12.Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. Một số vấn đề chung về doanh nghiệp

1. Khái niệm doanh nghiệp

Doanh nghiệp có thể được hiểu là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá của các yếu tố) khác nhau do nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm và giá thành sản phẩm ấy (M.Francois Peroux)

Một trong những quan điểm khác lại cho rằng, định nghĩa về doanh nghiệp đầy đủ nhất bao gồm những yếu tố sau:

- Phối hợp những lợi thế đang có theo một cách mới và hiệu quả hơn

- Tạo ra nhiều giá trị hơn từ những nguyên liệu thô và nhân lực mà trước đây bị coi là vô ích

- Cải thiện những gì đã xuất hiện với việc sử dụng các kĩ thuật mới

- Di chuyển tài nguyên kinh tế ra khỏi khu vực năng suất thấp tới khu vực sản xuất hiệu quả và lớn hơn

- Có phương pháp tìm kiếm và hưởng ứng lại những nhu cầu chưa được thỏa mãn và các đòi hỏi của khách hàng

Còn theo luật doanh nghiệp năm 2005 thì doanh nghiệp được hiểu là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.

2. Đặc điểm chung của doanh nghiệp

- Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân

Tư cách pháp nhân là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp chỉ có thể được công nhận, được hoạt động và được Nhà nước đảm bảo quyền lợi khi có tư cách pháp nhân. Điều này đã được quy định tại điều 5 và điều 8 Luật doanh nghiệp năm 2005. Một mặt, các doanh nghiệp được Nhà nước bảo vệ các quyền như quyền sản xuất kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp. Nhưng mặt khác, doanh nghiệp cũng phải thực hiện nghĩa vụ dối với Nhà nước như đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động, đảm bảo và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ theo tiêu chuẩn đã công bố,...

- Doanh nghiệp là một tổ chức sống gắn liền với địa phương nơi nó tồn tại.

- Sự tồn tại của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào khả năng của người quản lý và những người sáng lập.

- Doanh nghiệp luôn tồn tại và phát triển ở một địa phương nhất định, nên sự phát triển hay suy giảm của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến địa phương đó.

3. Phân loại doanh nghiệp

3.1. Căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản trong doanh nghiệp

- Doanh nghiệp nhà nước:

Là doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn. Nhà nước chịu trách nhiệm trên toàn bộ hoạt động kinh doanh, cũng như khi thành lập, giải thể. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.

- Doanh nghiệp hùn vốn:

Là tổ chức kinh tế mà vốn được các thành viên trong công ty góp vào và được gọi là công ty. Họ sẽ cùng chia phần lãi (nếu công ty làm ăn có lãi) và phần lỗ (nếu công ty làm ăn thua lỗ). Theo Luật doanh nghiệp, có 3 loại hình công ty: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.

- Doanh nghiệp tư nhân:

Đây là hình thức doanh nghiệp mà chỉ có duy nhất một người bỏ vốn. Do vậy, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp thuộc sở hữu của tư nhân. Người quản lý doanh nghiệp có thể do người chủ sỡ hữu đảm nhận, cũng có thể do người chủ thuê về. Tuy nhiên, người chủ doanh nghiệp là người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các khoản nợ cũng như các vi phạm trên các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước pháp luật.

- Hợp tác xã:

HTX là loại hình kinh tế tập thể, do những người lao động và các tổ chức có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội.

3.2. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế

- Doanh nghiệp nông nghiệp : là các doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Hoạt động sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên.

- Doanh nghiệp công nghiệp: doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp như công nghiệp xây dựng, công nghiệp điện tử, công nghiệp chế tạo,...

- Doanh nghiệp thương mại: là các doanh nghiệp hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong khâu phân phối hàng hóa cho người tiêu dùng tức là thực hiện những dịch vụ mua vào và bán ra để kiếm lời.

- Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: doanh nghiệp ở hoạt động trong lĩnh vực này hết sức đa dạng, hiện nay có thể kể đến như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, du lịch, y tế,...

3.3. Căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp:

Căn cứ vào quy mô, có thể chia doanh nghiệp ra làm 3 loại:

- Doanh nghiệp có quy mô nhỏ

- Doanh nghiệp có quy mô vừa

- Doanh nghiệp có quy mô lớn

Để phân biệt các doanh nghiệp theo quy mô, có thể dựa vào 4 chỉ tiêu:

- Tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp

- Số lượng lao động trong doanh nghiệp

- Doanh thu của doanh nghiệp

- Lợi nhuận hàng năm

II. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp

1. Khái niệm nguồn vốn đầu tư

- Khái niệm vốn đầu tư:

Vốn (C) là biểu hiện bàng tiền của tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư. Nguồn lực có thể là của cải vật chất tài nguyên thiên nhiên là sức lao động và tất cả các tài sản vật chất khác

- Khái niệm nguồn vốn:

Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây là thuật ngữ dung để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.

- Khái niệm nguồn vốn của doanh nghiệp: là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.

Tài sản của doanh nghiệp là toàn bộ những tài sản vô hình và hữu hình thoả mãn các điều kiện sau:

+ Thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp

+ Có tính hữu ích (khi sử dụng sẽ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp)

+ Có giá trị

Tài sản của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:

- Tài sản cố định và đầu tư dài hạn: tài sản dài hạn

- Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: tài sản ngắn hạn

Vì vậy vốn của doanh nghiệp cũng được chia thành vốn cố định và vốn lưu động.

2. Phân loại vốn của doanh nghiệp:

a) Vốn cố định:

Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản cố định và các tài sản dài hạn khác của doanh nghiệp.

Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn và có thời gian sử dụng dài.

+ Các tài sản này có thể là những tài sản độc lập, hoặc cũng có thể là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một, hoặc một số chức năng nhất định, mà nếu thiếu một trong bất kì bộ phận nào thì cả hệ thống sẽ không hoạt động được.

+ Tài sản cố định không thay đổi hình thái vật chất của nó trong quá trình sử dụng. Chúng tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh và giá trị của nó sẽ được chuyển dịch dần từng bộ phận vào chi phí và giá thành sản phẩm.

Chu kì kinh doanh được hiểu là khoảng thời gian cần thiết kể từ khi doanh nghiệp bỏ vốn vào kinh doanh dưới hình thái tiền tệ và sau đó lại thu hồi được vốn đó dưới hình thái tiền tệ. (T-H-T')

- Các loại tài sản cố đinh của doanh nghiệp:

+ Tài sản cố định có thể là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải.... Những tài sản cố định này gọi là tài sản cố định hữu hình.

+ Những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thường liên quan tới các khoản chi phí như chi phí về sử dụng đất đai, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về bằng phát minh sang chế, chi phí về lợi thế kinh doanh,.... Chúng cũng đáp ứng hai tiêu chuẩn nói trên là giá trị lớn và phân bố trong nhiều năm. Những tài sản loại này được coi là tài sản cố định vô hình. Nền kinh tế càng phát triển thì tỉ trọng của những tài sản cố định vô hình này càng gia tăng.

+ Các tài sản dài hạn khác:

• Tài sản cố định thuê tài chính là tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê của công ty cho thuê tài chính.

• Khoản đầu tư tài chính dài hạn (thường là trên 1 năm) là vốn doanh nghiệp được đầu tư vào kinh doanh ở bên ngoài để lấy lãi hoặc chia sẻ lợi ích cùng doanh nghiệp khác như: cổ phiếu, trái phiếu, các loại vốn góp liên doanh, vốn tiền mặt cho vay, tài sản, đất đai cho thuê,....

• Những khoản kí quỹ, kí cược dài hạn mà doanh nghiệp thực hiện

- Khấu hao tài sản cố định và quỹ khấu hao tài sản cố định:

+ Trong quá trình sử dụng, các tài sản cố định sẽ bị hao mòn dần, đó là sự giảm dần giá trị. Có hai dạng hao mòn:

• Hao mòn hữu hình là sự giảm giá trị tài sản cố định do doanh nghiệp sử dụng trong quá trình kinh doanh hoặc do tác động của môi trường tự nhiên. Sự giảm giá trị này tuỳ thuộc vào mức độ sử dụng và ảnh hưởng của môi trường tự nhiên.

• Hao mòn vô hình là sự giảm giá trị tài sản do sự tiến bộ khoa học kĩ thuật làm cho tài sản cố định bị lỗi thời, giảm giá so với trước đó.

+ Do tài sản cố đinh bị hao mòn, vì vậy mỗi chu kì sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải chuyển một phần giá trị tài sản cố định tương xứng với phần giá trị hao mòn vào giá thành sản phẩm. Khi bán sản phẩm, người ta sẽ triết trừ phần tiền này để hình thành nên quỹ tái sản xuất lại tài sản cố định. Quỹ này được gọi là quỹ khấu hao tài sản cố định.

- Phương pháp tính quỹ khấu hao:

+ Phương pháp khấu hao đường thẳng:

Công thức tính:

M = NG/ T

Trong đó: M: Số tiền khấu hao tài sản cố định hàng năm.

NG: Nguyên giá thành tài sản cố định.

T: Thời gian sử dụng định mức tài sản cố định.

+Phương pháp giảm dần có điều chỉnh:

Công thức tính:

M(t) =K(t) x G(t)

Trong đó M(t):Mức khấu hao năm thứ t

K(t):Tỉ lệ khấu hao điều chỉnh

K(t)= 1,5 x K nếu t

K(t)=2 x K nếu t =5, 6

K(t)=2,5 x K nếu t > 6

K =1/T (K tỉ lệ khấu hao theo phương pháp khấu hao theo đường thẳng )

G(t):Giá trị còn lại của tài sản cố định ở đầu năm thứ t

t : số thứ tự năm sử dụng của tài sản cố định.

Quá trình khấu hao trong những năm đầu được tính theo công thức trên.Những năm cuối ,khi mức khấu hao xác địn theo phương pháp số dư giảm dần không cao hơn mức khấu hao trung bình ( tính bằng cách lấy giá trị còn lại chia cho thời gian sử dụng còn lại của tài sản cố định ) thì sẽ chuyển khấu hao theo mức khấu hao trung bình này

+Phương pháp khấu hao theo sản lượng:

Công thức :

M(t) = S(t) x m0

M(o) tương đương NG/S0

Trong đó : - M(t):Mức tính khấu hao trong kì thứ t

- S(t):Khối lượng,số lượng sản phẩm thực tế mà tài sản cố định tạo ra trong kì thứ t

- S(0):Tổng khối lượng,số lượng sản phẩm theo công suất thiết kế của tài sản cố định.

- m(0): Mức tính khấu hao trung bình tính trên một đơn vị sản phẩm theo công suất thiết kế.

- NG :Nguyên giá tài sản cố định.

- t : kì thực hiện (tháng,quí ,năm ).

Doanh nghiệp thường mong muốn khấu hao nhanh để tránh hao mòn vô hình và nhanh chóng thu hồi vốn để tái đầu tư nhằm đổi mới kĩ thuật.

b) Vốn lưu động:

Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp.

- Tài sản lưu động của doanh nghiệp là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, có giá trị nhỏ và thời gian sử dụng ngắn.

- Tài sản lưu động thay đổi hình thái vật chất của nó trong một chu kì kinh doanh và giá trị của nó sẽ được chuyển hoàn một lần vào chi phí và giá thành sản phẩm.

- Tài sản lưu động của doanh nghiệp có thể tồn tại dưới dạng tiền tệ, vật tư, hàng hoá, các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản nợ phải thu ngắn hạn.

- Cấu thành tài sản lưu động của doanh nghiệp:

+ Vốn bằng tiền: gồm các khoản tiền Việt Nam, ngoại tệ, ngân phiếu, vàng, bạc, đá quý. Những khoản tiền này phần lớn được giữ tại các ngân hàng (tiền gửi ngân hàng và các khoản tiền đang chuyển). Ngoài ra, trong các doanh nghiệp luôn có một khoản tiền mặt nhất định dùng cho việc chi tiêu các khoản chi thường xuyên (tiền mặt tại quỹ).

+ Các khoản tiền phải thu như tiền bán hàng mà khách hàng nợ, các khoản phải thu trong nội bộ doanh nghiệp, tiền tạm ứng cho cán bộ, nhân viên trong doanh nghiệp chưa thanh toán....

+ Hàng tồn kho là những hàng hoá dự trữ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhắm đảm bảo cho hoạt động này được tiến hành liên tục, không bị gián đoạn như nguyên liệu, vật liệu, dụng cụ bán thành phẩm, thành phẩm dự trữ trong kho để chờ bán...

+ Những tài sản có thể tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh nhưng có giá trị nhỏ hoặc thời gian sử dụng ngắn (công cụ, dụng cụ) cũng được xếp vào tài sản lưu động.

+ Đầu tư tài chính ngắn hạn: những khoản đầu tư tài chính như mua cổ phiếu, trái phiếu, vốn góp liên doanh, cho vay lấy lãi....có thời hạn thu hồi bằng hoặc dưới 1 năm gọi là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn và chúng cũng thuộc về vốn lưu động của doanh nghiệp.

- Tốc độ chu chuyển vốn lưu động và ý nghĩa của việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động:

+ Tốc độ chu chuyển là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh tình hình quản lí và sử dụng vốn của doanh nghiệp.

+ Tốc độ chu chuyển vốn lưu động được tính bằng 2 chỉ tiêu sau:

• Số lần chu chuyển vốn lưu động:

L = MGV/VLĐ

Trong đó: L: Số lần vốn lưu động quay được trong kì

VLĐ : Vốn lưu động bình quân trong kì

MGV: Doanh thu theo giá vốn trong kì

• Số ngày chu chuyển vốn lưu động:

N = VLĐ/m

Trong đó: n: số ngày chu chuyển vốn lưu động

m: doanh thu (mức tiêu thụ) bình quân một ngày theo giá vốn

VLĐ: Vốn lưu động bình quân trong kì

Số lần chu chuyển vốn càng cao nghĩa là vốn được sử dụng tốt, tốc độ chu chuyển nhanh. Ngược lại, số ngày chu chuyển vốn càng lớn thì tốc độ chu chuyển vốn càng chậm, việc sử dụng vốn yếu.

Giữa 2 chỉ tiêu nói trên có mối liên hệ chặt chẽ, nếu ta biết được chỉ tiêu này có thể tính được chỉ tiêu kia. Tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp vì nó là điều kiện quan trọng mở rộng quy mô kinh doanh mà không cần tăng vốn. Nó cũng là điều kiện để giảm chi phí sử dụng vốn, hạ giá thành và giá bán sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.

3. Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp

3.1.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp

Nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn góp ban đầu của doanh nghiệp, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu (đối với doanh nghiệp cổ phần).

* Vốn góp ban đầu của doanh nghiệp:

Khi mới thành lập doanh nghiệp, bap giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một số vốn nhất định. Với DNNN, số vốn này được lấy từ Ngân sách nhà nước, và thuộc sở hữu của Nhà nước. Còn với doanh nghiệp tư

nhân, chủ doanh nghiệp phải đầu tư một số vốn ban đầu (mức vốn được Nhà nước quy định trong Luật doanh nghiệp). Trong khi đó, đối với công ty cổ phần, nguồn vốn ban đầu sẽ do các cổ đông đóng góp. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty, họ phải chịu trách nhiệm trên số cổ phần mà họ đã đóng góp. Theo luật doanh nghiệp, muốn xin đăng kí thành lập doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết theo quy định của pháp luật.

* Lợi nhuận không chia:

Trong quá trình kinh doanh, nếu hoạt động hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có lãi, khoản lãi này sẽ định kì chia cho các chủ sở hữu và doanh nghiệp giữ lại một phần. Khoản lợi nhuận không chia này doanh nghiệp dùng để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và sẽ làm gia tăng vốn của doanh nghiệp.

Tạo vốn bằng lợi nhuận không chia là nguồn vốn rất quan trọng vì doanh nghiệp giảm được chi phí sử dụng vốn và giảm sự lệ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên, điều này chỉ thực hiện được với các doanh nghiệp đã và đang hoạt động có lãi.

* Phát hành cổ phiếu:

Phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp là nguồn tài chính dài hạn quan trọng đối với doanh nghiệp. Chỉ có những doanh nghiệp đủ điều kiện quy định của luật pháp mới được phép phát hành cổ phiếu. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước quản lý và kiểm soát rất chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Giới hạn phát hành là một quy định rang buộc có tính pháp lí đối với mọi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được phát hành một lần hoặc một số lần trong giới hạn số lượng cổ phiếu đã được cấp phép.

Cổ phiếu được chia làm 2 loại:

- Cổ phiếu thông thường: là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, lợi tức biến động tùy thuộc vào sự biến động lợi nhuận của doanh nghiệp, được phát hành rộng rãi trên thị trường. Thị giá cổ phiếu rất nhạy cảm trên thị trường, nó phụ thuộc vào lợi nhuận công ty, môi trường kinh tế, lãi suất thay đổi,....

- Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào sự thay đổi lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu này phụ thuộc vào thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình lợi nhuận của công ty.

Tuỳ theo mục đích sử dụng mà nguồn vốn chủ sở hữu được chia thành:

- Nguồn vốn kinh doanh: hình thành các tài sản cố định và tài sản lưu động dùng vào việc kinh doanh cho doanh nghiệp.

- Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản: dùng vào việc mua sắm, xây dựng, lắp đặt tài sản cố định.

- Các quỹ doanh nghiệp:

+ Quỹ đầu tư phát triển: dùng mở rộng hoặc đổi mới công nghệ, đào tạo, nghiên cứu...

+ Quỹ dự phòng tài chính: dùng để bù đắp tổn thất, rủi ro trong kinh doanh mà không được đền bù bởi cơ quan bảo hiểm và người gây thiệt hại.

+ Quỹ khen thưởng

+ Quỹ phúc lợi

+ Quỹ trợ cấp mất việc

- Lãi chưa phân phối: lãi của doanh nghiệp sẽ được phân chia theo định kì, nhưng trong thời gian chưa phân chia khoản tiền này thuộc nguồn vốn chủ sở hữu.

3.2. Nguồn vốn huy động ngoài doanh nghiệp:

Để bổ sung vốn cho hoạt động của mình, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.

a. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng:

- Vốn vay ngân hàng là nguồn vốn quan trọng nhất. Không có một doanh nghiệp nào trong quá trình hoạt động kinh doanh mà không vay vốn ngân hàng.

Có thể phân loại vốn vay ngân hàng như sau:

+ Xét về mặt thời hạn: vốn tín dụng ngân hàng gồm có vốn vay dài hạn (từ 5 năm trở lên), vốn vay trung hạn (từ 1 đến 5 năm), và vốn vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn này sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng quốc gia và từng NHTM.

+ Xét về tính chất và mục đích sử dụng vốn: có thể chia thành rất nhiều lại như vay đầu tư tài sản cố định, vay vốn lưu động, vay phục vụ dự án,....

Ngoài ra, còn có những cách phân chia khác như xét theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực, hoặc theo hình thức bảo đảm của khoản vay.

Các doanh nghiệp muốn sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng phải đảm bảo các hạn chế về điều kiện tín dụng, chịu sự kiểm soát của ngân hàng và phải trả lãi suất tiền vay (chi phí sử dụng vốn). Lãi suất này có thể biến động phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường vốn trong từng thời kì. Nếu doan nghiệp vay vốn với lãi suất cao quá, doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn. Điều này gây khó khăn cho kinh doanh vì nó làm tăng giá thành và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.

b. Nguồn vốn tín dụng thương mại:

Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán, thương mại giữa doanh nghiệp và những người cung cấp do mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp.

Đối với doanh nghiệp, nguồn vốn này chiếm một tỉ lệ đáng kể. Ưu điểm của nó là rẻ, tiện dụng và linh hoạt. Các rang buộc cụ thể có thể được quy định khi doanh nghiệp kí kết hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế với các đối tác.

Chi phí sử dụng nguồn vốn này có thể không biểu hiện rõ ràng như khoản vốn vay của ngân hàng dưới hình thức lãi suất vay vốn, mà có thể ẩn dưới hình thức thay đổi giá cả như trường hợp mua bán hàng hoá trả chậm hay trả góp.

c. Phát hành trái phiếu công ty:

- Trái phiếu là tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn. Trái phiếu còn được gọi là trái khoán.

Trên thị trường tài chính nhiều nước hiện nay thường lưu hành các loại trái phiếu doanh nghiệp sau: Trái phiếu có lãi suất cố định và trái phiếu có lãi suất thay đổi.

+ Trái phiếu có lãi suất cố định thường được ghi trên mặt trái phiếu, lãi suất này thường không thay đổi trong suốt kì hạn của nó. Việc thanh toán lãi suất trái phiếu cũng được quy định rõ.

+ Trái phiếu có lãi suất thay đổi: lãi suất của loại trái phiếu này có thể không cố định trong suốt kì hạn mà nó có thể thay đổi phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác. Doanh nghiệp thường phát hành loại trái phiếu này trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao. Khi đó, do biến động của lạm phát sẽ kéo theo sự biến động của lãi suất trái phiếu. Điều này sẽ đáp ứng được đòi hỏi về lợi ích của cả nhà đầu tư và lợi ích của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì không thể biết chắc chắn lãi suất của trái phiếu, nên việc lập kế hoạch tài chính của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn.

+ Trái phiếu có thể thu hồi: Doanh nghiệp phát hành trái phiếu này và có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Ngay khi phát hành trái phiếu, doanh nghiệp đã phải thông báo điều này để người mua trái phiếu được biết. Thời hạn mua lại và giá cả mà doanh nghiệp mua lại và giá cả mà doanh nghiệp mua lại trái phiếu cũng được quy định ngay từ lúc phát hành trái phiếu.

Một hình thức tín dụng nữa, tuy chưa phổ biến ở Việt Nam nhưng đang dần trở thành một xu hướng mới với các doanh nghiệp, đó là tín dụng thuê mua. Đây là hình thức tín dụng bằng cách cho thuê tài sản. Tín dụng thuê mua có 2 loại: thuê vận hành (thời gian cho thuê ngắn), và thuê thuần (thời gian cho thuê dài; kết thúc thời gian thuê, người đi thuê có thể mua lại với giá thỏa thuận hoặc giá tượng trưng. Đây là hình thức cung ứng vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp.

4. Vai trò của nguồn vốn đầu tư

Một xã hội muốn tồn tại và phát triển cần phải có sự đầu tư nhằm bù đắp phần tài sản đã tiêu hao,khấu hao trong quá trình sản xuất cũng như mở rộng sản xuất nâng cao đời sống con người và đảm bảo tăng trưởng kinh tế.Đầu tư đó được thể hiện dưới dạng tiền,gọi là vốn đầu tư.

Vốn đầu tư nói chung bao gồm toàn bộ nhân lực và vật lực nhằm phát triển lượng tài sản hiện có bao gồm máy móc,thiết bị,cơ sở vật chất và khả năng của con người.

Đối với từng lĩnh vực khác nhau,đầu tư có vai trò khác nhau và đều hết sức quan trọng

4.1.Đầu tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất và bảo vệ môi trường:

Cơ sở hạ tầng bao gồm đường xá,hệ thống điện nước nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động dễ dàng nhất có thể .Nó có liên quan chặt chẽ và mật thiết đến các hoạt động kinh tế.Có thể nói đầu tư cho xây dựng cơ bản là cửa ngõ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.Một đất nước càng có nhiều vốn đầu tư hiệu quả cho các công trình xây dựng cơ bản,bảo vệ môi trường thì các hoạt động kinh tế vận hành càng "trơn tru",chất lượng tăng trưởng càng cao.Chính vì vậy vốn đầu tư vào lĩnh vực này là quan trọng nhất,đặc biệt là với các nước đang phát triển.Người ta thường xem vốn đầu tư này là đầu tư vào kinh tế và dùng để tính các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.

4.2. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực:

Phát triển nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho phát triển sức khỏe ,trí lực ,kĩ năng làm việc của con người.Để đạt được những mục đích này,cần có mức vốn đầu tư thích đáng vào giáo dục,văn hóa cũng như các hoạt động nâng cao đời sống con người.Nền kinh tế và toàn xã hội vận động bởi những quyết định của con người.Một nền kinh tế mạnh khi nó được điều hành bởi những con người có khả năng,tri thức.Tri thức,kĩ năng cũng như sức khỏe con người hoàn toàn phải do đầu tư mới có.Do vậy đầu tư vào nguồn nhân lực cũng là đầu tư cho phát triển kinh tế.

4.3.Đầu tư trực tiếp vào kinh tế đối với DNNN

*Về mặt pháp lý

Theo luật doanh nghiệp năm 2005,để thành lập một doanh nghiệp,chủ sở hữu đăng kí kinh doanh,ngoài các điều kiện cơ bản như kinh doanh ngành nghề không bị cấm,có tên doanh nghiệp,trụ sở ổn định thì một điều kiện không thể thiếu là doanh nghiệp phải có vốn pháp định (là mức vốn tối thiểu doanh nghiệp phải có để hoạt động kinh doanh) .Như vậy vốn là điều kiện ban đầu và cũng là cơ bản nhất để hình thành một doanh nghiệp.Vì xét cho cùng,doanh nghiệp được thành lập nhằm mục đích phát triển vốn ban đầu của mình,tạo lợi nhuận từ kinh doanh.

Theo điều 4, chương II qui chế quản lí hạch toán và kế toán trong DNNN, nếu doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, làm vốn điều lệ của doanh nghiệp không đủ theo qui định của nhà nước, thì cơ quan chủ quản phải có nhiệm vụ cung cấp thêm vốn cho doanh nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp. Hoặc cơ quan này phải tổ chức phá sản, sát nhập, giải thể... cho doanh nghiệp đó.Vậy vốn là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của doanh nghiệp.

*Về mặt kinh tế

Bất kì hoạt động vận hành,kinh doanh nào của doanh nghiệp cũng cần sử dụng đến nguồn vốn. Bởi vậy vốn quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Ban đầu,muốn hoạt động,doanh nghiệp cần có vốn để xây dựng nhà xưởng, mua sắm thiết bị, mua nguyên vật liệu, thuê nhân công nhằm đảm bảo việc kinh doanh ban đầu cũng như về sau được diễn ra liên tục và có khả năng mở rộng sản xuất

Nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, vốn lớn hơn so với ban đầu, họ có thể mở rộng kinh doanh. Vốn càng lớn, khả năng kinh doanh càng cao. Doanh nghiệp có thể mua sắm hệ thống máy móc hiện đại hơn, thuê (mua) mặt bằng nhà xương rộng hơn, giảm chi phí cho hoạt động sản xuất, đem lại lợi nhuận cao hơn. Ngoài ra, với mức vốn lớn hơn, doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường kinh doanh, doanh thu lớn hơn.

Với vai trò hết sức quan trọng trong mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất cũng như xã hội, doanh nghiệp cũng như nhà nước cần có ý thức nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đem lại lợi ích cho bản thân doanh nghiệp cũng như cho xã hội.

4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành vốn đầu tư

- Đứng trên góc độ vĩ mô có thể tạo lập vốn đầu tư thông qua tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc dân tăng sẽ là điều kiện trực tiếp để tăng tích lũy. Đây là kênh tạo lập có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra tích lũy cho nền kinh tế. Sở dĩ nó có vai trò quan trọng như vậy là vì nó tác động trực tiếp đến tích lũy của một quốc gia, tổng sản phẩm quốc dân sau khi trừ đi tiêu dùng sẽ là phần tích lũy của nền kinh tế. Như vậy ta có thể tăng tích lũy thông qua hai cách.

Thứ nhất: với điều kiện tổng sản phẩm quốc dân không đổi thì tích lũy chỉ được tăng lên khi tiêu dùng giảm.

Thứ hai: với điều kiện tổng sản phẩm quốc dân thay đổi thì khi tổng sản phẩm quốc dân tăng lên thì tích lũy trong nền kinh tế sẽ tăng với mức tiêu dùng cố định, hoặc tiêu dùng tăng nhưng tốc độ tăng nhỏ hơn tốc độ tăng tích lũy. Như vậy tạo lập qua tổng sản phẩm quốc dân sẽ tạo lập được lượng vốn lớn về mặt chất cũng như lượng, vì thế nhiệm vụ đặt ra là nên phát huy vai trò của kênh tạo lập này để có thể thực hiện được các mục tiêu cho đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế.

- Đứng trên góc độ vi mô có thể tạo lập vốn đầu tư thông qua các doanh nghiệp, các cá nhân và hộ gia đình. Các nhân tố kinh tế này sẽ trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và sẽ trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế, tức là tích lũy của nền kinh tế sẽ tăng lên. Thực tế ngày càng cho thấy vai trò của các nhân tố này ngày càng quan trọng trong việc tạo lập vốn, các nhân tố này sẽ là điều kiện cơ bản và lâu dài cho việc tạo lập các nguồn vốn một cách bền vững

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro