá với nước vậy. Đại vương ban thưởng cho ông ấy vàng bạc châu báu, đồ ngon của lạ, ông ấy đều ban phát cho thuộc hạ cùng hưởng. Một khi nhận được lệnh của Đại vương thì đều dốc hết tâm lực báo đáp, không hề để ý đến việc nhà. Tiểu tử lại không được như vậy, vừa mới được phong làm đại tướng quân, đã dương dương tự đắc, không ai bằng, đối với bọn thuộc hạ thì nghênh ngang, không hề quan tâm. Đại vương ban cho nó vàng bạc, nó đều mang về nhà, mua đất đai ruộng vườn, chỉ tính toán cho riêng mình. Xem ra bọn thuộc hạ dưới quyền đều không can tâm tình nguyện theo nó. Tôi một lần nữa xin khẩn cầu Đại vương, thu hồi mệnh lệnh, đừng để tiểu tử đem binh đi!"

Triệu Thành vương nói: "Ý quả nhân đã quyết, không thể đổi được rồi". Triệu phu nhân nói: "Nếu Triệu Quát có làm điều gì sai trái, xin Đại vương cũng đừng trừng phát liên lụy đến cả nhà chúng tôi".

Triệu Thành vương đồng ý.

Triệu phu nhân cáo biệt Triệu vương quay về, trong lòng rối bời, bắt đầu dự tính hậu sự cho mình, phải bán "Kỳ Lâm Viên" làm chi phí mai táng cho mình theo chồng là Triệu Xa. Lúc đó nghe nói Lã Bất Vi là người giàu có, liền tìm đến cửa ông ta.

Lã Bất Vi vừa trông thấy một phu nhân đầu tóc bạc phơ đã nhận ra ngay là ai rồi.

Triệu phu nhân đang định giới thiệu mình, Lã Bất Vi đã vội vàng cung kính hỏi: "Dám hỏi Lão phu nhân có phải là mẫu thân của Triệu Quát không?"

Triệu phu nhân vui mừng nói: "Ngài có thể nhận ra ta, thật là vinh hạnh".

Lã Bất Vi nói: "Triệu phu nhân ở thành Hàm Đan này, tiếng tăm nhân đức tài mạo lừng lẫy ai mà không biết".

Triệu phu nhân nói: "Ngài quá khen rồi, tôi hôm nay đến là có chuyện cần giúp, tôi muốn bán phong ấp "Kỳ Lâm Viên", không biết ngài có ý định mua chăng?"

Lã Bất Vi nói: "Theo tôi biết, Kỳ Lâm Viên là miếng đất quý, phong thổ đều tốt, rất nhiều người mơ ước có nó mà không được, Đại vương đã ban cho Mã Phục Quân, lẽ nào đường đường là phu nhân Mã Phục Quân, phu nhân lại túng bấn vậy sao? Hơn nữa lệnh lang lại được Đại vương tin dùng, giao cho thống lĩnh đại quân nước Triệu, chức cao lộc hậu, tiền bạc đầy kho".

Triệu phu nhân nói: "Ngài nói như vậy, tôi không còn chỗ nương thân rồi. Mã Phục Quân khi còn tái thế, giữ gìn phép tắc, thanh liêm chính trực trong nhà không hề có tích trữ của cải, có lẽ tôi cũng sống không được lâu nữa, sẽ hội ngộ phu quân tôi dưới cửu tuyền, muốn có một ít tiền để xây lăng mộ sau này".

Lã Bất Vi nói: "Tôn phu nhân tinh thần minh mẫn, sức khỏe dồi dào, làm sao lo liệu hậu sự sớm như vậy?"

Triệu phu nhân nói: "Ngài không biết đó thôi, có lẽ họ Triệu nhà chúng tôi sắp có đại họa rồi".

Lã Bất Vi mỉm cười nói: "Tôn phu nhân nói vậy khiến người ta kinh ngạc, khắp nơi xa gần chư hầu đều biết gia thế và tài đức của Triệu Xa".

Triệu phu nhân nói: "Ngài chỉ biết một mà không biết hai". Sau đấy đem những điều uẩn khúc trong lòng buồn rầu tâm sự với Lã Bất Vi. Triệu phu nhân nói một hồi, việc này khiến Lã Bất Vi không ngờ tới, một là ông chỉ nghe Triệu phu nhân là người hiền đức nhưng không ngờ phu nhân lại là người đại nhân đại nghĩa, sáng suốt lo cho dân cho nước như vậy, hai là ông cũng nghe Triệu Quát làm đại tướng quân sẽ làm tổn hại đến nước nhà. Nhưng hiểu con không ai bằng mẹ. Triệu phu nhân đã tiên đoán được kết cục của con mình và quân Triệu khiến ông bàng hoàng kinh ngạc.

Triệu phu nhân nói tiếp: "Đêm qua tôi có nằm mơ, cả một vùng hoa đào đua nhau nở đỏ như lửa, tôi đã đi hỏi người giải mộng, nhân nói hoa đào là tượng trưng cho máu, họ Triệu nhà tôi sẽ bị hủy diệt trong biển máu, tôi cảm thấy họa đã ở gần kề, không thể chần chừ được nữa. Trong lúc vẫn bình an vô sự này, mau chóng bán "Kỳ Lâm Viên" lo liệu hậu sự, nếu không sẽ chết không chỗ dung thân. Tôi khẩn cầu ngài mở lòng giúp đỡ".

Lã Bất Vi nói: "Phu nhân đã một lòng vì nước vì dân, đến trời cũng cảm động, nhất định dữ hóa lành, quyết không thể xảy ra cái họa lớn như vậy được, xin phu nhân hà tất nghĩ sự việc lại thê thảm đến thế, cũng hà tất phải bán "Kỳ Lâm Viên"."

Triệu phu nhân nói: "Lẽ nào đại nhân lại keo kiệt hay sao, không muốn giúp đỡ một người đàn bà sắp bị họa giáng xuống đầu như tôi?"

Lã Bất Vi nói: "Phu nhân quá lời rồi! Bao nhiêu tiền bạc ngọc ngà châu báu cũng không sánh được với khí tiết thanh cao nhân nghĩa của phu nhân. Chi bằng phu nhân đã quyết định như vậy, tôi có chút lòng thành xin biếu ít bạc năm mươi lạng, để giải nỗi phiền cho phu nhân. Còn Kỳ Lâm Viên xin phu nhân cứ giữ lại để phụng dưỡng tuổi già, thiên niên vạn thọ".

Lã Bất Vi nói xong, lệnh cho người mang ra năm mươi lạng bạc, mang đến Triệu phủ, Triệu phu nhân vội ngăn nô bộc của Lã Bất Vi lại, nói với Lã Bất Vi, bà quyết không thể không có công lại hưởng lộc được.

Lã Bất Vi nghĩ một lúc rồi nói: "Thưa phu nhân, phu nhân xem như vầy có được không? Nếu nhà họ Triệu vẫn bình yên vô sự, Kỳ Lân Viên vẫn thuộc về chủ cũ, nếu một khi gặp phải bất trắc, cần bán, thì tôi xin mua lại cho phu nhân, những về giá cả phu nhân đã định cả rồi thì chúng ta nên viết trước bản giao ước".

Triệu phu nhân nói: "Được, cứ như vậy, việc này tôi đã quyết rồi".

Sau khi Triệu phu nhân đi khỏi, Lã Bất Vi bất giác thấy lo lắng trong lòng, ông biết Triệu Quát hợp binh xuất chinh thì sẽ mang tai họa cho Triệu quốc là điều không còn phải nghi ngờ. Năm trăm thỏi vàng, cả cái tiệm vàng bạc đá quý Long Xương Xương của ông đều đã gửi gắm hy vọng vào tiền đồ chính trị của nước Triệu, có thể sẽ hóa ra tro bụi. Nhưng ông không cam tâm chịu thấy sự tranh đấu tổn hại bao tâm huyết của mình trong suốt mười mấy năm lại bị chôn vùi bởi một tên Triệu Quát.

Mấy hôm nay Lã Bất Vi không chợp mắt được, mơ mơ màng màng nằm trên giường mà trằn trọc không ngủ được, đành phải dậy đi dạo trong dinh viên.

Ánh trăng mờ mờ để lộ ra vầng trăng khuyết lúc ẩn lúc hiện vào trong những đám mây, trên bầu trời xanh thăm thẳm kia lấp lánh muôn vàn những ánh sao đêm, cái bóng như đuôi công nhạc vũ kia giống như bóng ma đang lướt trên mặt đất. Lã Bất Vi bất giác nghe thấy cả tiếng giày quét trên mặt đất, ông thơ thẩn thuận bước, bóng ông lúc như dài ra, lúc như thu lại. Lã Bất Vi đột nhiên trông thấy đằng xa một loạt tia sáng lướt trong không trung tiến lại gần hơn, dưới ánh trăng hiện ra một bóng người đang múa trong tay một thanh bảo kiếm, không biết là vị môn khách nào đang luyện kiếm đây. Lã Bất Vi tiến lại nhìn kỹ, thì ra là Tư Không Mã, Tư Không Mã nhận ra Lã Bất Vi vội vàng thu kiếm khấu đầu chào. Lã Bất Vi nói: "Luyện tiếp đi, ta xem".

Tư Không Mã nói: "Nếu đại nhân đã có hứng thú, thuộc hạ xin tiếp tục". Nói xong Tư Không Mã liền rút kiếm trình diễn, thanh kiếm trong tay Không Mã thay đổi muôn hình vạn trạng, lúc như thế "Hạ Lập Sương Điển", lúc lại như "Bạch Hầu Triển Kiên", có lúc lại như "Giao Long Đáo Hải", chốc lại giống như "Dạ Yến Linh Không", ánh kiếm điêu luyện lướt trong không trung như long vờn phượng múa, đẹp vô cùng. Dưới ánh trăng, Lã Bất Vi chỉ trông thấy một luồng sáng bạc loang loáng làm lóa mắt muôn thế uyển chuyển như những tia chớp giữa trời đen. Trước đây ông chỉ nghe nói Không Mã biết chút ít về kiếm thuật nhưng không ngờ lại đạt đến trình độ điêu luyện như vậy. Tư Không Mã biểu diễn xong một bài kiếm pháp nói: "Xin đại nhân chỉ giáo thêm".

Lã Bất Vi kinh ngạc nói: "Không ngờ Tư Không Mã lại là một cao thủ kiếm pháp như vậy".

Tư Không Mã nói: "Những môn khách như chúng tôi, bình thường nhàn rỗi được chúng tôi đối đáp cho ăn ở, một khi cần xông pha thì cũng phải có chút tài mọn báo đáp vậy. Nghe người phương bắc nói, Lã đại nhân có cừu thù nào, cần phải đưa chúng đến chỗ chết, tôi xin đi báo thù cho ngài".

Thấy Tư Không Mã biểu lộ sát khí mạnh như vậy khiến Lã Bất Vi phấn chấn hơn, quyết tâm nghĩ "nhất định phải giết chết Triệu Quát". Lã Bất Vi cảm thấy trong lòng ông như nghẹn lại, ông đã từng vào sinh ra tử, đi nam về bắc, buôn bán đủ loại, đã từng giao thương với nhiều đối thủ trên thương trường, nhưng bày mưu giết người thì đây là lần đâu tiên trong đời, hơn nữa kẻ phải giết lại là đại tướng quân rất được Triệu vương tín nhiệm, có dễ ra tay không? Trước mắt Lã Bất Vi là "người sẽ vì ta mà đi vào chỗ nguy hiểm, giết một mạng để giành lấy nghĩa chăng?" Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi nhìn Tư Không Mã, ánh trăng chiếu xuống đầu anh ta tạo thành một vầng sáng lớn. Lã Bất Vi nhìn rõ khuôn mặt cương nghị và đôi mắt sáng long lanh của Tư Không Mã, cảm thấy đây chính là người có tấm lòng nghĩa hiệp, đáng để ông ta tin cậy.

Tư Không Mã hỏi: "Lã đại nhân, mấy ngày hôm nay, bọn môn khách và nô bộc chúng tôi đều thấy đại nhân không vui, không biết là ngài có tâm sự gì chăng?"

Lã Bất Vi bất giác thở dài rồi tâm sự với Tư Không Mã về việc lo lắng của mình trước sự kiện Triệu Quát đảm nhận chức Đại tướng quân sẽ gây họa cho dân cho nước.

Tư Không Mã nói: "Tôi cũng đã nghe triều đình và dân chúng bàn bạc về việc này, Đại vương đã không suy xét kỹ khi giao trọng trách đại tướng quân cho Triệu Quát, lẽ nào ngoài Triệu Quát ra, không còn ai đảm nhận trọng trách này sao?"

Lã Bất Vi nói: "Triệu Quát trẻ tuổi, trí dũng được Triệu vương tín nhiệm, chúng ta không còn cách nào để ngăn chặn ông ta".

Tư không Mã nói: "Vậy thì cả thành Hàm Đan này đều bó tay vò sách giương mắt nhìn Triệu Quát đem 14 vạn quân đi sao?"

Lã Bất Vi muốn hét lên "phải giết hắn" nhưng chực thốt ra lại do dự. Nếu lộ ra thì đây là một tội lớn trong thiên hạ, chu di cửu tộc, không thể tùy tiện nói ra được.

Suy nghĩ một lúc, Tư Không Mã tự nhiên buột miệng thốt lên rất kiên quyết: "Hãy giết hắn đi". Tư Không Mã nói xong, nhìn Lã Bất Vi không nói liền quỳ xuống, giọng chân thành đầy nghĩa khí: "Tư Không Mã tôi tuy bất tài, nhưng nguyện hết lòng vì đại nhân, dù có phải đi vào chỗ chông gai lửa đạn tôi cũng không sợ, xin đại nhân đừng do dự".

Lã Bất Vi vội đỡ Tư Không Mã dậy, người môn khách này bình thường không thể hiện gì xuất sắc, nhưng đén khi cấp bách lại một lòng trung thành, dám mang cả tính mạng ra để báo đáp, khiến Lã Bất Vi cảm động đến rơi lệ, mang những kế hoạch của mình nói cho Tư Không Mã biết: "Tư Không Mã, ta đã từng có ý nghĩ là giết Triệu Quát, nhưng thích khách thì một phần sống, chín phần chết, có đi mà không có về, vậy thì có ai nguyện đi vào chỗ chết đây?"

Tư Không Mã khảng khái nói: "Đại nhân, hãy để Tư Không Mã này đi được chăng? Những hiệp khách luyện kiếm pháp như chúng tôi đã không màng gì đến sống chết rồi, trong trận muôn ngàn đao kiếm thì không tránh khỏi cái chết. Ví như Bỉ Diên, trốn được lần đầu đâu có tránh được lần sau, đã là cái chết thì hãy để kẻ sĩ chết vì người tri kỷ của mình. Hơn nữa, những việc tôi làm đều là vì bách tánh ở thành Hàm Đan này, một khi thân tôi có bị chôn nơi trận mạc thì cũng để lại trong lòng họ sự ngưỡng mộ và nuối tiếc đối với Tư Không Mã này".

"Tư Không tiên sinh, ngài đã hy sinh cả tính mạng mình để trừ bỏ lo lắng của ta, và giải nguy cho dân chúng nước Triệu. Xin hãy nhận của Lã tôi một lạy". Lã Bất Vi cung kính khấu đầu tạ ơn rồi nói tiếp: "Đã như vậy, chúng ta phải bàn bạc thật kỹ lưỡng, bí mật vạch kế sách, quyết đoán hành sự, sao cho vạn phần thắng một phần bại". Lã Bất Vi lao tâm khổ trí vạch mưu kế cả một đem trời mà vẫn không tìm ra kế sách hay, làm thế nào để Tư Không Mã tiếp cận được Triệu Quát đây, thật khó như lấy trăng trên trời vậy. Sáng sớm hôm sau, trong lúc vẫn mơ mơ màng màng, Lã Bất Vi nghe như có giọng nói trong trẻo nhu chim oanh hót bên tai, ông mở mắt nhập nhèm nhìn, thì ra là khuôn mặt mỹ miều của Triệu Cơ, bên tai ông phảng phất hương thơm ngây ngất và giọng nói ngọt ngào của nàng đang đứng bên cạnh giường: "Đại nhân đã canh ba rồi, phu nhân Hoàng Phủ lệnh cho thiếp vào gọi đại nhân dậy dùng món điểm tâm".

Lã Bất Vi trông ra cửa sổ, đúng là ánh mặt trời đã chiếu qua song, ông vươn vai ngồi dậy hít một hơi dài.

Triệu Cơ không hề xấu hổ ngắm nhìn cơ thể cường tráng của Lã Bất Vi, nói dịu dàng: "Để thiếp đỡ đại nhân dậy". Triệu Cơ lấy chiếc áo trong, giúp Lã Bất Vi mặc vào, rồi lấy chiếc áo ngoài khoác cho Lã Bất Vi. Bất giác ông liếc nhìn Triệu Cơ, tim đập xốn xang, thật là một tuyệt thế giai nhân khiến người ta mê mẩn. Những ngày này, rất nhiều chuyện không vui khiến Lã Bất Vi lo lắng không yên, đã làm ông không màng gì đến người kỹ nữ đón từ kỹ viện này về. Trong phút chốc, Lã Bất Vi không kiềm chế được ngọn lửa tình kéo Triệu Cơ vào lòng mình, một tay vuốt ve khuôn trăng hoa nhường nguyệt thẹn và bộ ngực đầy đặn của nàng. Nàng nhắm mắt hoảng loạn tiếp nhận. Nàng không cự tuyệt, mà nàng cũng không muốn cự tuyệt. Từ hôm ở ngoài thành, khi thấy Triệu Thành mang di chúc của cha mình về, nàng đã nghĩ để được Lã Bất Vi gần gũi là chuyện sẽ sớm muộn xảy ra mà thôi. Trong lúc Lã Bất Vi âu yếm Triệu Cơ, nàng đã kể với Lã Bất Vi chuyện nàng nghe được mọi người bàn luận trên phố khi nàng đi mua khăn, nghe đâu Thượng khanh Lạn tướng vì chuyện của Triệu Quát được bổ nhiệm làm đại tướng quân mà lo nghĩ lâm bệnh rồi.

Lã Bất Vi nói: "Ồ, sao chuyện đó ta lại chưa nghe?"

Triệu Cơ nói: "Thật may, cũng có người trên phố nhìn thấy người nhà của Lạn tướng Thượng khanh vào cửa hàng mua thuốc". Lã Bất Vi nói: "Thật là một vị Thượng khanh tốt, trung quân báo quốc, lo cho dân cho nước". "Sao đại nhân không đi tìm hiểu xem sao?" "Phải đi, phải đi".

Lã Bất Vi âu yếm Triệu Cơ hồi lâu, sau đấy mới trở dậy, rửa mặt và ăn sáng. Xong đâu đấy liền mang một ít lễ đến phủ Thượng khanh. Lạn tướng thật sự bệnh tình không nhẹ, trong ông yếu ớt nằm trên giường, hai má hóp lại, thân hình gầy rộc, da dẻ nhăn nhúm, bộ dạng như vừa trải qua một cơn sốc lớn. Trên đầu giường đặt bát thuốc đã sắc sẵn. Thấy Lã Bất Vi đến thăm, ông cố gượng dậy mà không đủ sức.

Lã Bất Vi hỏi thăm: "Lạn khanh đại nhân, bệnh tình đại nhân thế nào, đã đỡ nhiều chưa?"

Lạn tướng than thở: "Trời ơi, tổ tiên từ đời Triệu tạo dựng đến đời Chu Mục vương, xã tắc cơ đồ của trăm họ gây nghiệp nay lại bị hủy diệt trong tay Triệu Quát".

Lã Bất Vi an ủi ông: "Chúng ta chỉ nhìn từ hành vi của Triệu Quát để võ đoán cái bại của nước Triệu, Triệu Quát phụng chỉ thật sự đi giao chiến, kết quả sẽ chết bởi tay ai hãy còn chưa biết".

Lạn tướng nói: "Ngài không cần phải an ủi ta, tên Triệu Quát này vừa nhận chức đại tướng quân, còn chưa xuất quân mà đã ra oai bắt bách tính phải phục tùng, tiền hô, hậu ủng, khuếch trương quyền lực, làm sao mà đánh được đây?"

Lã Bất Vi nói: "Thượng khanh đại nhân đã vào khuyên nhủ Đại vương rồi, nhưng Đại vương vẫn không nghe ra, đúng là qua được mắt vua, mà không qua nổi mắt trung thần".

Lạn tướng mím môi, nghiến răng căm hận Triệu Quát: "Ta hận là đã không sai thích khách giết chết ngươi".

Nghe Lạn tướng nói vậy, Lã Bất Vi trong tâm nghĩ: "Đúng là anh hùng chung ý tưởng, nhưng ta cũng không thể để lộ kế hoạch của ta cho ông ta biết được, dù sao thì một khi ông ta mà hòa hảo với Triệu Quát, thì rốt cuộc bọn họ cũng đều là văn thần võ tướng của nước Triệu. Bây giờ có thể bọn họ có mâu thuẫn với nhau, nhưng một ngày nào đó bọn họ quay lại thì có thể đồng tâm hiệp lực mà đối phó với một thương nhân tha hương dị quốc như ta không biết chừng. Việc đại sự có liên quan đến tính mệnh này tốt nhất là thuận theo ý trời". Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi hỏi: "Nếu thật sự bây giờ có thể giết hoặc trên đường hành thích Triệu Quát, đến lúc đó, không có ai thay thế, coi như là giải được mối lo rồi, không biết Thượng khanh có mưu kế gì để giết được Triệu Quát chăng?"

Lạn tướng bất lực nói: "Việc này không những quan hệ đến sự an nguy của xã tắc, mà phải hành động sao cho thần không biết quỷ không hay, tôi hiện nay lực bất tòng tâm, đâu có thể lại đi làm một chuyện lớn như vậy được?"

Lã Bất Vi từ chỗ Lạn tướng còn biết thêm một tin quan trọng đó là Triệu Quát còn chiêu mộ quân sĩ trong dân theo hắn, đây là một cơ hội tốt để Tư Không Mã tiếp cận Triệu Quát, thật là trời giúp. Lã Bất Vi cáo từ Lạn tướng ra về. Trên đường, khi đi qua con phố thì bị tắc xe, ông liền phái một thuộc hạ xuống điều tra mới biết được trước mặt là phủ đại tướng quân. Thì ra trước khi ra quân, Triệu Quát mở tiệc mời quan lại trong thành, trước cửa người ngựa, cờ xí tấp nập. Lã Bất Vi vội vàng quay xe về phủ, chuẩn bị một số vàng bạc mang đến phủ đại tướng quân, nhân cơ hội này tiến cử Tư Không Mã với Triệu Quát.

Trước cổng phủ đại tướng quân được tân kỳ sáng loáng đỏ rực sặc sỡ như màu đỏ làn môi của thiếu nữ, bên trong đèn hoa kết tưng bừng, nhạc tấu nổi lên rộn ràng. Quan lớn quan nhỏ đến chúc mừng nườm nượp, thê thiếp kẻ hầu người hạ phơi phới trong bộ xiêm y sặc sỡ màu sắc, lính gác mũ áo chỉnh tề ra ra vào vào, cảnh tượng thật tấp nập vô cùng. Lã Bất Vi phải ngồi đợi ở phòng khách rất lâu mới được gọi vào tiếp kiến.

Triệu Quát trẻ tuổi dáng vẻ rất đắc ý oai phong ngồi trên chiếc ghế đồi mồi phủ da hổ, khi biết trước mặt mình người diện kiến là Lã Bất Vi liền nói: "Ngài là một thương gia giàu có nhất đất Hàm Đan này, nay đến bái kiến bổn tướng nhất định là phải có lễ vật gì quý dâng lên phải không?"

Một câu nói này khiến Lã Bất Vi nhận ra Triệu Quát là một kẻ tiểu nhân tham lam, trong lòng nghĩ: "Nếu để một tên tham lam làm đại tướng quân thì ắt hẳn nước Triệu không chỉ bại trận mà nhất định còn bị diệt vong". Lã Bất Vi vội kêu thuộc hạ dâng kim ngân lụa là lên. "Đại tướng quân sắp xuất chinh, tiểu nhân có chút lòng thành dâng lên tướng quân "hai đôi ngọc trắng, 14 mét vải gấm, vàng thau 10 thỏi", tuy lễ vật nhỏ mọn, nhưng là tấm lòng của tiểu nhân, mong tướng quân đừng từ chối. Tiểu nhân chúc đại tướng quân xuất chinh lần này "kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công"."

Triệu Quát rất hân hoan nhận lễ vật nói: "Được, được". Lã Bất Vi thừa cơ nói tiếp: "Nghe nói đại tướng đang chiêu mộ vệ sĩ theo cùng, trong đám môn khách của tiểu nhân có người tên là Tư Không Mã, nguyện được theo hầu hạ tướng quân". "Được, bổn tướng cũng đang thiếu một người coi giữ binh khí".

Lã Bất Vi nói: "Xin đa tạ đại tướng quân, tiểu nhân quay về sẽ lập tức truyền Tư Thông Mã đến nghe lệnh ngài".

Tư Không Mã thấy việc mình lấy thân phận là một kẻ giữ binh khí để tiếp cận Triệu Quát mà trong bụng cảm thấy hơi buồn cười. Tư Không Mã ngắm nhìn cây đoản đao của mình, ánh mắt chiếu xuống lưỡi dao sắc bén sáng quắc như đang nhảy múa, nhớ lại con dao này đã nhuốm máu bao kẻ. Tư Không Mã lấy ngón tay thử lên lưỡi dao, sau đó mài lên phiến đá, không ai biết được Không Mã dùng con dao này để làm gì, nhưng cũng không ai đến hỏi, nếu có người hỏi thì Tư Không Mã sẽ bịa ra một lý do, như để săn thú rừng phòng thân hay nhàn rỗi thì mang dao đi mài để giết thời gian. Khi Lã Bất Vi nói với Tư Không Mã, Triệu Quát đã quyết định cử chàng làm người giữ binh khí, thì không còn cơ hội nào có thể tốt hơn cơ hội này. Một đại tướng quân thống lĩnh thiên binh vạn mã nhất định là luôn mang theo khiên kiếm bên mình, không hề có sơ xuất nào, mọi nơi mọi chỗ đều bày bộ binh khí. Tư Không Mã dù có đi đâu cũng có tai mắt, thuộc hạ của Triệu Quát. Tư Không Mã nghĩ một khi đâm con dao này vào trước ngực hay sau lưng Triệu Quát, sau đó máu trong lồng ngực trào ra, vị đại tướng quân gục xuống như một khối tượng lớn. Nghĩ đến hình ảnh tang thương, kinh thiên động địa này đã làm người ta phải khiếp đảm rồi. Cuối cùng thì tất cả cũng không đáng gì. Chạy trốn ư? Bị bắt ư? Phanh thây ư? Thôi đành theo ý trời.

Trong đêm tối dưới ngọn đèn đuốc kia, Lã Bất Vi sẽ bày tiệc tiễn đưa chàng. Tư Không Mã mài xong cây đoản đao, thì mặt trời cũng vừa hé lên từ đằng đông, lúc này chàng còn đủ thời gian để thực hiện nốt những chuyện cần làm nốt. Chàng vẫn còn vương vấn một chuyện cần phải làm. Chàng rất nóng lòng muốn gặp Triệu Cơ. Chàng muốn nàng tự hào và cảm động trước một việc chính nghĩa, anh dũng mà chàng sắp làm. Mấy ngày hôm nay, mỗi lần nghĩ đến khuôn mặt kiều diễm của nàng là chàng lại cảm thấy bồi hồi không yên. Hình như người con gái tuyệt sắc giai nhân này đang cố ý tránh mặt chàng. Sáng sớm nay, chàng gặp Triệu Cơ đến bên giếng múc nước, chàng liền chạy lại xách giúp Triệu Cơ. Nàng thấy chàng dường như muốn tránh. Tư Không Mã vội vội vàng vàng bước thấp bước cao đến bên giếng. Nhân lúc này, nàng cố ý bước chậm lại để đôi tay rắn chắc của Tư Không Mã giữ lại đôi đòn gánh trên vai rồi cùng Tư Không Mã vai kề vai đến bên giếng. Nàng cúi đầu soi bóng xuống giếng, tâm thần hoảng loạn nhìn hai khuôn mặt đang cận kề sát nhau...

Tư Không Mã đã tìm mấy lần, cũng đều không thấy bóng dáng Triệu Cơ đâu.

Cho dù rất nhiều môn khách và nô bộc ở đây đều biết Tư Không Mã phải đến trướng của đại tướng quân chỉ làm một tên lính nhưng Lã Bất Vi khi bày tiệc tiễn Tư Không Mã cũng chỉ có hai người tham gia. Ngọn đèn được điều chỉnh độ sáng nhất, bóng đêm như bị đuổi đến tận nơi xa xăm, xung quanh bừng sáng như ban ngày. Trên bàn bày những món rượu thịt với hương vị tươi ngon, rượu nồng nàn rót tràn ly liên tiếp. Sau khi tiếp Tư Không Mã vài ly rượu, Lã Bất Vi bỗng nhiên hỏi: "Tư Không Mã tiên sinh đã sắp đến tuổi nhi lập chưa?" Tư Không Mã cảm khái muôn phần đáp: "Đại nhân hỏi tôi tuổi nhi lập ư? Đó là quá khứ rồi, tiểu nhân năm nay đã ba mươi hai tuổi rồi".

Lã Bất Vi nói: "Thật là thời gian qua nhanh thật, nhắm mắt đã qua bao nhiêu năm rồi. Tư Không Mã tiên sinh cũng xấp xỉ bằng tuổi tôi, vậy mà vẫn một mình, một bóng, chăn đơn gối chiếc, tiên sinh không có ý định lập gia đình sao? Đây đúng là phải trách ta là chủ nhân và không chiếu tố tận tình, thật xấu hổ, xấu hổ!"

Tư Không Mã đáp rất thẳng thắn: "Việc này không thể trách đại nhân được, đại nhân đã cho tôi gặp qua không ít thiếu nữ rồi, đều là do tôi từ chối cả thôi, lại còn mua nô tỳ về cho tôi, tôi cũng không nhận. Nói về sắc thì trên đời này làm gì có người đàn ông nào lại không yêu gái đẹp. Tôi không những yêu gái đẹp mà còn muốn là người đàn ông bình thường, nhưng những người như chúng tôi ngã đâu là nhà, sống chết bất thường, do vậy cũng không muốn để lại sau mình lại phải đèo bòng. Cho dù như vậy, thì tôi cũng đã từng nếm qua hương vị đàn bà, có thể nói đến chết cũng không nuối tiếc gì rồi! Đương nhiên không thể so sánh với Lã đại nhân là người hào hoa phong lưu".

Lã Bất Vi lại hỏi: "Tư Không Mã tiên sinh còn có người thân thích không?" Tư Không Mã lắc đầu nói: "Khi cha tôi mất, có nói với tôi có một người chú tên là Tư Không Ngõa trú tại Đại Lương, Quốc đô của nước Ngụy. Mấy năm trước, tôi thay tiên sinh đi mua hàng, có đến tìm ông, nhưng đến nơi thấy vườn không nhà trống, nghe đâu đã chuyển đến Sinh Đô nước Sở rồi. Tôi có nhờ người hỏi thăm, nhưng cho đến nay vẫn bặt vô âm tín. Ngoài người chú này ra, tôi chẳng hề có bạn bè thân thuộc nào hết".

Lã Bất Vi hỏi: "Tư Mã tiên sinh, nếu vạn nhỡ có gì bất trắc thì tiên sinh có điều gì gửi gắm Lã Bất Vi này không?"

Tư Không Mã đáp: "Tôi tin là người hiền thì luôn có trời phù hộ. Tư Không Mã phàm khi hành sự đều gặp dữ hóa lành. Nhưng thật sự nếu không thành công, thì chỉ xin tiên sinh mỗi năm giỗ tết đến phái người đến mộ tôi thắp cho tôi nén hương là được rồi".

Sau mấy tuần rượu, Tư Không Mã có phần say bí tỉ, đưa cặp mắt lơ mơ, ngà ngà nhìn Lã Bất Vi hỏi: "Lã đại nhân, những ngày tiểu nhân ở đây không còn nhiều, xin đại nhân lượng thứ cho tiểu nhân vô phép hỏi một câu được chăng?"

Lã Bất Vi nói: "Tư Không tiên sinh có điều gì cứ hỏi, đừng ngại". Tư Không Mã giọng say lè nhè hỏi: "Lã đại nhân, ngài sẽ lấy Triệu Cơ làm vợ chứ?"

Câu hỏi này khiến Lã Bất Vi hơi sững sờ, ấp úng đáp: "Việc này... việc này... Tư Không tiên sinh hỏi việc này là có ý gì?"

Tư Không Mã cố gặng hỏi cho tới cùng: "Ngài nói đi, ngài nói đi! Ngài đã rất yêu Triệu Cơ phải không? Ngài sẽ lấy nàng làm vợ chứ?"

Lã Bất Vi cố ý che dấu đáp: "Không phải vậy".

Tư Không Mã nói: "Vậy được, tôi có một lời thỉnh cầu, xin hãy cho Triệu Cơ múa hát cho tôi xem hôm nay được chăng?"

Nghe Tư Không Mã nói vậy, Lã Bất Vi bỗng nhiên như sôi lên, trong lòng rất khó chịu nhưng cố trấn tĩnh lại. Mãi sau mới bình tĩnh trở lại, Tư Không Mã nhất định là đã yêu thương Triệu Cơ rồi, Triệu Cơ với Tư Không Mã có tình ý và hẹn ước gì không? Trong thời khắc sống chết này, Tư Không Mã chỉ đơn thuần để nàng ca hát suốt đêm không? Tư Không Mã muốn chiếm được nàng, nhất định hắn muốn có bằng được nàng. Một bông hoa tươi sắp hé nở như vậy, lại bị kẻ khác hái đi trước mắt, làm hư hại như vậy. Vừa rồi tại sao lại nói là mình không thương yêu Triệu Cơ, không muốn cưới nàng chứ? Lã Bất Vi trách mắng cho sự giả dối của mình. "Lẽ ra chàng không nên lừa một người bạn đã vì chàng mà hy sinh tính mạng để đi vào nơi nước sôi lửa bỏng. Người ta đã vì chàng mà bất chấp cả tính mạng của mình, vậy mà không đổi lại được một câu thành thật sao? Chàng thật đáng chết thê thảm, thật đáng đau khổ mất đi người mình yêu!"

"Mua bán còn phải đầu tư lấy một ít, huống hồ Tư Không Mã vì chàng mà đi vào chỗ chết!"

Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi lấy hết sức bình tĩnh nói: "Được, để Triệu Cơ vào múa hát cho đại nhân một đêm thì có gì không được đây". Rồi liền sai thuộc hạ hãy đi gọi Triệu Cơ chuẩn bị múa hát cho Tư Mã tiên sinh thưởng thức.

Lã Bất Vi và Tư Không Mã tiếp rượu cho nhau cho đến mãi nửa đêm mới thôi.

Lã Bất Vi nhìn cảnh Tư Không Mã lảo đảo vào phòng của Triệu Cơ mà lòng đau nhức nhối, tâm trạng rối bời. Tư Không Mã gọi một tiếng rồi đẩy cửa vào. Dường như Triệu Cơ đã có sự chuẩn bị, nàng không hề kinh sợ. Dưới ánh nến sáng rọi, nàng đứng dậy nhường chỗ dâng trà cho Tư Không Mã, Tư Không Mã mặt đỏ bừng bừng, say mềm. Tư Không Mã lắc la lắc lư nói: "Triệu Cơ, hãy múa cho ta ngắm một bài đi". Triệu Cơ nói: "Tư Không đại ca, mau uống trà giải rượu rồi đi nghỉ đi".

Tư Không Mã chân nam đá chân siêu đến bên giường ngồi: "Bây giờ chỉ có nàng múa hát cho ta xem thì ta mới giải được rượu".

Triệu Cơ rất lấy làm kỳ lạ nói: "Đêm khuya yên tĩnh rồi, nếu Tư Không đại ca muốn, thì ngày mai thiếp sẽ múa cho chàng xem".

Tư Không Mã cười lớn: "Ngày mai ư? Tư Không Mã ta còn có ngày mai sao?"

Triệu Cơ nói: "Tư Không đại ca nhất định là đã uống quá chén rồi, nếu không sao có thể thốt ra những lời như vậy".

Tư Không Mã cười thở dài nói: "Tư Không Mã đại ca của nàng không say, Tư Không ta sẽ chẳng có ngày mai rồi!"

Triệu Cơ hỏi lại: "Chẳng phải là ngày mai chàng phải đi làm thuộc hạ của Triệu Quát đại tướng quân sao? Tại sao lại nói là không có ngày mai?"

Tư Không Mã nói: "Ta đi làm thuộc hạ của đại tướng quân ư? Ngày mai ta phải đi mưu sát hắn, dùng con dao mà ta đã mài sắc nhọn để giết hắn! Hắn chết rồi thì ta còn có thể sống chăng? Kiếp sau, ta cũng muốn trở thành phu ông, ta cũng muốn chiêu mộ nuôi dưỡng kẻ nô bộc, ta cũng muốn kẻ khác phải chết thay ta!"

Triệu Cơ bán tín bán nghi hỏi: "Không Mã đại ca, quả thật như vậy sao?"

Không Mã nói: "Ta đã bao giờ nói dối Triệu Cơ cô nương chưa? Chỉ có Triệu Cơ cô nương không thành thật với ta, chứ ta quyết không lừa nàng! Lòng dạ nữ nhi bọn nàng giống như một chiếc giếng sâu vậy, những kẻ đàn ông ngốc nghếch như ta thật nhìn không rõ, mò không ra".

Triệu Cơ biết rõ, Tư Không Mã phát giác ra nàng có ý lẩn tránh chàng, từ khi nàng được đưa về tay của lão tướng gia Triệu Thành. Nàng đã trằn trọc thâu đêm suốt sáng. Nàng biết, Tư Không Mã đối với nàng tình cảm rất sâu sắc, muốn cùng nàng phượng loan vui vầy. Nàng rất cảm kích sự yêu thương của Tư Không Mã dành cho nàng, đặc biệt là trong kỹ viện Lạc Dương Cốc chàng đã phát hiện ra nàng. Nếu không thì bây giờ nàng đã sớm lưu lạc hồng trần. Còn ai coi trọng một người con gái đã bị chà đạp, từng trải đây? Nhưng nàng cảm thấy nếu cùng sống với Tư Không Mã thì trái với lời di chúc của phụ thân, có lỗi với vong linh ông nơi cửu tuyền, hơn nữa một môn khách như Tư Không Mã cả đời phiêu bạt giang hồ, lúc sang Tần khi về Sở, làm sao có thể lo cho nàng được một cuộc sống an nhàn, sung sướng đây! Lã Bất Vi thì khác, nhà cửa giàu có vinh hoa phú quý, nàng gửi thân vào đó thì nàng được ăn sung mặc sướng, tuổi xuân phơi phới, ca hát suốt ngày cho dù là thân phận đại phu nhân hay thê thiếp cũng chẳng có quan hệ gì! Sau khi nghĩ đi nghĩ lại, suy xét dày vò tâm can, cuối cùng nàng cũng đã quyết định tâm nguyện của mình, sau đó liền mang cái hầu bao thêu đôi chim uyên ương mà nàng định tặng Tư Không Mã ra cắt vụn rồi ném ra sau nhà, dùng đôi hài giày xéo lên quá khứ đẹp đẽ và giấc mơ đã tan vỡ.

Tư Không Mã luôn miệng cầu khẩn: "Triệu Cơ, nàng hãy vì ta mà múa một bài được không? Hãy vì ta mà hát một bài được chăng! Ta đã sắp thành người của Diêm vương rồi".

Triệu Cơ hỏi một cách mơ hồ: "Không Mã đại ca, chàng biết rõ đi theo đại tướng quân là vào chỗ chông gai chín phần chết, một phần sống, vậy làm sao chàng vẫn cam tâm tình nguyện tìm đến cái chết?"

Tư Không Mã nói: "Ta cam tâm tình nguyện ư? Vớ vẩn, ta cũng là người, tại sao lại có thể tự mình tìm đến cái chết đây?"

Triệu Cơ hỏi: "Thì ra là Lã Bất Vi ép chàng ư?"

Tư Không Mã nói: "Lã đại nhân là người nho nhã lịch sự, thấu hiểu lòng người, làm sao có thể ép ta làm chuyện này được?"

Triệu Cơ nói: "Vậy thì thiếp không hiểu nổi, một chuyện nguy hiểm như vậy, lại không ai ép chàng, thì tại sao chàng nhất định phải đi?"

Tư Không Mã nói: "Bình thường ta ăn cơm nhà họ Lã, quần áo mặc trên người cũng là Lã đại nhân ban cho, ngồi xe ngựa của Lã đại nhân, một khi Lã đại nhân cần ta vào hang cọp, xả thân vì nghĩa, ta nhất định không thể từ chối, phải dũng cảm tiến lên thôi".

Triệu Cơ nói: "Đại nhân là người tốt như vậy, thì Tư Không Mã đại ca cũng không cần phải oán thán rồi". Tư Không Mã nói: "Triệu Cơ cô nương, nàng nói sai rồi, đây không phải là Lã đại nhân tốt, mà chính là tiền bạc của đại nhân rất giá trị, không chỉ có đại nhân, mà nào là Vương đại nhân, Châu đại nhân, Quách đại nhân, hay Hàn đại nhân đi nữa, bọn họ dùng tiền mua quần áo, nô tỳ, xe ngựa cho ta thì ta cũng đều vì bọn họ mà nhảy vào nơi nước sôi lửa bỏng, chết không oán thán. Giống như vậy, nếu ta có tiền bạc, ta cũng có thể sai khiến kẻ khác như sai khiến trâu ngựa vậy. Có tiền thì sẽ có nhân đức, có tiền thì sẽ có tình cảm".

Ngọn nến sáng rọi chiếu sáng thân hình yêu kiều, mềm mại của Triệu Cơ. Tư Không Mã trông thấy đôi mắt lanh lợi của Triệu Cơ như có làn sóng sáng chớp động trong bầu trời thu, lộ ra cái cổ trắng ngần với một chuỗi hạt dài. Trên thân hình người con gái chỗ nở, chỗ thon nuột nà. Hai con mắt Tư Không Mã nhìn thẳng vào Triệu Cơ. Không kìm chế nổi lòng mình bèn liên tưởng tới giấc nồng ngọt ngào với Triệu Cơ. Tư Không Mã cảm thấy các mạch máu trong người cứ cuộn sôi lên không ngừng, tiếng đập của trái tim như đang muốn nhảy tung ra.

Triệu Cơ ca xong, vừa ngồi xuống mép giường, Tư Không Mã như hổ đói vồ thức ăn lao tới. Triệu Cơ bị Tư Không Mã hành động bất ngờ sợ run cả người, tức thì thị đã hiểu được chuyện gì sắp xảy ra. Triệu Cơ dùng tay chặn trước ngực, cố gắng hạ thấp đôi tay to đang dấn sâu vào. Đôi tay đó có lực lớn thế như bẻ tre và đã đạt được mục đích dự định. Cùng với tiếng kêu "xoẹt", Triệu Cơ biết áo mình đã bị xé rách. "Hầy a, hầy a..." Triệu Cơ bất giác kêu lên.

Vừa may đội quân tuần đêm đi tới trước của sổ phòng Triệu Cơ, nghe thấy bên trong có tiếng "ùm ùm hầy a", biết trong phòng xảy ra chuyện không lành, ghé mắt nhìn vào trong phòng, thật kinh hoàng vội về bẩm báo với Lã Bất Vi.

Lã Bất Vi vẫn chưa thay áo ngủ. Khi ông trông thấy Tư Không Mã uống say tới mức mây khói che kín núi lao vào phòng Triệu Cơ, ông đau lòng khôn xiết, người ông như vừa xảy ra một trận dập hỏa hoạn. Lã Bất Vi biết, với thể xác chân tay của Tư Không Mã có thể nhẹ nhàng giành lấy thân xác của Triệu Cơ để thỏa mãn cảm giác khoái lạc của hắn.

Nghe đội tuần đêm bẩm báo xong, Lã Bất Vi biết rõ nơi đó đang hoặc sắp xảy ra chuyện gì, ông không muốn để ba người đứng trước tình thế khó xử. Từ khi ông đồng ý với Tư Không Mã để Triệu Cơ phục vụ hắn ca hát một đêm, ông như đã vứt bỏ một phần cơ thể mình. Đội tuần đêm không ngớt giục: "Lão gia, mau đi xem sao! Một kẻ như là kẻ vồ mồi, một kẻ như là thỏ né chim ưng vật lộn như đất lở trời nghiêng!" Câu nói này của bọn nha dịch làm Lã Bất Vi vừa cảm thấy khổ tâm, vừa thấy buồn cười, châm chích nói: "Hư trương thanh thế (giả làm khí thế lớn mạnh) biết rồi!"

Khi Lã Bất Vi vào phòng, Tư Không Mã và Triệu Cơ vẫn còn đang giằng xé chưa có kết quả. Ngay tức thì Lã Bất Vi trông thấy hai người tóc tai rối bời, áo bị xé rách, xấu hổ đứng như trời trồng.

Triệu Cơ đỏ mặt tía tai ấp úng đáp: "Lã đại nhân, Tư Không... Tư Không đại ca cũng thật quá đáng".

Lã Bất Vi mắng: "Nàng là phận đàn bà con gái không biết gì! Tư Không tiên sinh sáng mai còn bước vào trận với đại tướng quân Triệu Hoạt, chưa biết sống chết ra sao. Đêm nay, tất cả mọi hành động của tiên sinh không có gì là quá đáng cả!"

Triệu Cơ nước mắt như những hạt ngọc tuôn rơi, hàng hàng nối tiếp nhau. Nàng lấy từ trong hòm ra một vật mà cha nàng để lại cho nàng, đưa cho Lã Bất Vi nói: "Chàng xem trên đó khắc chữ gì!" Nói đoạn lấy đầu đẩy cửa, mất hút trong màn đêm dày đặc.

Lã Bất Vi đón lấy xem, đây chẳng phải là phần thưởng của Bất Vi và Triệu Ngụy Tử làm kinh doanh vụ hạt dẻ sao. Khi Bất Vi nhìn thấy phía trên có dòng chữ của Triệu Ngụy Tử để lại: "Cơ nhi gả cho Lã Bất Vi" đứng đờ người ra như pho tượng gỗ. Một lúc sau mới cầm cái Chất từ tay đưa lên cho Tư Không Mã.

Ngoại thành Hàm Đan ánh nắng chiếu rực rỡ gió lộng cờ bay. Nghi trượng của đại tướng quân Triệu Quát bầy ra trông thật hoành tráng, khói bụi do chân ngựa chạy và bánh xe như phủ kín bầu trời. Tư Không Mã tưởng tượng mình vác chiếc bô có chỗ đặt chân làm bằng gỗ dâu bước đi trong đội ngũ theo hầu của đại tướng quân đầy uy phong Triệu Quát ngồi trong kiệu hoa rực rõ có 8 con ngựa kéo, mười mấy vị phó tướng áo giáp chỉnh tề và đám bộ hạ, khuôn mặt đầy vẻ chân lý huyền diệu, cưỡi ngựa cờ dong đi hai bên xe kiệu. Đội quân bước đi rất nhanh, cũng giống như đội quân đi theo sau, Tư Không Mã dường như chạy mới theo kịp được đại đội người ngựa. Hắn ngoảnh đầu nhìn lại mấy lần, Ngụy Nga, thành Hàm Đan ngày càng lùi xa dần. Tư Không Mã vác lên thấy nhẹ như vác một lá cây. Nhưng đường xa trở nên nặng, chạy được một đoạn hắn cảm thấy như đang gánh trên vai một vật rất nặng. Vị quân y Triệu Hoảng chỉ đeo túi thuốc chẳng đáng mấy cân, thỉnh thoảng vác hộ hắn một đoạn.

Triệu Hoảng nhỏ hơn Tư Không Mã mười mấy tuổi, là cháu họ hàng xa với Triệu Quát. Vẻ mặt nó không chút suy tư. Trên đường đi cứ quay sang nói chuyện với Tư Không Mã rằng có thể đánh cho quân Tần vãi cả nước tiểu. Tư Không Mã hỏi nó chuyên khoa gì, nó huênh hoang nói có thể trị bách bệnh uống thuốc bệnh sẽ khỏi. Hành trình đi buồn tẻ nhưng nó vẫn có thể vui vẻ tán gẫu với Tư Không Mã. Đương nhiên, Tư Không Mã chỉ chú tâm quan sát những cử động của đại tướng quân Triệu Quát, cho nên chỉ dùng năm ba chữ tựa như "ừ ừ à à" để đáp lại Triệu Hoảng.

Triệu Hoảng hỏi Tư Không Mã: "Tôi thấy anh dường như trong lòng đang có chuyện gì?"

Tư Không Mã đáp: "Tôi cứ nghĩ Triệu Quát có đánh bại được quân Tần không?" Triệu Hoảng vẫn câu nói đó: "Tôi chẳng phải đã nói là Triệu Quát có thể đánh quân Tần chạy vãi nước tiểu ra".

Mỗi khi tới chỗ nghỉ, công việc của Tư Không Mã thật đơn giản. Đặt bô vào lầu đã dựng trước, sau đó ra bên ngoài lều chờ. Triệu Quát đi xong, hắn liền mang bô đi đổ. Sau đó dùng nước rửa sạch sẽ đặt về chỗ cũ. Những cục phân và nước tiểu kia rời khỏi bụng Triệu Quát chẳng theo một quy luật nào. Tư Không Mã không đoán chính xác được rốt cuộc khi nào Triệu Quát buồn. Khi Triệu Quát đến, thường có hai quân lính bảo vệ đứng hai bên tả hữu lều đợi. Triệu Quát chưa xong, quân lính bảo vệ này vẫn bất động. Khi đi ỉa ông ngồi rất nghệ thuật ở trên bô, còn đi tiểu thì rất tùy tiện, Tư Không Mã tìm thời cơ để ra tay.

Lúc sắp đến Quảng Thuận thì trời đã muộn, hoàng hôn buông xuống, Tư Không Mã trông thấy Triệu Quát từ trong lều bước ra không mang theo quân lính hộ vệ, một mình đến để đi xe. Tim Tư Không Mã đập thình thịch, bàn tay toát mồ hôi giữ chặt lấy đoản kiếm.

Tư Không Mã thấy Triệu Quát bước vào, bóng in bên ngoài lều, lắng nghe thấy tiếng phân rơi một hồi. Hắn như con khỉ đầy mẫn cảm nhanh như cắt lao vào. Khi mùi thối còn chưa bay vào mũi hắn đã cắm đoản kiếm vào sau lưng của Triệu Quát. Cùng với tiếng "ây a" một người nhanh chóng ngã gục xuống đống phân xanh. Tư Không Mã nghĩ, máu chảy đầy ra nền, vàng, xanh đỏ ba mầu ấy hòa quyện vào nhau có thể tạo nên sự tương phản.

Tư Không Mã chui ra khỏi lều, bốn bề vắng lặng, dường như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Hắn nhìn trước ngó sau, chẳng thấy động tĩnh gì, bèn đem vứt đoản kiếm kia vào dưới lùm cây nhỏ. Hắn không định bỏ trốn ngay. Hắn muốn xem quang cảnh hoảng loạn của đội quân như rồng mất đầu sau khi phát hiện ra Triệu Quát bị giết. Hắn quay về trại, xuay ngược xuôi không ngủ được nghĩ cách sau khi đã xem xong màn kịch mà hắn muốn xem thì sẽ trốn chạy như thế nào. Sáng sớm hôm sau, bên ngoài trại có tiếng bước chân toán loạn và tiếng va vũ khí, bất giác nghe thấy có tiếng người kêu: "Khiêng ra đây, khiêng ra, lau sạch máu... phong tỏa xung quanh để tìm thủ phạm".

Tư Không Mã hiểu mọi chuyện, họ đã phát hiện ra xác của Triệu Quát. Đây chính là cảnh mà hắn mong chờ được nhìn thấy. Hắn như chẳng có chuyện gì xảy ra bước ra khỏi trang trại. Cảnh tượng trước mặt giống hệt như những gì hắn nghĩ trong đầu.

Đám binh lính cầm gươm giữ giáo xếp hàng đứng lặng bên rừng, nhìn xa xa thấy thi thể cuốn vải bị khiêng đi.

Tư Không Mã quan sat một hồi, lượn quanh lều vừa định tẩu thoát, liền trông thấy một khuôn mặt. Hắn sợ tới mức hồn bay phách lạc. người đó chẳng phải là đại tướng quân Triệu Quát đó sao?

Triệu Quát được phó tướng và mộ liêu (bộ hạ) dìu đương khoa chân múa tay ra lệnh gì đó. Thế là thế nào? Lẽ nào tất cả xảy ra trong tối qua chỉ là trong giấc mơ? Lẽ nào mọi cảnh tượng sáng nay chỉ như gặp ma? Tư Không Mã cố gắng lục lại ký ức, từng động tác đêm hôm qua hiện rõ mồn một trong trí hắn. Hắn giả vờ đi dạo đến dưới lùm cây nhìn xem, vết máu trên đoản kiếm như bông hoa nở sáng rực rỡ. Tư Không Mã hiểu ra mình đã giết nhầm người. Tư Không Mã vẫn chưa hình dung ra hắn phải hành động như thế nào liền bị triệu tập đến một bãi cỏ cùng với rất nhiều tùy tùng thị vệ khác để nghe viên tướng xét hỏi. Tư Không Mã nghe thấy viên tướng đọc tên rất nhiều người trong đó có tên mình, sau đó nói các ngươi không còn phải phục vụ đại tướng quân Triệu Quát nữa, tức là đã trở thành quân lính ở trên xe chiến. Tư Không Mã không nghe thấy viên tướng đọc đến tên của Triệu Hoảng, có lẽ do nó có họ hàng với Triệu Quát nên được chừa lại.

Tư Không Mã tìm thấy Triệu Hoảng, cáo biệt y. Triệu Hoảng nói trong đám tùy tùng hậu vệ của đại tướng quân Triệu Quát có lẫn tên gian tế thích khách của nước Tần, đêm hôm qua đã giết chết một vị phó tướng của đại tướng quân. Tư Không Mã cùng rất nhiều quân lính bị áp giải đi, đi về phía tiền tuyến. Hắn không biết rồi vận mệnh trong đám thượng đảng đội quân đông đảo sẽ giúp hắn chuẩn bị được gì.

Tần và Triệu là hại đảng đối lập nhau, giằng co nhau, cơn giông trước lúc mưa nguồn (ý là trước khi xảy ra sự việc lớn thường có những biến cố báo hiệu bất thường).

Năm 260 trước công nguyên, Triệu Quát mang dấu chủ soái đến Trường Bình, thay Liên Pha thống lĩnh bốn mươi vạn đại quân. Ông dừng lại cách trước đây của Liên Pha, thay một số tướng lĩnh ở dưới, bãi bỏ việc phòng ngự, chuẩn bị rút quân đánh Tần.

Tần vương nghe thấy nước Triệu trúng kế, thay chủ tướng, trong lòng rất vui mừng, phong Bạch Khởi làm tướng quân, cho Vương Lĩnh làm phó tướng, tăng cường quân chi viện.

Bạch Khởi nhằm vào yếu điểm kiêu ngạo coi thường địch của Triệu Quát sử dụng kế dụ dỗ địch, cố ý đánh vài trận thua, liên tiếp lùi quân. Triệu Quát lấy thế làm đắc ý xuất binh đuổi đánh. Lúc này Bạch Khởi cử hai đội quân tinh nhuệ chặn đứng đường rút quân của Triệu, chia đại quân của Triệu Quát thành hai đoạn, đầu và đuôi không thể hỗ ứng được. Đồng thời cử năm nghìn quân nhằm thẳng vào doanh trại của nước Triệu đánh làm cho quân Triệu mất đi thế căn cứ. Quân Tần lại không ngừng cho quân tinh nhuệ tiến đến tập kích bất ngờ quân Ngụy. Quân Ngụy càng đánh càng thua đành phải xây dựng doanh trại ở tại chỗ, từ thế tiến công trở thành thế phòng thủ. Tin quân Tần bao vây quân Ngụy nhanh chóng truyền đến thành Cảm Dương nước Tần, vua Chiêu Nhưỡng vô cùng đắc ý đích thân đến Hà Nội, tập hợp toàn bộ nam giới từ mười lăm tuổi trở lên ở vùng đó thành quân đội, điều đến vùng cao phía đông bắc chiến trường Trường Bình, chặn đứng đường tiếp binh và chi viện lương thực của nước Triệu. Quân Triệu bị bao vây, cắt lương thực đã bốn mươi sáu ngày, binh sĩ đói chém giết lẫn nhau để lấy thịt ăn, tình hình cực kỳ nguy cấp. Triệu Quát tổ chức thành bốn nhánh phá vòng vây, thay nhau phá vây, mong mở được một đường thoát. Nhưng quân Tần bao vây chặt như tường đồng lũy sắt, phá vây bốn - năm lần mà không có kết quả. Cuối cùng trong sự tuyệt vọng, Triệu Quát đành phải đích thân dẫn đầu đoàn quân tinh nhuệ mặc áo giáp dầy, cưỡi ngựa chiến, tăng cường sức lực phá vỡ vòng vây. Không ngờ Triệu Quát vừa xuất hiện trước trận liền bị quân Tần bắn chết. Quân Triệu mất đi chủ tướng không có người chỉ huy, quân hoảng loạn. Quân Tần nhân cơ hội này tăng cường tấn công mạnh, quân Triệu đại bại đành phải đầu hàng. Bạch Khởi e là quân Triệu đầu hàng sẽ tìm cơ hội làm phản, chỉ cho hơn hai trăm người nhỏ tuổi thả về nước Triệu, còn lại hơn bốn mươi vạn quân bị chôn sống.

Trận chiến Trường Bình giữa Tần và Triệu là cuộc chiến đấu quy mô lớn thời hậu chiến quốc. Trong trận chiến lần này, nước Triệu bị tổn thất quá lớn, từ đó tạo điều kiện để nước Tần giành lấy thiên hạ. Bối cảnh nước Tần một mình nắm giữ thiên hạ bắt đầu hình thành.

Tư Không Mã tỉnh lại sau một trận gió đông bắc se se lạnh thổi tới, vừa mở mắt đã nhìn thấy ánh trăng đang tỏa sáng trên bầu trời sâu rộng. Cảm giác đầu tiên của ông là cánh tay đau như lửa thiêu. Ông hồi tưởng lại mình đã bị dao chém bị thương hôn mê bất tỉnh khi cùng quân Tần chém giết. Ông cố gắng dùng tay xoa xoa lên vết thương vẫn còn hơi ướt, vết dính đó là vết máu.

Tư Không Mã dồn lực lẩy bẩy đứng dậy, lắc lắc lư lư cuối cùng mới đứng vững được. Chỉ một cơn gió thổi qua quét sạch trận địa sau cuộc chiến, dưới ánh trăng bạc khắp nơi đâu đâu cũng có cờ chiến, gươm vứt ngang dọc, càng xe, bánh xe, còn có cả xác người ngựa chi chít như sao đêm, mùi máu bay lên tanh tưởi làm cho Tư Không Mã phát nôn. Đến bây giờ ông mới hồi tưởng lại một số cảnh lúc trước và sau khi khai quân giao chiến. Lúc đó ông đang đứng trên một chiếc xe chiến, cùng với một trận hỗn loạn của quân Triệu chỉ nhìn thấy trước mặt bị chắn bởi lớp bụi, tên bắn như rừng. Xe chiến của quân Tần đều là xe có 8 ngựa kéo, xếp đều thành bốn hàng, giống như bức màn xanh rộng khắp núi đồi, không nhìn thấy bờ. Cùng với tiếng trống long trời lở đất, quân Tần với sức mạnh như vũ bão tiến thẳng tới trận địa quân Triệu đánh. Trận địa quân Triệu bị đánh tơi bời. Trong khi đó quân Triệu chém giết lẫn nhau, dường như chỉ còn cái chết. Con đường để họ thoát thân khỏi cái chết chỉ là lên trời.

Tư Không Mã tứ chi rã rời, vất vả lê bước, đi được một lúc lâu vẫn chưa đi ra khỏi trận địa này. Đợi đến khi ông bước lên ngọn núi bỗng nghe phía trước có tiếng gọi quanh quẩn đâu đây, lắng nghe thấy đó là tiếng gọi người rợn cả tóc gáy. Ông lắng tai nghe, đích thực là tiếng gọi thê thảm của một người chưa chết. Ông lặng lẽ bước tới thấy một người chưa bị chôn chết để lộ ra túi áo. Nhờ ánh trăng sáng, ông ghé sát nhìn, gương mặt của con người này có gì đó quen thuộc, nhìn kỹ lại một lần nữa. Đây chẳng phải là Triệu Hoảng sao? Tư Không Mã gọi liên tiếp, Triệu Hoảng cũng nhận ra Tư Không Mã, dồn hơi nói: "Tư Không... đại ca... cứu tôi với..."

Tư Không Mã tìm một con dao chiến có cán, đào bới, mãi một hồi mới lôi được Triệu Hoảng bị vùi chặt trong đất. Triệu Hoảng với giọng yếu ớt nói: "Đại tướng quân Triệu Quát bị mũi tên bắn chết rồi, bốn mươi vạn quân Triệu anh em chúng ta đã bị quân Tần chôn sống! Tôi có mối thù không đội trời chung với quân Tần".

Tư Không Mã nói: "Bây giờ chúng ta nói điều đó chẳng có ý nghĩa gì, mau quay về Hàm Đan đi!" Hai người đuối sức, bộ dạng nhếch nhác, dìu lẫn nhau đi, bắt đầu xuyên qua trận địa hậu chiến bị sương mù che phủ.

Họ đi tới sáng hôm sau khi ánh mặt trời chiếu sáng họ mới bỏ lại sau lưng trận địa đầy máu và sự khủng khiếp tột độ hướng tới một thôn trang nơi xa xăm. Họ không thể lê bước được nữa, cuối cùng cũng lê bước tới một nhà đầu tiên ngay sát gần con đường ở thôn trang. Gân cốt rã rời họ nằm ngay trước cửa mục nát cạnh đường đi tựa như cá xa nước đang há mồm đớp không khi. Một lúc sau, cánh cửa đẩy ra, một người còn gái xuất hiện, giật mình khi trông thấy Tư Không Mã và Triệu Hoảng, bèn hỏi: "Các vị bị làm sao thế?"

Nhìn trang phục của cô gái này và nghe giọng nói của cô, Tư Không Mã biết mình đã tới ranh giới nước Triệu.

Tư Không Mã nói: "Bọn ta là quân lính nước Triệu".

Nghe họ nói vậy cô gái vui vẻ mời họ vào nhà, tìm vải băng bó vết thương cho Tư Không Mã, bưng nước cho họ súc miệng rồi tìm cho họ hai bộ quần áo thường phục của nam giới để thay khỏi bộ trang phục đầy vết máu đã bị khô, sau đó nói: "Các vị nghỉ ngơi đi một chút, tôi đi làm cơm".

Tư Không Mã và Triệu Hoảng cảm ơn đại đức nhìn vào đôi mắt sáng trong hiền dịu của cô gái.

Chẳng bao lâu cô gái đã chuẩn bị xong cơm, cho dù chỉ là bữa ăn thường nhưng cũng có vị thơm, cay cay, nóng hôi hổi. Đối với hai kẻ đói sôi bụng thì đây chẳng khác gì là sơn hào hải vị khiến cho người ta thèm rỏ rãi.

Tư Không Mã và Triệu Hoảng ăn tới mức mồ hôi toát ra ròng ròng. Triệu Hoảng cứ ăn, ăn mãi và cảm thấy chưa đủ vị, vừa nhai nuốt vừa nói: "Cô gái à có rượu không?" Câu nói này dường như đã chạm vào nỗi đâu của cô gái, mắt cô rưng rưng lệ nói: "Các anh không được uống rượu, hôm nay là ngày giỗ..."

"Ngày giỗ?..."

Nước mắt cô gái cứ chảy ra từ vành mắt nói: "Hôm qua cha và hai người anh trai của tôi đều bị quân nhà Tần giết chết tại Thượng Đảng!" Sau này Tư Không Mã mới biết cô gái với mái tóc hỉ nhi có đôi mắt thanh tú hiền dịu này tên là Khương Đào Hoa. Khi Tư Không Mã và Triệu Hoảng hồi phục lại được thể lực tiếp tục lên đường, Khương Đào Hoa đã đưa tiễn hai người một đoạn xa với ánh mắt chan chứa tình cảm.

Triệu Hoảng nói: "Chịu ơn người rơi lệ, tất có ngày hết lòng tương báo. Sau này chúng tôi phải quay lại báo đáp vị ân nhân cứu mạng này".

Xem tiếp Chương 8 Món hàng lạ

Hàn Diệu Kỳ

Chương 8 Món hàng lạ

Mặt trời xưa nay vẫn không thay đổi, hàng ngày đều chiếu tia sáng mới xuống thành Hàm Đan. Cảnh tang tóc bi thương giống như đám mây đen tầng tầng lớp lớp che phủ trên không trung nơi có vị đế vương này ngồi.

Từ Triệu Hiếu Thành vương đến Ngõ làng nơi người dân áo vải trước cửa nhà đều treo cờ trắng, tiếng khóc tang. Người ra ra vào vào đều mặc áo tang đầu đội mũ trắng. Tiếng ai oán từ trong ra đến ngoài ngõ không dứt. Hơn 40 vạn quân lính nước Triệu bị quân Tần đào hố chôn sống, đa phần là người sống ở trong thành Hàm Đan. Mỗi hộ gia đình đều có một hoặc hai người con trai tử trận trên mảnh đất vùng Thượng Đảng. Triệu Hiếu Thành vương hạ chiếu: cả nước để tang cấm uống rượu vui chơi, cấm mặc áo xanh áo đỏ.

Trong phủ Lã Bất Vi cũng đặt một linh đường đó để tế Tư Không Mã.

Mấy ngày nay Lã Bất Vi trầm ngâm không nói, không ra khỏi phòng, ngồi trong thư phòng gẩy đàn. Kẻ hầu ngoài cửa thường xuyên nghe thấy tiếng đàn ai oán, có lúc nghe như tiếng nước chảy ào ào, cuồn cuộn, chậm rãi, có lúc như sóng to gió lớn; có lúc tựa như trăm con sông đang chảy về, tuôn trào ngàn dặm, có lúc như tiếng gió vi vu, bao phủ khắp bầu trời. Lã Bất Vi cũng đã nhìn ra xu thế nước Triệu thất bại sau cuộc chiến Trường Bình. Năm trăm dật vàng (1 dật = 20kg) của ông sẽ hóa thành tro bụi. Việc kinh doanh châu báu của ông ở thành Hàm Đan, ở một số thành ấp khác của nước Triệu cũng gặp không ít trở ngại, ngoài ra còn ý tưởng chính trị thăng quan tiến chức của ông, cũng có thể bị lắng xuống, mình chỉ như một nhúm lông trên đám da bị lở loét thì còn tiền đồ gì nữa đây? Ông thường xuyên thở dài nói: "Sau này rong ruổi Thần Châu (Trung Quốc, cách gọi cũ) kẻ độc bá thiên hạ phi tần mạc sở!"

Từ khi nhìn thấy Triệu Ngụy Tử để lại Tả Chất thì tảng đá to trong lòng ông mới được gỡ xuống, không cần lo lắng việc vận chuyển lậu tới Hàn Quốc thì có gì rắc rối. Hơn nữa, Triệu Cơ, bông hoa như ngọc ngà, danh chính ngôn thuận trở thành thiếp của ông. Mấy đêm nay ông đều nghỉ qua đêm trong phòng Triệu Cơ, chung chăn chung gối, cử chỉ động tác mới mẻ của cô khiến cho ông đạt tới thỏa mãn cực đại trong khoái cảm. Triệu Cơ liền khoác lên mình chiếc áo mỏng xuống đất múa hát một hồi. Triệu Cơ thay Hoàng Phủ Kiều, quấn quýt quanh Lã Bất Vi, tạo cho cuộc sống của ông có sức sống, có một cảm hứng mới lạ. Đương nhiên ông và Triệu Cơ gắn bó với nhau như keo như sơn khiến cho Hoàng Phủ Kiều nổi cơn ghen và oán hận. Hoàng Phủ Kiều đập đồ, trách mắng nô tỳ. Có những lúc quần áo xộc xệch chạy qua đình qua viện, dùng tiếng xé lòng xé ruột gào gọi Lã Bất Vi. Hôm qua Triệu Cơ đến thư phòng lấy sách cho Lã Bất Vi, vừa hay chạm trán với Hoàng Phủ Kiều. Hai người lời ra tiếng vào, anh một câu chị một câu. Rốt cuộc đánh nhau to, sứt đầu mẻ trán, khóc lóc đến tìm Lã Bất Vi làm trọng tài phân định phải trái. Giữa thê thiếp không thể tránh khỏi hoảng loạn, Lã Bất Vi không rõ đầu đuôi. Hoàng Phủ Kiều khóc lóc không chịu nhận mình là người có lỗi thuật lại đầu đuôi để Lã Bất Vi thụ ý. Triệu Cơ đến trước mặt Hoàng Phủ Kiều đáp lễ nhận sai, lúc đó tình hình căng thẳng mới chấm dứt.

Triệu Cơ và Hoàng Phủ Kiều có hiềm khích đã lâu, mỗi lần hai người trông thấy nhau đều giả bộ cười nhưng trong lòng hậm hậm hực hực. Triệu Cơ trước mặt Lã Bất Vi cố gắng hạ thấp Hoàng Phủ Kiều, Hoàng Phủ Kiều gặp Lã Bất Vi cũng nói Triệu Cơ không ra gì. Điều này đã làm cho Lã Bất Vi tăng thêm sự phiền toái mới. Một hôm Lã Bất Vi đang ngồi trên lầu hai gẩy đàn bỗng nghe thấy tiếng chửi mắng ở dưới nhà không thể không chú ý nghe. Lã Bất Vi đứng lên dựa người vào thành lan can vọng xuống dưới nhìn trông thấy một nhóm người xúm xít vây quanh hai người đang đẩy đi đẩy lại, từ đông sang tây. Có kẻ ở bên ngoài xem còn dùng cả vỏ quả, đá ném vào hai người đó, bất giác kêu gào lên: "Đánh chết con cháu Tần vương đi, đánh chết con cháu Tần vương này đi!"

Lã Bất Vi nhớ ra Dương Tử từ nước Tần quay về đã nói với ông cháu của Tần Chiêu Nhưỡng đã tới Hàm Đan nhưng ông không để ý tới việc này. Bây giờ nghe thấy dưới nhà có tiếng hò hét điếc cả tai, Lã Bất Vi nghĩ, hai người đang bị vây xung quanh trong đó tất phải có một là người lạ.

Dưới lầu, các đầu người chụm lại, hai người đó dùng tay áo né tránh những vật ném - Lã Bất Vi không nhìn rõ mặt hai người đó. Lã Bất Vi gọi Dương Tử lại bảo xuống nhà xem có chuyện gì.

Dương Tử xuống lầu.

Do có người lạ xuất hiện làm cho Lã Bất Vi bị xáo động và phấn khởi hồi lâu. Trong đầu ông đã nẩy ra một ý nghĩ mạnh mẽ: Người này sẽ là hàng quý có thể giữ lại. Một lúc sau, Dương Tử lại bước lên lầu nói với Lã Bất Vi: "Hai người đang bị bao vây dưới nhà đúng là cháu Tần vương vào người hầu nước Tần do hắn mang đi".

Lã Bất Vi hỏi: "Tại sao bị mọi người làm nhục trước đại đình vậy?"

Dương Tử đáp: "Số bạc mà người lạ này mang từ nước Tần đi đã dùng hết rồi, định tìm đến quán rượu vùng ngoại ô này làm công kiếm tiền. Khi đang đi trên đường bị người nhận ra. Gia quyến của những người bị chết trong trận ở Trường Bình vừa nhìn thấy cháu Tần vương là muốn đánh chết ngay để báo thù cho người thân đã bị chết".

Lã Bất Vi hỏi: "Mấy hôm trước, ngươi đến Thành Dương đã nghe thấy gì về người ta?"

Dương Tử nói: "Ở Thành Dương thuộc hạ đã được nghe rất nhiều điều về người lạ, lúc về thuộc hạ cũng đã nói với đại nhân, người lạ cháu Tần vương đã tới Hàm Đan, đại nhân cũng không có hứng thú về việc này nên thuộc hạ cũng không bẩm báo với đại nhân".

"Thế bây giờ ngươi nói đi".

Thế là Dương Tử kể lại tỉ mỉ thân thế, quan hệ gia đình, lý do đến Hàm Đan của người lạ.

Lã Bất Vi nghe xong lại vọng xuống lầu dưới nhìn thấy đám người kia đi vẫn chưa xa. Lã Bất Vi và Dương Tử bước hai bậc một bước xuống dưới lầu, vội vã tới nhóm người vây chặt bên trong dùng tay che cho người lạ và người hầu đang bị sứt đầu mẻ trán, nói: "Các vị quân tử xin mọi người dừng tay!" Trong đám người có người nhận ra Lã Bất Vi, nói: "Đây chẳng phải là thương nhân lớn về châu báu Lã Bất Vi sao?" Có người chất vấn Lã Bất Vi nói: "Tần Chiêu Nhưỡng là con quỷ giết người không chớp mắt này, đã chôn sống hơn bốn mươi vạn quân lính nước Triệu chúng ta, đại nhân còn bảo vệ con cháu của hắn làm gì?"

Lã Bất Vi nở nụ cười hướng tới đông đảo mọi người, cúi mình đáp lễ nói: "Các vị tiên sinh, quân tử, xin mọi người đừng hiểu lầm. Tần Chiêu Nhưỡng là quân địch không đội trời chung với mỗi người dân nước Triệu ta. Tôi tại sao phải bảo vệ con cháu hắn? Việc là thế này, hai hôm trước người lạ đến cửa hàng châu báu của tôi mua đồ, sổ sách vẫn chưa tính rõ ràng, họ vẫn nợ tôi tiền, tôi tìm họ đã lâu rồi mà chưa tìm thấy. Bây giờ tôi phải tính sổ với hắn, đòi tiền hắn". Một người trong đám người phẫn nộ nói: "Đồ thối tha vô lại này mua đồ mà không chịu trả tiền, phải dạy cho bọn chúng một trận". Lã Bất Vi đưa ánh mắt đặc biệt về phía người lạ nói: "Đi đi, Dị nhân đến phủ của ta tính sổ cho rõ ràng".

Dị nhân nhìn về trước mặt thấy vị thương nhân tướng mạo ung dung hào hoa, phúc hậu hiền từ không thể nghĩ ra là đã đến cửa hàng của ông ta mua những đồ châu báu ngọc ngà từ khi nào. Hắn không hiểu dụng ý giúp hắn giải vây của Lã Bất Vi mà cho rằng hai nước Triệu, Tần giao chiến, hắn đến Hàm Đan là xúi quẩy, có người đến ép hắn.

Lã Bất Vi thấy Dị nhân lặng đi bất động liền thúc giục: "Đi mau, đến phủ ta tính rõ nợ nần".

Dị Nhân bằng ánh mắt phẫn uất nhìn Lã Bất Vi hỏi: "Thưa vị thương nhân, tôi mua châu báu của đại nhân từ bao giờ mà nợ nần đại nhân?"

Lã Bất Vi nói vội: "Đi thôi, đến phủ tôi nói sẽ rõ thôi".

Chu Kiểm ở bên cạnh nhìn thấy lạ lắm bèn nói với Dị Nhân: "Công tử điện hạ người đến phủ vị thương nhân này cũng có thể hiểu rõ được ngọn ngành".

Thấy người hầu Chu Kiểm nói giống với Lã Bất Vi, Dị Nhân cũng hiểu ra đôi chút, bán tín bán nghi tự nhủ: "Ta thực sự mua ngọc mà không trả tiền ư?"

Dưới con mắt trừng trừng của đám người Dị Nhân đi theo Lã Bất Vi thoát khỏi đám người. Sau khi vào phủ Lã Bất Vi thấy cửa nhà cao ráo, đường vào rộng rãi, chẳng bao lâu đi qua lối vào phòng khách có người hầu mặc áo mới sang trọng, Dị Nhân biêt Lã Bất Vi chắc chắn không phải là loại buôn bán nhỏ tầm thường.

Vừa bước vào phòng khách, Lã Bất Vi mời Dị Nhân ngồi xuống. Chu Kiểm hỏi: "Quý thương mời chúng tôi vào phủ chắc không phải để đòi tiền chứ?"

Lã Bất Vi nói: "Người ta thường nói trên đường gặp chuyện bất bình rút dao ra cứu giúp. Tôi thấy công tử Dị Nhân điện hạ vừa bị vây tấn công, bèn nghĩ ra cách đòi nợ để giải vây cho các vị. Xin công tử đừng lấy đó làm lạ".

Dị Nhân và Chu Kiểm cảm tạ xong, Lã Bất Vi nói: "Hai nước Tần Triệu vừa đánh xong trận Trường Bình, trong thành Hàm Đan có rất nhiều chuyện hỗn loạn, xin công tử điện hạ đừng đi lại tùy ý để tránh gây ra rắc rối khó tránh khỏi".

Dị Nhân nói: "Không sợ quý thương cười chê, tiền bạc chúng tôi mang đi từ Thành Dương đã tiêu hết sạch rồi, Triệu Hiếu Thành vương lại không chịu cho gặp. Hai thầy trò chúng tôi quần áo rách rưới, thức ăn đã cạn, đành phải ra ngoài này xin làm thuê kiếm ít tiền".

Lã Bất Vi vội gọi Dương Tử lấy ra mười dật vàng, cầm hai tay dâng lên Dị Nhân nói: "Chút tiền nhỏ mọn này mong công tử điện hạ cầm tạm để giải quyết lúc nguy cấp, không nên ra ngoài làm thuê, vừa thấp hèn, vừa nguy hiểm".

Dị Nhân nhận mười dật vàng hỏi: "Vậy khi nào chúng tôi phải trả?"

Lã Bất Vi cười: "Công tử hỏi như vậy tôi đành phải nói hết. Tôi từ lâu đã hâm mộ danh tiếng điện hạ, sau khi tới Hàm Đan vẫn mong muốn được đến chào nhưng đáng tiếc là chưa có nguyên do. Hôm nay trời đất đã mang đến cơ may có vinh hạnh được gặp công tử điện hạ, quả thật cuộc đời tôi có vinh hạnh lớn. Lần này điện hạ tới đây địa thế hiểm trở có thể nhận mười dật vàng của Lã Mỗ đây cũng coi như là may mắn cho Lã Mỗ rồi. Sau này cần sai khiến Lã Mỗ này thì Lã Mỗ cũng nguyện làm trâu ngựa".

Dị Nhân nói: "Vậy phải cảm ơn quý thương rồi!"

Lã Bất Vi nói: "Không dám hỏi điện hạ sống ở nơi nào?"

Dị Nhân đáp: "Liễu Cảng".

Lã Bất Vi nói: "Nếu điện hạ cho phép, tới đây tôi sẽ tới nhà chào hỏi".

Dị Nhân đáp: "Hoan nghênh".

Sau khi Dị Nhân và Chu Kiểm đi, Dương Tử nghi hoặc hỏi Lã Bất Vi: "Lã đại nhân, bây giờ Dị Nhân cháu Tần vương đang ở đây trong thành Hàm Đan này như đã có chuột chạy qua đường mọi người hô hào đánh. Đại nhân kết bạn với hắn, chẳng phải là lấy phân chuột dính lên người sao?"

Lã Bất Vi vẫn cười rạng rỡ hỏi Dương Tử: "Lợi hơn làm ruộng mấy lần?"

Dương Tử đáp: "Khoảng mười lần".

Lã Bất Vi lại hỏi: "Thắng vì châu ngọc mấy lần?"

Dương Tử đáp: "Đại nhân phải rõ hơn tôi, buôn bán châu ngọc chắc chắn được lợi hơn một trăm lần".

Lã Bất Vi hỏi: "Là vua của một nước thì thắng lợi mấy lần?"

Dương Tử lắc đầu, không trả lời được. Hắn nhìn khuôn mặt Lã Bất Vi một cách kỳ lạ. Hắn phát hiện da thịt trên khuôn mặt Lã Bất Vi căng tròn đến độ kinh ngạc, vui hay buồn đều không lộ rõ trên mặt.

Thấy Dương Tử không nói, Lã Bất Vi gặng hỏi: "Vua của một nước thì thắng lợi mấy lần?"

Dương Tử nói: "Tiểu nhân không biết lời nói vàng ngọc của đại nhân là gì?"

Lã Bất Vi nói: "Vậy thì để ta nói cho ngươi biết, Dương Tử là vua của một nước có thể thu được vô số lợi. Nhà ngươi không thấy sao, những dân áo vải kia, vất vả trồng ruộng, ăn không no, áo không đủ ấm giống như ta là thương nhân châu ngọc, tuy có thể đạt được tám mươi đến một trăm lần lợi nhưng cũng chỉ là kinh doanh nên đôi lúc cũng phải ngậm đắng nuốt cay. Nếu giúp một người thành vua một nước có thể nói một vốn vạn lời. Tham gia vào chính trị một nước, sáng lạn tổ tông theo đuổi hoài bão lớn, ân trạch con cháu".

Nghe Lã Bất Vi nói vậy, Dương Tử có phần hiểu ra hỏi: "Có phải Lã đại nhân định đầu tư vào vị Dị Nhân này?"

Lã Bất Vi nói: "Đúng là ý vậy. Chiến dịch Trường Bình đã lộ ra manh mối là nước Tần sẽ thống lĩnh thiên hạ. Thái tử của Tần Chiêu Nhưỡng vương có tất cả hai mươi ba người con, cho đến nay vẫn chưa lập người kế vị. Chỉ cần chúng ta chịu bỏ tiền bạc để Dị Nhân mở rộng quan hệ với chư hầu, hiểu rõ ân đức, lại đi Thành Dương gặp Tần vương, hối lộ vua An Quốc, một số nhân vật quyết sách phu nhân Hoa Dương, Dị Nhân rất có hy vọng được lập thành người kế vị nước Tần".

Dương Tử nói: "Một khi Dị Nhân thành Tần vương thì Lã đại nhân sẽ trở thành Tướng quốc dưới một người trên vạn người".

Lã Bất Vi đầy niềm tin nói: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Chỉ cần chúng ta không tiếc sức để đi làm, thượng đế luôn phù hộ chúng ta".

Dương Tử để ý thấy mỗi khi Lã Bất Vi nói câu nói này, hai mắt loé lên tia sáng chiếu thẳng vào người đối diện.

Dị Nhân như chim sợ cành cong cùng với Chu Kiểm sống ở vùng Lư Cảng không rõ đâu đuôi đi về Liêu Cảng. Khi gần tới nhà nghỉ thì trời đã nhá nhem tối. Mặt trời vàng như quết lên ngôi nhà cỏ thấp lè tè một màu vàng nhuộm. Trong Lư Cảng quanh co phảng phất mùi hôi thối khiến người ta phát nôn. Dị Nhân hiểu mùi thối này không phải ánh sáng còn lại của ráng chiều mà nó được phát ra từ mùi phân người lẫn chó từ ngoài đường phố. Dị Nhân dò từng bước, né bên này tránh bên kia, cốt để giữ sạch đôi giày trước khi bước vào quán trọ.

Chủ quán Công Tôn Càn với khuôn mặt to đăm chiêu, nhăn nhó. Hắn trông thấy Dị Nhân bước vào, hàng lông mày dựng lên nói: "Tôi đã nói với công tử điện hạ biết bao nhiêu lần rồi, các người không được tùy tiện đi các nơi. Đây không phải là Công Tôn Càn làm khó các ngươi mà đây là lệnh của Đại vương. Vừa rồi tôi vừa vào nhà cỏ đi vệ sinh quay ra đã chẳng thấy các ngươi đâu! Tôi phải nhấn mạnh với các ngươi một lần nữa, nếu các ngươi vẫn ra đi mà không nói, tôi sẽ phải đến gặp Đại vương phạt trị các ngươi".

Dị Nhân đầy khí thế nói: "Bây giờ chúng ta phải e dè nhưng cũng không thể dương mắt nhìn mình bị chết vì đói!"

Chu Kiểm cũng họa thêm nói: "Chúng tôi không thể trừng mắt đợi người chết!"

Khi Dị Nhân mới đến, Công Tôn Càn còn đối xử khách khí với họ, cho dù thế nào đường đường là con cháu Tần vương, không thận trọng không được. Nhưng mấy ngày nay, do trận giao chiến giữa hai nước Tần, Triệu ở Trường Bình, Triệu Hiếu Thành vương sai người bảo Công Tôn Càn phải quản nghiêm ngặt Dị Nhân. Đặc biệt là sau khi đã chôn sống 40 vạn quân Triệu, Công Tôn Càn cảm thấy Triệu Hiếu Thành vương muốn giữ Dị Nhân để hả giận. Vì vậy, họ rất cẩn thận, nếu để Dị Nhân có một hai sai lầm, Triệu Hiếu Thành vương có thể lôi họ ra hỏi tội.

Công Tôn Càn và Dị Nhân, Chu Kiểm đôi co vài lần, liếc nhìn sang bên cạnh, mỗi người đều bận công việc riêng của mình. Dị Nhân có được mười dật vàng của Lã Bất Vi lúc đi ngang qua phố để Chu Kiểm đến cắt về mấy cân thịt, lại mua về một ít rượu, bây giờ hai người ngồi trong quán trọ cải thiện đồ ăn nhạt mấy hôm nay, đối mặt với thịt rượu. Uống mãi, uống mãi, Chu Kiểm bỗng nghĩ tới mối nhục bị bao vây tấn công lúc ở trên đường, trong lòng không khỏi tủi, bất giác rơi nước mắt.

Dị Nhân buồn buồn hỏi: "Ngươi làm sao thế?"

Chu Kiểm kìm nước mắt lắc lắc đầu.

Dị Nhân hỏi bằng giọng rượu: "Nhớ nhà à?"

Chu Kiểm cười gượng nói: "Nhớ nhà có tác dụng gì? Tần, Triệu đánh lớn, chôn sống hơn 40 vạn quân nước Triệu, nói không chắc chứ hôm nào đó Triệu Hiếu Thành vương sẽ trừng trị chúng ta thôi".

Dị Nhân nói: "Hôm nay có rượu, hôm nay chúng ta phải suy nghĩ nhiều như vậy cũng không giải quyết được việc".

Chu Kiểm nói: "Công tử điện hạ, bây giờ Tần Triệu quay lại thành thù, chúng ta không nên lưu ở đây để người nào đó đến ám hại xâu xé làm nhục!"

Dị Nhân nói: "Ta cũng nóng lòng về nhà, nhưng về Thành Dương đâu phải là dễ. Chủ quán Công Tôn Càn kèm chặt người của thành Hàm Đan cũng giữ chặt như nhà lao, dù là con ruồi cũng không bay qua nổi thì chúng ta làm sao thoát đây?"

Chu Kiểm nói: "Trời không tuyệt đường của con người, chỉ cần chúng ta dày công suy nghĩ sẽ tìm ra cách".

Dị Nhân nói: "Ta thấy có lắp thêm cánh cũng khó thoát!"

Khi Dị Nhân và Chu Kiểm uống rượu, Công Tôn Càn cũng chẳng có việc gì, ngồi một lúc rồi đi đi lại lại.

Chu Kiểm nghe thấy tiếng động, cầm một miếng thịt, bưng bát rượu đinh mang cho Công Tôn Càn. Dị Nhân sầm mặt không cho mang đi. Chu Kiểm nói: "Vào thời điểm này, chúng ta cần phải cố gắng lấy lòng kết bạn với mọi người. Có thêm một người bạn tức có thêm một con đường!"

Nghe nói vậy, Dị Nhân cũng không ngăn cản nữa. Chu Kiểm bước tới hành lang trước, dâng thịt rượu lên Công Tôn Càn nói: "Công Tôn tiên sinh, trời đã muộn, xin uống chén rượu nhạt sưởi ấm thân".

Mấy tháng nay Dị Nhân và Chu Kiểm đến Hàm Đan do thân phận đặc biệt của Chủ quán, giữa họ và Công Tôn Càn có ý hiềm khích bản năng. Dị Nhân và Chu Kiểm sống ở trong phòng bên cạnh hành lang. Công Tôn Càn nghỉ tại phòng bên ngoài cửa. Bình thường khi gặp mặt nhau chỉ chào hỏi nhau qua loa, sau đó thì đường ai nấy đi, mà không hề qua lại trò chuyện. Trước chiến dịch Trường Bình, Công Tôn Càn cũng không lưu ý tới những việc sai ở quán trọ của y. Việc ra vào của Dị Nhân và Chu Kiểm, Công Tôn Càn thường để họ tự do đi lại. Hắn không phải là ngủ mê mệt trong phòng thì lại ra đường ngắm hoa ngắm cảnh. Buổi đêm, cũng không nghỉ trong quán. Sau chiến dịch Trường Bình, tình cảnh không còn như lúc trước nữa. Vị Công Tôn Càn này cảm thấy thần hồn nát thần tính, sợ bóng sợ gió. Không còn dáng vẻ mơ ngủ, lớp thịt đắp đầy lên hai bờ mắt giống như con chó trước khi đi săn đầy vẻ cảnh giác.

Thấy Chu Kiểm bưng rượu thịt mời, cảnh giác hỏi: "Hôm nay các anh có chuyện gì thế?"

Chu Kiểm nói: "Hôm nay ngẫu nhiên gặp người bạn cũ, trợ giúp cho ít bạc lại mua cho tôi và công tử điện hạ chút đồ nhắm thỏa cơn thèm".

Công Tồn Càn lạnh nhạt đứng ở đó không chấp nhận.

Chu Kiểm một lần nữa cung kính mời: "Đây chẳng phải là rượu quý hiếm, mời Công Tôn tiên sinh uống cho, nếu không tôi và công tử điện hạ làm sao có thể yên tâm cầm đũa ăn được".

Công Tôn Càn đành phải nhận bát rượu, uống một ngụm hết sạch, lau lau miệng, không ăn thịt cũng không nói với Chu Kiểm nữa.

Quay về phòng, Chu Kiểm nói với Dị Nhân: "Chúng ta muốn trốn khỏi Hàm Đan thì không thể thiếu được sự giúp đỡ của Công Tôn Càn".

Dị Nhân không thèm để ý nói: "Hừm, loại người như Công Tôn Càn làm sao có thể giúp được chúng ta, nếu là Lã Bất Vi thì còn tạm được. Tình cờ gặp nhau, thoạt cái đã tặng cho chúng ta mười dật, thật là người hào hoa".

Chu Kiểm nói: "Theo tiểu nhân quan sát vị thương nhân này khinh nghĩa trọng lợi. Lã Bất Vi này không thể vô cớ lấy ra mười dật vàng đưa cho điện hạ".

Dị Nhân hỏi: "Theo cách nghĩ của người, Lã Bất Vi tặng bạc là có ý đồ gì? Không thể có. Chúng ta không quyền không thế, không tiền không hạng. Ông ta không thể đòi chúng ta được cái gì. Chúng ta lại không phải là con gái lá ngọc cành vàng, có sắc đẹp gì để mê hoặc ông ta". Chu Kiểm nói: "Ông ta có mưu đồ gì đó, tôi vẫn chưa đoán ra. Nói tóm lại thuộc hạ thấy hành vi của Lã Bất Vi làm người ta cảm thấy kỳ quặc".

Dị Nhân nói: "Có gì kỳ quặc ở đây. Giúp đỡ vị con Tần vương rất đàng hoàng rõ ràng!".

Chu Kiểm nói: "Công tử điện hạ hãy xem, chưa biết chừng mấy hôm nữa Lã Bất Vi đến tìm".

Chu Kiểm không nói nữa.

Ba hôm sau, vào buổi sáng, ánh mặt trời chói chang, Lã Bất Vi trang điểm trông giàu có hào hoa đến. Đi theo sau ông ta là Dương Tử đang gánh trên vai vài thứ đồ và một số người phục dịch. Đáng lẽ ông ta nên ngồi xe đến nhưng tại sao lại đi bộ đến? Thứ nhất, đường tới Liêu Cảng khúc khuỷu, chật hẹp, gồ ghề xe chạy khó. Thứ hai, nếu đi bộ biểu thị lòng tôn kính của mình đối với Dị Nhân.

Dị Nhân sống ở Liêu Cảng mấy tháng nay chẳng có lấy vương hầu tướng nho nhã như vậy tới gặp ông ta.Cả đoàn tiền hô hậu ứng mũ áo chỉnh tề, người đầy phong độ khiến Công Tôn Càn cảm thấy vừa kinh ngạc vừa thấy kỳ lạ. Mở cửa phòng trọ của Dị Nhân, Dương Tử lấy ra dĩnh vàng đã chuẩn bị trước nhét vào tay béo mập của Công Tôn Càn, sau đó nói với Công Tôn Càn, chúng tôi là gia đình đại nhân Lã Bất Vi đến bái kiến Dị Nhân Tần vương. Công Tôn Càn cũng biết trong thành Hàm Đan này có một người giàu có tên là Lã Bất Vi chỉ có điều chưa được gặp mặt. Hôm nay tận mắt trông thấy quả nhiên khí độ bất phàm. Ông ta nhận dĩnh vàng, gặp Lã Bất Vi một thương nhân trong thành Hàm Đan, không thể có âm mưu quỷ kế gì với Dị Nhân nên mới Lã Bất Vi và tùy tùng vào.

Khi Lã Bất Vi và đoàn tùy tùng đã vào trong phòng trọ chật hẹp, Dị Nhân nhìn Chu Kiểm bằng con mắt lồi ra đầy kinh ngạc về lời dự báo phục lăn ra đất tính toán như thần: "Qua mấy ngày ắt hẳn Lã Bất Vi sẽ đến tìm".

Hai bên ngồi ổn định xong, Dị Nhân nói với Lã Bất Vi: "Nhà tôi chật hẹp, phòng trống không tiện để quý thương và các chư vị đây dừng bước".

Lã Bất Vi vội đáp: "Công tử điện hạ, không hề gì. Tôi có thể làm cho ngôi nhà chật của công tử trở nên to, sáng sủa lên!"

Dị Nhân có chút phản cảm trước giọng điệu có vẻ thương người bần cùng tự cho mình là nhất của Lã Bất Vi, không tự ti mà cũng không tự cao cung kính đáp lại Lã Bất Vi một câu: "Quý thương, xin người sửa sang nhà mình sáng rộng trước đã sau đó hãy làm rạng rỡ nhà người khác!"

Lã Bất Vi không dị nghị gì về thái độ của Dị Nhân. Nói: "Công tử điện hạ, ai chẳng muốn làm rạng rỡ cửa nhà mình! Làm rạng rỡ cửa nhà tiện nhân thì phải làm rạng rỡ cửa nhà công tử trước đã!"

Dị Nhân vẫn chưa nghe rõ câu nói của Lã Bất Vi nói: "Tôi không hiểu quý thương định nói gì?"

Lã Bất Vi chậm rãi thuật lại rõ ràng câu nói vừa rồi: "Tôi là ai, ai không muốn làm rạng rỡ cửa nhà mình! Làm rạng rỡ cửa nhà bề tôi thì phải đợi làm sáng rộng cửa nhà công tử trước".

Dị Nhân đã hiểu câu nói với hàm ý sâu xa của Lã Bất Vi, biết Lã Bất Vi là người rất có lai lịch vội cúi xuống đáp một lễ nói: "Lời quý thương tôi nghe mà như chưa nghe, cảm thấy hết sức mới mẻ, nhưng lại cảm thấy mơ hồ xin quý thương giải thích rõ hơn".

Lã Bất Vi nói: "Cửa nhà công tử điện hạ đầu tiên phải làm sáng rộng".

Dị Nhân hỏi: "Thế nào gọi là sáng rộng?"

Lã Bất Vi rằn từng tiếng: "Xưng vua ở mặt Nam đầu tiên là Tần vương, kế đó làm bá chủ thiên hạ!"

Dị Nhân cười nói: "Quý thương buộc ta phải nói thẳng, nghe câu nói đấy của ngươi ta nghe như người điên nói mơ. Ta tuy là con cháu Tần vương nhưng như hổ thất thế, hiện nay lâm vào thế túng quẫn chẳng khác gì người dân áo vải, bị giam lỏng ở Liêu Cảng, người là dao ta là cá, chẳng khác gì gặp nguy tới nơi! Làm sao có thể ngồi ở mặt Nam xưng vương xưng đế?"

Lã Bất Vi nói tiếp: "Tôi nghe nói bố của công tử điện hạ Chiêu vương tuổi đã ngoại thất tuần, đã bước vào tuổi già, lệnh tôn đại nhân An Quốc kế vị trở thàng Tần vương. An Quốc có hai mươi ba vị công tử nhưng vẫn chưa lập người kế vị. Như vậy lập người nào làm Thái tử thì ngay trong chớp mắt. Tôi còn nghe nói, phi tần sinh hai mươi ba vị công tử, danh chính ngôn thuận của An Quốc chỉ có phu nhân Hoa Dương được ân sủng - Còn lại các vị phi tần kia bao gồm Hạ Cơ mẹ của công tử điện hạ cũng đều bị bỏ mặc sang một bên. Lập ai làm Thái tử lời của phu nhân Hoa Dương đáng giá nghìn vàng mà Hoa Dương phu nhân lại không có con để lập vậy điện hạ nên nắm lấy cơ hội nghìn năm có một này, kích sủng đòi lập kế vị, mưu sự nghiệp lớn!"

Dị Nhân đành bó tay nói: "Quý thương chỉ biết một mà không biết hai. Anh em chúng tôi cả thảy 23 người trước có Tử Kế, sau có Xú Báo, ta ở giữa, không thể độc chiếm sự trung ái của vua cha Quốc An, hơn nữa do mẹ không được sủng ái lại bị đi tha hương nơi đất khách quê người, vội đến ôm chân phật thì cũng chỉ là bỏ nhiều công sức mà thành công chẳng bao nhiêu mà thôi".

Lã Bất Vi trong lòng sốt sắng nói: "Công tử điện hạ không nên bi quan thất vọng như vậy, tiện nhân nguyện hiến nghìn vàng để kinh doanh ngôi kế vị của công tử. Người nên mở rộng giao lưu với các chư hầu và những người giàu có chức quyền, thể hiện nhân đức. Tiện nhận chấp nhận mọi rủi ro hành trang vào Tần, dùng trăm phương nghìn kế để nói với vua An Quốc và phu nhân Hoa Dương lập người làm người kế vị".

Dị Nhân nghe Lã Bất Vi nói vậy vui mừng khôn xiết. Cảm kích nói: "Thượng đế có mắt gặp được ân chủ! Một khi mưu hoạch của ta đạt được như ý nhất định có thưởng. Ta làm vương nước Tần thiên hạ này ta với quý thương mỗi người một nửa!"

Nô bộc hoạn quan rón rén đi lại giữa các điện như sợ giẫm chết kiến. Một khi có cơn gió nhẹ lướt qua, thổi quần áo người trong cung Triệu Hiếu Thành vương phát ra tiếng kêu, bọn họ vội thu lại guồng tơ lụa đang bay sau đó mới từ từ ngó đông nhìn tây.

Những nô bộc hoạn quan này đều biết gần đây Triệu Hiếu Thành vương đều cảm thấy đau nhói đối với bất cứ tiếng động nhỏ nào. Hai hôm trước có một vị truyền tin do bước đi quá mạnh không cẩn thận va vào đỉnh lớn trước cửa điện làm vung lên tiếng kêu một hồi lâu, Triệu Hiếu Thành vương nói vị truyền tin này đi lại thất lễ làm nhục liệt tổ liệt tông cuối cùng bị đem đi xử cực hình. Bọn nô bộc hoạn quan run sợ nhìn người truyền tin bị đánh đến mức máu thịt nát như hồ, còn lại một chút hơi thở bị ném ra ngoài tường. Tuy nhiên, các nô bộc hoạn quan thường xuyên nghe thấy tiếng gầm thét như sấm của Triệu Hiếu Thành vương ở chính điện to tới mức vọng ra cả trong cung và ngoài cung.

"Bốn mươi vạn quân của quả nhân chết thảm quá!"

"Để quả nhân xa giá thân chinh tiến vào thành Thành Dương quyết một phen với con rùa Chiêu vương này". "Thượng đế mở mắt, hưng ngã Triệu Thị".

* * * * *

Triệu Quát dẫn đầu bốn mươi vạn quân, thua trận ở Trường Bình, tất cả bị chôn sống khiến Triệu Hiếu Thành vương cảm thấy đó là nạn khủng khiếp nhất. Đương lúc buồn như cha mẹ chết bỗng nhiên nghĩ tới Dị Nhân con cháu Tần vương đến thành Hàm Đan này. Ông muốn túm lấy hắn để hả giận, muốn phanh thây hắn thành năm bảy mảnh. Ông muốn thân xác hắn phải nát thành vạn đoạn!

Triệu Hiếu Thành vương không muốn để Dị Nhân chết một cách dễ dàng, ông muốn dày vò Dị Nhân để rửa bớt đi mối thù hận đang hừng hực trong con người ông, bớt đi lòng căm phẫn của quân dân nước Triệu.

Triệu Hiếu Thành vương đang lập kế hoạch giết chết Dị Nhân. Đầu tiên bị vua Bình Nguyên Triệu Thắng phản đối - Vua Bình nguyên Triệu Thắng nói: "Hai nước giao chiến, nước Triệu chúng ta không thể lấy việc trừng phạt Dị Nhân cháu Tần vương để bù đắp cho thất bại ở Trường Bình".

Lạn Tương Như cũng nói: "Đại vương cũng không nên trị quốc bằng tính đàn bà. Nếu trên người Dị Nhân có hề hấn gì thì nhất định bị thiên hạ, chư hầu chê cười".

Triệu Hiếu Thành vương định bụng tự hành động, đầu tiên cứ tóm Dị Nhân lại đã.

Triệu Bảo vua Bình Dương khuyên trong tiếng khóc: "Đại vương hạ thần có một câu phải nói, nếu nói ra chắc sẽ đắc tội với Đại vương thậm chí còn có nguy cơ bị chém đầu. Nhưng vì giang sơn xã tắc nước Triệu như ở cổ không thể không nói ra. Vì dân thì người chủ không thể vạn sự đều biết, phải lắng nghe mới tỏ. Trước khi cuộc chiến Trường Bình xảy ra, nếu Đại vương chịu thu nạp ý kiến của mọi người, không dùng Triệu Quát làm Đại tướng quân của thống quân thì sao có họa lớn như thế này!"

Triệu Bảo vua Bình Dương đã chạm đến vết đau của ông ta, Triệu Hiếu Thành vương thẹn quá hóa giận, suýt nữa phát bực nhưng vẫn chưa tìm ra lời để ngắt. Triệu Bảo - vua Bình Dương nói quá chính xác nên khó có thể biện giải được. Vì vậy, chiếc cằm dài của Triệu Hiếu Thành vương đã co lại, đành nói: "Vậy thì bốn mươi vạn quân Triệu chết chúng ta phải khoanh tay nhìn sao?"

Vua Bình Dương Triệu Bảo nói: "Sao lại có thể khoanh tay ngồi nhìn? Đại vương vừa hay có thể nhân cơ hội này đi đến gặp người dân, thương xót người áo vải, lung lạc lòng người, cổ vũ lòng người, chấn uy quân!"

Vua Bình Nguyên - Triệu Thắng, Lạn Tương Như cũng phụ họa theo nói không nên cáu giận với Dị Nhân mà nên biến bi thương thành lực lượng, quần thần trên dưới đồng tâm hiệp lực, nằm gai nếm mật, mở mày mở mặt với chư hầu, báo thù rửa hận với nước Tần hùng mạnh.

Văn thần võ tướng nhất tề nói, nói đến khi Triệu Hiếu Thành vương hồi tâm chuyển ý, thu nạp ý kiến của mọi người. Chỉ dặn dò phải chú ý giám sát cháu Tần vương - Dị Nhân, sau đó an ủi thân quyến, gia quyến các tướng sĩ chết trận, ban thưởng cho các đại thần, tướng, khách liêu có công với nước.

Khi Triệu Hiếu Thành vương làm việc này, nghĩ tới Lã Bất Vi hiến tặng năm trăm dật vàng. Nếu như Lã Bất Vi không làm thân với Dị Nhân, nếu như không có cảnh u ám của nước Triệu sau cuộc chiến ở Trường Bình thì Triệu Hiếu Thành vương đã đến phủ Lã Bất Vi. Ông ta thường xuyên mời Triệu Hiếu Thành vương đến phủ của ông để khuất tôn (lời nói khách sáo) dạy bảo. Thực ra trong thâm tâm đối với vị vua này có phần khinh miệt. Cho dù như vậy, Lã Bất Vi vẫn nhận lễ của các quần thần phủ phục kính cẩn chờ đợi trước cửa phủ.

Triệu Hiếu Thành vương trong đám đông người vây quanh cũng đã bước vào trong sân. Lã Bất Vi lần trước từ trên đài ngắm nhìn thấy quạt tròn, quạt lông và quạt hè, màu sắc sáng bóng làm từ các bông hoa kia, nhất loạt trở thành quạt màu trắng, phía sau Triệu Hiếu Thành vương lộ ra vẻ uy nghiêm của một vị vua.

Lã Bất Vi trông thấy vị quốc quân bây giờ tiếp cận dễ dàng, che dấu khuôn mặt không còn ngồi cao nhìn xuống theo tháng ngày, vênh mặt hất hàm sai khiến mà là thái độ ảm đạm tang tóc. Triệu Cơ vốn từ xưa tới nay chưa gặp Triệu Hiếu Thành vương nghe nói có vua nước Triệu đến nhà, có phần hiếu kỳ khiến cô lấy can đảm đến chào Triệu Hiếu Thành vương. Khi Triệu Hiếu Thành vương biết cô gái đẹp như hoa như ngọc đang đứng trước mặt kia là thiếp của Lã Bất Vi mới lấy gần đây, rất tán thưởng nói: "Diễm phúc của quý thương không ít". Lã Bất Vi nói: "Các thê thiếp nô bộc trong nhà tiểu nhân đều là cặn bã xấu xí làm sao có thể so sánh được với người đẹp trong hậu cung Đại vương, chẳng qua chỉ là cành cây bại lá mà thôi".

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Quý thương quá lời!"

Lã Bất Vi dẫn Triệu Hiếu Thành vương vào phòng khách.

Triệu Hiếu Thành vương trông thấy linh đàng che màn trắng bèn hỏi: "Chẳng hay quý thương cũng có con cháu nằm trong số những người không may bị chết thảm trong chiến dịch Trường Bình sao?"

Lã Bất Vi chuyển sắc mặt bi thương nói: "Không phải con cháu của tiểu nhân mà chỉ là một môn khách mà thôi".

Triệu Hiếu Thành vương cảm động nói: "Quý thương quả là một người quân tử đa tình đa nghĩa, đối với một môn khách không thân không thích cũng có sự hậu lễ như vậy, thật đáng để quả nhân động lòng!"

Lã Bất Vi nói: "Bình thường tiểu nhân cũng ít quan tâm đến những môn khách này, cũng chẳng có hoài bão gì về lễ hiền hạ sĩ này nhưng khi gặp nạn mới nghĩ tới họ. Xem ra, những người tôn quý thường mất đi tình cảm đời thường của con người".

Triệu Hiếu Thành vương đương nhiên có thể nghe thấy hàm ý chỉ bên ngoài của Lã Bất Vi, má hơi đỏ lên giả câm giả điếc nói: "Quý thương không phải quá tự trách mình như vậy, sau này có nhiều tiền thưởng và bổng lộc là được".

Sau khi đã ngồi ở phòng khách, Triệu Hiếu Thành vương nói: "Quý thương là người nước khác, lâu nay đem sự vinh suy thành bại của nước Triệu để trong tim, khiến quả nhân rất cảm động, xin ban thưởng cho quý nhân áo sợi vàng nam, nữ mỗi thứ một chiếc".

Triệu Hiếu Thành vương vừa nói xong, đã có cô hầu mang hai chiếc áo sợi vàng dâng lên, lại có hai cô hầu khác lần lượt dở hai chiếc áo này ra.

Lã Bất Vi và Triệu Cơ trông thấy hai chiếc áo sợi vàng như khổng tước đang nhảy múa trước mắt với ánh sáng màu tím đỏ.

Triệu Cơ từ xưa tới nay chưa từng trông thấy cái áo nào đẹp hoa lệ như vậy, trố mắt há miệng một hồi, mới tay múa chân nhảy nói: "Ây ha, chiếc áo gấm như giáng trời này nô bộc từ khi sinh ra tới nay lần đầu tiên trông thấy, nếu mặc vào sẽ giống như tiên nữ xuống trần đẹp hết chỗ nói!"

Triệu Hiếu Thành vương hứng khởi nói: "Nghe nói Triệu Cơ tư nghệ song toàn, vậy hãy mặc áo kim sa này vào và múa cho quả nhân xem!"

Đây đúng là lúc Triệu Cơ mong mà không được. Cô không đợi Lã Bất Vi ra hiệu vội mặc áo kim sa do Triệu Hiếu Thành vương ban thưởng, múa như chim bay lượn. Triệu Hiếu Thành vương ngợi không hết lời.

Lã Bất Vi ngồi bên cạnh nghĩ: "Cho dù Triệu Cơ thích chu du thiên hạ, nhưng khi có lệnh của vua một nước không thể từ chối. Nhưng Triệu Hiếu Thành vương đang ở thế sống chết tồn vong của nước nhà làm sao có thể yên lòng ngồi thưởng thức ca múa". Lã Bất Vi thấy liệt vào nhóm đại thần hai bên của Triệu Hiếu Thành vương như vua Bình Nguyên Triệu Thắng, Bình Dương Triệu Bảo và Thượng Lư Lạn Tương Như cũng hai đường lông mày giao nhau, tâm trạng đại khái cũng giống với Lã Bất Vi.

Triệu Cơ múa xong một khúc, Triệu Hiếu Thành vương vẫn còn phấn chấn nói: "Ca vũ của Triệu Cơ đáng được phong tới cấp đỉnh điểm khiến người xem không biết chán. Chỉ tiếc nước nhà vẫn chưa hết tang, hôm nào đến Tòng Đài để trình diễn cho quả nhân xem".

Triệu Cơ đáp lễ tạ ơn Triệu Hiếu Thành vương.

Triệu Hiếu Thành vương rất mực cảm kích nói với Lã Bất Vi: "Đêm trước cuộc chiến Trường Bình, quý thương cật lực thuyết phục quả nhân không dùng Triệu Quát làm đại tướng quân, quả nhân đã bỏ ngoài tai mới gây ra mối hận ngàn đời này! Bây giờ gặp mặt quý thương thật là không còn chỗ nào che mặt".

Triệu Hiếu Thành vương có thể tự lòng nói ra những lời nói này đó là điều Lã Bất Vi không ngờ tới. Bất giác Lã Bất Vi cảm thấy vị vua này có chút đáng thương, cũng có phần đáng kính.

Triệu Hiếu Thành vương rất thành khẩn nói: "Năm đó Lương Huệ vương hỏi Mạnh Hà phương lược trị quốc. Ông ta nói với Mạnh Hà, ta cũng là người trong một nước, phải tận tâm với nước, trong sông có hung thì phải di dân sang bờ đông sông, trồng ngũ cốc trong sông, bờ đông có hung cũng vậy. Chính trị của một nước không như quả nhân nghĩ. Dân của nước láng giềng tăng lên không ít, dân của quả nhân không tăng nhiều, cớ là sao vậy? Bởi vì Lương Huệ vương xâm lược ồ ạt, Mạnh Hà liền lấy cuộc chiến để bàn luận với Lương Huệ vương làm thế nào để thực thi vương đạo phú quốc cường binh, để Lương Huệ Quốc lợi nhiều thiệt ít. Quý thương có tài kinh thiên động địa như có Mạnh Hà tại thế, quả nhân nguyện nghe theo phương lược trị quốc phúc dân của quý thương".

Nghe xong câu nói của Triệu Hiếu Thành vương, trong lòng Lã Bất Vi trào lên một vị đắng cay chua xót quá độ. Sự việc xảy ra như ngày hôm nay những lời nói của người đã không còn tác dụng nữa. Trận Trường Bình, nước Triệu mất mát quá nhiều. Khó có thể khôi phục lại được địa vị và song song cùng tiến với nước Tần. Hơn nữa, Lã Bất Vi đã đổi môn đình, dốc một lòng với Dị Nhân cháu Tần vương, còn có thể cùng người mưu lược trị quốc gì nữa đây? Lã Bất Vi nghĩ ở chỗ Triệu Hiếu Thành vương vẫn còn năm trăm dật vàng của ông, đang tìm cách nói với ông ta về vấn đề uy tín, nhắc nhở vị Quốc vương này không được quên chuyện này.

Lã Bất Vi nói: "Tiểu nhân kiến thức hẹp hòi, nay bàn chuyện sách lược trị quốc với Đại vương chẳng khác gì múa rìu qua mắt thợ, nhưng Đại vương cứ tự trách móc, lễ hiền hạ sĩ tiểu nhân nếu không dốc lòng thì đã phụ lòng Đại vương". Triệu Hiếu Thành vương nói: "Quả nhân xin kính cẩn nghiêng mình lắng nghe".

Lã Bất Vi hỏi: "Đại vương có biết Thượng Anh không?"

Triệu Hiếu Thành vương gật gật đầu nói: "Chẳng phải là Công Tôn Anh giúp Tần Hiếu công biến pháp đồ cương sao? Điều đó quả nhân biết, thiên hạ, chư hầu đều đã nghe".

Lã Bất Vi nói: "Thượng Anh đã từng học luật pháp với người dân nước Lỗ, chủ trương được phân định theo pháp lệnh của nhà nước, sau đó theo tên pháp định để xét xem người khác là đúng hay sai để mà thưởng phạt. Trước khi ông ta ban bố luật pháp do ông ta chế định ở nước Tần e rằng người dân không tin đã cho dựng một cây gỗ dài ba trượng ở Nam môn trong quốc đô, hiểu dụ mọi người nếu ai có thể mang gậy này từ cửa Nam sang cửa Bắc sẽ thưởng mười lạng vàng. Khi dựng gậy có rất nhiều người vây quanh xem, đem gậy này chuyển từ cửa Nam sang cửa Bắc, nói không phí sức thổi bụi đó chỉ là lời nói khoác, nhưng đó chẳng có gì là khó. Để hoàn thành việc nhẹ mà dễ như vậy để lĩnh thưởng mười lạng vàng đó chẳng như bắt được tiền sao? Mọi người đều cảm thấy ngạc nhiên, bán tín bán nghi, không dám động vào. Thượng Anh thấy không có ai động vào gậy gỗ, lại nói, người có thể mang sang cửa Bắc sẽ được thưởng 50 lạng vàng. Lúc này, rốt cuộc có một người đầy dũng khí quyết tâm thử xem. Khi anh ta chuyển gậy gỗ từ cửa Nam sang cửa Bắc, Thượng Anh lập tức thưởng cho anh ta 50 lạng biểu thị uy tín. Chuyện này nhanh chóng truyền khắp đô quốc rồi truyền đi khắp nước Tần. Mọi người thấy Thượng Anh nói lời giữ lấy lời, thi nhau tuân theo pháp lệnh mà ông ta ban bố. Nước Tần chẳng mấy chốc cường thịnh trở lại!". Triệu Hiếu Thành vương nghe xong, ngẫm nghĩ nói: "Quả nhân hiểu rồi". Do dây ngọc trên mũ vua che lấp nên Lã Bất Vi không thấy được chính xác biểu hiện trên mặt của Triệu Hiếu Thành vương nên rất khó phán đoán vị quốc quân này hiểu gì.

Hoàng Phủ Kiều mặt như lửa định cãi với Lã Bất Vi về công lý. Hoàng Phủ Kiều bây giờ đã nhớ lại cảm thấy vận mệnh mười mấy năm trước nay đã xoay chuyển ngay bên hồ Bộc Dương xanh thẳm. Từ khi gặp Lã Bất Vi buôn đào bị lỗ, cô đã quyết tâm sống chết lấy ông ta. Sau này Lã Bất Vi là bánh xe, cô là nan hoa, Lã Bất Vi là mặt trời, cô là tia sáng. Lã Bất Vi là miếu thờ, thị là am thờ. Cô theo Lã Bất Vi từ Bộc Dương của Vệ quốc về Dương Tước nước Hán rồi thành Hàm Đan nước Triệu, Lã Bất Vi có xảo thuật làm cho tài sản của ông ngày một tích đầy như núi. Cô cũng từ một nô bộc biến thành một phu nhân nhất phẩm đường đường chính chính. Mấy năm nay, cô dường như xa lạ hơn với Lã Bất Vi. Một là cô có cảm giác Lã Bất Vi không còn giống như trước đây say mê con đường làm giàu nữa, thường kết huynh đệ với những vị quan to, rất có hứng thú với những việc triều chính. Hai là từ khi có con tiểu yêu Triệu Cơ đến Lã Bất Vi đã lạnh nhạt với người vợ kết tóc xe tơ này.

Lúc nãy khi Triệu Hiếu Thành vương đến phủ, đúng lúc cô cùng hai người hầu đến hiệu tơ lục trên phố để mua lụa. Khi về đến phủ, Triệu Hiếu Thành vương đã khởi giá về cung. Rất nhiều đầy tớ hối hả kể chuyện cho cô nghe cảnh Triệu Hiếu Thành vương tới phủ. Đến đoạn cô nghe thấy Triệu Cơ mặc áo kim sa múa ca trước mọi người thì lòng như lửa đốt. Hoàng Phủ Kiều tức giận đùng đùng đi tìm Lã Bất Vi. Chất vấn hỏi: "Nghe nói Triệu Hiếu Thành vương đến phủ có ban thưởng hai chiếc áo kim sa".

Lã Bất Vi thấy thái độ của Hoàng Phủ Kiều, ông trả lời: "Đúng, vừa rồi Đại vương có ban thưởng hai chiếc áo kim sa nam, nữ mỗi loại một chiếc".

Hoàng Phủ Kiều nói: "Đại vương thưởng cho ai?"

Lã Bất Vi trả lời chung chung để tránh vợ gặng hỏi áo kim sa của con gái thì ban tặng cho ai: "Thưởng cho chúng ta".

Hoàng Phủ Kiều bĩu môi nói: "Thưởng cho chúng ta? Nói như vậy có nghĩa là hai chiếc áo kim sa này của tất cả mọi người trong phủ này thay nhau mặc đúng không?"

Lã Bất Vi nói: "Ấy, sao nàng có thể nói như vậy, thưởng cho chúng ta, chính là ta và thê thiếp của ta".

Hoàng Phủ Kiều vặn lại: "Thê thiếp của chàng là ai?"

Lã Bất Vi cười: "Còn phải hỏi nữa sao, Hoàng Phủ Kiều!"

Hoàng Phủ Kiều nói: "Đương nhiên là như vậy, tại sao mình Triệu Cơ hưởng món quà thưởng đó, mặc chiếc áo kim sa đó".

Lã Bất Vi nói: "Phu nhân nhầm rồi, vừa nãy nàng không có nhà nên đưa cho Triệu Cơ cất giữ hộ mà thôi".

Hoàng Phủ Kiều nói: "Vậy thì Triệu Cơ cất giữ trước một ngày, có lợi hơn một chút, sau này thiếp và Triệu Cơ sẽ thay phiên nhau mỗi người mặc một hôm".

Hoàng Phủ Kiều còn nói: "Bảo Triệu Cơ ngày mai cầm sang cho thiếp". Khi Hoàng Phủ Kiều rời khỏi phòng của Lã Bất Vi, đám tùy tùng nói: "Phu nhân không cần nóng vội, Triệu Cơ mang đến thì phu nhân cũng không thể mặc".

"Vì sao?"

"Triệu Hiếu Thành vương đã ban chiếu trong thời gian cả nước cử hành để tang bốn mươi vạn quân Triệu không được mặc quần áo mới màu sắc loè loẹt. Nếu không sẽ xử tội khi quân". Hoàng Phủ Kiều mới sực nhớ lại, vừa nãy đi trên đường đã nhìn thấy toàn là trang phục màu trắng, cũng may mình cũng mặc bộ trang phục tao nhã nếu không mất hai đôi chân rồi cũng nên. Hai con mắt của cô xoay hoay một lúc, một chủ ý tuyệt diệu vụt lên trong đầu. Phủ Kiều lại hỏi đầy tớ một câu: "Thật chứ?"

Đầy tớ nói: "Thật, dán ở các tường trên đường phố, chính mắt con đã trông thấy".

Hôm sau Hoàng Phủ Kiều cho đầy tớ đi gọi Triệu Cơ lại. Triệu Cơ không mặc chiếc áo kim sa đó, Hoàng Phủ Kiều nghĩ thầm: "Đây nhất định là Lã Bất Vi đã truyền lời của mình cho Triệu Cơ rồi đây". Triệu Cơ mặc một chiếc váy hoa màu tím xanh, Hoàng Phủ Kiều hiểu Triệu Cơ không biết chiếu lệnh của Triệu Hiếu Thành vương về việc cấm mặc quần áo xanh đỏ.

Hoàng Phủ Kiều nắm lấy tay của Triệu Cơ, tỏ thái độ không để bụng nói: "Muội tử, tất cả đều do tính chị chẳng ra gì, luôn làm cho chị em có hiềm khích để cho người ở chê cười, để lão gia phải bận tâm".

Triệu Cơ cảm thấy như mặt trời mọc đằng tây, Hoàng Phủ Kiều từ xưa tới nay chưa bao giờ nhiệt tình với mình như vậy.

Hoàng Phủ Kiều nói tiếp: "Hôm qua khi ta đi phố mua được một chút lụa may áo cũng mang về một ít cho muội, muội hãy cầm hai mảnh đi". Hoàng Phủ Kiều nói xong để đầy tớ cầm một mảnh lụa màu ánh bày lên trên giường. Mảnh vải tốt này làm Triệu Cơ động lòng, khiến cô có chút bối rối, sự nhiệt tình của Hoàng Phủ Kiều khiến Triệu Cơ thấy từ chối cũng không xong.

Triệu Cơ vẫn đứng yên ở đó, Hoàng Phủ Kiều nói: "Em à, đừng ngại gì, tiêu tiền thì vẫn lấy ở chỗ Lã đại nhân, ta chỉ giúp em mang về mà thôi". Thấy Hoàng Phủ Kiều chủ động bỏ qua những hiềm khích trước đây, lời nói cũng thực lòng, Triệu Cơ nói: "Cảm ơn chị Hoàng Phổ" rồi cầm lấy, ngay tức thì đã chọn được hai mảnh lụa màu tươi sáng.

Hoàng Phủ Kiều giữ cho Triệu Cơ ngồi chơi một lúc, nói chuyện Triệu Hiếu Thành vương ban tặng áo kim sa. Hoàng Phủ Kiều hết lời khen ngợi: "Việc này đã truyền đi khắp thành Hàm Đan này rồi, những người ác khẩu đều nói, Triệu Cơ thật may mắn, tuổi còn trẻ mà đã đạt được ân điển của Đại vương, cũng có không ít người nói việc này là Triệu Cơ không giữ thể diện, tự nói dối để lừa người. Em bảo những kẻ này có đáng ghét không?"

Triệu Cơ bất bình nói: "Ai nói khoác để lừa người, chẳng có Triệu Hiếu Thành vương ban thưởng áo kim sa sao?"

"Ta cũng nói như vậy nhưng những người đó đều nói: các em có áo kim sa mặc vào cho ta thưởng thức với! Để được tận mắt thấy tai nghe. Hoàng Phủ Kiều dùng con mắt khiến người ta không đoán chắc được nhìn Triệu Cơ nói tiếp: "Áo kim sa nếu ở trong tay ta, ta sẽ mặc để đi đi lại lại để cho bọn người đó lác mắt!"

Triệu Cơ nói: "Đúng! Lát nữa em sẽ mặc áo kim sa diễu ra phố để chặn đứng những lời bàn ra tán vào đó". Triệu Cơ nói xong đứng dậy định về. Hoàng Phủ Kiều nhắc nhở nói: "Em à, đừng quên tấm lụa của em".

Từ Liêu Cảng quay về, Lã Bất Vi bắt đầu bí mật hành động lập kế vị Dị Nhân phản Tần. Ông đưa trước trăm dật vàng cho Dị Nhân, sau đó ra tay, kết bạn rộng khắp. Mỗi lần trong thành Hàm Đan các Vương hầu Tướng quốc, công tử vương tôn có tiệc vui, ngày lễ ông đều mang quà đến chúc mừng. Chư hầu các nước hoặc những nhân vật đứng đầu mỗi khi đến nước Triệu ông đều đến quán trọ chào hỏi hoặc mời họ đến dự tiệc rượu.

Dị Nhân theo lời của Lã Bất Vi đặc biệt ân điển với Công Tôn Càn và Yến Thái tử Đan, khiến hai người xa Dị Nhân gần đây cũng thân thiện với ông ta hơn. Phàm là chư hầu các nước hoặc bậc thân thích vương công đến yết kiến Yến Thái tử Đan, Thái tử Đan đều gọi Dị Nhân vào cung luận, nói hàng xóm của ông ta, cháu Tần vương này hiền đức nhân nghĩa thế nào, hào hoa xuất chúng thế nào, khi cần thiết Thái tử Đan còn thu hút đông đảo mọi người khiến Dị Nhân kết thân được với không ít bạn mới. Công Tôn Càn người phụ trách có sứ mệnh đặc biệt ở quán trọ này, tuy luôn bám theo sau nhưng cũng có việc chẳng thèm để ý, xưa nay chẳng có chút đề phòng với Dị Nhân.

Lã Bất Vi sắp đặt mọi chuyện trong thành Hàm Đan một cách có trật tự chặt chẽ, vừa định chuẩn bị vào Thành Dương gặp vua An Quốc và phu nhân Hoa Dương thì Triệu Cơ bị quan phủ bắt giam cầm. Lã Bất Vi vào ngục để hỏi rõ đầu đuôi.

Dương Tử bước trước Lã Bất Vi leo lên bậc nhà giam dưới ánh mặt trời le lói đẩy cửa kêu kẽo kẹt, một mùi gỗ từ cánh cửa mục nát tỏa ra. Lã Bất Vi bước vào hai bên trái phải dựng lên cột gỗ kiên cố bị mọt gặm nhấm, bên trong đứng ngồi một đám phạm nhân. Rồi tiếng khóc hỗn lộn không phân rõ, liền đó Lã Bất Vi cảm thấy rùng rợn trước tiếng khóc đó. Ông sợ nghe thấy tiếng kêu nhỏ nhẹ mà ngọt ngào của người quen thuộc. Lã Bất Vi tìm thấy cai ngục hỏi ở đây có giam người phụ nữ tên Triệu Cơ không. Cai ngục nói với Lã Bất Vi là vừa bị đưa vào. Lã Bất Vi lại hỏi vì sao bị đưa vào ngục. Cai ngục nói dám to gan giữa thanh thiên bạch nhật mặc áo sặc sỡ lượn trên đường phố chống lại chiếu lệnh nghiêm cấm mặc áo xanh đỏ trong thời gian quốc tang của Triệu Hiếu Thành vương.

Lã Bất Vi cuối cùng đã tỉnh mộng, người con gái mảnh mai gặp nạn vào nhà lao. Trông thấy trước cửa ngục đều có hộ vệ coi ngục khắc bằng gỗ, bằng nhựa trong tay cầm dao sáng giống người phụ nữ béo đến mức mông trắng bệch ra. Cai ngục nhìn Lã Bất Vi bằng con mắt ti hí hỏi: "Người con gái như ngọc như ngà thế kia là như thế nào với đại nhân"

Lã Bất Vi đáp: "Thiếp!"

Cai ngục luyến tiếc nói: "Mất đi đôi chân đẹp của mỹ nhân cũng như nấu thịt cúng mười lần cũng chẳng thấy hương vị gì".

Lã Bất Vi không muốn đôi co được mất với tên cai ngục mà cảm thấy căng thẳng nhất là chẳng nhìn thấy Triệu Cơ đâu. Dương Tử hiểu tâm trạng của Lã Bất Vi, dúi vào tay tên cai ngục một đồng bạc cầu khẩn: "Chúng ta đều muốn tận mắt trông thấy Triệu Cơ"

Cai ngục nói: "Chỉ có thể đứng ngoài song, không được nói chuyện quá lâu". Tên cai ngục dẫn Lã Bất Vi đến buồng giam Triệu Cơ. Triệu Cơ trông thấy Lã Bất Vi đến, khóc không thành tiếng: "Lã đại nhân mau cứu thiếp!"

Lã Bất Vi ngắm nhìn Triệu Cơ, chưa đầy nửa ngày, khuôn mặt yêu kiều của nàng đã trở nên tiều tụy nhiều, mép tóc có hai sợi cỏ đong đưa như chếic kim thoa cài đầu. Triệu Cơ tuy vai mình không ngớt co giật vẫn tỉ tê thuật lại quá trình bị vào ngục của mình cho Lã Bất Vi. Lã Bất Vi tức thì rõ được nguyên căn sự việc. Ông biết lúc này có chỉ trích hay oán trách cũng vô tích sự, ông an ủi Triệu Cơ mấy câu rồi ra khỏi nhà ngục đi tìm Tư Khấu, đại nhân người có toàn quyền nắm việc sống chết của phạm nhân.

Tư Khấu đại nhân tuy chưa từng gặp mặt Lã Bất Vi nhưng nghe tiếng Lã Bất Vi giàu có trong thành Hàm Đan thì ai ai cũng rõ. Lã Bất Vi khiêm nhường nói, có chút tiền nhỏ sao dám nhận là giàu. Tư Khấu đại nhân thoạt nhìn đã biết ngay sự tình, Lã Bất Vi tới đây là việc của Triệu Cơ. Lã Bất Vi gật đầu nói phải, xin Tư Khấu đại nhân rộng lòng thả Triệu Cơ ra, ân đức này sẽ mãi ghi tạc trong lòng. Tư Khấu đại nhân xin lỗi nói, không phải bổn quan không nể mặt quý thương, nhưng việc này không thể giúp được. Một là Đại vương đã năm lần bảy lượt nói việc quốc tang không thể xem như trò đùa, kẻ chống lại phải trừng phạt nghiêm minh. Hai là, việc của Triệu Cơ đã chuyển đến Tòng Đài, chưa biết chừng Đại vương vì việc này mà nổi trận lôi đình.

Lã Bất Vi cảm thấy Tư Khấu đại nhân nói hợp tình hợp lý. Ông đành phải đi tìm Triệu Hiếu Thành vương nghĩ rằng tối qua vị quốc quân này đã tới phủ để ban thưởng cho ông, Lã Bất Vi vì chuyện của Triệu Cơ nên niềm tin tăng lên gấp bội. Trong ngoài Tòng Đài, nhất loạt nghiêm túc cung kính, khắp nơi cờ tang bay phấp phới giống như trong một giấc mơ ảm đạm. Lã Bất Vi đi vào dường như đang đi qua cây ngọc cành quỳnh.

Triệu Hiếu Thành vương trông thấy Lã Bất Vi đến khấu lạy ở đại điện thì biết được mục đích đến của Lã Bất Vi, buồn rười rượi nói: "Một người con gái như hoa như ngọc vậy, không có đôi chân thì chỉ như cửu đỉnh không chân, phượng hoàng không cánh, kỳ lân không vảy, bảo vật mất đi cái đẹp của nó đáng tiếc! Đáng tiếc!"

Lã Bất Vi phụ họa ngay theo: "Đúng vậy! Đúng vậy!"

Triệu Hiếu Thành vương lại nói tiếp: "Quả nhân nghe nói việc này thì trong lòng thấy không yên, lo thay cho Triệu Cơ".

Lã Bất Vi cảm ơn đại đức nói: "Đại vương không chỉ là vị quốc quân nhân ái, người cha khaon dung. Như vậy xem ra thiếp của tiểu nhân - Triệu Cơ có thể hóa hiểm thành bình an rồi!"

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Quả nhân làm sao không muốn nghĩ như vậy. Tuy nhiên, quả nhân chuyển lệnh cho Tư Khấu ra lệnh cho hắn thả Triệu Cơ đang bị giam cầm kia. Một thời gian sau, Tư Khấu đến khấu đầu đại nhân, rất nhiều tướng quân và cai ngục nghe nói miễn tội cho Triệu Cơ đều kháng mệnh không phục. Họ nói bốn mươi vạn quân chết ở Trường Bình, trời đất cũng thương, quỷ thần cũng rơi lệ. Chỉ một người con gái nhỏ bé lại dám bất cung bất kính với linh hồn bốn mươi vạn quân, phải làm theo luật pháp. Ngươi đoán xem vị tướng quân và cai ngục này nói như thế nào? Họ nói Lã Bất Vi có tiền thì để họ mang đi một ít đến an ủi gia quyến người chết. Ý dân không thể xem thường, thổ khí không thể lừa, ngươi bảo quả nhân có cách gì!"

Lã Bất Vi vừa nghe, đây là Triệu Hiếu Thành vương định nhân cớ này để tống tiền ông, trong lòng tức như lửa nhưng không dám phát ra đành phải mềm dẻo nói: "Đại vương, cho tiểu nhân nói thẳng kẻ không biết thì không có tội. Thiếp tôi thực sự không trông thấy chiếu lệnh của Đại vương. Nàng định khoe chiếc áo kim sa do Đại vương ban cho cũng là cung kính với Đại vương! Đại vương không quên chứ, hôm qua Đại vương đến nhà tiểu nhân đích thân bảo thiếp mặc áo kim sa sặc sỡ này ca hát đó sao. Vậy thì có thể nói Đại vương đã bất cung với linh hồn của bốn mươi vạn tướng sĩ? Cũng phải xử Đại vương theo luật sao?"

Mặt Triệu Hiếu Thành vương trầm xuống, chối nói: "Hình không tới đại phu, lễ không xuống dân đen, hơn nữa quả nhân là vua một nước! Thứ hai trong nhà ngoài nhà cũng có sự khác biệt".

Lã Bất Vi thấy ý đồ của Triệu Hiếu Thành vương, không tránh khỏi có chút lo sợ, nghĩ bụng: "Tranh luận phải trái với Triệu Hiếu Thành vương thì chẳng phải là đào đất trên đầu Thái tuế sao. Cho dù nói thế nào Triệu Cơ vẫn là kháng lại chiếu lệnh. Một khi Triệu Hiếu Thành vương lật mặt vô tình đừng nói chặt đôi chân Triệu Cơ mà có thể bị chặt đầu cắt lưỡi". Nghĩ tới đây, lưng Lã Bất Vi toát mồ hôi, trách mình đây không phải là vì lợi mất khôn quên đi tất cả sao? Triệu Hiếu Thành vương thấy Lã Bất Vi ngẫm nghĩ một hồi không nói gặng hỏi một câu: "Quý thương, khanh xem nên làm thế nào thì tốt?"

Lã Bất Vi nói: "Vậy phiền Đại vương nói với cai ngục một tiếng, Lã Bất Vi nguyện an ủi thân quyến tướng sĩ chết trận đến để chuộc tội cho Triệu Cơ".

Triệu Hiếu Thành vương vui mừng hỏi: "Quý thương bỏ ra bao nhiêu tiền?"

Lã Bất Vi đáp: "Tiểu nhân nguyện hiến năm trăm dật vàng".

Triệu Hiếu Thành vương vội nói: "Được! Được!"

Lã Bất Vi nói: "Quân tử nhất ngôn".

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Vậy năm trăm dật vàng...".

Lã Bất Vi nói rõ ràng: "Trước cuộc chiến Trường Bình, Đại vương có vay tiểu nhân năm trăm dật vàng, như vậy sẽ không phải trả nữa, dùng nó để đi an ủi thân quyến các tướng sĩ chết trận".

Triệu Hiếu Thành vương khổ não nói: "Rốt cuộc quả nhân tính chẳng qua các khanh quá xảo trá điệu ngoa". Lã Bất Vi ngồi trên xe tới ngục đón Triệu Cơ, nhưng lại không cho cô ngồi xe. Lã Bất Vi muốn trừng phạt và dạy cho nàng một bài học. Khi Triệu Cơ thể xác tâm hồn thoải mái chạy lại, bám vào thành xe định bước lên xe, Lã Bất Vi ngồi trên xe gỡ tay cô ra nói: "Thiếp yêu của ta, vì đôi chân của nàng đã tiêu tốn năm trăm dật vàng, không chạy thì lãng phí quá".

Phải một thời gian dài, Hoàng Phủ Kiều vui mừng nói với môn khách và đày tớ: "Mọi người phải cách xa Triệu Cơ một chút, chạm vào con nhà lá ngọc cành vàng thì đền không nổi. Một đôi chân năm trăm dật vàng!"

* * * * *

Tư Không Mã nhìn qua cửa xe thấy lá rơi như bóng của neo sắt, nghiêng nghiêng rớt xuống. Anh ta biết đã vào thu. Bốn tuần nay anh ta có một áo ấm dày, tuy nhiên trong lòng vẫn như cánh đồng trơ trụi, lạnh lẽo và trống trải.

Tư Không Mã được Triệu Hoảng coi là ân nhân cứu mạng mà được về nhà. Song thân của Triệu Hoảng vừa trông thấy con trai mình có thể trở về lành lặn sau trận bốn mươi vạn quân bị chôn sống dường như đang nằm mơ. Đợi nghe Triệu Hoảng kể hết quá trình chín chết một sống, song thân lập tức dập đầu bái tạ Tư Không Mã nhận làm binh. Mọi người đều cố giữ Tư Không Mã ở lại vài ngày, để báo tạ công ơn. Bữa sáng là cơm ngon rượu ngọt, bữa chiều là rượu ngọt cơm ngon, áo mặc bên ngoài là áo lụa áo bông, áo mặc bên trong cũng là áo bông áo lụa.

Thấy Tư Không Mã thường trầm ngâm suy nghĩ, Triệu Hoảng và bố mẹ cho rằng Tư Không Mã vẫn còn cảm thấy bi thương trước bốn mươi vạn quân lính bị chôn sống liền an ủi nói: "Tướng lĩnh sống chết tại mệnh, từ xưa tới nay đã vậy". Kỳ thực những điều Tư Không Mã lo nghĩ chẳng liên quan gì đến bốn mươi vạn quân nước Triệu bị chôn đó. Điều Tư Không Mã nghĩ ngày suy đêm đó là làm sao phụng mệnh Lã Bất Vi, Triệu Quát chết rồi, nhưng gái trai trong thành Hàm Đan đều biết hắn chết vì một mũi tên của quân Tần. Trước lúc đó, mình đã làm gì? Giết nhầm một vị phó tướng, nói như vậy với Lã Bất Vi, mọi người sẽ cho rằng đây chỉ là một lời nói khoác! Bôn mươi vạn quân đã về nơi suối vàng. Ngươi - Tư Không Mã dựa vào mệnh to phúc lớn tạo hóa lớn thoát khỏi cái chết? Phải chăng ngươi không theo Triệu Quát đi Trường Bình, tham sống sợ chết nửa đường tháo binh...

Tư Không Mã quay về lại sợ Lã Bất Vi và môn khách nghi ngờ hắn. Nếu như không phải giữ sứ mệnh đặc biệt theo quân tới Trường Bình thì đã rời khỏi nhà Triệu Hoảng từ lâu rồi, hà tất phải ở đây để mọi người dùng chín binh bát lễ hầu hạ. Những lời từ đáy lòng biết nói cùng ai đây? Có thể nói với Triệu Hoảng tôi đến Trường Bình là định giết chết Triệu Quát sao. Triệu Quát là chú họ xa với Triệu Hoảng.

Một hôm Triệu Hoảng vui mừng nói với Tư Không Mã: "Tư Không đại ca, chúng ta đi tạ ơn Khương Đào Hoa Dương". Tư Không Mã phút chốc không hiểu hỏi: "Ai là Khương Đào Hoa Dương? Chúng ta vì sao phải đi cảm tạ Khương Đào Hoa Dương?"

Triệu Hoảng cười nói: "Tư Không đại ca đúng là đồ vô ơn bội nghĩa! Anh quên rồi sao, khi ở biên giới nước Triệu có một cô gái tên Khương Đào Hoa đã cho chúng ta ăn, đổi quần áo cho chúng ta!"

Triệu Hoảng nói như vậy, Tư Không Mã mới nghĩ lại mình và Triệu Hoảng bị thương đã gặp cô gái đó ở trong thôn trang gần biên giới Tần Triệu. Một cô gái chỉnh tề đoan trang, có đôi mắt sáng hiền hòa.

Tư Không Mã nói: "Chúng ta nên báo đáp cẩn thận vị cô nương đầy nhiệt tình này, chỉ tiếc đường xa, nơi đó lại là biên giới của Triệu, Tần...". Triệu Hoảng nói: "Lần này tôi và anh không phải đi bộ. Anh chưa trông thấy những con ngựa trong chuồng nhà tôi à? Biên giới Tần, Triệu sợ gì? Ở đó cũng chẳng có quân Tần sống, cho dù có gặp phải chúng ta mặc áo vải chứ không phải quân lính mặc áo giáp làm gì ta". Triệu Hoảng nói xong bèn kéo Tư Không Mã đến trước chuồng ngựa, đã có hai con ngựa được dắt từ trong ra buộc ở cọc ngựa. Hai con ngựa này béo chắc khỏe, từ trên xuống dưới một màu đen như than đang đạp bốn móng như võ sĩ khỏe mạnh.

Tư Không Mã khen: "Ngựa đẹp thật!"

Tư Không Mã và Triệu Hoảng nhảy lên ngựa cầm roi vàng nhỏ mềm khởi trình lên đường.

Long Mã Thần Cẩu, dùng bốn móng như bay, gõ gấp gáp xuống đường. Những miếng đất nhỏ bị giẫm nát thành bột cùng với nó là lớp bụi màu vàng bay lên.

Bọn họ ra đi từ sáng sớm. Ngựa không dừng bước lao như tên bay, đến hoàng hôn đã tới được nhà Khương Đào Hoa.

Đẩy cửa ra, từ trong bước ra một bà lão vừa nhìn nét trên khuôn mặt cũng biết đó là mẹ của Khương Đào Hoa. Giữa hàng lông mày của bà Khương đầy những nếp nhăn. Bà vẫn còn chìm trong nỗi đau khi mất chồng.

Bà Khương để Tư Không Mã và Triệu Hoảng vào nhà nói với họ Khương Đào Hoa đi bái sư tập võ, sắp về rồi. Điều này làm cho Tư Không Mã và Triệu Hoảng cảm thấy hết sức ngạc nhiên.

Chẳng bao lâu Khương Đào Hoa với bộ quân trang về, trông thấy Tư Không Mã và Triệu Hoảng, đầu tiên cảm thấy rất kỳ lạ, tiếp đó chợt nhận ra họ là ai.

Triệu Hoảng vui tới mức không nhịn được nói: "Sĩ biệt ba ngày nay nhìn bằng con mắt khác. Khương Đào Hoa hôm nay đã là hiệp phong sĩ cốt, khí thế hiên ngang".

Tư Không Mã nói: "Đào Hoa cô nương, có thể biểu diễn vài chiêu để chúng tôi - vị khách từ nơi xa đến thưởng thức được không?"

Khương Đào Hoa vẫn đôi mắt trong sáng thanh tú mà hiền hòa chớp chớp ánh mắt e lệ, nói: "Đó không phải là góp chút tài hèn đức mọn!"

Triệu Hoảng hứng khởi, khích lệ nói: "Không sao, chúng ta bảo đảm không chê cười cô. Vị Tư Không đại ca này là người võ nghệ siêu quần, để anh ta chỉ đạo cho".

Khương Đào Hoa nói: "Vậy thì cung kính chẳng bằng tuân mệnh". Nói rồi cầm kiếm múa. Nhảy múa khua chém, đưa dao như rắn, hất dao nổi gió. Chỉ nhìn thấy mắt Tư Không Mã và Triệu Hoảng hoa lên, không chớp mắt. Triệu Hoảng tay múa chân đạp vỗ tay cổ vũ.

Khương Đào Hoa diễn tập xong một bộ đao pháp, Tư Không Mã nói: "Đào Hoa cô nương, cô đã mệt cả ngày rồi, mau ngồi nghỉ đi".

Triệu Hoảng nói: "Tư Không đại ca, xin cho mấy lời bình luận".

Tư Không Mã nói: "Đào Hoa cô nương, tập võ bao lâu rồi?"

Khương Đào Hoa đáp: "Hơn một năm rồi".

Triệu Hoảng nói: "Lần trước chúng tôi đến vẫn chưa nhận ra, lúc đó phải cẩn thận sợ không khéo lại bị nếm mùi khổ".

Tư Không Mã nói: "Một người con gái sau một năm luyện được thế này, không thể nói là giản đơn, xuất chúng nhưng cũng là tạo hóa tạo ra không phải người nào cũng có thể. Ở đây ngoài Đào Hoa cô nương khắc khổ tập luyện e rằng chỉ còn danh sư hướng dẫn".

Khương Đào Hoa tự hào nói: "Tư Không đại ca, anh nói đúng sư phụ tôi là con cháu hậu duệ nước Tề mưu gia tôn binh, tên Tôn Áo. Sư phụ công danh thanh đạm ẩn dật nơi núi rừng. Nếu các anh muốn tôi có thể dẫn các anh tới bái kiến".

Tư Không Mã luyến tiếc nói: "Đáng tiếc Đào Hoa cô nương, một cô gái yểu điệu, anh hùng không có đất dụng võ!"

Khương Đào Hoa nói: "Tư Không đại ca, lời nói này là sai rồi! Trước đây cha và các đại ca múa súng vung dao tầm sư học võ. Tôi cũng theo tới, tai nghe mắt nhìn, chơi đùa theo. Từ khi cha và các đại ca bị giết ở Trường Bình, ta quyết chí báo thù rửa hận cho họ, đối với việc tập võ không dám sao nhãng. Tinh thông võ nghệ để giết quan nhà Tần, giết lính nhà Tần". Chí hướng của Khương Đào Hoa khiến Tư Không Mã và Triệu Hoảng cảm động. Thấy Tư Không Mã và Triệu Hoảng mang nhiều lễ phẩm quý giá như vậy đến thăm cô, Khương Đào Hoa có phần thấy áy náy.

Triệu Hoảng vừa lấy trong túi đeo bên mình ngựa ra vật phẩm vừa nói: "Đây là 30 dật vàng có thể làm nhà dựng vườn; đây là lụa là gấm vóc có thể may áo may lĩnh; đây là phấn sáp dùng trang điểm, người cầu hôn sẽ liên tục không ngớt..." Một câu nói làm Khương Đào Hoa hai má ửng hồng, làm lạ hỏi: "Triệu đại ca, anh lảm nhảm cái gì đấy?"

Triệu Hoảng cũng phát hiện câu cuối của mình nói lung tung, tự trách nói: "Nói lảm nhảm, nói lảm nhảm!"

Lão Khương dùng cơm rượu đầy đủ để khoản đãi Tư Không Mã và Triệu Hoảng. Tư Không Mã thấy Triệu Hoảng cứ lúng túng, không để tâm đến rượu ngon canh ngọt mà cứ trân trân nhìn mặt ngọc da trắng và hai chỗ thịt gồ lên phía trước ngực của Khương Đào Hoa Dương, nghĩ bụng: "Thằng tiểu tử này đã chọn Khương Đào Hoa nhà người ta rồi".

Uống xong rượu, Tư Không Mã thấy Triệu Hoảng cũng không đến phòng bà Khương xin phép hai người ra về mà có ý lưu luyến không muốn rời, nói chuyện trên trời dưới biển với Khương Đào Hoa Dương. Lúc nằm trên giường muốn ngủ nhưng không ngủ được, Tư Không Mã hỏi Triệu Hoảng: "Ngươi có phải đã chọn được Khương Đào Hoa rồi phải không, định lấy con người ta làm thiếp sao?"

Triệu Hoảng nói: "Cũng có ý đó".

Tư Không Mã nói: "Bây giờ không được, chúng ta là đến để tạ ơn. Một khi nhắc tới chuyện này như là mưu đồ không chính đáng. Ngày mai đến sơn lâm bái kiến sư phụ của Khương Đào Hoa. Đơi mấy ngày xem thái độ của Khương Đào Hoa ra sao?"

Cũng giống như tất cả các vương tôn nản lòng, Dị Nhân để có được người bạn như Lã Bất Vi - vị thương gia giàu có này như vòng hào quang từ từ nâng lên trước quán trọ Liêu Cảng chiếu sáng bên trong cũng như bên ngoài lòng y. Sự hào hoa trượng nghĩa của Lã Bất Vi khiến y cảm động. Lã Bất Vi nhìn xa trông rộng khiến y khâm phục, Lã Bất Vi tài giỏi khiến y thấy đường tiền cảnh rạng rỡ phản Tần lập kế vị. Một khi rảnh rỗi, y liền nghĩ ngay đến cảnh tượng lúc được làm Thái tử, thậm chí trở thành Tần vương. Có khi trong lúc say, y nghĩ nếu như có một ngày y thực sự được lập làm kế vị phải luận công ban thưởng. Phải phong thưởng Lã Bất Vi thành Tướng quốc hiển hách. Còn có một đày tớ Chu Kiểm, một lòng trung thành, vì y đã phải lo lắng, chịu khổ sở cũng phải phong hầu bái tướng. Thế hệ này vẫn còn con cháu của y đều có thể hưởng vinh hoa phú quý bất tận... Cũng chưa biết khi nào Lã Bất Vi mới đích thân sang Tần, kết quả đến Thành Dương thế nào? Vừa nghĩ tới đây, y lại cảm thấy một khung cảnh như hoa như gấm, một ảo tưởng hão huyền hiện ra. Có lúc y cũng do dự, một vị thiên tướng đặt nhiệm vụ lớn vào người này, có lúc lo lắng, có lúc như kiến ngồi trên nồi nóng.

Điều Dị Nhân quan tâm và mong ngóng nhiều nhất là Lã Bất Vi đi Thành Dương.

Thực ra, tâm trạng của Lã Bất Vi khi đến nước Tần còn căng thẳng hơn Dị Nhân.

Lã Bất Vi đợi Triệu Cơ về phủ bình an vô sự xong rồi hỏi lại chuyện cô mặc áo kim sa bị giam vào ngục ra sao, trong lòng đã hiểu được tám chín phần, cũng chỉ là việc ghen tuông, tranh giành giữa thê thiếp, ở nhà nào mà chả có! Là một đại trượng phu thì nên để việc to hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không, giữ vai trò hòa giải.

Lã Bất Vi thấy trước khi đi phải dặn dò khách môn thê thiếp một lượt. Ông cảm thấy không tiện phân minh cuộc giành giật giữa Hoàng Phủ Kiều và Triệu Cơ. Ông nói với Triệu Cơ: "Phủ Lã chúng ta được xem như là một đại gia lớn, người đông, lời ra tiếng vào, sau này cũng phải để tâm, ngủ cũng phải canh chừng. Thiếp là tiểu giả cũng nên chịu khổ một chút, chịu nhục để gánh vác trọng trách". Lã Bất Vi đến bên Hoàng Phủ Kiều nói: "Ta tuy sang Tần, nàng là chính thiếp, là chủ gia đình, nên xử việc quang minh để mọi người phục theo". Lã Bất Vi nói hết những gì cần nói rồi đến Liêu Cảng từ biệt Dị Nhân. Dị Nhân tìm bộ quần áo mà y và Chu Kiểm đã từng mặc đưa cho Lã Bất Vi nói: "Ngươi tới nước Tần, lành ít dữ nhiều, hãy mặc bộ quần áo này để tránh điều bất trắc và mới có thể vào được nơi cần vào".

Lã Bất Vi nói với Dị Nhân: "Cuộc chiến vừa qua, phong vận biến ảo khôn lường, Công tử điện hạ phải thận trọng, quyết không thể hồ đồ giương oai. Thần nhanh chóng đi rồi về, xin công tử điện hạ ngồi yên chờ tin lành". Lã Bất Vi cầm phục sức vương tôn nước Tần mà Dị Nhân tặng cho trở về phủ. Ông chọn bốn con tuấn mã, lại đóng thêm đinh cho ngựa chuẩn bị đầy đủ những vật dụng, tiền bạc, ngày hôm sau gà vừa gáy sáng, Lã Bất Vi liền cùng Dương Tử lên đường.

Chỉ ở hai đêm trọ, Tư Không Mã cảm thấy ở chỗ Khương Đào Hoa thật buồn tẻ. Nhưng Triệu Hoảng do yêu quý Khương Đào Hoa nên lúc nào cũng vui mừng, trong lòng rất thoải mái, Tư Không Mã cảm thấy mệt mỏi rã rời. Có lúc trong người nguội lạnh, mệt mỏi, kiên quyết dừng lại giữa đường, không chịu đi, để Triệu Hoảng một mình đi cùng Khương Đào Hoa đến chỗ thầy dạy võ, để cho Triệu Hoảng và Khương Đào Hoa có cơ hội gần gũi. Họ cũng để tùy ý Tư Không Mã chứ không bắt ép phải đi theo. Tư Không Mã nhàn tản ngắm mây, trêu bọ ngựa, ngủ... đợi Triệu Hoảng và Khương Đào Hoa trở về, lại tiếp tục xuống núi cùng họ. Sáng nay, Triệu Hoảng và Khương Đào Hoa vừa đi được không lâu, Tư Không Mã thấy đói cồn cào bèn hái một quả dại nuốt chửng. Vừa có chút cảm giác vị đắng bỗng nghe thấy phía trước có tiếng binh khí, tiếng ngựa phi và tiếng người la hét, liền bật dậy, nắm chặt chuôi dao. Rất nhanh Khương Đào Hoa xuất hiện trước mặt Không Mã cùng với tiếng xào xạc của lau khao tử. Khương Đào Hoa thở hổn hển nói: "Tư Không đại ca, đi mau". Tư Không Mã nói: "Đừng vội, nói từ từ". Khương Đào Hoa cuống quýt: "Vừa nãy, tôi và Triệu Hoảng nhìn thấy một chiếc xe, người ngồi trên là Vương hầu của Tần Quốc, muốn giết chết. Không ngờ, thủ hạ của hắn ta thân thủ phi phàm, đánh một chập. Đại ca mau đi trợ chiến!"

Không Mã vội cùng Khương Đào Hoa đuổi theo. Nhìn thấy đằng xa một khu đất rộng rãi, ba người đang giao đấu quyết liệt. Tư Không Mã rút dao, xông lên trước, vừa định ra tay, bỗng ngây người há hốc mồm, người mặc sắc phục Tần vương tôn đó chẳng phải Lã Bất Vi sao? Tư Không Mã liền định thần, rõ ràng đích thị là Lã Bất Vi. Liền lớn tiếng hô: "Ngừng tay, mau ngừng tay!". Hai bên giao đấu, bị tiếng hét của Không Mã khiến cho ngừng tay. Không Mã đặt dao xuống đất, quỳ bái trước mặt Lã Bất Vi, tạ lỗi nói: "Lã đại nhân, đã làm kinh động đến ngài!". Lã Bất Vi nhìn thấy Không Mã, chợt bừng tỉnh hỏi: "Sao lại là ngươi? Sao ngươi lại ở đây?". Tư Không Mã thở dài: "Chuyện dài lắm". Triệu Hoảng và Khương Đào Hoa thấy vậy, đoán rằng Tư Không Mã và Lã Bất Vi có quan hệ rất thân mật. Sau khi nghe Tư Không Mã giới thiệu mới biết Lã Bất Vi là chủ của Không Mã, Không Mã là môn khách của Lã Bất Vi, vội vàng quỳ bái tạ tội.

Tư Không Mã hỏi Lã Bất Vi sao lại mặc sắc phục của Tần vương tôn mà đến đây. Sau khi Lã Bất Vi biết rõ thân phận của Triệu Hoảng và Khương Đào Hoa, cảm thấy không tiện trả lời Tư Không Mã trước mặt bọn họ. Lã Bất Vi nói lấp: "Ngươi hãy kể về ngươi trước đi". Tư Không Mã thấy Triệu Hoảng ở đó cũng không tiện nói thật. Lại là Triệu Hoảng nhanh mồm nói: "Tôi và Tư Không Mã đều là có mệnh lớn, nếu không đã trở thành quỷ từ lâu rồi". Triệu Hoảng và Khương Đào Hoa vừa nhìn thấy chủ nhân của Không Mã thì cũng không lên núi luyện tập nữa, trở về lều cỏ của Khương gia hâm rượu uống. Nhân lúc Triệu Hoảng và Khương Đào Hoa đều không có mặt, Lã Bất Vi kể cho Không Mã nghe chuyện mình đi Tần để lập kế hoạch cho Dị Nhân lên ngôi. Tư Không Mã hỏi: "Lã đại nhân, nói như vậy, từ nay về sau vận mệnh của chúng ta có quan hệ nơi Tần vương tôn Dị Nhân ư?". Lã Bất Vi nói: "Đúng vậy. Tư Không Mã nay về sau chúng ta tập trung giúp sức cho Dị Nhân. Nhục cùng nhục, vinh cùng vinh. Con át chủ bài của chúng ta coi như đặt nơi Dị Nhân". Tư Không Mã nói: "Tiểu nhân đã hiểu được ý đồ của Lã đại nhân. Đã thế, thì để tiểu nhân bảo vệ đại nhân đến Hoặc Dương". Lã Bất Vi nói: "Ta và Dương Tử đến Hoặc Dương, dự tính cũng không có chuyện gì, chỉ là trong thành Hàm Đan xáo động không dứt, khiến ta lo lắng không yên". Tư Không Mã nghe xong hiểu ra nói: "Thế tiểu nhân về Hàm Đan?". Lã Bất Vi nói: "Ý ta cũng là như vậy. Sau khi ngươi về Hàm Đan, chủ yếu là đến chỗ Dị Nhân bảo vệ ông ta, đề phòng bất trắc. Có vài chuyện đợi ta trở về rồi hãy hay".

Xem tiếp Chương 9 Đi Hoặc Dương

Hàn Diệu Kỳ

Chương 9 Đi Hoặc Dương

Gió thu xào xạc, kèm theo bụi cát ngoài hang núi, liên tục thổi vào cửa sổ xe ngựa Lã Bất Vi. Lã Bất Vi cuộn mình trên chiếu, nửa thức nửa ngủ lắng nghe tiếng gió từng trận từng trận thổi từ xa đến. Lã Bất Vi cùng Dương Tử đi về phía tây, sương lạnh gió bùng, vô cùng vất vả, cuối cùng cũng đi được vào lãnh thổ nước Tần. Vừ thấy thế giới của Tần quốc, Lã Bất Vi thêm phần phấn chấn. Mở rộng cửa sổ, nhìn ra xa Lã Bất Vi muốn ngắm xem cảnh tượng ánh sáng trên núi nước Tần chói lọi, phong thổ dân tình so với sáu nước láng giềng có gì khác biệt. Có sách sử ký đã miêu tả những cảm xúc của Lã Bất Vi trên đường đi như vậy. Vừa vào biên giới nước Tần, Lã Bất Vi liền nhận ra ở đây có rất nhiều khác biệt về phong thổ dân tình với các nước khác. Xe ngựa của Lã Bất Vi chạy chầm chậm dưới chân núi Hoa, đi vào con đường Bình Thư của Hoặc Dương. Bên phải là dãy Hoa Sơn sừng sững, bên trái là sông Hoàng Hà chảy xiết về hướng đông, cửa Hàn Cốc như một chiếc nút chai không chế con đường vào Tần. Nhìn về hướng tây, 800 dặm Tần Châu một dải hoang sơ. Dải núi phía nam cây cối um tùm những bạch đàn, tùng, trúc, trên bình nguyên trồng lúa, đại mạch... Giữa những vòm lá tiếng gà chó râm ran, trong nông trang kênh, mương có trật tự. Dù Lã Bất Vi là một thương nhân cũng có thể nhận thấy được Tần quốc là nơi đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú. Trên đường đi, người dân Tần mà Bất Vi gặp đều giữ gìn được phong tục tốt, đối với việc nuôi trồng vô cùng cẩn thận, điều này khác hẳn với quê hương Bộc Dương của mình và Hàm Đan nơi đã từng đi qua. Người Tần không phù hoa như dân các nước khác, cũng không có nhiều người bỏ nghề nông theo nghề buôn, mà an phận cố thủ trồng lúa làm kế mưu sinh. Chỉ quan sát từ cách ăn mặc, người Tần cũng không như người nước Vệ, Triệu mặc lông thú, gấm nhẹ, mọi người mặc giản dị. Một Lã Bất Vi từ Hàm Đan phồn hoa, đô hộ đến, càng đến gần Hoặc Dương, cảm giác càng sâu sắc. Suốt dặm đường đến đây khiến ông càng có thêm cơ sở cho niềm tin tất thắng...

Trong bụi đường mù mịt, Lã Bất Vi nhìn thấy từ đằng xa hai mái vòm cung điện huy hoàng rực rỡ. Ông biết đó chính là cung Chương Đài nổi tiếng. Theo con đường càng rộng dần, những mái hiên nhà chạm trổ đã hiện ra ngày một rõ. Qua cầu Vị Thủy, liền vào đến Hoặc Dương. Lã Bất Vi cho ngựa chạy chậm, nhìn qua cửa sổ xe quan sát các cửa hiệu buôn bán hai bên phố. Xe ngựa của Lã Bất Vi đi xuyên qua dòng người xe đông đúc một cách khó khăn. Trong lòng Lã Bất Vi thốt lên: "Thành Hoặc Dương thật là một thủ đô phồn hoa, thịnh vượng! Thành Hàm Đan so với nó thật là một trời một vực".

Lã Bất Vi tìm đến một quán trọ tốt, nghỉ một đêm. Hôm sau đem theo tiền bạc, châu báu đi bái kiến Hoa Dương quân. Vừa nghe ngóng đã biết được nơi ở của vị quốc cựu quyền uy lừng lẫy này. Theo sự chỉ đường, Lã Bất Vi và Dương Tử đã nhanh chóng đến được cung Hoa Dương. Lã Bất Vi vừa đến cổng tòa cung điện xa hoa này, quân lính gác cửa mắt rất tinh, vừa nhìn đã nhận ra phục sức Tần vương tôn mà Lã Bất Vi mặc, trong lòng nghi ngờ "Ba mươi công tử con An Quốc quân tôi đều biết hết, còn người quần áo đầy bụi đường này là ai?". Lã Bất Vi tiến lên trước nói: "Chúng tôi từ Hàm Đan đến, có việc muốn gặp Hoa Dương quân". Quân lính thấy trang phục Lã Bất Vi mặc không dám chậm trễ, vội đi vào bẩm báo. Hoa Dương quân tướng mạo tuấn tú đang tụ tập cùng các môn khách, ván cờ đang đến lúc then chốt, không để ý đến tên lính vào bẩm báo. Tên lính lại lên giọng bẩm báo: "Bẩm bên ngoài có một người mặc quần áo Tần vương tôn từ Hàm Đan đến". Hoa Dương quân quát tên lính: "Khốn nạn! Có mắt mà không có tròng, kẻ mặc quần áo Tần vương tôn, lại đến từ Hàm Đan thì có thể là ai? Đó không phải là Dị Nhân sao?". Tên lính nói: "Dị Nhân thì tiểu nhân biết, người này chắc chắn không phải Dị Nhân". Hoa Dương quân cảm thấy lạ, chắc chắn là ông anh phong lưu dễ thành bản tính, An Quốc quân ở ngoài còn có đến hai mươi tư, hai mươi nhăm người con sao? Bèn nói: "Đi, ta đi cùng ngươi xem". Hoa Dương quân ra đến cửa nhìn, quả đúng không phải Dị Nhân. Lã Bất Vi đoán rằng người đi cùng tên lính ra đây là Hoa Dương quân rồi. Lã Bất Vi nói với Hoa: "Tôi là thương nhân buôn châu ngọc từ Hàm Đan tên là Lã Bất Vi, Tần công tử Dị Nhân nhờ tôi đến quý phủ, có chuyện muốn nói với Hoa Dương quân". Nghe thấy Lã Bất Vi nói vậy, Hoa Dương quân liền mời vào phủ, đến phòng khách. Hoa Dương quân thăm dò tình hình Dị Nhân, Lã Bất Vi nói: "Dị Nhân điện hạ ở Hàm Đan nhân hậu yêu người, ôn văn luyện võ, kết giao chư hầu, tạo dựng uy tín nơi các nước lân bang, được gọi là người quân tử nhân đức vẹn toàn". Hoa Dương quân kinh ngạc nói: "Ra là như vậy! Ta vẫn tưởng rằng sau cuộc chiến Trường Bình, Triệu Hiếu Thành vương sẽ tức giận ông ta, ông ta sẽ phải sống những ngày khốn khó". Lã Bất Vi nói tiếp: "Tuy vậy Dị Nhân điện hạ vẫn luôn tưởng nhớ người thân trong Hoặc Dương, đặc biệt là phu nhân An Quốc quân, Hoa Dương còn nhớ mong nhiều hơn. Lần này nhờ tôi đến đây, còn đưa rất nhiều lễ vật cho Dương Quân". Lã Bất Vi vừa nói xong, Dương Tử đem lễ vật bày ra trên án của Dương Quân. Hoa Dương quân khen: "Tên Dị Nhân này, ở Hàm Đan mấy ngày, không chỉ hiểu biết lên nhiều lại còn biết thấu tình đạt lý nữa!". Hàn huyên một hồi, Hoa Dương quân hỏi: "Lã tiên sinh, Dị Nhân nhờ tiên sinh đến đây có việc muốn nói với ta, xin hỏi là việc gì vậy?". Lã Bất Vi đưa mắt nhìn tên hầu đứng cạnh án, liếc nhìn Hoa Dương quân có ý bảo họ ở đây không tiện nói. Hoa Dương quân khoát tay nói: "Lã tiên sinh nói đi không có gì ngại cả". Lã Bất Vi nói một cách trịnh trọng: "Tiểu nhân từ Hàm Đan đến chính là vì Hoa Dương quân diệt trừ họa nạn!". Hoa Dương quân cười điềm nhiên nói: "Lã tiên sinh đừng nói quá, Hoa Dương quân ta có họa gì chẳng nhẽ lại không tự biết sao? Ta là người bộc trực, thích nói thẳng. Quý thương gia nếu có việc gì thì cứ nói ra hết, hà tất phải quá thận trọng như thế". Lã Bất Vi nói: "Hoa Dương quân không biết mình đang lún sâu trong hố họa, đó chính là họa càng trầm trọng vậy". Hoa Dương quân xúc động nói: "Chẳng nhẽ thật thế?". Lã Bất Vi nói: "Tiểu nhân sao dám bịa chuyện trước mặt Hoa Dương quân đây?". Hoa Dương quân nói: "Thế thì được, mời quý khách nói xem ta có họa gì?". Lã Bất Vi hỏi: "Hoa Dương quân có bao nhiêu thê thiếp?". Hoa Dương quân đáp: "Chính thiếp một người, thứ thiếp ba người, thế phụ hai người, hầu thiếp mười người, cộng cả thảy mười sáu người". Lã Bất Vi nói: "Danh chính ngôn thuận ngài có mười sáu người. Thế theo ngài biết, trong hai mươi ba người con của An Quốc quân phi thiếp tổng cộng bao nhiêu người?". Hoa Dương quân trả lời: "Nhiều nhất cũng bảy, tám người". Lã Bất Vi nói tiếp: "Thế tiểu nhân lại xin hỏi Hoa Dương quân, thành phủ Hoa Dương có bao nhiêu trĩ" (tường cao một trượng, dài ba trượng thời xưa). Hoa Dương quân đáp: "Hai trăm trĩ". Lã Bất Vi hỏi: "Hai mươi ba người con của An Quốc quân, tường thành phong ấp dài nhất là bao nhiêu?". Hoa Dương quân đáp: "Không quá trăm trĩ". Lã Bất Vi hỏi: "Hai mươi ba người con của An Quốc quân, có người nào bái quân phong hầu không?". Hoa Dương quân đáp: "Không có ai bái quân phong hầu". Sau khi hỏi han một hồi, Lã Bất Vi nói khái quát lại: "Mỹ phi, thành ấp và quyền thế của Hoa Dương quân, cả ba này đều là họa của ngài đó!". Nghe Lã Bất Vi nói vậy, Hoa Dương quân như trút được gánh nặng, thở phào một cái, điềm nhiên nói: "Cầu được nhiều mỹ sắc, muốn thành ấp lớn rộng, mong quyền thế càng cao, là việc thường tình của con người, sao lại gọi là hoạ!". Lã Bất Vi nói: "Những điều Hoa Dương quân nói rất phải, mong muốn những thứ đó là việc thường tình. Thế hai mươi ba người con của An Quốc quân, có ai là người không cần nhiều người đẹp, muốn sự to lớn của thành ấp, không ham quyền cao chức trọng? Tuy nhiên, lại có người nào sánh kịp Hoa Dương quân ngài! Điều này là sao?". Hoa Dương quân bị hỏi đến nỗi mệt không buồn nói. Lã Bất Vi nói: "Tha lỗi cho tiểu nhân nói thẳng. Trừ phi chị của ngài, phu nhân Hoa Dương độc chiếm được sự sủng ái và tin tưởng của An Quốc quân, ân trạch đến ngài. Như ngạn ngữ nói: sao đi theo trăng, đó là mượn danh người tốt mà được thơm lây. Sau khi An Quốc quân nghìn thu, con trai ông ấy có quyền thế trong taycó thể bỏ qua ngai không? Một khi Hoa Dương phu nhân già cả tiều tụy, không được sủng ái, ngài sẽ dựa vào điều gì để nắm giữ mỹ sắc, thành ấp và quyền thế đây? Những thứ đó đều sẽ biến mất, trọng tắc thế nào Hoa Dương quân chẳng nhẽ không rõ hơn tôi sao?". Những lời nói sắc sảo của Lã Bất Vi làm rung động cả Hoa Dương quân. Hoa Dương quân lúc đầu ngồi nghe chăm chú, tiếp đó gật đầu tán đồng, cuối cùng ngồi ngây trên ghế, không rét mà run. Hồi lâu mới nói: "Lời quý thương gia nói có lý. Thế thì làm sao mới khiến ta chuyển họa thành phúc đây?". Thế là Lã Bất Vi đem trình bày kế hoạch lập Dị Nhân làm Thái tử, cuối cùng nhấn mạnh: "Hoa Dương phu nhân nhận Dị Nhân làm con nuôi, một khi Dị Nhân trở thành Tần vương, thì Hoa Dương phu nhân trở thành quốc mẫu, Hoa Dương quân ngài sẽ là Quốc cựu, họ tộc Hoa Dương liệu có còn họa gì nữa đây?". Hoa Dương quân hỏi: "Quý thương muôn thực hiện một kế hoạch đại nghiệp lớn như vậy, có cơ sở thắng lợi không?". Lã Bất Vi nói: "Quan trọng là xem ý của chị ngài Hoa Dương phu nhân".

Dưới ánh sáng bóng như men, tất cả cảnh vật trong thẩm cung Hoa Dương phu nhân đều biểu hiện lên rõ mồn một. Cảnh gây sự chú ý nhất chính là trên gương, An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân không một mảnh vải che thân. Cho dù mặt trời đã lên cao ba sào, nhưng vị Thái tử này cùng ái phi vẫn như hai con rắn lột xác, quấn chặt lấy nhau. Doanh Trụ tỉnh dậy trước tiên, cả đêm mây mưa với Hoa Dương, khiến anh ta sung sướng đến mệt nhoài. Ánh mắt tình tứ phóng đãng quét khắp cơ thể Hoa Dương phu nhân, trong lòng tán thưởng tự nhủ: "Thật tuyệt, những chỗ cần nở đều nở...". Thưởng thức một hồi, anh ta vắt chiếc chăn đang phủ trên chân, đắp lên người Hoa Dương phu nhân và mình. Sau đó lại như con đỉa bám hút trên làn da. Động tác của Doanh Trụ làm Hoa Dương phu nhân tỉnh giấc, ngáp một cái nói: "Ôi, trời sáng rồi, dậy đi". Doanh Trụ nói: "Không vội, ngủ cùng ta một lúc nữa". Hoa Dương phu nhân nói vẻ không vui: "Khi ngủ cần thiếp, lời thiếp nói đều biến thành gió thổi qua tai rồi". Doanh Trụ nói: "Ôi, ái phi của ta, sao nàng lại nói thế. Đừng nói lời nàng nói mà chỉ cần nàng thở nhẹ thôi cũng khiến ta xoay đầu chuyển hướng!". Hoa Dương phu nhân hỏi: "Thiếp xin cho Hoa Dương quân Kinh Thành mà đoạt được của nước Sở để làm phong ấp đã lâu rồi? Cứ như bọt biển vậy, chẳng có chút tin tức gì!". Doanh Trụ nói: "Nước Tần có bao nhiêu thành ấp, không giữ chặt Kinh Thành không được? Có bao nhiêu công tử đang nhìn vào".

Hoa Dương phu nhân nói: "Mảnh đất đẹp như vậy, ai không thèm. Thiếp đã nói với chàng rồi, Hoa Dương quân không cần ấp nào khác, chỉ cần Kinh Thành thôi!". Doanh Trụ nói: "Ta biết rồi". Hoa Dương phu nhân nói: "Thế đợi đến lúc nào mới đến tay?". Doanh Trụ nói: "Chốc nữa dậy, ta đến chỗ phụ vương một lần nữa cầu xin cho Hoa Dương quân". Hoa Dương phu nhân dậy, sau khi cung nữ chải đầu vấn tóc xong đột nhiên kêu đau đầu chóng mặt, chân tay rã rời. Doanh Trụ cho gọi ngự y đến xem mạch, nói là trúng phong hàn, kê đơn bốc thuốc. Cung nữ bê đến một bát nước quả vải, Hoa Dương phu nhân không uống nổi. Doanh Trụ lại đích thân bê đến trước mặt, trìu mến nhẹ nhàng nói: "Uống một chút đi, không uống gì không chịu được đâu". Hoa Dương phu nhân bực bội gạt tay áo, chiếc cốc nước vải bằng hổ phách trên tay Doanh Trụ rơi xuống đất, vỡ vụn. Hoa Dương phu nhân nói trong lòng phiền muộn, bảo các cung nữ đều lui ra. Có cung nữ sợ run bắn không dám bước, Doanh Trụ hét: "Các ngươi đều điếc hết hay sao, phu nhân chẳng bảo các ngươi lui ra hết ư?". Mấy cung nữ vội như gió cuốn, lui ra ngoài. Hoa Dương phu nhân nói với Doanh Trụ: "Thái tử điện hạ cũng không cần phải ở đây, để một mình thiếp yên tĩnh". Doanh Trụ nói: "Phu nhân tĩnh dưỡng một chút đi, ta đến chỗ phụ vương cầu xin cho Hoa Dương quân Kinh Thành phong ấp". Hoa Dương phu nhân sở dĩ được sự sủng ái của Thái tử An Quốc quân, trong cung có toàn quyền không ai sánh kịp, ngoài sắc thái phương phi, vẻ đẹp mĩ miều còn do nàng và Tuyên thái hậu quyền trọng một thời của nước Tần, đều là thành viên gia tộc Mễ Thị nước Sở. Tuyên thái hậu là một người phụ nữ nắm quyền lực và phóng đãng nhất trong lịch sử Trung Quốc cổ đại. Bà là hậu duệ của quý tộc nước Sở, lấy Tần Huệ Văn vương, trở thành một người không mấy nổi bật trong đám phi tử. Huệ Văn vương, chính là người đã cho xé xác Thương Ương. Tuy ông hết sức căn ghét Thương Ương nhưng cũng hết sức tán đồng biến pháp "phú quốc cường binh" của Thương Ương. Sau khi Tần Hiếu công chết, ông tiếp tục như cha mình dốc sức tiến hành biến pháp cải cách chính trị, không giống như biện pháp vô hiệu của các nước chư hầu bấy giờ. Huệ Văn vương năm 337 trước công nguyên lên ngôi vua. Hai mươi bảy năm sau nhường ngôi. Trong thời kỳ này liên tiếp cải cách chính trị của Tần Hiếu công. Ngoài việc chiếm lĩnh và khai khẩn ngày càng nhiều các vùng đất, còn chú trọng thu hút sự văn minh tiên tiến của các nước láng giềng, cải biến những tập tục lạc hậu vốn có của nước Tần. Trước khi có biến pháp Thương Ương nước Tần là nước bế quan tỏa cảng, nghèo nàn lạc hậu, bị các nước chư hầu ở Trung Nguyên gọi là "Nhung Địch". Sau khi thực hiện biến pháp Thương Ương, nước Tần dần trở nên cường thịnh. Pháp lệnh tiến bộ của nó đã thu hút các trí thức đương thời, "kẻ sĩ" môn đồ bách gia đều muốn đến Tần, nước Tần cũng mở rộng cửa chiêu hiền nạp sĩ, có một loạt các nhà quân sự, chính trị, tư tưởng, lữ thuyết, văn học cùng những kẻ lưu manh, lừa đảo... vàng thau lẫn lộn đều tụ tập đến Hoặc Dương. Trong đó không ít người chân tài thực học, văn thao võ lược, đóng góp nhiều cho sự hưng thịnh của nước Tần. Như khoa học Trương Nghi, phục Hoàng Hanh nhân vật đại biểu cho Mặc gia. Các trường phái "Sĩ" có đầy đủ kiến thức và tư tưởng tiên tiến, như một làn gió mới trong lành thổi khắp 800 dặm Tần Châu. Trong sự văn minh tiên tiến mang màu sắc phương đông này, sự lạc hậu bảo thủ vốn có của nước Tần đã dần bị thay đổi và biến mất. Do Tần Hiếu công Huệ Văn vương cùng các Quốc vương thúc đẩy chỉ đạo trào lưu cải cách, Tuyên thái hậu và người thân trong gia tộc là Hoa Dương phu nhân cũng đương nhiên trở thành nhân vật tiên phong. Trong cuộc sống nơi hậu cung buồn tẻ của Mễ Bát Tử, Doanh Trắc là một trong ba người con bà sinh ra, đã đặt nền móng vững chắc cho ngôi vị chính cung vương phi cho bà. Vũ vương do Huệ Văn vương chính cung phi tử sinh ra đã chết sớm, theo tông pháp nước Tần, ngôi vua do Doanh Trắc, con trai cả do Mễ Bát Tử sinh ra sẽ kế thừa, ông chính là cha đẻ của Dị Nhân, Tần Chiêu Tương vương nổi tiếng.Năm 325 trước CN, Tuyên thái hậu bế đứa con, vừa đầy 10 tuổi lên điện, bà hiểu rõ mình đã đối mặt với thời kỳ hạnh phúc nắm quyền thế trong tay. Rất nhiều nhà sử gia khi nói đến chuyện Tuyên thái hậu buông rèm chấp chính, trị nước an dân thường ví với Lã hậu, Võ Tắc Thiên, cho rằng bọn họ là khởi đầu tạo dựng sự nghiệp của tổ tông, kỳ thực đối với ngôi vị nữ vương, Tuyên thái hậu sớm đã đăng quang.

Nghĩa Cừ, là một nhánh dân tộc du mục phía tây nước Tần, dân tộc này tuy lạc hậu hơn Tần, nhưng do sự thiện chiến mà từ lâu đã có thể trở thành thù địch của nước Tần. Thời Hiếu Công, Huệ Văn vương, Võ vương đều đã gặp nhiều tổn thất trước sự tiến công của quân đội Nghĩa Cừ. Đến khi Chiêu vương kế vị, Tuyên thái hậu chấp chính, khi vua Nghĩa Cừ đến thủ đô Tần quốc là Hoặc Dương triều kiến Chiêu vương mới lên ngôi, Tuyên thái hậu vẫn đầy sức sống đã cấu kết với Nghĩa Cừ vương. Cũng có thể những năm tháng dài là quả phụ trong thâm cung đã khiến Tuyên thái hậu thèm một hơi hướng đàn ông, hoặc là Nghĩa Cừ vương tuấn tú khôi ngô quả thực đã thu hút thiếu phụ xinh đẹp này, đôi tình nhân dị tộc này công khai thông dâm trong thời gian dài hơn ba mươi năm, sinh được hai con trai. Trong thời gian đó, Nghĩa Cừ vương mải mê hạnh phúc cũng dần mất đi dã tâm đánh Tần, còn Tuyên thái hậu sau khi thỏa mãn cũng không hề có ý phòng thủ với Nghĩa Cừ vương. Do vậy trong ba mươi năm, nước Tần và Nghĩa Cừ không xảy ra chuyện gì.

Đến năm 272 trước Công nguyên, Tuyên thái hậu đã bảy mươi tuổi, Nghĩa Cừ vương không ham muốn tấn công Tần, cũng không phòng ngừa với Tần nữa. Nhân cơ hội Nghĩa Cừ không đề phòng, Tuyên thái hậu bất ngờ phát động tấn công dân tộc của người tình, kết quả một Nghĩa Cừ hùng mạnh trong nháy mắt bị đánh bại, quân Nghĩa Cừ đã từng uy hiếp sự an nguy bốn phía của Tần quốc cuối cùng đã bị tan rã dưới kế mỹ nhân của Tuyên thái hậu, khiến người ta kinh sợ.

Có một lần, sứ thần nước Hàn đến Tần quốc cầu viện. Lúc đó Tuyên thái hậu vẫn còn đang buông rèm nghe chính sự, trực tiếp đàm phán với sứ thần nước ngoài, đây là điều rất hãn hữu. Càng ngạc nhiên hơn nữa, trong khi đàm phán, Tuyên thái hậu điềm nhiên lấy ví dụ so sánh từ việc chăn gối của mình để mặc cả với sứ thần nước Hàn.

"Ta và tiên vương khi ân ái, tiên vương đem cả cơ thể mình đè lên người ta, ta không hề cảm thấy nặng. Thế là tại sao?". Bà tự chất vấn nói, sắc mặt không chút ngượng ngùng: "Đó là bởi vì có lợi cho ta, ta cảm thấy toàn thân rất dễ chịu". Sứ thần nước Hàn trợn mắt, há hốc mồm, không nói được câu nào, không biết vị Thái hậu này định nói gì. Nhưng mà Tuyên thái hậu nói tiếp: "Khi tiên vương không ân ái với ta thì đó chính là một cái chân nặng nề đè lên người ta, ta cảm thấy không thể chịu nổi". Nói đến đây sứ thần nước Hàn hoàn toàn hiểu rõ: Nếu không có lợi cho nước Tần, nước Tần sẽ không cứu viện nước Hàn. Cuộc thương thuyết này kết quả ra sao không cần phải nói.

Thái hậu cuối cùng cũng hiên ngang tuyên bố với sứ giả nước ngoài về cảm xúc tình yêu của mình. Những lời lẽ này quá là hạ lưu thấp hèn chăng? Hay để khai thông trước? Nhưng kết quả đàm phán thì nước Tần vẫn chiếm ưu thế.

Vị Tuyên thái hậu phong lưu mà bạo gan này cũng là một bà lão sống lâu. Mãi cho đến năm 42 Tần Chiêu vương Dị Nhân đến Hàm Đan làm con tin, mới lưu luyến từ giã trần thế. Đến lúc sắp chết, vị Thái hậu phong lưu một đời vẫn còn tơ tưởng không quên được người đàn ông được bà sủng ái tên là Ngụy Sửu phu. Khi sắp lìa cõi đời, bà còn có một nguyện vọng là muốn Ngụy Sửu phu phải được tuẫn táng theo mình, lúc này nước Tần đã sớm phá bỏ tục lệ này, điều này đã khiến Chiêu vương thấy rất khó xử. Ngụy Sửu phu cũng cảm thấy rất sợ hãi, đang không biết làm thế nào để giải nguy cho mình, thì đại thần Dung Nhuế thông minh đã nghĩ ra một kế giải vây.

Dung Nhuế rất cung kính hỏi nhỏ bên tai Thái hậu: "Thái hậu có cho rằng người ta sau khi chết còn có cảm giác không?". "Đương nhiên là...". Thái hậu cố lấy sức thều thào nói tiếp: "... không có cảm giác rồi".

"Thái hậu anh minh", Dung Nhuế vội tiếp lời "Với sự minh mẫn của Thái hậu như vậy, đã biết rõ là người chết không có cảm giác gì, thì hà tất để người mà Thái hậu thương yêu phải đi hầu một cái xác không hồn?"

Hơn nữa, thấy Thái hậu không có phản ứng gì, Dung Nhuế lại nói tiếp nhưng lời nói này rất khó nghe: "Nếu người chết còn có tri giác, thì nỗi tức giận xưa tiên vương tích tụ bao ngày đối với Thái hậu không nhỏ. Sau khi Thái hậu băng hà, Thái hậu cần phải cẩn thận, tiên vương sẽ tìm Thái hậu để tính sổ, lúc đấy hối hận cũng không kịp, đâu còn có cơ hội để ân ái cùng Ngụy Sửu phu đây?"

Thái tử, Quý phi và các đại thần đứng bên giường Thái hậu nghe những câu nghịch tai của Dung Nhuế nói với Thái hậu mà khiếp đảm, không biết là Thái hậu có phẫn nộ không, không chắc tính mệnh của Dung Nhuế vì thế mà đi đời, không khí trở nên nặng nề. "Được..." chỉ nghe được một từ phát ra từ miệng Thái hậu đã kiệt sức, rốt cuộc thì từ "được" lá có ý gì? Dung Nhuế nói đúng hay không còn cách nào đành phải tùy ý các khanh mà làm đây?

Thái hậu cuối cùng cũng phải từ bỏ ước muốn đem theo Ngụy Sửu phu tuẫn táng cùng với mình, thở dài buồn rầu. Ngụy Sửu phu đáng thương cuối cùng được cứu sống, mọi người ở đấy cũng thấy nhẹ nhõm.

Hoa Dương phu nhân lớn lên dưới sự dạy dỗ của vị Thái hậu phong lưu, mạnh mẽ này. Có chỗ dựa như vậy, thêm vào đó lại là thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp rất có thể sẽ thừa hưởng những tính cách và tiểu kế của Thái hậu.

Lúc này Hoa Dương phu nhân cùng với Cương Tài Phán vừa đi đến cửa Loan Minh các đứng dựa vào cột hành lang, ngước mắt nhìn như đang trông đợi điều gì. Đúng thật, Hoa Dương phu nhân đang đợi một cỗ xe. Một cỗ xe phủ rèm sang trọng được bốn con ngựa kéo, lộc cộc tiến vào hậu cung, dừng lại trước cửa Loan Minh các.

Hoa Dương quân từ trên xe bước xuống, rồi vén màn mời bà thầy mo xem bệnh xuống xe dẫn vào trong Loan Minh các, Hoa Dương quân giới thiệu với Hoa Dương phu nhân bà thầy mo này: "Chị, vị này là một thương gia đến từ Hàm Đan, tên là Lã Bất Vi".

Thì ra, Hoa Dương quân nghe Lã Bất Vi giảng một lượt, đứng ngồi không yên, cảm thấy quyền lợi của mình và chị mình sắp bị đe doạ, hắn vội đến Loan Minh các dụng ý đưa Lã Bất Vi đến Hoặc Dương và những lo lắng của mình nói với Hoa Dương phu nhân, dường như Hoa Dương phu nhân không tin tưởng lắm. Hoa Dương quân nói với chị, nếu chị nghe những lời Lã Bất Vi nói thì chị sẽ thấy những lời tiên đoán của ông ta thật kỳ diệu.

Hoa Dương phu nhân nói: "Vậy thì ngày mai ngươi hãy mời ông ta vào đây gặp ta". Cung cấm trong triều rất nghiêm ngặt, những kẻ bình thường quyết không thể tùy tiện vào hậu cung được. Thế là, Hoa Dương quân cùng với Hoa Dương phu nhân bàn mưu kế, Hoa Dương phu nhân gải vờ bệnh, sau đó Hoa Dương quân dùng cỗ xe ngựa có phủ rèm của Hoa Dương phu nhân đưa Lã Bất Vi mặc giả nữ vào cung Loan Minh các.

Lã Bất Vi không bỏ lỡ thời cơ cống hiến một số đồ lễ mang từ Hàm Đan cho Hoa Dương phu nhân, sau đó dùng lời lẽ nịnh bợ thêm mắm thêm muối vào là Dị Nhân phải tằn tiện thế nào ở Hàm Đan để dành tiền mua lễ vật biếu Hoa Dương phu nhân, nào là Dị Nhân sống nhân nghĩa, đều được các chư hầu khen ngợi.

Vì vậy, Hoa Dương phu nhân cũng có ấn tượng tốt với Dị Nhân. Nhưng Hoa Dương phu nhân đối với chuyện này không hứng thú lắm liền chuyển đề tài nói: "Ta nghe Hoa Dương quân nói, ngươi rất lo lắng cho vận mệnh trong tương lai của chị em ta phải không?". Lã Bất Vi đáp: "Vâng, thưa phu nhân".

Hoa Dương phu nhân hỏi: "Lo lắng chuyện gì?"

Lã Bất Vi không giống như kẻ du thuyết bình thường, không khoa môi múa mép, ví von úp úp mở mở mà nói thẳng thừng: "Tôi lo có ngày phu nhân sẽ già, tiền tài và quyền lực của chị em phu nhân cũng sẽ không còn".

Hoa Dương phu nhân vẫn chưa rõ hỏi: "Tại làm sao lại như vậy?"

Lã Bất Vi nói: "Tất cả đều dựa vào tài mạo sắc đẹp của phu nhân đã mê hoặc An Quốc quân".

Hoa Dương phu nhân gật đầu: "Đúng vậy".

Lã Bất Vi nói: "Tôi nghĩ, phu nhân cũng hiểu rõ một đạo lý là những kẻ ham sắc, thì khi sắc đẹp phai tàn, thì tình cũng phai nhạt theo, một khi An Quốc quân không còn sủng ái phu nhân nữa, thì phu nhân và gia tộc có còn trụ vững ở nước Tần này không?"

Hoa Dương phu nhân hỏi lại: "Đại vương làm sao lại không sủng ái ta nữa?"

Lã Bất Vi hỏi: "Hoa Dương phu nhân có phải là vị phi tử đầu tiên của An Quốc quân không?"

Hoa Dương phu nhân đáp: "Không phải".

Lã Bất Vi hỏi: "An Quốc quân có còn qua đêm ở chỗ phi tử thứ nhất nữa không?"

Hoa Dương phu nhân đáp: "Không hề đến nữa rồi".

"Còn sủng ái cô ta không?"

"Rất lạnh nhạt với cô ta".

"Vậy xin hỏi phu nhân là vì lẽ gì?"

"Cái này...".

"Điều đó thì quá rõ rồi phải không, cô ta đã già rồi, phu nhân xinh đẹp, trẻ trung hơn cô ta, vì vậy An Quốc quân không sủng ái cô ta mà lại sủng ái phu nhân. Vậy thì phu nhân có đảm bảo rằng mình sẽ trường sinh bất lão, trẻ mãi không già không?"

Hoa Dương phu nhân nghe lời nói vang dội, có sức thuyết phục như vậy cũng phải gật đầu suy nghĩ.

Hoa Dương quân thừa cơ nói: "Lời của Lã Bất Vi thật chính xác, đúng là những lời vàng ngọc giúp chị em ta giải họa tạo phúc. Thưa chị, một khi chị đã già, thì số mệnh của chúng ta cũng không lường được. Bây giờ nhân lúc Đại vương sủng ái một mình chị, còn nghe lời chị, chị hãy chọn một trong hai mươi ba hoàng tử nhận làm con nuôi khuyên An Quốc quân lập Thái tử. Có như vậy khi Đại vương băng hà, chi em chúng ta quyền cao không ai bì. Sau khi Đại vương nàgn thu, thì người làm vua là con trai trung hiếu của chị, chẳng phải lúc ấy quyền của chúng ta càng thêm vững chắc sao? Nếu chị nhân lúc Đại vương sủng ái làm thành công chuyện này thì hưởng phúc mãi mãi, ngược lại đợi đến khi sắc tàn tình phai, sức suy lực kiệt, Đại vương không ngó ngàng gì đến thì còn thực hiện được theo ý nguyện của chị được không?"

Hoa Dương phu nhân nói: "Nghe hai vị nói cũng có lý, rất có sức thuyết phục, đã khiến ta như tỉnh cơn mê, vậy không biết là vị hoàng tử nào?"

Hoa Dương phu nhân vẫn chưa nói hết, Hoa Dương quân vội vàng ngắt lời: "Còn do dự gì nữa, Dị Nhân rất thích hợp".

Lã Bất Vi nói: "Dị Nhân luôn một lòng tưởng nhớ đến Đại vương và phu nhân, Dị Nhân tự biết mình không phải là con trưởng, mẹ là Hạ Cơ cũng không được Đại vương sủng ái, rất muốn được nương nhờ ở cửa phu nhân, tình nguyện được làm con trai của phu nhân, để tương lai được một chỗ đứng trong triều. Phu nhân hãy nhân cơ hội này khuyên Đại vương lập Dị Nhân làm Thái tử, sau này có thể giải trừ được nỗi lo của chị em phu nhân rồi". Hoa Dương phu nhân nói chắc như đinh đóng cột: "Được".

* * * * *

Tư Không Mã tâm tư ngổn ngang đứng một lúc ở đại môn Lã phủ. Mọi người đều cho rằng chàng đã chết ở Trường Bình, sao hôm nay lại hồi sinh quay về đây được? Còn Triệu Cơ tối hôm trước khi sắp ra đi, vui vầy cùng chàng một đêm, còn bao nuối tiếc. Nàng sẽ dõi ánh mắt trông chờ chàng không? Nắng thu không gay gắt như ánh nắng mùa hạ, làn gió thu như đang vuốt lên khuôn mặt đỏ gay của chàng Tư Không Mã. Chàng đẩy cánh cửa vẫn đỏ tươi như trước đây, mang theo cả cái bóng và luồng gió hiu hiu vào theo.

Tư Không Mã nhìn một lượt gian phòng, lối đi, giếng nước, mọi nơi với ánh mắt thân quen ấm áp. Mọi thứ vẫn như cũ, mấy bụi dâu trước đây râm ran tiếng ve, nay đã thưa thớt. Những chiếc lá dâu màu vàng rơi lả tả. Tư Không Mã nghĩ đến đây tự hỏi, đây chính là "phiêu linh" sao? Mấy môn khách và bọn nô bộc đi từ trong đình ra, lúc đầu không ai để ý đến con người từ chỗ phiêu linh trở về.

Bỗng nhiên, từ Tiền Đình phát ra tiếng hét thất thanh của người nào đó "Có ma". Nghe thấy tiếng kêu này, mọi người đổ xô ra sân, sững sờ khi trông thấy Tư Không Mã đứng dưới cổng.

Anh ta chẳng phải đã chết rồi sao. Lã Bất Vi vừa lập ban thờ cho anh ta, làm sao anh ta lại có thể xuất hiện được? "Đúng là ma, có ma". Mọi người lần lượt kêu lên rồi chạy vào trong nhà trốn, sợ sệt giương mắt nhìn Tư Không Mã. Tư Không Mã cảm thấy rất kinh ngạc, sau đó hiểu ra, liền tiến lên một bước, cười lớn nói: "Làm gì có ma quỷ nào. Tôi là Tư Không Mã đây!"

Có người nói: "Không đúng, ngươi không phải là Tư Không Mã, là ma". Để phòng "ma" đột nhiên xông đến, rất nhiều người vác cung, kiếm, gậy gộc ra. Không rõ tiếng ai hét lên: "Hãy dùng tên bắn chết con ma này đi". Tư Không Mã vội nhảy tránh vào cái hốc ở cửa kêu lên: "Đừng bắn, đừng bắn".

Triệu Cơ ở sau vườn, nghe có người hô lên có quỷ, liền chạy ra. Diện mạo và xiêm y nàng mặc vẫn đẹp như trước. Nàng thướt tha trong làn gió thu nhè nhẹ, hỏi xong mới biết là đã xảy ra chuyện gì. Nàng nghĩ lại, trứoc khi Lã Bất Vi đi Hoặc Dương đã dặn: "Mọi việc đều cần phải thận trọng, khi ngủ cũng cần phải mở một mắt". Nàng thấy chuyện này thật lạ, giữa thanh thiên bạch nhật làm sao lại có quỷ được đây? Nếu đúng là có ma, thì trốn cũng không thoát được,sợ cũng chẳng ích gì, nghĩ vậy nàng liền kêu lên: "Ai là ma thì hãy ra đi, ta muốn hỏi ngươi, đừng sợ, chúng ta sẽ không hại ngươi đâu!"

Tư Không Mã vừa nghe thấy tiếng của Triệu Cơ, vô cùng cảm động liền nhảy ra, ngẩng cao đầu nói: "Triệu Cơ, ta không phải là ma, ta là Tư Không Mã". Triệu Cơ lại hỏi: "Ngươi là Tư Không Mã ư? Chẳng phải Tư Không Mã đã bị quân Tần giết chết ở Trường Bình rồi sao?"

Thế là Tư Không Mã cất cao giọng kể lại việc chàng ở Trường Bình làm thế nào thoát chết, cùng với Triệu Hoảng đi tạ ơn Khương Đào Hoa ra sao, rồi làm sao gặp được Lã Bất Vi và Dương Tử. Triệu Cơ nghe xong thấy hợp tình hợp lý. Nàng đã nghe nói: "Ma thì không có bóng, chỉ có người mới có bóng". Nàng liền bảo Tư Không Mã: "Nếu ngươi nói ngươi là Tư Không Mã, là người thì phải có bóng, ngươi qua đây ta xem". Tư Không Mã tiến lại, trông thấy rõ cái bóng của mình dài ra rõ ràng trên mặt đất. Mọi người hồi hộp thò đầu ra nhìn theo cái bóng của Tư Không Mã di động trên mặt đất. Triệu Cơ mạnh dạn tiến lại gần, nhìn cái bóng di chuyển theo Tư Không Mã để phán đoán là người hay là ma.

Nàng nhìn rõ cái bóng đem của Tư Không Mã in trên nền đất, sau đó nhìn rõ khuôn mặt quen thuộc, đôi mắt đã từng nhìn nàng chan chứa tình cảm. Chàng làm sao là ma được, chàng nhất định là Tư Không Mã rồi!

Tư Không Mã nói: "Triệu Cơ, ta không phải là Tư Không Mã sao? Ta là Tư Không Mã, tất cả những gì xảy ra trước đây ta đều nhớ rất rõ". Triệu Cơ hỏi: "Vậy ta hỏi ngươi, cái đêm trước khi ngươi đi Trường Bình ngươi đã ở đâu, làm gì?". Tư Không Mã có phần xấu hổ nói: "Triệu Cơ, nàng đừng hỏi nữa, có những chuyện tình cảm thật khó nói ra".

Câu nói này đã chứng minh Tư Không Mã nhớ tất cả những gì xảy ra trong đêm đó. Triệu Cơ xúc động, nghẹn ngào nói: "Mọi người hãy ra đi, Không Mã đại ca của chúng ta đã trở về rồi".

Sau khi gặp lại mọi người trong Lã phủ, Tư Không Mã liền đến Liêu Cảng gặp Dị Nhân. Tư Không Mã nhìn kỹ Dị Nhân một lượt, nghĩ đúng là người không thể nhìn tướng mạo xét đoán, nước biển cũng không thể dùng đấu để đong. Người này hai hàng lông mày không tập trung, mắt thì lồi đúng là Tần vương tôn rồi, Lã Bất Vi đã dặn chàng, phải bảo vệ người này. Dị Nhân và Chu Kiểm thấy Tư Không Mã đến thì rất vui mừng, nét mặt tỏ vẻ hân hoan, hơn nữa cũng đỡ cảm thấy cô đơn. Sau lần Dị Nhân bị làm nhục, không dám ra ngoài sợ lại gặp phải phiền phức mới. Bọn họ chỉ mỗi một việc là chơi cờ, lúc đầu là hai người, sau đó là ba người, có lúc gọi cả Công Tôn Càn đến làm vài ván, hai người "giết nhau", hai người ở ngoài xem "chiến". Kỳ thực Tư Không Mã không có hứng thú cờ vây nhưng vì ở nhà trọ cả ngày lại không có trò gì để tiêu khiển, đành phải làm thân phận phục vụ Dị Nhân chơi cờ, chàng cố tập tính nhẫn nại, điều binh khiển tướng để hạ đối phương. Công Tôn Càn từ trước đều ăn hối lộ, không chỉ không lạnh nhạt như trước mà có lúc còn cùng bọn Dị Nhân tụ tập bày trò tiêu khiển. Nhưng đại cục, ông ta biết mình cần phải có lập trường kiên định, phương hướng rõ ràng như thế nào. Nếu Dị Nhân ngươi muốn chạy trốn, thì ta cũng không thể làm ngơ, phải tùy cơ quyết đoán, phải bẩm báo, phải ngăn cản. Trong thời khắc then chốt nếu cần cũng phải dồn người đến chỗ chết.

Chơi cờ đến nỗi chán ngán rồi, Tư Không Mã cùng với Chu Kiểm lần lượt ra phố xem quang cảnh mọi người mua bán tấp nập, không khí nhộn nhịp khiến họ không muốn quay về. Chu Kiểm là người có tâm kế, không phải có thú nhàn tản mà đi ra phố, mà muốn bỏ ít tiền lẻ ra để lấy tiếng tăm. Trông thấy những kẻ nghèo khó, ăn mặc rách rưới chìa tay xin cứu giúp, ông liền cho ít tiền rồi tuyên truyền "Công tử Dị Nhân của chúng ta không thể cầm lòng trước cảnh ngộ khó khăn của dân nước Triệu". Nếu gặp phải thương binh què chân gãy tay, Chu Kiểm nói với họ rất khẳng khái: "Vài đồng lẻ này, cũng không làm được việc gì lớn, nhưng cũng coi là thành ý của ta và công tử Dị Nhân đối với công lao bảo vệ tổ quốc của các ngươi". Không lâu tiếng tăm của Dị Nhân nào là nhân đức thương người lan truyền khắp xóm trên ngõ dưới ở thành Hàm Đan, thậm chí mỗi ngày đều có kẻ ăn mày nghèo khó đến quán trọ cầu xin Dị Nhân giúp đỡ. Lúc đầu Dị Nhân lấy làm lạ, sau đó mới biết là Chu Kiểm giúp hắn ta tạo hồng phúc.

Tư Không Mã không giống Chu Kiểm, chàng luôn ở trong nhà toàn tâm toàn ý bảo vệ Dị Nhân. Đặc biệt là khi đánh cờ chàng cũng không rời mắt khỏi thanh kiếm treo trên tường. Khi đi ra phố, chàng chỉ thích xem trò tiêu khiển, chỗ mà người tập trung nhiều nhất diễn trò nhảy múa, chọi gà, chàng xem trăm lần cũng không thấy chán. Chàng thích nhất là xem chọi gà, hai chú gà mặc áo sặc sỡ, giương những cái cưa sắc nhọn khi nghe tiếng hô, chúng nhảy khỏi vòng tay chủ xông ra quyết liệt. Rất nhanh chúng đã phân thắng bại. Mày đá tao tao đá mày, mấy con bị thua lông lá tả tơi, máu chảy ròng ròng. Cuối cùng cũng có một con thắng trận. Tư Không Mã cảm thấy rất giống binh sĩ trong những trận đấu. Kẻ thua thì căm hận, còn kẻ thắng lại ăn mừng khi dồn đối thủ đến chỗ chết.

Mấy hôm nay, có một người làm trò ảo thuật dạy rắn trên phố khiến Tư Không Mã bị hút hồn, xem mãi không chán. Đã xem đến ba lần mà chàng cũng không chú ý đến bộ mặt của người huấn luyện rắn. Chàng chỉ để ý đến những con rắn ngóc đầu ngoe nguẩy trên cổ, lên vai, lên tay chủ nhân. Người huấn luyện rắn như một khúc nam châm hút chặt lấy những con rắn, trườn lên người anh ta mà không hề rơi xuống. Có lúc lại cho những con rắn dài hơn một mét bò vào trong cổ họng, chỉ thò một đoạn đuôi ngắn ở ngoài, sau đó lại từ từ lòi ra khỏi miệng. Sự trình diễn của anh luôn làm người xem phải trầm trồ thán phục. Càng khiến Tư Không Mã khâm phục hơn là người huấn luyện rắn này không giống với những thuật sĩ trên giang hồ, sau khi diễn một bài rất ngoạn mục, thì xin tiền, bán thuốc, còn người này sau khi diễn xong, mồ hôi nhễ nhại, thì thu dọn sạch sẽ rồi đi. Xem ra, anh ta không phải là giàu có gì, thậm chí có thể nói là bần hàn. Sau khi xem đến hai lượt, Tư Không Mã mới chú ý dưới chiếc nón rách tả tơi là khuôn mặt gầy dãi dầu sương gió.

Về đến nhà trọ, Tư Không Mã không ngớt ca ngợi tài nghệ của người luyện rắn với Dị Nhân, Chu Kiểm và Công Tôn Càn. Đối với một Chu Kiểm không có hứng thú gì lắm với trò này cho nên ông ta chỉ nghe mà thôi. Còn Dị Nhân thì có vẻ rất ngưỡng mộ, muốn tận mắt chứng kiến, nhưng chỉ sợ ra cửa không được xem đã lại gặp chuyện rắc rối đến thân.

Tư Không Mã rất hiếm khi quay về Lã phủ, một là chàng không muống giáp mặt Triệu Cơ. Sống ở đây, chỉ có đôi chút khó chịu, ấy là cứ đến tối, khi nằm trên giường, Dị Nhân và Chu Kiểm lại đòi anh ta kể chuyện, làm phiền mãi không thôi. Chỉ đến khi Tư Không Mã đã khô rát cả họng, mắt díp lại thì họ mới buông tha. Mấy hôm nay, họ không hay kể chuyện cho nhau nghe nữa mà thường nhắc tới việc Lã Bất Vi tại sao mãi chưa thấy về. Không hiểu ông ta có bình an đến được Hoặc Dương hay không, ông ta có gặp được chị em Hoa Dương như dự tính không, không biết nước Tần có cho ông ta là gián điệp, thích khách nước Triệu phái tới mà bắt giam không, không biết ông ta có đem được tin mừng gì về không?

Màn đên tịch mịch, lũ dế quanh tường xướng lên những tiếng ca râm ran, Tư Không Mã lặng lẽ trôi vào giấc ngủ, có một con rắn từ khe song cửa thở lửa phì phì, từ từ bò vào. Có lẽ hôm nay xem người ta biểu diễn rắn nhiều quá cho nên ngay cả khi nằm mơ cũng thấy rắn. công tử điện hạ rắn đã trườn tới mép chăn gần đầu Tư Không Mã, anh ta đã cảm thấy lạnh gáy, lúc này mới biết không phải là mình nằm mơ. Tư Không Mã chộp lấy con rắn quay mạnh mấy vòng rồi ném xuống đất. Theo bản năng anh ta nhìn ra ngoài cửa sổ, lại một con rắn nữa đang bò vào. Bỗng có bóng người vọt qua. Tư Không Mã theo phản xạ nhảy xuống giường, với thanh kiếm treo trên tường, nói nhỏ với Chu Kiểm: "Không xong rồi, dậy mau, có thích khách!"

Tư Không Mã và Chu Kiểm rút gươm xô cửa xông ra, cũng vừa lúc tên thích khách xông tới. Người này đội chiếc nón tre, che kín gần khuôn mặt. Nhớ lại con rắn vừa bò vào trong phòng thì biết thích khách là kẻ hay biểu diễn trò rắn ở chợ.

Tư Không Mã cùng Chu Kiểm vừa giao đấu với thích khách vừa hỏi: "Ngươi là ai, tại sao đến hành thích bọn ta?". Tên thích khách vừa đánh lại vừa trả lời: "Ta là thích khách nước Tần!"

Mới chỉ vài hiệp tên thích khách đã bị Tư Không Mã đâm trúng tay trái và gục xúông. Tư Không Mã cùng Chu Kiểm ghì chặt thích khách, nói với Dị Nhân lúc này cũng đã bừng tỉnh: "Công tử điện hạ, có thích khách, mau lấy dây thừng trói hắn lại". Ba người trói chặt tên này lại giải vào phòng trong. Dưới ánh sáng trắng của ngọn đèn, Tư Không Mã nhìn rõ bộ mặt của tên thích khách, đúng là tên biểu diễn rắn. Thấy vết thương trên tay hắn vẫn đang chảy máu, Tư Không Mã xé một mảnh vải ở tấm chăn băng vết thương cho hắn. Tư Không Mã hỏi: "Ngươi là ai?". "Thích khách nước Tần". "Ai phái ngươi tới?". "...". "Tại sao muốn giết bọn ta?". "...". "Ngươi tên là gì? Tại sao không nói? Nếu không nói ta sẽ giết ngươi!"

Mặc dù họ đã dùng mọi cách chất vấn, đe dọa nhưng tên thích khách chỉ nói: "Ta là thích khách nước Tần", sau đó thì mặc kệ, mặt lộ vẻ bất cần, coi cái chết như không. Dị Nhân chủ trương đem tên này giết quách đi. Chu Kiểm lại nói cần phải làm rõ chân tướng của hắn sau đó giết cũng chưa muộn. Ý của Tư Không Mã là đợi Lã Bất Vi về rồi quyết định. Ba người bọn họ bàn đi bàn lại, quyết định giấu hắn vào một chỗ ít người biết trong Lã phủ, đợi Lã Bất Vi về rồi xử lý tiếp. Để không gây sự chú ý của mọi người, họ nhét giẻ vào mồm hắn, đưa tới Lã phủ. Vừa mới ra đến cổng, gặp Công Tôn Càn từ trong tẩm thất ra, mắt nhắm mắt mở hỏi: "Đêm hôm khuya khoắt thế này, sao mọi người cứ ra ra vào vào thế?"

Tư Không Mã nói: "Săn được con chó hoang, mang sang Lã phủ, ngày mai nhắm rượu".

Chiếc xe lọc cọc chạy trên con đường nhỏ, tên thích khách giãy giụa trong chiếc bao tải. Tư Không Mã và Chu Kiểm túm chặt miệng túi, mọi sự cố gắng của tên thích khách đều vô ích. Tư Không Mã và Chu Kiểm bàn bạc trên xe, đến Lã phủ sẽ nhờ Triệu Cơ giúp đỡ.

Một hồi lâu mới đến Lã phủ, tên sai dịch thấy Tư Không Mã liền mở cửa cho xe đi vào, miệng lẩm bẩm: "Đêm khuya thế này, chở cái gì thế?". Anh ta hỏi xong cũng không nhìn vào trong xe mà vội đi đóng cổng.

Tư Không Mã cho xe dừng lại ở một chỗ vắng vẻ, rón rén đến dưới cửa sổ của phòng Triệu Cơ, gõ nhẹ nhưng gấp gáp.

Một lát, bên trong mới có tiếng: "Ai đấy?". Tư Không Mã đã nghe thấy giọng sợ hãi của Triệu Cơ. "Tôi. Tư Không Mã đây". "Có chuyện gì để sáng mai hãy nói". "Gấp lắm. Phu nhân ra ngay, việc này quan hệ đến tính mạng!". "Để đến mai đi". "Không được, sẽ hỏng việc mất. Lã đại nhân về sẽ lấy cái đầu của chúng ta!". Tư Không Mã dường như nghe thấy tiếng mặc quần áo lột xột, lát sau Triệu Cơ vén rèm bước ra. Tư Không Mã thở phào nói: "Phu nhân nghĩ tôi là quỷ chắc?". Triệu Cơ hỏi: "Thật có chuyện gì sao?"

Tư Không Mã đem những việc vừa xảy ra nói qua cho Triệu Cơ nghe, nhờ Triệu Cơ tìm cho một cái nhà kho, đem tên thích khách giam vào trong, đợi Lã Bất Vi về để truy ra ngọn nguồn.

Triệu Cơ biết rõ việc Lã Bất Vi muốn lập Dị Nhân làm thế tử, liền tìm cho Tư Không Mã một gian nhà kho chứa lương thực đã cũ ở phía bắc sau sân, nhốt tên thích khách vào trong khóa lại.

Tư Không Mã dặn: "Tên này bị thương, phu nhân cần đắp thuốc cho hắn và cho hắn ăn, đừng để hắn chết đói". Triệu Cơ gật đầu nói: "Được rồi". Tư Không Mã lại nói: "Mọi việc phải cẩn thận, đừng để người khác chú ý. Tôi thỉnh thoảng sẽ qua đây giúp phu nhân". Triệu Cơ nói: "Ngươi ở hẳn đây, ta sợ". Tư Không Mã nói: "Không sao, chúng tôi trói hắn rất chặt, sẽ không có sơ sẩy gì đâu".

Hôm sau, Triệu Cơ mang thuốc và một chút thức ăn vào trong nhà kho, ánh sáng lờ mờ bên trong khiến người ta cảm thấy ngạt thở. Lúc đầu, Triệu Cơ không dám tới gần hắn, chỉ đứng một bên len lén nhìn anh ta. Chỉ khi thấy hai tay anh ta bị trói ngược, co rúm lại nơi góc tường, Triệu Cơ biết chắc rằng anh ta không thể làm hại mình mới tiến tới trước mặt anh ta xoa thuốc và bón cơm.

Anh ta không hề từ chối.

Mọi việc kết thúc, hai người cùng nhìn nhau một lúc nhưng không hề tỏ thái độ gì. Ngày hôm sau, hôm sau nữa cũng như vậy. Ngày thứ tư, như mọi khi Triệu Cơ vừa xoa thuốc và cho hắn ăn xong, vừa toan đi thì anh ta nói: "Nếu có thể, phiền cô hãy cho tôi một tấm chăn, ban đêm tôi lạnh quá không ngủ được".

Triệu Cơ động lòng trắc ẩn, hôm sau mang đến cho anh ta một chiếc chăn. Cô rất lấy làm lạ, không biết anh ta đến từ đâu, tại sao anh ta lại muốn giết Dị Nhân. Triệu Cơ đem những điều này ra hỏi anh ta, ngoài câu: "Tôi là thích khách nước Tần" ra, anh ta không nói gì nữa.

Chẳng bao lâu, những việc làm của Triệu Cơ đã bị Hoàng Phủ Kiều phát hiện.

Từ khi Triệu Cơ ra khỏi nhà giam, những thành kiến của cô ta với cô ngày càng tăng. Cho rằng Triệu Cơ không chỉ cướp đi lòng sủng ái, mà còn làm bại hoại của cải của gia đình. Lã Bất Vi không có nhà, nhất cử nhất động của Triệu Cơ đều bị Hoàng Phủ Kiều giám sát chặt chẽ. Cho tới một hôm, Hoàng Phủ Kiều thấy Triệu Cơ lén lén lút lút đem cơm về phía bắc sân, sau đó sợ hãi đi về phía nhà kho kia. Cô ta cảm thấy rất kỳ quặc, đợi sau khi Triệu Cơ đi khỏi mới lặng lẽ đến điều tra. Thấy cửa nhà kho đã khóa, cô ta liền dòm qua cửa sổ. Khi lờ mờ thấy một người đàn ông nằm đắp chăn ở góc tường, cô ta sướng quá suýt chết ngất. Cuối cùng cô ta đã tóm được cái đuôi của Triệu Cơ. Cái con yêu tinh này, dám nhân lúc Lã Bất Vi đi vắng đã nuôi một kẻ lang thang để vụng trộm tình cảm, tội không thể tha thức được.

Cảnh tượng trước mắt đã kích thích trí tưởng tượng của Hoàng Phủ Kiều. Cô ta muốn đi ra phố gào to cho mọi người biết, cho cái phủ này biết. Không, phải cho tất cả mọi người trong thành Hàm Đan này biết, xem cái con bé Triệu Cơ bề ngoài thì đạo mạo mà bên trong lại xấu xa đồi bại, làm băng hoại cả thuần phong mỹ tục này.

Cô ta định bù lu bù loa lên, nhưng lại thấy hành động như vậy là thiếu suy nghĩ, tục ngữ có câu: "Bắt trộm bắt tang vật, bắt gian bắt cả đôi". Bây giờ vẫn chưa bắt được quả tang, Triệu Cơ lại chối cãi thì làm thế nào? Hơn nữa, Lã Bất Vi lại không tận mắt nhìn thấy. Cô ta cần phải để Lã Bất Vi thấy cảnh Triệu Cơ và tên nghiệt chủng đó hoan lạc, cho Lã Bất Vi mất hết thể diện, và cuối cùng phải dằn lòng đuổi con yêu tinh này ra khỏi cửa...

Mỗi tối Hoàng Phủ Kiều lại nằm trên giường như chiếc bánh trong nồi, lăn bên nọ lại lật bên kia chịu sự dày vò của thời gian. Trong lòng cô ngày đêm cầu khẩn: "Lã đại nhân, ngài mau về đi".

Mùa thu đem cái lạnh phủ đầy dòng sông Vị Thủy, cuối cùng thì cái lạnh lẽo, thê lương đã kề gần An Quốc quân Doanh Trụ. Vị công tử tuổi đã gần năm mươi này bị mắc chứng hen suyễn, cứ đến giữa thu bệnh của ông ta lại trầm trọng.

Đờm kết đặc trong cổ, ông ta khò khè khạc nhổ vào trong chiếc bình trên tay người nữ tì. Dù vậy ông ta vẫn lọm khọm cùng với người cha già nua ốm yếu Chiêu Tương vương của mình xử lý triều chính. Với tinh lực không lấy gì làm dồi dào, ngày đêm cùng với phụ thân phê đọc đến tấu chương của các đại thần và hỏi han không ngớt. Hai năm trước, Chiêu Tương vương còn khoẻ, ông đã không cho Doanh Trụ tham chính. Vị Thái tử này như một đôi giày rách bị bỏ xó. Bây giờ không thể như thế được nữa. Chiêu Tương vương không thể cưỡng được tuổi già. Ông ta không chỉ cần con trai gánh vác, nhắc nhở lập kế hoạch mà còn phải chỉ bảo, dạy dỗ Doanh Trụ nếu như muốn cai quản giang sơn nước Tần. Vậy nên, thời giờ Doanh Trụ và Hoa Dương ôm ấp bên nhau không được nhiều như trước nữa. Hôm nay liều thuốc tiêu viêm của thái y có vẻ như rất có hiệu quả. Cái họng của ông ta trở nên thông thoáng như ruộng hoang sau khi được nhổ sạch cỏ. Buổi triều hôm nay bãi sớm, ông như con thú đói vồ vập lấy Hoa Dương phu nhân.

Giờ đây, cái mà Hoa Dương phu nhân cần không phải chỉ là sự khoái lạc được sinh ra sau khi được thỏa mãn dục vọng từ một người đàn ông, nó là niềm hạnh phúc bột phát trong chốc lát. Cái cô cần là hạnh phúc ổn định vĩnh hằng. Đó chính là việc khiến An Quốc quân đồng ý lập Dị Nhân làm Thái tử. Lúc này, ở nơi Hàm Đan xa xôi như Dị Nhân hay ở gần kề bên cạnh như Hoa Dương phu nhân, hay đứng ngồi không yên ở trong phủ như Hoa Dương quân, và đang ở trong nhà khách như Lã Bất Vi đều đang tưởng tượng tới thái độ, cử chỉ của Doanh Trụ trước vấn đề này, chờ đợi một lời nói sẽ quyết định lịch sử của ông ta. Đây là việc lớn quyết định đến sự hưng thịnh, suy vong cũng như sự sống còn của họ.

Theo bước chân gấp gáp của Doanh Trụ đi về phía lầu loan ô, tâm trạng của Hoa Dương phu nhân cũng bồn chồn lo lắng. Cô ta cùng với Doanh Trụ làm tình với nhau một cách suồng sã, như những buổi sáng với buổi chiều mà cô ta đã trải qua. Cô luôn tỏ ra thành thạo, đón tiếp ông không hề vồn vã. Hôm nay, Hoa Dương phu nhân lại cảm thấy căng thẳng, ngoài những chiêu thức của đàn bà như chiều chuộng, ngọt ngào hay hờn dỗi ra, liệu còn có cách gì hữu hiệu hơn để khiến Doanh Trụ dễ dàng chấp nhận lập Dị Nhân làm Thái tử hay không?

An Quốc quân vừa vào đến cung của Hoa Dương phu nhân đã vội hỏi: "Người đẹp của ta, hòn ngọc của ta, đêm qua nàng đã mơ thấy gì?". "Điện hạ, thần thiếp nằm mơ thấy khí sáng đầy trời, tống tử nương nương cho thần thiếp một đứa con". Hoa Dương nói. "Đứa con? Không lẽ nàng đã có thai, nàng sẽ sinh hạ cho ta hoàng tử thứ hai mươi tư?". An Quốc quân vui vẻ nói. "Không phải đứa bé mà là một thiếu niên tinh anh". Hoa Dương giải thích. An Quốc quân nói: "Chẳng cần biết bà ấy tặng nàng cái gì, để ta tặng cho nàng một chút ấm áp".

Thế là hai đôi giày quăng xuống dưới chân giường. Những cảm giác ngây ngất, đê mê, vờn vũ mây mưa. Trời đất tương hợp, càn khôn tương giao.

Đêm nay, Hoa Dương có việc muốn cầu xin An Quốc quân nên hết sức chiều chuộng, còn vị Thái tử đa tình thì muốn thử loại thuốc hồi xuân xem có linh diệu đến mức nào, và quả thực ông rất sung mãn.

"Điện hạ, đôi chim uyên ương kia vui say quấn quýt, tình cảm dạt dào, nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang! Sự ân sủng của điện hạ đối với thần thiếp, thiếp xin nguyện kiếp sau làm trâu ngựa cũng khó đền đáp hết được". Hoa Dương thăm dò tình cảm của Thái tử đối với mình sâu đậm đến mức nào. "Không cần đợi đến kiếp sau! Kiếp này không có nàng ta cũng sẽ chẳng còn thiết sống nữa". Thái tử nói.

Sau cơn "mưa gió" lần thứ hai, Hoa Dương lòng yêu của Thái tử chưa thoả, bèn nũng nịu nói: "Điện hạ ân chuẩn cho thần thiếp một việc, thần thiếp sẽ khiến cho điện hạ được thỏa mãn!". "Được! Mọi yêu cầu của nàng ta đều đồng ý!". Thái tử nói. "Điện hạ, thần thiếp vô tài vô đức, được sung vào hậu cung, may mắn được hầu hạ điện hạ. Bất hạnh không có con, thần thiếp thấy trong các hoàng tử duy có Dị Nhân hiếu đức nhất, năm năm trước xin đi làm con tin nước Triệu. Năm năm qua, giải nguy cứu nạn được tấm biểu "Hiền đức ân công", cứu giúp dân chúng, được nhân dân tôn kính; kết giao với bổn công tử các nước, chiêu nạp môn khách hơn ngàn người. Tân khách các nước ngợi khen không ngớt, nếu nhận nó làm đích tử thần thiếp cũng được nhờ". Thái tử đương lúc vui say, vội vã đồng ý.

Hoa Dương phu nhân tiếp luôn: "Hôm nay điện hạ ân chuẩn, ngày mai lại nghe lời các cung phi khác, e rằng sẽ quên những lời đêm nay". Thái tử nói: "Phu nhân chưa tin, nguyện khắc Phù làm thề"

Thái tử nói xong bèn lấy ngọc Phù sai người khắc bốn chữ "Đích tự bị nhân", sau đó chia làm hai phần. Thái tử và Hoa Dương mỗi người giữ một nửa, lấy vật đó làm tin.

Tử Hề đờ đẫn đứng trên thềm cửa sơn đỏ của phủ đệ, gió thu thổi mạnh làm xoã tóc và vén tung tà áo làm anh ta cảm thấy cái lạnh như cắt vào xương thịt. Một ngày, anh ta thấy khuôn mặt của mình hiện ra đôi chút đặc điểm giống phụ thân An Quốc quân. Trên khuôn mặt tròn trịa có cài mũi đẹp bằng, đôi mắt to ánh sáng không bao giờ tập trung đầy đủ trên con ngươi. Khi nhìn lên hầu như không có sinh khí, những hình tượng này khiến người ta cảm thấy đây là người không có tài năng, ủy mị. Kỳ thực không phải như vậy, anh ta là một công tử mạnh mẽ hiếu thắng, dũng cảm, có chí tiến thủ.

Tử Hề cho rằng tự mình từ sớm đã mang trọng trách của thiên hạ đặt lên vai trở thành Thiên tử. Anh ta là đích trưởng lại không giống lũ công tử khuyển mã khác, một lũ chỉ là những bình cơm, túi rượu không có chút học thức, tài năng gì. Vậy mà phụ thân An Quốc quân còn tù mù không rõ, cho hai mươi ba vị công tử trơ mắt ra nhìn ngôi vị Thiên tử. Không ai ngờ được rằng, bỗng nhiên lại đưa cái tên Dị Nhân làm con tin ở Hàm Đan xa xôi lên ngôi vị thế tử. Thật là gà chiếm được tổ phượng! Cá nằm ổ rồng! Dị Nhân đến nước Triệu thoắt đã được mấy năm, phụ thân có biết bao người trong cung từ lâu đã quên mất anh ta. Chỉ khi đến ngày lễ ngày tết, lúc đi săn họa hoằn có ai nhắc đến, những câu đại loại như "Dị Nhân đi đã được ba năm rồi", "Anh ta mà có mười mũi tên thế nào cũng bắn được một con nai", "Công tử ở Hàm Đan có tin tức gì về không?". Hoặc như nhìn thấy bộ mặt lạnh lẽo của Hạ Cơ, mọi người mới ý thức được rằng vị Thái tử phi bị thất sủng này còn có một công tử ở nước Triệu. Mọi người trong cung khi nhớ tới khuôn mặt của Dị Nhân đều cảm thấy lờ mờ như một làn sương mỏng, có thể nói người ta đã nhanh chóng quên đi vị công tử đi làm khách ở nơi đất khách quê người này. Vậy mà Tử Hề lúc nào cũng nhớ đến diện mạo của người em cùng cha khác mẹ ấy, nó không phải là tình cảm anh em mà là cảm giác bản năng. Dị Nhân sẽ trở thành trở ngại và đối thủ cạnh tranh ngôi vị thế tử của mình. Tử Hề mời thầy bói xóc quẻ đoán về việc lập Thiên tử. Thầy bói nói cho Tử Hề biết rằng anh ta muốn làm thế tử rất gian nan. Tử Hề hỏi thầy bói nguyên nhân từ đâu. Thầy bói chỉ nói bốn chữ "Ngư mục hồn chu". Tử Hề đã nghĩ ra, đôi mắt của Dị Nhân chẳng phải giống như mắt con cá lồi ra bên ngoài hay sao? Tử Hề thăm hỏi biết được rằng cái tên biểu diễn rắn Hoàng Phủ Nghĩa đã đến Hàm Đan được mấy ngày. Tử Hề hy vọng chờ đợi, giờ xem ra, cái tên Hoàng Phủ Nghĩa ấy nếu chưa động thủ thì cũng không thành công. Dị Nhân đúng là hưng vượng phát đạt, nếu không Lã Bất Vi đã chẳng vượt ngàn dặm xa xôi tới Hoặc Dương để lo cho hắn làm Thiên tử.

Tin tức đầu tiên được truyền ra từ trong phòng Ngự Thiện của An Quốc quân. An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân mở tiệc mời Lã Bất Vi, phái gia tướng xuống nha bếp chuẩn bị, đồng thời dặn nhà bếp phải làm thật thịnh soạn. Nhà bếp hỏi khoản đãi ai, gia tướng nói là Lã Bất Vi. Bọn nhà bếp nói: đó chẳng phải là tên thương nhân gian trá nước Vệ hay sao! Gia tướng nói: Không thể đối đãi với Lã Bất Vi tùy tiện được, ông ấy là đường đường chính chính là Thái phó; một khi Dị Nhân làm Tần vương, thầy giáo của vị Thái tử sẽ nắm trong tay đại quyền. Gia tướng đã nói tất cả dự tính của quá trình Lã Bất Vi đến Hoặc Dương mưu tính ngôi vị Thiên tử cho Dị Nhân phác họa ra.

Chẳng bao lâu, Phạm Tuy cũng nhận được tin này từ người hầu gái Tiểu Song của Hoa Dương phu nhân.

Với Tử Hề việc này khác nào trời long đất lở, khiến anh ta trở tay không kịp đối mặt với sự ảm đạm tăm tối của số phận. Anh ta hận Dị Nhân, hận Lã Bất Vi, hận Hoa Dương phu nhân và Hoa Dương quân, thậm chí cả người cha Doanh Trụ của anh ta. Anh ta không đang tâm trơ mắt nhìn cái ngôi vị Thiên tử đáng lẽ thuộc về anh ta lại bị người khác cướp đi như thế, anh ta muốn tranh giành, giành lại những gì đã mất. Thà làm ngọc nát còn hơn ngói lành.

Trong gió thu xào xạc, Tử Hề giống như chiếc lá chao liệng bay về phía phủ Tướng quốc. Anh muốn cùng Phạm Tuy, Đỗ Thương nghĩ ra kế sách cứu vãn tình thế, không thể để Dị Nhân dễ dàng ngồi vào ngôi vị Thiên tử cao quý kia.

Tử Hề nghiến răng nghiến lợi nói: "Tôi muốn bỏ tiền ra thu thập thích khách, một người không được hai người, hai người không được ba người, phái họ tới Hàm Đan. Để có một ngày Dị Nhân sẽ chết dưới đao kiếm!"

Phạm Tuy nói: "Phái thích khách cũng không phải kế vẹn toàn. Một là thích khách hành động ở nước ngoài không thuận lợi; nếu là loại tham sống sợ chết thì sẽ cuỗm đi số tiền của ngài mà không hẹn ngày trở lại, hai là Lã Bất Vi không phải loại tầm thường. Ông ta cũng đã thu mua không ít giáp sĩ võ nghệ cao cường bảo vệ Dị Nhân.

Đỗ Thương nói bằng một giọng lạnh tanh: "Vậy thì chúng ta đành ôm gối chịu chết hay sao?"

Ông ta và Tử Hề nhìn Phạm Tuy với ánh mắt trông đợi. Phạm Tuy thở dài ngao ngán nói: "Khó lắm!". Vị lão Tướng quốc lắm mưu nhiều kế này lúc này cảm thấy không có kế sách gì khả thi. Ở nước Tần, Tướng quốc không có nhiều quyền lực thực tế, quyền binh đều do quốc quân chi phối, không giống như sáu nước Quan Đông, xuất hiện hiện tượng quyền lực trong tay Tướng quốc hoặc Tướng quốc khanh đại phu chiếm vương thất. Ở nước Tần chỉ có hai lần ngoại lệ, một là khi Tần Hiếu công thực hiện biến pháp Thương Ương tương đối nới tay, cho ông ấy nhiều quyền lực, lần thứ hai Lã Bất Vi sau này do Tần vương Doanh Chính còn nhỏ mà nhiếp chính,, nhưng kết cục của hai người đều hết sức bi thương, một người bị ngũ mã phanh thây, một người bị đày đọa tuyệt thực mà chết. Đỗ Thương đó cho dù Phạm Tuy là Tướng quốc nhưng trước những việc trọng đại, ông thường không có giải pháp nào.

Ba người trầm ngâm hồi lâu, Phạm Tuy mới nói: "Tôi có cách này, đó là nước đặt Lã Bất Vi vào chỗ chết, cắt đứt liên lạc giữa Dị Nhân ở Hàm Đan với Hoặc Dương". Tử Hề nói: "Trước tiên phải nhổ hết lông cánh của nó, một cây thì chẳng thành rừng, một mình Dị Nhân cũng khó làm gì được". Đỗ Thương hỏi: "Cụ thể làm thế nào?". Tử Hề nói: "Thủ hạ của tôi nuôi mấy thích khách giỏi, cử tên nào đi cũng được".

Phạm Tuy lắc đầu: "Kế của tôi là dùng binh không đổ máu. Lã Bất Vi đang ở chỗ Hoa Dương quân, đã là thượng khách của chi em họ. Đi đâu thì tiền hô hậu ủng, ở thì có trọng binh bảo vệ, không dễ tiếp cận. Trong phủ tôi có vị quan cẩu sĩ chuyên huấn luyện chó, có hai con chó to lớn rất dũng mãnh, hiểu tính người. Tôi muốn tạo một người nộm, thân hình, quần áo giống Lã Bất Vi, để vị cẩu sĩ này dạy hai con chó đó. Sau đó thả nó đi cắn chết Lã Bất Vi. Như vậy chỉ có thể nói là chó dại cắn chết người, không ai có thể nghi ngờ, truy cứu".

Tử Hề nghe nói trong phủ Phạm Tuy có hai con chó dữ, to như con ngựa, răng sắc như gươm, dũng mãnh vô cùng, có thể đuổi chó đuổi hổ. Nhưng Tử Hề cảm thấy hai con chó này không dễ gì vào được phủ Hoa Dương quân.

Phạm Tuy nghe Tử Hề nói xong nỗi lo lắng của mình, cười nói: "Đến phủ Hoa Dương quân không phải việc của hai con chó. Tôi sẽ mời Lã Bất Vi đến phủ của tôi, trong tiệc rượu nhân lúc Lã Bất Vi nửa tỉnh nửa say không đề phòng sẽ thả hai con chó ra". Tử Hề hỏi: "Tướng quốc có thể mời được Lã Bất Vi sao?"

Đỗ Thương nói: "Dự tiệc trong phủ Tướng quốc chẳng phải là vinh dự lớn lắm sao? Sợ rằng ông ta cầu mà không được".

Phạm Tuy nói: "Tôi vẫn chưa từng gặp vị phú thương này, tôi muốn đích thân tới chỗ Hoa Dương quân mới. Tôi nói, quý thương ở Hàm Đan chăm sóc Thái tử điện hạ chúng tôi, vì việc lập tự mà lo lắng vất vả, công lao hơn núi, tôi với tư cách là Tướng quốc nước Tần xin đước đáp tạ ngài. Tôi nghĩ Lã Bất Vi không có lý do gì để từ chối, nhất định sẽ đến". Tử Hề nói: "Tướng quốc phải chú ý cách ăn mặc của ông ta để dụng hai con chó". Đỗ Thương nói: "Công tử điện hạ, chút việc nhỏ này công tử chớ nên lao tâm khổ tứ. Tướng một nước, làm sao không rõ chuyện này!"

Phạm Tuy để tên quan giảo sĩ giả làm người hầu, cùng đến phủ Hoa Dương quân mời Lã Bất Vi. Khi Phạm Tuy nhìn thấy Lã Bất Vi trong phòng khách Hoa Dương quân, bất giác run lên lạnh toát: Tướng mạo kỳ vĩ, khuôn mặt rộng ngay ngắn, sáng, đôi mắt thông thái, sáng sủa hữu thần; mũi thẳng miệng vuông, bộ râu ngắn được tỉa tót ngay ngắn lộ vẻ trang nhã. Đầu cài trâm, mặc áo tím, thắt đai ngọc.

Ngắm nhìn qua Lã Bất Vi, Phạm Tuy nghĩ: "Người này tướng mạo phi phàm, cần phải giết chết hắn!"

Sau khi đã đả thông danh tính, nói chuyện với nhau một lúc, Phạm Tuy liền nói rõ ý của mình. Lã Bất Vi không chút do dự, vui vẻ đồng ý.

Phạm Tuy hỏi "Không biết quý thương lưu lại Hoặc Dương bao lâu, tôi muốn chọn ngày tốt tiễn hành quý thương".

Lã Bất Vi trả lời: "Tôi làm nghề buôn bán đã mười mấy năm cũng có thể nói là đã đi khắp chân trời góc bể, chân đã đặt khắp đất Thần Châu. Nhưng đây là lần đầu tới Hoặc Dương. Phố xá, phong thổ, nhân tình ở đây đã khiến tôi mở mang tầm mắt. Tôi muốn ở lại đây nửa tháng, tụ tập bạn bè, mua bán ít ngọc!"

Phạm Tuy nói: "Vậy thì tốt quá! Quý thương với nước Tần mà nói công lao to lớn, tôi muốn mời quý thương đến tệ phủ ăn bữa cơm, uống ly rượu nhạt, cũng coi là Phạm Tuy có phúc ba đời!"

Lã Bất Vi nói: "Tướng quốc khách khí quá rồi!". Phạm Tuy nói: "Vậy thì buổi trưa bảy hôm nữa, tôi tiễn hành quý thương". Lã Bất Vi nói: "Đa tạ!". Phạm Tuy nói: "Quân tử nhất ngôn, bảy ngày nữa tôi đến phủ Hoa Dương quân đón Lã đại nhân". Lã Bất Vi nói: "Không dám làm phiền Tướng quốc đại nhân, hôm đó tôi sẽ tự đến".

Phạm Tuy về rồi, lập tức phối hợp hành động với tên quan cẩu sĩ. Cho dù thế nào, ông cũng phải giúp Tử Hề đạt ý. Từ thuở khai thiên lập địa, con trưởng luôn làm người thừa tự. Thằng con đầu hoẵng mắt chuột của Hạ Cơ kia văn không xuất chúng, võ trói gà không chặt, Lã Bất Vi và Hoa Dương phu nhân khua môi múa mép mà được ngôi Thiên tử, như vậy khác nào trò đùa! Đạo trời ở đâu? Tông pháp tổ tiên ở đâu? Trước hết Phạm Tuy gọi người làm một người cỏ, gầy béo cao thấp giống như Lã Bất Vi, mọi thứ từ ăn mặc, cử chỉ đều y hệt như của Lã Bất Vi. Lại đem người cỏ này đặt đúng vào chỗ mà Lã Bất Vi cần phải ngồi khi diễn ra yến tiệc. Sau đó lấy hai miếng thịt dụ hai con chó đã để đói một ngày mắt đỏ như máu ra. Trong ánh mắt hoang dại của hai con chó, để hai miếng thịt ở giữa ngực người cỏ kia, hai con chó bỏ qua tất cả xông lên, xô đổ người cỏ, cắn áo và bó cỏ lấy ra hai miếng thịt, ăn sống nuốt tươi.

Phạm Tuy và người huấn luyện chó cho luyện đi luyện lại năm ngày liền. Sau đó chỉ cần dắt hai con cho ra, nhìn thấy hình dáng người nộm Lã Bất Vi là xông tới xé rách ngực, dùng hàm răng nhọn sắc tìm kiếm thức ăn.

Phạm Tuy mời Tử Hề và Đỗ Thương vào trong phủ, xem màn biểu diễn của hai con chó với hình nộm Lã Bất Vi, hai người hết sức hài lòng, miệng khen không ngớt: "Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!". Buổi sáng của ngày thứ bảy, trong phòng khách Phạm Tuy đã chuẩn bị mười mấy bàn sơn hào hải vị, lại còn mời đến các nhạc sư thổi sáo, ca múa, để cho tiếng sáo trúc động lòng người hòa với hương vị thức ăn. Trong khi chờ đợi với vẻ lo lắng bồn chồn, Phạm Tuy trông thấy một chiếc xe lớn màu vàng đã đi vào phủ Tướng quốc, bằng cái giọng run run tự nói với mình: "Đến rồi!"

Xe dừng ở cửa phòng khách, Hoa Dương quân và Dương Tử bước xuống, Phạm Tuy vội vàng chạy tới nghênh tiếp và chờ đợi sự xuất hiện của Lã Bất Vi. Một lát sau, tay chăn ngựa mới đánh xe đi và cho xe dẹp sát vào một bên.

Phạm Tuy buồn rầu hỏi: "Lã đại nhân Lã Bất Vi đâu?". Dương Tử cung kính nói: "Lã đại nhân nhà chúng tôi do có việc buôn bán quan trọng ở Hàm Đan nên ông lập tức phải trở về giải quyết, có thể hôm qua đã về đến nước Triệu rồi. Do không kịp tới chào Tướng quốc đại nhân, nên sai tôi thay mắt đến tạ lỗi".

Phạm Tuy chửi thầm trong bụng: "Gã già buôn bán gian giảo này, trong lòng chắc có sự đề phòng!". Nhưng trên khuôn mặt ông ta vẫn lộ vẻ tiếc rẻ, ông nói dối lòng mình rằng: "Tôi sớm tối mong được ngồi ăn chung bàn, kề gối nói chuyện với Lã tiên sinh và chưa từng nghĩ rằng chỉ vì sự ra đi của Lã tiên sinh mà đã mất hết hy vọng đâu! Tiếc quá! Tiếc quá!"

Hai con chó dữ sau năm ngày bị xích phí công vô ích chẳng thèm đoái hoài tới chuyện gì cứ nằm bò ở trong chuồng.

Trong khi Phạm Tuy đang khổ sở như người câm ăn phải thuốc đắng cùng với Hoa Dương quân và Dương Tử đùn đẩy nhau uống rượu, thì Lã Bất Vi đang vội vàng tiến đến Hàm Đan. Ông hiểu rất rõ rằng, quyền lợi sẽ khiến cho cha con, huynh đệ phản trắc và không tránh khỏi sự chia đàn xẻ nghé, nên ông đã bí mật sớm trốn khỏi Hoặc Dương. Dương Tử được giữ ở lại để khiến cho người khác tưởng rằng Lã Bất Vi vẫn còn ở nước Tần. Cái hôm mà Phạm Tuy tới mời, trong đầu ông đã có ý nghĩ là cần phải dời khỏi Hoặc Dương trước. Đây chẳng phải là ông có biệt tài biết trước mọi chuyện, hiểu rõ được âm mưu đen tối của bọn Phạm Tuy, mà là giống như đã làm xong những lời ông đã từng cảnh báo với Triệu Cơ, bất kể chuyện gì cũng cần phải thận trọng kể cả khi ngủ cũng nên đề phòng.

Mưu kế của Phạm Tuy không thực hiện được. Tử Hề giống như con chó sủa nhầm một trận. Nhìn thấy vẻ buồn rầu thiểu não của ông ta và Đỗ Thương, Phạm Tuy tự tin nói: 'Thua keo này ta bày keo khác vậy!". "Còn có kế gì nữa?". Tử Hề và Đỗ Thương cố gắng lấy lại tinh thần hỏi. "Mượn dao giết người!". Phạm Tuy nói với vẻ đầy sát khí. "Mượn dao của ai cơ?". "Dao của Triệu Hiếu Thành vương".

Phạm Tuy thấy Tử Hề và Đỗ Thương vẫn chưa hiểu được ý tứ của ông, liền giải thích: "Dị Nhân và Lã Bất Vi đều ở Hàm Đan, chúng ta chẳng có cách nào. Vậy thì, cứ để cho Triệu Hiếu Thành vương đưa bọn họ vào chỗ chết".

"Triệu Hiếu Thành vương liệu có dám làm không?"

Phạm Tuy nói: "Vậy nên, chúng ta phải đi thuyết phục ông ta. Đỗ Thương, ông là lão Tướng quốc, từng 3 lần đi xứ nước Triệu, vốn có mối giao hảo với Triệu Hiếu Thành vương, thành bại, lợi hại ắt phải nói rõ cho Triệu Hiếu Thành vương biết. Ông ta sẽ làm thịt Dị Nhân và Lã Bất Vi chẳng khác gì nướng con chim nhỏ ở trong lò vậy".

Đỗ Thương trù trừ nói: "Ta vốn có chút quan hệ qua lại với Triệu Hiếu Thành vương, chỉ sợ nước Tần chúng ta vừa đánh nước Triệu, giết bao nhiêu binh sĩ của họ. Tôi đi, nhẹ thì sẽ bị đối xử lạnh nhạt, nặng thì có thể sẽ bị mọi thù hận đối với Tần quốc trút tất lên đầu".

Phạm Tuy nói: "Ông là thày dạy của công tử, không quyền không chức, Triệu Hiếu Thành vương sẽ chẳng có cớ gì oán hận ông cả! Giả sử ông là tướng quân phát lệnh của Tần vương chỉ huy thiên binh vạn mã, thì tới Hàm Đan, chẳng khác gì tự chui đầu vào rọ".

Đỗ Thương nói: "Tướng quốc nói rất phải, tôi đi họ sẽ không giết tôi".

Phạm Tuy nói: "Còn như phải khua môi múa mép như thế nào để Triệu Hiếu Thành vương động lòng, chắc lão Tướng quốc là bậc thầy trong việc này!"

Xem tiếp Chương 10 Thành công trong việc lập Thái tử

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#book