123456

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phu Thê luận đạo

--------------------------------------------------------------------------------

PHU THÊ LUẬN ĐẠO

Hồi đời Lưu Tống, tại huyện Câu Dưng, có tên Các Tế, lúc còn nhỏ đã nổi tiếng văn chương xuất chúng và thông minh trí tuệ hơn người.

Lúc chàng mới được 25 tuổi, thì đã thi đậu Tấn sĩ, được vua bổ làm quan Tri huyện tại tỉnh Trí Xuyên, thường mộ học về Tiên thuật.

Sau khi chàng được tên đề bảng hổ, nhẹ bước thang mây, thì đã cưới một người nội trợ tên Kỷ thị, vốn là con nhà trâm anh thế phiệt, tánh tình rất ôn hòa thuần hậu.

Từ khi về nhà chồng, nào là công dung ngôn hạnh, nào chỉnh đốn gia đình, thì cũng là một tay nàng mà thôi. Lại thêm ham mộ Phật giáo, mỗi đêm nàng thường tụng kinh niệm Phật, trang nghiêm trai giới.

Chàng Các Tế thấy vợ tín ngưởng Phật giáo như vậy, tuy không nói chi, nhưng trong lòng vẫn cho là hư vô ảo tưởng.

Có một ngày kia việc quan đã rảnh, chàng bảo thị tỳ kêu vợ vào thơ phòng mà bàn chuyện.

Khi thấy nàng Kỷ thị đến, chàng bảo ngồi trên ghế rồi nói rằng: " Số là từ ngày hiền thê về nhà tôi đến nay, thì phu xướng phụ tùy, cảnh gia đình rất nên êm đềm hòa nhã; nhưng đêm nào tôi cũng thấy hiền thê cứ tụng kinh niệm Phật hoài, thiệt là trái hẳn với tư cách tu tâm dưỡng tánh của Tiên gia".

Nàng Kỷ thị thưa rằng: "Cách Tiên gia tu luyện thế nào mà phu tướng cho là chơn chánh?".

Chồng đáp rằng: "Tưởng hiền thê không hỏi, chớ nếu hỏi thì tôi nói cho hiền thê nghe. Đạo Tiên là một đạo trường sanh bất tử (1): nếu ai đặng điểm đạo và cứ y theo đó mà tu luyện cho hoàn toàn, thì có thể sánh với hư không trường tồn bất hoại".

Vợ hỏi: "Con người có sanh có diệt là lẽ tự nhiên, không có một vật nào tránh khỏi cái công lệ ấy, mà phu tướng lại nói rằng: nếu tu luyện theo đạo Tiên chắc sẽ đặng trường sanh bất tử, thì trái hẳn với luật vô thường".

Chồng đáp: "Hiền thê vốn chưa thấu đáo cái nguyên lý của Tiên gia. Đạo Tiên có mười giống tu luyện khác nhau. Nếu người nào có tiên phong đạo cốt mà gặp đặng một vị minh sư truyền trao mối đạo, chỉ rõ chỗ diệu thuật của Tiên gia, thì có thể khám phá cái màn bí mật của Tạo hóa, rồi tuân theo đó mà luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư.

Chừng đó, một ngôi Thái cực sẽ trở lại Vô cực, từ chỗ đơn điền thăng lên ấn đường có ánh tia sáng chói lòa trên tung môn, rồi nguyên khí sẽ châu lưu trong cơ thể, dầu cho phong, hàn, thử, thấp, táo và hỏa của võ trụ, có xung đột thái quá đi nữa, thì cũng không thể nào cảm nhập vào thân thể của ta đặng. Như vậy, có phải là kiếp kiếp đời đời an nhàn tự tại hay không?".

Vợ hỏi : "Sao gọi là khám phá cái màn bí mật của Tạo hóa? Xin phu tướng giải cho thiếp rõ".

Chồng đáp: "Phải lắm! Người học đạo Tiên cần phải thấu đáo chỗ chí lý đó mới đúng. Thôi! Để tôi nói cho hiền thê rõ. Số là chỗ cùng lý tuần hoàn của Tạo hóa không có một vật nào thoát khỏi ngoài phạm vi ấy đặng.

Bây giờ thí dụ thân thể của con người thì đủ biết. Khi ban sơ mới sanh, thì kêu là "sanh". Từ 20 tuổi sắp lên cho tới 35 tuổi, thì cơ thể của ta chỉ thường trụ trong một thời gian ấy, chưa đến nỗi biến thiên cho mấy, nên kêu là "trụ". Đến chừng 35 tuổi sắp về sau, thì lần lần dời đổi nhiều, như là : da nhăn, má cóp, đầu bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, khác hơn thuở thiếu niên thập bội, cho nên gọi là "dị". Trải qua một cuộc suy đồi, đến chừng vô thường câu thúc thì thấy một gò đất sờ sờ mà ngàn năm ly biệt, mặc tình gió thổi sương sa, trải bao phen thỏ lặn ác tà; đó gọi là "diệt".

Phàm ăn của thổ thì hườn cho thổ; từ thiên tử cho đến thứ dân, không ai có thể tránh khỏi cái công lệ đào thải ấy cả. Như vậy có phải: "sanh sanh hóa hóa là lẽ của thiên nhiên, tử tử sanh sanh là con đường của nhơn loại không?

Kìa! Quan Âm rước khách tới lui không mãn hạn; con Tạo đưa người qua lại chẳng nghĩ ngừng!

Những người tu theo đạo Tiên, nếu biết chổ công dụng của hóa công tùy theo lý thiên nhiên mà vận chuyển, thì mới đạt được cái mục đích "trường sanh". Không bị những cảnh sanh, trụ, dị, diệt của vô thường biến đổi nữa, không khổ về sự già và chết. Như thế là khám phá cái màn bí mật của Tạo hóa chớ gì!".

Vợ hỏi: "Theo như lời của phu tướng nói đó, nếu đã rõ chỗ huyền bí mà tu luyện, thì khỏi chết phải không? Sao thiếp thấy nhiều nhà tu luyện theo đạo Tiên, rốt cuộc cũng bị con quỷ vô thường dẫn vào đường chết, chịu các sự khổ báo nơi Diêm đình, chớ chưa thấy ai đặng trường sanh cả. Như vậy chỗ nào là công hiệu đâu?".

Chồng đáp: "Nếu người nào tu luyện theo bí truyền của Tiên gia, thì đến ngày kết quả, đặng tiêu diêu khoái lạc lắm chứ! Hiền thê thấy chết đó là huyễn thân của con người; còn thánh thai kia cùng khí hư không đồng một thể, nên đồng thọ đặng".

Vợ hỏi: "Sao gọi là Thánh thai?".

Chồng đáp: "Thánh thai là luyện thần cho củng cố, thủy hỏa đăïng giúp nhau, có chỗ an lư lập đảnh, rồi dùng cữu tiết huyền công cho đủ cái công phu chín tháng cưu mang, ba năm bú móm, đến ngày thánh thai viên mãn, thì huyễn chất này rã ra, duy còn thánh thai mà thôi. Vậy mới gọi là kết liễu".

Vợ hỏi: "Thánh thai kết quả ra thế nào mà đặng an nhàn khoái lạc"

Chồng đáp: "Hiền thê hỏi đúng lắm! Nếu người luyện thánh thai được viên mãn rồi, mà muốn nhàn du đến chốn Tử phù hay là chốn Ngao cung, thì trên đảnh thấy tiên hạc bay múa. Còn như muốn dạo xem cảnh Đơn đài hay là cảnh Quỳnh uyển, thì dưới chân thấy mây bủa khắp giăng. Ngũ hành chẳng hay rèn đúc thân ta, ông Đế thích chẳng đặng chủ sự sống chết, và vua Diêm vương cũng chẳng đặng nắm sổ luân hồi sanh tử.

Đó có phải là ra vào tự tại, tới lui thung dung, lửa kiếp đốt cảnh trần, mà ta chỉ an vui nơi cảnh Tiên, ruộng dâu hóa biển, mà ta chỉ tịnh dưỡng nơi chốn Bồng lai!

Như vậy thì còn chi hơn nữa đâu mà sao hiền thê cứ bo bo tụng kinh niệm Phật, không thấy hiệu quả chi cả. Tôi nghĩ lại ở đời, thiệt là đại đạo khó tìm, nhơn thân khó phục".

Nàng Kỷ thị thấy chồng trọng kính đạo Tiên như thế, bèn hỏi rằng: "Phu tướng nói bên đạo Tiên có mười giống tu luyện khác nhau, vậy xin kể hết cho thiếp rõ cách tu luyện của mỗi giống ra thế nào?".

Chồng đáp: "Mười giống Tiên là:

1.- Tiên Địa hành

2.- Tiên Phi hành

3.- Tiên Du hành

4.- Tiên Không hành

5.- Tiên Thiên hành

6.- Tiên Thông hành

7.- Tiên Đạo hành

8.- Tiên Chiêu hành

9.- Tiên Tinh hành

10.-Tiên Tuyệt hành

- Tiên Địa hành tu phép kiên cố về sự sắt đá như: lấy đá, chì bào chế và hiệp lại làm hoàn, hay làm bánh để ăn thường thường, lâu năm thì thân thể rất mạnh mẽ, sống lâu đời đời, nhưng chưa nhẹ mình mà bay được, nên gọi là Tiên Địa hành nghĩa là Tiên đi dưới đất.

Xưa có ông A Tư Đà và ông Bành Tiên tu như vậy".

Vợ đối lại: "Phép tu của giống Tiên ấy còn thua phép Phật. Bên đạo Phật, thì uống nước Cam lồ, ăn cơm Thiền như cơm của ngài Kim Ngưu, bánh của ngài Vân Môn, đều lấy cái tư vị trong đạo lý ra mà làm món ăn dùng; hể một phen vào lòng thì đời đời kiếp kiếp no luôn, không khi nào đói nữa.

Còn Tiên Phi hành tu thế nào, xin phu tướng tỏ cho thiếp biết nữa".

Chồng đáp: "Tiên Phi hành tu phép kiên cố về sự dùng chất thảo mộc như là: cỏ chỉ tía, củ huỳnh tinh, rễ xương bồ hay là trái cây tòng bá và các thứ hoa quả để ăn thường thường, lâu năm thì trong mình nhẹ nhàng, đi mau như bay, nên gọi là Tiên Phi hành nghĩa là Tiên đi rất lẹ.

Xưa có ông Mao Công và nàng Mao Nữ tu như vậy".

Vợ đối lại: "Tiên Phi hành tu như thế cũng thua tu Phật. Vị thuốc A-Di-Đà tức là để chửa hết thảy bịnh của chúng sanh; hể dùng thuốc ấy thoa vào mình, thì bao nhiêu căn kiếp bó buộc lâu nay đều vỡ tan cả; thân như hư không, muốn đi chơi nơi nào, dù cách núi cách sông, thì cũng không ngăn ngại đặng.

Uống thuốc ấy vào bụng, thì trừ hết ngàn muôn sự khổ, thọ mạng đến vô lượng vô biên, không đời kiếp nào chết nữa.

Còn Tiên Du hành tu thế nào, xin phu tướng giải cho thiếp biết".

Chồng đáp: "Tiên Du hành tu phép kiên cố về sự kim thạch như: luyện năm thứ vàng, tám thứ đá, dưỡng sa tiếp hống thành ra đơn cữu chuyển đại hườn, biến cát đá làm vàng, hóa xác phàm làm Tiên, thân thể rất nhẹ nhàng và rất đẹp đẻ.

Trong một phút đồng hồ, thứ Tiên ấy đi hơn mười ngàn cây số (10.000km), nên gọi là Tiên Du hành nghĩa là Tiên hay đi dạo.

Xưa có ông Lữ đồng Tân và bà Hiển Tiên Cô tu như vậy".

Vợ đối lại: "Phép ấy cũng thua Phật; vì Ngài chỉ dạy mở cái kho báu của mình mà chứng vào cái pháp thân bền chắc, lấy thần thông mà dạo khắp cõi Tịnh độ mười phương, há tất phải đợi hòa đại viên thành, rồi mới đặng dạo đi trong cái địa cầu nho nhỏ.

Còn phép tu Tiên Không hành ra sao?".

Chồng đáp: Tiên Không hành tu phép kiên cố về sự động tịnh như : luyệïn về khi động, thì chà xát trong mình, hay là bưng bợ các vật. Còn nếu luyện về khi tịnh, thì vận cái hơi thở cho điều hòa mà tản bố trong châu thân, ăn ngủ có chừng, đứng ngồi cẩn thận, thường thường như vậy mới gọi là: luyện tinh đem về khí, luyện khí đem về thần, luyện thần đem về hư không, lông cánh mọc ra, bay đi khắp xứ, nên gọi là Tiên Không hành nghĩa là Tiên dạo đi trên hư không.

Xưa có ông Sinh Dương bưng cả vườn và nhà đi mất, ông Liệt Tử cỡi gió đi chơi, tức là tu phép ấy".

Vợ đối lại: "Phép ấy cũng thua phép Phật, vì bên đạo Phật không cần phải nương theo hơi thở, chẳng thèm tùy theo hình sắc và các khí: đất, nước, lửa và gió chi cả, chỉ dùng cái vô tướng chơn thân mà dạo khắp cả ngàn muôn hư không thế giới.

Còn Tiên Thiên hành tu thế nào, xin phu tướng cũng tỏ cho thiếp biết".

Chồng đáp: "Tiên Thiên hành tu phép kiên cố về sự tân dịch như là: nhả hơi cũ ra, hút hơi mới vào, nuốt dãi ngọc nuôi lòng, động ao trời kêu tiếng. Nếu thường luyện như vậy, thì lửa trời giáng xuống, nước thăng lên mà kết thành nội đơn, tinh đã vững bền, hình cũng sáng nhuận, da trắng như hột tuyết, mặt trẻ như con thơ, lên xuống trên cõi hư không, lui tới trong cung Thiên đế nên gọi Tiên Thiên hành nghĩa là Tiên dạo đi trên trời.

Các vị thần ở núi Cô dịch tu phép ấy".

Vợ đối lại: "Phép ấy cũng thua phép Phật, vì Đức Thích Ca nói rằng: cái tánh chơn không của người vẫn khắp tràn pháp giới, thông suốt mười phương, đi đủ các cõi, không khi nào tiêu dứt. Còn như nước miếng nước dãi, chẳng qua là một chút bọt nước trong biển Hương thủy trôi ra, hể xác người còn thì nó gởi vào, xác người rã thì nó tan mất, đâu phải là chơn thật mà cần phải tu luyện kiên cố!

Lại phép tu của giống Tiên Thông hành ra sao, cũng xin phu tướng nói cho thiếp rõ".

Chồng đáp: "Tiên Thông hành tu phép kiên cố về sự tinh sắc như: sớm mai nhắm mắt ngó xuống hướng Đông hút lấy tinh khí của mặt trời, rồi ban đêm hút lấy mấy món khí của năm ngôi sao với mây và rán mà hút vào bụng. Nếu thường luyện như vậy, thì trong lòng dưỡng đặng cái tinh khí rất tốt, không còn chút gì nhơ bợn, chỉ có một mùi thanh hư; vậy hay đi phủng đá vàng, nhảy vào nước lửa, mà thân thể không hề chi hết, nên gọi là Tiên Thông hành nghĩa là Tiên đi thông đặng cả.

Xưa có năm vị Tiên Ngũ thông và ông Trang bá Vi tu như vậy".

Vợ đối lại: "Tu phép ấy cũng thua phép Phật; vì hể tỏ ngộ đặng Phật tánh, thì cái tánh thể quang minh của mình sáng chói cả trời đất; còn trước cửa lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) soi chỗ nào cũng đều đặng thông suốt, chẳng đợi hút lấy tinh khí của mặt trời mặt trăng mới là thông đặng.

Còn phép tu của giống Tiên Đạo hành thế nào?".

Chồng đáp: "Tiên Đạo hành tu phép kiên cố về sự chú thuật như là: vẻ bùa niệm chú, chửa các bệnh tà, cấm phục các món độc, trừ các thứ quỷ, bảo hộ cho nhơn quần, tu luyện lâu năm thì tinh thần êm lặng, rồi cũng đặng thành đạo nên gọi là Tiên Đạo hành nghĩa là Tiên có đạo giúp người.

Xưa có ông Vu Cát và ông Trương đạo Lăng tu như vậy".

Vợ đối lại: "Tu Tiên Đạo hành cũng còn thua tu Phật; vì các bộ chú của Phật mầu nhiệm cao tuyệt, cái mãnh lực chẳng những làm cho biển khơi khô nước, cây chết nảy bông mà thôi, lại còn hay chuyển bực phàm thành bực Thánh, đổi thân "vọng" chứng thân "chơn" nữa.

Còn các chú Tiên Địa hành thì chỉ cứu độ tật bệnh, ếm trừ ma quái, sai khiến quỷ thần mà thôi, chớ đâu có thoát đặng ra ngoài Tam giới.

Còn phép tu của Tiên Chiêu hành ra sao, xin phu tướng tỏ cho thiếp hiểu".

Chồng đáp: "Tiên Chiêu hành tu phép tu kiên cố về sự tư tưởng như là: buộc cái tinh thần tư tưởng ở dưới rún thấu xương tròn, thăng lên xương sống, suốt tới ót rồi xông thẳng lên đảnh môn mà xuất thần. Nếu thường luyện như vậy, thì cái tư tưởng ấy biến thành, mà thân thể có hào quang tỏ rạng, nên gọi là Tiên Chiêu hành nghĩa là Tiên đặng phép hồi quang.

Xưa có ông Trương tử Đương và ông Ngụy bá Dương tu như vậy".

Vợ đối lại: "Phép của thứ Tiên ấy cũng thua phép Phật; vì cái đạo mầu nhiệm của Phật, chẳng nghĩ đến sự lành và dữ, dứt bỏ hết tư tưởng về hai bên thiện ác, thì cái tánh thể trong sạch sáng suốt của mình soi khắp cả vô biên thế giới; chớ đâu phải cần dùng tới cái tư tưởng như phép tu của Tiên Chiêu hành mới đặng".

Còn cách tu của Tiên Tinh hành thế nào?".

Chồng đáp: "Tiên tinh hành tu phép kiên cố về sự giao cấu như là: trai tơ gái trẻ, phối hiệp âm dương, lấy khãm thủy mà điều ly hỏa, đặng kết lại cái thai tiên. Nếu thường luyện như vậy hoài, thì hai bên cảm ứng nhau mà đẻ ra một thứ thuốc rất mầu, thành ra "đại đơn"; vì trong thân con người có một điểm chơn tinh, tức là cái nguyên tinh của Tiên thiên Thái ất, hể lấy đặng cái tinh ấy thì đặng thành đạo liền, nên gọi là Tiên Tinh hành nghĩa là Tiên dùng tinh mà luyện.

Xưa có ông Lữ đồng Tân tu như vậy".

Vợ đối lại: "Phép của thứ Tiên ấy cũng thua phép Phật; vì phép Phật chỉ cần hườn đặng cái "chơn thân", chớ chẳng cần dùng tới cái "Tinh khí thần" của xác giả; vì tinh khí ấy là vật chất dơ uế, còn cái thân đó là thức thân thuộc về vọng tưởng, chớ không phải là nguyên thần thuộc về chơn giác.

Vậy nên xem sắc gái như rắn độc, coi xác phàm như đờm dãi, tuyệt dâm dục, ly tình ái, để phản bổn hườn nguyên, thoát khỏi sanh tử luân hồi, chứng Niết bàn.

Còn phép tu của giống Tiên Tuyệt hành ra sao, cũng xin phu tướng nói luôn cho thiếp biết đủ mười giống?".

Chồng đáp: "Tiên Tuyệt hành tu phép kiên cố về sự biến hóa, tỏ thông đặng hóa lý, biết đặng phép giả mị như: tu luyện lâu năm, thì tánh được tỏ ngộ viên thành làm đủ các thuật, ẩn thân tàng hình, dời non đổi biển, mầu nhiệm tuyệt trần, nên gọi là Tiên Tuyệt hành nghĩa là Tiên về bực cao tuyệt.

Xưa có ông Lưu Côn và ông Tạ Tử tu như vậy".

Vợ đối lại: Phép ấy cũng còn thua tu Phật; vì phép biến hóa của Phật chẳng những đương mùa Đông mà làm cho trời nổi sấm, đương mùa Hạ mà làm cho nước đóng giá, và khiến cho loài chim chạy và thú bay mà thôi, đến nỗi biến Ta bà làm thành ra Tịnh độ, dùng Địa ngục hóa ra Thiên đường mới thiệt là tuyệt diệu nữa!

Còn cảnh giới của đạo Tiên vui cách nào, xin phu tướng cũng tỏ cho thiếp biết luôn thể".

Chồng đáp: "Kìa non Quần ngọc, nọ nước Bồng dinh, phụng múa Tam sơn, rồng chầu Ngũ nhạc, phong quang đẹp đẽ, nhơn vật thanh cao. Tiên nữ như bà Vương Mẫu, bà Ma Cô, bà Ngụy phu nhơn, bà Tạ tự Nhiên; còn Tiên ông như Hớn chung Ly, Lý thái Bạch, Trương quả Lão, Tào quốc Cựu, nhan sắc non hoài, tánh tình vui mãi, thiệt không có chút gì mường tượng như cảnh trần người thế cả.

Còn nói đến phần thanh nhã thì Kim Đồng hầu hạ, Ngọc Nữ truy tùy, khi dựa rừng xanh, khi chơi động bích, khi nương cánh hạc bay khắp mười phương, lúc cỡi lưng kình dạo cùng bốn bể, vừng mây đở gót, ngọn gió đưa xe, trăng rước hoa chào, oanh cười yến nói, hoặc mang bầu rượu, hoặc xách túi thi, hoặc đánh cờ Mai hoa, hoặc khảy đờn Minh nguyệt. Thiệt là thú vui không thể nói được!

Rất đổi tiếng Hoàn bội khua nhà Lâm quán, rượu Huỳnh tương say hội Bàn đào, ông Quảng thành Tử nhịp sanh, ông Vương tử Đăng thổi sáo, ông Hàn tương Tư cầm ống tiêu Nhựt nguyệt, ông Lâm thái Hòa xách giõ Càn khôn, chị Song Thành ganh bóng Hằng nga, áo vô phục lòe ve múa, gái Tiêu ngọc hòa câu ca Đế Tư, chốn lê viên thánh thót cung đờn, thong thả năm mùa, dọc ngang trời đất.

Cái thân khoái lạc ấy thì những hạng người phong lưu ở cõi hồng trần không có chút gì so sánh được một phân một hào nào cả.

Vã lại, ưa tình sơn thủy, rữa bụi công danh, xem giàu sang như bọt nước sương sa, luyện tâm tánh như trăng thanh gió mát, lửa cữu chuyển un lò đơn táo, đá tam sanh say giấc hoàn lương, chẵn tám ngàn hưởng tuổi trường sanh, thú khoái lạc sâm si trời Ngọc đế. Ấy là Tiên cảnh khác hẳn nhơn gian như vậy.

Còn cảnh Tịnh độ của Phật có vui được như cảnh Tiên vậy hay không?".

Nếu phu tướng chưa đem lòng tin rằng phương pháp của đạo Phật cao siêu hơn phép thuật của đạo Tiên, xin cho phép thiếp nhắc lại sự tích của một người khác, trước tu Tiên rồi sau trở lại tu Phật, cho phu tướng nghe.

Nguyên ông Lữ Đồng Tân là người ở xứ Kinh Triệu, đời nhà Đường, hiệu là Thuần Dương Tứ.

Ban sơ, ông học Nho, đã thi ba lần không đậu. Sẵn dịp ông gặp Ngài Hớn Chung Ly, Ngài dẫn ông về non Chung Nam ở trọn bảy năm và truyền cho đủ các phép Tiên thuật.

Một bữa kia, ông Lữ Đồng Tân muốn đi đến cả miền thế gian mà độ người, bèn vào xin phép thầy.

Ngài Hớn Chung Ly bằng lòng, lại lấy gươm báu trao cho ông và dạy rằng : " Gươm này của thầy ta là Đông Họa Đế Quân truyền lại cho ta. Muốn sát hại người nào thì phải biết trước tên họ và chỗ ở của người ấy, rồi niệm một câu chú, gươm đó hóa ra rồng xanh bay đến chỗ đó mà chém đầu. Nay ta giao cho ngươi đem theo mà hộ thân, song ngươi phải nhớ ba điều này : Một là đừng chọc ghẹo thầy chùa, hai là đừng để mất gươm báu này và ba là ngươi đi mãn ba năm rồi phải trở về đây. Nếu ngươi cãi lời thì ta không dung thứ ".

Ông Lữ Đồng Tân phụng mạng, lạy thầy mà lãnh gươm, rồi từ từ hạ san.

Ông đi đủ các xứ, đã mãn kỳ ba năm mà không độ được người nào. Một bữa kia, ông đi ngang qua xứ Huỳnh Long, nghe nói tại nhà quan Phó Công tên là Vĩnh Thiện có thiết một cuộc chay để làm lễ trai tăng cúng dường các nhà sư.

Ông bèn vào chơi và muốn dự lễ trai ấy, nhưng ông Phó Công nói rằng : " Ta cúng dường đệ tử của Phật, chớ không phải cúng dường đệ tử của Tiên. Vậy ngươi không được phép vào dự tiệc này ! ".

Ông Lữ Đồng Tân bèn hỏi : " Phật nhà ông có đạo đức gì mà ông trọng như thế ? ".

Ông Phó Công trả lời : " Thôi, đừng nói chi đến chuyện các Phật sống thuở trước ! Hiện nay, có hòa thượng Huệ Nam ở chùa Huỳnh Long thường thuyết pháp độ người được mấy chục ngàn rồi. Còn đạo Tiên của ngươi lâu nay có độ được người nào chưa ? ".

Ông Lữ Đồng Tân nghe hỏi như vậy, lấy làm thẹn, quên lời thầy căn dặn, liền đi đến núi Huỳnh Long quyết tìm hòa thượng Huệ Nam mà đấu phép.

Khi đến nơi, ông vừa gặp sư cụ đang lên nhà giảng đường. Ông bèn lén xen vào hàng đại chúng, ngờ đâu hòa thượng biết trước, bèn nói rằng : " Hôm nay ta không thuyết pháp ! Ta có một lời chuyển ngữ hỏi đại chúng ...".

Sư cụ vừa mới nói tới đó thì thầy một người (tức là ông Lữ Đồng Tân) ở trong hàng đại chúng bước ra, cười rồi hỏi rằng : " Hòa thượng có câu chi, xin nói mau mau !".

Sư cụ nói tiếp :

Lão tăng năm nay lớn gan

Đóng trai dưới núi rồng vàng

Tay áo tuốt ra roi sắt

Đánh tan Thế Giới ba ngàn

Ông Lữ Đồng Tân vỗ tay cười và đáp lại : " Hòa thượng năm trước chẳng lớn gan, năm ngoái chẳng lớn gan, sang năm chẳng lớn gan, chỉ có năm nay lớn gan. Xin hòa thượng cho phép tôi trả lời :

Gan ta lúc này to đại

Chuyên sự hơn thua cướp trại

Giật quách roi sắt trong tay

Để lại ba ngàn Thế Giới

Ông Lữ Đồng Tân bèn nói tiếp : " Bốn câu của hòa thượng tầm thường, không lạ chi ! Tôi có một lời chuyển ngữ này, như hòa thượng trả lời được thì chém tôi, còn như không trả lời được thì tôi chém hòa thuợng ".

Sư cụ bằng lòng, rồi ông Lữ Đồng Tân đọc bài kệ như sau :

Thiết vàng cày đất trỉa kim tiền

Thằng đá con con xỏ chuỗi liên

Hột lúa chứa xong bầu thế giới

Nửa nồi nấu đủ cuộc sơn xuyên

Mấy ông Lão Tử khi thùy địa

Tay của Hồ tăng lúc chỉ thiên

Huyền ấy chớ rằng chưa hết lực

Trong huyền, huyền ấy lại không huyền

Hòa thượng Huệ Nam liền đáp lại :

Sẵn lò hồng để trĩa kim tiền

Mãnh sáng kia, ai xỏ đặng liền

Hột lúa hóa đặng ba ngàn giới

Biển lớn thâu về đủ bách xuyên

Tháng hạ đầu lò phun mãnh hỏa

Trời đông đáy nước nạp lương thiên

Chân như ai tỏ trong thiền ấy

Trong thiền, thiền ấy có sanh thiền

Ông Lữ Đồng Tân nghe mấy câu kệ, biết mình đã thua, nhưng ông còn gượng hỏi : " Hòa thượng nói rằng hột lúa hóa ra ba ngàn thế giới, hòa thượng thua rồi !".

Sư cụ bảo rằng : " Ngươi muốn điều chi thì lại gần đây mà nói, chớ ta đã điếc mà ngươi còn đứng xa nói thì ta nghe không đặng ".

Ông Lữ Đồng Tân tưởng thật, bèn bước lại gần bên, ngờ đâu thình lình sư cụ nhanh tay chụp đầu ông níu lại mà hỏi : " Ngươi nói rằng một hột lúa chẳng hóa đặng ba ngàn thế giới thì ngoài cái nồi nửa cân của ngươi còn nấu những vật gì?".

Ông Lữ Đồng Tân nghe hỏi như vậy, bèn nghẹn họng, không đáp lại được.

Sư cụ liền hỏi tiếp : " Nếu y theo lời giao ước của ngươi, ta phải chém đầu ngươi. Nhưng vì đạo Phật của ta cấm sát sanh nên ta tha cho ngươi đó ".

Nói rồi, sư cụ lấy cái giải xích mà đánh trên đầu ông Lữ Đồng Tân một cái, làm cho ông mắc cỡ đỏ mặt, liền lui ra ngoài, nghênh mặt lại ngó trộm sư cụ, rồi cười ba tiếng, lắc đầu ba cái, vỗ tay ba hiệp và mang gươm đi thẳng vào núi.

Đến chỗ vắng vẻ không người, ông bèn rút gươm báu ra, họa bùa niệm chú, rồi dặn gươm bay tới chùa Huỳnh Long mà giết hòa thượng Huệ Nam. Dặn dò xong, ông bèn hét lên một tiếng, gươm ấy liền hóa ra con rồng xanh bay thẳng đến nhà phương trượng của sư cụ.

Khi ấy, hòa thượng Huệ Nam thấy con rồng xanh bay liệng trên hư không, liền lấy ngón tay chỉ lên, tức thì con rồng xanh bèn hóa lại gươm, rồi rơi xuống cắm dưới ao bùn.

Ông Lữ Đồng Tân ngồi trên núi trông đợi hơn nửa ngày mà không thấy con rồng xanh trở về, bèn niệm chú thâu gươm lại mà không thấy gì !

Lúc ấy, hồn vía của ông sảng lạc, không biết tính sao, phải liều mạng chạy xuống chùa Huỳnh Long để tìm gươm báu.

Đến nơi, ông gặp Ngài Huệ Nam và hỏi rằng : " Xin hòa thượng trả gươm lại cho tôi ".

Sư cụ đáp : " Ai mượn gươm của ngươi mà ngươi đến đòi ? Nó cắm dưới ao bùn kia, ngươi ra đó mà lấy !".

Ông Lữ Đồng Tân nghe nói, liền chạy ra ao, cúi xuống nắm gươm, ráng hết sức bình sinh mà nhổ lên, nhưng gươm chẳng nhúc nhích !

Sư cụ thấy vậy, bèn nói : " Ngươi muốn giết ta, ta chẳng trả gươm ấy lại cho ngươi. Ngươi có giỏi thì tự nhổ lấy !".

Ông Lữ Đồng Tân bèn năn nỉ sư cụ : " Hòa thượng dùng phép thuật mà cắm trụ gươm ấy rồi, tôi làm sao nhổ lên nổi ! Vậy xin hòa thượng có lòng từ bi, muốn trả gươm cho tôi thì xin nhổ lên giùm !".

Sư cụ bèn đáp : " Ta có bốn câu kệ, nếu ngươi hiểu được thì ta trả gươm lại cho ngươi ".

Nói rồi, Ngài lấy một tờ giấy, vẽ một cái vòng. Trong vòng ấy, có chấm một điểm, rồi dưới cái vòng lại đề bốn câu kệ như sau :

Đầu gươm có đơn hẳn

Lòng đơn sẵn gươm rồi

Bằng ai hiểu nhơn ấy

Ắt thoát khỏi luân hồi.

Ông Lữ Đồng Tân xem đi xem lại một hồi lâu mà không hiểu chi cả. Hòa thượng thấy vậy, bèn niệm chú rằng : " Án Hộ Pháp thần linh tốc tốc hiện hình". Niệm xong, ông Hộ Pháp hiện đến. Sư cụ bèn bảo rằng : " Ngài phải đem tên này giam cầm trong núi Khổn Ma Nham, mỗi ngày chỉ cho ăn một cái bánh thôi. Chừng nào nó tỏ ngộ được thiền cơ, Ngài dẫn nó tới đây cho ta hỏi".

Ông Hộ Pháp phụng mạng, bảo ông Lữ Đồng Tân đi, ông dùng dằng không chịu đi. Ông Hộ Pháp bèn nói lớn rằng : " Đi mau, kẻo cái bảo xử của ta đây nặng hơn tám vạn bốn ngàn cân xán xuống một cái thì thịt xương ngươi nát như bùn !".

Ông Lữ Đồng Tân nghe nói thất kinh hồn vía, bèn riu ríu đi theo, không dám cãi nữa !

Một hôm, nhân lúc ông Hộ Pháp đi khỏi, ông Lữ Đồng Tân ở trong hang đá bèn tự nghĩ rằng : " Khi mình hạ san, thầy có căn dặn đừng có chọc ghẹo thầy chùa. Bởi vì mình dại, không nghe lời thầy, cho nên mới bị nạn như vậy ! Còn ông hòa thượng nói rằng chừng nào mình tỏ ngộ được thiền cơ thì mới tha tội cho mình, mà biết đời kiếp nào mình mới tỏ ngộ được thiền cơ ? Cổ nhân nói rằng : Tam thập lục kế dĩ đào vi thượng. Ở đây khổ cực lắm, chịu không nổi ! Vậy mình tính việc trốn đi thì tiện hơn ".

Trùng Dương

View Public Profile

Visit Trùng Dương's homepage!

Find all posts by Trùng Dương

#2 11-25-2004, 12:23 PM

Trùng Dương

Registered User

Join Date: Oct 2004

Posts: 78

PHU THÊ LUẬN ĐẠO

Hồi đời Lưu Tống, tại huyện Câu Dưng, có tên Các Tế, lúc còn nhỏ đã nổi tiếng văn chương xuất chúng và thông minh trí tuệ hơn người.

Lúc chàng mới được 25 tuổi, thì đã thi đậu Tấn sĩ, được vua bổ làm quan Tri huyện tại tỉnh Trí Xuyên, thường mộ học về Tiên thuật.

Sau khi chàng được tên đề bảng hổ, nhẹ bước thang mây, thì đã cưới một người nội trợ tên Kỷ thị, vốn là con nhà trâm anh thế phiệt, tánh tình rất ôn hòa thuần hậu.

Từ khi về nhà chồng, nào là công dung ngôn hạnh, nào chỉnh đốn gia đình, thì cũng là một tay nàng mà thôi. Lại thêm ham mộ Phật giáo, mỗi đêm nàng thường tụng kinh niệm Phật, trang nghiêm trai giới.

Chàng Các Tế thấy vợ tín ngưởng Phật giáo như vậy, tuy không nói chi, nhưng trong lòng vẫn cho là hư vô ảo tưởng.

Có một ngày kia việc quan đã rảnh, chàng bảo thị tỳ kêu vợ vào thơ phòng mà bàn chuyện.

Khi thấy nàng Kỷ thị đến, chàng bảo ngồi trên ghế rồi nói rằng: " Số là từ ngày hiền thê về nhà tôi đến nay, thì phu xướng phụ tùy, cảnh gia đình rất nên êm đềm hòa nhã; nhưng đêm nào tôi cũng thấy hiền thê cứ tụng kinh niệm Phật hoài, thiệt là trái hẳn với tư cách tu tâm dưỡng tánh của Tiên gia".

Nàng Kỷ thị thưa rằng: "Cách Tiên gia tu luyện thế nào mà phu tướng cho là chơn chánh?".

Chồng đáp rằng: "Tưởng hiền thê không hỏi, chớ nếu hỏi thì tôi nói cho hiền thê nghe. Đạo Tiên là một đạo trường sanh bất tử (1): nếu ai đặng điểm đạo và cứ y theo đó mà tu luyện cho hoàn toàn, thì có thể sánh với hư không trường tồn bất hoại".

Vợ hỏi: "Con người có sanh có diệt là lẽ tự nhiên, không có một vật nào tránh khỏi cái công lệ ấy, mà phu tướng lại nói rằng: nếu tu luyện theo đạo Tiên chắc sẽ đặng trường sanh bất tử, thì trái hẳn với luật vô thường".

Chồng đáp: "Hiền thê vốn chưa thấu đáo cái nguyên lý của Tiên gia. Đạo Tiên có mười giống tu luyện khác nhau. Nếu người nào có tiên phong đạo cốt mà gặp đặng một vị minh sư truyền trao mối đạo, chỉ rõ chỗ diệu thuật của Tiên gia, thì có thể khám phá cái màn bí mật của Tạo hóa, rồi tuân theo đó mà luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư.

Chừng đó, một ngôi Thái cực sẽ trở lại Vô cực, từ chỗ đơn điền thăng lên ấn đường có ánh tia sáng chói lòa trên tung môn, rồi nguyên khí sẽ châu lưu trong cơ thể, dầu cho phong, hàn, thử, thấp, táo và hỏa của võ trụ, có xung đột thái quá đi nữa, thì cũng không thể nào cảm nhập vào thân thể của ta đặng. Như vậy, có phải là kiếp kiếp đời đời an nhàn tự tại hay không?".

Vợ hỏi : "Sao gọi là khám phá cái màn bí mật của Tạo hóa? Xin phu tướng giải cho thiếp rõ".

Chồng đáp: "Phải lắm! Người học đạo Tiên cần phải thấu đáo chỗ chí lý đó mới đúng. Thôi! Để tôi nói cho hiền thê rõ. Số là chỗ cùng lý tuần hoàn của Tạo hóa không có một vật nào thoát khỏi ngoài phạm vi ấy đặng.

Bây giờ thí dụ thân thể của con người thì đủ biết. Khi ban sơ mới sanh, thì kêu là "sanh". Từ 20 tuổi sắp lên cho tới 35 tuổi, thì cơ thể của ta chỉ thường trụ trong một thời gian ấy, chưa đến nỗi biến thiên cho mấy, nên kêu là "trụ". Đến chừng 35 tuổi sắp về sau, thì lần lần dời đổi nhiều, như là : da nhăn, má cóp, đầu bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, khác hơn thuở thiếu niên thập bội, cho nên gọi là "dị". Trải qua một cuộc suy đồi, đến chừng vô thường câu thúc thì thấy một gò đất sờ sờ mà ngàn năm ly biệt, mặc tình gió thổi sương sa, trải bao phen thỏ lặn ác tà; đó gọi là "diệt".

Phàm ăn của thổ thì hườn cho thổ; từ thiên tử cho đến thứ dân, không ai có thể tránh khỏi cái công lệ đào thải ấy cả. Như vậy có phải: "sanh sanh hóa hóa là lẽ của thiên nhiên, tử tử sanh sanh là con đường của nhơn loại không?

Kìa! Quan Âm rước khách tới lui không mãn hạn; con Tạo đưa người qua lại chẳng nghĩ ngừng!

Những người tu theo đạo Tiên, nếu biết chổ công dụng của hóa công tùy theo lý thiên nhiên mà vận chuyển, thì mới đạt được cái mục đích "trường sanh". Không bị những cảnh sanh, trụ, dị, diệt của vô thường biến đổi nữa, không khổ về sự già và chết. Như thế là khám phá cái màn bí mật của Tạo hóa chớ gì!".

Vợ hỏi: "Theo như lời của phu tướng nói đó, nếu đã rõ chỗ huyền bí mà tu luyện, thì khỏi chết phải không? Sao thiếp thấy nhiều nhà tu luyện theo đạo Tiên, rốt cuộc cũng bị con quỷ vô thường dẫn vào đường chết, chịu các sự khổ báo nơi Diêm đình, chớ chưa thấy ai đặng trường sanh cả. Như vậy chỗ nào là công hiệu đâu?".

Chồng đáp: "Nếu người nào tu luyện theo bí truyền của Tiên gia, thì đến ngày kết quả, đặng tiêu diêu khoái lạc lắm chứ! Hiền thê thấy chết đó là huyễn thân của con người; còn thánh thai kia cùng khí hư không đồng một thể, nên đồng thọ đặng".

Vợ hỏi: "Sao gọi là Thánh thai?".

Chồng đáp: "Thánh thai là luyện thần cho củng cố, thủy hỏa đăïng giúp nhau, có chỗ an lư lập đảnh, rồi dùng cữu tiết huyền công cho đủ cái công phu chín tháng cưu mang, ba năm bú móm, đến ngày thánh thai viên mãn, thì huyễn chất này rã ra, duy còn thánh thai mà thôi. Vậy mới gọi là kết liễu".

Vợ hỏi: "Thánh thai kết quả ra thế nào mà đặng an nhàn khoái lạc"

Chồng đáp: "Hiền thê hỏi đúng lắm! Nếu người luyện thánh thai được viên mãn rồi, mà muốn nhàn du đến chốn Tử phù hay là chốn Ngao cung, thì trên đảnh thấy tiên hạc bay múa. Còn như muốn dạo xem cảnh Đơn đài hay là cảnh Quỳnh uyển, thì dưới chân thấy mây bủa khắp giăng. Ngũ hành chẳng hay rèn đúc thân ta, ông Đế thích chẳng đặng chủ sự sống chết, và vua Diêm vương cũng chẳng đặng nắm sổ luân hồi sanh tử.

Đó có phải là ra vào tự tại, tới lui thung dung, lửa kiếp đốt cảnh trần, mà ta chỉ an vui nơi cảnh Tiên, ruộng dâu hóa biển, mà ta chỉ tịnh dưỡng nơi chốn Bồng lai!

Như vậy thì còn chi hơn nữa đâu mà sao hiền thê cứ bo bo tụng kinh niệm Phật, không thấy hiệu quả chi cả. Tôi nghĩ lại ở đời, thiệt là đại đạo khó tìm, nhơn thân khó phục".

Nàng Kỷ thị thấy chồng trọng kính đạo Tiên như thế, bèn hỏi rằng: "Phu tướng nói bên đạo Tiên có mười giống tu luyện khác nhau, vậy xin kể hết cho thiếp rõ cách tu luyện của mỗi giống ra thế nào?".

Chồng đáp: "Mười giống Tiên là:

1.- Tiên Địa hành

2.- Tiên Phi hành

3.- Tiên Du hành

4.- Tiên Không hành

5.- Tiên Thiên hành

6.- Tiên Thông hành

7.- Tiên Đạo hành

8.- Tiên Chiêu hành

9.- Tiên Tinh hành

10.-Tiên Tuyệt hành

- Tiên Địa hành tu phép kiên cố về sự sắt đá như: lấy đá, chì bào chế và hiệp lại làm hoàn, hay làm bánh để ăn thường thường, lâu năm thì thân thể rất mạnh mẽ, sống lâu đời đời, nhưng chưa nhẹ mình mà bay được, nên gọi là Tiên Địa hành nghĩa là Tiên đi dưới đất.

Xưa có ông A Tư Đà và ông Bành Tiên tu như vậy".

Vợ đối lại: "Phép tu của giống Tiên ấy còn thua phép Phật. Bên đạo Phật, thì uống nước Cam lồ, ăn cơm Thiền như cơm của ngài Kim Ngưu, bánh của ngài Vân Môn, đều lấy cái tư vị trong đạo lý ra mà làm món ăn dùng; hể một phen vào lòng thì đời đời kiếp kiếp no luôn, không khi nào đói nữa.

Còn Tiên Phi hành tu thế nào, xin phu tướng tỏ cho thiếp biết nữa".

Chồng đáp: "Tiên Phi hành tu phép kiên cố về sự dùng chất thảo mộc như là: cỏ chỉ tía, củ huỳnh tinh, rễ xương bồ hay là trái cây tòng bá và các thứ hoa quả để ăn thường thường, lâu năm thì trong mình nhẹ nhàng, đi mau như bay, nên gọi là Tiên Phi hành nghĩa là Tiên đi rất lẹ.

Xưa có ông Mao Công và nàng Mao Nữ tu như vậy".

Vợ đối lại: "Tiên Phi hành tu như thế cũng thua tu Phật. Vị thuốc A-Di-Đà tức là để chửa hết thảy bịnh của chúng sanh; hể dùng thuốc ấy thoa vào mình, thì bao nhiêu căn kiếp bó buộc lâu nay đều vỡ tan cả; thân như hư không, muốn đi chơi nơi nào, dù cách núi cách sông, thì cũng không ngăn ngại đặng.

Uống thuốc ấy vào bụng, thì trừ hết ngàn muôn sự khổ, thọ mạng đến vô lượng vô biên, không đời kiếp nào chết nữa.

Còn Tiên Du hành tu thế nào, xin phu tướng giải cho thiếp biết".

Chồng đáp: "Tiên Du hành tu phép kiên cố về sự kim thạch như: luyện năm thứ vàng, tám thứ đá, dưỡng sa tiếp hống thành ra đơn cữu chuyển đại hườn, biến cát đá làm vàng, hóa xác phàm làm Tiên, thân thể rất nhẹ nhàng và rất đẹp đẻ.

Trong một phút đồng hồ, thứ Tiên ấy đi hơn mười ngàn cây số (10.000km), nên gọi là Tiên Du hành nghĩa là Tiên hay đi dạo.

Xưa có ông Lữ đồng Tân và bà Hiển Tiên Cô tu như vậy".

Vợ đối lại: "Phép ấy cũng thua Phật; vì Ngài chỉ dạy mở cái kho báu của mình mà chứng vào cái pháp thân bền chắc, lấy thần thông mà dạo khắp cõi Tịnh độ mười phương, há tất phải đợi hòa đại viên thành, rồi mới đặng dạo đi trong cái địa cầu nho nhỏ.

Còn phép tu Tiên Không hành ra sao?".

Chồng đáp: Tiên Không hành tu phép kiên cố về sự động tịnh như : luyệïn về khi động, thì chà xát trong mình, hay là bưng bợ các vật. Còn nếu luyện về khi tịnh, thì vận cái hơi thở cho điều hòa mà tản bố trong châu thân, ăn ngủ có chừng, đứng ngồi cẩn thận, thường thường như vậy mới gọi là: luyện tinh đem về khí, luyện khí đem về thần, luyện thần đem về hư không, lông cánh mọc ra, bay đi khắp xứ, nên gọi là Tiên Không hành nghĩa là Tiên dạo đi trên hư không.

Xưa có ông Sinh Dương bưng cả vườn và nhà đi mất, ông Liệt Tử cỡi gió đi chơi, tức là tu phép ấy".

Vợ đối lại: "Phép ấy cũng thua phép Phật, vì bên đạo Phật không cần phải nương theo hơi thở, chẳng thèm tùy theo hình sắc và các khí: đất, nước, lửa và gió chi cả, chỉ dùng cái vô tướng chơn thân mà dạo khắp cả ngàn muôn hư không thế giới.

Còn Tiên Thiên hành tu thế nào, xin phu tướng cũng tỏ cho thiếp biết".

Chồng đáp: "Tiên Thiên hành tu phép kiên cố về sự tân dịch như là: nhả hơi cũ ra, hút hơi mới vào, nuốt dãi ngọc nuôi lòng, động ao trời kêu tiếng. Nếu thường luyện như vậy, thì lửa trời giáng xuống, nước thăng lên mà kết thành nội đơn, tinh đã vững bền, hình cũng sáng nhuận, da trắng như hột tuyết, mặt trẻ như con thơ, lên xuống trên cõi hư không, lui tới trong cung Thiên đế nên gọi Tiên Thiên hành nghĩa là Tiên dạo đi trên trời.

Các vị thần ở núi Cô dịch tu phép ấy".

Vợ đối lại: "Phép ấy cũng thua phép Phật, vì Đức Thích Ca nói rằng: cái tánh chơn không của người vẫn khắp tràn pháp giới, thông suốt mười phương, đi đủ các cõi, không khi nào tiêu dứt. Còn như nước miếng nước dãi, chẳng qua là một chút bọt nước trong biển Hương thủy trôi ra, hể xác người còn thì nó gởi vào, xác người rã thì nó tan mất, đâu phải là chơn thật mà cần phải tu luyện kiên cố!

Lại phép tu của giống Tiên Thông hành ra sao, cũng xin phu tướng nói cho thiếp rõ".

Chồng đáp: "Tiên Thông hành tu phép kiên cố về sự tinh sắc như: sớm mai nhắm mắt ngó xuống hướng Đông hút lấy tinh khí của mặt trời, rồi ban đêm hút lấy mấy món khí của năm ngôi sao với mây và rán mà hút vào bụng. Nếu thường luyện như vậy, thì trong lòng dưỡng đặng cái tinh khí rất tốt, không còn chút gì nhơ bợn, chỉ có một mùi thanh hư; vậy hay đi phủng đá vàng, nhảy vào nước lửa, mà thân thể không hề chi hết, nên gọi là Tiên Thông hành nghĩa là Tiên đi thông đặng cả.

Xưa có năm vị Tiên Ngũ thông và ông Trang bá Vi tu như vậy".

Vợ đối lại: "Tu phép ấy cũng thua phép Phật; vì hể tỏ ngộ đặng Phật tánh, thì cái tánh thể quang minh của mình sáng chói cả trời đất; còn trước cửa lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) soi chỗ nào cũng đều đặng thông suốt, chẳng đợi hút lấy tinh khí của mặt trời mặt trăng mới là thông đặng.

Còn phép tu của giống Tiên Đạo hành thế nào?".

Chồng đáp: "Tiên Đạo hành tu phép kiên cố về sự chú thuật như là: vẻ bùa niệm chú, chửa các bệnh tà, cấm phục các món độc, trừ các thứ quỷ, bảo hộ cho nhơn quần, tu luyện lâu năm thì tinh thần êm lặng, rồi cũng đặng thành đạo nên gọi là Tiên Đạo hành nghĩa là Tiên có đạo giúp người.

Xưa có ông Vu Cát và ông Trương đạo Lăng tu như vậy".

Vợ đối lại: "Tu Tiên Đạo hành cũng còn thua tu Phật; vì các bộ chú của Phật mầu nhiệm cao tuyệt, cái mãnh lực chẳng những làm cho biển khơi khô nước, cây chết nảy bông mà thôi, lại còn hay chuyển bực phàm thành bực Thánh, đổi thân "vọng" chứng thân "chơn" nữa.

Còn các chú Tiên Địa hành thì chỉ cứu độ tật bệnh, ếm trừ ma quái, sai khiến quỷ thần mà thôi, chớ đâu có thoát đặng ra ngoài Tam giới.

Còn phép tu của Tiên Chiêu hành ra sao, xin phu tướng tỏ cho thiếp hiểu".

Chồng đáp: "Tiên Chiêu hành tu phép tu kiên cố về sự tư tưởng như là: buộc cái tinh thần tư tưởng ở dưới rún thấu xương tròn, thăng lên xương sống, suốt tới ót rồi xông thẳng lên đảnh môn mà xuất thần. Nếu thường luyện như vậy, thì cái tư tưởng ấy biến thành, mà thân thể có hào quang tỏ rạng, nên gọi là Tiên Chiêu hành nghĩa là Tiên đặng phép hồi quang.

Xưa có ông Trương tử Đương và ông Ngụy bá Dương tu như vậy".

Vợ đối lại: "Phép của thứ Tiên ấy cũng thua phép Phật; vì cái đạo mầu nhiệm của Phật, chẳng nghĩ đến sự lành và dữ, dứt bỏ hết tư tưởng về hai bên thiện ác, thì cái tánh thể trong sạch sáng suốt của mình soi khắp cả vô biên thế giới; chớ đâu phải cần dùng tới cái tư tưởng như phép tu của Tiên Chiêu hành mới đặng".

Còn cách tu của Tiên Tinh hành thế nào?".

Chồng đáp: "Tiên tinh hành tu phép kiên cố về sự giao cấu như là: trai tơ gái trẻ, phối hiệp âm dương, lấy khãm thủy mà điều ly hỏa, đặng kết lại cái thai tiên. Nếu thường luyện như vậy hoài, thì hai bên cảm ứng nhau mà đẻ ra một thứ thuốc rất mầu, thành ra "đại đơn"; vì trong thân con người có một điểm chơn tinh, tức là cái nguyên tinh của Tiên thiên Thái ất, hể lấy đặng cái tinh ấy thì đặng thành đạo liền, nên gọi là Tiên Tinh hành nghĩa là Tiên dùng tinh mà luyện.

Xưa có ông Lữ đồng Tân tu như vậy".

Vợ đối lại: "Phép của thứ Tiên ấy cũng thua phép Phật; vì phép Phật chỉ cần hườn đặng cái "chơn thân", chớ chẳng cần dùng tới cái "Tinh khí thần" của xác giả; vì tinh khí ấy là vật chất dơ uế, còn cái thân đó là thức thân thuộc về vọng tưởng, chớ không phải là nguyên thần thuộc về chơn giác.

Vậy nên xem sắc gái như rắn độc, coi xác phàm như đờm dãi, tuyệt dâm dục, ly tình ái, để phản bổn hườn nguyên, thoát khỏi sanh tử luân hồi, chứng Niết bàn.

Còn phép tu của giống Tiên Tuyệt hành ra sao, cũng xin phu tướng nói luôn cho thiếp biết đủ mười giống?".

Chồng đáp: "Tiên Tuyệt hành tu phép kiên cố về sự biến hóa, tỏ thông đặng hóa lý, biết đặng phép giả mị như: tu luyện lâu năm, thì tánh được tỏ ngộ viên thành làm đủ các thuật, ẩn thân tàng hình, dời non đổi biển, mầu nhiệm tuyệt trần, nên gọi là Tiên Tuyệt hành nghĩa là Tiên về bực cao tuyệt.

Xưa có ông Lưu Côn và ông Tạ Tử tu như vậy".

Vợ đối lại: Phép ấy cũng còn thua tu Phật; vì phép biến hóa của Phật chẳng những đương mùa Đông mà làm cho trời nổi sấm, đương mùa Hạ mà làm cho nước đóng giá, và khiến cho loài chim chạy và thú bay mà thôi, đến nỗi biến Ta bà làm thành ra Tịnh độ, dùng Địa ngục hóa ra Thiên đường mới thiệt là tuyệt diệu nữa!

Còn cảnh giới của đạo Tiên vui cách nào, xin phu tướng cũng tỏ cho thiếp biết luôn thể".

Chồng đáp: "Kìa non Quần ngọc, nọ nước Bồng dinh, phụng múa Tam sơn, rồng chầu Ngũ nhạc, phong quang đẹp đẽ, nhơn vật thanh cao. Tiên nữ như bà Vương Mẫu, bà Ma Cô, bà Ngụy phu nhơn, bà Tạ tự Nhiên; còn Tiên ông như Hớn chung Ly, Lý thái Bạch, Trương quả Lão, Tào quốc Cựu, nhan sắc non hoài, tánh tình vui mãi, thiệt không có chút gì mường tượng như cảnh trần người thế cả.

Còn nói đến phần thanh nhã thì Kim Đồng hầu hạ, Ngọc Nữ truy tùy, khi dựa rừng xanh, khi chơi động bích, khi nương cánh hạc bay khắp mười phương, lúc cỡi lưng kình dạo cùng bốn bể, vừng mây đở gót, ngọn gió đưa xe, trăng rước hoa chào, oanh cười yến nói, hoặc mang bầu rượu, hoặc xách túi thi, hoặc đánh cờ Mai hoa, hoặc khảy đờn Minh nguyệt. Thiệt là thú vui không thể nói được!

Rất đổi tiếng Hoàn bội khua nhà Lâm quán, rượu Huỳnh tương say hội Bàn đào, ông Quảng thành Tử nhịp sanh, ông Vương tử Đăng thổi sáo, ông Hàn tương Tư cầm ống tiêu Nhựt nguyệt, ông Lâm thái Hòa xách giõ Càn khôn, chị Song Thành ganh bóng Hằng nga, áo vô phục lòe ve múa, gái Tiêu ngọc hòa câu ca Đế Tư, chốn lê viên thánh thót cung đờn, thong thả năm mùa, dọc ngang trời đất.

Cái thân khoái lạc ấy thì những hạng người phong lưu ở cõi hồng trần không có chút gì so sánh được một phân một hào nào cả.

Vã lại, ưa tình sơn thủy, rữa bụi công danh, xem giàu sang như bọt nước sương sa, luyện tâm tánh như trăng thanh gió mát, lửa cữu chuyển un lò đơn táo, đá tam sanh say giấc hoàn lương, chẵn tám ngàn hưởng tuổi trường sanh, thú khoái lạc sâm si trời Ngọc đế. Ấy là Tiên cảnh khác hẳn nhơn gian như vậy.

Còn cảnh Tịnh độ của Phật có vui được như cảnh Tiên vậy hay không?".

Nếu phu tướng chưa đem lòng tin rằng phương pháp của đạo Phật cao siêu hơn phép thuật của đạo Tiên, xin cho phép thiếp nhắc lại sự tích của một người khác, trước tu Tiên rồi sau trở lại tu Phật, cho phu tướng nghe.

Nguyên ông Lữ Đồng Tân là người ở xứ Kinh Triệu, đời nhà Đường, hiệu là Thuần Dương Tứ.

Ban sơ, ông học Nho, đã thi ba lần không đậu. Sẵn dịp ông gặp Ngài Hớn Chung Ly, Ngài dẫn ông về non Chung Nam ở trọn bảy năm và truyền cho đủ các phép Tiên thuật.

Một bữa kia, ông Lữ Đồng Tân muốn đi đến cả miền thế gian mà độ người, bèn vào xin phép thầy.

Ngài Hớn Chung Ly bằng lòng, lại lấy gươm báu trao cho ông và dạy rằng : " Gươm này của thầy ta là Đông Họa Đế Quân truyền lại cho ta. Muốn sát hại người nào thì phải biết trước tên họ và chỗ ở của người ấy, rồi niệm một câu chú, gươm đó hóa ra rồng xanh bay đến chỗ đó mà chém đầu. Nay ta giao cho ngươi đem theo mà hộ thân, song ngươi phải nhớ ba điều này : Một là đừng chọc ghẹo thầy chùa, hai là đừng để mất gươm báu này và ba là ngươi đi mãn ba năm rồi phải trở về đây. Nếu ngươi cãi lời thì ta không dung thứ ".

Ông Lữ Đồng Tân phụng mạng, lạy thầy mà lãnh gươm, rồi từ từ hạ san.

Ông đi đủ các xứ, đã mãn kỳ ba năm mà không độ được người nào. Một bữa kia, ông đi ngang qua xứ Huỳnh Long, nghe nói tại nhà quan Phó Công tên là Vĩnh Thiện có thiết một cuộc chay để làm lễ trai tăng cúng dường các nhà sư.

Ông bèn vào chơi và muốn dự lễ trai ấy, nhưng ông Phó Công nói rằng : " Ta cúng dường đệ tử của Phật, chớ không phải cúng dường đệ tử của Tiên. Vậy ngươi không được phép vào dự tiệc này ! ".

Ông Lữ Đồng Tân bèn hỏi : " Phật nhà ông có đạo đức gì mà ông trọng như thế ? ".

Ông Phó Công trả lời : " Thôi, đừng nói chi đến chuyện các Phật sống thuở trước ! Hiện nay, có hòa thượng Huệ Nam ở chùa Huỳnh Long thường thuyết pháp độ người được mấy chục ngàn rồi. Còn đạo Tiên của ngươi lâu nay có độ được người nào chưa ? ".

Ông Lữ Đồng Tân nghe hỏi như vậy, lấy làm thẹn, quên lời thầy căn dặn, liền đi đến núi Huỳnh Long quyết tìm hòa thượng Huệ Nam mà đấu phép.

Khi đến nơi, ông vừa gặp sư cụ đang lên nhà giảng đường. Ông bèn lén xen vào hàng đại chúng, ngờ đâu hòa thượng biết trước, bèn nói rằng : " Hôm nay ta không thuyết pháp ! Ta có một lời chuyển ngữ hỏi đại chúng ...".

Sư cụ vừa mới nói tới đó thì thầy một người (tức là ông Lữ Đồng Tân) ở trong hàng đại chúng bước ra, cười rồi hỏi rằng : " Hòa thượng có câu chi, xin nói mau mau !".

Sư cụ nói tiếp :

Lão tăng năm nay lớn gan

Đóng trai dưới núi rồng vàng

Tay áo tuốt ra roi sắt

Đánh tan Thế Giới ba ngàn

Ông Lữ Đồng Tân vỗ tay cười và đáp lại : " Hòa thượng năm trước chẳng lớn gan, năm ngoái chẳng lớn gan, sang năm chẳng lớn gan, chỉ có năm nay lớn gan. Xin hòa thượng cho phép tôi trả lời :

Gan ta lúc này to đại

Chuyên sự hơn thua cướp trại

Giật quách roi sắt trong tay

Để lại ba ngàn Thế Giới

Ông Lữ Đồng Tân bèn nói tiếp : " Bốn câu của hòa thượng tầm thường, không lạ chi ! Tôi có một lời chuyển ngữ này, như hòa thượng trả lời được thì chém tôi, còn như không trả lời được thì tôi chém hòa thuợng ".

Sư cụ bằng lòng, rồi ông Lữ Đồng Tân đọc bài kệ như sau :

Thiết vàng cày đất trỉa kim tiền

Thằng đá con con xỏ chuỗi liên

Hột lúa chứa xong bầu thế giới

Nửa nồi nấu đủ cuộc sơn xuyên

Mấy ông Lão Tử khi thùy địa

Tay của Hồ tăng lúc chỉ thiên

Huyền ấy chớ rằng chưa hết lực

Trong huyền, huyền ấy lại không huyền

Hòa thượng Huệ Nam liền đáp lại :

Sẵn lò hồng để trĩa kim tiền

Mãnh sáng kia, ai xỏ đặng liền

Hột lúa hóa đặng ba ngàn giới

Biển lớn thâu về đủ bách xuyên

Tháng hạ đầu lò phun mãnh hỏa

Trời đông đáy nước nạp lương thiên

Chân như ai tỏ trong thiền ấy

Trong thiền, thiền ấy có sanh thiền

Ông Lữ Đồng Tân nghe mấy câu kệ, biết mình đã thua, nhưng ông còn gượng hỏi : " Hòa thượng nói rằng hột lúa hóa ra ba ngàn thế giới, hòa thượng thua rồi !".

Sư cụ bảo rằng : " Ngươi muốn điều chi thì lại gần đây mà nói, chớ ta đã điếc mà ngươi còn đứng xa nói thì ta nghe không đặng ".

Ông Lữ Đồng Tân tưởng thật, bèn bước lại gần bên, ngờ đâu thình lình sư cụ nhanh tay chụp đầu ông níu lại mà hỏi : " Ngươi nói rằng một hột lúa chẳng hóa đặng ba ngàn thế giới thì ngoài cái nồi nửa cân của ngươi còn nấu những vật gì?".

Ông Lữ Đồng Tân nghe hỏi như vậy, bèn nghẹn họng, không đáp lại được.

Sư cụ liền hỏi tiếp : " Nếu y theo lời giao ước của ngươi, ta phải chém đầu ngươi. Nhưng vì đạo Phật của ta cấm sát sanh nên ta tha cho ngươi đó ".

Nói rồi, sư cụ lấy cái giải xích mà đánh trên đầu ông Lữ Đồng Tân một cái, làm cho ông mắc cỡ đỏ mặt, liền lui ra ngoài, nghênh mặt lại ngó trộm sư cụ, rồi cười ba tiếng, lắc đầu ba cái, vỗ tay ba hiệp và mang gươm đi thẳng vào núi.

Đến chỗ vắng vẻ không người, ông bèn rút gươm báu ra, họa bùa niệm chú, rồi dặn gươm bay tới chùa Huỳnh Long mà giết hòa thượng Huệ Nam. Dặn dò xong, ông bèn hét lên một tiếng, gươm ấy liền hóa ra con rồng xanh bay thẳng đến nhà phương trượng của sư cụ.

Khi ấy, hòa thượng Huệ Nam thấy con rồng xanh bay liệng trên hư không, liền lấy ngón tay chỉ lên, tức thì con rồng xanh bèn hóa lại gươm, rồi rơi xuống cắm dưới ao bùn.

Ông Lữ Đồng Tân ngồi trên núi trông đợi hơn nửa ngày mà không thấy con rồng xanh trở về, bèn niệm chú thâu gươm lại mà không thấy gì !

Lúc ấy, hồn vía của ông sảng lạc, không biết tính sao, phải liều mạng chạy xuống chùa Huỳnh Long để tìm gươm báu.

Đến nơi, ông gặp Ngài Huệ Nam và hỏi rằng : " Xin hòa thượng trả gươm lại cho tôi ".

Sư cụ đáp : " Ai mượn gươm của ngươi mà ngươi đến đòi ? Nó cắm dưới ao bùn kia, ngươi ra đó mà lấy !".

Ông Lữ Đồng Tân nghe nói, liền chạy ra ao, cúi xuống nắm gươm, ráng hết sức bình sinh mà nhổ lên, nhưng gươm chẳng nhúc nhích !

Sư cụ thấy vậy, bèn nói : " Ngươi muốn giết ta, ta chẳng trả gươm ấy lại cho ngươi. Ngươi có giỏi thì tự nhổ lấy !".

Ông Lữ Đồng Tân bèn năn nỉ sư cụ : " Hòa thượng dùng phép thuật mà cắm trụ gươm ấy rồi, tôi làm sao nhổ lên nổi ! Vậy xin hòa thượng có lòng từ bi, muốn trả gươm cho tôi thì xin nhổ lên giùm !".

Sư cụ bèn đáp : " Ta có bốn câu kệ, nếu ngươi hiểu được thì ta trả gươm lại cho ngươi ".

Nói rồi, Ngài lấy một tờ giấy, vẽ một cái vòng. Trong vòng ấy, có chấm một điểm, rồi dưới cái vòng lại đề bốn câu kệ như sau :

Đầu gươm có đơn hẳn

Lòng đơn sẵn gươm rồi

Bằng ai hiểu nhơn ấy

Ắt thoát khỏi luân hồi.

Ông Lữ Đồng Tân xem đi xem lại một hồi lâu mà không hiểu chi cả. Hòa thượng thấy vậy, bèn niệm chú rằng : " Án Hộ Pháp thần linh tốc tốc hiện hình". Niệm xong, ông Hộ Pháp hiện đến. Sư cụ bèn bảo rằng : " Ngài phải đem tên này giam cầm trong núi Khổn Ma Nham, mỗi ngày chỉ cho ăn một cái bánh thôi. Chừng nào nó tỏ ngộ được thiền cơ, Ngài dẫn nó tới đây cho ta hỏi".

Ông Hộ Pháp phụng mạng, bảo ông Lữ Đồng Tân đi, ông dùng dằng không chịu đi. Ông Hộ Pháp bèn nói lớn rằng : " Đi mau, kẻo cái bảo xử của ta đây nặng hơn tám vạn bốn ngàn cân xán xuống một cái thì thịt xương ngươi nát như bùn !".

Ông Lữ Đồng Tân nghe nói thất kinh hồn vía, bèn riu ríu đi theo, không dám cãi nữa !

Một hôm, nhân lúc ông Hộ Pháp đi khỏi, ông Lữ Đồng Tân ở trong hang đá bèn tự nghĩ rằng : " Khi mình hạ san, thầy có căn dặn đừng có chọc ghẹo thầy chùa. Bởi vì mình dại, không nghe lời thầy, cho nên mới bị nạn như vậy ! Còn ông hòa thượng nói rằng chừng nào mình tỏ ngộ được thiền cơ thì mới tha tội cho mình, mà biết đời kiếp nào mình mới tỏ ngộ được thiền cơ ? Cổ nhân nói rằng : Tam thập lục kế dĩ đào vi thượng. Ở đây khổ cực lắm, chịu không nổi ! Vậy mình tính việc trốn đi thì tiện hơn ".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro