10. Phân tích những quan điểm của HCM về đại đoàn kết toàn dân tộc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
    Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, mà luôn là vấn đề chiến lược lâu dài, có ý nghĩa sống còn (quyết định sự thành bại) của sự nghiệp cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc, xây dựng lực lượng nhằm hình thành sức mạnh to lớn trong đấu tranh cách mạng. Người đã nhiều lần nêu ra các quan điểm:
Đoàn kết làm ra sức mạnh; đoàn kết là sức mạnh; đoàn kết là thắng lợi;   là then chốt của thành công, là nguồn gốc của thắng lợi.
“Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta” (11/1954)
“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi” (01/1963)
“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” (10/1963”
Đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt.
Người đưa ra khẩu hiệu chiến lược:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
    b. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. 
- Đối với Đảng: đại đoàn kết không đơn thuần là vấn đề tập hợp, tổ chức lực lượng, mà cao hơn, nó là bộ phận hữu cơ, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược.
Đại đoàn kết là tư tưởng chỉ đạo, làm cơ sở trong việc xác định đường lối, chủ trương, trong lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Trong lãnh đạo của Đảng, trước hết phải tổ chức đoàn kết nhân dân lại, rời mới thực hiện nhiệm vụ của cách mạng đặt ra.
 Trong buổi lễ ra mắt của Đảng lao động Việt Nam tháng 3-1951, Hồ Chí Minh đã tuyên bố:
“Mục đích của Đảng lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. (Tập 6, tr. 183)
Khi nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi (8/1963), Người chỉ rõ: “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: một là đoàn kết, hai là xây dựng CNXH, ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”. ( Tập 11, tr 130)
- Đối với dân tộc: đại đoàn kết là sự phản ánh đòi hỏi khách quan của bản thân phong trào cách mạng do quần chúng tiến hành, vì sự nghiệp giải phóng quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, tạo thành sức mạnh của cuộc đấu tranh.
c. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
    - Khái niệm “dân”, “nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Có nhiều nhà tư tưởng của dân tộc, có nhiều lãnh tụ cách mạng ở trong nước và ở nước ngoài nói về dân, nhưng Hồ Chí Minh là người nói về dân một cách sâu sắc nhất, với tâm huyết và tình cảm lớn lao.
- Dân và Nhân dân là khái niệm truyền thống dân tộc và phương Đông, nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Dân và Nhân dân được sử dụng với nội hàm mới:
Dân và Nhân dân dùng để chỉ “mỗi người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo quý tiện
- Người dánh giá rất cao vai trò của dân: Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trên thế giới không có gì mạnh bắng sức mạnh đoàn kết của nhân dân.
Dân, nhân dân chính là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc: Dân là gốc rễ, là cội nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết, là chỗ dựa vững chắc của Đảng cộng sản, của hệ thống chính trị cách mạng. Có dân là có tất cả, mất dân là mất hết. Hồ Chí Minh có lòng tin vào dân, dựa vào dân và phấn đấu vì quyền lợi của dân.
- Đại đoàn kết dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
 “Ta đoàn kết để đấu tranh cho độc lập và thống nhất của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. (Tập 7, tr.438, 1/1955)     Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Ngay cả những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải vẫn đoàn kết với họ, không có định kiến. Thậm chí, đối với những người trước đây đã chống chúng ta nhưng hiện nay họ không chống đối ta nữa thì ta vẫn mở cửa đón tiếp họ: bất kì ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bay giờ chúng ta cũng thật thà doàn kết với họ. Đoàn kết với tất cả những người yêu nước, không phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đứng về phe nào. Người đã dùng hình tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn nhưng cả năm ngón đều thuộc về một bàn tay để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi.
    Hồ Chí Minh đề ra quan điểm đại đoàn kết dân tộc một cách rộng rãi, vì Người có lòng tin là trong mỗi người dân ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước tiềm ẩn bên trong. Khi lương tri con người được thức tỉnh thì lòng yêu nước sẽ bộc lộ. Vì vậy, cơ sở để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do, hạnh phúc của nhân dân.
    Dân tộc là một khối rất đông đảo, rộng lớn. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn đó thì phải xác định rõ nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng.Người chỉ rõ: Đại đoàn kết là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây, nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác.
 Liên minh công nông là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc: lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Sau này, Người bổ sung là lấy liên minh công nông và lao động trí óc làm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng.
    d. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất
Đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi mà phải trở thành một chiến lược cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.
    Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không, hàng triệu người chỉ là số đông không có sức mạnh.
    Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, mọi người dân Việt Nam ở trong nước và ở nước ngơài. Tuỳ theo từng thời kì, Mặt trận có thể có những tên gọi khác nhau nhưng thực chất là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, đảng phái các tổ chức và cá nhân yêu nước đấu tranh vì mục tiêu độc lập, thống nhất, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
    Mặt trận dân tộc thống nhất phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng.
    Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:
Mặt trận được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông – lao động trí óc, từ đó mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc thành 1 khối vững chắc.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập và thống nhất của Tổ quốc, là ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Phải làm cho mọi người đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết, trước hết. Bởi vì, lợi ích tối cao của dân tộc có được bảo đảm thì lợi ích của mỗi người mới được thực hiện. Mỗi người lại có lợi ích riêng khác nhau. Mặt trận thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ, cùng nhau bàn bạc để đi đến thống nhất, chống mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tại Đại hội thống nhất Việt Minh và Liên Việt tháng 3-1951, Người nêu rõ: trong đại hội này, chúng ta có đại biểu đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, già có, trẻ có, nam có ,nữ có thật là một gia đình tương thân tương ái. Chắc rằng  sau cuộc đại hội, mối đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân. Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ Mặt trận tháng 8-1962, Người nói: chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân, phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc. Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác biệt. Do đó, một mặt là thực hiện phương châm cầu đồng tồn dị, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Mặt khác đoàn kết phải gắn với đấu tranh, khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều.   Người chỉ rõ: Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân.
Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo. Quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng không phải do Đảng tự phong cho mình mà phải được nhân dân thừa nhận: Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được quyền lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc đề ra chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, thời kì cách mạng. Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro